3
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》
Viết bởi FM_daubac, 25/06/24 05:20
413 replies to this topic
#181
Gửi vào 10/07/2024 - 12:06
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Luận Thực Thần
Thực thần là ba vị trí thuận theo can ngày của mình sanh, chính là trường hợp giáp có bính là thực thần; ất có đinh là thực thần. Giáp sanh bính là tiết khí, bính sanh mậu là thiên tài của giáp, thiên tài là lộc tự nhiên của trời, không phải tốn công gắng sức, tận hưởng việc nhìn thấy và trở thành phúc lộc. Giáp và bính có đạo cha con, như con vượng tướng, tạo ra tài lộc để phụng dưỡng cha mẹ, làm sao mà không an hưởng? Lại thêm giáp thấy canh là sát, thấy mậu là tài, thực thần của giáp là bính hoả có khả năng chế phục canh sát, khiến cho không khắc thương được giáp mộc, có khả năng sanh mậu tài, khiến cho giáp mộc dùng cho mình. Nói chung mệnh gặp phải đất của tài, sát, thực thần vượng tướng, sát gặp phải thực thần chế phục không dám thành hoạ; tài gặp thực thần sanh giàu có, không cạn kiệt, cho nên thực thần còn gọi một tên khác thọ tinh, một tên là tước tinh, điều tốt đẹp trở thành hiện thực. Cách này cần thiết nhật chủ và thực thần đều sanh vượng, không bị xung phá, chủ là người giàu có, ăn uống phong phú, phúc lành rộng lớn, thân thể mập mạp, ung dung tự cung ứng cho mình, có con cái, tuổi thọ cao. Tứ trụ thấy tài thực thần ở trên trụ năm và tháng, phúc trạch của ông cha to lớn; ở trụ ngày và giờ vợ chồng nhận được phúc lành, sợ mẹ và con đều suy tuyệt, cả hai đều không thành công.
Sách xưa nói rằng: "thực thần nên sanh nên vượng, không nên thực thần bị suy bị tuyệt".
Lại nói rằng: "thực thần sanh vượng, tốt đẹp như tài, quan" đúng là như vậy. Thực thần rất kỵ thiên ấn thành đảo thực, chủ là người có khởi đầu mà không có kết thúc, dáng vẻ xiên vẹo, thân thể nhỏ bé, bản tính nhỏ nhen, thường lo lắng không thành công. Nếu như giáp thấy bính là thực thần, trong trụ có nhâm là thiên ấn của giáp mộc, khắc chế bính hoả nên không thể sanh mậu thổ, không thể chế phục canh kim, khiến cho giáp mộc bị chế phục làm mất tài, hỏi làm sao không bị quẫn bách được?
"Nguyên Lý Phú" nói rằng: thực thần chế sát gặp kiêu thần không nghèo thì tuổi thọ ngắn.
"Nhất Hành" nói rằng: ngày dương thực thần ám hợp quan tinh, ngày âm thực thần ám hợp chánh ấn, cả quan và ấn không cần thiết hiển lộ rõ ràng, chỉ thực thần không pha trộn, chủ cao quý mà có lộc, sang mà lại được tuổi thọ. Thực thần chỉ nên một vị trí thôi nhiều quá không thích hợp, e rằng trộm khí của mình.
Sách nói: hễ mộc liên tiếp gặp vị trí hoả, tên là tán khí chi phụ (khí của cha bị tiêu tán ) đúng là vậy.
Thực thần nhiều nên đi vận ấn, thực thần ít thì không nên, là vì kiêu thần đoạt thực, cho nên thực thần thích vượng lộc trợ giúp, lệnh tháng kiến lộc rất là tốt đẹp, kế đến là lộc ở giờ, gặp thêm vận quý nhân, đi nơi thực thần sanh vượng, là nơi phúc lộc to lớn. Kỵ thân suy, kiêu thần vượng, trong trụ tuy mừng thấy tài, cũng không hợp nhiều, nhiều thì không thanh, chẳng qua chỉ là một phú ông mà thôi. Thực thần gặp nhiều biến thành thương quan, khiến người có ít con, cho dù có thì có thể có bản tính chống đối, lại không nên nhập mộ sẽ thành thương quan nhập mộ tức là tuổi thọ khó kéo dài. Rất kỵ không vong, hay có quan sát lộ diện, là thầy thuốc, đồng cốt, người xem số hay cửu lưu (chín học phái ở Trung Hoa, từ thời tiên Tần cho tới Hán sơ, gồm Nho gia 儒家, Đạo gia 道家, Âm dương gia 陰陽家, Pháp gia 法家, Danh gia 名家, Mặc gia 墨家, Tung hoành gia 縱橫家, Tạp gia 雜家 và Nông gia 農家), nếu thực thần gặp phải khắc chế, lại gặp phải không vong sẽ không là cao quý, lại đi vận tử tuyệt hay kiêu thần, sẽ vì thức ăn thành khí mà gây tai vạ, lại thành nghẹn thức ăn, thiếu thốn thức ăn và quần áo, giỏi chịu đựng đói rét mà thôi.
Lại nói: ngày giáp thì bính là thực thần, trong trụ không có nhâm quý hợi tý mới tốt, nếu như có thuỷ khí thì bính tự bị chế phục, sẽ hàng phục người khác, tự mình không thể đứng vững làm sao có khả năng sanh vạn vật để nuôi dưỡng cha mình? Nếu như không có chế phục này, lại được sanh vượng hướng về lộc, như bính hoả sanh các tháng mùa hạ, vận trải qua đông nam, hoả thổ đều vượng, thì giáp mới dụng tài nhất định phong phú. Nếu sanh ba tháng mùa xuân giáp vượng, bính hoả tuy được sanh mà không biết rằng mậu kỷ khí mỏng, phải trải qua phương nam hoả thổ đều vượng mới đảm bảo là phát phúc.
Lại như canh lấy nhâm làm thực thần, vận trải qua phương bắc đất vượng của thuỷ, phát tài nhất định to, phương đông nơi vượng của mộc, nhất định phát phúc liên tiếp không ngừng. Nói chi tiết một chút, canh lấy nhâm làm thực thần, trường sanh ở thân, nên đoán phúc nhiều ở đất thân, bất ngờ bại ở dậu nên nhâm đến dậu liền không tốt đẹp. Vì nhâm sanh giáp mộc là tài của canh, nghĩa là tài tự tạo ra mà có, chẳng phải tài sản của vợ do hôn phối, giáp đến dậu là đất của kim nên giáp khốn đốn, nhâm thuỷ tự bại, hỏi mộc làm sao được cha trợ giúp nuôi dưỡng? Nên đoán là vận bình thường, đi đến vận tuất như càn gặp nhâm giáp cũng chỉ đoán là nửa tốt nửa xấu, gặp được chữ mậu có thể đoán là tai hoạ, thấy chữ canh có thể đoán là phúc lành. Vận đến hợi nên nói là rất tốt, vận đến tý có quý thuỷ là thương quan tiết khí bản thân rất nặng, lại thêm canh thì tử ở tý, giáp thì bại ở tý, nên đoán là gây ra hoạ tai nạn cho bản thân. Vận đến sửu là khố của canh kim, nơi thuỷ vượng, lại nơi quan đới có kỷ sửu trợ giúp canh giáp, có thể đoán hưng thịnh ở mười năm này. Vận đến dần cũng tốt, vận đến mão có tai hoạ, các trường hợp khác theo đó mà suy xét.
Lại nói: thực thần kỵ kiêu thần, cũng có trượng hợp không sợ. Như kỷ hợi sợ đinh đảo thực, đinh với nhâm hợp hoá mộc mà nhậm lộc ở hợi; bính ngọ không sợ giáp đảo thực, giáp với kỷ hợp hoá thổ mà kỷ lộc ở ngọ; ất tỵ không sợ quý đảo thực, mậu với quý hợp hoá hoả, ất tỵ cũng là hoả; quý tỵ không sợ tân đảo thực, bính với tân hợp hoá thuỷ mà quý nhân của quý ở tỵ; canh là thủ lãnh của các can dương, không sợ mậu đảo thực, mậu là quy luật của dương khí trở về cội nguồn, thấy mậu thì xét đoán là hỷ thần; vì không đảo thực tân, nguồn gốc của âm khí bắt đầu phát tán; canh không đảo thực nhâm, nguồn gốc của dương khí bắt đầu phát tán; tân có đinh không sợ kỷ đảo thực vì đinh nuôi dưỡng tân kim vậy, huống chi ở nơi của đinh liền có kỷ thổ, âm dương can thiệp được trợ giúp của phúc rõ ràng.
Thực thần là nơi hội tụ phúc lộc của mười thiên can mà người quân tử đạt được thành tựu, đời sống phong phú, còn tiểu nhân thì vụt chốc đạt được giàu có. Ở nơi tích trữ phúc thì quan cao lộc dày, còn nơi tích trữ hoạ thì quan thấp mệnh bạc. Như lấy giáp tý để bàn luận: thực thần bính tý là phúc tinh cao quý, thực thần bính dần là trường sanh lộc, lại là lộc mã đồng hương, thực thần học đường cao quý, bính thìn là chánh ấn, bính ngọ là tự hình phá mệnh, bính thân là khắc thân phá lộc, bính tuất là thân suy phá không vong, các thiên can còn lại suy xét theo đó. Nếu gặp được sanh vượng, khố, ấn, thiên ất, thiên quan, hoa cái, văn tinh, học đường, quan ấn lộc mã các loại là nơi tích trữ phúc, còn gặp phải khắc, phá, không vong, ác sát, hình, hại, hưu, tù, bại, tử, tuyệt là nơi tích trữ hoạ.
Lại nói: giáp ất thực thần là bính đinh thêm trên dần mão tỵ ngọ; bính đinh thực thần là mậu kỷ thêm trên thìn tuất sửu mùi; mậu kỷ thực thần là canh tân thêm trên tỵ ngọ thân dậu; canh tân thực thần là nhâm quý thêm trên thân dậu hợi tý; nhâm quý thực thần là giáp ất thêm trên hợi tý dần mão gọi là thực thần kiến sanh vượng, mang thêm lộc mã vượng tướng, về văn thì nắm quyền cai trị cả hai tỉnh, về võ là nhóm xây dựng tiết tháo phòng vệ, không thì cũng chủ có tài sản phong phú dồi dào, gặp đầy đủ thực thần với lộc, tứ trụ đi xuôi theo một chiều thì càng tuyệt diệu.
"Hồ Trung Tử" nói rằng: phạm vào đảo thực, ở mệnh thường bị người quấy nhiễu, người gặp trùng điệp, ở trẻ con thì nói là thiếu sữa, ở người già thì nói là thiếu thức ăn. Chánh thực nên là người dư dả giàu sang, còn tranh thực là người thiếu thốn nghèo hèn. Trường hợp dư dả như người giáp được hai hay ba chữ bính; còn thiếu thốn như trong trụ có hai chữ giáp mà chỉ có một chữ bính.
Lại nói: nhật chủ và can giờ trùng diệp tương thực (ăn lẫn nhau), gọi là thôn đạm não tử (ngốn nuốt óc con), trụ giờ ngày đểu là thực chủ đầu phong não lậu (đầu dau óc rò rĩ), sớm khắc khiến mẹ chết, cuối đời thì không có con đưa tang, nếu trong thôn (thôn: nuốt, ngốn hay tiêu diệt, chiếm đoạt) gặp thôn như người giáp gặp ngày giờ nhâm, lại gặp chữ canh chủ chết đói nơi hẻm núi, có thiên can hợp giải thì không khắc nghiệt.
"Tương Tâm Phú" nói rằng: thực thần rất có khả năng ăn uống, thân hình đầy đặn mà ưa hát ca.
"Áo Chỉ Thiên" nói rằng: lệnh tháng gặp thực thần, thân thể khoẻ mạnh, thích ăn uống, tướng người to lớn mập mạp, tứ trụ có sao tốt nâng đỡ thì tích tụ vàng ngọc, tiếng tăm khắp nơi.
"U Vi Phú" nói rằng: thực thần vượng tướng tuổi thọ tăng lên.
"Nguyên Lý Phú" nói rằng: thực thần ở trước, thất sát ở sau, công danh hiển quý.
"Bảo Giám Phú" nói rằng: tháng lộ ra thực thần, giờ lộ ra quan tinh, vẻ vang rực rỡ vui lòng làm đại thần giúp nước.
"Vạn kỳ Phú" nói rằng: thực thần có tên là cát diệu chế sát, hiệu là thọ tinh, thiên can cường trụ ngày vượng, thuộc giai cấp giàu sang, còn thực thần vượng mà thân suy là người thất thế, lận đận, gặp được tài vượng thì thực thần trong tương lai là trụ trì, gặp phải ấn thụ thì bụi ở đáy nồi, chỉ thấy một vị trí thì chung minh đĩnh nãi (khắc tên lên đỉnh), còn hai hay ba vị trí thì lậu hạng điệm biều (sống ở ngõ hẹp dùng chiếu tre đồ vật bằng võ dừa, võ ốc - ý là nghèo), dương nhận lại đến thì cả đời lao lực, hình khắc hội hợp nhau một đời phải chạy ngược xuôi.
Bài ca xưa hát rằng: thực thần chế sát tốt phi thường, tài vượng vợ quý con thêm mạnh, trong trụ nếu có thôn đạm sát, dạy dỗ nơi điện vàng giúp đỡ vua.
Lại thêm" thực thần gặp được lộc hiệu là thiên trù, xung khắc hay không vong không có quan sát, vận đến đất thiên ấn tử tuyệt, thọ tinh hợp xứ mang đến phúc.
Lại thêm: thực thần ấn thụ không nên gặp nhau, chỉ thấy tài quan phúc thêm hưng thịnh, thực thần thích đi nơi thân vượng, gặp phải kiêu thần, tỷ kiếp đều thành không.
Lại thêm: thực thần sanh vượng rất thích khoe khoang, chỉ hành thuỷ, mộc, thổ, kim tốt đẹp, quan sát không đến làm hỗn tạp, cả đời ăn mặc đầy đủ lẫn vinh hoa.
Lại thêm: người giáp thấy bính vốn là trộm khí, bính đi sanh tài hiệu là thực thần, lòng rộng rãi người thư thái y lộc dồi dào, nhưng nếu đến thiên ấn thì chủ cô đơn và nghèo khó.
Lại thêm: thực thần sanh vượng không bị hình khắc, mệnh gặp được cách này vượt hơn tài quan, được thêm thân vượng gặp đất tài, tuổi trẻ đã bước vào cung điện vua.
Lại thêm: thực thần không bị làm hại thì tuổi thọ kéo dài dằng dặc, mẹ kế gặp phải không thể gánh, nếu không có thiên tài tới cứu giúp, mệnh như cỏ úa mùa thu gặp sương mùa đông.
Lại thêm: thực thần trên tháng hiệu thiên trù, người có mệnh gặp như vậy thì giàu có, rất kỵ kiêu thần đến làm giảm phúc, rất ghét xung mất ngầm tiêu trừ. Sanh tài, hoá quỷ, không tật bệnh, chế sát thành niềm tin để chờ đợi, học trò đi thi gặp được lợi ích thi đậu hạng nhất, được phong chức quan trọng nhận lãnh thiên thư.
Hợp các lý thuyết lại sẽ hiểu rõ các quan điểm hỷ kỵ của thực thần vậy.
论食神
食神者,日干所生顺数第三位,乃甲食丙、乙食丁之例。甲生丙为泄气,丙生戊为甲偏财,偏财是天禄自然之财,不劳己之心力,享见成福禄。甲丙有父子之道,如子旺相,生起财禄以奉其父母,岂不安享?又甲见庚为煞,见戊为财,其食神丙火能制伏庚煞,使不得克伤甲木,能生戊财,使为甲木所用。凡命遇财煞之地,食神旺相,煞被食制,不敢为祸,财被食生,充裕不竭,故食神一名寿星,一名爵星,良有以也。此格要日主食神俱生旺,无冲破,主人财厚食丰,福量宽弘,肥体肥大,优游自足,有子息,有寿考。四柱见财食在岁月上,祖父荫业丰隆,在日时,妻男获福,怕母子俱衰绝,两皆无成。故经云:"食神宜食生食旺,不可食衰食绝。"又云:"食神生旺,胜似财官"是也。食神大忌偏印为倒食,主为人有始无终,容貌欹邪,身材琐小,心性局促,多愁无成。假如甲见丙为食,柱中有壬作甲木偏印,克制丙火不能生戊土,不能制庚金,使甲木受制退财,岂不窘乎?《元理赋》云:食神制煞,逢枭不贫则夭。《一行》云:阳日食神暗合官星,阴日食神暗合正印,官印不要明显,但得食神纯粹,主贵而有禄,富而有寿,食神只宜一位,不宜太多,恐窃本元之气。经云:"一木叠逢火位,名为散气之父"是也。
食多者宜行印运,食少者不宜,是枭神夺食,故食喜旺禄相助,月令建禄最佳,时禄次之,更逢贵人运,行食神生旺之地,大地福禄。忌身衰枭旺,柱中虽喜见财,亦不宜多,多则不清,不过一富翁而已。食神重见,变为伤官,令人少子,纵有,或带破拗性,又不可入墓,即是伤官入墓,住寿难延。大忌空亡,更有官煞显露,为太医师巫术数九流之士,若食神逢克,又遇空亡,则不贵,再行死绝或枭运,则因食上气上生灾,翻胃噎食,缺衣食,忍饥寒而已。又曰:甲日食丙,柱中无壬癸亥子方好,如有水气,丙自受制,屈伏于人,己身不能卓立,岂能生物以养其父?如无此制,又要生旺向禄,如丙生夏月,运历东南,火土俱旺,其甲用财必厚。若生三春甲旺,丙火虽得生,不知戊己气薄,须历南方火土俱旺,方许发福。又如庚以壬为食,运历北方水旺之地,发财必厚,东方木旺之乡,发福必紧。细论之,庚以壬为食,长生于申,当断申地福重,暴败在酉,壬水至酉,便不为佳,以壬生甲木为庚之财,即自生分发身之财,非婚配正妻之财,甲至酉地为木困金乡,壬水自败,木岂能助养其父?当断此运平平。行至戌运,如干遇壬甲,亦只断其半吉半凶,逢戊可断其有灾,见庚可断其微福。亥运当言其大吉,子运癸水伤官,伤重泄本身之气,又庚死于子,甲败于子,当断生祸身灾。运至丑,庚金之库,水旺之乡,又有己丑助庚甲冠带成人之地,可断此十年发。寅运亦吉,卯运有灾,余例此推。又曰:食神忌枭,亦有不畏者。如己亥不畏丁倒食,丁与壬合化木,而壬禄在亥;丙午不畏甲倒食,甲与己合化土,而己禄在午;乙巳不畏癸倒食,戊癸化火,乙巳亦火;癸巳不畏辛倒食,丙辛化水,癸贵在巳;庚为众阳之首,不畏戊倒食,戊,阳气归源之数,见戊作喜神论;已不倒食辛,阴气初发散之源;庚不倒食壬,阳气初发散之源;辛有丁,不畏己倒食,为丁养育辛金也,况有丁处便有己土,阴阳干涉,得清福之助。
食神者,十干福禄之会,君子得之显达丰赡,小人得之周旋给足,在福聚之地则官崇禄厚,在祸聚之地则职卑命薄。如以甲子论,食丙子为福星之贵,食丙寅为长生之禄,又为禄马同乡,食神学堂之贵,丙辰为正印,丙午为自刑破命,丙申为克身破禄,丙戌为身衰破空亡,余干例推。若遇生旺、库、印、天乙、天官、华盖、文星、学堂、官印禄马之类,为福聚之地,遇克破、空亡、恶煞、刑害、休、败、死、绝,为祸聚之地。又曰:甲乙食丙丁,加寅卯巳午之上;丙丁食戊己,加辰戌丑未之上;戊己食庚辛,加巳午申酉之上;庚辛食壬癸,加申酉亥子之上;壬癸食甲乙,加亥子寅卯之上,谓之食神见生旺,更带禄马旺相,文为两制两省,武为建节防团,无,亦主财帛丰厚,食神与禄全见,四柱顺当为妙。
《壶中子》云:犯倒食,在命多被人挠,重叠带者,在幼儿则言乏乳,在老人则言缺食。正食而有余者富贵,争食而不足者贫贱,有余如甲人得两丙三丙,不足如柱中两甲止有一丙之类。又曰:日主时干重叠相食者,曰吞啖脑子,时日俱食,主头风脑漏,早克母死,后无子送终,若吞中逢吞,如甲人逢壬日时,又逢庚字,主贫死沟壑,有干合解则缓。《相心赋》云:食神最能饮食,体厚而好讴歌。《奥旨篇》云:月令值食,身健旺,善饮食,姿质丰肥,四柱有吉曜相扶,堆金积玉,声名显著。《幽微赋》云:食神旺相,老寿弥高。《元理赋》云:食居先,煞居后,功名显达。《宝鉴赋》云:月露食神时露官,荣显乌台助国臣。《万祺赋》云:食神名为吉曜制煞,号称寿星,干强日旺,富贵之士,食旺身衰,蹭蹬之人,逢财旺则食前方丈,遇印绶则甑底生尘,见一位者锺铭鼎鼐,二三者陋巷簟瓢,羊刃重临,平生劳碌,刑克相会,一世奔波。
古歌云:食神制煞吉非常,财旺妻荣子更强,柱中若要吞
啖煞,管教金殿佐君王。又:食神逢禄号天厨,冲克空亡官煞无,死绝运临偏印地,寿星合处福交孚。又:食神印绶不宜逢,惟见财官福更隆,食神喜行身旺地,逢枭逢比总成空。又:食神生旺最堪讠夸,惟行水木土金佳,官煞更无来混杂,平生衣禄足荣华。又:甲人见丙本盗气,丙去生财号食神,心广体胖衣禄厚,若临偏印主孤贫。又:食神生旺无刑克,命逢此格胜财官,更得身旺逢财地,青春年少步金銮。又:食神无损寿绵长,庶母逢之不可当,若无偏财来救护,命如秋草带冬霜。又:食神月上号天厨,人命逢之富有余,切忌枭来明减福,最嫌冲去暗消除。生财化鬼兼无病,制煞为祥信有储,士子如逢利甲第,官封要职领天书。合诸说,观食神喜忌尽矣。
.
Luận Thực Thần
Thực thần là ba vị trí thuận theo can ngày của mình sanh, chính là trường hợp giáp có bính là thực thần; ất có đinh là thực thần. Giáp sanh bính là tiết khí, bính sanh mậu là thiên tài của giáp, thiên tài là lộc tự nhiên của trời, không phải tốn công gắng sức, tận hưởng việc nhìn thấy và trở thành phúc lộc. Giáp và bính có đạo cha con, như con vượng tướng, tạo ra tài lộc để phụng dưỡng cha mẹ, làm sao mà không an hưởng? Lại thêm giáp thấy canh là sát, thấy mậu là tài, thực thần của giáp là bính hoả có khả năng chế phục canh sát, khiến cho không khắc thương được giáp mộc, có khả năng sanh mậu tài, khiến cho giáp mộc dùng cho mình. Nói chung mệnh gặp phải đất của tài, sát, thực thần vượng tướng, sát gặp phải thực thần chế phục không dám thành hoạ; tài gặp thực thần sanh giàu có, không cạn kiệt, cho nên thực thần còn gọi một tên khác thọ tinh, một tên là tước tinh, điều tốt đẹp trở thành hiện thực. Cách này cần thiết nhật chủ và thực thần đều sanh vượng, không bị xung phá, chủ là người giàu có, ăn uống phong phú, phúc lành rộng lớn, thân thể mập mạp, ung dung tự cung ứng cho mình, có con cái, tuổi thọ cao. Tứ trụ thấy tài thực thần ở trên trụ năm và tháng, phúc trạch của ông cha to lớn; ở trụ ngày và giờ vợ chồng nhận được phúc lành, sợ mẹ và con đều suy tuyệt, cả hai đều không thành công.
Sách xưa nói rằng: "thực thần nên sanh nên vượng, không nên thực thần bị suy bị tuyệt".
Lại nói rằng: "thực thần sanh vượng, tốt đẹp như tài, quan" đúng là như vậy. Thực thần rất kỵ thiên ấn thành đảo thực, chủ là người có khởi đầu mà không có kết thúc, dáng vẻ xiên vẹo, thân thể nhỏ bé, bản tính nhỏ nhen, thường lo lắng không thành công. Nếu như giáp thấy bính là thực thần, trong trụ có nhâm là thiên ấn của giáp mộc, khắc chế bính hoả nên không thể sanh mậu thổ, không thể chế phục canh kim, khiến cho giáp mộc bị chế phục làm mất tài, hỏi làm sao không bị quẫn bách được?
"Nguyên Lý Phú" nói rằng: thực thần chế sát gặp kiêu thần không nghèo thì tuổi thọ ngắn.
"Nhất Hành" nói rằng: ngày dương thực thần ám hợp quan tinh, ngày âm thực thần ám hợp chánh ấn, cả quan và ấn không cần thiết hiển lộ rõ ràng, chỉ thực thần không pha trộn, chủ cao quý mà có lộc, sang mà lại được tuổi thọ. Thực thần chỉ nên một vị trí thôi nhiều quá không thích hợp, e rằng trộm khí của mình.
Sách nói: hễ mộc liên tiếp gặp vị trí hoả, tên là tán khí chi phụ (khí của cha bị tiêu tán ) đúng là vậy.
Thực thần nhiều nên đi vận ấn, thực thần ít thì không nên, là vì kiêu thần đoạt thực, cho nên thực thần thích vượng lộc trợ giúp, lệnh tháng kiến lộc rất là tốt đẹp, kế đến là lộc ở giờ, gặp thêm vận quý nhân, đi nơi thực thần sanh vượng, là nơi phúc lộc to lớn. Kỵ thân suy, kiêu thần vượng, trong trụ tuy mừng thấy tài, cũng không hợp nhiều, nhiều thì không thanh, chẳng qua chỉ là một phú ông mà thôi. Thực thần gặp nhiều biến thành thương quan, khiến người có ít con, cho dù có thì có thể có bản tính chống đối, lại không nên nhập mộ sẽ thành thương quan nhập mộ tức là tuổi thọ khó kéo dài. Rất kỵ không vong, hay có quan sát lộ diện, là thầy thuốc, đồng cốt, người xem số hay cửu lưu (chín học phái ở Trung Hoa, từ thời tiên Tần cho tới Hán sơ, gồm Nho gia 儒家, Đạo gia 道家, Âm dương gia 陰陽家, Pháp gia 法家, Danh gia 名家, Mặc gia 墨家, Tung hoành gia 縱橫家, Tạp gia 雜家 và Nông gia 農家), nếu thực thần gặp phải khắc chế, lại gặp phải không vong sẽ không là cao quý, lại đi vận tử tuyệt hay kiêu thần, sẽ vì thức ăn thành khí mà gây tai vạ, lại thành nghẹn thức ăn, thiếu thốn thức ăn và quần áo, giỏi chịu đựng đói rét mà thôi.
Lại nói: ngày giáp thì bính là thực thần, trong trụ không có nhâm quý hợi tý mới tốt, nếu như có thuỷ khí thì bính tự bị chế phục, sẽ hàng phục người khác, tự mình không thể đứng vững làm sao có khả năng sanh vạn vật để nuôi dưỡng cha mình? Nếu như không có chế phục này, lại được sanh vượng hướng về lộc, như bính hoả sanh các tháng mùa hạ, vận trải qua đông nam, hoả thổ đều vượng, thì giáp mới dụng tài nhất định phong phú. Nếu sanh ba tháng mùa xuân giáp vượng, bính hoả tuy được sanh mà không biết rằng mậu kỷ khí mỏng, phải trải qua phương nam hoả thổ đều vượng mới đảm bảo là phát phúc.
Lại như canh lấy nhâm làm thực thần, vận trải qua phương bắc đất vượng của thuỷ, phát tài nhất định to, phương đông nơi vượng của mộc, nhất định phát phúc liên tiếp không ngừng. Nói chi tiết một chút, canh lấy nhâm làm thực thần, trường sanh ở thân, nên đoán phúc nhiều ở đất thân, bất ngờ bại ở dậu nên nhâm đến dậu liền không tốt đẹp. Vì nhâm sanh giáp mộc là tài của canh, nghĩa là tài tự tạo ra mà có, chẳng phải tài sản của vợ do hôn phối, giáp đến dậu là đất của kim nên giáp khốn đốn, nhâm thuỷ tự bại, hỏi mộc làm sao được cha trợ giúp nuôi dưỡng? Nên đoán là vận bình thường, đi đến vận tuất như càn gặp nhâm giáp cũng chỉ đoán là nửa tốt nửa xấu, gặp được chữ mậu có thể đoán là tai hoạ, thấy chữ canh có thể đoán là phúc lành. Vận đến hợi nên nói là rất tốt, vận đến tý có quý thuỷ là thương quan tiết khí bản thân rất nặng, lại thêm canh thì tử ở tý, giáp thì bại ở tý, nên đoán là gây ra hoạ tai nạn cho bản thân. Vận đến sửu là khố của canh kim, nơi thuỷ vượng, lại nơi quan đới có kỷ sửu trợ giúp canh giáp, có thể đoán hưng thịnh ở mười năm này. Vận đến dần cũng tốt, vận đến mão có tai hoạ, các trường hợp khác theo đó mà suy xét.
Lại nói: thực thần kỵ kiêu thần, cũng có trượng hợp không sợ. Như kỷ hợi sợ đinh đảo thực, đinh với nhâm hợp hoá mộc mà nhậm lộc ở hợi; bính ngọ không sợ giáp đảo thực, giáp với kỷ hợp hoá thổ mà kỷ lộc ở ngọ; ất tỵ không sợ quý đảo thực, mậu với quý hợp hoá hoả, ất tỵ cũng là hoả; quý tỵ không sợ tân đảo thực, bính với tân hợp hoá thuỷ mà quý nhân của quý ở tỵ; canh là thủ lãnh của các can dương, không sợ mậu đảo thực, mậu là quy luật của dương khí trở về cội nguồn, thấy mậu thì xét đoán là hỷ thần; vì không đảo thực tân, nguồn gốc của âm khí bắt đầu phát tán; canh không đảo thực nhâm, nguồn gốc của dương khí bắt đầu phát tán; tân có đinh không sợ kỷ đảo thực vì đinh nuôi dưỡng tân kim vậy, huống chi ở nơi của đinh liền có kỷ thổ, âm dương can thiệp được trợ giúp của phúc rõ ràng.
Thực thần là nơi hội tụ phúc lộc của mười thiên can mà người quân tử đạt được thành tựu, đời sống phong phú, còn tiểu nhân thì vụt chốc đạt được giàu có. Ở nơi tích trữ phúc thì quan cao lộc dày, còn nơi tích trữ hoạ thì quan thấp mệnh bạc. Như lấy giáp tý để bàn luận: thực thần bính tý là phúc tinh cao quý, thực thần bính dần là trường sanh lộc, lại là lộc mã đồng hương, thực thần học đường cao quý, bính thìn là chánh ấn, bính ngọ là tự hình phá mệnh, bính thân là khắc thân phá lộc, bính tuất là thân suy phá không vong, các thiên can còn lại suy xét theo đó. Nếu gặp được sanh vượng, khố, ấn, thiên ất, thiên quan, hoa cái, văn tinh, học đường, quan ấn lộc mã các loại là nơi tích trữ phúc, còn gặp phải khắc, phá, không vong, ác sát, hình, hại, hưu, tù, bại, tử, tuyệt là nơi tích trữ hoạ.
Lại nói: giáp ất thực thần là bính đinh thêm trên dần mão tỵ ngọ; bính đinh thực thần là mậu kỷ thêm trên thìn tuất sửu mùi; mậu kỷ thực thần là canh tân thêm trên tỵ ngọ thân dậu; canh tân thực thần là nhâm quý thêm trên thân dậu hợi tý; nhâm quý thực thần là giáp ất thêm trên hợi tý dần mão gọi là thực thần kiến sanh vượng, mang thêm lộc mã vượng tướng, về văn thì nắm quyền cai trị cả hai tỉnh, về võ là nhóm xây dựng tiết tháo phòng vệ, không thì cũng chủ có tài sản phong phú dồi dào, gặp đầy đủ thực thần với lộc, tứ trụ đi xuôi theo một chiều thì càng tuyệt diệu.
"Hồ Trung Tử" nói rằng: phạm vào đảo thực, ở mệnh thường bị người quấy nhiễu, người gặp trùng điệp, ở trẻ con thì nói là thiếu sữa, ở người già thì nói là thiếu thức ăn. Chánh thực nên là người dư dả giàu sang, còn tranh thực là người thiếu thốn nghèo hèn. Trường hợp dư dả như người giáp được hai hay ba chữ bính; còn thiếu thốn như trong trụ có hai chữ giáp mà chỉ có một chữ bính.
Lại nói: nhật chủ và can giờ trùng diệp tương thực (ăn lẫn nhau), gọi là thôn đạm não tử (ngốn nuốt óc con), trụ giờ ngày đểu là thực chủ đầu phong não lậu (đầu dau óc rò rĩ), sớm khắc khiến mẹ chết, cuối đời thì không có con đưa tang, nếu trong thôn (thôn: nuốt, ngốn hay tiêu diệt, chiếm đoạt) gặp thôn như người giáp gặp ngày giờ nhâm, lại gặp chữ canh chủ chết đói nơi hẻm núi, có thiên can hợp giải thì không khắc nghiệt.
"Tương Tâm Phú" nói rằng: thực thần rất có khả năng ăn uống, thân hình đầy đặn mà ưa hát ca.
"Áo Chỉ Thiên" nói rằng: lệnh tháng gặp thực thần, thân thể khoẻ mạnh, thích ăn uống, tướng người to lớn mập mạp, tứ trụ có sao tốt nâng đỡ thì tích tụ vàng ngọc, tiếng tăm khắp nơi.
"U Vi Phú" nói rằng: thực thần vượng tướng tuổi thọ tăng lên.
"Nguyên Lý Phú" nói rằng: thực thần ở trước, thất sát ở sau, công danh hiển quý.
"Bảo Giám Phú" nói rằng: tháng lộ ra thực thần, giờ lộ ra quan tinh, vẻ vang rực rỡ vui lòng làm đại thần giúp nước.
"Vạn kỳ Phú" nói rằng: thực thần có tên là cát diệu chế sát, hiệu là thọ tinh, thiên can cường trụ ngày vượng, thuộc giai cấp giàu sang, còn thực thần vượng mà thân suy là người thất thế, lận đận, gặp được tài vượng thì thực thần trong tương lai là trụ trì, gặp phải ấn thụ thì bụi ở đáy nồi, chỉ thấy một vị trí thì chung minh đĩnh nãi (khắc tên lên đỉnh), còn hai hay ba vị trí thì lậu hạng điệm biều (sống ở ngõ hẹp dùng chiếu tre đồ vật bằng võ dừa, võ ốc - ý là nghèo), dương nhận lại đến thì cả đời lao lực, hình khắc hội hợp nhau một đời phải chạy ngược xuôi.
Bài ca xưa hát rằng: thực thần chế sát tốt phi thường, tài vượng vợ quý con thêm mạnh, trong trụ nếu có thôn đạm sát, dạy dỗ nơi điện vàng giúp đỡ vua.
Lại thêm" thực thần gặp được lộc hiệu là thiên trù, xung khắc hay không vong không có quan sát, vận đến đất thiên ấn tử tuyệt, thọ tinh hợp xứ mang đến phúc.
Lại thêm: thực thần ấn thụ không nên gặp nhau, chỉ thấy tài quan phúc thêm hưng thịnh, thực thần thích đi nơi thân vượng, gặp phải kiêu thần, tỷ kiếp đều thành không.
Lại thêm: thực thần sanh vượng rất thích khoe khoang, chỉ hành thuỷ, mộc, thổ, kim tốt đẹp, quan sát không đến làm hỗn tạp, cả đời ăn mặc đầy đủ lẫn vinh hoa.
Lại thêm: người giáp thấy bính vốn là trộm khí, bính đi sanh tài hiệu là thực thần, lòng rộng rãi người thư thái y lộc dồi dào, nhưng nếu đến thiên ấn thì chủ cô đơn và nghèo khó.
Lại thêm: thực thần sanh vượng không bị hình khắc, mệnh gặp được cách này vượt hơn tài quan, được thêm thân vượng gặp đất tài, tuổi trẻ đã bước vào cung điện vua.
Lại thêm: thực thần không bị làm hại thì tuổi thọ kéo dài dằng dặc, mẹ kế gặp phải không thể gánh, nếu không có thiên tài tới cứu giúp, mệnh như cỏ úa mùa thu gặp sương mùa đông.
Lại thêm: thực thần trên tháng hiệu thiên trù, người có mệnh gặp như vậy thì giàu có, rất kỵ kiêu thần đến làm giảm phúc, rất ghét xung mất ngầm tiêu trừ. Sanh tài, hoá quỷ, không tật bệnh, chế sát thành niềm tin để chờ đợi, học trò đi thi gặp được lợi ích thi đậu hạng nhất, được phong chức quan trọng nhận lãnh thiên thư.
Hợp các lý thuyết lại sẽ hiểu rõ các quan điểm hỷ kỵ của thực thần vậy.
论食神
食神者,日干所生顺数第三位,乃甲食丙、乙食丁之例。甲生丙为泄气,丙生戊为甲偏财,偏财是天禄自然之财,不劳己之心力,享见成福禄。甲丙有父子之道,如子旺相,生起财禄以奉其父母,岂不安享?又甲见庚为煞,见戊为财,其食神丙火能制伏庚煞,使不得克伤甲木,能生戊财,使为甲木所用。凡命遇财煞之地,食神旺相,煞被食制,不敢为祸,财被食生,充裕不竭,故食神一名寿星,一名爵星,良有以也。此格要日主食神俱生旺,无冲破,主人财厚食丰,福量宽弘,肥体肥大,优游自足,有子息,有寿考。四柱见财食在岁月上,祖父荫业丰隆,在日时,妻男获福,怕母子俱衰绝,两皆无成。故经云:"食神宜食生食旺,不可食衰食绝。"又云:"食神生旺,胜似财官"是也。食神大忌偏印为倒食,主为人有始无终,容貌欹邪,身材琐小,心性局促,多愁无成。假如甲见丙为食,柱中有壬作甲木偏印,克制丙火不能生戊土,不能制庚金,使甲木受制退财,岂不窘乎?《元理赋》云:食神制煞,逢枭不贫则夭。《一行》云:阳日食神暗合官星,阴日食神暗合正印,官印不要明显,但得食神纯粹,主贵而有禄,富而有寿,食神只宜一位,不宜太多,恐窃本元之气。经云:"一木叠逢火位,名为散气之父"是也。
食多者宜行印运,食少者不宜,是枭神夺食,故食喜旺禄相助,月令建禄最佳,时禄次之,更逢贵人运,行食神生旺之地,大地福禄。忌身衰枭旺,柱中虽喜见财,亦不宜多,多则不清,不过一富翁而已。食神重见,变为伤官,令人少子,纵有,或带破拗性,又不可入墓,即是伤官入墓,住寿难延。大忌空亡,更有官煞显露,为太医师巫术数九流之士,若食神逢克,又遇空亡,则不贵,再行死绝或枭运,则因食上气上生灾,翻胃噎食,缺衣食,忍饥寒而已。又曰:甲日食丙,柱中无壬癸亥子方好,如有水气,丙自受制,屈伏于人,己身不能卓立,岂能生物以养其父?如无此制,又要生旺向禄,如丙生夏月,运历东南,火土俱旺,其甲用财必厚。若生三春甲旺,丙火虽得生,不知戊己气薄,须历南方火土俱旺,方许发福。又如庚以壬为食,运历北方水旺之地,发财必厚,东方木旺之乡,发福必紧。细论之,庚以壬为食,长生于申,当断申地福重,暴败在酉,壬水至酉,便不为佳,以壬生甲木为庚之财,即自生分发身之财,非婚配正妻之财,甲至酉地为木困金乡,壬水自败,木岂能助养其父?当断此运平平。行至戌运,如干遇壬甲,亦只断其半吉半凶,逢戊可断其有灾,见庚可断其微福。亥运当言其大吉,子运癸水伤官,伤重泄本身之气,又庚死于子,甲败于子,当断生祸身灾。运至丑,庚金之库,水旺之乡,又有己丑助庚甲冠带成人之地,可断此十年发。寅运亦吉,卯运有灾,余例此推。又曰:食神忌枭,亦有不畏者。如己亥不畏丁倒食,丁与壬合化木,而壬禄在亥;丙午不畏甲倒食,甲与己合化土,而己禄在午;乙巳不畏癸倒食,戊癸化火,乙巳亦火;癸巳不畏辛倒食,丙辛化水,癸贵在巳;庚为众阳之首,不畏戊倒食,戊,阳气归源之数,见戊作喜神论;已不倒食辛,阴气初发散之源;庚不倒食壬,阳气初发散之源;辛有丁,不畏己倒食,为丁养育辛金也,况有丁处便有己土,阴阳干涉,得清福之助。
食神者,十干福禄之会,君子得之显达丰赡,小人得之周旋给足,在福聚之地则官崇禄厚,在祸聚之地则职卑命薄。如以甲子论,食丙子为福星之贵,食丙寅为长生之禄,又为禄马同乡,食神学堂之贵,丙辰为正印,丙午为自刑破命,丙申为克身破禄,丙戌为身衰破空亡,余干例推。若遇生旺、库、印、天乙、天官、华盖、文星、学堂、官印禄马之类,为福聚之地,遇克破、空亡、恶煞、刑害、休、败、死、绝,为祸聚之地。又曰:甲乙食丙丁,加寅卯巳午之上;丙丁食戊己,加辰戌丑未之上;戊己食庚辛,加巳午申酉之上;庚辛食壬癸,加申酉亥子之上;壬癸食甲乙,加亥子寅卯之上,谓之食神见生旺,更带禄马旺相,文为两制两省,武为建节防团,无,亦主财帛丰厚,食神与禄全见,四柱顺当为妙。
《壶中子》云:犯倒食,在命多被人挠,重叠带者,在幼儿则言乏乳,在老人则言缺食。正食而有余者富贵,争食而不足者贫贱,有余如甲人得两丙三丙,不足如柱中两甲止有一丙之类。又曰:日主时干重叠相食者,曰吞啖脑子,时日俱食,主头风脑漏,早克母死,后无子送终,若吞中逢吞,如甲人逢壬日时,又逢庚字,主贫死沟壑,有干合解则缓。《相心赋》云:食神最能饮食,体厚而好讴歌。《奥旨篇》云:月令值食,身健旺,善饮食,姿质丰肥,四柱有吉曜相扶,堆金积玉,声名显著。《幽微赋》云:食神旺相,老寿弥高。《元理赋》云:食居先,煞居后,功名显达。《宝鉴赋》云:月露食神时露官,荣显乌台助国臣。《万祺赋》云:食神名为吉曜制煞,号称寿星,干强日旺,富贵之士,食旺身衰,蹭蹬之人,逢财旺则食前方丈,遇印绶则甑底生尘,见一位者锺铭鼎鼐,二三者陋巷簟瓢,羊刃重临,平生劳碌,刑克相会,一世奔波。
古歌云:食神制煞吉非常,财旺妻荣子更强,柱中若要吞
啖煞,管教金殿佐君王。又:食神逢禄号天厨,冲克空亡官煞无,死绝运临偏印地,寿星合处福交孚。又:食神印绶不宜逢,惟见财官福更隆,食神喜行身旺地,逢枭逢比总成空。又:食神生旺最堪讠夸,惟行水木土金佳,官煞更无来混杂,平生衣禄足荣华。又:甲人见丙本盗气,丙去生财号食神,心广体胖衣禄厚,若临偏印主孤贫。又:食神生旺无刑克,命逢此格胜财官,更得身旺逢财地,青春年少步金銮。又:食神无损寿绵长,庶母逢之不可当,若无偏财来救护,命如秋草带冬霜。又:食神月上号天厨,人命逢之富有余,切忌枭来明减福,最嫌冲去暗消除。生财化鬼兼无病,制煞为祥信有储,士子如逢利甲第,官封要职领天书。合诸说,观食神喜忌尽矣。
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#182
Gửi vào 11/07/2024 - 00:28
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Phi Thiên Lộc Mã
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: nếu gặp thương quan nguyệt kiến, như nơi hung xấu chưa chắc đã là hung xấu, trong đó có trường hợp đảo thực phi xung, kỵ quan tinh, cũng không muốn bị trói buộc, vì cách này chỉ có bốn ngày: canh tý, nhâm tý, tân hợi, quý hợi, sanh tháng mười, tháng mười một thuỷ mùa đông hoàn toàn âm, trụ không có tài quan mới dùng được. Lại phải có địa chi tháng, giờ hay năm giống với địa chi ngày, mới có khả năng hội xung. Kỵ quan tinh lộ ra lộc khó phi xung, hợp thần trói buộc, không khả năng phi xung, trong trụ phải có một chữ hợp lộc mã, mới không bị mất quý khí. Mừng thương quan, thực thần cùng với thiên can, địa chi của vận gốc.
- Nếu ngày canh tý, canh lấy đinh hoả làm quan, sanh ở tháng tý, là thương quan nguyệt kiến, có thể gọi là nơi hung xấu, nếu có nhiều chữ tý xung đinh hoả trong ngọ, thì ngày canh gặp được quan tinh, không thể luận là hung xấu, trong trụ phải có mùi hoặc dần hay tuất chỉ cần một chữ hợp với ngọ mới là tuyệt diệu, nếu có sửu trói buộc, tý tham hợp, không thể xung lộc trong ngọ, thấy chữ đinh là quan lộ ra, bính là sát rõ rệt hay chữ ngọ điền thật, mậu thôn đạm, sẽ giảm phần số, tuế vận giống nhau.
- Ngày nhâm tý: nhâm lấy kỷ thổ làm quan, cần trong trụ có nhiều chữ tý để xung kỷ thổ trong ngọ, thì ngày nhâm gặp được quan tinh, hỷ kỵ của nó với ngày canh tý giống nhau.
- Ngày tân hợi: tân lấy bính hoả làm quan; ngày quý hợi: quý lấy mậu thổ làm quan, đều cần tứ trụ có nhiều chữ hợi để xung ra bính hay mậu trong tỵ thì tân và quý gặp được quan tinh, trụ có thân hoặc dậu, sửu chỉ cần một chữ để hợp mới là tuyệt diệu, nhiều thì không thích hơp, có dần trói buộc thì hợi tham hợp, không thể xung lộc trong tỵ, thấy bính mậu kỷ là quan tinh lộ ra, giảm phần số, tuế vận giống nhau.
Bài ca xưa hát rằng: cách chánh xung là canh nhâm, tý xung mất quan lộc tự thuận lợi, tứ trụ gặp thêm dần hay tuất hay mùi, được một trong ba chữ thì tụ hội công danh.
Lại thêm: canh nhâm tháng tý hiệu là xung quan, ngọ động đinh di chuyển kỷ cũng dời chuyển, điền thật phá hình đều không phạm, danh dự người tài hoa truyền khắp nơi.
Lại thêm: ít người biết được lộc mã phi thiên, canh nhâm nhiều tý quý không nghi ngờ, trụ không trói buộc quan lộ rõ ra, đường công danh thuận lợi đến phượng trì.
Lại thêm: tân quý xung quan ngày hợi quan trọng, bính mậu lộc đều ở trong tỵ, gặp thêm dậu sửu hay thân ở mệnh, được một chữ để hợp thì phú quý và vinh hoa.
Lại thêm: ngày gặp tân hay quý địa chi là hợi, dậu sửu thêm thân hợp quý nhân, trứ trụ nâng đỡ không có mậu kỷ, danh tiếng người tài năng vang kháp ngàn dặm.
飞天禄马
《喜忌篇》云:若逢伤官月建,如凶处未必为凶,内有倒禄飞冲,忌官星,亦嫌羁绊,以格唯有四日:庚子、壬子、辛亥、癸亥,生十月、十一月冬水纯阴,柱无财官,方用。又须月时或年与日同支,方能并冲。忌官星显露,禄难飞冲,合神羁绊,不能飞冲,要柱中有一字合住禄马,方不走了贵气。喜伤官、食神及干支本运。假令庚子日、庚以丁火为官,在子月生,是伤官月建,可谓凶处,若子字多,冲出午中丁火,则庚日得官星,未可便以凶论,柱要有未或寅、戌,但得一字合午为妙,若有丑羁绊,子去贪合,不能冲午中之禄,见丁字为官露,丙为煞显,午字填实,戊吞啖,则减分数,岁运同。壬子日,壬以己土为官,要柱中子字多,冲午中己土,则壬日得官星,其喜忌与庚子日同。辛亥日,辛用丙火为官,癸亥日,癸用戊土为官,俱要四柱亥字多,冲出己中丙、戊,则辛、癸得官星,柱有申或酉、丑,但得一作合为妙,多则不中,有寅羁绊,则亥贪合,不能冲己中之禄,见丙、戊、己为官星露,减分数,岁运同。古歌曰:正冲之格是庚壬,子去冲官禄自亨,四柱更逢寅戌未,三字得一合功名。又:庚壬子月号冲官,午动丁移己亦迁,填实破刑俱不犯,英名魁誉四方传。又:禄马飞天识者稀,庚壬重子贵非疑,柱无羁绊官显现,平步青云到凤池。又:辛癸冲官亥日重,巳中丙戊禄来崇,更逢酉丑申居命,得一合神便贵荣。又:日逢辛癸支临亥,酉丑加申合贵人,四柱相扶无戊己,威风千里振英声。
.
Phi Thiên Lộc Mã
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: nếu gặp thương quan nguyệt kiến, như nơi hung xấu chưa chắc đã là hung xấu, trong đó có trường hợp đảo thực phi xung, kỵ quan tinh, cũng không muốn bị trói buộc, vì cách này chỉ có bốn ngày: canh tý, nhâm tý, tân hợi, quý hợi, sanh tháng mười, tháng mười một thuỷ mùa đông hoàn toàn âm, trụ không có tài quan mới dùng được. Lại phải có địa chi tháng, giờ hay năm giống với địa chi ngày, mới có khả năng hội xung. Kỵ quan tinh lộ ra lộc khó phi xung, hợp thần trói buộc, không khả năng phi xung, trong trụ phải có một chữ hợp lộc mã, mới không bị mất quý khí. Mừng thương quan, thực thần cùng với thiên can, địa chi của vận gốc.
- Nếu ngày canh tý, canh lấy đinh hoả làm quan, sanh ở tháng tý, là thương quan nguyệt kiến, có thể gọi là nơi hung xấu, nếu có nhiều chữ tý xung đinh hoả trong ngọ, thì ngày canh gặp được quan tinh, không thể luận là hung xấu, trong trụ phải có mùi hoặc dần hay tuất chỉ cần một chữ hợp với ngọ mới là tuyệt diệu, nếu có sửu trói buộc, tý tham hợp, không thể xung lộc trong ngọ, thấy chữ đinh là quan lộ ra, bính là sát rõ rệt hay chữ ngọ điền thật, mậu thôn đạm, sẽ giảm phần số, tuế vận giống nhau.
- Ngày nhâm tý: nhâm lấy kỷ thổ làm quan, cần trong trụ có nhiều chữ tý để xung kỷ thổ trong ngọ, thì ngày nhâm gặp được quan tinh, hỷ kỵ của nó với ngày canh tý giống nhau.
- Ngày tân hợi: tân lấy bính hoả làm quan; ngày quý hợi: quý lấy mậu thổ làm quan, đều cần tứ trụ có nhiều chữ hợi để xung ra bính hay mậu trong tỵ thì tân và quý gặp được quan tinh, trụ có thân hoặc dậu, sửu chỉ cần một chữ để hợp mới là tuyệt diệu, nhiều thì không thích hơp, có dần trói buộc thì hợi tham hợp, không thể xung lộc trong tỵ, thấy bính mậu kỷ là quan tinh lộ ra, giảm phần số, tuế vận giống nhau.
Bài ca xưa hát rằng: cách chánh xung là canh nhâm, tý xung mất quan lộc tự thuận lợi, tứ trụ gặp thêm dần hay tuất hay mùi, được một trong ba chữ thì tụ hội công danh.
Lại thêm: canh nhâm tháng tý hiệu là xung quan, ngọ động đinh di chuyển kỷ cũng dời chuyển, điền thật phá hình đều không phạm, danh dự người tài hoa truyền khắp nơi.
Lại thêm: ít người biết được lộc mã phi thiên, canh nhâm nhiều tý quý không nghi ngờ, trụ không trói buộc quan lộ rõ ra, đường công danh thuận lợi đến phượng trì.
Lại thêm: tân quý xung quan ngày hợi quan trọng, bính mậu lộc đều ở trong tỵ, gặp thêm dậu sửu hay thân ở mệnh, được một chữ để hợp thì phú quý và vinh hoa.
Lại thêm: ngày gặp tân hay quý địa chi là hợi, dậu sửu thêm thân hợp quý nhân, trứ trụ nâng đỡ không có mậu kỷ, danh tiếng người tài năng vang kháp ngàn dặm.
飞天禄马
《喜忌篇》云:若逢伤官月建,如凶处未必为凶,内有倒禄飞冲,忌官星,亦嫌羁绊,以格唯有四日:庚子、壬子、辛亥、癸亥,生十月、十一月冬水纯阴,柱无财官,方用。又须月时或年与日同支,方能并冲。忌官星显露,禄难飞冲,合神羁绊,不能飞冲,要柱中有一字合住禄马,方不走了贵气。喜伤官、食神及干支本运。假令庚子日、庚以丁火为官,在子月生,是伤官月建,可谓凶处,若子字多,冲出午中丁火,则庚日得官星,未可便以凶论,柱要有未或寅、戌,但得一字合午为妙,若有丑羁绊,子去贪合,不能冲午中之禄,见丁字为官露,丙为煞显,午字填实,戊吞啖,则减分数,岁运同。壬子日,壬以己土为官,要柱中子字多,冲午中己土,则壬日得官星,其喜忌与庚子日同。辛亥日,辛用丙火为官,癸亥日,癸用戊土为官,俱要四柱亥字多,冲出己中丙、戊,则辛、癸得官星,柱有申或酉、丑,但得一作合为妙,多则不中,有寅羁绊,则亥贪合,不能冲己中之禄,见丙、戊、己为官星露,减分数,岁运同。古歌曰:正冲之格是庚壬,子去冲官禄自亨,四柱更逢寅戌未,三字得一合功名。又:庚壬子月号冲官,午动丁移己亦迁,填实破刑俱不犯,英名魁誉四方传。又:禄马飞天识者稀,庚壬重子贵非疑,柱无羁绊官显现,平步青云到凤池。又:辛癸冲官亥日重,巳中丙戊禄来崇,更逢酉丑申居命,得一合神便贵荣。又:日逢辛癸支临亥,酉丑加申合贵人,四柱相扶无戊己,威风千里振英声。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#183
Gửi vào 11/07/2024 - 00:40
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Đảo Xung Lộc
Thương quan ở lệnh tháng, trong đó có cách đảo xung lộc mã, hỷ kỵ với cách phi thiên giống nhau, chỉ trụ giờ thì không kể. Cách này chỉ có hai ngày bính ngọ, đinh tỵ, lúc mùa hạ thuần dương, bính lấy quý thuỷ làm quan, cần trong trụ có nhiều ngọ để có lực xung ra quý thuỷ trong tý, thì ngày bính gặp được quan tinh; đinh lấy nhâm thuỷ làm quan, cần trong trụ có nhiều tỵ để có lực xung ra nhâm thuỷ trong hợi, thì ngày đinh gặp được quan tinh. Được thêm sửu dần hoặc thân thìn mão mùi, chỉ cần một chữ hợp trụ với lộc mã thì tuyệt diệu, nhiều thì không đúng. Ngày bính ngọ sợ mùi, ngày đinh tỵ sợ các chữ thân, thìn trói buộc, vì tỵ ngọ sẽ tham hợp mà không thể xung lộc trong tý hay hợi, trụ có hợi nhâm tý quý là sát quan lộ rõ ra, sẽ giảm phần số, tuế vện giống nhau.
Bài ca xưa hát rằng: ngày bính không có quan cục ngọ nhiều, đảo xung lộc mã quý quan thuận hợp, không gặp chữ mùi tới trói buộc, quý tý đều không có thì phúc cao chót vót.
Lại thêm: khí quý đảo xung không như bình thường, bính ngọ chẳng xung lộc thần của tý, quý thuỷ tới khắc là lộc quý, gặp hình thương hay điền thật chỉ là người bình thường
Lại thêm: đảo xung lộc mã quý phi thường, ngày bính gặp nhiều ngọ rất tốt, không gặp thất sát cùng với ngăn trở, áo trắng (bạch y: áo trắng - ngày xưa người chưa làm quan mặc quần áo trắng) bước êm vào triều đình.
Lại thêm: ngày đinh nhiều rắn là đảo xung, quan tinh bay ra khỏi cung càn, trụ không thấy chữ hợi nhâm, thìn không giữ rắn thì phúc quý dầy.
Lại thêm: ngày đinh xung quan, tỵ phải mạnh, hợi là lộc của nhâm nơi quý nhân, trong trụ không thấy thìn nhâm quý, tuế vận nâng đỡ nhau thì phúc lộc thích đáng.
倒冲禄
伤官月建,内有倒冲禄马格,喜忌与飞天同,惟时不论。此格止有二日:丙午、丁巳,夏日纯阳,丙以癸水为官,要柱中午多有力,冲出子中癸水,则丙日得官星;丁以壬水为官,要柱中巳多有力,冲出亥中壬水,则丁日得官星。更得丑寅或申辰卯未,但有一字合住禄马为妙,多则不中。丙午日怕未,丁巳日怕申辰等字羁绊,则巳午贪合,不能冲子亥中之禄,柱有亥壬子癸为煞官显露,则减分数,岁运同。古歌云:丙日无官局午多,倒冲禄马癸官和,不逢未字来羁绊,癸子俱无福嵯峨。又:倒冲贵气不同伦,丙午飞冲子禄神,癸水克来是贵禄,刑伤填实是常人。又:倒冲禄马贵非常,丙日多逢午位良,七煞不逢并惹绊,白衣平步入朝堂。又:丁日蛇多是倒冲,官星飞起出乾宫,柱不见亥壬字,辰不留蛇福贵隆。又:丁日冲官巳要强,亥为壬禄贵人乡,柱中不见辰壬癸,岁运相扶福禄昌。
.
Đảo Xung Lộc
Thương quan ở lệnh tháng, trong đó có cách đảo xung lộc mã, hỷ kỵ với cách phi thiên giống nhau, chỉ trụ giờ thì không kể. Cách này chỉ có hai ngày bính ngọ, đinh tỵ, lúc mùa hạ thuần dương, bính lấy quý thuỷ làm quan, cần trong trụ có nhiều ngọ để có lực xung ra quý thuỷ trong tý, thì ngày bính gặp được quan tinh; đinh lấy nhâm thuỷ làm quan, cần trong trụ có nhiều tỵ để có lực xung ra nhâm thuỷ trong hợi, thì ngày đinh gặp được quan tinh. Được thêm sửu dần hoặc thân thìn mão mùi, chỉ cần một chữ hợp trụ với lộc mã thì tuyệt diệu, nhiều thì không đúng. Ngày bính ngọ sợ mùi, ngày đinh tỵ sợ các chữ thân, thìn trói buộc, vì tỵ ngọ sẽ tham hợp mà không thể xung lộc trong tý hay hợi, trụ có hợi nhâm tý quý là sát quan lộ rõ ra, sẽ giảm phần số, tuế vện giống nhau.
Bài ca xưa hát rằng: ngày bính không có quan cục ngọ nhiều, đảo xung lộc mã quý quan thuận hợp, không gặp chữ mùi tới trói buộc, quý tý đều không có thì phúc cao chót vót.
Lại thêm: khí quý đảo xung không như bình thường, bính ngọ chẳng xung lộc thần của tý, quý thuỷ tới khắc là lộc quý, gặp hình thương hay điền thật chỉ là người bình thường
Lại thêm: đảo xung lộc mã quý phi thường, ngày bính gặp nhiều ngọ rất tốt, không gặp thất sát cùng với ngăn trở, áo trắng (bạch y: áo trắng - ngày xưa người chưa làm quan mặc quần áo trắng) bước êm vào triều đình.
Lại thêm: ngày đinh nhiều rắn là đảo xung, quan tinh bay ra khỏi cung càn, trụ không thấy chữ hợi nhâm, thìn không giữ rắn thì phúc quý dầy.
Lại thêm: ngày đinh xung quan, tỵ phải mạnh, hợi là lộc của nhâm nơi quý nhân, trong trụ không thấy thìn nhâm quý, tuế vận nâng đỡ nhau thì phúc lộc thích đáng.
倒冲禄
伤官月建,内有倒冲禄马格,喜忌与飞天同,惟时不论。此格止有二日:丙午、丁巳,夏日纯阳,丙以癸水为官,要柱中午多有力,冲出子中癸水,则丙日得官星;丁以壬水为官,要柱中巳多有力,冲出亥中壬水,则丁日得官星。更得丑寅或申辰卯未,但有一字合住禄马为妙,多则不中。丙午日怕未,丁巳日怕申辰等字羁绊,则巳午贪合,不能冲子亥中之禄,柱有亥壬子癸为煞官显露,则减分数,岁运同。古歌云:丙日无官局午多,倒冲禄马癸官和,不逢未字来羁绊,癸子俱无福嵯峨。又:倒冲贵气不同伦,丙午飞冲子禄神,癸水克来是贵禄,刑伤填实是常人。又:倒冲禄马贵非常,丙日多逢午位良,七煞不逢并惹绊,白衣平步入朝堂。又:丁日蛇多是倒冲,官星飞起出乾宫,柱不见亥壬字,辰不留蛇福贵隆。又:丁日冲官巳要强,亥为壬禄贵人乡,柱中不见辰壬癸,岁运相扶福禄昌。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#184
Gửi vào 11/07/2024 - 00:49
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Phúc Tinh Quý Nhân
Chính là người giáp thấy bính dần, bính tý; người ất thấy đinh hợi, đinh sửu, độn được thực thần thật sự trong tuần, chủ hưởng thụ tự nhiên, người gặp vậy không sang cũng giàu, còn lại suy ngược lại. Người xưa sáng tác bài hát "giáp bính đón mời vào đất hổ", là lấy năm để luận cho nên mới có bính dần bính tý, nếu lấy ngày để độn sẽ không đúng.
福星贵人
乃甲人见丙寅、丙子,乙人见丁亥、丁丑,遁得本旬中真食神,主享受自然,遇者非贵亦富,余倒推。前人作《甲丙相邀入虎乡歌》,是以年论,故有丙寅、丙子,若以日遁则非。
.
Phúc Tinh Quý Nhân
Chính là người giáp thấy bính dần, bính tý; người ất thấy đinh hợi, đinh sửu, độn được thực thần thật sự trong tuần, chủ hưởng thụ tự nhiên, người gặp vậy không sang cũng giàu, còn lại suy ngược lại. Người xưa sáng tác bài hát "giáp bính đón mời vào đất hổ", là lấy năm để luận cho nên mới có bính dần bính tý, nếu lấy ngày để độn sẽ không đúng.
福星贵人
乃甲人见丙寅、丙子,乙人见丁亥、丁丑,遁得本旬中真食神,主享受自然,遇者非贵亦富,余倒推。前人作《甲丙相邀入虎乡歌》,是以年论,故有丙寅、丙子,若以日遁则非。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#185
Gửi vào 11/07/2024 - 00:57
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Thực Thần Đồng Khoả
Nghĩa là giáp có bính là thực thần, người giáp tý thấy bính tý, có mười ba vị trí đều giống nhau, chính là vật của nhà mình, người gặp như vậy không sang cũng là giàu, tháng không bằng ngày, ngày không bằng giờ, nếu mà hỗ hoán sanh vượng đới lộc thì người quý càng thêm quý. Như Hàn Nguỵ Công: mậu thân canh thân canh thìn canh thìn; hay Tần Cối đời Tống: canh ngọ kỷ sửu ất mão nhâm ngọ; lại thêm Minh Vương Sùng Cổ Thiếu Bảo: ất hợi tân tỵ mậu thân canh thân. Như đảo thực nhà mình năm giáp tý thấy giờ nhâm tý, năm canh tý thấy giờ mậu tý, cũng quý chỉ là hao tổn đường con cái.
食神同窠
谓甲食丙,甲子人见丙子之类,十三位即同,乃本家物也,得此者不贵即富,月不如日,日不如时,若互换生旺带禄,贵者大贵。如韩魏公:戊申、庚申、庚辰、庚辰;宋秦桧:庚午、己丑、乙卯、壬午;又明王崇古少保:乙亥、辛巳、戊申、庚申是也。如倒食本家,甲子年见壬子时,庚子年见戊子时,亦贵,但损子。
.
Thực Thần Đồng Khoả
Nghĩa là giáp có bính là thực thần, người giáp tý thấy bính tý, có mười ba vị trí đều giống nhau, chính là vật của nhà mình, người gặp như vậy không sang cũng là giàu, tháng không bằng ngày, ngày không bằng giờ, nếu mà hỗ hoán sanh vượng đới lộc thì người quý càng thêm quý. Như Hàn Nguỵ Công: mậu thân canh thân canh thìn canh thìn; hay Tần Cối đời Tống: canh ngọ kỷ sửu ất mão nhâm ngọ; lại thêm Minh Vương Sùng Cổ Thiếu Bảo: ất hợi tân tỵ mậu thân canh thân. Như đảo thực nhà mình năm giáp tý thấy giờ nhâm tý, năm canh tý thấy giờ mậu tý, cũng quý chỉ là hao tổn đường con cái.
食神同窠
谓甲食丙,甲子人见丙子之类,十三位即同,乃本家物也,得此者不贵即富,月不如日,日不如时,若互换生旺带禄,贵者大贵。如韩魏公:戊申、庚申、庚辰、庚辰;宋秦桧:庚午、己丑、乙卯、壬午;又明王崇古少保:乙亥、辛巳、戊申、庚申是也。如倒食本家,甲子年见壬子时,庚子年见戊子时,亦贵,但损子。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#186
Gửi vào 11/07/2024 - 01:05
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Thực Thần Đái Hợp
Nghĩa là các trường hợp người giáp thấy bính hợp với tân, người kỷ thấy tân hợp với bính, ất thấy đinh nhâm, canh thấy nhâm đinh, bính thấy mậu quý, tân thấy quý mậu, chủ là quan nắm giữ ấn tín quyền lực.
食神带合
谓甲人见丙有辛合,己人见辛有丙合,乙见丁壬,庚见壬丁,丙见戊癸,辛见癸戊之例,主为官有权印。
.
Thực Thần Đái Hợp
Nghĩa là các trường hợp người giáp thấy bính hợp với tân, người kỷ thấy tân hợp với bính, ất thấy đinh nhâm, canh thấy nhâm đinh, bính thấy mậu quý, tân thấy quý mậu, chủ là quan nắm giữ ấn tín quyền lực.
食神带合
谓甲人见丙有辛合,己人见辛有丙合,乙见丁壬,庚见壬丁,丙见戊癸,辛见癸戊之例,主为官有权印。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#187
Gửi vào 11/07/2024 - 01:13
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Hồng Loan Thiên Ấn
Nghĩa là bính có mậu là thực thần gặp mậu tuất, tân có thực thần là quý mà gặp quý sửu, nhâm gặp giáp thìn, ất gặp đinh mùi, ngày giờ gặp được chủ giàu sang.
红鸾天印
谓丙食戊而得戊戌,辛食癸而得癸丑,壬甲辰,乙丁未,日时得之,主富贵。
.
Hồng Loan Thiên Ấn
Nghĩa là bính có mậu là thực thần gặp mậu tuất, tân có thực thần là quý mà gặp quý sửu, nhâm gặp giáp thìn, ất gặp đinh mùi, ngày giờ gặp được chủ giàu sang.
红鸾天印
谓丙食戊而得戊戌,辛食癸而得癸丑,壬甲辰,乙丁未,日时得之,主富贵。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#188
Gửi vào 11/07/2024 - 02:06
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Mặc Trì Dũng Tuyền
Nghĩa là tân tỵ gặp quý tỵ, quý hợi. Như Trần Triêu thảo luận: tân tỵ nhâm thìn quý tỵ quý hợi là như vậy. Theo phạm trù này, bính dần thích mậu dần; mậu thân thích canh thân; kỷ tỵ thích tân hợi; canh ngọ thích nhâm thân; giáp tuất thích bính dần; nhâm thìn thích giáp thân tất cả đều giống cách này, chủ văn quý.
墨池涌泉
谓辛巳得癸巳、癸亥。如陈朝议:辛巳、壬辰、癸巳、癸亥是也。推此类,丙寅爱戊寅,戊申爱庚申,己巳爱辛亥,庚午爱壬申,甲戌爱丙寅,壬辰爱甲申,皆同此格,主文贵。
.
Mặc Trì Dũng Tuyền
Nghĩa là tân tỵ gặp quý tỵ, quý hợi. Như Trần Triêu thảo luận: tân tỵ nhâm thìn quý tỵ quý hợi là như vậy. Theo phạm trù này, bính dần thích mậu dần; mậu thân thích canh thân; kỷ tỵ thích tân hợi; canh ngọ thích nhâm thân; giáp tuất thích bính dần; nhâm thìn thích giáp thân tất cả đều giống cách này, chủ văn quý.
墨池涌泉
谓辛巳得癸巳、癸亥。如陈朝议:辛巳、壬辰、癸巳、癸亥是也。推此类,丙寅爱戊寅,戊申爱庚申,己巳爱辛亥,庚午爱壬申,甲戌爱丙寅,壬辰爱甲申,皆同此格,主文贵。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#189
Gửi vào 11/07/2024 - 05:43
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Luận Dương Nhận (Tiền Luận Dương Nhận Sát Dữ Thử Tham Khán)
Dương là dương của âm dương, nhận là sắc bén của lưỡi đao, tức là trước lộc một vị trí, nói rằng vượng vượt qua phận mình, cho nên nguy hiểm. Kẻ cắp người giáp thấy mão vì trong mão có ất mộc, ất là em của giáp, có khả năng cướp đoạt tài của anh mình, xung mất dậu trong tân quan, hợp làm vợ của canh, canh chính là thất sát của giáp, kiếp tài xung quan hợp ngao (có lẽ là chữ sát 煞 thay vì chữ ngao 熬. Vì bính là sát của giáp mà bính hợp tân) vì thế mà rất hung xấu. Chỉ năm can dương giáp bính mậu canh nhâm mới có nhận, còn năm can âm ất đinh kỷ tân quý thì không có nhận, vì thế mới gọi là dương nhận. Chỉ thấy thương quan với dương nhận thì hoạ giống nhau, cho nên ất thấy bính cũng gọi là nhận, vì bính thương tổn canh là quan của ất, hợp tân sát khắc ất mộc, âm kim mà khắc âm mộc thì rất độc, vì thế hung xấu với dương nhận giống nhau. Dương nhận có ba: có kiếp tài nhận như là giáp thấy ất, không có lợi cho cách tài quan; có hộ lộc nhận như là giáp thấy mão rất là có lợi cho quy lộc cách; có bối lộc nhận như là ất bính rất có lợi trong cách khử bỏ quan mà lưu giữ sát.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: kiếp tài, dương nhận rất kỵ lúc gặp, tuế vận cùng đến, tai hoạ lập tức xãy đến, chỉ dương nhận lấy thời gian mà nói, quan trọng ở năm tháng và ngày. Thí dụ người sanh ngày giáp, trên trụ giờ thấy ất mão, đấy là nhận thật sự, đã gặp phải dương nhận trong mệnh, thương tổn vợ phá tài, tai hoạ đã có từ lúc bào thai rồi, lưu niên thái tuế vận gặp lại dương nhận nghĩa là cùng hội tụ đến, thấy tỵ dậu là xung tuế quân, thấy hợi mùi tuất là hợp tuế quân, dương nhận là hung sát, thái tuế là hung thần, thái tuế gặp được cát thần nâng đỡ, hợp thì tốt, nếu dương nhận hung sát tới xung hợp tuế quân, nghĩa là toàn là hung hội tụ sát, tai hoạ khó tránh khỏi.
Sách nói rằng: dương nhận xung, hợp tuế quân đột nhiên tai hoạ đến, đó là ý nghĩa vậy. Cũng cần phải phân tích chi tiết ở giữa, mệnh vốn mỏng manh, gặp điều này trở thành đúng, nếu mệnh vượng nắm giữ khí sâu dày, hoặc có thiên nguyệt đức cùng với xá văn để giải cứu, chỉ là không thật , cũng không có tai hoạ gì lớn. Hoặc trụ ngày vốn là có nhận, thấy xung hoặc hợp, tuế vận lại gặp xung hợp, rất hung xấu. Nếu tuế quân xung hợp mà vận không xung hợp, hay vận xung hợp mà tuế quân không xung hợp, thì luận là hoạ đó giảm xuống còn phân nửa.
Lại nói: can ngày vô khí, giờ gặp dương nhận không hung xấu. Nói rằng sanh ngày mà thiên can rơi vào đất tử tuyệt suy bệnh, bạo bại, không thông được nguyệt khí, không thể gánh vác được tài quan, nếu gặp phải dương nhận, có thể cướp đoạt tài hoá thành thất sát, thí dụ như sức lực của anh thì yếu mà tài thì nhiều, được em chia sức gánh vác, sẽ có thể vượt qua tài mà trở thành cái hữu dụng của mình, vì thế mà không luận là hung xấu. Thân nhược mà thấy tài quan, cho nên mừng dương nhận chia tài hợp sát, nếu thấy thực thần, thương quan, thân nhược bị thoát khí cũng mừng có dương nhận nâng đỡ, nếu thấy ấn thụ thì chẳng phải là can ngày vô khí. Trước nói rằng kỵ dương nhận là khi thân cường có khả năng gánh vác tài, nên không thích bị cướp đoạt; sau nói rằng thích dương nhận là khi thân nhược không đủ sức giữ tài, nên không kỵ cướp đoạt, nghĩa là mỗi trường hợp có chỗ dùng riêng. Cách này với thương quan gần giống nhau, thông thường mệnh gặp phải, chủ mắt to và râu vàng, bản chất cứng rắn tánh tình cao ngạo, không có lòng trắc ẩn thương người, có ý bóc lột không thương sót, thường có bệnh mãn tính, tham tàn không thấy đủ, tiến thối gây nghi ngờ, nhưng mà sanh ra là thường dân, xa nhà bỏ tổ, khắc cha thương tổn vợ, hoặc thấy tam hình, hoặc tự hình, khôi cương, đều phát tài ở nơi biên cương, như trái lại vô tình hoặc tài vượng thì chủ hung xấu, nếu hình hại đều có đủ, mà đều là đắc địa lại có thêm cứu tinh thì quý không thể nói.
Lại nói: cách dương nhận nói chung không thích hợp đất tài, sợ xung khởi, như ngày mậu dương nhận ở ngọ, kỵ đi vận tý là chánh tài; ngày nhâm dương nhận ở tý, kỵ đi vận ngọ là chánh tài; ngày canh dương nhận ở dậu, kỵ đi vận mão là chánh tài; chỉ ngày giáp dương nhận ở mão, đi vận tỵ ngọ hội cùng thìn tuất sửu mùi là tài không tổn hại, nhưng kỵ vận dậu; bính dương nhận ở ngọ đi vận thân dậu canh tân sửu là tài không tổn hại, nhưng kỵ vận tý. Đúng là dương nhận sợ chỗ tài, mậu dương nhận ở ngọ thấy tý là tài, nhâm dương nhận ở tý thấy ngọ là tài, canh dương nhận ở dậu thấy mão là tài tất cả đều là xung tài, cho nên kỵ, cho đến giáp dương nhận ở mão không kỵ mậu kỷ tỵ ngo là tài, nhưng lại kỵ dậu là quan tinh, bính dương nhận ở ngọ không kỵ canh tân thân dậu là tài, nhưng kỵ tý là quan, làm sao có thể nói chung là kỵ tài? Nếu thiên can là tài sanh quan, đúng là dụng thần, là nơi ưa thích, làm sao lại là kỵ?
"Tâm Cảnh" nói rằng: dương nhận trùng trùng lại thấy tài, giàu sang nhiều vàng lụa, đó là ý nghĩa vậy. Có thể nói giáp mậu canh thấy dương nhận mà gặp xung, tai hoạ thường ứng nghiệm, còn nhâm bính gặp dương nhận mà thấy tý ngọ xung, thường không có tai hoạ, vì bính thấy tý hay nhâm thấy ngọ đều là chánh quan, ngược lại luận là quý khí vậy.
Lại nói: giáp lấy kỷ làm thê tài, tứ trụ có mão ất, kỷ thổ bị thương tổn, không thể dựa vào giáp, nên chủ mất vợ con, tuế vận lại đến, kiếp, nhận vượng tướng, thành chỗ khó tránh khỏi, như ở vị trí khác mà gặp canh tân dậu thân, canh có thể đón mời ất làm vợ, tức là thành người thân, không còn là thất sát của giáp, tân giúp giáp thành quý, có khả năng khắc phá ất sát, ngược hung xấu thành tốt lành.
Sách nói rằng: "giáp gã em ất làm vợ của canh, hung xấu thành điềm tốt lành" chính là vậy. Các can còn lại chiếu theo đó.
Lại nói: sáu ngày giáp gặp phải ất mão thì hung, tân mão thì tốt, giáp thân đinh mão không phải là dương nhận: trong thân có canh hợp ất mộc trong mão là tài, nếu có tài lộ ra, cũng hung xấu; đinh hoả là thương quan, ất mộc đoạt tài, tuế vận cùng đến, tai hoạ khó tránh khỏi. Ngày ất dậu thấy giờ canh thìn chẳng phải là dương nhận, ất nhân vì canh có tân kim trong dậu, chế ất mộc trong thìn. Ngày bính tý thấy giờ giáp ngọ, chẳng phải là dương nhận, quý thuỷ trong tý khắc đinh hoả trong ngọ. Ngày đinh hợi thấy giờ đinh mùi chẳng phải dương nhận, nhâm thuỷ trong hợi hợp đinh. Ngày canh ngọ thấy giờ ất dậu chẳng phải dương nhận đinh hoả trong ngọ chế tân trong dậu. Ngày nhâm ngọ thấy giờ canh tý chẳng phải dương nhận kỷ thổ trong ngọ chế quý trong tý. Ngày tân tỵ thấy giờ mậu tuất chẳng phải dương nhận bính hoả trong tỵ hợp tân. Ngày quý tỵ thấy giờ quý sửu chẳng phải dương nhận mậu thổ trong tỵ hợp quý. Các ngày vừa kể trên đây, người nào gặp được không thích hợp thấy hình xung phá hại, không có thì đoán là mệnh tốt.
Lại nói thêm: dương nhận là hung tinh ở trên trời, là ác sát ở cõi người, thích thiên quan, ấn thụ, kỵ phản ngâm, phục ngâm, khôi cương, tam hợp, đại khái gần giống như thất sát, cho nên dương nhận thích thấy thất sát, thất sát thích thấy dương nhận, cả hai hung tinh giúp nhau chế phục, giống chánh quan thích chánh ấn, cái thiện kết hợp với cái thiện là phúc lành.
Sách nói rằng: thất sát không có dương nhận thì không vẻ vang, dương nhận không có thất sát thì không oai thế, thất sát dương nhận đều có đủ, người thường không có, thêm thân vượng mà không thấy thương quan thì tuyệt diệu, nếu mệnh vốn có thất sát và dương nhận, tuế vận lại gặp phải, hoặc có dương nhận mà không có thất sát, tuế vận gặp vận nơi thất sát, đều phát đại phúc. Như mệnh có dương nhận có ấn thụ mà không có thất sát, tuế vận gặp thất sát, ngược lại chuyển thành phúc dày. Nếu trụ không có dương nhận thất sát, mệnh hợp tài quan, tuế vận lại gặp phải dương nhận thất sát chủ một năm gian khó trì trệ, do tài bị cạnh tranh, anh em phân ly, lìa vợ bỏ thiếp, nếu vốn là không có dương nhận, đi vận dương nhận tuy không tổn hại nhưng cũng chủ các việc khắc vợ, còn vốn là có dương nhận, tuế vận nhất định không thích hợp thấy lại đất thương quan, tài, còn vốn là đới thương quan, tài tinh, tuế vận lại gặp thì tai hoạ rất nặng, thân nhược càng hung xấu.
Lại nói: nhật nhận (dương nhận ở trụ ngày) chỉ có ba ngày: mậu ngọ, bính ngọ, nhâm tý cùng một quy luật với dương nhận.
Sách nói: ngựa đỏ vàng nằm một mình, chuột đen giữ nhà trống, trai làm tổn hại vợ, gái làm tổn hại chồng chỉ có ở ba ngày này. Không thích hình xung phá hại hay tam hội lục hợp, phải có thất sát chế phục nhau, lại đi nơi quan ấn, biết ngay đó là mệnh tốt.
Phú nói rằng: nhật nhận rất kỵ xung hay hợp, thích quan sát chế phục nhau, hợp hình thì hung xấu, gặp ấn thì tốt, có thất sát mà không có dương nhận thì thực hành dũng cảm nhưng không có uy quyền; còn có dương nhận mà không có thất sát thì làm việc hỗn loạn nhưng không được vẻ vang; còn không có thất sát mà gặp phải thất sát nhất định sợ có tai hoạ xãy ra, có dương nhận gặp phải dương nhận đều kỵ tai hoạ nguy hiểm, dương nhận được sanh mà thân thì tử thì năm này khó mà coi là năm tốt, tài vượng mà quan bị thương tổn, năm đó không đoán là hung xấu.
Lại nói: ngày mậu ngọ mà trụ năm tháng thấy nhiều hoả, thì lấy ấn thụ mà luận; ngày nhâm tý mà trụ tháng giờ thấy nhiều chữ tý, thì lấy phi thiên lộc mã mà luận; bính ngọ mà thấy nhiều chữ ngọ cũng lấy đảo xung lộc mã để luận. Lại thêm tự nhận có ba ngày: quý sửu,đinh sửu (có lẽ chữ đinh sửu này dư), đinh mùi, kỷ mùi bởi vì dương nhận ngồi dưới tỷ kiên; phi nhận thì có bốn ngày: bính tý, đinh sửu, mậu tý, kỷ sửu bởi vì phần dưới xung ra dương nhận, cùng với nhật nhận ở trên giống nhau về hỷ kỵ.
Dương nhận trên trụ năm với trụ giờ rất quan trọng. Trên trụ năm chủ phá bại nền móng của ông bà, không nhận được sản nghiệp của cha mẹ, cả đời ban ơn mà ngược lại chỉ được oán hận; trên trụ giờ chủ khắc vợ con, cuối cùng không có kết quả, tứ trụ gặp lại thì anh em bị tai hoạ tật bệnh: trên trụ tháng nhẹ hơn một chút, trên trụ giờ càng nhẹ hơn. Mệnh người mà can chi tháng ngày có nhiều tài, mà nhật can suy nhược và trụ giờ dương nhận thì không có hại gì; tháng có thất sát, giờ có dương nhận, nhật chủ có khí thì rất là quý; nếu như tháng có dương nhận, trụ giờ đới quan lực không khả năng chế phục cũng là hung xấu.
Lại nói: mệnh đàn ông thấy bại kiếp lại thấy thương quan sẽ khắc vợ con, mệnh phụ nữ thì khắc chống.
Phú nói rằng: bại tài tức là sao tỷ kiên là thần cướp đoạt. Nếu tài nhiều mà thân nhược gặp được thì tốt đẹp; còn tài nhược mà thân vượng thấy được là tai hoạ, có tài gặp kiếp vận vào nơi tài, tự mình có thể làm nên sự nghiệp; không có tài mà gặp kiếp, cho dù chẳng phải năm tài cũng gặp phải phá tán; vốn có kiếp lại gặp vận kiếp, coi chừng rơi vào tuyệt lộ mà hoảng loạn, thân vượng lại thêm ấn trợ giúp sẽ được vinh hoa mà phát phúc.
"Tương Tâm Phú" nói rằng: "kiếp tài dương nhận bỏ quê đi xa lập nghiệp, hình dáng bên ngoài có vẻ như khiêm tốn và chuộng nghĩa khí, nhưng trong lòng thì rất độc ác và thiếu hiểu biết, có ý bóc lột con người mà không có lòng thương sót".
"Tâm Cảnh" nói rằng: "dương nhận trùng trùng lại thấy thất sát, chủ rất quý, thi đậu đầu bảng".
"Thiên Lý Mã" nói rằng: "dương nhận thiên quan có chế phục, gánh vác chức vụ nắm giữ binh quyền".
Lại nói rằng: "đàn ông gặp dương nhận, thân nhược gặp được thì tốt đẹp".
Lại nói rằng: "dương nhận thất sát, ra làm quan được nức tiếng".
Lại nói rằng: "dương nhận vào vận quan sát, uy trấn biên cương".
"Ngọc Hạp Phú" nói rằng: "hoả, kim dương nhận bông tai ngọc xanh lục tuyệt vọng từ lầu cao".
Lại nói rằng: "dương nhận trùng trùng ba bốn ắt phải mắc bệnh tật mù điếc".
"Kinh Thần Phú" nói rằng: " đầy bàn dương nhận nhất định sẽ bị phân thây".
"Định Chân Thiên" nói rằng: "dương nhận nếu gặp ấn thụ, cho dù giàu có nhưng bản thân bị tàn tật".
"Tạo Vi Luận" nói rằng: "dương nhận gặp ở năm con cái, nhất đinh phạm tội nặng phải bị lưu đày". Ta thấy rằng người phạm dương nhận sát thường bị mù loà, như quý dậu mậu ngọ mậu dần quý sửu; bính dần canh dần bính ngọ ất mùi; đinh mão quý mão giáp tý ất hợi cả ba mệnh đều mù loà.
Bài ca xưa viết: giờ gặp dương nhận thích thiên quan, nếu thấy tài tinh trăm mối hoạ, tuế vận xung hay hợp với nhau, đột nhiên tai hoạ đến cửa nhà.
Lại thêm: dương nhận gặp nhiều hợp có thương tổn, là người có bản chất cao ngạo, hình xung quá nhiều thường khốn ách, có chề phục mới có thể giữ được tốt lành.
Lại thêm: dương nhận gặp thất sát mộ nơi quan, chỉ sợ hình xung thì lộc không tốt đẹp, hội hợp gặp thêm vận tài vượng, đề phòng tai hoạ đến bản thân.
Lại thêm: tỷ kiên, dương nhận cách phi thường, phải thấy quan tinh với thất sát, vốn là không quan, sát chế phục, lại đi vận tỷ kiếp tai hoạ khó gánh vác.
Lại thêm: tài tinh ít mà dương nhận mạnh mẽ, nơi mà thân vượng rất là không tốt, goá phụ mồ côi oán hận trong đêm thanh, chờ tin khắc vợ đôi ba lần. (Ý là hôn nhân không bền).
Lại thêm: dương nhận gặp vận thất sát, quan hương, phá hại hình xung quý khác thường, nhất định kỵ hợp gặp đất tài vượng, ngược lại sẽ gặp tai hoạ làm thương tổn.
Lại thêm: nhật nhận cũng giống như dương nhận, thích được gặp quan tinh, thất sát, tuế quân nếu mà không thương tổn dương nhận, xung hình trên địa chi lập được chiến công.
Lại thêm: dương nhận luôn ở trước lộc, bản chất cứng cỏi, quả quyết ít có lòng nhân từ, không nên hội hợp đề phòng tai hoạ đến, nếu thấy tài tinh tai hoạ sẽ quấy nhiễu; có quan có sát công danh thông suốt, vinh diệu, không bị xung không bị phá lộc thành vẻ vang, có thêm hình hại khôi cương, hiển đạt nơi biên cương nắm giữ quyền lực lớn.
Như một mệnh: nhâm thân nhâm tý mậu ngọ ất mão tự ngồi ở dương nhận, hai chữ nhâm và thân tý, tài vượng lại nhiều, tý ngọ tuy là xung nhau, thân tý gặp ngọ không có khả năng xung, quan ở trụ giờ chế phục dương nhận, chỉ lấy tài quan cách để xem, vì thế rất quý. Lại thêm một mệnh: bính tuất quý tỵ mậu ngọ đinh tỵ, mậu quy lộc ở tỵ, ngọ tuy là dương nhận, nguyên nhân thu được lộc, lại có ấn thụ hoá nhận cho nên quý.
论阳刃(前论羊刃煞与此参看)
阳者,阴阳之阳,刃者,刀刃之刃,即禄前一位,言旺越其分,故险。窃详甲人见卯,卯中有乙木,乙为甲弟,能劫其兄之财,冲去酉中辛官,合其庚妻,庚乃甲之七煞,劫财冲官合熬,所以至凶。惟甲丙戊庚壬五阳干有刃,乙丁己辛癸五阴干无刃,故曰阳刃。惟见伤官与阳刃同祸,故乙见丙亦谓之刃,以丙伤其庚官,合辛煞,克其乙木,阴金克阴木至毒,所以凶与阳刃同。阳刃有三,有劫财刃,甲见乙是也,不利财官格,有护禄刃;甲见卯是也,大利归禄格;有背禄刃,乙丙是也,大利去官留煞局。《喜忌篇》云:劫财阳刃,切忌时逢,岁运并临,灾殃立至,独阳刃以时言,重于年月日也。假令甲日生人,时上见乙卯,此是真刃,命中既逢阳刃,伤妻破财,灾殃已胚胎矣,流年岁运再遇羊刃,是谓并临,见巳酉是冲岁君,见亥未戌是合岁君,阳刃,凶煞也,太岁,凶神也,太岁得吉神相扶,合则吉,若阳刃凶煞来冲合岁君,是谓攒凶聚煞,其祸难免。经云:阳刃冲合岁君,勃然祸至,此之谓也。中间亦要详辨,命元浅薄,遇此诚然,若命旺秉气深厚,或有天月德及赦文解救,止有浮实,亦无大咎。或日柱原有刃,见冲或合,岁运再临冲合,大凶,若岁冲合而运不冲合,运冲合而岁不冲合,其祸减半论。又曰:日干无气,时逢阳刃不为凶。言生日天元临死绝衰病暴败之地,不通月气,不能胜任财官,若逢阳刃,能劫财化煞,譬如兄力弱财重,得弟分任,则可胜其财而为我用,所以不作凶论。夫身弱见财官,固喜阳刃分财合煞,若见食伤,身弱脱气,亦喜阳刃扶持,若见印绶,则非日干无气矣。先言忌阳刃者,身强力能任财,故不喜劫夺,后言喜阳刃者,身弱力不住财,故不忌劫夺,义各有取。此格与伤官相似,凡命值之,主眼大须黄,性刚心高,无恻隐慈惠之心,有刻剥不恤之意,多带宿疾,贪暴不足,进退抓疑,偏生庶出,离祖过房,克父伤妻,或见三刑,或自刑魁罡,全发迹边疆,如更无情或临财旺,主凶,若刑害俱全,类皆得地,又有救神,贵不可言。又曰:阳刃格,大概不宜财乡,怕冲起,如戊日刃在午,忌行子正财运;壬日刃在子,忌行午正财运;庚日刃在酉,忌行卯正财运;独甲日刃在卯,行巳午并辰戌丑未财运不妨,忌酉运;丙在刃在午,行申酉庚辛丑财运不妨,忌子运。是阳刃所忌之财,戊刃午见子财,壬刃子见午财,庚刃酉见卯财,皆冲之财,故忌之,至甲刃卯不忌戊己巳午之财,且忌酉官矣,丙刃午不忌庚辛申酉之财,且忌子官矣,可概谓忌财乎?若天干生官之财,正为用神,方且喜之,岂可为忌。《心境》云:阳刃重重又见财,富贵饶金帛,此之谓也。或曰甲戊庚见刃逢冲,发祸多验,壬丙逢刃见子午冲,多无祸,以丙见子、壬见午俱为正官,反作贵气论也。又曰:甲以己为妻财,四柱却有卯乙,己土受伤,不能扶甲,故主剥丧妻子,岁运复临,劫刃旺相,诚所不免,如别位逢庚辛酉申,庚能邀乙为妻,即成眷属,不为甲之七煞,辛辅甲为贵,能克破乙煞,反凶为吉。经云:"甲以乙妹妻庚,凶为吉兆"是也。余干例此。又曰:六甲日逢乙卯凶,辛卯吉,甲申丁卯不为刃,申中有庚合卯中乙木为财,若有财露,亦凶,丁火伤官,乙木夺财,岁运并临,灾祸不免。乙酉日见庚辰时,非刃,乙坐庚下酉中辛金,制辰中乙木。丙子日见甲午时,非刃,子中癸水克午中丁火。丁亥日见丁未时,非刃,亥中午水合丁。庚午日见乙酉时,非刃,午中丁火制辛。壬午日见庚子时,非刃,午中己土制癸。辛巳日见戊戌时,非刃,巳中丙火合辛。癸巳日见癸丑时,非刃,巳中戊土合癸。以上诸日,遇者不宜见刑冲破害,无则以好命断之。
又曰:阳刃者,天上之凶星,人间之恶煞,喜偏官、印绶,忌反吟、伏吟、魁罡、三合,大率与七煞相似,故阳刃喜见七煞,七煞喜见阳刃,两凶互相制伏,犹正官喜正印,善类合善类为福。经云:煞无刃不显,刃无煞不威,煞刃俱全,常人无有,更身旺不见伤官为妙,若命元有煞刃,岁运又逢,或有刃无煞,岁运逢煞运之乡,俱发大福。如命有刃有印无煞,岁运逢煞,反转成厚福。若柱无刃煞,命合财官,岁运复遇刃煞,主一岁蹇滞,因财争竞,兄弟分居,离妻去妾,若元无刃,行刃运虽不妨,亦主有克妻之事,元有刃,岁运切不宜再见及伤官财地,原带伤官财星,岁运再逢,祸害极重,身弱尤凶。又曰:日刃止有三日,戊午、丙午、壬子,与阳刃同法。经曰:赤黄马独卧,黑鼠守空房,男妨妻,女妨夫,指此三日也。不喜刑冲破害三会六合,要有七煞相制,再行官印乡,便为好命。赋云:日刃大忌冲合,喜官煞相制,合刑者凶,遇印者吉,有煞无刃,施为有勇无威,有刃无煞,作事浊而不显,无煞遇煞,窃恐祸患相侵,有刃遇刃,须忌灾危相犯,刃生身死,其年难作吉推,财旺官伤,此岁不作凶断。又曰:戊午日,岁月见火多,则以印绶论;壬子日,月时见子多,则以飞天禄马论;丙午见午多,亦以倒冲禄马论。又自刃有三日:癸丑、丁丑、丁未、己未,因坐下比肩阳刃;飞刃有四日:丙子、丁丑、戊子、己丑,因作下冲出阳刃,与前日刃喜忌大同。
年上阳刃与时上阳刃最重,年上主破败祖基,不受父母产业,平生施恩反怨;时上主克妻子,晚无结果,四柱再逢,手足灾疾;月上稍轻,日上又轻。人命月日干支带财多,日干衰弱,时带阳刃,无害;月带七煞,时带阳刃,日主有气,大贵;如月带阳刃,时上微带官时,力不能制,亦凶。又曰:男命见败劫,又见伤官,必克妻子,女命克夫。赋云:败财者比肩之曜,劫夺之神,财多身弱,遇之为奇,财弱身旺,见之为祸,有财遇劫,运入财乡,自可成家,无财遇劫,纵非财年,亦须见破,元劫又遇劫运,守穷途而ゐ惶,身旺又加印助,必荣华而发福。
《相心赋》云:"劫财羊刃,离祖成家,外象谦和尚义,内心狠毒无知,有刻剥之意,无慈惠之心。"《心境》云:"阳刃重重又见煞,大贵,登甲科。"《千里马》云:"阳刃偏官有制,膺职掌于兵权。"又云:"男逢阳刃,身弱遇之为奇。"又云:"羊刃七煞,出仕驰名。"又云:"羊刃入官煞,威镇边疆。"《玉匣赋》云:"火金阳刃,绿珠坠死于高楼"。又云:"阳刃重重三四,必须患疾盲聋。"《惊神赋》云:"满盘阳刃,必定分尸。"《定真篇》云:"阳刃若逢印绶,纵富而残疾在身。"《造微论》云:"阳刃逢于五息,定要重犯徒流。"余见犯羊刃煞者多瞽,如癸酉、戊午、戊寅、癸丑;丙寅、庚寅、丙午、乙未;丁卯、癸卯、甲子、乙亥,三命皆无目。
古歌曰:时逢阳刃喜偏官,若见财星祸百端,岁运相冲并相合,勃然兴祸至门阑。又:阳刃重逢合有伤,主人心性气高强,刑冲太重多凶厄,有制方能保吉昌。又:刃逢七煞慕官乡,惟怕刑冲禄不昌,会合更逢财旺运,预防灾祸致身殃。又:比肩阳刃格非常,要见官星与煞乡,元辰若无官煞制,再行比劫祸难当。又:财星轻弱刃刚强,身旺之乡大不祥,凤寡鸾孤清夜怨,等闻妻克两三双。又:刃逢七煞运官乡,破害刑冲贵异常,切忌合逢财旺地,必遭灾祸反刑伤。又:日刃还如羊刃同,官星七煞喜支逢,岁君若也无伤刃,支上冲刑立武功。又:羊刃常居在禄前,性刚果毅少慈怜,不宜会合防灾至,若见财星祸必缠;有官有煞名显达,无冲无破禄荣迁,更加刑害魁罡并,发迹边疆掌重权。
如一命:壬申、壬子、戊午、乙卯,自坐阳刃,二壬申子,财旺且多,子午虽冲,申子会午不能冲,时官制伏阳刃,只作财官格看,所以大贵。又一命:丙戌、癸巳、戊午、丁巳,戊归禄巳,午虽羊刃,所以获禄,又印绶化刃,故贵。
.
Luận Dương Nhận (Tiền Luận Dương Nhận Sát Dữ Thử Tham Khán)
Dương là dương của âm dương, nhận là sắc bén của lưỡi đao, tức là trước lộc một vị trí, nói rằng vượng vượt qua phận mình, cho nên nguy hiểm. Kẻ cắp người giáp thấy mão vì trong mão có ất mộc, ất là em của giáp, có khả năng cướp đoạt tài của anh mình, xung mất dậu trong tân quan, hợp làm vợ của canh, canh chính là thất sát của giáp, kiếp tài xung quan hợp ngao (có lẽ là chữ sát 煞 thay vì chữ ngao 熬. Vì bính là sát của giáp mà bính hợp tân) vì thế mà rất hung xấu. Chỉ năm can dương giáp bính mậu canh nhâm mới có nhận, còn năm can âm ất đinh kỷ tân quý thì không có nhận, vì thế mới gọi là dương nhận. Chỉ thấy thương quan với dương nhận thì hoạ giống nhau, cho nên ất thấy bính cũng gọi là nhận, vì bính thương tổn canh là quan của ất, hợp tân sát khắc ất mộc, âm kim mà khắc âm mộc thì rất độc, vì thế hung xấu với dương nhận giống nhau. Dương nhận có ba: có kiếp tài nhận như là giáp thấy ất, không có lợi cho cách tài quan; có hộ lộc nhận như là giáp thấy mão rất là có lợi cho quy lộc cách; có bối lộc nhận như là ất bính rất có lợi trong cách khử bỏ quan mà lưu giữ sát.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: kiếp tài, dương nhận rất kỵ lúc gặp, tuế vận cùng đến, tai hoạ lập tức xãy đến, chỉ dương nhận lấy thời gian mà nói, quan trọng ở năm tháng và ngày. Thí dụ người sanh ngày giáp, trên trụ giờ thấy ất mão, đấy là nhận thật sự, đã gặp phải dương nhận trong mệnh, thương tổn vợ phá tài, tai hoạ đã có từ lúc bào thai rồi, lưu niên thái tuế vận gặp lại dương nhận nghĩa là cùng hội tụ đến, thấy tỵ dậu là xung tuế quân, thấy hợi mùi tuất là hợp tuế quân, dương nhận là hung sát, thái tuế là hung thần, thái tuế gặp được cát thần nâng đỡ, hợp thì tốt, nếu dương nhận hung sát tới xung hợp tuế quân, nghĩa là toàn là hung hội tụ sát, tai hoạ khó tránh khỏi.
Sách nói rằng: dương nhận xung, hợp tuế quân đột nhiên tai hoạ đến, đó là ý nghĩa vậy. Cũng cần phải phân tích chi tiết ở giữa, mệnh vốn mỏng manh, gặp điều này trở thành đúng, nếu mệnh vượng nắm giữ khí sâu dày, hoặc có thiên nguyệt đức cùng với xá văn để giải cứu, chỉ là không thật , cũng không có tai hoạ gì lớn. Hoặc trụ ngày vốn là có nhận, thấy xung hoặc hợp, tuế vận lại gặp xung hợp, rất hung xấu. Nếu tuế quân xung hợp mà vận không xung hợp, hay vận xung hợp mà tuế quân không xung hợp, thì luận là hoạ đó giảm xuống còn phân nửa.
Lại nói: can ngày vô khí, giờ gặp dương nhận không hung xấu. Nói rằng sanh ngày mà thiên can rơi vào đất tử tuyệt suy bệnh, bạo bại, không thông được nguyệt khí, không thể gánh vác được tài quan, nếu gặp phải dương nhận, có thể cướp đoạt tài hoá thành thất sát, thí dụ như sức lực của anh thì yếu mà tài thì nhiều, được em chia sức gánh vác, sẽ có thể vượt qua tài mà trở thành cái hữu dụng của mình, vì thế mà không luận là hung xấu. Thân nhược mà thấy tài quan, cho nên mừng dương nhận chia tài hợp sát, nếu thấy thực thần, thương quan, thân nhược bị thoát khí cũng mừng có dương nhận nâng đỡ, nếu thấy ấn thụ thì chẳng phải là can ngày vô khí. Trước nói rằng kỵ dương nhận là khi thân cường có khả năng gánh vác tài, nên không thích bị cướp đoạt; sau nói rằng thích dương nhận là khi thân nhược không đủ sức giữ tài, nên không kỵ cướp đoạt, nghĩa là mỗi trường hợp có chỗ dùng riêng. Cách này với thương quan gần giống nhau, thông thường mệnh gặp phải, chủ mắt to và râu vàng, bản chất cứng rắn tánh tình cao ngạo, không có lòng trắc ẩn thương người, có ý bóc lột không thương sót, thường có bệnh mãn tính, tham tàn không thấy đủ, tiến thối gây nghi ngờ, nhưng mà sanh ra là thường dân, xa nhà bỏ tổ, khắc cha thương tổn vợ, hoặc thấy tam hình, hoặc tự hình, khôi cương, đều phát tài ở nơi biên cương, như trái lại vô tình hoặc tài vượng thì chủ hung xấu, nếu hình hại đều có đủ, mà đều là đắc địa lại có thêm cứu tinh thì quý không thể nói.
Lại nói: cách dương nhận nói chung không thích hợp đất tài, sợ xung khởi, như ngày mậu dương nhận ở ngọ, kỵ đi vận tý là chánh tài; ngày nhâm dương nhận ở tý, kỵ đi vận ngọ là chánh tài; ngày canh dương nhận ở dậu, kỵ đi vận mão là chánh tài; chỉ ngày giáp dương nhận ở mão, đi vận tỵ ngọ hội cùng thìn tuất sửu mùi là tài không tổn hại, nhưng kỵ vận dậu; bính dương nhận ở ngọ đi vận thân dậu canh tân sửu là tài không tổn hại, nhưng kỵ vận tý. Đúng là dương nhận sợ chỗ tài, mậu dương nhận ở ngọ thấy tý là tài, nhâm dương nhận ở tý thấy ngọ là tài, canh dương nhận ở dậu thấy mão là tài tất cả đều là xung tài, cho nên kỵ, cho đến giáp dương nhận ở mão không kỵ mậu kỷ tỵ ngo là tài, nhưng lại kỵ dậu là quan tinh, bính dương nhận ở ngọ không kỵ canh tân thân dậu là tài, nhưng kỵ tý là quan, làm sao có thể nói chung là kỵ tài? Nếu thiên can là tài sanh quan, đúng là dụng thần, là nơi ưa thích, làm sao lại là kỵ?
"Tâm Cảnh" nói rằng: dương nhận trùng trùng lại thấy tài, giàu sang nhiều vàng lụa, đó là ý nghĩa vậy. Có thể nói giáp mậu canh thấy dương nhận mà gặp xung, tai hoạ thường ứng nghiệm, còn nhâm bính gặp dương nhận mà thấy tý ngọ xung, thường không có tai hoạ, vì bính thấy tý hay nhâm thấy ngọ đều là chánh quan, ngược lại luận là quý khí vậy.
Lại nói: giáp lấy kỷ làm thê tài, tứ trụ có mão ất, kỷ thổ bị thương tổn, không thể dựa vào giáp, nên chủ mất vợ con, tuế vận lại đến, kiếp, nhận vượng tướng, thành chỗ khó tránh khỏi, như ở vị trí khác mà gặp canh tân dậu thân, canh có thể đón mời ất làm vợ, tức là thành người thân, không còn là thất sát của giáp, tân giúp giáp thành quý, có khả năng khắc phá ất sát, ngược hung xấu thành tốt lành.
Sách nói rằng: "giáp gã em ất làm vợ của canh, hung xấu thành điềm tốt lành" chính là vậy. Các can còn lại chiếu theo đó.
Lại nói: sáu ngày giáp gặp phải ất mão thì hung, tân mão thì tốt, giáp thân đinh mão không phải là dương nhận: trong thân có canh hợp ất mộc trong mão là tài, nếu có tài lộ ra, cũng hung xấu; đinh hoả là thương quan, ất mộc đoạt tài, tuế vận cùng đến, tai hoạ khó tránh khỏi. Ngày ất dậu thấy giờ canh thìn chẳng phải là dương nhận, ất nhân vì canh có tân kim trong dậu, chế ất mộc trong thìn. Ngày bính tý thấy giờ giáp ngọ, chẳng phải là dương nhận, quý thuỷ trong tý khắc đinh hoả trong ngọ. Ngày đinh hợi thấy giờ đinh mùi chẳng phải dương nhận, nhâm thuỷ trong hợi hợp đinh. Ngày canh ngọ thấy giờ ất dậu chẳng phải dương nhận đinh hoả trong ngọ chế tân trong dậu. Ngày nhâm ngọ thấy giờ canh tý chẳng phải dương nhận kỷ thổ trong ngọ chế quý trong tý. Ngày tân tỵ thấy giờ mậu tuất chẳng phải dương nhận bính hoả trong tỵ hợp tân. Ngày quý tỵ thấy giờ quý sửu chẳng phải dương nhận mậu thổ trong tỵ hợp quý. Các ngày vừa kể trên đây, người nào gặp được không thích hợp thấy hình xung phá hại, không có thì đoán là mệnh tốt.
Lại nói thêm: dương nhận là hung tinh ở trên trời, là ác sát ở cõi người, thích thiên quan, ấn thụ, kỵ phản ngâm, phục ngâm, khôi cương, tam hợp, đại khái gần giống như thất sát, cho nên dương nhận thích thấy thất sát, thất sát thích thấy dương nhận, cả hai hung tinh giúp nhau chế phục, giống chánh quan thích chánh ấn, cái thiện kết hợp với cái thiện là phúc lành.
Sách nói rằng: thất sát không có dương nhận thì không vẻ vang, dương nhận không có thất sát thì không oai thế, thất sát dương nhận đều có đủ, người thường không có, thêm thân vượng mà không thấy thương quan thì tuyệt diệu, nếu mệnh vốn có thất sát và dương nhận, tuế vận lại gặp phải, hoặc có dương nhận mà không có thất sát, tuế vận gặp vận nơi thất sát, đều phát đại phúc. Như mệnh có dương nhận có ấn thụ mà không có thất sát, tuế vận gặp thất sát, ngược lại chuyển thành phúc dày. Nếu trụ không có dương nhận thất sát, mệnh hợp tài quan, tuế vận lại gặp phải dương nhận thất sát chủ một năm gian khó trì trệ, do tài bị cạnh tranh, anh em phân ly, lìa vợ bỏ thiếp, nếu vốn là không có dương nhận, đi vận dương nhận tuy không tổn hại nhưng cũng chủ các việc khắc vợ, còn vốn là có dương nhận, tuế vận nhất định không thích hợp thấy lại đất thương quan, tài, còn vốn là đới thương quan, tài tinh, tuế vận lại gặp thì tai hoạ rất nặng, thân nhược càng hung xấu.
Lại nói: nhật nhận (dương nhận ở trụ ngày) chỉ có ba ngày: mậu ngọ, bính ngọ, nhâm tý cùng một quy luật với dương nhận.
Sách nói: ngựa đỏ vàng nằm một mình, chuột đen giữ nhà trống, trai làm tổn hại vợ, gái làm tổn hại chồng chỉ có ở ba ngày này. Không thích hình xung phá hại hay tam hội lục hợp, phải có thất sát chế phục nhau, lại đi nơi quan ấn, biết ngay đó là mệnh tốt.
Phú nói rằng: nhật nhận rất kỵ xung hay hợp, thích quan sát chế phục nhau, hợp hình thì hung xấu, gặp ấn thì tốt, có thất sát mà không có dương nhận thì thực hành dũng cảm nhưng không có uy quyền; còn có dương nhận mà không có thất sát thì làm việc hỗn loạn nhưng không được vẻ vang; còn không có thất sát mà gặp phải thất sát nhất định sợ có tai hoạ xãy ra, có dương nhận gặp phải dương nhận đều kỵ tai hoạ nguy hiểm, dương nhận được sanh mà thân thì tử thì năm này khó mà coi là năm tốt, tài vượng mà quan bị thương tổn, năm đó không đoán là hung xấu.
Lại nói: ngày mậu ngọ mà trụ năm tháng thấy nhiều hoả, thì lấy ấn thụ mà luận; ngày nhâm tý mà trụ tháng giờ thấy nhiều chữ tý, thì lấy phi thiên lộc mã mà luận; bính ngọ mà thấy nhiều chữ ngọ cũng lấy đảo xung lộc mã để luận. Lại thêm tự nhận có ba ngày: quý sửu,
Dương nhận trên trụ năm với trụ giờ rất quan trọng. Trên trụ năm chủ phá bại nền móng của ông bà, không nhận được sản nghiệp của cha mẹ, cả đời ban ơn mà ngược lại chỉ được oán hận; trên trụ giờ chủ khắc vợ con, cuối cùng không có kết quả, tứ trụ gặp lại thì anh em bị tai hoạ tật bệnh: trên trụ tháng nhẹ hơn một chút, trên trụ giờ càng nhẹ hơn. Mệnh người mà can chi tháng ngày có nhiều tài, mà nhật can suy nhược và trụ giờ dương nhận thì không có hại gì; tháng có thất sát, giờ có dương nhận, nhật chủ có khí thì rất là quý; nếu như tháng có dương nhận, trụ giờ đới quan lực không khả năng chế phục cũng là hung xấu.
Lại nói: mệnh đàn ông thấy bại kiếp lại thấy thương quan sẽ khắc vợ con, mệnh phụ nữ thì khắc chống.
Phú nói rằng: bại tài tức là sao tỷ kiên là thần cướp đoạt. Nếu tài nhiều mà thân nhược gặp được thì tốt đẹp; còn tài nhược mà thân vượng thấy được là tai hoạ, có tài gặp kiếp vận vào nơi tài, tự mình có thể làm nên sự nghiệp; không có tài mà gặp kiếp, cho dù chẳng phải năm tài cũng gặp phải phá tán; vốn có kiếp lại gặp vận kiếp, coi chừng rơi vào tuyệt lộ mà hoảng loạn, thân vượng lại thêm ấn trợ giúp sẽ được vinh hoa mà phát phúc.
"Tương Tâm Phú" nói rằng: "kiếp tài dương nhận bỏ quê đi xa lập nghiệp, hình dáng bên ngoài có vẻ như khiêm tốn và chuộng nghĩa khí, nhưng trong lòng thì rất độc ác và thiếu hiểu biết, có ý bóc lột con người mà không có lòng thương sót".
"Tâm Cảnh" nói rằng: "dương nhận trùng trùng lại thấy thất sát, chủ rất quý, thi đậu đầu bảng".
"Thiên Lý Mã" nói rằng: "dương nhận thiên quan có chế phục, gánh vác chức vụ nắm giữ binh quyền".
Lại nói rằng: "đàn ông gặp dương nhận, thân nhược gặp được thì tốt đẹp".
Lại nói rằng: "dương nhận thất sát, ra làm quan được nức tiếng".
Lại nói rằng: "dương nhận vào vận quan sát, uy trấn biên cương".
"Ngọc Hạp Phú" nói rằng: "hoả, kim dương nhận bông tai ngọc xanh lục tuyệt vọng từ lầu cao".
Lại nói rằng: "dương nhận trùng trùng ba bốn ắt phải mắc bệnh tật mù điếc".
"Kinh Thần Phú" nói rằng: " đầy bàn dương nhận nhất định sẽ bị phân thây".
"Định Chân Thiên" nói rằng: "dương nhận nếu gặp ấn thụ, cho dù giàu có nhưng bản thân bị tàn tật".
"Tạo Vi Luận" nói rằng: "dương nhận gặp ở năm con cái, nhất đinh phạm tội nặng phải bị lưu đày". Ta thấy rằng người phạm dương nhận sát thường bị mù loà, như quý dậu mậu ngọ mậu dần quý sửu; bính dần canh dần bính ngọ ất mùi; đinh mão quý mão giáp tý ất hợi cả ba mệnh đều mù loà.
Bài ca xưa viết: giờ gặp dương nhận thích thiên quan, nếu thấy tài tinh trăm mối hoạ, tuế vận xung hay hợp với nhau, đột nhiên tai hoạ đến cửa nhà.
Lại thêm: dương nhận gặp nhiều hợp có thương tổn, là người có bản chất cao ngạo, hình xung quá nhiều thường khốn ách, có chề phục mới có thể giữ được tốt lành.
Lại thêm: dương nhận gặp thất sát mộ nơi quan, chỉ sợ hình xung thì lộc không tốt đẹp, hội hợp gặp thêm vận tài vượng, đề phòng tai hoạ đến bản thân.
Lại thêm: tỷ kiên, dương nhận cách phi thường, phải thấy quan tinh với thất sát, vốn là không quan, sát chế phục, lại đi vận tỷ kiếp tai hoạ khó gánh vác.
Lại thêm: tài tinh ít mà dương nhận mạnh mẽ, nơi mà thân vượng rất là không tốt, goá phụ mồ côi oán hận trong đêm thanh, chờ tin khắc vợ đôi ba lần. (Ý là hôn nhân không bền).
Lại thêm: dương nhận gặp vận thất sát, quan hương, phá hại hình xung quý khác thường, nhất định kỵ hợp gặp đất tài vượng, ngược lại sẽ gặp tai hoạ làm thương tổn.
Lại thêm: nhật nhận cũng giống như dương nhận, thích được gặp quan tinh, thất sát, tuế quân nếu mà không thương tổn dương nhận, xung hình trên địa chi lập được chiến công.
Lại thêm: dương nhận luôn ở trước lộc, bản chất cứng cỏi, quả quyết ít có lòng nhân từ, không nên hội hợp đề phòng tai hoạ đến, nếu thấy tài tinh tai hoạ sẽ quấy nhiễu; có quan có sát công danh thông suốt, vinh diệu, không bị xung không bị phá lộc thành vẻ vang, có thêm hình hại khôi cương, hiển đạt nơi biên cương nắm giữ quyền lực lớn.
Như một mệnh: nhâm thân nhâm tý mậu ngọ ất mão tự ngồi ở dương nhận, hai chữ nhâm và thân tý, tài vượng lại nhiều, tý ngọ tuy là xung nhau, thân tý gặp ngọ không có khả năng xung, quan ở trụ giờ chế phục dương nhận, chỉ lấy tài quan cách để xem, vì thế rất quý. Lại thêm một mệnh: bính tuất quý tỵ mậu ngọ đinh tỵ, mậu quy lộc ở tỵ, ngọ tuy là dương nhận, nguyên nhân thu được lộc, lại có ấn thụ hoá nhận cho nên quý.
论阳刃(前论羊刃煞与此参看)
阳者,阴阳之阳,刃者,刀刃之刃,即禄前一位,言旺越其分,故险。窃详甲人见卯,卯中有乙木,乙为甲弟,能劫其兄之财,冲去酉中辛官,合其庚妻,庚乃甲之七煞,劫财冲官合熬,所以至凶。惟甲丙戊庚壬五阳干有刃,乙丁己辛癸五阴干无刃,故曰阳刃。惟见伤官与阳刃同祸,故乙见丙亦谓之刃,以丙伤其庚官,合辛煞,克其乙木,阴金克阴木至毒,所以凶与阳刃同。阳刃有三,有劫财刃,甲见乙是也,不利财官格,有护禄刃;甲见卯是也,大利归禄格;有背禄刃,乙丙是也,大利去官留煞局。《喜忌篇》云:劫财阳刃,切忌时逢,岁运并临,灾殃立至,独阳刃以时言,重于年月日也。假令甲日生人,时上见乙卯,此是真刃,命中既逢阳刃,伤妻破财,灾殃已胚胎矣,流年岁运再遇羊刃,是谓并临,见巳酉是冲岁君,见亥未戌是合岁君,阳刃,凶煞也,太岁,凶神也,太岁得吉神相扶,合则吉,若阳刃凶煞来冲合岁君,是谓攒凶聚煞,其祸难免。经云:阳刃冲合岁君,勃然祸至,此之谓也。中间亦要详辨,命元浅薄,遇此诚然,若命旺秉气深厚,或有天月德及赦文解救,止有浮实,亦无大咎。或日柱原有刃,见冲或合,岁运再临冲合,大凶,若岁冲合而运不冲合,运冲合而岁不冲合,其祸减半论。又曰:日干无气,时逢阳刃不为凶。言生日天元临死绝衰病暴败之地,不通月气,不能胜任财官,若逢阳刃,能劫财化煞,譬如兄力弱财重,得弟分任,则可胜其财而为我用,所以不作凶论。夫身弱见财官,固喜阳刃分财合煞,若见食伤,身弱脱气,亦喜阳刃扶持,若见印绶,则非日干无气矣。先言忌阳刃者,身强力能任财,故不喜劫夺,后言喜阳刃者,身弱力不住财,故不忌劫夺,义各有取。此格与伤官相似,凡命值之,主眼大须黄,性刚心高,无恻隐慈惠之心,有刻剥不恤之意,多带宿疾,贪暴不足,进退抓疑,偏生庶出,离祖过房,克父伤妻,或见三刑,或自刑魁罡,全发迹边疆,如更无情或临财旺,主凶,若刑害俱全,类皆得地,又有救神,贵不可言。又曰:阳刃格,大概不宜财乡,怕冲起,如戊日刃在午,忌行子正财运;壬日刃在子,忌行午正财运;庚日刃在酉,忌行卯正财运;独甲日刃在卯,行巳午并辰戌丑未财运不妨,忌酉运;丙在刃在午,行申酉庚辛丑财运不妨,忌子运。是阳刃所忌之财,戊刃午见子财,壬刃子见午财,庚刃酉见卯财,皆冲之财,故忌之,至甲刃卯不忌戊己巳午之财,且忌酉官矣,丙刃午不忌庚辛申酉之财,且忌子官矣,可概谓忌财乎?若天干生官之财,正为用神,方且喜之,岂可为忌。《心境》云:阳刃重重又见财,富贵饶金帛,此之谓也。或曰甲戊庚见刃逢冲,发祸多验,壬丙逢刃见子午冲,多无祸,以丙见子、壬见午俱为正官,反作贵气论也。又曰:甲以己为妻财,四柱却有卯乙,己土受伤,不能扶甲,故主剥丧妻子,岁运复临,劫刃旺相,诚所不免,如别位逢庚辛酉申,庚能邀乙为妻,即成眷属,不为甲之七煞,辛辅甲为贵,能克破乙煞,反凶为吉。经云:"甲以乙妹妻庚,凶为吉兆"是也。余干例此。又曰:六甲日逢乙卯凶,辛卯吉,甲申丁卯不为刃,申中有庚合卯中乙木为财,若有财露,亦凶,丁火伤官,乙木夺财,岁运并临,灾祸不免。乙酉日见庚辰时,非刃,乙坐庚下酉中辛金,制辰中乙木。丙子日见甲午时,非刃,子中癸水克午中丁火。丁亥日见丁未时,非刃,亥中午水合丁。庚午日见乙酉时,非刃,午中丁火制辛。壬午日见庚子时,非刃,午中己土制癸。辛巳日见戊戌时,非刃,巳中丙火合辛。癸巳日见癸丑时,非刃,巳中戊土合癸。以上诸日,遇者不宜见刑冲破害,无则以好命断之。
又曰:阳刃者,天上之凶星,人间之恶煞,喜偏官、印绶,忌反吟、伏吟、魁罡、三合,大率与七煞相似,故阳刃喜见七煞,七煞喜见阳刃,两凶互相制伏,犹正官喜正印,善类合善类为福。经云:煞无刃不显,刃无煞不威,煞刃俱全,常人无有,更身旺不见伤官为妙,若命元有煞刃,岁运又逢,或有刃无煞,岁运逢煞运之乡,俱发大福。如命有刃有印无煞,岁运逢煞,反转成厚福。若柱无刃煞,命合财官,岁运复遇刃煞,主一岁蹇滞,因财争竞,兄弟分居,离妻去妾,若元无刃,行刃运虽不妨,亦主有克妻之事,元有刃,岁运切不宜再见及伤官财地,原带伤官财星,岁运再逢,祸害极重,身弱尤凶。又曰:日刃止有三日,戊午、丙午、壬子,与阳刃同法。经曰:赤黄马独卧,黑鼠守空房,男妨妻,女妨夫,指此三日也。不喜刑冲破害三会六合,要有七煞相制,再行官印乡,便为好命。赋云:日刃大忌冲合,喜官煞相制,合刑者凶,遇印者吉,有煞无刃,施为有勇无威,有刃无煞,作事浊而不显,无煞遇煞,窃恐祸患相侵,有刃遇刃,须忌灾危相犯,刃生身死,其年难作吉推,财旺官伤,此岁不作凶断。又曰:戊午日,岁月见火多,则以印绶论;壬子日,月时见子多,则以飞天禄马论;丙午见午多,亦以倒冲禄马论。又自刃有三日:癸丑、丁丑、丁未、己未,因坐下比肩阳刃;飞刃有四日:丙子、丁丑、戊子、己丑,因作下冲出阳刃,与前日刃喜忌大同。
年上阳刃与时上阳刃最重,年上主破败祖基,不受父母产业,平生施恩反怨;时上主克妻子,晚无结果,四柱再逢,手足灾疾;月上稍轻,日上又轻。人命月日干支带财多,日干衰弱,时带阳刃,无害;月带七煞,时带阳刃,日主有气,大贵;如月带阳刃,时上微带官时,力不能制,亦凶。又曰:男命见败劫,又见伤官,必克妻子,女命克夫。赋云:败财者比肩之曜,劫夺之神,财多身弱,遇之为奇,财弱身旺,见之为祸,有财遇劫,运入财乡,自可成家,无财遇劫,纵非财年,亦须见破,元劫又遇劫运,守穷途而ゐ惶,身旺又加印助,必荣华而发福。
《相心赋》云:"劫财羊刃,离祖成家,外象谦和尚义,内心狠毒无知,有刻剥之意,无慈惠之心。"《心境》云:"阳刃重重又见煞,大贵,登甲科。"《千里马》云:"阳刃偏官有制,膺职掌于兵权。"又云:"男逢阳刃,身弱遇之为奇。"又云:"羊刃七煞,出仕驰名。"又云:"羊刃入官煞,威镇边疆。"《玉匣赋》云:"火金阳刃,绿珠坠死于高楼"。又云:"阳刃重重三四,必须患疾盲聋。"《惊神赋》云:"满盘阳刃,必定分尸。"《定真篇》云:"阳刃若逢印绶,纵富而残疾在身。"《造微论》云:"阳刃逢于五息,定要重犯徒流。"余见犯羊刃煞者多瞽,如癸酉、戊午、戊寅、癸丑;丙寅、庚寅、丙午、乙未;丁卯、癸卯、甲子、乙亥,三命皆无目。
古歌曰:时逢阳刃喜偏官,若见财星祸百端,岁运相冲并相合,勃然兴祸至门阑。又:阳刃重逢合有伤,主人心性气高强,刑冲太重多凶厄,有制方能保吉昌。又:刃逢七煞慕官乡,惟怕刑冲禄不昌,会合更逢财旺运,预防灾祸致身殃。又:比肩阳刃格非常,要见官星与煞乡,元辰若无官煞制,再行比劫祸难当。又:财星轻弱刃刚强,身旺之乡大不祥,凤寡鸾孤清夜怨,等闻妻克两三双。又:刃逢七煞运官乡,破害刑冲贵异常,切忌合逢财旺地,必遭灾祸反刑伤。又:日刃还如羊刃同,官星七煞喜支逢,岁君若也无伤刃,支上冲刑立武功。又:羊刃常居在禄前,性刚果毅少慈怜,不宜会合防灾至,若见财星祸必缠;有官有煞名显达,无冲无破禄荣迁,更加刑害魁罡并,发迹边疆掌重权。
如一命:壬申、壬子、戊午、乙卯,自坐阳刃,二壬申子,财旺且多,子午虽冲,申子会午不能冲,时官制伏阳刃,只作财官格看,所以大贵。又一命:丙戌、癸巳、戊午、丁巳,戊归禄巳,午虽羊刃,所以获禄,又印绶化刃,故贵。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#190
Gửi vào 11/07/2024 - 10:23
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Luận Kiến Lộc (Thử Dữ Tiền Luận Lộc Đồng Tham)
Kiến lộc chính là ngày giáp tháng dần, ngày ất tháng mão tức là vị trí lâm quan của ngũ hành. Giáp lấy kim làm quan mà kim tuyệt ở dần, lấy thổ làm tài mà thổ bệnh ở dần, vì thân quá vượng mà tài quan đều không có được, nếu không có tài quan khác để chọn lấy, lại gặp cướp đoạt, mã đã không nâng đỡ, lộc lại không nuôi dưỡng, thường chủ nghèo hèn. Có phần thích hợp khi trụ giờ đới thiên quan, thiên tài hoặc thực thần, cần xem thêm cái lộ ra trên trụ năm hay giờ mà chọn dụng thần, nếu thấy qua loa tài quan, ngược lại tranh đoạt thì không tốt. Hễ mệnh kiến lộc, khó nhận được tổ nghiệp, nhất định cả đời khống thấy tích trữ tiền bạc được, nhưng ít bệnh tật tuổi thọ dài, đi vận gặp lại tỷ kiên, khắc vợ làm hại cha mẹ và ác với con cái, hoặc phá tài vì phạm pháp, hoặc vợ con tranh đoạt tiền của. Nếu như bát tự trong ngoài vốn có tài quan vượng hay đắc địa, quan tinh có trợ giúp, vận đến đất của quan có khí cũng quý; tài tinh có trợ giúp vận đến đất tài vượng, cũng giàu có; tài quan đều vượng chính là mệnh giàu sang. Nếu trụ giờ gặp khố của tài, vận đến nơi của tài, chủ tuổi già sẽ rất giàu có. Trên trụ năm tài quan có trợ giúp, sẽ hưởng được phúc trạch của tổ tiên để lại. Nếu tứ trụ vốn không có tài quan, cho dù đi vận đất tài quan, cũng chỉ là cái đẹp hư ảo mà thôi. Mệnh không có tài quan, tuế vận lại đi tỷ kiên, cả đời nghèo khó.
Phú nói rằng: rễ có trước mầm, quả có sau hoa. Nói trước có rễ tất nhiên sau đó sẽ nuôi mầm, có hoa tất nhiên sau đó sẽ thành trái. Nếu năm sanh không có tài quan, tuy gặp vận tài quan tốt, phát phúc mà không to lớn.
- Nếu như ngày giáp sanh tháng dần: trong trụ có nhiều chữ ất mão mùi, chủ không có tài sản của tổ tiên, khắc vợ, một đời nghèo khổ cô đơn, làm việc gian dối, tạo ra hình dạng người cao cả.
- Ngày ất sanh tháng mão: trụ có nhiều những chữ canh tân tỵ dậu sửu thân cùng với mậu kỷ tỵ ngọ thìn tuất thì tài quan nhiều sẽ quý, nhâm quý thân tý thìn hợi thuỷ thành ấn cục cũng tốt đẹp, thêm vận gặp được thì càng tuyệt diệu, nếu trụ không thấy tài quan ấn thực, đoán giống ở phần trước.
- Ngày bính sanh tháng tỵ: thiên can địa chi trụ năm trụ giờ thuỷ kim thành cục, vận trải qua đất tài quan vượng, cũng chủ giàu sang.
- Ngày đinh sanh tháng ngọ: kim bại thuỷ tuyệt, tài quan đều bỏ đi, vận thuận thì khắc vợ, mà vận nghịch lại khắc ba người vợ, nếu trụ có những chữ tỵ dậu sửu canh tân nhâm quý hợi thân tý thìn, vận đến đất tài quan vượng cũng phát, dụng thần là sát hoặc ấn, vì thường là quý, nếu chỉ thấy lộc cũng đoán giống phần trước.
- Ngày mậu sanh tháng tỵ: năm ngày giờ không có thuỷ, chủ khắc vợ, không có tài sản của tố tiên, con thường không được như cha thường hư hỏng, trong trụ có nhiều quan sẽ tốt, như thấy thiên quan chủ tôn quý, năm tháng nếu là hoả nhiều hoặc ấn thụ, tuy không có tài quan chủ tốt lành, nếu trong trụ ẩn tàng hay hiển lộ nhâm quý hợi thân tý thìn thuỷ cục, có con muộn một hoặc hai đứa, có giáp dần ất mão hợi mùi mộc cục, vận đến đất tài quan vượng cũng phát.
- Ngày kỷ sanh tháng ngọ: lấy nhâm thuỷ làm tài, tháng năm thuỷ tù, chủ không có sản nghiệp của tổ tiên, khắc vợ, con cũng không nhiều, năm giờ lộ ra dần giáp là chánh quan, tháng năm giáp tử (chết), quan chức sẽ thấp nhỏ, thích thấy hợi mão mùi ất, thân vượng thấy quan sát thì tốt đẹp, thiên tài cũng đẹp.
- Ngày canh sanh tháng thân: sanh vào tuần đầu tháng, mộc còn dư khí, không lấy được tài sản của tổ tiên, tuy tiết khí đến nơi thuỷ tuyệt, vẫn còn ba bốn phần kho tài là phúc rồi, vận đến bính tuất thì không còn chút tài nào, nếu năm ngày giờ thường đới tài, xem là mệnh tốt, thấy bính đinh tỵ ngọ dần tuất hoả cục sẽ có quan, vì sát hoá quan, chức quan nhỏ cũng không rõ ràng, sợ nhâm quý hợi tý khắc quan không thành.
- Ngày tân sanh tháng dậu: không có tài sản của tổ tiên, trong trụ thường thấy tranh đoạt thì nghèo khó không có vợ hoặc khắc vợ không có tài sản, nếu có mộc hoả sanh vượng lại trở nên giàu sang, vốn không có tài quan, lại đi sanh địa thì tai hoạ cướp đoạt càng nghiêm trọng, hoặc thấy tân dậu sẽ là chuyên lộc, có thêm tài quan ấn thực, tuế vận lại gặp càng tốt, vận nghịch về phương nam sẽ tốt lành, vận thuận phương bắc trăm sự đều không thành công, nếu ngày tân mão, tân mùi là thân tự ngồi ở tài, hứa sẽ có y lộc, ngày tân tỵ được quý trọng, quan lộc cũng nhỏ.
- Ngày nhâm sanh tháng hợi, ngày quý sanh tháng tý: đều không có sản nghiệp của tổ tiên, trong trụ thường thấy hoả thổ chủ bản thân tự lập mà có chức quan, nếu như thấy thuỷ thường trôi nổi không thành công, khắc vợ, nghèo khổ.
Lại nói: ngày giáp tháng dần nên giờ nhâm thân; ngày ất tháng mão nên giờ tân tỵ; ngày bính tháng tỵ nên giờ kỷ hợi; ngày đinh tháng ngọ nên giờ canh tý; ngày mậu tháng tỵ nên giờ giáp dần; ngày kỷ tháng ngọ nên giờ ất sửu; ngày canh tháng thân nên giờ bính tuất, ngày tân tháng dậu nên giờ đinh dậu; ngày nhâm tháng hợi nên giờ mậu thân; ngày quý tháng tý nên giờ kỷ mùi. Là thấy sát làm quý, nhưng cũng không thể quá nhiều, tuế vận lại gặp đất sát chủ chết trẻ. Như một mệnh: năm nhâm thân không có lộc, tuế vận xung lại hội với thương quan sát, kiến lộc dụng tài quan, thương quan khứ bỏ bính hoả nên chết trẻ.
"Độc Bộ" nói rằng: " lệnh tháng kiến lộc, thường không có nhà cửa của tổ tiên, một khi thấy tài quan, tự nhiên thành phúc lành".
Lại nói rằng: "kiến lộc sanh lúc trăng lên, tài quan mừng lộ ra ở thiên can, không nên thân lại thêm vượng, chỉ mừng của cải dồi dào".
"Minh Thông Phú" nói rằng: "kiến lộc, toạ lộc, hoặc cư lộc, chỉ gặp tài, quan, ấn thụ giàu sang lâu dài".
Tổng hợp các lý thuyết, các thảo luận về kiến lộc hoàn toàn khác với cách luận lộc của người xưa. Ta noi theo dương nhận, tỷ kiên, bại tài, kiến lộc tên tuy không giống nhau thật ra các thần cùng một nhà, ở địa chi gọi là nhận, là lộc, ở thiên can gọi là tỷ, là kiếp, cách chọn dùng đại khái giống nhau, vì vậy kiến lộc theo sau dương nhận. Kiến lộc xưa không có cách, gần đây chọn dùng địa chi của tháng, không thể chọn được cách, nhưng thiên can nếu có tài quan quý khí, nên chọn kiến lộc giống như tỷ kiếp, tạo ra ý nghĩa đặc biệt vậy.
论建禄(此与前论禄同参)
建禄者,乃甲日寅月,乙日卯月,五行临官之位也。甲用金为官,金绝在寅,用土为财,土病于寅,以身旺太过,财官俱不得,若别无财官可取,再遇劫夺,马既不扶,禄又不养,多主贫贱,颇宜时带偏官、偏财或食神,更看年时上露者取用,若略见财官,反争夺不吉。凡命月令建禄,难招祖业,必主平生见财不聚,却病少寿长,行运再见比肩,克妻妨父损子,或官非破财,或因妻孥财帛争夺。如八字内外元有财官,引旺得地,官星有助,运临官星有气之地,亦贵;财星有助,运临财旺之地,亦富;财官俱旺,乃富贵之命。若时逢财库,运至财乡,必主晚年大富。年上财官有助,必享祖荫。若四柱元无财官,纵运行财官之地,亦止虚花而已。命无财官,岁运又行比肩,一生贫蹇。赋云:根在苗先,实在花后。言先有根然后长苗,有花然后结果。若当生岁元无财官,虽遇财官吉运,发福不大。
假如甲日寅月,柱中乙卯未字多,主无祖财,克妻,一世孤贫,作事虚诈,为人大模样。乙日生卯月,柱有庚辛巳酉丑申及戊己巳午辰戌等字,财官多则贵,壬癸申子辰亥水印成局亦佳,更运逢之尤妙,若柱不见财官印食,同前断。丙生巳月,岁时干支水金成局,运历财官旺地,亦主富贵。丁生午月,金败水绝,财官俱背,顺运克妻,逆运克三妻,若柱有巳酉丑庚辛壬癸亥申子辰,运临财官旺地亦发,用煞或印,以多为贵,若止建禄,亦同前断。戊日巳月,年日时无水,主克妻,无祖业,子多不肖,柱中多有官则吉,如见偏官,主尊贵,岁月若是火多及或印绶,虽无财官,主吉,若柱内隐显壬癸亥申子辰水局,晚子一二,有甲寅乙卯亥未木局,运至财官旺地亦发。
己生午月,以壬水为财,五月水囚,主无祖业,克妻,子亦不多,岁时透出寅甲为正官,五月甲死,官必卑小,喜见亥卯未乙,身旺见官煞为妙,偏财亦美。庚日申月,上旬生,近木余气,略无祖财,虽节气临水绝之乡,尚有三四分库财为福,运至丙戌,财尽矣,若年日时多带财,好命看,见丙丁巳午寅戌火局则有官,以煞化官也,官小亦不清显,怕壬癸亥子,克官不成。辛日酉月,无祖财,柱中多见分夺,孤贫无妻,或克妻无财,若带木火生旺,又当富贵,原无财官,又行生地,其劫祸尤重,或见辛酉则为专禄,更有财官印食之神岁运再逢尤好,逆运南方则吉,顺运北方,百事无成,若辛卯、辛未日身自坐财,可许衣禄,辛巳日有贵,官禄亦轻。壬日亥月,癸日子月,俱无祖业,柱中多见火土,主自成立有官,如见水多泛滥,无成、克妻、贫薄。又曰:甲日寅月宜壬早时,乙日卯月宜辛巳时,丙日巳月宜己亥时,丁日午月宜庚子时,戊日巳月宜甲寅时,己日午月宜乙丑时,庚日申月宜丙戌时,辛日酉月宜丁酉时,壬日亥月宜戊申时,癸日子月宜己未时。是见煞取贵,然亦不可太多,岁运再逢煞地,主夭折。如一命:壬申年,不禄,岁运冲且会伤官煞也,建禄用财官,伤去丙火,故夭。《独步》云:"月令建禄,多无祖屋,一见财官,自然成福。"又云:"建禄生提月,财官喜透天,不宜身再旺,惟喜茂财元。"《明通赋》云:"建禄、坐禄或居禄,独遇财官印绶,富贵长年。"合诸说,各之子平论建禄与古人论禄,其取用迥不同矣。余按阳刃、比肩、败财、建禄,名虽不同,实一家同气之神,在地支者曰刃、曰禄,在天干者曰比、曰劫,其取用大略相同,故以建禄继阳刃之后,建禄旧无格,近亦取以月支,无可取之格,而天干倘有财官贵气,故取建禄若比劫,特发明其义耳。
.
Luận Kiến Lộc (Thử Dữ Tiền Luận Lộc Đồng Tham)
Kiến lộc chính là ngày giáp tháng dần, ngày ất tháng mão tức là vị trí lâm quan của ngũ hành. Giáp lấy kim làm quan mà kim tuyệt ở dần, lấy thổ làm tài mà thổ bệnh ở dần, vì thân quá vượng mà tài quan đều không có được, nếu không có tài quan khác để chọn lấy, lại gặp cướp đoạt, mã đã không nâng đỡ, lộc lại không nuôi dưỡng, thường chủ nghèo hèn. Có phần thích hợp khi trụ giờ đới thiên quan, thiên tài hoặc thực thần, cần xem thêm cái lộ ra trên trụ năm hay giờ mà chọn dụng thần, nếu thấy qua loa tài quan, ngược lại tranh đoạt thì không tốt. Hễ mệnh kiến lộc, khó nhận được tổ nghiệp, nhất định cả đời khống thấy tích trữ tiền bạc được, nhưng ít bệnh tật tuổi thọ dài, đi vận gặp lại tỷ kiên, khắc vợ làm hại cha mẹ và ác với con cái, hoặc phá tài vì phạm pháp, hoặc vợ con tranh đoạt tiền của. Nếu như bát tự trong ngoài vốn có tài quan vượng hay đắc địa, quan tinh có trợ giúp, vận đến đất của quan có khí cũng quý; tài tinh có trợ giúp vận đến đất tài vượng, cũng giàu có; tài quan đều vượng chính là mệnh giàu sang. Nếu trụ giờ gặp khố của tài, vận đến nơi của tài, chủ tuổi già sẽ rất giàu có. Trên trụ năm tài quan có trợ giúp, sẽ hưởng được phúc trạch của tổ tiên để lại. Nếu tứ trụ vốn không có tài quan, cho dù đi vận đất tài quan, cũng chỉ là cái đẹp hư ảo mà thôi. Mệnh không có tài quan, tuế vận lại đi tỷ kiên, cả đời nghèo khó.
Phú nói rằng: rễ có trước mầm, quả có sau hoa. Nói trước có rễ tất nhiên sau đó sẽ nuôi mầm, có hoa tất nhiên sau đó sẽ thành trái. Nếu năm sanh không có tài quan, tuy gặp vận tài quan tốt, phát phúc mà không to lớn.
- Nếu như ngày giáp sanh tháng dần: trong trụ có nhiều chữ ất mão mùi, chủ không có tài sản của tổ tiên, khắc vợ, một đời nghèo khổ cô đơn, làm việc gian dối, tạo ra hình dạng người cao cả.
- Ngày ất sanh tháng mão: trụ có nhiều những chữ canh tân tỵ dậu sửu thân cùng với mậu kỷ tỵ ngọ thìn tuất thì tài quan nhiều sẽ quý, nhâm quý thân tý thìn hợi thuỷ thành ấn cục cũng tốt đẹp, thêm vận gặp được thì càng tuyệt diệu, nếu trụ không thấy tài quan ấn thực, đoán giống ở phần trước.
- Ngày bính sanh tháng tỵ: thiên can địa chi trụ năm trụ giờ thuỷ kim thành cục, vận trải qua đất tài quan vượng, cũng chủ giàu sang.
- Ngày đinh sanh tháng ngọ: kim bại thuỷ tuyệt, tài quan đều bỏ đi, vận thuận thì khắc vợ, mà vận nghịch lại khắc ba người vợ, nếu trụ có những chữ tỵ dậu sửu canh tân nhâm quý hợi thân tý thìn, vận đến đất tài quan vượng cũng phát, dụng thần là sát hoặc ấn, vì thường là quý, nếu chỉ thấy lộc cũng đoán giống phần trước.
- Ngày mậu sanh tháng tỵ: năm ngày giờ không có thuỷ, chủ khắc vợ, không có tài sản của tố tiên, con thường không được như cha thường hư hỏng, trong trụ có nhiều quan sẽ tốt, như thấy thiên quan chủ tôn quý, năm tháng nếu là hoả nhiều hoặc ấn thụ, tuy không có tài quan chủ tốt lành, nếu trong trụ ẩn tàng hay hiển lộ nhâm quý hợi thân tý thìn thuỷ cục, có con muộn một hoặc hai đứa, có giáp dần ất mão hợi mùi mộc cục, vận đến đất tài quan vượng cũng phát.
- Ngày kỷ sanh tháng ngọ: lấy nhâm thuỷ làm tài, tháng năm thuỷ tù, chủ không có sản nghiệp của tổ tiên, khắc vợ, con cũng không nhiều, năm giờ lộ ra dần giáp là chánh quan, tháng năm giáp tử (chết), quan chức sẽ thấp nhỏ, thích thấy hợi mão mùi ất, thân vượng thấy quan sát thì tốt đẹp, thiên tài cũng đẹp.
- Ngày canh sanh tháng thân: sanh vào tuần đầu tháng, mộc còn dư khí, không lấy được tài sản của tổ tiên, tuy tiết khí đến nơi thuỷ tuyệt, vẫn còn ba bốn phần kho tài là phúc rồi, vận đến bính tuất thì không còn chút tài nào, nếu năm ngày giờ thường đới tài, xem là mệnh tốt, thấy bính đinh tỵ ngọ dần tuất hoả cục sẽ có quan, vì sát hoá quan, chức quan nhỏ cũng không rõ ràng, sợ nhâm quý hợi tý khắc quan không thành.
- Ngày tân sanh tháng dậu: không có tài sản của tổ tiên, trong trụ thường thấy tranh đoạt thì nghèo khó không có vợ hoặc khắc vợ không có tài sản, nếu có mộc hoả sanh vượng lại trở nên giàu sang, vốn không có tài quan, lại đi sanh địa thì tai hoạ cướp đoạt càng nghiêm trọng, hoặc thấy tân dậu sẽ là chuyên lộc, có thêm tài quan ấn thực, tuế vận lại gặp càng tốt, vận nghịch về phương nam sẽ tốt lành, vận thuận phương bắc trăm sự đều không thành công, nếu ngày tân mão, tân mùi là thân tự ngồi ở tài, hứa sẽ có y lộc, ngày tân tỵ được quý trọng, quan lộc cũng nhỏ.
- Ngày nhâm sanh tháng hợi, ngày quý sanh tháng tý: đều không có sản nghiệp của tổ tiên, trong trụ thường thấy hoả thổ chủ bản thân tự lập mà có chức quan, nếu như thấy thuỷ thường trôi nổi không thành công, khắc vợ, nghèo khổ.
Lại nói: ngày giáp tháng dần nên giờ nhâm thân; ngày ất tháng mão nên giờ tân tỵ; ngày bính tháng tỵ nên giờ kỷ hợi; ngày đinh tháng ngọ nên giờ canh tý; ngày mậu tháng tỵ nên giờ giáp dần; ngày kỷ tháng ngọ nên giờ ất sửu; ngày canh tháng thân nên giờ bính tuất, ngày tân tháng dậu nên giờ đinh dậu; ngày nhâm tháng hợi nên giờ mậu thân; ngày quý tháng tý nên giờ kỷ mùi. Là thấy sát làm quý, nhưng cũng không thể quá nhiều, tuế vận lại gặp đất sát chủ chết trẻ. Như một mệnh: năm nhâm thân không có lộc, tuế vận xung lại hội với thương quan sát, kiến lộc dụng tài quan, thương quan khứ bỏ bính hoả nên chết trẻ.
"Độc Bộ" nói rằng: " lệnh tháng kiến lộc, thường không có nhà cửa của tổ tiên, một khi thấy tài quan, tự nhiên thành phúc lành".
Lại nói rằng: "kiến lộc sanh lúc trăng lên, tài quan mừng lộ ra ở thiên can, không nên thân lại thêm vượng, chỉ mừng của cải dồi dào".
"Minh Thông Phú" nói rằng: "kiến lộc, toạ lộc, hoặc cư lộc, chỉ gặp tài, quan, ấn thụ giàu sang lâu dài".
Tổng hợp các lý thuyết, các thảo luận về kiến lộc hoàn toàn khác với cách luận lộc của người xưa. Ta noi theo dương nhận, tỷ kiên, bại tài, kiến lộc tên tuy không giống nhau thật ra các thần cùng một nhà, ở địa chi gọi là nhận, là lộc, ở thiên can gọi là tỷ, là kiếp, cách chọn dùng đại khái giống nhau, vì vậy kiến lộc theo sau dương nhận. Kiến lộc xưa không có cách, gần đây chọn dùng địa chi của tháng, không thể chọn được cách, nhưng thiên can nếu có tài quan quý khí, nên chọn kiến lộc giống như tỷ kiếp, tạo ra ý nghĩa đặc biệt vậy.
论建禄(此与前论禄同参)
建禄者,乃甲日寅月,乙日卯月,五行临官之位也。甲用金为官,金绝在寅,用土为财,土病于寅,以身旺太过,财官俱不得,若别无财官可取,再遇劫夺,马既不扶,禄又不养,多主贫贱,颇宜时带偏官、偏财或食神,更看年时上露者取用,若略见财官,反争夺不吉。凡命月令建禄,难招祖业,必主平生见财不聚,却病少寿长,行运再见比肩,克妻妨父损子,或官非破财,或因妻孥财帛争夺。如八字内外元有财官,引旺得地,官星有助,运临官星有气之地,亦贵;财星有助,运临财旺之地,亦富;财官俱旺,乃富贵之命。若时逢财库,运至财乡,必主晚年大富。年上财官有助,必享祖荫。若四柱元无财官,纵运行财官之地,亦止虚花而已。命无财官,岁运又行比肩,一生贫蹇。赋云:根在苗先,实在花后。言先有根然后长苗,有花然后结果。若当生岁元无财官,虽遇财官吉运,发福不大。
假如甲日寅月,柱中乙卯未字多,主无祖财,克妻,一世孤贫,作事虚诈,为人大模样。乙日生卯月,柱有庚辛巳酉丑申及戊己巳午辰戌等字,财官多则贵,壬癸申子辰亥水印成局亦佳,更运逢之尤妙,若柱不见财官印食,同前断。丙生巳月,岁时干支水金成局,运历财官旺地,亦主富贵。丁生午月,金败水绝,财官俱背,顺运克妻,逆运克三妻,若柱有巳酉丑庚辛壬癸亥申子辰,运临财官旺地亦发,用煞或印,以多为贵,若止建禄,亦同前断。戊日巳月,年日时无水,主克妻,无祖业,子多不肖,柱中多有官则吉,如见偏官,主尊贵,岁月若是火多及或印绶,虽无财官,主吉,若柱内隐显壬癸亥申子辰水局,晚子一二,有甲寅乙卯亥未木局,运至财官旺地亦发。
己生午月,以壬水为财,五月水囚,主无祖业,克妻,子亦不多,岁时透出寅甲为正官,五月甲死,官必卑小,喜见亥卯未乙,身旺见官煞为妙,偏财亦美。庚日申月,上旬生,近木余气,略无祖财,虽节气临水绝之乡,尚有三四分库财为福,运至丙戌,财尽矣,若年日时多带财,好命看,见丙丁巳午寅戌火局则有官,以煞化官也,官小亦不清显,怕壬癸亥子,克官不成。辛日酉月,无祖财,柱中多见分夺,孤贫无妻,或克妻无财,若带木火生旺,又当富贵,原无财官,又行生地,其劫祸尤重,或见辛酉则为专禄,更有财官印食之神岁运再逢尤好,逆运南方则吉,顺运北方,百事无成,若辛卯、辛未日身自坐财,可许衣禄,辛巳日有贵,官禄亦轻。壬日亥月,癸日子月,俱无祖业,柱中多见火土,主自成立有官,如见水多泛滥,无成、克妻、贫薄。又曰:甲日寅月宜壬早时,乙日卯月宜辛巳时,丙日巳月宜己亥时,丁日午月宜庚子时,戊日巳月宜甲寅时,己日午月宜乙丑时,庚日申月宜丙戌时,辛日酉月宜丁酉时,壬日亥月宜戊申时,癸日子月宜己未时。是见煞取贵,然亦不可太多,岁运再逢煞地,主夭折。如一命:壬申年,不禄,岁运冲且会伤官煞也,建禄用财官,伤去丙火,故夭。《独步》云:"月令建禄,多无祖屋,一见财官,自然成福。"又云:"建禄生提月,财官喜透天,不宜身再旺,惟喜茂财元。"《明通赋》云:"建禄、坐禄或居禄,独遇财官印绶,富贵长年。"合诸说,各之子平论建禄与古人论禄,其取用迥不同矣。余按阳刃、比肩、败财、建禄,名虽不同,实一家同气之神,在地支者曰刃、曰禄,在天干者曰比、曰劫,其取用大略相同,故以建禄继阳刃之后,建禄旧无格,近亦取以月支,无可取之格,而天干倘有财官贵气,故取建禄若比劫,特发明其义耳。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#191
Gửi vào 11/07/2024 - 11:15
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thất
Luận Tính Tình Tướng Mạo
Quý tiện xem xét ở bát tự, tính tình chứng thật ở ngũ hành. Thiện, ác, nhân, lễ, nghĩa, trí, tín đều do tâm làm chủ; còn mừng, giận, buồn, vui, thương, ghét, đều là do bản tính trời sanh.
Phương đông là chấn là chỗ của mộc, hiệu là thanh long, tên là khúc trực, chủ về nhân trong ngũ thường, màu xanh lục, vị chua, bản tính thẳng thắn, tình cảm hoà thuận. Khi vượng tướng chủ có lòng thương rộng khắp, lòng thương xót người bất hạnh, có lòng nhân ái, giúp vật lợi người, buồn lo cho hoàn cảnh cô quả, thành thật chất phác và cao thượng, hành vi hào phóng; tướng mạo xinh đẹp, cốt cách mảnh khảnh, tay chân mềm mịn, miệng nhọn tóc đẹp, sắc mặt trắng xanh, lời nói hiên ngang, đây là ý nghĩa của đức nhân khi mộc vượng. Còn hưu tù chủ gầy ốm, cao dài, tóc lưa thưa, bản tính bướng bỉnh cố chấp, tâm thiên lệch, ganh ghét không có lòng nhân từ, đó là ý nghĩa ít có cảm tình khi mộc suy. Còn tử tuyệt thì mi mắt không đoan chánh, keo kiệt bủn xỉn, da thịt khô khan, cổ cao dài yết hầu lộ, đi ngồi không ổn định, thân thường nghiêng một bên. Gặp hoả thì sắc pha đỏ; thấy thổ thì sắc pha vàng; gặp kim thì sắc pha trắng; thấy thuỷ thì sắc pha đen. Còn lại bốn hành xem theo ví dụ.
Hoả thuộc phương nam, tên là viêm thượng, chủ về lễ trong ngũ thường (ngũ thường 五常 gồm có: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín 仁義禮智信 nghĩa là năm đạo của người lúc nào cũng phải có, không thể thiếu được). Màu đỏ, vị đắng, tánh gấp vội, tính cung kính. Khi vượng tướng chủ có phong cách thận trọng, thoái thác, ý nghĩa của cung kính, khiêm nhường và hoà thuận, cử chỉ trang trọng, oai nghiêm làm cho người phải kính sợ, thật thà chất phác, tôn sùng kính nể; tướng mặt nhọn ở trên và rộng phía dưới, thân hình có đầu nhỏ mà chân dài, ấn đường hẹp mà lông mày dày, mũi lộ mà tai nhỏ, tinh thần biến động không định, lời nói nhanh nhẹn, bản tính nóng nảy nhưng không hiểm độc, thông minh có triễn vọng. Thái quá thì mặt đỏ tiếng nói giòn, đầu gối rung lắc không thể giữ yên. Bất cập thì vàng võ, gầy ốm, giọng the thé, người ngớ ngẩn, gian dối, lừa gạt, ganh ghét, độc ác, ăn nói xằng bậy không đáng tin, có đầu mà không có đuôi.
Thổ thuộc trung ương, tên gọi là giá sắc, chủ về tín trong ngũ thường, màu vàng, vị ngọt, bản tính thận trọng, tình cảm sâu dày. Khi vượng tướng chủ nói năng hành động có quan tâm đến nhau, rất chân thành trung hiếu, thích kính trọng thần phật, không vui khi bị lừa dối, lưng tròn eo rộng, mũi lớn miệng vuông, mày xinh mắt đẹp, mặt mập màu vàng; độ lượng không khắt khe, xử lý tốt mọi việc. Nếu thái quá sẽ cố chấp, chất phát, ng u d ốt không rõ ràng; còn bất cập thì nhan sắc ưu buồn bất động, mặt nghiêng mũi thấp, giọng nói nặng nề, sự lý không thông suốt, hung ác ngang trái, không được tình cảm quần chúng, không trung thực, keo kiệt bủn xỉn hành vi xằng bậy.
Kim thuộc phương tây, tên gọi là tòng cách, chủ là nghĩa trong ngũ thường. Màu trắng, vị cay, bản tính cứng cỏi, cảm xúc mãnh liệt. Nếu vượng tướng là người tài năng xuất chúng, coi trọng nghĩa lý mà xem thường tiền của, biết liêm sĩ, biết hỗ thẹn; cốt nhục phụ hoạ nhau, thân thể khoẻ mạnh tinh thần trong sáng, khuôn mặt trong sáng, mày cao mắt sâu, mũi thẳng tai đỏ hồng, giọng nói trong trẻo, cứng cỏi quyết đoán. Nếu thái quá thì dũng cảm mà không có kế hoạch, tham muốn không nhân từ; còn bất cập sẽ keo kiệt, bủn xỉn, tham lam mà bạo ngược, sự việc thường thất bại, mất mát. Có nhiều suy nghĩ mà ít quyết đoán, khắc nghiệt lòng độc ác, thích dâm dục và hiếu sát, thân thể gầy ốm.
Thuỷ thuộc phương bắc, tên gọi là nhuận hạ, chủ trí trong ngũ thường. Màu đen, vị mặn, bản tính thông minh, tình cảm thiện lương. Nếu vượng tướng thì mưu kế sâu xa, trí khôn dồi dào nhiều mưu kế, học vấn và tri thức hơn người, cực kỳ dối trá lừa gạt; mặt đen sáng rực, lời nói trong sáng êm dịu. Nếu thái quá thì chê khen bình luận, ưa thích hoạt động không thể ngồi yên, lưu lạc trôi nổi tham lam dâm dục. Nếu bất cập thì người lùn thấp, làm việc lặp đi lặp lại, tánh tình không bình thường, nhút nhát không có chiến lược.
Đây tuy là ví dụ về ngũ hành, nhưng thật ra có liên quan đến đời người. Ngũ hành và tính tình trên được quyết định bởi thần sát tốt xấu gặp trong mệnh, đại khái người được sanh vượng chủ cao to, còn tử tuyệt chủ thấp bé. Nếu có sát đến, không ở hạn này thì thuận theo sát mà đoán. Nếu có khắc thì đoán theo chỗ ngũ hành khắc, đồng thời chọn lấy nạp âm ngày giờ xem có khắc hay không khắc, cùng với thần sát chỗ đến có khí hay không mà đoán hình dạng, tánh tình không có gì là không ứng nghiệm.
Lại nói: suy xét bản tính hành vi của người, chỉ ở trụ ngày giờ, xem ngũ hành gốc, không kể nạp âm. Mệnh nếu hợp cách mà được sanh vượng, chủ bản tính rõ ràng, không đi ngược lại sự việc, luôn sẳn sàng ứng phó, nói năng mạnh mẽ, vượt qua độ lượng rộng lớn, gặp việc quyết đoán, công bằng không do dự, gặp khó khăn không e sợ, cả đời không tham luyến tài vật, thích bố thí mà không tư lợi cho mình, rất thích hoan lạc, giàu tình cảm chuộng diều phải, đề phòng có lúc không tốt lành. Nếu mệnh người hợp cách quý mà bị tử tuyệt, chủ bản tính ít hợp, suy nghĩ sâu sắc ý tưởng kín đáo, thường nghi kỵ, thường chấp giữ phép tắc một cách cố chấp, chú ý đến hành vi, tô điểm ngoại hình, thường tự ràng buộc, không bố thí xằng bậy, đề phòng có âm mưu. Nếu mệnh của tiểu nhân vì hợp cách thấp hèn nhưng mà gặp sanh vượng, chủ bản tính vô thường, không biết tự xét mình, làm việc bất kể nguy hiểm mất mát, thích đấu tranh, ỷ mạnh hiếp yếu, gần gũi với bọn hung ác, không làm việc cho gia đình nhất định không có kết quả tốt lành; tử tuyệt thì bản tính tà dâm, thường có hành vi gian dối, giữ bản tính bướng bỉnh, thường có hành vi che đậy, chuyên nói lời đẹp, thích tự khoe khoang, gặp việc không quyết đoán, đúng ít sai nhiều, cả đời không thành tựu.
"Tế Công Yếu Quyết" nói rằng: chí hướng cao xa là do nguồn nước súc tích; dốc lòng tin tưởng đức hạnh nhân từ, chỉ vì đất trở thành núi lớn; nhân từ và trung hậu, mộc thành nơi của giáp ất; bản tính nhanh nhẹn sáng tỏ khắp nơi, hoả đúng với vị trí của bính đinh; danh tiếng cao và trọng chính nghĩa, bởi vì kim thuộc về nơi canh tân. Ở giữa thì tính chất không thay đổi, còn thịnh hay suy thì tính chất có thay đổi. Thuỷ nhân vì suy bại bản chất tối tăm nên vô lại (dối trá giảo hoạt); sức của thổ quá nhỏ ít có tác dụng để che chở; mộc nương về đất không thuận lợi, thì quá mềm yếu nên quản lý không có quy tắc; hoả chưa phát triễn, quá nhỏ nên rất tốn hại không giải quyết được; kim mỏng tuy có chính nghĩa nhưng có khởi đầu mà không có kết thúc. Đó là ngũ hành đắc địa hay thất địa, thái quá hay bất cập đều là có khả năng hung xấu.
"Hồ Trung Tử" nói rằng: lời nói giả dối tráo trở, lúc sanh ra hợp cùng sáu không vong, trụ có sáu không vong để nói chuyện tâm linh một cách tuỳ tiện, người thường gặp phải, thì tâm ưa nguỵ trang, lời nói đao to búa lớn mà hảo huyền; người gặp vậy thì giả dối, tráo trở, cả đời gây tổn hại cho người thân, trôi nổi nơi xứ người, thường làm việc vô ích.
论性情相貌
夫贵贱观乎八字,性情应乎五行。善、恶、仁、义、礼、智、信,心之所主;喜、怒、哀、乐、爱、恶、欲,性之所生。东方震位木,号青龙,名曰曲直,五常主仁。其色青,其味酸,其性直,其情和。旺相主有博爱恻隐之心,慈祥恺悌之意;济物利人,恤孤念寡,直朴清高,行藏慷慨;丰姿秀丽,骨格修长,手足纤腻,口尖发美,面色青白,语句轩昂,此则木盛多仁之义。休囚主瘦长发少,拗性偏心,嫉妒不仁,此则木衰情寡之义也。死绝则眉眼不正,悭吝鄙啬,肌肉干燥,项长喉结,行坐不稳,身多欹侧。遇火色带赤,见土则色带黄,逢金则色带白,见水则色带黑。其余四行例见。
火属南方,名曰炎上,五常主礼。其色赤,其味苦,其性急,其性恭。旺相主有辞让端谨之风,恭敬谦和之义;威仪凛烈,淳朴尊崇;面貌上尖下阔,形体头小脚长,印堂窄而眉浓,鼻准露而耳小;精神闪烁,语言急速,性燥无毒,聪明有为。太过则声焦面赤,摇膝好动。不及则黄瘦尖楞,诡诈妒毒,言语妄诞,有始无终。
土属中央,名曰稼穑,五常主信,其色黄,其味甘,其性重,其情厚。旺相主言行相顾,忠孝至诚,好敬神佛,不爽欺信;背圆腰阔,鼻大口方,眉清目秀,面肥色黄;度量宽厚,处事有方。太过则执一古朴,愚拙不明。不及则颜色忧滞,面偏鼻低,声音重浊,事理不通,狠毒乖戾,不得众情,颠倒失信,悭啬妄为。
金属西方,名曰从革,五常主义。其色白,其味辛,其性刚,其情烈。旺相则英勇豪杰,仗义疏财,知廉耻,识羞恶;骨肉相应,体健神清,面方白净,眉高眼深,鼻直耳红,声音清亮,刚毅果决。太过则好勇无谋,贪欲不仁。不及则悭吝贪酷,事多挫忘。有三思、少决断,克薄内毒,喜淫好杀,身材瘦小。
水属北方,名曰润下,五常主智,其色黑,其味咸,其性聪明,其情良善。旺相则机关深远,足智多谋,学识过人,诡诈无极;面黑光彩,语言清和。太过则是非好动,飘荡贪淫。不及则人物矮小,行事反复,情性不常,胆小无略。此虽五行之喻,实与人事相干。以上五行、情性参以命中所遇吉凶神煞断之,大抵生旺者主长大,死绝者主矮小。若有煞临,不在此限,又从煞上断。若有克,则从所克之五行断,又概取日时,上纳音,看有克无克,并神煞所临有气无气,断其形状、性情,无有不验。
又曰:推人性行,只在日时上,看本五行,不论纳音。命若入格而逢生旺,主天性明白,遇物不逆,动必应机,言语声高,突破口大度,临事能断,公平不疑,犯难不畏,平生不以财物为吝,好施与不私己,奢泰欢乐,多情尚义,防有不善终之患。若命入贵格而逢死绝者,主为性寡合,机深意密,多疑多忌,动拘礼节,谨顾行止,修饰仪貌,常自检约,不妄设施,防有阴谋之患。若小人之命已入贱局而逢生旺者,主性无常,不自检束,为事不顾危亡,好斗争,恃强压弱,亲近恶党,不事家业,必竟不得善终;死绝则为性淫邪,动必巧伪,畜缩执拗,举动修饰,专美言词,好自矜炫,临事无断,少是多非,一身无立。《宰公要诀》云:志高量远,盖因水处深源;笃信守仁,只为土成山岳;仁慈敏厚,木成甲乙之方;性速辨明,火应丙丁之位;誉高义重,因金归合庚辛处。于中者,正性不移,或盛或衰,性情变易。水乘衰败,性昏无赖;土力太微,蔽执寡用;木归蹇地,太柔而治事无规;火数未兴,小辨而太伤无决;金当浅薄,虽义而有始无终,是五行得地失地,太过不及,皆能为凶也。《壶中子》云:言词狡猾,诞时合值六虚,六虚住处谩语神,凡人得之,心好撰饰,虚词并重;遇者必狡猾,平生妨克尊亲,漂流他国,作事多虚声。
.
Luận Tính Tình Tướng Mạo
Quý tiện xem xét ở bát tự, tính tình chứng thật ở ngũ hành. Thiện, ác, nhân, lễ, nghĩa, trí, tín đều do tâm làm chủ; còn mừng, giận, buồn, vui, thương, ghét, đều là do bản tính trời sanh.
Phương đông là chấn là chỗ của mộc, hiệu là thanh long, tên là khúc trực, chủ về nhân trong ngũ thường, màu xanh lục, vị chua, bản tính thẳng thắn, tình cảm hoà thuận. Khi vượng tướng chủ có lòng thương rộng khắp, lòng thương xót người bất hạnh, có lòng nhân ái, giúp vật lợi người, buồn lo cho hoàn cảnh cô quả, thành thật chất phác và cao thượng, hành vi hào phóng; tướng mạo xinh đẹp, cốt cách mảnh khảnh, tay chân mềm mịn, miệng nhọn tóc đẹp, sắc mặt trắng xanh, lời nói hiên ngang, đây là ý nghĩa của đức nhân khi mộc vượng. Còn hưu tù chủ gầy ốm, cao dài, tóc lưa thưa, bản tính bướng bỉnh cố chấp, tâm thiên lệch, ganh ghét không có lòng nhân từ, đó là ý nghĩa ít có cảm tình khi mộc suy. Còn tử tuyệt thì mi mắt không đoan chánh, keo kiệt bủn xỉn, da thịt khô khan, cổ cao dài yết hầu lộ, đi ngồi không ổn định, thân thường nghiêng một bên. Gặp hoả thì sắc pha đỏ; thấy thổ thì sắc pha vàng; gặp kim thì sắc pha trắng; thấy thuỷ thì sắc pha đen. Còn lại bốn hành xem theo ví dụ.
Hoả thuộc phương nam, tên là viêm thượng, chủ về lễ trong ngũ thường (ngũ thường 五常 gồm có: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín 仁義禮智信 nghĩa là năm đạo của người lúc nào cũng phải có, không thể thiếu được). Màu đỏ, vị đắng, tánh gấp vội, tính cung kính. Khi vượng tướng chủ có phong cách thận trọng, thoái thác, ý nghĩa của cung kính, khiêm nhường và hoà thuận, cử chỉ trang trọng, oai nghiêm làm cho người phải kính sợ, thật thà chất phác, tôn sùng kính nể; tướng mặt nhọn ở trên và rộng phía dưới, thân hình có đầu nhỏ mà chân dài, ấn đường hẹp mà lông mày dày, mũi lộ mà tai nhỏ, tinh thần biến động không định, lời nói nhanh nhẹn, bản tính nóng nảy nhưng không hiểm độc, thông minh có triễn vọng. Thái quá thì mặt đỏ tiếng nói giòn, đầu gối rung lắc không thể giữ yên. Bất cập thì vàng võ, gầy ốm, giọng the thé, người ngớ ngẩn, gian dối, lừa gạt, ganh ghét, độc ác, ăn nói xằng bậy không đáng tin, có đầu mà không có đuôi.
Thổ thuộc trung ương, tên gọi là giá sắc, chủ về tín trong ngũ thường, màu vàng, vị ngọt, bản tính thận trọng, tình cảm sâu dày. Khi vượng tướng chủ nói năng hành động có quan tâm đến nhau, rất chân thành trung hiếu, thích kính trọng thần phật, không vui khi bị lừa dối, lưng tròn eo rộng, mũi lớn miệng vuông, mày xinh mắt đẹp, mặt mập màu vàng; độ lượng không khắt khe, xử lý tốt mọi việc. Nếu thái quá sẽ cố chấp, chất phát, ng u d ốt không rõ ràng; còn bất cập thì nhan sắc ưu buồn bất động, mặt nghiêng mũi thấp, giọng nói nặng nề, sự lý không thông suốt, hung ác ngang trái, không được tình cảm quần chúng, không trung thực, keo kiệt bủn xỉn hành vi xằng bậy.
Kim thuộc phương tây, tên gọi là tòng cách, chủ là nghĩa trong ngũ thường. Màu trắng, vị cay, bản tính cứng cỏi, cảm xúc mãnh liệt. Nếu vượng tướng là người tài năng xuất chúng, coi trọng nghĩa lý mà xem thường tiền của, biết liêm sĩ, biết hỗ thẹn; cốt nhục phụ hoạ nhau, thân thể khoẻ mạnh tinh thần trong sáng, khuôn mặt trong sáng, mày cao mắt sâu, mũi thẳng tai đỏ hồng, giọng nói trong trẻo, cứng cỏi quyết đoán. Nếu thái quá thì dũng cảm mà không có kế hoạch, tham muốn không nhân từ; còn bất cập sẽ keo kiệt, bủn xỉn, tham lam mà bạo ngược, sự việc thường thất bại, mất mát. Có nhiều suy nghĩ mà ít quyết đoán, khắc nghiệt lòng độc ác, thích dâm dục và hiếu sát, thân thể gầy ốm.
Thuỷ thuộc phương bắc, tên gọi là nhuận hạ, chủ trí trong ngũ thường. Màu đen, vị mặn, bản tính thông minh, tình cảm thiện lương. Nếu vượng tướng thì mưu kế sâu xa, trí khôn dồi dào nhiều mưu kế, học vấn và tri thức hơn người, cực kỳ dối trá lừa gạt; mặt đen sáng rực, lời nói trong sáng êm dịu. Nếu thái quá thì chê khen bình luận, ưa thích hoạt động không thể ngồi yên, lưu lạc trôi nổi tham lam dâm dục. Nếu bất cập thì người lùn thấp, làm việc lặp đi lặp lại, tánh tình không bình thường, nhút nhát không có chiến lược.
Đây tuy là ví dụ về ngũ hành, nhưng thật ra có liên quan đến đời người. Ngũ hành và tính tình trên được quyết định bởi thần sát tốt xấu gặp trong mệnh, đại khái người được sanh vượng chủ cao to, còn tử tuyệt chủ thấp bé. Nếu có sát đến, không ở hạn này thì thuận theo sát mà đoán. Nếu có khắc thì đoán theo chỗ ngũ hành khắc, đồng thời chọn lấy nạp âm ngày giờ xem có khắc hay không khắc, cùng với thần sát chỗ đến có khí hay không mà đoán hình dạng, tánh tình không có gì là không ứng nghiệm.
Lại nói: suy xét bản tính hành vi của người, chỉ ở trụ ngày giờ, xem ngũ hành gốc, không kể nạp âm. Mệnh nếu hợp cách mà được sanh vượng, chủ bản tính rõ ràng, không đi ngược lại sự việc, luôn sẳn sàng ứng phó, nói năng mạnh mẽ, vượt qua độ lượng rộng lớn, gặp việc quyết đoán, công bằng không do dự, gặp khó khăn không e sợ, cả đời không tham luyến tài vật, thích bố thí mà không tư lợi cho mình, rất thích hoan lạc, giàu tình cảm chuộng diều phải, đề phòng có lúc không tốt lành. Nếu mệnh người hợp cách quý mà bị tử tuyệt, chủ bản tính ít hợp, suy nghĩ sâu sắc ý tưởng kín đáo, thường nghi kỵ, thường chấp giữ phép tắc một cách cố chấp, chú ý đến hành vi, tô điểm ngoại hình, thường tự ràng buộc, không bố thí xằng bậy, đề phòng có âm mưu. Nếu mệnh của tiểu nhân vì hợp cách thấp hèn nhưng mà gặp sanh vượng, chủ bản tính vô thường, không biết tự xét mình, làm việc bất kể nguy hiểm mất mát, thích đấu tranh, ỷ mạnh hiếp yếu, gần gũi với bọn hung ác, không làm việc cho gia đình nhất định không có kết quả tốt lành; tử tuyệt thì bản tính tà dâm, thường có hành vi gian dối, giữ bản tính bướng bỉnh, thường có hành vi che đậy, chuyên nói lời đẹp, thích tự khoe khoang, gặp việc không quyết đoán, đúng ít sai nhiều, cả đời không thành tựu.
"Tế Công Yếu Quyết" nói rằng: chí hướng cao xa là do nguồn nước súc tích; dốc lòng tin tưởng đức hạnh nhân từ, chỉ vì đất trở thành núi lớn; nhân từ và trung hậu, mộc thành nơi của giáp ất; bản tính nhanh nhẹn sáng tỏ khắp nơi, hoả đúng với vị trí của bính đinh; danh tiếng cao và trọng chính nghĩa, bởi vì kim thuộc về nơi canh tân. Ở giữa thì tính chất không thay đổi, còn thịnh hay suy thì tính chất có thay đổi. Thuỷ nhân vì suy bại bản chất tối tăm nên vô lại (dối trá giảo hoạt); sức của thổ quá nhỏ ít có tác dụng để che chở; mộc nương về đất không thuận lợi, thì quá mềm yếu nên quản lý không có quy tắc; hoả chưa phát triễn, quá nhỏ nên rất tốn hại không giải quyết được; kim mỏng tuy có chính nghĩa nhưng có khởi đầu mà không có kết thúc. Đó là ngũ hành đắc địa hay thất địa, thái quá hay bất cập đều là có khả năng hung xấu.
"Hồ Trung Tử" nói rằng: lời nói giả dối tráo trở, lúc sanh ra hợp cùng sáu không vong, trụ có sáu không vong để nói chuyện tâm linh một cách tuỳ tiện, người thường gặp phải, thì tâm ưa nguỵ trang, lời nói đao to búa lớn mà hảo huyền; người gặp vậy thì giả dối, tráo trở, cả đời gây tổn hại cho người thân, trôi nổi nơi xứ người, thường làm việc vô ích.
论性情相貌
夫贵贱观乎八字,性情应乎五行。善、恶、仁、义、礼、智、信,心之所主;喜、怒、哀、乐、爱、恶、欲,性之所生。东方震位木,号青龙,名曰曲直,五常主仁。其色青,其味酸,其性直,其情和。旺相主有博爱恻隐之心,慈祥恺悌之意;济物利人,恤孤念寡,直朴清高,行藏慷慨;丰姿秀丽,骨格修长,手足纤腻,口尖发美,面色青白,语句轩昂,此则木盛多仁之义。休囚主瘦长发少,拗性偏心,嫉妒不仁,此则木衰情寡之义也。死绝则眉眼不正,悭吝鄙啬,肌肉干燥,项长喉结,行坐不稳,身多欹侧。遇火色带赤,见土则色带黄,逢金则色带白,见水则色带黑。其余四行例见。
火属南方,名曰炎上,五常主礼。其色赤,其味苦,其性急,其性恭。旺相主有辞让端谨之风,恭敬谦和之义;威仪凛烈,淳朴尊崇;面貌上尖下阔,形体头小脚长,印堂窄而眉浓,鼻准露而耳小;精神闪烁,语言急速,性燥无毒,聪明有为。太过则声焦面赤,摇膝好动。不及则黄瘦尖楞,诡诈妒毒,言语妄诞,有始无终。
土属中央,名曰稼穑,五常主信,其色黄,其味甘,其性重,其情厚。旺相主言行相顾,忠孝至诚,好敬神佛,不爽欺信;背圆腰阔,鼻大口方,眉清目秀,面肥色黄;度量宽厚,处事有方。太过则执一古朴,愚拙不明。不及则颜色忧滞,面偏鼻低,声音重浊,事理不通,狠毒乖戾,不得众情,颠倒失信,悭啬妄为。
金属西方,名曰从革,五常主义。其色白,其味辛,其性刚,其情烈。旺相则英勇豪杰,仗义疏财,知廉耻,识羞恶;骨肉相应,体健神清,面方白净,眉高眼深,鼻直耳红,声音清亮,刚毅果决。太过则好勇无谋,贪欲不仁。不及则悭吝贪酷,事多挫忘。有三思、少决断,克薄内毒,喜淫好杀,身材瘦小。
水属北方,名曰润下,五常主智,其色黑,其味咸,其性聪明,其情良善。旺相则机关深远,足智多谋,学识过人,诡诈无极;面黑光彩,语言清和。太过则是非好动,飘荡贪淫。不及则人物矮小,行事反复,情性不常,胆小无略。此虽五行之喻,实与人事相干。以上五行、情性参以命中所遇吉凶神煞断之,大抵生旺者主长大,死绝者主矮小。若有煞临,不在此限,又从煞上断。若有克,则从所克之五行断,又概取日时,上纳音,看有克无克,并神煞所临有气无气,断其形状、性情,无有不验。
又曰:推人性行,只在日时上,看本五行,不论纳音。命若入格而逢生旺,主天性明白,遇物不逆,动必应机,言语声高,突破口大度,临事能断,公平不疑,犯难不畏,平生不以财物为吝,好施与不私己,奢泰欢乐,多情尚义,防有不善终之患。若命入贵格而逢死绝者,主为性寡合,机深意密,多疑多忌,动拘礼节,谨顾行止,修饰仪貌,常自检约,不妄设施,防有阴谋之患。若小人之命已入贱局而逢生旺者,主性无常,不自检束,为事不顾危亡,好斗争,恃强压弱,亲近恶党,不事家业,必竟不得善终;死绝则为性淫邪,动必巧伪,畜缩执拗,举动修饰,专美言词,好自矜炫,临事无断,少是多非,一身无立。《宰公要诀》云:志高量远,盖因水处深源;笃信守仁,只为土成山岳;仁慈敏厚,木成甲乙之方;性速辨明,火应丙丁之位;誉高义重,因金归合庚辛处。于中者,正性不移,或盛或衰,性情变易。水乘衰败,性昏无赖;土力太微,蔽执寡用;木归蹇地,太柔而治事无规;火数未兴,小辨而太伤无决;金当浅薄,虽义而有始无终,是五行得地失地,太过不及,皆能为凶也。《壶中子》云:言词狡猾,诞时合值六虚,六虚住处谩语神,凡人得之,心好撰饰,虚词并重;遇者必狡猾,平生妨克尊亲,漂流他国,作事多虚声。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#192
Gửi vào 12/07/2024 - 09:24
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thất
Luận Tật Bệnh Tiên Tri Ngũ Tạng Lục Phủ Sở Thuộc Can Chi
Ca Quyết: giáp mật, ất gan, bính ruột non, đinh tim, mậu dạ dày, kỷ lá lách; canh ruột già, tân là phổi, nhâm là bọng đái, quý là thận; tam tiêu (chỉ thượng tiêu 上焦, trung tiêu 中焦 và hạ tiêu 下焦 (miệng trên của dạ dày, phần giữa của dạ dày, và miệng trên của bàng quang) cũng hướng về nhờ trong nhâm, bao lạc cùng thuộc về nơi quý.
Lại nói: giáp đầu, ất đỉnh, bính là vai, đinh tim, mậu xương sườn, kỷ là bụng; canh rốn, tân là đùi, nhâm cẳng chân (từ đấu gối xuống chân) quý chân, toàn thân được dùng.
Lại nói: tý thuộc về đường thuỷ của bàng quang và tai, sửu là nhau, ruột với dạ dày, lá lách; dần mật , huyết mạch và hai tay, mão vốn là mười ngón tay và bên trong gan; thìn là da, vai và ngực, tỵ mặt, cổ họng, răng và hậu môn; ngọ hoả tinh thần quản về mắt; mùi thổ dạ dày, cổ tay cách xa xương sống; thân kim ruột già, kinh lạc phổi; dậu tinh huyết tàng trong ruột non; tuất thổ mệnh môn (kinh huyệt ở khoảng giữa hai trái thận), đùi, mắt cá chân và bàn chân; hợi thuỷ là đầu với nang thận; nếu trị bệnh theo cách này, Bá Lôi Công cũng lan truyền ra xa.
Lại nói: ngọ đầu tỵ mùi là hai vai, trái phải hai cánh tay là thìn thân; mão dậu hai bên sườn; dần tuất đùi, sửu hợi là chân; tý là bộ phận sinh dục.
Lại nói: càn đầu khôn bụng khảm là tai, chấn chân, tốn đùi, cấn là tay; đoài miệng, ly mắt chia theo bát quái, hễ xem tật bệnh theo đó mà tìm.
Tất cả tật bệnh đều do ngũ hành không điều hoà, tức là ngũ tạng trong thân người không điều hoà vậy. Bởi ngũ hành thông suốt ở ngũ tạng, lục phủ thông ở chín lỗ (cửu khiếu, tức là khí quan) trên thân thể con người, hễ mười thiên can bị bệnh thuộc về lục phủ, mười hai địa chi bị bệnh thuộc về ngũ tạng. Bính đinh tỵ ngọ hoả cục thuộc phương nam quẻ ly, chủ bệnh ở phía trên; nhâm quý hợi tý thuỷ cục thuộc phương bắc quẻ khảm, chủ bệnh ở phía dưới; giáp ất dần mão thuộc chấn chủ bệnh ở bên trái; canh tân thân dậu thuộc đoài chủ bệnh ở bên phải; mậu kỷ thìn tuất sửu mùi thuộc khôn cấn chủ bệnh ở lá lách, dạ dày cùng với phần giữa xoang dạ dày. Những người chóng mặt vì gió, mắt mờ, máu huyết kém, rụng tóc sớm, bắp thịt khô như quả dưa chuột, thuộc về họ gan: giáp ất dần mão mộc bị hư nhược nên thành bệnh; những bệnh nhọt máu mủ, ghẻ lỡ, người lưỡi đắng, không nói được thuộc họ tim: bính đinh tỵ ngọ hoả bị suy nhược mà thành bệnh vậy; những người bị phù nề, phù thũng chân, vàng da, hôi miệng, đau bụng, lá lách lạnh, cơ hoành nóng thuộc họ lá lách: mậu kỷ thìn tuất sửu mùi thổ bị suy nhược mà thành bệnh; những người nghẹt mũi, tửu cảo, nói khó, tức giận, ho, quát tháo thuộc họ phổi: canh tân thân dậu bị suy nhược mà thành bệnh; bạch trọc (bệnh lậu), bạch đái (bệnh đàn bà khí hư), hoắc loạn (tên thứ bệnh truyền nhiễm - nôn mửa, đi tả, mất nước, chữa không kịp có thể chết), nôn mửa, đi tả, mất nước, chữa không kịp có thể chết, tiêu chảy, sán khi tiểu tràng - thoát vị ruột non, thuộc họ thận: nhâm quý hợi tý bị suy nhược mà thành bệnh.
Người giáp ất thấy canh tân thân dậu nhiều, các triệu chứng bên trong bao gồm gan mật, hồi hộp, bệnh lao phổi, tay chân tê cứng, gân cốt đau nhức; các triệu chứng bên ngoài gồm: chóng mặt hoa mắt, mắt miệng nghiêng lệch, chân tay tê dại do thần kinh bế tắc, bị đánh đập tổn thương nhiều lần. Gặp bính đinh hoả nhiều không có thuỷ trợ giúp, thì có đàm, thở khò khè, khạc ra máu, đột quỵ [trúng phong bất ngữ: xưa hay nói là trúng gió không nói chuyện được], da khô, nội tạng nóng, miệng khô. Phụ nữ chủ khí huyết thiếu điều hoà, người có mang bị sảy thai. Trẻ con bị kinh phong (co giật), khóc đêm, ho, sắc mặt nhợt nhạt.
Người bính đinh thấy nhâm quý hợi tý nhiều: các triệu chứng bên trong gồm nổi giận mà đau tim, bệnh động kinh (癲癇: điên giản), lưỡi cứng, miệng đau, khàn giọng, co giật nhanh và chậm, nói năng khó khăn. Các triệu chứng bên ngoài gồm bốc hoả, điên cuồng, mù loà, thoát vị ruột non (phàm chỗ rỗng trong thân thể bị trở ngại, làm cho gân thịt co rút, rồi phát ra đau đớn đều gọi là sán 疝), lở loét, ghẻ, máu mủ, nước tiểu đục. Phụ nữ chủ liên hệ đến kinh mạch, huyết khí không điều hoà. Trẻ con chủ đậu chẩn (đậu: đậu mùa, mụn trứng cá, chẩn: lên sởi), ghẻ lở, lác, mặt màu đỏ hồng.
Người mậu kỷ thấy nhiều giáp ất dần mão, các triệu chứng bên trong chủ lá lách, dạ dày không điều hoà, dạ dày không tiêu hoá thức ăn, nghẹt thở, chướng bụng, tiêu chảy, thức ăn vàng sình, ăn uống kén chọn, buồn nôn ói mửa; các triệu chứng bên ngoài tay phải nặng nề, phong thấp chạy khắp người, ngực bụng tắc nghẽn (痞 bĩ: chứng bệnh khí huyết không thông). Phụ nữ không muốn ăn uống, nuốt vị chua, suy nhược, ngáp và mõi mệt. Trẻ con chủ ngũ cam ngũ nhuyễn (năm loại suy dinh dưỡng và mềm yếu), nóng trong người hay ngũ gật, sắc mặt vàng vọt (痿 nuy: bệnh có một bộ phận trong cơ thể bị tê liệt, suy nhược, gân thịt mềm nhũn không cử động được).
Người canh tân thấy nhiều bính đinh tỵ ngọ, các triệu chứng bên trong chủ bệnh về ruột, trĩ lậu, chảy máu sau đại tiện, ho có đờm, hen suyễn khạc ra máu, mất hồn (魎魎失魂: lượng lượng thất hồn), suy nhược mệt mõi; bên ngoài chủ da khô, bệnh về phổi và mủi đỏ, bệnh sưng nhọt đọc ở lưng, mủ và máu, suy nhược. Phụ nữ chủ ho có đờm, huyết sản (chảy máu khi sanh đẻ). Trẻ con chủ mủ chảy ra từ mụn nhọt, bệnh lỵ, sắc mặt vàng trắng (Yellowish complexion - da vàng).
Người nhâm quý thấy nhiều mậu kỷ thìn tuất sửu mùi, các triệu chứng bên trong gồm di tinh, đổ mồ hôi đêm, mộng tinh, máu đục và thiếu máu, ớn lạnh, nghiến răng, tai điếc, mắt mù, thương hàn cảm mạo; triệu chứng bên ngoài chủ đau răng, thiên truỵ thận khí (một bên thận bị trệ xuống), đau lưng, đau đầu gối, tiểu khó, nôn mửa, sợ lạnh. Phụ nữ bệnh bạch đái (bệnh đàn bà khí hư - leucorrhea) quái thai, kinh nguyệt không điều hoà. Trẻ con chủ bệnh nhọt trong lỗ tai, ruột non đau nhức, làm ồn ào ban đêm, sắc mặt ủ rũ.
Phú nói rằng: gân cốt đau nhức, là do mộc bị kim thương tổn; mắt bị mờ tối nhất định là hoả bị thuỷ khắc; thổ hư gặp nơi mộc vượng nhất định phải luận lá lách bị thương tổn; kim nếu gặp đất hoả nóng, bệnh về máu huyết không nghi ngờ.
Lại nói rằng: mộc gặp kim khắc, nhất định chủ hoạ hại về eo lưng, xương sườn; hoả bị thuỷ thương tổn, nhất định chủ bệnh tật về mắt; tim phổi thở hổn hển, cũng do thiên can kim hoả hình nhau; tỳ vị bị tổn thương bởi vì cuộc chiến giữa thuỷ và thổ. Địa chi thuỷ mà thiên can có hoả nhất định bệnh ở bụng và buồn rầu; địa chi hoả thiên can gặp thuỷ thì đục thuỷ tinh thể và mù loà. Viêm thượng: lo lắng ánh lửa bốc lên chiếu sáng thổ, đầu hói, mắt mờ tối; nhuận hạ: ẩm ướt mà không có thổ chế phục, thận hư và bịt tai; hoả tinh (熒惑: huỳnh hoặc - vì sao này ẩn hiện bất định, làm người ta mê hoặc, nên gọi tên như thế) vượng đến ly tốn, đột quỵ và mất tiếng nói; thái bạch vững vàng có lợi khi hợp với đoài khôn, mất vía trước vũ khí.
Lại nói rằng: tim bị bệnh miệng không thể nói; gan bị bệnh mắt không thể nhìn; lá lách bệnh miệng không thể ăn; phổi bị bệnh mũi không thể ngửi; thận bị bệnh tai không thể nghe, mỗi thứ thuận theo sở chủ, vì chứng bệnh hư hay thật. Ôi chao! người bệnh có trăm mối, lý không có hai, nhìn, hỏi, nghe, bắt mạch chính là cách sử dụng tuyệt vời của thầy thuốc; sanh khắc chế hoá, là thần thông của thuật sĩ, nếu có thể nghiên cứu tìm tòi ngọn và gốc, không xa rời cách này.
Luận nói: khoẻ mạnh bình yên sanh ở sự hoà hợp, còn tật bệnh khởi ở hình thương. Nghiên cứu cái lý của ngũ hành suy vượng, ta có thể suy ra mặt ngoài hay bên trong của trăm thứ bệnh, bên trong ứng với ngũ tạng, bên ngoài thì thuộc tay chân. Lại như mộc khí hưu tù, hai bên tóc mai thưa thớt không mọc ra; hoả đến chỗ tử tuyệt thì hai con ngươi sẽ mờ tối không có ánh sáng; thổ ẩn trong hoả thiếu thuỷ chế thì tâm thần hoảng hốt; kim tàng dưới mộc không có thuỷ tiếp nhận thì đùi chân tổn thương. Giáp ất đoài sanh gặp nhâm quý chết trong cơn say; bính đinh khảm nuôi lớn gặp canh tân chết ở đường dẫn nước, bến cảng. Thuỷ vượng mộc nổi thường bị kiết lỵ; thổ nhiều kim bị chôn vùi thường bị bệnh khí cao. Các chứng hoa mắt, ất mộc vượng mà tân kim suy; đau ngứa lở loét, đinh hoả thịnh mà quý thuỷ nhược; tắc nghẽn và sưng tấy chỉ vì kỷ thổ quá nhiều; tức giận, trầm cảm, bệnh tật, tê liệt bởi vì tân kim không đủ. Giáp ất có thể thương tổn mậu kỷ, không có cứu nên sứt môi; bính đinh thích khắc canh tân, thiếu chế phục nên bị câm. Trong hoả có thổ, gáy cổ sẽ bị bệnh bìu (Lỗi lịch 瘰癧 bệnh tràng nhạc, trong cổ kết hạch từng chùm, Scrofula); trong thuỷ có thổ đau bụng (腹患蛊肿: phúc hoạn cổ trũng có lẽ là ngộ độc thức ăn). Dụng thần bị chế mà gặp hình mất mạng bởi hình phạt đòn roi; trên dưới gặp quỷ mà không có cứu treo cổ mà chết. Tứ trụ xung nặng thường hung xấu nên chôn thây nơi đất khách; ngũ hành suy bại không đủ mất mạng vì bệnh ôn dịch. Thuỷ bại nên lưng còng, chớ dùng phương pháp của Hiên Kỳ; kim hình lưng rùa phương thuốc của An Thi Lô Biển. Canh tân khí đẹp, phương tây thấy mộc nên chết trong binh đao; giáp ất bại tuyệt, khôn nam không có thuỷ nên người thân phi ???; tân tỵ, bính thân gặp hình, cánh tay yếu đuối mà người có sáu ngón; kỷ mão, mậu dần gặp kẻ thù: bao tử yếu nên thường xuyên bị lở loét; ất mùi, giáp ngọ gặp kim người thường buồn bực; quý mão kỷ sửu hình nhau bị bệnh ở eo lưng và đầu gối; giáp thân ất dậu tuổi thơ thường bị bệnh ở can kinh; tân mão canh dần tuổi già gân cốt căng thẳng. Bính hoả bị viêm con trai thường lo lắng ở thể xác và tinh thần; đinh hoả ẩm ướt, phụ nữ suy nhược, bệnh lao và huyết sản. Ngày giờ suy bại bệnh nặng khó trị liệu; thiên can địa chi hình hại bệnh nhẹ cũng không trị được. Khí thuận thì được bình an, khí nghịch sẽ có hoạ. Bệnh chứng không xa rời sáu mạch, sống chết khó vượt qua ngũ hành, nghiên cứu kỹ càng hưng suy, vạn điều không lỡ một điều nào.
Bài ca xưa hát rằng: mậu kỷ lúc sanh khí không trọn vẹn, cả hai trụ tháng và giờ thấy thương quan; nhất định sẽ có thiếu sót ở đầu và mặt, tuổi trẻ có bệnh nhọt mưng mủ máu.
Lại nói: can ngày bính đinh ngũ hành suy, thất sát đến với tam hợp, lên đến cả ngày tìm giúp cái ăn mặc còn thiếu, tai điếc tàn tật thấy cảnh đời ly loạn ô trọc.
Lại thêm: nhâm quý trùng diệp xếp hàng, thời thần nếu thấy thiên tài; cho dù trên đầu và mặt không có bệnh cùi, nhất định là người có bệnh về mắt.
Lại nói: con người sanh ra nhận khí ở cha, thành hình ở mẹ. Người có ngũ tạng hài hoà thì không tật bệnh, đánh nhau để kiềm chế quá nhiều, hay không đủ chủ có bệnh tật.
"Nội Kinh" nói rằng: phương đông sung mãn phương tây trống rỗng, phương nam tiêu chảy, phương bắc bù vá. Người phương đông sung mãn là mộc quá nhiều; người phương tây trống rỗng là không đủ kim; người phương nam tiêu chảy là hoả quá nhiều; người phương bắc bù vá là thuỷ không đủ vậy. Đúng là ngũ hành thái quá hay bất cập đều chủ mắc bệnh tật vậy. Nếu thuỷ dâng lên thì hoả hạ xuống, hoả hạ xuống nên kim thanh, kim thanh thì mộc yên ổn, mộc yên ổn thì thổ không thể bị chinh phục, ngũ tạng mổi cái đều được khí trung hoà làm sao có thể tự gây ra bệnh tật được?
"Âm Dương Thư": kim cứng hoả mạnh, nó tự hình về nơi của nó, mộc rơi rụng về gốc, thuỷ chảy thuận theo phương đông. Vì thế khi luận tam hình: hình sẽ tàn hại, nói quá nhiều mà thân mang tật vậy. Nếu chỉ chọn bất cập là tật bệnh, chắc chắn là một sai lầm. Thường người có ngũ hành tử tuyệt mà thành tật: thuỷ tử tuyệt chú ý thận khí, eo lưng và chân bị tấn công, bệnh không thuận lợi về bài tiết đại tiểu tiện; hoả tử tuyệt: chủ tắc nghẽn đường ruột, các bệnh sợ hãi, hay quên, tinh thần bất an; mộc tử tuyệt: khí hư, mắt tối tăm vì chóng mặt, chuột rút, móng tay chân hốc hác, rối loạn vui và giận, rối loạn về chọn lựa thức ăn đồ uống; kim tử tuyệt: chủ khí hư bệnh suyễn thở gấp, ho, da lông khô giòn, khớp xương đau nhức, chảy nước mắt, nước mũi, bệnh lỵ ruột già, có máu trong phân; thổ tử tuyệt: chủ mặt vàng, kém ăn, tắc nghẽn ói mửa, tay chân uể oải, lười biếng, có xu hướng nằm lơ mơ, thường suy nghĩ quá nhiều, tai điếc, lúng túng hay quên, không thích vận động làm việc.
Có trường hợp khắc nhau mà thành bệnh tật: kim hoả khắc nhau: sanh vượng thì nhọt, tê liệt, sưng tấy, còn tử tuyệt thì bệnh lao phổi, nôn ra máu; thổ mộc khắc nhau: sanh vượng chủ mệt mỏi, chóng mặt, bệnh thấp khớp, đau và sưng ở ruột non, còn tử tuyệt chủ về nôn mửa, chứng bệnh ứ đọng (stagnant disease), hoặc đột quỵ; kim mộc khắc nhau: sanh vượng chủ khớp xương lưng và chân không hoàn thiện, bệnh về mắt, còn tử tuyệt chủ khí hư, xuất tinh, bệnh lao, bệnh tê liệt do thần kinh bế tắc; thuỷ thổ khắc nhau: chủ tỳ ẩm, tiêu chảy, bệnh bất lợi như do ho có đờm quá nhiều.
Có trường hợp sanh nhau mà thành bệnh: hoả mộc sanh nhau: sanh vượng thì phần trên cơ thể tắc nghẽn, mắt đỏ, đầu phong; còn tử tuyệt thì thương hàn, trầm cảm, rối loạn. Hoả thổ sanh nhau: sanh vượng thì đầy bụng, còn tử tuyệt thì môi bỏng đỏ, nóng, đại tiện khó khăn. Kim thuỷ sanh nhau: sanh vượng thì khí ứ đọng, còn tử tuyệt thì thông thoáng; thuỷ mộc sanh nhau: sanh vượng thì ói mửa đến dạ dày trống rỗng, còn tử tuyệt thì tinh khí cạn kiệt, thương hàn, sốt rét. Kim thổ sanh nhau: sanh vượng thì thường thiếu hoặc không có cơ bắp, còn tử tuyệt thì ruột kén (腸鳴繭作: tràng minh kiển tác).
Hễ thuỷ thổ mộc gặp nhau ở nơi vô khí, chủ các bệnh chướng bụng do nhiểm trùng (蠱氣腸脹: cổ khí tràng trướng), nôn mửa; hễ kim thuỷ hoả gặp nhau ở nơi vô khí, chủ bệnh lỵ, kim chủ là ruột già, còn thuỷ hoả canh giữ nó mà âm dương không hài hoà.
Hễ thuỷ gặp thổ thường chủ bệnh rối loạn tiêu hoá; thổ nhiều mà không có thuỷ khí khai thông chủ bệnh điếc. Bời vì thận thuỷ không chảy thì rối loạn tiêu hoá, khí không lưu thông nên điếc vậy.
Lại nói: hễ luận tàn tật và bệnh chứng, trước tiên luận can ngày, kế đến phải biết rõ lệnh tháng, sau đó xem chung cả năm và giờ, thương quan chủ tàn tật, sát nhiều cũng vậy. Quẻ càn ở tại hợi, hợi là thiên môn, người sanh sáu ngày tân gặp ngày này giờ này thường chủ vể mù và điếc. Hợi thuộc thận, thận thì thông đến tai, bính hoả gặp thuỷ khắc; tý ở vị trí của cung khảm, thương quan sát nhiều hình nhau, chủ mắc bệnh ở phần dưới của cơ thể; dần là cung cấn thổ, chủ bệnh về lá lách dạ dày, sắc mặt vàng vọt, nhợt nhạt; thìn thuộc quẻ chấn: tháng này có thương quan tuổi trẻ chủ bệnh sợ hãi, bởi vì chấn là động vậy. Nhẹ thì chủ mắc bệnh về lá lách dạ dày, nặng thì chủ mắc bệnh về chân. Tỵ là quẻ tốn, thương quan sát nhiều chủ phụ nữ huyết khí không điều hoà, bệnh lao; ngọ là quẻ ly là mắt, thương quan sát nhiều chủ chứng mù loà, đầu phong; thân thuộc quẻ khôn. Vì lợi ích của tất cả, thương quan sát nhiều chủ mắc bệnh về eo lưng, chân, gân cốt; người thương quan thương tẫn không luận như vậy; dậu là quẻ đoài, thuộc về mắc bệnh nói lắp bắp (cà lăm). Tuất là khố của hoả, chủ phần dưới cơ thể mắc bệnh về máu, trĩ lậu. Sửu mùi thương quan cũng chủ về lá lách, dạ dày. Người thương quan sát vượng, năm này qua năm khác bệnh truyền nhiễm, chủ trên dưới chiến đấu để kiềm chế, ngũ hành không có cứu trợ chủ thân thể không hoàn thiện, đầu mặt thương tổn tàn tật.
Lại nói: thường tất cả các sát cũng chủ về bệnh tật, kiếp sát chủ mắc các bệnh về ruột non, lại chủ về tai điếc, cổ họng; quan phù chủ mắc bệnh ở eo lưng và chân; hàm trì chủ nghiện rượu, các bệnh lao phổi, máu mủ, đại tiểu tiện; chuế háo chủ ám muội, hoặc bệnh bướu nhọt; phi liêm còn có tên là thiên cổ, thiên can địa chi không có khí chủ mù loà. Thông tnường lộc là do ăn uống mà dẫn đến bệnh tật, đều phải có sát khắc thân mới đúng.
Hễ mệnh thấy chân xung khí tán hay chân hình khí tán, phần nhiều là người bị khuyết tật. Giáp thìn, giáp tuất, ất sửu, ất mùi thổ mộc giao nhau chủ mắc bệnh than hoán (bệnh do thần kinh bế tắc, chân tay tê dại. § Cũng gọi là phong than 風癱.); bính thân, đinh dậu, kim hoả kết hợp chủ thương tổn về máu và gân; mậu tý, kỷ hợi kết hợp thuỷ và thổ chủ mắc bệnh về lá lách, dạ dày; canh dần, tân mão kết hợp kim và mộc chủ mắc các bệnh về gân và xương, ho lao.
Hễ muốn suy xét bệnh tật tai ách, trước hết phải xem ba bậc lộc, mệnh thân, đại tiểu vận như thế nào? Nếu ba mệnh không có khí, lộc mã ở nơi bại tuyệt, nhưng mà gặp lộc tài, mệnh tài vượng tướng cũng không đến chết. Nếu cha mắc bệnh nên xem mệnh con mình, nếu như mệnh của con gặp cô thần, quả tú, tang môn, điếu khách cùng với bạch y sát ở mệnh, thì người cha nhất định mắc bệnh không thể cứu. Vợ chồng cũng xét theo tiêu chuẩn như thế.
论疾病先知五脏六腑所属干支
歌诀:甲胆乙肝丙小肠,丁心戊胃己脾乡;庚是大肠辛属肺,壬系膀胱癸肾藏;三焦亦向壬中寄,包络同归入癸乡。又曰:甲头乙顶丙肩求,丁心戊肋己属腹;庚是脐轮辛属股,壬胫癸足一身由。又曰:子属膀胱水道耳,丑为胞肚及脾乡;寅胆发脉并两手,卯本十指内肝方;辰土为皮肩胸类,已面咽齿下宾肛;午火精神司眼目,未土胃腕隔脊梁;申金大肠经络肺,酉中精血小肠藏;戌土命门腿踝足,亥水为头及肾囊;若依此法推人病,歧伯雷公也播扬。又曰:午头巳未两肩均,左右二膊是辰申;卯酉双肋寅戌腿,丑亥属脚子为阴。又曰:乾首坤腹坎耳俦,震足巽股艮手留;兑口离目分八卦,凡看疾病此推求。
夫疾病皆因五行不和,即人身五脏不和也。盖五行通于五脏,六腑通于九窍,凡十干受病属六腑,十二支受病属五脏。丙丁己午火局南离,主病在上;壬癸亥子水局北坎,主病在下;甲乙寅卯属震,主病在左;庚辛申酉属兑,主病在右;戊己辰戌丑未属坤艮,主病在脾胃及中脘。诸风晕掉、眼光日昏,血不调畅、早年落发、筋青瓜枯,属肝家甲乙寅卯木受亏主病故也;诸脓血疮疥、舌苦喑哑者,属心家丙丁巳午火受亏主病故也;浮肿、脚气、黄肿、口臭、翻胃、脾寒膈热者,属脾家戊己辰戌丑未土受亏主病故也;鼻塞酒槁、语蹇气结、咳嗽喊者,属肺家庚辛申酉受亏主病故也;白浊、白带、霍乱、泻痢、疝气小肠,属肾家壬癸亥子受亏主病故也。
甲乙见庚辛申酉多者,内主肝胆惊悸、劳瘵、手足顽麻、筋骨疼痛;外主头目眩晕、口眼歪斜、左瘫右痪,迭扑损伤。遇丙丁火多无水相济,则痰喘咯血、中风不语、皮肤干燥,内热口干。女人主血气欠调、有孕者堕胎。小儿急慢惊风、夜啼咳嗽、面色青黯是也。
丙丁见壬癸亥子多者,内主心气疼痛、颠痫舌强、口痛咽哑、急慢惊风、语言蹇涩;外主潮热发狂、眼暗失明、小肠疝气、疮疥脓血、小便淋浊。妇女主干血气经脉不调。小儿主痘疹、疥癣,面色红赤是也。
戊已见甲乙寅卯多者,内主脾胃不和,翻胃隔食、气噎蛊胀泄泻黄肿、择拣饮食、呕吐恶心;外主右手沉重、湿毒流注、胸腹痞塞。妇女主饮食不甘、吞酸、虚弱、呵欠困倦。小儿主五疳五软、内热好睡、面色痿黄是也。
庚辛见丙丁巳午多者,内主肠风痔漏、粪后下血、痰火咳嗽、气喘吐血、魉魉失魂、虚烦劳症;外主皮肤枯燥、肺风鼻赤、疽肿发背、脓血无力。妇女主痰嗽、血产。小儿主脓血、痢疾、面色黄白是也。
壬癸见戊已辰戌丑未多者,内主遗精盗汗夜梦鬼交、血浊虚损、寒战咬牙、耳聋眼盲、伤寒感冒;外主风虫牙痛、偏坠肾气、腰痛膝痛、淋沥、吐泻、怕冷恶寒。女人白带鬼胎、经水不调。小儿主耳中生疮、小肠疼痛、夜间作炒、面色黧里是也。
赋云:筋骨疼痛,盍因木被金伤;眼目暗昏,必是火遭水克;土虚逢木旺之乡,脾伤定论;金弱遇火炎之地,血疾无疑。又云:木逢金克,定主腰肋之灾;火被水伤,必主眼目之疾;心肺喘满,亦干金火相刑;脾胃损伤,盍因土水战克。支水干头有火遭,必腹病心懵;支火干头有水遇,则内障睛盲。炎上烦焦蒸土曜,头秃眼昏;润下纯湿无土制,肾虚耳闭;荧惑乘旺临离巽,中风失音;太白坚利合兑坤,兵前落魄。又云:心受病,口不能言;肝受病,目不能视;脾受病,口不能食;肺受病,鼻不能嗅;肾受病,耳不能听,各从所主,以证虚实。噫!人病百端,理无二焉,望问闻切,乃医家之妙用;生克制化,为术士之玄征,若能参究根源标本,不离斯法。论曰:康泰生于和合,疾病起于刑伤。究五行衰旺之理,推百病表里之详,内应五脏,外属四肢。且如木气休囚,两鬓消疏而不发;火临死绝,双瞳昏暗而无光;火中隐土少水制,则心神恍惚;木下藏金无水收,则腿足损伤。甲乙兑生逢壬癸,醉乡而死;丙丁坎育遇庚辛,沟港而亡。水盛木浮,多生泄痢;土重金埋,常病气高。诸风掉眩,乙木旺而辛金衰;疼痒疮疡,丁火盛而癸水弱;痞塞肿满,只因己土太过;愤郁病痿,盖为辛金不及。甲乙能伤戊已,无救而缺唇;丙丁善克庚辛,少制而喑哑。火中有土,项生瘰疬之灾;水中有土,腹患蛊肿之病。用神受制而被刑,亡于棒杖;上下逢鬼而无救,死作悬梁。四柱重冲多凶而他乡丧体,五行衰败不足而瘟疫亡身。水败腰驼,莫用轩岐之法;金刑龟背,安施卢扁之方。庚辛气秀,西方见木而亡于兵刃;甲乙败绝,坤南无水,而骨肉飞??;辛巳、丙申遇刑,臂虚而人生六指;己卯、戊寅逢敌,胃弱而常病疮疽;乙未、甲午逢金,人多鳖头;癸卯、已丑相刑,病生腰膝;甲申、乙酉,幼年多病肝经;辛卯、庚寅,晚年劳伤筋骨。丙火上炎,丈夫每忌于身心;丁火下湿,女人虚痨而血产。日时衰败,大患难疗;干支刑害,小疾不疗。气相得而安和,气相逆而灾殄。病症不离于六脉,死生难越乎五行,细究兴衰,万不失一。古歌曰:戊己生时气不全,月时两处见伤官;必当头面有亏损,脓血之疮苦少年。又曰:丙丁日干五行衰,七煞加临三合来,升合日求衣食缺,耳聋残疾面尘埃。又:壬癸重重叠叠排,时辰设若见天财;纵然头面无癍癞,定主其人眼目灾。
又曰:人之生也,受气于父,成形于母。五脏和平者无疾,战克太过不及者主疾。《内经》云:东方实西方虚,泻南方补北方。东方实者,木太过也;西方虚者,金不及也;泻南方者,火太过也;补北方者,水不及也。是以五行太过不及,皆主疾也。若水升而火降,火降而金清,金清而木平,木平而土不及克,五脏各得中和之气,疾病何自生焉?《阴阳书》:金刚火强,自刑其方,木落归本,水流趋东。所以论三刑,刑则残害,言太过而身疾也。若只取不及为疾,必有一偏之失。凡五行有死绝而成疾者:水死绝,多肾气腰足攻注,滑泄便溺不利之疾;火死绝,主肠气结塞、惊悸健忘,精神不安之疾;木死绝虚风目涩眩晕,筋急、爪甲桔悴、喜怒颠倒,择饮择食之疾;金死绝,主气虚喘急、咳嗽、皮毛焦燥干啬、骨节疼痛、涕泪、大肠泄痢、便血之疾;土死绝,主面黄、减食、隔噻吐逆、肢体怠惰、喜卧嗜睡、多思足虑、耳聋、神浊健忘、少喜动作之疾。
有相克而成疾者:金火相克,生旺则疡疮瘫肿,死绝则痨瘵呕血;土木相克,生旺主疲闷昏眩、风麻、小肠疾痛肿,死绝主吐食症块,疽癖积滞之疾,或主中风;金木相克,生旺主肢足骨节不完、眼目之疾,死绝主气虚精脱、痨疾瘫痪之疾;水土相克,主脾湿泄泻、中满痰嗽不利之疾。
有相生而生疾者:火木相生,生旺则上盛隔壅,目赤头风;死绝则伤寒作狂、闷乱疾。火土相生,生旺则胃实;死绝则唇焦红气、热结大便不利。金水是相生,生旺则气滞,死绝则晴滑;水木相生,生旺则呕吐胃虚;死绝则精败、伤寒粘疟。金土相生,生旺则多虚无肌肉死绝肠鸣茧作。
凡水土木相逢于无气之处,主蛊气肠胀、吐逆之疾;凡金水火相逢于无气之地,主痢疾,金主大肠,水火守之,阴阳不和也。
凡水逢土,多主翻胃疾;土多而无水气疏之,主聋聩疾。盖肾水不流则翻胃,气不能则为聩也。
又曰:凡论残疾病症,先论日干,次详月令,然后通年时看之,伤官主残疾,煞重亦然。乾卦在亥,亥为天门,六辛生人得此日此时,多主盲聋。亥属肾,肾通耳,丙火遭水克也;子位坎宫,伤官煞重相刑,主下部疾;寅宫艮土,主脾胃,面色痿黄之疾;辰属震;此月带伤官,少年主多惊疾,盖震者动也。轻则主惊脾胃疾,重则主足疾。巳为巽,伤官煞重,主妇女血气不调,劳疾;午为离为目,伤官煞重,主失明头风之症;申属坤。为众阴,伤官煞重,主腰脚筋骨之疾;伤官伤尽者不在此论;酉为兑,属口齿不完之疾。戌为火库,主下血痔漏之疾。丑未伤官,亦主脾胃。伤官煞旺者,年年病瘟,主用上下战克、五行无救助,主身体不完,头面残伤。
又曰:凡一切诸煞亦有主疾者,劫煞主小肠,又主耳聋、咽喉疾;官符主腰脚疾;咸池主酒色、劳瘵、脓血、便溺疾;赘耗主暗昧,或赘疣疾;飞廉名天瞽,支干无气,主无目。凡禄因食致疾,须带煞克身方是。
凡命见真冲气散,或真刑气散,多是废疾之人。甲辰、甲戊、乙丑、乙未,土木交加,主瘫痪之疾;丙申、丁酉,金火交加,主血筋所伤;戊子、己亥,水土交加,主脾胃之疾;庚寅、辛卯,金木交加,主筋骨劳嗽之疾。
凡欲推疾病灾厄,先看禄命身三等,大小运如何?若三命无气,禄马败绝,但得禄财、命财、旺相,亦不至死。若父病推其子命,如子命遇孤辰、寡宿、丧门、吊客及白衣煞临命,其父必有不可救之疾。夫妻亦准此推。
.
Luận Tật Bệnh Tiên Tri Ngũ Tạng Lục Phủ Sở Thuộc Can Chi
Ca Quyết: giáp mật, ất gan, bính ruột non, đinh tim, mậu dạ dày, kỷ lá lách; canh ruột già, tân là phổi, nhâm là bọng đái, quý là thận; tam tiêu (chỉ thượng tiêu 上焦, trung tiêu 中焦 và hạ tiêu 下焦 (miệng trên của dạ dày, phần giữa của dạ dày, và miệng trên của bàng quang) cũng hướng về nhờ trong nhâm, bao lạc cùng thuộc về nơi quý.
Lại nói: giáp đầu, ất đỉnh, bính là vai, đinh tim, mậu xương sườn, kỷ là bụng; canh rốn, tân là đùi, nhâm cẳng chân (từ đấu gối xuống chân) quý chân, toàn thân được dùng.
Lại nói: tý thuộc về đường thuỷ của bàng quang và tai, sửu là nhau, ruột với dạ dày, lá lách; dần mật , huyết mạch và hai tay, mão vốn là mười ngón tay và bên trong gan; thìn là da, vai và ngực, tỵ mặt, cổ họng, răng và hậu môn; ngọ hoả tinh thần quản về mắt; mùi thổ dạ dày, cổ tay cách xa xương sống; thân kim ruột già, kinh lạc phổi; dậu tinh huyết tàng trong ruột non; tuất thổ mệnh môn (kinh huyệt ở khoảng giữa hai trái thận), đùi, mắt cá chân và bàn chân; hợi thuỷ là đầu với nang thận; nếu trị bệnh theo cách này, Bá Lôi Công cũng lan truyền ra xa.
Lại nói: ngọ đầu tỵ mùi là hai vai, trái phải hai cánh tay là thìn thân; mão dậu hai bên sườn; dần tuất đùi, sửu hợi là chân; tý là bộ phận sinh dục.
Lại nói: càn đầu khôn bụng khảm là tai, chấn chân, tốn đùi, cấn là tay; đoài miệng, ly mắt chia theo bát quái, hễ xem tật bệnh theo đó mà tìm.
Tất cả tật bệnh đều do ngũ hành không điều hoà, tức là ngũ tạng trong thân người không điều hoà vậy. Bởi ngũ hành thông suốt ở ngũ tạng, lục phủ thông ở chín lỗ (cửu khiếu, tức là khí quan) trên thân thể con người, hễ mười thiên can bị bệnh thuộc về lục phủ, mười hai địa chi bị bệnh thuộc về ngũ tạng. Bính đinh tỵ ngọ hoả cục thuộc phương nam quẻ ly, chủ bệnh ở phía trên; nhâm quý hợi tý thuỷ cục thuộc phương bắc quẻ khảm, chủ bệnh ở phía dưới; giáp ất dần mão thuộc chấn chủ bệnh ở bên trái; canh tân thân dậu thuộc đoài chủ bệnh ở bên phải; mậu kỷ thìn tuất sửu mùi thuộc khôn cấn chủ bệnh ở lá lách, dạ dày cùng với phần giữa xoang dạ dày. Những người chóng mặt vì gió, mắt mờ, máu huyết kém, rụng tóc sớm, bắp thịt khô như quả dưa chuột, thuộc về họ gan: giáp ất dần mão mộc bị hư nhược nên thành bệnh; những bệnh nhọt máu mủ, ghẻ lỡ, người lưỡi đắng, không nói được thuộc họ tim: bính đinh tỵ ngọ hoả bị suy nhược mà thành bệnh vậy; những người bị phù nề, phù thũng chân, vàng da, hôi miệng, đau bụng, lá lách lạnh, cơ hoành nóng thuộc họ lá lách: mậu kỷ thìn tuất sửu mùi thổ bị suy nhược mà thành bệnh; những người nghẹt mũi, tửu cảo, nói khó, tức giận, ho, quát tháo thuộc họ phổi: canh tân thân dậu bị suy nhược mà thành bệnh; bạch trọc (bệnh lậu), bạch đái (bệnh đàn bà khí hư), hoắc loạn (tên thứ bệnh truyền nhiễm - nôn mửa, đi tả, mất nước, chữa không kịp có thể chết), nôn mửa, đi tả, mất nước, chữa không kịp có thể chết, tiêu chảy, sán khi tiểu tràng - thoát vị ruột non, thuộc họ thận: nhâm quý hợi tý bị suy nhược mà thành bệnh.
Người giáp ất thấy canh tân thân dậu nhiều, các triệu chứng bên trong bao gồm gan mật, hồi hộp, bệnh lao phổi, tay chân tê cứng, gân cốt đau nhức; các triệu chứng bên ngoài gồm: chóng mặt hoa mắt, mắt miệng nghiêng lệch, chân tay tê dại do thần kinh bế tắc, bị đánh đập tổn thương nhiều lần. Gặp bính đinh hoả nhiều không có thuỷ trợ giúp, thì có đàm, thở khò khè, khạc ra máu, đột quỵ [trúng phong bất ngữ: xưa hay nói là trúng gió không nói chuyện được], da khô, nội tạng nóng, miệng khô. Phụ nữ chủ khí huyết thiếu điều hoà, người có mang bị sảy thai. Trẻ con bị kinh phong (co giật), khóc đêm, ho, sắc mặt nhợt nhạt.
Người bính đinh thấy nhâm quý hợi tý nhiều: các triệu chứng bên trong gồm nổi giận mà đau tim, bệnh động kinh (癲癇: điên giản), lưỡi cứng, miệng đau, khàn giọng, co giật nhanh và chậm, nói năng khó khăn. Các triệu chứng bên ngoài gồm bốc hoả, điên cuồng, mù loà, thoát vị ruột non (phàm chỗ rỗng trong thân thể bị trở ngại, làm cho gân thịt co rút, rồi phát ra đau đớn đều gọi là sán 疝), lở loét, ghẻ, máu mủ, nước tiểu đục. Phụ nữ chủ liên hệ đến kinh mạch, huyết khí không điều hoà. Trẻ con chủ đậu chẩn (đậu: đậu mùa, mụn trứng cá, chẩn: lên sởi), ghẻ lở, lác, mặt màu đỏ hồng.
Người mậu kỷ thấy nhiều giáp ất dần mão, các triệu chứng bên trong chủ lá lách, dạ dày không điều hoà, dạ dày không tiêu hoá thức ăn, nghẹt thở, chướng bụng, tiêu chảy, thức ăn vàng sình, ăn uống kén chọn, buồn nôn ói mửa; các triệu chứng bên ngoài tay phải nặng nề, phong thấp chạy khắp người, ngực bụng tắc nghẽn (痞 bĩ: chứng bệnh khí huyết không thông). Phụ nữ không muốn ăn uống, nuốt vị chua, suy nhược, ngáp và mõi mệt. Trẻ con chủ ngũ cam ngũ nhuyễn (năm loại suy dinh dưỡng và mềm yếu), nóng trong người hay ngũ gật, sắc mặt vàng vọt (痿 nuy: bệnh có một bộ phận trong cơ thể bị tê liệt, suy nhược, gân thịt mềm nhũn không cử động được).
Người canh tân thấy nhiều bính đinh tỵ ngọ, các triệu chứng bên trong chủ bệnh về ruột, trĩ lậu, chảy máu sau đại tiện, ho có đờm, hen suyễn khạc ra máu, mất hồn (魎魎失魂: lượng lượng thất hồn), suy nhược mệt mõi; bên ngoài chủ da khô, bệnh về phổi và mủi đỏ, bệnh sưng nhọt đọc ở lưng, mủ và máu, suy nhược. Phụ nữ chủ ho có đờm, huyết sản (chảy máu khi sanh đẻ). Trẻ con chủ mủ chảy ra từ mụn nhọt, bệnh lỵ, sắc mặt vàng trắng (Yellowish complexion - da vàng).
Người nhâm quý thấy nhiều mậu kỷ thìn tuất sửu mùi, các triệu chứng bên trong gồm di tinh, đổ mồ hôi đêm, mộng tinh, máu đục và thiếu máu, ớn lạnh, nghiến răng, tai điếc, mắt mù, thương hàn cảm mạo; triệu chứng bên ngoài chủ đau răng, thiên truỵ thận khí (một bên thận bị trệ xuống), đau lưng, đau đầu gối, tiểu khó, nôn mửa, sợ lạnh. Phụ nữ bệnh bạch đái (bệnh đàn bà khí hư - leucorrhea) quái thai, kinh nguyệt không điều hoà. Trẻ con chủ bệnh nhọt trong lỗ tai, ruột non đau nhức, làm ồn ào ban đêm, sắc mặt ủ rũ.
Phú nói rằng: gân cốt đau nhức, là do mộc bị kim thương tổn; mắt bị mờ tối nhất định là hoả bị thuỷ khắc; thổ hư gặp nơi mộc vượng nhất định phải luận lá lách bị thương tổn; kim nếu gặp đất hoả nóng, bệnh về máu huyết không nghi ngờ.
Lại nói rằng: mộc gặp kim khắc, nhất định chủ hoạ hại về eo lưng, xương sườn; hoả bị thuỷ thương tổn, nhất định chủ bệnh tật về mắt; tim phổi thở hổn hển, cũng do thiên can kim hoả hình nhau; tỳ vị bị tổn thương bởi vì cuộc chiến giữa thuỷ và thổ. Địa chi thuỷ mà thiên can có hoả nhất định bệnh ở bụng và buồn rầu; địa chi hoả thiên can gặp thuỷ thì đục thuỷ tinh thể và mù loà. Viêm thượng: lo lắng ánh lửa bốc lên chiếu sáng thổ, đầu hói, mắt mờ tối; nhuận hạ: ẩm ướt mà không có thổ chế phục, thận hư và bịt tai; hoả tinh (熒惑: huỳnh hoặc - vì sao này ẩn hiện bất định, làm người ta mê hoặc, nên gọi tên như thế) vượng đến ly tốn, đột quỵ và mất tiếng nói; thái bạch vững vàng có lợi khi hợp với đoài khôn, mất vía trước vũ khí.
Lại nói rằng: tim bị bệnh miệng không thể nói; gan bị bệnh mắt không thể nhìn; lá lách bệnh miệng không thể ăn; phổi bị bệnh mũi không thể ngửi; thận bị bệnh tai không thể nghe, mỗi thứ thuận theo sở chủ, vì chứng bệnh hư hay thật. Ôi chao! người bệnh có trăm mối, lý không có hai, nhìn, hỏi, nghe, bắt mạch chính là cách sử dụng tuyệt vời của thầy thuốc; sanh khắc chế hoá, là thần thông của thuật sĩ, nếu có thể nghiên cứu tìm tòi ngọn và gốc, không xa rời cách này.
Luận nói: khoẻ mạnh bình yên sanh ở sự hoà hợp, còn tật bệnh khởi ở hình thương. Nghiên cứu cái lý của ngũ hành suy vượng, ta có thể suy ra mặt ngoài hay bên trong của trăm thứ bệnh, bên trong ứng với ngũ tạng, bên ngoài thì thuộc tay chân. Lại như mộc khí hưu tù, hai bên tóc mai thưa thớt không mọc ra; hoả đến chỗ tử tuyệt thì hai con ngươi sẽ mờ tối không có ánh sáng; thổ ẩn trong hoả thiếu thuỷ chế thì tâm thần hoảng hốt; kim tàng dưới mộc không có thuỷ tiếp nhận thì đùi chân tổn thương. Giáp ất đoài sanh gặp nhâm quý chết trong cơn say; bính đinh khảm nuôi lớn gặp canh tân chết ở đường dẫn nước, bến cảng. Thuỷ vượng mộc nổi thường bị kiết lỵ; thổ nhiều kim bị chôn vùi thường bị bệnh khí cao. Các chứng hoa mắt, ất mộc vượng mà tân kim suy; đau ngứa lở loét, đinh hoả thịnh mà quý thuỷ nhược; tắc nghẽn và sưng tấy chỉ vì kỷ thổ quá nhiều; tức giận, trầm cảm, bệnh tật, tê liệt bởi vì tân kim không đủ. Giáp ất có thể thương tổn mậu kỷ, không có cứu nên sứt môi; bính đinh thích khắc canh tân, thiếu chế phục nên bị câm. Trong hoả có thổ, gáy cổ sẽ bị bệnh bìu (Lỗi lịch 瘰癧 bệnh tràng nhạc, trong cổ kết hạch từng chùm, Scrofula); trong thuỷ có thổ đau bụng (腹患蛊肿: phúc hoạn cổ trũng có lẽ là ngộ độc thức ăn). Dụng thần bị chế mà gặp hình mất mạng bởi hình phạt đòn roi; trên dưới gặp quỷ mà không có cứu treo cổ mà chết. Tứ trụ xung nặng thường hung xấu nên chôn thây nơi đất khách; ngũ hành suy bại không đủ mất mạng vì bệnh ôn dịch. Thuỷ bại nên lưng còng, chớ dùng phương pháp của Hiên Kỳ; kim hình lưng rùa phương thuốc của An Thi Lô Biển. Canh tân khí đẹp, phương tây thấy mộc nên chết trong binh đao; giáp ất bại tuyệt, khôn nam không có thuỷ nên người thân phi ???; tân tỵ, bính thân gặp hình, cánh tay yếu đuối mà người có sáu ngón; kỷ mão, mậu dần gặp kẻ thù: bao tử yếu nên thường xuyên bị lở loét; ất mùi, giáp ngọ gặp kim người thường buồn bực; quý mão kỷ sửu hình nhau bị bệnh ở eo lưng và đầu gối; giáp thân ất dậu tuổi thơ thường bị bệnh ở can kinh; tân mão canh dần tuổi già gân cốt căng thẳng. Bính hoả bị viêm con trai thường lo lắng ở thể xác và tinh thần; đinh hoả ẩm ướt, phụ nữ suy nhược, bệnh lao và huyết sản. Ngày giờ suy bại bệnh nặng khó trị liệu; thiên can địa chi hình hại bệnh nhẹ cũng không trị được. Khí thuận thì được bình an, khí nghịch sẽ có hoạ. Bệnh chứng không xa rời sáu mạch, sống chết khó vượt qua ngũ hành, nghiên cứu kỹ càng hưng suy, vạn điều không lỡ một điều nào.
Bài ca xưa hát rằng: mậu kỷ lúc sanh khí không trọn vẹn, cả hai trụ tháng và giờ thấy thương quan; nhất định sẽ có thiếu sót ở đầu và mặt, tuổi trẻ có bệnh nhọt mưng mủ máu.
Lại nói: can ngày bính đinh ngũ hành suy, thất sát đến với tam hợp, lên đến cả ngày tìm giúp cái ăn mặc còn thiếu, tai điếc tàn tật thấy cảnh đời ly loạn ô trọc.
Lại thêm: nhâm quý trùng diệp xếp hàng, thời thần nếu thấy thiên tài; cho dù trên đầu và mặt không có bệnh cùi, nhất định là người có bệnh về mắt.
Lại nói: con người sanh ra nhận khí ở cha, thành hình ở mẹ. Người có ngũ tạng hài hoà thì không tật bệnh, đánh nhau để kiềm chế quá nhiều, hay không đủ chủ có bệnh tật.
"Nội Kinh" nói rằng: phương đông sung mãn phương tây trống rỗng, phương nam tiêu chảy, phương bắc bù vá. Người phương đông sung mãn là mộc quá nhiều; người phương tây trống rỗng là không đủ kim; người phương nam tiêu chảy là hoả quá nhiều; người phương bắc bù vá là thuỷ không đủ vậy. Đúng là ngũ hành thái quá hay bất cập đều chủ mắc bệnh tật vậy. Nếu thuỷ dâng lên thì hoả hạ xuống, hoả hạ xuống nên kim thanh, kim thanh thì mộc yên ổn, mộc yên ổn thì thổ không thể bị chinh phục, ngũ tạng mổi cái đều được khí trung hoà làm sao có thể tự gây ra bệnh tật được?
"Âm Dương Thư": kim cứng hoả mạnh, nó tự hình về nơi của nó, mộc rơi rụng về gốc, thuỷ chảy thuận theo phương đông. Vì thế khi luận tam hình: hình sẽ tàn hại, nói quá nhiều mà thân mang tật vậy. Nếu chỉ chọn bất cập là tật bệnh, chắc chắn là một sai lầm. Thường người có ngũ hành tử tuyệt mà thành tật: thuỷ tử tuyệt chú ý thận khí, eo lưng và chân bị tấn công, bệnh không thuận lợi về bài tiết đại tiểu tiện; hoả tử tuyệt: chủ tắc nghẽn đường ruột, các bệnh sợ hãi, hay quên, tinh thần bất an; mộc tử tuyệt: khí hư, mắt tối tăm vì chóng mặt, chuột rút, móng tay chân hốc hác, rối loạn vui và giận, rối loạn về chọn lựa thức ăn đồ uống; kim tử tuyệt: chủ khí hư bệnh suyễn thở gấp, ho, da lông khô giòn, khớp xương đau nhức, chảy nước mắt, nước mũi, bệnh lỵ ruột già, có máu trong phân; thổ tử tuyệt: chủ mặt vàng, kém ăn, tắc nghẽn ói mửa, tay chân uể oải, lười biếng, có xu hướng nằm lơ mơ, thường suy nghĩ quá nhiều, tai điếc, lúng túng hay quên, không thích vận động làm việc.
Có trường hợp khắc nhau mà thành bệnh tật: kim hoả khắc nhau: sanh vượng thì nhọt, tê liệt, sưng tấy, còn tử tuyệt thì bệnh lao phổi, nôn ra máu; thổ mộc khắc nhau: sanh vượng chủ mệt mỏi, chóng mặt, bệnh thấp khớp, đau và sưng ở ruột non, còn tử tuyệt chủ về nôn mửa, chứng bệnh ứ đọng (stagnant disease), hoặc đột quỵ; kim mộc khắc nhau: sanh vượng chủ khớp xương lưng và chân không hoàn thiện, bệnh về mắt, còn tử tuyệt chủ khí hư, xuất tinh, bệnh lao, bệnh tê liệt do thần kinh bế tắc; thuỷ thổ khắc nhau: chủ tỳ ẩm, tiêu chảy, bệnh bất lợi như do ho có đờm quá nhiều.
Có trường hợp sanh nhau mà thành bệnh: hoả mộc sanh nhau: sanh vượng thì phần trên cơ thể tắc nghẽn, mắt đỏ, đầu phong; còn tử tuyệt thì thương hàn, trầm cảm, rối loạn. Hoả thổ sanh nhau: sanh vượng thì đầy bụng, còn tử tuyệt thì môi bỏng đỏ, nóng, đại tiện khó khăn. Kim thuỷ sanh nhau: sanh vượng thì khí ứ đọng, còn tử tuyệt thì thông thoáng; thuỷ mộc sanh nhau: sanh vượng thì ói mửa đến dạ dày trống rỗng, còn tử tuyệt thì tinh khí cạn kiệt, thương hàn, sốt rét. Kim thổ sanh nhau: sanh vượng thì thường thiếu hoặc không có cơ bắp, còn tử tuyệt thì ruột kén (腸鳴繭作: tràng minh kiển tác).
Hễ thuỷ thổ mộc gặp nhau ở nơi vô khí, chủ các bệnh chướng bụng do nhiểm trùng (蠱氣腸脹: cổ khí tràng trướng), nôn mửa; hễ kim thuỷ hoả gặp nhau ở nơi vô khí, chủ bệnh lỵ, kim chủ là ruột già, còn thuỷ hoả canh giữ nó mà âm dương không hài hoà.
Hễ thuỷ gặp thổ thường chủ bệnh rối loạn tiêu hoá; thổ nhiều mà không có thuỷ khí khai thông chủ bệnh điếc. Bời vì thận thuỷ không chảy thì rối loạn tiêu hoá, khí không lưu thông nên điếc vậy.
Lại nói: hễ luận tàn tật và bệnh chứng, trước tiên luận can ngày, kế đến phải biết rõ lệnh tháng, sau đó xem chung cả năm và giờ, thương quan chủ tàn tật, sát nhiều cũng vậy. Quẻ càn ở tại hợi, hợi là thiên môn, người sanh sáu ngày tân gặp ngày này giờ này thường chủ vể mù và điếc. Hợi thuộc thận, thận thì thông đến tai, bính hoả gặp thuỷ khắc; tý ở vị trí của cung khảm, thương quan sát nhiều hình nhau, chủ mắc bệnh ở phần dưới của cơ thể; dần là cung cấn thổ, chủ bệnh về lá lách dạ dày, sắc mặt vàng vọt, nhợt nhạt; thìn thuộc quẻ chấn: tháng này có thương quan tuổi trẻ chủ bệnh sợ hãi, bởi vì chấn là động vậy. Nhẹ thì chủ mắc bệnh về lá lách dạ dày, nặng thì chủ mắc bệnh về chân. Tỵ là quẻ tốn, thương quan sát nhiều chủ phụ nữ huyết khí không điều hoà, bệnh lao; ngọ là quẻ ly là mắt, thương quan sát nhiều chủ chứng mù loà, đầu phong; thân thuộc quẻ khôn. Vì lợi ích của tất cả, thương quan sát nhiều chủ mắc bệnh về eo lưng, chân, gân cốt; người thương quan thương tẫn không luận như vậy; dậu là quẻ đoài, thuộc về mắc bệnh nói lắp bắp (cà lăm). Tuất là khố của hoả, chủ phần dưới cơ thể mắc bệnh về máu, trĩ lậu. Sửu mùi thương quan cũng chủ về lá lách, dạ dày. Người thương quan sát vượng, năm này qua năm khác bệnh truyền nhiễm, chủ trên dưới chiến đấu để kiềm chế, ngũ hành không có cứu trợ chủ thân thể không hoàn thiện, đầu mặt thương tổn tàn tật.
Lại nói: thường tất cả các sát cũng chủ về bệnh tật, kiếp sát chủ mắc các bệnh về ruột non, lại chủ về tai điếc, cổ họng; quan phù chủ mắc bệnh ở eo lưng và chân; hàm trì chủ nghiện rượu, các bệnh lao phổi, máu mủ, đại tiểu tiện; chuế háo chủ ám muội, hoặc bệnh bướu nhọt; phi liêm còn có tên là thiên cổ, thiên can địa chi không có khí chủ mù loà. Thông tnường lộc là do ăn uống mà dẫn đến bệnh tật, đều phải có sát khắc thân mới đúng.
Hễ mệnh thấy chân xung khí tán hay chân hình khí tán, phần nhiều là người bị khuyết tật. Giáp thìn, giáp tuất, ất sửu, ất mùi thổ mộc giao nhau chủ mắc bệnh than hoán (bệnh do thần kinh bế tắc, chân tay tê dại. § Cũng gọi là phong than 風癱.); bính thân, đinh dậu, kim hoả kết hợp chủ thương tổn về máu và gân; mậu tý, kỷ hợi kết hợp thuỷ và thổ chủ mắc bệnh về lá lách, dạ dày; canh dần, tân mão kết hợp kim và mộc chủ mắc các bệnh về gân và xương, ho lao.
Hễ muốn suy xét bệnh tật tai ách, trước hết phải xem ba bậc lộc, mệnh thân, đại tiểu vận như thế nào? Nếu ba mệnh không có khí, lộc mã ở nơi bại tuyệt, nhưng mà gặp lộc tài, mệnh tài vượng tướng cũng không đến chết. Nếu cha mắc bệnh nên xem mệnh con mình, nếu như mệnh của con gặp cô thần, quả tú, tang môn, điếu khách cùng với bạch y sát ở mệnh, thì người cha nhất định mắc bệnh không thể cứu. Vợ chồng cũng xét theo tiêu chuẩn như thế.
论疾病先知五脏六腑所属干支
歌诀:甲胆乙肝丙小肠,丁心戊胃己脾乡;庚是大肠辛属肺,壬系膀胱癸肾藏;三焦亦向壬中寄,包络同归入癸乡。又曰:甲头乙顶丙肩求,丁心戊肋己属腹;庚是脐轮辛属股,壬胫癸足一身由。又曰:子属膀胱水道耳,丑为胞肚及脾乡;寅胆发脉并两手,卯本十指内肝方;辰土为皮肩胸类,已面咽齿下宾肛;午火精神司眼目,未土胃腕隔脊梁;申金大肠经络肺,酉中精血小肠藏;戌土命门腿踝足,亥水为头及肾囊;若依此法推人病,歧伯雷公也播扬。又曰:午头巳未两肩均,左右二膊是辰申;卯酉双肋寅戌腿,丑亥属脚子为阴。又曰:乾首坤腹坎耳俦,震足巽股艮手留;兑口离目分八卦,凡看疾病此推求。
夫疾病皆因五行不和,即人身五脏不和也。盖五行通于五脏,六腑通于九窍,凡十干受病属六腑,十二支受病属五脏。丙丁己午火局南离,主病在上;壬癸亥子水局北坎,主病在下;甲乙寅卯属震,主病在左;庚辛申酉属兑,主病在右;戊己辰戌丑未属坤艮,主病在脾胃及中脘。诸风晕掉、眼光日昏,血不调畅、早年落发、筋青瓜枯,属肝家甲乙寅卯木受亏主病故也;诸脓血疮疥、舌苦喑哑者,属心家丙丁巳午火受亏主病故也;浮肿、脚气、黄肿、口臭、翻胃、脾寒膈热者,属脾家戊己辰戌丑未土受亏主病故也;鼻塞酒槁、语蹇气结、咳嗽喊者,属肺家庚辛申酉受亏主病故也;白浊、白带、霍乱、泻痢、疝气小肠,属肾家壬癸亥子受亏主病故也。
甲乙见庚辛申酉多者,内主肝胆惊悸、劳瘵、手足顽麻、筋骨疼痛;外主头目眩晕、口眼歪斜、左瘫右痪,迭扑损伤。遇丙丁火多无水相济,则痰喘咯血、中风不语、皮肤干燥,内热口干。女人主血气欠调、有孕者堕胎。小儿急慢惊风、夜啼咳嗽、面色青黯是也。
丙丁见壬癸亥子多者,内主心气疼痛、颠痫舌强、口痛咽哑、急慢惊风、语言蹇涩;外主潮热发狂、眼暗失明、小肠疝气、疮疥脓血、小便淋浊。妇女主干血气经脉不调。小儿主痘疹、疥癣,面色红赤是也。
戊已见甲乙寅卯多者,内主脾胃不和,翻胃隔食、气噎蛊胀泄泻黄肿、择拣饮食、呕吐恶心;外主右手沉重、湿毒流注、胸腹痞塞。妇女主饮食不甘、吞酸、虚弱、呵欠困倦。小儿主五疳五软、内热好睡、面色痿黄是也。
庚辛见丙丁巳午多者,内主肠风痔漏、粪后下血、痰火咳嗽、气喘吐血、魉魉失魂、虚烦劳症;外主皮肤枯燥、肺风鼻赤、疽肿发背、脓血无力。妇女主痰嗽、血产。小儿主脓血、痢疾、面色黄白是也。
壬癸见戊已辰戌丑未多者,内主遗精盗汗夜梦鬼交、血浊虚损、寒战咬牙、耳聋眼盲、伤寒感冒;外主风虫牙痛、偏坠肾气、腰痛膝痛、淋沥、吐泻、怕冷恶寒。女人白带鬼胎、经水不调。小儿主耳中生疮、小肠疼痛、夜间作炒、面色黧里是也。
赋云:筋骨疼痛,盍因木被金伤;眼目暗昏,必是火遭水克;土虚逢木旺之乡,脾伤定论;金弱遇火炎之地,血疾无疑。又云:木逢金克,定主腰肋之灾;火被水伤,必主眼目之疾;心肺喘满,亦干金火相刑;脾胃损伤,盍因土水战克。支水干头有火遭,必腹病心懵;支火干头有水遇,则内障睛盲。炎上烦焦蒸土曜,头秃眼昏;润下纯湿无土制,肾虚耳闭;荧惑乘旺临离巽,中风失音;太白坚利合兑坤,兵前落魄。又云:心受病,口不能言;肝受病,目不能视;脾受病,口不能食;肺受病,鼻不能嗅;肾受病,耳不能听,各从所主,以证虚实。噫!人病百端,理无二焉,望问闻切,乃医家之妙用;生克制化,为术士之玄征,若能参究根源标本,不离斯法。论曰:康泰生于和合,疾病起于刑伤。究五行衰旺之理,推百病表里之详,内应五脏,外属四肢。且如木气休囚,两鬓消疏而不发;火临死绝,双瞳昏暗而无光;火中隐土少水制,则心神恍惚;木下藏金无水收,则腿足损伤。甲乙兑生逢壬癸,醉乡而死;丙丁坎育遇庚辛,沟港而亡。水盛木浮,多生泄痢;土重金埋,常病气高。诸风掉眩,乙木旺而辛金衰;疼痒疮疡,丁火盛而癸水弱;痞塞肿满,只因己土太过;愤郁病痿,盖为辛金不及。甲乙能伤戊已,无救而缺唇;丙丁善克庚辛,少制而喑哑。火中有土,项生瘰疬之灾;水中有土,腹患蛊肿之病。用神受制而被刑,亡于棒杖;上下逢鬼而无救,死作悬梁。四柱重冲多凶而他乡丧体,五行衰败不足而瘟疫亡身。水败腰驼,莫用轩岐之法;金刑龟背,安施卢扁之方。庚辛气秀,西方见木而亡于兵刃;甲乙败绝,坤南无水,而骨肉飞??;辛巳、丙申遇刑,臂虚而人生六指;己卯、戊寅逢敌,胃弱而常病疮疽;乙未、甲午逢金,人多鳖头;癸卯、已丑相刑,病生腰膝;甲申、乙酉,幼年多病肝经;辛卯、庚寅,晚年劳伤筋骨。丙火上炎,丈夫每忌于身心;丁火下湿,女人虚痨而血产。日时衰败,大患难疗;干支刑害,小疾不疗。气相得而安和,气相逆而灾殄。病症不离于六脉,死生难越乎五行,细究兴衰,万不失一。古歌曰:戊己生时气不全,月时两处见伤官;必当头面有亏损,脓血之疮苦少年。又曰:丙丁日干五行衰,七煞加临三合来,升合日求衣食缺,耳聋残疾面尘埃。又:壬癸重重叠叠排,时辰设若见天财;纵然头面无癍癞,定主其人眼目灾。
又曰:人之生也,受气于父,成形于母。五脏和平者无疾,战克太过不及者主疾。《内经》云:东方实西方虚,泻南方补北方。东方实者,木太过也;西方虚者,金不及也;泻南方者,火太过也;补北方者,水不及也。是以五行太过不及,皆主疾也。若水升而火降,火降而金清,金清而木平,木平而土不及克,五脏各得中和之气,疾病何自生焉?《阴阳书》:金刚火强,自刑其方,木落归本,水流趋东。所以论三刑,刑则残害,言太过而身疾也。若只取不及为疾,必有一偏之失。凡五行有死绝而成疾者:水死绝,多肾气腰足攻注,滑泄便溺不利之疾;火死绝,主肠气结塞、惊悸健忘,精神不安之疾;木死绝虚风目涩眩晕,筋急、爪甲桔悴、喜怒颠倒,择饮择食之疾;金死绝,主气虚喘急、咳嗽、皮毛焦燥干啬、骨节疼痛、涕泪、大肠泄痢、便血之疾;土死绝,主面黄、减食、隔噻吐逆、肢体怠惰、喜卧嗜睡、多思足虑、耳聋、神浊健忘、少喜动作之疾。
有相克而成疾者:金火相克,生旺则疡疮瘫肿,死绝则痨瘵呕血;土木相克,生旺主疲闷昏眩、风麻、小肠疾痛肿,死绝主吐食症块,疽癖积滞之疾,或主中风;金木相克,生旺主肢足骨节不完、眼目之疾,死绝主气虚精脱、痨疾瘫痪之疾;水土相克,主脾湿泄泻、中满痰嗽不利之疾。
有相生而生疾者:火木相生,生旺则上盛隔壅,目赤头风;死绝则伤寒作狂、闷乱疾。火土相生,生旺则胃实;死绝则唇焦红气、热结大便不利。金水是相生,生旺则气滞,死绝则晴滑;水木相生,生旺则呕吐胃虚;死绝则精败、伤寒粘疟。金土相生,生旺则多虚无肌肉死绝肠鸣茧作。
凡水土木相逢于无气之处,主蛊气肠胀、吐逆之疾;凡金水火相逢于无气之地,主痢疾,金主大肠,水火守之,阴阳不和也。
凡水逢土,多主翻胃疾;土多而无水气疏之,主聋聩疾。盖肾水不流则翻胃,气不能则为聩也。
又曰:凡论残疾病症,先论日干,次详月令,然后通年时看之,伤官主残疾,煞重亦然。乾卦在亥,亥为天门,六辛生人得此日此时,多主盲聋。亥属肾,肾通耳,丙火遭水克也;子位坎宫,伤官煞重相刑,主下部疾;寅宫艮土,主脾胃,面色痿黄之疾;辰属震;此月带伤官,少年主多惊疾,盖震者动也。轻则主惊脾胃疾,重则主足疾。巳为巽,伤官煞重,主妇女血气不调,劳疾;午为离为目,伤官煞重,主失明头风之症;申属坤。为众阴,伤官煞重,主腰脚筋骨之疾;伤官伤尽者不在此论;酉为兑,属口齿不完之疾。戌为火库,主下血痔漏之疾。丑未伤官,亦主脾胃。伤官煞旺者,年年病瘟,主用上下战克、五行无救助,主身体不完,头面残伤。
又曰:凡一切诸煞亦有主疾者,劫煞主小肠,又主耳聋、咽喉疾;官符主腰脚疾;咸池主酒色、劳瘵、脓血、便溺疾;赘耗主暗昧,或赘疣疾;飞廉名天瞽,支干无气,主无目。凡禄因食致疾,须带煞克身方是。
凡命见真冲气散,或真刑气散,多是废疾之人。甲辰、甲戊、乙丑、乙未,土木交加,主瘫痪之疾;丙申、丁酉,金火交加,主血筋所伤;戊子、己亥,水土交加,主脾胃之疾;庚寅、辛卯,金木交加,主筋骨劳嗽之疾。
凡欲推疾病灾厄,先看禄命身三等,大小运如何?若三命无气,禄马败绝,但得禄财、命财、旺相,亦不至死。若父病推其子命,如子命遇孤辰、寡宿、丧门、吊客及白衣煞临命,其父必有不可救之疾。夫妻亦准此推。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#193
Gửi vào 12/07/2024 - 09:38
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thất
Luận Nữ Mệnh
Có thể hỏi rằng như thế nào có lợi cho người phụ nữ? Lơi ở phu tinh. Chồng được lợi thì vợ sẽ có lợi; chồng gian khó thì vợ sẽ gian khó. Phụ nữ thuận theo chồng, trước hết phải quan sát sao chồng để xác định thân phận sang hèn, lại xem sao của con để hiểu biết tuổi già vinh nhục. Quan, sát, tài đắc địa thì chồng có lợi, thực thần đắc địa thì con có lợi. Chồng có lợi ắt là gia cảnh giàu sang, một đời hưởng phúc lành; con có lợi tuổi già được săn sóc chu đáo, được khen ngợi và ban phát. Nhưng có trường hợp chồng vượng, lấy thực thần sanh tài và tài sanh quan. Ngược lại thì không phải. Mệnh phụ nữ lấy cái khắc mình làm chồng, cái mình sanh làm con, tất cả đều phải đắc thời, nhân lúc khí sanh vượng. Nếu khí vượng chỉ hội tụ ở trụ giờ, cũng có thể dùng quan làm chồng, thì không nên thấy sát; dùng sát làm chồng không nên thấy quan, chỉ một vị trí mới là tốt, có hai vị quan tinh thì chớ có thất sát vì sẽ thành hỗn tạp, tứ trụ chỉ toàn thất sát chớ có quan tinh thành hỗn loạn thì đều là vợ tốt. Được thêm bản thân tự vượng thì càng tốt đẹp, nhưng không nên vượng quá. Thực thần là con cái. Dẫn đến trụ giờ gặp vượng, lại gặp hai đức nâng đỡ bản thân, chính là mệnh phu quý tử vinh. Không hợp thân vượng, phu thần ám tàng trùng điệp cùng với thương quan, thất sát, khôi cương hình nhau, dương nhận quá nhiều, hợp nhiều hữu tình đều là không đẹp. Tuế vận cũng như vậy. Xem các trường hợp bát pháp, bát cách, phải hiểu rõ tỉ mỉ.
论女命
或问妇人何利?利在夫星。夫利,其妇必利;夫困,其妇必困。妇人从夫,先观夫星以定出身之贵贱,再看子星以察晚年之荣辱。官煞财得地,夫利也;食神得地,子利也。夫利则出身富贵,一生享福;子利则晚年厚养,褒宠诰封。然亦有旺夫者,以食生财,财生官故耳。反是则否。女命以克我者为夫,我生者为子,皆要得时,乘生旺之气。若旺气只聚于时,亦可用官为夫,不要见煞;用煞为夫,不要见官,一位为好。有两位官星,无煞以杂之,四柱纯煞,无官以混之,俱为良妇。更得本身自旺尤佳,但旺不可太过。食为子息。引时逢旺,再得二德扶身,乃夫贵子荣之命。不宜身旺,重叠暗藏夫神及伤官、七煞、魁罡相刑,羊刃太重,合多有情,皆主不美。岁运亦然。看有八法八格,须细详之。
.
Luận Nữ Mệnh
Có thể hỏi rằng như thế nào có lợi cho người phụ nữ? Lơi ở phu tinh. Chồng được lợi thì vợ sẽ có lợi; chồng gian khó thì vợ sẽ gian khó. Phụ nữ thuận theo chồng, trước hết phải quan sát sao chồng để xác định thân phận sang hèn, lại xem sao của con để hiểu biết tuổi già vinh nhục. Quan, sát, tài đắc địa thì chồng có lợi, thực thần đắc địa thì con có lợi. Chồng có lợi ắt là gia cảnh giàu sang, một đời hưởng phúc lành; con có lợi tuổi già được săn sóc chu đáo, được khen ngợi và ban phát. Nhưng có trường hợp chồng vượng, lấy thực thần sanh tài và tài sanh quan. Ngược lại thì không phải. Mệnh phụ nữ lấy cái khắc mình làm chồng, cái mình sanh làm con, tất cả đều phải đắc thời, nhân lúc khí sanh vượng. Nếu khí vượng chỉ hội tụ ở trụ giờ, cũng có thể dùng quan làm chồng, thì không nên thấy sát; dùng sát làm chồng không nên thấy quan, chỉ một vị trí mới là tốt, có hai vị quan tinh thì chớ có thất sát vì sẽ thành hỗn tạp, tứ trụ chỉ toàn thất sát chớ có quan tinh thành hỗn loạn thì đều là vợ tốt. Được thêm bản thân tự vượng thì càng tốt đẹp, nhưng không nên vượng quá. Thực thần là con cái. Dẫn đến trụ giờ gặp vượng, lại gặp hai đức nâng đỡ bản thân, chính là mệnh phu quý tử vinh. Không hợp thân vượng, phu thần ám tàng trùng điệp cùng với thương quan, thất sát, khôi cương hình nhau, dương nhận quá nhiều, hợp nhiều hữu tình đều là không đẹp. Tuế vận cũng như vậy. Xem các trường hợp bát pháp, bát cách, phải hiểu rõ tỉ mỉ.
论女命
或问妇人何利?利在夫星。夫利,其妇必利;夫困,其妇必困。妇人从夫,先观夫星以定出身之贵贱,再看子星以察晚年之荣辱。官煞财得地,夫利也;食神得地,子利也。夫利则出身富贵,一生享福;子利则晚年厚养,褒宠诰封。然亦有旺夫者,以食生财,财生官故耳。反是则否。女命以克我者为夫,我生者为子,皆要得时,乘生旺之气。若旺气只聚于时,亦可用官为夫,不要见煞;用煞为夫,不要见官,一位为好。有两位官星,无煞以杂之,四柱纯煞,无官以混之,俱为良妇。更得本身自旺尤佳,但旺不可太过。食为子息。引时逢旺,再得二德扶身,乃夫贵子荣之命。不宜身旺,重叠暗藏夫神及伤官、七煞、魁罡相刑,羊刃太重,合多有情,皆主不美。岁运亦然。看有八法八格,须细详之。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#194
Gửi vào 12/07/2024 - 09:54
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thất
Thuần
Thuần là chuyên nhất. Như thuần nhất quan tinh hoặc thuần nhất sát tinh, có tài có ấn không gặp hình xung, không hỗn tạp nhau là đúng vậy. Như quý tỵ mậu ngọ tân dậu bính thân bản thân chuyên lộc, vượng không tòng hoá, tân dùng bính làm quan là phu tinh, tháng năm hoả vượng nên chồng mạnh khoẻ. Bính dùng quý làm quan, toạ nơi quý thấy mậu là thực thần cùng quy lộc ở tỵ. Tân kim sanh quý là con, dẫn về giờ thân là đất trường sanh. Thiên can quý, mậu, tân, bính là thuỷ hoả ký tế; địa chi tỵ, ngọ, dậu, thân thì củng giáp tài khố, vì thế lấy chồng là quan, thực thần là thiên lộc, là mệnh phu vinh tử quý.
纯
纯者一也。如纯一官星,或纯一煞星,有财有印,不值刑冲,不相混杂是也。如癸已、戊午、辛酉、丙申,本身专禄,旺不从化。辛用丙官为夫星,五月火旺夫健。丙用癸为官,坐贵见戊为食,同归禄于巳。辛金生癸水为子,引入申时长生之地。天干癸戊辛丙,水火既济;地支巳午酉申,拱夹财库,所以嫁夫为官,食天禄,夫荣子贵之命。
.
Thuần
Thuần là chuyên nhất. Như thuần nhất quan tinh hoặc thuần nhất sát tinh, có tài có ấn không gặp hình xung, không hỗn tạp nhau là đúng vậy. Như quý tỵ mậu ngọ tân dậu bính thân bản thân chuyên lộc, vượng không tòng hoá, tân dùng bính làm quan là phu tinh, tháng năm hoả vượng nên chồng mạnh khoẻ. Bính dùng quý làm quan, toạ nơi quý thấy mậu là thực thần cùng quy lộc ở tỵ. Tân kim sanh quý là con, dẫn về giờ thân là đất trường sanh. Thiên can quý, mậu, tân, bính là thuỷ hoả ký tế; địa chi tỵ, ngọ, dậu, thân thì củng giáp tài khố, vì thế lấy chồng là quan, thực thần là thiên lộc, là mệnh phu vinh tử quý.
纯
纯者一也。如纯一官星,或纯一煞星,有财有印,不值刑冲,不相混杂是也。如癸已、戊午、辛酉、丙申,本身专禄,旺不从化。辛用丙官为夫星,五月火旺夫健。丙用癸为官,坐贵见戊为食,同归禄于巳。辛金生癸水为子,引入申时长生之地。天干癸戊辛丙,水火既济;地支巳午酉申,拱夹财库,所以嫁夫为官,食天禄,夫荣子贵之命。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#195
Gửi vào 12/07/2024 - 10:07
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thất
Hoà
Hoà là điềm tĩnh. Ví như thân nhu nhược, chỉ có một vị phu tinh, trụ không có xung phá, thần công kích, bẫm sinh vốn là khí trung hoà, sẽ là hoà vậy. Như nhâm thìn tân hợi kỷ mão kỷ tỵ: kỷ dùng giáp làm chồng, hợi chính là đất trường sinh được thiên thời địa lợi; giáp lấy tân làm quan mà kim sanh ở tỵ (bản chữ Hán viết là ở dĩ), kỷ lấy kim làm con, cũng sanh ở tỵ nghĩa là chồng làm quan, con được trường sanh, nên chủ là ích phu vượng tử. Tuy rằng tự ngồi trên chi mão là sát, nhưng có canh trong tỵ chế phục, nên luận là khứ sát lưu quan, mệnh quý của phụ nữ vậy.
和
和者恬静也。如身柔弱,独有一位夫星,柱无冲破、攻击之神,禀其中和之气,则为和也。如壬辰、辛亥、己卯、己巳,己用甲为夫,亥乃生长之地,得天时地利;甲以辛为官,金生于已,已以金为子,亦生于巳,谓之夫行官星,子得长生,故主益夫旺子。虽自坐卯支为煞,有巳中庚制,为去煞留官之论,女命之贵也。
.
Hoà
Hoà là điềm tĩnh. Ví như thân nhu nhược, chỉ có một vị phu tinh, trụ không có xung phá, thần công kích, bẫm sinh vốn là khí trung hoà, sẽ là hoà vậy. Như nhâm thìn tân hợi kỷ mão kỷ tỵ: kỷ dùng giáp làm chồng, hợi chính là đất trường sinh được thiên thời địa lợi; giáp lấy tân làm quan mà kim sanh ở tỵ (bản chữ Hán viết là ở dĩ), kỷ lấy kim làm con, cũng sanh ở tỵ nghĩa là chồng làm quan, con được trường sanh, nên chủ là ích phu vượng tử. Tuy rằng tự ngồi trên chi mão là sát, nhưng có canh trong tỵ chế phục, nên luận là khứ sát lưu quan, mệnh quý của phụ nữ vậy.
和
和者恬静也。如身柔弱,独有一位夫星,柱无冲破、攻击之神,禀其中和之气,则为和也。如壬辰、辛亥、己卯、己巳,己用甲为夫,亥乃生长之地,得天时地利;甲以辛为官,金生于已,已以金为子,亦生于巳,谓之夫行官星,子得长生,故主益夫旺子。虽自坐卯支为煞,有巳中庚制,为去煞留官之论,女命之贵也。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Lịch thông thắng |
Thiên Văn - Lịch Pháp - Coi Ngày Tốt Xấu | trongtri |
|
||
JD VANCE - Tân Phó Tổng Thống Hoa Kỳ |
Tử Vi | tutruongdado |
|
||
lá số tổng thống Ukraine ô. Zelensky |
Tử Vi | Ngu Yên |
|
||
Xem khoảnh khắc công bố kết quả đầu tiên trong cuộc đua giành chức tổng thống năm 2024 |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
|
|
Bài Diễn Văn Của Tổng Thống Joe Biden |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
||
Truy "long mạch" phát tích gia tộc tổng thống họ Dương |
Địa Lý Phong Thủy | 55555 |
|
8 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 8 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |