3
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》
Viết bởi FM_daubac, 25/06/24 05:20
413 replies to this topic
#376
Gửi vào 02/11/2024 - 08:54
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất
khí tượng thiên nhị
Âm dương cố hữu cương nhu, can chi khởi vô điên đảo?
(Âm dương vốn có cương nhu, can chi sao không có nghiêng ngã?)
Dương thì cương âm thì nhu, là đạo lý của trời đất vậy. Điên (nghiêng ngã), đảo (lộn ngược), nghĩa của phản phúc (xoay chuyển, điên đảo). Vì vậy mở đầu cho lời văn sau đây.
Tuy sính thê bất thức kì phu.
(Tuy đính hôn rồi, vợ không biết mặt chồng).
Vợ chồng đã vào một cung, sao mà không biết? Chỉ vì sự thật còn chia cách chưa giao tiếp, tức là chưa gặp mặt chồng vậy. Như ất mộc dụng canh kim làm chồng, trong khoảng giữa có bính cách đoạn, canh bị hoả thương tổn, có thể ngồi ở tý ngọ là đất bại tử, khiến cho vợ mãi không thể gặp mặt chồng vậy.
Bổn hữu tử, bất cố (không đoái hoài) kì mẫu.
(Vốn là có đứa con, mà không ngó ngàng đến mẹ của nó).
Đoái hoài đến mẹ của con là lý, là tình; mình có chỗ gò bó, sẽ không thể nuôi dưỡng mãi được. Như giáp dùng bính làm con, tức là gặp phải can kim hợp, chỉ quyến luyến tình cảm của vợ mà coi thường tình thương của mẹ. Cho nên trong cục tuy có bính hoả mà không thể dùng được vậy. Thường mệnh đang bàn thảo đến đây, hầu như không sai lầm.
Phụ vô tử nhi bất độc, tử hữu phụ nhi phản cô.
(Cha không có con mà không cô đơn, con có cha trái lại đơn độc).
Mộc lấy hoả làm mối lo của con, trong tứ trụ nếu như không có bính đinh tỵ ngọ tức là không có con. Nếu địa chi ngầm chứa nhiều, hoặc thiên can chế hoá được dụng thần, cũng không phải là không có con. Mộc lấy thuỷ làm mẹ, nếu bị tổn khắc, tức là mình không được sanh. Như ngày giáp ất, sanh ở năm hợi tý, tháng gặp tứ quý (bốn tháng thìn tuất sửu mùi), thuỷ gặp phải tồn thương, người mất chỗ sanh hỏi sao không cô độc được?
Sanh thượng khả dĩ tái sanh; tử bất khả dĩ phục tử.
(Sống thì có thể tái sanh; chết không thể lại chết).
Vật trong cục, vốn dĩ có trường sanh tạm thời bị khắc tổn hại, tuế vận lại đạt đến đất sanh vượng, sức mạnh bản thân trở lại mạnh mẽ, như là tái sanh (sống lại) vậy. Tử (chết) là chung (chấm dứt). Hễ vật trong tứ trụ, vốn dĩ gặp cung tử tuyệt, sau này gặp tuế vận lại gặp đất này, không lấy hung thêm để luận, bời chết không có hai lần vậy.
Ký tử diệc phi vi quỷ; phùng sanh hựu bất thành nhân.
(Đã chết cũng không phải là quỷ; gặp sanh lại không trở thành người).
Mộc sanh mùa xuân, đúng thời gian nên vượng, trong trụ tuy gặp phải cung tử tuyệt, nếu đi vận noi sanh vượng, cũng không phải là chết. Mộc sanh mùa thu, trái thời gian nên yếu đuối, trong trụ tuy gặp phảicung vượng, nếu đi vận là đất suy tuyệt, cuối cùng không phải là sanh vậy.
Tử đa mẫu bệnh, như tiên phủ điền; mẫu đa tử bệnh, như lâm thâm uyên (vực sâu).
(Con nhiều mẹ bệnh, như tiên trên cánh đồng; mẹ nhiều con bệnh nhứ đến vực sâu).
Con là do mẹ sanh, con nhiều thì làm khí lực của mẹ bị thoát ra, đúng nghĩa là con có thể khiến mẹ yếu đuối. Nếu mẹ lại thêm suy bệnh thì tinh lực không đủ, nhất định không thể chống lại con mình, nghĩa là gánh vác cánh đồng thuê của mình? Mẹ không có hai người, tình thương mới toàn vẹn, nếu nhiều mẹ quá, âm tụ (nữ tính tụ họp) hay sanh ra ghen tỵ, mưu gian nỗi dậy. Tức là ngũ tinh, hai mẹ tranh giành quyền lực, nuông chiều thái quá, mẹ mất tình thương của mình, con biết dựa vào đâu. Thêm đến cung bệnh tử, bày tỏ sự biến đổi sanh hoạt, nhất định khởi phát sớm chiều.
Bất chánh, bất xung, bất thiên, bất hợp, bất hoạnh, bất hình, bất trực, bất phá, kì vi xung dã; khải lục cực chi kì môn, kì vi hợp dã; tích vạn vật chi hình tích, kì vi hình dã; biến nhi cải chánh, kì vi phá dã; địch nhi hữu thương, thị dĩ cức địa sanh kim, bất trứ lam điền chủng ngọc.
(Không chánh, không xung, không thiên, không hợp, không hoạnh, không hình, không trực, không phá, đó là xung vậy; mở các cửa khác nhau của lục cực *, đó là hợp; dấu vết của vạn vật trừ bỏ đi, đó là hình vậy; biến đổi nên sửa lại cho đúng, đó là phá vậy; chống cự nên có thương tổn, là lý do đất khó khăn thành trân quý, không ham trồng ngọc ở ruộng xanh).
* Lục cực: Sáu điều cùng cực hung xấu: chết non, bệnh, lo, nghèo, tật, và yếu đuối (hung đoản chiết 凶短折, tật 疾, ưu 憂, bần 貧, ác 惡, nhược 弱)
Trên đây là bốn nguyên nhân, chính là tượng của chiến, khắc, kích, bác. Chấp nhận hình phạt dùng móc dẫn dắt đi xa, nếu trong hỗn loạn mà chọn lấy được dụng thần là quý, là phúc chẳng bằng dùng tài để sanh quan, dùng ấn gặp được sát, tự nhiên huyền nhiệm. Đó là lý do chuyên luận tài ấn thực của tử bình.
Cát thần tương ngã, công cầu tương cát chi thần.
(Cát thần giúp đỡ tôi, công lao tìm sự giúp đỡ của cát thần).
Hễ mệnh người suy nhược hoặc bị hình thương, phá hại thì không khả năng thành dụng được, nhất định muốn mầm tốt hỗ trợ, giúp đỡ, trở thành phúc của mình. Lại phải xem xét thần giúp đỡ mình uy lực nặng nhẹ thế nào, nếu không có gốc và mất lệnh, hoặc tự bị thương tổn, tạm thời tìm trợ giúp từ cát thần như thế nào? Ví dụ như ngày giáp sanh mùa hạ, gặp hoả đốt cháy, được nhâm quý, hợi tý giúp đỡ mình để ngăn cản lại, nhưng thuỷ bị hoả thổ tổn hại trước, không thể là phúc của mình, nhất định muốn tìm kim chuyển sanh thuỷ vượng, khiến thuỷ hữu tình mà chăm sóc mình, công lao như thế không do thuỷ mà là do kim vậy. Lại như ngọ bị tý xung, nhờ mùi hợp mình mà với tý xuyên (sâu qua), sẽ là thần giúp đỡ mình; như mùi bị thương tổn, không thể làm dụng thần, nhất định phải tìm sanh trợ cho mùi thổ có lực, và mùi thổ mới thành dụng thần được.
Hung vật thương thân, giải dụng thương hung chi vật.
(Có vật xấu tổn hại mình, để giải trừ dùng tổn hại lại vật xấu).
Trong đời sống con người nếu gặp phải hung thần khắc minh, nhất định tìm vật nào trong trụ có khả năng chế phục thần tổn hại mình, sẽ đích thân giải trừ không nhàn rỗi, sao mà có khả năng cùng với mình được? Như giáp mộc vốn dĩ bị kim thương tổn, hoạ hoạn không tránh khỏi, gặp được hoả khắc thì nguy hiểm tự rời xa vậy. Lại như mão bị dậu xung, gặp ngọ trong trụ cũng vậy.
Ngũ hành các đắc kì sở giả, quy tụ thành phúc.
(Ngũ hành: mỗi hành được đúng chỗ của mình, tụ về thành phúc).
Thông thường ngũ hành không thể có danh tiếng hão, lạc vị trí, chỉ cần phải đắc lệnh trở về trong khuôn viên, mới có khả năng là hoàn toànl nếu tụ về một cách cục, diệu kỳ không thể nói.
Nhất cục giai thất kì viên giả, lưu đãng (chơi bời, lêu lổng) vô y.
(Toàn cục đều lạc nơi chốn của mình, lêu lổng không nơi nương tựa).
Thông thường nhật chủ và dụng thần gần như phải lo liệu kêt cục, như trong tứ trụ không được thông suốt gốc rễ để nương tựa, lại gặp phải không vong, tử tuyệt, mộc dục, hình xung, giống như mãi không thành người lớn tự lập. Lẽ đương nhiên là bọn lêu lổng lạc mất nơi chốn.
Đại vận chiết trừ thành tuế, tiểu vận nghịch thuận do thì.
(Đại vận hoán đổi thành tuế, tiểu vận thuận nghịch tuỳ theo thời gian).
Hai chú thích này đã được trích dẫn trong quyển đầu "Thập Đại Vận Tiểu Vận".
Văn khố xung nhi văn minh thịnh, vũ khố yểm nhi can qua trữ.
(Văn khố xung nên văn minh thịnh vượng, vũ khố đóng nên chiến tranh yên ổn).
Link đến bản tiếng Hoa:
气象篇二
阴阳固有刚柔,干支岂无颠倒?
(阳刚阴柔,天地之道也。颠之、倒之,反覆之谓也。所以启下文之端。)
虽聘妻不识其夫。
(夫妇既入其宫,岂有不识?但情隔而不通,则不见其夫矣。如乙木用庚金为夫,中间丙火隔断,庚被火伤,或坐子午败死之地,使其妻终不能见其夫也。)
本有子,不顾其母。
(子之顾母,理也,情也;身有所羁,则不得终养。如甲用丙为子,却被千金合之,但恋妻之情,而易母之爱矣。故局中虽有两火,不可用也。凡命中议论至此,庶几无误。)
父无子而不独,子有父而反孤。
(木以火为子患,四柱中如无丙丁巳午之位,则无子矣。若地支暗畜有大,或天干制化得用,亦不为无子。木以水为父母,若被损克,则不得其所生。如甲乙日,生于亥子之年,月值四季,水被上伤,所生之人失矣,岂不孤哉?)
生尚可以再生,死不可以复死。
(局中之物,原有长生先被克损,岁运复通生旺之地,身力复强,如再生也。死者,终也。凡四柱之物,原值死绝之宫,后来岁运再遇此地,不为更凶之论,盖死无二也。)
既死亦非为鬼,逢生又不成人。
(木值春生,得时乃旺,柱中虽遇死绝之宫,若运行生旺之乡,亦不为之死也。木值秋生,失时乃弱,柱中虽遇上旺之宫,若运行衰绝之地,终不为之生也。)
子多母病,如仙甫田;母多子病,如临深渊。
(子者,母之所生,多则泄母之气,正谓子能令母虚也。若母再加衰病,则精力不及,决不能以抗其子,其佃甫田之谓驮?母无二尊、其恩乃全,若母氏众多,阴聚妒生,邪谋兴矣。即五星、二母争权,姑息太过,母失所爱,子何所倚N。更临病死之宫,申生之变,必起朝夕也。)
不正、不冲,不偏、不合,不横、不刑,不直、不破,其为冲也;启六极之歧门,其为合也;辟万物之形迹,其为刑也;变而改正,其为破也;敌而有伤,是以棘地生金,不着蓝田种玉。
(以上四端,乃战克、击剥之象也。内有刑虚钩远之用,若倒乱中而取用神为贵、为福者,不若用财生官,用印得煞,自然之妙。此子平之所以专论时印食也欢!)、
吉神相我,功求相吉之神。
(凡人命,衰弱或刑伤、破害不能成用者,必欲吉种扶佐,成我之福。又观相我之神,势力轻重何如,若无根失令,或自受伤,先用求助相吉之神何如?假如甲日夏生,遭火焚化,得壬癸、亥子相我为救,但水先受火土耗克,不能为我之福,必欲求金转生水旺,使水有顾我之情、如此之功,不在水而在金矣。又如午被子冲,赖未合我而与子穿,则为相我之神;如未受伤,不能为用,必求生助,未土之神有力,而未土方得成用。)
凶物伤身,解用伤凶之物。
(人命中若遇凶神克我身宫,必求柱中何物能制伤我之神,则被自解不暇,焉能及我哉?如甲术原被金伤,祸所不免,得火克,危自远矣。又如卯被酉冲,柱中见午,亦然。)
五行各得其所者,归聚成福。
(凡五行不可虚名失位,但要得令归垣,方能为十;若归聚一局,妙不可言。)
一局皆失其垣者,流荡无依。
(凡日主用神、仅要着落之处,如四柱中不得通根有靠,又遇空亡、死绝、沐浴、刑冲,如终无成立。必然流荡失所矣。)
大运折除成岁,小运逆顺由时。
(二注已引首卷《十大运小运》中。)
文库冲而文明盛,武库掩而干戈宁。
.
khí tượng thiên nhị
Âm dương cố hữu cương nhu, can chi khởi vô điên đảo?
(Âm dương vốn có cương nhu, can chi sao không có nghiêng ngã?)
Dương thì cương âm thì nhu, là đạo lý của trời đất vậy. Điên (nghiêng ngã), đảo (lộn ngược), nghĩa của phản phúc (xoay chuyển, điên đảo). Vì vậy mở đầu cho lời văn sau đây.
Tuy sính thê bất thức kì phu.
(Tuy đính hôn rồi, vợ không biết mặt chồng).
Vợ chồng đã vào một cung, sao mà không biết? Chỉ vì sự thật còn chia cách chưa giao tiếp, tức là chưa gặp mặt chồng vậy. Như ất mộc dụng canh kim làm chồng, trong khoảng giữa có bính cách đoạn, canh bị hoả thương tổn, có thể ngồi ở tý ngọ là đất bại tử, khiến cho vợ mãi không thể gặp mặt chồng vậy.
Bổn hữu tử, bất cố (không đoái hoài) kì mẫu.
(Vốn là có đứa con, mà không ngó ngàng đến mẹ của nó).
Đoái hoài đến mẹ của con là lý, là tình; mình có chỗ gò bó, sẽ không thể nuôi dưỡng mãi được. Như giáp dùng bính làm con, tức là gặp phải can kim hợp, chỉ quyến luyến tình cảm của vợ mà coi thường tình thương của mẹ. Cho nên trong cục tuy có bính hoả mà không thể dùng được vậy. Thường mệnh đang bàn thảo đến đây, hầu như không sai lầm.
Phụ vô tử nhi bất độc, tử hữu phụ nhi phản cô.
(Cha không có con mà không cô đơn, con có cha trái lại đơn độc).
Mộc lấy hoả làm mối lo của con, trong tứ trụ nếu như không có bính đinh tỵ ngọ tức là không có con. Nếu địa chi ngầm chứa nhiều, hoặc thiên can chế hoá được dụng thần, cũng không phải là không có con. Mộc lấy thuỷ làm mẹ, nếu bị tổn khắc, tức là mình không được sanh. Như ngày giáp ất, sanh ở năm hợi tý, tháng gặp tứ quý (bốn tháng thìn tuất sửu mùi), thuỷ gặp phải tồn thương, người mất chỗ sanh hỏi sao không cô độc được?
Sanh thượng khả dĩ tái sanh; tử bất khả dĩ phục tử.
(Sống thì có thể tái sanh; chết không thể lại chết).
Vật trong cục, vốn dĩ có trường sanh tạm thời bị khắc tổn hại, tuế vận lại đạt đến đất sanh vượng, sức mạnh bản thân trở lại mạnh mẽ, như là tái sanh (sống lại) vậy. Tử (chết) là chung (chấm dứt). Hễ vật trong tứ trụ, vốn dĩ gặp cung tử tuyệt, sau này gặp tuế vận lại gặp đất này, không lấy hung thêm để luận, bời chết không có hai lần vậy.
Ký tử diệc phi vi quỷ; phùng sanh hựu bất thành nhân.
(Đã chết cũng không phải là quỷ; gặp sanh lại không trở thành người).
Mộc sanh mùa xuân, đúng thời gian nên vượng, trong trụ tuy gặp phải cung tử tuyệt, nếu đi vận noi sanh vượng, cũng không phải là chết. Mộc sanh mùa thu, trái thời gian nên yếu đuối, trong trụ tuy gặp phảicung vượng, nếu đi vận là đất suy tuyệt, cuối cùng không phải là sanh vậy.
Tử đa mẫu bệnh, như tiên phủ điền; mẫu đa tử bệnh, như lâm thâm uyên (vực sâu).
(Con nhiều mẹ bệnh, như tiên trên cánh đồng; mẹ nhiều con bệnh nhứ đến vực sâu).
Con là do mẹ sanh, con nhiều thì làm khí lực của mẹ bị thoát ra, đúng nghĩa là con có thể khiến mẹ yếu đuối. Nếu mẹ lại thêm suy bệnh thì tinh lực không đủ, nhất định không thể chống lại con mình, nghĩa là gánh vác cánh đồng thuê của mình? Mẹ không có hai người, tình thương mới toàn vẹn, nếu nhiều mẹ quá, âm tụ (nữ tính tụ họp) hay sanh ra ghen tỵ, mưu gian nỗi dậy. Tức là ngũ tinh, hai mẹ tranh giành quyền lực, nuông chiều thái quá, mẹ mất tình thương của mình, con biết dựa vào đâu. Thêm đến cung bệnh tử, bày tỏ sự biến đổi sanh hoạt, nhất định khởi phát sớm chiều.
Bất chánh, bất xung, bất thiên, bất hợp, bất hoạnh, bất hình, bất trực, bất phá, kì vi xung dã; khải lục cực chi kì môn, kì vi hợp dã; tích vạn vật chi hình tích, kì vi hình dã; biến nhi cải chánh, kì vi phá dã; địch nhi hữu thương, thị dĩ cức địa sanh kim, bất trứ lam điền chủng ngọc.
(Không chánh, không xung, không thiên, không hợp, không hoạnh, không hình, không trực, không phá, đó là xung vậy; mở các cửa khác nhau của lục cực *, đó là hợp; dấu vết của vạn vật trừ bỏ đi, đó là hình vậy; biến đổi nên sửa lại cho đúng, đó là phá vậy; chống cự nên có thương tổn, là lý do đất khó khăn thành trân quý, không ham trồng ngọc ở ruộng xanh).
* Lục cực: Sáu điều cùng cực hung xấu: chết non, bệnh, lo, nghèo, tật, và yếu đuối (hung đoản chiết 凶短折, tật 疾, ưu 憂, bần 貧, ác 惡, nhược 弱)
Trên đây là bốn nguyên nhân, chính là tượng của chiến, khắc, kích, bác. Chấp nhận hình phạt dùng móc dẫn dắt đi xa, nếu trong hỗn loạn mà chọn lấy được dụng thần là quý, là phúc chẳng bằng dùng tài để sanh quan, dùng ấn gặp được sát, tự nhiên huyền nhiệm. Đó là lý do chuyên luận tài ấn thực của tử bình.
Cát thần tương ngã, công cầu tương cát chi thần.
(Cát thần giúp đỡ tôi, công lao tìm sự giúp đỡ của cát thần).
Hễ mệnh người suy nhược hoặc bị hình thương, phá hại thì không khả năng thành dụng được, nhất định muốn mầm tốt hỗ trợ, giúp đỡ, trở thành phúc của mình. Lại phải xem xét thần giúp đỡ mình uy lực nặng nhẹ thế nào, nếu không có gốc và mất lệnh, hoặc tự bị thương tổn, tạm thời tìm trợ giúp từ cát thần như thế nào? Ví dụ như ngày giáp sanh mùa hạ, gặp hoả đốt cháy, được nhâm quý, hợi tý giúp đỡ mình để ngăn cản lại, nhưng thuỷ bị hoả thổ tổn hại trước, không thể là phúc của mình, nhất định muốn tìm kim chuyển sanh thuỷ vượng, khiến thuỷ hữu tình mà chăm sóc mình, công lao như thế không do thuỷ mà là do kim vậy. Lại như ngọ bị tý xung, nhờ mùi hợp mình mà với tý xuyên (sâu qua), sẽ là thần giúp đỡ mình; như mùi bị thương tổn, không thể làm dụng thần, nhất định phải tìm sanh trợ cho mùi thổ có lực, và mùi thổ mới thành dụng thần được.
Hung vật thương thân, giải dụng thương hung chi vật.
(Có vật xấu tổn hại mình, để giải trừ dùng tổn hại lại vật xấu).
Trong đời sống con người nếu gặp phải hung thần khắc minh, nhất định tìm vật nào trong trụ có khả năng chế phục thần tổn hại mình, sẽ đích thân giải trừ không nhàn rỗi, sao mà có khả năng cùng với mình được? Như giáp mộc vốn dĩ bị kim thương tổn, hoạ hoạn không tránh khỏi, gặp được hoả khắc thì nguy hiểm tự rời xa vậy. Lại như mão bị dậu xung, gặp ngọ trong trụ cũng vậy.
Ngũ hành các đắc kì sở giả, quy tụ thành phúc.
(Ngũ hành: mỗi hành được đúng chỗ của mình, tụ về thành phúc).
Thông thường ngũ hành không thể có danh tiếng hão, lạc vị trí, chỉ cần phải đắc lệnh trở về trong khuôn viên, mới có khả năng là hoàn toànl nếu tụ về một cách cục, diệu kỳ không thể nói.
Nhất cục giai thất kì viên giả, lưu đãng (chơi bời, lêu lổng) vô y.
(Toàn cục đều lạc nơi chốn của mình, lêu lổng không nơi nương tựa).
Thông thường nhật chủ và dụng thần gần như phải lo liệu kêt cục, như trong tứ trụ không được thông suốt gốc rễ để nương tựa, lại gặp phải không vong, tử tuyệt, mộc dục, hình xung, giống như mãi không thành người lớn tự lập. Lẽ đương nhiên là bọn lêu lổng lạc mất nơi chốn.
Đại vận chiết trừ thành tuế, tiểu vận nghịch thuận do thì.
(Đại vận hoán đổi thành tuế, tiểu vận thuận nghịch tuỳ theo thời gian).
Hai chú thích này đã được trích dẫn trong quyển đầu "Thập Đại Vận Tiểu Vận".
Văn khố xung nhi văn minh thịnh, vũ khố yểm nhi can qua trữ.
(Văn khố xung nên văn minh thịnh vượng, vũ khố đóng nên chiến tranh yên ổn).
Link đến bản tiếng Hoa:
气象篇二
阴阳固有刚柔,干支岂无颠倒?
(阳刚阴柔,天地之道也。颠之、倒之,反覆之谓也。所以启下文之端。)
虽聘妻不识其夫。
(夫妇既入其宫,岂有不识?但情隔而不通,则不见其夫矣。如乙木用庚金为夫,中间丙火隔断,庚被火伤,或坐子午败死之地,使其妻终不能见其夫也。)
本有子,不顾其母。
(子之顾母,理也,情也;身有所羁,则不得终养。如甲用丙为子,却被千金合之,但恋妻之情,而易母之爱矣。故局中虽有两火,不可用也。凡命中议论至此,庶几无误。)
父无子而不独,子有父而反孤。
(木以火为子患,四柱中如无丙丁巳午之位,则无子矣。若地支暗畜有大,或天干制化得用,亦不为无子。木以水为父母,若被损克,则不得其所生。如甲乙日,生于亥子之年,月值四季,水被上伤,所生之人失矣,岂不孤哉?)
生尚可以再生,死不可以复死。
(局中之物,原有长生先被克损,岁运复通生旺之地,身力复强,如再生也。死者,终也。凡四柱之物,原值死绝之宫,后来岁运再遇此地,不为更凶之论,盖死无二也。)
既死亦非为鬼,逢生又不成人。
(木值春生,得时乃旺,柱中虽遇死绝之宫,若运行生旺之乡,亦不为之死也。木值秋生,失时乃弱,柱中虽遇上旺之宫,若运行衰绝之地,终不为之生也。)
子多母病,如仙甫田;母多子病,如临深渊。
(子者,母之所生,多则泄母之气,正谓子能令母虚也。若母再加衰病,则精力不及,决不能以抗其子,其佃甫田之谓驮?母无二尊、其恩乃全,若母氏众多,阴聚妒生,邪谋兴矣。即五星、二母争权,姑息太过,母失所爱,子何所倚N。更临病死之宫,申生之变,必起朝夕也。)
不正、不冲,不偏、不合,不横、不刑,不直、不破,其为冲也;启六极之歧门,其为合也;辟万物之形迹,其为刑也;变而改正,其为破也;敌而有伤,是以棘地生金,不着蓝田种玉。
(以上四端,乃战克、击剥之象也。内有刑虚钩远之用,若倒乱中而取用神为贵、为福者,不若用财生官,用印得煞,自然之妙。此子平之所以专论时印食也欢!)、
吉神相我,功求相吉之神。
(凡人命,衰弱或刑伤、破害不能成用者,必欲吉种扶佐,成我之福。又观相我之神,势力轻重何如,若无根失令,或自受伤,先用求助相吉之神何如?假如甲日夏生,遭火焚化,得壬癸、亥子相我为救,但水先受火土耗克,不能为我之福,必欲求金转生水旺,使水有顾我之情、如此之功,不在水而在金矣。又如午被子冲,赖未合我而与子穿,则为相我之神;如未受伤,不能为用,必求生助,未土之神有力,而未土方得成用。)
凶物伤身,解用伤凶之物。
(人命中若遇凶神克我身宫,必求柱中何物能制伤我之神,则被自解不暇,焉能及我哉?如甲术原被金伤,祸所不免,得火克,危自远矣。又如卯被酉冲,柱中见午,亦然。)
五行各得其所者,归聚成福。
(凡五行不可虚名失位,但要得令归垣,方能为十;若归聚一局,妙不可言。)
一局皆失其垣者,流荡无依。
(凡日主用神、仅要着落之处,如四柱中不得通根有靠,又遇空亡、死绝、沐浴、刑冲,如终无成立。必然流荡失所矣。)
大运折除成岁,小运逆顺由时。
(二注已引首卷《十大运小运》中。)
文库冲而文明盛,武库掩而干戈宁。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#377
Gửi vào 04/11/2024 - 12:21
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất
khí tượng thiên tam
Phi long li thiên, tùy vân nhập uyên; tiềm long tại uyên, tùy vân thượng thiên.
Đại lâm long xuất trị thiên hà, tứ khố thổ toàn cư cửu ngũ (ngôi thiên tử).
(Rồng bay lìa xa trời, theo mây vào vực sâu; rồng ẩn ở vực sâu, theo mây lên trời.
Đại lâm long xuất hiện ở thiên hà; tứ khố thổ đầy đủ ở ngôi thiên tử).
Đại lâm long tức là mậu thìn. Cần trong trụ có nạp âm thiên hà thuỷ, tức là rồng bay ở trời; thêm bốn khố đầy đủ, tức là bốn biển đều chu đáo, vì thế khắp thiên hạ đều thấm mưa ân huệ, nhất định là đại nhân của ngôi thiên tử. Mệnh của Minh Thái Tổ: mậu thìn nhâm tuất đinh sửu đinh mùi, đó cũng là lý do được bàn luận.
Trường lưu long phục quy đại hải, ngũ hồ thủy tụ chưởng quần lê.
(Trường lưu long lại về đại hải, ngũ hồ thuỷ tập hợp một số đông).
Trường lưu long tức là nhâm thìn. Rồng gặp trướng lưu, địa chi gặp được hợi, tên gọi là rồng về biển lớn. Và quay trở lại: rồng nhảy lên cổng trời. Điều kỳ diệu ở nạp âm đại hải thuỷ, tứ trụ đều có thuỷ, tức là thuỷ của năm hồ (Tức Động Đình Hồ 洞庭湖, Bà Dương Hồ 鄱陽湖, Sào Hồ 巢湖, Hồng Trạch Hồ 洪澤湖 và Thái Hồ 太湖 - thuộc Hoa Trung 華中 và Hoa Đông 華東, cận đại), mỗi hồ đều sâu thẳm, rồng rất vui thích. Cần phải có khánh (lễ mừng) Tân (tên hiệu của vua Thương - Nhà Thương, vua Thang thay nhà Hạ 夏 lên làm vua gọi là nhà Thương 商 (1711-1066 trước CN), rồi s4 có người làm rung chuyển núi non, chẳng phải là tượng mới sao? Như Vương Dương Minh xưng bá của bờ cõi mới: nhâm thìn tân hợi quý hợi quý hợi. Đó cũng là nguyên nhân bàn luận Dương Minh thành lập.
Lục hợp hữu công, quyền tôn lục bộ.
(Lục hợp có công lao, quyền tôn kính sáu bộ - Sáu bộ 部 của quan chế thời xưa, gồm bộ Lại 吏, bộ Hộ 戶, bộ Lễ 禮,, bộ Binh 兵, bộ Hình 刑, và bộ Công 工).
Hễ trong trụ có hình xung khắc hại phá, vốn phải luận là hung, nhưng được thần kéo hợp trở lại có lực, tức là phản lại thành điều tốt lạnh, phúc lành của nó cao xa. Năm tháng trở thành dụng thần là trách nhiệm lớn lao; còn ngày giờ thành dụng thần thì kém hơn.
Tam hình đắc dụng, uy trấn tam biên.
(Tam hình sai khiến được, uy thế trấn giữ các ranh giới).
Hình vốn là không tốt, sai khiến được là người phú quý và thông minh; không dùng được là người ngheo hèn cô dộc rất xấu. Thế nào là sai khiến được? Cả ba đều có khí lực, nhật chủ cứng cỏi mạnh mẽ; trái ngược lại là vô dụng.
Tý ngọ đoan môn, song củng kì nghi bằng ngoại chánh.
(Tý ngọ là đoan môn, song củng nếu có nghi ngờ khác biệt hãy dựa vào phân tích bên ngoài).
Hai vị trí tý ngọ là ở giữa mà không nghiêng lệch, cho nên gọi là đoan môn (cửa chính phía nam cung điện hoặc kinh thành gọi là đoan môn 端門). Nếu được hay mất củng (vây quanh) mà không bị phá tổn, thêm có khí lực, nhất định là người thông minh, phấn đầu tạo nên công nghiệp. Chánh củng: là hợi sửu củng tý, tỵ mùi củng ngọ; ngoại củng: thân thìn củng tý, tuất dần củng ngọ, kỵ không vong khắc trở thành hại (tai hoạ, ghen ghét, đố kỵ...).
Tỵ dần sanh địa, thập phân tú khí hợp can khôn.
(Tỵ dần đất sanh, mười phần khí chất xinh đẹp hợp càn khôn).
Tỵ dần sanh có khí lực, có khả năng hợp với hợi thân, hợi chính là càn, thân chính là khôn. Nếu không có xung hay hỗn tạp, thân hợi chính là lợi dụng khí ở trên trời, tài cán vượt khỏi mọi người.
Thiên địa bao tàng thần đắc dụng, hiển hoát hung khâm (hoài bão).
(Trời đất chứa đựng thần sử dụng được, biểu lộ hoài bão rộng lớn).
Hợi là trời, thân là đất, rõ ràng có khí lực, như trong bát tự không gặp hai chữ này, được thần ở hai bên củng khởi hai chữ cùng lúc có tư khí (khí giúp đỡ), không lạc không vong thì phải rõ ràng. Hoặc vì thân hợi bao dậu tuất, phải xem có thiên can nào, nếu hữu dụng là quý.
Phong lôi kích liệt quý vô khuy, phi dương tính tự.
(Gió sấm mãnh liệt quý không mất mát, tên hiệu lan ra xa).
Tỵ là phong môn (cửa nhà gió), mão là lôi môn (cửa nhà sấm), trong bát tự hư củng hai vị trí này, thêm người có trách nhiệm, tuế vận nếu gặp xung khởi, nhất định sẽ phát đạt.
Tặc địa thành gia, tặc loạn gia vong thân tất tang.
(Kẻ trộm lập gia đình, kẻ trộm huỷ hoại gia đình thì mất thân xác nhất định chết).
Cách này chính là năm địa chi âm của tháng. Nếu trong tuế, ngày có thần tranh hợp làm chủ, địa chi tháng bị hãm nịch (chìm đắm), muốn thoát ra mà không được, cho nên có bốn vị trí ưu thắng. Thêm thần của tuế, ngày tự hình, không rãnh rang hợp với mình, được địa chi giờ lợi dung cơ hội hợp với tháng, do đó gọi là kẻ trộm lập gia đình, phú quý không nhỏ. Đại vận bỏ chỗ cũ sẽ yên ổn, gặp lại kẻ trộm sẽ hung. Một thuyết khác: vỗ về kẻ trộm sẽ yên ổn, vất vả vì kẻ trộm thì hung xấu.
Lương tài tựu sách, mộc đa kim khuyết dụng nan thành.
(Phá gỗ xà nhà ngay, mộc nhiều kim ít dụng khó thành).
Mộc vốn nhờ kim mà thành vật dụng, nếu kim bị thần hợp giữ lại, không thể tới khắc mộc, tức là cần phải có mộc và kim là láng giềng, thì mới có thể đẽo gọt được. Nếu mộc thịnh vượng mà kim yếu sức, thì tuy lại gần kim, cũng không thể chờ mà hữu dụng. Ví như dùng mộc với kim tác hợp cả hai bên cứng cỏi, lại là quý mà bàn luận.
Thuần dương địa hộ bao âm, binh quyền hiển hách.
(Hộ thuộc thuần dương bao lấy âm, sức mạnh quân đội lẫy lừng).
Chữ thuần dương vốn là nghiên về một nhóm, mà không biết rằng tý dần thìn ngọ thân tuất ngầm hoá dụng của sửu mão tỵ hợi mùi dậu, hai nhà giúp nhau giao cảm, sẽ ngược lại khí mạnh mẽ lớn lao trong trời đất. Điều quan trọng hơn nửa là tứ trụ không bị không vong cùng với thiên can có sức sinh sôi phát triễn, rất là kỳ diệu. Quyền lực nhà này nằm nơi biên ải, địa vị đến bậc công hậu (quan lại ở vùng biên giới, lo về cảnh báo), phát phúc phần.
Độc hổ thiên môn đái mộc, thai gian thanh cao.
(Một con cọp nơi cổng trời mang theo mộc, đài gian thanh cao).
Hễ năm và tháng được một vị trí dần, tức cần trụ giờ thấy thiên môn hổ, nhất định mặt trời chiếu sáng rực rỡ. Trong trụ có thêm mão mùi hợp thành cục, mộc thịnh vượng sanh ra gió, gió thuận theo cọp làm sao mà không lớn lao được phải không? Nếu có hình xung, khắc phá, không gặp ấn vượt qua hướng về quan sẽ vô dụng.
Học đường phùng dịch mã, san đẩu văn chương.
(Học đường gặp dịch mã, văn chương có được thành tựu to lớn).
Thân ngời ở trường sanh nhĩa là học đường, gặp thêm dịch mã giao trì, một xung một hợp, lại khí tượng cao lớn, có sát ở trụ giờ là người có trách niệm, rất quý, bản lĩnh văn chương hoàn toàn vượt thoát ngoài thế tục.
Nhật chủ tọa hàm trì, giang hồ hoa tửu.
(Nhật chủ ngồi ở hàm trì, giang hô hoa tửu).
Hàm trì có tên khác là đào hoa sát, nam nữ gặp phải dĩ nhiên là dâm loạn, thường là lý do rượu và sắc đẹp, phiêu bạc giang hồ; nếu gặp quan ở trụ giờ có quý đức đồng cung, trái lại được khen ngợi cách thanh kỳ, an hưởng sự giàu có. Đại kỵ hình hợp, chỉ tìm không vong mà thôi.
Phúc mãn tu phòng hữu họa, hung đa vị tất vô lại.
(Phúc đầy phải đề phòng co hoạ, hung nhiều chưa chắc là kẻ bất lương).
Đại khái dùng ấn sanh là phúc của mình. Trong trụ vốn có quan sát, chuyển sang sanh cho ấn nên ấn vượng, không gặp tài thương quan thực thần tiết khí thì quý. Đi vận đất tỷ ấn vượng, sanh quá nhiều, khi phúc tràn đầy, hỏi sao hoạ không sanh ra? Là vì người quân tử sợ lúc thịnh vượng. Trong cách cục vốn nhiều quan sát, lại đi tuế vận quan sát, cái hung đó lại là sửa cho ngay ngắn. Trải qua hết nguy hiểm, say ắt hẳn có chế phục, vận thân vượng, đó có phải là dấu hiệu của sự tân tâm tột độ không? Như ngày giáp vốn bị quan sát làm cho khốn khó, vận thần lại đi thân dậu chính là càng hung xấu ; nhưng đi thuận có hợi tý là ấn, đi nghịch có tỵ ngọ chế phục, vận chính là có vật cứu giúp, hỏi sao không là tốt đẹp? Hai câu này là nói về âm dương tiêu trưởng, hoạ phúc tuỳ thuộc lẫn nhau, đạo trời với việc người hoà hợp với nhau, nên nghiền ngẫm kỹ.
Link đến bản tiếng Hoa:
气象篇三
飞龙离天,随云入渊;潜龙在渊,随云上天。
大林龙出值天河,四库土全居九五。
(大林龙者,即戊辰也。要四柱之中,纳音得天河水,则龙飞在天;更全四库,则四海俱备,所以天下皆沾雨泽,必为九五之大人也。明太祖命:戊辰、壬戌、丁丑、丁未,此亦有因而言。)
长流龙复归大海,五湖水聚掌群黎。
(长流龙者,即壬辰也。龙值长流,地支得亥,名曰龙归大海。又回:龙跃天门。妙在纳音很大海水,四柱俱带水者,则五湖之水,既各且深,龙所益喜。要有庆辛以生之,则出人动摇山岳,非方象乎?如王阳明封新建伯:壬辰、辛亥、癸亥、癸亥。此亦因阳明而立论。)
六合有功,权尊六部。
(凡四柱中有刑冲。克害、破家,木为凶论,得神挽合有力者,即反为祥,其福高远。年月成用,大责;日时成用者,次之。)
三刑得用,威镇三边。
(刑本不吉,得用者富贵聪明;无用者孤贫凶天。何以为得用?三别有气,日主刚强;无用,反是。)
子午端门,双拱歧疑凭外正。
(子午二位,正而不偏,故曰端门。若得失拱无破损者,更有力量,人必聪明,奋立勋业。正拱者,亥丑拱子,己未拱午;外拱者,十辰拱子,戌寅拱午,忌空亡克成为害。)
已寅生地,十分秀气合乾坤。
(已寅生有力,能合亥申,亥乃乾也,申乃坤也。若无冲杂,申亥乃乘云气,才调出群。)
天地包藏神得用,显豁胸襟。
(亥为天,申为地,明有力量,如八字中不见二字,得左右之神拱起二字,兼有资气,不落空亡,须当显豁。或以申亥包酉戌,看系天干何物,以有用为贵。)
风雷激烈贵无亏,飞扬姓字。
(巳为风门,卯为雷门,八字中虚拱二位,更有责人,岁运若逢冲起,必能发达。)
贼地成家,贼乱家亡身必丧。
(此法,月支五阴者是也。若岁日中有神争合为主,月支陷溺其中,欲出而不可得,故四胜地。更得岁日之神自刑,无暇合我,得时支乘机,与月上为合,是谓贼地成家,富贵不浅。大运去陈则安,再见贼乱则凶。一说,抚贼则安,勤贼则凶。)
梁材就拆,木多金缺用难成。
(木本赖金所以成器,若金被神留合,不能来克其木,却要木与金为邻,就被雕琢可也。若木盛金弱,则虽就金,亦不能听而有用。假使用木与金作合,彼此两强,乃为贵论。)
纯阳地户包阴,兵权显赫
(字纯阳,本为偏党,殊不知子寅辰午中戌,暗花丑卯巳亥来西之用,二家相济交感,则反全天地之正气矣。更要四柱无空亡及天干有生意者,极妙。此家权施边塞,位至公候,发福分J、。)
独虎天门带木,台间清高。
(凡岁月得寅一位,却要时见天门虎,必朝天白日。柱中更有卯未合局,木盛生风,风从于虎,岂不伟哉?若使刑冲、克玻,不得印过对官,则无用矣。)、
学堂逢驿马,山斗文章。
(身坐长生位为学堂,更得驿马交驰,一冲一合,又得高大气象、带时热责人者,最贵,文十技投出尘。)
日主坐咸池,江湖花酒。
(咸池,又名桃花煞,男女逢之,必然淫乱,多因花酒,流落江湖;着见时官,贵德同宫,反得标格清奇、富士安享。大忌刑合,只寻空亡。)
福满须防有祸,凶多未必无赖。
(大抵用印生人乃为我之福也。柱中原有官煞,转生印旺,不遇财伤食神泄气为贵。运行比、印旺地,生技大过,福满处,岂无祸生?是以君子怕处其盛也。局中原多官煞,再行官然岁运,其凶乃正。历尽艰险,后必有制伏,身旺之运,否极奉来之象。如甲日原被官煞所困,运神再行中西,乃凶甚也;顺去有亥子,印运逆行,有巳午制,运乃有救之物,岂不为佳?此二句,言阴阳消长,祸福倚伏,天道人事,相为流通,宜细味之。)
.
khí tượng thiên tam
Phi long li thiên, tùy vân nhập uyên; tiềm long tại uyên, tùy vân thượng thiên.
Đại lâm long xuất trị thiên hà, tứ khố thổ toàn cư cửu ngũ (ngôi thiên tử).
(Rồng bay lìa xa trời, theo mây vào vực sâu; rồng ẩn ở vực sâu, theo mây lên trời.
Đại lâm long xuất hiện ở thiên hà; tứ khố thổ đầy đủ ở ngôi thiên tử).
Đại lâm long tức là mậu thìn. Cần trong trụ có nạp âm thiên hà thuỷ, tức là rồng bay ở trời; thêm bốn khố đầy đủ, tức là bốn biển đều chu đáo, vì thế khắp thiên hạ đều thấm mưa ân huệ, nhất định là đại nhân của ngôi thiên tử. Mệnh của Minh Thái Tổ: mậu thìn nhâm tuất đinh sửu đinh mùi, đó cũng là lý do được bàn luận.
Trường lưu long phục quy đại hải, ngũ hồ thủy tụ chưởng quần lê.
(Trường lưu long lại về đại hải, ngũ hồ thuỷ tập hợp một số đông).
Trường lưu long tức là nhâm thìn. Rồng gặp trướng lưu, địa chi gặp được hợi, tên gọi là rồng về biển lớn. Và quay trở lại: rồng nhảy lên cổng trời. Điều kỳ diệu ở nạp âm đại hải thuỷ, tứ trụ đều có thuỷ, tức là thuỷ của năm hồ (Tức Động Đình Hồ 洞庭湖, Bà Dương Hồ 鄱陽湖, Sào Hồ 巢湖, Hồng Trạch Hồ 洪澤湖 và Thái Hồ 太湖 - thuộc Hoa Trung 華中 và Hoa Đông 華東, cận đại), mỗi hồ đều sâu thẳm, rồng rất vui thích. Cần phải có khánh (lễ mừng) Tân (tên hiệu của vua Thương - Nhà Thương, vua Thang thay nhà Hạ 夏 lên làm vua gọi là nhà Thương 商 (1711-1066 trước CN), rồi s4 có người làm rung chuyển núi non, chẳng phải là tượng mới sao? Như Vương Dương Minh xưng bá của bờ cõi mới: nhâm thìn tân hợi quý hợi quý hợi. Đó cũng là nguyên nhân bàn luận Dương Minh thành lập.
Lục hợp hữu công, quyền tôn lục bộ.
(Lục hợp có công lao, quyền tôn kính sáu bộ - Sáu bộ 部 của quan chế thời xưa, gồm bộ Lại 吏, bộ Hộ 戶, bộ Lễ 禮,, bộ Binh 兵, bộ Hình 刑, và bộ Công 工).
Hễ trong trụ có hình xung khắc hại phá, vốn phải luận là hung, nhưng được thần kéo hợp trở lại có lực, tức là phản lại thành điều tốt lạnh, phúc lành của nó cao xa. Năm tháng trở thành dụng thần là trách nhiệm lớn lao; còn ngày giờ thành dụng thần thì kém hơn.
Tam hình đắc dụng, uy trấn tam biên.
(Tam hình sai khiến được, uy thế trấn giữ các ranh giới).
Hình vốn là không tốt, sai khiến được là người phú quý và thông minh; không dùng được là người ngheo hèn cô dộc rất xấu. Thế nào là sai khiến được? Cả ba đều có khí lực, nhật chủ cứng cỏi mạnh mẽ; trái ngược lại là vô dụng.
Tý ngọ đoan môn, song củng kì nghi bằng ngoại chánh.
(Tý ngọ là đoan môn, song củng nếu có nghi ngờ khác biệt hãy dựa vào phân tích bên ngoài).
Hai vị trí tý ngọ là ở giữa mà không nghiêng lệch, cho nên gọi là đoan môn (cửa chính phía nam cung điện hoặc kinh thành gọi là đoan môn 端門). Nếu được hay mất củng (vây quanh) mà không bị phá tổn, thêm có khí lực, nhất định là người thông minh, phấn đầu tạo nên công nghiệp. Chánh củng: là hợi sửu củng tý, tỵ mùi củng ngọ; ngoại củng: thân thìn củng tý, tuất dần củng ngọ, kỵ không vong khắc trở thành hại (tai hoạ, ghen ghét, đố kỵ...).
Tỵ dần sanh địa, thập phân tú khí hợp can khôn.
(Tỵ dần đất sanh, mười phần khí chất xinh đẹp hợp càn khôn).
Tỵ dần sanh có khí lực, có khả năng hợp với hợi thân, hợi chính là càn, thân chính là khôn. Nếu không có xung hay hỗn tạp, thân hợi chính là lợi dụng khí ở trên trời, tài cán vượt khỏi mọi người.
Thiên địa bao tàng thần đắc dụng, hiển hoát hung khâm (hoài bão).
(Trời đất chứa đựng thần sử dụng được, biểu lộ hoài bão rộng lớn).
Hợi là trời, thân là đất, rõ ràng có khí lực, như trong bát tự không gặp hai chữ này, được thần ở hai bên củng khởi hai chữ cùng lúc có tư khí (khí giúp đỡ), không lạc không vong thì phải rõ ràng. Hoặc vì thân hợi bao dậu tuất, phải xem có thiên can nào, nếu hữu dụng là quý.
Phong lôi kích liệt quý vô khuy, phi dương tính tự.
(Gió sấm mãnh liệt quý không mất mát, tên hiệu lan ra xa).
Tỵ là phong môn (cửa nhà gió), mão là lôi môn (cửa nhà sấm), trong bát tự hư củng hai vị trí này, thêm người có trách nhiệm, tuế vận nếu gặp xung khởi, nhất định sẽ phát đạt.
Tặc địa thành gia, tặc loạn gia vong thân tất tang.
(Kẻ trộm lập gia đình, kẻ trộm huỷ hoại gia đình thì mất thân xác nhất định chết).
Cách này chính là năm địa chi âm của tháng. Nếu trong tuế, ngày có thần tranh hợp làm chủ, địa chi tháng bị hãm nịch (chìm đắm), muốn thoát ra mà không được, cho nên có bốn vị trí ưu thắng. Thêm thần của tuế, ngày tự hình, không rãnh rang hợp với mình, được địa chi giờ lợi dung cơ hội hợp với tháng, do đó gọi là kẻ trộm lập gia đình, phú quý không nhỏ. Đại vận bỏ chỗ cũ sẽ yên ổn, gặp lại kẻ trộm sẽ hung. Một thuyết khác: vỗ về kẻ trộm sẽ yên ổn, vất vả vì kẻ trộm thì hung xấu.
Lương tài tựu sách, mộc đa kim khuyết dụng nan thành.
(Phá gỗ xà nhà ngay, mộc nhiều kim ít dụng khó thành).
Mộc vốn nhờ kim mà thành vật dụng, nếu kim bị thần hợp giữ lại, không thể tới khắc mộc, tức là cần phải có mộc và kim là láng giềng, thì mới có thể đẽo gọt được. Nếu mộc thịnh vượng mà kim yếu sức, thì tuy lại gần kim, cũng không thể chờ mà hữu dụng. Ví như dùng mộc với kim tác hợp cả hai bên cứng cỏi, lại là quý mà bàn luận.
Thuần dương địa hộ bao âm, binh quyền hiển hách.
(Hộ thuộc thuần dương bao lấy âm, sức mạnh quân đội lẫy lừng).
Chữ thuần dương vốn là nghiên về một nhóm, mà không biết rằng tý dần thìn ngọ thân tuất ngầm hoá dụng của sửu mão tỵ hợi mùi dậu, hai nhà giúp nhau giao cảm, sẽ ngược lại khí mạnh mẽ lớn lao trong trời đất. Điều quan trọng hơn nửa là tứ trụ không bị không vong cùng với thiên can có sức sinh sôi phát triễn, rất là kỳ diệu. Quyền lực nhà này nằm nơi biên ải, địa vị đến bậc công hậu (quan lại ở vùng biên giới, lo về cảnh báo), phát phúc phần.
Độc hổ thiên môn đái mộc, thai gian thanh cao.
(Một con cọp nơi cổng trời mang theo mộc, đài gian thanh cao).
Hễ năm và tháng được một vị trí dần, tức cần trụ giờ thấy thiên môn hổ, nhất định mặt trời chiếu sáng rực rỡ. Trong trụ có thêm mão mùi hợp thành cục, mộc thịnh vượng sanh ra gió, gió thuận theo cọp làm sao mà không lớn lao được phải không? Nếu có hình xung, khắc phá, không gặp ấn vượt qua hướng về quan sẽ vô dụng.
Học đường phùng dịch mã, san đẩu văn chương.
(Học đường gặp dịch mã, văn chương có được thành tựu to lớn).
Thân ngời ở trường sanh nhĩa là học đường, gặp thêm dịch mã giao trì, một xung một hợp, lại khí tượng cao lớn, có sát ở trụ giờ là người có trách niệm, rất quý, bản lĩnh văn chương hoàn toàn vượt thoát ngoài thế tục.
Nhật chủ tọa hàm trì, giang hồ hoa tửu.
(Nhật chủ ngồi ở hàm trì, giang hô hoa tửu).
Hàm trì có tên khác là đào hoa sát, nam nữ gặp phải dĩ nhiên là dâm loạn, thường là lý do rượu và sắc đẹp, phiêu bạc giang hồ; nếu gặp quan ở trụ giờ có quý đức đồng cung, trái lại được khen ngợi cách thanh kỳ, an hưởng sự giàu có. Đại kỵ hình hợp, chỉ tìm không vong mà thôi.
Phúc mãn tu phòng hữu họa, hung đa vị tất vô lại.
(Phúc đầy phải đề phòng co hoạ, hung nhiều chưa chắc là kẻ bất lương).
Đại khái dùng ấn sanh là phúc của mình. Trong trụ vốn có quan sát, chuyển sang sanh cho ấn nên ấn vượng, không gặp tài thương quan thực thần tiết khí thì quý. Đi vận đất tỷ ấn vượng, sanh quá nhiều, khi phúc tràn đầy, hỏi sao hoạ không sanh ra? Là vì người quân tử sợ lúc thịnh vượng. Trong cách cục vốn nhiều quan sát, lại đi tuế vận quan sát, cái hung đó lại là sửa cho ngay ngắn. Trải qua hết nguy hiểm, say ắt hẳn có chế phục, vận thân vượng, đó có phải là dấu hiệu của sự tân tâm tột độ không? Như ngày giáp vốn bị quan sát làm cho khốn khó, vận thần lại đi thân dậu chính là càng hung xấu ; nhưng đi thuận có hợi tý là ấn, đi nghịch có tỵ ngọ chế phục, vận chính là có vật cứu giúp, hỏi sao không là tốt đẹp? Hai câu này là nói về âm dương tiêu trưởng, hoạ phúc tuỳ thuộc lẫn nhau, đạo trời với việc người hoà hợp với nhau, nên nghiền ngẫm kỹ.
Link đến bản tiếng Hoa:
气象篇三
飞龙离天,随云入渊;潜龙在渊,随云上天。
大林龙出值天河,四库土全居九五。
(大林龙者,即戊辰也。要四柱之中,纳音得天河水,则龙飞在天;更全四库,则四海俱备,所以天下皆沾雨泽,必为九五之大人也。明太祖命:戊辰、壬戌、丁丑、丁未,此亦有因而言。)
长流龙复归大海,五湖水聚掌群黎。
(长流龙者,即壬辰也。龙值长流,地支得亥,名曰龙归大海。又回:龙跃天门。妙在纳音很大海水,四柱俱带水者,则五湖之水,既各且深,龙所益喜。要有庆辛以生之,则出人动摇山岳,非方象乎?如王阳明封新建伯:壬辰、辛亥、癸亥、癸亥。此亦因阳明而立论。)
六合有功,权尊六部。
(凡四柱中有刑冲。克害、破家,木为凶论,得神挽合有力者,即反为祥,其福高远。年月成用,大责;日时成用者,次之。)
三刑得用,威镇三边。
(刑本不吉,得用者富贵聪明;无用者孤贫凶天。何以为得用?三别有气,日主刚强;无用,反是。)
子午端门,双拱歧疑凭外正。
(子午二位,正而不偏,故曰端门。若得失拱无破损者,更有力量,人必聪明,奋立勋业。正拱者,亥丑拱子,己未拱午;外拱者,十辰拱子,戌寅拱午,忌空亡克成为害。)
已寅生地,十分秀气合乾坤。
(已寅生有力,能合亥申,亥乃乾也,申乃坤也。若无冲杂,申亥乃乘云气,才调出群。)
天地包藏神得用,显豁胸襟。
(亥为天,申为地,明有力量,如八字中不见二字,得左右之神拱起二字,兼有资气,不落空亡,须当显豁。或以申亥包酉戌,看系天干何物,以有用为贵。)
风雷激烈贵无亏,飞扬姓字。
(巳为风门,卯为雷门,八字中虚拱二位,更有责人,岁运若逢冲起,必能发达。)
贼地成家,贼乱家亡身必丧。
(此法,月支五阴者是也。若岁日中有神争合为主,月支陷溺其中,欲出而不可得,故四胜地。更得岁日之神自刑,无暇合我,得时支乘机,与月上为合,是谓贼地成家,富贵不浅。大运去陈则安,再见贼乱则凶。一说,抚贼则安,勤贼则凶。)
梁材就拆,木多金缺用难成。
(木本赖金所以成器,若金被神留合,不能来克其木,却要木与金为邻,就被雕琢可也。若木盛金弱,则虽就金,亦不能听而有用。假使用木与金作合,彼此两强,乃为贵论。)
纯阳地户包阴,兵权显赫
(字纯阳,本为偏党,殊不知子寅辰午中戌,暗花丑卯巳亥来西之用,二家相济交感,则反全天地之正气矣。更要四柱无空亡及天干有生意者,极妙。此家权施边塞,位至公候,发福分J、。)
独虎天门带木,台间清高。
(凡岁月得寅一位,却要时见天门虎,必朝天白日。柱中更有卯未合局,木盛生风,风从于虎,岂不伟哉?若使刑冲、克玻,不得印过对官,则无用矣。)、
学堂逢驿马,山斗文章。
(身坐长生位为学堂,更得驿马交驰,一冲一合,又得高大气象、带时热责人者,最贵,文十技投出尘。)
日主坐咸池,江湖花酒。
(咸池,又名桃花煞,男女逢之,必然淫乱,多因花酒,流落江湖;着见时官,贵德同宫,反得标格清奇、富士安享。大忌刑合,只寻空亡。)
福满须防有祸,凶多未必无赖。
(大抵用印生人乃为我之福也。柱中原有官煞,转生印旺,不遇财伤食神泄气为贵。运行比、印旺地,生技大过,福满处,岂无祸生?是以君子怕处其盛也。局中原多官煞,再行官然岁运,其凶乃正。历尽艰险,后必有制伏,身旺之运,否极奉来之象。如甲日原被官煞所困,运神再行中西,乃凶甚也;顺去有亥子,印运逆行,有巳午制,运乃有救之物,岂不为佳?此二句,言阴阳消长,祸福倚伏,天道人事,相为流通,宜细味之。)
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#378
Gửi vào 07/11/2024 - 11:43
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất
khí tượng thiên tứ
Mã đầu đái tiễn, sanh vu yếu nhi tử vu sở; mã hậu gia tiên triều hồ bắc nhi mộ hồ nam.
(Đầu ngựa mang mũi tên, sanh ở nơi quan trọng mà chết ở Sở; quất vào mông ngựa sáng ở bắc chiều ở nam).
Đó là nói về dịch mã ở dưới ngày giờ, nhất định phải có kết hợp, gọi là liên lạc, tụ nhiều tài phúc, sự việc liên quan vượt hơn người. Nếu phía trước mã gặp hình xung, nghĩa là đã chuẩn bị sẵn sang, là tượng của nam bắc gãy đứt vậy. Nếu vật tơi xung thuộc kim cài bị khắc thuộc mộc, thì hoạ càng nặng, chủ người mất mạng ở nơi tha hương. Hễ chọn dùng dịch mã, thuận thì năm chọn ngày giờ, nghịch thì giờ chọn nhật chủ, mã vốn có ngăn chặn, thì phóng túng nên không thể đè nén, nếu như phía sau lại thêm hình xung, mã ắt phóng nhanh, suốt ngày ngừng ở đất yên ổn, chủ người một đời bận rộn cực nhọc, nóng vội mong đạt được danh lợi mà bôn tẩu khắp nơi. Nếu thần của hình xung gặp tam hợp, lục hợp, tức là không bị đánh mạnh.
Tính linh hình tẩm, đa khốn san lí lưu thanh; mạo tuấn tâm mông, cái thị thanh trung hàm trọc.
(Bản tính nhanh nhẹn dáng vẻ che dấu đi, thường khốn nơi dòng trong thanh ở núi non; ngoài mặt đẹp lòng tối tăm, bởi là có trọc trong thanh).
Hễ chọn lấy dụng thần, mài giũa xuất ra hình xung, không thể nói ngay trọc là vô dụng, nên quan sát vật ngầm chứa trong nó. Ví như trong trọc chảy ra một điểm trảo thanh (nắm bắt rõ ràng) tức là người tuy chất phác, sơ sài, nhưng thường hiện bản chất thông minh, mưu lược khác thường. Nếu dụng thần trong sáng đặc biệt, không lẫn lộn hình thương, không thể biểu lộ cảm xúc, nhưng trong đó có ngầm một vật của mình, cùng với vật của dụng thần có thương tổn, thì tỳ vết đó không thể vứt bỏ. Cho nên người tuy ngoài mặt đẹp, dĩ nhiên nếu không có học sẽ không thành tựu, lại đam mê tửu sắc.
Nhất tướng đương quan, quần tà tự phục.
(Mỗi khi tướng quân vượt qua, bọn tà ác sẽ hàng phục).
Tướng: là cái danh tiếng cao quý. Quan: là nơi rất trọng yếu. Tà: là vật ghen ghét mình. Ví dụ như ngày giáp ất mà sanh ở nơi kim vượng. Năm tháng đều tới khắc mình, gặp được ở nguyệt lộ ra chế sát làm thành sức mạnh, mà sát sẽ hàng phục vậy. Lại như nhâm quý gặp mậu kỷ, và địa chi loạn khắc, bản thân không khả năng chống cự, cần thiết có tân là ấn hoá sát, không dám làm loạn.
Chúng hung khắc chủ, chỉ lực nan thắng.
(Bọn hung ác khắc nhật chủ, chỉ dùng sức khó vượt qua).
Đây là nói về sát trọng thân khinh. Một mình không có ai trợ giúp, bởi không có thần nào có thể cứu, sẽ không thể vượt qua chỗ khắc. Nhất định yểu vong, bệnh tật.
Thoát thử bối, kị kiến thử bối. Hóa tư thần, hỉ kiến tư thần.
(Thoát khỏi bọn đó, kỵ thấy bọn đó. Hoá thành thần này, mừng thấy thần này).
Sự kỳ diệu của tòng hoá, vẫn không thể cạn kiệt, cần phải quan sát tỉ mỉ. Như giáp kỷ hoá thoát khỏi thuỷ khí, nên thuận theo nhà vợ, nếu thấy giáp ất dần mão mùi hợi, đều là tỷ kiên của mình, dụng thần vốn có kết cục vượng, làm sao không quấn quýt đây? Huống chi tỷ nhận lại có thể tranh hợp tài của mình, khiến cho giáp kỷ không khả năng tương thích với nhau, trái lại thành nguồn gốc của chia cách. Nhìn kỹ hai tên: ất canh hoá kim, thích gặp kim vượng nên vợ được cậy nhờ chồng; đinh nhâm hoá mộc, thích gặp mùi vượng, nên con gái được mẹ tốt; bính tân hoá thuỷ, muốn chỗ thuỷ vượng nên mẹ được con tốt; mậu quý hoá hoả, thích hoả vượng nên tự mình được dựa vào tiền của. Rất sợ không vong hay sát hiện, tỷ kiên tranh đọạt, mười phần không một thành danh vua tôi, sẽ là trẻ mồ côi khác họ.
Dịch mã vô tích, nam sái chi khách.
(Dịch mã vô tích, khách tự tại ở phương nam).
Không có ngựa trải qua, không có cõi nam bắc đông tây nào mà không đến. Như mệnh ngườigap85 vậy nhất định phiêu bạc.
Đào hoa đái sát, xướng cấp giáo tốt chi đồ.
(Đào hoa đới sát, kỹ nữ dạy bọn đày tớ).
Đào hoa: nhớ nhung ở ngày giờ. Không chỉ kỵ hình hợp hữu tình, mà càng kỵ có ngọc sát cùng một chỗ. Hễ người gặp phải điều này, không theo lễ nghĩa liên sĩ).
Mẫu tử hữu chung thủy chi thịnh, phu thê đắc sanh tử tương y.
(Mẹ con từ đầu đến cuối thịnh vượng, vợ chồng sống chết được bên nhau).
Mẹ con vợ chồng bàn về tốt lành ảnh hưởng bởi hai điều suy nghĩ, chỉ ở tháng và ngày là quan trọng, ví như ngày mậu ngồi ở thìn, sanh ở tháng giêng, mà thổ lấy kim làm con, và kim dưỡng ở thìn, tuổi trẻ trải qua tốt nên tự cường, lớn lên ở thân; tuổi già gặp tý nên có chỗ nương tựa, nhà đó rất đặc biệt. Đại kỵ tuế vận vui vẻ mà thành lo lắng. Ví dụ như ngày bính ngồi ở tháng, trở ngại khi đối diện với kim, nhưng bính lấy kim làm vợ mà tân kim sanh ở tý, thuận theo nhà chồng mà dưỡng thân mình; hoả đến dậu thì mất, nhờ vợ đối đãi để mệnh còn sống. Nhà này mưu tính dụng tài quan, rất sợ hình xung làm tan mất kết cục.
Song nhãn vô đồng, nhân sĩ tọa vu quý thủy.
(Hai mắt không có con ngươi, người thổ ngồi ở quý thuỷ).
Quý thuỷ: ở người ghi là phổ (rộng, khắp). Là nền tảng của thân là gốc của hai mắt. Mắt liên quan đến ngũ hành, chỉ con ngươi thuộc thuỷ, thuỷ cạn kiệt nên thận suy yếu, nên con ngươi không có chỗ dựa vào. Nếu ở can ngày, sanh ở cấp thổ tháng phân (tháng xuân phân và thu phân), ngày giờ ngồi ở thổ thì lấp kín nguồn cội, nên trong trụ gặp mộc hoả tiêu thụ, không thành tòng hoá, thường mắc phải bệnh về mắt. Nếu giữ gìn qua năm tháng giờ, biến đổi được khí mùa thu, không đi hương tây bắc, dại vận gặp phải mộc hoả đất trời rộng lớn, e rằng bệnh mất ánh sáng. Tức là thuỷ có một chút được thông căn, cũng là điều chỉnh hạ nguyên (Y học cổ gọi thận là hạ nguyên 下元).
Đại tràng hữu bệnh, bính liễu ba tổn canh kim.
(Ruột già bị bệnh, bính làm tổn hại canh kim).
Canh thuộc ruột già, nên gặp thuỷ thổ. Ghét bính đinh dần mão thành cục, không có chế phục canh kim, tuy được quải căn (hiện vẻ triệt để) mà bị xung hình, khắc phá, cùng lúc vào đại vận thuỷ hoả, bên ngoài chỗ của thuỷ, lập tức có bệnh này.
Thổ hành thấp địa nhi khuynh căn, Bá Ngưu hữu hận thủy trị viêm thiên nhi đắc cục, Nhan Tử vô ưu.
(Thổ đi đất ẩm uốt nên gốc bị nguy ngập, Bá Nguư ghét thuỷ gặp trời nóng nực mà thành cục, thầy Nhan không lo lắng).
Mậu thuộc tỳ (lá lách). Trong tứ trụ không có chỗ sanh vượng thông căn, khi sanh gặp trời âm u, khí ẩm, lại thêm nước ngâm vào chỗ trống, đi vận đất ẩm thấp, tuế hiện thổ khắc, thì tỳ thổ sẽ bị thương tồn, do đó mà có bệnh. Hoả chính là tượng của văn minh, sanh ở cửu hạ (chín mươi ngày hè), tam hợp cục dần ngọ tuất, rất bất cẩn, có ít ánh sáng, dùng mộ để hỗ trợ sức mạnh của mình; không nên hiện thuỷ liên luỵ gốc rễ, gặp phải ngọn lữa. Người sanh gặp thế nhất định vui thích không lo lắng. Hoả đi đến chỗ cực điểm, thường gặp mộc sanh, phản thành nghèo hèn, bất lợi.
Thủy phiếm mộc phù, tử vô quan đình; hỏa viêm thổ táo, sanh thụ cô đan.
Thê đa lực nhược, hoa phấn sanh nhai; mã nhược bỉ đa, hình hài phiêu bạc (trôi giạt).
(Nước tràn lan gỗ trôi nổi, chết không có quan tài thoả đáng; lửa nóng đất khô, đời sống cô đơn.
Vợ nhiều sức yếu, sống bằng nghề phấn hoa; mã yếu tỷ nhiều, thân thể trôi giạt).
Hễ gặp phải hung thần tụ tập, thiện lành ít có nên khó thành tựu; cát thần cùng gặp, ác tuy nhiều cũng hoá thành chân lý. Thuận theo lý do hiểu ra từ lòng mình, quen nghiên cứu hết lòng tìm kiếm những dấu hiệu vĩ đại hay tinh tế.
Link đến bản tiếng Hoa:
气象篇四
马头带箭,生于要而死于楚;马后加鞭潮乎北而暮乎南。
(此言驿马在日时之下者,必要带合,谓之联络,聚大财福,干事过人。若马前见有刑冲,谓之带备,断经之象也。若来冲者属金,受克者属木,其祸尤甚。主人他乡丧亡。凡取用驿马,顺则年取其日时,逆则时用其日主,马元堤拦,则纵肆而无可遏,如后再加刑冲,马必疾行,终天安顿之地,主人一生劳碌,奔竞四方。若刑冲之神遇有三合、六合,则不为力D鞭矣。)
性灵形寝,多困山里流清;貌俊心蒙,盖是清中涵浊。
(凡取用神,铝出L刑冲,未可便言浊而无用,当审其中有暗藏之物。如浊中流出一点抓清,则人虽朴陋。多见性情颖悟,机谋异常。若用神清奇特立,不为混杂刑伤,未可使言情也,但中间有暗我一“物,与所用之物有伤,其病终不可去。故人虽貌美,必然失学无成,昏迷酒色。)
一将当关,群邪自服。
(将者,贵重之个名巴。关者,紧要之处也。邪者,妒我之物也。假如甲乙日,生于金旺。年月皆来克我,得的透出月上制热为权,而煞自服矣。又如壬癸遇戊己、及支上乱克,身不能敌,紧要处却要在辛为印化煞,不敢为乱。)
众凶克主,只力难胜。
(此言煞重身轻。孤独无助者,盖无当关可救之神,则不能胜所克矣。决主天疾。)
脱此辈,忌见此辈。化斯神,喜见斯神。
(从化之妙,还不可穷,务要用心详察。如甲己化上脱水气,而从妻家,若见甲乙寅卯未亥,皆我比肩,用有原旺之结,岂无恋哉?,况比刃又能争合我财,使甲己不能相成,反有离间之根也。二名瞩:乙庚化金,喜见金旺,而妻得倚其夫;丁壬化木,喜见未旺,而女得价其母;丙辛化水,在要水旺,而母得价其子;戊癸化火,喜要火旺,而主得倚其财。大怕空亡见然,比肩争十一不成名卿巨公,则为孤儿异姓矣。)
驿马无锡,南]洒之客。
(无经马,无合也门南北东西,无所不至矣。如人命遇此,必主飘零。)
桃花带煞,娼级教卒之徒。
(桃花,日时上思是也。不惟忌刑合有情,尤忌玉煞同处。凡遇此者,不受礼义廉耻之#也。)
母子有终始之盛,夫妻得生死相依。
(母子夫妻者,吉言作用两端,惟在月日为要、假如戊日坐辰,生于一月,然土以金为子,金养于辰,少行好而自强;上生于中,老得子而有靠。此家甚奇,大忌岁运欢而为患。假如丙日坐于月,磨面金,然大以金为妻,辛金生于子,适夫家以养其身;火至酉亡,赖妻对以活其命。此家计用财官,大怕刑冲散局。)
双眼无瞳,人士坐于癸水。
(癸水,在人记普。为一身之基,两目之本。目关五行,惟瞳属水,水涸肾虚,则瞳无所倚。若在日干,生于级土月分,日时坐土塞源,而柱中遇木火耗熬,不成从化者,多患目疾。若在岁月时守,变得秋气,不行西北,大运遇木火大天之地,恐有丧明之苦。即水稍得通根,亦有下元之调民。)
大肠有病,丙了芭损庚金。
(庚属大肠,宜临水土。嫌者丙丁寅卯得局,无制庚金,虽得挂根,又被冲刑、克破,兼入水火大运,水上表处,便有此疾。)
土行湿地而倾根,伯牛有恨水值炎天而得局,颜子无忧。
(戊上属脾。四柱中不有生旺通根之位,生遇阴湿之时,又加水浸上虚,运行湿地,岁见土克,则脾土受伤,因而有疾。火乃文明之象,生于九夏,三合寅午戌局,大意发,辉少,用木资其势;不宜见水拖根,遇上之焰。人生得此,乐道无忧。火行极处,多遇木生,反主贫大,至不利也。)
水泛木浮,死无棺停;火炎土燥,生受孤单。
妻多力弱,花粉生涯;马弱比多,形骸飘泊。
凡遇凶神交会,善以少而难成;吉晤并临,恶虽多面亦化道。从理悟神自心生,熟读苦求巨微征矣。
.
khí tượng thiên tứ
Mã đầu đái tiễn, sanh vu yếu nhi tử vu sở; mã hậu gia tiên triều hồ bắc nhi mộ hồ nam.
(Đầu ngựa mang mũi tên, sanh ở nơi quan trọng mà chết ở Sở; quất vào mông ngựa sáng ở bắc chiều ở nam).
Đó là nói về dịch mã ở dưới ngày giờ, nhất định phải có kết hợp, gọi là liên lạc, tụ nhiều tài phúc, sự việc liên quan vượt hơn người. Nếu phía trước mã gặp hình xung, nghĩa là đã chuẩn bị sẵn sang, là tượng của nam bắc gãy đứt vậy. Nếu vật tơi xung thuộc kim cài bị khắc thuộc mộc, thì hoạ càng nặng, chủ người mất mạng ở nơi tha hương. Hễ chọn dùng dịch mã, thuận thì năm chọn ngày giờ, nghịch thì giờ chọn nhật chủ, mã vốn có ngăn chặn, thì phóng túng nên không thể đè nén, nếu như phía sau lại thêm hình xung, mã ắt phóng nhanh, suốt ngày ngừng ở đất yên ổn, chủ người một đời bận rộn cực nhọc, nóng vội mong đạt được danh lợi mà bôn tẩu khắp nơi. Nếu thần của hình xung gặp tam hợp, lục hợp, tức là không bị đánh mạnh.
Tính linh hình tẩm, đa khốn san lí lưu thanh; mạo tuấn tâm mông, cái thị thanh trung hàm trọc.
(Bản tính nhanh nhẹn dáng vẻ che dấu đi, thường khốn nơi dòng trong thanh ở núi non; ngoài mặt đẹp lòng tối tăm, bởi là có trọc trong thanh).
Hễ chọn lấy dụng thần, mài giũa xuất ra hình xung, không thể nói ngay trọc là vô dụng, nên quan sát vật ngầm chứa trong nó. Ví như trong trọc chảy ra một điểm trảo thanh (nắm bắt rõ ràng) tức là người tuy chất phác, sơ sài, nhưng thường hiện bản chất thông minh, mưu lược khác thường. Nếu dụng thần trong sáng đặc biệt, không lẫn lộn hình thương, không thể biểu lộ cảm xúc, nhưng trong đó có ngầm một vật của mình, cùng với vật của dụng thần có thương tổn, thì tỳ vết đó không thể vứt bỏ. Cho nên người tuy ngoài mặt đẹp, dĩ nhiên nếu không có học sẽ không thành tựu, lại đam mê tửu sắc.
Nhất tướng đương quan, quần tà tự phục.
(Mỗi khi tướng quân vượt qua, bọn tà ác sẽ hàng phục).
Tướng: là cái danh tiếng cao quý. Quan: là nơi rất trọng yếu. Tà: là vật ghen ghét mình. Ví dụ như ngày giáp ất mà sanh ở nơi kim vượng. Năm tháng đều tới khắc mình, gặp được ở nguyệt lộ ra chế sát làm thành sức mạnh, mà sát sẽ hàng phục vậy. Lại như nhâm quý gặp mậu kỷ, và địa chi loạn khắc, bản thân không khả năng chống cự, cần thiết có tân là ấn hoá sát, không dám làm loạn.
Chúng hung khắc chủ, chỉ lực nan thắng.
(Bọn hung ác khắc nhật chủ, chỉ dùng sức khó vượt qua).
Đây là nói về sát trọng thân khinh. Một mình không có ai trợ giúp, bởi không có thần nào có thể cứu, sẽ không thể vượt qua chỗ khắc. Nhất định yểu vong, bệnh tật.
Thoát thử bối, kị kiến thử bối. Hóa tư thần, hỉ kiến tư thần.
(Thoát khỏi bọn đó, kỵ thấy bọn đó. Hoá thành thần này, mừng thấy thần này).
Sự kỳ diệu của tòng hoá, vẫn không thể cạn kiệt, cần phải quan sát tỉ mỉ. Như giáp kỷ hoá thoát khỏi thuỷ khí, nên thuận theo nhà vợ, nếu thấy giáp ất dần mão mùi hợi, đều là tỷ kiên của mình, dụng thần vốn có kết cục vượng, làm sao không quấn quýt đây? Huống chi tỷ nhận lại có thể tranh hợp tài của mình, khiến cho giáp kỷ không khả năng tương thích với nhau, trái lại thành nguồn gốc của chia cách. Nhìn kỹ hai tên: ất canh hoá kim, thích gặp kim vượng nên vợ được cậy nhờ chồng; đinh nhâm hoá mộc, thích gặp mùi vượng, nên con gái được mẹ tốt; bính tân hoá thuỷ, muốn chỗ thuỷ vượng nên mẹ được con tốt; mậu quý hoá hoả, thích hoả vượng nên tự mình được dựa vào tiền của. Rất sợ không vong hay sát hiện, tỷ kiên tranh đọạt, mười phần không một thành danh vua tôi, sẽ là trẻ mồ côi khác họ.
Dịch mã vô tích, nam sái chi khách.
(Dịch mã vô tích, khách tự tại ở phương nam).
Không có ngựa trải qua, không có cõi nam bắc đông tây nào mà không đến. Như mệnh ngườigap85 vậy nhất định phiêu bạc.
Đào hoa đái sát, xướng cấp giáo tốt chi đồ.
(Đào hoa đới sát, kỹ nữ dạy bọn đày tớ).
Đào hoa: nhớ nhung ở ngày giờ. Không chỉ kỵ hình hợp hữu tình, mà càng kỵ có ngọc sát cùng một chỗ. Hễ người gặp phải điều này, không theo lễ nghĩa liên sĩ).
Mẫu tử hữu chung thủy chi thịnh, phu thê đắc sanh tử tương y.
(Mẹ con từ đầu đến cuối thịnh vượng, vợ chồng sống chết được bên nhau).
Mẹ con vợ chồng bàn về tốt lành ảnh hưởng bởi hai điều suy nghĩ, chỉ ở tháng và ngày là quan trọng, ví như ngày mậu ngồi ở thìn, sanh ở tháng giêng, mà thổ lấy kim làm con, và kim dưỡng ở thìn, tuổi trẻ trải qua tốt nên tự cường, lớn lên ở thân; tuổi già gặp tý nên có chỗ nương tựa, nhà đó rất đặc biệt. Đại kỵ tuế vận vui vẻ mà thành lo lắng. Ví dụ như ngày bính ngồi ở tháng, trở ngại khi đối diện với kim, nhưng bính lấy kim làm vợ mà tân kim sanh ở tý, thuận theo nhà chồng mà dưỡng thân mình; hoả đến dậu thì mất, nhờ vợ đối đãi để mệnh còn sống. Nhà này mưu tính dụng tài quan, rất sợ hình xung làm tan mất kết cục.
Song nhãn vô đồng, nhân sĩ tọa vu quý thủy.
(Hai mắt không có con ngươi, người thổ ngồi ở quý thuỷ).
Quý thuỷ: ở người ghi là phổ (rộng, khắp). Là nền tảng của thân là gốc của hai mắt. Mắt liên quan đến ngũ hành, chỉ con ngươi thuộc thuỷ, thuỷ cạn kiệt nên thận suy yếu, nên con ngươi không có chỗ dựa vào. Nếu ở can ngày, sanh ở cấp thổ tháng phân (tháng xuân phân và thu phân), ngày giờ ngồi ở thổ thì lấp kín nguồn cội, nên trong trụ gặp mộc hoả tiêu thụ, không thành tòng hoá, thường mắc phải bệnh về mắt. Nếu giữ gìn qua năm tháng giờ, biến đổi được khí mùa thu, không đi hương tây bắc, dại vận gặp phải mộc hoả đất trời rộng lớn, e rằng bệnh mất ánh sáng. Tức là thuỷ có một chút được thông căn, cũng là điều chỉnh hạ nguyên (Y học cổ gọi thận là hạ nguyên 下元).
Đại tràng hữu bệnh, bính liễu ba tổn canh kim.
(Ruột già bị bệnh, bính làm tổn hại canh kim).
Canh thuộc ruột già, nên gặp thuỷ thổ. Ghét bính đinh dần mão thành cục, không có chế phục canh kim, tuy được quải căn (hiện vẻ triệt để) mà bị xung hình, khắc phá, cùng lúc vào đại vận thuỷ hoả, bên ngoài chỗ của thuỷ, lập tức có bệnh này.
Thổ hành thấp địa nhi khuynh căn, Bá Ngưu hữu hận thủy trị viêm thiên nhi đắc cục, Nhan Tử vô ưu.
(Thổ đi đất ẩm uốt nên gốc bị nguy ngập, Bá Nguư ghét thuỷ gặp trời nóng nực mà thành cục, thầy Nhan không lo lắng).
Mậu thuộc tỳ (lá lách). Trong tứ trụ không có chỗ sanh vượng thông căn, khi sanh gặp trời âm u, khí ẩm, lại thêm nước ngâm vào chỗ trống, đi vận đất ẩm thấp, tuế hiện thổ khắc, thì tỳ thổ sẽ bị thương tồn, do đó mà có bệnh. Hoả chính là tượng của văn minh, sanh ở cửu hạ (chín mươi ngày hè), tam hợp cục dần ngọ tuất, rất bất cẩn, có ít ánh sáng, dùng mộ để hỗ trợ sức mạnh của mình; không nên hiện thuỷ liên luỵ gốc rễ, gặp phải ngọn lữa. Người sanh gặp thế nhất định vui thích không lo lắng. Hoả đi đến chỗ cực điểm, thường gặp mộc sanh, phản thành nghèo hèn, bất lợi.
Thủy phiếm mộc phù, tử vô quan đình; hỏa viêm thổ táo, sanh thụ cô đan.
Thê đa lực nhược, hoa phấn sanh nhai; mã nhược bỉ đa, hình hài phiêu bạc (trôi giạt).
(Nước tràn lan gỗ trôi nổi, chết không có quan tài thoả đáng; lửa nóng đất khô, đời sống cô đơn.
Vợ nhiều sức yếu, sống bằng nghề phấn hoa; mã yếu tỷ nhiều, thân thể trôi giạt).
Hễ gặp phải hung thần tụ tập, thiện lành ít có nên khó thành tựu; cát thần cùng gặp, ác tuy nhiều cũng hoá thành chân lý. Thuận theo lý do hiểu ra từ lòng mình, quen nghiên cứu hết lòng tìm kiếm những dấu hiệu vĩ đại hay tinh tế.
Link đến bản tiếng Hoa:
气象篇四
马头带箭,生于要而死于楚;马后加鞭潮乎北而暮乎南。
(此言驿马在日时之下者,必要带合,谓之联络,聚大财福,干事过人。若马前见有刑冲,谓之带备,断经之象也。若来冲者属金,受克者属木,其祸尤甚。主人他乡丧亡。凡取用驿马,顺则年取其日时,逆则时用其日主,马元堤拦,则纵肆而无可遏,如后再加刑冲,马必疾行,终天安顿之地,主人一生劳碌,奔竞四方。若刑冲之神遇有三合、六合,则不为力D鞭矣。)
性灵形寝,多困山里流清;貌俊心蒙,盖是清中涵浊。
(凡取用神,铝出L刑冲,未可便言浊而无用,当审其中有暗藏之物。如浊中流出一点抓清,则人虽朴陋。多见性情颖悟,机谋异常。若用神清奇特立,不为混杂刑伤,未可使言情也,但中间有暗我一“物,与所用之物有伤,其病终不可去。故人虽貌美,必然失学无成,昏迷酒色。)
一将当关,群邪自服。
(将者,贵重之个名巴。关者,紧要之处也。邪者,妒我之物也。假如甲乙日,生于金旺。年月皆来克我,得的透出月上制热为权,而煞自服矣。又如壬癸遇戊己、及支上乱克,身不能敌,紧要处却要在辛为印化煞,不敢为乱。)
众凶克主,只力难胜。
(此言煞重身轻。孤独无助者,盖无当关可救之神,则不能胜所克矣。决主天疾。)
脱此辈,忌见此辈。化斯神,喜见斯神。
(从化之妙,还不可穷,务要用心详察。如甲己化上脱水气,而从妻家,若见甲乙寅卯未亥,皆我比肩,用有原旺之结,岂无恋哉?,况比刃又能争合我财,使甲己不能相成,反有离间之根也。二名瞩:乙庚化金,喜见金旺,而妻得倚其夫;丁壬化木,喜见未旺,而女得价其母;丙辛化水,在要水旺,而母得价其子;戊癸化火,喜要火旺,而主得倚其财。大怕空亡见然,比肩争十一不成名卿巨公,则为孤儿异姓矣。)
驿马无锡,南]洒之客。
(无经马,无合也门南北东西,无所不至矣。如人命遇此,必主飘零。)
桃花带煞,娼级教卒之徒。
(桃花,日时上思是也。不惟忌刑合有情,尤忌玉煞同处。凡遇此者,不受礼义廉耻之#也。)
母子有终始之盛,夫妻得生死相依。
(母子夫妻者,吉言作用两端,惟在月日为要、假如戊日坐辰,生于一月,然土以金为子,金养于辰,少行好而自强;上生于中,老得子而有靠。此家甚奇,大忌岁运欢而为患。假如丙日坐于月,磨面金,然大以金为妻,辛金生于子,适夫家以养其身;火至酉亡,赖妻对以活其命。此家计用财官,大怕刑冲散局。)
双眼无瞳,人士坐于癸水。
(癸水,在人记普。为一身之基,两目之本。目关五行,惟瞳属水,水涸肾虚,则瞳无所倚。若在日干,生于级土月分,日时坐土塞源,而柱中遇木火耗熬,不成从化者,多患目疾。若在岁月时守,变得秋气,不行西北,大运遇木火大天之地,恐有丧明之苦。即水稍得通根,亦有下元之调民。)
大肠有病,丙了芭损庚金。
(庚属大肠,宜临水土。嫌者丙丁寅卯得局,无制庚金,虽得挂根,又被冲刑、克破,兼入水火大运,水上表处,便有此疾。)
土行湿地而倾根,伯牛有恨水值炎天而得局,颜子无忧。
(戊上属脾。四柱中不有生旺通根之位,生遇阴湿之时,又加水浸上虚,运行湿地,岁见土克,则脾土受伤,因而有疾。火乃文明之象,生于九夏,三合寅午戌局,大意发,辉少,用木资其势;不宜见水拖根,遇上之焰。人生得此,乐道无忧。火行极处,多遇木生,反主贫大,至不利也。)
水泛木浮,死无棺停;火炎土燥,生受孤单。
妻多力弱,花粉生涯;马弱比多,形骸飘泊。
凡遇凶神交会,善以少而难成;吉晤并临,恶虽多面亦化道。从理悟神自心生,熟读苦求巨微征矣。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#379
Gửi vào 09/11/2024 - 10:15
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất
lục thần thiên
Ngũ hành diệu dụng, nan đào nhất lí chi trung; tiến thối tồn vong, yếu thức biến thông chi đạo; chánh quan bội ấn, bất như thừa mã.
(Ngũ hành hiệu quả kỳ diệu, khó tránh khỏi cùng một lý; tới lui còn mất, phải biết đạo biến thông; chánh quan cõng ấn không bằng cưởi mã).
Phương pháp dùng quan quan trọng nhất là phải cường vượng và thanh cao, rất kỵ hời hợt. Quan vượng thích hợp ấn, còn yếu thì thích hợp với tài, đó là lý không thay đổi. Ngày nay nói dùng ấn không như dùng tài, chính là một thuyết khác. Ví như thân vượng quan nhẹ, nhiều ấn hiện thì tầm thường, tức là nhật chủ có vẻ mạnh mà quan có vẻ yếu đuối. "Hồ Trung Tử" nói rằng: quan nhẹ không bằng sát nhẹ, vì thế thích đất tài vượng. Sanh quan khắc ấn, trong ngoài được trung hoà đủ để phát phúc.
Thất sát dụng tài, khởi nghi đắc lộc?
(Thất sát dụng tài, làm sao thích hợp đạt được lộc?)
Đây là sai lầm lớn khi nói về sát vượng, nhật chủ không có chỗ dựa, lại thêm dùng tài sanh sát, thì nhật chủ càng yếu, mà sát có vẻ vượng vậy. Khi đó không có khả năng, tránh xa thì không thể, vì thế khó tránh, chỉ có thể làm được là bỏ mệnh mà thuận theo, để tránh nổi lo áp bức lâu dài. Vận đi đất tài sát vượng, không dễ có lòng bắt đầu thuận theo; một khi gặp tuế vận quy lộc, nhật chủ được cường vượng chính là lúc với sát chiến đấu,nhưng vì ít khó chống lại số đông, làm sao có thể thắng được? Hung có thể biết được vậy.
Ấn phùng tài nhi bãi chức; tài phùng ấn dĩ thiên quan.
(Ấn gặp tài nên bị cách chức; tài gặp ấn lý do đổi quan).
Ấn chính là vật thanh liêm, cao quý, ngay thẳng không thiên vị, thấy tài sẽ không thể bảo vệ danh tiếng và đị vị. Lại như vốn điụng ấn thụ, không lấy quan sát làm chỗ dựa, vận đi đất ấn quan, đường làm quan thanh cao; một khi gặp tài hương, khắc mất ấn thụ, trụ không có tỷ kiên để cứu giúp, không tránh khỏi bị cách chức hay đầu nhàn (ngồi chơi xơi nước). Thương tổn nhiều nhất định chết ở xứ khác. Thân vượng thì dụng tài, vẻ vang có thể biết; nhưng lại đi đất tài vượng, chủ không thể đảm nhiệm được, tức cần ấn vượng lưu niên trợ giúp nền tảng của mình, ngược lại có thể thăng tiến đạt tới quan, không lấy tham tài hoại ấn để luận.
Mệnh đương yểu chiết, thực thần vu lập phùng quả.
(Mệnh coi như chết trẻ, thực thần lập tức ra đời).
Thất sát thương tổn bản thân mình, vốn không có chánh ấn để giải trừ, chỉ có thực thần duy nhất chế ngự sát, tuổi tráng niên (từ ba mươi đến bốn mươi tuổi) vận thông suốt, mừng vận đi nơi chế sát, nếu gặp đủ thần có sức mạnh khắc thực thần của mình, trụ vô dụng khi ấy gặp địch, không tránh khỏi thương tổn bản thân, là hoạ càng thêm mãnh liệt.
Vận chí hung nguy dương nhận trùng phùng phá cục.
(Vận đến nơi nguy hiểm dương nhận gặp lại nhau phá vỡ tình huống).
Đặc biệt bàn luận về dụng khi không có sát, rất kỵ dương nhận là tai hoạ. Nếu tuế vận gặp lại dương nhận kiếp tài, ba cục (tình huống biến hoá bất ngờ), nhất định có tình cảnh khốn khó của tang gia hay tù ngục, buồn thảm vì làm tổn hại vợ và khắc con, nước lửa vũ khí đều có đủ.
Tranh chánh quan, bất khả vô thương.
(Tranh giành chánh quan, không thể không có thương quan).
Quan là hiệu (sĩ quan bậc trung - ba cấp tá), không người nào không muốn. Nếu trong trụ hiện nhiều tỷ nhận, mà chỉ có một vị quan tinh, tất nhiên sẽ tranh đoạt, một khi gặp sẽ có hoạ. Không như vận đến thương quan, thương tẫn quan tinh, thì tỷ kiên không còn tranh đoạt, mới có thể yên ổn và đắc ý.
Quy thất sát, tối hiềm hữu chế.
(Nương về với thất sát, rất ghét có chế phục).
Đây cũng là nguyên nhân của cái gọi là tỷ kiên, bởi tứ trụ hiện nhiều tỷ kiên. Tất nhiên tranh gianh lộc, tranh giành tài, lại đoạt cả vật của tuế vận là tai hoạ. Như năm lộ ra một vị trí thất sát, tỷ kiên sợ thế mạnh sẽ nương về với tuế vận, một khi gặp thực thần chế sát, sẽ hướng về thần không có chủ trương, khiến tỷ kiên lại loạn như ban đầu, sẽ phá tan sản nghiệp, bất ngờ chết vì tuỳ tiện tham lam. Mầm mối có chiến tranh.
Quan cư sát địa, nan thủ kì quan; sát tại quan hương, khởi năng biến sát.
(Quan ở đất sát, khó giữ chức quan; sát ở quan hương, làm sao có thể thay đổi sát).
Quan là người thành thực t ao nhã, còn sát chính là trộm giặc gian tà. Như quan ở với bọn sát, sức mạnh của nó không thể độc lập, sẽ trà trộn mà hoá thành sát, tuy quan có phong cách thành thực t ao nhã, làm sao có thể yên ổn giữ nguyên đây? Sát chính là người hung dữ mạnh mẽ, tuy ở tại nơi lễ nghĩa của quan vương (tước vương, tước lớn nhất trong xã hội phong kiến thời xưa), không giống như giả công văn mà biến hoá, cho nên không thể thay đổi sát thành quan được vậy.
Tham tài phôi ấn li cao khoa, ấn phân khinh trọng.
(Tham tài hoại ấn gặp cao khoa, ấn phân nặng nhẹ).
Hễ mệnh mà ấn trọng sát khinh không phải là quý, cần phải đi vận tài vượng để khắc bớt ấn cùng lúc sanh cho sát không có đủ, thì sát và ấn ổn thoả nhau, nhất định bản lãnh vượt qua. Nếu ấn nhẹ tống (cung ứng, biếu tặng) tài, chính là tai hoạ lớn, phải nên có đầu mối rõ ràng.
Ngộ tỉ dụng tài triền vạn quán, tỉ đắc tư phù.
(Gặp tỷ dụng tài vướng víu vạn xâu tiền, tỷ được hỗ trợ).
Tài chính là vật để mình sử dụng, được vậy là tốt đẹp. Trong trụ có một thất sát nắm hết mọi quyền hành, nhật chủ bị chế ngự, sẽ không có đất đề dụng tài, nếu có tỷ kiếp lộ ra, hoặc tuế vận hỗ trợ, nhật chủ không đến nổi suy yếu, có thể chống cự lại sát, nên tài mới bắt đầu la cái để mình sử dụng.
Vận đáo vượng hương, thân phản nhược.
(Vận tới chỗ vượng, thân ngược lại suy yếu).
Đây là bàn luận về thuận theo thời gian, tượng của tòng sát chưa thành. Nhật chủ suy yếu, chưa đồng ý bỏ mệnh mà thuận theo thời sát, nếu đại vận đi đất hỗ trợ thông suốt, nhất định cùng với tài sát kháng cự, không thắng được kẻ địch, trái lại là tai hại của thời sát, càng hiện ra suy yếu, chắc chắn do tài mà gặp hoạ, tai hoạ và bệnh tật không tự mình.
Tài phùng kiếp xứ, họa do khinh.
(Tài gặp chỗ kiếp, hoạ vẫn còn nhẹ).
Thân yếu tài nhiều, không thể gánh vác; đi lui về tỷ kiếp, chia tài trợ giúp khí lực nên hoạ trái lại sẽ nhẹ.
Tài bất hữu thương, hoàn kị âm mưu chi tặc.
(Tài không bị tổn hại, nên e dè trộm có âm mưu).
Trong trụ dụng tài, không có tỷ nhận cướp đoạt tức là không có tổn hại. Càng kỵ địa chi trong khố có ẩn chứa tỷ nhận, hoặc bị xung hình, tức bị trộm cắp tài sản không thể tránh được.
Sát vô minh chế, đương tầm phục địch chi binh.
(Sát không có chế phục công khai, nên tìm binh sĩ để phục kích kẻ thù).
Cảm (gan dạ) là người bướng bỉnh và hung dữ, bị thân ăn uống (thực thần) công khai chế ngự, mới có thể là dụng thần. Như trong trụ có người rõ ràng là không chế phục được, không thể nhân từ để bàn về hung ác. Phải sâu sắc tìm kiếm hạt giống của địa chi trong tứ trụ, như có thực thần ẩn phục, hoặc gặp hình xung, hoặc tụ họp ở tam hợp. Cũng có thể là binh sĩ phục kích kẻ thù, dặi vận đi nơi chế sát, nhất định dẫn đến thành công và tài lộc.
Quý nhân đầu đái tài quan, môn sung tứ mã.
(Quý nhân đầu đội tài quan, nhà đầy xe tứ mã).
Đây là chuyên bàn về năm và ngày trao đổi quý nhân, không thông không vong, kiếp hại, sát nhận cùng giàu, nếu quan đứng đầu, lại ở đúng vị, có gốc rễ, đúng thời tiến khí, chính là bách phú, sức mạnh toàn binh hình, mệnh phi thường. "Ngọc Phương Trần": trèo lên vàng đi trên ngọc, mười người đội quan tinh trên đầu. Vì quan xem tài là quan trọng nhất.
Sanh vượng cung trung tàng vong kiếp, dũng đoạt tam quân.
(Vong kiếp ẩn núp trong cung sanh vượng, mạnh dạn giành lấy ba quân).
Trong bát tự nếu như có vong thần, kiếp sát, đắc trường sanh thật sự, cùng với nạp âm của năm có thể trường sanh, lâm quan, đế vượng, chủ mưu lược quân sự vượt quan mọi người, có sức mạnh nhấc vạc nhổ núi (hình dung sức mạnh phi thường).
Vi khóa mã dĩ vong thân, nhân đắc lộc nhi tị vị.
(Vì cưỡi ngựa mà mất mạng, vì được bỗng lộc mà lánh xa).
Trong trụ vốn có nhiều tỷ kiếp, không có thời dụng, tuế vận gặp lúc nhật chủ nuôi dụng của mình, tỷ nhận dĩ nhiên sẽ cướp đoạt, nặng thì tan nhà hại mệnh, nhẹ thì cáo quan hay mất chức. Vốn dĩ dụng quan tinh có mang theo tài là trọng yếu, vận đi nơi quy lộc, chính là đất vượng của tỷ kiên, dĩ nhiên sẽ tranh đoạt quan. Chánh dụng gặp tỷ kiên cạn tranh như thế, trái lại bị mất bỗng lộc, cho nên cố gắng an bài.
Ấn giải lưỡng hiền chi ách, tài câu lục quốc chi tranh.
(Ấn giải trừ khốn khó của lưỡng hiền, tài khêu gợi tranh giành của sáu nước).
Lưỡng hiền (hai người tài đức) là hai sát. Ấn là nhân (khoan hậu). Hễ dụng nhật chủ không yếu đuối, cả hai thiên can lộ ra, cùng hội tụ để ngược đãi nhật chủ, không có thực thần để cứu giúp, cho dù có cũng bị cụ thần đoạt lấy rất xấu. Nếu có thể dụng ấn hoá sát, khiến hàng phục mình, như thế không chỉ phú quý xuất ra, mà người còn có thể hưởng phúc. Lại nói rằng: lưỡng hiền hay là sát, nếu ngừng nói về sát, tập trung vào câu kế tiếp bọn sát bừa bải đi kiếm tài, là cài mà mọi người muốn, lý do càng gặp hoạ nhiều. Nếu cục có sức lực dồi dào trong trụ, không gặp tài của mình, sẽ không có tranh giành cướp đoạt; nếu như có tài làm dụng thần, hoặc tuế hiện tài sợ khởi lên tỷ kiên bừa bãi cướp doạt thành hoạ. Hình kéo dài làm tổn hại vợ, tại mình không thể tránh khỏi.
Chúng sát hỗn hành, nhất vị khả hóa nhất sát, xướng loạn độc lực khả cầm.
(Sát nhiều bừa bãi làm việc, một vị có thể hoá một sát, hô hào nổi loạn sức một mình có thể bắt).
Sát vốn đợi chế phục mà sau phục tùng, nếu hiện quá nhiều, sức lực không thể nào chế phục, cứ chế phục thì đến nước làm phản. Cho nên không bằng dùng ấn. Ấn là nhân (khoan hậu), lấy nhân hoá sát, khiến sát cứ ở trong nhóm là kỳ diệu, mừng nơi ân vượng, chính là giúp cho nó biến hoá, không nên gặp lại chế phục, cài gọi là đố kỵ đã quá nhiều rồi, tình trạng bất an. Chỉ sát hô hào nổi loạn, sức mạnh có hạn, một khi thực thần chế phục, tự có thể phục tùng, huống chi nhiều thực thần chế phục đây?
Ấn cư sát địa, hóa chi dĩ đức; sát cư ấn địa, tề chi dĩ hình.
(Ấn ở đất sát, hoá thành đức hạnh; sát ở đất ấn, giúp nó thành hình).
Như nhật chủ là giáp lấy thân làm sát, khắc mình mà không có chế phục, hung xấu có thể biết được. Mà không biết rằng thuỷ là ấn trường sanh ở thân, tự có thể hoá sat; khiến cho không còn ác dữ. Nếu thiên can địa chi nhiều tài, lại thành hạ cách. Tỷ vượng thì nhẹ, dụng càng thêm đẹp, như ất mộc dụng tân kim làm sát, gặp tý trồng ngũ cốc, ỷ mạnh khắc mình, tuy là ấn của mình, mà chính là cung sanh của sát (tân kim sanh ở tý). Nếu ngược lại tân kim thấu lộ ra, xâm lăng nhật chủ, không có thực thần để cứu giúp, gặp ngọ vượng xung tý vứt bỏ cung sanh của sát, thì tân không có chỗ truyền lại, gần như có thể vượt qua được tai hoạ của mình.
Huynh đệ phá tài, tài đắc dụng; sát quan khi chủ, chủ tu tòng.
(Huynh đệ tiêu hao tài, tài tài được sử dụng tốt; sát quan coi thường nhật chủ, nhật chủ nên thuận theo).
Toàn cục tỷ kiên, nhật can chuyên lộc, trong cục không hiện thời quan sẽ không có chỗ dùng, tức là cần thiết tỷ kiên thành bè nhóm hướng về trống rỗng, xung phá cung tài vượng, thì tài mới là cái mình sử dụng. Rất sợ điền thật, xung cung, câu hợp (giữ lại không cho đi), tỷ kiên. Ví phỏng thổ, ngày tân dậu gặp dậu nhiều xung mão, gặp mão nhiều phá ngọ, chính là thích hợp sử dụng; quan sát nhiều, nhật chủ không có khả năng bơi chớ đừng nói đến việc lôi kéo gốc rễ, đường vận lại đi tài sát, không như bỏ mệnh thuận theo sát, gặp nới sát vượng, sẽ có thể phát phúc. Rất kỵ vận thân vượng hay thực thần.
Nhất mã tại cứu, nhân bất cảm trục; nhất mã tại dã, nhân cộng trục chi.
(Ngựa ở trong chuồng, người không dám tranh giành; ngựa ở cánh đồng, người vây quanh tranh đoạt).
Mã: là tài, chính là vật mà tỷ kiên sẽ tranh đoạt. Nếu tài lộ ra rõ ràng, trong tứ trụ đặc biệt không có ngăn trở, nó phân chia cố định, tỷ kiên không dám tranh đoạt. Rất sợ bối tài (cõng tài, ý chỉ đã qua vận tài), vận tiến đến nơi tam hợp, lục hợp, tỷ kiên lợi dụng cơ hội phòng tối, không minh bạch, dẫn đến hoạ không hề nhẹ. Nếu dụng thần là tài không hiện công khai, mà ẩn bên trong đất khố, chính là nơi mà mọi người không biết đến, tỷ kiên mong muốn trộm lấy, tuy ẩn sau và khoá chặt, cũng khó mà bảo đảm không có tai hoạ.
Tài lâm sanh khố phá sanh cung, kiêm phụng lưỡng gia tông tự.
(Tài đến sanh khố pha sanh cung, cùng lúc tiếp tục thờ phụng tổ tiên hai nhà).
Thông thường mệnh lấy ấn làm mẹ, lấy tài làm cha.Tài cho nên là cồng của ấn, ấn sẽ lấy tài làm gia trưởng. Vì thế tài quý nên ấn tự vẻ vang, khuôn phép của chồng mà vợ không hoà theo, vì vậy khi xem xét về người, nên tảng cha mẹ, phải xem trụ giờ là quan trọng nhất. Nếu tài có cung trường sanh, lại hiện mộ khố cục, tức là có thần phá cung sanh của mình, không phạm ở mộ khố, tức là duyên làm con nuôi, vứt bỏ chính nghĩa mà con theo mẹ. Bởi sanh chính là bắt đầu nhờ ơn, cơ hội thu góp ở khố, vứt bỏ sự bắt đầu giống như kết thúc, nên đúng như vậy.
Thân tọa tỉ kiên thành tỉ cục, đương vi kỉ độ tân lang.
(Thân ngồi ở tỷ kiên thành tỷ cục, nên nhiều lần làm tân lang).
Thông thường mệnh không có thương quan, thực thần, dĩ nhiên lấy tài làm vợ. Cung thuộc về vợ, là một chỗ dưới trụ ngày, tức bị tỷ kiên chiếm lấy rồi; lại hiện tam hợp thành cục, kiện trong trụ năm tháng ngày sẽ doạt, nếu trụ không có tài, mà tuế vận gặp cũng là tai hoạ, khắc hại vợ, không phải chỉ một hai lần.
Phụ mẫu nhất li nhất hợp, tu tri ấn kinh lâm tài.
(Phụ mẫu một tan một hợp, phải biết là ấn thụ gặp tài).
Trong trụ tài, ấn chính là nơi của cha mẹ, không hứa ở cùng một cung, tuy mang tên là cha mẹ, thực ra có nghĩa là chối bỏ nhau,, làm sao có thể tránh khỏi hận thù của sự chia ly đây? Nếu ấn với tài nối liền một cung với nhau nên tài ấn đều có dấu vết phụ giúp, sanh lộc cùng một nơi, cuối cùng được tụ hợp thành một nhà, nên không có cách xa vậy.
Phu thê tùy thú tùy thương, cái vi tỉ kiên phục mã.
(Vợ chồng thuận theo cưới vợ lập tức tổn hại, bởi vì tỷ kiên phục dưới mã).
Thông thường luận tài là phòng của vợ, tài gặp năm của vượng dụng, hoặc có tiến khí sanh trợ, nên được một vợ. Nếu dưới tài nguyên có tỷ kiên phục, nguyên nhân bị sát thần chế phục, không vừa lòng cơ hội cơ hội có thể đoạt lấy, một khi tài tiến đến, lại hiện thực thần chế sát, thì cho dù có ý muốn đoạt tài, vợ khó sống lâu.
Tử vị tử điền, cô ta bá đạo; thê cung thê thủ, hiền tề mạnh quang.
(Chỗ của con con lấp đầy, lẻ loi than thở bá đạo; cung của vợ vợ giữ gìn, tài đức ngang với Mạnh Quang).
[Đời Đông Hán, bà Mạnh Quang 孟光 dọn cơm cho chồng dâng lên ngang mày, tỏ lòng kính trọng. Chỉ sự vợ chồng kính trọng nhau (đối đãi như khách quý): tương kính như tân 相敬如賓. Cũng nói là Mạnh Quang cử án 孟光舉案, tề mi cử án 齊眉舉案]
Tử là quan sát. Tử vị là thời điểm sanh ra. Trụ giờ cần thiết thuận lợi, cùng dụng khí sanh vượng của quan sát. Không gặp hình hại cô hư, không mất dụng thần khi có con. Nếu quan mất lệnh , thêm có thương quan, thực thần ghen ghét, trực tiếp đến trên trụ giờ điền thật, ngược lại than thở dữ dội. Yếu là tài. Thê cung là địa chi ngày. Nếu thê hiện ở cung của mình, chính là đắc vị. Không gặp tỷ nhận, không thông hình xung, không có đào hoa ác sát, mà được thiên nguyệt nhị đức, quý nhân cùng một chỗ, không chỉ có tài năng xuyên suốt đàm đạo mà còn có đức hạnh giúp làm cho sáng tỏ.
Nhập khố thương quan, âm sanh dương tử; bang thân dương nhận, hỉ hợp sát xung.
(Thương quan nhập khố, âm sanh dương tử; dương nhận giúp thân, mừng hợp sát xung).
Thương quan vốn là có âm dương, sanh và tử nên so sánh nó có hay không, hễ thương quan về với khố, tuế vận đưa tiễn thường gặp mất mạng hay tai hoạ bất ngờ. Mà không biết rằng năm âm thương quan, thì ở đó hồn quay lại không có tai hoạ. Nhận chính là vật giúp đỡ bản thân, rất sợ thân vượng mà gặp nó, có được một sát quan trọng với nhận tác hợp hoá thành quyền tinh, nếu hiện quan với nhận xung chiến chính là trở thành ác sát. Người dùng nên đánh giá nhẹ nặng, tốt hay ác như thế nào.
Quyền nhận phục hành quyền nhận, đao dược vong thân; tài quan tái ngộ tài quan, tham ô bãi chức.
(Quyền nhận lại đi quyền nhận, mất mạng vì đao kiếm và thuốc; tài quan lại gặp tài quan, vì tham nhũng mà bị bãi chức).
Quyền là sát; nhận là vũ khí. Thân vượng dùng hai khía cạnh đó. Chính là người đứng đầu quân đội. Sát vượng thích đi nơi chế phục, nhận vượng thì thích đi đất sát. Nếu nguồn sát vượng, lại đi nơi sát vượng, là lúc tạo công lao lập nghiệp, không đến nổi chết dưới đường đao lưỡi kiếm. Nhận nhiều lại gặp đất đơn nhận, tiến lộc gặp tài xứ, dĩ nhiên là lúc chết bởi dược thực (thức ăn có thuốc), chỉ vậy thôi. Tài là thể (chính bản thân mình); quan là lộc. Thân cường chữa lành hai khía cạnh đó là người nổi bật về danh lợi. Hễ quan nhược thích đi nơi vượng, còn tài vượng thích đi đất ấn, đều là lúc kiến lập phát phúc. Nếu có ấn gặp quan, thì bỗng lộc nhiều quá sanh tài vượng cung cấp tài, chắc chắn tiền của dồi dào. Người có tài đức xuất chúng bỗng lộc nhiều quá tiền của dồi dào, nhất định gặp bãi chức vì tham ô (lợi dụng quyền chức để lấy tiền của).
Lộc đáo trường sanh nguyên hữu ấn, thanh nhậm gia quan; mã hành đế vượng cựu vô thương, hoạn đồ tiến tước.
(Lộc đến nguồn trường sanh có ấn, chức vị trong sạch tăng quan; Mã đi đế vượng cũ không tổn hại, dường quan lộ tiến chức).
Nguồn dụng quan tinh yếu đuối, không thể gọi là vẻ vang của ấn thụ. Nếu quan tiến đến trường sanh, liền hiện thanh kỳ đặc lập, mà lại có ấn hữu tình chăm sóc, ấn chính là gốc hỗ trợ của mình, sử dụng ba chức năng đều ở đây, tất nhiên tiến đến vốn dĩ dùng tiền chuyên về bên phải, tuy đắc vị nhưng bị thất thời, địa vị quan chức cũng chưa nổi bật, ắt phải đợi tuế vận tài đế vượng, lâm quan đủ dùng, mã mong chỗ giong ruỗi, không có tỷ nhận xưa cũ, thương kiếp ở đây, thăng quan tiến thế, lập nghiệp tạo tài sản dồi dào đáng chinh phục.
Tài vượng thân suy, phùng sanh tức tử.
(Tài vượng mà thân suy, gặp sanh tức là chết).
Tài vượng mà bản thân yếu, khả năng không thể gánh vác, có vẻ nếu mình quên nó, sẽ thấy rằng mình vẫn an nhin6. Một khi gặp đất trường sanh, tức là liền dựa vào sức mạnh mà mưu đồ cẩu thả, tài chưa được mà hoạ cùng lúc đã đến rồi vậy.
Nhận cường tài bạc, kiến sát sanh quan.
(Nhận mạnh tài mỏng, hiện sát sanh quan).
Nói lấy quan để thắng mà tài lại nông cạn, bởi do dương nhận, kiếp tài không thể sanh quan, thì quan không có chỗ nương tựa vậy. Ví như hiện ra một vị thất sát, hợp nhận bỏ tài lấy tô (tỉnh lại, đã chết mà sống lại) để chữa bệnh, đủ để sanh quan, và quan tự vượng vậy. Người cầu học ở điều này, không nên nghi ngờ gặp quan sát hỗn tạp.
Phương pháp huyền nhiệm ảo diệu này, ngày nay có phần thành thạo nên trở thành điều lệ, trợ giúp trong trường hợp điều chưa rõ còn treo lơ lửng được khai mở.
Link đến bản tiếng Hoa:
六神篇
五行妙用,难逃一理之中;进退存亡,要识变通之道;正官佩印,不如乘马。
(夫用官之法,大要健旺清高,最忌浅薄。官旺宜印,弱则宜财,此不易之理也。今言用印不如用财者,乃有一说。假如身旺官轻,多见印经,则日主意强而官意弱矣。《壶中子》云:官轻不若煞轻,所以喜财旺之地。生官克印,表里方得中和,于此足以发福。)
七煞用财,岂宜得禄?
(此言煞旺大过,日主无依,又加用财生煞,则日愈弱,而然意旺矣。当之不能,远之不可,只得弃命相从,以免长凌之患。运行财然旺地,不易始从之心;一遇岁运归禄,日主恃强,乃与煞战,以寡敌众,其能胜平?凶可知矣。)
印逢财而罢职,财逢印以迁官。
(印乃清高正大之物,见财则不能保其名位。且如原用印经,不以官煞为倚者,运行印官之地,仕路清高;一遇时乡,克了印经,柱无比肩为救,不免罢职投闲。伤重者,必死于异乡水火。身旺用财,荣华可知;再行财旺之地,主不能胜,却要印旺流年助我根本,反能进势过官,不为贪财坏印之论也。)
命当夭折,食神于立逢果。
(七煞伤身,原无正印为解,独以食神一位制煞,壮年运通,喜行制煞之乡,若遇具神有力,克我食神,柱无用时遇敌,不免纵然伤身,为祸滋烈。)
运至凶危洋刃重逢破局。
(专言用时无煞者,大忌羊刃为祸。若岁运重逢羊刃劫财、波局者,必有丧家囚狱之苦,伤妻克子之悲,水火兵刃,悉有之矣。)
争正官,不可无伤。
(官者,校也,无人不欲。若柱中多见比刃,只有一位官星,必然争夺,一见有祸。不如运至伤官,伤尽官星,则比肩无争夺,始可安美。)
归七煞,最嫌有制。
(此亦因比肩之谓也,盖四柱多见比肩。必然争禄争财,且夺岁运之物为祸。如年八透出一位七煞,比肩知,畏势必归之岁运,一遇食种制热,则往无主张之神,使比肩复乱如初,则散时破业,横死于苟贪之下。端有征兵。)
官居煞地,难守其官;煞在官乡,岂能变煞。
(官为纯雅之五人,然乃奸邪之暴客。如官居然党,其势不能独立,必混化而为煞,虽官有纯雅之风,安能守乎?煞乃刚暴之人,虽在官王礼义之乡,终不由札义而化,故不能变煞为官也。)
贪财坏印罹高科,印分轻重。
(凡命,印重煞轻,终不为贵,要行财旺之运,克大过之印,生不及之煞,煞印相停,必能超越。若印轻送财,乃为大害,宜消息详之。)
遇比用财缠万贯,比得资扶。
(财乃我用之物,得之乃佳。柱中有一七然专权,日主被制,则无田用财,若得比劫透露,或岁运生扶,日主不致衰弱,可以敌然,而财始为我用矣。)
运到旺乡,身反弱。
(此言从时、从然未成之象。日主衰弱,未肯弃命而从时煞,若大运行通资扶之地,必与财煞争敌,敌之不胜,反道时煞之害,愈见弱矣。是必因财构祸,灾病不身。)
财逢劫处,祸犹轻。
(身弱财多,当之不能;行退比劫,分财助气,而祸反轻。)
财不有伤,还忌阴谋之贼。
(柱中用财,无比刃、劫夺者,则无所伤。尤忌支库中有比刃暗藏,或被冲刑,则私窃之害不免矣。)
煞无明制,当寻伏敌之兵。
(敢者,顽暴之人也,必饮食神明制,方可为用。如柱中明无制伏之人,不可仁以凶言。要深求四柱支种,如有食神暗伏,或遇刑冲,或就三合。亦可为伏敌之兵,大运行制热乡,必主成名进禄、)
贵人头L戴财官,门充驷马。
(此专言岁日互换贵人,不通空亡、劫害、然刃同富者,上方时官,又居正位,带合有根,得时进气,乃为百富,权一兵刑,非常之命。《玉芳陈:登金步玉,十人头上带官星。是官视财为龙要也。)
生旺宫中藏亡劫,勇夺三军。
(八字中如带亡神、劫煞,得通真正长生,及年支纳音或得长生、临官、帝旺者,主武略出群,有举鼎拔山之勇也。)
为跨马以亡身,因得禄而避位。
(柱中原多比劫,无时用,岁运逢时,日主乃食其用,比刃必然劫夺,重则损命丧家,轻则休官罢职。原用官星带财为大,运行归禄之乡,乃比肩旺地,必然争夺官,正用遇比肩而争竞于此,反失俸禄,故进位也。)、
印解两贤之厄,财勾六国之争。
(两贤者,二热也。印者、仁也。凡用日主不弱,两熟透出天干,并虐日主,无食为救,纵有亦被具神所夺者,最凶。若能用印化煞,使降于我,如此不独富贵出,人且能享福。一云;两贤,它与煞也,若止作煞言,重下句众煞混行意财者,人所共欲之物,因兹而构祸者多矣。若局有力优于柱中,不遇其财,则无争劫;倘有财为用,或岁见财惹起比肩混劫为祸。刑耗伤妻,在所不免。)
众煞混行,一位可化一煞,倡乱独力可擒。
(煞本待制而后服从,若见过多,力不能制,制之则必致叛。故不若用印。印者,仁也,以仁化热,使然自群为妙,喜印旺乡,乃益其化,不宜再见制伏,所谓疾之已甚,乱也。独煞倡乱,势力有限,一食制之,自可以服,况食神多制者乎?)、
印居煞地,化之以德;煞居印地,齐之以刑。
(如甲日主用中为热,克我无制,其凶可知。殊不知水印长生于中,自能化热;不使凶暴。若干支多财,乃成下格。比旺时轻者,用之更美,如乙木用李金为煞,遇子栽粮,恃强克我,虽为我之印,乃煞所生之宫。若更辛金透出,侵凌日主,于无食神为救者,得旺午冲子去生杀之宫,则辛无所传,庶克克身之患。)、
兄弟破财,财得用;煞官欺主,主须从。
(一局比肩,日干专禄,柱中不见时官,则无所用,却要比肩成党望空,冲破财旺之宫,而财方为我之用。大怕填实、冲宫、留合、比肩。假士、辛酉日遇酉多冲卯,遇卯多破午,乃合正用;官煞大多,日主无力泅柱更不拖根,运途又行财煞,不如弃命从煞,遇煞旺之乡,必能发福。大忌身旺、食神之运)
一马在厩,人不敢逐;一马在野,人共逐之。
(马,财也,乃比肩必争之物。若财明透,四柱中特立无遮拦者,譬如马之在原,其分素定,比肩不敢争逐。大怕背财,运进三合、六合之乡,比肩乘机暗房,致祸不轻。若用财不见明霞,隐于土库之间,乃人所不知之地,比肩竞图窃取,虽深藏固闭,难保无患。)
财临生库破生宫,兼奉两家宗嗣。
(凡命以印为母,以财为父。财固以印为家,印必以财为主。然财贵而印自荣,夫政斯妻无倚,所以论人,根基父母,必以看时为先。若财有长生之宫,又见墓库局,却有神破所生之宫,无犯于墓库者,则为沿的过继之儿,弃义随母之子也。盖生乃发蒙之初,库在收敛之际,弃始由终,故如此也。)
身坐比肩成比局,当为几度新郎。
(凡命无伤官、食神者,必然用财为妻。妻所属之宫,日下一位是也,却被比肩占了;又见三合成局,岁、月、时中见时必夺,柱若无财,岁运见亦为患,克妾伤妻,岂止一二而已。)
父母一离一合,须知印经临财。
(柱中财、印乃为父母之神所处,不许同宫,虽为父母之名,实有克剥之意,岂能免离间之恨哉?若印与财相连一宫,而财、印皆有着脚,生禄同乡者,终得聚合成家,而无间矣。)
夫妻随娶随伤,盖为比肩伏马。
(凡论财为妻室,财逢旺用之年,或有生助进气,当得一妻。若财下原伏比肩,因被煞神制伏,不遂可夺之机,一进其财,又见食神制煞,则纵志夺财,妻难久处。)
子位子填,孤嗟伯道;妻宫妻守,贤齐孟光。
(子者,官然也。子位者,生时也。时上要时,及用官然生旺之气。不逢刑害孤虚,不失用神时候川IJ有子矣。若官失其令,更有伤官、食神为妒,径来时上填实,反有伯道之叹。要者,财也。妻宫者,日支也。本宫若见其妻,乃得位矣。不逢比刃,不通刑冲,不有桃花恶煞,仍得天月二德责人同处者,不惟过道控之才,且有益光之德也。)
入库伤官,阴生阳死;帮身羊刃、喜合燃冲。
(伤官本有阴阳、生死,当较其是否,凡伤官归库,岁运送之,多见丧亡横祸。殊不知五阴伤官,于此返魂无咎,刃乃帮身之物,大怕身旺逢之,得一重热,与刃作合,化为权星,若见官与刃冲战,乃成恶煞。用者当市其轻重,好恶何如耳。)
权刃复行权刃,刀药亡身;财官再遇财官,贪污罢职。
(权。然也。刃。兵也。身旺用此两端。乃兵别首出之人也。然旺喜行制乡,刃旺喜行煞地,若原煞旺,复行煞旺之乡,立业建功处,不至死于刀剑之下。刃多再逢单刃之地,进禄得财处,必然终于药食之间,仅使然也。财,体也。官,禄也。身强医此两端,乃名利出群之士。凡官弱喜行旺乡,财旺喜行印地,皆发福成立之时也。若有印逢官,则禄过矣生财旺送财,则俸余矣。君子禄过俸余,必见贪污罢职。)
禄到长生原有印,清任加官;马行帝旺旧无伤,宦途进爵。
(原用官呈衰弱,不能称印经之荣,若官进长生,便见清奇特立,且有顾印之情,印乃扶身之本,三者之用,既周于此,必然进么原用偏正之财,虽得位而失其时,居官亦未显要,必待帝旺、临官,岁运财已足用,马必位驰,旧无比刃、伤劫于此,加官进势,立业余财可征矣。)
财旺身衰,逢生即死。
(财旺身衰,力不能任,意若与之相忘,反见所守安然。一遇长生之地,即便倚强苟图,财未得而祸两至矣。)
刀强财薄,见煞生官。
(在言用官做胜,而财又浅薄,盖因羊刃、劫财不能生官,则官无倚矣。如见一位七煞,合刃弃财,以苏对病,足以生官,官自旺矣。学者于此,又不可有见煞混官之嫌也。)
兹法玄玄之妙,今颇习而成章,少助县蒙开明万一。
.
lục thần thiên
Ngũ hành diệu dụng, nan đào nhất lí chi trung; tiến thối tồn vong, yếu thức biến thông chi đạo; chánh quan bội ấn, bất như thừa mã.
(Ngũ hành hiệu quả kỳ diệu, khó tránh khỏi cùng một lý; tới lui còn mất, phải biết đạo biến thông; chánh quan cõng ấn không bằng cưởi mã).
Phương pháp dùng quan quan trọng nhất là phải cường vượng và thanh cao, rất kỵ hời hợt. Quan vượng thích hợp ấn, còn yếu thì thích hợp với tài, đó là lý không thay đổi. Ngày nay nói dùng ấn không như dùng tài, chính là một thuyết khác. Ví như thân vượng quan nhẹ, nhiều ấn hiện thì tầm thường, tức là nhật chủ có vẻ mạnh mà quan có vẻ yếu đuối. "Hồ Trung Tử" nói rằng: quan nhẹ không bằng sát nhẹ, vì thế thích đất tài vượng. Sanh quan khắc ấn, trong ngoài được trung hoà đủ để phát phúc.
Thất sát dụng tài, khởi nghi đắc lộc?
(Thất sát dụng tài, làm sao thích hợp đạt được lộc?)
Đây là sai lầm lớn khi nói về sát vượng, nhật chủ không có chỗ dựa, lại thêm dùng tài sanh sát, thì nhật chủ càng yếu, mà sát có vẻ vượng vậy. Khi đó không có khả năng, tránh xa thì không thể, vì thế khó tránh, chỉ có thể làm được là bỏ mệnh mà thuận theo, để tránh nổi lo áp bức lâu dài. Vận đi đất tài sát vượng, không dễ có lòng bắt đầu thuận theo; một khi gặp tuế vận quy lộc, nhật chủ được cường vượng chính là lúc với sát chiến đấu,nhưng vì ít khó chống lại số đông, làm sao có thể thắng được? Hung có thể biết được vậy.
Ấn phùng tài nhi bãi chức; tài phùng ấn dĩ thiên quan.
(Ấn gặp tài nên bị cách chức; tài gặp ấn lý do đổi quan).
Ấn chính là vật thanh liêm, cao quý, ngay thẳng không thiên vị, thấy tài sẽ không thể bảo vệ danh tiếng và đị vị. Lại như vốn điụng ấn thụ, không lấy quan sát làm chỗ dựa, vận đi đất ấn quan, đường làm quan thanh cao; một khi gặp tài hương, khắc mất ấn thụ, trụ không có tỷ kiên để cứu giúp, không tránh khỏi bị cách chức hay đầu nhàn (ngồi chơi xơi nước). Thương tổn nhiều nhất định chết ở xứ khác. Thân vượng thì dụng tài, vẻ vang có thể biết; nhưng lại đi đất tài vượng, chủ không thể đảm nhiệm được, tức cần ấn vượng lưu niên trợ giúp nền tảng của mình, ngược lại có thể thăng tiến đạt tới quan, không lấy tham tài hoại ấn để luận.
Mệnh đương yểu chiết, thực thần vu lập phùng quả.
(Mệnh coi như chết trẻ, thực thần lập tức ra đời).
Thất sát thương tổn bản thân mình, vốn không có chánh ấn để giải trừ, chỉ có thực thần duy nhất chế ngự sát, tuổi tráng niên (từ ba mươi đến bốn mươi tuổi) vận thông suốt, mừng vận đi nơi chế sát, nếu gặp đủ thần có sức mạnh khắc thực thần của mình, trụ vô dụng khi ấy gặp địch, không tránh khỏi thương tổn bản thân, là hoạ càng thêm mãnh liệt.
Vận chí hung nguy dương nhận trùng phùng phá cục.
(Vận đến nơi nguy hiểm dương nhận gặp lại nhau phá vỡ tình huống).
Đặc biệt bàn luận về dụng khi không có sát, rất kỵ dương nhận là tai hoạ. Nếu tuế vận gặp lại dương nhận kiếp tài, ba cục (tình huống biến hoá bất ngờ), nhất định có tình cảnh khốn khó của tang gia hay tù ngục, buồn thảm vì làm tổn hại vợ và khắc con, nước lửa vũ khí đều có đủ.
Tranh chánh quan, bất khả vô thương.
(Tranh giành chánh quan, không thể không có thương quan).
Quan là hiệu (sĩ quan bậc trung - ba cấp tá), không người nào không muốn. Nếu trong trụ hiện nhiều tỷ nhận, mà chỉ có một vị quan tinh, tất nhiên sẽ tranh đoạt, một khi gặp sẽ có hoạ. Không như vận đến thương quan, thương tẫn quan tinh, thì tỷ kiên không còn tranh đoạt, mới có thể yên ổn và đắc ý.
Quy thất sát, tối hiềm hữu chế.
(Nương về với thất sát, rất ghét có chế phục).
Đây cũng là nguyên nhân của cái gọi là tỷ kiên, bởi tứ trụ hiện nhiều tỷ kiên. Tất nhiên tranh gianh lộc, tranh giành tài, lại đoạt cả vật của tuế vận là tai hoạ. Như năm lộ ra một vị trí thất sát, tỷ kiên sợ thế mạnh sẽ nương về với tuế vận, một khi gặp thực thần chế sát, sẽ hướng về thần không có chủ trương, khiến tỷ kiên lại loạn như ban đầu, sẽ phá tan sản nghiệp, bất ngờ chết vì tuỳ tiện tham lam. Mầm mối có chiến tranh.
Quan cư sát địa, nan thủ kì quan; sát tại quan hương, khởi năng biến sát.
(Quan ở đất sát, khó giữ chức quan; sát ở quan hương, làm sao có thể thay đổi sát).
Quan là người thành thực t ao nhã, còn sát chính là trộm giặc gian tà. Như quan ở với bọn sát, sức mạnh của nó không thể độc lập, sẽ trà trộn mà hoá thành sát, tuy quan có phong cách thành thực t ao nhã, làm sao có thể yên ổn giữ nguyên đây? Sát chính là người hung dữ mạnh mẽ, tuy ở tại nơi lễ nghĩa của quan vương (tước vương, tước lớn nhất trong xã hội phong kiến thời xưa), không giống như giả công văn mà biến hoá, cho nên không thể thay đổi sát thành quan được vậy.
Tham tài phôi ấn li cao khoa, ấn phân khinh trọng.
(Tham tài hoại ấn gặp cao khoa, ấn phân nặng nhẹ).
Hễ mệnh mà ấn trọng sát khinh không phải là quý, cần phải đi vận tài vượng để khắc bớt ấn cùng lúc sanh cho sát không có đủ, thì sát và ấn ổn thoả nhau, nhất định bản lãnh vượt qua. Nếu ấn nhẹ tống (cung ứng, biếu tặng) tài, chính là tai hoạ lớn, phải nên có đầu mối rõ ràng.
Ngộ tỉ dụng tài triền vạn quán, tỉ đắc tư phù.
(Gặp tỷ dụng tài vướng víu vạn xâu tiền, tỷ được hỗ trợ).
Tài chính là vật để mình sử dụng, được vậy là tốt đẹp. Trong trụ có một thất sát nắm hết mọi quyền hành, nhật chủ bị chế ngự, sẽ không có đất đề dụng tài, nếu có tỷ kiếp lộ ra, hoặc tuế vận hỗ trợ, nhật chủ không đến nổi suy yếu, có thể chống cự lại sát, nên tài mới bắt đầu la cái để mình sử dụng.
Vận đáo vượng hương, thân phản nhược.
(Vận tới chỗ vượng, thân ngược lại suy yếu).
Đây là bàn luận về thuận theo thời gian, tượng của tòng sát chưa thành. Nhật chủ suy yếu, chưa đồng ý bỏ mệnh mà thuận theo thời sát, nếu đại vận đi đất hỗ trợ thông suốt, nhất định cùng với tài sát kháng cự, không thắng được kẻ địch, trái lại là tai hại của thời sát, càng hiện ra suy yếu, chắc chắn do tài mà gặp hoạ, tai hoạ và bệnh tật không tự mình.
Tài phùng kiếp xứ, họa do khinh.
(Tài gặp chỗ kiếp, hoạ vẫn còn nhẹ).
Thân yếu tài nhiều, không thể gánh vác; đi lui về tỷ kiếp, chia tài trợ giúp khí lực nên hoạ trái lại sẽ nhẹ.
Tài bất hữu thương, hoàn kị âm mưu chi tặc.
(Tài không bị tổn hại, nên e dè trộm có âm mưu).
Trong trụ dụng tài, không có tỷ nhận cướp đoạt tức là không có tổn hại. Càng kỵ địa chi trong khố có ẩn chứa tỷ nhận, hoặc bị xung hình, tức bị trộm cắp tài sản không thể tránh được.
Sát vô minh chế, đương tầm phục địch chi binh.
(Sát không có chế phục công khai, nên tìm binh sĩ để phục kích kẻ thù).
Cảm (gan dạ) là người bướng bỉnh và hung dữ, bị thân ăn uống (thực thần) công khai chế ngự, mới có thể là dụng thần. Như trong trụ có người rõ ràng là không chế phục được, không thể nhân từ để bàn về hung ác. Phải sâu sắc tìm kiếm hạt giống của địa chi trong tứ trụ, như có thực thần ẩn phục, hoặc gặp hình xung, hoặc tụ họp ở tam hợp. Cũng có thể là binh sĩ phục kích kẻ thù, dặi vận đi nơi chế sát, nhất định dẫn đến thành công và tài lộc.
Quý nhân đầu đái tài quan, môn sung tứ mã.
(Quý nhân đầu đội tài quan, nhà đầy xe tứ mã).
Đây là chuyên bàn về năm và ngày trao đổi quý nhân, không thông không vong, kiếp hại, sát nhận cùng giàu, nếu quan đứng đầu, lại ở đúng vị, có gốc rễ, đúng thời tiến khí, chính là bách phú, sức mạnh toàn binh hình, mệnh phi thường. "Ngọc Phương Trần": trèo lên vàng đi trên ngọc, mười người đội quan tinh trên đầu. Vì quan xem tài là quan trọng nhất.
Sanh vượng cung trung tàng vong kiếp, dũng đoạt tam quân.
(Vong kiếp ẩn núp trong cung sanh vượng, mạnh dạn giành lấy ba quân).
Trong bát tự nếu như có vong thần, kiếp sát, đắc trường sanh thật sự, cùng với nạp âm của năm có thể trường sanh, lâm quan, đế vượng, chủ mưu lược quân sự vượt quan mọi người, có sức mạnh nhấc vạc nhổ núi (hình dung sức mạnh phi thường).
Vi khóa mã dĩ vong thân, nhân đắc lộc nhi tị vị.
(Vì cưỡi ngựa mà mất mạng, vì được bỗng lộc mà lánh xa).
Trong trụ vốn có nhiều tỷ kiếp, không có thời dụng, tuế vận gặp lúc nhật chủ nuôi dụng của mình, tỷ nhận dĩ nhiên sẽ cướp đoạt, nặng thì tan nhà hại mệnh, nhẹ thì cáo quan hay mất chức. Vốn dĩ dụng quan tinh có mang theo tài là trọng yếu, vận đi nơi quy lộc, chính là đất vượng của tỷ kiên, dĩ nhiên sẽ tranh đoạt quan. Chánh dụng gặp tỷ kiên cạn tranh như thế, trái lại bị mất bỗng lộc, cho nên cố gắng an bài.
Ấn giải lưỡng hiền chi ách, tài câu lục quốc chi tranh.
(Ấn giải trừ khốn khó của lưỡng hiền, tài khêu gợi tranh giành của sáu nước).
Lưỡng hiền (hai người tài đức) là hai sát. Ấn là nhân (khoan hậu). Hễ dụng nhật chủ không yếu đuối, cả hai thiên can lộ ra, cùng hội tụ để ngược đãi nhật chủ, không có thực thần để cứu giúp, cho dù có cũng bị cụ thần đoạt lấy rất xấu. Nếu có thể dụng ấn hoá sát, khiến hàng phục mình, như thế không chỉ phú quý xuất ra, mà người còn có thể hưởng phúc. Lại nói rằng: lưỡng hiền hay là sát, nếu ngừng nói về sát, tập trung vào câu kế tiếp bọn sát bừa bải đi kiếm tài, là cài mà mọi người muốn, lý do càng gặp hoạ nhiều. Nếu cục có sức lực dồi dào trong trụ, không gặp tài của mình, sẽ không có tranh giành cướp đoạt; nếu như có tài làm dụng thần, hoặc tuế hiện tài sợ khởi lên tỷ kiên bừa bãi cướp doạt thành hoạ. Hình kéo dài làm tổn hại vợ, tại mình không thể tránh khỏi.
Chúng sát hỗn hành, nhất vị khả hóa nhất sát, xướng loạn độc lực khả cầm.
(Sát nhiều bừa bãi làm việc, một vị có thể hoá một sát, hô hào nổi loạn sức một mình có thể bắt).
Sát vốn đợi chế phục mà sau phục tùng, nếu hiện quá nhiều, sức lực không thể nào chế phục, cứ chế phục thì đến nước làm phản. Cho nên không bằng dùng ấn. Ấn là nhân (khoan hậu), lấy nhân hoá sát, khiến sát cứ ở trong nhóm là kỳ diệu, mừng nơi ân vượng, chính là giúp cho nó biến hoá, không nên gặp lại chế phục, cài gọi là đố kỵ đã quá nhiều rồi, tình trạng bất an. Chỉ sát hô hào nổi loạn, sức mạnh có hạn, một khi thực thần chế phục, tự có thể phục tùng, huống chi nhiều thực thần chế phục đây?
Ấn cư sát địa, hóa chi dĩ đức; sát cư ấn địa, tề chi dĩ hình.
(Ấn ở đất sát, hoá thành đức hạnh; sát ở đất ấn, giúp nó thành hình).
Như nhật chủ là giáp lấy thân làm sát, khắc mình mà không có chế phục, hung xấu có thể biết được. Mà không biết rằng thuỷ là ấn trường sanh ở thân, tự có thể hoá sat; khiến cho không còn ác dữ. Nếu thiên can địa chi nhiều tài, lại thành hạ cách. Tỷ vượng thì nhẹ, dụng càng thêm đẹp, như ất mộc dụng tân kim làm sát, gặp tý trồng ngũ cốc, ỷ mạnh khắc mình, tuy là ấn của mình, mà chính là cung sanh của sát (tân kim sanh ở tý). Nếu ngược lại tân kim thấu lộ ra, xâm lăng nhật chủ, không có thực thần để cứu giúp, gặp ngọ vượng xung tý vứt bỏ cung sanh của sát, thì tân không có chỗ truyền lại, gần như có thể vượt qua được tai hoạ của mình.
Huynh đệ phá tài, tài đắc dụng; sát quan khi chủ, chủ tu tòng.
(Huynh đệ tiêu hao tài, tài tài được sử dụng tốt; sát quan coi thường nhật chủ, nhật chủ nên thuận theo).
Toàn cục tỷ kiên, nhật can chuyên lộc, trong cục không hiện thời quan sẽ không có chỗ dùng, tức là cần thiết tỷ kiên thành bè nhóm hướng về trống rỗng, xung phá cung tài vượng, thì tài mới là cái mình sử dụng. Rất sợ điền thật, xung cung, câu hợp (giữ lại không cho đi), tỷ kiên. Ví phỏng thổ, ngày tân dậu gặp dậu nhiều xung mão, gặp mão nhiều phá ngọ, chính là thích hợp sử dụng; quan sát nhiều, nhật chủ không có khả năng bơi chớ đừng nói đến việc lôi kéo gốc rễ, đường vận lại đi tài sát, không như bỏ mệnh thuận theo sát, gặp nới sát vượng, sẽ có thể phát phúc. Rất kỵ vận thân vượng hay thực thần.
Nhất mã tại cứu, nhân bất cảm trục; nhất mã tại dã, nhân cộng trục chi.
(Ngựa ở trong chuồng, người không dám tranh giành; ngựa ở cánh đồng, người vây quanh tranh đoạt).
Mã: là tài, chính là vật mà tỷ kiên sẽ tranh đoạt. Nếu tài lộ ra rõ ràng, trong tứ trụ đặc biệt không có ngăn trở, nó phân chia cố định, tỷ kiên không dám tranh đoạt. Rất sợ bối tài (cõng tài, ý chỉ đã qua vận tài), vận tiến đến nơi tam hợp, lục hợp, tỷ kiên lợi dụng cơ hội phòng tối, không minh bạch, dẫn đến hoạ không hề nhẹ. Nếu dụng thần là tài không hiện công khai, mà ẩn bên trong đất khố, chính là nơi mà mọi người không biết đến, tỷ kiên mong muốn trộm lấy, tuy ẩn sau và khoá chặt, cũng khó mà bảo đảm không có tai hoạ.
Tài lâm sanh khố phá sanh cung, kiêm phụng lưỡng gia tông tự.
(Tài đến sanh khố pha sanh cung, cùng lúc tiếp tục thờ phụng tổ tiên hai nhà).
Thông thường mệnh lấy ấn làm mẹ, lấy tài làm cha.Tài cho nên là cồng của ấn, ấn sẽ lấy tài làm gia trưởng. Vì thế tài quý nên ấn tự vẻ vang, khuôn phép của chồng mà vợ không hoà theo, vì vậy khi xem xét về người, nên tảng cha mẹ, phải xem trụ giờ là quan trọng nhất. Nếu tài có cung trường sanh, lại hiện mộ khố cục, tức là có thần phá cung sanh của mình, không phạm ở mộ khố, tức là duyên làm con nuôi, vứt bỏ chính nghĩa mà con theo mẹ. Bởi sanh chính là bắt đầu nhờ ơn, cơ hội thu góp ở khố, vứt bỏ sự bắt đầu giống như kết thúc, nên đúng như vậy.
Thân tọa tỉ kiên thành tỉ cục, đương vi kỉ độ tân lang.
(Thân ngồi ở tỷ kiên thành tỷ cục, nên nhiều lần làm tân lang).
Thông thường mệnh không có thương quan, thực thần, dĩ nhiên lấy tài làm vợ. Cung thuộc về vợ, là một chỗ dưới trụ ngày, tức bị tỷ kiên chiếm lấy rồi; lại hiện tam hợp thành cục, kiện trong trụ năm tháng ngày sẽ doạt, nếu trụ không có tài, mà tuế vận gặp cũng là tai hoạ, khắc hại vợ, không phải chỉ một hai lần.
Phụ mẫu nhất li nhất hợp, tu tri ấn kinh lâm tài.
(Phụ mẫu một tan một hợp, phải biết là ấn thụ gặp tài).
Trong trụ tài, ấn chính là nơi của cha mẹ, không hứa ở cùng một cung, tuy mang tên là cha mẹ, thực ra có nghĩa là chối bỏ nhau,, làm sao có thể tránh khỏi hận thù của sự chia ly đây? Nếu ấn với tài nối liền một cung với nhau nên tài ấn đều có dấu vết phụ giúp, sanh lộc cùng một nơi, cuối cùng được tụ hợp thành một nhà, nên không có cách xa vậy.
Phu thê tùy thú tùy thương, cái vi tỉ kiên phục mã.
(Vợ chồng thuận theo cưới vợ lập tức tổn hại, bởi vì tỷ kiên phục dưới mã).
Thông thường luận tài là phòng của vợ, tài gặp năm của vượng dụng, hoặc có tiến khí sanh trợ, nên được một vợ. Nếu dưới tài nguyên có tỷ kiên phục, nguyên nhân bị sát thần chế phục, không vừa lòng cơ hội cơ hội có thể đoạt lấy, một khi tài tiến đến, lại hiện thực thần chế sát, thì cho dù có ý muốn đoạt tài, vợ khó sống lâu.
Tử vị tử điền, cô ta bá đạo; thê cung thê thủ, hiền tề mạnh quang.
(Chỗ của con con lấp đầy, lẻ loi than thở bá đạo; cung của vợ vợ giữ gìn, tài đức ngang với Mạnh Quang).
[Đời Đông Hán, bà Mạnh Quang 孟光 dọn cơm cho chồng dâng lên ngang mày, tỏ lòng kính trọng. Chỉ sự vợ chồng kính trọng nhau (đối đãi như khách quý): tương kính như tân 相敬如賓. Cũng nói là Mạnh Quang cử án 孟光舉案, tề mi cử án 齊眉舉案]
Tử là quan sát. Tử vị là thời điểm sanh ra. Trụ giờ cần thiết thuận lợi, cùng dụng khí sanh vượng của quan sát. Không gặp hình hại cô hư, không mất dụng thần khi có con. Nếu quan mất lệnh , thêm có thương quan, thực thần ghen ghét, trực tiếp đến trên trụ giờ điền thật, ngược lại than thở dữ dội. Yếu là tài. Thê cung là địa chi ngày. Nếu thê hiện ở cung của mình, chính là đắc vị. Không gặp tỷ nhận, không thông hình xung, không có đào hoa ác sát, mà được thiên nguyệt nhị đức, quý nhân cùng một chỗ, không chỉ có tài năng xuyên suốt đàm đạo mà còn có đức hạnh giúp làm cho sáng tỏ.
Nhập khố thương quan, âm sanh dương tử; bang thân dương nhận, hỉ hợp sát xung.
(Thương quan nhập khố, âm sanh dương tử; dương nhận giúp thân, mừng hợp sát xung).
Thương quan vốn là có âm dương, sanh và tử nên so sánh nó có hay không, hễ thương quan về với khố, tuế vận đưa tiễn thường gặp mất mạng hay tai hoạ bất ngờ. Mà không biết rằng năm âm thương quan, thì ở đó hồn quay lại không có tai hoạ. Nhận chính là vật giúp đỡ bản thân, rất sợ thân vượng mà gặp nó, có được một sát quan trọng với nhận tác hợp hoá thành quyền tinh, nếu hiện quan với nhận xung chiến chính là trở thành ác sát. Người dùng nên đánh giá nhẹ nặng, tốt hay ác như thế nào.
Quyền nhận phục hành quyền nhận, đao dược vong thân; tài quan tái ngộ tài quan, tham ô bãi chức.
(Quyền nhận lại đi quyền nhận, mất mạng vì đao kiếm và thuốc; tài quan lại gặp tài quan, vì tham nhũng mà bị bãi chức).
Quyền là sát; nhận là vũ khí. Thân vượng dùng hai khía cạnh đó. Chính là người đứng đầu quân đội. Sát vượng thích đi nơi chế phục, nhận vượng thì thích đi đất sát. Nếu nguồn sát vượng, lại đi nơi sát vượng, là lúc tạo công lao lập nghiệp, không đến nổi chết dưới đường đao lưỡi kiếm. Nhận nhiều lại gặp đất đơn nhận, tiến lộc gặp tài xứ, dĩ nhiên là lúc chết bởi dược thực (thức ăn có thuốc), chỉ vậy thôi. Tài là thể (chính bản thân mình); quan là lộc. Thân cường chữa lành hai khía cạnh đó là người nổi bật về danh lợi. Hễ quan nhược thích đi nơi vượng, còn tài vượng thích đi đất ấn, đều là lúc kiến lập phát phúc. Nếu có ấn gặp quan, thì bỗng lộc nhiều quá sanh tài vượng cung cấp tài, chắc chắn tiền của dồi dào. Người có tài đức xuất chúng bỗng lộc nhiều quá tiền của dồi dào, nhất định gặp bãi chức vì tham ô (lợi dụng quyền chức để lấy tiền của).
Lộc đáo trường sanh nguyên hữu ấn, thanh nhậm gia quan; mã hành đế vượng cựu vô thương, hoạn đồ tiến tước.
(Lộc đến nguồn trường sanh có ấn, chức vị trong sạch tăng quan; Mã đi đế vượng cũ không tổn hại, dường quan lộ tiến chức).
Nguồn dụng quan tinh yếu đuối, không thể gọi là vẻ vang của ấn thụ. Nếu quan tiến đến trường sanh, liền hiện thanh kỳ đặc lập, mà lại có ấn hữu tình chăm sóc, ấn chính là gốc hỗ trợ của mình, sử dụng ba chức năng đều ở đây, tất nhiên tiến đến vốn dĩ dùng tiền chuyên về bên phải, tuy đắc vị nhưng bị thất thời, địa vị quan chức cũng chưa nổi bật, ắt phải đợi tuế vận tài đế vượng, lâm quan đủ dùng, mã mong chỗ giong ruỗi, không có tỷ nhận xưa cũ, thương kiếp ở đây, thăng quan tiến thế, lập nghiệp tạo tài sản dồi dào đáng chinh phục.
Tài vượng thân suy, phùng sanh tức tử.
(Tài vượng mà thân suy, gặp sanh tức là chết).
Tài vượng mà bản thân yếu, khả năng không thể gánh vác, có vẻ nếu mình quên nó, sẽ thấy rằng mình vẫn an nhin6. Một khi gặp đất trường sanh, tức là liền dựa vào sức mạnh mà mưu đồ cẩu thả, tài chưa được mà hoạ cùng lúc đã đến rồi vậy.
Nhận cường tài bạc, kiến sát sanh quan.
(Nhận mạnh tài mỏng, hiện sát sanh quan).
Nói lấy quan để thắng mà tài lại nông cạn, bởi do dương nhận, kiếp tài không thể sanh quan, thì quan không có chỗ nương tựa vậy. Ví như hiện ra một vị thất sát, hợp nhận bỏ tài lấy tô (tỉnh lại, đã chết mà sống lại) để chữa bệnh, đủ để sanh quan, và quan tự vượng vậy. Người cầu học ở điều này, không nên nghi ngờ gặp quan sát hỗn tạp.
Phương pháp huyền nhiệm ảo diệu này, ngày nay có phần thành thạo nên trở thành điều lệ, trợ giúp trong trường hợp điều chưa rõ còn treo lơ lửng được khai mở.
Link đến bản tiếng Hoa:
六神篇
五行妙用,难逃一理之中;进退存亡,要识变通之道;正官佩印,不如乘马。
(夫用官之法,大要健旺清高,最忌浅薄。官旺宜印,弱则宜财,此不易之理也。今言用印不如用财者,乃有一说。假如身旺官轻,多见印经,则日主意强而官意弱矣。《壶中子》云:官轻不若煞轻,所以喜财旺之地。生官克印,表里方得中和,于此足以发福。)
七煞用财,岂宜得禄?
(此言煞旺大过,日主无依,又加用财生煞,则日愈弱,而然意旺矣。当之不能,远之不可,只得弃命相从,以免长凌之患。运行财然旺地,不易始从之心;一遇岁运归禄,日主恃强,乃与煞战,以寡敌众,其能胜平?凶可知矣。)
印逢财而罢职,财逢印以迁官。
(印乃清高正大之物,见财则不能保其名位。且如原用印经,不以官煞为倚者,运行印官之地,仕路清高;一遇时乡,克了印经,柱无比肩为救,不免罢职投闲。伤重者,必死于异乡水火。身旺用财,荣华可知;再行财旺之地,主不能胜,却要印旺流年助我根本,反能进势过官,不为贪财坏印之论也。)
命当夭折,食神于立逢果。
(七煞伤身,原无正印为解,独以食神一位制煞,壮年运通,喜行制煞之乡,若遇具神有力,克我食神,柱无用时遇敌,不免纵然伤身,为祸滋烈。)
运至凶危洋刃重逢破局。
(专言用时无煞者,大忌羊刃为祸。若岁运重逢羊刃劫财、波局者,必有丧家囚狱之苦,伤妻克子之悲,水火兵刃,悉有之矣。)
争正官,不可无伤。
(官者,校也,无人不欲。若柱中多见比刃,只有一位官星,必然争夺,一见有祸。不如运至伤官,伤尽官星,则比肩无争夺,始可安美。)
归七煞,最嫌有制。
(此亦因比肩之谓也,盖四柱多见比肩。必然争禄争财,且夺岁运之物为祸。如年八透出一位七煞,比肩知,畏势必归之岁运,一遇食种制热,则往无主张之神,使比肩复乱如初,则散时破业,横死于苟贪之下。端有征兵。)
官居煞地,难守其官;煞在官乡,岂能变煞。
(官为纯雅之五人,然乃奸邪之暴客。如官居然党,其势不能独立,必混化而为煞,虽官有纯雅之风,安能守乎?煞乃刚暴之人,虽在官王礼义之乡,终不由札义而化,故不能变煞为官也。)
贪财坏印罹高科,印分轻重。
(凡命,印重煞轻,终不为贵,要行财旺之运,克大过之印,生不及之煞,煞印相停,必能超越。若印轻送财,乃为大害,宜消息详之。)
遇比用财缠万贯,比得资扶。
(财乃我用之物,得之乃佳。柱中有一七然专权,日主被制,则无田用财,若得比劫透露,或岁运生扶,日主不致衰弱,可以敌然,而财始为我用矣。)
运到旺乡,身反弱。
(此言从时、从然未成之象。日主衰弱,未肯弃命而从时煞,若大运行通资扶之地,必与财煞争敌,敌之不胜,反道时煞之害,愈见弱矣。是必因财构祸,灾病不身。)
财逢劫处,祸犹轻。
(身弱财多,当之不能;行退比劫,分财助气,而祸反轻。)
财不有伤,还忌阴谋之贼。
(柱中用财,无比刃、劫夺者,则无所伤。尤忌支库中有比刃暗藏,或被冲刑,则私窃之害不免矣。)
煞无明制,当寻伏敌之兵。
(敢者,顽暴之人也,必饮食神明制,方可为用。如柱中明无制伏之人,不可仁以凶言。要深求四柱支种,如有食神暗伏,或遇刑冲,或就三合。亦可为伏敌之兵,大运行制热乡,必主成名进禄、)
贵人头L戴财官,门充驷马。
(此专言岁日互换贵人,不通空亡、劫害、然刃同富者,上方时官,又居正位,带合有根,得时进气,乃为百富,权一兵刑,非常之命。《玉芳陈:登金步玉,十人头上带官星。是官视财为龙要也。)
生旺宫中藏亡劫,勇夺三军。
(八字中如带亡神、劫煞,得通真正长生,及年支纳音或得长生、临官、帝旺者,主武略出群,有举鼎拔山之勇也。)
为跨马以亡身,因得禄而避位。
(柱中原多比劫,无时用,岁运逢时,日主乃食其用,比刃必然劫夺,重则损命丧家,轻则休官罢职。原用官星带财为大,运行归禄之乡,乃比肩旺地,必然争夺官,正用遇比肩而争竞于此,反失俸禄,故进位也。)、
印解两贤之厄,财勾六国之争。
(两贤者,二热也。印者、仁也。凡用日主不弱,两熟透出天干,并虐日主,无食为救,纵有亦被具神所夺者,最凶。若能用印化煞,使降于我,如此不独富贵出,人且能享福。一云;两贤,它与煞也,若止作煞言,重下句众煞混行意财者,人所共欲之物,因兹而构祸者多矣。若局有力优于柱中,不遇其财,则无争劫;倘有财为用,或岁见财惹起比肩混劫为祸。刑耗伤妻,在所不免。)
众煞混行,一位可化一煞,倡乱独力可擒。
(煞本待制而后服从,若见过多,力不能制,制之则必致叛。故不若用印。印者,仁也,以仁化热,使然自群为妙,喜印旺乡,乃益其化,不宜再见制伏,所谓疾之已甚,乱也。独煞倡乱,势力有限,一食制之,自可以服,况食神多制者乎?)、
印居煞地,化之以德;煞居印地,齐之以刑。
(如甲日主用中为热,克我无制,其凶可知。殊不知水印长生于中,自能化热;不使凶暴。若干支多财,乃成下格。比旺时轻者,用之更美,如乙木用李金为煞,遇子栽粮,恃强克我,虽为我之印,乃煞所生之宫。若更辛金透出,侵凌日主,于无食神为救者,得旺午冲子去生杀之宫,则辛无所传,庶克克身之患。)、
兄弟破财,财得用;煞官欺主,主须从。
(一局比肩,日干专禄,柱中不见时官,则无所用,却要比肩成党望空,冲破财旺之宫,而财方为我之用。大怕填实、冲宫、留合、比肩。假士、辛酉日遇酉多冲卯,遇卯多破午,乃合正用;官煞大多,日主无力泅柱更不拖根,运途又行财煞,不如弃命从煞,遇煞旺之乡,必能发福。大忌身旺、食神之运)
一马在厩,人不敢逐;一马在野,人共逐之。
(马,财也,乃比肩必争之物。若财明透,四柱中特立无遮拦者,譬如马之在原,其分素定,比肩不敢争逐。大怕背财,运进三合、六合之乡,比肩乘机暗房,致祸不轻。若用财不见明霞,隐于土库之间,乃人所不知之地,比肩竞图窃取,虽深藏固闭,难保无患。)
财临生库破生宫,兼奉两家宗嗣。
(凡命以印为母,以财为父。财固以印为家,印必以财为主。然财贵而印自荣,夫政斯妻无倚,所以论人,根基父母,必以看时为先。若财有长生之宫,又见墓库局,却有神破所生之宫,无犯于墓库者,则为沿的过继之儿,弃义随母之子也。盖生乃发蒙之初,库在收敛之际,弃始由终,故如此也。)
身坐比肩成比局,当为几度新郎。
(凡命无伤官、食神者,必然用财为妻。妻所属之宫,日下一位是也,却被比肩占了;又见三合成局,岁、月、时中见时必夺,柱若无财,岁运见亦为患,克妾伤妻,岂止一二而已。)
父母一离一合,须知印经临财。
(柱中财、印乃为父母之神所处,不许同宫,虽为父母之名,实有克剥之意,岂能免离间之恨哉?若印与财相连一宫,而财、印皆有着脚,生禄同乡者,终得聚合成家,而无间矣。)
夫妻随娶随伤,盖为比肩伏马。
(凡论财为妻室,财逢旺用之年,或有生助进气,当得一妻。若财下原伏比肩,因被煞神制伏,不遂可夺之机,一进其财,又见食神制煞,则纵志夺财,妻难久处。)
子位子填,孤嗟伯道;妻宫妻守,贤齐孟光。
(子者,官然也。子位者,生时也。时上要时,及用官然生旺之气。不逢刑害孤虚,不失用神时候川IJ有子矣。若官失其令,更有伤官、食神为妒,径来时上填实,反有伯道之叹。要者,财也。妻宫者,日支也。本宫若见其妻,乃得位矣。不逢比刃,不通刑冲,不有桃花恶煞,仍得天月二德责人同处者,不惟过道控之才,且有益光之德也。)
入库伤官,阴生阳死;帮身羊刃、喜合燃冲。
(伤官本有阴阳、生死,当较其是否,凡伤官归库,岁运送之,多见丧亡横祸。殊不知五阴伤官,于此返魂无咎,刃乃帮身之物,大怕身旺逢之,得一重热,与刃作合,化为权星,若见官与刃冲战,乃成恶煞。用者当市其轻重,好恶何如耳。)
权刃复行权刃,刀药亡身;财官再遇财官,贪污罢职。
(权。然也。刃。兵也。身旺用此两端。乃兵别首出之人也。然旺喜行制乡,刃旺喜行煞地,若原煞旺,复行煞旺之乡,立业建功处,不至死于刀剑之下。刃多再逢单刃之地,进禄得财处,必然终于药食之间,仅使然也。财,体也。官,禄也。身强医此两端,乃名利出群之士。凡官弱喜行旺乡,财旺喜行印地,皆发福成立之时也。若有印逢官,则禄过矣生财旺送财,则俸余矣。君子禄过俸余,必见贪污罢职。)
禄到长生原有印,清任加官;马行帝旺旧无伤,宦途进爵。
(原用官呈衰弱,不能称印经之荣,若官进长生,便见清奇特立,且有顾印之情,印乃扶身之本,三者之用,既周于此,必然进么原用偏正之财,虽得位而失其时,居官亦未显要,必待帝旺、临官,岁运财已足用,马必位驰,旧无比刃、伤劫于此,加官进势,立业余财可征矣。)
财旺身衰,逢生即死。
(财旺身衰,力不能任,意若与之相忘,反见所守安然。一遇长生之地,即便倚强苟图,财未得而祸两至矣。)
刀强财薄,见煞生官。
(在言用官做胜,而财又浅薄,盖因羊刃、劫财不能生官,则官无倚矣。如见一位七煞,合刃弃财,以苏对病,足以生官,官自旺矣。学者于此,又不可有见煞混官之嫌也。)
兹法玄玄之妙,今颇习而成章,少助县蒙开明万一。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#380
Gửi vào 10/11/2024 - 09:36
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất
tăng ái phú
Phú mạc phú vu thuần túy, bần mạc bần vu chiến tranh; quý mạc quý vu tú thật, tiện mạc tiện vu phản thương.
Giàu chẳng giàu ở thuần tuý, nghèo chớ nghèo ở chiến tranh; quý chẳng quý ở đẹp và thật, hèn chớ hèn ở ngược lại và tổn hại.
Văn chương cẩm tú, quý mã hội vu học đường; khâm độ hoành khoát, thủy hỏa hợp vu tình tính.
Văn chương cẩm tú (gấm thêu - nghĩa khác là tươi đẹp), quý nhân và mã hội hợp ở học đường; tấm lòng hoài bão rộng lớn, thuỷ hoả hoà hợp ở tính tình.
Thâm mưu viễn lự, đức tinh cư trầm tĩnh chi cung; thuật nghiệp huyền vi, đế tọa tự văn chương chi quán.
Mưu sâu và lo xa, ngôi sao đức hạnh ở trong cung điện tĩnh lặng; thuật nghiệp thần bí, đền vua là nơi giữ văn chương (cờ xí trang hoàng trên xe).
Khôi cương hữu linh biến chi cơ, li khảm nãi thông minh chi hộ. Quý nhân, lộc mã nghi phùng, kiếp nhận, không vong khả viễn.
Khôi cương có cơ hội thay đổi mọi thứ, ly khảm chính là người thông minh. Quý nhân, lộc mãnen6 gặp, kiếp nhận, không vong nên tránh xa.
Trường sanh chiêu quý nhân chi khả ái, suy bại ngộ tiểu nhân chi tăng hiềm. Tứ cung hội loạn hề bất nhân bất nghĩa, ngũ hành tương sanh hề vi hiếu vi trung.
Trường sanh vẫy tay gọi quý nhân đáng yêu, suy bại gặp tiểu nhân chán ghét. Bốn cung vỡ lỡ hỗn loạn thì bất nhân bất nghĩa, ngũ hành sanh nhau là hiếu là trung.
Ấn lộc tại hình xung chi vị, tâm loạn thân mang; nhật thì cư dụng khố chi trung, ưu đa nhạc thiểu.
Ấn và lộc ở chỗ hình xung, lòng bối rối thân vội vàng; ngày giờ ở trong khố của dụng, buồn nhiều vui ít.
Nhật can vượng nhi tai cữu quả, tài mệnh suy nhi trù trướng (buồn rầu) đa. Y thực bôn ba, vượng xứ t ao khắc; lợi danh thành bại, quý địa phùng thương.
Can ngày vượng nên ít tai hoạ, tài mệnh suy nên buồn rầu nhiều. Vì cơm áo mà phải chạy vạy khổ sở, chỗ vượng gặp phải khắc; lợi danh có thành có bại , đất quý gặp tổn hại.
Bình sanh họa phúc, lại vu nhật thì; nhất tuế cát hung, bằng vu khí vận. Phúc tinh hữu khí, nhi biến động thăng thiên; tuế khắc vận hung, nhi nhân li tài tán.
Cả đời hoạ phúc, nương nhờ ngày giờ; một năm tốt xấu, tuỳ theo vận khí. Phúc tinh có khí lực, nên biến động thng8 tiến; tuế khắc vận xấu, nên người xa cách mà tiền bạc không tụ.
Đại vận nguy nhi sanh bách họa, lưu niên cát dĩ trừ thiên ương. Vô tuyệt chí tuyệt, tài mệnh khuynh nguy; cầu sanh đắc sanh, danh lợi xưng tiến.
Đại vận nguy hiểm nên sanh ra trăm tai hoạ, lưu niên tốt trừ được ngàn cái tai ương. Không có tuyệt đến tuyệt, tài mệnh sụp đổ nguy hiểm; cầu sanh gặp sanh, danh lợi gọi là tiến đến.
Tam hợp, lục hợp, phùng chi cát trọng hung khinh; thất sát, tứ hung, ngộ chi họa thâm phúc thiển.
Tam hợp, lục hợp gặp phải thì tốt nhiều hơn xấu; thất sát, tứ hung (bốn cái xấu), gặp phải thì hoạ nhiều hơn phúc.
Chức thiên quan tiến, định nhân lộc hội chi niên; sản trí điền tăng, tất thị hợp tài chi địa.
Chức vụ thay đổi quan thăng tiến, nhất định do lộc hội hợp ở năm; tài sản mua sắm thêm đất ruộng, nhất định là đất hợp tài.
Tuế quân xung áp chủ hung tai, đại vận thụ thương thù thiểu cát. Tuế nghi sanh vận, vận hỉ (dễ) sanh thân. Tam vị tương sanh, nhất niên xứng toại.
Tuế quân xung bức bách chủ tai hoạ xấu, đại vận bị thương tổn quyết ít khi tốt. Tuế nên sanh vận, thì vận dễ sanh thân. Ba chỗ sanh nhau, một năm xứng ý vừa lòng.
Tài quan câu vượng, ứng hiển đạt vu sĩ đồ; tài thực quân vinh, khởi yêm lưu (ở lâu) vu bạch ốc.
Tài quan đều vượng, ứng vào thành tựu ở quan trường; tài thực thần cùng vẻ vang, làm sao mà ở mãi nơi nhà tranh.
Lộc nhập tụ sanh chi địa, phú quý khả tri; mã bôn lộc vượng chi hương, vinh hoa khả đoán.
Lộc vào đất tụ sanh, giàu sang có thể biết được; mã giong ruổi nơi lộc vượng, vẻ vang có thể đoán trước.
Dục thủ giao quan lợi tức, tu yếu lục hợp tương phùng; thì can đái lộc triều nguyên, định chủ an nhiên hoạch phúc.
Muốn thu lợi tức thông quan, cần phải lục hợp (trời, đất, đông, tây, nam, bắc gọi là lục hợp) gặp nhau; can giờ mang theo lộc hướng về nhật chủ, nhất định an nhiên thu hoạch phúc lành.
Nguyệt suy thì vượng, tảo tuế phong phì; bổn trọng chủ khinh, chung thân phiêu đãng.
Tháng suy giờ vượng, tuổi nhỏ béo phì; gốc nặng chủ nhẹ, một đời phiêu bạc.
Quán thủ thị li chi lợi, tất nhân vượng xử phùng tài; hốt nhiên hiển đạt thành gia, định thị hình trung kiến quý.
Quen chọn lấy lợi nhuận tù thị trường, nhất định do chỗ vượng gặp tài; bỗng nhiên có danh vọng vẻ vang, nhất định là hiện quý trong hình.
Chủ bổn đương thì, đắc nữ sĩ dĩ phù trì; quý lộc hữu tình, nhân quân tử nhi hiệp cát.
Nhật chủ đương lúc được nữ sĩ (người phụ nữ có đức hạnh của kẻ sĩ) để hỗ trợ; quý lộc hữu tình noi theo quân tử mà hợp tốt.
Nam thương bắc lữ, định tri mã đạo chi thông; đông phiến tây trì, tất thị xa vận chi lợi.
Đi buôn hướng nam ở trọ hướng bắc, nhất định biết hết cả đường của ngựa; đi buôn hướng đông theo đuổi hướng tây, nhất định là lợi của vận chở bằng xe.
Nhật vu khốn nhược, Bá Ngưu cảm oán thương khung; lộc mã suy vi, Nhan Tử nan đào đoản mệnh.
Ngày yếu đuối mệt mỏi, Bá Ngưu dám thống hận trời xanh; lộc mã suy yếu, thầy Nhan khó trốn khỏi số mệnh yểu.
Hung mạc hung vu chi nhận, cát mạc cát vu can cường. Mã liệt tài vi, nam đào nữ tẩu. Thiên la địa võng, phi họa hoành tai.
Hung chẳng hung ở địa chi nhận, tốt chẳng tốt ở thiên can mạnh. Mã yếu đuối tài ẩn tàng, trai trốn tránh gái chạy trốn. Thiên la địa võng, không phải là tai hoạ bất ngờ.
Cùng đồ phùng kiếp, nguy nghi tất phạm tự hình; tuyệt xứ phùng tài, thê tử ứng nan hài lão.
Đường cùng gặp cướp, gần như nguy hiểm ắt phạm tự hình; tuyệt xứ gặp tài, vợ khó hoà hợp đến già.
Đại hao, tiểu hao, đa nhân bác hí vong gia; quan phù, tử phù, tất chủ ngục tụng thì hữu.
Đại hao, tiểu hao đa phần do cờ bạc mà mât nhà; quan phù, tử phù nhất định có lúc bị kiện tụng và tù ngục.
Hoặc tái tứ trụ ngộ tuyệt, tam mệnh hình thương, nan miễn đồ giảo chi hình, chung thụ kiềm diện chi khổ; nhược phùng ngũ quỷ, lôi thương hổ giảo vô nghi; canh trị quần hung, ác ương hoạnh tử, định đoán nữ đa dâm tiện, nam tất xương cuồng.
Hoặc nhiều lần tứ trụ gặp tuyệt, cả ba mệnh bị hình thương, khó tránh khỏi bị trừng phạt tội lưu đày, hay thắt cổ cho chêt, cuối cùng bị khốn khó của dân đen; nếu gặp ngũ quỷ, sét dánh hay cọp vồ không nghi ngờ; gặp thêm nhiều hung thần, sợ tai ương chết bất ngờ, nhất định đoán là gái thì dâm tiện, nam thì ngông cuồng, càn rỡ.
Hoặc gian nhân chi tính tình, hiền tư, thiện ác, tiên thôi quý sát vượng suy, phương cứu cơ xảo linh biến. Tâm cao giả, khôi cương vi họa; tính khuynh giả, lục hợp vi tường. Quan u nhàn mãn sái chi nhân, ngộ hoa cái cô hư chi tú;
Hoặc tính tình của người đời, tư tưởng đạo đức, thiện ác, trước xem vượng suy của quý sát, rồi mới xét tìm cơ xảo (thông tuệ bén nhạy) và linh hoạt uyển chuyển. Người có tâm cao, khôi cương là tai hoạ; bản tính nghiêng đổ, lục hợp là tốt lành. Xem xét người thanh tĩnh tự tại, gặp hoa cái thường cô đơn;
Hảo tình thế bá đạo (ngang ngược) chi bối, phạm thiên quan, kiếp nhận chi quyền. Kiếp nhận sanh bỉ lận chi lí, canh xuất cơ quan chi hiểm.
Tình thế tốt đẹp của lũ ngnang ngược, bất chấp quyền của thiên quan và kiếp nhận. Kiếp nhận sanh quy tắc keo kiệt, thêm lộ ra mưu kế nguy hiểm.
Mưu lược đa nhân vu nhâm quý, uy mãnh tất bổn vu bính đinh. Giáp ất thuận nhi nhân từ đại lượng, canh tân khuy nhi quả đoạn vô cương.
Mưu lược nhiều là do nhâm quý, quyền thế mạnh mẽ vốn do bính đinh. Giáp ất thích hợp nên khoan hậu, yêu thương, khí độ rộng rãi, canh tân thiếu sót nên quyết đoán và không khuất phục.
Cô quốc ngộ chi vô tinh thần, phá bại phùng chi đa sơ thoát. Hình chiến giả ngu ngoan, tĩnh an giả hiền tuấn.
Đất nước cô lậu không có tinh thần, gặp phá bại thường sơ lược. Người hay tranh đấu thì cố chấp và ương bướng, người trầm tĩnh thì tài giỏi và đức hạnh.
Táo bại giả hỏa thịnh, ẩn nhẫn giả kim đa. Kim thủy ti lệnh nhi tương sanh, hỏa thổ phùng thì nhi tương trợ.
Người nóng nảy và thất bại thì hoả thịnh, người chịu nhịn không nói thìkim nhiều. Kim thuỷ nắm lệnh nên sanh nhau, hoả thổ gặp thời nên giúp đỡ lẫn nhau.
Bất lao tâm nhi y thực tự túc, bất phí lực nhi gia kế tự thành. Canh nhược đức thần tương phù, định thị thôi tôn hương lí; quý lộc củng vị, tất nhiên thai tỉnh dương danh.
Không mệt lòng nhọc trí mà cơm áo mãn ý, không tốn sức mà chi tiêu trong nhà cũng xong. Nếu thêm đức thần hỗ trợ, nhất định được tiến cử chức vị tôn kính trong làng; quý lộc vây quanh vị trí, dĩ nhiên dương danh nơi tỉnh thành.
Kỳ sở ưu giả phúc bất phúc, kỳ sở lự giả thành bất thành. Phúc bất phúc giả, cát xứ t ao hung; thành bất thành giả, cách cục kiến phá. Thương kỳ cách tắc thương phúc, phá kỳ cục tắc chiêu họa. Thí nhược miêu phùng thu hạn nhi đông tọa không hư, tại bị xuân sương nhi hạ quả vô thành.
Người lo lắng mình có phúc hay không, người lo lắng mình có thành công hay không. Phúc mà không phúc là vì chỗ tốt mà gặp hung xấu; thành công mà không thành công là vì cách cục gặp phá. Tổn hại cách thì tổn hại phúc, phá vỡ cục thì rước lấy hoạ. Thí dụ như nếu cây con gặp hạn mùa thù mà mùa đông ngồi nơi rỗng không, bị sương mùa xuân nên mùa hạ không có quả.
Trí mưu tuy dụ, thố dụng vô thành. Túng hữu hồi thiên chuyển trục chi cơ, nhi vô kiến công lập nghiệp chi toại. Khởi bất kiến phôi sanh phanh đỉnh, phạm tăng bối thư, uyên minh đông quy, tử mĩ tây khứ, vu dư bất ngộ. Phùng diễn không hồi, mãi thần phụ tân nhi hành ca, giang cách khổ hàn nhi tọa độc.
Dù có nhiều mưu trí, biện pháp sử dụng không thành công. Cho dù có cơ hội lật ngược tình thế, mà không gầy dựng được thành tựu.Mong không thấy phôi (khí cụ bằng đất hoặc ngói chưa nung) làm ra cái vạc để nấu, lưng Phạm Tăng có nhọt, Uyên Minh về hướng đông, Tử Mỹ đi hướng tây, đất Vu (Tên đất: (1) Thời Xuân Thu, đất của nước Vệ 衛, nay ở vào khoảng Hà Bắc. (2) Thời Xuân Thu, đất của nước Tống 宋, nay ở vào khoảng Hà Nam. (3) Thời Xuân Thu, đất của nước Tấn 晉, nay ở vào khoảng Sơn Tây) không gặp. Phùng Diễn Khổng trở lại, Mãi Thần vác củi và ca hát, Giang Cách cảnh nghèo khó ngồi đọc sách.
Cái miêu nhi bất tú giả hữu chi, tú nhi bất thật giả hữu chi. Canh trị thương bại thái quá, nhất phúc bất quá chỉnh phạm; túng hữu bách nghệ đa năng, nan miễn cơ hàn tật khổ, khốn vu câu hác, mệnh sử kì nhiên.
Bởi có khi cây mà không nở hoa, có khi nở hoa mà không đậu trái. Thêm gặp thương tổn, tàn rụng quá mức, một phúc lành chẳng qua sửa sang phép tắc; dù cho có nhiều tài năng trăm nghề, khó tránh khỏi nghèo đói tật bệnh khốn khổ, gian nan nơi khe núi, mệnh khiến cho nó như vậy.
Dục vấn phú quý song thắng, hà do đắc chi?
Muốn hỏi chiếm được cả hai giàu và sang, làm thế nào để đạt được?
Mạc đại vu lữ cơ, mạc kì vu tú thật. Đạt thánh đạt hiền giả, vô thì bất hữu; chí phú chí quý giả, tự cổ giai nhiên. Hoặc sanh sát cục chi trung, văn cao vũ hiển; hoặc cư quan đái chi hạ, nghiệp đại tài kì.
Không có gì lớn hơn lữ cơ (nền tảng bằng nhôm), không có gì đẹp bằng nở hoa kết trái. Người đạt đến bậc thánh hiền, không thời nào không có; người đạt đến giàu sang, từ xưa đều như thế. Có thể trong cục sanh sát, văn chương cao quý, vũ thì có địa vị; có thể ở dưới quan đới, nghiệp to lớn tài kỳ lạ.
Nhược thử huyền vi, như hà thôi trắc?
Nếu đó là bí ẩn, làm thê nào đoán được?
Tiên luận học đường chi nội, tam kì, tứ phúc; thứ sát cách cục chi ngoại, nhất cát, nhị nghi. Nhược kỉ mùi, kiến giáp tý vi tường; nhâm thìn, kiến đinh tị vi thụy. Nhâm tý, bính ngọ, chủ phong quang nho nhã chi nhân; tân dậu, bính thân, nãi tuấn tú vinh hoa chi sĩ.
Trước tiên bàn luận bên trong học đường, tam kỳ, tứ phúc; kế đến mới xét đến cách cục bên ngoài, một tốt, hai thích hợp. Như là kỷ mùi gặp giáp tý là tốt lành; nhâm thìn gặp đinh tỵ là điềm lành. Nhâm tý, bính ngọ chủ là người có phong cách ung dung; tân dậu, bính thân chính là người tài trí kiệt xuất, hiển quý.
Âm dương toàn bằng thuần mĩ, tạo hóa tối hỉ tương sanh. Nan biện giả, nhật tinh nguyệt hoa; mạc trắc giả, ngọc đường kim biển. Đắc chi giả vinh, ngộ chi giả quý. Nhược luận hiền ngu hiển hối, vô phi tạo hóa quân đào.
Âm dương toàn dựa vào cái đẹp thuần khiết, tạo hoá rất thích sanh lẫn nhau. Những gì khó phân biệt là bản chất của ngày và tháng; những gì không thể đoán trước là ngọc đường (điện ngọc) kim biển (tấm bảng có chữ treo trên cao). Người được vậy thì vẻ vang, gặp được thì quý. Nếu bàn luận về tài năng hay ng* d*t, vẻ vang hay tối tăm, không có sai tạo ra quân đào (bàn xoay dể làm đồ gốm).
Giả nhược phượng sanh vu âu, xà hóa vi long; phương lan bất đoạn vu bồng hao, khô mộc do sanh vu san dã. Thiểu quý lão tiện, sơ truân hậu hanh. Cái do đại vận chi suy vượng, dĩ trí phú quý chi biến canh.
Nếu phượng sanh ra từ cò, rắn hoá thành rồng; hoa lan thơm không đoán giống cỏ bồng cỏ hao, cây khô héo giống như sanh ra ở núi. Tuổi trẻ thì cao quý, tuổi già thì khiêm tốn, ban đầu khó khăn sau mới thông suốt. Bởi tuỳ theo đại vận suy hay vượng, dẫn đến phú quý thay đổi.
Cách cục thuần nhi phản tạp, trù trướng tàn xuân; vận hành lão nhi đắc thì, ưu du vãn cảnh. Thị dĩ thì hữu xuân thu, nguyệt hữu viên khuyết. Thường quan hóa ấm chi tử, thân nhất tang định vô liêu; phục kiến canh điếu chi nhân, vận nhất thông nhi thù hiển. Đa niên tước lộc, nhất đán câu hưu. Thì vận chí giả, dữ thì tương ngộ. Trị sanh vượng giả, vị tất vô hung. Hữu tình giả thông, vô tình giả trệ. Hữu lệnh giả cát, hữu trùng giả hung. Quan ấn tuế lâm sĩ đồ, định tri tiến bá; thực, tài vận ngộ thứ dân, diệc hứa vinh xương.
Cách cục thuần lại biến thành phức tạp, áo não cuối xuân; vận đi tuổi già mà gặp thời, cảnh già ung dung. Là vì thời gian có xuân thu, trăng có tròn có khuyết. Thường quan sát con cháu hoá ấm (bán đi ân đức che chở, giúp đỡ của tổ tiên), người thân một khi mất đi nhất định buồn chán; lại hiện người trồng trọt hay câu cá, vận một khi thuận lợi nên vẻ vang đặc biệt. Nhiều năm hưởng bỗng lộc từ chức tước, một ngày đến tuổi nghĩ ngơi. Ai may mắn sẽ gặp tời cơ. Người gặp sanh vượng không chắc là không có xấu. Hữu tình thì thuận lợi, vô tình thì trì trệ. Gặp lệnh thì tốt, gặp xung thì xấu. Quan ấn ở tuế gặp đường công danh, nhất định biết truyền bá thăng tiến; vận thực tài cơ hội của dân thường cũng hứa được vẻ vang phú quý.
Hoặc hữu thiểu y tổ phụ chi vinh, trường tá nhân tôn chi quý. Hựu hữu thùy mao nan khổ, chí lão vô y. Cái nhân tứ trụ chi vượng suy, sở do đại vận chi hanh phủ. khởi bất kiến khô cảo chi mộc, túng phùng xuân nhi bất vinh; mậu thịnh chi tiêu, tuy kinh sương nhi bất bại. Thì nhật canh khuy niên nguyệt, định vô hạ sảo; sanh thì vượng khí triêu nguyên, tất hữu vãn phúc. Cổ hữu trác ma chi ngọc, giới trị liên thành; thế hữu cô lập chi nhân, tự thành gia kế. Như phanh luyện chi dư nhi bất tổn, tuế hàn chi hậu nhi bất điêu. Tiêu tức diệu tại biến thông, họa phúc đương sát suy vượng. Thứ kỉ tri mệnh, quân tử cộng bình.
Hoặc có trường hợp tuổi trẻ nương nhờ vào danh dự của ông cha, mượn danh dự của con cháu lâu dài. Lại có trường hợp truyền lại gian nan khốn khổ, đến già không thể nương nhờ. Bởi do vượng suy của tứ trụ, tuỳ theo đại vận của mình có thuận lợi không. Làm sao mà không gặp cây khô héo, cho dù gặp mùa xuân mà không tươi tốt; ngọn cây tươi tốt, dù trải qua sương (tàn tạ vì gặp phải sương móc) mà không tàn tạ. Ngày giờ thay thế cho năm tháng bị thiếu, nhất định không có kết quả; giờ sanh khí vượng xoay về nhật chủ, chắc chắn có phúc muộn. Xưa có ngọc được mài giũa có giá trị liên thành (tỷ dụ vật phẩm quý giá); đời có người không ai giúp đỡ mà tự hoàn thành gia kế. Ví như không bị giảm bớt sau khi rèn luyện, sau những năm nghèo khó mà không bị điêu linh. Sửa đổi thêm bớt kỳ diệu ở biến thông, hoạ phúc nên xem xét ở vượng suy. Hầu như biết vận mệnh người quân tử cùng nhau bình luận.
Link đến bản tiếng Hoa:
憎爱赋
富莫富于纯粹,贫莫贫于战争;贵莫贵于秀实,贱莫贱于反伤。
文章锦绣,贵马会于学堂;襟度宏阔,水火合于情性。
深谋远虑,德星居沉静之宫;术业玄微,帝座寺文章之馆。
魁罡有灵变之机,离坎乃聪明之户。贵人、禄马宜逢,劫刃、空亡可远。
长生招贵人之可爱,衰败遇小人之憎嫌。四宫溃乱兮不仁不义,五行相生兮为孝为忠。
印禄在刑冲之位,心乱身忙;日时居用库之中,忧多乐少。
日干旺而灾咎寡,财命衰而惆怅多。衣食奔波,旺处遭克;利名成败,贵地逢伤。
平生祸福,赖于日时;一岁吉凶,凭于气运。福星有气,而变动升迁;岁克运凶,而人离财散。
大运危而生百祸,流年吉以除千殃。无绝至绝,财命倾危;求生得生,名利称进。
三合、六合,逢之古重凶轻;七煞、四凶,遇之祸深福浅。
职迁官进,定因禄会之年;产置田增,必是合财之地。
岁君冲压主凶灾,大运受伤殊少吉。岁宜生运,运喜生身。三位相生,一年称遂。
财官俱旺,应显达于仕途;财食均荣,岂淹留于白屋。禄入聚生之地,富贵可知;马奔禄旺之乡,荣华可断。
欲取交关利息,须要六合相逢;时干带禄朝元,定主安然获福。月衰时旺,早岁丰肥;本重主轻,终身飘荡。
惯取市厘之利,必因旺处逢财;忽然显达成家,定是刑中见贵。主本当时,得女士以扶持;贵禄有情,因君子而叶吉。
南商北旅,定知马道之通;东贩西驰,必是车运之利。
日于困弱,伯牛敢怨苍穹;禄马衰微,颜子难逃短命。
凶莫凶于支刃,吉莫吉于干强。马劣财微,男逃女走。天罗地网,非祸横灾。
穷途逢劫,危疑必犯自刑;绝处逢财,妻子应难谐老。
大耗、小耗,多因博戏亡家;官符、死符,必主狱讼时有。
或再四柱遇绝、三命刑伤,难免徒绞之刑,终受黔面之苦;若逢五鬼,雷伤虎咬无疑;更值群凶,恶殃横死,定断女多淫贱,男必猖狂。
或间人之性情,贤思、善恶,先推贵煞旺衰,方究机巧灵变。心高者,魁罡为祸;性倾者,六合为祥。观幽闲满洒之人,遇华盖孤虚之宿;
好情势霸道之辈,犯偏官、劫刃之权。劫刃生鄙吝之理,更出机关之险。
谋略多因于壬癸,威猛必本于丙丁。甲乙顺而仁慈大量,庚辛亏而果断无刚。
孤国遇之无精神,破败逢之多疏脱。刑战者愚顽,静安者贤俊。
躁败者火盛,隐忍者金多。金水司令而相生,火土逢时而相助。
不劳心而衣食自足,不费力而家计自成。更若德神相扶,定是推尊乡里;贵禄拱位,必然台省扬名。
其所忧者福不福,其所虑者成不成。福不福者,吉处遭凶;成不成者,格局见破。伤其格则伤福,破其局则招祸。譬若苗逢秋旱而冬座空虚,在被春霜而夏果无成。
智谋虽裕,措用无成。纵有回天转轴之机,而无建功立业之遂。岂不见坏生烹鼎,范增背疽,渊明东归,子美西去,盂舆不遇。冯衍空回,买臣负薪而行歌,江革苦寒而坐读。
盖苗而不秀者有之,秀而不实者有之。更值伤败太过,一福不过整范;纵有百艺多能,难免饥寒疾苦,困于沟壑,命使其然。
欲问富贵双胜,何由得之?
莫大于铝基,莫奇于秀实。达圣达贤者,无时不有;至富至贵者,自古皆然。或生煞局之中,文高武显;或居冠带之下,业大才奇。
若此玄微,如何推测?
先论学堂之内,三奇、四福;次察格局之外,一吉、二宜。若己未,见甲子为祥;壬辰,见丁巳为瑞。壬子、丙午,主风光儒雅之人;辛酉、丙申,乃俊秀荣华之士。
阴阳全凭纯美,造化最喜相生。难辨者,日精月华;莫测者,玉堂金匾。得之者荣,遇之者贵。若论贤愚显晦,无非造化钧陶。
假若凤生于鸥,蛇化为龙;芳兰不断于蓬蒿,枯木犹生于山野。少贵老贱,初屯后亨。盖由大运之衰旺,以致富贵之变更。
格局纯而反杂,惆怅残春;运行老而得时,优游晚景。是以时有春秋,月有圆缺。尝观货荫之子,亲一丧定无聊;复见耕钓之人,运一通而殊显。多年爵禄,一旦俱休。时运至者,与时相遇。值生旺者,未必无凶。有情者通,无情者滞。有令者吉,有冲者凶。官印岁临仕途,定知进播;食、财运遇庶民,亦许荣昌。
或有少依祖父之荣,长借儿孙之贵。又有垂髦难苦,至老无依。盖因四柱之旺衰,所由大运之亨否。岂不见枯槁之木,纵逢春而不荣;茂盛之标,虽经霜而不败。时日更亏年月,定无下稍;生时旺气朝元,必有晚福。古有琢磨之玉,价值连城;世有孤立之人,自成家计。如烹炼之余而不损,岁寒之后而不凋。消息妙在变通,祸福当察衰旺。庶几知命,君子共评。
.
tăng ái phú
Phú mạc phú vu thuần túy, bần mạc bần vu chiến tranh; quý mạc quý vu tú thật, tiện mạc tiện vu phản thương.
Giàu chẳng giàu ở thuần tuý, nghèo chớ nghèo ở chiến tranh; quý chẳng quý ở đẹp và thật, hèn chớ hèn ở ngược lại và tổn hại.
Văn chương cẩm tú, quý mã hội vu học đường; khâm độ hoành khoát, thủy hỏa hợp vu tình tính.
Văn chương cẩm tú (gấm thêu - nghĩa khác là tươi đẹp), quý nhân và mã hội hợp ở học đường; tấm lòng hoài bão rộng lớn, thuỷ hoả hoà hợp ở tính tình.
Thâm mưu viễn lự, đức tinh cư trầm tĩnh chi cung; thuật nghiệp huyền vi, đế tọa tự văn chương chi quán.
Mưu sâu và lo xa, ngôi sao đức hạnh ở trong cung điện tĩnh lặng; thuật nghiệp thần bí, đền vua là nơi giữ văn chương (cờ xí trang hoàng trên xe).
Khôi cương hữu linh biến chi cơ, li khảm nãi thông minh chi hộ. Quý nhân, lộc mã nghi phùng, kiếp nhận, không vong khả viễn.
Khôi cương có cơ hội thay đổi mọi thứ, ly khảm chính là người thông minh. Quý nhân, lộc mãnen6 gặp, kiếp nhận, không vong nên tránh xa.
Trường sanh chiêu quý nhân chi khả ái, suy bại ngộ tiểu nhân chi tăng hiềm. Tứ cung hội loạn hề bất nhân bất nghĩa, ngũ hành tương sanh hề vi hiếu vi trung.
Trường sanh vẫy tay gọi quý nhân đáng yêu, suy bại gặp tiểu nhân chán ghét. Bốn cung vỡ lỡ hỗn loạn thì bất nhân bất nghĩa, ngũ hành sanh nhau là hiếu là trung.
Ấn lộc tại hình xung chi vị, tâm loạn thân mang; nhật thì cư dụng khố chi trung, ưu đa nhạc thiểu.
Ấn và lộc ở chỗ hình xung, lòng bối rối thân vội vàng; ngày giờ ở trong khố của dụng, buồn nhiều vui ít.
Nhật can vượng nhi tai cữu quả, tài mệnh suy nhi trù trướng (buồn rầu) đa. Y thực bôn ba, vượng xứ t ao khắc; lợi danh thành bại, quý địa phùng thương.
Can ngày vượng nên ít tai hoạ, tài mệnh suy nên buồn rầu nhiều. Vì cơm áo mà phải chạy vạy khổ sở, chỗ vượng gặp phải khắc; lợi danh có thành có bại , đất quý gặp tổn hại.
Bình sanh họa phúc, lại vu nhật thì; nhất tuế cát hung, bằng vu khí vận. Phúc tinh hữu khí, nhi biến động thăng thiên; tuế khắc vận hung, nhi nhân li tài tán.
Cả đời hoạ phúc, nương nhờ ngày giờ; một năm tốt xấu, tuỳ theo vận khí. Phúc tinh có khí lực, nên biến động thng8 tiến; tuế khắc vận xấu, nên người xa cách mà tiền bạc không tụ.
Đại vận nguy nhi sanh bách họa, lưu niên cát dĩ trừ thiên ương. Vô tuyệt chí tuyệt, tài mệnh khuynh nguy; cầu sanh đắc sanh, danh lợi xưng tiến.
Đại vận nguy hiểm nên sanh ra trăm tai hoạ, lưu niên tốt trừ được ngàn cái tai ương. Không có tuyệt đến tuyệt, tài mệnh sụp đổ nguy hiểm; cầu sanh gặp sanh, danh lợi gọi là tiến đến.
Tam hợp, lục hợp, phùng chi cát trọng hung khinh; thất sát, tứ hung, ngộ chi họa thâm phúc thiển.
Tam hợp, lục hợp gặp phải thì tốt nhiều hơn xấu; thất sát, tứ hung (bốn cái xấu), gặp phải thì hoạ nhiều hơn phúc.
Chức thiên quan tiến, định nhân lộc hội chi niên; sản trí điền tăng, tất thị hợp tài chi địa.
Chức vụ thay đổi quan thăng tiến, nhất định do lộc hội hợp ở năm; tài sản mua sắm thêm đất ruộng, nhất định là đất hợp tài.
Tuế quân xung áp chủ hung tai, đại vận thụ thương thù thiểu cát. Tuế nghi sanh vận, vận hỉ (dễ) sanh thân. Tam vị tương sanh, nhất niên xứng toại.
Tuế quân xung bức bách chủ tai hoạ xấu, đại vận bị thương tổn quyết ít khi tốt. Tuế nên sanh vận, thì vận dễ sanh thân. Ba chỗ sanh nhau, một năm xứng ý vừa lòng.
Tài quan câu vượng, ứng hiển đạt vu sĩ đồ; tài thực quân vinh, khởi yêm lưu (ở lâu) vu bạch ốc.
Tài quan đều vượng, ứng vào thành tựu ở quan trường; tài thực thần cùng vẻ vang, làm sao mà ở mãi nơi nhà tranh.
Lộc nhập tụ sanh chi địa, phú quý khả tri; mã bôn lộc vượng chi hương, vinh hoa khả đoán.
Lộc vào đất tụ sanh, giàu sang có thể biết được; mã giong ruổi nơi lộc vượng, vẻ vang có thể đoán trước.
Dục thủ giao quan lợi tức, tu yếu lục hợp tương phùng; thì can đái lộc triều nguyên, định chủ an nhiên hoạch phúc.
Muốn thu lợi tức thông quan, cần phải lục hợp (trời, đất, đông, tây, nam, bắc gọi là lục hợp) gặp nhau; can giờ mang theo lộc hướng về nhật chủ, nhất định an nhiên thu hoạch phúc lành.
Nguyệt suy thì vượng, tảo tuế phong phì; bổn trọng chủ khinh, chung thân phiêu đãng.
Tháng suy giờ vượng, tuổi nhỏ béo phì; gốc nặng chủ nhẹ, một đời phiêu bạc.
Quán thủ thị li chi lợi, tất nhân vượng xử phùng tài; hốt nhiên hiển đạt thành gia, định thị hình trung kiến quý.
Quen chọn lấy lợi nhuận tù thị trường, nhất định do chỗ vượng gặp tài; bỗng nhiên có danh vọng vẻ vang, nhất định là hiện quý trong hình.
Chủ bổn đương thì, đắc nữ sĩ dĩ phù trì; quý lộc hữu tình, nhân quân tử nhi hiệp cát.
Nhật chủ đương lúc được nữ sĩ (người phụ nữ có đức hạnh của kẻ sĩ) để hỗ trợ; quý lộc hữu tình noi theo quân tử mà hợp tốt.
Nam thương bắc lữ, định tri mã đạo chi thông; đông phiến tây trì, tất thị xa vận chi lợi.
Đi buôn hướng nam ở trọ hướng bắc, nhất định biết hết cả đường của ngựa; đi buôn hướng đông theo đuổi hướng tây, nhất định là lợi của vận chở bằng xe.
Nhật vu khốn nhược, Bá Ngưu cảm oán thương khung; lộc mã suy vi, Nhan Tử nan đào đoản mệnh.
Ngày yếu đuối mệt mỏi, Bá Ngưu dám thống hận trời xanh; lộc mã suy yếu, thầy Nhan khó trốn khỏi số mệnh yểu.
Hung mạc hung vu chi nhận, cát mạc cát vu can cường. Mã liệt tài vi, nam đào nữ tẩu. Thiên la địa võng, phi họa hoành tai.
Hung chẳng hung ở địa chi nhận, tốt chẳng tốt ở thiên can mạnh. Mã yếu đuối tài ẩn tàng, trai trốn tránh gái chạy trốn. Thiên la địa võng, không phải là tai hoạ bất ngờ.
Cùng đồ phùng kiếp, nguy nghi tất phạm tự hình; tuyệt xứ phùng tài, thê tử ứng nan hài lão.
Đường cùng gặp cướp, gần như nguy hiểm ắt phạm tự hình; tuyệt xứ gặp tài, vợ khó hoà hợp đến già.
Đại hao, tiểu hao, đa nhân bác hí vong gia; quan phù, tử phù, tất chủ ngục tụng thì hữu.
Đại hao, tiểu hao đa phần do cờ bạc mà mât nhà; quan phù, tử phù nhất định có lúc bị kiện tụng và tù ngục.
Hoặc tái tứ trụ ngộ tuyệt, tam mệnh hình thương, nan miễn đồ giảo chi hình, chung thụ kiềm diện chi khổ; nhược phùng ngũ quỷ, lôi thương hổ giảo vô nghi; canh trị quần hung, ác ương hoạnh tử, định đoán nữ đa dâm tiện, nam tất xương cuồng.
Hoặc nhiều lần tứ trụ gặp tuyệt, cả ba mệnh bị hình thương, khó tránh khỏi bị trừng phạt tội lưu đày, hay thắt cổ cho chêt, cuối cùng bị khốn khó của dân đen; nếu gặp ngũ quỷ, sét dánh hay cọp vồ không nghi ngờ; gặp thêm nhiều hung thần, sợ tai ương chết bất ngờ, nhất định đoán là gái thì dâm tiện, nam thì ngông cuồng, càn rỡ.
Hoặc gian nhân chi tính tình, hiền tư, thiện ác, tiên thôi quý sát vượng suy, phương cứu cơ xảo linh biến. Tâm cao giả, khôi cương vi họa; tính khuynh giả, lục hợp vi tường. Quan u nhàn mãn sái chi nhân, ngộ hoa cái cô hư chi tú;
Hoặc tính tình của người đời, tư tưởng đạo đức, thiện ác, trước xem vượng suy của quý sát, rồi mới xét tìm cơ xảo (thông tuệ bén nhạy) và linh hoạt uyển chuyển. Người có tâm cao, khôi cương là tai hoạ; bản tính nghiêng đổ, lục hợp là tốt lành. Xem xét người thanh tĩnh tự tại, gặp hoa cái thường cô đơn;
Hảo tình thế bá đạo (ngang ngược) chi bối, phạm thiên quan, kiếp nhận chi quyền. Kiếp nhận sanh bỉ lận chi lí, canh xuất cơ quan chi hiểm.
Tình thế tốt đẹp của lũ ngnang ngược, bất chấp quyền của thiên quan và kiếp nhận. Kiếp nhận sanh quy tắc keo kiệt, thêm lộ ra mưu kế nguy hiểm.
Mưu lược đa nhân vu nhâm quý, uy mãnh tất bổn vu bính đinh. Giáp ất thuận nhi nhân từ đại lượng, canh tân khuy nhi quả đoạn vô cương.
Mưu lược nhiều là do nhâm quý, quyền thế mạnh mẽ vốn do bính đinh. Giáp ất thích hợp nên khoan hậu, yêu thương, khí độ rộng rãi, canh tân thiếu sót nên quyết đoán và không khuất phục.
Cô quốc ngộ chi vô tinh thần, phá bại phùng chi đa sơ thoát. Hình chiến giả ngu ngoan, tĩnh an giả hiền tuấn.
Đất nước cô lậu không có tinh thần, gặp phá bại thường sơ lược. Người hay tranh đấu thì cố chấp và ương bướng, người trầm tĩnh thì tài giỏi và đức hạnh.
Táo bại giả hỏa thịnh, ẩn nhẫn giả kim đa. Kim thủy ti lệnh nhi tương sanh, hỏa thổ phùng thì nhi tương trợ.
Người nóng nảy và thất bại thì hoả thịnh, người chịu nhịn không nói thìkim nhiều. Kim thuỷ nắm lệnh nên sanh nhau, hoả thổ gặp thời nên giúp đỡ lẫn nhau.
Bất lao tâm nhi y thực tự túc, bất phí lực nhi gia kế tự thành. Canh nhược đức thần tương phù, định thị thôi tôn hương lí; quý lộc củng vị, tất nhiên thai tỉnh dương danh.
Không mệt lòng nhọc trí mà cơm áo mãn ý, không tốn sức mà chi tiêu trong nhà cũng xong. Nếu thêm đức thần hỗ trợ, nhất định được tiến cử chức vị tôn kính trong làng; quý lộc vây quanh vị trí, dĩ nhiên dương danh nơi tỉnh thành.
Kỳ sở ưu giả phúc bất phúc, kỳ sở lự giả thành bất thành. Phúc bất phúc giả, cát xứ t ao hung; thành bất thành giả, cách cục kiến phá. Thương kỳ cách tắc thương phúc, phá kỳ cục tắc chiêu họa. Thí nhược miêu phùng thu hạn nhi đông tọa không hư, tại bị xuân sương nhi hạ quả vô thành.
Người lo lắng mình có phúc hay không, người lo lắng mình có thành công hay không. Phúc mà không phúc là vì chỗ tốt mà gặp hung xấu; thành công mà không thành công là vì cách cục gặp phá. Tổn hại cách thì tổn hại phúc, phá vỡ cục thì rước lấy hoạ. Thí dụ như nếu cây con gặp hạn mùa thù mà mùa đông ngồi nơi rỗng không, bị sương mùa xuân nên mùa hạ không có quả.
Trí mưu tuy dụ, thố dụng vô thành. Túng hữu hồi thiên chuyển trục chi cơ, nhi vô kiến công lập nghiệp chi toại. Khởi bất kiến phôi sanh phanh đỉnh, phạm tăng bối thư, uyên minh đông quy, tử mĩ tây khứ, vu dư bất ngộ. Phùng diễn không hồi, mãi thần phụ tân nhi hành ca, giang cách khổ hàn nhi tọa độc.
Dù có nhiều mưu trí, biện pháp sử dụng không thành công. Cho dù có cơ hội lật ngược tình thế, mà không gầy dựng được thành tựu.Mong không thấy phôi (khí cụ bằng đất hoặc ngói chưa nung) làm ra cái vạc để nấu, lưng Phạm Tăng có nhọt, Uyên Minh về hướng đông, Tử Mỹ đi hướng tây, đất Vu (Tên đất: (1) Thời Xuân Thu, đất của nước Vệ 衛, nay ở vào khoảng Hà Bắc. (2) Thời Xuân Thu, đất của nước Tống 宋, nay ở vào khoảng Hà Nam. (3) Thời Xuân Thu, đất của nước Tấn 晉, nay ở vào khoảng Sơn Tây) không gặp. Phùng Diễn Khổng trở lại, Mãi Thần vác củi và ca hát, Giang Cách cảnh nghèo khó ngồi đọc sách.
Cái miêu nhi bất tú giả hữu chi, tú nhi bất thật giả hữu chi. Canh trị thương bại thái quá, nhất phúc bất quá chỉnh phạm; túng hữu bách nghệ đa năng, nan miễn cơ hàn tật khổ, khốn vu câu hác, mệnh sử kì nhiên.
Bởi có khi cây mà không nở hoa, có khi nở hoa mà không đậu trái. Thêm gặp thương tổn, tàn rụng quá mức, một phúc lành chẳng qua sửa sang phép tắc; dù cho có nhiều tài năng trăm nghề, khó tránh khỏi nghèo đói tật bệnh khốn khổ, gian nan nơi khe núi, mệnh khiến cho nó như vậy.
Dục vấn phú quý song thắng, hà do đắc chi?
Muốn hỏi chiếm được cả hai giàu và sang, làm thế nào để đạt được?
Mạc đại vu lữ cơ, mạc kì vu tú thật. Đạt thánh đạt hiền giả, vô thì bất hữu; chí phú chí quý giả, tự cổ giai nhiên. Hoặc sanh sát cục chi trung, văn cao vũ hiển; hoặc cư quan đái chi hạ, nghiệp đại tài kì.
Không có gì lớn hơn lữ cơ (nền tảng bằng nhôm), không có gì đẹp bằng nở hoa kết trái. Người đạt đến bậc thánh hiền, không thời nào không có; người đạt đến giàu sang, từ xưa đều như thế. Có thể trong cục sanh sát, văn chương cao quý, vũ thì có địa vị; có thể ở dưới quan đới, nghiệp to lớn tài kỳ lạ.
Nhược thử huyền vi, như hà thôi trắc?
Nếu đó là bí ẩn, làm thê nào đoán được?
Tiên luận học đường chi nội, tam kì, tứ phúc; thứ sát cách cục chi ngoại, nhất cát, nhị nghi. Nhược kỉ mùi, kiến giáp tý vi tường; nhâm thìn, kiến đinh tị vi thụy. Nhâm tý, bính ngọ, chủ phong quang nho nhã chi nhân; tân dậu, bính thân, nãi tuấn tú vinh hoa chi sĩ.
Trước tiên bàn luận bên trong học đường, tam kỳ, tứ phúc; kế đến mới xét đến cách cục bên ngoài, một tốt, hai thích hợp. Như là kỷ mùi gặp giáp tý là tốt lành; nhâm thìn gặp đinh tỵ là điềm lành. Nhâm tý, bính ngọ chủ là người có phong cách ung dung; tân dậu, bính thân chính là người tài trí kiệt xuất, hiển quý.
Âm dương toàn bằng thuần mĩ, tạo hóa tối hỉ tương sanh. Nan biện giả, nhật tinh nguyệt hoa; mạc trắc giả, ngọc đường kim biển. Đắc chi giả vinh, ngộ chi giả quý. Nhược luận hiền ngu hiển hối, vô phi tạo hóa quân đào.
Âm dương toàn dựa vào cái đẹp thuần khiết, tạo hoá rất thích sanh lẫn nhau. Những gì khó phân biệt là bản chất của ngày và tháng; những gì không thể đoán trước là ngọc đường (điện ngọc) kim biển (tấm bảng có chữ treo trên cao). Người được vậy thì vẻ vang, gặp được thì quý. Nếu bàn luận về tài năng hay ng* d*t, vẻ vang hay tối tăm, không có sai tạo ra quân đào (bàn xoay dể làm đồ gốm).
Giả nhược phượng sanh vu âu, xà hóa vi long; phương lan bất đoạn vu bồng hao, khô mộc do sanh vu san dã. Thiểu quý lão tiện, sơ truân hậu hanh. Cái do đại vận chi suy vượng, dĩ trí phú quý chi biến canh.
Nếu phượng sanh ra từ cò, rắn hoá thành rồng; hoa lan thơm không đoán giống cỏ bồng cỏ hao, cây khô héo giống như sanh ra ở núi. Tuổi trẻ thì cao quý, tuổi già thì khiêm tốn, ban đầu khó khăn sau mới thông suốt. Bởi tuỳ theo đại vận suy hay vượng, dẫn đến phú quý thay đổi.
Cách cục thuần nhi phản tạp, trù trướng tàn xuân; vận hành lão nhi đắc thì, ưu du vãn cảnh. Thị dĩ thì hữu xuân thu, nguyệt hữu viên khuyết. Thường quan hóa ấm chi tử, thân nhất tang định vô liêu; phục kiến canh điếu chi nhân, vận nhất thông nhi thù hiển. Đa niên tước lộc, nhất đán câu hưu. Thì vận chí giả, dữ thì tương ngộ. Trị sanh vượng giả, vị tất vô hung. Hữu tình giả thông, vô tình giả trệ. Hữu lệnh giả cát, hữu trùng giả hung. Quan ấn tuế lâm sĩ đồ, định tri tiến bá; thực, tài vận ngộ thứ dân, diệc hứa vinh xương.
Cách cục thuần lại biến thành phức tạp, áo não cuối xuân; vận đi tuổi già mà gặp thời, cảnh già ung dung. Là vì thời gian có xuân thu, trăng có tròn có khuyết. Thường quan sát con cháu hoá ấm (bán đi ân đức che chở, giúp đỡ của tổ tiên), người thân một khi mất đi nhất định buồn chán; lại hiện người trồng trọt hay câu cá, vận một khi thuận lợi nên vẻ vang đặc biệt. Nhiều năm hưởng bỗng lộc từ chức tước, một ngày đến tuổi nghĩ ngơi. Ai may mắn sẽ gặp tời cơ. Người gặp sanh vượng không chắc là không có xấu. Hữu tình thì thuận lợi, vô tình thì trì trệ. Gặp lệnh thì tốt, gặp xung thì xấu. Quan ấn ở tuế gặp đường công danh, nhất định biết truyền bá thăng tiến; vận thực tài cơ hội của dân thường cũng hứa được vẻ vang phú quý.
Hoặc hữu thiểu y tổ phụ chi vinh, trường tá nhân tôn chi quý. Hựu hữu thùy mao nan khổ, chí lão vô y. Cái nhân tứ trụ chi vượng suy, sở do đại vận chi hanh phủ. khởi bất kiến khô cảo chi mộc, túng phùng xuân nhi bất vinh; mậu thịnh chi tiêu, tuy kinh sương nhi bất bại. Thì nhật canh khuy niên nguyệt, định vô hạ sảo; sanh thì vượng khí triêu nguyên, tất hữu vãn phúc. Cổ hữu trác ma chi ngọc, giới trị liên thành; thế hữu cô lập chi nhân, tự thành gia kế. Như phanh luyện chi dư nhi bất tổn, tuế hàn chi hậu nhi bất điêu. Tiêu tức diệu tại biến thông, họa phúc đương sát suy vượng. Thứ kỉ tri mệnh, quân tử cộng bình.
Hoặc có trường hợp tuổi trẻ nương nhờ vào danh dự của ông cha, mượn danh dự của con cháu lâu dài. Lại có trường hợp truyền lại gian nan khốn khổ, đến già không thể nương nhờ. Bởi do vượng suy của tứ trụ, tuỳ theo đại vận của mình có thuận lợi không. Làm sao mà không gặp cây khô héo, cho dù gặp mùa xuân mà không tươi tốt; ngọn cây tươi tốt, dù trải qua sương (tàn tạ vì gặp phải sương móc) mà không tàn tạ. Ngày giờ thay thế cho năm tháng bị thiếu, nhất định không có kết quả; giờ sanh khí vượng xoay về nhật chủ, chắc chắn có phúc muộn. Xưa có ngọc được mài giũa có giá trị liên thành (tỷ dụ vật phẩm quý giá); đời có người không ai giúp đỡ mà tự hoàn thành gia kế. Ví như không bị giảm bớt sau khi rèn luyện, sau những năm nghèo khó mà không bị điêu linh. Sửa đổi thêm bớt kỳ diệu ở biến thông, hoạ phúc nên xem xét ở vượng suy. Hầu như biết vận mệnh người quân tử cùng nhau bình luận.
Link đến bản tiếng Hoa:
憎爱赋
富莫富于纯粹,贫莫贫于战争;贵莫贵于秀实,贱莫贱于反伤。
文章锦绣,贵马会于学堂;襟度宏阔,水火合于情性。
深谋远虑,德星居沉静之宫;术业玄微,帝座寺文章之馆。
魁罡有灵变之机,离坎乃聪明之户。贵人、禄马宜逢,劫刃、空亡可远。
长生招贵人之可爱,衰败遇小人之憎嫌。四宫溃乱兮不仁不义,五行相生兮为孝为忠。
印禄在刑冲之位,心乱身忙;日时居用库之中,忧多乐少。
日干旺而灾咎寡,财命衰而惆怅多。衣食奔波,旺处遭克;利名成败,贵地逢伤。
平生祸福,赖于日时;一岁吉凶,凭于气运。福星有气,而变动升迁;岁克运凶,而人离财散。
大运危而生百祸,流年吉以除千殃。无绝至绝,财命倾危;求生得生,名利称进。
三合、六合,逢之古重凶轻;七煞、四凶,遇之祸深福浅。
职迁官进,定因禄会之年;产置田增,必是合财之地。
岁君冲压主凶灾,大运受伤殊少吉。岁宜生运,运喜生身。三位相生,一年称遂。
财官俱旺,应显达于仕途;财食均荣,岂淹留于白屋。禄入聚生之地,富贵可知;马奔禄旺之乡,荣华可断。
欲取交关利息,须要六合相逢;时干带禄朝元,定主安然获福。月衰时旺,早岁丰肥;本重主轻,终身飘荡。
惯取市厘之利,必因旺处逢财;忽然显达成家,定是刑中见贵。主本当时,得女士以扶持;贵禄有情,因君子而叶吉。
南商北旅,定知马道之通;东贩西驰,必是车运之利。
日于困弱,伯牛敢怨苍穹;禄马衰微,颜子难逃短命。
凶莫凶于支刃,吉莫吉于干强。马劣财微,男逃女走。天罗地网,非祸横灾。
穷途逢劫,危疑必犯自刑;绝处逢财,妻子应难谐老。
大耗、小耗,多因博戏亡家;官符、死符,必主狱讼时有。
或再四柱遇绝、三命刑伤,难免徒绞之刑,终受黔面之苦;若逢五鬼,雷伤虎咬无疑;更值群凶,恶殃横死,定断女多淫贱,男必猖狂。
或间人之性情,贤思、善恶,先推贵煞旺衰,方究机巧灵变。心高者,魁罡为祸;性倾者,六合为祥。观幽闲满洒之人,遇华盖孤虚之宿;
好情势霸道之辈,犯偏官、劫刃之权。劫刃生鄙吝之理,更出机关之险。
谋略多因于壬癸,威猛必本于丙丁。甲乙顺而仁慈大量,庚辛亏而果断无刚。
孤国遇之无精神,破败逢之多疏脱。刑战者愚顽,静安者贤俊。
躁败者火盛,隐忍者金多。金水司令而相生,火土逢时而相助。
不劳心而衣食自足,不费力而家计自成。更若德神相扶,定是推尊乡里;贵禄拱位,必然台省扬名。
其所忧者福不福,其所虑者成不成。福不福者,吉处遭凶;成不成者,格局见破。伤其格则伤福,破其局则招祸。譬若苗逢秋旱而冬座空虚,在被春霜而夏果无成。
智谋虽裕,措用无成。纵有回天转轴之机,而无建功立业之遂。岂不见坏生烹鼎,范增背疽,渊明东归,子美西去,盂舆不遇。冯衍空回,买臣负薪而行歌,江革苦寒而坐读。
盖苗而不秀者有之,秀而不实者有之。更值伤败太过,一福不过整范;纵有百艺多能,难免饥寒疾苦,困于沟壑,命使其然。
欲问富贵双胜,何由得之?
莫大于铝基,莫奇于秀实。达圣达贤者,无时不有;至富至贵者,自古皆然。或生煞局之中,文高武显;或居冠带之下,业大才奇。
若此玄微,如何推测?
先论学堂之内,三奇、四福;次察格局之外,一吉、二宜。若己未,见甲子为祥;壬辰,见丁巳为瑞。壬子、丙午,主风光儒雅之人;辛酉、丙申,乃俊秀荣华之士。
阴阳全凭纯美,造化最喜相生。难辨者,日精月华;莫测者,玉堂金匾。得之者荣,遇之者贵。若论贤愚显晦,无非造化钧陶。
假若凤生于鸥,蛇化为龙;芳兰不断于蓬蒿,枯木犹生于山野。少贵老贱,初屯后亨。盖由大运之衰旺,以致富贵之变更。
格局纯而反杂,惆怅残春;运行老而得时,优游晚景。是以时有春秋,月有圆缺。尝观货荫之子,亲一丧定无聊;复见耕钓之人,运一通而殊显。多年爵禄,一旦俱休。时运至者,与时相遇。值生旺者,未必无凶。有情者通,无情者滞。有令者吉,有冲者凶。官印岁临仕途,定知进播;食、财运遇庶民,亦许荣昌。
或有少依祖父之荣,长借儿孙之贵。又有垂髦难苦,至老无依。盖因四柱之旺衰,所由大运之亨否。岂不见枯槁之木,纵逢春而不荣;茂盛之标,虽经霜而不败。时日更亏年月,定无下稍;生时旺气朝元,必有晚福。古有琢磨之玉,价值连城;世有孤立之人,自成家计。如烹炼之余而不损,岁寒之后而不凋。消息妙在变通,祸福当察衰旺。庶几知命,君子共评。
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#381
Gửi vào 11/11/2024 - 10:06
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất
tiêu tức phú nhất
(Lạc Lục Tử soạn, Dục Ngô Tử phân tích).
Nguyên nhất khí hề tiên thiên, bẩm thanh trọc hề tự nhiên. Trứ tam tài dĩ thành tượng, bá tứ khí dĩ vi niên.
(Ban đầu nguyên khí trong vũ trụ là tiên thiên, bản chất trong đục là tự nhiên. Hiển lộ tam tài để thành tượng, chia ra tứ khí để làm năm).
Khi mới bắt đầu tạo hoá (chỉ tự nhiên giới tạo ra muôn vật), ba mệnh đã được sanh ra. Ba mệnh lấy thiên can làm lộc, gọi là thiên nguyên; lấy địa chi làm mệnh gọi là nhân nguyên; lấy nạp âm làm thân gọi là đại nguyên. Đó là người xưa nhìn thấy tạo hoá, vì thế bắt chước trời dất làm thể âm dương, kết hợp với tứ trụ làm thành bát tự. Đo là lời nói đầu của Lạc Lục Tử.
Dĩ can vi lộc, hướng bối định kì bần phú; dĩ chi vi mệnh, tường nghịch thuận dĩ tuần hoàn.
(Lấy thiên can làm lộc, hướng về hay ở phía sau mà định nghèo giàu; lấy địa chi làm mệnh, biết rõ thuận nghịch theo vòng tuần hoàn).
Thiên can giống như thân cây, địa chi giống như cành cây. Nói chung can là dương mà chi là âm; nói cách khác, can chi mỗi thứ đều âm dương. Lộc của mười thiên can gửi ở trong mười hai địa chi, dương đạo đi thuận, còn âm đạo thì chuyển nghịch, đều theo quy tắc từ chỗ trường sanh, gặp lâm quan của mình là chỗ trú ngụ. Đó là dương sanh âm tử, âm tử dương sanh, cái lý tự nhiên vậy.
Lấy thiên can làm lộc mà suy xét sẽ có hướng (hướng về) bối (bỏ lại phía sau). Như giáp lộc ở dần, gặp sửu sẽ là hướng, thấy mão sẽ là bối. Cho nên trước lộc một thần gọi là dương nhận, sau lộc một thần gọi là lộc khố. "Sách" nói rằng: hướng về lộc thì sanh, bỏ lộc ở phía sau thì chết. Đó gọi là hướng bối định kỳ bần phú (định giàu nghèo theo hướng về hay bỏ lại sau lưng)! Lấy địa chi làm mệnh nên hiểu rõ có thuận nghịch. Như dương nam âm nữ thuận theo tháng sanh mà đi thuận; còn âm nam dương nữ thuận theo tháng sanh mà đi nghịch. Con người được trời phú cho khí âm dương thuận nghịch, ở trong địa chi thiên can, đi quanh lại bắt đầu, qua lại trong vòng tròn, như vận nóng lạnh của bốn mùa không cùng tận. Vì thế nói lấy địa chi làm mệnh, hiểu rõ vòng tròn thuận nghịch.
Đàm Oánh nói: can lộc tìm cho ra hướng bối, tốt xấu nghiên cứu có nông sâu. Bối là nghịch, có thể định là nghèo; hướng là thuận biết nó là giàu. Tuy nhiên nếu không đi theo con đường đã chọn, cũng có trường hợp gặp bối lộc (bỏ lộc lại ở phía sau) mà không nghèo. Vì thế địa chi là nhân nguyên, người đi buôn được mất, nam đón nữ tiễn, coi như tiếp cận vận xấu hay vận tốt, gặp tốt hay gặp xấu, dụng thần được xác định.
Vận hành tắc nhất thần thập tuế; chiết trừ nãi tam nhật vi niên.
Tinh hưu vượng dĩ vi diệu, cùng thông biến dĩ vi huyền.
(Vận đi thì một thần là mười năm, chia ra là ba ngày bằng một năm.
Tinh chất hưu vượng là điều kỳ diệu, cùng khốn và hiển đạt biến đổi là mầu nhiệm).
Trước nói về thiên can và địa chi, thì bát tự được xác định. Đi vận chính là điều rất quan trọng của ba mệnh cho nên phương pháp nêu ra đầu tiên để báo cho con người biết. Vận đi thì một thần chuyên chở mười năm; phân ra là ba ngày bằng một năm. Đó là cách người xưa lập vận. Phân chia phải rõ ràng đúng với số ngày thật sự trải qua, mệnh có tiết khí nông sâu không giống nhau, vận có tới sanh hay tới hạn chế hỗ trợ khác nhau, trong đó có thể nghĩ ngơi, có thể thịnh vượng, cần phải phù hợp với bát tự. Có trường hợp mừng sanh vượng mà ghét hưu bại, có trường hợp nên hưu bại mà ghét sanh vượng, rất nhiều biến hoá, không đạt được thông tin sâu kín của đạo lý huyền nhiệm, để hiểu tận cùng sự kỳ diệu của tạo hoá, ai có thể sánh với điều đó? Cho nên nói: hoá (biến đổi) mà giảm bớt nên gọi là biến (thay đổi), suy rộng và thực hành nên gọi là thông (thuận lợi), đúng lý thay đổi thuận lợi. Ý nghĩa tốt xấu tồn tại, cho nên có thể là vốn là kỳ diệu, thật tốt đẹp và hoàn hảo.
Kỳ vi khí dã, tương lai giả tiến, thành công giả thối. Như xà tại hôi, như thiện tại trần.
(Đó là khí, sắp đến là tiến, thành công thì rút lui. Như con rắn ở nơi tro, con lươn ở nơi bụi).
Khí là khí của ngũ hành, lan toả trong bốn mùa. Như mùa xuân mộc vượng, hoả tướng, thổ tử, kim tù, thuỷ hưu, nghênh đón là lâm quan, đế vượng, sắp đến là tiến; bỏ lại phía sau là hưu phế, tử tuyệt, thành công thì rút lui. Khí của ngũ hành tiến thối trong vòng tròn, hành vận của con người, mỗi vận là một thần (địa chi), tướng là tiến , vượng sẽ thối lui, đang nắm quyền là phúc của dụng, không đang nắm quyền dụng chỉ vô ích. Nếu khí của ngũ hành đã qua thì thối lui, rắn lươn đều thuộc loài hoả, hoả đến tù tử là thổ, hưu phế là tro. Ba con vật trong tỵ là con rắn, con lươn, con giun đất, cho nên biết rắn lươn là hoả, đến tù tử hưu phế tức là ở nơi bụi, nơi tro là hoả tiến mà hoả thì thối lui vậy.
Oánh Hoà Thượng nói: con lươn, con giun đất thì thuộc về thuỷ thổ, chỗ bụi bặm sẽ buồn rầu. Đằng xà chính là thần của hôi hoả (tro), vui thích chỗ tro. Nơi chốn thì theo loại tụ hợp, còn vật thì phân chia theo nhóm, nương theo kỳ vọng của mình thì tốt; trái ngược chỗ nhắm tới của mình thì xấu, tức là vật có thể để quan sát hạnh vận vậy. Hành vận của con người tuy cùng ở một cung, nhưng khí thì có tiến thối, vị trí không khác; nhưng mệnh có sống chết, gặp nó không thể không biết rõ hưu hay vượng, cùng khốn và hiển đạt có thay đổi vậy. Đó là ý nghĩa của thuyết này.
Kỳ vi hữu dã, thị tòng vô nhi lập hữu; kỳ vi vô dã, thiên thùy tượng dĩ thị văn.
(Nó là có, là thuận theo không có mà tạo thành có; nó là không có, hình ảnh của bầu trời hạ thấp xuống để biểu thị).
Đấy là khí của ngũ hành ngay ngắn rõ ràng, là thuận theo không có mà làm thành có, cho nên mượn hình ảnh năm ngôi sao trên bầu trời để làm rõ. Bởi ban đầu của vật lan toả, ai biết là có? Sau thái cực, ai biết là không có, có đến từ không có, không có sanh ra từ có. Ở trên trời thành tượng, ở dưới đất thành hình, biến hoá tỏ rõ vậy.
Kỳ vi thường dã, lập nhân lập nghĩa; kỳ vi sự dã, hoặc kiến hoặc văn.
(Nó là thường, lập thành nhân lập thành nghĩa; nó là sự, có thể thấy có thể nghe).
Ngũ hành: ở trên trời là năm ngôi sao, ở dưới đất là năm ngọn núi cao (Ngũ Nhạc 五岳 năm núi Nhạc: Tung Sơn 嵩山, Thái Sơn 泰山, Hoa Sơn 華山, Hành Sơn 衡山, Hằng Sơn 恆山), ở con người là ngũ tạng (tim, gan, dạ dày, phổi và thận), thúc đẩy và thực hiện sẽ là ngũ thường (gồm có: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín - nghĩa là năm đạo của người lúc nào cũng phải có, không thể thiếu được), thường có đạo có thể lâu dài. "Dịch" nói: đạo lập thiên gọi âm với dương; đạo lập địa gọi nhu với cương; đạo lập nhân gọi nhân với nghĩa. Đạo của con người không phải nhân với nghĩa thì không thể lập được. "Thư" nói: có hai dạng ngũ sự: một nói mạo (dáng vẻ bên ngoài), hai nói ngôn (lời nói), ba nói thị (nhìn thấy), bốn nói thính (lắng nghe), năm nói tư (suy nghĩ). Ngũ thường, ngũ sự đều là biến hoá của ngũ hành, cùng với nhân sự tương thông. Tính tình của con người bỏ đi hay tới theo, thấy nghe động tĩnh đều không tránh khỏi những quy tắc này.
Có thể thấy, có thể nghe, như kim mộc thuỷ hoả thổ thì thấy, nhưng cung thương giác chuỷ vũ thì nghe; mạo, ngôn thị thính tư thì thấy, nhưng túc (cung kính) hựu (có ý nhấn mạnh) triết (thông minh) mưu (toan tính) thánh (sáng suốt) thì nghe. Bởi hiệu quả của ngũ hành, không thể vượt qua triệt để, người không có khôn ngoan do ngẫu nhiên, ai có thể quan sát cẩn thận và hiểu biết thầm lặng?
Sùng vi bảo dã, kì vi quý dã. Tướng tinh phù đức, thiên ất gia lâm; bổn chủ hưu tù, hành tàng mịch một.
(Sùng là bảo, đặc biệt là quý. Tướng tinh hỗ trợ đức, thêm thiên ất đến; bổn chủ hưu tù, hành tàng mịch một).
Sùng (người có đức cao, ở địa vị tôn quý): đối nghịch với ty (hèn hạ). Kỳ (kỳ lạ, đặc biệt): đối nghịch với ngẫu (tình cờ). Vật cao do tích luỹ, mà cao thì được tôn trọng, ở ngũ hành trên sanh dưới là vậy. Vật không có giúp đỡ ngẫu nhiên là kỳ lạ; ở ngũ hành khác nhau nhưng lại thành nhóm. Tướng tinh là nguyệt tướng, đức là thiên nguyệt đức. Thiên ất là quý thần.
Năm sanh là bổn (gốc), ngày sanh là chủ, hưu tù đối với sanh vượng khi bàn luận. Mệnh người gồm năm tháng ngày giờ, tứ trụ có ngũ hành, trên sanh dưới. Có tam kỳ là ất bính đinh. Có thêm tướng tinh, đức quý. Chủ (ngày) bổn (năm) sanh vượng đắc địa, gọi là cát tướng tiếp cận, nên phúc lành đến chỗ vui mừng, đó là mệnh có địa vị cao quý. "Phú" trước tiên nói sùng kỳ (coi trọng điều kỳ lạ) là bảo quý (quý báu), sau nói là chủ (ngày) và bổn (năm) kỵ hưu tù, sùng kỳ hiện thì khó gặp, vì chủ (ngày) và bổn (năm) là cấp thiết và trọng yếu, nhưng thần sát các nơi chỉ là thứ yếu. Nghĩa là hiểu mệnh theo ngũ hành là trước tiên, sanh vượng là tốt nhất, tướng tinh, đức, quý lại là thần sát rất tốt vậy.
Từ nói: sùng theo chủ (ngày) và bổn (năm) mà nói, hễ trong mệnh có thần quản lý tuổi thọ, tiền của, hoạ phúc, cũng gọi là sùng. Kỳ là nói đền lộc mã, hễ trong mệnh có tài quan ấn thực thần cũng gọi là kỳ. Đức là đức của ngày, thần tức là lục hợp vậy. Như năm nhâm dần tháng canh tuất ngày quý mão giờ ất mão, tháng chín nguyệt tướng ở mão, giúp đỡ ngày sanh của mình; ngũ hành tháng chín kim thổ lục hợp, mão tuất hợp, ất canh hợp, mậu quý hợp. Ngũ hành như thế, mỗi hành không ở đất hưu bại, sẽ quý. Giống như không có ý nghĩa.
Chí nhược câu trần đắc vị, bất khuy tiểu tín dĩ thành nhân; chân vũ đương quyền, tri thị đại tài nhi phân thụy.
(Nếu câu trần đắc vị, nhân từ mà không mất niềm tin; chân vũ nắm quyền, biết là tài lớn và cát tường rõ ràng).
Đây là nêu ra thuỷ thổ, để làm thí dụ cho các hành còn lại. Câu trận là tướng của thổ, đạo lý của mình là tín (lòng thành thực). Chân vũ chính là thuỷ thần, đạo lý của nó là trí (trí tuệ). Người có đức tin, đủ để đạt đến bậc thánh; người có trí tuệ, đủ để sáng tác theo cách của mình. Hiệu quả của ngũ hành, độc đáo ở chỗ này. Đắc vị là mậu kỷ sanh tháng bảy, mẹ ở nơi của con, đang nắm quyền, nhâm quý sanh tháng bảy con ở nhà mẹ. Hai thứ cùng nguồn gốc, đều sanh ở thân. Từ lấy mậu kỷ ngồi ở dần mão, cùng hợi mão mùi; nhâm quý ngồi ở ngọ tỵ cùng với thìn tuất sửu mùi, dưới có quan ấn, lộc mã, vượng tướng mộ khố là đắc vị đang nắm quyền, dường như trái ngược với ý nghĩa kết hợp. Không như chỉ lấy thổ sanh ở bốn tháng cuối mùa, hay thuỷ gặp ba tháng mùa đông.
Bất nhân bất nghĩa, canh tân dữ giáp ất giao sai; hoặc thị hoặc phi, nhâm quý dữ bính đinh tương úy.
(Không nhân từ không đạo lý, canh tân với giáp ất xung đột nhau; có thể đúng có thể sai, nhâm quý với bính đinh oán ghét nhau).
Ở trên nói về đang nắm quyền đắc vị, sẽ không xung đột nhau, không oán ghét nhau. Nếu giáp thấy canh, ất thấy tân, bính thấy nhâm, đinh thấy quý giống như hai cô gái ở chung, cả hai nam cùng chung một chỗ, nên âm dương không hợp, không thành việc vui mừng. Canh tân chủ về nghĩa (đạo lý), giáp ất chủ về nhân (nhân từ), vì xung đột cho nên không nhân từ cũng không đạo lý. Bính đinh chủ lễ (phép tắc), nhâm quý chủ trí (trí tuệ), vì oán ghét nhau, cho nên có thể đúng có thể sai.
Nếu canh hợp với ất, tân hợp với giáp, thì cương nhu lợi dụng nhau, nhân nghĩa cùng lúc giúp nhau, không xung đột vậy. Nếu bính thấy quy quan, đinh hợp nhâm lộc thì âm dương hoà hợp nhau, thuỷ hoả cùng có lợi, không oán ghét nhau vậy. Có thể vì giáp thân, ất dậu là không nhân từ, canh dần, tân mão là không đạo lý, lý do xung đột của dần thân canh giáp, ngầm đánh nhau của mão dậu ất dậu; bính gặp nhâm thì bính sai nhâm đúng; đinh gặp quý thì quysai đinh đúng, tý ngọ cũng vậy, tỵ hợi như nhau. Hễ hoàn toàn gặp khoảnh khắc này, bắt đầu có thể nói được.
Cố hữu tiên hiền khiêm kỷ, xứ tục cầu tiên. Sùng thích tắc li quan tu định; quy đạo nãi thủy phủ cầu huyền.
(Nguyên nhân bậc tài đức thời xưa nhún nhường, tìm tiên nơi thế tục. Sùng bái Thích Ca sẽ từ quan để tu thiền; trở về với đạo chính tìm huyền bí ở thuỷ phủ).
Nhân và nghĩa ở việc vâng phục được mất, đúng sai thường bị ngăn trở bởi tươi tốt và khô héo, do đó không biết sử dụng ngày thế nào, từng không được yên nghĩ, cho nên bậc tài đức thời xưa nhún nhường, tìm tiên nơi thế tục, cát ái (đem cái mình yêu quý nhường cho người khác) ít ham muốn ích kỷ. Có thể tôn kính Thích Ca để diệt hoả trong lòng, có thể trở về với đạo để ích lợi tinh khí của thận, canh giữ tinh thần bên trong, trừ bỏ ảo tưởng bên ngoài, tôi không có gì để đạt được, rốt cuộc màu sắc rõ ràng trống rỗng, chớ không phải đúng với sai.
Thị tri ngũ hành thông đạo, thủ dụng đa môn. Lý ư hiền nhân, loạn ư bất tiếu. Thành ư diệu dụng, bại ư bất năng.
(Là biết lối đi của ngũ hành, chọn dùng nhiều cửa. Lý trí ở người tài năng, hỗn loạn ở phẩm hạnh không tốt. Thành công ở hiệu ứng kỳ diệu, thất bại ở không bản lãnh).
Đạo không có chẳng sao, vật không ở không phải đạo, ngũ hành biến hoá, thông suốt ở đạo lớn, chỗ nào không đến lượt, chọn dùng không giống nhau, cho nên gọi là đa môn (nhiều cửa). Như người hiểu biết chọn lấy phép tu thiền, người siêu thoát trần tục chọn lấy để tìm kiếm bản chất. Tự mình không phải là người đốn ngộ (chợt hiểu ra), làm sao có thể tán thành điều này? Vì thế người tài đức được vậy, có thể hết sức nỗ lực để tìm tòi nguyên lý sự vật, đạt được diệu dụng của ngũ hành; còn người ng* d*t thì lầm lỡ, cuối cùng cũng tự tối tăm, mà không thu được gì. Người có tài nuôi dưỡng để chọn phúc, người không có tài thì thất bại để gặp hoạ. "Dịch" nói: nếu không phải con người của mình, sẽ không thực đạo một cách vô ích.
Hiện bất hiện chi hình, vô thì bất hữu; trừu bất trừu chi tự, vạn cổ liên miên.
(Hình thể hiện hay không hiện, không lúc nào không có; đầu mối kéo ra hay không kéo, ngàn đời liên tục không ngừng).
Hình thể hiện hay không hiện, như mười can lộc gửi ở mười hai địa chi, có hiện hay không hiện thật sự tồn tại không?
Giáp lộc ở dần, dần là lộc hiện rõ rệt; không thấy dần mà thấy tuất, lấy ngũ tý nguyên (giáp tý) độn đến tuất gặp giáp tuất, trở thành lộc đường của giáp, đó gọi là lộc không hiện.
Giáp lấy tân làm quan, tân lộc ở dậu, giáp nhận được gà vàng hay dậu là quan hiện rõ ràng; không thấy dậu mà thấy mùi, lấy thiên quan (là một trong tam quan 三官 trong đạo giáo, gồm có: thiên quan 天官, địa quan 地官, thủy quan 水官) độn giáp nhập vào bầy dê, trên mùi có tân, đó gọi là quan không hiện.
Trừu bất trừu chi tự (gỡ hay không gỡ đầu mối), như dương khí sanh ra ở tý vượng ở mão và kết thúc ở ngọ, còn âm khí thì sanh ở ngọ, vượng ở dậu và kết thúc ở tý, dương sanh thì âm tử, âm biến thì dương hoá, tý ngọ chính là âm dương bắt đầu hoá sanh, và sự kết thúc là vô tận. Âm cực (âm đến tận cùng) thì dương sanh, dương cực thì âm sanh, khí khởi đầu trong tý ngọ, phu giáp (phu giáp 孚甲 nứt nanh, nghĩa là cây cỏ nở ra hạt, ra lá) tiếng trục bánh xe phát ra, ra vào không ngừng, qua lại không cùng tận, như mối tơ liên tục không ngừng, ý nghĩa ngàn đời không đứt đoạn.
"Thái Huyền" nói rằng: hình thể hiện không hiện, đầu mối kéo ra hay không kéo ra, chính là ngày dời đổi tháng biến đổi, nóng đi thì lạnh tới, hưng phế thay thế nhau, hưu vượng liên tiếp nhau, một cái rõ rệt một cái tối tăm, một cái co lại, một cái kéo ra, ổn định luôn tồn tại, không lúc nào không có. Bởi âm dương ngũ hành, hiện hay không hiện, kéo ra hay không kéo ra, lý của nó huyền diệu, cơ hội phát tiết, không vật nào không có, không lúc nào không vậy, khởi đầu từ trời đất và người mà đền, chỉ thế thôi, nên chợt hiểu là như thế nào.
Thị dĩ Hà Công cụ kì thất sát, Tuyên Phụ úy kì nguyên thần. Nga Mi xiển dĩ tam sanh, vô toàn sĩ thứ; Quỷ Cốc bá kì cửu mệnh, ước dĩ tinh quan. Kim tập chư gia chi yếu, phát kì thiên kiến chi năng, thị dĩ vị giải khúc thông, diệu tu thần ngộ.
(Là vì Hà Công sợ thất sát, Tuyên Phụ sợ nguyên thần. Nga Mi mở rộng về tam sanh, không có đủ người có học và thường dân; Quỷ Cốc truyền bá cửu mệnh, đại khái để quan sát các ngôi sao. Hôm nay tập hợp sự quan trọng của các trường phái, hiện ra khả năng ý kiến thiên lệch, là vì chưa giải thích được những khúc khuỷu, huyền nhiệm phải giác ngộ).
Nguyên thần, thất sát là những sát rất hung. Mệnh thừa thụ ngũ hành, ai có thể thoát khỏi những rắc rối này? Thánh hiền đời thượng cổ, như công tước trên sông, tiên trên dòng chảy; Văn Tuyên Vương đạt đến bậc thánh, sao lại sợ hai sát này, huống chi người thấp kém hơn thì sao? Vì thế viết sách giúp đời, tốt xấu hoạ phúc, báo cho biết lúc chưa nẩy mầm. Nga Mi Tiên mở rộng về tam mệnh, chẳng phải không sáng tỏ; Quỷ Cốc Tử truyền bá cửu mệnh của ông chẳng phải không thông suốt. Chỉ Trần Huyền Ngôn là ẩn kín thâm sau khó lường, cho nên nói rằng đại khái quan sát các ngôi sao thì không có đủ người có học và dân thường. Tam sanh là lộc, mệnh và thân. Cửu mệnh gồm hai cung thân và mệnh, hai chỗ lộc và mã, năm thai và tháng khi sanh, và ngày giờ. Lạc Lục Tử đã nghiên cứu những quan trọng của các trường phái, lược bỏ những định kiến của họ, chỉ khai mở những ý kiến tâm đắc, sáng tác bài này để giải thích ý nghĩa huyền nhiệm, thông suốt ẩn khúc điềm triệu kỳ diệu, ở các học giả sẽ giác ngộ mà biến thông, đúng là điều tốt vậy.
Link đến bản tiếng Hoa:
消息赋一
(珞琭子着,育吾子解)
元一气兮先天,禀清浊兮自然。着三才以成象,播四气以为年。
(以原造化之始,三命之所由生也。三命以干为禄,谓之天元;以支为命,谓之人元;以纳音为身,谓之地元。此古人窥见造化,所以法天地而体阴阳,配四柱而成八字。此珞琭子首言之义也。)
以干为禄,向背定其贫富;以支为命,详逆顺以循环。
(干犹木之干,支犹木之枝。统言之,干阳而支阴也;分言之,干支各有阴阳也。十干之禄,寄十二支中,阳道顺行,阴道逆转,皆自长生而数,遇本音临官以寓焉。此阳生阴死、阴生阳死、自然之理也。
以干为禄而推之,则有向背。如甲禄在寅,遇丑则谓之向,见卯则谓之背。故禄前一辰日羊刃,禄後一辰曰禄库。《经》云:向禄则生,背禄则死。此所谓向背定其贫富者与!以支为命而详之,则有逆顺。如阳男阴女,从生月顺行;阴男阳女,从生月逆行。人禀受阴阳逆顺之气,在乎支干之中,周而复始,往来回圈,如寒暑之运四时而无穷者也。故曰,以支为命,详逆顺以回圈。
昙莹曰:干禄推之有向背,吉凶究之有浅深。背而逆者,可定其贫;向而顺者,以知其富。然而不在一途取轨,亦有逢背禄而不贫。於是支作人元,运商徒而得失,男迎女送,否泰交居,会吉会凶,作用定矣。)
运行则一辰十岁;折除乃三日为年。
精休旺以为妙,穷通变以为玄。
(先言干支,则八字定矣。行运乃三命之最要者故首举其法,以示人焉。运行则一辰十载;折除乃三日为年。此古人立运之法也。折除要明实历之数,命有节气浅深不同,运有就生就节互异,中间或休或旺,要与八字符协。有喜生旺而恶休败,有宜休败而嫌生旺,千变万化,非达玄通幽消息,以尽造化之妙,其孰能与於斯?故曰:化而裁之谓之变,推而行之谓之通,通变之理得矣。吉凶之义存焉,故能为妙为元,尽善尽美。)
其为气也,将来者进,成功者退。如蛇在灰、如鳝在尘。
(气、五行之气也,播於四时。如春则木旺、火相、土死、金囚、水休,迎之以临官、帝旺,将来者进;背之以休废、死绝,成功者退。五行之气,回圈进退,人之行运,每居一辰,相者既进,旺者则退,当权者用之为福,不当权者用之无益。若五行气过则退,蛇鳝皆属火类,火至囚死为土,休废为灰。巳中三兽,为蛇、为鳝、为蚓,故知蛇鳝为火,至囚死休废,则在尘在灰是土进而火退也。
莹和尚曰:鳝蚓为水土之属,居尘必忧。腾蛇乃灰火之神,处灰为乐。方以类聚,物以群分,顺其所欲则吉;乖其所趋则凶,即物可以观造化也。人之行运,虽同一宫,而气有进退,所处不异;而命有生死,见其不可不精休旺、穷通变也。此说得之。)
其为有也,是从无而立有;其为无也,天垂象以示文。
(此正明五行之气,是从无而立有,故借天象五星以明之。盖播物之初,孰为之有?太极之後,谁为之无,有出於无,无生於有。在天成象,在地成形,变化见矣。)
其为常也,立仁立义;其为事也,或见或闻。
(五行,在天为五星,在地为五岳,在人为五脏,推而行之,则为五常,常有可久之道。《易》曰:立天之道,曰阴与阳;立地之道,曰柔与刚;立人之道,曰仁与义。人之道,非仁与义。则不能立也。《书》曰:二五事,一曰貌,二曰言,三曰视,四曰听,五曰思。五常、五事,皆五行之变化,与人事相通。人之性情去就,见闻动静,皆不逃乎此数。
或见或闻,如金木水火土则见,而宫商角徵羽则闻;貌言视听思则见,而肃又哲谋圣则闻。盖五行之用,至不可胜穷,非因机明智之士,孰能精察而默识之哉?)
崇为宝也,奇为贵也。将星扶德,天乙加临;
本主休囚,行藏汨没。
(崇者,卑之反。奇者,偶之对。物以积而高,高之为崇,在五行,上生下是也。物以无与耦之为奇;在五行异而乃群是也。将星,月将也。德、天、月德也。天乙,贵神也。
生年为本,生日为主,休囚对生旺言。人命年、月、日、时,四柱有五行,上生下。有三奇,乙丙丁。更带将星,德贵。主本生旺得地,所谓吉将交临,而福臻成庆,此为至贵之命。“赋”先言崇奇为宝贵,後言主本忌休囚,见崇奇为难遇,以主本为切要,而诸方神煞则次而言之。是知命以五行为先,生旺为上,将星德贵又神煞之最吉者矣。
徐曰:崇以主本言,凡命中掌寿掌财掌灾福之辰,亦谓之崇。奇以禄马言,凡命中财官印食,亦谓之奇。德者日支德,辰,即六合也。如壬寅年、庚戌月,癸卯日,乙卯时,九月将在卯,扶其生日;五行九月金土六合,卯戌合,乙庚合,戊癸合。如此五行,各不居休败之地、则贵。似非赋义。)
至若勾陈得位,不亏小信以成仁;真武当权,知是大才而分瑞。
(此举水土,以例其余。勾陈为土之将,其於常也为信。真武乃水之神,其於常也为智。信也者,足以达於圣;智也者,足以撰其道。五行之用、独善於兹。得位者,戊己生七月,母在子乡、当权者,壬癸生七月,子居母家。二物同源、俱生於申故也。徐以戊己坐临寅卯、并亥卯未;壬癸坐临午巳,及辰戌丑未,下有官印、禄马、旺相库墓,为得位当权,似与联义有背。不若只以土生四季,水遇三冬为是。)
不仁不义,庚辛与甲乙交差;或是或非,壬癸与丙丁相畏。
(上言当权得位,则不交差,不相畏也。若甲见庚,乙见辛,丙见壬,丁见癸,犹二女同居,两男并处,阴阳不合,不成庆也。庚辛主义,甲乙主仁,以交差,故不仁不义。丙丁主礼,壬癸主智,以相畏,故或是或非。
若庚合於乙,辛合於甲,则刚柔相乘,仁义兼济,非交差也。若丙见癸官,丁合壬禄,则阴阳相配,水火既济,非相畏也。或以甲申、乙酉为不仁,庚寅、辛卯为不义,缘寅申庚申之交差,卯酉乙辛之暗战;丙遇壬,则丙非壬是;丁逢癸,则癸是丁非、子午同然,巳亥一致。凡十遇此一辰,始可言之。)
故有先贤谦己,处俗求仙。崇释则离官修定;归道乃水府求玄。
(仁义在乖於得失,是非常绊於荣枯,於是日用不知,曾无休息,故有先贤谦己,处俗求仙,割爱少私寡欲。或崇释以灭心之火,或归道以益肾之精,内守精神,外除幻妄,达物我非有,明色空究竟者,莫非是也。)
是知五行通道,取用多门。理於贤人,乱於不肖。成於妙用,败於不能。
(道无乎不在,物无乎非道,五行变化,通乎大道,何所不该,其取用不一,故谓多门。如识者取之以修定,仙者取之则求元。自非顿悟之士,岂能与此?是故贤者得之,能穷理尽性,达五行之妙用;愚者失之,终亦自昧,而无所得。能者养之以取福,不能者败之以取祸。《易》曰:苟非其人,道不虚行。)
见不见之形,无时不有;抽不抽之绪,万古联绵。
(见不见之形,如十干禄寄十二支,有见不见之形存焉。
甲禄寅,寅为显见之禄;不见寅而见戌,以五子元遁至戌见甲戌,成为甲之禄堂,此所谓不见之禄。
甲以辛为官,辛禄酉,甲受金鸡酉,为明见之官;不见酉而见未,以天官遁甲入羊群,未上有辛,此所谓不见之官。
抽不抽之绪,如阳气生子旺卯终午,阴气生午旺酉终子,阳生则阴死,阴变则阳化,子午乃阴阳化生之始,终无极也。阴极则阳生,阳机则阴生,气自子午中,孚甲抽轧而出,出入无间,往来不穷,如丝绪之联绵,万古不断之义。
《太玄》云:见不见之形,抽不抽之绪,则日迁月变,暑往寒来,代废代兴,更休更旺,一显一晦,一缩一抽,绵绵常存,无时不有。盖阴阳五行,有见不见,有抽不抽,其理玄妙,其机发泄,无物不有,无时不然,自有天地人以来,便如此,要顿悟何如。)
是以河公惧其七煞,宣父畏其元辰。峨眉阐以三生,无全士庶;鬼谷播其九命,约以星观。今集诸家之要,发其偏见之能,是以未解曲通,妙须神悟。
(元辰七煞,煞之最凶。命禀五行,斯患孰逃?上古圣贤,如河上公,仙之流也;文宣王,圣之至也,犹惧是二者,况其下乎?於是着书济世,吉凶祸福,告在未萌。峨眉仙阐以三生,非不精也;鬼谷子播其九命,非不通也。指陈玄言、幽奥难测,故云,约以星观,无全士庶。三生,禄命身也。九命、身命两宫,禄马二位,生年胎月、日、时也。路碌子参集诸家之要旨,略其偏见之能,独发心得之见,着为是文,大解玄义,曲通妙机,在学者神悟而变通之,斯为善矣。)
.
tiêu tức phú nhất
(Lạc Lục Tử soạn, Dục Ngô Tử phân tích).
Nguyên nhất khí hề tiên thiên, bẩm thanh trọc hề tự nhiên. Trứ tam tài dĩ thành tượng, bá tứ khí dĩ vi niên.
(Ban đầu nguyên khí trong vũ trụ là tiên thiên, bản chất trong đục là tự nhiên. Hiển lộ tam tài để thành tượng, chia ra tứ khí để làm năm).
Khi mới bắt đầu tạo hoá (chỉ tự nhiên giới tạo ra muôn vật), ba mệnh đã được sanh ra. Ba mệnh lấy thiên can làm lộc, gọi là thiên nguyên; lấy địa chi làm mệnh gọi là nhân nguyên; lấy nạp âm làm thân gọi là đại nguyên. Đó là người xưa nhìn thấy tạo hoá, vì thế bắt chước trời dất làm thể âm dương, kết hợp với tứ trụ làm thành bát tự. Đo là lời nói đầu của Lạc Lục Tử.
Dĩ can vi lộc, hướng bối định kì bần phú; dĩ chi vi mệnh, tường nghịch thuận dĩ tuần hoàn.
(Lấy thiên can làm lộc, hướng về hay ở phía sau mà định nghèo giàu; lấy địa chi làm mệnh, biết rõ thuận nghịch theo vòng tuần hoàn).
Thiên can giống như thân cây, địa chi giống như cành cây. Nói chung can là dương mà chi là âm; nói cách khác, can chi mỗi thứ đều âm dương. Lộc của mười thiên can gửi ở trong mười hai địa chi, dương đạo đi thuận, còn âm đạo thì chuyển nghịch, đều theo quy tắc từ chỗ trường sanh, gặp lâm quan của mình là chỗ trú ngụ. Đó là dương sanh âm tử, âm tử dương sanh, cái lý tự nhiên vậy.
Lấy thiên can làm lộc mà suy xét sẽ có hướng (hướng về) bối (bỏ lại phía sau). Như giáp lộc ở dần, gặp sửu sẽ là hướng, thấy mão sẽ là bối. Cho nên trước lộc một thần gọi là dương nhận, sau lộc một thần gọi là lộc khố. "Sách" nói rằng: hướng về lộc thì sanh, bỏ lộc ở phía sau thì chết. Đó gọi là hướng bối định kỳ bần phú (định giàu nghèo theo hướng về hay bỏ lại sau lưng)! Lấy địa chi làm mệnh nên hiểu rõ có thuận nghịch. Như dương nam âm nữ thuận theo tháng sanh mà đi thuận; còn âm nam dương nữ thuận theo tháng sanh mà đi nghịch. Con người được trời phú cho khí âm dương thuận nghịch, ở trong địa chi thiên can, đi quanh lại bắt đầu, qua lại trong vòng tròn, như vận nóng lạnh của bốn mùa không cùng tận. Vì thế nói lấy địa chi làm mệnh, hiểu rõ vòng tròn thuận nghịch.
Đàm Oánh nói: can lộc tìm cho ra hướng bối, tốt xấu nghiên cứu có nông sâu. Bối là nghịch, có thể định là nghèo; hướng là thuận biết nó là giàu. Tuy nhiên nếu không đi theo con đường đã chọn, cũng có trường hợp gặp bối lộc (bỏ lộc lại ở phía sau) mà không nghèo. Vì thế địa chi là nhân nguyên, người đi buôn được mất, nam đón nữ tiễn, coi như tiếp cận vận xấu hay vận tốt, gặp tốt hay gặp xấu, dụng thần được xác định.
Vận hành tắc nhất thần thập tuế; chiết trừ nãi tam nhật vi niên.
Tinh hưu vượng dĩ vi diệu, cùng thông biến dĩ vi huyền.
(Vận đi thì một thần là mười năm, chia ra là ba ngày bằng một năm.
Tinh chất hưu vượng là điều kỳ diệu, cùng khốn và hiển đạt biến đổi là mầu nhiệm).
Trước nói về thiên can và địa chi, thì bát tự được xác định. Đi vận chính là điều rất quan trọng của ba mệnh cho nên phương pháp nêu ra đầu tiên để báo cho con người biết. Vận đi thì một thần chuyên chở mười năm; phân ra là ba ngày bằng một năm. Đó là cách người xưa lập vận. Phân chia phải rõ ràng đúng với số ngày thật sự trải qua, mệnh có tiết khí nông sâu không giống nhau, vận có tới sanh hay tới hạn chế hỗ trợ khác nhau, trong đó có thể nghĩ ngơi, có thể thịnh vượng, cần phải phù hợp với bát tự. Có trường hợp mừng sanh vượng mà ghét hưu bại, có trường hợp nên hưu bại mà ghét sanh vượng, rất nhiều biến hoá, không đạt được thông tin sâu kín của đạo lý huyền nhiệm, để hiểu tận cùng sự kỳ diệu của tạo hoá, ai có thể sánh với điều đó? Cho nên nói: hoá (biến đổi) mà giảm bớt nên gọi là biến (thay đổi), suy rộng và thực hành nên gọi là thông (thuận lợi), đúng lý thay đổi thuận lợi. Ý nghĩa tốt xấu tồn tại, cho nên có thể là vốn là kỳ diệu, thật tốt đẹp và hoàn hảo.
Kỳ vi khí dã, tương lai giả tiến, thành công giả thối. Như xà tại hôi, như thiện tại trần.
(Đó là khí, sắp đến là tiến, thành công thì rút lui. Như con rắn ở nơi tro, con lươn ở nơi bụi).
Khí là khí của ngũ hành, lan toả trong bốn mùa. Như mùa xuân mộc vượng, hoả tướng, thổ tử, kim tù, thuỷ hưu, nghênh đón là lâm quan, đế vượng, sắp đến là tiến; bỏ lại phía sau là hưu phế, tử tuyệt, thành công thì rút lui. Khí của ngũ hành tiến thối trong vòng tròn, hành vận của con người, mỗi vận là một thần (địa chi), tướng là tiến , vượng sẽ thối lui, đang nắm quyền là phúc của dụng, không đang nắm quyền dụng chỉ vô ích. Nếu khí của ngũ hành đã qua thì thối lui, rắn lươn đều thuộc loài hoả, hoả đến tù tử là thổ, hưu phế là tro. Ba con vật trong tỵ là con rắn, con lươn, con giun đất, cho nên biết rắn lươn là hoả, đến tù tử hưu phế tức là ở nơi bụi, nơi tro là hoả tiến mà hoả thì thối lui vậy.
Oánh Hoà Thượng nói: con lươn, con giun đất thì thuộc về thuỷ thổ, chỗ bụi bặm sẽ buồn rầu. Đằng xà chính là thần của hôi hoả (tro), vui thích chỗ tro. Nơi chốn thì theo loại tụ hợp, còn vật thì phân chia theo nhóm, nương theo kỳ vọng của mình thì tốt; trái ngược chỗ nhắm tới của mình thì xấu, tức là vật có thể để quan sát hạnh vận vậy. Hành vận của con người tuy cùng ở một cung, nhưng khí thì có tiến thối, vị trí không khác; nhưng mệnh có sống chết, gặp nó không thể không biết rõ hưu hay vượng, cùng khốn và hiển đạt có thay đổi vậy. Đó là ý nghĩa của thuyết này.
Kỳ vi hữu dã, thị tòng vô nhi lập hữu; kỳ vi vô dã, thiên thùy tượng dĩ thị văn.
(Nó là có, là thuận theo không có mà tạo thành có; nó là không có, hình ảnh của bầu trời hạ thấp xuống để biểu thị).
Đấy là khí của ngũ hành ngay ngắn rõ ràng, là thuận theo không có mà làm thành có, cho nên mượn hình ảnh năm ngôi sao trên bầu trời để làm rõ. Bởi ban đầu của vật lan toả, ai biết là có? Sau thái cực, ai biết là không có, có đến từ không có, không có sanh ra từ có. Ở trên trời thành tượng, ở dưới đất thành hình, biến hoá tỏ rõ vậy.
Kỳ vi thường dã, lập nhân lập nghĩa; kỳ vi sự dã, hoặc kiến hoặc văn.
(Nó là thường, lập thành nhân lập thành nghĩa; nó là sự, có thể thấy có thể nghe).
Ngũ hành: ở trên trời là năm ngôi sao, ở dưới đất là năm ngọn núi cao (Ngũ Nhạc 五岳 năm núi Nhạc: Tung Sơn 嵩山, Thái Sơn 泰山, Hoa Sơn 華山, Hành Sơn 衡山, Hằng Sơn 恆山), ở con người là ngũ tạng (tim, gan, dạ dày, phổi và thận), thúc đẩy và thực hiện sẽ là ngũ thường (gồm có: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín - nghĩa là năm đạo của người lúc nào cũng phải có, không thể thiếu được), thường có đạo có thể lâu dài. "Dịch" nói: đạo lập thiên gọi âm với dương; đạo lập địa gọi nhu với cương; đạo lập nhân gọi nhân với nghĩa. Đạo của con người không phải nhân với nghĩa thì không thể lập được. "Thư" nói: có hai dạng ngũ sự: một nói mạo (dáng vẻ bên ngoài), hai nói ngôn (lời nói), ba nói thị (nhìn thấy), bốn nói thính (lắng nghe), năm nói tư (suy nghĩ). Ngũ thường, ngũ sự đều là biến hoá của ngũ hành, cùng với nhân sự tương thông. Tính tình của con người bỏ đi hay tới theo, thấy nghe động tĩnh đều không tránh khỏi những quy tắc này.
Có thể thấy, có thể nghe, như kim mộc thuỷ hoả thổ thì thấy, nhưng cung thương giác chuỷ vũ thì nghe; mạo, ngôn thị thính tư thì thấy, nhưng túc (cung kính) hựu (có ý nhấn mạnh) triết (thông minh) mưu (toan tính) thánh (sáng suốt) thì nghe. Bởi hiệu quả của ngũ hành, không thể vượt qua triệt để, người không có khôn ngoan do ngẫu nhiên, ai có thể quan sát cẩn thận và hiểu biết thầm lặng?
Sùng vi bảo dã, kì vi quý dã. Tướng tinh phù đức, thiên ất gia lâm; bổn chủ hưu tù, hành tàng mịch một.
(Sùng là bảo, đặc biệt là quý. Tướng tinh hỗ trợ đức, thêm thiên ất đến; bổn chủ hưu tù, hành tàng mịch một).
Sùng (người có đức cao, ở địa vị tôn quý): đối nghịch với ty (hèn hạ). Kỳ (kỳ lạ, đặc biệt): đối nghịch với ngẫu (tình cờ). Vật cao do tích luỹ, mà cao thì được tôn trọng, ở ngũ hành trên sanh dưới là vậy. Vật không có giúp đỡ ngẫu nhiên là kỳ lạ; ở ngũ hành khác nhau nhưng lại thành nhóm. Tướng tinh là nguyệt tướng, đức là thiên nguyệt đức. Thiên ất là quý thần.
Năm sanh là bổn (gốc), ngày sanh là chủ, hưu tù đối với sanh vượng khi bàn luận. Mệnh người gồm năm tháng ngày giờ, tứ trụ có ngũ hành, trên sanh dưới. Có tam kỳ là ất bính đinh. Có thêm tướng tinh, đức quý. Chủ (ngày) bổn (năm) sanh vượng đắc địa, gọi là cát tướng tiếp cận, nên phúc lành đến chỗ vui mừng, đó là mệnh có địa vị cao quý. "Phú" trước tiên nói sùng kỳ (coi trọng điều kỳ lạ) là bảo quý (quý báu), sau nói là chủ (ngày) và bổn (năm) kỵ hưu tù, sùng kỳ hiện thì khó gặp, vì chủ (ngày) và bổn (năm) là cấp thiết và trọng yếu, nhưng thần sát các nơi chỉ là thứ yếu. Nghĩa là hiểu mệnh theo ngũ hành là trước tiên, sanh vượng là tốt nhất, tướng tinh, đức, quý lại là thần sát rất tốt vậy.
Từ nói: sùng theo chủ (ngày) và bổn (năm) mà nói, hễ trong mệnh có thần quản lý tuổi thọ, tiền của, hoạ phúc, cũng gọi là sùng. Kỳ là nói đền lộc mã, hễ trong mệnh có tài quan ấn thực thần cũng gọi là kỳ. Đức là đức của ngày, thần tức là lục hợp vậy. Như năm nhâm dần tháng canh tuất ngày quý mão giờ ất mão, tháng chín nguyệt tướng ở mão, giúp đỡ ngày sanh của mình; ngũ hành tháng chín kim thổ lục hợp, mão tuất hợp, ất canh hợp, mậu quý hợp. Ngũ hành như thế, mỗi hành không ở đất hưu bại, sẽ quý. Giống như không có ý nghĩa.
Chí nhược câu trần đắc vị, bất khuy tiểu tín dĩ thành nhân; chân vũ đương quyền, tri thị đại tài nhi phân thụy.
(Nếu câu trần đắc vị, nhân từ mà không mất niềm tin; chân vũ nắm quyền, biết là tài lớn và cát tường rõ ràng).
Đây là nêu ra thuỷ thổ, để làm thí dụ cho các hành còn lại. Câu trận là tướng của thổ, đạo lý của mình là tín (lòng thành thực). Chân vũ chính là thuỷ thần, đạo lý của nó là trí (trí tuệ). Người có đức tin, đủ để đạt đến bậc thánh; người có trí tuệ, đủ để sáng tác theo cách của mình. Hiệu quả của ngũ hành, độc đáo ở chỗ này. Đắc vị là mậu kỷ sanh tháng bảy, mẹ ở nơi của con, đang nắm quyền, nhâm quý sanh tháng bảy con ở nhà mẹ. Hai thứ cùng nguồn gốc, đều sanh ở thân. Từ lấy mậu kỷ ngồi ở dần mão, cùng hợi mão mùi; nhâm quý ngồi ở ngọ tỵ cùng với thìn tuất sửu mùi, dưới có quan ấn, lộc mã, vượng tướng mộ khố là đắc vị đang nắm quyền, dường như trái ngược với ý nghĩa kết hợp. Không như chỉ lấy thổ sanh ở bốn tháng cuối mùa, hay thuỷ gặp ba tháng mùa đông.
Bất nhân bất nghĩa, canh tân dữ giáp ất giao sai; hoặc thị hoặc phi, nhâm quý dữ bính đinh tương úy.
(Không nhân từ không đạo lý, canh tân với giáp ất xung đột nhau; có thể đúng có thể sai, nhâm quý với bính đinh oán ghét nhau).
Ở trên nói về đang nắm quyền đắc vị, sẽ không xung đột nhau, không oán ghét nhau. Nếu giáp thấy canh, ất thấy tân, bính thấy nhâm, đinh thấy quý giống như hai cô gái ở chung, cả hai nam cùng chung một chỗ, nên âm dương không hợp, không thành việc vui mừng. Canh tân chủ về nghĩa (đạo lý), giáp ất chủ về nhân (nhân từ), vì xung đột cho nên không nhân từ cũng không đạo lý. Bính đinh chủ lễ (phép tắc), nhâm quý chủ trí (trí tuệ), vì oán ghét nhau, cho nên có thể đúng có thể sai.
Nếu canh hợp với ất, tân hợp với giáp, thì cương nhu lợi dụng nhau, nhân nghĩa cùng lúc giúp nhau, không xung đột vậy. Nếu bính thấy quy quan, đinh hợp nhâm lộc thì âm dương hoà hợp nhau, thuỷ hoả cùng có lợi, không oán ghét nhau vậy. Có thể vì giáp thân, ất dậu là không nhân từ, canh dần, tân mão là không đạo lý, lý do xung đột của dần thân canh giáp, ngầm đánh nhau của mão dậu ất dậu; bính gặp nhâm thì bính sai nhâm đúng; đinh gặp quý thì quysai đinh đúng, tý ngọ cũng vậy, tỵ hợi như nhau. Hễ hoàn toàn gặp khoảnh khắc này, bắt đầu có thể nói được.
Cố hữu tiên hiền khiêm kỷ, xứ tục cầu tiên. Sùng thích tắc li quan tu định; quy đạo nãi thủy phủ cầu huyền.
(Nguyên nhân bậc tài đức thời xưa nhún nhường, tìm tiên nơi thế tục. Sùng bái Thích Ca sẽ từ quan để tu thiền; trở về với đạo chính tìm huyền bí ở thuỷ phủ).
Nhân và nghĩa ở việc vâng phục được mất, đúng sai thường bị ngăn trở bởi tươi tốt và khô héo, do đó không biết sử dụng ngày thế nào, từng không được yên nghĩ, cho nên bậc tài đức thời xưa nhún nhường, tìm tiên nơi thế tục, cát ái (đem cái mình yêu quý nhường cho người khác) ít ham muốn ích kỷ. Có thể tôn kính Thích Ca để diệt hoả trong lòng, có thể trở về với đạo để ích lợi tinh khí của thận, canh giữ tinh thần bên trong, trừ bỏ ảo tưởng bên ngoài, tôi không có gì để đạt được, rốt cuộc màu sắc rõ ràng trống rỗng, chớ không phải đúng với sai.
Thị tri ngũ hành thông đạo, thủ dụng đa môn. Lý ư hiền nhân, loạn ư bất tiếu. Thành ư diệu dụng, bại ư bất năng.
(Là biết lối đi của ngũ hành, chọn dùng nhiều cửa. Lý trí ở người tài năng, hỗn loạn ở phẩm hạnh không tốt. Thành công ở hiệu ứng kỳ diệu, thất bại ở không bản lãnh).
Đạo không có chẳng sao, vật không ở không phải đạo, ngũ hành biến hoá, thông suốt ở đạo lớn, chỗ nào không đến lượt, chọn dùng không giống nhau, cho nên gọi là đa môn (nhiều cửa). Như người hiểu biết chọn lấy phép tu thiền, người siêu thoát trần tục chọn lấy để tìm kiếm bản chất. Tự mình không phải là người đốn ngộ (chợt hiểu ra), làm sao có thể tán thành điều này? Vì thế người tài đức được vậy, có thể hết sức nỗ lực để tìm tòi nguyên lý sự vật, đạt được diệu dụng của ngũ hành; còn người ng* d*t thì lầm lỡ, cuối cùng cũng tự tối tăm, mà không thu được gì. Người có tài nuôi dưỡng để chọn phúc, người không có tài thì thất bại để gặp hoạ. "Dịch" nói: nếu không phải con người của mình, sẽ không thực đạo một cách vô ích.
Hiện bất hiện chi hình, vô thì bất hữu; trừu bất trừu chi tự, vạn cổ liên miên.
(Hình thể hiện hay không hiện, không lúc nào không có; đầu mối kéo ra hay không kéo, ngàn đời liên tục không ngừng).
Hình thể hiện hay không hiện, như mười can lộc gửi ở mười hai địa chi, có hiện hay không hiện thật sự tồn tại không?
Giáp lộc ở dần, dần là lộc hiện rõ rệt; không thấy dần mà thấy tuất, lấy ngũ tý nguyên (giáp tý) độn đến tuất gặp giáp tuất, trở thành lộc đường của giáp, đó gọi là lộc không hiện.
Giáp lấy tân làm quan, tân lộc ở dậu, giáp nhận được gà vàng hay dậu là quan hiện rõ ràng; không thấy dậu mà thấy mùi, lấy thiên quan (là một trong tam quan 三官 trong đạo giáo, gồm có: thiên quan 天官, địa quan 地官, thủy quan 水官) độn giáp nhập vào bầy dê, trên mùi có tân, đó gọi là quan không hiện.
Trừu bất trừu chi tự (gỡ hay không gỡ đầu mối), như dương khí sanh ra ở tý vượng ở mão và kết thúc ở ngọ, còn âm khí thì sanh ở ngọ, vượng ở dậu và kết thúc ở tý, dương sanh thì âm tử, âm biến thì dương hoá, tý ngọ chính là âm dương bắt đầu hoá sanh, và sự kết thúc là vô tận. Âm cực (âm đến tận cùng) thì dương sanh, dương cực thì âm sanh, khí khởi đầu trong tý ngọ, phu giáp (phu giáp 孚甲 nứt nanh, nghĩa là cây cỏ nở ra hạt, ra lá) tiếng trục bánh xe phát ra, ra vào không ngừng, qua lại không cùng tận, như mối tơ liên tục không ngừng, ý nghĩa ngàn đời không đứt đoạn.
"Thái Huyền" nói rằng: hình thể hiện không hiện, đầu mối kéo ra hay không kéo ra, chính là ngày dời đổi tháng biến đổi, nóng đi thì lạnh tới, hưng phế thay thế nhau, hưu vượng liên tiếp nhau, một cái rõ rệt một cái tối tăm, một cái co lại, một cái kéo ra, ổn định luôn tồn tại, không lúc nào không có. Bởi âm dương ngũ hành, hiện hay không hiện, kéo ra hay không kéo ra, lý của nó huyền diệu, cơ hội phát tiết, không vật nào không có, không lúc nào không vậy, khởi đầu từ trời đất và người mà đền, chỉ thế thôi, nên chợt hiểu là như thế nào.
Thị dĩ Hà Công cụ kì thất sát, Tuyên Phụ úy kì nguyên thần. Nga Mi xiển dĩ tam sanh, vô toàn sĩ thứ; Quỷ Cốc bá kì cửu mệnh, ước dĩ tinh quan. Kim tập chư gia chi yếu, phát kì thiên kiến chi năng, thị dĩ vị giải khúc thông, diệu tu thần ngộ.
(Là vì Hà Công sợ thất sát, Tuyên Phụ sợ nguyên thần. Nga Mi mở rộng về tam sanh, không có đủ người có học và thường dân; Quỷ Cốc truyền bá cửu mệnh, đại khái để quan sát các ngôi sao. Hôm nay tập hợp sự quan trọng của các trường phái, hiện ra khả năng ý kiến thiên lệch, là vì chưa giải thích được những khúc khuỷu, huyền nhiệm phải giác ngộ).
Nguyên thần, thất sát là những sát rất hung. Mệnh thừa thụ ngũ hành, ai có thể thoát khỏi những rắc rối này? Thánh hiền đời thượng cổ, như công tước trên sông, tiên trên dòng chảy; Văn Tuyên Vương đạt đến bậc thánh, sao lại sợ hai sát này, huống chi người thấp kém hơn thì sao? Vì thế viết sách giúp đời, tốt xấu hoạ phúc, báo cho biết lúc chưa nẩy mầm. Nga Mi Tiên mở rộng về tam mệnh, chẳng phải không sáng tỏ; Quỷ Cốc Tử truyền bá cửu mệnh của ông chẳng phải không thông suốt. Chỉ Trần Huyền Ngôn là ẩn kín thâm sau khó lường, cho nên nói rằng đại khái quan sát các ngôi sao thì không có đủ người có học và dân thường. Tam sanh là lộc, mệnh và thân. Cửu mệnh gồm hai cung thân và mệnh, hai chỗ lộc và mã, năm thai và tháng khi sanh, và ngày giờ. Lạc Lục Tử đã nghiên cứu những quan trọng của các trường phái, lược bỏ những định kiến của họ, chỉ khai mở những ý kiến tâm đắc, sáng tác bài này để giải thích ý nghĩa huyền nhiệm, thông suốt ẩn khúc điềm triệu kỳ diệu, ở các học giả sẽ giác ngộ mà biến thông, đúng là điều tốt vậy.
Link đến bản tiếng Hoa:
消息赋一
(珞琭子着,育吾子解)
元一气兮先天,禀清浊兮自然。着三才以成象,播四气以为年。
(以原造化之始,三命之所由生也。三命以干为禄,谓之天元;以支为命,谓之人元;以纳音为身,谓之地元。此古人窥见造化,所以法天地而体阴阳,配四柱而成八字。此珞琭子首言之义也。)
以干为禄,向背定其贫富;以支为命,详逆顺以循环。
(干犹木之干,支犹木之枝。统言之,干阳而支阴也;分言之,干支各有阴阳也。十干之禄,寄十二支中,阳道顺行,阴道逆转,皆自长生而数,遇本音临官以寓焉。此阳生阴死、阴生阳死、自然之理也。
以干为禄而推之,则有向背。如甲禄在寅,遇丑则谓之向,见卯则谓之背。故禄前一辰日羊刃,禄後一辰曰禄库。《经》云:向禄则生,背禄则死。此所谓向背定其贫富者与!以支为命而详之,则有逆顺。如阳男阴女,从生月顺行;阴男阳女,从生月逆行。人禀受阴阳逆顺之气,在乎支干之中,周而复始,往来回圈,如寒暑之运四时而无穷者也。故曰,以支为命,详逆顺以回圈。
昙莹曰:干禄推之有向背,吉凶究之有浅深。背而逆者,可定其贫;向而顺者,以知其富。然而不在一途取轨,亦有逢背禄而不贫。於是支作人元,运商徒而得失,男迎女送,否泰交居,会吉会凶,作用定矣。)
运行则一辰十岁;折除乃三日为年。
精休旺以为妙,穷通变以为玄。
(先言干支,则八字定矣。行运乃三命之最要者故首举其法,以示人焉。运行则一辰十载;折除乃三日为年。此古人立运之法也。折除要明实历之数,命有节气浅深不同,运有就生就节互异,中间或休或旺,要与八字符协。有喜生旺而恶休败,有宜休败而嫌生旺,千变万化,非达玄通幽消息,以尽造化之妙,其孰能与於斯?故曰:化而裁之谓之变,推而行之谓之通,通变之理得矣。吉凶之义存焉,故能为妙为元,尽善尽美。)
其为气也,将来者进,成功者退。如蛇在灰、如鳝在尘。
(气、五行之气也,播於四时。如春则木旺、火相、土死、金囚、水休,迎之以临官、帝旺,将来者进;背之以休废、死绝,成功者退。五行之气,回圈进退,人之行运,每居一辰,相者既进,旺者则退,当权者用之为福,不当权者用之无益。若五行气过则退,蛇鳝皆属火类,火至囚死为土,休废为灰。巳中三兽,为蛇、为鳝、为蚓,故知蛇鳝为火,至囚死休废,则在尘在灰是土进而火退也。
莹和尚曰:鳝蚓为水土之属,居尘必忧。腾蛇乃灰火之神,处灰为乐。方以类聚,物以群分,顺其所欲则吉;乖其所趋则凶,即物可以观造化也。人之行运,虽同一宫,而气有进退,所处不异;而命有生死,见其不可不精休旺、穷通变也。此说得之。)
其为有也,是从无而立有;其为无也,天垂象以示文。
(此正明五行之气,是从无而立有,故借天象五星以明之。盖播物之初,孰为之有?太极之後,谁为之无,有出於无,无生於有。在天成象,在地成形,变化见矣。)
其为常也,立仁立义;其为事也,或见或闻。
(五行,在天为五星,在地为五岳,在人为五脏,推而行之,则为五常,常有可久之道。《易》曰:立天之道,曰阴与阳;立地之道,曰柔与刚;立人之道,曰仁与义。人之道,非仁与义。则不能立也。《书》曰:二五事,一曰貌,二曰言,三曰视,四曰听,五曰思。五常、五事,皆五行之变化,与人事相通。人之性情去就,见闻动静,皆不逃乎此数。
或见或闻,如金木水火土则见,而宫商角徵羽则闻;貌言视听思则见,而肃又哲谋圣则闻。盖五行之用,至不可胜穷,非因机明智之士,孰能精察而默识之哉?)
崇为宝也,奇为贵也。将星扶德,天乙加临;
本主休囚,行藏汨没。
(崇者,卑之反。奇者,偶之对。物以积而高,高之为崇,在五行,上生下是也。物以无与耦之为奇;在五行异而乃群是也。将星,月将也。德、天、月德也。天乙,贵神也。
生年为本,生日为主,休囚对生旺言。人命年、月、日、时,四柱有五行,上生下。有三奇,乙丙丁。更带将星,德贵。主本生旺得地,所谓吉将交临,而福臻成庆,此为至贵之命。“赋”先言崇奇为宝贵,後言主本忌休囚,见崇奇为难遇,以主本为切要,而诸方神煞则次而言之。是知命以五行为先,生旺为上,将星德贵又神煞之最吉者矣。
徐曰:崇以主本言,凡命中掌寿掌财掌灾福之辰,亦谓之崇。奇以禄马言,凡命中财官印食,亦谓之奇。德者日支德,辰,即六合也。如壬寅年、庚戌月,癸卯日,乙卯时,九月将在卯,扶其生日;五行九月金土六合,卯戌合,乙庚合,戊癸合。如此五行,各不居休败之地、则贵。似非赋义。)
至若勾陈得位,不亏小信以成仁;真武当权,知是大才而分瑞。
(此举水土,以例其余。勾陈为土之将,其於常也为信。真武乃水之神,其於常也为智。信也者,足以达於圣;智也者,足以撰其道。五行之用、独善於兹。得位者,戊己生七月,母在子乡、当权者,壬癸生七月,子居母家。二物同源、俱生於申故也。徐以戊己坐临寅卯、并亥卯未;壬癸坐临午巳,及辰戌丑未,下有官印、禄马、旺相库墓,为得位当权,似与联义有背。不若只以土生四季,水遇三冬为是。)
不仁不义,庚辛与甲乙交差;或是或非,壬癸与丙丁相畏。
(上言当权得位,则不交差,不相畏也。若甲见庚,乙见辛,丙见壬,丁见癸,犹二女同居,两男并处,阴阳不合,不成庆也。庚辛主义,甲乙主仁,以交差,故不仁不义。丙丁主礼,壬癸主智,以相畏,故或是或非。
若庚合於乙,辛合於甲,则刚柔相乘,仁义兼济,非交差也。若丙见癸官,丁合壬禄,则阴阳相配,水火既济,非相畏也。或以甲申、乙酉为不仁,庚寅、辛卯为不义,缘寅申庚申之交差,卯酉乙辛之暗战;丙遇壬,则丙非壬是;丁逢癸,则癸是丁非、子午同然,巳亥一致。凡十遇此一辰,始可言之。)
故有先贤谦己,处俗求仙。崇释则离官修定;归道乃水府求玄。
(仁义在乖於得失,是非常绊於荣枯,於是日用不知,曾无休息,故有先贤谦己,处俗求仙,割爱少私寡欲。或崇释以灭心之火,或归道以益肾之精,内守精神,外除幻妄,达物我非有,明色空究竟者,莫非是也。)
是知五行通道,取用多门。理於贤人,乱於不肖。成於妙用,败於不能。
(道无乎不在,物无乎非道,五行变化,通乎大道,何所不该,其取用不一,故谓多门。如识者取之以修定,仙者取之则求元。自非顿悟之士,岂能与此?是故贤者得之,能穷理尽性,达五行之妙用;愚者失之,终亦自昧,而无所得。能者养之以取福,不能者败之以取祸。《易》曰:苟非其人,道不虚行。)
见不见之形,无时不有;抽不抽之绪,万古联绵。
(见不见之形,如十干禄寄十二支,有见不见之形存焉。
甲禄寅,寅为显见之禄;不见寅而见戌,以五子元遁至戌见甲戌,成为甲之禄堂,此所谓不见之禄。
甲以辛为官,辛禄酉,甲受金鸡酉,为明见之官;不见酉而见未,以天官遁甲入羊群,未上有辛,此所谓不见之官。
抽不抽之绪,如阳气生子旺卯终午,阴气生午旺酉终子,阳生则阴死,阴变则阳化,子午乃阴阳化生之始,终无极也。阴极则阳生,阳机则阴生,气自子午中,孚甲抽轧而出,出入无间,往来不穷,如丝绪之联绵,万古不断之义。
《太玄》云:见不见之形,抽不抽之绪,则日迁月变,暑往寒来,代废代兴,更休更旺,一显一晦,一缩一抽,绵绵常存,无时不有。盖阴阳五行,有见不见,有抽不抽,其理玄妙,其机发泄,无物不有,无时不然,自有天地人以来,便如此,要顿悟何如。)
是以河公惧其七煞,宣父畏其元辰。峨眉阐以三生,无全士庶;鬼谷播其九命,约以星观。今集诸家之要,发其偏见之能,是以未解曲通,妙须神悟。
(元辰七煞,煞之最凶。命禀五行,斯患孰逃?上古圣贤,如河上公,仙之流也;文宣王,圣之至也,犹惧是二者,况其下乎?於是着书济世,吉凶祸福,告在未萌。峨眉仙阐以三生,非不精也;鬼谷子播其九命,非不通也。指陈玄言、幽奥难测,故云,约以星观,无全士庶。三生,禄命身也。九命、身命两宫,禄马二位,生年胎月、日、时也。路碌子参集诸家之要旨,略其偏见之能,独发心得之见,着为是文,大解玄义,曲通妙机,在学者神悟而变通之,斯为善矣。)
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#382
Gửi vào 13/11/2024 - 10:08
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất
tiêu tức phú nhị
Thần xuất tự lan dã, ấu mộ chân phong. Nhập tứ vô huyền hồ chi diệu, du hành vô hóa trượng chi thần. Tức nhất khí dĩ ngưng thần, tiêu ngũ hành nhi thông đạo.
(Thần đến từ Lan Dã, tuổi nhỏ đã ngưỡng mộ phong cách thật sự. Kỳ diệu khi bước vào quán không treo cái bầu nào, đi lang thang không có hoá trượng của thần. Hít một hơi để tập trung tinh thần, trừ bỏ ngũ hành nên đường thông suốt).
Thần (bề tôi) xưng hô đối với quân (vua). Lan dã là tên địa phương này. Xuất phát từ lợi tự thuật. Ấu mộ chân phong (tuổi trẻ ngưỡng mộ phong cách thật sự), tức là có chí lớn. Huyền hồ (treo cái bầu) hoá trượng (biến thành gậy chống), chính là câu chuyện xưa của Hồ Công Phí Trường Phòng, khen ngợi người đời trước rất thần kỳ, tiếc ở thân mình không có bản lãnh. Bên ngoài chẳng có ham muốn, bên trong không có suy nghĩ, hít một hơi thở để tập trung tinh thần, trừ bỏ ngũ hành mà đạo thông suốt, cho nên sáng tác bài phú này đặt tên là "Tiêu Tức" vậy. Bởi tạo hoá có tiêu có tức nên nói vậy.
Càn khôn lập kì tẫn mẫu, kim mộc định kì cương nhu; trú dạ hỗ vi quân thần, thanh xích thì vi phụ tử.
(Càn khôn đặt ra đực và cái, kim mộc định ra cương và nhu; ngày và đêm là vua với bầy tôi hỗ trợ nhau, xanh và đỏ là cha và con).
Đó là quy mô lớn của tạo hoá biến đổi. Càn thuộc dương, là đạo của trời,là đạo vua, là đạo chồng; khôn thuộc âm, là đạo của đất, là đạo của bầy tôi, là đạo của vợ. Càn lấy động làm thể (bản chất của sự vật), gọi là tích hộ (mở cửa); khôn lấy tĩnh làm thể (bản chất của sự vật), gọi là hạp hộ (đóng cửa). Càn khôn đặt ra tất cả âm dương đực cái, cả hai giao tiếp với nhau, trong đó biến đổi ngũ hành. "Dịch" cầm đầu là càn khôn, đó là ý nghĩa chánh vậy. Nhân (thương yêu) là nhu và nghĩa (đạo lý) là cương, điều khiển là bản chất của kim và mộc. Một âm một dương, cương nhu đẩy nhau. Chỉ có cương mà không có nhu sẽ không thể sanh biến; chỉ có âm mà không có cương sẽ không thể sanh hoá. Ban ngày là cương, sanh biến nên tiến (hướng về phía trước); còn đêm là nhu, sanh hoá nên thối (rút lui). Tích luỹ cương nhu nên thành biến hoá, tức là ngày đêm nên thành tiến thối. Ban ngày là dương là hình tượng của vua; đêm là âm là hình tượng của bầy tôi. Đạo của ngày đêm, nó ẩn tàng tiêu tức; nó biểu hiên doanh (tràn đầy) hư (không thật); nó phân chia tối và sáng; nó là phép tắc về sống chết. Một thái (thuận lợi) một bĩ (bế tắc), một tổn (hao tổn) một ích (có lợi). Chung thuỷ nương tựa nhau, mới cũ thay thế nhau, cho dến vinh nhục, phúc lộc tự nhiên đến, tất cả đều dựa trên điều này.
Thần của ngũ hành gọi là đế (vua), phương đông thanh đế là cha; sanh phương nam xích đề là con. Cái lý cùa thanh (xanh) xích (đỏ), đạo cha truyền cho con vậy. Bàn luận âm dương trong ngũ hành, có vua tôi, cha con, vợ chồng tồn tại đạo vậy. Đó là ý chí lớn của tạo hoá, thông suốt ở đạo luân thường.
Bất khả nhất đồ nhi thủ quỹ, bất khả nhất lí nhi thôi chi.
Thì hữu đông phùng viêm nhiệt, hạ thảo t ao sương; loại hữu âm thử tê băng, thần quy túc hỏa.
(Không thể cùng một đường mà chọn phép tắc, không thể cùng một lý mà suy luận.
Thời gian có khi mùa đông gặp nóng bức, cỏ mùa hạ gặp sương nên tàn tạ; tương tự có khi chuột ngầm ở trong băng, rùa thần ở trong lửa).
Đây là bàn luận về đạo của âm dương ngũ hành, vi diệu khó thông, ẩn áo khó lường, không thể chỉ cùng một con đường chọn phép tắc, một lý mà suy luận. Như mùa đông lanh mùa hạ nóng, đó là thường lý, đúng vào thời điểm. Nếu mùa đông gặp nóng bức, mùa hạ cỏ tàn tạ vì sương, thì không đúng thời điểm vậy. Làm theo mệnh lệnh không đúng thời điểm có phải là điều bình thường? Chuột lửa rùa băng cái lý này tồn tại, sự so sánh là phù hợp. Âm thử (chuột) sống trong băng, thần quy (rùa) sống trong lửa, nên chúng không giống nhau. Không phải loại của nó mà ở chỗ của nó, là có thể cùng một tượng bàn luận hay chăng? Cái gì bình thường thì dễ nghiên cứu, còn cái không bình thường thì khó nghiên cứu đến tận gốc, tạo hoá làm sao mà dễ bàn luận phải không? Âm nhạc của Trâu Tử khiến cốc lạnh lẽo trở lại mùa xuân; nàng dâu hiếu thảo ngậm nỗi oan nên tháng sáu trời có sương giá, xưa nay có mấy điều bất hạnh khác nhau, tương tự như thế rất nhiều, không thể nói đó không phải là biến đổi của âm dương ngũ hành vậy. Lông của chuột lửa dệt thành vải; mở của tằm băng tức thì thành cái mâm. Thần Dị Kinh nói: Phương bắc có nhiều tầng băng dài hàng vạn dặm, dầy trăm trượng (mười thước ta là một trượng), có loài chuột nặng vạn cân, lông dài hơn xích (thước), ẩn núp ở bên trong. Chính là âm thử sống trong băng. "Nhĩ Nhã" nói: một ngày thần quy (rùa thần), mười ngày hoả quy (rùa lửa). Quách Phác khen ngợi rằng: trời sanh thần vật, rùa trong vẹn đủ cả nhóm. Có thể di động trong lửa, tức là thần rùa trú ngụ trong lửa vậy. Từ Tử Bình dựa vào một dương sanh ra ở đông chí, một âm sanh ở hạ chí là mùa đông gặp sức nóng, mùa hạ cỏ tàn tạ vì sương.
Vì quý lộc ở tý là nhân nguyên, bính lấy quý làm quan ấn; mậu lộc ở tỵ là nhân nguyên, quý lấy mậu làm quan ấn, là âm thử tê băng (chuột âm ở trong băng), thần quy túc hoả (rùa thần trú ngụ trong lửa), e rằng không phải là ý nghĩa của bài phú.
Thị dĩ âm dương hãn trắc, chí vật nan cùng. Đại để tam đông thử (nóng bức) thiểu, cửu hạ dương đa.
Họa phúc hữu nhược kì tường, thuật sĩ hi kì bát cửu.
(Vì thế âm dương khó đoán, chí hướng khó đạt đến tận cùng. Đại khai ba tháng mùa đông ít nóng bức, suốt mùa hạ nắng nhiều.
Hoạ phúc nếu đạt được điềm tốt lành, thuật sĩ hy vọng tám chín phần).
Đoạn văn trên bàn về mùa đông có nóng mùa hạ có sương, chuột băng rùa hoả, chẳng phải lý thường của âm dương, vật tương tự có ảnh hưởng lẫn nhau, cho nên nói rằng khó lường đến tận cùng. Điều này phản chiếu phá lời văn ở phía trên, bàn vầ mùa đông gặp nóng bức, đại khái ba tháng mùa đông tự nhiên rất ít vậy; mùa hạ cỏ gặp sương, đại khái suốt mùa hạ nắng rất nhiều. Lạnh và nòng đã là điều bình thường, âm dương có thể nhìn vào chỗ sâu kín, hoạ phúc nên lấy lý lẽ mà suy xét, điềm tốt lành rõ rệt vì tương tự thích hợp.
Thuật sĩ thông thạo bàn luận tam mệnh, ngũ hành, đi tuế vận, gặp vận vượng tướng, đắc vị sẽ thuân lợi, còn vận thối lui, hưu tù, hất vị sẽ bế tắc, xấu xa. Chỉ đạo bình thường, có thể mong mỏi đạt được tám chín phần là đủ. Mệnh người đi năm tháng, tuế vận đối phó với hoạ phúc như thay đổi khác thường của điềm tốt lành, ý hướng của vật khó đạt đến tận cùng, người sử dụng sách lược, trong mười phần lý lẽ này cũng khó mong mỏi được tam chín. Bởi trời đất còn không có đầy đủ công hiệu, huống chi là con người? Tuy nhiên cũng thông suốt rồi.
Hoặc nhược sanh phùng hưu bại chi địa, tảo tuế cô cùng; lão ngộ kiến vượng chi hương, lâm niên yển kiển.
Nhược nãi sơ hung hậu cát, dĩ nguyên trọc nhi lưu thanh; thủy cát chung hung, loại căn cam nhi duệ khổ.
(Có thể sanh nhằm đất hưu bại, tuổi trẻ cô đơn và nghèo khó; già gặp nơi kiến vượng, đang thời gian nan.
Nếu ban đầu xấu mà sau tốt, vì nguồn đục mà dòng chảy trong; còn ban đầu tốt mà cuối cùng xấu, tương tự gốc ngọt mà con cháu đắng).
Bản thân tuy đuổi theo vận, phải lợi dụng vận nâng đỡ mình, cơ hội phải đúng lúc, cũng đợi thời mà lợi dụng thời cơ. Sanh nhằm những năm mạnh mẽ, vận hợp ở nơi vượng; cuối muộn gặp năm suy, vận thích hợp ở đất khó khăn. Chính là tuỳ theo tiêu tức (biến hoá), hưu hay vượng vốn là như vậy. Mới sanh ra bị suy bại, nhưng đến tuổi già thì hưng thịnh nghĩa là nguồn đục mà dòng chảy trong vậy. Tuổi nhỏ thịnh vượng mà đến tuổi già thì linh đinh (lẽ loi không nơi nương tựa), nghĩa là duệ khổ căn cam (con cháu khổ dù gốc ngọt). Nếu đó là vận khí rõ rệt, nghiên cứu tận cùng nguồn gốc, trước hết quan sát nền móng dày mỏng, cùng lúc rõ ràng cả một vận hạn. Tuy rằng chưa đến trăm phát trăm trúng, cũng hy vọng được tám chín phần. Đại khái mệnh người, năm là cao quý. Thai tháng ngày giờ giúp đỡ là kế tiếp. Cho nên nói vua cha của tứ trụ là chúa tể của tốt xấu, mà năm tháng được thiết lập. Căn cứ vận khí rõ ràng, suy xét nền tảng hư thật mà chọn lấy tháng. Quan sát điềm an nguy, xem xét nguồn gốc đau khổ hay niềm vui mà chọn lấy ngày. Xác định gốc của quý tiện, xét đoán hạn kỳ sống chết mà chọn lấy giờ. Phân tích khởi đầu tuổi thơ được che chở, nghiên cứu trước khi còn chưa tạo nên mà chọn lấy thai. Tháng trông coi bản chất sự việc lúc ban đầu, ngày trông coi bản chất sự việc ở giữa, giờ trông coi bản chất sự việc ở cuối, riêng năm thì thống lãnh tổng quát. Cần phải cùng lúc giúp nhau không đổi, trước sau phụ hoạ nhau, thì có đủ cả hai phú quý, tài lộc cả hai sáng tỏ. Không có khác biệt giữa khởi đầu tốt mà kết thúc xấu, hay khởi đầu xấu mà kết thúc tốt, nhưng mà không dễ được. Có thể chỉ ở giữa hay cuối thịnh vượng, cũng có thể là vận mệnh sung túc.
Quan hồ manh triệu, sát dĩ kì nguyên, căn tại miêu tiên, thật tòng hoa hậu.
(Xem xét dấu hiệu nảy mầm, tìm tòi nguồn gốc của nó, gốc có trước cây con, trái theo sau hoa).
Lý thuyết bàn luận về mệnh lấy thai làm gốc, lấy tháng làm cây con, lấy ngày làm hoa, lấy giờ làm quả. Gốc kém có thể biết cây con, thấy hoa rồi sau biết được quả, là vì thánh nhân xem xét ở điềm báo trước tiên, thấy chưa nảy mầm, liền tìm xem nguồn gốc của nó, sẽ biết được cây con vậy. Từ nói: muốn biết tốt xấu trong vận, trước tiên xem nguồn gốcthang81 bại. Nguồn gốc có quý, vận đến quý thì nhất định quý; nguồn gốc có tài , vận đi đến tài thì sẽ phát tài; nguồn gốc có tai hoạ, vận đi đến tai hoạ sẽ gặp tai hoạ. Thuyết của nó cũng thông suốt.
Thai sanh nguyên mệnh, tam thú định kì môn tông; luật lữ cung thương, ngũ hổ luận kì thành bại.
(Thai sanh nguyên mệnh, ba con vật xác định tông môn; luật lữ cung thương, ngũ hổ bàn luận thành bại).
[luật lữ:Khí cụ dùng để xác định âm giai trong âm nhạc (thời xưa). Cũng chỉ chung âm luật].
Chim được chia thành ba mươi sáu vị trí, địa chi bày ra mười hai thần. Kế tiếp xếp đặt cứ một thần có ba con vật. Người tý: thử (chuột) bức (dơi) oanh (chim oanh); người sửu: nguư (trâu) giải (cua) đà (như cá sấu); người dần: hổ (cọp) ly (mèo rừng) báo (beo); người mão: thố (thỏ) hồ (cáo) hạc (gần giống con cáo); người thìn: long (rồng) giao (thuồng luồng) ngư (cá); người tỵ: xà (rắn( thiện (lươn) dẫn (con giun); người ngọ: mã (ngựa) lộc (hươu) mi (nai); người mùi: dương (dê) ưng (chim ưng) nhạn (chim nhạn); người thân: hầu (khỉ) viên (vượn) nhu (thú thuộc họ vượng); người dậu: kê (gà) ô (quạ) trĩ (trĩ); người tuất: cẩu (chó) lang (chó sói) sài (chó sói); người hợi: trư (heo) thỉ (heo) 喩羭 (không có trong tự điển). "Ngưng Xung Tử" nói rằng: những người tương tự thần tức là tự nhiên có lộc, chủ rất giàu sang; những người không tương tự thần, tự nhiên không có lộc. Với hình thể thần, tính khí nên đoán vậy. Thai sanh nguyên mệnh chỉ như người sanh giáp tý, sanh tháng quý dậu, thai tiến giáp tý, nguyên mệnh giống nhau. Lại như người ất sửu kim, tháng ở chỗ kỷ mão, thai nhằm canh ngọ, vì thổ sanh kim. Hai thuyết cùng hiểu rõ, ý nghĩa không xa nhau. Hoặc nói: lấy năm chọn tháng, lấy tháng chọn thai, quan sát ba chỗ truyền thừa gọi là tam thú (ba con vật). Có hay không thôn đạm thương hình, thì có thể xác định được nơi xuất phát của tông môn.
Sáu dương là luật, sáu âm là lữ (luật lữ: Khí cụ dùng để xác định âm giai trong âm nhạc (thời xưa). Cũng chỉ chung âm luật) ngũ âm (năm âm bậc trong cổ nhạc Trung Hoa, gồm cung, thương, giốc, chủy, vũ 宮商角徵羽) họp lại thành luật lữ. Luật lữ hợp nhau mà phân chia địa chi, định thành thiên can, ngũ hành hợp thành ngũ âm, vì thế giáp kỷ cung thổ độn khởi bính dần, ất canh thương kim độn khởi mậu dần, bính tân (có lẽ là bính tân, không hiểu sao in thành nhất thiên. 一千羽水遁起庚寅: nhất thiên vũ thuỷ độn khởi canh dần) vũ (tiếng vũ, một tiếng trong ngũ âm) độn khởi canh dần, đinh nhâm giốc mộc độn khởi nhâm dần, mậu quý chủy hỏa độn khởi giáp dần. Ngũ âm vốn khởi từ dần, dần là bắt đầu của mười hai tháng, hai sáu (sáu dương và sáu âm) thời chọn lấy. Thành bại tốt xấu của con người từ đó mà bắt đầu.
Vô hợp hữu hợp, hậu học nan tri. Đắc nhất phân tam, tiền hiền bất tái.
(Không có hợp hay có hợp, người học tập sau này khó biết. Được một phần ba, bậc tài đức thời trước không ghi chép).
Đạo tạo từ hai, thành ở ba, biến đổi ở năm, và số của trời đất có đủ mười là do ghép đôi thôi. Không có hợp hay có hợp như giáp kỷ hợp, trong trụ không hiện chữ kỷ mà gặp chữ ngọ, do trong ngọ có kỷ lộc. Dần với hợi hợp, trong trụ không hiện chữ hợi mà gặp nhâm, do ở hợi có nhâm lộc. Lại như dần ngọ tuất hợp, trong trụ không hiện chữ dần mà gặp chữ giáp, do trong dần có giáp lộc. Được một phần ba như giáp được kỷ là hợp thứ nhất, được ngọ là hợp thứ hai, được hợi là hợp thứ ba, đó chính là khi được một lộc của ba phần lộc. Cùng với gặp hay không gặp hình, đầu mối dẫn ra hay không dẫn ra ở phần trước, thấu suốt cái lý lẫn nhau.
Lý Hư Trung bàn luận địa chi thiên can hợp theo cách hoàn chỉnh: năm vị trí năm, tháng, ngày, giờ và thai, có khả năng hợp tất cả thiên can địa chi, nói tý thì sửu hiện hữu, nói dần thì hợi hiện hữu, nói giáp thì kỷ hiện hữu, nói ất thì canh hiện hữu. Năm vị trí can lộc có giáp ất bính đinh mậu, tự nhiên hợp khởi kỷ canh tân nhâm quý. Mười hai địa chi như có dần mão thìn tỵ ngọ, tự nhiên hợp khởi mùi thân dậu tuất hợi, có thể ở vị trí tý sửu có thêm lộc mã, thì mười thiên can với mười hai địa chi đều có hợp đầy đủ cả. Từ nói: không có hợp hay có hợp tức là hình hợp, sửu tý diêu tỵ các cách, được một cách là đã hiện dần hìn tỵ, sửu phá tỵ, vì bính mậu bị hình phá mà xuất ra, thì liền phân chia làm ba mà đi, là tam hợp tỵ dậu sửu vậy. Cổ Dụng nói: cọp sanh chạy vội tỵ heo khỉ chạy trốn, dê kích heo rắn tự nhiên vinh. Giải thích này cũng thông suốt.
Niên tuy phùng ư quan đái, thượng hữu dư tai; vận sơ chí ư suy hương, do phi tiên phúc.
(Năm tuy gặp ở quan đới, tai hoạ vẫn còn chưa hết; vận lúc đầu đến ở nơi suy, vẫn còn phúc lành tươi đẹp).
Niên: tức là thái tuế. Vận tức là đại vân. Trụ năm tuy gặp ở quan đới, giống như bị suy sụp bất ngờ vì tai hoạ còn chưa hết; vận tuy đến chổ suy, vẫn còn phúc lành tươi đẹp của quan vượng. Đây là vận đi có thuyết năm năm trước và sau, hai cậu hỗ trợ ý nghĩa nghe và thấy lẫn nhau.
Đại đoạn thiên nguyên doanh nhược, cung cát bất cập dĩ vi vinh, trung hạ hưng long, quái hung bất năng thành kì cữu.
(Thiên nguyên bị suy yếu trên diện rộng, cung tốt không bằng tươi tốt, trung hạ thịnh vượng, quẻ xấu không thể có lỗi).
Thiên nguyên: là mười thiên can. Thiên can lấy sanh vượng là vi vinh (tự hào), nếu suy bệnh tử mộ tuyệt thì thiên can doanh nhược (bị suy yếu), dù cho đến chỗ cung tốt. Ví như có được tài quan, tướng tinh, thiên ất các loại, cũng không bằng vi vinh (tự hào). Trung tức là địa chi. Hạ tức là nạp âm. Trung hạ đều đến dất hưng vượng của ngũ hành, tuy tám quẻ xác định phần xấu, cũng không thể thành tai hoạ. Từ nói: hễ mệnh có thiên nguyên đên đất của tài quan, nhưng mà sanh không đúng thời, khí lực của mình bị suy yếu, ngũ hành của thiên can địa chi hưu hay vượng lại không hỗ trợ nhau, tuy cung gặp tốt của lộc mã, cũng không bằng vi vinh (tự hào).
Như canh tân sanh ở các tháng mùa xuân, ở vị trí khác có hoả khắc kim, kim gặp dần mão giáp ất là tài, lý do trong mộc có hoả vượng khắc kim, mà kim lại không được lệnh, tuy cung thuộc tài là tốt, nhưng ngược lại thành tai hoạ xấu làm tiêu chuẩn.
Trung: là nhân nguyên. Hạ: là chi nguyên. Như đinh lấy nhâm làm quan ấn, trung hạ lộc mã kiến vượng thành việc vui mừng, tuy hoả đến đất tuyệt, tức là lợi dụng quý của trung hạ. Thành Giám nói: lộc tuy tuyệt mà gặp quý. Đào Chu nói rằng: lộc bị tuyệt tài bị mất, không phải điềm xấu là vậy. Có thể lấy một tốt ba sanh thuộc cửu cung, ngũ quỷ tuyệt mệnh thuộc tám quẻ. Cũng thông suốt.
Nhược ngộ tôn hung ti cát, cứu liệu vô công; tôn cát ti hung, phùng tai tự dũ. Lộc hữu tam hội, tai hữu ngũ kì.
(Nếu gặp địa vị cao quý xấu mà địa vị thấp thì tốt, thuốc chữa trị không hiệu quả; Còn địa vị quý trọng tốt và địa vị thấp, gặp tai hoạ tự vượt qua. Lộc có ba tụ tập, tai hoạ ở năm thời kỳ).
Lập niên (trụ năm) là tôn (cao quý), kế đó là thai, tháng, ngày giờ. Đại vận là tôn (cao quý), kế là lục tuế (sáu năm) và tiểu vận. Nếu gặp bản mệnh với đại vận đức hợp ở nơi kiến vượng, thì tuế vận hay ngày giờ của mình xấu thì cũng không phải là tai hoạ. Còn đại vận với bản mệnh tranh giành chiến đấu ở đất tử tù, và tuế vận hay ngày giờ của mình tốt nhưng cũng không đủ để cứu chữa. Cho nên nói lung tung, lộn xộn. Lộc có ba chỗ tụ tập: trường sanh, đế vượng và khố, đó là đến chỗ tốt lành. Tai hoạ có năm thời kỳ: suy, bệnh, tử, bại, tuyệt đó là đến chỗ đất hung xấu. Bởi thế mới nói lộc đối với tai hoạ, không phải lộc của can lộc, nên phải xem xét một cách linh động. Người nghiên cứu ngày nay, chỉ đề cử tam hợp nên lấy kim gặp tỵ dậu sửu, mộc ở hợi mão mùi, hoả được dần ngọ tuất, thuỷ gặp thân tý thìn liền cho là ba chỗ tụ tập của lộc, không phải vậy.
Link đến bản tiếng Hoa:
消息赋二
臣出自兰野,幼慕真风。入肆无悬壶之妙,游行无化杖之神。息一气以凝神,消五行而通道。
(臣者,对君之称。兰野,地名。自敍所出。幼慕真风,则其志大矣。悬壶化杖,乃壶公费长房故事,称前人之至妙,悔在己之无能。外绝所欲,内无所思,息一气以凝神,消五行而通道,故着此赋,名《消息》焉。盖造化有消有息故云。)
乾坤立其牝牡,金木定其刚柔;昼夜互为君臣,青赤时为父子。
(此消息造化之大规模也。乾属阳,为天道、君道、夫道;坤属阴,为地道、臣道、妇道。乾以动为体,曰辟户;坤以静为体,曰阖户。乾坤立阴阳牝牡之合,两者交通,斯五行变化在其中矣。《易》首乾坤,正此义也。仁柔义刚,金木性之所司。一阴一阳,刚柔相推。独刚而无柔,则不能生变;独柔而无刚,则不能生化。昼为刚,生变以进,夜为柔,生化以退。积刚柔而成变化,则昼夜而成进退。昼为阳以象君;夜为阴以象臣。昼夜之道,其微有消息;其着有盈虚;其分有幽明;其数有生死。一泰一否,一损一益。终始之相因,新故之相代,荣辱之所至,福禄之自来,莫不本诸此也。
五行之神曰帝,东方青帝之父;生南方赤帝之子。青赤之理,父传子道也。言阴阳五行之中,有君臣、父子、夫妇之道存焉。是造化之大旨,通乎人伦也欤。)
不可一途而取轨,不可一理而推之。
时有冬逢炎热,夏草遭霜;类有阴鼠栖冰,神龟宿火。
(此言阴阳五行之道,微妙难通,隐奥难测,不可只一途取轨,一理而推之。如冬寒夏热,此理之常,时之正也。若冬逢炎热,夏草遭霜,则非其时矣。非其时而行其令,是可以常理拘乎?鼠火龟冰,此理之有,类之宜也。阴鼠栖冰,神龟宿火,则非其类矣。非其类而居其所,是可以一途论乎?常者易究,不常者难穷,造化岂易言哉?邹子吹律,而寒谷回春;孝妇含冤,而六月飞霜,古今纪灾异,此类甚多,不可谓非阴阳五行之变也。火鼠之毛,绩而为布;冰蚕之脂,登而为俎,此世之所知也。神异经曰:北方有层冰万里,厚百丈,有鼠重万斤,毛长尺余,在中藏焉。是阴鼠之栖冰也。《尔雅》曰:一日神龟,十日火龟。郭璞赞云:天生神物,十朋之龟。或游於火。是神龟之宿火也。徐子平指冬至一阳生,夏至一阴生,为冬逢炎热,夏草遭霜。
以癸禄在子为人元,丙以癸为官印;戊禄在巳为人元,癸以戊为官印,为阴鼠栖冰、神龟宿火,恐非赋义。)
是以阴阳罕测,志物难穷。大抵三冬暑少,九夏阳多。
祸福有若祺祥,术士希其八九。
(上文言冬热夏霜,冰鼠火龟,非阴阳常理,物类相感,故云罕测难穷。此反照破上文,言时有冬逢炎热,大抵三冬天必少也;夏草遭霜,大抵九夏阳必多矣。寒暑既有其常,阴阳可窥其奥,祸福当以理推,祺祥显以类应。
术士专门论三命、五行,行年岁运,遇旺相得位之运则泰,退休囚失位之运则否。只道其常,可希冀八九中足矣。人命行年、岁运,祸福之应,如祺祥之变异,志物之难穷,挟术之士,十分之中,此理亦难希其八九。盖天地无全功,而况於人乎?亦通。)
或若生逢休败之地,早岁孤穷;老遇建旺之乡,临年偃蹇。
若乃初凶後吉,以源浊而流清;始吉终凶,类根甘而裔苦。
(身虽逐运,必假运以资身,势须及时,亦假时而乘势。生逢壮岁,运宜处於旺乡;晚遇衰年,运恰宜於困地。是乃随宜消息,休旺自如。初生歇灭,而晚岁兴隆者,源浊流清之谓也。幼年建旺而临老伶仃者,裔苦报甘之谓也。若乃较量运气,穷究根源,先察根基厚薄,兼明运限始终。虽未百发百中,亦可希其八九。大抵人命,立年为尊。其胎、月、日、时,资以次之。故曰,作四柱之君父,为吉凶之主宰,而立其年也。明运气之本,推虚实之基,而取其月。观安危之兆,察苦乐之原,而取其日。定贵贱之本,决生死之期,而取其时。辨幼荫之始,究未立之前,而取其胎。月管初主,日管中主,时管末主,年则总统之。须要终始兼济,前後相应,则富贵两全,财禄双显。无初吉终凶、始凶终吉之异矣,然而不易得也。或只中末兴隆,亦可为成实之命。)
观乎萌兆,察以其原,根在苗先,实从花後。
(谈命之说,以胎为根,以月为苗,以日为花,以时为实。穷根可以知苗,见花然後知实,是以圣人观乎先兆,见乎未萌,即察其根源,则知其苗裔也。徐曰;欲知运内吉凶,先看根元胜负。根元有贵,则运临贵而必贵;根元有财,则运临财而发财;根元有灾,则运临灾而生灾。其说亦通。)
胎生元命,三兽定其门宗;律吕宫商,五虎论其成败。
无合有合,後学难知。得一分三,前贤不载。
(道立於两,成於三,变於五,而天地之数,具其十也,耦之而已。无合有合,如甲与己合,柱不见己而得午,缘午中有己禄。寅与亥合,柱不见亥而得壬,缘亥上有壬禄。又如,寅午戌合,柱不见寅而得甲,缘寅中有甲禄。得一分三,如甲得己为一合,得午为二合,得亥为三合,此乃得一禄而分三禄。与前见不见之形,抽不抽之绪,理相贯穿。
李虚中论支干合全格;年、月、日、时胎五位,能合干支全,言子则丑在,言寅则亥在,言甲则己在,言乙则庚在。禄干五位,如带甲乙丙丁戊,自然合起己庚辛壬癸。十二支如带寅卯辰巳午,自然合起未申酉戌亥,或於子丑位有禄马加之,则十干十二支皆合全矣。徐曰:无合有合即刑合,丑子遥巳等格,得一者,既见有寅刑巳、丑破巳,而丙戊被刑破而出,则便分三而行,是三合巳酉丑也。古用曰:虎生奔巳猪猴走,羊击猪蛇自然荣。此解亦通。)
年虽逢於冠带,尚有余灾;运初至於衰乡,犹披鲜福。
(年,太岁也。运,大运也。年虽逢於冠带,犹被暴败之余灾;运虽至於衰乡,犹带旺官之鲜福。此行运所以有前後五年之说,二句互文见义。)
大段天元赢弱,宫吉不及以为荣,中下兴隆,卦凶不能成其咎。
(天元,十干也。干以生旺为荣,若衰病死墓绝,则天干赢弱,虽所临宫分之吉。如得财官、将星、天乙之类,亦不及以为荣。中,地支也。下,纳音也。中下俱临五行兴旺之地,虽八卦定分为凶,亦不能致灾。徐曰:凡命,天元临财官之地,而生不得时,本气赢弱,上下五行,休旺又不相辅,虽宫遇禄马之吉,亦不及以为荣。
如庚辛生於春月,别位有火克金,金见寅卯甲乙为财,缘木中旺火害金,而金又不得其令,虽宫属财吉,而反发凶祸之例是也。中者,人元。下者,支元。如丁以壬为官印,中下禄马建旺成庆,虽火临绝地,却乘中下之贵。成鉴曰:禄虽绝而建贵。陶朱云:绝禄亡财,不为凶兆是也。或以一吉三生属九宫,五鬼绝命属八卦。亦通。)
若遇尊凶卑吉,救疗无功;尊吉卑凶,逢灾自愈。禄有三会,灾有五期。
(立年为尊,其胎、月、日、时资以次之。大运为尊,其六岁、小运资以次之。若遇本命与大运德合於建旺之乡,其岁运、日、时凶而不能为咎。大运与本命争战於死囚之地,其岁运日时,吉而未足为救。故曰云云。禄有三会者,长生、帝旺、库也,其为至吉之地。灾有五期者,衰、病、死、败、绝,其为至凶之地。盖禄对灾言,非干禄之禄,当以活看。今之学者,但举三合,而以金逢巳酉丑,木居亥卯未,火得寅午戌,水遇申子辰,便是禄有三会,非也。
.
tiêu tức phú nhị
Thần xuất tự lan dã, ấu mộ chân phong. Nhập tứ vô huyền hồ chi diệu, du hành vô hóa trượng chi thần. Tức nhất khí dĩ ngưng thần, tiêu ngũ hành nhi thông đạo.
(Thần đến từ Lan Dã, tuổi nhỏ đã ngưỡng mộ phong cách thật sự. Kỳ diệu khi bước vào quán không treo cái bầu nào, đi lang thang không có hoá trượng của thần. Hít một hơi để tập trung tinh thần, trừ bỏ ngũ hành nên đường thông suốt).
Thần (bề tôi) xưng hô đối với quân (vua). Lan dã là tên địa phương này. Xuất phát từ lợi tự thuật. Ấu mộ chân phong (tuổi trẻ ngưỡng mộ phong cách thật sự), tức là có chí lớn. Huyền hồ (treo cái bầu) hoá trượng (biến thành gậy chống), chính là câu chuyện xưa của Hồ Công Phí Trường Phòng, khen ngợi người đời trước rất thần kỳ, tiếc ở thân mình không có bản lãnh. Bên ngoài chẳng có ham muốn, bên trong không có suy nghĩ, hít một hơi thở để tập trung tinh thần, trừ bỏ ngũ hành mà đạo thông suốt, cho nên sáng tác bài phú này đặt tên là "Tiêu Tức" vậy. Bởi tạo hoá có tiêu có tức nên nói vậy.
Càn khôn lập kì tẫn mẫu, kim mộc định kì cương nhu; trú dạ hỗ vi quân thần, thanh xích thì vi phụ tử.
(Càn khôn đặt ra đực và cái, kim mộc định ra cương và nhu; ngày và đêm là vua với bầy tôi hỗ trợ nhau, xanh và đỏ là cha và con).
Đó là quy mô lớn của tạo hoá biến đổi. Càn thuộc dương, là đạo của trời,là đạo vua, là đạo chồng; khôn thuộc âm, là đạo của đất, là đạo của bầy tôi, là đạo của vợ. Càn lấy động làm thể (bản chất của sự vật), gọi là tích hộ (mở cửa); khôn lấy tĩnh làm thể (bản chất của sự vật), gọi là hạp hộ (đóng cửa). Càn khôn đặt ra tất cả âm dương đực cái, cả hai giao tiếp với nhau, trong đó biến đổi ngũ hành. "Dịch" cầm đầu là càn khôn, đó là ý nghĩa chánh vậy. Nhân (thương yêu) là nhu và nghĩa (đạo lý) là cương, điều khiển là bản chất của kim và mộc. Một âm một dương, cương nhu đẩy nhau. Chỉ có cương mà không có nhu sẽ không thể sanh biến; chỉ có âm mà không có cương sẽ không thể sanh hoá. Ban ngày là cương, sanh biến nên tiến (hướng về phía trước); còn đêm là nhu, sanh hoá nên thối (rút lui). Tích luỹ cương nhu nên thành biến hoá, tức là ngày đêm nên thành tiến thối. Ban ngày là dương là hình tượng của vua; đêm là âm là hình tượng của bầy tôi. Đạo của ngày đêm, nó ẩn tàng tiêu tức; nó biểu hiên doanh (tràn đầy) hư (không thật); nó phân chia tối và sáng; nó là phép tắc về sống chết. Một thái (thuận lợi) một bĩ (bế tắc), một tổn (hao tổn) một ích (có lợi). Chung thuỷ nương tựa nhau, mới cũ thay thế nhau, cho dến vinh nhục, phúc lộc tự nhiên đến, tất cả đều dựa trên điều này.
Thần của ngũ hành gọi là đế (vua), phương đông thanh đế là cha; sanh phương nam xích đề là con. Cái lý cùa thanh (xanh) xích (đỏ), đạo cha truyền cho con vậy. Bàn luận âm dương trong ngũ hành, có vua tôi, cha con, vợ chồng tồn tại đạo vậy. Đó là ý chí lớn của tạo hoá, thông suốt ở đạo luân thường.
Bất khả nhất đồ nhi thủ quỹ, bất khả nhất lí nhi thôi chi.
Thì hữu đông phùng viêm nhiệt, hạ thảo t ao sương; loại hữu âm thử tê băng, thần quy túc hỏa.
(Không thể cùng một đường mà chọn phép tắc, không thể cùng một lý mà suy luận.
Thời gian có khi mùa đông gặp nóng bức, cỏ mùa hạ gặp sương nên tàn tạ; tương tự có khi chuột ngầm ở trong băng, rùa thần ở trong lửa).
Đây là bàn luận về đạo của âm dương ngũ hành, vi diệu khó thông, ẩn áo khó lường, không thể chỉ cùng một con đường chọn phép tắc, một lý mà suy luận. Như mùa đông lanh mùa hạ nóng, đó là thường lý, đúng vào thời điểm. Nếu mùa đông gặp nóng bức, mùa hạ cỏ tàn tạ vì sương, thì không đúng thời điểm vậy. Làm theo mệnh lệnh không đúng thời điểm có phải là điều bình thường? Chuột lửa rùa băng cái lý này tồn tại, sự so sánh là phù hợp. Âm thử (chuột) sống trong băng, thần quy (rùa) sống trong lửa, nên chúng không giống nhau. Không phải loại của nó mà ở chỗ của nó, là có thể cùng một tượng bàn luận hay chăng? Cái gì bình thường thì dễ nghiên cứu, còn cái không bình thường thì khó nghiên cứu đến tận gốc, tạo hoá làm sao mà dễ bàn luận phải không? Âm nhạc của Trâu Tử khiến cốc lạnh lẽo trở lại mùa xuân; nàng dâu hiếu thảo ngậm nỗi oan nên tháng sáu trời có sương giá, xưa nay có mấy điều bất hạnh khác nhau, tương tự như thế rất nhiều, không thể nói đó không phải là biến đổi của âm dương ngũ hành vậy. Lông của chuột lửa dệt thành vải; mở của tằm băng tức thì thành cái mâm. Thần Dị Kinh nói: Phương bắc có nhiều tầng băng dài hàng vạn dặm, dầy trăm trượng (mười thước ta là một trượng), có loài chuột nặng vạn cân, lông dài hơn xích (thước), ẩn núp ở bên trong. Chính là âm thử sống trong băng. "Nhĩ Nhã" nói: một ngày thần quy (rùa thần), mười ngày hoả quy (rùa lửa). Quách Phác khen ngợi rằng: trời sanh thần vật, rùa trong vẹn đủ cả nhóm. Có thể di động trong lửa, tức là thần rùa trú ngụ trong lửa vậy. Từ Tử Bình dựa vào một dương sanh ra ở đông chí, một âm sanh ở hạ chí là mùa đông gặp sức nóng, mùa hạ cỏ tàn tạ vì sương.
Vì quý lộc ở tý là nhân nguyên, bính lấy quý làm quan ấn; mậu lộc ở tỵ là nhân nguyên, quý lấy mậu làm quan ấn, là âm thử tê băng (chuột âm ở trong băng), thần quy túc hoả (rùa thần trú ngụ trong lửa), e rằng không phải là ý nghĩa của bài phú.
Thị dĩ âm dương hãn trắc, chí vật nan cùng. Đại để tam đông thử (nóng bức) thiểu, cửu hạ dương đa.
Họa phúc hữu nhược kì tường, thuật sĩ hi kì bát cửu.
(Vì thế âm dương khó đoán, chí hướng khó đạt đến tận cùng. Đại khai ba tháng mùa đông ít nóng bức, suốt mùa hạ nắng nhiều.
Hoạ phúc nếu đạt được điềm tốt lành, thuật sĩ hy vọng tám chín phần).
Đoạn văn trên bàn về mùa đông có nóng mùa hạ có sương, chuột băng rùa hoả, chẳng phải lý thường của âm dương, vật tương tự có ảnh hưởng lẫn nhau, cho nên nói rằng khó lường đến tận cùng. Điều này phản chiếu phá lời văn ở phía trên, bàn vầ mùa đông gặp nóng bức, đại khái ba tháng mùa đông tự nhiên rất ít vậy; mùa hạ cỏ gặp sương, đại khái suốt mùa hạ nắng rất nhiều. Lạnh và nòng đã là điều bình thường, âm dương có thể nhìn vào chỗ sâu kín, hoạ phúc nên lấy lý lẽ mà suy xét, điềm tốt lành rõ rệt vì tương tự thích hợp.
Thuật sĩ thông thạo bàn luận tam mệnh, ngũ hành, đi tuế vận, gặp vận vượng tướng, đắc vị sẽ thuân lợi, còn vận thối lui, hưu tù, hất vị sẽ bế tắc, xấu xa. Chỉ đạo bình thường, có thể mong mỏi đạt được tám chín phần là đủ. Mệnh người đi năm tháng, tuế vận đối phó với hoạ phúc như thay đổi khác thường của điềm tốt lành, ý hướng của vật khó đạt đến tận cùng, người sử dụng sách lược, trong mười phần lý lẽ này cũng khó mong mỏi được tam chín. Bởi trời đất còn không có đầy đủ công hiệu, huống chi là con người? Tuy nhiên cũng thông suốt rồi.
Hoặc nhược sanh phùng hưu bại chi địa, tảo tuế cô cùng; lão ngộ kiến vượng chi hương, lâm niên yển kiển.
Nhược nãi sơ hung hậu cát, dĩ nguyên trọc nhi lưu thanh; thủy cát chung hung, loại căn cam nhi duệ khổ.
(Có thể sanh nhằm đất hưu bại, tuổi trẻ cô đơn và nghèo khó; già gặp nơi kiến vượng, đang thời gian nan.
Nếu ban đầu xấu mà sau tốt, vì nguồn đục mà dòng chảy trong; còn ban đầu tốt mà cuối cùng xấu, tương tự gốc ngọt mà con cháu đắng).
Bản thân tuy đuổi theo vận, phải lợi dụng vận nâng đỡ mình, cơ hội phải đúng lúc, cũng đợi thời mà lợi dụng thời cơ. Sanh nhằm những năm mạnh mẽ, vận hợp ở nơi vượng; cuối muộn gặp năm suy, vận thích hợp ở đất khó khăn. Chính là tuỳ theo tiêu tức (biến hoá), hưu hay vượng vốn là như vậy. Mới sanh ra bị suy bại, nhưng đến tuổi già thì hưng thịnh nghĩa là nguồn đục mà dòng chảy trong vậy. Tuổi nhỏ thịnh vượng mà đến tuổi già thì linh đinh (lẽ loi không nơi nương tựa), nghĩa là duệ khổ căn cam (con cháu khổ dù gốc ngọt). Nếu đó là vận khí rõ rệt, nghiên cứu tận cùng nguồn gốc, trước hết quan sát nền móng dày mỏng, cùng lúc rõ ràng cả một vận hạn. Tuy rằng chưa đến trăm phát trăm trúng, cũng hy vọng được tám chín phần. Đại khái mệnh người, năm là cao quý. Thai tháng ngày giờ giúp đỡ là kế tiếp. Cho nên nói vua cha của tứ trụ là chúa tể của tốt xấu, mà năm tháng được thiết lập. Căn cứ vận khí rõ ràng, suy xét nền tảng hư thật mà chọn lấy tháng. Quan sát điềm an nguy, xem xét nguồn gốc đau khổ hay niềm vui mà chọn lấy ngày. Xác định gốc của quý tiện, xét đoán hạn kỳ sống chết mà chọn lấy giờ. Phân tích khởi đầu tuổi thơ được che chở, nghiên cứu trước khi còn chưa tạo nên mà chọn lấy thai. Tháng trông coi bản chất sự việc lúc ban đầu, ngày trông coi bản chất sự việc ở giữa, giờ trông coi bản chất sự việc ở cuối, riêng năm thì thống lãnh tổng quát. Cần phải cùng lúc giúp nhau không đổi, trước sau phụ hoạ nhau, thì có đủ cả hai phú quý, tài lộc cả hai sáng tỏ. Không có khác biệt giữa khởi đầu tốt mà kết thúc xấu, hay khởi đầu xấu mà kết thúc tốt, nhưng mà không dễ được. Có thể chỉ ở giữa hay cuối thịnh vượng, cũng có thể là vận mệnh sung túc.
Quan hồ manh triệu, sát dĩ kì nguyên, căn tại miêu tiên, thật tòng hoa hậu.
(Xem xét dấu hiệu nảy mầm, tìm tòi nguồn gốc của nó, gốc có trước cây con, trái theo sau hoa).
Lý thuyết bàn luận về mệnh lấy thai làm gốc, lấy tháng làm cây con, lấy ngày làm hoa, lấy giờ làm quả. Gốc kém có thể biết cây con, thấy hoa rồi sau biết được quả, là vì thánh nhân xem xét ở điềm báo trước tiên, thấy chưa nảy mầm, liền tìm xem nguồn gốc của nó, sẽ biết được cây con vậy. Từ nói: muốn biết tốt xấu trong vận, trước tiên xem nguồn gốcthang81 bại. Nguồn gốc có quý, vận đến quý thì nhất định quý; nguồn gốc có tài , vận đi đến tài thì sẽ phát tài; nguồn gốc có tai hoạ, vận đi đến tai hoạ sẽ gặp tai hoạ. Thuyết của nó cũng thông suốt.
Thai sanh nguyên mệnh, tam thú định kì môn tông; luật lữ cung thương, ngũ hổ luận kì thành bại.
(Thai sanh nguyên mệnh, ba con vật xác định tông môn; luật lữ cung thương, ngũ hổ bàn luận thành bại).
[luật lữ:Khí cụ dùng để xác định âm giai trong âm nhạc (thời xưa). Cũng chỉ chung âm luật].
Chim được chia thành ba mươi sáu vị trí, địa chi bày ra mười hai thần. Kế tiếp xếp đặt cứ một thần có ba con vật. Người tý: thử (chuột) bức (dơi) oanh (chim oanh); người sửu: nguư (trâu) giải (cua) đà (như cá sấu); người dần: hổ (cọp) ly (mèo rừng) báo (beo); người mão: thố (thỏ) hồ (cáo) hạc (gần giống con cáo); người thìn: long (rồng) giao (thuồng luồng) ngư (cá); người tỵ: xà (rắn( thiện (lươn) dẫn (con giun); người ngọ: mã (ngựa) lộc (hươu) mi (nai); người mùi: dương (dê) ưng (chim ưng) nhạn (chim nhạn); người thân: hầu (khỉ) viên (vượn) nhu (thú thuộc họ vượng); người dậu: kê (gà) ô (quạ) trĩ (trĩ); người tuất: cẩu (chó) lang (chó sói) sài (chó sói); người hợi: trư (heo) thỉ (heo) 喩羭 (không có trong tự điển). "Ngưng Xung Tử" nói rằng: những người tương tự thần tức là tự nhiên có lộc, chủ rất giàu sang; những người không tương tự thần, tự nhiên không có lộc. Với hình thể thần, tính khí nên đoán vậy. Thai sanh nguyên mệnh chỉ như người sanh giáp tý, sanh tháng quý dậu, thai tiến giáp tý, nguyên mệnh giống nhau. Lại như người ất sửu kim, tháng ở chỗ kỷ mão, thai nhằm canh ngọ, vì thổ sanh kim. Hai thuyết cùng hiểu rõ, ý nghĩa không xa nhau. Hoặc nói: lấy năm chọn tháng, lấy tháng chọn thai, quan sát ba chỗ truyền thừa gọi là tam thú (ba con vật). Có hay không thôn đạm thương hình, thì có thể xác định được nơi xuất phát của tông môn.
Sáu dương là luật, sáu âm là lữ (luật lữ: Khí cụ dùng để xác định âm giai trong âm nhạc (thời xưa). Cũng chỉ chung âm luật) ngũ âm (năm âm bậc trong cổ nhạc Trung Hoa, gồm cung, thương, giốc, chủy, vũ 宮商角徵羽) họp lại thành luật lữ. Luật lữ hợp nhau mà phân chia địa chi, định thành thiên can, ngũ hành hợp thành ngũ âm, vì thế giáp kỷ cung thổ độn khởi bính dần, ất canh thương kim độn khởi mậu dần, bính tân (có lẽ là bính tân, không hiểu sao in thành nhất thiên. 一千羽水遁起庚寅: nhất thiên vũ thuỷ độn khởi canh dần) vũ (tiếng vũ, một tiếng trong ngũ âm) độn khởi canh dần, đinh nhâm giốc mộc độn khởi nhâm dần, mậu quý chủy hỏa độn khởi giáp dần. Ngũ âm vốn khởi từ dần, dần là bắt đầu của mười hai tháng, hai sáu (sáu dương và sáu âm) thời chọn lấy. Thành bại tốt xấu của con người từ đó mà bắt đầu.
Vô hợp hữu hợp, hậu học nan tri. Đắc nhất phân tam, tiền hiền bất tái.
(Không có hợp hay có hợp, người học tập sau này khó biết. Được một phần ba, bậc tài đức thời trước không ghi chép).
Đạo tạo từ hai, thành ở ba, biến đổi ở năm, và số của trời đất có đủ mười là do ghép đôi thôi. Không có hợp hay có hợp như giáp kỷ hợp, trong trụ không hiện chữ kỷ mà gặp chữ ngọ, do trong ngọ có kỷ lộc. Dần với hợi hợp, trong trụ không hiện chữ hợi mà gặp nhâm, do ở hợi có nhâm lộc. Lại như dần ngọ tuất hợp, trong trụ không hiện chữ dần mà gặp chữ giáp, do trong dần có giáp lộc. Được một phần ba như giáp được kỷ là hợp thứ nhất, được ngọ là hợp thứ hai, được hợi là hợp thứ ba, đó chính là khi được một lộc của ba phần lộc. Cùng với gặp hay không gặp hình, đầu mối dẫn ra hay không dẫn ra ở phần trước, thấu suốt cái lý lẫn nhau.
Lý Hư Trung bàn luận địa chi thiên can hợp theo cách hoàn chỉnh: năm vị trí năm, tháng, ngày, giờ và thai, có khả năng hợp tất cả thiên can địa chi, nói tý thì sửu hiện hữu, nói dần thì hợi hiện hữu, nói giáp thì kỷ hiện hữu, nói ất thì canh hiện hữu. Năm vị trí can lộc có giáp ất bính đinh mậu, tự nhiên hợp khởi kỷ canh tân nhâm quý. Mười hai địa chi như có dần mão thìn tỵ ngọ, tự nhiên hợp khởi mùi thân dậu tuất hợi, có thể ở vị trí tý sửu có thêm lộc mã, thì mười thiên can với mười hai địa chi đều có hợp đầy đủ cả. Từ nói: không có hợp hay có hợp tức là hình hợp, sửu tý diêu tỵ các cách, được một cách là đã hiện dần hìn tỵ, sửu phá tỵ, vì bính mậu bị hình phá mà xuất ra, thì liền phân chia làm ba mà đi, là tam hợp tỵ dậu sửu vậy. Cổ Dụng nói: cọp sanh chạy vội tỵ heo khỉ chạy trốn, dê kích heo rắn tự nhiên vinh. Giải thích này cũng thông suốt.
Niên tuy phùng ư quan đái, thượng hữu dư tai; vận sơ chí ư suy hương, do phi tiên phúc.
(Năm tuy gặp ở quan đới, tai hoạ vẫn còn chưa hết; vận lúc đầu đến ở nơi suy, vẫn còn phúc lành tươi đẹp).
Niên: tức là thái tuế. Vận tức là đại vân. Trụ năm tuy gặp ở quan đới, giống như bị suy sụp bất ngờ vì tai hoạ còn chưa hết; vận tuy đến chổ suy, vẫn còn phúc lành tươi đẹp của quan vượng. Đây là vận đi có thuyết năm năm trước và sau, hai cậu hỗ trợ ý nghĩa nghe và thấy lẫn nhau.
Đại đoạn thiên nguyên doanh nhược, cung cát bất cập dĩ vi vinh, trung hạ hưng long, quái hung bất năng thành kì cữu.
(Thiên nguyên bị suy yếu trên diện rộng, cung tốt không bằng tươi tốt, trung hạ thịnh vượng, quẻ xấu không thể có lỗi).
Thiên nguyên: là mười thiên can. Thiên can lấy sanh vượng là vi vinh (tự hào), nếu suy bệnh tử mộ tuyệt thì thiên can doanh nhược (bị suy yếu), dù cho đến chỗ cung tốt. Ví như có được tài quan, tướng tinh, thiên ất các loại, cũng không bằng vi vinh (tự hào). Trung tức là địa chi. Hạ tức là nạp âm. Trung hạ đều đến dất hưng vượng của ngũ hành, tuy tám quẻ xác định phần xấu, cũng không thể thành tai hoạ. Từ nói: hễ mệnh có thiên nguyên đên đất của tài quan, nhưng mà sanh không đúng thời, khí lực của mình bị suy yếu, ngũ hành của thiên can địa chi hưu hay vượng lại không hỗ trợ nhau, tuy cung gặp tốt của lộc mã, cũng không bằng vi vinh (tự hào).
Như canh tân sanh ở các tháng mùa xuân, ở vị trí khác có hoả khắc kim, kim gặp dần mão giáp ất là tài, lý do trong mộc có hoả vượng khắc kim, mà kim lại không được lệnh, tuy cung thuộc tài là tốt, nhưng ngược lại thành tai hoạ xấu làm tiêu chuẩn.
Trung: là nhân nguyên. Hạ: là chi nguyên. Như đinh lấy nhâm làm quan ấn, trung hạ lộc mã kiến vượng thành việc vui mừng, tuy hoả đến đất tuyệt, tức là lợi dụng quý của trung hạ. Thành Giám nói: lộc tuy tuyệt mà gặp quý. Đào Chu nói rằng: lộc bị tuyệt tài bị mất, không phải điềm xấu là vậy. Có thể lấy một tốt ba sanh thuộc cửu cung, ngũ quỷ tuyệt mệnh thuộc tám quẻ. Cũng thông suốt.
Nhược ngộ tôn hung ti cát, cứu liệu vô công; tôn cát ti hung, phùng tai tự dũ. Lộc hữu tam hội, tai hữu ngũ kì.
(Nếu gặp địa vị cao quý xấu mà địa vị thấp thì tốt, thuốc chữa trị không hiệu quả; Còn địa vị quý trọng tốt và địa vị thấp, gặp tai hoạ tự vượt qua. Lộc có ba tụ tập, tai hoạ ở năm thời kỳ).
Lập niên (trụ năm) là tôn (cao quý), kế đó là thai, tháng, ngày giờ. Đại vận là tôn (cao quý), kế là lục tuế (sáu năm) và tiểu vận. Nếu gặp bản mệnh với đại vận đức hợp ở nơi kiến vượng, thì tuế vận hay ngày giờ của mình xấu thì cũng không phải là tai hoạ. Còn đại vận với bản mệnh tranh giành chiến đấu ở đất tử tù, và tuế vận hay ngày giờ của mình tốt nhưng cũng không đủ để cứu chữa. Cho nên nói lung tung, lộn xộn. Lộc có ba chỗ tụ tập: trường sanh, đế vượng và khố, đó là đến chỗ tốt lành. Tai hoạ có năm thời kỳ: suy, bệnh, tử, bại, tuyệt đó là đến chỗ đất hung xấu. Bởi thế mới nói lộc đối với tai hoạ, không phải lộc của can lộc, nên phải xem xét một cách linh động. Người nghiên cứu ngày nay, chỉ đề cử tam hợp nên lấy kim gặp tỵ dậu sửu, mộc ở hợi mão mùi, hoả được dần ngọ tuất, thuỷ gặp thân tý thìn liền cho là ba chỗ tụ tập của lộc, không phải vậy.
Link đến bản tiếng Hoa:
消息赋二
臣出自兰野,幼慕真风。入肆无悬壶之妙,游行无化杖之神。息一气以凝神,消五行而通道。
(臣者,对君之称。兰野,地名。自敍所出。幼慕真风,则其志大矣。悬壶化杖,乃壶公费长房故事,称前人之至妙,悔在己之无能。外绝所欲,内无所思,息一气以凝神,消五行而通道,故着此赋,名《消息》焉。盖造化有消有息故云。)
乾坤立其牝牡,金木定其刚柔;昼夜互为君臣,青赤时为父子。
(此消息造化之大规模也。乾属阳,为天道、君道、夫道;坤属阴,为地道、臣道、妇道。乾以动为体,曰辟户;坤以静为体,曰阖户。乾坤立阴阳牝牡之合,两者交通,斯五行变化在其中矣。《易》首乾坤,正此义也。仁柔义刚,金木性之所司。一阴一阳,刚柔相推。独刚而无柔,则不能生变;独柔而无刚,则不能生化。昼为刚,生变以进,夜为柔,生化以退。积刚柔而成变化,则昼夜而成进退。昼为阳以象君;夜为阴以象臣。昼夜之道,其微有消息;其着有盈虚;其分有幽明;其数有生死。一泰一否,一损一益。终始之相因,新故之相代,荣辱之所至,福禄之自来,莫不本诸此也。
五行之神曰帝,东方青帝之父;生南方赤帝之子。青赤之理,父传子道也。言阴阳五行之中,有君臣、父子、夫妇之道存焉。是造化之大旨,通乎人伦也欤。)
不可一途而取轨,不可一理而推之。
时有冬逢炎热,夏草遭霜;类有阴鼠栖冰,神龟宿火。
(此言阴阳五行之道,微妙难通,隐奥难测,不可只一途取轨,一理而推之。如冬寒夏热,此理之常,时之正也。若冬逢炎热,夏草遭霜,则非其时矣。非其时而行其令,是可以常理拘乎?鼠火龟冰,此理之有,类之宜也。阴鼠栖冰,神龟宿火,则非其类矣。非其类而居其所,是可以一途论乎?常者易究,不常者难穷,造化岂易言哉?邹子吹律,而寒谷回春;孝妇含冤,而六月飞霜,古今纪灾异,此类甚多,不可谓非阴阳五行之变也。火鼠之毛,绩而为布;冰蚕之脂,登而为俎,此世之所知也。神异经曰:北方有层冰万里,厚百丈,有鼠重万斤,毛长尺余,在中藏焉。是阴鼠之栖冰也。《尔雅》曰:一日神龟,十日火龟。郭璞赞云:天生神物,十朋之龟。或游於火。是神龟之宿火也。徐子平指冬至一阳生,夏至一阴生,为冬逢炎热,夏草遭霜。
以癸禄在子为人元,丙以癸为官印;戊禄在巳为人元,癸以戊为官印,为阴鼠栖冰、神龟宿火,恐非赋义。)
是以阴阳罕测,志物难穷。大抵三冬暑少,九夏阳多。
祸福有若祺祥,术士希其八九。
(上文言冬热夏霜,冰鼠火龟,非阴阳常理,物类相感,故云罕测难穷。此反照破上文,言时有冬逢炎热,大抵三冬天必少也;夏草遭霜,大抵九夏阳必多矣。寒暑既有其常,阴阳可窥其奥,祸福当以理推,祺祥显以类应。
术士专门论三命、五行,行年岁运,遇旺相得位之运则泰,退休囚失位之运则否。只道其常,可希冀八九中足矣。人命行年、岁运,祸福之应,如祺祥之变异,志物之难穷,挟术之士,十分之中,此理亦难希其八九。盖天地无全功,而况於人乎?亦通。)
或若生逢休败之地,早岁孤穷;老遇建旺之乡,临年偃蹇。
若乃初凶後吉,以源浊而流清;始吉终凶,类根甘而裔苦。
(身虽逐运,必假运以资身,势须及时,亦假时而乘势。生逢壮岁,运宜处於旺乡;晚遇衰年,运恰宜於困地。是乃随宜消息,休旺自如。初生歇灭,而晚岁兴隆者,源浊流清之谓也。幼年建旺而临老伶仃者,裔苦报甘之谓也。若乃较量运气,穷究根源,先察根基厚薄,兼明运限始终。虽未百发百中,亦可希其八九。大抵人命,立年为尊。其胎、月、日、时,资以次之。故曰,作四柱之君父,为吉凶之主宰,而立其年也。明运气之本,推虚实之基,而取其月。观安危之兆,察苦乐之原,而取其日。定贵贱之本,决生死之期,而取其时。辨幼荫之始,究未立之前,而取其胎。月管初主,日管中主,时管末主,年则总统之。须要终始兼济,前後相应,则富贵两全,财禄双显。无初吉终凶、始凶终吉之异矣,然而不易得也。或只中末兴隆,亦可为成实之命。)
观乎萌兆,察以其原,根在苗先,实从花後。
(谈命之说,以胎为根,以月为苗,以日为花,以时为实。穷根可以知苗,见花然後知实,是以圣人观乎先兆,见乎未萌,即察其根源,则知其苗裔也。徐曰;欲知运内吉凶,先看根元胜负。根元有贵,则运临贵而必贵;根元有财,则运临财而发财;根元有灾,则运临灾而生灾。其说亦通。)
胎生元命,三兽定其门宗;律吕宫商,五虎论其成败。
无合有合,後学难知。得一分三,前贤不载。
(道立於两,成於三,变於五,而天地之数,具其十也,耦之而已。无合有合,如甲与己合,柱不见己而得午,缘午中有己禄。寅与亥合,柱不见亥而得壬,缘亥上有壬禄。又如,寅午戌合,柱不见寅而得甲,缘寅中有甲禄。得一分三,如甲得己为一合,得午为二合,得亥为三合,此乃得一禄而分三禄。与前见不见之形,抽不抽之绪,理相贯穿。
李虚中论支干合全格;年、月、日、时胎五位,能合干支全,言子则丑在,言寅则亥在,言甲则己在,言乙则庚在。禄干五位,如带甲乙丙丁戊,自然合起己庚辛壬癸。十二支如带寅卯辰巳午,自然合起未申酉戌亥,或於子丑位有禄马加之,则十干十二支皆合全矣。徐曰:无合有合即刑合,丑子遥巳等格,得一者,既见有寅刑巳、丑破巳,而丙戊被刑破而出,则便分三而行,是三合巳酉丑也。古用曰:虎生奔巳猪猴走,羊击猪蛇自然荣。此解亦通。)
年虽逢於冠带,尚有余灾;运初至於衰乡,犹披鲜福。
(年,太岁也。运,大运也。年虽逢於冠带,犹被暴败之余灾;运虽至於衰乡,犹带旺官之鲜福。此行运所以有前後五年之说,二句互文见义。)
大段天元赢弱,宫吉不及以为荣,中下兴隆,卦凶不能成其咎。
(天元,十干也。干以生旺为荣,若衰病死墓绝,则天干赢弱,虽所临宫分之吉。如得财官、将星、天乙之类,亦不及以为荣。中,地支也。下,纳音也。中下俱临五行兴旺之地,虽八卦定分为凶,亦不能致灾。徐曰:凡命,天元临财官之地,而生不得时,本气赢弱,上下五行,休旺又不相辅,虽宫遇禄马之吉,亦不及以为荣。
如庚辛生於春月,别位有火克金,金见寅卯甲乙为财,缘木中旺火害金,而金又不得其令,虽宫属财吉,而反发凶祸之例是也。中者,人元。下者,支元。如丁以壬为官印,中下禄马建旺成庆,虽火临绝地,却乘中下之贵。成鉴曰:禄虽绝而建贵。陶朱云:绝禄亡财,不为凶兆是也。或以一吉三生属九宫,五鬼绝命属八卦。亦通。)
若遇尊凶卑吉,救疗无功;尊吉卑凶,逢灾自愈。禄有三会,灾有五期。
(立年为尊,其胎、月、日、时资以次之。大运为尊,其六岁、小运资以次之。若遇本命与大运德合於建旺之乡,其岁运、日、时凶而不能为咎。大运与本命争战於死囚之地,其岁运日时,吉而未足为救。故曰云云。禄有三会者,长生、帝旺、库也,其为至吉之地。灾有五期者,衰、病、死、败、绝,其为至凶之地。盖禄对灾言,非干禄之禄,当以活看。今之学者,但举三合,而以金逢巳酉丑,木居亥卯未,火得寅午戌,水遇申子辰,便是禄有三会,非也。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#383
Gửi vào 16/11/2024 - 12:56
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất
tiêu tức phú tam
Từ nói: vì tam nguyên ở bên ngoài hay bên trong của bát tự đắc lực là cao quý, tức là dụng thần vậy. Dụng thần không thể bị thương tổn, nếu bị thương tổn thì tuy tốt ở vị trí khác, cũng không thể cứu chữa. Nếu tam nguyên bên trong hay bên ngoài của năm tháng ngày giờ tuy có khắc chế hay xung đột nhau nhưng không tổn hại vị trí cao quý cho dù gặp tai hoạ cũng tự vượt qua. Cụ thể thần làm tổn hại tiêu tức chủ tốt xấu như thế nào, nếu hại mệnh thì bản thân có tai hoạ, nếu hại thê thì vợ có tai hoạ, nếu hại quan thì mất chức quan. Thuyết này có lý , nhưng chữ tôn ti (cao quý và thấp hèn) thiếu rõ ràng.
Hung đa cát thiểu, loại đại quá chi sơ hào; phúc thiển họa thâm, dụ đồng nhân chi cửu ngũ.
(Hung nhiều cát ít, tương tự hào sơ quẻ Đại Quá; phúc cạn hoạ sâu, ví như hào cửu ngũ của quẻ Đồng Nhân).
Mệnh mà hung nhiều cát ít, lý do nó là hưu tù không có khí lực, cho nên không thích hợp để sử dụng. Tương tự sơ hào quẻ Đại Quá, hào từ nói rằng: sơ lục, tạ dụng bạch mao (loài cỏ, rễ ngọt, dùng làm thuốc), vô cữu (sơ lục, dùng cỏ tranh để lót đồ, không có lỗi gì). Lục thì âm nhu, không vượt qua tài của con người, hào sơ ở dưới thấp, lúc không có gì để làm, có thể trốn tránh đời, xa lánh địa vị, đạo khuyên răn con người nên thận trọng. Phu Tử nói: đây là nghệ thuật cẩn thận ngày xưa, nó không mất mát gì cả. Ý nghĩa đúng của điều này vậy. Mệnh mà phúc mỏng hoạ sâu, lý do là ngũ hành của nó khắc nhau mà không có khí lực, cũng không mưu cầu để sử dụng thích hợp, giống như hào từ hào cửu ngũ trong quẻ Đồng Nhân nói rằng: đồng nhân tiên đào hào nhi hậu tiếu, đại sư khắc tương ngộ (đồng nhân trước gào khóc mà sau cười, quân đội lớn sẽ gặp nhau). "Tượng" nói: đồng nhân chi tiên, dĩ trung trực dã (lãnh đạo của đồng nhân, phải thẳng thắn). Có thể thấy đạo thẳng thắn kho thực hành, ý khuyên răn người tự kiềm chế vậy.
Văn hỉ bất hỉ, thị lục giáp chi khuy doanh; đương ưu bất ưu, lại ngũ hành chi cứu trợ.
(Nổi danh vui hay không vui, là đầy hay khuyết của sáu giáp; nên buồn hay không buồn, nhờ sự cứu trợ của ngũ hành).
Văn hỷ: lấy tự mãn để mà nói. Doanh là ích (tăng thêm). Bất hỷ: lấy hao tổn để mà nói. Khuy là hao tổn. Đạo tổn ích, bắt nguồn từ lục giáp, có thể lấy không vong là lúc trời đất sụp đổ. Sáu mệnh dương sợ ở cung dương, sáu mệnh âm sợ ở vị trí âm, tuế vận năm đi gặp lộc mã quý nhân, nhưng mà ở không vong, ngũ hành tăng thêm hay giảm bớt kiềm chế nhau, là nghe vui hay không vui.
Đương ưu bất ưu là ngũ hành ở chỗ hưu phế gặp được sanh, như trường hợp của mộc gặp được giáp thân hay quý tỵ.
Nếu như người mậu thân gặp được đinh dậu, bị đánh đập, phá toái, tự hình. Đinh dậu là tử hoả, tỵ hoá thành thổ, đạo mẹ truyền cho con, người giáp dần vận đến chỗ thân, xung hình phản ngâm, lộc mã đều tuyệt, vì kim viượng kiềm chế, độn thấy nhâm thân là có can cứu trợ. Thần Thuật nói rằng: tuyệt xứ gặp cha mẹ, biến tai hoạ thành phúc lành. Ta thấy ngũ hành của lục giáp thuyết của nó linh hoạt, có thể bát tự của nguyên mệnh có tổn giảm, có tăng thêm, có ngăn cản, có trợ giúp; có thể đi vận hay lưu niên có tổn giảm, có tăng thêm, có ngăn cản, có trợ giúp, không thể xác định. Tăng hay giảm, ý nghĩa của có thể tốt có thể xấu, cứu trợ nghĩa là kiềm chế cái xấu mà hỗ trợ cái tốt vậy.
Bát cô lâm ư ngũ mộ, tuất vị đông hành; lục hư hạ ư không vong, tự càn nam thủ.
(Bát cô đến năm mộ, tuất mùi đi về hướng dông; lục hư giáng xuống không vong, từ càn hướng về phương nam).
Trong tuần giáp tý tuất hợi là không vong, đối xung là lục hư chính là thìn tỵ. Tuất hợi là vị trí của càn kim, ở góc bắc của cực tây nối liền không đứt, giáp tuất giáp thân, từ càn hướng về phía nam, dần thân tỵ hợi là đất của tứ cô, thìn tuất sửu mùi là nơi của mộ, hướng về tuất mùi mà đi về phương đông, theo không vong mà chuyển nghịch. Hoặc đối với bát cô, trử thìn tuất sửu mùi là mộ của ngũ hành, còn lại bát âm (tám loại âm thanh: kim, thạch, ti, thổ, bào, trúc, cách, mộc 金 石 絲 竹 匏 土 革 木), thần của cô hư, cô đến mộ. Như người thân dậu, cô thần ở hợi, và quả tú ở chỗ mùi. Mộ của ngũ hành, gửi thân ở trong bốn khí, khí của nó theo nguyệt kiến mà đến, tuất với mùi đi về phương dông chính là mộ của hoả và mộc, mộc sanh từ hợi, hoả khởi từ dần, khí của hoả và mộc, đều từ hướng dần mà trải qua phương đông, và cuối cùng ẩn tàng ở mộ tuất và mùi. Như người sanh ất sửu, lấy hợi làm đúng không vong của lục âm, hợi xung tỵ là lục hư, hợi là càn là trời, tỵ là tốn là đất. Tỵ chính là thần cầm đầu của phương nam, cho nên nói rằng lục hư giáng xuống từ không vong. Cô đã đi vế phương đông, hư sẽ về phương tây, cả hai thường đối nhau. Đó là bàn tổng quát về tên của thần sát trong mười hai địa chi, thuận theo đường vòng tròn, cô hư không vong và ngũ mộ, là rất quan trọng của mệnh người
Thiên nguyên nhất khí, định hầu bá chi thiên vinh; chi tác nhân nguyên, vận thương đồ nhi đắc thất.
(Thiên nguyên cùng một khí,xác định vẻ vang của hầu bá; địa chi làm nhân nguyên, vận được mất của con đường buôn bán).
Lấyư can (có lẽ là chữ can mới có nghĩa thay vì chữ ư) làm lộc, cho nên thiên nguyên tươi đẹp, thêm cát tướng đến, người được vậy thì cao quý. Lấy địa chi làm mệnh, vì chi nguyên thuần tuý, tứ trụ bỉ hoà, người được như vậy thì giàu. Đó là phân chia của trời đất, khác biệt của can và chi. Thiên nguyên nhất khí, không phải cùng một dạng như người bàn luận mệnh thời nay hướng về, theo hình tượng bầu trời của mình, cho nên nói rằng nhất khí. Điều khiển thiên lộc. Cần lộc có mang theo thiên đức quan ấn quý thực, ngũ hành trong tứ trụ, đồng thời được khí sanh vượng cho đến quý. Đường lối của thương nhân, đều lấy nhân nguyên. Xác định tài vật được mất, cần quan sát có khí hay không, nên xét tìm tiến thần, thối thần, cho nên đoạn văn dưới đây nói rằng: tài mệnh có khí. Tài tuyệt mệnh suy. So sánh vận với định mà nói, định sẽ quyết định, vận sẽ trôi chảy, ý nghĩa mỗi thứ có chỗ dùng của mình vậy.
Đãn khán tài mệnh hữu khí, phùng bối lộc nhi bất bần; nhược dã tài tuyệt mệnh suy, túng kiến lộc nhi bất phú.
(Nhưng khi xem tài mệnh có khí lực, gặp bối lộc vẫn không nghèo; hoặc là tài tuyệt mệnh suy, cho dù kiến tạo lộc cũng không giàu).
Cuộc sống con người lấy tài mệnh làm chủ, ngũ hành mà mình khắc là tài. Có khí lực, nghĩa là tài với mệnh đều được ở chỗ ngũ hành sanh vượng, tuy rằng tứ trụ bối lộc (bỏ lộc lại ở phía sau), khiến cho không có quan, cũng không đến nổi nghèo hèn. Nếu mệnh với tài đều không có khí lực, tuy đắc nguyệt kiến ngồi ở lộc, khiến cho có chức quan nhỏ, cũng không khả năng dẫn đến phú quý. Như là canh dần mộc khắc bính tuất thổ là tài, thổ vượng ở tuất, thân mệnh hai mộc đến đông nam, tuất tuy bỏ lại sau lưng canh lộc của thân, vì tài mệnh có khí lực, cho nên không nghèo. Lại như người sanh giáp thìn được bính dần hoả, vì kim làm tài tuyệt ở dần, thìn thổ đến dần là mệnh quỷ, đồng thời lại là không vong, tài tuyệt mệnh suy tuy nguyệt kiến toạ lộc, vì tài mệnh không có khí lực, cho nên không giàu. Trước nói lấy can làm lộc, hướng bối (hướng tới và bỏ lại phía sau) xác định giàu nghèo của nó, bởi chỉ hai cung tài mệnh, mỗi thứ đều nên ở đất vượng. Không chỉ ở bát tự, hành vận cũng vậy. Từ giải thích: vì tài mệnh có khí lực, như giáp ất thấy các tháng tỵ ngọ kiến lộc mà không giàu như giáp ất sanh các tháng dần mão. Nên xem xét nó một cách chi tiết.
Nhược nãi thân vượng quỷ tuyệt, tuy phá mệnh nhi trường niên; quỷ vượng thân suy, phùng kiến mệnh nhi yểu thọ.
(Nếu mà thân vượng quỷ tuyệt, tuy mệnh bị phá vẫn sống lâu; còn quỷ vượng thân suy, gặp kiến mệnh mà vẫn chết trẻ).
Phá mệnh trường niên (mệnh bị phá mà vẫn sống lâu), vì bổn mệnh ở cung vượng gặp quỷ tuyệt thì dúng như vậy. Như hoả ở cung tỵ gặp thuỷ, mộc ở đất dần gặp kim, thổ hướng về nơi thân mà gặp mộc, kim về với hợi gặp hoả. Phùng kiến mệnh nhi yểu thọ (gặp kiến mệnh mà chết trẻ), vì bổn mệnh ở nơi suy gặp quỷ vượng là đúng như vậy. Vì thổ đến dần trong đó thấy mộc, hoả về với hợi gặp thuỷ, kim ở nơi tỵ gặp hoả, hoả ở nơi thân gặp kim, đều lấy theo nạp âm. Ngũ hành bị chế phục thì yểu, chế phục được vật thì thọ. Xưa nói rằng: kiến mệnh chủ tuổi thọ lâu dài, phá mệnh chủ chết non. Cho nên Trúc Luân Kinh nói rằng: kiến mệnh chưa chắc tuổi thọ kéo dài, phá mệnh chưa chắc tuổi thọ ngắn. Đó là Lạc Lục Tử dùng làm tiêu tức. Thiên nguyên bàn về quý, nhân nguyên bàn về phú, tài mệnh bàn về phú quý, thân quỷ bàn về thọ yểu, mỗi yếu tố đều đề cập đến tầm quan trọng của nó.
Bối lộc trục mã, thủ cùng đồ nhi thê hoàng; lộc mã đồng hương, bất tam thai nhi bát tọa.
(Bỏ lại lộc phía sau đuổi theo mã, giữ tuyệt lộ nên đau buồn lo lắng không yên; lộc mã cùng nơi, không tam thai cũng bát toạ).
Lộc là ý nghĩa bỗng lộc của chức tước. Mã là ý nghĩa của xe và ngựa. Con người rất coi trọng bỗng lộc và xe hay ngựa, cho nên tạm thời nói, lộc mã đều có thể dẫn đến phú quý. Nếu cỏng lộc mà đi, mã đuổi theo nên tán loạn, cả hai đều mất, vì thế giữ tuyệt lộ nên đau buồn lo lắng không yên. Bối, như âm dương làm trái ngược nhau, không phải cái gọi là hướng (ngả theo). Trục như xua đuổi. Không phải cái gọi là đuổi theo. Như người quý hợi gặp tháng giêng là giáp dần, quý lộc ở tý, dần đã bỏ lại phía sau; lộc mã ở tỵ, dần đã hình; ở phía trước vì hình nên xua đuổi mã của nó, ở phía sau vì bỏ lại nên không thể với tới lộc, mã ở mặt trước, lộc ở sau lưng,hướng về phía trước tìm kiếm mã, lộc lại không đến, hướng về phía sau đợi lộc, mã lại xa dần, điều này hoàn toàn làm cho che lấp lộc và ngăn cản mã khác với cùng một nơi. Dùng can ngày độn lộc, can giờ độn mã theo ngũ thử động thì có thể hiểu được.
Ví như lệnh người canh ngọ, được ngày nhâm thìn giờ đinh mùi, liền lấy đinh nhâm canh tý độn đến mậu thân, lý do canh lộc và mã của ngọ đều cùng ở thân, cùng với bổn mệnh thích nghi nhau càng thêm tốt đẹp. Lại như người giáp thân, tháng đinh sửu, ngày kỷ hợi, giờ bính dần, sanh thời ở chỗ đế toạ, tụ hợp cùng lộc mã, đồng thời giáp thân kỷ hợi bính dần đều nhận khí của ngũ hành sanh vượng rõ ràng, cho nên ứng nghiệm ở cuối đời gặp việc phi thường, vì địa vị đến tam công (ba chức quan lớn nhất triều đình thời cổ Trung Hoa, gồm Thái Sư 太師, Thái Phó 太傅, Thái Bảo 太保.), tuổi thọ hơn bảy mươi.
Từ giải thích lấy lộc làm quan, mã làm tài, gặp thương quan là bối lộc, gặp tỷ kiếp là trục mã. Như người giáp sanh ba tháng mùa xuân, hay cửu (chín mươi ngày) hạ, thiên nguyên có mang theo bính đinh, giáp ất hoặc trường hợp của hợi mão mùi cùng một nơi. Chính là các ngày nhâm ngọ, quý tỵ, trụ có trường hợp đinh kỷ bính mậu trở về gặp sửu tỵ, nên hiểu rõ.
Quan sùng vị hiển, định tri giáp lộc chi hương. Tiểu doanh đại khuy, khủng thị kiếp tài chi địa.
(Chức quan cao địa vị vẻ vang, nhất định biết là kề ở bên của lộc. Tăng thêm ít tổn thất nhiều, e sợ là đất của kiếp tài).
Giáp lộc tức là củng lộc, như trường hợp quý sửu gặp quý hợi. Kiếp là kiếp sát như đinh sửu gặp năm bính dần, thuỷ lấy khắc hoả làm tài, bính dần chính là hoả tự sanh, có thể là tiểu doanh (tăng thêm ít). Người sửu lấy cô kiếp ở dần, sửu thổ bị dần mộc chế phục, là tài hoá quỷ, ở đây gọi là đại khuy (tổn thất lớn).
Tam mệnh lấy tài vượng là tốt đẹp, con người lấy có tài là phúc lành. Nếu gặp đất kiếp, cho dù mệnh lộc có một hai chỗ tốt lành, cũng không tránh khỏi đại quá (mất đi lớn lao).
Từ bàn luận: giáp lộc như ngày quý sửu giờ quý hợi, lộc của mình không thể nào hợp với thiên can của năm hoá thành hại lẫn nhau, cũng không nên khắc hoại thiên can hay xung động địa chi, Quý nhân kề bên không trụ lại nên quý khí chạy mất, cho nên chỗ đất của phúc tụ không thể nào có thương tổn; chỗ đất của hoạ tụ không thể không có bại. Năm thiên can dương gặp năm thiên can âm là kiếp tài, năm thiên can âm gặp năm thiên can dương là bại tài. Kiếp thì hung xấu hơn là bại, giải thích này thật là hay.
Sanh nguyệt đái lộc, nhập thế cư hách dịch chi tôn; trọng phạm kì nghi, uẩn tạ bão xuất quần chi khí.
Âm nam dương nữ, thì quan xuất nhập chi niên; âm nữ dương nam, canh khán nguyên thần chi tuế.
(Tháng sanh có mang theo lộc, vào đời chỗ cao quý hách dịch; nhiều lần bất chấp hình thức đặc biệt, hàm chứa hoài bão tài năng vượt hơn mọi người.
Âm nam dương nữ, thời xem xét năm qua lại; âm nữ dương nam ngược lại xem năm của nguyên thần).
Link đến bản tiếng Hoa:
消息赋三
徐言:以八字中内外三元,有最得力者为尊,即用神也。用神不可损伤,若有损伤,则虽别位之吉,不能救。若年、月、日、时内外三元虽有克战,但不损於尊者,即逢灾自愈也。更切消息所损之神,主何吉凶,害命则身灾,害妻则妻灾,害官则官失。其说有理,但尊卑字欠通。)
凶多吉少,类大过之初爻;福浅祸深,喻同人之九五。
(凶多吉少之命,以其休囚无气,故不宜於进用。有类大过初爻,其爻辞云,初六,藉用白茅,无咎。六阴柔,无过人之才,初在下,非有为之时,可以遁世而避位,戒人以慎之道也。夫子曰:慎斯术也,以往,其无所失矣。正此意也。福浅祸深之命,以其五行相克而无气,亦非谋望进用之宜,喻如同人卦中九五爻辞云:同人先咷号,而後笑,大师克相遇。《象》曰:同人之先,以中直也。可见直道难行,戒人以自克之意也。)
闻喜不喜,是六甲之亏盈;当忧不忧,赖五行之救助。
(闻喜,以盈为言。盈者,益也。不喜,以亏为言。亏者,损也。损益之道,由六甲而推之,或以空亡为天地虚脱之辰。六阳命畏於阳宫,六阴命畏於阴位,岁运行年遇禄马贵人,而在空亡,五行之亏盈相制,是闻喜不喜也。
当忧不忧,是五行休废之处逢生,如木得甲申癸巳之例。
假如戊申人得丁酉,暴殴破碎自刑。丁酉死火,巳化为土,子传母道,甲寅人运至申上,冲刑反吟,禄马俱绝,为旺金所制,遁见壬申是干救。神术云:绝处逢父母,变灾为福是也。余见六甲五行,其说国活,或元命八字有亏、有盈、有救、有助,或行运流年有亏,有盈、有救、有助,不可执定。亏盈者,或吉或凶之谓也、救助者,制凶扶吉之谓也。)
八孤临於五墓,戌未东行;六虚下於空亡,自乾南首。
(甲子旬中,戌亥为空亡,对冲为六虚,乃辰巳也。戌亥是乾金之位,在西极之北隅迤逦,甲戌甲申,自乾南首,故寅申巳亥四孤之地,辰戌丑未五墓之乡,向戌未而东行,顺空亡而逆转。或以八孤者,除辰戌丑未乃五行之墓,其余八音,孤虚之辰,孤临於墓。如申酉人,孤辰在亥,而寡宿居未。五行之墓,寄於四气之中,其气皆随月建而来,行东之戌与未乃火木之墓,木自亥生,火从寅起,火木之气,皆自寅首之东行,而锺藏於戌未之墓。如乙丑生人,以亥为六阴正空亡,亥冲巳为六虚,亥为乾天,巳为巽地。巳乃南方之首神,故云六虚下於空亡。孤既东行,虚则西回,二者尝相对。此总论十二支中神煞之名,顺道回圈,孤虚空亡五墓,为人命之最要者欤。)
天元一气,定侯伯之迁荣;支作人元,运商徒而得失。
(以於为禄,故天元清秀,吉将加临,人得之而贵也。以支为命,故支元纯粹,四柱比和,人得之而富也。此天地之分,干支之别也。天元一气,不是一样,如今谈命者所指,以其象天,故云一气。天禄之所司也。须禄带天德官印贵食,五行四柱中,兼得生旺气者至贵。商贾之徒,详以人元。定财物之得失,须观有气、无气,当究进神、退神,故下文云:财命有气。财绝命衰。运对定而言,定则决定、运则流转,义各有所取也。)
但看财命有气,逢背禄而不贫;若也财绝命衰,纵建禄而不富。
(人生以财命为主,五行所克者,谓之财。有气,谓财与命皆得寓於五行生旺之地,虽四柱背禄,使之无官,亦不至贫贱。若命与财俱无气,虽得月建坐禄,使有小官,亦不能致富贵。假如庚寅木克丙戌土为财,土旺在戌,身命二木至东南,戌虽背申之庚禄,以其财命有气,故不贫。又如甲辰生人,得丙寅火,以金为财,绝在寅,辰土至寅为命鬼,兼通空亡、财绝命衰,虽月建坐禄,以财命无气,故不富。前云以干为禄,向背定其贫富,盖指财命两宫,各宜旺地。不但八字,行运皆然。徐说,以财命有气,如甲乙见巳午等月,建禄不富,如甲乙生寅卯等月。当并详之。)
若乃身旺鬼绝。虽破命而长年;鬼旺身衰,逢建命而夭寿。
(破命长年,以其本命旺宫逢绝鬼者是也。如火在巳宫值水,木居寅地逢金,土向申乡遇木,金归亥中逢火。逢建命而夭寿,以其本命衰乡逢旺鬼是也。以土到寅中见木,火归亥地逢水,金在巳乡得火,火居申位逢金,俱以纳音取之。五行之理受制则夭,制物则寿。旧云:建命主寿长,破命主夭殇。故竹轮经云:建命未必延长,破命未必夭寿。此珞琭子所以消息也。天元论贵,人元论富,财命论贫富,身鬼论寿夭,各指其重者言之也。)
背禄逐马,守穷途而凄惶;禄马同乡,不三台而八座。
(禄者,爵禄之谓也。马者,车马之谓也。人命重禄马,故先言之,禄马皆可以致富贵。若禄背之而去,马逐之而散,二者俱失,所以守穷途而凄惶。背,如阴阳之相背,非所谓向也。逐,如逐散之逐。非所谓追也。如癸亥人得正月甲寅,癸禄在子,寅以背之;禄马在巳,寅以刑之;前因刑而逐去其马,後因背而不能及禄,马在面前,禄在背後,向前趁马,禄又不来,向後待禄,马又渐远,此正与扞禄拦马相反同乡。用日干遁禄,时干遁马,五子元求之,则可知。
假令庚午人,得壬辰日,丁未时,便以丁壬庚子遁至戊申,缘庚禄午马同在申上,与本命相得尤佳。又如甲申人,丁丑月,己亥日,丙寅时,其生时於帝座上,会同禄马兼甲申、己亥、丙寅皆禀五行清旺生气,故应晚年有非常之遇,所以位至三公,寿逾七十。
徐说,以禄为官、马为财,见伤官为背禄、见比劫为逐马。如甲人生三春、九夏,天元更带丙丁、甲乙,或亥卯未之例同乡。乃壬午、癸巳等日,柱有丁己丙戌归逢丑巳之例,并当详之。)
官崇位显,定知夹禄之乡。小盈大亏,恐是劫财之地。
(夹禄即拱禄,如癸丑得癸亥之例。劫,劫煞,如丁丑得丙寅岁,水以克火为财,丙寅乃自生之火,可谓小盈。丑人以孤劫在寅,丑土受寅木之制,为财化鬼,斯所谓大亏也。
三命以财旺为佳,人以有财为福。若值劫地,纵禄命有一、二吉处,亦不免大过。
徐论,夹禄,如癸丑日癸亥时,不可本禄上为岁首合化相害,更不可克坏天干,冲动地支,夹贵不住,走了贵气,所以福聚之地,不可有伤;祸聚之地,不可无败。五阳干见五阴为劫财,五阴乾见五阳为败财。劫凶於败,其解尤善。)
生月带禄,入世居赫奕之尊;重犯奇仪,蕴藉抱出群之器。
阴男阳女,时观出入之年;阴女阳男,更看元辰之岁。
.
tiêu tức phú tam
Từ nói: vì tam nguyên ở bên ngoài hay bên trong của bát tự đắc lực là cao quý, tức là dụng thần vậy. Dụng thần không thể bị thương tổn, nếu bị thương tổn thì tuy tốt ở vị trí khác, cũng không thể cứu chữa. Nếu tam nguyên bên trong hay bên ngoài của năm tháng ngày giờ tuy có khắc chế hay xung đột nhau nhưng không tổn hại vị trí cao quý cho dù gặp tai hoạ cũng tự vượt qua. Cụ thể thần làm tổn hại tiêu tức chủ tốt xấu như thế nào, nếu hại mệnh thì bản thân có tai hoạ, nếu hại thê thì vợ có tai hoạ, nếu hại quan thì mất chức quan. Thuyết này có lý , nhưng chữ tôn ti (cao quý và thấp hèn) thiếu rõ ràng.
Hung đa cát thiểu, loại đại quá chi sơ hào; phúc thiển họa thâm, dụ đồng nhân chi cửu ngũ.
(Hung nhiều cát ít, tương tự hào sơ quẻ Đại Quá; phúc cạn hoạ sâu, ví như hào cửu ngũ của quẻ Đồng Nhân).
Mệnh mà hung nhiều cát ít, lý do nó là hưu tù không có khí lực, cho nên không thích hợp để sử dụng. Tương tự sơ hào quẻ Đại Quá, hào từ nói rằng: sơ lục, tạ dụng bạch mao (loài cỏ, rễ ngọt, dùng làm thuốc), vô cữu (sơ lục, dùng cỏ tranh để lót đồ, không có lỗi gì). Lục thì âm nhu, không vượt qua tài của con người, hào sơ ở dưới thấp, lúc không có gì để làm, có thể trốn tránh đời, xa lánh địa vị, đạo khuyên răn con người nên thận trọng. Phu Tử nói: đây là nghệ thuật cẩn thận ngày xưa, nó không mất mát gì cả. Ý nghĩa đúng của điều này vậy. Mệnh mà phúc mỏng hoạ sâu, lý do là ngũ hành của nó khắc nhau mà không có khí lực, cũng không mưu cầu để sử dụng thích hợp, giống như hào từ hào cửu ngũ trong quẻ Đồng Nhân nói rằng: đồng nhân tiên đào hào nhi hậu tiếu, đại sư khắc tương ngộ (đồng nhân trước gào khóc mà sau cười, quân đội lớn sẽ gặp nhau). "Tượng" nói: đồng nhân chi tiên, dĩ trung trực dã (lãnh đạo của đồng nhân, phải thẳng thắn). Có thể thấy đạo thẳng thắn kho thực hành, ý khuyên răn người tự kiềm chế vậy.
Văn hỉ bất hỉ, thị lục giáp chi khuy doanh; đương ưu bất ưu, lại ngũ hành chi cứu trợ.
(Nổi danh vui hay không vui, là đầy hay khuyết của sáu giáp; nên buồn hay không buồn, nhờ sự cứu trợ của ngũ hành).
Văn hỷ: lấy tự mãn để mà nói. Doanh là ích (tăng thêm). Bất hỷ: lấy hao tổn để mà nói. Khuy là hao tổn. Đạo tổn ích, bắt nguồn từ lục giáp, có thể lấy không vong là lúc trời đất sụp đổ. Sáu mệnh dương sợ ở cung dương, sáu mệnh âm sợ ở vị trí âm, tuế vận năm đi gặp lộc mã quý nhân, nhưng mà ở không vong, ngũ hành tăng thêm hay giảm bớt kiềm chế nhau, là nghe vui hay không vui.
Đương ưu bất ưu là ngũ hành ở chỗ hưu phế gặp được sanh, như trường hợp của mộc gặp được giáp thân hay quý tỵ.
Nếu như người mậu thân gặp được đinh dậu, bị đánh đập, phá toái, tự hình. Đinh dậu là tử hoả, tỵ hoá thành thổ, đạo mẹ truyền cho con, người giáp dần vận đến chỗ thân, xung hình phản ngâm, lộc mã đều tuyệt, vì kim viượng kiềm chế, độn thấy nhâm thân là có can cứu trợ. Thần Thuật nói rằng: tuyệt xứ gặp cha mẹ, biến tai hoạ thành phúc lành. Ta thấy ngũ hành của lục giáp thuyết của nó linh hoạt, có thể bát tự của nguyên mệnh có tổn giảm, có tăng thêm, có ngăn cản, có trợ giúp; có thể đi vận hay lưu niên có tổn giảm, có tăng thêm, có ngăn cản, có trợ giúp, không thể xác định. Tăng hay giảm, ý nghĩa của có thể tốt có thể xấu, cứu trợ nghĩa là kiềm chế cái xấu mà hỗ trợ cái tốt vậy.
Bát cô lâm ư ngũ mộ, tuất vị đông hành; lục hư hạ ư không vong, tự càn nam thủ.
(Bát cô đến năm mộ, tuất mùi đi về hướng dông; lục hư giáng xuống không vong, từ càn hướng về phương nam).
Trong tuần giáp tý tuất hợi là không vong, đối xung là lục hư chính là thìn tỵ. Tuất hợi là vị trí của càn kim, ở góc bắc của cực tây nối liền không đứt, giáp tuất giáp thân, từ càn hướng về phía nam, dần thân tỵ hợi là đất của tứ cô, thìn tuất sửu mùi là nơi của mộ, hướng về tuất mùi mà đi về phương đông, theo không vong mà chuyển nghịch. Hoặc đối với bát cô, trử thìn tuất sửu mùi là mộ của ngũ hành, còn lại bát âm (tám loại âm thanh: kim, thạch, ti, thổ, bào, trúc, cách, mộc 金 石 絲 竹 匏 土 革 木), thần của cô hư, cô đến mộ. Như người thân dậu, cô thần ở hợi, và quả tú ở chỗ mùi. Mộ của ngũ hành, gửi thân ở trong bốn khí, khí của nó theo nguyệt kiến mà đến, tuất với mùi đi về phương dông chính là mộ của hoả và mộc, mộc sanh từ hợi, hoả khởi từ dần, khí của hoả và mộc, đều từ hướng dần mà trải qua phương đông, và cuối cùng ẩn tàng ở mộ tuất và mùi. Như người sanh ất sửu, lấy hợi làm đúng không vong của lục âm, hợi xung tỵ là lục hư, hợi là càn là trời, tỵ là tốn là đất. Tỵ chính là thần cầm đầu của phương nam, cho nên nói rằng lục hư giáng xuống từ không vong. Cô đã đi vế phương đông, hư sẽ về phương tây, cả hai thường đối nhau. Đó là bàn tổng quát về tên của thần sát trong mười hai địa chi, thuận theo đường vòng tròn, cô hư không vong và ngũ mộ, là rất quan trọng của mệnh người
Thiên nguyên nhất khí, định hầu bá chi thiên vinh; chi tác nhân nguyên, vận thương đồ nhi đắc thất.
(Thiên nguyên cùng một khí,xác định vẻ vang của hầu bá; địa chi làm nhân nguyên, vận được mất của con đường buôn bán).
Lấy
Đãn khán tài mệnh hữu khí, phùng bối lộc nhi bất bần; nhược dã tài tuyệt mệnh suy, túng kiến lộc nhi bất phú.
(Nhưng khi xem tài mệnh có khí lực, gặp bối lộc vẫn không nghèo; hoặc là tài tuyệt mệnh suy, cho dù kiến tạo lộc cũng không giàu).
Cuộc sống con người lấy tài mệnh làm chủ, ngũ hành mà mình khắc là tài. Có khí lực, nghĩa là tài với mệnh đều được ở chỗ ngũ hành sanh vượng, tuy rằng tứ trụ bối lộc (bỏ lộc lại ở phía sau), khiến cho không có quan, cũng không đến nổi nghèo hèn. Nếu mệnh với tài đều không có khí lực, tuy đắc nguyệt kiến ngồi ở lộc, khiến cho có chức quan nhỏ, cũng không khả năng dẫn đến phú quý. Như là canh dần mộc khắc bính tuất thổ là tài, thổ vượng ở tuất, thân mệnh hai mộc đến đông nam, tuất tuy bỏ lại sau lưng canh lộc của thân, vì tài mệnh có khí lực, cho nên không nghèo. Lại như người sanh giáp thìn được bính dần hoả, vì kim làm tài tuyệt ở dần, thìn thổ đến dần là mệnh quỷ, đồng thời lại là không vong, tài tuyệt mệnh suy tuy nguyệt kiến toạ lộc, vì tài mệnh không có khí lực, cho nên không giàu. Trước nói lấy can làm lộc, hướng bối (hướng tới và bỏ lại phía sau) xác định giàu nghèo của nó, bởi chỉ hai cung tài mệnh, mỗi thứ đều nên ở đất vượng. Không chỉ ở bát tự, hành vận cũng vậy. Từ giải thích: vì tài mệnh có khí lực, như giáp ất thấy các tháng tỵ ngọ kiến lộc mà không giàu như giáp ất sanh các tháng dần mão. Nên xem xét nó một cách chi tiết.
Nhược nãi thân vượng quỷ tuyệt, tuy phá mệnh nhi trường niên; quỷ vượng thân suy, phùng kiến mệnh nhi yểu thọ.
(Nếu mà thân vượng quỷ tuyệt, tuy mệnh bị phá vẫn sống lâu; còn quỷ vượng thân suy, gặp kiến mệnh mà vẫn chết trẻ).
Phá mệnh trường niên (mệnh bị phá mà vẫn sống lâu), vì bổn mệnh ở cung vượng gặp quỷ tuyệt thì dúng như vậy. Như hoả ở cung tỵ gặp thuỷ, mộc ở đất dần gặp kim, thổ hướng về nơi thân mà gặp mộc, kim về với hợi gặp hoả. Phùng kiến mệnh nhi yểu thọ (gặp kiến mệnh mà chết trẻ), vì bổn mệnh ở nơi suy gặp quỷ vượng là đúng như vậy. Vì thổ đến dần trong đó thấy mộc, hoả về với hợi gặp thuỷ, kim ở nơi tỵ gặp hoả, hoả ở nơi thân gặp kim, đều lấy theo nạp âm. Ngũ hành bị chế phục thì yểu, chế phục được vật thì thọ. Xưa nói rằng: kiến mệnh chủ tuổi thọ lâu dài, phá mệnh chủ chết non. Cho nên Trúc Luân Kinh nói rằng: kiến mệnh chưa chắc tuổi thọ kéo dài, phá mệnh chưa chắc tuổi thọ ngắn. Đó là Lạc Lục Tử dùng làm tiêu tức. Thiên nguyên bàn về quý, nhân nguyên bàn về phú, tài mệnh bàn về phú quý, thân quỷ bàn về thọ yểu, mỗi yếu tố đều đề cập đến tầm quan trọng của nó.
Bối lộc trục mã, thủ cùng đồ nhi thê hoàng; lộc mã đồng hương, bất tam thai nhi bát tọa.
(Bỏ lại lộc phía sau đuổi theo mã, giữ tuyệt lộ nên đau buồn lo lắng không yên; lộc mã cùng nơi, không tam thai cũng bát toạ).
Lộc là ý nghĩa bỗng lộc của chức tước. Mã là ý nghĩa của xe và ngựa. Con người rất coi trọng bỗng lộc và xe hay ngựa, cho nên tạm thời nói, lộc mã đều có thể dẫn đến phú quý. Nếu cỏng lộc mà đi, mã đuổi theo nên tán loạn, cả hai đều mất, vì thế giữ tuyệt lộ nên đau buồn lo lắng không yên. Bối, như âm dương làm trái ngược nhau, không phải cái gọi là hướng (ngả theo). Trục như xua đuổi. Không phải cái gọi là đuổi theo. Như người quý hợi gặp tháng giêng là giáp dần, quý lộc ở tý, dần đã bỏ lại phía sau; lộc mã ở tỵ, dần đã hình; ở phía trước vì hình nên xua đuổi mã của nó, ở phía sau vì bỏ lại nên không thể với tới lộc, mã ở mặt trước, lộc ở sau lưng,hướng về phía trước tìm kiếm mã, lộc lại không đến, hướng về phía sau đợi lộc, mã lại xa dần, điều này hoàn toàn làm cho che lấp lộc và ngăn cản mã khác với cùng một nơi. Dùng can ngày độn lộc, can giờ độn mã theo ngũ thử động thì có thể hiểu được.
Ví như lệnh người canh ngọ, được ngày nhâm thìn giờ đinh mùi, liền lấy đinh nhâm canh tý độn đến mậu thân, lý do canh lộc và mã của ngọ đều cùng ở thân, cùng với bổn mệnh thích nghi nhau càng thêm tốt đẹp. Lại như người giáp thân, tháng đinh sửu, ngày kỷ hợi, giờ bính dần, sanh thời ở chỗ đế toạ, tụ hợp cùng lộc mã, đồng thời giáp thân kỷ hợi bính dần đều nhận khí của ngũ hành sanh vượng rõ ràng, cho nên ứng nghiệm ở cuối đời gặp việc phi thường, vì địa vị đến tam công (ba chức quan lớn nhất triều đình thời cổ Trung Hoa, gồm Thái Sư 太師, Thái Phó 太傅, Thái Bảo 太保.), tuổi thọ hơn bảy mươi.
Từ giải thích lấy lộc làm quan, mã làm tài, gặp thương quan là bối lộc, gặp tỷ kiếp là trục mã. Như người giáp sanh ba tháng mùa xuân, hay cửu (chín mươi ngày) hạ, thiên nguyên có mang theo bính đinh, giáp ất hoặc trường hợp của hợi mão mùi cùng một nơi. Chính là các ngày nhâm ngọ, quý tỵ, trụ có trường hợp đinh kỷ bính mậu trở về gặp sửu tỵ, nên hiểu rõ.
Quan sùng vị hiển, định tri giáp lộc chi hương. Tiểu doanh đại khuy, khủng thị kiếp tài chi địa.
(Chức quan cao địa vị vẻ vang, nhất định biết là kề ở bên của lộc. Tăng thêm ít tổn thất nhiều, e sợ là đất của kiếp tài).
Giáp lộc tức là củng lộc, như trường hợp quý sửu gặp quý hợi. Kiếp là kiếp sát như đinh sửu gặp năm bính dần, thuỷ lấy khắc hoả làm tài, bính dần chính là hoả tự sanh, có thể là tiểu doanh (tăng thêm ít). Người sửu lấy cô kiếp ở dần, sửu thổ bị dần mộc chế phục, là tài hoá quỷ, ở đây gọi là đại khuy (tổn thất lớn).
Tam mệnh lấy tài vượng là tốt đẹp, con người lấy có tài là phúc lành. Nếu gặp đất kiếp, cho dù mệnh lộc có một hai chỗ tốt lành, cũng không tránh khỏi đại quá (mất đi lớn lao).
Từ bàn luận: giáp lộc như ngày quý sửu giờ quý hợi, lộc của mình không thể nào hợp với thiên can của năm hoá thành hại lẫn nhau, cũng không nên khắc hoại thiên can hay xung động địa chi, Quý nhân kề bên không trụ lại nên quý khí chạy mất, cho nên chỗ đất của phúc tụ không thể nào có thương tổn; chỗ đất của hoạ tụ không thể không có bại. Năm thiên can dương gặp năm thiên can âm là kiếp tài, năm thiên can âm gặp năm thiên can dương là bại tài. Kiếp thì hung xấu hơn là bại, giải thích này thật là hay.
Sanh nguyệt đái lộc, nhập thế cư hách dịch chi tôn; trọng phạm kì nghi, uẩn tạ bão xuất quần chi khí.
Âm nam dương nữ, thì quan xuất nhập chi niên; âm nữ dương nam, canh khán nguyên thần chi tuế.
(Tháng sanh có mang theo lộc, vào đời chỗ cao quý hách dịch; nhiều lần bất chấp hình thức đặc biệt, hàm chứa hoài bão tài năng vượt hơn mọi người.
Âm nam dương nữ, thời xem xét năm qua lại; âm nữ dương nam ngược lại xem năm của nguyên thần).
Link đến bản tiếng Hoa:
消息赋三
徐言:以八字中内外三元,有最得力者为尊,即用神也。用神不可损伤,若有损伤,则虽别位之吉,不能救。若年、月、日、时内外三元虽有克战,但不损於尊者,即逢灾自愈也。更切消息所损之神,主何吉凶,害命则身灾,害妻则妻灾,害官则官失。其说有理,但尊卑字欠通。)
凶多吉少,类大过之初爻;福浅祸深,喻同人之九五。
(凶多吉少之命,以其休囚无气,故不宜於进用。有类大过初爻,其爻辞云,初六,藉用白茅,无咎。六阴柔,无过人之才,初在下,非有为之时,可以遁世而避位,戒人以慎之道也。夫子曰:慎斯术也,以往,其无所失矣。正此意也。福浅祸深之命,以其五行相克而无气,亦非谋望进用之宜,喻如同人卦中九五爻辞云:同人先咷号,而後笑,大师克相遇。《象》曰:同人之先,以中直也。可见直道难行,戒人以自克之意也。)
闻喜不喜,是六甲之亏盈;当忧不忧,赖五行之救助。
(闻喜,以盈为言。盈者,益也。不喜,以亏为言。亏者,损也。损益之道,由六甲而推之,或以空亡为天地虚脱之辰。六阳命畏於阳宫,六阴命畏於阴位,岁运行年遇禄马贵人,而在空亡,五行之亏盈相制,是闻喜不喜也。
当忧不忧,是五行休废之处逢生,如木得甲申癸巳之例。
假如戊申人得丁酉,暴殴破碎自刑。丁酉死火,巳化为土,子传母道,甲寅人运至申上,冲刑反吟,禄马俱绝,为旺金所制,遁见壬申是干救。神术云:绝处逢父母,变灾为福是也。余见六甲五行,其说国活,或元命八字有亏、有盈、有救、有助,或行运流年有亏,有盈、有救、有助,不可执定。亏盈者,或吉或凶之谓也、救助者,制凶扶吉之谓也。)
八孤临於五墓,戌未东行;六虚下於空亡,自乾南首。
(甲子旬中,戌亥为空亡,对冲为六虚,乃辰巳也。戌亥是乾金之位,在西极之北隅迤逦,甲戌甲申,自乾南首,故寅申巳亥四孤之地,辰戌丑未五墓之乡,向戌未而东行,顺空亡而逆转。或以八孤者,除辰戌丑未乃五行之墓,其余八音,孤虚之辰,孤临於墓。如申酉人,孤辰在亥,而寡宿居未。五行之墓,寄於四气之中,其气皆随月建而来,行东之戌与未乃火木之墓,木自亥生,火从寅起,火木之气,皆自寅首之东行,而锺藏於戌未之墓。如乙丑生人,以亥为六阴正空亡,亥冲巳为六虚,亥为乾天,巳为巽地。巳乃南方之首神,故云六虚下於空亡。孤既东行,虚则西回,二者尝相对。此总论十二支中神煞之名,顺道回圈,孤虚空亡五墓,为人命之最要者欤。)
天元一气,定侯伯之迁荣;支作人元,运商徒而得失。
(以於为禄,故天元清秀,吉将加临,人得之而贵也。以支为命,故支元纯粹,四柱比和,人得之而富也。此天地之分,干支之别也。天元一气,不是一样,如今谈命者所指,以其象天,故云一气。天禄之所司也。须禄带天德官印贵食,五行四柱中,兼得生旺气者至贵。商贾之徒,详以人元。定财物之得失,须观有气、无气,当究进神、退神,故下文云:财命有气。财绝命衰。运对定而言,定则决定、运则流转,义各有所取也。)
但看财命有气,逢背禄而不贫;若也财绝命衰,纵建禄而不富。
(人生以财命为主,五行所克者,谓之财。有气,谓财与命皆得寓於五行生旺之地,虽四柱背禄,使之无官,亦不至贫贱。若命与财俱无气,虽得月建坐禄,使有小官,亦不能致富贵。假如庚寅木克丙戌土为财,土旺在戌,身命二木至东南,戌虽背申之庚禄,以其财命有气,故不贫。又如甲辰生人,得丙寅火,以金为财,绝在寅,辰土至寅为命鬼,兼通空亡、财绝命衰,虽月建坐禄,以财命无气,故不富。前云以干为禄,向背定其贫富,盖指财命两宫,各宜旺地。不但八字,行运皆然。徐说,以财命有气,如甲乙见巳午等月,建禄不富,如甲乙生寅卯等月。当并详之。)
若乃身旺鬼绝。虽破命而长年;鬼旺身衰,逢建命而夭寿。
(破命长年,以其本命旺宫逢绝鬼者是也。如火在巳宫值水,木居寅地逢金,土向申乡遇木,金归亥中逢火。逢建命而夭寿,以其本命衰乡逢旺鬼是也。以土到寅中见木,火归亥地逢水,金在巳乡得火,火居申位逢金,俱以纳音取之。五行之理受制则夭,制物则寿。旧云:建命主寿长,破命主夭殇。故竹轮经云:建命未必延长,破命未必夭寿。此珞琭子所以消息也。天元论贵,人元论富,财命论贫富,身鬼论寿夭,各指其重者言之也。)
背禄逐马,守穷途而凄惶;禄马同乡,不三台而八座。
(禄者,爵禄之谓也。马者,车马之谓也。人命重禄马,故先言之,禄马皆可以致富贵。若禄背之而去,马逐之而散,二者俱失,所以守穷途而凄惶。背,如阴阳之相背,非所谓向也。逐,如逐散之逐。非所谓追也。如癸亥人得正月甲寅,癸禄在子,寅以背之;禄马在巳,寅以刑之;前因刑而逐去其马,後因背而不能及禄,马在面前,禄在背後,向前趁马,禄又不来,向後待禄,马又渐远,此正与扞禄拦马相反同乡。用日干遁禄,时干遁马,五子元求之,则可知。
假令庚午人,得壬辰日,丁未时,便以丁壬庚子遁至戊申,缘庚禄午马同在申上,与本命相得尤佳。又如甲申人,丁丑月,己亥日,丙寅时,其生时於帝座上,会同禄马兼甲申、己亥、丙寅皆禀五行清旺生气,故应晚年有非常之遇,所以位至三公,寿逾七十。
徐说,以禄为官、马为财,见伤官为背禄、见比劫为逐马。如甲人生三春、九夏,天元更带丙丁、甲乙,或亥卯未之例同乡。乃壬午、癸巳等日,柱有丁己丙戌归逢丑巳之例,并当详之。)
官崇位显,定知夹禄之乡。小盈大亏,恐是劫财之地。
(夹禄即拱禄,如癸丑得癸亥之例。劫,劫煞,如丁丑得丙寅岁,水以克火为财,丙寅乃自生之火,可谓小盈。丑人以孤劫在寅,丑土受寅木之制,为财化鬼,斯所谓大亏也。
三命以财旺为佳,人以有财为福。若值劫地,纵禄命有一、二吉处,亦不免大过。
徐论,夹禄,如癸丑日癸亥时,不可本禄上为岁首合化相害,更不可克坏天干,冲动地支,夹贵不住,走了贵气,所以福聚之地,不可有伤;祸聚之地,不可无败。五阳干见五阴为劫财,五阴乾见五阳为败财。劫凶於败,其解尤善。)
生月带禄,入世居赫奕之尊;重犯奇仪,蕴藉抱出群之器。
阴男阳女,时观出入之年;阴女阳男,更看元辰之岁。
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#384
Gửi vào 19/11/2024 - 09:40
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất
tiêu tức phú tứ
Dữ sanh địa chi tương phùng, nghi thối thân nhi tị vị.
(Với chỗ đất sanh gặp lại nhau, nên rút lui và lánh xa chức quan).
Xấu tụ tập, tốt tụ tập, phục ngâm (rên rỉ, than van) phản ngâm, âm dương lầm lẫn ngoài ý muốn, thiên xung địa kích.
Có thể gặp phải tứ sát, ngũ quỷ, lục hại, thất thương, địa võng, thiên la, tam nguyên, cửu cung, phúc kịp đến thành niềm vui, hoạ ngay cả khốn đốn không minh bạch, trợ giúp thì nhanh nhanh, ức chế thì chậm chậm.
Khắp đất quý nên đợi thời, gặp tỷ kiên nên tranh đua. Dù người mệt ngựa yếu, giống như muốn ở nơi tài vượng.
Hoặc chính là tài vượng mà lộc suy, hiện mã làm sao tránh ngưng xung, tuế đến vẫn không là tai hoạ, ngay năm đó thu hoạch được phúc.
Đại cát sanh phùng tiểu cát, phản thọ trường niên; thiên cương vận chí thiên khôi, kí sanh tục thọ.
(Đại cát sanh nhằm tiểu cát, ngược lại tuổi thọ lâu dài; thiên cương vận đến thiên khôi, sống nương tựa vào tuổi thọ nối liền).
Sửu là đại cát (điềm tốt lành lớn), mùi là tiểu cát (điềm tốt lành nhỏ), như người sanh ngày quý mùi đi vận sửu, hoặc người sanh ngày đinh sửudi9 vận mùi, không nên nói là phản ngâm, đều gọi là sanh khí. Quý thụ khí ở tỵ mà thành hình ở mùi; đinh thụ khí ở hợi mà thành hình ở sửu, cho nên nói là sanh phùng, như khi bói lục nhâm, đinh khoá ở mùi, quý ở sửu, cũng là ý nghĩa đó vậy. Sửu mùi là sự gặp gỡ của âm dương, chỗ mà thiên ất quý nhân đến, nhật chủ với trụ năm gặp được sẽ có tuổi thọ dài lâu. Thìn là thiên cương, tuất là thiên khôi, như người sanh canh tuất đi vận thìn, hoặc người sanh giáp thìn, đi vận tuất, không nên nói là phản ngâm, canh thụ khí ở dần và thành hình ở thìn, còn giáp thụ khí ở thân và thành hình ở tuất, đều gọi là sanh khí. "Quỷ Cốc Tử" nói rằng: trong cương có ất, trong khôi ẩn tân là vậy. Ở phần trước nói sanh phùng (sanh nhằm vào), sau lại nói ký sanh (sống nương tựa vào) ý nghĩa không có gì đặc biệt. Có thể nói đó là sau tám tuần, lại sáng tỏ phản ngâm tốt xấu, không có ý nghĩa chắc chắn, như âm mệnh nam ất sửu sanh ở tháng sáu, độn thấy quý mùi mộc, tuy bổn mệnh với tháng sanh khắc nhau, chủ chết yểu và thương tổn, tức là ất sửu nạp âm kim khắc quý mùi nạp âm mộc, ngược lại tuổi thọ dài lâu. Bài ca hát rằng: nếu lấy tháng sanh làm thân, tức lấy nạp âm trở lại làm mệnh. Thân suy khắc mệnh tuổi trời ngắn, mệnh thường khắc thân mệnh trường thọ là vậy. Ví như dương mệnh nam mậu thìn, sanh tháng ba, năm tuổi khởi vận. Đi thuận năm mươi sáu vận đến nhâm tuất nạp âm thuỷ, tới sanh mậu thìn mộc, lại thêm tháng ba thiên nguyệt đức đều ở nhâm, nhờ ở chỗ tuất lại sanh mộc, cho nên nói là ký sanh tục thọ (sống nương tựa vào tuổi thọ nối liền).
Oánh Hoà Thượng nói: dưới đây là bốn tiết, cùng dùng chân ấn mới được điền tốt lành của nó. Ất sưu kim ấn, quý mùi mộc ấn, nhâm thìn thuỷ ấn, giáp tuất hoả ấn, mậu thìn thổ ấn. Trường sanh tục thọ (tuổi thọ liên tục), tuy ký (nhờ) với phản (ngược lại), trừ năm can đó ra, không hiểu sao lại như thế. Lý do trong sửu có ất mộc, ở mùi thì có quý thuỷ, quý thuỷ sanh ất mộc, làm tăng trưởng nguồn lộc, nên phản thọ trường niên (trái lại tuổi thọ được lâu dài), đừng cho là không phải vậy. Trong tuất có giáp trong thìn có nhâm, nhâm thuỷ sanh giáp mộc nối liền lửa của bính hoả, cho nên nói thiên cương vận đến thiên khôi, ký sanh tục thọ (sống nương tựa vào tuổi thọ nói liền). Quan trọng nhất mười can là lộc xác định tuổi thọ của mệnh con người vậy.
Tòng khôi để thương long chi túc, tài tự thiên lai; thái xung lâm ngang trụ chi hương, nhân nguyên hữu hại.
(Đi theo khôi đến chỗ nghĩ của rồng xanh, tài tự nhiên đến; thái xung đến nơi ngang trụ, nhân nguyên có hại).
Dậu là nơi của ngang (giơ cao) trụ (mũ trụ của chiến sĩ thời xưa), tòng khôi (đi theo người cầm đầu) là vậy. Mão nói là thương long chi túc (chỗ nghĩ của rồng xanh), xung đột nhau là vậy.
Chi nguyên làm tài, ngày nay nói tài tự nhiên đến, lý do ở dậu có tân, trong mão có ất, tân kim chế phục ất mộc, cho nên nói rằng tài tự nhiên đến. Lấy dậu kim khắc mão mộc, ất mộc sợ tân kim, lộc đã bị thương tổn, nhân nguyên bị khắc chế, nhưng nếu người dậu gặp mão thì tốt, còn người mão gặp dậu thì xấu. Quyết đoán theo chức vị cao thấp, cương nhu vậy.
Từ nói: thương long (rồng xanh) thuộc thìn, người sanh dậu gặp thìn, là tân kim trong dậu khắc ất mộc trong thìn làm tài, dùng thiên nguyên trong địa chi làm tài vậy. Người mão vận đến dậu, kim khắc mộc và ngược lại hình nhau, địa chi làm nhân nguyên, cho nên nói có hại. Hại là thất sát không phạm xung hình khắc chế, cũng thiên lệch về âm và dương.
Kim lộc cùng ư chánh thủ, canh trọng tân khinh; mộc nhân khốn ư kim hương, dần thâm mão thiển.
(Kim lộc khốn ách ở chánh thủ, canh nặng tân nhẹ; người mộc khốn ách ở nơi kim, dần sâu mão cạn).
Âm cực sanh dương, dương cực âm sanh, cái lý tự nhiên của âm dương. Dương kim sanh ở tỵ mvà tử ở tý, tuyệt ở dần; còn âm kímanh ở tý mà tử ở tỵ tuyệt ở mão. Chánh tử (đúng nơi chết) chánh sanh (đúng nơi sanh) nói là quan trọng, còn thiên sanh (lệch nơi sanh) thiên tử (lệch nơi chết) nói là nhẹ hơn. Kế đến lấy dương mộc sanh ở hợi và tuyệt ở thân, còn âm mộc thì sanh ở ngọ và tuyệt ở dậu. Dương mộc ở thân thì thâm và dậu thì nông , âm mộc ở thân thì nông và dậu thì thâm hơn. Bởi dần mão chỉ tình cảm của cây cối, canh tân thì tất cả các loại kim, thân là đất sanh của thuỷ, mộc nói là khốn khó; dần là cung sanh hoả, kim nói là khốn ách vậy. Lại nói rằng: bính tân có hợp, cho nên tân thì nhẹ; ất canh có hợp, cho nên mão nông cạn.
Link đến bản tiếng Hoa:
消息赋四
与生地之相逢,宜退身而避位。
凶会吉会、伏吟反吟,阴错阳差,天冲地击。
或逢四煞、五鬼、六害、七伤、地网、天罗、三元九宫,福臻成庆,祸并危疑,扶兮速速,抑乃迟迟。
历贵地而待时,遇比肩而争竞。至若人疲马劣,犹托财旺之乡。
或乃财旺禄衰,建马何避掩冲,岁临尚不为灾,年登故宜获福。
大吉生逢小吉,反寿长年;天罡运至天魁,寄生续寿。
(丑为大吉,未为小吉,如癸未日生人,行丑运,或丁丑日生人,行未运,不得谓之反吟,皆谓之生气。癸受气於巳而成形於未,丁受气於亥而成形於丑,故曰生逢、如六壬发用,丁课在未,癸在丑,亦此意也。丑未为阴阳之中会,天乙贵神所临,主与本逢之则有长年之寿。辰为天罡,戌为天魁,如庚戌生人,行辰运,或甲辰生人,行戌运,不得谓之反吟、庚受气於寅,而成形於辰,甲受气於申,而成形於戌,皆是生气。《鬼谷子》云:罡中有乙,魁里伏辛是也。前云生逢,後云寄生义,不殊也。或曰,此後八旬,再明反吟吉凶,无固必之义,假令乙丑阴命男,在六月生,遁见癸未木,虽本命,生月相克,合主夭伤,却为乙丑纳音金克癸未纳音木,反寿长年。歌云:便将生月用为身,却以纳音回作命。身衰克命短天年,命往克身长寿命是也。假令戊辰阳命男,在三月生,计五岁起运。顺行五十六,运至壬戌纳音水,来生戊辰木,又三月天月德俱在壬,寄在戌上又生木,故曰寄生续寿。
莹和尚曰:以下四节,并用真印,始得其详。乙丑金印,癸未木印,壬辰水印,甲戌火印,戊辰土印。长生续寿,惟寄与反,除此五干,未有知其然也。缘丑中有乙木,未上有癸水,癸水生其乙木,增长禄元,反寿长年,莫非是也。戌中有甲,辰中有壬,壬水生其甲木,续其丙火,故曰天罡运至天魁,寄生续寿。大要十干为禄,定人寿命也。)
从魁抵苍龙之宿,财自天来;太冲临昂胄之乡,人元有害。
(酉为昂胄之乡,从魁是也。卯曰苍龙之宿,大冲是也。
支元取财,今言天来者,缘酉上有辛,卯中有乙,辛金制其乙木,故云财自天来。以其酉金,克其卯木,乙木畏於辛金,禄既被伤,人元受克,若然酉人遇卯为吉,卯人逢酉为凶。位列尊卑,刚柔断矣。
徐曰:苍龙属辰,酉生人逢辰,是酉中辛金,克辰中乙木为财,用支内天元为财也。卯人运至酉,金克木而反相刑,支作人元,故曰有害。害者,是七煞不犯冲刑克制,亦偏阴偏阳也。)
金禄穷於正首,庚重辛轻;木人困於金乡,寅深卯浅。
(阴极生阳,阳极生阴,阴阳自然之理也。阳金生於巳,而死於子,绝於寅;阴金生於子,而死於巳,绝於卯。正死正生之谓重,偏生偏死之谓轻。次以阳木生亥绝申,阴木生午绝酉。阳木申深而酉浅,阴木申浅而酉深。盖寅卯指群木之情,庚辛举众金之类,申是水生之地,木曰困;寅是生火之宫,金云穷也。一云:丙辛有合,故辛轻;乙庚有合,故卯浅。)
.
tiêu tức phú tứ
Dữ sanh địa chi tương phùng, nghi thối thân nhi tị vị.
(Với chỗ đất sanh gặp lại nhau, nên rút lui và lánh xa chức quan).
Xấu tụ tập, tốt tụ tập, phục ngâm (rên rỉ, than van) phản ngâm, âm dương lầm lẫn ngoài ý muốn, thiên xung địa kích.
Có thể gặp phải tứ sát, ngũ quỷ, lục hại, thất thương, địa võng, thiên la, tam nguyên, cửu cung, phúc kịp đến thành niềm vui, hoạ ngay cả khốn đốn không minh bạch, trợ giúp thì nhanh nhanh, ức chế thì chậm chậm.
Khắp đất quý nên đợi thời, gặp tỷ kiên nên tranh đua. Dù người mệt ngựa yếu, giống như muốn ở nơi tài vượng.
Hoặc chính là tài vượng mà lộc suy, hiện mã làm sao tránh ngưng xung, tuế đến vẫn không là tai hoạ, ngay năm đó thu hoạch được phúc.
Đại cát sanh phùng tiểu cát, phản thọ trường niên; thiên cương vận chí thiên khôi, kí sanh tục thọ.
(Đại cát sanh nhằm tiểu cát, ngược lại tuổi thọ lâu dài; thiên cương vận đến thiên khôi, sống nương tựa vào tuổi thọ nối liền).
Sửu là đại cát (điềm tốt lành lớn), mùi là tiểu cát (điềm tốt lành nhỏ), như người sanh ngày quý mùi đi vận sửu, hoặc người sanh ngày đinh sửudi9 vận mùi, không nên nói là phản ngâm, đều gọi là sanh khí. Quý thụ khí ở tỵ mà thành hình ở mùi; đinh thụ khí ở hợi mà thành hình ở sửu, cho nên nói là sanh phùng, như khi bói lục nhâm, đinh khoá ở mùi, quý ở sửu, cũng là ý nghĩa đó vậy. Sửu mùi là sự gặp gỡ của âm dương, chỗ mà thiên ất quý nhân đến, nhật chủ với trụ năm gặp được sẽ có tuổi thọ dài lâu. Thìn là thiên cương, tuất là thiên khôi, như người sanh canh tuất đi vận thìn, hoặc người sanh giáp thìn, đi vận tuất, không nên nói là phản ngâm, canh thụ khí ở dần và thành hình ở thìn, còn giáp thụ khí ở thân và thành hình ở tuất, đều gọi là sanh khí. "Quỷ Cốc Tử" nói rằng: trong cương có ất, trong khôi ẩn tân là vậy. Ở phần trước nói sanh phùng (sanh nhằm vào), sau lại nói ký sanh (sống nương tựa vào) ý nghĩa không có gì đặc biệt. Có thể nói đó là sau tám tuần, lại sáng tỏ phản ngâm tốt xấu, không có ý nghĩa chắc chắn, như âm mệnh nam ất sửu sanh ở tháng sáu, độn thấy quý mùi mộc, tuy bổn mệnh với tháng sanh khắc nhau, chủ chết yểu và thương tổn, tức là ất sửu nạp âm kim khắc quý mùi nạp âm mộc, ngược lại tuổi thọ dài lâu. Bài ca hát rằng: nếu lấy tháng sanh làm thân, tức lấy nạp âm trở lại làm mệnh. Thân suy khắc mệnh tuổi trời ngắn, mệnh thường khắc thân mệnh trường thọ là vậy. Ví như dương mệnh nam mậu thìn, sanh tháng ba, năm tuổi khởi vận. Đi thuận năm mươi sáu vận đến nhâm tuất nạp âm thuỷ, tới sanh mậu thìn mộc, lại thêm tháng ba thiên nguyệt đức đều ở nhâm, nhờ ở chỗ tuất lại sanh mộc, cho nên nói là ký sanh tục thọ (sống nương tựa vào tuổi thọ nối liền).
Oánh Hoà Thượng nói: dưới đây là bốn tiết, cùng dùng chân ấn mới được điền tốt lành của nó. Ất sưu kim ấn, quý mùi mộc ấn, nhâm thìn thuỷ ấn, giáp tuất hoả ấn, mậu thìn thổ ấn. Trường sanh tục thọ (tuổi thọ liên tục), tuy ký (nhờ) với phản (ngược lại), trừ năm can đó ra, không hiểu sao lại như thế. Lý do trong sửu có ất mộc, ở mùi thì có quý thuỷ, quý thuỷ sanh ất mộc, làm tăng trưởng nguồn lộc, nên phản thọ trường niên (trái lại tuổi thọ được lâu dài), đừng cho là không phải vậy. Trong tuất có giáp trong thìn có nhâm, nhâm thuỷ sanh giáp mộc nối liền lửa của bính hoả, cho nên nói thiên cương vận đến thiên khôi, ký sanh tục thọ (sống nương tựa vào tuổi thọ nói liền). Quan trọng nhất mười can là lộc xác định tuổi thọ của mệnh con người vậy.
Tòng khôi để thương long chi túc, tài tự thiên lai; thái xung lâm ngang trụ chi hương, nhân nguyên hữu hại.
(Đi theo khôi đến chỗ nghĩ của rồng xanh, tài tự nhiên đến; thái xung đến nơi ngang trụ, nhân nguyên có hại).
Dậu là nơi của ngang (giơ cao) trụ (mũ trụ của chiến sĩ thời xưa), tòng khôi (đi theo người cầm đầu) là vậy. Mão nói là thương long chi túc (chỗ nghĩ của rồng xanh), xung đột nhau là vậy.
Chi nguyên làm tài, ngày nay nói tài tự nhiên đến, lý do ở dậu có tân, trong mão có ất, tân kim chế phục ất mộc, cho nên nói rằng tài tự nhiên đến. Lấy dậu kim khắc mão mộc, ất mộc sợ tân kim, lộc đã bị thương tổn, nhân nguyên bị khắc chế, nhưng nếu người dậu gặp mão thì tốt, còn người mão gặp dậu thì xấu. Quyết đoán theo chức vị cao thấp, cương nhu vậy.
Từ nói: thương long (rồng xanh) thuộc thìn, người sanh dậu gặp thìn, là tân kim trong dậu khắc ất mộc trong thìn làm tài, dùng thiên nguyên trong địa chi làm tài vậy. Người mão vận đến dậu, kim khắc mộc và ngược lại hình nhau, địa chi làm nhân nguyên, cho nên nói có hại. Hại là thất sát không phạm xung hình khắc chế, cũng thiên lệch về âm và dương.
Kim lộc cùng ư chánh thủ, canh trọng tân khinh; mộc nhân khốn ư kim hương, dần thâm mão thiển.
(Kim lộc khốn ách ở chánh thủ, canh nặng tân nhẹ; người mộc khốn ách ở nơi kim, dần sâu mão cạn).
Âm cực sanh dương, dương cực âm sanh, cái lý tự nhiên của âm dương. Dương kim sanh ở tỵ mvà tử ở tý, tuyệt ở dần; còn âm kímanh ở tý mà tử ở tỵ tuyệt ở mão. Chánh tử (đúng nơi chết) chánh sanh (đúng nơi sanh) nói là quan trọng, còn thiên sanh (lệch nơi sanh) thiên tử (lệch nơi chết) nói là nhẹ hơn. Kế đến lấy dương mộc sanh ở hợi và tuyệt ở thân, còn âm mộc thì sanh ở ngọ và tuyệt ở dậu. Dương mộc ở thân thì thâm và dậu thì nông , âm mộc ở thân thì nông và dậu thì thâm hơn. Bởi dần mão chỉ tình cảm của cây cối, canh tân thì tất cả các loại kim, thân là đất sanh của thuỷ, mộc nói là khốn khó; dần là cung sanh hoả, kim nói là khốn ách vậy. Lại nói rằng: bính tân có hợp, cho nên tân thì nhẹ; ất canh có hợp, cho nên mão nông cạn.
Link đến bản tiếng Hoa:
消息赋四
与生地之相逢,宜退身而避位。
凶会吉会、伏吟反吟,阴错阳差,天冲地击。
或逢四煞、五鬼、六害、七伤、地网、天罗、三元九宫,福臻成庆,祸并危疑,扶兮速速,抑乃迟迟。
历贵地而待时,遇比肩而争竞。至若人疲马劣,犹托财旺之乡。
或乃财旺禄衰,建马何避掩冲,岁临尚不为灾,年登故宜获福。
大吉生逢小吉,反寿长年;天罡运至天魁,寄生续寿。
(丑为大吉,未为小吉,如癸未日生人,行丑运,或丁丑日生人,行未运,不得谓之反吟,皆谓之生气。癸受气於巳而成形於未,丁受气於亥而成形於丑,故曰生逢、如六壬发用,丁课在未,癸在丑,亦此意也。丑未为阴阳之中会,天乙贵神所临,主与本逢之则有长年之寿。辰为天罡,戌为天魁,如庚戌生人,行辰运,或甲辰生人,行戌运,不得谓之反吟、庚受气於寅,而成形於辰,甲受气於申,而成形於戌,皆是生气。《鬼谷子》云:罡中有乙,魁里伏辛是也。前云生逢,後云寄生义,不殊也。或曰,此後八旬,再明反吟吉凶,无固必之义,假令乙丑阴命男,在六月生,遁见癸未木,虽本命,生月相克,合主夭伤,却为乙丑纳音金克癸未纳音木,反寿长年。歌云:便将生月用为身,却以纳音回作命。身衰克命短天年,命往克身长寿命是也。假令戊辰阳命男,在三月生,计五岁起运。顺行五十六,运至壬戌纳音水,来生戊辰木,又三月天月德俱在壬,寄在戌上又生木,故曰寄生续寿。
莹和尚曰:以下四节,并用真印,始得其详。乙丑金印,癸未木印,壬辰水印,甲戌火印,戊辰土印。长生续寿,惟寄与反,除此五干,未有知其然也。缘丑中有乙木,未上有癸水,癸水生其乙木,增长禄元,反寿长年,莫非是也。戌中有甲,辰中有壬,壬水生其甲木,续其丙火,故曰天罡运至天魁,寄生续寿。大要十干为禄,定人寿命也。)
从魁抵苍龙之宿,财自天来;太冲临昂胄之乡,人元有害。
(酉为昂胄之乡,从魁是也。卯曰苍龙之宿,大冲是也。
支元取财,今言天来者,缘酉上有辛,卯中有乙,辛金制其乙木,故云财自天来。以其酉金,克其卯木,乙木畏於辛金,禄既被伤,人元受克,若然酉人遇卯为吉,卯人逢酉为凶。位列尊卑,刚柔断矣。
徐曰:苍龙属辰,酉生人逢辰,是酉中辛金,克辰中乙木为财,用支内天元为财也。卯人运至酉,金克木而反相刑,支作人元,故曰有害。害者,是七煞不犯冲刑克制,亦偏阴偏阳也。)
金禄穷於正首,庚重辛轻;木人困於金乡,寅深卯浅。
(阴极生阳,阳极生阴,阴阳自然之理也。阳金生於巳,而死於子,绝於寅;阴金生於子,而死於巳,绝於卯。正死正生之谓重,偏生偏死之谓轻。次以阳木生亥绝申,阴木生午绝酉。阳木申深而酉浅,阴木申浅而酉深。盖寅卯指群木之情,庚辛举众金之类,申是水生之地,木曰困;寅是生火之宫,金云穷也。一云:丙辛有合,故辛轻;乙庚有合,故卯浅。)
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#385
Gửi vào 21/11/2024 - 11:10
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất
tiêu tức phú ngũ
Diệu tại thức kì thông biến, chuyết thuyết do thần; vu cổ muội ư điều huyền, nan hi luật lữ.
(Cái hay là biết linh hoạt thay đổi nó, giải thích mộc mạc như thần; đồng cốt mù loà không biết chỉnh dây đàn, khó mong cầu âm luật).
Hễ mệnh vận tốt xấu hoạ phúc như nói ở trên, phú đặc biệt chỉ nói khái quát. Cái hay là biết cách thức linh hoạt thay đổi nó, lời phú tuy mộc mạc, nhưng lý kỳ diệu ứng nghiệm như thần, nếu không biết linh hoạt thay đổi, ví như người đồng cốt mù loà không biết điều chỉnh dây đàn, mong cầu âm luật được phụ hoạ thật là khó vậy.
Canh tân lâm ư giáp ất, quân tử khả dĩ cầu quan; bắc nhân vận tại nam phương, mậu dịch hoạch kì hậu lợi.
(Canh tân đến giáp ất, người quân tử có thể cầu quan chức; người phương bắc vận ở phương nam, buôn bán thu hoạch lợi nhuận dồi dào).
Kim mộc có nguyên tắc bổ sung cho nhau, thuỷ hoả có đạo ký tế, cho nên đặc biệt đề xuất đàm luận:
Canh tân đến chỗ giáp ất, thì tám can còn lại có thể hiểu được. Người phương bắc vận ở phương nam, thì còn lại đông tây có thể hiểu. Nói quân tử gặp tiểu nhân thì không phải vậy, nói người phương bắc nên là phương hợi tý thì đúng.
Giáp lấy tân làm quan, ất lất canh làm quan, như tuế vận của canh tân tới chỗ người giáp ất, cho nên nói: người quân tử có thể cầu quan, còn ở tiểu nhân trái ngược là quỷ vậy. Hợi tý thuỷ của phương bắc, tỵ gọ hoả của phương nam, vì thuỷ đi vận đến hoả, mà cái mình khắc là tài, cho nên buôn bán thu được lợi nhuận dồi dào. Hoặc nói vị trí của nhâm quý, quẻ của nó thuộc khảm, vị trí của bính đinh quẻ của nó thuộc ly, thuỷ về đất hoả là vận đến tài huơng. Không biết rằng nhâm quý là lộc, tỵ ngọ là mệnh, can chi không hợp nhau, như nhâm quý gặp bính đinh, chỉ có thể nói lộc tài mà thôi, không thể lấy buôn bán mà bàn. Người bàn luận về mệnh phải nên phân biệt lộc mệnh và thân.
Văn triều hoan nhi tịch khấp, vi thịnh hỏa chi viêm dương; quan họa phúc chi xa trì, tắc đa nhân ư thủy thổ.
(Sáng nghe vui chiều tối khóc, vì hoả vượng của trời nóng; quan sát phúc vui muộn phiền, phần lớn là do thuỹ thổ).
Đây là luận về bản chất của ngũ hành, rõ ràng hoạ phúc nhanh hay chậm. Bản chất của hoả hung bạo nên thường thương tổn, cho nên khoan qua gỗ thì có khói bay lên, chạm vào đá thì ánh sáng phát ra, hướng về vui vẻ quay lại khóc, hôm nay đúng hôm qua sai, giống như lửa truyền từ củi, chẳng ai hiểu chỗ tận cùng của nó.
Thuỷ thổ là vật có bản chất mềm mại, mang đến mầm mối của hoạ phúc, nó có vẻ chậm chạp, nó bao gồm trí không và lòng thành thực. Bản chất hoả và mộc thì mau lẹ, dễ phát dễ ngưng; bản chất thuỷ thổ chậm chạp khó thành khó bại.
Kim mộc vị năng thành khí, thính ai nhạc dĩ nan danh, tự mộc thịnh nhi hoa phồn, trạng mật vân nhi bất vũ.
(Kim mộc chưa khả năng thành vật dụng, nghe buồn vui mà khó diễn tả, giống cây tươi tốt nên hoa nhiều, tình trạng mây dầy đặc mà không mưa).
Nói kim thì vượt trội hơn mộc, kim được dùng nên gỗ mới thành là lấy cứng trợ giúp mênh vậy. Nói mộc thì coi trọng kim, mộc thành vật dụng vì kim tiếp xúc, người nhân từ nhất định phải mạnh dạn. Nếu có kim mà không có mộc như là mạnh dạn mà không có lễ nghĩa sẽ mất trật tự; có mộc mà không có kim, như canh tân thiếu sót nên đạo lý kém. Kim là khí của phương tây chủ ai (lân mẫn, buồn thảm); mộc là vật của phương đông, chủ nhạc (thanh âm có quy luật hài hòa làm xúc động lòng người). Nhạc mà không quá độ, mộc gặp kim vậy; ai mà không đau đớn, kim gặp mộc vậy. Thông thường những điều này đều là mệnh của đại nhân (tiếng tôn xưng người có đạo đức hoặc địa vị cao). Nếu rõ ràng thuỷ và hoả quy về trung tâm, dùng kim mộc để cách ngăn, bởi vì ai nhạc không thể động lòng người, chính là người khó diễn tả ở bên ngoài. Nếu lệch âm hay lệch dương, giống như cây tươi tốt nên hoa nhiều, lệch dương gọi là phục; mây dầy đặc mà không mưa, lệch âm gọi là hiện. Mệnh người cần cả hai âm dương ổn thoả, sẽ là đúng với phẩm cách của mệnh, nên những điều sau đây cũng vậy.
Lại nói: kim không thể thành vật dụng, mượn hoả để nung luyện; mộc chưa thành công, mượn kim để đẽo gọt. Cho nên nhạc (mộc) nhất định lấy ai (kim) làm chủ, ích lợi nhất định phải tổn thất trước tiên. Cây tươi tốt nên hoa nhiều, đẹp mà không có trái; mây dầy đặc mà không mưa, u ám nên khó sáng sủa. Cả hai ở bên trong không do lường được, cân nhắc ý kiến sanh ra. Vì thế vượng thì không thể không có chế phục, suy mà không thể không có sanh, được chỗ bỉ hoà, lại quay về thuần tuý.
Thừa hiên y miện, kim hỏa hà đa; vị liệt ban ti, âm dương bất định.
(Áo mão ngồi xe, kim hoả nhiều; địa vị thấp kém, âm dương không xác định).
Trước bàn luận thuỷ hoả trợ giúp nhau trở thành điều lành, kế là bàn luận về kim mộc nên là quan hương, biết rằng thuỷ coi trọng việc lên cao, còn hoả coi trọng việc hạ xuống, mộc cần trợ giúp nhu thành cương, kim cần tổn giảm cương có ích lợi cho nhu, sẽ giúp nhau hỗ trợ thành điều lành. Trong đó chỉ có kim cứng hoả mạnh không thể không biết. Kim là vật đạt đến cứng chắc, không có hoả thịnh vượng sẽ không thể hoá thành da thuộc; hoả là vật đạt đến tàn ác, không phải kim không được sử dụng. Kim hoả ổn thoả nhau, mới là hình tượng của đúc con dấu, cho nên phú nói rằng thừa hiên y miện (áo mão ngồi xe), đây là độ lượng của người quân tử, cần phải có kim hoả ổn thoả nhau. Nếu hoả nhiều kim ít, kim nhiều hoả yếu, đều là mệnh hung ác tàn bạo. Kim vượng ở phương tây, hoả vượng ở phương nam, mỗi thứ cậy thế của mình, sẽ là tự hình, ví như mệnh này tuy ngày giờ có lợi ích, nhưng mãi ở địa vị thấp kém, bởi âm dương không thể quyết định thân phận là vậy.
Kim là âm. Hoả là dương. Vì hai mặt âm dương khác nhau, nên sang hèn, cao thấp không có chỗ nhất định rõ ràng. Nếu có hoả mà không có kim, hay có kim mà không có hoả, có thể biết được đó là lũ tàn ác. Hoặc nói tứ trụ mệnh người, ngũ hành kim hoả nhiều mà không thể coi trọng. Vì kim cứng không khả năng thuận theo vạn vật, hoả hung bạo nên khó có lợi ích cho đời sống, vì khí bất thường cho nên thiếu tốt đẹp cho dặo của người quan tử. Người canh gặp bính, người tân gặp đinh, thuần âm thuần dương là khắc chế là quỷ, đúng là âm dương không định, tuy có ra làm quan, cũng chỉ ở địa vị thấp kém, không thể địa vị to lớn. Cũng thông.
Sở dĩ long ngâm hổ khiếu, phong vũ trợ kì hưu tường; hỏa thế tương hưng, cố tiên yên nhi hậu diễm.
(Sở dĩ rồng kêu cọp gầm, gió mưa trợ giúp điềm tốt lành; thế lửa sắp mạnh, nên có khói trước rồi đến ánh lửa).
Đó là hiện tượng ngũ hành tương khắc, hoặc chưa hoàn thiện, kết hợp coi trọng hay không, đó là bàn về bản chất tương khắc tương sanh, vì lấy rồng cọp khói lửa làm ẩn dụ. Nếu ngũ hành mỗi thứ đều đạt được đúng chỗ của nó, sẽ như rồng đi và mưa rơi, cọp gầm và gió nổi lên. Lại như hoả vượng, trước hết có khói, sau đó mới có ánh lửa. Hoặc lấy hai câu rồng kêu cọp gầm, báo cho biết năm của người tốt mà tuế vận lại tốt. Nếu bắt đầu xấu sau mới tốt thì không phải. Ví như khi hoả bắt đầu cháy, đầu tiên có khói rồi sau mới có ánh lửa. Bởi khói sanh ra từ lửa nên có thể hoả rực rỡ. Khói lấy ý nghĩa khí chưa xuyên qua, không phải hoả ở bên ngoài đẹp mà bên trong tối tăm sao? Khói bay tới và sau đó bốc lên, không giống như con người bắt đầu xấu, cuối cùng tốt. Từ giải thích: rồng kêu cọp gầm, nên lấy mậu thìn và giáp dần ý nghĩa của nó càng thêm tỉ mỉ, không phải vậy chỉ gặp dần với thìn gặp nhau cũng giống vậy, khói có trước sau là ánh lửa, rõ ràng âm dương khí thuận, có thứ tự lớp lang, với khí của nó cũng không có gì đặc biệt. Cuối cùng không phải ý nghĩa của bài phú.
Mỗi kiến hung trung hữu cát, cát nãi tiên hung; cát trung hữu hung, hung vi cát triệu.
(Thường gặp trong hung có tốt, tốt chính là khởi trước cái hung; trong tốt có xấu, xấu là điềm tốt).
Đó là vốn là đoạn văn ở trên, bàn về tốt xấu nương tựa và ẩn trong nhau. Như bàn luận ở phần trước (bài Tiêu Tức Phú số 4) đi theo người cầm đâù đến chỗ nghĩ của rồng xanh, tài tự nhiên đến, tốt. Là tân trong dậu khắc ất mộc trong thìn làm tài, thìn là thuỷ hương, lại có thể đoạt tân kim quan, bàn luận tài tức không đủ mà mất quan là xấu. Đại xung nơi có tinh thần phấn chấn, nhân nguyên có hại, hung. Tức mộc lấy kim làm quan, dậu sẽ không bỏ lại quan lộc, trong hung trái lại tốt. Ý của bài phú mới đầu bàn luận về vận, kế mới thảo luận ngũ hành, sau sẽ hiểu rõ lời bàn.
Lại như người hoả đi vận thuỷ sẽ là thất sát nên hung. Hoặc lấy thuỷ làm quan thì tốt. Thuỷ đi vận tỵ ngọ phương nam, thu hoạch lợi nhuận là tài nên tốt. Nhưng phía dưới có mậu kỷ là thất sát nên hung. Như những điều này rất nhiều, người học nên nghiên cứu sâu hơn và linh hoạt, lấy những điều căn bản và chọn lấy điều quan trọng nhất.
Đàm Oánh nói: tốt xấu cùng nhau là nguyên nhân của hoạ và phúc là thường lý của âm dương. Trên đời vốn có người tốt mà xấu ở cái tốt, người xấu mà tốt ở cái xấu, là điều mà người quân tử không làm, cũng là thường tình. Xấu nếu vượt hơn tốt, thì tốt tích chứa trong xấu; còn tốt vượt hơn xấu, thì hung ẩn bên trong cái tốt. Hỗn tạp sanh ra từ thuần tuý, bỉ hoà nên sanh ra từ chiến tranh, cho nên trong bốn tốt có xấu, xấu là điềm tốt.
Họa tuần hướng mạt, ngôn phúc khả dĩ nghênh thôi; tài nhập suy hương, luận tai nghi kì nghịch khóa.
Nam nghênh nữ tống, phủ thái giao cư; âm dương nhị khí, nghịch thuận chiết trừ.
(Thời gian hoạ gần dứt, nói về phúc lành để nghênh đón; tài vào nơi suy, bàn luận tai hoạ nên đốc suất đảo ngược.
Nam thì đón nữ thì tiễn, bĩ thái sống cùng nhau; hai khí âm dương, nghịch thuận chiết trừ).
Đây là bàn về tai hoạ tốt xấu, đều do đi vận. Thời gian hoạ gần dứt: như gặp vận xấu mười năm, trước khi chấm dứt sẽ gặp vận tốt, nếu khi sanh năm tháng có khí sâu đậm, hoặc đi lưu niên có thái tuế hỗ trợ, hướng tới tài lộc, càng không phải đợi giao vận, chỉ ở nơi đây sắp kết thúc, liền có thể nghênh đón diềm tốt lành mà tuyển chọn.Tài vào nơi suy: mạng sống đã ở lâu nơi đất phúc, mới gặp vận bối lộc tài tuyệt, nhưng không thể lập tức nói là xấu, do đó luận tai hoạ ở nghịch khoá. Nam nghênh đón nữ tiễn đưa: dương nam âm nữ vận đi thuận. Mỗi một vận là mười năm, thêm phân chia trước sau mỗi năm năm, hễ vào vận tốt, gặp tiết khí sâu đậm, nam nghênh đón, nên năm năm đầu phát phúc; nữ tiễn đưa nên sau năm năm mới phát phúc. Hoặc nói: nam biết rõ đại vận, mới vào năm đầu nghênh đón tai hoạ hay phúc lành gì cho nên nói rằng nghênh. Nữ biết rõ đại vận năm sắp hiện ra, tiễn đưa tai hoạ hay phúc lành gì, cho nên nói tống. Nam nghênh đón nữ tống tiễn, bĩ (bế tắc) thái (hanh thông) giao cư (ở chung một chỗ) có cùng một ý nghĩa để xem. Nghênh đón tốt tống tiễn xấu, nghênh đón hung tống tiễn tốt là bĩ thái giao cư. Âm nam dương nữ, dương nam âm nữ, dựa vào để phán đoán đi vận thuận nghịch, tức là phán đoán trước ba tuổi làm năm, xem ở vận mới và cũ có tốt xấu thế nào, lậy vận số mà bàn luận.
Đàm Oánh nói: đây là bàn luận về đi vận, mỗi vận chỉ trường sanh kế là ở đất suy, nhu kim sanh ở tỵ mà suy ở tuất, ở tuất nam đi thuận là tử tù hưu phế, nữ đi nghịch là đế vượng, lâm quan; ở tỵ nam thuận vượng ở nơi thân dậu, nữ nghịch nên khốn khó ở đất dần mão, cho nên nói đây là tai hoạ. Hai khí âm dương, đại khái nói là tiểu vận chính là khí của năm. Đại vận là khí của tháng vậy. Can ngày là vận, địa chi của tháng là khí. Tiểu vận sẽ giao sau ngày sanh; đại luận thì bàn luận khi khí của nó vượt qua, hai khí đi vận giống mình đặt ra vậy, cho nên nói hai khí âm dương như vậy như vậy.
Chiêm kì kim mộc chi nội, hiển ư phương sở phân dã; tiêu kì nam bắc chi gian, khủng bất lợi ư vãng lai. Nhất tuần chi nội, ư niên trung nhi vấn can; nhất tuế chi trung, cầu nguyệt trung nhi vấn nhật.
Hướng tam tị ngũ, chỉ phương diện dĩ cùng thông; thẩm cát lượng hung, thuật tuế trung chi phủ thái.
(Chiếm lĩnh bên trong kim mộc, biểu lộ ở nơi bờ cõi; ghi rõ bên trong nam bắc, e là không có lợi qua lại. Trong một tuần: ở trong năm thì hỏi can. Trong cùng một năm tìm trong tháng thì hỏi ngày.
Hướng tới ba lánh xa năm, chỉ phương diện lý do cùng khốn hay hiển đạt; đo lượng tốt xấu, trình bày bế tắc hay hanh thông trong năm).
Đây là bàn về đi vận đông tây nam bắc, nơi kim mộc thuỷ hoả, có lợi, không có lợi, đồng thời bàn về trong năm bế tắc hay hanh thông. Vương Thị nói: mộc hoả kim thuỷ chính là tập trung khí ở bốn phương, mỗi khí chuyên về bờ cõi của mình. Như tân mão của mùa xuân, mậu ngọ của mùa hạ, quý dậu của mùa thu, bính tý của mùa đông. Mỗi phương trong bốn phương đều canh giữ khí tự vượng, mà không thể xâm phạm nhau.
Cho nên khí ngũ hành vượng, chọn lấy một thần gọi là bạch hổ sát. Như mộc của phương đông đi đến phương tây gặp kim; hoả của phương nam đến đất bắc gặp thuỷ, gọi là sát kỵ tứ trọng (tứ trọng chính là tý mão ngọ dậu), điều cấm kỵ, gọi là vua, gọi là cha, không thể mất cả hai; vì nó khắc nhau nên đi đến sẽ không có lợi. Nếu ngũ hành suy tuyệt không có khí lực, gặp tương xung qua lại sẽ trái lại giúp nhau thành phúc lành. Như ất hợi hoả gặp quý tỵ thuỷ, hoả đến tỵ nên vượng, thuỷ đến hợi nên vượng, trao đổi nhau cùng gặp vượng, qua lại làm sao mà thương tổn? Kim của nhâm dần là thần (bầy tôi) không mạnh; mộc của canh thân công việc của vua không bạo, độc chiếm một góc thì có phúc lành không? Bởi lộc vượng quý nó tự hưởng, hoạn nạn muốn được cứu giúp là vậy. Trong một tuần, ở trong năm thì hỏi can, lấy can năm thì biết được giáp ở đâu, vì vậy sanh cùng tuần. Trong một tuổi, tìm trong tháng thì hỏi ngày, gọi trong một tuổi thì có khác biệt, mệnh âm dương nam nữ.
Tìm ở tháng nên hỏi ngày, muốn biết số ngày của tiết khí (phân khu (thời gian, khí hậu) để xác định mấy tuổi thì đi dại vận. Đi vận nên hướng về sanh khí của tam nguyên, và lánh xa ngũ quỷ, tuyệt lộ. Chỉ trình bày phương diện (phương hướng) cùng khốn và hiển đạt âm dương, hướng tới hay bỏ lại quan lộc mã, thịnh suy của đại vận, lý do để xét rõ tốt xấu. Không rời bỏ ý muốn chăm sóc bên trong, có thể trình bày bĩ (bế tắc) thái (hanh thông) trong năm. Có thể lấy sanh khí, phúc đức, thiên y là hướng tam (ba thứ nên hướng tới); tuyệt thể, du hồn, ngũ quỷ, tuyệt mệnh, bổn cung là tỵ ngũ (năm thứ cần tranh xa).
Từ nói: chiếm, đọc theo thanh khứ (một trong bốn thanh bình, thượng, khứ, nhập 平, 上, 去, 入. Chữ đọc âm như đánh dấu sắc là khứ thanh 去聲), xem chiếm lĩnh năm tháng lúc sanh. Như mộc lấy kim làm quan, dựa vào mệnh dương nam vận ra từ mùi vào thân; mệnh âm nam vận ra từ hợi vào tuất, là hướng về lộc đến tài, ở ranh giới của khu vực kim mộc. Như kim lấy mộc làm tài, mệnh dương nam vận ra từ sửu vào dần; mệnh âm nam vận ra từ tỵ vào thìn, là hướng về lộc đến tài, dựa vào trong những chỗ mộc hoả. Hơn nữa bàn luận thái tuế, lệnh tháng khí hậu (phép nhà lịch cứ năm ngày gọi là một hậu, ba hậu là một khí tiết, vì thế nên tóm gọi tiết trời là khí hậu 氣候, tiết hậu 節候) cùng nâng đỡ. Tiêu (ngọn) đối với bổn (gốc), lại có nghĩa là tiêu chuẩn. Sẽ là căn bản của mệnh vậy.
Phương nam là hướng về minh (sáng suốt) mà đi. Phương bắc là hướng về phương bắc mà tới. Đây là nói về khí ra vào, động tĩnh, có thể tốt, có thể xấu, không nên lộn xộn. Hoặc gặp năm giao vận, không thể xem nhẹ. Trong một tuần, ở trong năm thì hỏi can, ở trong tháng thì tìm ngày. Trong một tuổi tìm trong tháng hỏi ngày, là trong năm tìm tháng vậy. Hướng tam (ba thứ cần hướng về), tỵ ngũ (năm thứ cần tránh xa) là trong tuế tìm chỗ tốt và có lợi. Hễ ngồi nơi tiến thối, nên hướng về chỗ tốt và tránh xa chỗ xấu, không có gì lớn hơn điều này vậy.
Link đến bản tiếng Hoa:
消息赋五
妙在识其通变,拙说犹神;巫瞽昧於调弦,难希律吕。
(凡命运,吉凶祸福,如上所云,赋特言其大概。妙在识其通变,赋辞虽拙,而理妙应如神,设若不能通变,譬之巫瞽昧於调弦,希律吕之和难矣。)
庚辛临於甲乙,君子可以求官;北人运在南方,贸易获其厚利。
(金木有相得之理,水火有既济之道,故特举而言之曰:
庚辛临於甲乙,则余八干可知也。北人运在南方,则余东西可知也。言君子见小人则不然,言北人须亥子方为是。
甲以辛为官,乙以庚为官,如庚辛之运岁,来临甲乙之人,故曰:君子可以求官,在小人反以为鬼也。亥子北方之水,巳午南方之火,以水行运至火,我克之为财,所以贸易获其厚利。或谓壬癸之位,其卦属坎,丙丁之位,其卦属离,水归火地,运至财乡。不知壬癸是禄,巳午是命,干支不相入,如壬癸得丙丁,止可谓之禄财而已,不可以贸易言也。谈命者须当分禄命身。)
闻朝欢而夕泣,为盛火之炎阳;观祸福之赊迟,则多因於水土。
(此论五行之性,明祸福之迟速也。
火之性暴而多伤,故钻木而烟飞,击石而光发,朝欢旋泣,今是昨非,由火传薪,莫知其极也。
水土为物,其性柔和,致於祸福之端,得其迟缓之意,盖智与信也。火木性快,易发易休;水土性迟,难成难败。
金木未能成器,听哀乐以难名,似木盛而花繁,状密云而不雨。
(言金者则尚木,金得用而木乃成,是以刚济柔也。言木者则尚金,木成器而金得着,仁者必有勇也。若有金无木,勇而无礼则乱;有木无金,庚辛亏而义寡。金者,西方之器也,主哀;木者,东方之物也,主乐。乐而不淫者、木遇金也;哀而不伤者,金得木也。凡此者皆大人之命也。若明水火之归中,用乎金木之间隔,由是哀乐不能动其心,乃外方难名之人。若偏阴偏阳,似木盛花繁,偏阳之谓伏;密云不雨,偏阴之谓见。人命要阴阳两停,则为应格之命,故下文云云。
又曰:金不能成器,藉火以陶熔;木未能成功,假金以削刻。故乐必以哀为主,益必以损为先。木盛花繁,秀而不实;密云不雨,晦而难明。两在未测之间,拟议生矣。是故旺而不可无制,衰而不可无生,得处比和,复归纯粹。)
乘轩衣冕,金火何多,位劣班卑,阴阳不定。
(前论水火以相济而成庆,次论金木而为官乡,是知水贵升,火贵降,木要济柔为刚,金要损刚益柔,则互用为庆。其间独有金刚火强,不可不知也。金至坚之物,非盛火则不能革化;火至暴之物,非金无以显诸用。金火两停,方为铸印之象,故赋云,乘轩衣冕,此君子之器也,须金火两停者当之。若火多金少,金多火轻,皆为凶暴之命。金旺於西方,火旺於南方,各恃其势,则为自刑之刑,如此之命,虽日时有用,终归於位劣班卑而已,是阴阳不能定分故也。
金,阴也。火,阳也。既阴阳两偏,则贵贱高卑,无所定着。况有金而无火,有火而无金,其为凶徒,又可知也。或曰,人命四柱,五行金火多者不足贵。以金刚不能顺物,火暴而难益其生,为气不常,故君子之道鲜美。庚人得丙,辛人得丁,纯阴纯阳,为克为鬼,是为阴阳不定,虽有出身,亦位劣班卑,不能大显。亦通。)
所以龙吟虎啸,风雨助其休祥;火势将兴,故先烟而後焰。
(此为上文五行相克,或未成器,合贵不贵,此又言相克相生之性,因以龙虎烟焰为喻。若五行各得其所,则如龙行雨降,虎啸风生。又如火旺,先有其烟,後有其焰。或以龙吟虎啸二句,喻人年吉而岁运又吉。若初凶後吉者必不然。譬若火之始然,先烟而後焰也。盖烟生於火而能郁火。烟以有气未通为义,岂非火外景而内晦,烟达而後生,不犹人之始凶终吉者哉。徐解:龙吟虎啸,当以戊辰、甲寅,其义甚详,不然,但遇寅与辰相得亦是,先烟後焰,明阴阳气顺,有次序,与其为气也不殊。终非赋义。)
每见凶中有吉、吉乃先凶;吉中有凶。凶为吉兆。
《此本上文,言吉凶相为倚伏。如前论,从魁抵苍龙之宿,财自天来,吉也。是酉中辛克辰中乙木为财,辰乃水乡,复能夺辛金之官,论财却不缺,而失官为凶。大冲临昂胄之乡,人元有害,凶也。却木用金为官,酉则不背官禄,凶中反吉。赋意始於说运,次议五行,之後再详言之。
又如火人,行水运,则是七煞,凶也。或用水为官、吉也。水行巳午运南方,获利为财,吉也。却下有戊己七煞,凶也。如此极多,要学人深造变通,以根本取最重者言之。
昙莹曰:吉凶之相,仍祸福之相因,阴阳之常理也。世固有吉人凶於吉,凶人吉於凶者,君子所不道也,亦道其常而已。凶若胜吉,吉蕴凶中;吉若胜凶,凶藏吉内。驳杂生於纯粹,比和出於战争,故四吉中有凶,凶为吉兆。)
祸旬向末,言福可以迎推;才入衰乡,论灾宜其逆课。
男迎女送,否泰交居;阴阳二气,逆顺折除。
此言灾祸吉凶,由於行运。祸旬向末:如见凶运十年,终满前交吉运,若当生年月气深,或行年太岁扶助,向禄临财,更不须待交运,只在此向末,便可迎详而推之。才入衰乡:人命久历福地,方交背禄财绝之运,然未可便以凶言,是论灾於逆课也。男迎女送,阳男阴女,运顺行也。一运十年,更分前後各五年,凡入吉运,得节气深,男迎者,前五年发福女送者,後五年发福。或曰:男详大运,初入之年,迎何灾福,故云迎。女详大运,将出之年,送何灾福,故云送。男迎女送,否泰交居,作一义看。迎吉送凶,迎凶送吉,是否泰交居也。阴男阳女,阳男阴女,依逆顺行运折除,即前折除三岁为年也,看新旧运上有何吉凶,以运数言。
昙莹曰:此论行运,各指长生,次於衰地,如金生於巳而衰於戌,戌上男顺行於死囚休废,女逆行於帝旺、临官;
巳上男顺旺於申酉之乡,女逆困於寅卯之地,故云祸旬云云。阴阳二气,盖言小运,乃年之气也。大运是月之气也。日干为运,月支为气。小运则从生日後交;大运则论其气而过,二气运行,由我命者也。故曰阴阳二气云云。)
占其金木之内,显於方所分野;标其南北之间,恐不利於往来。一旬之内,於年中而问干。一岁之中,求月中而问日。
向三避五,指方面以穷通;审吉量凶,述岁中之否泰。
(此言运行东西南北、金木水火之乡,有利、不利,兼岁中否泰言也。王氏曰:木火金水乃四方专一之气,各擅方所分野。如春之辛卯、夏之戊午,秋之癸酉,冬之丙子,四方各抱自旺之气,而不可相犯。
故五行旺气,取仲一辰,谓之白虎煞。如东方之木,往西方逢金:南方之火,来北地遇水,所谓煞忌四仲,物禁失道,曰君曰父,不可两亡;以其相克,往必不利。若五行衰绝无气,逢相冲往来,则反互相为福。如乙亥火得癸巳水,火至巳而旺,水至亥而旺,互换逢旺,往来何伤?壬寅之金,为臣不强;庚申之木,事君不暴,独占一隅,奚有造化?盖禄旺贵其自享,患难欲得相救故也。一旬之内,於年中而问干,以年之干,则有以知甲之所寓,於是同旬之生也。一岁之中,求月中而问日,谓一岁之中则有异者,阴阳男女之命也。
求於月而问日者,欲知节气日数,以定几岁为行大运之法也。运之行也,宜向三元生气,避五鬼绝路。指陈方面,穷通阴阳,观禄马之向背,大运之盛衰,由此以审吉凶。不出指顾间,能述岁中之否泰。或以生气、福德、天医为向三;绝体、游魂、五鬼、绝命、本宫为避五。
徐曰:占,读作去声,看当生岁月所占。如木用金为官,在阳命男运,出未入申;阴命男运,出亥入戌,是向禄临财,於金木分野之际。如金用木为财,阳命男运,出丑入寅;阴命男运,出巳入辰,是向禄临财,在木火方所之中。更加太岁、月令、气候扶同言之。标对本言,又有标准之义。则是命基本也。
南者向明而往也。北者向北而来也。此言运气出入动静,或吉、或凶,不可驳杂。或遇交运之年,不可轻举。一旬之内,於年中问干,是月中求日也。一岁之中,求月中问日,是年中求月也。向三、避五,是岁中求吉利方所也。凡坐作进退,向吉避凶,莫大於此矣。
.
tiêu tức phú ngũ
Diệu tại thức kì thông biến, chuyết thuyết do thần; vu cổ muội ư điều huyền, nan hi luật lữ.
(Cái hay là biết linh hoạt thay đổi nó, giải thích mộc mạc như thần; đồng cốt mù loà không biết chỉnh dây đàn, khó mong cầu âm luật).
Hễ mệnh vận tốt xấu hoạ phúc như nói ở trên, phú đặc biệt chỉ nói khái quát. Cái hay là biết cách thức linh hoạt thay đổi nó, lời phú tuy mộc mạc, nhưng lý kỳ diệu ứng nghiệm như thần, nếu không biết linh hoạt thay đổi, ví như người đồng cốt mù loà không biết điều chỉnh dây đàn, mong cầu âm luật được phụ hoạ thật là khó vậy.
Canh tân lâm ư giáp ất, quân tử khả dĩ cầu quan; bắc nhân vận tại nam phương, mậu dịch hoạch kì hậu lợi.
(Canh tân đến giáp ất, người quân tử có thể cầu quan chức; người phương bắc vận ở phương nam, buôn bán thu hoạch lợi nhuận dồi dào).
Kim mộc có nguyên tắc bổ sung cho nhau, thuỷ hoả có đạo ký tế, cho nên đặc biệt đề xuất đàm luận:
Canh tân đến chỗ giáp ất, thì tám can còn lại có thể hiểu được. Người phương bắc vận ở phương nam, thì còn lại đông tây có thể hiểu. Nói quân tử gặp tiểu nhân thì không phải vậy, nói người phương bắc nên là phương hợi tý thì đúng.
Giáp lấy tân làm quan, ất lất canh làm quan, như tuế vận của canh tân tới chỗ người giáp ất, cho nên nói: người quân tử có thể cầu quan, còn ở tiểu nhân trái ngược là quỷ vậy. Hợi tý thuỷ của phương bắc, tỵ gọ hoả của phương nam, vì thuỷ đi vận đến hoả, mà cái mình khắc là tài, cho nên buôn bán thu được lợi nhuận dồi dào. Hoặc nói vị trí của nhâm quý, quẻ của nó thuộc khảm, vị trí của bính đinh quẻ của nó thuộc ly, thuỷ về đất hoả là vận đến tài huơng. Không biết rằng nhâm quý là lộc, tỵ ngọ là mệnh, can chi không hợp nhau, như nhâm quý gặp bính đinh, chỉ có thể nói lộc tài mà thôi, không thể lấy buôn bán mà bàn. Người bàn luận về mệnh phải nên phân biệt lộc mệnh và thân.
Văn triều hoan nhi tịch khấp, vi thịnh hỏa chi viêm dương; quan họa phúc chi xa trì, tắc đa nhân ư thủy thổ.
(Sáng nghe vui chiều tối khóc, vì hoả vượng của trời nóng; quan sát phúc vui muộn phiền, phần lớn là do thuỹ thổ).
Đây là luận về bản chất của ngũ hành, rõ ràng hoạ phúc nhanh hay chậm. Bản chất của hoả hung bạo nên thường thương tổn, cho nên khoan qua gỗ thì có khói bay lên, chạm vào đá thì ánh sáng phát ra, hướng về vui vẻ quay lại khóc, hôm nay đúng hôm qua sai, giống như lửa truyền từ củi, chẳng ai hiểu chỗ tận cùng của nó.
Thuỷ thổ là vật có bản chất mềm mại, mang đến mầm mối của hoạ phúc, nó có vẻ chậm chạp, nó bao gồm trí không và lòng thành thực. Bản chất hoả và mộc thì mau lẹ, dễ phát dễ ngưng; bản chất thuỷ thổ chậm chạp khó thành khó bại.
Kim mộc vị năng thành khí, thính ai nhạc dĩ nan danh, tự mộc thịnh nhi hoa phồn, trạng mật vân nhi bất vũ.
(Kim mộc chưa khả năng thành vật dụng, nghe buồn vui mà khó diễn tả, giống cây tươi tốt nên hoa nhiều, tình trạng mây dầy đặc mà không mưa).
Nói kim thì vượt trội hơn mộc, kim được dùng nên gỗ mới thành là lấy cứng trợ giúp mênh vậy. Nói mộc thì coi trọng kim, mộc thành vật dụng vì kim tiếp xúc, người nhân từ nhất định phải mạnh dạn. Nếu có kim mà không có mộc như là mạnh dạn mà không có lễ nghĩa sẽ mất trật tự; có mộc mà không có kim, như canh tân thiếu sót nên đạo lý kém. Kim là khí của phương tây chủ ai (lân mẫn, buồn thảm); mộc là vật của phương đông, chủ nhạc (thanh âm có quy luật hài hòa làm xúc động lòng người). Nhạc mà không quá độ, mộc gặp kim vậy; ai mà không đau đớn, kim gặp mộc vậy. Thông thường những điều này đều là mệnh của đại nhân (tiếng tôn xưng người có đạo đức hoặc địa vị cao). Nếu rõ ràng thuỷ và hoả quy về trung tâm, dùng kim mộc để cách ngăn, bởi vì ai nhạc không thể động lòng người, chính là người khó diễn tả ở bên ngoài. Nếu lệch âm hay lệch dương, giống như cây tươi tốt nên hoa nhiều, lệch dương gọi là phục; mây dầy đặc mà không mưa, lệch âm gọi là hiện. Mệnh người cần cả hai âm dương ổn thoả, sẽ là đúng với phẩm cách của mệnh, nên những điều sau đây cũng vậy.
Lại nói: kim không thể thành vật dụng, mượn hoả để nung luyện; mộc chưa thành công, mượn kim để đẽo gọt. Cho nên nhạc (mộc) nhất định lấy ai (kim) làm chủ, ích lợi nhất định phải tổn thất trước tiên. Cây tươi tốt nên hoa nhiều, đẹp mà không có trái; mây dầy đặc mà không mưa, u ám nên khó sáng sủa. Cả hai ở bên trong không do lường được, cân nhắc ý kiến sanh ra. Vì thế vượng thì không thể không có chế phục, suy mà không thể không có sanh, được chỗ bỉ hoà, lại quay về thuần tuý.
Thừa hiên y miện, kim hỏa hà đa; vị liệt ban ti, âm dương bất định.
(Áo mão ngồi xe, kim hoả nhiều; địa vị thấp kém, âm dương không xác định).
Trước bàn luận thuỷ hoả trợ giúp nhau trở thành điều lành, kế là bàn luận về kim mộc nên là quan hương, biết rằng thuỷ coi trọng việc lên cao, còn hoả coi trọng việc hạ xuống, mộc cần trợ giúp nhu thành cương, kim cần tổn giảm cương có ích lợi cho nhu, sẽ giúp nhau hỗ trợ thành điều lành. Trong đó chỉ có kim cứng hoả mạnh không thể không biết. Kim là vật đạt đến cứng chắc, không có hoả thịnh vượng sẽ không thể hoá thành da thuộc; hoả là vật đạt đến tàn ác, không phải kim không được sử dụng. Kim hoả ổn thoả nhau, mới là hình tượng của đúc con dấu, cho nên phú nói rằng thừa hiên y miện (áo mão ngồi xe), đây là độ lượng của người quân tử, cần phải có kim hoả ổn thoả nhau. Nếu hoả nhiều kim ít, kim nhiều hoả yếu, đều là mệnh hung ác tàn bạo. Kim vượng ở phương tây, hoả vượng ở phương nam, mỗi thứ cậy thế của mình, sẽ là tự hình, ví như mệnh này tuy ngày giờ có lợi ích, nhưng mãi ở địa vị thấp kém, bởi âm dương không thể quyết định thân phận là vậy.
Kim là âm. Hoả là dương. Vì hai mặt âm dương khác nhau, nên sang hèn, cao thấp không có chỗ nhất định rõ ràng. Nếu có hoả mà không có kim, hay có kim mà không có hoả, có thể biết được đó là lũ tàn ác. Hoặc nói tứ trụ mệnh người, ngũ hành kim hoả nhiều mà không thể coi trọng. Vì kim cứng không khả năng thuận theo vạn vật, hoả hung bạo nên khó có lợi ích cho đời sống, vì khí bất thường cho nên thiếu tốt đẹp cho dặo của người quan tử. Người canh gặp bính, người tân gặp đinh, thuần âm thuần dương là khắc chế là quỷ, đúng là âm dương không định, tuy có ra làm quan, cũng chỉ ở địa vị thấp kém, không thể địa vị to lớn. Cũng thông.
Sở dĩ long ngâm hổ khiếu, phong vũ trợ kì hưu tường; hỏa thế tương hưng, cố tiên yên nhi hậu diễm.
(Sở dĩ rồng kêu cọp gầm, gió mưa trợ giúp điềm tốt lành; thế lửa sắp mạnh, nên có khói trước rồi đến ánh lửa).
Đó là hiện tượng ngũ hành tương khắc, hoặc chưa hoàn thiện, kết hợp coi trọng hay không, đó là bàn về bản chất tương khắc tương sanh, vì lấy rồng cọp khói lửa làm ẩn dụ. Nếu ngũ hành mỗi thứ đều đạt được đúng chỗ của nó, sẽ như rồng đi và mưa rơi, cọp gầm và gió nổi lên. Lại như hoả vượng, trước hết có khói, sau đó mới có ánh lửa. Hoặc lấy hai câu rồng kêu cọp gầm, báo cho biết năm của người tốt mà tuế vận lại tốt. Nếu bắt đầu xấu sau mới tốt thì không phải. Ví như khi hoả bắt đầu cháy, đầu tiên có khói rồi sau mới có ánh lửa. Bởi khói sanh ra từ lửa nên có thể hoả rực rỡ. Khói lấy ý nghĩa khí chưa xuyên qua, không phải hoả ở bên ngoài đẹp mà bên trong tối tăm sao? Khói bay tới và sau đó bốc lên, không giống như con người bắt đầu xấu, cuối cùng tốt. Từ giải thích: rồng kêu cọp gầm, nên lấy mậu thìn và giáp dần ý nghĩa của nó càng thêm tỉ mỉ, không phải vậy chỉ gặp dần với thìn gặp nhau cũng giống vậy, khói có trước sau là ánh lửa, rõ ràng âm dương khí thuận, có thứ tự lớp lang, với khí của nó cũng không có gì đặc biệt. Cuối cùng không phải ý nghĩa của bài phú.
Mỗi kiến hung trung hữu cát, cát nãi tiên hung; cát trung hữu hung, hung vi cát triệu.
(Thường gặp trong hung có tốt, tốt chính là khởi trước cái hung; trong tốt có xấu, xấu là điềm tốt).
Đó là vốn là đoạn văn ở trên, bàn về tốt xấu nương tựa và ẩn trong nhau. Như bàn luận ở phần trước (bài Tiêu Tức Phú số 4) đi theo người cầm đâù đến chỗ nghĩ của rồng xanh, tài tự nhiên đến, tốt. Là tân trong dậu khắc ất mộc trong thìn làm tài, thìn là thuỷ hương, lại có thể đoạt tân kim quan, bàn luận tài tức không đủ mà mất quan là xấu. Đại xung nơi có tinh thần phấn chấn, nhân nguyên có hại, hung. Tức mộc lấy kim làm quan, dậu sẽ không bỏ lại quan lộc, trong hung trái lại tốt. Ý của bài phú mới đầu bàn luận về vận, kế mới thảo luận ngũ hành, sau sẽ hiểu rõ lời bàn.
Lại như người hoả đi vận thuỷ sẽ là thất sát nên hung. Hoặc lấy thuỷ làm quan thì tốt. Thuỷ đi vận tỵ ngọ phương nam, thu hoạch lợi nhuận là tài nên tốt. Nhưng phía dưới có mậu kỷ là thất sát nên hung. Như những điều này rất nhiều, người học nên nghiên cứu sâu hơn và linh hoạt, lấy những điều căn bản và chọn lấy điều quan trọng nhất.
Đàm Oánh nói: tốt xấu cùng nhau là nguyên nhân của hoạ và phúc là thường lý của âm dương. Trên đời vốn có người tốt mà xấu ở cái tốt, người xấu mà tốt ở cái xấu, là điều mà người quân tử không làm, cũng là thường tình. Xấu nếu vượt hơn tốt, thì tốt tích chứa trong xấu; còn tốt vượt hơn xấu, thì hung ẩn bên trong cái tốt. Hỗn tạp sanh ra từ thuần tuý, bỉ hoà nên sanh ra từ chiến tranh, cho nên trong bốn tốt có xấu, xấu là điềm tốt.
Họa tuần hướng mạt, ngôn phúc khả dĩ nghênh thôi; tài nhập suy hương, luận tai nghi kì nghịch khóa.
Nam nghênh nữ tống, phủ thái giao cư; âm dương nhị khí, nghịch thuận chiết trừ.
(Thời gian hoạ gần dứt, nói về phúc lành để nghênh đón; tài vào nơi suy, bàn luận tai hoạ nên đốc suất đảo ngược.
Nam thì đón nữ thì tiễn, bĩ thái sống cùng nhau; hai khí âm dương, nghịch thuận chiết trừ).
Đây là bàn về tai hoạ tốt xấu, đều do đi vận. Thời gian hoạ gần dứt: như gặp vận xấu mười năm, trước khi chấm dứt sẽ gặp vận tốt, nếu khi sanh năm tháng có khí sâu đậm, hoặc đi lưu niên có thái tuế hỗ trợ, hướng tới tài lộc, càng không phải đợi giao vận, chỉ ở nơi đây sắp kết thúc, liền có thể nghênh đón diềm tốt lành mà tuyển chọn.Tài vào nơi suy: mạng sống đã ở lâu nơi đất phúc, mới gặp vận bối lộc tài tuyệt, nhưng không thể lập tức nói là xấu, do đó luận tai hoạ ở nghịch khoá. Nam nghênh đón nữ tiễn đưa: dương nam âm nữ vận đi thuận. Mỗi một vận là mười năm, thêm phân chia trước sau mỗi năm năm, hễ vào vận tốt, gặp tiết khí sâu đậm, nam nghênh đón, nên năm năm đầu phát phúc; nữ tiễn đưa nên sau năm năm mới phát phúc. Hoặc nói: nam biết rõ đại vận, mới vào năm đầu nghênh đón tai hoạ hay phúc lành gì cho nên nói rằng nghênh. Nữ biết rõ đại vận năm sắp hiện ra, tiễn đưa tai hoạ hay phúc lành gì, cho nên nói tống. Nam nghênh đón nữ tống tiễn, bĩ (bế tắc) thái (hanh thông) giao cư (ở chung một chỗ) có cùng một ý nghĩa để xem. Nghênh đón tốt tống tiễn xấu, nghênh đón hung tống tiễn tốt là bĩ thái giao cư. Âm nam dương nữ, dương nam âm nữ, dựa vào để phán đoán đi vận thuận nghịch, tức là phán đoán trước ba tuổi làm năm, xem ở vận mới và cũ có tốt xấu thế nào, lậy vận số mà bàn luận.
Đàm Oánh nói: đây là bàn luận về đi vận, mỗi vận chỉ trường sanh kế là ở đất suy, nhu kim sanh ở tỵ mà suy ở tuất, ở tuất nam đi thuận là tử tù hưu phế, nữ đi nghịch là đế vượng, lâm quan; ở tỵ nam thuận vượng ở nơi thân dậu, nữ nghịch nên khốn khó ở đất dần mão, cho nên nói đây là tai hoạ. Hai khí âm dương, đại khái nói là tiểu vận chính là khí của năm. Đại vận là khí của tháng vậy. Can ngày là vận, địa chi của tháng là khí. Tiểu vận sẽ giao sau ngày sanh; đại luận thì bàn luận khi khí của nó vượt qua, hai khí đi vận giống mình đặt ra vậy, cho nên nói hai khí âm dương như vậy như vậy.
Chiêm kì kim mộc chi nội, hiển ư phương sở phân dã; tiêu kì nam bắc chi gian, khủng bất lợi ư vãng lai. Nhất tuần chi nội, ư niên trung nhi vấn can; nhất tuế chi trung, cầu nguyệt trung nhi vấn nhật.
Hướng tam tị ngũ, chỉ phương diện dĩ cùng thông; thẩm cát lượng hung, thuật tuế trung chi phủ thái.
(Chiếm lĩnh bên trong kim mộc, biểu lộ ở nơi bờ cõi; ghi rõ bên trong nam bắc, e là không có lợi qua lại. Trong một tuần: ở trong năm thì hỏi can. Trong cùng một năm tìm trong tháng thì hỏi ngày.
Hướng tới ba lánh xa năm, chỉ phương diện lý do cùng khốn hay hiển đạt; đo lượng tốt xấu, trình bày bế tắc hay hanh thông trong năm).
Đây là bàn về đi vận đông tây nam bắc, nơi kim mộc thuỷ hoả, có lợi, không có lợi, đồng thời bàn về trong năm bế tắc hay hanh thông. Vương Thị nói: mộc hoả kim thuỷ chính là tập trung khí ở bốn phương, mỗi khí chuyên về bờ cõi của mình. Như tân mão của mùa xuân, mậu ngọ của mùa hạ, quý dậu của mùa thu, bính tý của mùa đông. Mỗi phương trong bốn phương đều canh giữ khí tự vượng, mà không thể xâm phạm nhau.
Cho nên khí ngũ hành vượng, chọn lấy một thần gọi là bạch hổ sát. Như mộc của phương đông đi đến phương tây gặp kim; hoả của phương nam đến đất bắc gặp thuỷ, gọi là sát kỵ tứ trọng (tứ trọng chính là tý mão ngọ dậu), điều cấm kỵ, gọi là vua, gọi là cha, không thể mất cả hai; vì nó khắc nhau nên đi đến sẽ không có lợi. Nếu ngũ hành suy tuyệt không có khí lực, gặp tương xung qua lại sẽ trái lại giúp nhau thành phúc lành. Như ất hợi hoả gặp quý tỵ thuỷ, hoả đến tỵ nên vượng, thuỷ đến hợi nên vượng, trao đổi nhau cùng gặp vượng, qua lại làm sao mà thương tổn? Kim của nhâm dần là thần (bầy tôi) không mạnh; mộc của canh thân công việc của vua không bạo, độc chiếm một góc thì có phúc lành không? Bởi lộc vượng quý nó tự hưởng, hoạn nạn muốn được cứu giúp là vậy. Trong một tuần, ở trong năm thì hỏi can, lấy can năm thì biết được giáp ở đâu, vì vậy sanh cùng tuần. Trong một tuổi, tìm trong tháng thì hỏi ngày, gọi trong một tuổi thì có khác biệt, mệnh âm dương nam nữ.
Tìm ở tháng nên hỏi ngày, muốn biết số ngày của tiết khí (phân khu (thời gian, khí hậu) để xác định mấy tuổi thì đi dại vận. Đi vận nên hướng về sanh khí của tam nguyên, và lánh xa ngũ quỷ, tuyệt lộ. Chỉ trình bày phương diện (phương hướng) cùng khốn và hiển đạt âm dương, hướng tới hay bỏ lại quan lộc mã, thịnh suy của đại vận, lý do để xét rõ tốt xấu. Không rời bỏ ý muốn chăm sóc bên trong, có thể trình bày bĩ (bế tắc) thái (hanh thông) trong năm. Có thể lấy sanh khí, phúc đức, thiên y là hướng tam (ba thứ nên hướng tới); tuyệt thể, du hồn, ngũ quỷ, tuyệt mệnh, bổn cung là tỵ ngũ (năm thứ cần tranh xa).
Từ nói: chiếm, đọc theo thanh khứ (một trong bốn thanh bình, thượng, khứ, nhập 平, 上, 去, 入. Chữ đọc âm như đánh dấu sắc là khứ thanh 去聲), xem chiếm lĩnh năm tháng lúc sanh. Như mộc lấy kim làm quan, dựa vào mệnh dương nam vận ra từ mùi vào thân; mệnh âm nam vận ra từ hợi vào tuất, là hướng về lộc đến tài, ở ranh giới của khu vực kim mộc. Như kim lấy mộc làm tài, mệnh dương nam vận ra từ sửu vào dần; mệnh âm nam vận ra từ tỵ vào thìn, là hướng về lộc đến tài, dựa vào trong những chỗ mộc hoả. Hơn nữa bàn luận thái tuế, lệnh tháng khí hậu (phép nhà lịch cứ năm ngày gọi là một hậu, ba hậu là một khí tiết, vì thế nên tóm gọi tiết trời là khí hậu 氣候, tiết hậu 節候) cùng nâng đỡ. Tiêu (ngọn) đối với bổn (gốc), lại có nghĩa là tiêu chuẩn. Sẽ là căn bản của mệnh vậy.
Phương nam là hướng về minh (sáng suốt) mà đi. Phương bắc là hướng về phương bắc mà tới. Đây là nói về khí ra vào, động tĩnh, có thể tốt, có thể xấu, không nên lộn xộn. Hoặc gặp năm giao vận, không thể xem nhẹ. Trong một tuần, ở trong năm thì hỏi can, ở trong tháng thì tìm ngày. Trong một tuổi tìm trong tháng hỏi ngày, là trong năm tìm tháng vậy. Hướng tam (ba thứ cần hướng về), tỵ ngũ (năm thứ cần tránh xa) là trong tuế tìm chỗ tốt và có lợi. Hễ ngồi nơi tiến thối, nên hướng về chỗ tốt và tránh xa chỗ xấu, không có gì lớn hơn điều này vậy.
Link đến bản tiếng Hoa:
消息赋五
妙在识其通变,拙说犹神;巫瞽昧於调弦,难希律吕。
(凡命运,吉凶祸福,如上所云,赋特言其大概。妙在识其通变,赋辞虽拙,而理妙应如神,设若不能通变,譬之巫瞽昧於调弦,希律吕之和难矣。)
庚辛临於甲乙,君子可以求官;北人运在南方,贸易获其厚利。
(金木有相得之理,水火有既济之道,故特举而言之曰:
庚辛临於甲乙,则余八干可知也。北人运在南方,则余东西可知也。言君子见小人则不然,言北人须亥子方为是。
甲以辛为官,乙以庚为官,如庚辛之运岁,来临甲乙之人,故曰:君子可以求官,在小人反以为鬼也。亥子北方之水,巳午南方之火,以水行运至火,我克之为财,所以贸易获其厚利。或谓壬癸之位,其卦属坎,丙丁之位,其卦属离,水归火地,运至财乡。不知壬癸是禄,巳午是命,干支不相入,如壬癸得丙丁,止可谓之禄财而已,不可以贸易言也。谈命者须当分禄命身。)
闻朝欢而夕泣,为盛火之炎阳;观祸福之赊迟,则多因於水土。
(此论五行之性,明祸福之迟速也。
火之性暴而多伤,故钻木而烟飞,击石而光发,朝欢旋泣,今是昨非,由火传薪,莫知其极也。
水土为物,其性柔和,致於祸福之端,得其迟缓之意,盖智与信也。火木性快,易发易休;水土性迟,难成难败。
金木未能成器,听哀乐以难名,似木盛而花繁,状密云而不雨。
(言金者则尚木,金得用而木乃成,是以刚济柔也。言木者则尚金,木成器而金得着,仁者必有勇也。若有金无木,勇而无礼则乱;有木无金,庚辛亏而义寡。金者,西方之器也,主哀;木者,东方之物也,主乐。乐而不淫者、木遇金也;哀而不伤者,金得木也。凡此者皆大人之命也。若明水火之归中,用乎金木之间隔,由是哀乐不能动其心,乃外方难名之人。若偏阴偏阳,似木盛花繁,偏阳之谓伏;密云不雨,偏阴之谓见。人命要阴阳两停,则为应格之命,故下文云云。
又曰:金不能成器,藉火以陶熔;木未能成功,假金以削刻。故乐必以哀为主,益必以损为先。木盛花繁,秀而不实;密云不雨,晦而难明。两在未测之间,拟议生矣。是故旺而不可无制,衰而不可无生,得处比和,复归纯粹。)
乘轩衣冕,金火何多,位劣班卑,阴阳不定。
(前论水火以相济而成庆,次论金木而为官乡,是知水贵升,火贵降,木要济柔为刚,金要损刚益柔,则互用为庆。其间独有金刚火强,不可不知也。金至坚之物,非盛火则不能革化;火至暴之物,非金无以显诸用。金火两停,方为铸印之象,故赋云,乘轩衣冕,此君子之器也,须金火两停者当之。若火多金少,金多火轻,皆为凶暴之命。金旺於西方,火旺於南方,各恃其势,则为自刑之刑,如此之命,虽日时有用,终归於位劣班卑而已,是阴阳不能定分故也。
金,阴也。火,阳也。既阴阳两偏,则贵贱高卑,无所定着。况有金而无火,有火而无金,其为凶徒,又可知也。或曰,人命四柱,五行金火多者不足贵。以金刚不能顺物,火暴而难益其生,为气不常,故君子之道鲜美。庚人得丙,辛人得丁,纯阴纯阳,为克为鬼,是为阴阳不定,虽有出身,亦位劣班卑,不能大显。亦通。)
所以龙吟虎啸,风雨助其休祥;火势将兴,故先烟而後焰。
(此为上文五行相克,或未成器,合贵不贵,此又言相克相生之性,因以龙虎烟焰为喻。若五行各得其所,则如龙行雨降,虎啸风生。又如火旺,先有其烟,後有其焰。或以龙吟虎啸二句,喻人年吉而岁运又吉。若初凶後吉者必不然。譬若火之始然,先烟而後焰也。盖烟生於火而能郁火。烟以有气未通为义,岂非火外景而内晦,烟达而後生,不犹人之始凶终吉者哉。徐解:龙吟虎啸,当以戊辰、甲寅,其义甚详,不然,但遇寅与辰相得亦是,先烟後焰,明阴阳气顺,有次序,与其为气也不殊。终非赋义。)
每见凶中有吉、吉乃先凶;吉中有凶。凶为吉兆。
《此本上文,言吉凶相为倚伏。如前论,从魁抵苍龙之宿,财自天来,吉也。是酉中辛克辰中乙木为财,辰乃水乡,复能夺辛金之官,论财却不缺,而失官为凶。大冲临昂胄之乡,人元有害,凶也。却木用金为官,酉则不背官禄,凶中反吉。赋意始於说运,次议五行,之後再详言之。
又如火人,行水运,则是七煞,凶也。或用水为官、吉也。水行巳午运南方,获利为财,吉也。却下有戊己七煞,凶也。如此极多,要学人深造变通,以根本取最重者言之。
昙莹曰:吉凶之相,仍祸福之相因,阴阳之常理也。世固有吉人凶於吉,凶人吉於凶者,君子所不道也,亦道其常而已。凶若胜吉,吉蕴凶中;吉若胜凶,凶藏吉内。驳杂生於纯粹,比和出於战争,故四吉中有凶,凶为吉兆。)
祸旬向末,言福可以迎推;才入衰乡,论灾宜其逆课。
男迎女送,否泰交居;阴阳二气,逆顺折除。
此言灾祸吉凶,由於行运。祸旬向末:如见凶运十年,终满前交吉运,若当生年月气深,或行年太岁扶助,向禄临财,更不须待交运,只在此向末,便可迎详而推之。才入衰乡:人命久历福地,方交背禄财绝之运,然未可便以凶言,是论灾於逆课也。男迎女送,阳男阴女,运顺行也。一运十年,更分前後各五年,凡入吉运,得节气深,男迎者,前五年发福女送者,後五年发福。或曰:男详大运,初入之年,迎何灾福,故云迎。女详大运,将出之年,送何灾福,故云送。男迎女送,否泰交居,作一义看。迎吉送凶,迎凶送吉,是否泰交居也。阴男阳女,阳男阴女,依逆顺行运折除,即前折除三岁为年也,看新旧运上有何吉凶,以运数言。
昙莹曰:此论行运,各指长生,次於衰地,如金生於巳而衰於戌,戌上男顺行於死囚休废,女逆行於帝旺、临官;
巳上男顺旺於申酉之乡,女逆困於寅卯之地,故云祸旬云云。阴阳二气,盖言小运,乃年之气也。大运是月之气也。日干为运,月支为气。小运则从生日後交;大运则论其气而过,二气运行,由我命者也。故曰阴阳二气云云。)
占其金木之内,显於方所分野;标其南北之间,恐不利於往来。一旬之内,於年中而问干。一岁之中,求月中而问日。
向三避五,指方面以穷通;审吉量凶,述岁中之否泰。
(此言运行东西南北、金木水火之乡,有利、不利,兼岁中否泰言也。王氏曰:木火金水乃四方专一之气,各擅方所分野。如春之辛卯、夏之戊午,秋之癸酉,冬之丙子,四方各抱自旺之气,而不可相犯。
故五行旺气,取仲一辰,谓之白虎煞。如东方之木,往西方逢金:南方之火,来北地遇水,所谓煞忌四仲,物禁失道,曰君曰父,不可两亡;以其相克,往必不利。若五行衰绝无气,逢相冲往来,则反互相为福。如乙亥火得癸巳水,火至巳而旺,水至亥而旺,互换逢旺,往来何伤?壬寅之金,为臣不强;庚申之木,事君不暴,独占一隅,奚有造化?盖禄旺贵其自享,患难欲得相救故也。一旬之内,於年中而问干,以年之干,则有以知甲之所寓,於是同旬之生也。一岁之中,求月中而问日,谓一岁之中则有异者,阴阳男女之命也。
求於月而问日者,欲知节气日数,以定几岁为行大运之法也。运之行也,宜向三元生气,避五鬼绝路。指陈方面,穷通阴阳,观禄马之向背,大运之盛衰,由此以审吉凶。不出指顾间,能述岁中之否泰。或以生气、福德、天医为向三;绝体、游魂、五鬼、绝命、本宫为避五。
徐曰:占,读作去声,看当生岁月所占。如木用金为官,在阳命男运,出未入申;阴命男运,出亥入戌,是向禄临财,於金木分野之际。如金用木为财,阳命男运,出丑入寅;阴命男运,出巳入辰,是向禄临财,在木火方所之中。更加太岁、月令、气候扶同言之。标对本言,又有标准之义。则是命基本也。
南者向明而往也。北者向北而来也。此言运气出入动静,或吉、或凶,不可驳杂。或遇交运之年,不可轻举。一旬之内,於年中问干,是月中求日也。一岁之中,求月中问日,是年中求月也。向三、避五,是岁中求吉利方所也。凡坐作进退,向吉避凶,莫大於此矣。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#386
Gửi vào 24/11/2024 - 09:40
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất
tiêu tức phú lục
Một tuần là mười ngày; giữa năm là ngày sanh. Thông thường ở trong một tháng, trong vòng một tuần sắp đến ngày sanh là phối hợp thiên nguyên, sẽ biết được ngày tốt lành trong ngày đó, xác định ngày sanh làm chủ vậy. Trong một tuế, chọn lấy lệnh tháng để sanh khắc phối hợp mà bàn luận, thì biết được phúc lành và tai hoạ trong tháng đó vậy. Lại như người sanh đắc địa, phải được thái tuế tôn kính, trong năm năm đầu tìm tháng sanh đới lộc, hoặc quan ấn, vốn có hay không có, là tìm tháng mà hỏi ngày, chính là phướng pháp xem mệnh tổng quát vậy.
Nhâm quý nãi thu sanh nhi đông vượng, hợi tý đồng đồ; giáp ất nãi hạ tử nhi xuân vinh, dần mão nhất quỹ.
(Nhâm quý chính là sanh ở mùa thu vượng ở mùa dông, hợi tý cùng một dường; giáp ất chính là tử ở mùa hạ tươi tốt ở mùa xuân, dần mão giống nhau).
Đây là bàn về mệnh người có sanh vượng, tử tuyệt mà khi đi vận gặp phải, thích hợp hay không thích hợp, tất cả đều dựa vào ngũ hành mà bàn luận. Canh là chủ của các hành kim, cho nên ở chỗ thân mà sanh thuỷ, thuỷ nương về hợi tý, mùa đông thì vượng. Nhâm là nguồn tụ thuỷ, cho nên ở chỗ hợi mà sanh mộc, mộc nương về dần mão, mùa xuân thì vượng. Giáp thì đứng đầu của các hành mộc, cho nên ở chỗ dần mà sanh hoả, hoả nương về tỵ ngọ, mùa hạ thì vượng. Mậu là thứ nhất của các hành thổ, cho nên ở chỗ tỵ mà sanh kim, kim nương về thân dậu, mùa thu thì vượng.
Nhâm quý, hợi tý cùng một loại thuỷ, thuỷ sanh ở thân mà vượng ở tý; giáp ất, dần mão cùng một loại mộc, mộc vượng ở mão mà tử ở ngọ, cho nên nhâm quý sanh ở mùa thu mà vượng ở mùa đông, giáp ất tử ở mùa hạ mà tươi tốt ở mùa xuân.
Bính dần đinh mão, thu thiên nghi dĩ bảo trì; kỉ tị, mậu thìn, độ can cung nhi thoát ách.
(Bính dần đinh mão, mùa thu nên bảo toàn; kỷ tỵ, mậu thìn đi tới cung càn nên cởi khốn quẩn).
Đây chỉ bàn luận về nạp âm. Bính dần, đinh mão lô trung hoả, là hoả vượng. Đến mùa thu nên bảo trì (giữ cho không bị tổn hại), vì hoả đến thu thì tử, nói chi hoả khác? Kỷ tỵ, mậu thìn đại lâm mộc, mộc thịnh (tươi tốt). Đi đến cung càn nên cởi bỏ khốn quẩn, vì mộc đến hợi thì sanh, nói chi các mộc khác?
Lại thêm bính dần, đinh mão, tương tự tất cả các hành hoả vốn là khắc kim, mùa thu bảo trì (giữ cho không bị tổn hại), là tại sao? Nói rằng do thuỷ sanh ở mùa thu vậy. Kỷ tỵ, mậu thìn tương tự tất cả các hành mộc, đã sống nhờ ở hợí sao lại đến cung càn thi cởi bỏ khốn quẩn? Nói rằng do hợi có càn kim vậy. Đạo của ngũ hành có hưu vượng rõ ràng, cái lý tự nhiên của tạo hoá, có thể là nguyên mệnh, có thể là đi vận, có thể là lưu niên thái tuế, tất cả đều nên cẩn thận.
Trị bệnh ưu bệnh, phùng sanh đắc sanh. Vượng tướng tranh vanh, hưu tù diệt tuyệt.
Luận kì quyến thuộc, ưu kì tử tuyệt.
(Gặp bệnh lo lắng về bệnh tật, gặp sanh được sanh. Vượng tướng xuất chúng, hưu tù trừ tuyệt. Bàn về quyến thuộc của nó, lo lắng về tử tuyệt của nó).
Trị bệnh ưu bệnh lấy hưu tù diệt tuyệt mà nói. Phùng sanh đắc sanh là ý nghĩa của vượng tướng tranh vanh. Trị bệnh ưu bệnh là ngũ hành trong bệnh gặp quỷ. Mộc gặp tân tỵ kim, hoả gặp giáp thân thuỷ, thổ gặp canh dần mộc, kim gặp ất hợi hoả như các loại này là hưu tù diệt tuyệt.
Phùng sanh đắc sanh là ngũ hành ở chỗ sanh gặp sanh vậy, mộc tới quý hợi thuỷ, hoả được canh dần mộc, thuỷ gặp nhâm thân kim, kim gặp đinh tỵ thổ, như các loại này là vượng tướng tranh vanh. Có thể gặp ở lúc sanh, có thể gặp ở tuế vận, và xem toàn cuộc, tuỳ nghi biến đổi.
Ngũ hành sanh mình là cha mẹ, mình sanh là con cháu; khắc mình là quan quỷ, mình khắc là thê tài, ngang nhau là anh em, kỵ ở đất không vong tử tuyệt, lo lắng chỗ hưu tù nơi suy bại, theo sau sở đắc của quyến thuộc mà đàm luận. Đây là bàn luận tổng quát chánh hành, sanh ở trong trời đất, chỗ ở trong mười hai địa chi, có trường sanh, mộc dục, quan đới, lâm quan, đế vượng, suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dưỡng mà trong đó có bốn chỗ tốt, bốn chỗ xấu và bốn chỗ bình.
Mộ tại quỷ trung, nguy nghi giả thậm; túc hạ lâm tang, diện tiền khả kiến.
(Mộ ở giữa quỷ, cực kỳ nguy hiểm; bước xuống gặp phải tang, có thể thấy trước mắt).
Mộ tại quỷ trung chính là đường quỷ đi thẳng vào mộ, như kim sợ kỷ sưu hoả, mộc phòng ất mùi kim, thuỷ phiền bín thìn thổ, thổ kỵ mậu thìn mộc, hoả sợ nhâm tuất thuỷ. Như đó là cách có thể đi ở tuế vận chủ cực kỳ nguy hiểm. Túc hạ lâm tang: lấy hai thần trước mệnh là tang môn, như người tân hợi gặp kỷ sửu, đã vào mộ lại còn gặp phải tang (tai hoạ), chính là túc hạ cùng là tai hoạ. Diện tiền khả kiến: nói là cái hung xấu đó xảy ra rất nhanh. Nếu thái tuế, các sát, đại tiểu vận gặp phải, lo lắng tai hoạ không lường, đề phòng các dấu hiệu từ bên ngoài.
Bằng âm sát kì dương họa, tuế tinh mạc phạm ư cô thần;
Thị dương giám dĩ âm tai, thiên niên kị phùng ư quả túc.
(Dựa vào âm biết được tai hoạ của dương, tuế tinh chớ phạm cô thần;
Cậy dương mà thấy tai hoạ âm, thiên niên kỵ gặp quả tú).
Người dần mão thìn tỵ là cô thần, sửu là quả tú. Cho nên nói bằng âm sát kỳ dương hoạ. Tuế tinh chớ phạm cô thần, người tỵ ngọ mùi thân là cô thần, thìn là quả tú, mùi tỵ là vị trì âm, thân thìn là vị trí dương, cho nên nói thị dương giám dĩ âm tai. Thiên niên kỵ phùng ư quả tú: thiên niên giống như tiểu vận vậy. Tuế tinh giống như thái tuế vậy. Dương thì quan trọng ở cô thần, còn âm thì quan trọng ở quả tú.
Từ nói: âm lấy dương làm đối, dương lấy âm làm ngẫu (trai gái tương xứng thành cặp gọi là đối ngẫu 對偶), khi nói dương thì không thường không có âm, khi nói âm thì không thường không có dương, , cho nên dựa vào âm có thể quan sát dương, cậy nhờ dương có thể xem xét âm. Tuế tinh là thái tuế, không nên ở chỗ cô thần. Nếu người dần mão thìn gặp thái tuế ở tỵ thì người dần có câu giảo, người mão có tang điếu, người thìn gọi là khống thần sát, cũng gọi là yêu thần sát, chủ trở ngại ức chế và bế tắc. Thiên niên cũng là thái tuế, không nên ở chỗ quả tú, như người dần mão thìn gặp thái tuế ở sửu thì người thìn có câu giảo, người mão có tang điếu, người dần gọi là khuy (dòm ngó) thần sát, cũng gọi là bách (ép bức) thần sát, chủ người khuy thiết (dòm ngó để ăn cắp), bức bách, hãm hại. Hoặc là tam nguyên khắc mình, tuế vận không hoà hợp, là một năm của ngũ hành lộc mã bị hại, sẽ là càng thêm hung xấu.
Tiên luận nhị khí, thứ khóa diên sanh. Phụ bệnh thôi kì tử lộc, thê tai khóa dĩ phu niên.
(Trước luận hai khí, kế bói kéo dài đời sống. Cha bệnh xem xét lộc của con, vợ tai hoạ bói tuổi chồng).
Ngũ hành tương sanh là cha con, đó là khí truyền thụ, là tương tự như xanh và đỏ vậy. Âm dương tương chế là vợ chồng, đó là thần giao hợp, tương tự các thiên can địa chi vậy. Thí dụ lệnh kim bệnh, không nghi ngờ sẽ sợ hoả, mà hãy nhanh tìm hoả để cứu giúp, vì kim sanh thuỷ là con, có khả năng khắc hoả. Lại như tai hoạ là kim, sợ gặp hoả, lại xem hoả hưu vượng như thế nào, đó chính là hai cách cứu giải, rất cần hiểu rõ.
Từ nói: hai khí là âm và dương. Diên sanh (kéo dài mạng sống) là mệnh vận. Trước phân biệt âm dương, kế phân chia mệnh vận. Hai câu phụ bệnh rõ ràng là hình tượng của âm dương tiến thối. Nếu người canh thìn sanh tháng mười, canh bệnh ở hợi là phụ bệnh vậy. Canh sanh nhâm là con, nhâm lộc ở hợi là con có lộc. Canh lấy ất làm vợ, đại vận đến tỵ, ất mộc bệnh ở tỵ là thê tai (vợ có tai hoạ) vậy. Như người sanh ngày nhâm quý, lấy canh tân làm cha, đi vận hợi tý, kim bện và từ ở hợi và tý, chủ cha mẹ có tai hoạ, hoặc đinh ưu (đinh ưu 丁憂 gặp lúc đau xót, ý nói đang để tang cha hoặc mẹ). Người sanh ngày bính đinh lấy canh tân làm vợ đi vận dần mão, kim tuyệt ở dần mão, chủ vợ có tai hoạ hoặc tang ngẫu (goá bụa). Lại thêm người bính đinh đại vận đến mậu thân, hoả tuy bệnh nhưng bính dần là cha của muậ thân, thổ đến thân thì trường sanh, lộc của con được sanh rồi, cha nhờ lộc con che chở, tuy là bệnh mà không đến nổi chết. Như người đinh mão đi mão đến giáp ngọ, hoả khắc kim là vợ, kim đến ngọ là bại, có thể nói vợ có tai hoạ. Đinh mão hoả vượng ở ngọ, lại gặp thiên lộc, kim hoả tương đắc, âm dương tương hợp, tuy ngũ hành vợ tai hoạ, vì tuổi chồng vượng thì không phải là hung. Bởi cha con gắn bó nhau như một thân thể, vợ chống hai người chung sống với nhau, là người rất thân thiết như cốt nhục. Cho nên quan sát mệnh của chồng con, gặp hung thần ác sát nên hình thương cha mẹ vợ con, thì bệnh của rất nặng, tai hoạ của vợ rất nặng.
Tam cung nguyên cát, họa phùng khả dĩ diên thôi; thủy mạt giai hung, tai hốt lai nhi tấn tốc.
(Ba cung vốn là tốt, hoạ có gặp có thể trì hoãn; trước sau đều xấu, tai hoạ bất ngờ đến rất nhanh).
Tam cung chính là lộc, mệnh và thân vốn là ba cung trường sanh. Tứ trụ đóng ở cung này, gặp lộc mã quý nhân, ngũ hành sanh vượng, gọi là nguyên cát. Tuy đi lưu niên tuế vận gặp hung thần ác sát, muốn gây hại, cũng trì hoãn nên không đến nổi yểu chiết (chết trẻ). Ngũ hành của tam nguyên không có khí lực, có thêm hung thần ác sát của tuế vận đến, là thuỷ mạt giai hung (từ dầu tới cuối đều xấu), khi tai hoạ của nó tới rất nhanh nên không thể cứu giúp.
Từ nói: trước bàn về âm dương thuỷ chung, còn thuyết này là về mệnh người tốt xấu. Như thiên nguyên, nhân nguyên, chi nguyên trong mệnh, trong năm tháng giờ bên trong bên ngoài gặp quý lộc, không ở chỗ hưu bại là nền tàng có gốc, tam nguyên vốn là tốt lành. Nếu đi lưu niên tuế vận mà mệnh gặp nơi nguy hiểm, nhưng cũng có thể đẩy hoạ đến chậm. Nếu trong ngoài tam nguyên, tuy có lộc mã quý khí, tức trong bát tự có xung hình phá hại, không chỉ có quý mà không quý, kết cục cũng chỉ là mệnh của kẻ xấu. Nếu như gặp vận tốt thì phải cẩn thận vì phúc mà gây hoạ; còn gặp vận xấu, thì tai hoạ bỗng nhiên đến mà rất nhanh. Hai giải thích cùng chung một ý nghĩa vậy.
Trạch mộ thụ sát, lạc lương trần dĩ thân ngâm; tang điếu lâm nhân, biến cung thương vi giới lộ.
(Nhà và mộ bị sát, bụi xà nhà rơi nên rên rỉ; tang điếu đến với người, biến cung thương thành giới lộ).
Trước mệnh năm thần là trạch (nhà), sau mệnhnam8 thần là mộ. Sát là kiếp sát, tai sát, tuế sát. Trước mệnh hai thần là tang môn. Sau mệnh hai thần là điếu khách. Nhân là nhân nguyên. Những bài ca tốt làn có âm thanh vây quanh xà nhà; người hát giỏi thì hợp khúc của cung thương (tiếng cung và tiếng thương, một trong ngũ âm: cung, thương, giốc, chủy, vũ 宮, 商, 角, 徵, 羽). Ngày nay dễ trành rên rỉ sầu than, biến đổi giới lộ (薤露 giới lộ♦Tên bài ca thời xưa, dùng khi tống táng, nói đời người chóng hết như giọt sương trên lá kiệu. Vì thế thường dùng để nói về người chết) vãn ca (vãn ca 挽歌 bài viếng thương kẻ chết), tức là tang điếu lâm môn, trạch mộ thụ sát là vậy.
Có thể thái tuế, hung sát cùng nhau đến, đại tiểu vận hạn hình xung, nhất định tai hoạ xấu sẽ đến, cần thiết nên chuẩn bị trước. Hoặc hai chỗ trạch và mộ nếu gặp trục niên lục tuế, tang môn, điếu khách, hoàng phan, báo vĩ, thái âm, đại hao, tướng quân các ác sát vào nhà, một là rên rỉ, hai là chịu đựng đau thương, ba là phân ly, bốn là khóc lóc đó là bốn âm thanh vào nhà. Có thể nói rằng di cư lánh xa có thể tránh khỏi.
Đây là bàn về lưu tuế gặp hung sát, mệnh người vốn có sẵn càng nặng.
Can thôi lưỡng trùng, phòng tai ư nguyên thủ chi gian; chi chiết tam khinh, thận họa ư cổ quăng chi nội;
hạ nguyên nhất khí, chu cư khứ trụ chi kì.
(Thiên can gặp hai lần, đề phòng tai hoạ bên trong người cầm đầu; địa chi gãy tam khinh, cẩn thận tai hoạ ở trong tay chân; hạ nguyên cùng một khí, mong mỏi đi hay ở khắp nơi).
Can thôi lưỡng trùng: can là thiên nguyên, lấy hình tượng nguyên thủ (người lãnh đạo). Gặp đức thấy quý thì tốt; gặp sát gặp quỷ thì xấu. Thiên nguyên hai lần gặp và bị khắc như sanh ngày giáp tý gặp tháng canh ngọ, thêm ngày canh ngọ gọi là trùng (chồng chất), can không vượt qua được trùng khắc là vậy. cẩn thận tai hoạ giữa ngực và lưng của người cầm đầu.
Chi chiết tam khinh: địa chi giống như khớp xương tay chân của người, chủ là số mệnh, đới tam hợp lục hợp thì tốt; còn gặp tứ xung, tam hình thì xấu. Chi thần tam hình gặp thương tổn, như người tân dậu gặp tháng canh dần, ngày đinh tỵ, giờ mậu thân gọi là khinh (nhẹ), hình không đến ở bổn mệnh là vậy; cẩn thận tai hoạ ở trong bụng, tay chân, hoặc vì tam hợp gặp thương tổn, cũng thông suốt.
Hạ nguyên nhất khí: chín là nạp âm vậy. Nó là chúa tể ngũ hành, đuổi theo biến đổi thiên can và địa chi mà thành bĩ (bế tắc) thái (hanh thông), tai hoạ của nó không giới hạn ở tay chân của người cầm đầu, cho nên nói rằng mong mỏi đi hay ở khắp các nơi.
Ôi thiên can thôi (đẩy, đùn) hai lần chồng chất, còn ba lần thì sao? Địa chi gãy ba nhẹ, còn hai thì sao? Đây là khác biệt ở địa chi nặng nhẹ. Có thể nói, đây là bàn về mười thiên can, gặp đại vận ở can gốc năm, khắc ngược thái tuế, thiên can khắc tên gọi là quỷ lâm đầu, mắc bệnh tật ở đầu và mặt. Mười hai địa chi, nếu thân mệnh gặp sanh tử, ngũ quỷ vượng rốt cuộc bệnh tật ở tứ chi, eo lưng và chân, so với can thì nhẹ hơn vậy.
Lại nói về khí vận "Đào Ẩn Cư Ca" nói: giáp kỷ năm năm ất canh bốn, bính tân ba tuổi đinh nhâm hai, mậu quý cần theo một tuổi xét. Lại thêm có nạp âm đi vận khí, tương sanh là phúc đức tương khắc là xấu, ngũ hành cung thuận đều như ý. Người kim gặp kim cho là phạm hung hoạ, người mộc thấy mộc mưu cầu được vừa ý, người thuỷ gặp thuỷ chủ lay động, vận khí thuận nghịch nên ghi chép lại.
Nếu nam mệnh quý dậu, sanh tháng ba, tháng ba là kiến bính thìn, liền thuận theo bính thìn khởi ba tuổi, đinh tỵ thổ hai tuổi, đây là năm năm theo nạp âm là thổ, đặc biệt không có hình khắc. Mậu ngọ trụ một năm, kỷ mùi trụ năm năm, đó là sáu năm theo nạp âm là hoả, kim gặp hoả xấu. Canh thân ở bốn năm, tân dậu ba năm, đó là bảy năm theo nạp âm là mộc, từ mười hai đến mười tám, chủ mưu cầu được xứng ý vừa lòng. Còn lại phỏng theo số trong vòng tròn này. Có thể mỗi cung trụ năm năm, có thể trụ một năm, cho nên nói rằng khứ trụ chi kỳ (mong mỏi đi hay ở). Đại vận trụ ở nơi vượng, ví thử khí có chế phục nhau, thì không khả năng là hại.
Nhân nhi bất nhân, lự thương phạt ư mậu kỉ, chí ư tẩm thực thị vệ.
Vật hữu quỷ vật, nhân hữu quỷ nhân, phùng chi vi tai, khứ chi vi phúc.
(Nhân mà không nhân, lo nghĩ thương phạt mậu kỷ, cho đến việc ăn ngũ của thị vệ.
Vật có quỷ vật, người có quỷ người, gặp phải là tai hoạ, vứt bỏ được là phúc lành).
Giáp ất mộc theo ngũ thường là nhân (từ ái, thiện lương), nay nói ngược lại là bất nhân, vì nó khắc mậu kỷ xấu. Như giáp thấy mậu, ất thấy kỷ, dùng âm giúp dương, là khắc chế là đánh đập, là phụ bạc là làm ngược lại, tức là ngũ hành thành bất nhân vậy. Nếu giáp thấy kỷ, ất thấy mậu cương nhu lợi dụng nhau, cả hai đước cái của mình, không thể nói là bất nhân. Trong bài phú đề cử giáp ất mậu kỷ làm thí dụ, các ngũ hành còn lại có thề tìm theo đó.
Link đến bản tiếng Hoa:
消息赋六
一旬,十日也;年中,生日也。凡在一月之中,一旬之内,将生日天元配合而言,则知其日中休祥,定立生日为主也。一岁之中,取月令以生克配合而言,则知其月中休咎也。且如人生得地,须太岁为尊,是一岁之中求生月带禄、或官印,原有原无,是月而问日,乃看命总法也。)
壬癸乃秋生而冬旺,亥子同途;甲乙乃夏死而春荣,寅卯一揆。
(此言人命有生旺、死绝,而行运所值,有宜与不宜,通指五行言也。庚为众金之主,故居申而生水,水归亥子,冬天而旺。壬为聚水之源,故居亥而生木,木归寅卯,春天而旺。甲为群木之首,故居寅而生火,火归巳午,夏天而旺。戊为众土之一,故居巳而生金,金归申酉,秋天而旺。
壬癸、亥子一类水也,水生於申而旺於子;
甲乙、寅卯一类木也,木旺於卯而死於午,
故壬癸秋生而冬旺,甲乙夏死而春荣。)
丙寅丁卯,秋天宜以保持;己巳、戊辰,度乾宫而脱厄。
(此指纳音言也。丙寅、丁卯,炉中火,火之旺也。至秋宜以保持,以火至秋而死,况他火乎?己巳、戊辰,大林木,木之盛也。度乾宫而脱厄,以木至亥而生也,况别木乎?
又丙寅、丁卯,举火之类,火既克金,秋天保持者,何也?言水生於秋故也。己巳、戊辰,举木之类,水既生亥,乾宫脱厄者,何也?言亥有乾金故也。明五行休旺之道,造化自然之理,或元命、或行运,或流岁,皆宜慎之。)
值病忧病,逢生得生。旺相峥嵘,休囚灭绝。
论其眷属,忧其死绝。
(值病忧病,以休囚灭绝为言。逢生得生,以旺相峥嵘为义。值病忧病者,五行病中逢鬼是也。木值辛巳金,火值甲申水,土遇庚寅木,金逢乙亥火,如此之类,休囚灭绝。
逢生得生者,五行生处逢生是也,木临癸亥水,火得庚寅木,水值壬申金,金逢丁巳土,如此之类,旺相峥嵘。或值之於当生,或逢之於岁运,更看始终,随宜消息。
五行生我者父母,我生者子孙;克我者官鬼,我克者妻财,比和者兄弟,忌在空亡死绝之地,忧居休囚衰败之乡,随眷属所得言之。此总论正行,生乎天地之间,寓於十二支内,有长生、沐浴、冠带、临官、帝旺、衰,病、死、墓、绝、胎、养,内有四吉、四凶、四平也。)
墓在鬼中,危疑者甚;足下临丧,面前可见。
(墓在鬼中,乃正行墓中途鬼,如金畏己丑火,木防乙未金,水愁丙辰土。土忌戊辰木,火怕壬戌水,如此之格,或行乎岁运,主危疑之甚。足下临丧,以命前二辰为丧门,如辛亥人见己丑,既入墓又临丧,乃足下同为祸。面前可见,言其凶速也。若太岁、诸煞、大小运临之,忧其不测之灾,防有外服之象。)
凭阴察其阳祸,岁星莫犯於孤辰;
恃阳鉴以阴灾,天年忌逢於寡宿。
(寅卯辰人,巳为孤辰,丑为寡宿。其寅辰为阳之位,丑巳为阴之位,故曰凭阴察其阳祸。岁星莫犯於孤辰,巳午未人,以申为孤辰,辰为寡宿,未巳为阴之位,申辰为阳之位,故曰恃阳鉴以阴灾。天年忌逢於寡宿,天年,犹小运也。岁星、犹太岁也。阳以孤辰为重,阴以寡宿为重。
徐曰:阴以阳为对,阳以阴为耦,言阳则未尝无阴,言阴则未尝无阳,故凭阴可以察阳,恃阳可以鉴阴。岁星者,太岁也,不可在孤辰之上。假令寅卯辰人,遇太岁在巳,寅人勾绞,卯人丧吊,辰人谓之控神煞,又谓之邀神然,主阻碍抑塞。天年亦太岁,不可在寡宿之上,如寅卯辰人,遇太岁在丑,辰人勾绞,卯人丧吊,寅人谓之窥神煞,又谓之迫神煞,主人窥窃、逼迫、陷害。其或三元克我,岁运不和,是五行禄马为害之年,则为凶尤甚。)
先论二气,次课延生。父病推其子禄,妻灾课以夫年。
(五行相生为父子,其为传受之气,青赤等类是也。阴阳相制为夫妻,其为交合之辰,支干等类是也。假令金病,无疑畏火,急求水以救之,以金生水为子,能克火故也。又如金之灾者,恐值火也,且看火之休旺何如,此乃救解二法,最为详要。
徐曰:二气者,阴阳也。延生者,命运也。先别阴阳,次分命运。父病二句,是明阴阳进退之象也。假令庚辰人。十月生,庚金病於亥,是父病也。庚生壬为子,壬禄在亥,是子有禄也。庚以乙为妻,大运到巳,乙木病於巳,是妻灾也。如壬癸日生人,以庚辛为父,行亥子运,金病死亥子,主父母灾,或丁忧。丙丁日生人,以庚辛为妻,行寅卯运,金绝寅卯,主妻灾或丧偶。又如丙寅人,大运至戊申,火虽病,而丙寅为戊申之父,土至申长生,子禄既生,父承子禄之荫,虽病亦不至死。如丁卯人,行运至甲午,火克金为妻,金至午而败,可谓妻灾。丁卯火旺於午,又逢天禄,金火相得,阴阳相合,虽五行妻灾,以夫年旺而不为凶。盖父子一体相关,夫妻二体同居,是人之至亲骨肉也。故观其夫子之命,遇凶神恶煞,当刑伤父母妻子,则父病必深,妻灾必重。)
三宫元吉,祸逢可以延推;始末皆凶,灾忽来而迅速。
(三宫,乃禄、命、身三元长生之宫。四柱寓居是宫,逢禄马贵人,五行生旺,谓之元吉。虽行年岁运逢凶神恶煞,欲为之祸,亦迟延而不至於夭折。三元五行无气,加以岁运凶神恶煞来临。是始末皆凶,其祸之至,迅速而不可救。
徐曰:前论阴阳始终,此说人命吉凶。如命内天元、人元、支元,内外岁月时中,值贵禄不居休败,是根基主本,三元元吉。若值行年太岁运命乖危之地,然亦可以推祸至迟延也。若三元内外,虽有禄马贵气,却八字中冲刑破害,不唯有贵而不贵,又终为凶人之命。如遇吉运,则防因福生祸;遇凶运,则灾忽来而迅速。二解同一义也。)
宅墓受煞,落梁尘以呻吟;丧吊临人,变宫商为薤露。
(命前五辰为宅,命後五辰为墓。煞,劫煞,灾煞,岁煞也。命前二辰为丧门。命後二辰为吊客。人,人元也。古之善歌者,有绕梁之声;善唱者,合宫商之曲。今易以呻吟愁叹,变为薤露挽歌,则丧吊临门,宅墓受煞故也。
其或太岁、凶煞临并,大、小运限刑冲,必致凶祸,切宜预备。或宅墓二位,若遇逐年六岁、丧门、吊客、黄旛、豹尾、太阴、大耗、将军诸恶煞入宅,一主呻吟,二主忍痛,三主分离,四主哭泣,此为四声入宅。或云,移居避舍可免。
此言流岁所遇之凶煞也,人命原有,尤重。)
干推两重,防灾於元首之间;支折三轻,慎祸於股肱之内;下元一气,周居去住之期。
(干推两重者,干为天元,以象元首。遇德见贵者,吉;逢煞值鬼者,凶。天元两值受克,如甲子生,得庚午月,加以庚午日,谓之重者,干不胜重克故也,防灾於头目胸背之间。
支折三轻,支犹人之肢节,主之於命,带三合、六合者吉;逢四冲、三刑者凶。支辰三刑逢伤,如辛酉人,得庚寅月,丁巳日,戊申时,谓之轻者,刑不至於本命故也;慎祸於腹脏、股肱之内,或以三合逢伤,亦通。
下元一气,纳音是也。其主宰五行,逐干支迁变而成否泰,其灾祸不拘元首股肱,故云周居去住之期。
夫干推两重,况三乎?支折三轻,况两乎?此於支轻重之别也。或曰,此论十干,逢大运在本年上值干,反克太岁,干克名为鬼临头,患头面之疾。十二支辰,若身命逢生死,旺五鬼,须有四肢腰脚之疾,比於干为轻也。
复言气运《陶隐居歌》曰:甲己五年乙庚四,丙辛三岁丁壬二,戊癸须从一岁推。又有纳音行运气,相生福德相克凶,五行恭顺皆如意。金人遇金犯凶祸,木人见木营求遂,水人值水主动摇,运气顺逆须还记。
假令癸酉男命,三月生,三月建丙辰,便从丙辰起三岁,丁巳土二岁,此五年纳音是土,别无刑克。戊午住一年,己未住五年,此六年纳音是火,金遇火凶。庚申上四年,辛酉三年,此七年纳音是木,自十二至十八,主营求称遂。余仿此回圈数之。或一宫住五年,或住一年,故云去住之期。大运住在旺乡,设使气有相制,则不能为害。
仁而不仁,虑伤伐於戊己,至於寝食侍卫。
物有鬼物,人有鬼人,逢之为灾,去之为福。
(甲乙木五常为仁,今反言不仁,以其克戊己凶也。如甲见戊,乙见己,用阴偏阳,为克为伐,为孤为背,则五行为不仁也。若甲见己,乙见戊,刚柔相乘,两得其所,未可以不仁言也。赋中举甲乙戊己为例,其余五行可以例求。
.
tiêu tức phú lục
Một tuần là mười ngày; giữa năm là ngày sanh. Thông thường ở trong một tháng, trong vòng một tuần sắp đến ngày sanh là phối hợp thiên nguyên, sẽ biết được ngày tốt lành trong ngày đó, xác định ngày sanh làm chủ vậy. Trong một tuế, chọn lấy lệnh tháng để sanh khắc phối hợp mà bàn luận, thì biết được phúc lành và tai hoạ trong tháng đó vậy. Lại như người sanh đắc địa, phải được thái tuế tôn kính, trong năm năm đầu tìm tháng sanh đới lộc, hoặc quan ấn, vốn có hay không có, là tìm tháng mà hỏi ngày, chính là phướng pháp xem mệnh tổng quát vậy.
Nhâm quý nãi thu sanh nhi đông vượng, hợi tý đồng đồ; giáp ất nãi hạ tử nhi xuân vinh, dần mão nhất quỹ.
(Nhâm quý chính là sanh ở mùa thu vượng ở mùa dông, hợi tý cùng một dường; giáp ất chính là tử ở mùa hạ tươi tốt ở mùa xuân, dần mão giống nhau).
Đây là bàn về mệnh người có sanh vượng, tử tuyệt mà khi đi vận gặp phải, thích hợp hay không thích hợp, tất cả đều dựa vào ngũ hành mà bàn luận. Canh là chủ của các hành kim, cho nên ở chỗ thân mà sanh thuỷ, thuỷ nương về hợi tý, mùa đông thì vượng. Nhâm là nguồn tụ thuỷ, cho nên ở chỗ hợi mà sanh mộc, mộc nương về dần mão, mùa xuân thì vượng. Giáp thì đứng đầu của các hành mộc, cho nên ở chỗ dần mà sanh hoả, hoả nương về tỵ ngọ, mùa hạ thì vượng. Mậu là thứ nhất của các hành thổ, cho nên ở chỗ tỵ mà sanh kim, kim nương về thân dậu, mùa thu thì vượng.
Nhâm quý, hợi tý cùng một loại thuỷ, thuỷ sanh ở thân mà vượng ở tý; giáp ất, dần mão cùng một loại mộc, mộc vượng ở mão mà tử ở ngọ, cho nên nhâm quý sanh ở mùa thu mà vượng ở mùa đông, giáp ất tử ở mùa hạ mà tươi tốt ở mùa xuân.
Bính dần đinh mão, thu thiên nghi dĩ bảo trì; kỉ tị, mậu thìn, độ can cung nhi thoát ách.
(Bính dần đinh mão, mùa thu nên bảo toàn; kỷ tỵ, mậu thìn đi tới cung càn nên cởi khốn quẩn).
Đây chỉ bàn luận về nạp âm. Bính dần, đinh mão lô trung hoả, là hoả vượng. Đến mùa thu nên bảo trì (giữ cho không bị tổn hại), vì hoả đến thu thì tử, nói chi hoả khác? Kỷ tỵ, mậu thìn đại lâm mộc, mộc thịnh (tươi tốt). Đi đến cung càn nên cởi bỏ khốn quẩn, vì mộc đến hợi thì sanh, nói chi các mộc khác?
Lại thêm bính dần, đinh mão, tương tự tất cả các hành hoả vốn là khắc kim, mùa thu bảo trì (giữ cho không bị tổn hại), là tại sao? Nói rằng do thuỷ sanh ở mùa thu vậy. Kỷ tỵ, mậu thìn tương tự tất cả các hành mộc, đã sống nhờ ở hợí sao lại đến cung càn thi cởi bỏ khốn quẩn? Nói rằng do hợi có càn kim vậy. Đạo của ngũ hành có hưu vượng rõ ràng, cái lý tự nhiên của tạo hoá, có thể là nguyên mệnh, có thể là đi vận, có thể là lưu niên thái tuế, tất cả đều nên cẩn thận.
Trị bệnh ưu bệnh, phùng sanh đắc sanh. Vượng tướng tranh vanh, hưu tù diệt tuyệt.
Luận kì quyến thuộc, ưu kì tử tuyệt.
(Gặp bệnh lo lắng về bệnh tật, gặp sanh được sanh. Vượng tướng xuất chúng, hưu tù trừ tuyệt. Bàn về quyến thuộc của nó, lo lắng về tử tuyệt của nó).
Trị bệnh ưu bệnh lấy hưu tù diệt tuyệt mà nói. Phùng sanh đắc sanh là ý nghĩa của vượng tướng tranh vanh. Trị bệnh ưu bệnh là ngũ hành trong bệnh gặp quỷ. Mộc gặp tân tỵ kim, hoả gặp giáp thân thuỷ, thổ gặp canh dần mộc, kim gặp ất hợi hoả như các loại này là hưu tù diệt tuyệt.
Phùng sanh đắc sanh là ngũ hành ở chỗ sanh gặp sanh vậy, mộc tới quý hợi thuỷ, hoả được canh dần mộc, thuỷ gặp nhâm thân kim, kim gặp đinh tỵ thổ, như các loại này là vượng tướng tranh vanh. Có thể gặp ở lúc sanh, có thể gặp ở tuế vận, và xem toàn cuộc, tuỳ nghi biến đổi.
Ngũ hành sanh mình là cha mẹ, mình sanh là con cháu; khắc mình là quan quỷ, mình khắc là thê tài, ngang nhau là anh em, kỵ ở đất không vong tử tuyệt, lo lắng chỗ hưu tù nơi suy bại, theo sau sở đắc của quyến thuộc mà đàm luận. Đây là bàn luận tổng quát chánh hành, sanh ở trong trời đất, chỗ ở trong mười hai địa chi, có trường sanh, mộc dục, quan đới, lâm quan, đế vượng, suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dưỡng mà trong đó có bốn chỗ tốt, bốn chỗ xấu và bốn chỗ bình.
Mộ tại quỷ trung, nguy nghi giả thậm; túc hạ lâm tang, diện tiền khả kiến.
(Mộ ở giữa quỷ, cực kỳ nguy hiểm; bước xuống gặp phải tang, có thể thấy trước mắt).
Mộ tại quỷ trung chính là đường quỷ đi thẳng vào mộ, như kim sợ kỷ sưu hoả, mộc phòng ất mùi kim, thuỷ phiền bín thìn thổ, thổ kỵ mậu thìn mộc, hoả sợ nhâm tuất thuỷ. Như đó là cách có thể đi ở tuế vận chủ cực kỳ nguy hiểm. Túc hạ lâm tang: lấy hai thần trước mệnh là tang môn, như người tân hợi gặp kỷ sửu, đã vào mộ lại còn gặp phải tang (tai hoạ), chính là túc hạ cùng là tai hoạ. Diện tiền khả kiến: nói là cái hung xấu đó xảy ra rất nhanh. Nếu thái tuế, các sát, đại tiểu vận gặp phải, lo lắng tai hoạ không lường, đề phòng các dấu hiệu từ bên ngoài.
Bằng âm sát kì dương họa, tuế tinh mạc phạm ư cô thần;
Thị dương giám dĩ âm tai, thiên niên kị phùng ư quả túc.
(Dựa vào âm biết được tai hoạ của dương, tuế tinh chớ phạm cô thần;
Cậy dương mà thấy tai hoạ âm, thiên niên kỵ gặp quả tú).
Người dần mão thìn tỵ là cô thần, sửu là quả tú. Cho nên nói bằng âm sát kỳ dương hoạ. Tuế tinh chớ phạm cô thần, người tỵ ngọ mùi thân là cô thần, thìn là quả tú, mùi tỵ là vị trì âm, thân thìn là vị trí dương, cho nên nói thị dương giám dĩ âm tai. Thiên niên kỵ phùng ư quả tú: thiên niên giống như tiểu vận vậy. Tuế tinh giống như thái tuế vậy. Dương thì quan trọng ở cô thần, còn âm thì quan trọng ở quả tú.
Từ nói: âm lấy dương làm đối, dương lấy âm làm ngẫu (trai gái tương xứng thành cặp gọi là đối ngẫu 對偶), khi nói dương thì không thường không có âm, khi nói âm thì không thường không có dương, , cho nên dựa vào âm có thể quan sát dương, cậy nhờ dương có thể xem xét âm. Tuế tinh là thái tuế, không nên ở chỗ cô thần. Nếu người dần mão thìn gặp thái tuế ở tỵ thì người dần có câu giảo, người mão có tang điếu, người thìn gọi là khống thần sát, cũng gọi là yêu thần sát, chủ trở ngại ức chế và bế tắc. Thiên niên cũng là thái tuế, không nên ở chỗ quả tú, như người dần mão thìn gặp thái tuế ở sửu thì người thìn có câu giảo, người mão có tang điếu, người dần gọi là khuy (dòm ngó) thần sát, cũng gọi là bách (ép bức) thần sát, chủ người khuy thiết (dòm ngó để ăn cắp), bức bách, hãm hại. Hoặc là tam nguyên khắc mình, tuế vận không hoà hợp, là một năm của ngũ hành lộc mã bị hại, sẽ là càng thêm hung xấu.
Tiên luận nhị khí, thứ khóa diên sanh. Phụ bệnh thôi kì tử lộc, thê tai khóa dĩ phu niên.
(Trước luận hai khí, kế bói kéo dài đời sống. Cha bệnh xem xét lộc của con, vợ tai hoạ bói tuổi chồng).
Ngũ hành tương sanh là cha con, đó là khí truyền thụ, là tương tự như xanh và đỏ vậy. Âm dương tương chế là vợ chồng, đó là thần giao hợp, tương tự các thiên can địa chi vậy. Thí dụ lệnh kim bệnh, không nghi ngờ sẽ sợ hoả, mà hãy nhanh tìm hoả để cứu giúp, vì kim sanh thuỷ là con, có khả năng khắc hoả. Lại như tai hoạ là kim, sợ gặp hoả, lại xem hoả hưu vượng như thế nào, đó chính là hai cách cứu giải, rất cần hiểu rõ.
Từ nói: hai khí là âm và dương. Diên sanh (kéo dài mạng sống) là mệnh vận. Trước phân biệt âm dương, kế phân chia mệnh vận. Hai câu phụ bệnh rõ ràng là hình tượng của âm dương tiến thối. Nếu người canh thìn sanh tháng mười, canh bệnh ở hợi là phụ bệnh vậy. Canh sanh nhâm là con, nhâm lộc ở hợi là con có lộc. Canh lấy ất làm vợ, đại vận đến tỵ, ất mộc bệnh ở tỵ là thê tai (vợ có tai hoạ) vậy. Như người sanh ngày nhâm quý, lấy canh tân làm cha, đi vận hợi tý, kim bện và từ ở hợi và tý, chủ cha mẹ có tai hoạ, hoặc đinh ưu (đinh ưu 丁憂 gặp lúc đau xót, ý nói đang để tang cha hoặc mẹ). Người sanh ngày bính đinh lấy canh tân làm vợ đi vận dần mão, kim tuyệt ở dần mão, chủ vợ có tai hoạ hoặc tang ngẫu (goá bụa). Lại thêm người bính đinh đại vận đến mậu thân, hoả tuy bệnh nhưng bính dần là cha của muậ thân, thổ đến thân thì trường sanh, lộc của con được sanh rồi, cha nhờ lộc con che chở, tuy là bệnh mà không đến nổi chết. Như người đinh mão đi mão đến giáp ngọ, hoả khắc kim là vợ, kim đến ngọ là bại, có thể nói vợ có tai hoạ. Đinh mão hoả vượng ở ngọ, lại gặp thiên lộc, kim hoả tương đắc, âm dương tương hợp, tuy ngũ hành vợ tai hoạ, vì tuổi chồng vượng thì không phải là hung. Bởi cha con gắn bó nhau như một thân thể, vợ chống hai người chung sống với nhau, là người rất thân thiết như cốt nhục. Cho nên quan sát mệnh của chồng con, gặp hung thần ác sát nên hình thương cha mẹ vợ con, thì bệnh của rất nặng, tai hoạ của vợ rất nặng.
Tam cung nguyên cát, họa phùng khả dĩ diên thôi; thủy mạt giai hung, tai hốt lai nhi tấn tốc.
(Ba cung vốn là tốt, hoạ có gặp có thể trì hoãn; trước sau đều xấu, tai hoạ bất ngờ đến rất nhanh).
Tam cung chính là lộc, mệnh và thân vốn là ba cung trường sanh. Tứ trụ đóng ở cung này, gặp lộc mã quý nhân, ngũ hành sanh vượng, gọi là nguyên cát. Tuy đi lưu niên tuế vận gặp hung thần ác sát, muốn gây hại, cũng trì hoãn nên không đến nổi yểu chiết (chết trẻ). Ngũ hành của tam nguyên không có khí lực, có thêm hung thần ác sát của tuế vận đến, là thuỷ mạt giai hung (từ dầu tới cuối đều xấu), khi tai hoạ của nó tới rất nhanh nên không thể cứu giúp.
Từ nói: trước bàn về âm dương thuỷ chung, còn thuyết này là về mệnh người tốt xấu. Như thiên nguyên, nhân nguyên, chi nguyên trong mệnh, trong năm tháng giờ bên trong bên ngoài gặp quý lộc, không ở chỗ hưu bại là nền tàng có gốc, tam nguyên vốn là tốt lành. Nếu đi lưu niên tuế vận mà mệnh gặp nơi nguy hiểm, nhưng cũng có thể đẩy hoạ đến chậm. Nếu trong ngoài tam nguyên, tuy có lộc mã quý khí, tức trong bát tự có xung hình phá hại, không chỉ có quý mà không quý, kết cục cũng chỉ là mệnh của kẻ xấu. Nếu như gặp vận tốt thì phải cẩn thận vì phúc mà gây hoạ; còn gặp vận xấu, thì tai hoạ bỗng nhiên đến mà rất nhanh. Hai giải thích cùng chung một ý nghĩa vậy.
Trạch mộ thụ sát, lạc lương trần dĩ thân ngâm; tang điếu lâm nhân, biến cung thương vi giới lộ.
(Nhà và mộ bị sát, bụi xà nhà rơi nên rên rỉ; tang điếu đến với người, biến cung thương thành giới lộ).
Trước mệnh năm thần là trạch (nhà), sau mệnhnam8 thần là mộ. Sát là kiếp sát, tai sát, tuế sát. Trước mệnh hai thần là tang môn. Sau mệnh hai thần là điếu khách. Nhân là nhân nguyên. Những bài ca tốt làn có âm thanh vây quanh xà nhà; người hát giỏi thì hợp khúc của cung thương (tiếng cung và tiếng thương, một trong ngũ âm: cung, thương, giốc, chủy, vũ 宮, 商, 角, 徵, 羽). Ngày nay dễ trành rên rỉ sầu than, biến đổi giới lộ (薤露 giới lộ♦Tên bài ca thời xưa, dùng khi tống táng, nói đời người chóng hết như giọt sương trên lá kiệu. Vì thế thường dùng để nói về người chết) vãn ca (vãn ca 挽歌 bài viếng thương kẻ chết), tức là tang điếu lâm môn, trạch mộ thụ sát là vậy.
Có thể thái tuế, hung sát cùng nhau đến, đại tiểu vận hạn hình xung, nhất định tai hoạ xấu sẽ đến, cần thiết nên chuẩn bị trước. Hoặc hai chỗ trạch và mộ nếu gặp trục niên lục tuế, tang môn, điếu khách, hoàng phan, báo vĩ, thái âm, đại hao, tướng quân các ác sát vào nhà, một là rên rỉ, hai là chịu đựng đau thương, ba là phân ly, bốn là khóc lóc đó là bốn âm thanh vào nhà. Có thể nói rằng di cư lánh xa có thể tránh khỏi.
Đây là bàn về lưu tuế gặp hung sát, mệnh người vốn có sẵn càng nặng.
Can thôi lưỡng trùng, phòng tai ư nguyên thủ chi gian; chi chiết tam khinh, thận họa ư cổ quăng chi nội;
hạ nguyên nhất khí, chu cư khứ trụ chi kì.
(Thiên can gặp hai lần, đề phòng tai hoạ bên trong người cầm đầu; địa chi gãy tam khinh, cẩn thận tai hoạ ở trong tay chân; hạ nguyên cùng một khí, mong mỏi đi hay ở khắp nơi).
Can thôi lưỡng trùng: can là thiên nguyên, lấy hình tượng nguyên thủ (người lãnh đạo). Gặp đức thấy quý thì tốt; gặp sát gặp quỷ thì xấu. Thiên nguyên hai lần gặp và bị khắc như sanh ngày giáp tý gặp tháng canh ngọ, thêm ngày canh ngọ gọi là trùng (chồng chất), can không vượt qua được trùng khắc là vậy. cẩn thận tai hoạ giữa ngực và lưng của người cầm đầu.
Chi chiết tam khinh: địa chi giống như khớp xương tay chân của người, chủ là số mệnh, đới tam hợp lục hợp thì tốt; còn gặp tứ xung, tam hình thì xấu. Chi thần tam hình gặp thương tổn, như người tân dậu gặp tháng canh dần, ngày đinh tỵ, giờ mậu thân gọi là khinh (nhẹ), hình không đến ở bổn mệnh là vậy; cẩn thận tai hoạ ở trong bụng, tay chân, hoặc vì tam hợp gặp thương tổn, cũng thông suốt.
Hạ nguyên nhất khí: chín là nạp âm vậy. Nó là chúa tể ngũ hành, đuổi theo biến đổi thiên can và địa chi mà thành bĩ (bế tắc) thái (hanh thông), tai hoạ của nó không giới hạn ở tay chân của người cầm đầu, cho nên nói rằng mong mỏi đi hay ở khắp các nơi.
Ôi thiên can thôi (đẩy, đùn) hai lần chồng chất, còn ba lần thì sao? Địa chi gãy ba nhẹ, còn hai thì sao? Đây là khác biệt ở địa chi nặng nhẹ. Có thể nói, đây là bàn về mười thiên can, gặp đại vận ở can gốc năm, khắc ngược thái tuế, thiên can khắc tên gọi là quỷ lâm đầu, mắc bệnh tật ở đầu và mặt. Mười hai địa chi, nếu thân mệnh gặp sanh tử, ngũ quỷ vượng rốt cuộc bệnh tật ở tứ chi, eo lưng và chân, so với can thì nhẹ hơn vậy.
Lại nói về khí vận "Đào Ẩn Cư Ca" nói: giáp kỷ năm năm ất canh bốn, bính tân ba tuổi đinh nhâm hai, mậu quý cần theo một tuổi xét. Lại thêm có nạp âm đi vận khí, tương sanh là phúc đức tương khắc là xấu, ngũ hành cung thuận đều như ý. Người kim gặp kim cho là phạm hung hoạ, người mộc thấy mộc mưu cầu được vừa ý, người thuỷ gặp thuỷ chủ lay động, vận khí thuận nghịch nên ghi chép lại.
Nếu nam mệnh quý dậu, sanh tháng ba, tháng ba là kiến bính thìn, liền thuận theo bính thìn khởi ba tuổi, đinh tỵ thổ hai tuổi, đây là năm năm theo nạp âm là thổ, đặc biệt không có hình khắc. Mậu ngọ trụ một năm, kỷ mùi trụ năm năm, đó là sáu năm theo nạp âm là hoả, kim gặp hoả xấu. Canh thân ở bốn năm, tân dậu ba năm, đó là bảy năm theo nạp âm là mộc, từ mười hai đến mười tám, chủ mưu cầu được xứng ý vừa lòng. Còn lại phỏng theo số trong vòng tròn này. Có thể mỗi cung trụ năm năm, có thể trụ một năm, cho nên nói rằng khứ trụ chi kỳ (mong mỏi đi hay ở). Đại vận trụ ở nơi vượng, ví thử khí có chế phục nhau, thì không khả năng là hại.
Nhân nhi bất nhân, lự thương phạt ư mậu kỉ, chí ư tẩm thực thị vệ.
Vật hữu quỷ vật, nhân hữu quỷ nhân, phùng chi vi tai, khứ chi vi phúc.
(Nhân mà không nhân, lo nghĩ thương phạt mậu kỷ, cho đến việc ăn ngũ của thị vệ.
Vật có quỷ vật, người có quỷ người, gặp phải là tai hoạ, vứt bỏ được là phúc lành).
Giáp ất mộc theo ngũ thường là nhân (từ ái, thiện lương), nay nói ngược lại là bất nhân, vì nó khắc mậu kỷ xấu. Như giáp thấy mậu, ất thấy kỷ, dùng âm giúp dương, là khắc chế là đánh đập, là phụ bạc là làm ngược lại, tức là ngũ hành thành bất nhân vậy. Nếu giáp thấy kỷ, ất thấy mậu cương nhu lợi dụng nhau, cả hai đước cái của mình, không thể nói là bất nhân. Trong bài phú đề cử giáp ất mậu kỷ làm thí dụ, các ngũ hành còn lại có thề tìm theo đó.
Link đến bản tiếng Hoa:
消息赋六
一旬,十日也;年中,生日也。凡在一月之中,一旬之内,将生日天元配合而言,则知其日中休祥,定立生日为主也。一岁之中,取月令以生克配合而言,则知其月中休咎也。且如人生得地,须太岁为尊,是一岁之中求生月带禄、或官印,原有原无,是月而问日,乃看命总法也。)
壬癸乃秋生而冬旺,亥子同途;甲乙乃夏死而春荣,寅卯一揆。
(此言人命有生旺、死绝,而行运所值,有宜与不宜,通指五行言也。庚为众金之主,故居申而生水,水归亥子,冬天而旺。壬为聚水之源,故居亥而生木,木归寅卯,春天而旺。甲为群木之首,故居寅而生火,火归巳午,夏天而旺。戊为众土之一,故居巳而生金,金归申酉,秋天而旺。
壬癸、亥子一类水也,水生於申而旺於子;
甲乙、寅卯一类木也,木旺於卯而死於午,
故壬癸秋生而冬旺,甲乙夏死而春荣。)
丙寅丁卯,秋天宜以保持;己巳、戊辰,度乾宫而脱厄。
(此指纳音言也。丙寅、丁卯,炉中火,火之旺也。至秋宜以保持,以火至秋而死,况他火乎?己巳、戊辰,大林木,木之盛也。度乾宫而脱厄,以木至亥而生也,况别木乎?
又丙寅、丁卯,举火之类,火既克金,秋天保持者,何也?言水生於秋故也。己巳、戊辰,举木之类,水既生亥,乾宫脱厄者,何也?言亥有乾金故也。明五行休旺之道,造化自然之理,或元命、或行运,或流岁,皆宜慎之。)
值病忧病,逢生得生。旺相峥嵘,休囚灭绝。
论其眷属,忧其死绝。
(值病忧病,以休囚灭绝为言。逢生得生,以旺相峥嵘为义。值病忧病者,五行病中逢鬼是也。木值辛巳金,火值甲申水,土遇庚寅木,金逢乙亥火,如此之类,休囚灭绝。
逢生得生者,五行生处逢生是也,木临癸亥水,火得庚寅木,水值壬申金,金逢丁巳土,如此之类,旺相峥嵘。或值之於当生,或逢之於岁运,更看始终,随宜消息。
五行生我者父母,我生者子孙;克我者官鬼,我克者妻财,比和者兄弟,忌在空亡死绝之地,忧居休囚衰败之乡,随眷属所得言之。此总论正行,生乎天地之间,寓於十二支内,有长生、沐浴、冠带、临官、帝旺、衰,病、死、墓、绝、胎、养,内有四吉、四凶、四平也。)
墓在鬼中,危疑者甚;足下临丧,面前可见。
(墓在鬼中,乃正行墓中途鬼,如金畏己丑火,木防乙未金,水愁丙辰土。土忌戊辰木,火怕壬戌水,如此之格,或行乎岁运,主危疑之甚。足下临丧,以命前二辰为丧门,如辛亥人见己丑,既入墓又临丧,乃足下同为祸。面前可见,言其凶速也。若太岁、诸煞、大小运临之,忧其不测之灾,防有外服之象。)
凭阴察其阳祸,岁星莫犯於孤辰;
恃阳鉴以阴灾,天年忌逢於寡宿。
(寅卯辰人,巳为孤辰,丑为寡宿。其寅辰为阳之位,丑巳为阴之位,故曰凭阴察其阳祸。岁星莫犯於孤辰,巳午未人,以申为孤辰,辰为寡宿,未巳为阴之位,申辰为阳之位,故曰恃阳鉴以阴灾。天年忌逢於寡宿,天年,犹小运也。岁星、犹太岁也。阳以孤辰为重,阴以寡宿为重。
徐曰:阴以阳为对,阳以阴为耦,言阳则未尝无阴,言阴则未尝无阳,故凭阴可以察阳,恃阳可以鉴阴。岁星者,太岁也,不可在孤辰之上。假令寅卯辰人,遇太岁在巳,寅人勾绞,卯人丧吊,辰人谓之控神煞,又谓之邀神然,主阻碍抑塞。天年亦太岁,不可在寡宿之上,如寅卯辰人,遇太岁在丑,辰人勾绞,卯人丧吊,寅人谓之窥神煞,又谓之迫神煞,主人窥窃、逼迫、陷害。其或三元克我,岁运不和,是五行禄马为害之年,则为凶尤甚。)
先论二气,次课延生。父病推其子禄,妻灾课以夫年。
(五行相生为父子,其为传受之气,青赤等类是也。阴阳相制为夫妻,其为交合之辰,支干等类是也。假令金病,无疑畏火,急求水以救之,以金生水为子,能克火故也。又如金之灾者,恐值火也,且看火之休旺何如,此乃救解二法,最为详要。
徐曰:二气者,阴阳也。延生者,命运也。先别阴阳,次分命运。父病二句,是明阴阳进退之象也。假令庚辰人。十月生,庚金病於亥,是父病也。庚生壬为子,壬禄在亥,是子有禄也。庚以乙为妻,大运到巳,乙木病於巳,是妻灾也。如壬癸日生人,以庚辛为父,行亥子运,金病死亥子,主父母灾,或丁忧。丙丁日生人,以庚辛为妻,行寅卯运,金绝寅卯,主妻灾或丧偶。又如丙寅人,大运至戊申,火虽病,而丙寅为戊申之父,土至申长生,子禄既生,父承子禄之荫,虽病亦不至死。如丁卯人,行运至甲午,火克金为妻,金至午而败,可谓妻灾。丁卯火旺於午,又逢天禄,金火相得,阴阳相合,虽五行妻灾,以夫年旺而不为凶。盖父子一体相关,夫妻二体同居,是人之至亲骨肉也。故观其夫子之命,遇凶神恶煞,当刑伤父母妻子,则父病必深,妻灾必重。)
三宫元吉,祸逢可以延推;始末皆凶,灾忽来而迅速。
(三宫,乃禄、命、身三元长生之宫。四柱寓居是宫,逢禄马贵人,五行生旺,谓之元吉。虽行年岁运逢凶神恶煞,欲为之祸,亦迟延而不至於夭折。三元五行无气,加以岁运凶神恶煞来临。是始末皆凶,其祸之至,迅速而不可救。
徐曰:前论阴阳始终,此说人命吉凶。如命内天元、人元、支元,内外岁月时中,值贵禄不居休败,是根基主本,三元元吉。若值行年太岁运命乖危之地,然亦可以推祸至迟延也。若三元内外,虽有禄马贵气,却八字中冲刑破害,不唯有贵而不贵,又终为凶人之命。如遇吉运,则防因福生祸;遇凶运,则灾忽来而迅速。二解同一义也。)
宅墓受煞,落梁尘以呻吟;丧吊临人,变宫商为薤露。
(命前五辰为宅,命後五辰为墓。煞,劫煞,灾煞,岁煞也。命前二辰为丧门。命後二辰为吊客。人,人元也。古之善歌者,有绕梁之声;善唱者,合宫商之曲。今易以呻吟愁叹,变为薤露挽歌,则丧吊临门,宅墓受煞故也。
其或太岁、凶煞临并,大、小运限刑冲,必致凶祸,切宜预备。或宅墓二位,若遇逐年六岁、丧门、吊客、黄旛、豹尾、太阴、大耗、将军诸恶煞入宅,一主呻吟,二主忍痛,三主分离,四主哭泣,此为四声入宅。或云,移居避舍可免。
此言流岁所遇之凶煞也,人命原有,尤重。)
干推两重,防灾於元首之间;支折三轻,慎祸於股肱之内;下元一气,周居去住之期。
(干推两重者,干为天元,以象元首。遇德见贵者,吉;逢煞值鬼者,凶。天元两值受克,如甲子生,得庚午月,加以庚午日,谓之重者,干不胜重克故也,防灾於头目胸背之间。
支折三轻,支犹人之肢节,主之於命,带三合、六合者吉;逢四冲、三刑者凶。支辰三刑逢伤,如辛酉人,得庚寅月,丁巳日,戊申时,谓之轻者,刑不至於本命故也;慎祸於腹脏、股肱之内,或以三合逢伤,亦通。
下元一气,纳音是也。其主宰五行,逐干支迁变而成否泰,其灾祸不拘元首股肱,故云周居去住之期。
夫干推两重,况三乎?支折三轻,况两乎?此於支轻重之别也。或曰,此论十干,逢大运在本年上值干,反克太岁,干克名为鬼临头,患头面之疾。十二支辰,若身命逢生死,旺五鬼,须有四肢腰脚之疾,比於干为轻也。
复言气运《陶隐居歌》曰:甲己五年乙庚四,丙辛三岁丁壬二,戊癸须从一岁推。又有纳音行运气,相生福德相克凶,五行恭顺皆如意。金人遇金犯凶祸,木人见木营求遂,水人值水主动摇,运气顺逆须还记。
假令癸酉男命,三月生,三月建丙辰,便从丙辰起三岁,丁巳土二岁,此五年纳音是土,别无刑克。戊午住一年,己未住五年,此六年纳音是火,金遇火凶。庚申上四年,辛酉三年,此七年纳音是木,自十二至十八,主营求称遂。余仿此回圈数之。或一宫住五年,或住一年,故云去住之期。大运住在旺乡,设使气有相制,则不能为害。
仁而不仁,虑伤伐於戊己,至於寝食侍卫。
物有鬼物,人有鬼人,逢之为灾,去之为福。
(甲乙木五常为仁,今反言不仁,以其克戊己凶也。如甲见戊,乙见己,用阴偏阳,为克为伐,为孤为背,则五行为不仁也。若甲见己,乙见戊,刚柔相乘,两得其所,未可以不仁言也。赋中举甲乙戊己为例,其余五行可以例求。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#387
Gửi vào 25/11/2024 - 13:32
KHÔNG THẤY BÀI SỐ 7
________________________________________________________
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất
tiêu tức phú bát
Có thể nói: trước mã một thần là phàn an (yên ngựa), sau mã một thần là tiên sách (roi ngựa). Phàn an có vị trí, với thiên nguyên đới hợp, người được vậy thì quý. Phải có thêm cát tướng, tuế vận giúp đõ thân, thêm ở cung vượng tướng, bắt đầu có thể nói là phúc lành. Dịch mã nhỏ bé và yếu kém, tài mệnh hưu tù sẽ lầm than cực khổ, kết cục không có thành tựu. Đây là lấy tứ trụ gặp phải, nhất định chủ phiêu bồng (cỏ bồng theo gió bay đi).
Chiếm trừ vọng bái, giáp ngọ dĩ tứ bát vi kì; khẩu thiệt văn thư, kỉ hợi thận tam thập hữu nhị.
Thiện ác tương bạn, diêu động thiên di; giáp sát trì khâu, thân nhân* khốc tống.
(Chiếm trừ bái phỏng, giáp ngọ lấy bốn tám làm kỳ hạn; tranh cãi về giấy tờ văn kiện, kỷ hợi cẩn thận ba mươi hai.
Thiện ác giúp nhau, lay động dời đổi; kề sát giữ mộ, thân nhân khóc tiễn dưa).
[Thân nhân 亲姻: người thân thích do quan hệ hôn nhân mà thành]
Đây là bàn luận về đi lưu niên, đại tiểu vận, Giống như ở con số, số có biến đổi của lẻ và chẵn, tốt xấu từ đó mà sanh ra. Người sanh giáp ngọ,ba mươi hai, tiểu vận đinh dậu nơi vượng của nhà kim, ất sửu thái tuế là chánh khố của nạp âm gốc, lại gặp dịch mã nhập trạch, thêm thiên ất đến đây, cho nên nói chiếm trừ vọng bái (chiếm trừ bái phỏng) vậy.
Người sanh kỷ hợi, tam thập nhị, điếu khách ở tiểu vận đinh dậu, thái tuế canh ngọ ở nơi tử (chết), vẫn là cung của lục ách, tam nguyên bị khắc, cho nên có nổi lo khẩu thiệt văn thư (tranh cãi về giấy tờ văn kiện). Lại thêm tuế vận giao cung, nên ước mong gặp mặt, tốt xấu giúp đỡ nhau, hoạ phúc sửa sai cho nhau, không có thay đổi bất nhân nên thịnh vượng, cho nên nói rằng thiện ác tương bạn (thiện ác giúp đỡ nhau). Diêu động thiên di (lay động dời đổi) sẽ có tốt xấu hối tiếc sanh ra ở động.
Thìn tuất sửu múi gọi là tứ sát, cũng nói rắng đất của tam khâu (mồ mã), mỗi thứ theo ngũ hành, ngũ mộ.
Ví như lệnh kỷ tỵ mộc lệnh, gặp ngày sanh ất mùi, đó là tam khâu của nhà mình, lại thêm có thêm dương nhận, cho nên nói giáp sát trì khâu (kế bên sát giữ mộ),
Tự đi đến chỗ ra vào, ngừng lại ở kế bân sát mà giữ mộ. Đó cũng là một đoạn văn đầy đủ về địa lý âm dương, tương tự của tam nguyên cửu cung. Dùng lưu niên thái tuế, xác định hoạ phúc, cùng toàn bộ lý của tam mệnh trình bày không đầy đủ.
Kiêm tu tường kì thao chấp, quan kì bỉnh trì. Hậu bạc luận kì cốt trạng, thành khí tạ ư tâm nguyên.
Mộc khí thịnh nhi nhân xương, canh tân khuy nhi nghĩa quả.
(Cùng lúc phải hiểu rõ nó nắm giữ, quan sát quyền bính của nó. Phân tích phẩm cách hậu bạc, thành tài năng nhờ ở tính tình căn bản.
Mộc khí thịnh nên nhân từ thích đáng, canh tân thiếu sót nên phép tắc kém).
Đây là bàn về dùng ngũ hành để xá định mệnh, thấy sang hèn hoạ phúc của nó, xem xét những người phi thường vượt trội hơn người, giống như băng thử (chuột sống trong băng) hoả quy (rùa ở trong lửa), không thể dò được, thì tam nguyên ngũ hành không đủ để làm mọi thứ. Đồng thời phải hiểu rõ thao chấp bỉnh trì (nắm giử quyền bính), cốt trạng tâm nguyên (phẩm cách và tính tình), rồi nhìn vào nguyên nhân của nó, xem xét nguồn gốc của nó và xét kỹ sự giải quyết của nó, tâm điều khiển hành vi cả hai đạt được vậy; tướng mạo và đức hạnh tiếp đãi lẫn nhau. Người sao mà gầy thế? Người thật là gầy! Đó là cách quan sát người của Lạc Lục Tử, nó hợp với chủ thuyết Nho giáo của ta vậy. Ma Y: hữu tâm vô tướng, tướng theo tâm sanh; hữu tướng vô tâm, tâm tuỳ tướng diệt (có tâm không có tướng, tướng sẽ theo tâm mà sanh ra; còn có tướng mà không có tâm, thi tâm theo tướng diệt mất) cũng là nghĩa này. Giáp ất mộc chủ nhân (nhân từ), bính đinh hoả chủ lễ (phép tắc), mậu kỷ thổ chủ tín (thành thật), canh tân kim chủ nghĩa (hợp với lẽ phải, đạo lý), nhâm quý thuỷ chủ trí (trí tuệ). Mộc thịnh sẽ nhân từ thích đáng, kim thiếu sót sẽ kém đạo lý, còn lại đều lấy hình tượng của việc mà biết tài năn, bói sự việc biết được sẽ xãy ra, đó là ngũ hành phối hợp với ngũ thường mà xác định độ lượng của con người vậy.
Ác diệu gia nhi hữu hỉ, nghĩ kì đại khí; phúc tinh lâm nhi họa phát, dĩ biểu hung nhân.
(Sao xấu đến mà có niềm vui, so sánh với tài năng to lớn; phúc tinh đến mà gây ra hoạ, là dấu hiệu xấu của con người).
Rèn luyện ở bản thân, những đức tính là thật sự, cho nên nói: trung hiếu nhân nghĩa là những đức nên thuận theo.
Tuy đến chỗ các sát, trái lại thành quyền tinh; phú quý nên kiêu ngạo, tự rước hoạ vào thân. Cho nên nói: kiêu ngạo và thô lỗ, làm ngược lại với đức tính. Làm điều tốt mà không mất điều thiện đáp đền, còn làm ác thì tự rước lấy tai ương. Đó là lời khuyên răn nghiêm khắc của Lạc Lục Tử. Nghĩ: dấu hiệu hai chữ rất có ý nghĩa. Sao xấu nên tăng hoạ, mà trái lại có niềm vui. chẳng phẩi tài năng của người quân tử thì không có khả năng. Bởi người có năng lực hiểu biết rộng lớn, trung hiếu nhân nghĩa, thận trọng lể nghĩa và tuân thủ pháp luất, làm sao có thể liên quan đến hoạ? Cho nên nói: nghĩ. Khi sao phúc đến nên vui mừng mà trái lại thành hoạ, chính là mệnh của tiểu nhân làm điều càn bậy. Bất trung bất hiếu, bất nhân bất nghĩa, bội nghịch vô lễ, làm sao có khả năng tránh được hoạ? Cho nên nói là biểu (dấu hiệu). "Ngữ" nói: người xấu làm xấu điều tốt của mình; người tốt làm tốt điều xấu của mình. Đó là ý nghĩa vậy. Đây là nhân lời văn ở trên nói thao chấp bỉnh trì, cốt trạng tâm nguyên mà bàn luận, người quân tử, kẻ tiểu nhân điều hiểu thấy vậy.
Xử định cầu động, khắc vị tẫn nhi nan thiên; cư an vấn nguy, khả hung trung nhi bốc cát.
(Lúc định tìm hành động, khắc chưa hết khó biến đổi; lúc yên ổn hỏi việc nguy hiểm, có thể trong xấu mà bói được tốt).
Đó là Lạc Lục Tử dạy người cầu danh lo liệu hành động, đạo của xu cát tỵ hung vậy. Thiên mệnh nằm ở đức, cũng nên kể tới khắc mình, khắc người. Mình khắc người sẽ là quyền, bị khắc đó là quỷ. Là khắc là tài, không khắc không thực. Cái gọi là xứ định cầu động, khắc vị tẫn nhi nan thiên (lúc đình tìm hành động, khắc chưa hết thì khó mà biến đổi), đi lưu niên tuế vận ngũ hành tới khắc mệnh mình là quan, không thể hành động biến đổi, nên giữ an tĩnh mà chờ đợi. Lại như sĩ nhân (người có học vấn, cũng chỉ dân thường) hỏi công danh, không xung không khắc sẽ khó mà vượt qua.
Cư an vấn nguy (đang lúc yên ổn hỏi việc nguy hiểm), có thể trong hung xấu mà bói được quẻ tốt. Địa vị người quân tử thì quan sát hình tượng mà nghiền ngẫm lời nói của mình, hành động thì quan sát sự biến đổi mà nghiền ngẫm điềm triệu, là lấy tự nhiên giúp đỡ mà không có gì là không có lợi. Nhưng cát hung hoạ phúc phát triễn, chẳng phải là thánh nhân ai có khả năng quan sát trước khi sự việc xãy ra đây? Nếu có khả năng xu cát tỵ hung (theo tốt lánh xấu), cư an tư nguy (đương lúc yên ổn phải nghĩ đến lúc nguy cấp để phòng bị), suy cho cùng người dân thường không có lỗi gì.
Quý nhi vong tiện, tai tự xa sanh; mê nhi bất phản, họa tòng hoặc khởi.
(Lúc cao quý mà quên khi thấp hèn, tai hoạ xãy ra từ xa xỉ; lầm lạc mà không thay đổi, hoạ theo mê loạn mà khởi).
Người quân tử hiểu được thiên mệnh nên không dám cầu phúc ở trời; kẻ tiểu nhân tuỳ tiện thiên mệnh nên không biết tu cải phúc lành cho mình. Khi cao quý mà quên lúc thấp hèn, lầm lạc mà không thay đổi, không thể nào lúc yên ổn mà hỏi đến nguy hiểm, nên thay đổi khi định tìm hành động, là vì tai hoạ từ sự khoa trương mà sanh ra, hoạ theo hay hoạ phát khởi, cho đến mất mạng tan nhà vẫn không ăn năn, chẳng phải rất là đau thương hay sao? Khoa trương tức là nghèo khó mà tỏ ra giàu sang, hoặc là quá đam mê tửu sắc.
Thù thường dịch cựu, biến xử vi manh; phúc thiện họa dâm, cát hung dị triệu.
(Rất thường dễ cũ, nơi biến đổi là dấu hiệu; phúc tốt lành hoạ quá độ, tốt xấu điềm quái lạ).
Động tĩnh là mấu chốt cơ bản của quan hệ, trí khôn và thẩm xét là cửa nẽo của hoạ phúc.Phương pháp không thể không thận trọng, mấu chốt không thể không xem xét. Kẻ tiểu nhân không biết mệnh trời, không giữ đạo thường, dễ dàng thay đổi đời sống, thì hoạ quá lậm từ đây mà bắt dầu vậy. Người quân tử gặp đúng thời nên hành động, không đúng lúc thì giữ gìn, thực hành đạo trời, dè chừng cả cử động nhỏ, thì phúc tốt lành từ đó mà sanh ra vậy. "Dịch" nói: tốt xấu ăn năn, sanh ra ở hành động vậy. Lại nói thêm: tốt xấu hình tượng của được mất. Nhà tích trữ điều thiện sẽ có tràn đầy niềm vui; còn nhà tích trữ điều bất thiện, sẽ có đầy tai ương. Lại nói thêm: hiểu đạo tiên thối còn mất, lẽ nào chỉ có ở thánh nhân? Đó là lời khuyên sâu sắc ở cuối chương của Lạc Lục Tử vậy.
Chí ư Công Minh、 Quý Chủ、 thượng vô thức biến chi văn; Cảnh Thuần、 Trọng Thư, bất tái bỉ hình chi diệu.
(Cho đến Công Minh, Quý Chủ, vẫn không có bài viết về nhận thức sự thay đổi; Cảnh Thuần, Trong Thư không có ghi chép về kỳ diệu của hình dạng so sánh).
Quản Công Minh, Tư Mã Quý Chủ, Quách Cảnh Thuần, Đổng Trọng Thư đấy là bồn người tài đức tìm kiếm bí ẩn của trời và người, vốn là cái lý của tính mệnh, suy đến tận gốc âm dương tượng số, hiểu được tốt xấu chưa đền, vẫn không có ghi chép về nhận thức thay đổi, không ghi chép về kỳ diệu của hình dạng so sánh, bàn luận bí ẩn sâu xa của tạo hoá, không dễ đo lường. Lạc Lục Tử không nói tên họ, không biết người thời nào. Xem phú của ông, tự cho rằng đến từ Lan dã (đồng Lan), lại tự nhận cùng với Quách Cảnh Thuần, nghi là người thời Lục Triều, Lương Chiêu Minh là người thân cận với ông. Chỗ ở của Chiêu Minh chính là cánh đồng của gò Lan. Có thể là Chu Linh Vương thái tử là Tử Tấn, thì xằng bậy, không đúng.
Tường kì vãng thánh, giám dĩ tiền hiền, hoặc chỉ sự dĩ trần mưu, hoặc ước văn nhi thiết lí, đa hoặc thiểu thặng, nhị nghĩa nan tinh. kim giả tham tường đắc thất, bổ chuế di tung, quy vi tâm giám, vĩnh quải thanh thai, dẫn liệt chung quyên, thiên hi đắc nhất.
(Hiểu rõ các vị thánh xưa, xem xét những người tài đức xưa, hoặc miêu thuật sự vật để trinh bày và lo liệu, hoặc giải thích cặn kẽ về văn bản, nhiều ít còn sót lại, hai ý nghĩa khó thông thạo.Người đời nay nghiên cứu kỹ được mất, khâu vá lại chỗ bỏ sót, mô phỏng làm gương soi tâm, mãi mãi vấn vương Thanh đài, dẫn dắt tấm lụa cuối cùng, mong được một trong hàng ngàn).
Thông thường bàn luận về ngũ hành, người xa rời đạo thì không đúng, người xa rời thế sự thì không đúng, người xa rời nhân vật cũng không đúng. Có thể lời văn ngắn gọn mà chắc lý, có thể hướng về sự việc mà trình bày có sách lược, ở trong thần sát thì kết hợp tham cứu, tốt xấu đan xen lẫn nhau, là hiểu thông đạo của ngũ hành, ghi nhớ vật khó nghiên cứu đến tận gốc, lan truyền bên trong nó, làm sao cho là bổ sung nhỏ? Lạc Lục Tử cuối cùng nói rằng đó là một tác phẩm thơ ca, kể chi tiết về di sản của các vị thánh ngày xưa, học hỏi được và mất của các nhà hiền triết trước đây, và nói về kiến thức phổ thông là vi diệu và sâu sắc, thể hiện sự nhân từ và ẩn giấu công dụng của nó, chính là kim chỉ nam của ngũ hành tam mệnh vậy. Người học sau này kế thừa điều này nên phát minh ra nó, khiến người điếc được nghe rõ, người mù được sáng tỏ, trải qua trăm đời mà không cùng tận, tính chất thống nhất luôn luôn có. Quan sát từ đầu đến cuối, tất cả thần hợp biến, lý luận ngang dọc đểu không chìm đắm vào phương pháp khác; nói cho biết lời khuyên răn, thường hợp với đạo lý. Như là Lạc Lục hỏi sao không phải là người khéo léo hoàn chỉnh, một bậc cao thượng được?
Link đến bản tiếng Hoa:
消息赋八
或曰:马前一辰为攀鞍,马後一辰为鞭策。攀鞍有位,与天元带合者,人得之贵也。须要加临吉将,岁运资身,更於旺相之宫,始可言福。驿马微劣,财命休囚,则涂炭辛勤,终无成立。此以四柱临之,定主飘蓬。)
占除望拜,甲午以四八为期;口舌文书,己亥慎三十有二。
善恶相伴,摇动迁移;夹煞持丘,亲姻哭送。
(此论行年大小运,由之於数,数有奇偶之变,吉凶自此以生也。甲午生人,三十二,小运丁酉,金家旺乡,乙丑太岁,本音正库,又逢驿马入宅,天乙加临,故占除望拜之喜。
己亥生人,三十二,小运丁酉在吊客,太岁庚午在死乡,仍为六厄之宫,三元受克,故有口舌文书之患。又岁运交宫,当须意会;吉凶相伴,祸福交攻,未有不因迁变而兴,故云善恶相伴。摇动迁移,则吉凶悔吝生乎动者也。
辰戌丑未,谓之四煞,亦云三丘之地,各以五行、五墓。
假令己巳木命,得乙未日生,此是本家三丘,又加以羊刃,故曰夹煞持丘,危疑者甚。
自行来出入,止夹煞持丘。此一节文,亦备阴阳地理、三元九宫之例。用流年太岁,决其灾福,并尽三命之理兹不尽述。)
兼须详其操执,观其秉持。厚薄论其骨状,成器藉於心源。
木气盛而仁昌,庚辛亏而义寡。
(此言虽用五行定命,见其贵贱灾福,虑有特杰非常之人,似冰鼠火龟,难穷罕测之资,则三元五行,不足以尽之也。兼须详其操执秉持,骨状心源,则视其所以,观其所由,察其所安,心术制行,两得之矣;相貌德行,互见之矣。人焉瘦哉?人焉瘦哉!此珞琭子观人之法,而有合於吾儒之论也。麻衣有心无相,相逐心生;有相无心,心随相灭,亦是此义。甲乙木主仁,丙丁火主礼,戊己土主信,庚辛金主义,壬癸水主智。木盛则仁昌,金亏则义寡,余皆象事知器,占事知来,此以五行配五常,定人之器量也。)
恶曜加而有喜,拟其大器;福星临而祸发,以表凶人。
(修之於身,其德乃真,故曰,忠孝仁义,德之顺也。
虽临诸煞,反为权星;富贵而骄,自贻厥咎。故曰,悖傲无礼,德之逆也。善不失善报,为恶自招殃。此珞琭子深戒之也。拟、表二字最有味。恶曜宜加祸,而反有喜,非大器之君子不能也。盖器识远大之人,忠孝仁义,慎礼守法,祸焉能干?故曰拟。其福星临宜喜而反有祸,乃小人恃命而妄作也。不忠不孝,不仁不义、悖逆无礼,祸焉能逃?故曰以表。《语》曰:凶人凶其吉,吉人吉其凶。此之谓也。此承上文操执秉持、骨状心源而言,君子、小人见矣。)
处定求动,克未尽而难迁;居安问危,可凶中而卜吉。
(此珞琭子教人求名谋动,趋吉避凶之道也。天命在德,亦当论克我、克彼。我克彼则为权,被克此则为鬼。是克是财,不克不食。所谓处定求动,克未尽而难迁,行年岁运五行,来克本命为官,不能迁动,宜宁静以待之。又如士人问功名,不冲不克,则难以发越。
居安问危,可凶中而卜吉者。君子居则观其象而玩其词,动则观其变而玩其占,是以自天佑之吉无不利。且吉凶祸福之兴也,非圣人,孰能察於未萌之前哉?若能趋吉避凶,居安虑危,亦庶乎其无咎矣。)
贵而忘贱,灾自奢生;迷而不返,祸从惑起。
(君子见天命,而不敢求福於天;小人慢天命,而不知正福於己。贵而忘贱,迷而不返,不能居安问危,而转处定求动,是以灾自奢生,祸从惑起,至於亡身败家而不悔,不亦深可哀哉?奢是穷极纷华,惑是耽荒酒色。)
殊常易旧,变处为萌;福善祸淫,吉凶异兆。
(动静为利害之枢机,智虑乃祸福之门户。术不可不慎,机不可不察。小人不知天命,不守常道,轻生易物,则祸淫由此而始也。君子得时而动,失时而守,体天行道,畏於轻动,则福善由此而生也。《易》曰:吉凶悔吝,生乎动者也。又曰:吉凶者,得失之象也。积善之家,必有余庆;积不善之家,必有余殃。又曰:知进退存亡之道者,其唯圣人乎?此珞琭子篇终之大戒也。)
至於公明、季主、尚无识变之文;景纯、仲舒,不载比形之妙。
(管公明,司马季主,郭景纯,董仲舒,此四贤者,探天人之奥,原性命之理,穷阴阳象数,知未来吉凶,尚无识变之文,不载比形之妙,言造化深隐,不易度量。珞琭子不言姓氏,不知何时人。观其赋,自云出自兰野,又称及於郭景纯,疑六朝时人,梁昭明其近之。昭明所居,乃兰陵之野也。或以为周灵王太子子晋,则诬。)
详其往圣,鉴以前贤,或指事以陈谋,或约文而切理,多或少剩,二义难精。今者参详得失,补缀遗踪,规为心鉴,永挂清台,引列终绢,千希得一。
(凡论五行,离道者非也,离世事者非也,离人物者亦非也。或约文而切理,或指事以陈谋,於中神煞交参,吉凶互体,是知五行通道,志物难穷,流布其间,岂云小补?珞琭终於此谈,言是赋之作,详往圣之遗文,鉴前贤之得失,文博而言约,道妙而义深,显仁藏用,乃五行三命之指南也。後学者继此而发明之,使聩者聪,瞽者明,历百世而无穷,统一性之常在。观其始末,通神合变,纵横之论,皆不溺於他术;戒谕之言,多有合於至道。若珞琭者,岂非圆机之士,高尚之流也哉?)
.
________________________________________________________
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất
tiêu tức phú bát
Có thể nói: trước mã một thần là phàn an (yên ngựa), sau mã một thần là tiên sách (roi ngựa). Phàn an có vị trí, với thiên nguyên đới hợp, người được vậy thì quý. Phải có thêm cát tướng, tuế vận giúp đõ thân, thêm ở cung vượng tướng, bắt đầu có thể nói là phúc lành. Dịch mã nhỏ bé và yếu kém, tài mệnh hưu tù sẽ lầm than cực khổ, kết cục không có thành tựu. Đây là lấy tứ trụ gặp phải, nhất định chủ phiêu bồng (cỏ bồng theo gió bay đi).
Chiếm trừ vọng bái, giáp ngọ dĩ tứ bát vi kì; khẩu thiệt văn thư, kỉ hợi thận tam thập hữu nhị.
Thiện ác tương bạn, diêu động thiên di; giáp sát trì khâu, thân nhân* khốc tống.
(Chiếm trừ bái phỏng, giáp ngọ lấy bốn tám làm kỳ hạn; tranh cãi về giấy tờ văn kiện, kỷ hợi cẩn thận ba mươi hai.
Thiện ác giúp nhau, lay động dời đổi; kề sát giữ mộ, thân nhân khóc tiễn dưa).
[Thân nhân 亲姻: người thân thích do quan hệ hôn nhân mà thành]
Đây là bàn luận về đi lưu niên, đại tiểu vận, Giống như ở con số, số có biến đổi của lẻ và chẵn, tốt xấu từ đó mà sanh ra. Người sanh giáp ngọ,ba mươi hai, tiểu vận đinh dậu nơi vượng của nhà kim, ất sửu thái tuế là chánh khố của nạp âm gốc, lại gặp dịch mã nhập trạch, thêm thiên ất đến đây, cho nên nói chiếm trừ vọng bái (chiếm trừ bái phỏng) vậy.
Người sanh kỷ hợi, tam thập nhị, điếu khách ở tiểu vận đinh dậu, thái tuế canh ngọ ở nơi tử (chết), vẫn là cung của lục ách, tam nguyên bị khắc, cho nên có nổi lo khẩu thiệt văn thư (tranh cãi về giấy tờ văn kiện). Lại thêm tuế vận giao cung, nên ước mong gặp mặt, tốt xấu giúp đỡ nhau, hoạ phúc sửa sai cho nhau, không có thay đổi bất nhân nên thịnh vượng, cho nên nói rằng thiện ác tương bạn (thiện ác giúp đỡ nhau). Diêu động thiên di (lay động dời đổi) sẽ có tốt xấu hối tiếc sanh ra ở động.
Thìn tuất sửu múi gọi là tứ sát, cũng nói rắng đất của tam khâu (mồ mã), mỗi thứ theo ngũ hành, ngũ mộ.
Ví như lệnh kỷ tỵ mộc lệnh, gặp ngày sanh ất mùi, đó là tam khâu của nhà mình, lại thêm có thêm dương nhận, cho nên nói giáp sát trì khâu (kế bên sát giữ mộ),
Tự đi đến chỗ ra vào, ngừng lại ở kế bân sát mà giữ mộ. Đó cũng là một đoạn văn đầy đủ về địa lý âm dương, tương tự của tam nguyên cửu cung. Dùng lưu niên thái tuế, xác định hoạ phúc, cùng toàn bộ lý của tam mệnh trình bày không đầy đủ.
Kiêm tu tường kì thao chấp, quan kì bỉnh trì. Hậu bạc luận kì cốt trạng, thành khí tạ ư tâm nguyên.
Mộc khí thịnh nhi nhân xương, canh tân khuy nhi nghĩa quả.
(Cùng lúc phải hiểu rõ nó nắm giữ, quan sát quyền bính của nó. Phân tích phẩm cách hậu bạc, thành tài năng nhờ ở tính tình căn bản.
Mộc khí thịnh nên nhân từ thích đáng, canh tân thiếu sót nên phép tắc kém).
Đây là bàn về dùng ngũ hành để xá định mệnh, thấy sang hèn hoạ phúc của nó, xem xét những người phi thường vượt trội hơn người, giống như băng thử (chuột sống trong băng) hoả quy (rùa ở trong lửa), không thể dò được, thì tam nguyên ngũ hành không đủ để làm mọi thứ. Đồng thời phải hiểu rõ thao chấp bỉnh trì (nắm giử quyền bính), cốt trạng tâm nguyên (phẩm cách và tính tình), rồi nhìn vào nguyên nhân của nó, xem xét nguồn gốc của nó và xét kỹ sự giải quyết của nó, tâm điều khiển hành vi cả hai đạt được vậy; tướng mạo và đức hạnh tiếp đãi lẫn nhau. Người sao mà gầy thế? Người thật là gầy! Đó là cách quan sát người của Lạc Lục Tử, nó hợp với chủ thuyết Nho giáo của ta vậy. Ma Y: hữu tâm vô tướng, tướng theo tâm sanh; hữu tướng vô tâm, tâm tuỳ tướng diệt (có tâm không có tướng, tướng sẽ theo tâm mà sanh ra; còn có tướng mà không có tâm, thi tâm theo tướng diệt mất) cũng là nghĩa này. Giáp ất mộc chủ nhân (nhân từ), bính đinh hoả chủ lễ (phép tắc), mậu kỷ thổ chủ tín (thành thật), canh tân kim chủ nghĩa (hợp với lẽ phải, đạo lý), nhâm quý thuỷ chủ trí (trí tuệ). Mộc thịnh sẽ nhân từ thích đáng, kim thiếu sót sẽ kém đạo lý, còn lại đều lấy hình tượng của việc mà biết tài năn, bói sự việc biết được sẽ xãy ra, đó là ngũ hành phối hợp với ngũ thường mà xác định độ lượng của con người vậy.
Ác diệu gia nhi hữu hỉ, nghĩ kì đại khí; phúc tinh lâm nhi họa phát, dĩ biểu hung nhân.
(Sao xấu đến mà có niềm vui, so sánh với tài năng to lớn; phúc tinh đến mà gây ra hoạ, là dấu hiệu xấu của con người).
Rèn luyện ở bản thân, những đức tính là thật sự, cho nên nói: trung hiếu nhân nghĩa là những đức nên thuận theo.
Tuy đến chỗ các sát, trái lại thành quyền tinh; phú quý nên kiêu ngạo, tự rước hoạ vào thân. Cho nên nói: kiêu ngạo và thô lỗ, làm ngược lại với đức tính. Làm điều tốt mà không mất điều thiện đáp đền, còn làm ác thì tự rước lấy tai ương. Đó là lời khuyên răn nghiêm khắc của Lạc Lục Tử. Nghĩ: dấu hiệu hai chữ rất có ý nghĩa. Sao xấu nên tăng hoạ, mà trái lại có niềm vui. chẳng phẩi tài năng của người quân tử thì không có khả năng. Bởi người có năng lực hiểu biết rộng lớn, trung hiếu nhân nghĩa, thận trọng lể nghĩa và tuân thủ pháp luất, làm sao có thể liên quan đến hoạ? Cho nên nói: nghĩ. Khi sao phúc đến nên vui mừng mà trái lại thành hoạ, chính là mệnh của tiểu nhân làm điều càn bậy. Bất trung bất hiếu, bất nhân bất nghĩa, bội nghịch vô lễ, làm sao có khả năng tránh được hoạ? Cho nên nói là biểu (dấu hiệu). "Ngữ" nói: người xấu làm xấu điều tốt của mình; người tốt làm tốt điều xấu của mình. Đó là ý nghĩa vậy. Đây là nhân lời văn ở trên nói thao chấp bỉnh trì, cốt trạng tâm nguyên mà bàn luận, người quân tử, kẻ tiểu nhân điều hiểu thấy vậy.
Xử định cầu động, khắc vị tẫn nhi nan thiên; cư an vấn nguy, khả hung trung nhi bốc cát.
(Lúc định tìm hành động, khắc chưa hết khó biến đổi; lúc yên ổn hỏi việc nguy hiểm, có thể trong xấu mà bói được tốt).
Đó là Lạc Lục Tử dạy người cầu danh lo liệu hành động, đạo của xu cát tỵ hung vậy. Thiên mệnh nằm ở đức, cũng nên kể tới khắc mình, khắc người. Mình khắc người sẽ là quyền, bị khắc đó là quỷ. Là khắc là tài, không khắc không thực. Cái gọi là xứ định cầu động, khắc vị tẫn nhi nan thiên (lúc đình tìm hành động, khắc chưa hết thì khó mà biến đổi), đi lưu niên tuế vận ngũ hành tới khắc mệnh mình là quan, không thể hành động biến đổi, nên giữ an tĩnh mà chờ đợi. Lại như sĩ nhân (người có học vấn, cũng chỉ dân thường) hỏi công danh, không xung không khắc sẽ khó mà vượt qua.
Cư an vấn nguy (đang lúc yên ổn hỏi việc nguy hiểm), có thể trong hung xấu mà bói được quẻ tốt. Địa vị người quân tử thì quan sát hình tượng mà nghiền ngẫm lời nói của mình, hành động thì quan sát sự biến đổi mà nghiền ngẫm điềm triệu, là lấy tự nhiên giúp đỡ mà không có gì là không có lợi. Nhưng cát hung hoạ phúc phát triễn, chẳng phải là thánh nhân ai có khả năng quan sát trước khi sự việc xãy ra đây? Nếu có khả năng xu cát tỵ hung (theo tốt lánh xấu), cư an tư nguy (đương lúc yên ổn phải nghĩ đến lúc nguy cấp để phòng bị), suy cho cùng người dân thường không có lỗi gì.
Quý nhi vong tiện, tai tự xa sanh; mê nhi bất phản, họa tòng hoặc khởi.
(Lúc cao quý mà quên khi thấp hèn, tai hoạ xãy ra từ xa xỉ; lầm lạc mà không thay đổi, hoạ theo mê loạn mà khởi).
Người quân tử hiểu được thiên mệnh nên không dám cầu phúc ở trời; kẻ tiểu nhân tuỳ tiện thiên mệnh nên không biết tu cải phúc lành cho mình. Khi cao quý mà quên lúc thấp hèn, lầm lạc mà không thay đổi, không thể nào lúc yên ổn mà hỏi đến nguy hiểm, nên thay đổi khi định tìm hành động, là vì tai hoạ từ sự khoa trương mà sanh ra, hoạ theo hay hoạ phát khởi, cho đến mất mạng tan nhà vẫn không ăn năn, chẳng phải rất là đau thương hay sao? Khoa trương tức là nghèo khó mà tỏ ra giàu sang, hoặc là quá đam mê tửu sắc.
Thù thường dịch cựu, biến xử vi manh; phúc thiện họa dâm, cát hung dị triệu.
(Rất thường dễ cũ, nơi biến đổi là dấu hiệu; phúc tốt lành hoạ quá độ, tốt xấu điềm quái lạ).
Động tĩnh là mấu chốt cơ bản của quan hệ, trí khôn và thẩm xét là cửa nẽo của hoạ phúc.Phương pháp không thể không thận trọng, mấu chốt không thể không xem xét. Kẻ tiểu nhân không biết mệnh trời, không giữ đạo thường, dễ dàng thay đổi đời sống, thì hoạ quá lậm từ đây mà bắt dầu vậy. Người quân tử gặp đúng thời nên hành động, không đúng lúc thì giữ gìn, thực hành đạo trời, dè chừng cả cử động nhỏ, thì phúc tốt lành từ đó mà sanh ra vậy. "Dịch" nói: tốt xấu ăn năn, sanh ra ở hành động vậy. Lại nói thêm: tốt xấu hình tượng của được mất. Nhà tích trữ điều thiện sẽ có tràn đầy niềm vui; còn nhà tích trữ điều bất thiện, sẽ có đầy tai ương. Lại nói thêm: hiểu đạo tiên thối còn mất, lẽ nào chỉ có ở thánh nhân? Đó là lời khuyên sâu sắc ở cuối chương của Lạc Lục Tử vậy.
Chí ư Công Minh、 Quý Chủ、 thượng vô thức biến chi văn; Cảnh Thuần、 Trọng Thư, bất tái bỉ hình chi diệu.
(Cho đến Công Minh, Quý Chủ, vẫn không có bài viết về nhận thức sự thay đổi; Cảnh Thuần, Trong Thư không có ghi chép về kỳ diệu của hình dạng so sánh).
Quản Công Minh, Tư Mã Quý Chủ, Quách Cảnh Thuần, Đổng Trọng Thư đấy là bồn người tài đức tìm kiếm bí ẩn của trời và người, vốn là cái lý của tính mệnh, suy đến tận gốc âm dương tượng số, hiểu được tốt xấu chưa đền, vẫn không có ghi chép về nhận thức thay đổi, không ghi chép về kỳ diệu của hình dạng so sánh, bàn luận bí ẩn sâu xa của tạo hoá, không dễ đo lường. Lạc Lục Tử không nói tên họ, không biết người thời nào. Xem phú của ông, tự cho rằng đến từ Lan dã (đồng Lan), lại tự nhận cùng với Quách Cảnh Thuần, nghi là người thời Lục Triều, Lương Chiêu Minh là người thân cận với ông. Chỗ ở của Chiêu Minh chính là cánh đồng của gò Lan. Có thể là Chu Linh Vương thái tử là Tử Tấn, thì xằng bậy, không đúng.
Tường kì vãng thánh, giám dĩ tiền hiền, hoặc chỉ sự dĩ trần mưu, hoặc ước văn nhi thiết lí, đa hoặc thiểu thặng, nhị nghĩa nan tinh. kim giả tham tường đắc thất, bổ chuế di tung, quy vi tâm giám, vĩnh quải thanh thai, dẫn liệt chung quyên, thiên hi đắc nhất.
(Hiểu rõ các vị thánh xưa, xem xét những người tài đức xưa, hoặc miêu thuật sự vật để trinh bày và lo liệu, hoặc giải thích cặn kẽ về văn bản, nhiều ít còn sót lại, hai ý nghĩa khó thông thạo.Người đời nay nghiên cứu kỹ được mất, khâu vá lại chỗ bỏ sót, mô phỏng làm gương soi tâm, mãi mãi vấn vương Thanh đài, dẫn dắt tấm lụa cuối cùng, mong được một trong hàng ngàn).
Thông thường bàn luận về ngũ hành, người xa rời đạo thì không đúng, người xa rời thế sự thì không đúng, người xa rời nhân vật cũng không đúng. Có thể lời văn ngắn gọn mà chắc lý, có thể hướng về sự việc mà trình bày có sách lược, ở trong thần sát thì kết hợp tham cứu, tốt xấu đan xen lẫn nhau, là hiểu thông đạo của ngũ hành, ghi nhớ vật khó nghiên cứu đến tận gốc, lan truyền bên trong nó, làm sao cho là bổ sung nhỏ? Lạc Lục Tử cuối cùng nói rằng đó là một tác phẩm thơ ca, kể chi tiết về di sản của các vị thánh ngày xưa, học hỏi được và mất của các nhà hiền triết trước đây, và nói về kiến thức phổ thông là vi diệu và sâu sắc, thể hiện sự nhân từ và ẩn giấu công dụng của nó, chính là kim chỉ nam của ngũ hành tam mệnh vậy. Người học sau này kế thừa điều này nên phát minh ra nó, khiến người điếc được nghe rõ, người mù được sáng tỏ, trải qua trăm đời mà không cùng tận, tính chất thống nhất luôn luôn có. Quan sát từ đầu đến cuối, tất cả thần hợp biến, lý luận ngang dọc đểu không chìm đắm vào phương pháp khác; nói cho biết lời khuyên răn, thường hợp với đạo lý. Như là Lạc Lục hỏi sao không phải là người khéo léo hoàn chỉnh, một bậc cao thượng được?
Link đến bản tiếng Hoa:
消息赋八
或曰:马前一辰为攀鞍,马後一辰为鞭策。攀鞍有位,与天元带合者,人得之贵也。须要加临吉将,岁运资身,更於旺相之宫,始可言福。驿马微劣,财命休囚,则涂炭辛勤,终无成立。此以四柱临之,定主飘蓬。)
占除望拜,甲午以四八为期;口舌文书,己亥慎三十有二。
善恶相伴,摇动迁移;夹煞持丘,亲姻哭送。
(此论行年大小运,由之於数,数有奇偶之变,吉凶自此以生也。甲午生人,三十二,小运丁酉,金家旺乡,乙丑太岁,本音正库,又逢驿马入宅,天乙加临,故占除望拜之喜。
己亥生人,三十二,小运丁酉在吊客,太岁庚午在死乡,仍为六厄之宫,三元受克,故有口舌文书之患。又岁运交宫,当须意会;吉凶相伴,祸福交攻,未有不因迁变而兴,故云善恶相伴。摇动迁移,则吉凶悔吝生乎动者也。
辰戌丑未,谓之四煞,亦云三丘之地,各以五行、五墓。
假令己巳木命,得乙未日生,此是本家三丘,又加以羊刃,故曰夹煞持丘,危疑者甚。
自行来出入,止夹煞持丘。此一节文,亦备阴阳地理、三元九宫之例。用流年太岁,决其灾福,并尽三命之理兹不尽述。)
兼须详其操执,观其秉持。厚薄论其骨状,成器藉於心源。
木气盛而仁昌,庚辛亏而义寡。
(此言虽用五行定命,见其贵贱灾福,虑有特杰非常之人,似冰鼠火龟,难穷罕测之资,则三元五行,不足以尽之也。兼须详其操执秉持,骨状心源,则视其所以,观其所由,察其所安,心术制行,两得之矣;相貌德行,互见之矣。人焉瘦哉?人焉瘦哉!此珞琭子观人之法,而有合於吾儒之论也。麻衣有心无相,相逐心生;有相无心,心随相灭,亦是此义。甲乙木主仁,丙丁火主礼,戊己土主信,庚辛金主义,壬癸水主智。木盛则仁昌,金亏则义寡,余皆象事知器,占事知来,此以五行配五常,定人之器量也。)
恶曜加而有喜,拟其大器;福星临而祸发,以表凶人。
(修之於身,其德乃真,故曰,忠孝仁义,德之顺也。
虽临诸煞,反为权星;富贵而骄,自贻厥咎。故曰,悖傲无礼,德之逆也。善不失善报,为恶自招殃。此珞琭子深戒之也。拟、表二字最有味。恶曜宜加祸,而反有喜,非大器之君子不能也。盖器识远大之人,忠孝仁义,慎礼守法,祸焉能干?故曰拟。其福星临宜喜而反有祸,乃小人恃命而妄作也。不忠不孝,不仁不义、悖逆无礼,祸焉能逃?故曰以表。《语》曰:凶人凶其吉,吉人吉其凶。此之谓也。此承上文操执秉持、骨状心源而言,君子、小人见矣。)
处定求动,克未尽而难迁;居安问危,可凶中而卜吉。
(此珞琭子教人求名谋动,趋吉避凶之道也。天命在德,亦当论克我、克彼。我克彼则为权,被克此则为鬼。是克是财,不克不食。所谓处定求动,克未尽而难迁,行年岁运五行,来克本命为官,不能迁动,宜宁静以待之。又如士人问功名,不冲不克,则难以发越。
居安问危,可凶中而卜吉者。君子居则观其象而玩其词,动则观其变而玩其占,是以自天佑之吉无不利。且吉凶祸福之兴也,非圣人,孰能察於未萌之前哉?若能趋吉避凶,居安虑危,亦庶乎其无咎矣。)
贵而忘贱,灾自奢生;迷而不返,祸从惑起。
(君子见天命,而不敢求福於天;小人慢天命,而不知正福於己。贵而忘贱,迷而不返,不能居安问危,而转处定求动,是以灾自奢生,祸从惑起,至於亡身败家而不悔,不亦深可哀哉?奢是穷极纷华,惑是耽荒酒色。)
殊常易旧,变处为萌;福善祸淫,吉凶异兆。
(动静为利害之枢机,智虑乃祸福之门户。术不可不慎,机不可不察。小人不知天命,不守常道,轻生易物,则祸淫由此而始也。君子得时而动,失时而守,体天行道,畏於轻动,则福善由此而生也。《易》曰:吉凶悔吝,生乎动者也。又曰:吉凶者,得失之象也。积善之家,必有余庆;积不善之家,必有余殃。又曰:知进退存亡之道者,其唯圣人乎?此珞琭子篇终之大戒也。)
至於公明、季主、尚无识变之文;景纯、仲舒,不载比形之妙。
(管公明,司马季主,郭景纯,董仲舒,此四贤者,探天人之奥,原性命之理,穷阴阳象数,知未来吉凶,尚无识变之文,不载比形之妙,言造化深隐,不易度量。珞琭子不言姓氏,不知何时人。观其赋,自云出自兰野,又称及於郭景纯,疑六朝时人,梁昭明其近之。昭明所居,乃兰陵之野也。或以为周灵王太子子晋,则诬。)
详其往圣,鉴以前贤,或指事以陈谋,或约文而切理,多或少剩,二义难精。今者参详得失,补缀遗踪,规为心鉴,永挂清台,引列终绢,千希得一。
(凡论五行,离道者非也,离世事者非也,离人物者亦非也。或约文而切理,或指事以陈谋,於中神煞交参,吉凶互体,是知五行通道,志物难穷,流布其间,岂云小补?珞琭终於此谈,言是赋之作,详往圣之遗文,鉴前贤之得失,文博而言约,道妙而义深,显仁藏用,乃五行三命之指南也。後学者继此而发明之,使聩者聪,瞽者明,历百世而无穷,统一性之常在。观其始末,通神合变,纵横之论,皆不溺於他术;戒谕之言,多有合於至道。若珞琭者,岂非圆机之士,高尚之流也哉?)
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#388
Gửi vào 28/11/2024 - 09:20
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất
thông huyền tử soạn tập
Bát cô (tám chỗ lẽ loi) ngũ mộ (năm mộ là thìn tuất sửu mùi) là tăng đạo, phá tổ nghiệp cùng tán loạn, người cô độc.
Ví như trong tuần giáp tý, tuất hợi không vong, là lục hư (sáu chỗ trống không thật), càn thuộc hợi tuất.
Tuất đi về phía nam ba vị trí là mùi, mùi đi về phía đông ba vị trí là thìn, thìn đi vầ phía bắc ba vị trí là sửu, sửu đi về phía tây ba vị trí là tuất, thìn tuất sửu mùi là bát cô ngũ mộ, phần nhiều là phá tổ nghiệp, người cô độc trôi nổi, mệnh của cửu lưu (chín học phái ở Trung Hoa, từ thời tiên Tần cho tới Hán sơ, gồm Nho gia 儒家, Đạo gia 道家, Âm dương gia 陰陽家, Pháp gia 法家, Danh gia 名家, Mặc gia 墨家, Tung hoành gia 縱橫家, Tạp gia 雜家 và Nông gia 農家).
Tam nguyên khắc hại là mệnh cô đơn. Nếu khắc hại nhẹ thì hợp xá mệnh (vất bỏ mệnh).
Nếu như gặp cô thần thật sự, là mệnh khắc vợ hại con.
Thông Huyền Tử giải thích đây chẳng phải thật sự là của Lạc Lục, mà chính là tự mình sưu tập, giống với Từ Tử Bình.
Link đến bản tiếng Hoa:
通玄子撰集
八孤五墓为僧道,破祖同蓬孤独人。
假甲子旬中,戌亥为空亡,为六虚,乾属亥戌。
戌南行三位是未,未东行三位是辰,辰北行三位是丑,
丑西行三位是戌,辰戌丑未四位,为孤寡五墓,多为破祖
孤独飘蓬之人,九流之命。
三元克害,为孤单命。克害若轻,入舍命。
如遇真孤神,克妻害子之命。
通玄子解,非珞琭本真,乃自撰集,与徐子平同。
.
thông huyền tử soạn tập
Bát cô (tám chỗ lẽ loi) ngũ mộ (năm mộ là thìn tuất sửu mùi) là tăng đạo, phá tổ nghiệp cùng tán loạn, người cô độc.
Ví như trong tuần giáp tý, tuất hợi không vong, là lục hư (sáu chỗ trống không thật), càn thuộc hợi tuất.
Tuất đi về phía nam ba vị trí là mùi, mùi đi về phía đông ba vị trí là thìn, thìn đi vầ phía bắc ba vị trí là sửu, sửu đi về phía tây ba vị trí là tuất, thìn tuất sửu mùi là bát cô ngũ mộ, phần nhiều là phá tổ nghiệp, người cô độc trôi nổi, mệnh của cửu lưu (chín học phái ở Trung Hoa, từ thời tiên Tần cho tới Hán sơ, gồm Nho gia 儒家, Đạo gia 道家, Âm dương gia 陰陽家, Pháp gia 法家, Danh gia 名家, Mặc gia 墨家, Tung hoành gia 縱橫家, Tạp gia 雜家 và Nông gia 農家).
Tam nguyên khắc hại là mệnh cô đơn. Nếu khắc hại nhẹ thì hợp xá mệnh (vất bỏ mệnh).
Nếu như gặp cô thần thật sự, là mệnh khắc vợ hại con.
Thông Huyền Tử giải thích đây chẳng phải thật sự là của Lạc Lục, mà chính là tự mình sưu tập, giống với Từ Tử Bình.
Link đến bản tiếng Hoa:
通玄子撰集
八孤五墓为僧道,破祖同蓬孤独人。
假甲子旬中,戌亥为空亡,为六虚,乾属亥戌。
戌南行三位是未,未东行三位是辰,辰北行三位是丑,
丑西行三位是戌,辰戌丑未四位,为孤寡五墓,多为破祖
孤独飘蓬之人,九流之命。
三元克害,为孤单命。克害若轻,入舍命。
如遇真孤神,克妻害子之命。
通玄子解,非珞琭本真,乃自撰集,与徐子平同。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#389
Gửi vào 30/11/2024 - 13:36
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất
minh thông phú nhất
Nội hữu tạp khí tài quan tương kiêm, thiên chánh lưỡng ấn, đồng cung lộc mã, hiệu vi nội ngoại tam kì.
(Trong có tạp khí tài quan, thiên và chánh ấn, lộc mã đồng cung, hiệu là tam kỳ trong ngoài).
Đây đúng là hướng về ngăn trở nhau của thần sát, chính là trong bát tự có tài có quan, có thiên ấn chánh ấn, có thể đồng cung, có thể ở chỗ khác nhau, có thể ẩn giấu, có thể lộ ra, vì cản trở nhau nên khó bàn luận về tốt xấu, cần phải đo lường mức độ nghiêm trọng, cho nên nói, trong có tam kỳ (ba điều kỳ diệu). Bài ca nói:
Dần ngọ tuất dậu là tam kỳ, thỏ rắn theo khỉ không thể dời đổi.
Tỵ dậu sửu trong gặp tý non trẻ, ngựa khỉ gặp heo yêu thích ánh sáng.
Thìn tỵ tý gặp mặt tức là kỳ xứ (chỗ kỳ diệu), ngọ hợi gặp dần là bậc thềm cao quý.
Heo tới đuổi thỏ ngựa nên vui, dần dậu gặp tỵ mừng hợp nhau.
Heo đuổi theo ngựa người rắn cứu trợ, chuột thuỷ không ai trong ao rùa hoả. Lại nói:
Thần lộc bay đến tụ về mã, tài quan cả hai thích hợp nhau.
Trong vượng được thêm trợ giúp, thượng cách vẻ vang hiển quý là kỳ diệu nhất.
Như kỷ sửu đinh mão nhâm ngọ quý mão
Nhâm lấy kỷ làm quan, đinh làm tài, đinh và kỷ quy lộc ở ngọ, là cách này vậy, cho nên chủ đại quý.
Quan thật sự gặp mệnh cường, sớm được ban chức tước kim tử (chức quan đời xưa được dùng ấn vàng dây thao tím).
Đây là lệnh tháng chánh quan cách. Dưới đây nói rõ cách cục.
Như tiến sĩ Ông Trọng Ích: mậu thân giáp dần kỷ sửu bính dần
Quả nhiên mã ở tháng và giờ mạnh, cuối cùng đổi chức ngân thanh (ngân là có liên quan đến ngân hàng, thanh là nói tăt của Thanh Hải).
Đây là lệnh tháng của chánh tài cách. Hai cách tài quan thì quan giữ quý và tài nên giữ phú.
Ngày nay đều nói về quý là thuận theo can ngàychon5 được can chi trong tháng làm tài, không bị xung khắc. Phúc của nó với chánh quan giống nhau. Bài thơ nói rằng:
Can ngày thích chọn lấy tài của tháng, vàng ngọc trong nhà thêm tích tụ.
Xem thêm thiên can là tài thì quý, tài sản dồi dào tự nhiên đến. Là vậy.
Ấn ở tháng nương tựa ngày không có tài khí, là bảng vàng chọn người tài đức.
Đấy là lệnh tháng chánh ấn cách vậy.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: tháng sanh can ngày không có thiên tài, chính là tên của ấn thụ.
Lại nói rằng: ấn thụ sanh tháng năm giờ, kỵ gặp tài tinh. Vận vào tài hương, tức là nên rút lui từ chức. Ấn thụ sợ tài, thiên can năm và giờ đều không có tài mới chọn lấy. Lại thêm, ấn ở nguyệt khó được trọn vẹn hoàn toàn.
Như ngày giáp tháng hợi lộ ra chữ quý, biến đổi thiên thành chánh, mới là trọn vẹn hoàn toàn, chủ dẫn tới được ân sủng (ơn huệ vua ban cho bề tôi) gặp quý. Lại được tài sản của ông cha, nhưng cũng không tránh khỏi gặp sĩ nhục trước tiên, hoặc do thiên sanh như từ thấp hèn làm cao quý, từ nghèo thành giàu, từ tỳ thiếp thành vợ, từ thư ký thành quan, từ binh sĩ nhậm chức vị tướng, đều là đến từ thiên ấn.
Thiên chánh đều có, lại có tai hoạ nhỏ, có thể vái lạy cha mẹ nghiêm khắc, có thể tăng tục lộn xộn lẫn nhau, có thể quá phòng ký dưỡng (gửi nuôi ở nhà khác), hoặc thiên sanh chánh dưỡng (vợ thứ sanh vợ chánh nuôi), lại thêm kỵ tỷ kiên tranh giành phân chia ân sủng, dương nhận nhiều có thể hợp mất, có thể ấn tàn tạ, gặp mà không gặp, tuy có tiến cử, cũng không thể bạt tuỵ siêu quần (người tài năng vượt qua mọi người). "Phú" nói rằng: "ấn vượng quan sanh nhất định nắm giữ chức vị cân bằng" là vậy.
Nhật lộc quy thì một quan tinh, hiệu thanh vân đắc lộ.
(Nhật lộc ở trụ giờ không có quan tinh, hiệu là thanh vân đắc lộ).
Đây là cách nhật lộc quy thời.
Đại khái ấn thụ, rất tốt khi đi vận thương quan, thực thần, tài mới phát. Kỵ quan hình xung dương nhận. Trở lên trên chân quan, chân tài , chân ấn, chân lộc đều là chánh khí của mười can thiên địa âm dương, cái lý sanh khắc. Chỉ nguyệt phân (xuân phân và thu phân) khogn6 có phá mới đúng với lời kinh. Có phá hỏng thì tuỳ theo mức độ nghiêm trọng mà bàn luận.
Thì đắc phát phúc giác vãn, nhiên giai tự cứu, khả dĩ sáng nghiệp thùy thống.
(Trụ giờ gặp phát phúc tương đối muộn, nhưng có thể tự cứu, có thể lập nên sự nghiệp để truyền lại cho đời sau).
Mỗi cách quy lộc, chỉ mừng hiện ở trụ giờ, nếu địa chi tháng cũng thấy, tên là kiến lộc không giàu.
Chỉ hiện lẻ loi tháng, trên trụ giờ tức thích tài thực gặp quan, sẽ luận theo cách khác.
Nguyệt lệnh thất sát, nhi sát thân câu cường, đương vi hắc đầu tể tướng.
(Lệnh tháng thất sát, nên sát và thân đều cường, đáng là hắc đầu tể tướng).
Đây là lệnh tháng thất sát cách. Đại khái lệnh tháng sát, cần cả hai thân và sát cường mạnh mới chủ đại quý.
Nếu thân cường sát yếu đuối, cần tài để sanh. Còn sát cường thân nhược cần ấn để trợ giúp, hoặc là dương nhận hợp đều là mệnh quý. Nếu ấn hợp với chế tinh dánh nhau, thân nhược nhất định yểu, không phải vậy thì cũng bị tàn tật.
Như quý mão ất mão kỷ tỵ ất sửu. Quý mão đinh tỵ nhâm dần giáp thìn.
Nhâm dần ất tỵ canh dần bính tý đều là thân cường sát vượng có chế phục, cho nên rất quý.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: ngũ hành gặp địa chi tháng là thiên quan, trong trụ năm và giờ cũng nên chế phục, vì thế chuyên về cứu giúp bài phú.
Thì thượng thiên tài, nhi tài mệnh tịnh vượng, tu xuất bạch ốc công khanh.
(Trụ giờ thiên tài, nên tài mệnh cùng vượng, đều sanh ra từ nhà ngheo lên đến công khanh).
Đây là thiên tài cách ở trụ giờ.
Chỉ một vị thì tốt, gặp hợp không phải phúc, kỵ tỷ kiên huynh đệ tranh đoạt, hình xung khắc.
Như: bính tuất mậu tuất mậu tý nhâm tý
Mậu khắc quý là chánh tài, có nhiều chữ tý, chữ nhâm là thiên tài lộ ra.
Lại như: đinh hợi mậu thân nhâm thân bính ngọ
Tuy năm có đinh hoả, mừng có hợp chế, lại thêm âm hoả có khả năng đoạt quyền của dương hoả, cho nên quý.
Link đến bản tiếng Hoa:
明通赋一
内有杂气财官相兼,偏正两印,同宫禄马,号为内外三奇。
此正指神煞相绊,乃八字中有财有官、有偏正二印,或同宫,或异位,或包藏,或透出,相绊难论吉凶,要轻重较量用之,故曰,内有三奇。歌曰:
寅午戌酉是三奇,兔蛇随猴不可移。
巳酉丑中逢子妙,马猴见猪好光辉。
辰巳子逢即奇处,午亥见寅是贵墀。
猪来赶兔马当欢,寅酉见巳喜相宜。
猪逐马儿蛇後援,水鼠未人火龟池。又曰:
神禄飞来就马骑,资财官职两相宜。
旺中更得本元助,上格荣华第一奇。
如己丑、丁卯、壬午、癸卯,
壬用己为官,丁为财,丁己归禄於午,是此格也,故主大责。
真官时遇命强,早受金紫之封。
此月令正官格也。以下详言格局。
如戊申、甲寅、己丑、丙寅,翁仲益进士。
良马月乘时健,末迁银青之职。
此月令正财格也。财官二格,官当取贵,财当取富。
今俱以贵言,是从日干取得月内支干之财,无所冲克者言之。其福与正官同。诗云:
日干爱取月支财,金玉家藏看积堆。
更看天干财为贵,纷纷金帛自天来。是也。
月印附日无财气,为黄榜招贤。
此月令正印格也。
《喜忌篇》云:月生日干无天财,乃印绶之名。
又云:印绶生月岁时,忌见财星。运入财乡,却宜退身避职。印绶畏财,须天干岁时无财方取。又,月印难得十全。
如甲日亥月透出癸字,变偏为正。方为十全,主招恩宠遇贵。又得祖父之财,然亦不免先遭耻辱,或偏生,以贱至贵,以贫至富,自婢为妇,以吏为官,以卒补将,皆偏印之所致也。
偏正俱有,又有浅灾,或重拜父母,或僧俗相杂,或过房寄养,或偏生正养,或正生偏养,又忌比肩争宠分恩,羊刃多或合去,或印微,遇而不遇,虽有荐举,亦不能拔萃超群。《赋》云:“印旺官生,必掌钧衡之任”是也。
日禄归时没官星,号青云得路。
此日归禄时格也。
大抵印绶,第一最好行伤官食神,财运方发。忌官刑冲羊刃。以上真官真财真印真禄,皆十干天地阴阳正气,生克至理。惟月分得之无破,准经文。有破坏者,随轻重言之。
时得发福较晚,然皆自救,可以创业垂统。
归禄一格,只喜时上见之,若月支重见,名为建禄不富。
月单见,时上却喜财食见官,是别格论。
月令七煞,而煞身俱强,当为黑头宰相。
此月令七煞格也。大抵月令煞,要身煞两强,方主大贵。
若身强煞浅,须财以生。煞强身弱,须印以助,或羊刃合之,皆为贵命。若印合与制星相攻,身弱必夭,不然残疾。
如癸卯、乙卯、己巳、乙丑。癸卯、丁巳、壬寅、甲辰。
壬寅、乙巳、庚寅、丙子,俱身强煞旺有制,所以大贵。
《喜忌篇》云:
五行遇月支偏官,岁时中亦宜制伏,所以救赋之偏也。
时上偏财,而财命并旺,须出白屋公卿。
此时上偏财格也。
只一位为吉,见合不为福,忌比肩兄弟争夺,刑冲克被。
如丙戌、戊戌、戊子、壬子,
戊克癸为正财,重有子字,壬字,为偏财透露。
又如,丁亥、戊申、壬申、丙午,
虽年有丁火,喜有合制,又阴火能夺阳火权,故贵。
.
minh thông phú nhất
Nội hữu tạp khí tài quan tương kiêm, thiên chánh lưỡng ấn, đồng cung lộc mã, hiệu vi nội ngoại tam kì.
(Trong có tạp khí tài quan, thiên và chánh ấn, lộc mã đồng cung, hiệu là tam kỳ trong ngoài).
Đây đúng là hướng về ngăn trở nhau của thần sát, chính là trong bát tự có tài có quan, có thiên ấn chánh ấn, có thể đồng cung, có thể ở chỗ khác nhau, có thể ẩn giấu, có thể lộ ra, vì cản trở nhau nên khó bàn luận về tốt xấu, cần phải đo lường mức độ nghiêm trọng, cho nên nói, trong có tam kỳ (ba điều kỳ diệu). Bài ca nói:
Dần ngọ tuất dậu là tam kỳ, thỏ rắn theo khỉ không thể dời đổi.
Tỵ dậu sửu trong gặp tý non trẻ, ngựa khỉ gặp heo yêu thích ánh sáng.
Thìn tỵ tý gặp mặt tức là kỳ xứ (chỗ kỳ diệu), ngọ hợi gặp dần là bậc thềm cao quý.
Heo tới đuổi thỏ ngựa nên vui, dần dậu gặp tỵ mừng hợp nhau.
Heo đuổi theo ngựa người rắn cứu trợ, chuột thuỷ không ai trong ao rùa hoả. Lại nói:
Thần lộc bay đến tụ về mã, tài quan cả hai thích hợp nhau.
Trong vượng được thêm trợ giúp, thượng cách vẻ vang hiển quý là kỳ diệu nhất.
Như kỷ sửu đinh mão nhâm ngọ quý mão
Nhâm lấy kỷ làm quan, đinh làm tài, đinh và kỷ quy lộc ở ngọ, là cách này vậy, cho nên chủ đại quý.
Quan thật sự gặp mệnh cường, sớm được ban chức tước kim tử (chức quan đời xưa được dùng ấn vàng dây thao tím).
Đây là lệnh tháng chánh quan cách. Dưới đây nói rõ cách cục.
Như tiến sĩ Ông Trọng Ích: mậu thân giáp dần kỷ sửu bính dần
Quả nhiên mã ở tháng và giờ mạnh, cuối cùng đổi chức ngân thanh (ngân là có liên quan đến ngân hàng, thanh là nói tăt của Thanh Hải).
Đây là lệnh tháng của chánh tài cách. Hai cách tài quan thì quan giữ quý và tài nên giữ phú.
Ngày nay đều nói về quý là thuận theo can ngàychon5 được can chi trong tháng làm tài, không bị xung khắc. Phúc của nó với chánh quan giống nhau. Bài thơ nói rằng:
Can ngày thích chọn lấy tài của tháng, vàng ngọc trong nhà thêm tích tụ.
Xem thêm thiên can là tài thì quý, tài sản dồi dào tự nhiên đến. Là vậy.
Ấn ở tháng nương tựa ngày không có tài khí, là bảng vàng chọn người tài đức.
Đấy là lệnh tháng chánh ấn cách vậy.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: tháng sanh can ngày không có thiên tài, chính là tên của ấn thụ.
Lại nói rằng: ấn thụ sanh tháng năm giờ, kỵ gặp tài tinh. Vận vào tài hương, tức là nên rút lui từ chức. Ấn thụ sợ tài, thiên can năm và giờ đều không có tài mới chọn lấy. Lại thêm, ấn ở nguyệt khó được trọn vẹn hoàn toàn.
Như ngày giáp tháng hợi lộ ra chữ quý, biến đổi thiên thành chánh, mới là trọn vẹn hoàn toàn, chủ dẫn tới được ân sủng (ơn huệ vua ban cho bề tôi) gặp quý. Lại được tài sản của ông cha, nhưng cũng không tránh khỏi gặp sĩ nhục trước tiên, hoặc do thiên sanh như từ thấp hèn làm cao quý, từ nghèo thành giàu, từ tỳ thiếp thành vợ, từ thư ký thành quan, từ binh sĩ nhậm chức vị tướng, đều là đến từ thiên ấn.
Thiên chánh đều có, lại có tai hoạ nhỏ, có thể vái lạy cha mẹ nghiêm khắc, có thể tăng tục lộn xộn lẫn nhau, có thể quá phòng ký dưỡng (gửi nuôi ở nhà khác), hoặc thiên sanh chánh dưỡng (vợ thứ sanh vợ chánh nuôi), lại thêm kỵ tỷ kiên tranh giành phân chia ân sủng, dương nhận nhiều có thể hợp mất, có thể ấn tàn tạ, gặp mà không gặp, tuy có tiến cử, cũng không thể bạt tuỵ siêu quần (người tài năng vượt qua mọi người). "Phú" nói rằng: "ấn vượng quan sanh nhất định nắm giữ chức vị cân bằng" là vậy.
Nhật lộc quy thì một quan tinh, hiệu thanh vân đắc lộ.
(Nhật lộc ở trụ giờ không có quan tinh, hiệu là thanh vân đắc lộ).
Đây là cách nhật lộc quy thời.
Đại khái ấn thụ, rất tốt khi đi vận thương quan, thực thần, tài mới phát. Kỵ quan hình xung dương nhận. Trở lên trên chân quan, chân tài , chân ấn, chân lộc đều là chánh khí của mười can thiên địa âm dương, cái lý sanh khắc. Chỉ nguyệt phân (xuân phân và thu phân) khogn6 có phá mới đúng với lời kinh. Có phá hỏng thì tuỳ theo mức độ nghiêm trọng mà bàn luận.
Thì đắc phát phúc giác vãn, nhiên giai tự cứu, khả dĩ sáng nghiệp thùy thống.
(Trụ giờ gặp phát phúc tương đối muộn, nhưng có thể tự cứu, có thể lập nên sự nghiệp để truyền lại cho đời sau).
Mỗi cách quy lộc, chỉ mừng hiện ở trụ giờ, nếu địa chi tháng cũng thấy, tên là kiến lộc không giàu.
Chỉ hiện lẻ loi tháng, trên trụ giờ tức thích tài thực gặp quan, sẽ luận theo cách khác.
Nguyệt lệnh thất sát, nhi sát thân câu cường, đương vi hắc đầu tể tướng.
(Lệnh tháng thất sát, nên sát và thân đều cường, đáng là hắc đầu tể tướng).
Đây là lệnh tháng thất sát cách. Đại khái lệnh tháng sát, cần cả hai thân và sát cường mạnh mới chủ đại quý.
Nếu thân cường sát yếu đuối, cần tài để sanh. Còn sát cường thân nhược cần ấn để trợ giúp, hoặc là dương nhận hợp đều là mệnh quý. Nếu ấn hợp với chế tinh dánh nhau, thân nhược nhất định yểu, không phải vậy thì cũng bị tàn tật.
Như quý mão ất mão kỷ tỵ ất sửu. Quý mão đinh tỵ nhâm dần giáp thìn.
Nhâm dần ất tỵ canh dần bính tý đều là thân cường sát vượng có chế phục, cho nên rất quý.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: ngũ hành gặp địa chi tháng là thiên quan, trong trụ năm và giờ cũng nên chế phục, vì thế chuyên về cứu giúp bài phú.
Thì thượng thiên tài, nhi tài mệnh tịnh vượng, tu xuất bạch ốc công khanh.
(Trụ giờ thiên tài, nên tài mệnh cùng vượng, đều sanh ra từ nhà ngheo lên đến công khanh).
Đây là thiên tài cách ở trụ giờ.
Chỉ một vị thì tốt, gặp hợp không phải phúc, kỵ tỷ kiên huynh đệ tranh đoạt, hình xung khắc.
Như: bính tuất mậu tuất mậu tý nhâm tý
Mậu khắc quý là chánh tài, có nhiều chữ tý, chữ nhâm là thiên tài lộ ra.
Lại như: đinh hợi mậu thân nhâm thân bính ngọ
Tuy năm có đinh hoả, mừng có hợp chế, lại thêm âm hoả có khả năng đoạt quyền của dương hoả, cho nên quý.
Link đến bản tiếng Hoa:
明通赋一
内有杂气财官相兼,偏正两印,同宫禄马,号为内外三奇。
此正指神煞相绊,乃八字中有财有官、有偏正二印,或同宫,或异位,或包藏,或透出,相绊难论吉凶,要轻重较量用之,故曰,内有三奇。歌曰:
寅午戌酉是三奇,兔蛇随猴不可移。
巳酉丑中逢子妙,马猴见猪好光辉。
辰巳子逢即奇处,午亥见寅是贵墀。
猪来赶兔马当欢,寅酉见巳喜相宜。
猪逐马儿蛇後援,水鼠未人火龟池。又曰:
神禄飞来就马骑,资财官职两相宜。
旺中更得本元助,上格荣华第一奇。
如己丑、丁卯、壬午、癸卯,
壬用己为官,丁为财,丁己归禄於午,是此格也,故主大责。
真官时遇命强,早受金紫之封。
此月令正官格也。以下详言格局。
如戊申、甲寅、己丑、丙寅,翁仲益进士。
良马月乘时健,末迁银青之职。
此月令正财格也。财官二格,官当取贵,财当取富。
今俱以贵言,是从日干取得月内支干之财,无所冲克者言之。其福与正官同。诗云:
日干爱取月支财,金玉家藏看积堆。
更看天干财为贵,纷纷金帛自天来。是也。
月印附日无财气,为黄榜招贤。
此月令正印格也。
《喜忌篇》云:月生日干无天财,乃印绶之名。
又云:印绶生月岁时,忌见财星。运入财乡,却宜退身避职。印绶畏财,须天干岁时无财方取。又,月印难得十全。
如甲日亥月透出癸字,变偏为正。方为十全,主招恩宠遇贵。又得祖父之财,然亦不免先遭耻辱,或偏生,以贱至贵,以贫至富,自婢为妇,以吏为官,以卒补将,皆偏印之所致也。
偏正俱有,又有浅灾,或重拜父母,或僧俗相杂,或过房寄养,或偏生正养,或正生偏养,又忌比肩争宠分恩,羊刃多或合去,或印微,遇而不遇,虽有荐举,亦不能拔萃超群。《赋》云:“印旺官生,必掌钧衡之任”是也。
日禄归时没官星,号青云得路。
此日归禄时格也。
大抵印绶,第一最好行伤官食神,财运方发。忌官刑冲羊刃。以上真官真财真印真禄,皆十干天地阴阳正气,生克至理。惟月分得之无破,准经文。有破坏者,随轻重言之。
时得发福较晚,然皆自救,可以创业垂统。
归禄一格,只喜时上见之,若月支重见,名为建禄不富。
月单见,时上却喜财食见官,是别格论。
月令七煞,而煞身俱强,当为黑头宰相。
此月令七煞格也。大抵月令煞,要身煞两强,方主大贵。
若身强煞浅,须财以生。煞强身弱,须印以助,或羊刃合之,皆为贵命。若印合与制星相攻,身弱必夭,不然残疾。
如癸卯、乙卯、己巳、乙丑。癸卯、丁巳、壬寅、甲辰。
壬寅、乙巳、庚寅、丙子,俱身强煞旺有制,所以大贵。
《喜忌篇》云:
五行遇月支偏官,岁时中亦宜制伏,所以救赋之偏也。
时上偏财,而财命并旺,须出白屋公卿。
此时上偏财格也。
只一位为吉,见合不为福,忌比肩兄弟争夺,刑冲克被。
如丙戌、戊戌、戊子、壬子,
戊克癸为正财,重有子字,壬字,为偏财透露。
又如,丁亥、戊申、壬申、丙午,
虽年有丁火,喜有合制,又阴火能夺阳火权,故贵。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#390
Gửi vào 01/12/2024 - 09:37
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất
minh thông phú nhị
Hỷ Kỵ Thiên nói rằng: thiên tài ở trụ giờ, kỵ thấy ở cung khác. Vì thế bù thêm vào ý nghĩa chưa đầy đủ của "phú".
Kiến lộc tọa lộc, hoặc quy lộc, ngộ tài quan, ấn thụ, phú quý trường niên.
(Kiến lộc, toạ lộc hoặc quy lộc mà gặp tài quan, ấn thụ thì phú quý lâu dài).
Kiến lộc là nói lộc ở trụ tháng, toạ lộc là nói lộc ở trụ ngày, quy lộc là nói lộc ở trụ giờ
Đây là cách ba lộc mà bản thân cường mạnh, chỉ gặp tài sẽ giàu, chỉ gặp quan sẽ sang, chỉ hướng về phía ấn sẽ tươi đẹp. Vì can của nó vượng, lại chủ mệnh sống lâu, an hưởng phúc lộc. Nếu ba thứ cùng lúc có thì tích luỹ tuyệt diệu.
Như đinh hợi kỷ dậu nhâm ngọ tân hợi.
Là nhật lộc quy thời, trong ngọ cũng có quan tinh, và tháng dậu là ấn nên hợp cách.
Nguyệt nhận, nhật nhận cập thì nhận, phùng quan sát vinh thần, công danh cái thế.
(Nguyệt nhận, nhật nhận cùng với thời nhận mà gặp quan sát vinh thần, công danh cái thế).
Đây là cách tam nhận, cần có quan sát, ấn thụ chế hoá nhau. Vinh thần tên khác của ấn thụ.
Có quan sát mà không có ấn, có sát không có quan đều được. Có ấn hoá sát càng đẹp, chỉ sợ ngăn trở. Nếu như có quan không nên thấy thương quan, có ấn không nên thấy tài, có sát không nên thấy thực thần làm tổn hại và áp bức.
Hoặc chế khứ, hợp khứ đều không thành chánh cách.
Như nhâm thân nhâm tý mậu ngọ ất mão nhật nhận có ất mão chế phục.
Hay như bính tuất quý tỵ mậu ngọ đinh tỵ nhật nhận có ấn thụ biến hoá, cho nên tất cả đều có.
Nguyệt lệnh chuyên chế thất sát, thân kiện ưng dương.
(Lệnh tháng cầm đầu thất sát, thân khoẻ mạnh ưng vênh vang).
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: nếu giờ gặp thất sát, gặp vậy chưa chắc đã xấu.
Tháng chế phục thiên can cường, sát đó sẽ trở thành quyền ấn, đó là ý nghiã của điều này.
Lại nói rằng: thiên quan ở trụ giờ thông khí của tháng, chủ vượng chim ưng (ý chỉ kiêu thần) đắc ý vênh vang. Cùng với điều này ít khác biệt.
Vận nguyên sanh phát tam tài, mệnh cường báo biến.
(Vận vốn là sanh phát tam tài, mệnh cường như beo biến thành cọp).
Vận vốn là lệnh tháng vậy. Tam tài là lộc mệnh và thân. Đây là can ngày bối lộc, tức là cách thương quan, thực thần vậy.Thích gặp tài tinh, như ngày giáp gặp tháng tỵ ngọ, cần có can đầu lộ ra chữ mậu, ngày giờ sửu tuất mùi. Nhật chủ cường vượng đi vận phương đông dĩ nhiên sẽ phát tài lộc dồi dào, tay trắng làm thành sự nghiệp.
Lại nói rằng: chánh lộc trong tháng gặp nguồn tài, thân cường báo biến (con beo thì nhỏ, mà thành con cọp. Chỉ người nghèo hèn thành phú quý). Với điều này không khác nhiều.
Niên kiến chánh lộc, chánh ấn, chánh tài vô phá, tất thừa tổ ấm truyện phương.
(Trụ năm gặp chánh lộc, chánh ấn, chánh tài không bị phá, sẽ được thừa kế di sản của tổ tiên).
Quan trọng là ở không bị phá, nếu có phà thì không luận như thế, Trụ năm là tổ tiên, cho nên nói như vậy như vậy.
Nhật tọa chân quan, chân quý, chân ấn hữu thành, hiệu viết phúc thần trị thế.
(Trụ ngày ngồi ở chân quan, chân quý, chân ấn có thành tựu, hiệu là phúc thần trì thế).
Quan trọng là ở có thành tựu, có thành tựu tức là không bị phá. Chân nghĩa là chánh. Nếu thiên có xen vào chỉ là vay mượn chẳng phải thật sự là chánh vậy.
Như các ngày bính tý, đinh hợi, tân tỵ, canh ngọ là chân quan.
Các ngày đinh dậu, quý tỵ, quý mão, đinh hợi là chân quý.
Các ngày giáp tý, ất hợi là chân ấn. Trong trụ không bị phá, có trợ giúp là phúc lành.
Nguyệt nội thiên tài, nhi vô bại vô sát, phú xuất nhân gian。
(Thiên tài bên trong trụ tháng, mà không bị bại không bị sát, giàu có đền từ cõi đời người).
Đây là cách lệnh tháng thiên tài, cùng với thiên tài ở trụ giờ phần lớn giống nhau. Sợ tỷ kiếp khắc nhau, hay là thất sát làm tiết khí.
Nhật hạ chánh mã, nhi hữu trợ hữu sanh, danh dương thiên hạ.
(Chánh mã ở dưới trụ giờ, mà có trợ có sanh, danh tiếng vang khắp thiên hạ).
Chính là các ngày giáp ngọ, mậu tý. Còn các ngày giáp tuất, ất sửu là thiên.
Luận giống như cách nhật toạ chân quý.
Có trợ giúp là địa chi tài khác. Có sanh là địa chi thực thần hay thương quan khác.
Thân thiển tọa sát, vận hành thân vượng chi hương, phát tài phát phúc.
(Bản thân kém ngồi ở sát, đi vận nơi thân vượng, phát tài phát phúc).
Toạ sát chính là các ngày giáp thân, ất dậu. Trong trụ không thổ nên thân trong sạch.
Đi vận dần mão, phát tài lộc dồi dào.
Đấy là cách hỷ ấn thụ, kỵ chánh quan, thực thần. Nếu phạm phải thì không phải là thân trong sạch, mệnh thuộc hàng thấp kém vậy.
Độc chủ lâm quan, vận chí chủ quý chi địa, gia chức gia phong.
(Chỉ chủ lâm quan, vận đến nơi chủ quý, thêm chức thêm giàu).
Chỉ nhật chủ lâm quan chính là các ngày đinh tỵ, quý hợi, lại thêm gặp quý nhân xung quan tinh nên quý.
Người gặp tuế vận tỵ hợi cùng hợp lại, tăng gấp đôi phong chức.
Hoặc vì nhật chủ gặp quan tinh, đi vận gặp lại đất quan thì tiêu trừ, cũng thông suốt.
Thực thần sanh vượng, vô ấn thụ hình xung, nãi mẫu thực tử lộc.
(Thực thần sanh vượng, không có ấn thụ hình xung, chính là mẹ ăn lộc của con).
Đây là cách thực thần. Như mậu thìn, đinh tỵ, nhâm thìn, giap2 thìn quý mà lại có tuổi thọ.
Đinh mùi, bính ngọ, giáp ngọ, bính dần,
Thực thần biến đổi làm mất cách cục, đinh thương tổn tân quan nên không thể bay đến, cho nên nghèo và yểu.
Chủ bổn lâm quan, một quan tinh sát bại, vi đệ tập huynh ban.
(Chủ bổn lâm quan, không có quan tinh sát bại, là em theo hàng của anh).
Chính là ngày đinh tỵ, quý hợi, tương tự gặp tháng dần tuất. Không có quan sát, tỷ kiên, anh em.
Bản thân tự vượng, sẽ được ban phát cao trưởng, xây dựng gia đình khởi nghiệp. Là như thế nào?
Lộc của đinh ở ngọ, lộc của quý ở tý, quý hợi là nơi chánh vượng của thuỷ, chính là lộc của nhà nhâm vậy. Đinh tỵ là hoả, đất của lâm quan, chính là lộc của nhà bính vậy.
Người gặp được cách này, ý nghĩa đinh quý là em của bính nhâm, mà tỵ hợi là vị trí lộc của bính nhâm, cho nên nói đệ tựu huynh ban (em theo hàng của anh). Chắc chắn do thành tích của anh, anh giỏi bằng nhau.
Lại thêm: ngày bính ngọ, nhâm tý cũng vậy, thuần tuý thì càng quý. Lẫn lộn thì không hợp cách.
Nếu có anh em tỷ kiên, can chi lẫn lộn là huynh tinh điền thật (sao anh điền thật), liền trở thành thấp hèn.
Hoặc quan tinh điền thật, anh em tỷ kiên tranh giành nhau, bản thân không chỗ chấp nhận, thì coi là xấu mà đoán.
Nếu quan tinh không thật, chỉ thiên can lộ ra, tuy chia tinh xé lộc, cũng có thể lại thành tựu lần nửa.
Đảo thực bổn cung lâm quan vượng, nãi thị thần thao lộc chi danh.
(Đảo thực cung gốc lâm quan vượng, chính là tên của quan theo hầu vua nhờ được lộc).
Như canh tý thấy mậu tý, năm tháng thiên ấn, ở trên cung gốc của mình tên là đảo thực, chính là vua hay cha của mình.
Là chỗ ngồi của thiên ấn, cùng với can ngày đồng cung, tới ở dất vượng của quan, thì thích hợp mệnh mình, sanh phúc khí cho mình.
Thị thần thao lộc (quan theo hầu vua được nhờ lộc) là nói về người ở gần vua được ân sủng. Như canh tý mậu tý canh tý bính tý là cách này vậy.
Thai sanh nguyên mệnh vô tài tinh, vi xích tử thừa ân chi sủng.
(Thai sanh vốn là mệnh không có tài tinh, là nhân dân đón nhận ơn huệ vua ban cho bề tôi).
Đây là các ngày canh dần, tân mão, giáp thân, ất dậu.
Đều là bổn chủ thiên nguyên tự ngồi ở tuyệt địa, là cung của thai sanh, tức là bào thai cách vậy.
Khi nó sanh ra quá nhỏ bé, vì thế thích ấn thụ mà sợ tài khắc.
Chủ tuổi trẻ đón nhận ân huệ của người lãnh đạo, đại khái cùng với ghi chép cách luận ấn giống nhau.
Như ất dậu ất dậu ất dậu giáp thân đúng là cách này vậy.
Hỷ Kỵ Thiên nói rằng: ngũ hành ở chỗ tuyệt, tức là thai nguyên, ngày sanh gặp phải, tên gọi là thụ khí.
Tuế nguyệt chánh quan, thất sát hỗn hào nhân hạ tiện. Thì nhật độc cường chuyên chế, chức trọng quyền cao.
Nguyệt thì thất sát, chánh quan tạp loạn bệnh giao xâm. Tuế vận xung khai hợp khứ, quan thanh danh hiển.
Do hiềm quá chế, tối kị tranh cường.
(Năm tháng là chánh quan, thất sát hỗn tạp là người thấp hèn. Ngày giờ chỉ một mạnh mẽ cầm đầu, quyền cao chức trọng.
Tháng và giờ thất sát, chánh quan tạp loạn bệnh xâm phạm. Tuế vận xung mở hay hợp mất, quan thanh liêm có danh vọng.
Giống như không thích kiềm chế quá mức, rất kỵ tranh giành sức mạnh).
Hỷ Kỵ Thiên nói rằng: bốn trụ toàn là sát có chế phục, nhất định ở ngôi cao bậc nhết tôn kính. Đại khái nên có xu hướng một vị chánh quan, còn quan sát hỗn tạp trái lại là thấp hèn. Tương tự có trường hợp khứ quan lưu sát (bỏ quan giữ lại sát), cũng có trường hợp khứ sát lưu quan (bỏ sát giữ lại quan).
Lại nói thêm rằng: bốn trụ sát vượng vận thuần (không lẫn lộn) thân vượng là quan thanh liêm nên quý.
Lại nói thêm rằng: lệnh tháng tuy gần kiến lộc, hết sức kỵ hội tụ sát thành xấu.
Quan tinh và thất sát giao sai, tức là có hợp sát thì quý,đúng là vậy.
Đây là hai cách, mỗi cách có chỗ sở hữu riêng.
Tuế nguyệt chánh quan, dĩ quan vi chủ, hiềm sát hỗn chi.
Nguyệt thì thất sát, dĩ sát vi chủ, hiềm quan loạn chi.
Thì nhật độc cường, chuyên chế tuế vận, xung khai hợp khứ, hỗ văn kiến nghĩa dã.
Quá chế tắc thất sát bất hiển, tranh cường tắc nan dĩ khứ lưu, kì lí đương tế tường chi.
(Năm và tháng là chánh quan, lấy quan làm chủ, ghét có sát hỗn tạp.
Tháng và giờ là thất sát, lấy sát làm chủ, ghét có quan làm hỗn loạn.
Ngày và giờ chỉ một cái mạnh mẽ, cầm đầu tuế vận, xung mở hay hợp mất, ý nghĩa của nhau được bộc lộ.
Chế phục quá thì thất sát không vẻ vang, tranh giành sức mạnh thì khó mà bỏ hay giữ, cái lý của nó nên hiểu tường tận).
Như nhâm tý giáp thìn kỷ mão nhâm thân
Tháng là chánh quan, mão dưới trụ ngày là thất sát, gặp canh kim trong thân, hợp ất sát trong mão nên quý.
Lại như bát tự Trương Thị Lang (chức quan hàng tam phẩm): ngày ất lấy canh làm chánh quan, canh kim trong thân, sanh gần tháng bảy, canh vượng tân suy, tháng sáu đinh hoả vượng, là khứ sát lưu quan (bỏ sát giữ quan). Cho nên quý.
Lại như bính ngọ bính thân giáp dần đinh mão, bính đinh tuy nhiều, nhưng không chống nổi sát của lệnh tháng, lại đi vận quan vượng, thân vượng biến quỷ thành quan, cho nên quý.
Thiên nguyên vô khí, tức nghi trung hạ hưng long.
(Thiên nguyên không có khí lực, nhưng thích hợp cho sự thịnh vượng ở trung và hạ).
Đây là cách ấn thụ. Như giáp ất sanh ở các tháng mùa đông, thiên nguyên không có khí lực, địa chi có hợi tý thuỷ sanh mộc, nên tương tự hưng thịnh. Lại như các ngày đinh hợi đinh sửu, đinh hoả không có khí lực, lại có nhâm quý tời khắc, hợi tý gặp phải nên thành bè đảng, trái lại có khả năng sanh cho giáp mộc, thành địa chi hưng thịnh. Mừng thổ đến khắc là tài, gặp được trong sửu là tài, điều này cũng có lợi.
Cổ nhân luận trung hạ, dĩ nhật, thì chi ngôn.
(Người xưa bàn luận về trung hạ, lấy địa chi ngày giờ mà nói).
Như can ngày lệnh tháng không có khí lực, nếu địa chi của chỗ mình ngồi cùng với giờ đắc địa, cũng là mệnh chân thành.
Nếu không có khí lực, mà ngày giờ lại ở nơi suy bại, thì cả đời sẽ gian nan khó khăn có thể biết.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: hễ thấy thiên nguyên quá yếu, bên trong có chỗ yếu sanh trở lại là đúng.
Niên bổn thiên quan, tu kị thủy chung khắc hại.
(Năm vốn là thiên quan, cần phải tránh từ đầu đến cuối khắc hại).
Đây là cách tuế đức. Như ngày giáp gặp thái tuế canh thân, là thiên quan ở năm, còn một tên khác là nguyên thần, một danh nữa là cô thần, sát này rất nghiêm trọng, cả đởi không thể trừ bỏ, cho nên chủ từ đầu đến cuối khắ hại.
Khắc hại chẳng phải chỉ tập trung vào ông cha và lục thân, cũng bao gồm bản thân trong đó.
Như đinh tỵ đinh tỵ tân tỵ nhâm thìn, mừng có được một nhâm hợp hai đinh thành chế phục.
Ất mão bính tý kỷ mão đinh mão mừng có đinh bính hoá mất ba ất, đều chủ quý, riêng sự khắc hại thì cuối cùng vẫn không thể tránh khỏi.
Hoặc nói rằng: thất sát nhiều căn gốc, rất kỵ cả đời khắc hại. Cũng thông suốt.
Dương nhận cực hỉ thiên quan, tước bình họa loạn.
(Dương nhận rất thích thiên quan, trừ dẹp hoạ loạn).
Đây là cách dương nhận. Đại khái dương nhận kỵ tài, vì nhận phá tài, tài sanh sát và sát khắc thân. Cùng với hình xung tam hợp, lục hợp, mừng có sát chế phục. Nhưng mà sát tự chế lại đoán là hung xấu.
Kim thần chỉ nghi chế phục, giáng túc gian hùng.
(Kim thần chỉ nên chế phục, khuất phục kẻ có tài mà xảo trá).
Đây là cách kim thần. Đại khái kim thần, không sợ chế phục quá mức, chỉ kỵ phá chế phục với mất chế phục. Tuế vận giống nhau. Ngày giáp kỷ gặp ba giờ này, chỉ ngày giap gặp Chỉ ngày giáp gặp được mới là đúng cách.
Dương đức âm quý, vượng tắc vinh hiển, nhi nhược khả bảo danh.
(Dương đức và âm quý, vượng thì vinh hiển, còn nhược cũng có thể giữ được danh tiếng).
Dương đức là thiên đức, nguyệt đức cùng với nhật đức. Âm quý là thiên ất quý thần cùng với nhật quý cách. Yếu tuy không như mạnh, cũng có thể tự bảo vệ.
Thiên cương địa khôi, suy tắc bần hàn, nhi cường đương tuyệt thế.
(Thiên cương và địa khôi nếu suy sẽ nghèo hèn, còn cường mạnh nên một đời xuất chúng).
Tức là cách khôi cương. Thích cường mạnh ghét suy yếu, kỵ tài quan, phải cùng nhau khảo nghiệm.
Quan khố tài khố, xung khai tắc vinh phong tước lộc, tắc bế tắc bần phạp tư tài.
(Quan khố và tài khố được xung mở sẽ được phong tước lộc vinh quang, còn đóng kín sẽ nghèo không có tài sản).
Đây là cách tạp khì tài quan.
Như giáp thấy sửu thổ là quan khố, thấy thìn là tài khố, thấy mùi là khố của mình, thấy tuất là thực thần khố. Quan là trên hết, tài thì kế tiếp, thuỷ khố tiếp theo sau nửa. Nếu khố ở trong năm và tháng, quản việc quá sớm, khó phát khi còn tuổi trẻ. Thích ở dưới ngày cùng với trong trụ giờ, tuy phát muộn, nhưng không mất phúc lành của phú quý. Cần phải thấy xung hình phá hại, để mở khoá của cục, sợ có sao làm nghẽn lại.
Như đinh lấy thìn làm quan khố, hoặc chữ mậu tự lạm quyền, hoặc mậu thìn áp bức là làm cho bế tắc.
Như thế thì đinh không thể có quan, cần trong trụ có giáp tuất hoặc tuế gặp được mới tốt.
Thương quan chánh quan, thương tẫn tắc độc ác quyền cao, bán tàn tắc tất t*o kiển nan.
(Thương quan chánh quan, thương tổn tận cùng một mình nắm giữ quyền cao, phân nửa hung tàn sẽ gặp gian nan khó khăn).
Đây là cách thương quan. Bán tàn (phân nửa hung tàn) là nói thương tổn không dứt điểm.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: bốn trụ thương quan, vận vào đất quan, tức là phá vậy.
Nhật nguyệt đảo xung quan lộc, vô điền vô bán, nhi lộc mã phi lai.
(Ngày và thàng quay lại xung quan lộc, không điền thật không ngăn cản, nên lộc mã bay tới).
Đây là cách phi thiên lộc mã.
Thiên địa chế hợp sát thần, bất quá bất thất, nhi danh lợi sậu phát.
(Thiên can địa chi chế phục hay hợp sát thần, không quá mức không mất mát, nên danh lợi bỗng nhiên nổi lên).
Thiên địa chế hợp sát thần chính là thiên can địa chi, hoặc là thực thần chế sát, hoặc là dương nhận hợp sát. Nhưng chế hay hợp không nên thái quá, như một sát mà có hai thực thần hay hai dương nhận là thái quá nên mất vậy.
Thân sát lưỡng đình, chế hợp bất quá, sát nãi hung thần, cố chủ sậu phát.
(Thân và sát cả hai ổn thoả, chế hợp không quá mức, sát chính là hung thần, cho nên chủ bỗng nhiên nổi lên).
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: thiên quan chế phục quá mức chính là bần nho (học giả nghèo). Hiện mà không nên quá đáng vậy.
Duy quan ấn tối nghi tương hội, đức chánh gia phong.
(Chỉ quan và ấn rất nên gặp mặt nhau, tác phong cai trị càng tăng thêm).
Đây là cách quan ấn.
Như ngày giáp gặp tân là quan, lại có thêm quý là án, hoặc địa chi có các chữ dậu tý đều đúng.
Quan và ấn đối với bản thân, một khắc một sanh. Âm dương phối hợp nên lại thành sanh nhau vậy.
Cho nên chủ là tướng, có tài giúp vua, là tướng có sử dụng trí khôn vào toan tính.
Là người bảo vệ chủ tể nên noi theo cai trị lương thiện, cần phải có bản thân với ấn ngang bằng nhau, chính là quý cực phẩm vậy.
Không thì tuỳ theo cường độ tăng giảm, mức độ nghiêm trọng mà được bàn bạc.
Hữu lộc mã cực hỉ đồng cư, quan năng xưng chức.
(Có trường hợp lộc và mã rất thích ở chung một chỗ, quan có thể xứng đáng với chức vụ).
Đây là cách tài quan.
Như ngày giáp thấy các tháng kỷ sưu, kỷ dậu cùng với nhâm ngọ, quý tỵ, là lộc mã đồng cư. Cùng với thương quan và ấn gặp mặt nhau, đều là cách tam kỳ.
Bản thân cần phải có lực vượng, có thể gặp khí của giờ mới có thể xứng đáng với cách này.
Lộc và thân cướng nhược không bằng nhau, thì luận giáng xuống, nếu thân nhược khó được tuổi thọ.
Ấn thụ phùng sát tắc phát, phùng hợp tắc hối, phùng tài tắc tai. Phá hợp khứ tài diệc phát.
(Ấn thụ gặp sát sẽ phát, gặp hợp sẽ tối tăm, gặp tài sẽ là tai hoạ. Phá hợp hay bỏ tài cũng phát).
Đây là tổng luận ấn thụ hỷ kỵ.
Gặp sát, nghĩa là ấn nhờ sát sanh, công danh thành tựu, và có danh vọng vẻ vang.
Nếu gặp thiên tài hợp mất, chánh tài khắc mất, đều là chủ tai hoạ tối tăm.
Link đến bản tiếng Hoa:
明通赋二
喜忌篇云:时上偏财,别宫忌见。所以补《赋》未备之义也。
建禄坐禄,或归禄,遇财官、印绶,富贵长年。
建禄以月言,坐禄以日言,归禄以时言。
此三禄格本身健旺,独遇财则富,独遇官则贵,独进印则秀。以其干旺,又主长命,安享福禄。若三者兼有,亦妙。
如丁亥、己酉、壬午、辛亥,
是日禄归时,午中亦有官星,却得酉月,为印合格。
月刃、日刃及时刃,逢官煞荣神,功名盖世。
此三刃格,要官煞、印绶相制化。荣神,印绶异名。
有官煞无印,有煞无官,俱得。有印化煞尤佳,只怕羁绊。如有官不可见伤,有印不可见财,有煞不可见食伤压之。
或制去、合去,皆不成正格。
如壬申、壬子、戊午、乙卯,日刃有乙卯制伏。
如丙戌、癸巳、戊午、丁巳,日刃有印绶变化,故皆有。
月令专制七煞,身健鹰扬。
《喜忌篇》云:若乃时逢七煞,见之未必为凶。
月制干强,其煞反为权印。即解此义也。
一云:时上偏官通月气,主旺鹰扬。与此少异。)
运元生发三财,命强豹变。
运元月令也。三财禄命身也。此是日干背禄,即伤食格也。喜逢财星,如甲日逢巳午月,须干头透出戊字,丑戌未日时。日主健旺,行东方运,必然大发财禄,白手成家。
一云:月中正禄会财源,身强豹变。与此少异。)
年见正禄、正印、正财无破,必承祖荫传芳。
重在无破,有破不以此论。年为祖宗,故云云。
日坐真官、真贵、真印有成,号曰福神治世。
重在有成,有成即无破。真,即正义。若参之以偏,为所假借,非真正也。
如丙子、丁亥、辛巳、庚午、等日为真官。
丁酉、癸巳、癸卯、丁亥等日,为真贵。
甲子、乙亥等日,为真印,柱中无破,有助为福。
月内偏财,而无败无煞,富出人间。
此月令偏财格,与时上偏财大同。怕比劫相克,七煞泄气。
日下正马,而有助有生,名扬天下。
乃甲午、戊子等日。甲戌、乙丑等日则偏。
与日坐真贵格同论。
有助,是别支财。有生,是别支食伤。
身浅坐煞,运行身旺之乡,发财发福。
坐煞,乃甲申、乙酉等日。柱中无土为身清。
行寅卯运,大发财禄。
此格喜印绶,忌正官、食神。犯之非身清,下等命也。
独主临官,运至主贵之地,加职加封。
独主临官,乃丁巳、癸亥等日,又遇贵人冲官星为贵。
岁运逢巳亥重并者,倍加封职。
或以日遇官星,行运再遇官地为解,亦通。
食神生旺,无印绶刑冲,乃母食子禄。
此食神格也。如戊辰、丁巳、壬辰、甲辰,贵而且寿。
丁未、丙午、甲午、丙寅,
食神化作脱局,丁伤辛官,飞来不得,故贫夭。
主本临官,没官星煞败,为弟袭兄班。
乃丁巳、癸亥日,得寅戌月类也。无官煞、比肩、兄弟。
本身自旺,必得高长之班,兴家立业。何者?
丁之禄在午,癸之禄在子,癸亥为水正旺之乡,乃壬家之禄也。丁巳为火,临官之地,乃丙家之禄也。
得此格者,谓丁癸乃丙壬之弟,而巳亥为丙壬之禄位,故曰弟就兄班。必因兄有为,高兄一班。
又:丙午、壬子日亦是,纯粹尤贵。驳杂者,不入格。
若有兄弟比肩,干支驳杂,为兄星填实,便为下矣。
或官星填实,兄弟比肩争差,身无容处,又作凶断。
若官星不实、单露天干、虽分星擘禄,亦可再成。
倒食本宫临官旺,乃侍臣叨禄之名。
如庚子见戊子,岁月偏印,在我本宫之上,名倒食,乃我之君父也。
是偏印所坐,与日干同宫,临於官旺之地,则受我命,生我福气。
侍臣叨禄,言近君之宠也。如庚子、戊子、庚子、丙子,是此格也。
胎生元命无财星,为赤子承恩之宠。
此庚寅、辛卯、甲申、乙酉等日。
皆本主天元,自坐绝地,为胎生之宫,即胞胎格也。
其生甚微,所以喜印绶,怕财克。
主少年招受主恩,大概与印格书同论。
如乙酉、乙酉、乙酉、甲申,是此格也。
喜忌篇云,五行绝处,即是胎元,生日逢之,名曰受气。
岁月正官,七煞混淆人下贱。时日独强专制,职重权高。
月时七煞,正官杂乱病交侵。岁运冲开合去,官清名显。
犹嫌过制,最忌争强。
喜忌篇云:四柱纯煞有制,定居一品之尊。略见一位正官,官然混杂反贱。类有去官留煞,亦有去煞留官。
又云:四柱煞旺运纯,身旺为官清贵。
又云:月令虽近建禄,切忌会煞为凶。
官星七煞交差,却有合煞为贵,是也。
此二格,各有所主。
岁月正官,以官为主,嫌煞混之。
月时七煞,以煞为主,嫌官乱之。
时日独强,专制岁运,冲开合去,互文见义也。
过制则七煞不显,争强则难以去留,其理当细详之。
如壬子、甲辰、己卯、壬申,
月正官,日下卯为七煞,得申内庚金,合卯中乙木之煞为贵。
又如,张侍郎八字:乙日以庚为正官,申内庚金,近七月生,庚旺辛衰,六月丁火旺,为去煞留官。故贵。
又如:丙午、丙申、甲寅、丁卯,丙丁虽多,
不敌月令之煞,又行官旺运,身旺变鬼为官,故贵。
天元无气,却宜中下兴隆。
此印绶格也。如甲乙生於冬月,天元无气,地支有亥子水生木,为兴隆之类。又如丁亥、丁丑等日,丁火无气,又有壬癸来克,亥子得之为党,反能生出甲木,为地支兴隆。喜土来克财,丑中得之为财,亦利之类。
古人论中下,以日、时支言。
如日干月令无气,若所坐之支及时得地,亦为成实之命。
若无气,而日时又在衰败之乡,则终身偃蹇可知矣。
《喜忌篇》云:凡见天元太弱,内有弱处复生,是也)
年本偏官,须忌始终克害。
此岁德格也。如甲日逢庚申太岁,为年上偏官,一名元神,一名孤辰,其煞最重,终身不可除去,故主始终克害。
克害,非专指祖父六亲,本身亦在其中矣。
如丁巳、丁未、辛巳、壬辰,喜一壬合二丁为制。
乙卯、丙子、己卯、丁卯、喜丁丙化去三乙,皆主贵,但克害终不能免。
或云;七煞多根,切忌始终克害。亦通。
羊刃极喜偏官,削平祸乱。
此羊刃格也。大抵羊刃忌财,以刃破财,财生煞,煞克身。及刑冲三合、六合,喜煞制伏。而煞自制者,又作凶断。
金神只宜制伏,降肃奸雄。
此金神格也。大抵金神,不畏过制,只忌破制与失制。
岁运同。甲己日得此三时,惟甲日得之为正。
阳德阴贵,旺则荣显,而弱可保名。
阳德,天月二德及日德。阴贵,天乙贵神及日贵格也。
弱虽不如强,亦可自守。
天罡地魁,衰则贫寒,而强当绝世。
即魁罡格也。喜强恶衰,忌财官,要并踏。
官库财库,冲开则荣封爵禄,塞闭则贫乏资财。
此杂气财官格也。
如甲见丑为官库,见辰为财库,见未为本库,见戌为食库。官为上,财次之,水库又次之。若库在年月之中,管事太早,难发少年。喜在日下及时之中,虽晚发,不失为富贵造化。要见冲刑破害,以开局钥,怕有星闭塞。
如丁用辰为官库,或戊字僭之,或戊辰压之,是闭塞也。
如此,则丁不能官,须柱有甲戌或岁遇之,方吉。
伤官正官,伤尽则独握权高,半残则必遭蹇难。
此伤官格也。半残,言伤不尽。
《喜忌篇》云:四柱伤官,运入官乡,必破是也。
日月倒冲官禄,无填无绊,而禄马飞来。
此飞天禄马格也。
天地制合煞神,不过不失,而名利骤发。
天地制合煞神,乃天干地支,或是食神制煞,或是羊刃合煞。但制合不宜太过,如一煞二食二羊刃,则过而失也。
身煞两停,制合不过,煞乃凶神,故主骤发。
《喜忌篇》云:偏官制伏太过,乃是贫儒。见不可过也。
惟官印最宜相会,德政加封。
此官印格也。
如甲日得辛为官,又有癸为印,或地支有酉子字皆是。
官印於身,一克一生。阴阳配合,而又自相生焉。
故主为相,有王佐之才,为将有运筹之智。
为守宰者循良之政,要本身与官印相等,乃极品贵也。
否则,随力量升降,轻重言之。
有禄马极喜同居,官能称职。
此财官格也。
如甲日见己丑、己酉及壬午、癸巳等月之类,是禄马同居。与上官印相会,皆为三奇格也。
须要本身力旺,或遇时气可称此格。
禄身强弱不等,降下论之,身弱难寿。
印绶逢煞则发,逢合则晦,逢财则灾。破合去财亦发。
此总论印绶喜忌。
逢煞,谓之印赖煞生,功名显达。
若遇偏财合去,正财克去,皆主灾晦。
.
minh thông phú nhị
Hỷ Kỵ Thiên nói rằng: thiên tài ở trụ giờ, kỵ thấy ở cung khác. Vì thế bù thêm vào ý nghĩa chưa đầy đủ của "phú".
Kiến lộc tọa lộc, hoặc quy lộc, ngộ tài quan, ấn thụ, phú quý trường niên.
(Kiến lộc, toạ lộc hoặc quy lộc mà gặp tài quan, ấn thụ thì phú quý lâu dài).
Kiến lộc là nói lộc ở trụ tháng, toạ lộc là nói lộc ở trụ ngày, quy lộc là nói lộc ở trụ giờ
Đây là cách ba lộc mà bản thân cường mạnh, chỉ gặp tài sẽ giàu, chỉ gặp quan sẽ sang, chỉ hướng về phía ấn sẽ tươi đẹp. Vì can của nó vượng, lại chủ mệnh sống lâu, an hưởng phúc lộc. Nếu ba thứ cùng lúc có thì tích luỹ tuyệt diệu.
Như đinh hợi kỷ dậu nhâm ngọ tân hợi.
Là nhật lộc quy thời, trong ngọ cũng có quan tinh, và tháng dậu là ấn nên hợp cách.
Nguyệt nhận, nhật nhận cập thì nhận, phùng quan sát vinh thần, công danh cái thế.
(Nguyệt nhận, nhật nhận cùng với thời nhận mà gặp quan sát vinh thần, công danh cái thế).
Đây là cách tam nhận, cần có quan sát, ấn thụ chế hoá nhau. Vinh thần tên khác của ấn thụ.
Có quan sát mà không có ấn, có sát không có quan đều được. Có ấn hoá sát càng đẹp, chỉ sợ ngăn trở. Nếu như có quan không nên thấy thương quan, có ấn không nên thấy tài, có sát không nên thấy thực thần làm tổn hại và áp bức.
Hoặc chế khứ, hợp khứ đều không thành chánh cách.
Như nhâm thân nhâm tý mậu ngọ ất mão nhật nhận có ất mão chế phục.
Hay như bính tuất quý tỵ mậu ngọ đinh tỵ nhật nhận có ấn thụ biến hoá, cho nên tất cả đều có.
Nguyệt lệnh chuyên chế thất sát, thân kiện ưng dương.
(Lệnh tháng cầm đầu thất sát, thân khoẻ mạnh ưng vênh vang).
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: nếu giờ gặp thất sát, gặp vậy chưa chắc đã xấu.
Tháng chế phục thiên can cường, sát đó sẽ trở thành quyền ấn, đó là ý nghiã của điều này.
Lại nói rằng: thiên quan ở trụ giờ thông khí của tháng, chủ vượng chim ưng (ý chỉ kiêu thần) đắc ý vênh vang. Cùng với điều này ít khác biệt.
Vận nguyên sanh phát tam tài, mệnh cường báo biến.
(Vận vốn là sanh phát tam tài, mệnh cường như beo biến thành cọp).
Vận vốn là lệnh tháng vậy. Tam tài là lộc mệnh và thân. Đây là can ngày bối lộc, tức là cách thương quan, thực thần vậy.Thích gặp tài tinh, như ngày giáp gặp tháng tỵ ngọ, cần có can đầu lộ ra chữ mậu, ngày giờ sửu tuất mùi. Nhật chủ cường vượng đi vận phương đông dĩ nhiên sẽ phát tài lộc dồi dào, tay trắng làm thành sự nghiệp.
Lại nói rằng: chánh lộc trong tháng gặp nguồn tài, thân cường báo biến (con beo thì nhỏ, mà thành con cọp. Chỉ người nghèo hèn thành phú quý). Với điều này không khác nhiều.
Niên kiến chánh lộc, chánh ấn, chánh tài vô phá, tất thừa tổ ấm truyện phương.
(Trụ năm gặp chánh lộc, chánh ấn, chánh tài không bị phá, sẽ được thừa kế di sản của tổ tiên).
Quan trọng là ở không bị phá, nếu có phà thì không luận như thế, Trụ năm là tổ tiên, cho nên nói như vậy như vậy.
Nhật tọa chân quan, chân quý, chân ấn hữu thành, hiệu viết phúc thần trị thế.
(Trụ ngày ngồi ở chân quan, chân quý, chân ấn có thành tựu, hiệu là phúc thần trì thế).
Quan trọng là ở có thành tựu, có thành tựu tức là không bị phá. Chân nghĩa là chánh. Nếu thiên có xen vào chỉ là vay mượn chẳng phải thật sự là chánh vậy.
Như các ngày bính tý, đinh hợi, tân tỵ, canh ngọ là chân quan.
Các ngày đinh dậu, quý tỵ, quý mão, đinh hợi là chân quý.
Các ngày giáp tý, ất hợi là chân ấn. Trong trụ không bị phá, có trợ giúp là phúc lành.
Nguyệt nội thiên tài, nhi vô bại vô sát, phú xuất nhân gian。
(Thiên tài bên trong trụ tháng, mà không bị bại không bị sát, giàu có đền từ cõi đời người).
Đây là cách lệnh tháng thiên tài, cùng với thiên tài ở trụ giờ phần lớn giống nhau. Sợ tỷ kiếp khắc nhau, hay là thất sát làm tiết khí.
Nhật hạ chánh mã, nhi hữu trợ hữu sanh, danh dương thiên hạ.
(Chánh mã ở dưới trụ giờ, mà có trợ có sanh, danh tiếng vang khắp thiên hạ).
Chính là các ngày giáp ngọ, mậu tý. Còn các ngày giáp tuất, ất sửu là thiên.
Luận giống như cách nhật toạ chân quý.
Có trợ giúp là địa chi tài khác. Có sanh là địa chi thực thần hay thương quan khác.
Thân thiển tọa sát, vận hành thân vượng chi hương, phát tài phát phúc.
(Bản thân kém ngồi ở sát, đi vận nơi thân vượng, phát tài phát phúc).
Toạ sát chính là các ngày giáp thân, ất dậu. Trong trụ không thổ nên thân trong sạch.
Đi vận dần mão, phát tài lộc dồi dào.
Đấy là cách hỷ ấn thụ, kỵ chánh quan, thực thần. Nếu phạm phải thì không phải là thân trong sạch, mệnh thuộc hàng thấp kém vậy.
Độc chủ lâm quan, vận chí chủ quý chi địa, gia chức gia phong.
(Chỉ chủ lâm quan, vận đến nơi chủ quý, thêm chức thêm giàu).
Chỉ nhật chủ lâm quan chính là các ngày đinh tỵ, quý hợi, lại thêm gặp quý nhân xung quan tinh nên quý.
Người gặp tuế vận tỵ hợi cùng hợp lại, tăng gấp đôi phong chức.
Hoặc vì nhật chủ gặp quan tinh, đi vận gặp lại đất quan thì tiêu trừ, cũng thông suốt.
Thực thần sanh vượng, vô ấn thụ hình xung, nãi mẫu thực tử lộc.
(Thực thần sanh vượng, không có ấn thụ hình xung, chính là mẹ ăn lộc của con).
Đây là cách thực thần. Như mậu thìn, đinh tỵ, nhâm thìn, giap2 thìn quý mà lại có tuổi thọ.
Đinh mùi, bính ngọ, giáp ngọ, bính dần,
Thực thần biến đổi làm mất cách cục, đinh thương tổn tân quan nên không thể bay đến, cho nên nghèo và yểu.
Chủ bổn lâm quan, một quan tinh sát bại, vi đệ tập huynh ban.
(Chủ bổn lâm quan, không có quan tinh sát bại, là em theo hàng của anh).
Chính là ngày đinh tỵ, quý hợi, tương tự gặp tháng dần tuất. Không có quan sát, tỷ kiên, anh em.
Bản thân tự vượng, sẽ được ban phát cao trưởng, xây dựng gia đình khởi nghiệp. Là như thế nào?
Lộc của đinh ở ngọ, lộc của quý ở tý, quý hợi là nơi chánh vượng của thuỷ, chính là lộc của nhà nhâm vậy. Đinh tỵ là hoả, đất của lâm quan, chính là lộc của nhà bính vậy.
Người gặp được cách này, ý nghĩa đinh quý là em của bính nhâm, mà tỵ hợi là vị trí lộc của bính nhâm, cho nên nói đệ tựu huynh ban (em theo hàng của anh). Chắc chắn do thành tích của anh, anh giỏi bằng nhau.
Lại thêm: ngày bính ngọ, nhâm tý cũng vậy, thuần tuý thì càng quý. Lẫn lộn thì không hợp cách.
Nếu có anh em tỷ kiên, can chi lẫn lộn là huynh tinh điền thật (sao anh điền thật), liền trở thành thấp hèn.
Hoặc quan tinh điền thật, anh em tỷ kiên tranh giành nhau, bản thân không chỗ chấp nhận, thì coi là xấu mà đoán.
Nếu quan tinh không thật, chỉ thiên can lộ ra, tuy chia tinh xé lộc, cũng có thể lại thành tựu lần nửa.
Đảo thực bổn cung lâm quan vượng, nãi thị thần thao lộc chi danh.
(Đảo thực cung gốc lâm quan vượng, chính là tên của quan theo hầu vua nhờ được lộc).
Như canh tý thấy mậu tý, năm tháng thiên ấn, ở trên cung gốc của mình tên là đảo thực, chính là vua hay cha của mình.
Là chỗ ngồi của thiên ấn, cùng với can ngày đồng cung, tới ở dất vượng của quan, thì thích hợp mệnh mình, sanh phúc khí cho mình.
Thị thần thao lộc (quan theo hầu vua được nhờ lộc) là nói về người ở gần vua được ân sủng. Như canh tý mậu tý canh tý bính tý là cách này vậy.
Thai sanh nguyên mệnh vô tài tinh, vi xích tử thừa ân chi sủng.
(Thai sanh vốn là mệnh không có tài tinh, là nhân dân đón nhận ơn huệ vua ban cho bề tôi).
Đây là các ngày canh dần, tân mão, giáp thân, ất dậu.
Đều là bổn chủ thiên nguyên tự ngồi ở tuyệt địa, là cung của thai sanh, tức là bào thai cách vậy.
Khi nó sanh ra quá nhỏ bé, vì thế thích ấn thụ mà sợ tài khắc.
Chủ tuổi trẻ đón nhận ân huệ của người lãnh đạo, đại khái cùng với ghi chép cách luận ấn giống nhau.
Như ất dậu ất dậu ất dậu giáp thân đúng là cách này vậy.
Hỷ Kỵ Thiên nói rằng: ngũ hành ở chỗ tuyệt, tức là thai nguyên, ngày sanh gặp phải, tên gọi là thụ khí.
Tuế nguyệt chánh quan, thất sát hỗn hào nhân hạ tiện. Thì nhật độc cường chuyên chế, chức trọng quyền cao.
Nguyệt thì thất sát, chánh quan tạp loạn bệnh giao xâm. Tuế vận xung khai hợp khứ, quan thanh danh hiển.
Do hiềm quá chế, tối kị tranh cường.
(Năm tháng là chánh quan, thất sát hỗn tạp là người thấp hèn. Ngày giờ chỉ một mạnh mẽ cầm đầu, quyền cao chức trọng.
Tháng và giờ thất sát, chánh quan tạp loạn bệnh xâm phạm. Tuế vận xung mở hay hợp mất, quan thanh liêm có danh vọng.
Giống như không thích kiềm chế quá mức, rất kỵ tranh giành sức mạnh).
Hỷ Kỵ Thiên nói rằng: bốn trụ toàn là sát có chế phục, nhất định ở ngôi cao bậc nhết tôn kính. Đại khái nên có xu hướng một vị chánh quan, còn quan sát hỗn tạp trái lại là thấp hèn. Tương tự có trường hợp khứ quan lưu sát (bỏ quan giữ lại sát), cũng có trường hợp khứ sát lưu quan (bỏ sát giữ lại quan).
Lại nói thêm rằng: bốn trụ sát vượng vận thuần (không lẫn lộn) thân vượng là quan thanh liêm nên quý.
Lại nói thêm rằng: lệnh tháng tuy gần kiến lộc, hết sức kỵ hội tụ sát thành xấu.
Quan tinh và thất sát giao sai, tức là có hợp sát thì quý,đúng là vậy.
Đây là hai cách, mỗi cách có chỗ sở hữu riêng.
Tuế nguyệt chánh quan, dĩ quan vi chủ, hiềm sát hỗn chi.
Nguyệt thì thất sát, dĩ sát vi chủ, hiềm quan loạn chi.
Thì nhật độc cường, chuyên chế tuế vận, xung khai hợp khứ, hỗ văn kiến nghĩa dã.
Quá chế tắc thất sát bất hiển, tranh cường tắc nan dĩ khứ lưu, kì lí đương tế tường chi.
(Năm và tháng là chánh quan, lấy quan làm chủ, ghét có sát hỗn tạp.
Tháng và giờ là thất sát, lấy sát làm chủ, ghét có quan làm hỗn loạn.
Ngày và giờ chỉ một cái mạnh mẽ, cầm đầu tuế vận, xung mở hay hợp mất, ý nghĩa của nhau được bộc lộ.
Chế phục quá thì thất sát không vẻ vang, tranh giành sức mạnh thì khó mà bỏ hay giữ, cái lý của nó nên hiểu tường tận).
Như nhâm tý giáp thìn kỷ mão nhâm thân
Tháng là chánh quan, mão dưới trụ ngày là thất sát, gặp canh kim trong thân, hợp ất sát trong mão nên quý.
Lại như bát tự Trương Thị Lang (chức quan hàng tam phẩm): ngày ất lấy canh làm chánh quan, canh kim trong thân, sanh gần tháng bảy, canh vượng tân suy, tháng sáu đinh hoả vượng, là khứ sát lưu quan (bỏ sát giữ quan). Cho nên quý.
Lại như bính ngọ bính thân giáp dần đinh mão, bính đinh tuy nhiều, nhưng không chống nổi sát của lệnh tháng, lại đi vận quan vượng, thân vượng biến quỷ thành quan, cho nên quý.
Thiên nguyên vô khí, tức nghi trung hạ hưng long.
(Thiên nguyên không có khí lực, nhưng thích hợp cho sự thịnh vượng ở trung và hạ).
Đây là cách ấn thụ. Như giáp ất sanh ở các tháng mùa đông, thiên nguyên không có khí lực, địa chi có hợi tý thuỷ sanh mộc, nên tương tự hưng thịnh. Lại như các ngày đinh hợi đinh sửu, đinh hoả không có khí lực, lại có nhâm quý tời khắc, hợi tý gặp phải nên thành bè đảng, trái lại có khả năng sanh cho giáp mộc, thành địa chi hưng thịnh. Mừng thổ đến khắc là tài, gặp được trong sửu là tài, điều này cũng có lợi.
Cổ nhân luận trung hạ, dĩ nhật, thì chi ngôn.
(Người xưa bàn luận về trung hạ, lấy địa chi ngày giờ mà nói).
Như can ngày lệnh tháng không có khí lực, nếu địa chi của chỗ mình ngồi cùng với giờ đắc địa, cũng là mệnh chân thành.
Nếu không có khí lực, mà ngày giờ lại ở nơi suy bại, thì cả đời sẽ gian nan khó khăn có thể biết.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: hễ thấy thiên nguyên quá yếu, bên trong có chỗ yếu sanh trở lại là đúng.
Niên bổn thiên quan, tu kị thủy chung khắc hại.
(Năm vốn là thiên quan, cần phải tránh từ đầu đến cuối khắc hại).
Đây là cách tuế đức. Như ngày giáp gặp thái tuế canh thân, là thiên quan ở năm, còn một tên khác là nguyên thần, một danh nữa là cô thần, sát này rất nghiêm trọng, cả đởi không thể trừ bỏ, cho nên chủ từ đầu đến cuối khắ hại.
Khắc hại chẳng phải chỉ tập trung vào ông cha và lục thân, cũng bao gồm bản thân trong đó.
Như đinh tỵ đinh tỵ tân tỵ nhâm thìn, mừng có được một nhâm hợp hai đinh thành chế phục.
Ất mão bính tý kỷ mão đinh mão mừng có đinh bính hoá mất ba ất, đều chủ quý, riêng sự khắc hại thì cuối cùng vẫn không thể tránh khỏi.
Hoặc nói rằng: thất sát nhiều căn gốc, rất kỵ cả đời khắc hại. Cũng thông suốt.
Dương nhận cực hỉ thiên quan, tước bình họa loạn.
(Dương nhận rất thích thiên quan, trừ dẹp hoạ loạn).
Đây là cách dương nhận. Đại khái dương nhận kỵ tài, vì nhận phá tài, tài sanh sát và sát khắc thân. Cùng với hình xung tam hợp, lục hợp, mừng có sát chế phục. Nhưng mà sát tự chế lại đoán là hung xấu.
Kim thần chỉ nghi chế phục, giáng túc gian hùng.
(Kim thần chỉ nên chế phục, khuất phục kẻ có tài mà xảo trá).
Đây là cách kim thần. Đại khái kim thần, không sợ chế phục quá mức, chỉ kỵ phá chế phục với mất chế phục. Tuế vận giống nhau. Ngày giáp kỷ gặp ba giờ này, chỉ ngày giap gặp Chỉ ngày giáp gặp được mới là đúng cách.
Dương đức âm quý, vượng tắc vinh hiển, nhi nhược khả bảo danh.
(Dương đức và âm quý, vượng thì vinh hiển, còn nhược cũng có thể giữ được danh tiếng).
Dương đức là thiên đức, nguyệt đức cùng với nhật đức. Âm quý là thiên ất quý thần cùng với nhật quý cách. Yếu tuy không như mạnh, cũng có thể tự bảo vệ.
Thiên cương địa khôi, suy tắc bần hàn, nhi cường đương tuyệt thế.
(Thiên cương và địa khôi nếu suy sẽ nghèo hèn, còn cường mạnh nên một đời xuất chúng).
Tức là cách khôi cương. Thích cường mạnh ghét suy yếu, kỵ tài quan, phải cùng nhau khảo nghiệm.
Quan khố tài khố, xung khai tắc vinh phong tước lộc, tắc bế tắc bần phạp tư tài.
(Quan khố và tài khố được xung mở sẽ được phong tước lộc vinh quang, còn đóng kín sẽ nghèo không có tài sản).
Đây là cách tạp khì tài quan.
Như giáp thấy sửu thổ là quan khố, thấy thìn là tài khố, thấy mùi là khố của mình, thấy tuất là thực thần khố. Quan là trên hết, tài thì kế tiếp, thuỷ khố tiếp theo sau nửa. Nếu khố ở trong năm và tháng, quản việc quá sớm, khó phát khi còn tuổi trẻ. Thích ở dưới ngày cùng với trong trụ giờ, tuy phát muộn, nhưng không mất phúc lành của phú quý. Cần phải thấy xung hình phá hại, để mở khoá của cục, sợ có sao làm nghẽn lại.
Như đinh lấy thìn làm quan khố, hoặc chữ mậu tự lạm quyền, hoặc mậu thìn áp bức là làm cho bế tắc.
Như thế thì đinh không thể có quan, cần trong trụ có giáp tuất hoặc tuế gặp được mới tốt.
Thương quan chánh quan, thương tẫn tắc độc ác quyền cao, bán tàn tắc tất t*o kiển nan.
(Thương quan chánh quan, thương tổn tận cùng một mình nắm giữ quyền cao, phân nửa hung tàn sẽ gặp gian nan khó khăn).
Đây là cách thương quan. Bán tàn (phân nửa hung tàn) là nói thương tổn không dứt điểm.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: bốn trụ thương quan, vận vào đất quan, tức là phá vậy.
Nhật nguyệt đảo xung quan lộc, vô điền vô bán, nhi lộc mã phi lai.
(Ngày và thàng quay lại xung quan lộc, không điền thật không ngăn cản, nên lộc mã bay tới).
Đây là cách phi thiên lộc mã.
Thiên địa chế hợp sát thần, bất quá bất thất, nhi danh lợi sậu phát.
(Thiên can địa chi chế phục hay hợp sát thần, không quá mức không mất mát, nên danh lợi bỗng nhiên nổi lên).
Thiên địa chế hợp sát thần chính là thiên can địa chi, hoặc là thực thần chế sát, hoặc là dương nhận hợp sát. Nhưng chế hay hợp không nên thái quá, như một sát mà có hai thực thần hay hai dương nhận là thái quá nên mất vậy.
Thân sát lưỡng đình, chế hợp bất quá, sát nãi hung thần, cố chủ sậu phát.
(Thân và sát cả hai ổn thoả, chế hợp không quá mức, sát chính là hung thần, cho nên chủ bỗng nhiên nổi lên).
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: thiên quan chế phục quá mức chính là bần nho (học giả nghèo). Hiện mà không nên quá đáng vậy.
Duy quan ấn tối nghi tương hội, đức chánh gia phong.
(Chỉ quan và ấn rất nên gặp mặt nhau, tác phong cai trị càng tăng thêm).
Đây là cách quan ấn.
Như ngày giáp gặp tân là quan, lại có thêm quý là án, hoặc địa chi có các chữ dậu tý đều đúng.
Quan và ấn đối với bản thân, một khắc một sanh. Âm dương phối hợp nên lại thành sanh nhau vậy.
Cho nên chủ là tướng, có tài giúp vua, là tướng có sử dụng trí khôn vào toan tính.
Là người bảo vệ chủ tể nên noi theo cai trị lương thiện, cần phải có bản thân với ấn ngang bằng nhau, chính là quý cực phẩm vậy.
Không thì tuỳ theo cường độ tăng giảm, mức độ nghiêm trọng mà được bàn bạc.
Hữu lộc mã cực hỉ đồng cư, quan năng xưng chức.
(Có trường hợp lộc và mã rất thích ở chung một chỗ, quan có thể xứng đáng với chức vụ).
Đây là cách tài quan.
Như ngày giáp thấy các tháng kỷ sưu, kỷ dậu cùng với nhâm ngọ, quý tỵ, là lộc mã đồng cư. Cùng với thương quan và ấn gặp mặt nhau, đều là cách tam kỳ.
Bản thân cần phải có lực vượng, có thể gặp khí của giờ mới có thể xứng đáng với cách này.
Lộc và thân cướng nhược không bằng nhau, thì luận giáng xuống, nếu thân nhược khó được tuổi thọ.
Ấn thụ phùng sát tắc phát, phùng hợp tắc hối, phùng tài tắc tai. Phá hợp khứ tài diệc phát.
(Ấn thụ gặp sát sẽ phát, gặp hợp sẽ tối tăm, gặp tài sẽ là tai hoạ. Phá hợp hay bỏ tài cũng phát).
Đây là tổng luận ấn thụ hỷ kỵ.
Gặp sát, nghĩa là ấn nhờ sát sanh, công danh thành tựu, và có danh vọng vẻ vang.
Nếu gặp thiên tài hợp mất, chánh tài khắc mất, đều là chủ tai hoạ tối tăm.
Link đến bản tiếng Hoa:
明通赋二
喜忌篇云:时上偏财,别宫忌见。所以补《赋》未备之义也。
建禄坐禄,或归禄,遇财官、印绶,富贵长年。
建禄以月言,坐禄以日言,归禄以时言。
此三禄格本身健旺,独遇财则富,独遇官则贵,独进印则秀。以其干旺,又主长命,安享福禄。若三者兼有,亦妙。
如丁亥、己酉、壬午、辛亥,
是日禄归时,午中亦有官星,却得酉月,为印合格。
月刃、日刃及时刃,逢官煞荣神,功名盖世。
此三刃格,要官煞、印绶相制化。荣神,印绶异名。
有官煞无印,有煞无官,俱得。有印化煞尤佳,只怕羁绊。如有官不可见伤,有印不可见财,有煞不可见食伤压之。
或制去、合去,皆不成正格。
如壬申、壬子、戊午、乙卯,日刃有乙卯制伏。
如丙戌、癸巳、戊午、丁巳,日刃有印绶变化,故皆有。
月令专制七煞,身健鹰扬。
《喜忌篇》云:若乃时逢七煞,见之未必为凶。
月制干强,其煞反为权印。即解此义也。
一云:时上偏官通月气,主旺鹰扬。与此少异。)
运元生发三财,命强豹变。
运元月令也。三财禄命身也。此是日干背禄,即伤食格也。喜逢财星,如甲日逢巳午月,须干头透出戊字,丑戌未日时。日主健旺,行东方运,必然大发财禄,白手成家。
一云:月中正禄会财源,身强豹变。与此少异。)
年见正禄、正印、正财无破,必承祖荫传芳。
重在无破,有破不以此论。年为祖宗,故云云。
日坐真官、真贵、真印有成,号曰福神治世。
重在有成,有成即无破。真,即正义。若参之以偏,为所假借,非真正也。
如丙子、丁亥、辛巳、庚午、等日为真官。
丁酉、癸巳、癸卯、丁亥等日,为真贵。
甲子、乙亥等日,为真印,柱中无破,有助为福。
月内偏财,而无败无煞,富出人间。
此月令偏财格,与时上偏财大同。怕比劫相克,七煞泄气。
日下正马,而有助有生,名扬天下。
乃甲午、戊子等日。甲戌、乙丑等日则偏。
与日坐真贵格同论。
有助,是别支财。有生,是别支食伤。
身浅坐煞,运行身旺之乡,发财发福。
坐煞,乃甲申、乙酉等日。柱中无土为身清。
行寅卯运,大发财禄。
此格喜印绶,忌正官、食神。犯之非身清,下等命也。
独主临官,运至主贵之地,加职加封。
独主临官,乃丁巳、癸亥等日,又遇贵人冲官星为贵。
岁运逢巳亥重并者,倍加封职。
或以日遇官星,行运再遇官地为解,亦通。
食神生旺,无印绶刑冲,乃母食子禄。
此食神格也。如戊辰、丁巳、壬辰、甲辰,贵而且寿。
丁未、丙午、甲午、丙寅,
食神化作脱局,丁伤辛官,飞来不得,故贫夭。
主本临官,没官星煞败,为弟袭兄班。
乃丁巳、癸亥日,得寅戌月类也。无官煞、比肩、兄弟。
本身自旺,必得高长之班,兴家立业。何者?
丁之禄在午,癸之禄在子,癸亥为水正旺之乡,乃壬家之禄也。丁巳为火,临官之地,乃丙家之禄也。
得此格者,谓丁癸乃丙壬之弟,而巳亥为丙壬之禄位,故曰弟就兄班。必因兄有为,高兄一班。
又:丙午、壬子日亦是,纯粹尤贵。驳杂者,不入格。
若有兄弟比肩,干支驳杂,为兄星填实,便为下矣。
或官星填实,兄弟比肩争差,身无容处,又作凶断。
若官星不实、单露天干、虽分星擘禄,亦可再成。
倒食本宫临官旺,乃侍臣叨禄之名。
如庚子见戊子,岁月偏印,在我本宫之上,名倒食,乃我之君父也。
是偏印所坐,与日干同宫,临於官旺之地,则受我命,生我福气。
侍臣叨禄,言近君之宠也。如庚子、戊子、庚子、丙子,是此格也。
胎生元命无财星,为赤子承恩之宠。
此庚寅、辛卯、甲申、乙酉等日。
皆本主天元,自坐绝地,为胎生之宫,即胞胎格也。
其生甚微,所以喜印绶,怕财克。
主少年招受主恩,大概与印格书同论。
如乙酉、乙酉、乙酉、甲申,是此格也。
喜忌篇云,五行绝处,即是胎元,生日逢之,名曰受气。
岁月正官,七煞混淆人下贱。时日独强专制,职重权高。
月时七煞,正官杂乱病交侵。岁运冲开合去,官清名显。
犹嫌过制,最忌争强。
喜忌篇云:四柱纯煞有制,定居一品之尊。略见一位正官,官然混杂反贱。类有去官留煞,亦有去煞留官。
又云:四柱煞旺运纯,身旺为官清贵。
又云:月令虽近建禄,切忌会煞为凶。
官星七煞交差,却有合煞为贵,是也。
此二格,各有所主。
岁月正官,以官为主,嫌煞混之。
月时七煞,以煞为主,嫌官乱之。
时日独强,专制岁运,冲开合去,互文见义也。
过制则七煞不显,争强则难以去留,其理当细详之。
如壬子、甲辰、己卯、壬申,
月正官,日下卯为七煞,得申内庚金,合卯中乙木之煞为贵。
又如,张侍郎八字:乙日以庚为正官,申内庚金,近七月生,庚旺辛衰,六月丁火旺,为去煞留官。故贵。
又如:丙午、丙申、甲寅、丁卯,丙丁虽多,
不敌月令之煞,又行官旺运,身旺变鬼为官,故贵。
天元无气,却宜中下兴隆。
此印绶格也。如甲乙生於冬月,天元无气,地支有亥子水生木,为兴隆之类。又如丁亥、丁丑等日,丁火无气,又有壬癸来克,亥子得之为党,反能生出甲木,为地支兴隆。喜土来克财,丑中得之为财,亦利之类。
古人论中下,以日、时支言。
如日干月令无气,若所坐之支及时得地,亦为成实之命。
若无气,而日时又在衰败之乡,则终身偃蹇可知矣。
《喜忌篇》云:凡见天元太弱,内有弱处复生,是也)
年本偏官,须忌始终克害。
此岁德格也。如甲日逢庚申太岁,为年上偏官,一名元神,一名孤辰,其煞最重,终身不可除去,故主始终克害。
克害,非专指祖父六亲,本身亦在其中矣。
如丁巳、丁未、辛巳、壬辰,喜一壬合二丁为制。
乙卯、丙子、己卯、丁卯、喜丁丙化去三乙,皆主贵,但克害终不能免。
或云;七煞多根,切忌始终克害。亦通。
羊刃极喜偏官,削平祸乱。
此羊刃格也。大抵羊刃忌财,以刃破财,财生煞,煞克身。及刑冲三合、六合,喜煞制伏。而煞自制者,又作凶断。
金神只宜制伏,降肃奸雄。
此金神格也。大抵金神,不畏过制,只忌破制与失制。
岁运同。甲己日得此三时,惟甲日得之为正。
阳德阴贵,旺则荣显,而弱可保名。
阳德,天月二德及日德。阴贵,天乙贵神及日贵格也。
弱虽不如强,亦可自守。
天罡地魁,衰则贫寒,而强当绝世。
即魁罡格也。喜强恶衰,忌财官,要并踏。
官库财库,冲开则荣封爵禄,塞闭则贫乏资财。
此杂气财官格也。
如甲见丑为官库,见辰为财库,见未为本库,见戌为食库。官为上,财次之,水库又次之。若库在年月之中,管事太早,难发少年。喜在日下及时之中,虽晚发,不失为富贵造化。要见冲刑破害,以开局钥,怕有星闭塞。
如丁用辰为官库,或戊字僭之,或戊辰压之,是闭塞也。
如此,则丁不能官,须柱有甲戌或岁遇之,方吉。
伤官正官,伤尽则独握权高,半残则必遭蹇难。
此伤官格也。半残,言伤不尽。
《喜忌篇》云:四柱伤官,运入官乡,必破是也。
日月倒冲官禄,无填无绊,而禄马飞来。
此飞天禄马格也。
天地制合煞神,不过不失,而名利骤发。
天地制合煞神,乃天干地支,或是食神制煞,或是羊刃合煞。但制合不宜太过,如一煞二食二羊刃,则过而失也。
身煞两停,制合不过,煞乃凶神,故主骤发。
《喜忌篇》云:偏官制伏太过,乃是贫儒。见不可过也。
惟官印最宜相会,德政加封。
此官印格也。
如甲日得辛为官,又有癸为印,或地支有酉子字皆是。
官印於身,一克一生。阴阳配合,而又自相生焉。
故主为相,有王佐之才,为将有运筹之智。
为守宰者循良之政,要本身与官印相等,乃极品贵也。
否则,随力量升降,轻重言之。
有禄马极喜同居,官能称职。
此财官格也。
如甲日见己丑、己酉及壬午、癸巳等月之类,是禄马同居。与上官印相会,皆为三奇格也。
须要本身力旺,或遇时气可称此格。
禄身强弱不等,降下论之,身弱难寿。
印绶逢煞则发,逢合则晦,逢财则灾。破合去财亦发。
此总论印绶喜忌。
逢煞,谓之印赖煞生,功名显达。
若遇偏财合去,正财克去,皆主灾晦。
.
Thanked by 2 Members:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Lịch thông thắng |
Thiên Văn - Lịch Pháp - Coi Ngày Tốt Xấu | trongtri |
|
||
JD VANCE - Tân Phó Tổng Thống Hoa Kỳ |
Tử Vi | tutruongdado |
|
||
lá số tổng thống Ukraine ô. Zelensky |
Tử Vi | Ngu Yên |
|
||
Xem khoảnh khắc công bố kết quả đầu tiên trong cuộc đua giành chức tổng thống năm 2024 |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
|
|
Bài Diễn Văn Của Tổng Thống Joe Biden |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
||
Truy "long mạch" phát tích gia tộc tổng thống họ Dương |
Địa Lý Phong Thủy | 55555 |
|
1 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |