Jump to content

Advertisements




Bản dịch Hoàng Đế Nội Kinh - Tố Vấn


37 replies to this topic

#16 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 140 Bài viết:
  • 149 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 10/08/2024 - 11:34

歧伯曰:陰者,藏精而起亟也,陽者,衛外而為固也。
陰不勝其陽,則脈流薄疾,并乃狂。
陽不勝其陰,則五藏氣爭,九竅不通。
是以聖人陳陰陽,筋脈和同,骨髓堅固,氣血皆從。如是,則內外調和,邪不能害,耳目聰明,氣立如故。
Kỳ Bá viết: Âm giả, tàng tinh nhi khởi cấp dã, dương giả, vệ ngoại nhi vi cố dã.
Âm bất thắng kỳ dương, tắc mạch lưu bạc tật, bính nãi cuồng.
Dương bất thắng kỳ âm, tắc ngũ tạng khí tranh, cửu khiếu bất thông.
Thị dĩ thánh nhân trần âm dương, kinh mạch hòa đồng, cốt tủy kiên cố, khí huyết giai tòng. Như thị, tắc nội ngoại điều hòa, tà bất năng hại, nhĩ mục thông minh, khí lập như cố.
Kì Bá nói:
Âm khí là nơi tàng tinh để kíp khởi lên, dương khí là nơi bền giữ với bên ngoài.(1)
Âm không thể thắng dương, ắt mạch đi mỏng gấp, sẽ điên cuồng. (2)
Dương không thể thắng âm, ắt ngũ tạng tranh khí, chín khiếu chẳng thông.
Cho nên thánh nhân phân trần âm dương, kinh mạch hòa đồng, xương tủy kiên cố, khí huyết đều theo. Như vậy, tất trong ngoài điều hòa, tà chẳng thể hại, tai mắt thông sáng, khí tự bền giữ.

CHÚ GIẢI:
  • Trên nói về dương, dưới đây nói về âm, bởi âm dương là gốc của vũ trụ, con người là tiểu vũ trụ, cũng lấy đó làm căn bản.

藏精而起亟也 Tàng tinh nhi khởi cấp dã: dịch nghĩa đen là: “tàng chứa tinh hoa để kíp nổi lên”. Âm khí thường ngày tự tích tụ thu vào trong, đến khi có hàn tà xâm hại, nó sẽ ứng ra cản lại, vì vậy gọi là: KHỞI CẤP. Thầy Nguyễn Tử Siêu thì dịch thoát là: “Âm chủ về tàng tinh, mà thường bồng lên để ứng với bên ngoài ; Dương chủ về bảo vệ bên ngoài cho Âm được bền vững kín đáo”. Ý cả đoạn tức là: khí âm ẩn vào trong thân, khí dương phủ ra ngoài thân, vì âm phải ở trong, dương phải ở ngoài. Âm dương là hai chỗ căn bản để gìn giữ con người trước tà khí.

  • Thầy Nguyễn Tử Siêu chú giải như sau: “5 Tạng thuộc Âm, 9 khiếu là nơi cửa ngõ của thủy-khí. Nếu Âm thịnh mà Dương không thắng được, thời cái khí của 5 Tạng giao tranh ở bên trong, 9 khiếu do đó mà không thông. Bởi cái khí của 5 Tạng ra ngoài thời là Dương, ở trong thời là Âm. Tạng thuộc Âm, tinh huyết thuộc Âm ; khí thuộc Dương, 9 khiếu thuộc Dương, ở trong là Âm, ra ngoài là Dương. Năm Tạng chủ về tàng tinh. Bàng Quang là một cơ quan chứa tinh dịch. Cái khí Biểu-Dương do tinh-thủy từ Bàng-quang sinh ra. Cái khí ở cơ cấu lại do Nguyên-chân ở 5 Tạng. đó tức là Dương-khí được sinh ra bởi Âm-tinh. Nên mới nói rằng : -“ cái gốc của sinh mệnh con người là ở Âm-Dương…..”

Phong phạm vào khí, tinh sẽ mất ; nhân lại phạm vào cả CAN (2) . Nếu lại thêm sự ăn quá no, gân mạch tức thời sụt lỏng, đại-Trường nhiệt tích mà gây nên bịnhTRĨ (3). Hoặc vì uống quá nhiều thời khí nghịch, nếu lại quá dùng sức, THẬN sẽ bị thương do đó thành chứng đau ở CAO CỐT (4) .

Tóm lại, cái cốt yếu của Âm-Dương : “Dương có bền bĩ thời sinh mệnh mới vững vàng (5) .

  • Lenam098 trộm có một lý giải khác: 5 tạng ẩn vào trong, các sách đều cho rằng thuộc về âm, nhưng Tâm và Phế ở thượng tiêu là vị trí dương, Tâm hỏa là dương, Phế kim là âm (ngũ hành kim là âm, hỏa là dương), đó là dương ở trong dương, âm ở trong dương, vì tâm thuộc hỏa hướng chánh nam, nên tâm mới nằm ở giữa mà chỉ có 1 trái tim, Phế kim thuộc âm nên nó chia làm 2 bên, tâm là dương, phế là âm nên tâm nằm trước, phế nằm sau. Can Thận cũng theo lẽ đó. Nếu vậy ngũ tạng không hẳn là âm hoàn toàn! – xin xem chương: Kim quỹ chân ngôn luận có viết rõ.

Vậy điểm này có thể diễn giải theo 1 cách khác: khí thuộc về dương, nên khí nó ở bên ngoài, phế mới lấy nạp vào bên trong, phế vì vậy mới nằm ở thượng tiêu, vì khí thuộc dương, nên nằm trên đúng vị trí dương của nó.

Bởi khí thuộc về dương nên nó muốn nạp vào trong phải cân bằng với âm, nếu âm mạnh thắng dương, dương không thể vào được bên trong. Ngũ tạng có sinh có khắc, luôn ở thế chế ngự nhau để quân hòa, nay âm dương không cân bằng, phần dương không thể thắng âm, thế cân bằng đã mất, nên ngũ tạng vì vậy quay sang tranh đoạt. Khí huyết con người ta nhờ ngũ tạng quân hòa mới lưu thông, nay vì thế bế tắc, cửu khiếu là cửa ngõ khí huyết và tân dịch, khí huyết đều tắc tân dịch không thông, do đó mà cũng úng tắc lại.


Sửa bởi Lenam098: 10/08/2024 - 11:34


Thanked by 3 Members:

#17 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 140 Bài viết:
  • 149 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 11/08/2024 - 13:23

風客淫氣,精乃亡,邪傷肝也。因而飽食,筋脈橫解,腸澼為痔。因而大飲,則氣逆。因而強力,腎氣乃傷,高骨乃壞。
凡陰陽之要,陽密乃固,兩者不和,若春無秋,若冬無夏,因而和之,是謂聖度。
故陽強不能密,陰氣乃絕,陰平陽秘,精神乃治,陰陽離決,精氣乃絕。
Phong khách dâm khí, tinh nãi vong, tà thương can dã. Nhân nhi bão thực, cân mạch hoành giải, tràng phích vi trĩ. Nhân nhi đại ẩm, tắc khí nghịch. Nhân nhi cường lực, thận khí nãi thương, cao cốt nãi hoại.
Phàm âm dương chi yếu, dương mật nãi cố, lưỡng giả bất hòa, nhược xuân vô thu, nhược đông vô hạ, nhân nhi hòa chi, thị vị thánh độ.
Cố dương cường bất năng mật, âm khí nãi tuyệt, âm bình dương bí, tinh thần nãi trị, âm dương ly quyết, tinh khí nãi tuyệt.
Phong phạm quá độ, tinh sẽ tiêu, tà hại đến Can (1). Nhân khi ăn nhiều, gân mạch chùng ngang, ruột phều thành trĩ. (2) Nhân khi uống lắm, tất khí nghịch. Nhân khi gắng sức, thận khí bị thương, CAO CỐT sẽ hoại. (2)
Phàm cốt yếu âm dương, dương phải giữ kín, cả hai bất hòa, tựa xuân không thu, như đông không hè, nhân đó hòa hợp, là lẽ bực thánh.
Nếu dương mạnh mà không kín, âm khí sẽ tuyệt, âm bình dương kín, tinh thần sẽ trị, âm dương tách rời, tinh khí sẽ tuyệt.


CHÚ GIẢI:
  • khí thuộc dương, nó phạm phần dương khí thì dương khí không còn bền vững kín đáo, âm khí khi đó ứng ra cản lại, dần âm tinh tổn mất, nên Kì Bá mới tổng kết bằng câu: “故陽強不能密,陰氣乃絕,陰平陽秘,精神乃治,陰陽離決,精氣乃絕 - Nếu dương mạnh mà không kín, âm khí sẽ tuyệt, âm bình dương kín, tinh thần sẽ trị, âm dương tách rời, tinh khí sẽ tuyệt” ở cuối đoạn vậy.
  • Phong là chủ khí mùa Xuân, Xuân thuộc Mộc, mộc động thì sinh phong, Can cũng là Mộc, nên nó với phong khí bên ngoài là đồng khí, khí ngoài là khách, khí Can ở trong là chủ, đồng khí tương cầu thì khi vào người nó tìm đến phạm vào đấy.

Can tàng huyết, nếu nó bị phong khí phạm phải, thì huyết sẽ bị thương. Khí vốn không còn bền vững kín đáo, huyết lại bị thương, như vậy khí huyết đều tổn. Can chủ về gân cốt, nếu khi bệnh như vậy mà lại ăn nhiều, thì Tỳ sinh huyết dồn đến Can, Can bệnh không thể tán bố huyết ấy vào gân mạch, khiến gân mạch sụt lỏng, thực khí thì đình trệ ở Đại Tràng, gây nên thấp nhiệt mà thành ra bệnh Trĩ. Chữ 腸 tràng tức là Đại Tràng vậy.

  • Cao Cốt tức phần xương ngang lưng. Thận thuộc thủy, chủ về cốt tủy. Uống nhiều thì Thận phải bài tiết, thủy nó vào nơi Thận và Bàng Quang, uống quá nhiều ăn quá mặn hại đến Thận. Nước uống vào vị dẫn lên Phế rồi xuống nạp ở Thận. Phế bị thương về khí nên khí nghịch. Thận hư không thể nạp khí, tuyên giáng không còn thông suốt.

Nhân khi lao động quá sức, Thận khí sẽ bị thương khiến đau chỗ Cao Cốt ở ngang lưng.


Sửa bởi Lenam098: 11/08/2024 - 13:25


Thanked by 4 Members:

#18 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 140 Bài viết:
  • 149 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 17/08/2024 - 12:31

因於露風,乃生寒熱。
是以春傷於風,邪氣留連,乃為洞泄。
夏傷於暑,秋為痎瘧。
秋傷於濕,上逆而欬,發為痿厥。
冬傷於寒,春必溫病。
四時之氣,更傷五藏。
Nhân ư lộ phong, nãi sinh hàn nhiệt.
Thị dĩ xuân thương ư phong, tà khí lưu liên, nãi vi Động Tiết.
Hạ thương ư thử, thu vi Giai Ngược.
Thu thương ư thấp, thượng nghịch nhi khái, phát vi Nuy Quyết.
Đông thương ư hàn, xuân tất ôn bệnh.
Tứ thời chi khí, canh thương ngũ tạng.
Vì ra gió sương, bệnh sinh hàn nhiệt (1)
Thế nên Xuân bị trúng phong, tà khí luyến lưu, bèn sinh tả lị. (2)
Hạ bị trúng thử, thu thành sốt rét. (3)
Thu bị trúng thấp, nghịch lên ho khan, phát ra Nuy Quyết. (4)
Đông bị trúng hàn, xuân ắt bệnh nóng (5)
Khí của bốn mùa, đau đến năm tạng.

CHÚ GIẢI:
  • Sương móc (thủy) thuộc âm, gió (khí) thuộc dương, trúng vào thì bệnh phát ra hoặc thuộc chứng hàn (âm) hoặc nhiệt (dương).
  • Bệnh tả lị gọi tên là Động Tiết 洞泄, mùa Xuân phong khí làm chủ, thuộc về dương, nó gây bệnh trước ở thượng tiêu bên trên thân mình, sau nó di xuống hạ tiêu ở bên dưới, thành chứng Động Tiết tức là ỉa chảy.
  • Mùa Hạ trúng thử nhiệt, mồ hôi chảy ra thì thử nhiệt theo ra, nếu mồ hôi không chảy được, thử nhiệt không giải, đợi đến Thu dương khí ẩn vào trong, âm khí phát ra đều chạm phải thử nhiệt, thành chứng Phong Ngược.
  • Mùa Thu thấp khí làm chủ, thấp thuộc thủy là âm, âm tìm đến âm trước nên bệnh trước hiện ra ở bên dưới hạ tiêu, sau nó lại đi lên thượng tiêu, Phế cảm nhiễm thấp khí, chức năng tuyên giáng vít tắc, khí nó nghịch lên thành chứng ho khan (khái là ho khan, thấu là ho có đờm dãi). Đó là lẽ âm dương trao đổi nhau vậy: mùa Xuân bệnh ở trên rồi quay xuống dưới, mùa Thu bệnh ở dưới rồi quay lên trên.
  • Đông hàn khí làm chủ, trúng phải hàn khí sao lại thành bệnh ôn nhiệt? Bởi vì mùa Đông là thu tàng! Thiên khí điều tiết theo lẽ tự nhiên, mùa Xuân ở bộ phận trên, mùa Hạ phát ra bên ngoài, mùa Thu ẩn vào bên trong, mùa Đông bế tàng ở bên dưới. Hàn tà gốc vốn là khí bên ngoài, phạm vào cơ thể mùa Đông nó ẩn nấp chờ đợi, đến sang Xuân chủ về khí thì nó theo khí thuộc dương, phát ra hóa thành nhiệt chứng mà gây bệnh ở đường hô hấp trên.

Đoạn này dẫn từ khí mùa Xuân là phong sinh bệnh tả lị, Hạ khí là thử sinh bệnh Phong Ngược (sốt rét), Thu khí là thấp nghịch thành ho khan, phát ra chứng Nuy Quyết, Đông khí là hàn ngấm đến sang Xuân gây bệnh ôn nhiệt. Nên tổng kết bằng câu: 四時之氣,更傷五藏 Tứ thời chi khí, canh thương ngũ tạng tức là khí bốn mùa mỗi thời đều có thể làm bị thương đến ngũ tạng.



Thanked by 2 Members:

#19 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 140 Bài viết:
  • 149 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 18/08/2024 - 21:06

陰之所生,本在五味,陰之五宮,傷在五味。
  是故味過於酸,肝氣以津,脾氣乃絕。
  味過於鹹,大骨氣勞,短肌,心氣抑。
  味過於甘,心氣喘滿,色黑腎氣不衡。
  味過於苦,脾氣不濡,胃氣乃厚。
  味過於辛,筋脈沮弛,精神乃央,
是故謹和五味,骨正筋柔,氣血以流,湊理以密,如是,則骨氣以精,謹道如法,長有天命。

Âm chi sở sinh, bổn tại ngũ vị, âm chi ngũ cung, thương tại ngũ vị.
  thị cố vị quá ư toan, can khí dĩ tân, tỳ khí nãi tuyệt.
  vị quá ư hàm, đại cốt khí lao, sút cơ, tâm khí ức.
  vị quá ư cam, tâm khí suyễn mãn, sắc hắc thận khí bất hành.
  vị quá ư khổ, tỳ khí bất nhu, vị khí nãi hậu.
  vị quá ư tân, cân mạch thư thỉ, tinh thần nãi ương
Thị cố cẩn hòa ngũ vị, cốt chính cân nhu, khí huyết dĩ lưu, tấu lý dĩ mật, như thị, tắc cốt khí dĩ tinh, cẩn đạo như pháp, trường hữu thiên mệnh.
Nơi sinh của âm, gốc ở ngũ vị, âm của năm cung (1), bệnh ở ngũ vị.
Thế nên vị quá ư chua, Can khí sẽ đẫm, Tỳ khí sẽ tuyệt. (2)
Vị quá ư mặn, xương lớn hư lao, đoản cơ, tâm khí đè nén. (3)
Vị quá ư ngọt, tâm khí đầy suyễn, da đen, Thận khí không thông. (4)
Vị quá ư đắng, Tỳ khí kém nhu, Vị khí không lớn. (5)
Vị quá ư cay, gân mạch chùng mỏi, tinh thần ương lửng. (6)
Cho nên cẩn hòa năm vị, xương thẳng gân mềm, khí huyết lưu chảy, tấu lý được kín; như vậy, tất cốt khí mới tinh, cẩn giữ như phép ấy, tuổi trời được lâu dài.

CHÚ THÍCH:
  • Năm cung (五宮)ở đây không phải nghĩa ngũ cung gồm: cung, thương, giốc, chủy, vũ, cung ở đây chỉ chỗ ở, tức là ngũ tạng. Ý câu này nói ngũ vị ứng với ngũ tạng, ngũ vị có thể sinh ngũ tạng, cũng có thể hại ngũ tạng, ví như ăn mặn thì vào Thận, mà mặn quá thì hại Thận, ăn chua quá thì hại Can và Tỳ.
  • Can thuộc Mộc, Tỳ thuộc Thổ, Mộc nó khắc Thổ, nên mộc thịnh thì thổ bị thương, mộc đến cực đỉnh thì thổ sẽ tuyệt, ví như chậu cây nhiều mà đất ít vậy. Vị Toan (chua) vào Gan, nếu chua quá thời Can nhiều tân dịch nên đẫm ướt ; Can đã bị đẫm ướt thì Tỳ không chuyển tinh hoa vào được, vì Can là nơi tàng chứa huyết.
  • Đại Cốt là hành phủ của Thận, ăn mặn vào Thận, mặn quá thì hại Thận, Thận chủ về xương cốt nên Đại Cốt theo đó bị thương. Bình thường Thổ nó khắc Thủy, nhưng Thận khí tràn đầy thì Thủy nó quá vượng mà khắc ngược lại Thổ (phản khắc, ví như lũ tràn lên đất vậy), Tỳ thuộc Thổ, nên Thổ suy thì Tỳ hư, Tỳ chủ về cơ thịt, nên sẽ gầy yếu (đoản cơ). Thận và Tâm là nơi thủy hỏa vừa tương giao vừa chế ngự nhau, Thủy nó vốn khắc Hỏa, Thủy quá vượng thì hỏa không thể lớn nổi, ví như dưới mưa không thể nhóm lửa được, cho nên mới nói Tâm khí bị đè nén là vậy.
  • Ngọt thì vào Tỳ, ngọt quá thì Tỳ khí tràn lấp, Thổ khí bốn mùa vốn không thiếu, nay lại quá tràn đầy, thì nó đến khắc Thận thủy, Thận khí không thể lưu thông nổi, Thận bị thương nên sắc đen mới hiện ra ngoài khiến da sạm đi. Tâm và Thận vốn tương giao, chế ngự nhau, nay thế quân bình bỗng mất, Thổ lại quá tràn lấp, Tâm hỏa bình thường đổ về sinh Thổ, nay Thổ đã tràn trề không thể về được cho nên mới nói là Tâm khí đầy suyễn.
  • Đường “LẠC” của Dương-Minh thuộc Tâm, cái khí của “tử-mẫu” cùng giao thông liên lạc với nhau. Năm vị vào Vị, vị đắng dẫn lên Tâm trước. Vậy nếu quá đắng thời mẫu-khí thịnh (Tâm) và Vị sẽ cường. Vị cường thời cùng với Tỳ-âm không liên lạc nữa. Do đó Tỳ không chuyển du tân-dịch cho Vị, mất cái năng lực thấm nhuần, Vị-khí sẽ thành quá hậu (hậu : là tà khí hữu dư – có thừa) – Nguyễn Tử Siêu.
  • Kim khắc Mộc, kim thịnh thì mộc bị thương nặng, Can thuộc mộc, chủ về gân mạch nên Can khí bị thương thì gân mạch chùng mỏi, Can nó chủ về mưu lự, Can hư yếu thì tinh thần ương lửng không thể trù tính được gì.


Thanked by 2 Members:

#20 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 140 Bài viết:
  • 149 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 20/08/2024 - 13:06

金匱真言論篇第四
Thiên thứ tư:
KIM QUỸ CHÂN NGÔN LUẬN.

KINH VĂN ________________________________________________________________________

黃帝問曰:天有八風,經有五風,何謂。歧伯對曰:八風發邪,以為經風,觸五藏,邪氣發病。所謂得四時之勝者,春勝長夏,長夏勝冬,冬勝夏,夏勝秋,秋勝春,所謂四時之勝也。
Hoàng đế vấn viết: thiên hữu bát phong, kinh hữu ngũ phong, hà vị. Kỳ bá đối viết: bát phong phát tà, dĩ vi kinh phong, xúc ngũ tạng, tà khí phát bệnh. Sở vị đắc tứ thì chi thắng giả, xuân thắng trưởng hạ, trưởng hạ thắng đông, đông thắng hạ, hạ thắng thu, thu thắng xuân, sở vị tứ thì chi thắng dã.
Hoàng Đế hỏi rằng: Trời có tám gió, kinh có năm khí, tại sao? Kỳ Bá đáp rằng: tám khí phát tà, sẽ vào kinh khí, phạm ngũ tạng, tà phát thành bệnh. Cho nên sở thắng của bốn mùa là: xuân thắng trưởng hạ, trưởng hạ thắng đông, đông thắng hạ, hạ thắng thu, thu thắng xuân, sở thắng bốn mùa là như vậy.

CHÚ THÍCH:
Trưởng hạ nằm về tháng 6, thuộc Mùi Thổ (tháng Năm là Ngọ hỏa, tháng 6 là Mùi Thổ). Ở đây Kỳ Bá xét về vòng trường sinh của ngũ hành:
  • Mùa Xuân mộc thịnh, mộc nó khắc thổ (Trưởng hạ), nay mộc lại thịnh thì thổ không cách gì kháng lại nữa, đó gọi là sở thắng.
  • Trưởng hạ thổ khí thịnh nên có thể thắng đông, vì thổ khắc thủy,
  • Đông thủy khí thịnh nên thắng hạ, vì hạ thuộc hỏa, đó là lấy thủy khắc hỏa,
  • Hạ hỏa khí thịnh nên thắng thu, vì hỏa khắc kim,
  • Thu kim khí thịnh nên thắng xuân, vì kim khắc mộc.
Hiểu nghĩa đen là như vậy.
Còn nếu xét nghĩa rộng, liên hệ với các đoạn ở trên, nhất là thiên Tứ khí điều thần luận, thì có nghĩa là mùa xuân nên dưỡng khí xuân, để mộc khí thịnh, mộc thịnh thì mới sinh hỏa, đó là ở mùa xuân chuẩn bị cho mùa hạ, mùa hạ chuẩn bị cho trưởng hạ (hỏa sinh thổ), trưởng hạ chuẩn bị cho mùa thu (thổ sinh kim), mùa thu chuẩn bị cho đông (kim sinh thủy), mùa đông chuẩn bị cho mùa xuân (thủy sinh mộc).

Bát phong: trời đất có 8 hướng, ứng với hướng bát quái, phong khí tám hướng đều hòa liên tục, đó là sự lưu thông tự nhiên, nếu phạm vào người thì trước tiên nó chạm bì mao, bị vệ khí cản át, nếu vệ khí suy yếu, nó sẽ xuyên qua tấu lý mà đi thẳng tới kinh lạc, thành ra kinh phong, xâm phạm đến ngũ tạng. Bởi vì ngũ tạng ứng với năm khí ngũ hành, nên tà khí nhân ở đâu mạnh yếu thời nó đến đó hại, sanh ra thành bệnh, tính nó biến hóa theo ngũ hành, nên nói trời có 8 khí, kinh có 5 là như vậy.

Nên khí trời đất tám phương điều hòa, còn con người thì có điều hòa theo hay không, là do do ăn uống và dưỡng sinh điều độ, nếu trái lại, thì không hòa với trời đất, thiên khí đang điều hòa phạm vào trái với khí ở ngũ tạng thì sinh ra bệnh, cách biến hóa của nó vô vàn.
Ví dụ mùa xuân thuộc mộc, mộc khí thịnh thì kim suy bại, dễ mắc bệnh về phế tạng (hô hấp), đó là nói về lúc khí ngũ tạng của người không hòa hợp khí trời. Còn về khí trời, mùa xuân mộc khí đang vượng, nếu phế khí suy, hỏa nó đến hình khắc, nhân khi mộc khí của bên ngoài hưng thịnh thì càng được nuôi lớn, xâm thẳng vào hại cho Phế, thành bệnh nhiệt chứng ôn dịch, nhanh như giặc cướp, chuyển nặng mà mau lẹ khó chữa, đó là vì giặc mạnh mà ta yếu vậy (cho nên chúng ta hay thấy các kì dịch COVID, SARS đều phát vào cuối Đông - đầu Xuân). Hoặc khi thời tiết bất cập, gió mưa bất thường, thì phong khí phạm vào cũng gây thành bệnh, ta phải củng cố để phòng bị. Cho nên nói cái sở thắng của bốn mùa ở đây là dưỡng sinh để chính khí thịnh mà khắc được tà khí vậy.

Sửa bởi Lenam098: 20/08/2024 - 13:09


Thanked by 2 Members:

#21 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 140 Bài viết:
  • 149 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 22/08/2024 - 13:13

東風生於春,病在肝,俞在頸項;南風生於夏,病在心,俞在胸脇;西風生於秋,病在肺,俞在肩背;北風生於冬,病在腎,俞在腰股;中央為土,病在脾;俞在脊。故春氣者病在頭,夏氣者病在藏,秋氣者病在肩背,冬氣者病在四支。
故春善病鼽衄,仲夏善病胸脇,長夏善病洞泄寒中,秋善病風瘧,冬善病痺厥。
故冬不按蹻,春不鼽衄,春不病頸項,仲夏不病胸脇,長夏不病洞泄寒中,秋不病風瘧,冬不病痺厥飱泄,而汗出也。
夫精者身之本也,故藏於精者春不病溫。夏暑汗不出者,秋成風瘧。此平人脈法也。
Đông phong sinh ư xuân, bệnh tại can, du tại cảnh hạng; nam phong sinh ư hạ, bệnh tại tâm, du tại hung hiếp; tây phong sinh ư thu, bệnh tại phế, du tại kiên bối; bắc phong sinh ư đông, bệnh tại thận, du tại yêu cổ; trung ương vi thổ, bệnh tại tỳ; du tại tích. Cố xuân khí giả bệnh tại đầu, hạ khí giả bệnh tại tạng, thu khí giả bệnh tại kiên bối, đông khí giả bệnh tại tứ chi.
Cố xuân thiện bệnh cừu nục, trọng hạ thiện bệnh hung hiếp, trưởng hạ thiện bệnh động tiết hàn trung, thu thiện bệnh phong ngược, đông thiện bệnh tý quyết.
Cố đông bất án kiểu, xuân bất cừu nục, xuân bất bệnh cảnh hạng, trọng hạ bất bệnh hung hiếp, trưởng hạ bất bệnh động tiết hàn trung, thu bất bệnh phong ngược, đông bất bệnh tý quyết san tiết, nhi hãn xuất dã.
Phu tinh giả thân chi bản dã, cố tàng ư tinh giả xuân bất bệnh ôn. Hạ thử hãn bất xuất giả, thu thành phong ngược. Thử bình nhân mạch pháp dã.
Gió Đông sinh vào Xuân, bệnh ở Can, rút vào cổ gáy; gió nam sinh vào Hạ, bệnh ở tâm, rút vào sườn ngực; gió tây sinh vào Thu, bệnh ở phế, rút vào vai lưng, gió bấc sinh mùa Đông, bệnh tại Thận, rút vào eo cổ; Trung ương là thổ, bệnh tại Tỳ, rút vào tích (xương sống) (*). Nên khí Xuân thì bệnh ở đầu, khí hạ gây bệnh ở tạng, khí thu gây bệnh ở vai lưng, khí đông gây bệnh ở tứ chi.
Nên Xuân dễ bệnh máu mũi, giữa Hạ dễ bệnh sườn ngực, trưởng Hạ dễ bệnh Động Tiết-Hàn Trung, Thu dễ bệnh Phong Ngược, Đông dễ bệnh Tê Quyết.
Nên Đông không ấn [huyệt] chân, Xuân không máu mũi; Xuân không bệnh cổ gáy, giữa hạ không bệnh sườn ngực, trưởng Hạ không bệnh Động Tiết-Hàn Trung, Thu không bệnh Phong Ngược, Đông không bệnh Tê Quyết – Sôn Tiết, làm mồ hôi chảy.
Người lấy tinh làm gốc của thân, nên tàng tinh Xuân không bệnh ôn dịch. Hạ nóng không đổ mồ hôi, thu thành Phong Ngược. Đó là phép mạch của người thường vậy!

CHÚ THÍCH:
Ở đây phân biệt giữa Hạ và Trưởng hạ, giữa hạ (nguyên văn là 仲夏 trọng hạ), tức giữa mùa hè, tiết Hạ chí, thuộc tháng 5 Ngọ hỏa, Trưởng hạ nằm về tháng 6, tức Mùi thổ.
Câu 故冬不按蹻 Cố đông bất án kiểu , nghĩa đen vốn là Nên mùa Đông không ấn day vùng chân, chữ 按蹻 án kiểu vừa có nghĩa là “day ấn vùng chân”, vừa có thể hiểu nghĩa là” không nhấc chân cao quá”, vấn đề này nhiều tài liệu Trung văn và Việt Nam cũng chưa thống nhất, đa số các tài liệu tiếng Trung đều hiểu là không day ấn hay động mạnh gì tới vùng chân và các kinh huyệt thuộc Thận và Bàng Quang. Thầy Nguyễn Tử Siêu thì dịch đơn giản là: “Cho nên về mùa đông, nếu biết giữ gìn cẩn thận, không để cho Dương khí quá háo tán ra ngoài, thời sang Xuân sẽ không bị các chứng như Tỵ-nục và bịnh ở Cảnh-hạng”. Có lẽ vì đoạn này khó dịch, nên chỉ hiểu là: mùa Đông thuộc Thận, chủ về bế tàng, nên chớ có hoạt động năng nổ gì quá mức ở vùng Thận – Bàng Quang và phạm các đường kinh lạc ở chân.

(*) Bệnh Tích trong Hải Thượng Y tông tâm lĩnh, chương mở đầu có ghi như sau: “Bệnh tích do tỳ gọi là chứng “Bĩ Khí”. Tích ở vị quản hoặc bụng bên phải to như cái chén úp là tích khí ở trong, không phải thực có hình. Phàm những bệnh do tỳ hư thì nằm mộng thấy ăn uống, thấy nhận của người ta cho mình hay đem vật gì cho người khác..”.

Thanked by 2 Members:

#22 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 140 Bài viết:
  • 149 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 23/08/2024 - 08:57

故曰:陰中有陰,陽中有陽。平旦至日中,天之陽,陽中之陽也;日中至黃昏,天之陽,陽中之陰也;合夜至雞鳴,天之陰,陰中之陰也;雞鳴至平旦,天之陰,陰中之陽也。
故人亦應之。夫言人之陰陽,則外為陽,內為陰。言人身之陰陽,則背為陽,腹為陰。言人身之藏府中陰陽,則藏者為陰,府者為陽。肝心脾肺腎五藏,皆為陰。膽胃大腸小腸膀胱三焦六府,皆為陽。
所以欲知陰中之陰,陽中之陽者何也。為冬病在陰,夏病在陽,春病在陰,秋病在陽,皆視其所在,為施鍼石也。故背為陽,陽中之陽,心也;背為陽,陽中之陰,肺也;腹為陰,陰中之陰,腎也;腹為陰,陰中之陽,肝也;腹為陰,陰中之至陰,脾也。此皆陰陽錶裏內外雌雄相輸應也,故以應天之陰陽也
Cố viết: âm trung hữu âm, dương trung hữu dương. Bình đán chí nhật trung, thiên chi dương, dương trung chi dương dã; nhật trung chí hoàng hôn, thiên chi dương, dương trung chi âm dã; hợp dạ chí kê minh, thiên chi âm, âm trung chi âm dã; kê minh chí bình đán, thiên chi âm, âm trung chi dương dã.
Cố nhân diệc ưng chi. Phu ngôn nhân chi âm dương, tắc ngoại vy dương, nội vy âm. Ngôn nhân thân chi âm dương, tắc bối vy dương, phúc vy âm. Ngôn nhân thân chi tạng phủ trung âm dương, tắc tạng giả vy âm, phủ giả vy dương. Can tâm tỳ phế thận ngũ tạng, giai vy âm. Đảm vị đại trường tiểu trường bàng quang tam tiêu lục phủ, giai vy dương.
Sở dĩ dục tri âm trung chi âm, dương trung chi dương giả hà dã. Vy đông bệnh tại âm, hạ bệnh tại dương, xuân bệnh tại âm, thu bệnh tại dương, giai thị kỳ sở tại, vy thi châm thạch dã. Cố bối vy dương, dương trung chi dương, tâm dã; bối vy dương, dương trung chi âm, phế dã; phúc vy âm, âm trung chi âm, thận dã; phúc vy âm, âm trung chi dương, can dã; phúc vy âm, âm trung chi chí âm, tỳ dã.
Thử giai âm dương biểu lý nội ngoại thư hùng tương thâu ứng dã, cố dĩ ứng thiên chi âm dương dã.
Nên nói: trong âm có âm, trong dương có dương. Sáng sớm đến giữa trưa, khoảng thuộc dương, là dương ở trong dương; giữa trưa đến hoàng hôn, khoảng thuộc dương, là âm ở trong dương; sập tối đến gà gáy, khoảng thuộc âm, là âm ở trong âm; gà gáy đến sáng sớm, khoảng thuộc âm, là dương ở trong âm (1).
Nên người cũng như thế. Nói âm dương của người, ắt ngoài là dương, trong là âm. Nói âm dương của thân người, ắt lưng là dương, bụng là âm. Nói âm dương của tạng phủ trong thân người, tất tạng đó là âm, phủ đó là dương. Ngũ tạng Can Tâm Tỳ Phế Thận, đều là âm. Lục phủ Đởm, Vị, Đại Trường, Tiểu Trường, Bàng Quang, Tam Tiêu, đều là dương.
Sở dĩ muốn biết âm ở trong âm, dương ở trong dương là vì sao? Vì Đông bệnh tại âm, Hạ bệnh tại dương, Xuân bệnh tại âm, Thu bệnh tại dương, đều thấy nó ở đâu, thì dùng châm thạch đó (2). Vì cớ lưng là dương, dương ở trong dương là Tâm; lưng thuộc dương, âm ở trong dương, là Phế; Bụng thuộc âm, âm ở trong âm là Thận,; bụng thuộc âm, dương ở trong âm là Can; bụng thuộc âm, chí âm ở trong âm, là Tỳ (3) .
Đó đều là âm dương, biểu lý, trong ngoài, trống mái ứng chuyển nhau vậy, vì cùng theo âm dương đạo trời ru.

CHÚ THÍCH:
  • Vấn đề này giải thích như sau: Lấy ban ngày là dương, ban đêm là âm.
Lại đếm từ Tý đến Hợi 12 địa chi thì có 6 giờ đầu là dương (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ), 6 giờ sau là âm (Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi).
  • Giờ Tý bắt đầu ngày mới, dương khởi, giờ Ngọ dương cực thịnh.
  • Dương cực tất suy, sau giờ Ngọ thì là giờ âm.
Như vậy giờ dương mà trời còn tối gọi là dương trong âm, giờ dương trời đã sáng gọi là dương trong dương, giờ âm trời còn sáng gọi là âm trong dương, giờ âm trời đã tối (gà gáy) gọi là âm trong âm.
  • Nói gà gáy là vì giờ Dần không giống đồng hồ 24 giờ của phương Tây, đây là điểm ít người để ý. Do Trái Đất di chuyển trên mặt phẳng Hoàng Đạo và độ nghiêng đối ứng với Mặt Trời theo mùa ở từng vị trí không như nhau, nên giờ sáng tối từng tháng không giống nhau hoàn toàn. Vì vậy cổ thư dùng tiếng gà gáy để làm điểm mốc chứ không cắm giờ cố định là như thế.
Thực tế giờ bắt đầu âm dương tương ứng với thời gian của năm và của tạng phủ (đều khởi từ giờ Dần, tháng Dần), đó là thuyết “Đề xuất hồ Chấn”, vũ trụ sinh thành theo số Hà Đồ, sau khi thành hình thì vận hành theo số Lạc Thư. Con người cũng như thế, khi sinh ra sẽ hình thành tạng phủ theo số Hà Đồ, sau khi thôi nôi tròn 354 ngày thì tạng phủ thành hình, bắt đầu vận hành theo số Lạc Thư. Đây là chỗ ít có sách vở nhắc đến.
  • Phần này giải thích sự tương ứng vì sao phải biết âm dương, bởi vì phân biệt âm dương mới chiếu theo được bát cương (biết bệnh ở phần âm hay dương, biểu hay lý, hàn hay nhiệt, hư hay thực). Cho dù chẩn đoán thế nào, trước nên khảo sát tứ thời xem mùa Xuân hay Hạ, Thu, Đông, bệnh ở phần lưng hay ngực bụng, ở phủ hay tạng mà đối chiếu như đoạn kinh văn đã nói, thì chẩn bệnh có thể dễ xác nhận căn cứ và biết đúng sai rõ ràng rành mạch hơn nhiều. Kế đến giải thích bệnh ở tạng thì ắt là âm, ở phủ ắt là dương, bệnh ở Tâm là dương trong dương, ở Phế là âm trong dươn .v.v.
  • Xuân thuộc mộc, ngũ hành thuộc dương, sao lại bệnh ở âm? Thu thuộc Kim là hành âm, sao lại bệnh ở dương? Tại sao nói ngũ tạng là âm, phủ là dương, nhưng lại nói Tâm là dương trong dương, Phế là âm trong dương …?.
Vấn đề này lâu nay chưa có quan điểm thống nhất.
Đa số học giả đều chỉ nói rằng: tạng phải là âm, phủ phải là dương.
Tuy nhiên thiết nghĩ âm dương là tương đối, ngay cả nếu xét trong đoạn kinh văn phủ thuộc âm, bởi vì so với tạng thì tạng bên ngoài phủ bên trong. Nhưng nếu ứng chiếu giữa tạng với tạng, thì:
Tạng ở thượng tiêu tất nhiên là chỗ phần dương, ở hạ tiêu tất nhiên ở phần âm.
Tâm thuộc hỏa, là dương, lại nằm ở chỗ dương, nên là dương trong dương,
Phế thuộc kim, là âm, nhưng nó nằm ở chỗ dương, nên là âm trong dương. Can Thận cũng xét như vậy.
Đó là xét theo ngũ hành. Ta lại đối chiếu với kinh văn, thì đoạn này giải thích liền nghĩa với đoạn trước, ý nói rằng: Đông bệnh ở âm, vì Đông thuộc thủy, ứng với tạng Thận, Thận là âm trong âm, nên Đông bệnh tại âm là vậy. Hạ bệnh tại dương, vì Hạ thuộc hỏa, ứng với tạng Tâm, là dương trong dương, nên bệnh ở dương, Xuân bệnh tại âm, vì Xuân thuộc Can, mà Can là dương trong âm, bệnh ở Can tất nhiên nằm ở hạ tiêu thuộc âm. Thu bệnh tại Dương, vì Thu thuộc kim, tạng Phế, mà Phế ở thượng tiêu nên bệnh ở phần dương.
Vì thế, nên vấn đề âm dương xác định ra sao là một điểm rất quan trọng theo bát pháp, chắc sau này khi xét đoán cần đối chiếu tính tương đối thì có lẽ tốt hơn chỉ đơn thuần khẳng định bệnh ở phủ chắc chắn là dương và ở tạng chắc chắn phải là âm.

Thanked by 2 Members:

#23 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 140 Bài viết:
  • 149 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 24/08/2024 - 11:21

帝曰:五藏應四時,各有收受乎,歧伯曰:有。東方青色,入通於肝,開竅於目,藏精於肝,其病發驚駭,其味酸,其類草木,其畜雞,其穀麥,其應四時,上為歲星,是以春氣在頭也,其音角,其數八,是以知病之在筋也,其臭臊。
Đế viết: ngũ tạng ưng tứ thì, các hữu thu thâu hồ, Kỳ Bá viết: hữu. Đông phương thanh sắc, nhập thông ư can, khai khiếu ư mục, tàng tinh ư can, kỳ bệnh phát kinh hãi, kỳ vị toan, kỳ loại thảo mộc, kỳ súc kê, kỳ cốc mạch, kỳ ưng tứ thì, thượng vi Tuế tinh, thị dĩ xuân khí tại đầu dã, kỳ âm Giốc, kỳ số bát, thị dĩ tri bệnh chi tại cân dã, kỳ xú t*o.
Hoàng Đế nói: ngũ tạng ứng bốn mùa, có thâu nhận gì chăng?
Kỳ Bá nói: Có. Phương Đông sắc xanh, thông vào ở Can, khai khiếu ở mắt, tàng tinh ở gan(1), bệnh phát thời kinh hãi (2), vị là chua, loại là cây cỏ (3), là gia cầm (4), là lúa mạch(5), trên ứng tứ thời nó là Tuế tinh (sao Mộc) (6), là khí Xuân tại đầu vậy (7), là âm Giốc (8), là số 8 (9), nếu biết bệnh thì là ở gân vậy, là mùi hôi (10).
CHÚ THÍCH:
  • Đoạn này Hoàng Đế hỏi về tứ thời có thông suốt thâu nhận lẫn nhau với tạng phủ hay không, nên Kỳ Bá nói là có và dẫn giải từng thứ tóm lược, đại khái là quy hợp tính chất tạng phủ và tứ thời, phương hướng, ngũ hành, số hóa…theo Dịch như sau: Phương Đông chủ về sắc màu xanh, ứng với hành Mộc, Can cũng hành Mộc nên nó hợp vào đó, mắt sinh ra để nhìn ánh sáng, ứng với Thái Dương trên bầu trời, nên nói Can mộc khai khiếu ở mắt, cũng như Mặt Trời mọc đúng vào hướng Đông vậy, các đoạn sau cũng ý như thế.
Mùa Xuân thuộc mộc chủ về sinh, vì cỏ cây vốn nuôi vạn vật mà không hại vạn vật, nó chỉ có sinh không có sát, có chứa rồi ban phát chứ không cướp đoạt, nên tạng Can cũng thuộc mộc, nhận công năng là tàng trữ tinh khí ngũ tạng, phát ra nuôi ngũ tạng, vì vậy mà đoạn đầu (Tứ khí điều thần luận mới khuyên đạo dưỡng sinh mùa Xuân là chỉ cho mà không đoạt, chỉ mừng mà không giận, là để dưỡng Can khí mùa Xuân).
  • Mộc động sinh phong, phong khí bên ngoài thuộc về dương, đồng khí với Can, nên nó phạm vào Can, khí vốn thuộc dương, huyết thuộc âm, khí động thì kinh hãi. Nên phần Sinh Khí thông thiên luận bên trên có đoạn: “Khai hạp bất đắc, hàn khí tòng chi, nãi sinh đại lũ. Hãm mạch vi lũ, lưu liên nhục thấu. Du khí hóa bạc, truyền vi thiện úy, cập vi kinh hãi.” (…nó truyền thì hay sợ, nó ghé thì kinh hãi).
  • Cỏ cây thuộc hành Mộc nên ứng với tạng Can.
  • Súc kê vốn nghĩa là lục súc, loại là gà vịt, chúng thuộc quẻ Tốn, ứng với hành Mộc, ở vào phương Đông, vì vậy Mặt Trời mọc thì giờ ấy gà gáy trước.
  • Thóc gạo chữ cũng gọi là “kê cốc”, đứng đầu ngũ cốc, cũng thuộc về phương Đông, nên các nước phương Đông thiên về chăn nuôi và trồng trọt mà ăn lúa gạo là chính.
  • Tạng Can ứng với bốn mùa thời vào mùa Xuân, khởi đầu năm nó là tháng Dần Mộc, đó là theo thuyết “Đề xuất hồ Chấn”, ngày Sóc bắt đầu năm mới cũng là ngày trùng với Tuế tinh tức sao Mộc, chu kì của sao Mộc là 12 tháng, ứng với 1 năm, chu kì Can tạng cũng ứng với sao ấy.
  • Xem mục: Tứ khí điều thần luận, phần luận về mùa Xuân: mùa Xuân dương khí dẫn lên đầu, mùa Hạ phát ra ngoài, mùa Thu rút vào trong, mùa Đông ẩn xuống dưới.
  • Âm Giốc, một âm trong ngũ âm: Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ.
  • Số Tiên Thiên Hà Đồ nói: “Thiên tam sinh Mộc, địa Bát thành chi”, như vậy số 3 là dương Mộc, thuộc về phủ (Đởm), số 8 là âm Mộc, thuộc về tạng (Can). Con người khi mới sinh, tạng phủ dần thành kinh mạch và ngũ tạng hoàn toàn thành hình theo thứ tự như vậy, từ Thận, rồi đến Tâm, Can, Phế, cuối cùng là Tỳ, đủ 354 ngày thì ngũ tạng thâu nhận đầy đủ khí âm dương, kinh lạc hoàn chỉnh mà đi được, đứng được, ăn được, nói được.
  • Mùi hôi thuộc hành Mộc, Can chủ về gân cốt nên thấy bệnh ở can thì biết gân mạch sụt lỏng và ngược lại.


Thanked by 2 Members:

#24 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 140 Bài viết:
  • 149 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 26/08/2024 - 08:14

南方赤色,入通於心,開竅於耳,藏精於心,故病在五藏,其味苦,其類火,其畜羊,其穀黍,其應四時,上為熒惑星,是以知病之在脈也,其音徵,其數七,其臭焦。
Nam phương xích sắc, nhập thông ư tâm, khai khiếu ư nhĩ, tàng tinh ư tâm, cố bệnh tại ngũ tạng, kỳ vị khổ, kỳ loại hoả, kỳ súc dương, kỳ cốc thử, kỳ ứng tứ thì, thượng vi huỳnh hoặc tinh, thị dĩ tri bệnh chi tại mạch dã, kỳ âm Chủy, kỳ số thất, kỳ xú tiêu.
Phương Nam sắc đỏ, thông vào ở Tâm, khai khiếu ở tai, tàng tinh ở Tâm, nếu bệnh ở năm tạng, vị là đắng, loại là lửa, thú là dê, là nếp đỏ, trên ứng tứ thời nó là sao Hỏa, nếu biết bệnh thì là ở mạch vậy, là âm Chủy, là số 7, là mùi khét.
CHÚ THÍCH:
Đoạn này hiểu giống như trên, Kỳ Bá tiếp tục giảng giải về tạng Tâm, ứng với phương hướng và muôn vật: Tâm hành Hỏa, ứng với phương Nam, với lỗ tai (tai nó cao nhất trong ngũ quan, nên tính nó dương toàn thuộc hành hỏa, xét trên bản đồ nó ứng với phương Nam – vì bản đồ cổ phía Nam nằm bên trên cùng)
Tương tự, nó ứng với chu kì của sao Hỏa, với mùi hắc khét (lửa đốt cháy thì ra mùi ấy), với nếp đỏ vì màu đỏ thuộc hỏa, với con dê vì con dê tượng cho sung mãn của đàn ông, cũng gọi là dương đồng âm với dương, về số thì nó là 7 thuộc âm hỏa.
Tâm là chủ tể của ngũ tạng, nó bệnh thì 5 tạng đều không thể khỏe mạnh, Tâm thống lĩnh huyết mạch nên thấy bệnh ở mạch biết là Tâm bệnh và ngược lại.

中央黃色,入通於脾,開竅於口,藏精於脾,故病在舌本,其味甘,其類土,其畜牛,其穀稷,其應四時,上為鎮星,是以知病之在肉也,其音宮,其數五,其臭香。
Trung ương hoàng sắc, nhập thông ư tỳ, khai khiếu ư khẩu, tàng tinh ư tỳ, cố bệnh tại thiệt bản, kỳ vị cam, kỳ loại thổ, kỳ súc ngưu, kỳ cốc tắc, kỳ ứng tứ thì, thượng vi Chẩn tinh, thị dĩ tri bệnh chi tại nhục dã, kỳ âm cung, kỳ số ngũ, kỳ xú hương.
Trung ương màu vàng, thông vào ở Tỳ, khai khiếu ở miệng, tàng tinh ở Tỳ, nếu bệnh tại cuống lưỡi, vị là ngọt, loại là đất, vật là bò (1), ngũ cốc là lúa Tắc (2), ứng trên tứ thời nó là sao Chẩn (3), nếu biết bệnh thì là ở thịt vậy, là âm Cung, là số 5 (4), là mùi thơm.
CHÚ THÍCH:
  • Ngưu nguyên nghĩa là bò chứ không phải trâu, vì bò lông nó màu vàng, thuộc về thổ, trâu là thủy ngưu, sắc màu đen, ưa dưới nước thộc về thủy.
  • Tắc là giống lúa cao gần 1 trượng, khỏi đầu người, sắc nó màu vàng, nấu chín rất thơm, ngon mà không dính, là vua các loại lúa, nên thần đất gọi là Xã, thần lúa gọi là Tắc.
  • Sao Chẩn, một sao thuộc chòm sao Chu Tước.
  • Nguyên trong số Hà Đồ số 5 là dương hỏa, số 10 là âm hỏa. Tỳ là tạng tại sao lại là số dương? Vì Tỳ thổ ở trung ương, không phân rõ âm dương, mà ghi từ 1 đến 10 thì số 5 ở giữa, nên lấy số 5 làm Trung ương tức Tỳ thổ.
西方白色,入通於肺,開竅於鼻,藏精於肺,故病在背,其味辛,其類金,其畜馬,其穀稻,其應四時,上為太白星,是以知病之在皮毛也,其音商,其數九,其臭腥。

Tây phương bạch sắc, nhập thông ư phế, khai khiếu ư tỵ, tàng tinh ư phế, cố bệnh tại bối, kỳ vị tân, kỳ loại kim, kỳ súc mã, kỳ cốc đạo, kỳ ứng tứ thì, thượng vy thái bạch tinh, thị dĩ tri bệnh chi tại bì mao dã, kỳ âm thương, kỳ số cửu, kỳ xú tinh.
Phương Tây sắc trắng, thông vào ở Phế, khai khiếu ở mũi, tàng tinh ở Phế, nếu bệnh tại vai (phần vai sau trên lưng), vị là cay, là kim loại, vật là ngựa, ngũ cốc là lúa Chiêm, ứng trên tứ thời nó là sao Thái Bạch, nếu biết bệnh thì ở da lông vậy, là âm Thương, là số 9, là mùi tanh.

北方黑色,入通於腎,開竅於二陰,藏精於腎,故病在谿,其味鹹,其類水,其畜彘,其穀豆,其應四時,上為辰星,是以知病之在骨也,其音羽,其數六,其臭腐
Bắc phương hắc sắc, nhập thông ư thận, khai khiếu ư nhị âm, tàng tinh ư thận, cố bệnh tại khê, kỳ vị hàm, kỳ loại thuỷ, kỳ súc trệ, kỳ cốc đậu, kỳ ưng tứ thì, thượng vy thần tinh, thị dĩ tri bệnh chi tại cốt dã, kỳ âm vũ, kỳ sổ lục, kỳ xú hủ.
Phương Bắc sắc đen, thông vào ở Can, khai khiếu ở Nhị Âm (1), tàng tinh ở Thận, nếu bệnh tại Khê (2), vị là mặn, loại là nước, vật là heo, ngũ cốc là đậu, ứng trên tứ thời nó là sao Thần, nếu biết bệnh ở tại xương vậy, là âm Vũ, là số 6, là mùi rữa.

CHÚ THÍCH:
  • Nhị Âm tức là tiền âm (chỗ tiểu) và hậu âm (chỗ đại tiện), Thận khai khiếu ở đó, nên người già Thận suy hư thì tiêu tiểu không tự chủ được, bệnh quá mức cũng thế.
  • Khê: nơi khớp xương nhỏ liên lạc với nhau, một làn thịt mỏng bao bọc ngoài xương gọi là Khê.

故善為脈者,謹察五藏六府,一逆一從,陰陽錶裏,雌雄之紀,藏之心意,合心於精,非其人勿教,非其真勿授,是謂得道。
Cố thiện vi mạch giả, cẩn sát ngũ tạng lục phủ, nhất nghịch nhất tòng, âm dương biểu lý, thư hùng chi kỷ, tàng chi tâm ý, hợp tâm ư tinh, phi kỳ nhân vật giáo, phi kỳ chân vật thụ, thị vị đắc đạo.
Nên người xem mạch giỏi, xét kỹ ngũ tạng lục phủ, chỗ nghịch chỗ tòng, âm – dương – biểu – lý, tương quan trống mái, ghi vào tâm ý, hợp lẽ tinh thần, không cần thọ chân nhân, không cần có chân vật, thì vẫn đắc đạo.

Thanked by 2 Members:

#25 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 140 Bài viết:
  • 149 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 28/08/2024 - 09:54

陰陽應象大論篇第五
Thiên thứ năm:
ÂM DƯƠNG ỨNG TƯỢNG ĐẠI LUẬN.

KINH VĂN ________________________________________________________________________

黃帝曰:陰陽者,天地之道也,萬物之綱紀,變化之父母,生殺之本始,神明之府也,治病必求於本。故積陽為天,積陰為地。陰靜陽躁,陽生陰長,陽殺陰藏。陽化氣,陰成形。寒極生熱,熱極生寒。寒氣生濁,熱氣生清。清氣在下,則生飱泄,濁氣在上,則生䐜脹。此陰陽反作,病之逆從也。
Hoàng đế viết: âm dương giả, thiên địa chi đạo dã, vạn vật chi cương kỷ, biến hoá chi phụ mẫu, sinh sát chi bản thuỷ, thần minh chi phủ dã, trị bệnh tất cầu ư bản. Cố tích dương vi thiên, tích âm vi địa. Âm tĩnh dương táo, dương sinh âm trưởng, dương sát âm tàng. Dương hoá khí, âm thành hình. Hàn cực sinh nhiệt, nhiệt cực sinh hàn. Hàn khí sinh trọc, nhiệt khí sinh thanh. Thanh khí tại hạ, tắc sinh Sôn Tiết, trọc khí tại thượng, tắc sinh điền trướng. Thử âm dương phản tác, bệnh chi nghịch tòng dã.
Hoàng Đế nói: âm dương ấy là đạo trời đất vậy, kỷ cương vạn vật, cha mẹ biến hóa, cội nguồn sinh sát, phủ của thần minh vậy, trị bệnh tất cầu từ gốc. Nên chứa (1) dương là thiên, chứa âm là địa. Âm tĩnh dương táo (2), dương sinh âm trưởng, dương sát âm tàng (3) . Dương hóa khí, âm thành hình. Hàn cực sanh nhiệt, nhiệt cực sanh hàn. Hàn khí sanh đục, nhiệt khí sanh trong. Khí trong ở dưới, ắt sinh Sôn Tiết, khí đục ở trên, ắt sinh Điền (4) Trướng. Đó là âm dương trái ngược, bệnh nghịch tòng theo vậy.
CHÚ THÍCH:
  • Nguyên chữ là 積 tích trong chữ tích lũy, nghĩa là chứa.
  • Âm vốn tĩnh dương vốn động, âm thì chủ về thấp khí tức là ẩm ướt, dương chủ về khô ráo. Vì khí lạnh thì đi xuống, hơi nó ẩm ướt có khi kèm sương mù, nóng thì đi lên, mà lại khô ráo.
  • Câu này gốc chữ Hán Việt gần như đều có thể hiểu nghĩa tiếng Việt, cho nên tôi để nguyên. Dương SINH âm TRƯỞNG là chỉ mùa Xuân (mộc, chủ về sinh), và Hạ (hỏa, chủ về trưởng), Dương sát âm tàng là chỉ mùa Thu (kim, hành kim nó là sát khí nên dùng làm giáo mác) và Đông (thu tàng). Bốn mùa cũng như một ngày, Xuân và Hạ là âm dương trong thời dương, Thu và Đông là âm dương trong thời âm, nó ứng vào ngũ tạng cũng vậy. (Xem giữa chương Kim Qũy chân ngôn luận có nhắc đến điểm này).
  • Chữ 䐜 điền vốn khó tra trong nhiều từ điển đều không thấy, nên theo văn bản cũ viết là Điền Trướng. Ý câu này nói rằng: khí dương vốn nóng phải đi lên, mà nó trong sạch, khí âm vốn lạnh thời nó đi xuống, mà nó vốn đục. Nay khí dương chìm xuống không thăng lên được thì sinh chứng SÔN TIẾT (ăn vào ỉa chảy), ngược lại khí âm phải xuống dưới nếu nó ở trên thì gây chứng ĐIỀN TRƯỚNG, nên nói là âm dương phản thì tác động như vậy, bệnh vì theo cái âm dương nghịch tòng mà ra.


Thanked by 2 Members:

#26 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 140 Bài viết:
  • 149 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 03/09/2024 - 13:54

故清陽為天,濁陰為地;地氣上為雲,天氣下為雨;雨出地氣,雲出天氣。
故清陽出上竅,濁陰出下竅;清陽發腠理,濁陰走五藏;清陽實四支,濁陰歸六府。
Cố thanh dương vi thiên, trọc âm vi địa; địa khí thượng vi vân, thiên khí hạ vi vũ; vũ xuất địa khí, vân xuất thiên khí.
Cố thanh dương xuất thượng khiếu, trọc âm xuất hạ khiếu; thanh dương phát thấu lý, trọc âm tẩu ngũ tàng; thanh dương thực tứ chi, trọc âm quy lục phủ.
Nên dương trong là trời, âm đục là đất; khí đất lên thành mây, khí trời xuống thành mưa; mưa từ khí đất, mây tự khí trời (1).
Nên dương trong ra khiếu trên, âm đục ra khiếu dưới; dương trong ra tấu lý, âm đục vào ngũ tạng; dương trong đầy tứ chi, âm đục về lục phủ. (1).
CHÚ THÍCH:
  • Nguyên chữ là 地氣上為雲,天氣下為雨;雨出地氣,雲出天氣。nghĩa đen theo ngữ cảnh là: khí đất xuất thành mưa, khí trời xuất thành mây. Nhưng nếu ghép thì thành câu rất khó hiểu: “khí đất lên thành mây, khí trời xuống thành mưa; khí đất thành ra mưa, khí trời thành ra mây”. Nên mới dịch như vậy. Ý câu này nói rằng: dương gốc từ âm, âm gốc từ dương, âm dương là gốc của nhau, dương đi lên, âm đi xuống, khí dương gốc nó ở dưới đất, nó nhẹ nên bốc thành mây (nhẹ mà trong), khí âm gốc ở trên trời, nó nặng nên giáng thành mưa (nặng mà đục). Mưa rơi xuống đất thì lại bốc hơi lên quay lại thành mây, còn mây đầy hạt thì lại rơi xuống thành mưa, vậy thì gốc của mưa từ mây ra, gốc của mây từ mưa mới có. Đó là âm dương hoán đổi cho nhau, trong âm có dương, trong dương có âm, âm dương là tương đối. Vạn vật luôn vừa tương đối, vừa khắc vừa sinh nhau, gắn bó lệ thuộc, hỗ giao với nhau, vận động không ngừng, đó là quy luật của vũ trụ, nên mới gọi là Dịch (luôn chuyển động).
  • Đoạn này liên hệ thân mình cũng là tiểu vũ trụ, cũng theo cùng một quy luật như vậy: phần dương nó đi lên, vì bên trên là chỗ của dương, phần âm nó đi xuống, vì bên dưới là chỗ đúng của âm. Nên thở thì lên trên, mà đại tiện, tiểu tiện thì xuống dưới, thở thì vốn không hôi thúi (thanh), mà tiểu tiện đại tiện thì hôi thúi (trọc), cái tinh hoa hóa khí nó phát ra tấu lý, phủ ra ngoài bì mao thành vệ khí, bảo vệ cơ quan, còn phần huyết dịch nó đi vào trong ngũ tạng vì nó là âm. Cái dương trong nó ra tứ chi, bởi vì chân tay là cơ quan máy động, còn âm đục nó đi vào phủ tạng, vì đó là nơi thu tàng.

水為陰,火為陽,陽為氣,陰為味。味歸形,形歸氣,氣歸精,精歸化,精食氣,形食味,化生精,氣生形。味傷形,氣傷精,精化為氣,氣傷於味。陰味出下竅,陽氣出上竅。味厚者為陰,薄為陰之陽。氣厚者為陽,薄為陽之陰。味厚則泄,薄則通。氣薄則發泄,厚則發熱。壯火之氣衰,少火之氣壯。壯火食氣,氣食少火。壯火散氣,少火生氣。氣味,辛甘發散為陽,酸苦涌泄為陰。
Thuỷ vi âm, hoả vi dương, dương vi khí, âm vi vị. Vị quy hình, hình quy khí, khí quy tinh, tinh quy hoá, tinh thực khí, hình thực vị, hoá sinh tinh, khí sinh hình. Vị thương hình, khí thương tinh, tinh hoá vi khí, khí thương ư vị. Âm vị xuất hạ khiếu, dương khí xuất thượng khiếu. Vị hậu giả vi âm, bạc vi âm chi dương. Khí hậu giả vi dương, bạc vi dương chi âm. Vị hậu tắc tiết, bạc tắc thông. Khí bạc tắc phát tiết, hậu tắc phát nhiệt. Tráng hoả chi khí suy, thiểu hoả chi khí tráng. Tráng hoả thực khí, khí thực thiểu hoả. Tráng hoả tán khí, thiểu hoả sinh khí. Khí vị, tân cam phát tán vi dương, toan khổ dũng tiết vi âm.
Thủy là âm, hỏa là dương, dương là khí, âm là vị (1). (2). Vị quy về hình, hình quy về khí, khí quy về tinh, tinh quy về hóa, tinh nhờ khí, hình nhờ vị, hóa sanh tinh, khí sanh hình(2) . Vị hại hình, khí hại tinh, tinh hóa thành khí, khí hại bởi vị (3). Vị âm ra khiếu dưới, khí dương xuất khiếu trên (4). Vị dày thời là âm, mỏng là dương của âm. Khí dày thời là dương, mỏng là âm của dương. Vị dày tất chảy ra, mỏng ắt thông suốt. Khí mỏng tất xì ra, dày tất phát nhiệt. Hỏa mạnh thì khí suy, hỏa ít thì khí tráng. Hỏa mạnh ăn khí, hỏa yếu bị khí ăn. Hỏa mạnh khí tán, hỏa yếu khí sinh. Khí vị, ngọt cay phát tán là dương, chua đắng chảy vọt là âm. (5)
CHÚ THÍCH:
  • Chữ ở đây chỉ 5 vị: đắng, chua, cay, mặn, ngọt. Đoạn này khẳng định khí thì thuộc dương, vì nó nhẹ mà không có hình, vị thì thuộc âm, vì nó nặng mà có hình. Cho nên cuối chương Sinh khí thông thiên luận mới nói: “Nơi sinh của âm, gốc ở ngũ vị, năm cung của âm (1), đau ở ngũ vị”. Như vậy quan điểm Kì Bá xem ngũ cung, ngũ vị, ngũ tạng cùng một gốc đều âm.
  • Vị quy về hình: ngũ vị tuy nếm được, nhưng nó vốn không thấy được bằng mắt, nương tựa vào vật ăn được, ăn vào mới biết nó vị gì. Nên nói là vị quy về hình.

Hình quy về khí, khí quy về tinh, tinh quy về hóa: Vật dù là động vật hay thực vật đều không tự nhiên mà có, nếu là cây cối phải bẩm thụ khí âm dương, ngũ hành, hút lấy dinh dưỡng là tinh hoa của đất mới mọc ra được, động vật cũng như người, phải hít thở thanh khí, ăn uống vào thân mình, Tỳ Vị mới vận hóa ra tinh hoa để chuyển thành khí huyết mới ra thành cơ thể. Nhờ vận hóa mới ra hình hài, nên nói là tinh quy về hóa, bởi vì hóa là gốc sinh ra tinh, khí quy về tinh, bởi tinh là gốc sinh ra khí và huyết, từ đó mà sinh ra hình, đó là hình quy về khí. Thực vật nhờ khí và tinh hoa của đất mà thành hình, động vật ăn vào vận hóa thành khí huyết, sinh ra hình dạng, còn người thì lại ăn chúng, Tỳ Vị vận hóa sinh ra tinh hoa, chuyển thành khí và huyết dịch, nuôi thành hình người. Nên nói rằng: hóa sanh tinh, khí sanh hình, tinh và khí thuộc về dương, hình và vị gốc là âm.

Đoạn này ý nói vạn vật trong trời đất rốt cuộc đều do hai khí âm dương lưu chuyển mà thành ra hình hài, người ăn động vật, động vật ăn thực vật, thực vật hút thanh khí và tinh túy đất đai, đất đai thì có từ vạn vật chết đi mục rữa mà thành. Quan điểm này đúng thật là chân lý, tinh hoa của Triết học phương Đông, về Dịch, nó nói lên nguồn gốc vạn vật bởi hai khí âm dương lưu chuyển mà hóa sinh ra ức vạn (Vô cực sinh Thái Cực, Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát quái, Bát quái sinh muôn vật), Đạo gia cũng nói: Vô danh thiên địa chi thủy, hữu danh vạn vật chi mẫu, câu này ít người hiểu đúng nghĩa của nó: giả sử nếu ta hỏi Trái Đất từ đâu ra, cỏ cây từ đâu ra thì có thể trả lời được, bởi vì truy ra được nguồn gốc, còn hỏi vũ trụ từ đâu ra không ai có thể nói được, cho nên Lão Tử gọi đó là Đạo, vô danh thiên địa chi thủy tức là “Nguồn cội của trời đất [thì không biết từ đâu nên] không có tên” vậy. Hai tư tưởng này trùng với thế giới quan của Phật giáo về chữ không: không không phải là không có gì, mà muôn vật trong trời đất phân thành sắckhông, sắc thì có hình hài, không không phải là không có gì, mà nó giống như hai khí âm dương lưu chuyển không có đầu cuối, không có bản ngã nhất định. Khi là vật này, khi là vật khác, trải qua muôn kiếp lâu xa không thể biết được nó từ đâu ra và đi về đâu, nó có tồn tại mà không thật hoàn toàn là vật gì vĩnh viễn, nó không có hình hài cố định nhưng cũng không phải là không có gì. Cũng như người chết thành đất, đất mọc thành cây, động vật ăn cây, người ăn động vật, tuy bây giờ là người nhưng phần nào là cây, phần nào là vậ,t không ai có thể chỉ rõ ra được nữa, cái tôi bản ngã chỉ là ảo tưởng cá nhân mà thôi. Điều này cho thấy chân lý chỉ có 1 và các trường phái triết học đều nói về chân lý như nhau!

  • Vị hại hình, khí hại tinh: Hình nhờ ngũ vị ăn vào mới có, ngũ vị nhờ có hình để nương tựa biểu hiện thành vật ăn, nhưng ngũ vị nuôi người cũng có thể hại người, như ăn mặn thì hại Thận vậy. Tinh hóa chuyển thành khí nuôi người, nhưng tám khí bên ngoài cũng có thể hại người. Tinh hóa ra khí, nhưng ngũ tạng mất quân bình thì khí ấy hình khắc các tạng phủ khác, tinh ấy do vị sinh ra, nên nói là khí hại bởi vị vậy. Câu này rất thâm bí khó hiểu, tôi trí kém, cũng không có nhiều kinh nghiệm kiến thức, chỉ xin tạm hiểu là: vị với hình quy thuộc âm, nên vị hại đến hình, như ăn uống quá mặn ngọt đều hại đến thân thể, còn khí và tinh nó không có hình nên quy thuộc dương, khí có thể hại đến tinh, vì nó là đồng đạo, ở đây là vị bên ngoài nạp vào có thể hại đến thân mình, khí bên ngoài du nạp vào có thể hại đến tinh mình. Tinh của mình chuyển hóa thành khí của mình, mà ăn uống quá vị có thể hại đến tinh khí vậy!
  • Vị thuộc âm, sinh hình, nó là âm nên đi xuống dưới, Tỳ Vị vận hóa thành tinh hoa, chuyển thành khí huyết, nạp về Can Thận tích trữ, huyết dịch nuôi thành cơ nhục đều có hình, chất nó thải ra đại tiện tiểu tiện cũng đều có hình. Khí thuộc dương nên nó không có hình, nó là dương nên do Phế ở phần dương chủ quản, thường xuyên lưu chuyển để thúc đẩy huyết dịch, hít vào thở ra đều luân chuyển lên trên, dù là tinh hóa khí, bao phủ lên người như vệ khí, hay thải ra trọc khí đều không có hình.
  • Nguyên văn không nhắc đến vị mặn.


Thanked by 2 Members:

#27 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 140 Bài viết:
  • 149 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 05/09/2024 - 06:50

陰勝則陽病,陽勝則陰病。陽勝則熱,陰勝則寒。重寒則熱,重熱則寒。寒傷形,熱傷氣。氣傷痛,形傷腫。故先痛而後腫者,氣傷形也;先腫而後痛者,形傷氣也。風勝則動,熱勝則腫,燥勝則乾,寒勝則浮,濕勝則濡寫。
Âm thắng tắc dương bệnh, dương thắng tắc âm bệnh. Dương thắng tắc nhiệt, âm thắng tắc hàn. Trùng hàn tắc nhiệt, trùng nhiệt tắc hàn. Hàn thương hình, nhiệt thương khí. Khí thương thống, hình thương thũng. Cố tiên thống nhi hậu thũng giả, khí thương hình dã; tiên thũng nhi hậu thống giả, hình thương khí dã (3). Phong thắng tắc động, nhiệt thắng tắc thũng, táo thắng tắc càn, hàn thắng tắc phù, thấp thắng tắc nhu tả.
Âm thắng tất dương bệnh, dương thắng tất âm bệnh (1). Dương thắng ắt nhiệt, âm thắng ắt hàn. Hàn quá thành nhiệt, nhiệt quá thành hàn. Hàn hại hình, nhiệt hại khí. Khí bệnh thì đau, hình bệnh thì thũng (2). Nếu trước đau mà sau mới thũng, khí thương hình vậy; trước thũng mà sau mới đau, hình thương khí vậy! Phong thắng tất động, nhiệt thắng tất thũng, táo thắng tất khô, hàn thắng tất phù, thấp thắng tất ỉa lỏng.
CHÚ THÍCH:
  • Dương thắng thì âm suy, nên âm bệnh, âm thắng là vì dương suy, nên suy ra dương bệnh.
  • Hàn hại hình, nhiệt hại khí: hàn thuộc âm, mà hình thuộc âm, nên hàn nó thương đến hình, khí thuộc dương nhiệt cũng là dương, nên nhiệt thương đến khí. Khí bệnh thì đau, hình bệnh thì thũng: vì khí thuộc dương, dương động mà mỏng nên không có hình chỉ có cảm giác đau đớn mà không yên được, còn hình hài thuộc âm, âm nó tĩnh mà dày lớn nên bệnh thì nó hiện phù ra.
  • Đoạn đầu nói về hàn thương hình, nhiệt thương khí, đó là âm làm thương tổn phần âm, còn ở đây khí thương hình là dương hại đến phần âm, hình thương khí là âm hại đến phần dương. Đoạn này và đoạn bên trên nói giảng về gốc âm dương của vị, hình, tinh, khí...và tương tác của chúng. Khí là dương hình là âm, khí thương hình là dương hại đến âm, âm bị thương sẽ phù thũng, mà bệnh do khí gây ra nên trước sẽ thấy đau rồi sau mới thấy thũng. Hình làm thương khí thì ngược lại.


天有四時五行,以生長收藏,以生寒暑燥濕風。人有五藏,化五氣,以生喜怒悲憂恐。故喜怒傷氣,寒暑傷形。暴怒傷陰,暴喜傷陽。厥氣上行,滿脈去形。喜怒不節,寒暑過度,生乃不固。故重陰必陽,重陽必陰。故曰:冬傷於寒,春必溫病;春傷於風,夏生飱泄;夏傷於暑,秋必痎瘧;秋傷於濕,徘生欬嗽。
Thiên hữu tứ thì ngũ hành, dĩ sinh trưởng thu tàng, dĩ sinh hàn thử táo thấp phong. Nhân hữu ngũ tạng, hoá ngũ khí, dĩ sinh hỷ nộ bi ưu khủng. Cố hỷ nộ thương khí, hàn thử thương hình. Bạo nộ thương âm, bạo hỷ thương dương. Quyết khí thượng hành, mãn mạch khứ hình. Hỷ nộ bất tiết, hàn thử quá độ, sinh nãi bất cố. Cố trùng âm tất dương, trùng dương tất âm. Cố viết: đông thương ư hàn, xuân tất ôn bệnh; xuân thương ư phong, hạ sinh san tiết; hạ thương ư thử, thu tất giai ngược; thu thương ư thấp, bồi sinh khái thấu.
Trời có bốn mùa năm hành, để Sinh – Trưởng – Thu – Tàng (1) , để sanh Hàn – Thử - Táo – Thấp – Phong(2) . Người có 5 tạng, hóa 5 khí, để sanh mừng – giận – buồn – lo – sợ(3) . Nên mừng giận thương khí, Hàn Thử thương hình. Giận quá thương âm, mừng quá thương dương(4) . Khí nghịch chuyển lên, mạch tràn hình bỏ. Mừng giận không giữ, nắng lạnh quá độ, sống sẽ không bền. Nên trùng âm ắt dương, trùng dương ắt âm. Vậy rằng: Đông thương bởi Hàn, Xuân tất ôn bệnh; Xuân thương bởi Phong, Hạ sinh Sôn Tiết; Hạ thương bởi Thử, Thu tất Giai Ngược; Thu thương bởi Thấp, lần hồi Khái Thấu(5) .
CHÚ THÍCH:
  • Bốn mùa là Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàng, năm hành là Hàn Thử Thấp Táo Phong: Xuân mộc sinh phong, Hạ hỏa sinh thử, Trưởng Hạ sinh thấp, Thu kim sinh táo, Đông thủy sinh hàn. Năm khí này theo Y học cổ truyền Việt Nam và một số Y điển cổ của Trung Quốc đều nói có thể hóa hỏa, hỏa là khí có thể xuất hiện khắp 4 mùa, sáu loại ấy gọi là lục khí. Trong Nội kinh phần này không thấy nhắc đến.
  • Tâm chủ về mừng, Can chủ về giận, Phế chủ về buồn, Tỳ chủ về lo, Thận chủ về sợ, gọi là ngũ chí tức là năm tình chí do khí của ngũ tạng phát ra.
  • Ngũ tạng hóa khí sinh ra 5 tình chí: mừng – giận – buồn – lo – sợ, nên mừng giận thương đến khí, bởi cái đó là do nội sinh. Tình chí từ bên trong sinh ra thì ảnh hưởng đến tạng tương ứng, như sợ quá thì hại Thận, Thận hư thì khí của Thận cũng suy, có lẽ mừng giận ở đây là cách nói ví von nhắc đến cả 5 tình chí. Còn Hàn Thử là khí của trời đất, tức là nóng lạnh bên ngoài tổn thương đến hình vóc. Phần ở trong tác động cái ở trong (khí) đó là hư chứng, phần bên ngoài xâm thực cái bên ngoài (hình) đó là thực chứng. Mừng giận là phần âm dương bên trong: giận về dương, mừng về âm, hàn thử là cái âm dương bên ngoài: nóng là dương lạnh là âm.
  • Khái là ho nhiệt chứng, không có đàm, bởi nhiệt nó đốt khô tân dịch thành ra chỉ có ho khan, Thấu là ho phần nhiều bởi hàn chứng, vì đờm ẩm đọng lại nên ho có nhiều đàm.

Sửa bởi Lenam098: 05/09/2024 - 06:53


Thanked by 2 Members:

#28 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 140 Bài viết:
  • 149 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 07/09/2024 - 08:28

帝曰:余聞上古聖人,論理人形,列別藏府,端絡經脈,會通六合,各從其經,氣穴所發各有處名,谿谷屬骨皆有所起,分部逆從,各有條理,四時陰陽,盡有經紀,外內之應,皆有錶裏,其信然乎。
Đế viết: dư văn thượng cổ thánh nhân, luận lí nhân hình, liệt biệt tạng phủ, đoan lạc kinh mạch, hội thông lục hợp, các tòng kỳ kinh, khí huyệt sở phát các hữu xứ danh, hoát cốc thuộc cốt giai hữu sở khởi, phân bộ nghịch tòng, các hữu điều lý, tứ thì âm dương, tận hữu kinh kỷ, ngoại nội chi ứng, giai hữu biểu lý, kỳ tín nhiên hồ.
Đế nói: Trẫm nghe tự cổ thánh nhân, luận phép thân mình, kê chia tạng phủ, rõ nhánh kinh mạch, Hội thông – Lục hợp(1) , tới mỗi kỳ kinh, huyệt khí từ đâu cùng có tên riêng (2) , hốc rãnh cốt xương đều có gốc rễ, phân biệt thuận nghịch, cùng có điều lẽ, bốn mùa âm dương, tận có khuôn luật, trong ứng với ngoài, thảy có biểu – lý, há thật vậy chăng?
CHÚ THÍCH:
  • Chính kinh có 12 đường, gồm 6 kinh âm vào tạng, 6 kinh dương vào phủ, chúng tương hợp với nhau theo lẽ biểu và lý, cứ một kinh dương hợp với 1 kinh âm, 1 tạng với 1 phủ, phủ đi trước tạng đi sau rồi đến tạng đi trước phủ đi sau, túc kinh rồi đến thủ kinh, thủ kinh rồi đến túc kinh, cứ thế xoay vòng từ giờ Tý đến giờ Hợi.

TÝ (23g -1g)


Túc kinh
Túc Thiếu-dương Đởm

Phủ


SỮU (1g- 3g)


Túc Quyết-âm Can

Tạng


DẦN (3g-5g)


Thủ kinh
Thủ Thái-âm Phế

Tạng


MÃO (5g-7g)


Thủ Dương-minh Đại Trường

Phủ


THÌN (7g-9g)


Túc kinh
Túc Dương-minh Vị

Phủ


TỴ (9g-11g)


Túc Thái-âm Tỳ

Tạng


NGỌ (11g-13g)


Thủ kinh
Thủ Thiếu-âm Tâm

Tạng


MÙI (13g-15g)


Thủ Thái-dương Tiểu trường

Phủ


THÂN (15g-17g)


Túc kinh
Túc Thái-dương Bàng Quang

Phủ


DẬU (17g-19g)


Túc Thiếu-âm Thận

Tạng


TUẤT (19g-21g)


Thủ kinh
Thủ Quyết-âm Tâm Bào Lạc

Tạng


HỢI (21g-23g)


Thủ Thiếu-dương Tam Tiêu

Phủ


  • Kinh mạch có 12 đường để ứng với 12 tháng, kỳ kinh có 8 đường: Đốc mạch, Nhâm mạch, Xung mạch, Đới mạch, Âm Kiểu, Dương Kiểu, Âm Duy, Dương Duy ứng với tám quẻ tám hướng, để điều hòa với chính kinh. Kinh khí huyết dịch đều hội ở các khí huyệt, có 365 khí huyệt, ứng với 365 ngày.


Thanked by 2 Members:

#29 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 140 Bài viết:
  • 149 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 09/09/2024 - 07:07

歧伯對曰:東方生風,風生木,木生酸,酸生肝,肝生筋,筋生心,肝主目。其在天為玄,在人為道,在地為化。化生五味,道生智,玄生神,神在天為風,在地為木,在體為筋,在藏為肝,在色為蒼,在音為角,在聲為呼,在變動為握,在竅為目,在味為酸,在志為怒。怒傷肝,悲勝怒;風傷筋,燥勝風;酸傷筋,辛勝酸。
Kỳ bá đối viết: đông phương sinh phong, phong sinh mộc, mộc sinh toan, toan sinh can, can sinh cân, cân sinh tâm, can chủ mục. Kỳ tại thiên vi huyền, tại nhân vi đạo, tại địa vi hoá. Hoá sinh ngũ vị, đạo sinh trí, huyền sinh thần, thần tại thiên vi phong, tại địa vi mộc, tại thể vi cân, tại tàng vi can, tại sắc vi thương, tại âm vi giác, tại thanh vi hô, tại biến động vi ác, tại khiếu vi mục, tại vị vi toan, tại chí vi nộ. Nộ thương can, bi thắng nộ; phong thương cân, táo thắng phong; toan thương cân, tân thắng toan.
Kỳ Bá đáp rằng: Phương Đông sanh Phong, Phong sanh Mộc, Mộc sanh chua, chua sanh Can, Can sanh gân, gân sanh Tâm (1) , Can chủ mắt. Ở trời là Huyền vi, ở người là Đạo (2) , ở đất là hóa, hóa sinh 5 vị, Đạo sinh trí, huyền sinh thần (3) , trên trời thần là Phong, dưới đất hành mộc, ở thân là gân, ở tạng là Can, ở màu là xanh (lá), ở âm là Giốc, ở cử động là nắm, ở khiếu là mắt, ở vị là chua, tình chí là giận. Giận thương Can, buồn thắng giận; Phong thương gân, Táo thắng Phong, chua thương gân, cay thắng chua (4) .
CHÚ THÍCH:
  • Gân thuộc về Can, hành mộc, sinh tâm hỏa đó là mộc sanh hỏa.
  • Lão Tử nói: Đạo có trước vạn vật, nên nói đến phương Đông mộc trước, vì vậy Kì Bá cũng nói hành mộc trước. Về ngày, hướng Đông là nơi Mặt Trời xuất hiện, ngày mới bắt đầu. Về tháng và năm, nó ứng với Dần mộc tức tháng Giêng, ngày Sóc, năm mới bắt đầu, có trước vạn vật tức là Đạo, cho nên phương Đông là nơi xuất hiện các hệ tư tưởng triết học, lý luận, khoa học, còn phương Tây là kim chủ về phát minh, tranh đoạt, thương mại.
  • Thần ở đây thuộc về tinh thần, hồn tướng của vạn vật, chứ không có nghĩa là thần linh.
  • Vị cay thuộc Phế, Phế thuộc kim thắng Can mộc, đó là kim khắc mộc.


Thanked by 2 Members:

#30 Lenam098

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 140 Bài viết:
  • 149 thanks
  • LocationMiền Tây

Gửi vào 13/09/2024 - 21:03

南方生熱,熱生火,火生苦,苦生心,心生血,血生脾,心主舌。其在天為熱,在地為火,在體為脈,在藏為心,在色為赤,在音為徵,在聲為笑,在變動為憂,在竅為舌,在味為苦,在志為喜。喜傷心,恐勝喜;熱傷氣,寒勝熱,苦傷氣,鹹勝苦。
Nam phương sinh nhiệt, nhiệt sinh hoả, hoả sinh khổ, khổ sinh tâm, tâm sinh huyết, huyết sinh tỳ, tâm chủ thiệt. Kỳ tại thiên vi nhiệt, tại địa vi hoả, tại thể vi mạch, tại tạng vi tâm, tại sắc vi xích, tại âm vi chủy, tại thanh vi tiếu, tại biến động vi ưu, tại khiếu vi thiệt, tại vị vi khổ, tại chí vi hỷ. Hỷ thương tâm, khủng thắng hỷ; nhiệt thương khí, hàn thắng nhiệt, khổ thương khí, hàm thắng khổ.
Phương Nam sanh nhiệt, nhiệt sinh hỏa, hỏa sinh đắng, đắng sinh Tâm, Tâm sinh huyết, huyết sinh Tỳ (1) , Tâm chủ lưỡi. Trên trời là khí nhiệt, dưới đất hành hỏa, ở thân là mạch, ở tạng là Tâm, về màu là đỏ, về âm là Chủy, về tiếng là cười, về biến động là lo, tại khiếu là lưỡi, tại vị là đắng, tình chí là vui. Vui thương Tâm, sợ thắng vui; nhiệt thương khí, hàn thắng nhiệt, đắng thương khí, mặn thắng đắng (2) .
CHÚ THÍCH:
  • Đoạn này nguyên văn nói rằng Tâm sinh huyết, mà huyết sinh Tỳ, đó là nói theo lý thuyết hỏa sinh thổ, vị khổ sinh tâm là âm sinh ra dương, phương Nam là gốc của hành hỏa trong ngũ hành, phương Nam thì nóng, nhiệt nóng mới sinh ra lửa, mới sinh ra vị đắng, mới sinh ra tạng Tâm (ăn đồ đắng vào Tâm mới tiếp nhận để bổ túc thành hình của nó, nên vị là mẹ sinh ra con là Tâm), đó là ngũ vị sinh ngũ cung vậy, đó là lần đến gốc rễ của vật luận theo lẽ biến hóa âm dương và sinh thành của ngũ hành. Hải Thượng Lãn Ông thì nói rằng Tỳ mới vận hóa đồ ăn mà sinh ra tinh hoa thủy cốc, hóa thành huyết dịch, như vậy là Tỳ sinh huyết, đó là nói theo cơ chế chuyển hóa thực tế quan sát ở cơ thể. Ở đây dẫn ra để quý vị tự xét đoán nghiên cứu và có chủ kiến. Xin lưu ý ở đây 2 thuyết 1 cái thì chỉ luận về khí của tạng phủ bên trong thông hiếu với nhau, một cái thì luận về chuyển hóa đồ ăn bên ngoài đưa vào. Khi luận xét xin nên khảo sát bản chất từng thuyết một.
  • Tình chí là do tạng phát sinh, tình chí quá mức thì hại đến tạng, Tâm chủ về vui mừng, mừng quá thì hại Tâm. Tâm thuộc hỏa, Thận thuộc Thủy, Thận chủ về sợ hãi, nên nói sợ thắng vui, hàn thắng nhiệt, mặn thắng đắng là nói thủy có thể khắc hỏa.

中央生濕,濕生土,土生甘,甘生脾,脾生肉,肉生肺,脾主口。其在天為濕,在地為土,在體為肉,在藏為脾,在色為黃,在音為宮,在聲為歌,在變動為噦,在竅為口,在味為甘,在志為思。思傷脾,怒勝思;濕傷肉,風勝濕;甘傷肉,酸勝甘。
Trung ương sinh thấp, thấp sinh thổ, thổ sinh cam, cam sinh tỳ, tỳ sinh nhục, nhục sinh phế, tỳ chủ khẩu. Kỳ tại thiên vi thấp, tại địa vi thổ, tại thể vi nhục, tại tạng vi tỳ, tại sắc vi hoàng, tại âm vi cung, tại thanh vi ca, tại biến động vi uế, tại khiếu vi khẩu, tại vị vi cam, tại chí vi tư. Tư thương tỳ, nộ thắng tư; thấp thương nhục, phong thắng thấp; cam thương nhục, toan thắng cam.
thắng nhiệt, khổ thương khí, hàm thắng khổ.
Trung dương sinh thấp, thấp sinh thổ, thổ sinh ngọt, ngọt sinh Tỳ, Tỳ sinh thịt, thịt sinh Phế, Tỳ chủ miệng. Trên trời là khí thấp, dưới đất hành thổ, ở thân là thịt, ở tạng là Tỳ, về màu là vàng, về âm là Cung, về tiếng là hát, về biến động là ụa (ợ, ói), tại khiếu là miệng, về vị là ngọt, chí là suy nghĩ. Nghĩ thương Tỳ, giận thắng nghĩ; thấp thương thịt, phong thắng thấp, ngọt thương thịt, chua thắng ngọt.

Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |