Jump to content

Advertisements




CHẾT - TRUNG ẤM THÂN - TÁI SINH


12 replies to this topic

#1 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 28/09/2011 - 18:48

CHẾT - TRUNG ẤM THÂN - TÁI SINH



Một cách đơn giản, lúc lâm chung, thái độ quen thuộc lâu dài thường ưu tiên và trực tiếp ảnh hưởng đến sự tái sinh. Cùng lý do này, những sự vướng mắc, chấp trước mạnh mẽ thì tự nó sinh khởi, từ đó một người sợ hãi rằng, tự người ấy đang trở nên không tồn tại, họ sợ rằng chết là hết, vì mối lo sợ ấy dẫn đến tái sinh. Sự chấp trước này phục vụ như sự liên kết, đến trạng thái trung gian giữa những đời sống (thân trung ấm), sự ưa mến một thân hình, trong sự chuyển biến, hành động như một nguyên nhân thiết lập thân thể, của sự tồn tại trung gian.

Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14

1. CHẾT

Qua những khổ đau của khát vọng, thù ghét và u mê, nghiệp ô nhiễm được hình thành, nó sản sinh những năng lực mạnh mẽ trong tâm, trong hình thức của những khuynh hướng. Khi một đời sống chấm dứt, một người có những khuynh hướng như thế nào, sẽ được sinh lại trong vòng luân hồi, với một tâm linh và thân thể, qua những khuynh hướng nguyên nhân này. Một số người chết trong lúc hoàn toàn kiệt lực, trong sự thúc đẩy của hành động nào đó, điều mà trong đời sống khác, nó sẽ dựa trên nền tảng của điều này. Những người khác chết mà chưa hết thời gian thọ mạng của họ, trong tình trạng chưa đầy đủ những nhân tố của đời sống, như là thiếu thốn hay những sự cần thiết. Đấy gọi là chết yểu, hay chết trong sự tiêu phá cộng nghiệp, bởi sự thúc đẩy của những hành động, thực hiện trong đời sống hiện tại này, nhưng những trường hợp phù hợp ngoại tại, đạt được qua những hành động đạo hạnh trong đời trước, đã không hiển lộ.

Một người chết với một tâm đạo đức, không đạo đức hay trung tính. Trong trường hợp đầu tiên, cái chết của một người, có thể đem đến trong tâm một đối tượng đạo đức, như Tam bảo (Phật, lời Phật dạy, và cộng đồng tâm linh) hay đạo sư của người ấy. Vì thế sinh ra một tâm tin thành. Người ấy có thể phát triển vô lượng tĩnh lặng yên bình, trở nên tự tại với khát dục và thù hận trước bất cứ chúng sinh nào, hay thiền định trên tính không hay phát triển từ bi. Điều này có thể được hoàn thành, hoặc là xuyên qua sự nhớ lại những hành động như thế, hay qua sự cảnh tỉnh của người khác. Nếu những thái độ như thế, được phát triển tại thời điểm của lâm chung, một người chết với một tâm đạo đức, điều ấy sẽ được tăng cường trong kiếp tiếp theo. Thật là tốt lành để chết trong cách này. Tuy vậy, thỉnh thoảng nó xảy ra những thứ khác, ngay cả mặc dù không chủ tâm tìm kiếm, sự khuấy động giận hờn phiền muộn, người sắp chết với sự sợ hãi, khủng hoảng, vì vậy làm họ giận hờn. Đôi khi, bạn bè hay thân nhân tập trung chung quanh giường bệnh khóc than, ai oán trong hoàn cảnh như vậy họ đã khơi dậy niềm khát ái. Dù là khát ái hay thù hận, nếu một người chết trong tâm trạng vướng mắc, tội lỗi, hoặc những việc không lành, mà người ấy rất quen thuộc, điều ấy rất nguy hiểm.

Một số người chết với thái độ trung tính, không có đối tượng đạo đức, cũng không phát sinh khát ái hay thù hận. Đây là ba thái độ: đạo đức, không đạo đức và trung tính, xuất hiện trong tâm vi tế khi lâm chung. Theo kinh điển, thời điểm tâm vi tế cuối cùng này, cần thiết trung tính, không giống Tantra Yoga tối thượng, kinh điển không diễn tả kỹ năng, để chuyển hóa tâm vi tế thành tình trạng đạo đức, chỉ là những chỉ bảo thô thiển. Tuy vậy, một hành giả Tantra đúng phẩm chất, có thể chuyển hóa tâm vi tế, liên hợp với cái chết thành một nhận thức con đường đạo đức. Tại thời điểm ấy hành giả phải rất thâm sâu. Trong bất cứ mọi trường hợp, quan kiến tâm linh trong lúc lâm chung rất quan trọng, ngay cả một hành giả thuần thục ôn hòa, nếu bị quấy rầy lúc này, khát ái và thù hận hiển nhiên sẽ được phát sinh. Điều này là bởi vì tất cả chúng ta, đều có những khuynh hướng, đã thiết lập bởi những hành động quá khứ không đạo đức, những điều sẵn sàng bị kích động, khởi dậy khi gặp những điều kiện bất lợi.

Những khuynh hướng này cung cấp sự thúc đẩy, cho những đời sống như súc sinh...Một cách đơn giản, chúng ta có những khuynh hướng, thiết lập bởi những hành động đạo đức quá khứ, khi gặp những điều kiện thuận lợi, sẽ cung cấp sự thúc đẩy cho những đời sống hạnh phúc như loài người.. Những khã năng này đã có sẵn, trong liên tục tâm của chúng ta, chúng được nuôi dưỡng bởi vướng mắc chấp thủ và sự tham đắm, dẫn đến một sự tái sinh tốt hay xấu. Vì vậy, nếu khuynh hướng do nghiệp xấu được hoạt động, một đời sống như súc sinh, quỷ đói hay địa ngục sẽ là kết quả. Một cách đơn giản, nếu một người thường cư xử sai trái, khi lâm chung với một quan kiến đạo đức, người ấy chắc chắn được tái sinh trong một hoàn cảnh tốt. Vì vậy, rất quan trọng cho cả người lâm chung và những người chung quanh, để tránh tạo những hoàn cảnh của khát ái, hay thù hận và tốt hơn là nuôi dưỡng những tình trạng đạo đức của tâm. Chúng ta cần biết điều này. Những ai lâm chung trong quan kiến đạo đức, có nhận thức đi ngang qua một vùng tối đến vùng sáng, tự do với phiền giận và cảm thấy thoải mái xuất hiện. Có nhiều trường hợp của những người bệnh nặng, gần với cái chết, nói năng trong trạng thái thật thoải mái, bất chấp bệnh tình của họ.

Những người khác bệnh tình dù không nặng, nhưng rơi vào sự sợ hãi vô cùng, với hơi thở nặng nề. Những người đó cuối cùng, chìm trong những tư tưởng không đạo đức, có nhận thức đi ngang qua từ vùng sáng, đến vùng tối và thấy những hình trạng không dễ chịu. Một số người nhiệt độ thân thể bị giảm do bệnh, trở nên khao khát sức nóng, vì vậy làm mạnh thêm khuynh hướng cho sự tái sinh, như một chúng sinh trong địa ngục nóng, ngay lúc đó họ bị tái sinh trong một nơi cực kỳ nóng. Những người khác trở nên vướng mắc trong một ao ước cảm giác mát lạnh, thí dụ, uống nước, họ củng cố thêm khuynh hướng, bị sinh làm một chúng sinh trong địa ngục lạnh, vì vậy nó liên hệ với một sự tái sinh như thế. Do đó rất quan trọng để tránh những tư tưởng khao khát trong lúc lâm chung và hướng tâm trực tiếp đến những đối tượng có tác dụng tốt. Trong đời sống hằng ngày, thái độ khát ái, thù hận, ghen tị...những tư tưởng mà chúng ta đã quá quen thuộc, dễ dàng hiển lộ chỉ với sự khiêu khích nhỏ; nhưng những thứ mà khi chúng ta có một chút hiểu biết, thì phải có sự khiêu khích to tát.

Như là sự viện dẫn lý lẽ đến tranh luận, để tự chính chúng hiển lộ. Một cách đơn giản, lúc lâm chung, thái độ quen thuộc lâu dài, thường ưu tiên và trực tiếp ảnh hưởng đến sự tái sinh. Cùng lý do này, những sự vướng mắc, chấp trước mạnh mẽ thì tự nó sinh khởi, từ đó một người sợ hãi rằng, tự người ấy đang trở nên không tồn tại, họ sợ rằng chết là hết vì mối lo sợ ấy dẫn đến tái sinh. Sự chấp trước này phục vụ như sự liên kết đến trạng thái trung gian giữa những đời sống (thân trung ấm), sự ưa mến một thân hình, trong sự chuyển biến, hành động như một nguyên nhân, thiết lập thân thể của sự tồn tại trung gian. Đối với những kẻ liên hệ mạnh mẽ, với những hành động không đạo đức, sức nóng trước hết rút lui ở phần trên của cơ thể, và rồi mới đến những phần khác. Nhưng trái lại những người liên hệ mạnh mẽ, với những hành động đạo đức, sức nóng trước tiên rút lui ở chân. Trong cả hai trường hợp, sức nóng cuối cùng hội tụ tại tim, nơi mà ý thức xuất ra.

2. TRẠNG THÁI TRUNG GIAN (TRUNG ẤM THÂN)

Ngay lập tức sau đó, trạng thái trung gian bắt đầu, ngoại trừ những ai tái sinh trong thế giới không hình dáng, vô sắc giới của không gian vô tận (không vô biên xứ), nhận thức vô biên (thức vô biên xứ), vô sở hữu xứ hay tột đỉnh của vòng luân hồi (phi tưởng phi phi tưởng xứ). Cho những ai kiếp sống mới, bắt đầu lập tức ngay sau khi chết. Những kẻ sinh trong thế giới của khát ái và hình sắc, bắt buộc phải qua một giai đoạn của trạng thái trung gian (trung ấm thân), trải qua điều một chúng sinh có hình thể của con người như người ấy sẽ tái sinh. Chúng sinh trung ấm thân có tất cả năm giác quan, nhưng cũng có thần thông và tính khiêm tốn kín đáo và khả năng đến ngay lập tức, bất cứ nơi nào họ muốn đến. Người ấy thấy những chúng sinh trung ấm thân, cùng loại với chính họ, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, nhân loại, a tu la hay chư thiên, và có thể thấy bằng thần thông. Nếu một vị trí để sinh thích hợp, cho khuynh hướng của người ấy chưa tìm ra, một "cái chết nhỏ" sẽ xảy ra trong bảy ngày và người ấy sẽ sinh trong một thân trung ấm khác. Điều này có thể xảy ra tối đa sáu lần, với kết quả của thời điểm dài nhất, dành cho trạng thái trung ấm là bốn mươi chín ngày.

3. TÁI SINH

Điều này có nghĩa rằng những chúng sinh ngay cả chết sau một năm. báo cáo rằng họ không tìm ra một địa điểm sinh không trong trạng thái trung ấm, nhưng đã sinh như một tâm linh. Người ấy bị hấp dẫn lôi cuốn một cách khao khát đến địa điểm sinh tương lai, ngay cả nếu nó là địa ngục. Thí dụ, một người đồ tể, có thể thấy con cừu trong khoảng cách khi trong mộng, trong sự lướt tới để giết chúng, sự kiện xuất hiện nhòa nhạt đi, khiến người ấy giận dữ, ngay lúc đó trạng thái trung ấm ngừng lại và kiếp sống trong địa ngục bắt đầu. Cũng vậy, như đã nói ở trước, những kẻ bị tái sinh trong địa ngục nóng bị hấp dẫn bởi sức nóng; và trong địa ngục lạnh thì với cái mát lạnh. Trạng thái trung ấm của một người bị tái sinh trong chiều hướng xấu thì tự nó rất khủng khiếp; và cuối cùng, họ xốc tới địa điểm tái sinh và khi sự ao ước không đạt được, họ giận dữ, ngay sau đó trạng thái trung ấm dừng lại và kiếp sống mới bắt đầu. Sự liên kết với một kiếp sống, vì vậy, được tạo ra dưới ảnh hưởng của khát ái, thù hận, và u mê. Cho đến khi vượt thoát được những phiền não này, người ta bị trói buộc trong xiềng xích và không có tự do.

Quả thực có những sự tái sinh tốt và xấu, nhưng, trong khi một người vẫn còn bị xiềng xích, người ấy phải mang gánh nặng, của cả toàn bộ tâm lý và vật lý, những điều dưới sự ảnh hưởng, của những hành động cấu nhiễm và phiền não. Điều này không phải được làm một lần, nhưng cứ lặp đi lặp lại không ngừng nghĩ. Để vượt thoát khổ đau của sinh, già, bệnh, và chết; khát ái, thù hận, và hỗn loạn phải được vượt thoát. Gốc rễ của chúng là vô minh si ám u mê, nhận thức tồn tại, vốn gắn liền với con người và những hiện tượng khác. Thuốc men bên ngoài làm giảm bớt những khổ đau ở bề mặt, nhưng không thể chữa trị cốt lõi của vấn đề. Những sự thực hành nội tại thì hữu ích hơn, như là dùng đến những loại thuốc giải, đặc trị đối với khát ái và thù hận, nhưng sự tác dụng của chúng thì tạm thời, tuy nhiên nếu một người, có phá tan màn vô minh si ám u mê, gốc rễ của chúng, thì tất cả những phiền não theo chúng sẽ đồng dừng lại. Nếu vô minh si ám u mê được loại trừ, rồi thì những hành động cấu nhiễm tùy thuộc trên nó sẽ dừng lại. Xa hơn nữa, không có vô minh, sự bám chặt chấp trước và những xu hướng, sản sinh bởi những hành động trước đây dừng mở rộng, ngay khi vòng luân hồi của tái sinh không kiểm soát chấm dứt.

#2 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 28/09/2011 - 18:54

CHẾT - TRUNG ẤM THÂN - TÁI SINH

PHẦN THẢO LUẬN

DỤC TRI TIỀN THẾ NHÂN KIM SINH THỌ GIẢ THỊ
YẾU TRI LAI THẾ QUẢ KIM SINH TÁC GIẢ THỊ.

Câu này quá quen thuộc, hầu hết mọi Phật tử thường nghe nói đến và ý nghĩa khá đơn giản là: muốn biết nhân đời trước thế nào, thì hãy xem những gì chúng ta đang thụ hưởng và muốn biết quả đời sau thế nào, thì hãy xem những gì chúng ta đang thực hiện. Đạo Phật nói đến sáu cõi mà chúng ta đã và sẽ lưu chuyển không ngừng trong muôn kiếp, nếu chúng ta không đủ khã năng để tách rời khỏi, hay không có sức tự tại như những bậc Thánh. Sáu cõi ấy là:

Thần tiên yên bình - Deva
Thần tiên chiến tranh - Asura
Người
Súc sinh (thú vật)
Ngạ quỷ (quỷ đói)
Địa ngục.

Và bốn cõi của các bậc Thánh Vô lậu là:

Thinh văn
Duyên giác
Bồ tát
Phật.

Trong Thinh văn lại có bốn bậc là:

Tu đà hoàn - Thất lai, còn qua lại cõi người bảy lần nữa
Tư đà hàm - Nhất lai, còn qua lại cõi người một lần nữa
A na hàm - Bất lai, không còn phải trở lại cõi người nữa
A la hán - Vô sinh.

Câc bậc Thánh khác thì tuỳ nguyện lực, năng lực, thần lực có thể tự tại qua lại cõi sinh tử nhân gian để độ chúng sinh.

Tuỳ theo Kinh:

Trú xứ của Phật gọi là Bửu sở hay Thường tịch quang
Trú xứ của Thinh văn gọi là Hoá thành hay Siêu thế giới
Trú xứ của Bồ tát gọi là Viên lâm.

Ngoài ra theo:

PGNT: nhàn cảnh cho những người tạo phước nghiệp
PGBT: các cõi Tịnh độ như:
Cực lạc của Phật A Di Đà.
Diệu hỉ của Phật A Súc Bệ.
Tịnh lưu ly của Phật Dược sư.

VÃNG SINH - VÔ SINH - TÁI SINH

VÃNG SINH: là nói sinh về các cõi TỊNH ĐỘ
VÔ SINH: hay vô sinh bất diệt hay NIẾT BÀN
TÁI SINH: dù do nghiệp lực, hay nguyện lực cũng hướng về TAM ĐỒ, LỤC ĐẠO.

Mỗi chúng ta sẽ tự hỏi mình, và tự chọn hướng đi và chốn đến hay "một cõi đi về" cho chính mình, dù là cư sĩ hay tu sĩ, để vất bỏ những vướng bận không cần thiết, để gạt bỏ những chướng duyên trên đường đi, những tranh chấp vô bổ (nhưng không phải bỏ những tranh luận hữu ích) để tu tập gắt củ kiệu, hay hành trì miên mật khi đã thấy:

Hướng nào khó, hướng nào dễ
Hướng nào bảo đảm, hướng nào không bảo đảm
Hướng nào hiện tại an lạc, tương lai thoát khổ luân hồi.

Nếu được vậy mỗi chúng ta sẽ biết chắc "CHÚNG TA SẼ VỀ CHỐN NÀO?"

Dù trong THANH TỊNH ĐẠO LUẬN có chia làm ba hạng là:

Bậc tiểu: tu để tái sinh hưởng phước báu.
Bậc trung: tu để thoát sinh tử luân hồi.
Bậc đại: tu vì tất cả chúng sinh.

#3 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 28/09/2011 - 18:58

CHẾT - TRUNG ẤM THÂN - TÁI SINH

CHÚNG TA SẼ VỀ CHỐN NÀO?

Hằng ngày chúng ta giao thiệp, lao tâm, lao lực tạo ra những hạt giống nghiệp, tạo thành năng lực của nghiệp dẫn dắt chúng ta đến kết quả, hay là nghiệp nhân bị nghiệp lực đưa đến nghiệp quả. Những suy nghĩ, lời nói, hành động sẽ tạo thành những nghiệp nhân; những nguyện vọng, hy vọng, thất vọng tạo thành những dấu vết nghiệp và nó sẽ thúc đẩy chúng ta đến những cõi tương ứng. Và chúng ta có thể cảm nhận được điều này, qua những xúc tình hay những tình cảm khi tiếp xúc hằng ngày, tạo nên ngay trong đời sống hiện tại, ngay trên thân thể chúng ta, ngay tại đây: "Chúng ta nối kết với mỗi chiều kích của kinh nghiệm một cách năng động qua một trung tâm năng lực (chakra*) trong thân thể":

CÕI XÚC TÌNH CHỦ ĐẠO --- LUÂN XA

Deva - Thần tiên yên bình.
Phóng dật thích thú --- Đỉnh đầu
Asura - Thần tiên chiến tranh. Đố kỵ --- Cổ họng
Người --- Ghen tỵ --- Rốn
Ngạ quỷ - quỷ đói --- Tham lam --- Xương cụt
Địa ngục --- Thù hận --- Lòng bàn chân.

Tất cả chúng ta đều có những thời kỳ kinh nghiệm các cõi khác nhau: hạnh phúc của cõi thiên, cơn đau của tham muốn, khi thấy cái gì cảm thấy cần phải có, sự nhục nhã của lòng kiêu mạn bị thương, những cơn đau nhói của ghen tỵ, tính địa ngục của cay đắng và thù hận, sự mờ đục và mê mờ của vô minh. Chúng ta di chuyển từ kinh nghiệm của một cõi này đến cõi khác dễ dàng và thường xuyên. Chúng ta thay đổi những chiều kích của kinh nghiệm và thế giới bên ngoài hình như cũng phải thay đổi đối với chúng ta. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Cũng như thế, những chúng sanh trong những cõi khác nối kết với mọi cõi; cả hai, một con mèo và một a-tu-la bán thiên cũng kinh nghiệm giận dữ, ghen tỵ, đói khát..

SÁU CÕI CỦA SANH TỬ LUÂN HỒI

Theo những giáo lý có sáu cõi (loka*) của hiện hữu, trong đó tất cả những chúng sanh bị mê lầm đang sống. Đó là những cõi của deva, asura, người, thú, quỷ đói và địa ngục. Một cách căn bản, những cõi ấy là sáu chiều kích của tâm thức, sáu chiều kích của kinh nghiệm có thể có được. Chúng biểu lộ trong cá nhân chúng ta như là sáu xúc tình tiêu cực, sáu phiền não : Sân, tham, vô minh, ghen ghét, kiêu mạn và phóng dật thích thú. (Phóng dật thích thú là trạng thái xúc tình, khi năm xúc tình kia hiện diện trong mức độ cân bằng, hòa hợp quân bình). Tuy nhiên sáu cõi không chỉ là những phạm trù của những kinh nghiệm xúc tình, mà cũng là những cõi thực có mà chúng sanh, sanh ra trong đó như chúng ta được sanh vào cõi người, hay một con sư tử sanh vào cõi thú. Sáu xúc tình tiêu cực không tạo thành, một danh sách đầy đủ các phiền não, nhưng vô ích khi nói rằng, tại sao không có cõi nào cho buồn bã và sợ hãi. Sợ hãi có thể xảy ra trong bất kỳ cõi nào, cũng như buồn bã hay giận dữ hay ghen tỵ hay tình thương.

Dù những xúc tình tiêu cực là những kinh nghiệm cảm xúc mà chúng ta có, và là những kinh nghiệm cảm xúc đặc trưng của các cõi, chúng cũng là những chủ âm tiêu biểu cho toàn thể chiều kích của kinh nghiệm, dòng tương tục từ kinh nghiệm xúc tình cá thể, đến những cõi có thực. Và những chiều kích này mỗi cái, đều bao trùm những khả tính rộng lớn của kinh nghiệm, gồm cả kinh nghiệm khác nhau. Sáu phẩm tính của tâm thức được gọi là những con đường, bởi vì chúng dẫn đến nơi nào đó: Chúng đưa chúng ta đến những nơi chốn để tái sanh, cũng như vào những lãnh vực khác nhau, của kinh nghiệm trong cuộc đời này. Khi một chúng sanh đồng hóa với một trong những xúc tình tiêu cực, hay bị chúng đánh bẫy bắt, và kết quả xảy ra. Đây là cách nghiệp tác động. Thí dụ, để được sanh làm một con người, chúng ta phải đã dấn thân mạnh mẽ vào những giới luật trong những đời trước. Ngay trong văn hóa quần chúng, điều này được diễn tả trong nhận xét rằng, cho đến bao giờ tình thương và sự quan tâm cho những người khác trưởng thành, mà một người mới được xem là “tính người trọn vẹn.”

#4 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 28/09/2011 - 19:02

CHẾT - TRUNG ẤM THÂN - TÁI SINH

CÕI ĐỊA NGỤC

Mỗi cõi có thể được nghĩ như một dòng tương tục của kinh nghiệm. Chẳng hạn cõi địa ngục tạo lập trong dãy từ kinh nghiệm xúc tình, bên trong là giận dữ và thù ghét, cho đến những thái độ tính khí cắm rễ trong giận dữ như chiến đấu và chiến tranh. Đến những thể chế, thành kiến và thiên chấp xây dựng trên thù ghét như quân đội, thù ghét chủng tộc, và không khoan dung, đến cõi thực trong đó chúng sanh địa ngục sống. Một cái tên cho toàn bộ chiều kích kinh nghiệm này, từ xúc tình cá nhân đến chỗ có thật, là “địa ngục.” Nếu chúng ta sống một cuộc đời mang tính chất của những xúc tình tiêu cực thù ghét hay giận dữ, chúng ta kinh nghiệm một kết quả khác: chúng ta tái sanh vào địa ngục. Điều này xảy ra thực sự, một người có thể tái sanh trong cõi địa ngục, cũng như về mặt tâm lý. Nối kết mình với chiều kích thù hận tạo ra những kinh nghiệm mà thậm chí ngay trong đời này chúng ta gọi là “địa ngục.” Giận dữ là xúc tình hạt giống của cõi địa ngục. Khi những dấu vết nghiệp của giận dữ biểu lộ, có nhiều diễn tả như ghét bỏ, căng thẳng, phẩn nộ, chỉ trích, tranh luận và bạo động. Khi giận dữ đánh bại chúng ta, chúng ta mất tự chủ và tỉnh giác. Khi chúng ta bị mắc vào thù hận, bạo động và giận dữ, chúng ta tham dự vào cõi địa ngục. Trung tâm năng lực của giận dữ là trong bàn chân. Cái đối trị cho giận chỉ là tình thương trong sạch vô điều kiện, nó khởi từ vô ngã. Theo truyền thống, những địa ngục được nói là gồm chín địa ngục nóng và chín địa ngục lạnh. Những chúng sanh sống ở đó chịu khổ vô hạn, bị hành hạ đến chết và tức thời sống lại, cứ thế trở đi trở lại mãi.

NAM MÔ CỰC LẠC GIÁO CHỦ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT
NAM MÔ THIÊN THỦ THIÊN NHẢN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT.

CÕI QUỶ ĐÓI

Đôi khi những cá nhân có một sự trổi bật về một chiều kích trong sự cấu tạo của nó: nhiều tính thú vật hơn, hay nhiều tính quỷ đói hơn, hay nhiều tính chư thiên hơn. Nó trổi bật như một nét thống trị của tính cách họ, và có thể được nhận ra trong cách họ nói năng, đi đứng và trong những mối quan hệ của họ. Chúng ta có thể biết người luôn luôn hình như bị mắc vào cõi quỷ đói: họ không bao giờ thấy đủ, họ luôn luôn đói khát hơn nữa mọi thứ, thêm nữa bạn bè, môi trường, cuộc sống, nhưng chẳng bao giờ thỏa mãn. Tham lam là xúc tình hạt giống của cõi quỷ đói (preta). Tham lam khởi lên như một cảm giác cần thiết quá độ không thể đáp ứng được. Thử thỏa mãn tham lam thì giống như khát mà uống nước muối. Khi mất mình trong tham lam chúng ta tìm kiếm bên ngoài hơn là bên trong để thỏa mãn, tuy nhiên chúng ta không bao giờ tìm thấy đủ để lấp đầy sự trống không mà chúng ta muốn trốn thoát. Cơn đói thực sự chúng ta cảm thấy là sự đói khát hiểu biết về bản tánh chân thật của chúng ta. Tham lam phối hợp với tham muốn tình ái, trung tâm năng lực của nó trong thân thể là luân xa phía sau xương cụt. Rộng lượng, bố thí, sự cho đi rộng rãi cái mà những người khác cần, cởi mở nút thắt cứng cõi của tham. Những quỷ đói theo truyền thống được hình dung là những chúng sanh với cái bụng khổng lồ, đói khát và miệng và cổ họng thì nhỏ xíu. Một số ở nơi những miền hàng trăm năm không có một ngụm nước. Những quỷ đói khác có thể tìm thấy đồ ăn và thức uống, tuy nhiên nếu lại nuốt một miếng qua miệng, thức ăn bùng cháy thành ngọn lửa trong bao tử và gây rất đau đớn. Có nhiều loại khổ đau cho quỷ đói, nhưng tất cả đều từ tính keo kiệt và chống lại sự rộng lượng của những người khác.

NAM MÔ CỰC LẠC GIÁO CHỦ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT
NAM MÔ THÁNH QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
NAM MÔ DIỆN NHIÊN VƯƠNG BỒ TÁT.

CÕI THÚ

Những cõi là những biểu lộ của những dấu vết nghiệp, nhưng trong trường hợp các cõi, những dấu vết nghiệp là tập thể, cộng nghiệp hơn là biệt nghiệp. Bởi vì nghiệp là tập thể, những chúng sanh trong mỗi cõi chia xẻ những kinh nghiệm tương tự trong một thế giới đồng cảm, như khi chúng ta chia xẻ những kinh nghiệm tương tự với những người khác. Cộng nghiệp tạo ra những thân thể và giác quan và khả năng tinh thần, cho phép cá thể tham dự chia xẻ những tiềm năng và phạm trù của kinh nghiệm, trong khi lại làm cho các loại kinh nghiệm khác không thể có được. Chẳng hạn, những con chó đều có thể nghe những âm thanh mà con người không nghe được, và những con người kinh nghiệm ngôn ngữ theo một cách mà loài chó không thể. Sự biểu lộ của sáu cõi có thể được nhận thấy trong chính kinh nghiệm, những giấc mơ và đời sống lúc thức, và trong cuộc sống của những người gần chúng ta. Chẳng hạn, đôi khi chúng ta cảm thấy mất mình. Chúng ta biết làm thế nào tiếp tục thói thường hàng ngày của mình, nhưng ý nghĩa thì trốn tránh chúng ta. Ý nghĩa đi đâu mất, không phải qua sự giải thoát, mà qua sự thiếu thấu hiểu. Chúng ta có những giấc mộng ở trong bùn, hay trong một chỗ tối, hay trên một đường phố không có dấu hiệu. Chúng ta vào một văn phòng không có lối ra, hay cảm thấy bối rối không biết đi hướng nào. Đây có thể là một biểu lộ của vô minh, cõi thú. (Cái vô minh này không giống như vô minh bẩm sinh, nó là một sự mờ đục, một thiếu vắng thông minh.) Vô minh là hạt giống của cõi thú. Nó được kinh nghiệm như một cảm giác bị lạc mất, mờ đục, bất định hay không tỉnh táo rõ biết. Nhiều người kinh nghiệm một sự tối tăm và buồn rầu cắm rễ trong vô minh này, họ cảm thấy một nhu cầu nhưng thậm chí không biết mình muốn cái gì, hay làm cái gì để mãn nguyện. Luân xa phối hợp với vô minh là ở trung tâm của thân, ngang mức với rốn. Trí huệ được tìm thấy khi chúng ta xoay vào bên trong, và đi đến chỗ hiểu biết bản tánh chân thật của chúng ta, là sự đối trị của vô minh. Chúng sanh trong cõi thú bị bóng tối của vô minh ngự trị. Thú vật sống trong sợ hãi, sợ thú khác và người. Những con thú lớn cũng bị hành hạ bởi côn trùng đào vào da và ở trong thịt. Thú nuôi thì bị vắt sữa, chở nặng, xỏ mũi, không có cách thoát. Thú vật cảm thấy khổ và sướng, nhưng chúng bị vô minh ngự trị, không thể nhìn vào thân phận của chúng, để tìm bản tánh chân thật của chúng.

NAM MÔ CỰC LẠC GIÁO CHỦ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT
NAM MÔ SƯ TỬ VÔ UÝ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
NAM MÔ NHIẾP CHƯ THÚ BỒ TÁT.

#5 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 28/09/2011 - 19:05

CHẾT - TRUNG ẤM THÂN - TÁI SINH

CÕI NGƯỜI

Mỗi văn hóa đều biết sự ghen tỵ. Hình thức xuất hiện của ghen tỵ có thể biến đổi, bởi vì sự diễn tả xúc tình là một phương tiện thông tin, một ngôn ngữ bằng cử chỉ, cả hai đều do sinh học và văn hóa quyết định, và văn hóa thì sai khác. Nhưng cảm xúc ghen tỵ là như nhau ở bất kỳ nơi đâu. Trong Phật giáo, tính phổ quát này được giải thích bằng và liên hệ với sự hiện hữu của các cõi. Ghen tỵ là xúc tình gốc rễ của cõi người. Khi bị ghen tỵ chiếm hữu, chúng ta muốn bám lấy và rút về mình cái chúng ta có: một ý tưởng, một sở hữu, một tương quan. Chúng ta thấy nguồn của hạnh phúc là cái gì ở ngoài chúng ta, điều này đưa chúng ta đến bám luyến mạnh mẽ hơn vào đối tượng của tham muốn. Ghen tỵ liên hệ với trung tâm tim trong thân thể. Cái đối trị cho ghen tỵ là sự mở rộng lòng mình, cái rỗng rang khi chúng ta nối kết với bản tính chân thật của chúng ta. Chúng ta dễ dàng quan sát sự khổ đau của cõi mình. Chúng ta kinh nghiệm sanh, già, bệnh, chết. Chúng ta phiền muộn vì biến dịch thường trực, những nỗ lực giữ gìn cái chúng ta muốn cuối cùng đều thất bại. Thay vì tùy hỷ với những hạnh phúc của những người khác, chúng ta thường làm mồi cho đố kỵ và ghen tỵ. Dù sự tái sanh làm người được xem là may mắn nhất, vì con người có dịp nghe và thực hành giáo pháp, nhưng chỉ có một số nhỏ tìm thấy và lợi dụng được cơ hội vĩ đại này.

Nhân vị tối thắng.
Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn.
Nhất thất nhân thân vạn kiếp bất phục.

NAM MÔ CỰC LẠC GIÁO CHỦ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT
NAM MÔ CHUẨN ĐỀ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
NAM MÔ TIÊU TAI GIÁNG CÁT TƯỜNG BỒ TÁT.

CÕI ASURA - THẦN TIÊN CHIẾN TRANH

Dù những cõi có vẽ phân biệt và cứng đặc, như thế giới của chúng ta đối với chúng ta, chúng thật sự là như mộng và không có bản chất. Chúng thâm nhập lẫn nhau và chúng ta đều nối kết với mỗi cõi. Chúng ta có những hạt giống của sự tái sanh vào các cõi khác trong chúng ta, và khi chúng ta kinh nghiệm những xúc tình khác, chúng ta tham dự vào một số những tính cách và khổ đau đặc trưng của những cõi khác. Chẳng hạn khi chúng ta bị giam nhốt trong kiêu hãnh tự quy hay trong ghen ghét giận dữ, chúng ta kinh nghiệm cái gì thuộc về tính cách của cõi asura. Kiêu mạn là phiền não chính của cõi asura. Kiêu mạn là một cảm giác nối kết với sự thành công và thường là cục bộ, gây chiến. Có một phương diện ẩn dấu của kiêu mạn, là khi chúng ta tin rằng mình tệ hơn những người khá,c trong một khả năng hay nét đặc biệt nào đó, một thứ tự quy tiêu cực tách lìa chúng ta với người khác. Kiêu mạn phối hợp với luân xa cổ họng. Kiêu mạn thường biểu lộ trong hành động phẫn nộ, và cái đối trị của nó là thanh bình vĩ đại và khiêm hạ bao la khi chúng ta ở trong bản tính chân thật của chúng ta. Những asura hưởng thụ lạc thú và sự dồi dào nhưng họ có khuynh hướng đố kỵ và hung nộ. Họ thường đánh nhau, nhưng khổ đau lớn nhất của họ là khi họ tuyên chiến với chư deva, những người hưởng thụ sự dồi dào còn hơn loài asura. Những deva thì nhiều quyền lực hơn asura và rất khó giết. Họ luôn luôn thắng trận, và những asura chịu sự hủy hoại của lòng kiêu hãnh và đố kỵ bị thương, và điều này lại dẫn họ đến chiến tranh vô vọng trở đi trở lại.

NAM MÔ CỰC LẠC GIÁO CHỦ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT
NAM MÔ THẬP NHẤT DIỆN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
NAM MÔ ĐIỀU THUẬN HUỆ BỒ TÁT.

CÕI DEVA - THẦN TIÊN YÊN BÌNH - NHÀN CẢNH

Chúng ta kinh nghiệm cái gì của cõi deva khi chúng ta mất mình trong phóng dật thích thú, hưởng thụ những thời kỳ mù sương của lạc thú và hạnh phúc. Nhưng những thời kỳ này cuối cùng rồi cũng hết. Và khi chúng còn, tỉnh giác của chúng ta phải bị bó chặt. Chúng ta phải ở trong một loại bề mặt cạn cợt và không nhìn khá sâu vào hoàn cảnh chung quanh chúng ta, không biết đến những khổ đau quanh ta. Hưởng thụ những thời kỳ thích thú trong cuộc đời của chúng ta thì cũng tốt thôi, nhưng nếu chúng ta không thực hành, không tiếp tục giải thoát chúng ta khỏi những cá tánh bản sắc bó hẹp và sai lầm, cuối cùng chúng ta sẽ đi qua thời kỳ thích thú và rơi vào một trạng thái khó khăn hơn, không chuẩn bị, nơi chúng ta có khả năng mất mình trong một loại khổ đau. Vào cuối một buổi tiệc hay một ngày rất thích thú thường có một loại hụt hẫng hay thất vọng trên đường về nhà. Hay sau một kỳ nghỉ cuối tuần hạnh phúc chúng ta có thể cảm thấy buồn chán khi trở lại công việc. Phóng dật thích thú là hạt giống của cõi deva. Trong cõi deva, năm phiền não tiêu cực cũng hiện diện, quân bình như năm giọng hòa âm của một dàn nhạc. Những deva bị mất mình trong một cảm thức say sưa của niềm vui lười biếng và lạc thú tự quy. Họ hưởng thụ sung túc và tiện nghi lớn lao trong đời sống kéo dài cả một kiếp. Mọi nhu cầu có vẻ được thỏa mãn và mọi tham muốn được đáp ứng. Cũng đúng như đối với một số cá nhân và xã hội, chư thiên bị mắc vào lạc thú và sự theo đuổi lạc thú. Họ không có cảm thức về thực tại bên dưới kinh nghiệm của họ. Mất tăm trong những tiêu khiển và lạc thú vô nghĩa, họ bị phóng dật và không trở lại con đường giải thoát. Nhưng hoàn cảnh cuối cùng rồi thay đổi khi những nguyên nhân nghiệp cho sự hiện hữu ở cõi deva cạn kiệt. Khi cái chết cuối cùng rồi cũng đến gần, họ bị bạn bè và đồng nghiệp bỏ rơi, vì những deva này không thể đối mặt với bằng chứng về bản chất phải chết của họ. Với thiên nhãn, vị deva này thấy những điều kiện của cõi khổ mà mình bị sanh vào, và ngay trước khi chết khổ đau của đời tới đã bắt đầu. Cõi deva phối hợp với luân xa đỉnh đầu. Cái đối trị với niềm vui ích kỷ của chư deva là lòng bi trùm khắp khởi lên một cách tự nhiên qua tỉnh giác về thực tại nền tảng của bản ngã và thế giới.

NAM MÔ CỰC LẠC GIÁO CHỦ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT
NAM MÔ NHƯ Ý LUÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
NAM MÔ PHỔ CÚNG HUỆ BỒ TÁT
NHẤT THIẾT THINH VĂN
THIÊN VƯƠNG ĐẾ THÍCH,
TỨ THIÊN VƯƠNG CHÚNG
THIÊN LONG BÁT BỘ,
HỘ PHÁP THẦN VƯƠNG
NHẤT THIẾT HỘ GIÁO
HỘ GIỚI GIÀ LAM THÁNH CHÚNG LIỆT VỊ THIỆN THẦN.

#6 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 28/09/2011 - 19:14

CHẾT - TRUNG ẤM THÂN - TÁI SINH

PHẦN THẢO LUẬN

Sáu nẽo:
Thần tiên yên bình - Deva
Thần tiên chiến tranh - Asura
Người
Súc sinh (thú vật)
Ngạ quỷ (quỷ đói)
Địa ngục

Sáu nẽo còn chia ra làm bốn loài là: thai, thấp, noãn, và hóa sinh, tức là:

Thai sinh: chúng sinh sanh sản băng bào thai.
Thấp sinh: chúng sinh sanh sản nơi ẩm thấp.
Noãn sinh: chúng sinh sanh sản bằng trứng.
Hóa sinh: chúng sinh sanh sản bằng cách biến hóa như thần tiên ở thượng giới.

Sáu nẽo hay bốn loài còn được chia làm ba cõi hay tam giới là:

Cõi dục: Cảnh giới tham sắc dục và thực dục. Gồm sáu cõi trời, cõi người và địa ngục. Chúng sanh trong cõi dục giới nầy đều có ngũ uẩn, tạo thành thân thể vật chất (thế giới vật chất bao trùm từ lục đạo, đến các cõi trời đều thuộc dục giới nầy).

Cõi sắc: Cảnh giới bên trên Dục giới gồm, Tứ Thiền Thiên. Đây là cõi của thiên thần bậc thấp. Chúng sanh trong cõi nầy không có dục và thực dục, chỉ có thân thân thể vật chất tốt đẹp thù thắng, cõi nước cung điện nguy nga. Tóm lại trong cõi nầy tham dục vật chất không ngừng tự thạnh, nhưng chưa giải thoát hết các mối phiền trược của vật chất vi tế. Y cứ theo tinh thần tu dưỡng cao cấp, cõi nầy chia làm tứ thiền thiên.

Cõi vô sắc: Cảnh giới vô sắc, không còn thân thể, cung điện, đồ vật. Nơi đó tâm an trụ trong thiền định thâm diệu. Cảnh giới nầy trải dài đến Tứ Không Xứ. Đây là cõi của thiên thần bậc cao, cảnh giới nầy cao hơn cảnh sắc giới, chúng sanh không còn bị vật chất ràng buộc, đương thể thuần là tinh thần độc lập, chúng sanh trong cõi nầy thường trụ trong thâm định, không có cảnh giới xứ sở. Y theo thắng liệt của thiền định, cõi nầy là cõi tứ không xứ. Chúng sinh thuộc ba cõi, sáu nẽo hay bốn loài cứ lưu chuyển không ngừng, hể tạo được nhiều phước thì được sinh vào cõi sung sướng, hưởng hết phước thì sa vào các cõi thấp hơn, hoặc khổ não như địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, hoặc làm người khốn khổ. Trả hết nghiệp lại dần dần lên các cõi sung sướng hơn, và cứ thế lên xuống, xuống lên, hết khổ rồi sướng, hết sướng rồi khổ, đời này sang đời khác, kiếp này sang kiếp khác với vòng luân hồi vô cùng tận. Không bao giờ chấm dứt. Khi khổ đau thì muốn dứt khổ, khi sung sướng thì không nhớ đển cảnh khổ và không có lý do gì, để tìm cách thoát khỏi cảnh luân hồi, khi mình đang sung sướng. Lưu chuyển không ngừng trong các cõi luân hồi tứ sinh, lục đạo, tam giới như vậy gọi là TÁI SINH DO NGHIỆP LƯC.

Ngoài ra còn có TÁI SINH DO NGUYỆN LƯC, tức là những bậc đại sĩ, thánh nhân, Bồ tát, Phật, do lòng đại từ bi, nên phát đại thệ nguyện vào các cõi sinh tử luân hồi hướng dẫn, chỉ dạy, giáo hóa chúng sinh thấy được khổ đau của kiếp sinh tử luân hồi và vì vậy muốn thoát ly sinh tử luân hồi. Như vậy trong ba cõi sáu nẽo hay bốn loài, không chỉ có chúng sinh vì nghiệp lực mà còn có các bậc TÁI SINH DO NGUYỆN LƯC. Và còn có bậc tu đà hoàn, còn tái sinh bảy lần trong cõi người, bậc tư đà hàm còn tái sinh một lần trong cõi người, bậc a na hàm tuy không sinh trở lại cõi người, nhưng chưa ra khỏi tam giới, nhưng không còn phải sinh tử luân hồi nữa và sẽ chứng quả vô sinh.

VÔ SINH: tức là quả A la hán, không còn sinh tử luân hồi nữa, thực sự thoát ly tam giới. Có người cho rằng quả A la hán là vị kỷ, vì chỉ thoát khổ cho cá nhân và không trở lại lục đạo, để cứu khổ những chúng sinh khác. Tức là cho đấy là tâm địa hẹp hòi, hay còn gọi là tiểu thừa. Chúng ta có thể hiểu vấn đề này qua các phương diện:

1. Mỗi người có một tâm nguyện và còn tùy theo khả năng của mình.

2. Những vị theo A la hán đạo cho rằng như vậy là đã đủ, chứng quả vô sinh, và thời gian còn lại các vị cũng làm mọi việc, có thể đề giáo hóa chúng sinh, như các vị la hán thời Phật tại thế.

3. Không phải ai cũng có điều kiện để phát nguyện rộng lớn hơn.

VÃNG SINH: tức là sinh về các cõi Phật như Cực lạc của Phật Di Đà, Diệu hĩ của Phật A súc, Tịnh lưu ly của Phật Dược Sư; được về các cõi Phật là đã thoát ly sinh tử luân hồi, và đủ mọi điều kiện thù thắng để tu tập, cho đến quả vị tối thượng là Phật quả, và tùy duyên hóa độ chúng sinh. Nói gần, nói xa, không qua nói thật, hay nói cho cùng là dù muốn VÃNG SINH - VÔ SINH - hay TÁI SINH DO NGUYỆN LỰC, thì trước hết phải chấm dứt cho được TÁI SINH DO NGHIỆP LỰC. Tức trước hết là phải KHÔNG MUỐN TÁI SINH DO NGHIỆP LỰC, tức là phải MUỐN GIẢI THOÁT, MUỐN THOÁT LY SINH TỬ LUÂN HỒI, tức là phải LẬP CHÍ CẦU GIẢI THOÁT. Đây phải là điều căn bản nhất, vì muốn thoát ly sinh tử luân hồi, nhưng chưa đủ công năng tu tập, hay chưa đủ năng lực, thì vẫn bị nghiệp lực lôi kéo vào vòng sinh tử, huống gì là không muốn thoát ly sinh tử luân hồi, thì lấy gì để ra khỏi luân hồi, để mà vãng sinh hay vô sinh, hay tái sinh bằng nguyện lực. VẬY MUỐN GIẢI THOÁT HAY MUỐN KHÔNG BỊ TÁI SINH DO NGHIỆP LỰC CÓ TIÊU CỰC KHÔNG?

Trích dẫn từ Kim cương thừa: "Một trích dẫn từ một giáo lý Kim Cương thừa, thường được đưa ra như một động lực, trong thời gian chuẩn bị cho một nhập môn Kim Cương thừa: Những người có lòng sùng mộ lớn lao, những người mưu cầu siêu vượt sinh tử, được phép đi vào mạn đà la. Ta không nên tham muốn những kết quả của đời này.

- Người tham muốn cuộc đời này không thành tựu ý nghĩa siêu vượt sinh tử.

Điều này có nghĩa là những hoạt động của những người tham muốn cuộc đời này, sẽ không trở thành nguyên nhân của Giác ngộ, là trạng thái siêu vượt sinh tử.

- Việc mưu cầu siêu vượt sinh tử, sẽ phát triển hạnh phúc của sinh tử của đời này.

Trong Lá Thư gởi một người Bạn, Đức Nagarjuna nói:

- Nếu tóc hay y phục của bạn bị bén lửa, bạn lập tức dập tắt nó. Cũng thế, nỗ lực để không bị tái sinh là một việc rất đáng làm. Khi một tàn lửa rơi vào bạn, bạn thoát khỏi nó không chút chậm trễ. Bạn phản ứng tức thì mặc dù tàn lửa có thể chỉ đốt cháy tóc hay y phục của bạn. Chắc chắn là bạn nên mãnh liệt hơn, trong việc nỗ lực tiệt trừ những nguyên nhân của sự tái sinh, trong những cõi thấp và những nỗi khổ liên tục của luân hồi sinh tử.

- Một người thấy khổ, biết khổ, bị khổ, cho nên muốn thoát khổ, muốn giải thoát.

- Một người không thấy khổ, không biết khổ, không bị khổ, tức là luôn sung sướng cho nên không cần thoát khổ, tức là không cần giải thoát, hay không có nhu cầu thoát khổ. Kinh Phật cũng nói những chúng sinh ở nhàn cảnh là vậy.

- Một người khổ, muốn thoát khổ, là chuyện bình thường, và cũng là người bình thường.

- Một muốn thoát khổ và muốn người khổ khác thoát khổ, hơn nữa là muốn có năng lực giúp người những người khổ thoát khổ, mới chính là THÁNH NHÂN và khi đầy đủ năng lực để chính mình thoát khổ và cứu giúp kẻ khác thoát khổ mới là đắc THÁNH QUẢ?. Không biết những chúng sinh ở khổ cảnh địa ngục, ngã quỉ, súc sinh, a tu la, khi thấy một kẻ trong chúng sẽ thoát khổ, sắp thoát khổ, đang thoát khổ, đã thoát khổ thì buồn rầu, vui mừng, tị hiềm; để cho đồng loại thoát khổ hay làm trở ngại cho việc vượt thoát ấy? Dù sao thì việc vượt thoát luân hồi, cũng là việc tu tập của mỗi chúng ta, dù nương nơi tự lực hoặc do tha lực đi nữa, thì đấy là thành công do cố gắng của từng cá nhân. Nếu tự mỗi chúng ta không cố gắng, thì Phật không thể phóng hào quang, để mà rước chúng ta về cõi Phật, và điều chắc chắn là giờ phút lâm chung, thì chỉ có chúng ta đối diện với những kết quả, mà minh đã tạo ra trong lúc sinh tiền. Dù cổ xe đại thừa hay tiểu thừa, thì giờ phút ấy cũng không tiếp nhận những ai không đủ tư lương.

TU SĨ PHẬT GIÁO TENZIN GYATSO nói rằng:

- Nguyện vọng vị tha, hướng đến giác ngộ tối thượng, vì tất cả chúng sanh, là nền tảng của sự thực hành của một Bồ tát, trong cả hai Thừa Hoàn Thiện và Kim Cương thừa. Nguyện vọng vị tha được khởi dẫn từ tình thương và bi mẫn, chúng là kết quả của việc nhìn thấy sự khổ đau của vòng sanh tử, phát sanh ý muốn từ bỏ nó, và rồi áp dụng cái hiểu biết này cho những người khác. NẾU NGƯỜI TA KHÔNG MUỐN THOÁT KHỎI VÒNG SANH TỬ, THÌ KHÔNG THỂ NÀO MONG MUỐN CHO NHỮNG NGƯỜI KHÁC THOÁT KHỎI NÓ. Ý muốn từ bỏ vòng sanh tử này, là chung cho cả Tiểu thừa lẫn Đại thừa, và trong Đại thừa thì chung cho cả Thừa Hoàn Thiện và Kim Cương thừa.

ĐẠI SƯ PHÙNG XUÂN nói rằng:

- Ba điều cầu nguyện thông thường là sức khoẻ, sự thành đạt, và sự hài hoà. Nhưng đối với người xuất gia thì có khác, điều cầu nguyện trước tiên nhất của người xuất gia, là vượt thoát sinh tử và thực hiện cho được sự an lạc hạnh phúc, của pháp giới bản môn ngay trong thế giới tích môn.

#7 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 28/09/2011 - 19:18

CHẾT - TRUNG ẤM THÂN - TÁI SINH

PHẬT GIÁO CÓ YẾM THẾ VÀ TIÊU CỰC KHÔNG?

KHÔNG.

Phật giáo rất thực tế về thế giới. Trong tứ diệu đế, điều thứ nhất, Đức Phật đã dạy về sự hiện hữu của khổ đau trên thế gian. Và điều thứ hai Đức Phật dạy rằng, nguyên nhân của khổ đau, tuỳ thuộc vào những nguồn gốc và điều kiện khác nhau, trước tiên nó là hiện thân của sự thiếu hiểu biết, tham dục, và vị kỷ. Điều thứ ba dạy rằng, một người có thể chấm dứt khổ đau, và điều thứ tư giảng giải, con đường để chấm dứt khổ đau. Phật giáo nhấn mạnh sự hiện hữu của vô thường, phiền não và khổ đau. Phật giáo dạy rằng tham dục, ích kỷ là những hạt giống chường ngại cho giác ngộ. Có những chân lý về thế gian mà hành giả nên quán chiếu. Tuy nhiên những sự thật này, đã được khám phá bởi Đức Phật với một thông điệp tích cực: rằng con người có thể khắc phục, những sự thật về khổ đau, vì chúng ta có sự tái sinh quý báu của con người, và rằng mỗi người có bổn tánh không khác Đức Phật. Phật giáo khuyến tấn mọi người, hãy nhìn thế gian trong một chiều hướng hiện thực và hữu ích. Đức Phật và những bậc thầy hiện tại, không là những nhân vật mờ ảo, ảm đạm, yếm thế. Thực sự, Đức Phật đã nổi tiếng vì tính hài hước, và nhiều bậc thầy ngày nay đã được biết đến, vì mẫu chuyện vui của các ngài. Longchenpa, một bậc thầy Tây tạng, một lần đã nói rằng:

- Một người phá lên cười, xuất hiện từ trong tất cả (?)

Khi Dilgo Khyentse Rinpoche giải thích rằng, đấy là những người thực sự, thấy rõ và tự tại với sợ hãi, và nhìn thế gian ở khía cạnh tích cực. Đức Phật và nhiều bậc thầy hiện tại, với lòng từ bi của các ngài, là những người quan tâm đến loài người và những loài chúng sinh khác. Đối lại với khổ đau, vô thường và ngay cả sự chết là hiện thực, vài cá nhân có thể thích giam mình trong những tiểu mật thất và lẫn tránh thế gian, tuy nhiên đấy không phải là một cách thực tế, để tiếp cận với hiện hữu. Dù sao thì muốn thoát khổ luân hồi cho tự thân, hay cứu khổ chúng sinh, và tạo dựng nhân gian thành nơi hạnh phúc hơn, hòa bình hơn, tươi mát và tồn tại lâu dài hơn, chúng ta phải thực sự cố gắng phấn đấu, để trở thành một thành phần của tứ thánh:

- Thinh văn.
- Duyên giác.
- Bồ tát.
- Phật.

#8 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 28/09/2011 - 19:22

CHẾT - TRUNG ẤM THÂN - TÁI SINH

THINH VĂN

Tứ Thánh Quả Sa Môn:

BA BẬC HỮU HỌC:

1. Tu Đà Hoàn: Dự lưu. Nhập Lưu. Nghịch Lưu. Quả vị Dự Lưu đầu tiên. Hành giả đang trong tư thế thấy được Đạo. Người ấy vẫn còn phải bảy lần sanh tử nữa. Sự thấy biết rõ ràng của các bậc nầy, giới hạn trong phạm vi của một tiểu thế giới, gồm chúng sanh trong lục đạo, bốn đại châu, núi Tu Di, sáu cõi trời dục giới, và một cõi sơ Thiên.

2. Tư Đà Hàm: Nhứt Lai. Quả vị thứ nhì “Nhất Lai”. Hành giả đang trong tư thế tu Đạo. Người ấy vẫn còn phải sanh thiên một lần, hay một lần nữa trở lại trong cõi người. Sự thấy biết của các bậc nầy, giới hạn trong một tiểu thiên thế giới, gồm một ngàn tiểu thế giới.

3. A Na Hàm: Bất Lai. Quả vị thứ ba “Bất Lai”. Hành giả cũng đang trong tư thế tu Đạo. Người ấy không còn trở lại sinh tử trong cõi Dục giới nữa. Sự thấy biết của các bậc nầy, bao hàm trong một trung thiên thế giới, gồm một ngàn tiểu thiên thế giới.

QUẢ VỊ THỨ TƯ LÀ QUẢ VỊ VÔ HỌC:

4. A La Hán: Ứng Cúng. Bất Sanh. Giai đoạn thứ tư và cũng là giai đoạn cuối cùng trong Thánh quả (Ứng Cúng) trong đó mọi triền phược nhiễm cấu, đều bị nhổ tận gốc. Hành giả trong giai đoạn nầy, không còn cần phải “học” hay “thực tập” nữa. Người ấy không còn phải sanh tử nữa. A La Hán là vị đã đạt được cứu cánh tối thượng của đời sống Phật giáo. Sự thấy biết của các bậc nầy, gồm thâu một Đại Thiên Thế Giới, tức gồm một ngàn trung thiên thế giới, tám mươi bốn ngàn kiếp về trước và tám mươi bốn ngàn kiếp về sau. Quá nữa thì không hiểu thấu.

THINH VĂN GIÁC

Cũng được xem là lý tưởng A La Hán, là sự giác ngộ của một đệ tử, hay A La Hán Đạo. Người có nguyện vọng đi theo con đường A La Hán, thường phải tìm sự hướng dẫn của một đạo sư cao thượng, đã chứng ngộ Đạo Quả. Đối với người đệ tử có trình độ tinh thần tiến bộ đầy đủ, chỉ một lời chỉ giáo đơn sơ của vị chân sư, cũng có thể khai thông trí tuệ và đưa vào vòng Thánh Đạo. Như Đức Sariputta (Xá Lợi Phất) chẳng hạn, chỉ được nghe nửa bài kệ của vị A La Hán Assaji, đã chứng đắc tầng Thánh đầu tiên. Bà Patacara, trong cơn suy sụp tinh thần vì chồng, con, cha, mẹ và em bị tử nạn thê thảm, được duyên lành đưa đến Đức Phật và đắc Quả A La Hán trong khi rửa chân dưới ờ suối, bà nhìn những giọt nước từ chân gieo điểm xuống dòng. Kisagotami là một người phụ nữ khác, tính tình chân chất, đến van nài Đức Phật cứu sống cho đứa con của bà vừa mới chết, cũng đắc Quả Thánh trong khi quan sát những ngọn đèn đang lụi dần. Vị tỳ khưu Cula Panthaka, không thể học thuộc một câu kệ trong bốn tháng, cũng đắc Quả A La Hán khi quán tưởng đến bản chất vô thường, của một cái khăn lau tay sạch. Sau khi đã thành tựu nguyện vọng, vị A La Hán dành trọn khoảng thời gian còn lại của đời mình, để tế độ những ai muốn tìm trạng thái thanh bình an lạc, bằng cách nêu gương lành trong sạch và ban truyền giáo huấn thâm sâu. Trước tiên Ngài tự thanh lọc, và sau đó cố gắng giúp người khác gội rửa bợn nhơ, bằng cách giảng dạy giáo lý mà chính Ngài đã thực hành. Một vị A La Hán có đủ tư cách để truyền dạy Giáo pháp, hơn các vị đạo sư phàm tục thường, chưa chứng ngộ Chân Lý, vì Ngài dạy với kinh nghiệm bản thân. Trong lý tưởng cao quý của bậc Thinh Văn A La Hán, không có chi là vị kỷ, bởi vì Đạo Quả A La Hán chỉ có thể thành đạt được, sau khi hành giả tuyệt trừ mọi hình thức ngã chấp. Ảo kiến về sự tự ngã và lòng vị kỷ, là những dây trói buộc, mà người có chú nguyện noi theo con đường A La Hán, phải cắt đứt cho kỳ được để thành tựu mục tiêu cứu cánh. Những bậc thiện trí, nam cũng như nữ, trong thời Đức Phật và về sau, đã được duyên lành gặp cơ hội vàng son, khai thông trí tuệ trong kiếp sống hiện tiền.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
NAM MÔ CỰC LẠC GIÁO CHỦ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT
NAM MÔ ĐỆ NHẤT TRÍ TUỆ XÁ LỢI PHẤT TÔN GIẢ CẬP
QUÁ HIỆN VỊ LAI NHẤT THIẾT TỨ QUẢ SA MÔN.

#9 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 28/09/2011 - 19:27

CHẾT - TRUNG ẤM THÂN - TÁI SINH

PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ TRONG KINH ĐIỂN PÀLI
ĐẠI ĐỨC UYÊN MINH

Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ, qua các kinh nói về Phật Di Đà, từ Hán tạng, vốn được phiên dịch từ kinh điển Sanskrit. Ở đó, cõi Tịnh độ hay Cực lạc, được mô tả là cảnh giới tuyệt vời, với tất cả những sự thù thắng trang nghiêm. Con đường dẫn đến cõi này, có thể chỉ gói gọn trong công phu trì niệm hồng danh Phật Di Đà. Ngoài sự thanh tịnh có được, từ việc nhất tâm niệm Phật Di Đà, oai lực của Ngài cũng thừa sức tiếp dẫn vong linh người niệm Phật, vãng sinh về thế giới Tịnh độ, để họ tiếp tục tu hành trong điều kiện thuận lợi hơn xưa gấp triệu lần. Cõi ấy giữa người với người không hề biết tương tranh thù hận, vì ở đó không có chuyện chiếm hữu lợi danh, như ở cõi Ta bà nhiều kiếp nạn này. Nhưng đó là theo kinh điển Hán tạng, nguồn giáo lý chủ đạo của Phật giáo Bắc truyền. Trong bài viết này ta thử tìm hiểu vấn đề qua kinh điển Pàli, nguồn giáo lý căn bản của Phật giáo Nam truyền. Dĩ nhiên, trong Tam tạng Pàli cũng có khái niệm Tịnh độ với những trình bày thật rõ ràng về cảnh giới này, những cư dân ở đó và con đường dẫn đến cảnh giới Tịnh độ, tức phép cầu vãng sanh theo kinh điển Nam truyền.

CÕI TỊNH ĐỘ THEO KINH ĐIỂN PÀLI

Trước hết, cõi Tịnh độ được biết đến trong kinh điển Pàli qua danh từ Suddhàvàsa, còn được dịch là Tịnh cư, theo lối chiết tự Suddha (thanh tịnh) và Àvàsa (chỗ ở). Vậy Suddhàvàsa cũng có thể được dịch là Tịnh độ, Tịnh thổ. Thậm chí chữ Pàli này còn gần gũi với chữ Tịnh độ, Tịnh thổ hơn là Sukhavati (chốn An lạc), một chữ chỉ có thể xem là tương đương với từ Sugati (Lạc cảnh, Thiện thú) trong kinh điển Pàli, chỉ chung cho các cõi nhân thiên. Theo các chú sớ A Tỳ Đàm, có tất cả năm cõi Tịnh độ, nằm trong mười sáu cõi Phạm thiên Hữu sắc, và là chỗ tái sanh của các bậc Thinh văn Bất lai, hay còn gọi là A na hàm (Anàgàmi người không còn trở lại các cõi dục giới). Tuy cảnh giới này chỉ gồm toàn các vị Bất lai và La hán (chứng A la hán sau khi sanh về đây), nhưng trên căn bản vì vẫn là cõi Hữu sắc, nên ở năm cõi Tịnh độ này, vẫn có những lâu đài, hoa viên rất trang nghiêm. Dĩ nhiên không phải là nơi chốn hưởng thụ, mà đó chỉ là những dấu vết tối thiểu của một cõi Ngũ uẩn. Về tuổi thọ, chư Thánh Bất lai ở cõi thấp nhất trong năm cõi Tịnh độ, là cõi Vô phiền có thọ mạng một ngàn đại kiếp.

Kế đến là cõi Vô nhiệt có thọ mạng hai ngàn đại kiếp.
Cõi thứ ba là Thiện hiện có thọ mạng bốn ngàn đại kiếp.
Cõi thứ tư là Thiện kiến có thọ mạng tám ngàn đại kiếp.
Và cõi Sắc cứu cánh có thọ mạng mười sáu ngàn đại kiếp.

Do có những lúc trải qua một thời gian dài, không có chư Phật ra đời độ sinh, nên dân số trên năm cõi Tịnh độ, chỉ có giảm mà không được bổ sung, do vậy cũng có những thời điểm, năm cõi này không tiếp tục tồn tại.

CƯ DÂN TỊNH ĐỘ THEO KINH ĐIỂN PÀLI

Trước tiên là trình bày đại lược về bốn tầng Thánh trí, làm nên bốn bậc Thánh nhân, và chính Đức Phật cũng được kể vào đó. Sơ quả hay Tu đà hoàn (Dự lưu) còn được gọi là Thất lai, người không thể tái sanh quá bảy lần, là vị đã chấm dứt hoàn toàn ba thứ phiền não thân kiến (nôm na là chấp kiến trong năm uẩn), hoài nghi (nghi ngờ về Phật pháp nói chung) và giới cấm thủ (chấp trước các tín điều mù quáng). Ở một số vị, thánh trí Sơ quả chỉ là một giai đoạn thoáng qua, trước khi hoàn tất các tầng thánh trí cao hơn. Như trường hợp Đức Phật hoặc các vị Thanh văn tốc chứng. Nhưng cũng có lúc giai đoạn này kéo dài trong nhiều giờ, nhiều ngày, nhiều năm hoặc vài kiếp sống (dĩ nhiên không quá bảy kiếp). Sớ giải Trường Bộ ghi rằng Thiên vương Đế Thích hiện nay là một vị Thánh Sơ quả. Khi hết tuổi thọ, ngài sẽ sinh xuống nhân gian làm Chuyển luân vương và chứng đắc Nhị quả Tư đà hàm. Sau đó sanh lên Đao Lợi thiên, chứng Tam quả A na hàm và lần lượt tái sanh ở đủ năm cõi Tịnh độ, bắt đầu là cõi Vô phiền, cuối cùng ngài sẽ chứng quả La hán và nhập diệt ở cõi Sắc cứu cánh. Tầng Thánh trí thứ hai là Nhị quả Tư đà hàm. Ngoài ba phiền não đã chấm dứt ở tầng thánh trước, quả vị này còn làm giảm nhẹ dục ái và sân hận. Do chỉ còn có thể tái sanh cõi Dục giới một lần nữa thôi, nên quả vị này còn được gọi là Nhất lai. Tầng Thánh thứ ba là Tam quả A na hàm (Anàgàmi), nghĩa là bậc Bất lai, người không còn trở lui các cõi dục giới nữa (có tất cả mười một cõi Dục giới). Theo A Tỳ Đàm tạng Pàli, thì do đã chấm dứt dục ái (niềm tham luyến trong ngũ trần) và sân hận, nên vị Thánh Tam quả trong trường hợp không thể chứng La hán, rồi nhập diệt ngay đời này thì có hai con đường để đi: Nếu đã chứng đắc Ngũ thiền, thì sẽ tùy theo khả năng mạnh yếu của Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ mà sanh về một trong năm cõi Tịnh độ. Tín nổi trội thì sanh về cõi Vô phiền, Tấn hùng hậu thì về cõi Vô nhiệt, Niệm hùng hậu về cõi Thiện hiện, Định hùng hậu thì về cõi Thiện kiến, Tuệ thâm hậu thì sanh về cõi Sắc cứu cánh. Không thứ gì yếu kém. Ở cõi Tịnh độ thứ năm này toàn bộ Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ đều được sung mãn; vì đây là nơi chốn sau cùng, để một vị Bất lai, chứng quả La hán và nhập diệt. Trong trường hợp vị Thánh Bất lai, chưa chứng qua một tầng thiền định nào, tức chỉ có trí tuệ Thiền quán (Vipassanà) mà không từng tu tập Thiền chỉ (Samatha) thì lúc mạng chung, vị này do khả năng ly dục vô sân tuyệt đối. Nên tối thiểu cũng thành tựu Sơ thiền, trước khi mạng chung ở cõi Dục giới và như vậy cũng đủ để sanh về cõi Phạm thiên, thấp nhất là Phạm thiên Sơ thiền. Do túc duyên và trình độ tu chứng có khác nhau, nên giữa các bậc Thánh Tam quả, cũng có vài sai biệt. Theo Manorathapurani, Chú sớ Tăng Chi Bộ:

- Tiền bán Niết bàn: Vị Bất lai chứng La hán, khi chưa sống hết phân nửa thọ mạng, ở cõi Tịnh độ nào đó trong năm cõi.

- Hậu bán Niết bàn: Chứng La hán sau khi sống hơn nửa thọ mạng ở cõi Tịnh độ nào đó.

- Luân lưu Niết bàn: Do căn tánh không xuất sắc, có vị Bất lai phải lần lượt sanh đủ năm cõi Tịnh độ, mới chứng quả La hán rồi nhập diệt ở cõi Tịnh độ cao nhất.

- Bất lao Niết bàn: Vị Bất lai có thể chứng La hán mà không cần nhiều cố gắng.

- Cần lao Niết bàn: Vị Bất lai phải nhiều nỗ lực mới có thể chứng La hán.

Tầng Thánh trí thứ tư chính là quả vị La hán, người chấm dứt toàn bộ phiền não. Theo A Tỳ Đàm Pàli thì có ba quả vị La hán:

1. Chư Phật Chánh Đẳng Giác Toàn Giác, cũng là những vị La hán, nhưng do tự mình chứng đắc và là đạo sư hướng dẫn cho những người hữu duyên, chứng đắc La hán.

2. Những vị La hán đệ tử này được gọi là Thanh văn giác

3. Quả vị La hán thứ ba là Độc Giác Phật, những vị tự mình chứng ngộ La hán, nhưng không thể hướng dẫn người khác chứng ngộ La hán.

Kinh điển Hán tạng còn gọi Độc Giác Phật là Duyên Giác Phật, vì cho rằng các Ngài nhờ liễu ngộ nguyên lý Duyên khởi mà giác ngộ. Kỳ thực, nếu đọc kinh Đại Duyên trong Trường Bộ kinh, ta sẽ thấy lý Duyên khởi và lý Tứ đế (vẫn bị hiểu lầm là dành riêng cho Thanh văn) vốn dĩ chỉ là một. Trong Trung Bộ kinh, Đức Phật đã xác định ai thấy lý Duyên khởi, chính là thấy Pháp và ngược lại. Đồng thời, không hề có chuyện một người giác ngộ lý Tứ đế, mà lại mơ hồ về lý Duyên khởi hay ngược lại. Tất cả quả vị La hán vừa nêu trên đây, luôn giống nhau về khía cạnh giác ngộ các pháp cần yếu (như Tứ đế, Duyên khởi...) Chỉ khác ở hai điểm chính: Tự mình hiểu ra, hay phải nhờ thầy hướng dẫn, và điểm thứ hai là ngoài trí tuệ giác ngộ, còn có khả năng hiểu biết sâu rộng, những gì nằm ngoài lý tưởng giác ngộ hay không. Xét về khía cạnh này, chỉ có chư Phật Chánh Đẳng Giác là viên mãn. Tuy nhiên, trong bài viết này, chúng ta chỉ đặc biệt nhấn mạnh quả vị Bất lai, vì đề tài ở đây là các cõi Tịnh độ.

PHÉP VÃNG SANH TỊNH ĐỘ THEO KINH ĐIỂN PÀLI

Vãng sanh vẫn được dùng song song với chữ siêu sanh, nhưng theo tinh thần A Tỳ Đàm Pàli, thì siêu sanh còn có thể được hiểu là, vượt thoát tái sanh, một điều chỉ thực hiện được bởi một vị La hán. Như vậy trong trường hợp vị Bất lai sanh về các cõi Tịnh độ, chỉ có thể gọi là vãng sanh. Và nếu phải trả lời câu hỏi về con đường vãng sanh Tịnh độ, thì như tất cả những gì vừa nêu trên, ta hoàn toàn có thể nói rằng, vãng sanh Tịnh độ chỉ là một phần đường, trên hành trình giải thoát, của một vị Thanh văn. Và như thế pháp môn Tịnh độ, hay con đường vãng sanh trong trường hợp này, cũng đồng nghĩa với hành trình Tam học, Tứ niệm xứ, Bát chánh đạo, nói chung là hành trình ba mươi bảy Bồ đề phần. Các pháp trong ba mươi bảy Bồ đề phần, đối với nhau chỉ là mối quan hệ tương tức; cái này chính là cái kia, trong cái kia có cái này. Như vậy, lời đáp cho câu hỏi về con đường vãng sanh, là toàn bộ những gì mà ta vẫn gọi là Phật pháp, và theo cách hiểu này, pháp môn Tịnh độ cần thiết cho tất cả mọi người. Đồng thời, chiếu theo tinh thần căn bản của Phật giáo mà nói, thì khi nhắc đến pháp môn Tịnh độ, cầu vãng sanh, không hề có nghĩa là chờ đợi sự tiếp dẫn của bất cứ ai, mà phải là sự lên đường bằng chính đôi chân của mình.

#10 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 28/09/2011 - 19:30

CHẾT - TRUNG ẤM THÂN - TÁI SINH

BÍCH CHI - ĐÔC GIÁC - DUYÊN GIÁC

S: pratyekabuddha. P: paccekabuddha. dịch theo âm là Bích chi ca Phật đà hoặc Bích chi Phật, cũng được gọi là Duyên Giác Phật. Một vị Phật đạt giác ngộ, nhờ tri kiến Mười hai nhân duyên, là người đạt được Phật quả, do tự mình chứng ngộ. Người ta cho rằng vị Ðộc giác Phật, không đạt được các năng lực như Nhất thiết trí hay Mười lực của một vị Tam miệu Tam Phật đà (Chính đẳng giác; s: samyak-saṃbuddha). Ðộc giác Phật được xem như bậc Thánh, ở quả vị khoảng giữa A la hán và Phật. Có khi Ðộc giác Phật là danh hiệu, chỉ người đạt giác ngộ trong thời không có vị Phật nào xuất hiện trên trái đất. Và giác ngộ nhờ đã đạt tri kiến mười hai nhân duyên trong các đời sống trước. Ðộc giác thừa là một trong Ba thừa (cỗ xe) để đạt Niết bàn. Sự khai minh giác ngộ đơn độc, của một người tự lực cố gắng tiến đến Đạo Quả, không nhờ một ai dạy dỗ hay giúp đỡ. Vì đặc tính đơn độc giác ngộ, nên chư Phật Độc Giác, không dắt dẫn ai đến nơi giác ngộ, bằng lối đơn độc giác ngộ được. Các Ngài chỉ nêu gương đức hạnh và trí dũng. Hơn nữa, chư Phật Độc Giác chỉ ra đời, trong lúc không có Phật Pháp. Số Phật Độc Giác không phải chỉ có một trong một thời kỳ riêng biệt, như trường hợp của bậc Toàn Giác. Như Đức Phật Gotama, mặc dù đã viên tịch lâu đời, nhưng bao giờ Giáo Pháp của Ngài còn tỏ rạng và tinh thuần như lúc ban sơ, thì không thể có một vị Phật Độc Giác ra đời trên thế gian này. Trong kinh Khaggavisana Sutta của bộ Sutta Nipata (Kinh Tập) có những lời dạy của chư Phật Độc Giác như sau:

1. Sống giữa chúng sanh, hãy dẹp lại một bên, gươm đao và các loại khí giới. Không gây tổn thương cho bất luận ai. Không làm cho ai phải xót đau, vì một đứa con hay một người bạn. Nhưng, hãy mạnh dạn tiến bước, như chúa sơn lâm, đơn độc một mình.

2. Thân mật sanh trìu mến. Do trìu mến có ưu phiền. Hãy nhận chân niềm bất hạnh phát sanh, do trìu mến và như chúa sơn lâm, hãy mạnh dạn tiến bước, đơn độc một mình.

3. Chúng ta chắc chắn tán dương giá trị của tình bằng hữu. Hãy thân cận với bậc cao nhân, hoặc người ngang bằng ta. Nếu không được vậy, hãy sống đời trong sạch không đáng bị khiển trách, và như chúa sơn lâm, hãy đơn độc mạnh tiến.

4. Khoái lạc vật chất trong đời sống quả thật vô số kể, vừa êm dịu, vừa ngọt ngào và quyến rũ. Dưới đủ hình thức, dục lạc làm cho lòng người say đắm. Hãy nhận chân hiểm họa của nó và một mình, đơn độc, hãy vững tiến như chúa sơn lâm.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.
NAM MÔ CỰC LẠC GIÁO CHỦ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT.
NAM MÔ QUÁ HIỆN VỊ LAI NHẤT THIẾT BÍCH CHI ĐỘC GIÁC DUYÊN GIÁC PHẬT.

#11 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 28/09/2011 - 19:34

CHẾT - TRUNG ẤM THÂN - TÁI SINH

QUÁN NHÂN DUYÊN

MỞ ĐỀ

Người đời, vì không hiểu sự vật trong vũ trụ này từ đâu mà có, cho nên sanh ra nhiều quan niệm sai lầm. Có người nghĩ rằng vũ trụ do tự nhiên sanh. Có người lại nghĩ vũ trụ do một vị thần toàn trí, toàn năng tạo ra.. Theo Ðạo Phật thì vũ trụ là vô thỉ, nghĩa là không có điểm khởi đầu, và mọi sự mọi vật trong vũ trụ không thể đứng riêng một mình mà có được; trái lại, phải nương nhờ nhau mà thành. Nói một cách khác, từ vật lớn cho đến vật nhỏ, từ vât hữu hình cho đến vô hình, đều không ngoài nhân duyên mà có. Vì thế, trong kinh Phật thường nói: "Chư pháp tùng duyên". Sự hiện hữu của loài hữu hình, hay nói riêng của loài người, cũng không ngoài công lệ ấy được. Muốn hiểu rõ một cách tường tận, cái guồng máy của sự sanh tử luân hồi, của kiếp trong bể khổ trần gian, chúng ta cần phải học lý "Thập nhị nhân duyên". Sau khi hiểu rõ lý thập nhị nhân duyên, chúng ta lại còn phải tìm hiểu phương pháp, để dứt trừ cái vòng lẩn quẩn sanh tử luân hồi nữa. Muốn hiểu và dứt trừ cái vòng sanh tử luân hồi, chúng ta phải học và thực hành pháp quán nhân duyên, mà chúng tôi xin trình bày trong bài giảng này.

Chánh Ðề

Ðịnh Nghĩa

Sao gọi là Nhân duyên? Nhân là nguyên nhân, chỉ cho những sự vật chính đó là nhân, trực tiếp sanh ra một vật khác, như hạt lúa làm nhân sanh ra cây lúa. Duyên là trợ duyên, chỉ cho những vật gì có tánh cách trợ giúp trực tiếp hay gián tiếp, cho vật khác được thành. Như phân, nước, ánh sáng, nhân công...là trợ duyên giúp cho hạt lúa được thành cây lúa. Vậy nhân duyên là chỉ cho các vật làm nhân cho nó, mà cũng vừa là trợ duyên cho tất cả vật chung quanh nó. Chữ "Nhân duyên" lại có nghĩa thứ hai: Các vật đều là "nhân", các "nhân" đó "duyên" với nhau mà thành ra các vật khác. Như vôi, gạch, ngói, gỗ...là nhân, các nhân này duyên nhau (nương giúp) mà thành ra cái nhà. Vì các pháp trùng điệp nhiều lớp làm duyên cho nhau, mà thành ra vật thế này hay thế khác, nên trong kinh chép: Chư pháp trùng trùng duyên khởi.

Thành Phần Của Nhân Duyên

Ðoạn trên đã nói: Các pháp do nhân duyên hòa hợp sanh. Vậy những nhân duyên gì sanh ra loài hữu tình. Vậy những nhân duyên sau đây:

1. Vô minh
2. Hành
3. Thức
4. Danh sắc
5. Lục nhập
6. Xúc
7. thọ
8. Ái
9. thủ
10. Hữu
11. Sanh
12. Lão tử.

1. Vô minh có nhiều nghĩa và nhiều loại:

a. Theo Ðại Thừa giải thích: Không tỏ ngộ chân tâm gọi là vô minh.

b. Thông cả Ðại Thừa và Tiểu Thừa giải thích: Hiểu biết các pháp không đúng như thật, nên gọi là vô minh như vô ngã mà chấp thật ngã, vô pháp mà chấp thật pháp vị...

c. Ngoài ra, còn những nghĩa thông thường như: vô minh là không sáng, tối tăm, mờ ám, si mê...

Vô minh, lại có khi để chỉ các phiền não như tham, sân, si. Xưa có người đến chùa hỏi:

- Thế nào là vô minh?

Tổ sư trả lời:

- Quê mùa dốt nát đến thế, cũng đến chùa hỏi đạo lý!

Ông khách nổi giận, mặt mày đỏ bừng...

Tổ sư nói tiếp:

- Vô minh là đó (chỉ cái sân), đó là vô minh.

Vô minh có khi chỉ riêng cho Si tâm sở. Như nói "độc hành vô minh" hay "tương ưng vô minh" là đều chỉ riêng cho "si tâm sở": Khi nó khởi riêng một mình, hoặc chung cũng với phiền não, tham, sân.. Vô minh lại phân ra hai loại: căn bản vô minh và chi mạt vô minh. Như trong mười hai nhân duyên, cái "vô minh" đầu là căn bản, vì nó là gốc sanh ra các vô minh sau; còn "ái, thủ, hữu" là chi mạt vô minh. Trong tứ hoặc, thì kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc là chi mạt vô minh; còn vô minh hoặc là căn bản vô minh. Trong ngũ trụ địa, thì kiến nhất xứ trụ địa, dục ái trụ địa , sắc ái trụ địa và hữu ái trụ địa là chi mạt vô minh, còn vô minh trụ địa là căn bản vô minh. Nói chung lại tất cả phiền não, hoặc thô hoặc tế của Ðại Thừa hay Tiểu Thừa, có tánh cách làm cho chân tâm bị ẩn, gương trí tuệ lu mờ thì gọi là vô minh.

2. Hành là hành động, tạo tác. Do vô minh phiền não nổi lên, làm cho thân, khẩu, ý, tạo tác ra các nghiệp lành hay dữ nên gọi là "hành".

3. Thức là thần thức, chỉ cho phần tinh thần. Do thân, khẩu, ý, ba nghiệp tạo tác những nghiệp lành hay dữ nên khi chết rồi, các nghiệp dẫn dắt thần thức đi lãnh thọ quả báo (thân) khổ hay vui ở đời sau.

4. Danh sắc là thân thể. Trong thân thể người có hai phần:

a. Phần tinh thần (tâm) chỉ có tên kêu gọi, chứ không có hình sắc nên gọi là "danh".

b. Phần thể chất có hình sắc, nên gọi là "sắc".

5. Lục nhập, gọi nôm na là sáu chỗ vào. Khi đã có thân thể rồi, cố nhiên phải có sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) là chỗ của sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp) phản ảnh vào, nên gọi là "lục nhập".

6. Xúc là tiếp xúc. Trong sáu căn, ngoài sáu trần thường gặp gỡ tiếp xúc với nhau, như mắt tiếp xúc với sắc, tai tiếp xúc với tiếng, mũi tiếp xúc với mùi, lưỡi tiếp xúc với vị, thân tiếp xúc với ấm lạnh, trơn nhám, ý tiếp xúc với pháp trần.

7. Thọ là lãnh thọ. Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, rồi lãnh thọ những cảnh vui hay buồn, sướng hay khổ, hay cảnh binh thường.

8. Ái là ưa muốn. Khi lành thọ cảnh vui thì sinh lòng tham, muốn làm sao cho được, khi gặp cảnh khổ thì sanh tâm sân hận, buồn rầu, muốn xa lìa, gặp cảnh binh thường thời si mê. Ðây là cái động cơ thúc đẩy thân, khẩu, ý, taoc tác các nghiệp.

9. Thủ là giữ lấy, tìm cầu; nói rộng ra là các hành động tạo tác. Do gặp cảnh thuận thì tham cầu, gặp cảnh nghịch lại sân, si muốn xa lìa; mục đích là muốn tìm phương này kế nọ để bảo thủ cho được bản ngã của mình. Do đó mà tạo ra các nghiệp sanh tử.

10. Hữu là có. Vì đời này đã có nhân lành hay dữ do mình tạo ra, thì đời sau quyết định phải "có" quả khổ hay vui mà mình phải thọ nhận.

11. Sanh. Là sanh ra. Do "ái, thủ, hữu" làm nhân hiện tại tạo ra các nghiệp, cho nên qia đời sau, phải sanh ra đời để thọ quả báo.

12. Lão, tử. Là già, chết. Ðã có sanh ra, tất nhiên phải chịu các khổ già và chết..

Mười hai nhân duyên này liên quan mật thiết với nhau, vừa làm quả cho nhân trước, vừa làm nhân cho quả sau, nối tiếp không dứt trong thời gian và làm cho chúng sinh phải mãi mãi xoay tròn trong vòng sanh tử.

Hiệu Quả Của Pháp 12 Nhân Duyên.

Hành giả sau khi thành tựu pháp quán mười hai nhân duyên này, thì sẽ trừ được tâm si mê là nguyên nhân chính của khổ đau và luân hồi của chúng sinh. Ðức Phật thường bảo: "Sự khổ ở tam đồ chưa hẳn là khổ, chỉ có người thiếu trí huệ mới là khổ thôi". Xem thế thì đủ biết trừ được tâm si mê và làm cho trí huệ được phát chiếu là một điều quan trọng bậc nhất của kẻ tu hành. Hơn nữa, hành giả còn nhờ pháp quán mười hai nhân duyên này mà sẽ chứng được quả Duyên giác. Khi Phật chưa giáng sinh, cũng có nhiều vị tu hành nhờ quán sát sự sanh hóa của vũ trụ mà được ngộ đạo. Những vị ấy người ta thường gọi là Ðộc giả, nghĩa là tự nghiên cứu một mình mà được giác ngộ. Ðến khi Phật giáng sinh, chỉ dạy pháp quán nhân duyên nhiều người y theo pháp quán này tu hành mà được giác ngộ, nên gọi là "Duyên giác" (nghĩa là những vị giác ngộ nhờ quán mười hai nhân duyên). Chỗ giải thoát của quả vị Duyên giacs và A La Hán đều giống nhau, nhưng về trí huệ và thần thông thì quả Duyên giác cao hơn quả A La Hán.

Kết Luận

Ðể độc giả có một ý niệm chung về bài giảng này và dễ nhớ, chúng tôi xin tóm tắt những yếu điểm sau đây: Tất cả sự vật không một vật nào riêng biệt mà tồn tại được. Chúng phải nương tựa vào nhau mới thành vật này hay vật khác. Ðó là lý nhân duyên sanh, hay trùng trùng duyên khởi. Riêng về loài hữu tình như kiếp người chẳng hạn, thì do mười hai nhân duyên nương nhau mà thành một chuỗi sanh tử dài vô hạn, nối tiếp từ quá khứ đến hiện tại và vị lai. Tùy theo cái tác dụng của nó mà mười hai nhân duyên ấy có thể chia làm ba nhóm là: hoặc (mê mờ), nghiệp (tạo tác) và khổ (kết quả). Muốn dứt trừ chuỗi sanh tử dài trong biển khổ đau của cõi tục, phải quán mười hai nhân duyên. Hành giả thành tựu được pháp quán mười hai nhân duyên này, thì sẽ dứt trừ được vô minh, thoát khỏi sanh tử và chứng được quả vị Duyên giác. Cầu mong cho quí vị độc giả thấu hiểu được chân giá trị của pháp quán này và tinh tấn tu hành để đạt được quả vị quý báu nói trên.

Ghi Chú: Có chỗ nói bài kệ như vầy:

"Chư pháp tùng duyên sanh, diệc tùng nhân duyên diệt,
Ngã Phật Ðại Sa Môn, thường tác như thị thuyết".

Dịch nghĩa:

Các pháp do nhân duyên, cũng do nhân duyên diệt. Ðức Phật của chúng ta, thường dạy nói như vậy. Theo Ðại Thừa thì bài kệ về nhân duyên như vầy;

Chư pháp tùng duyên sinh
Diệc tùng nhân duyên diệt
Nhược năng như thị giải
Chư Phật thường hiện tiền.

#12 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 28/09/2011 - 19:37

CHẾT - TRUNG ẤM THÂN - TÁI SINH

NĂNG LỰC CỦA LA HÁN - ĐỘC GIÁC - DUYÊN GIÁC

I. Tam Minh:

Ba loại sáng suốt có thể đạt được bằng trì giới.

- Túc mệnh minh: biết rõ các tiền kiếp của mình và chúng sinh.

- Thiên nhãn minh: biết rõ sự tiêu hủy và tái xuất của chúng sinh, nghiệp nào sinh ra quả nào. Biết sự chết và tái sanh của các loài hữu tình

- Lậu tận minh: biết rõ các Ô nhiễm sẽ chấm dứt như thế nào. Đoạn trừ tất cả các lậu hoặc (những dục vọng và quyến rủ)

II. Bát Giải

Bát Giải Thoát Tam Muội: Tám giải thoát, hay tám phép thiền định giải thoát khỏi sắc dục.

1. Nội hữu sắc tưởng, ngoại quán sắc giải thoát Tam muội: Tự mình có sắc, thấy có sắc. Trong giai đoạn nầy hành giả tự mình quán thân bất tịnh

2. Nội vô sắc tưởng, ngoại quán sắc giải thoát Tam muội: Quán tưởng nội sắc là vô sắc, thấy các ngoại sắc bất tịnh

3. Tịnh thân tác chứng cụ túc trụ giải thoát: Tịnh giải thoát thân chứng Tam muội. Quán tưởng sắc là tịnh, chú tâm trên suy tưởng ấy để đoạn diệt dục vọng.

4. Không vô biên xứ giải thoát (Không xứ giải thoát Tam muội): Vượt khỏi hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ các tưởng hữu đối, không suy tư đến những tưởng khác biệt, với suy tư: “Hư không là vô biên: chứng và trú Không Vô Biên Xứ, nơi mọi luyến chấp vào vật chất đều bị tận diệt bằng thiền quán.

5. Thức vô biên xứ giải thoát (Thức xứ giải thoát Tam muội): Vượt khỏi hoàn toàn Hư Không vô biên xứ, với suy tư “Thức là vô biên” chứng và trú Thức vô biên xứ, nơi mọi luyến chấp vào “không” đều bị tận diệt bằng thiền đinh.

6. Vô sở hữu xứ giải thoát Tam muội: Vượt khỏi hoàn toàn Thức vô biên xứ, với suy tư “không có vật gì” chứng và trú Vô sở hữu xứ, nơi mọi luyến chấp vào thức hoàn toàn bị tận diệt bằng thiền định.

7. Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát Tam muội: Vượt khỏi hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nơi đây mọi luyến chấp vào hữu đối hoàn toàn bị đoạn tận bằng thiền định.

8. Diệt thọ tưởng định giải thoát (Diệt tận định xứ giải thoát Tam muội): Vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng. Đây là giai đoạn hoàn toàn tịch diệt hay Niết Bàn.

III. Lục Thông

Sáu thần thông mà chư Phật hay chư A La Hán đạt được qua tứ thiền:

1- Thiên Nhãn Thông: Khả năng thấy được tất cả mọi thứ trong sắc giới. Khả năng thấy cái mà mình muốn thấy.

2- Thiên Nhĩ Thông: Khả năng nghe mọi âm thanh. Khả năng nghe và hiểu mọi ngôn ngữ.

3- Tha Tâm Thông: Tha Tâm Trí Thông hay khả năng đọc được tư tưởng của người khác mà các bậc giác ngộ đạt được cao hay thấp tùy theo sự thành đạt của bậc ấy.

4- Thần Túc Thông: Khả năng đi bất cứ đâu và làm bất cứ thứ gì tùy ý.

5- Túc Mạng Thông: Khả năng biết được quá khứ vị lai của mình và người.

6- Lậu Tận Thông: Khả năng chấm dứt nhiễm trược và đưa tâm đến chỗ giải thoát khỏi mọi dục vọng.

Chưa chứng quả A La Hán, Duyên Giác hay hơn nữa, hành giả có thể đắc ngũ thông tức là thiếu Lậu tận thông. Cho nên năm phép trên, ngũ thông, gọi là hữu lậu thông, tức là thần thông của hành giả còn vướng, chưa thoát khỏi luân hồi hay chưa ra khỏi tam giới, còn luân chuyển trong lục đạo. Còn phép thứ sáu, lậu tận thông, Vô lậu thông là phép thần thông của hành giả đoạn hết các phiền não, dứt luân hồi, chứng niết bàn. Ấy là phép thần thông của chư La hán, Duyên giác, Phật.

IV. Ngũ Nhãn

Ngũ Nhãn: Năm loại mắt hay thị giác:

1. Phàm Nhãn: Nhục nhãn. Mắt thịt của nhục thân, có tầm nhìn giới hạn, mắt của người thường, là con mắt thịt, con mắt của một phàm phu.

2. Thiên Nhãn: Mắt của chư Thiên ở cõi trời sắc giới, nhưng người phàm tu thiền định vẫn đạt được loại mắt nầy, với thiên nhãn thì chẳng luận xa gần, trong ngoài, sáng tối, đều thấy được hết, con mắt của chư Thiên, có thể nhìn thấy được những hiện tượng siêu nhiên, quá khứ, vị lai, địa ngục ..

3. Huệ Nhãn: Mắt của các bậc Thanh Văn, Duyên Giác và A La Hán, hay là trí huệ soi rõ lý chân không vô tướng, con mắt trí huệ, nhìn thấu suốt được tính Không của các pháp.

4. Pháp Nhãn: Như Thị Nhãn. Mắt trí huệ của chư Bồ Tát hay pháp nhãn, nhìn thấu suốt sự vật để cứu độ chúng sanh, là con mắt pháp, thấy được sự đa dạng của các pháp hiện hữu.

5. Phật Nhãn: Thực Nhãn. Mắt của bậc giác ngộ thấu suốt mọi vật, con mắt của một bậc giác ngộ, nhìn thấu suốt thể tính của vạn sự. Đức Phật có đủ mắt Phật và bốn mắt trên.

#13 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 28/09/2011 - 19:45

CHẾT - TRUNG ẤM THÂN - TÁI SINH

BA HẠNG BỒ TÁT

Lý tưởng Bồ Tát. Bồ Tát Đạo. Bồ tát thừa. Danh từ Nam Phạn (Pali) "Bodhisatta" Bồ Tát gồm hai phần. "Bodhi" là trí tuệ hay giác tuệ, và "Satta" là "gia công để... hay chuyên cần để..." Vậy Bodhisatta Bồ Tát, là người gia công hay chuyên chú nỗ lực, để thành đạt trí tuệ hay giác tuệ. Đúng ra, hình thức Bắc Phạn (Sanskrit) của danh từ Bodhisatta phải là Bodishakta, nhưng thường người ta dùng một danh từ phổ thông là Bodhisattva, "trí tuệ chúng sanh", nghĩa là chúng sanh có nguyện vọng trở thành Phật, hay "hữu tình giác, giác hữu tinh". Danh từ này thường được dùng để chỉ bất luận ai, cố gắng thành đạt tuệ giác, nhưng theo đúng nghĩa của nó, Bodhisatta là người đã có lập lời chú nguyện, đi theo con đường Chánh Đẳng Chánh Giác và đã có được thọ ký. Bồ Tát không nhất thiết phải là Phật tử. Trong hiện tại ta có thể gặp nhiều vị Bồ Tát đầy lòng từ bi, bác ái, mặc dù các Ngài có thể không hay biết gì về lời chú nguyện thành Phật của mình. Các vị ấy có thể ở trong hàng Phật tử, cũng có thể không.

Ba Hạng Bồ Tát: Theo Phật Giáo có ba hạng Bồ Tát là:

- Trí tuệ Bồ Tát

- Tín Đức Bồ Tát

- Tinh Tấn Bồ Tát.

Ba hạng trên đây tuần tự tương đương với ba hạng du dà (yoga) trong Ấn Độ Giáo: Nana Yogi, Bhakti Yogi, và Karma Yogi.

- Trí Tuệ Bồ Tát ít thiên về lòng nhiệt thành sùng đạo, nhưng kiên trì tinh tấn chuyên cần hơn, trên đường phát triển trí tuệ.

- Tín Đức Bồ Tát sùng mộ, tin tưởng nơi lễ bái thờ phượng, mà ít chú trọng về công trình trau giồi tâm trí và bồi đắp công đức vị tha.

- Tinh Tấn Bồ Tát thì tập trung vào tinh thần phục vụ. Thật hy hữu nếu không phải là không bao giờ, ba đặc điểm trên điều hòa kết tụ vào một người. Đức Phật Gotama được xem là hạng Trí Tuệ.

Theo kinh sách, con đường của bậc Trí Tuệ Bồ Tát ngắn nhất. Tín Đức Bồ Tát phải trải qua một thời gian dài hơn; và Tinh Tấn Bồ Tát càng dài hơn nữa. Trí Tuệ Bồ Tát chú trọng về công phu phát triển trí tuệ và hành thiền, nhiều hơn là nhiệt thành với những hình thức lễ bái cúng dường bề ngoài. Các Ngài luôn luôn đi theo sự hướng dẫn của lý trí và không chấp nhận điều gì một cách mù quáng. Không tự bó tay qui hàng một lý thuyết nào, cũng không làm nô lệ cho một quyển sách, một bộ kinh, hay một cá nhân nào. Trí Tuệ Bồ Tát thích trầm tĩnh, yên lặng để trau giồi thiền tập. Từ nơi vắng vẻ tịch mịch ấy, Ngài rải ra những tư tuởng an lành, tuy trầm lặng nhưng hùng dũng, bủa khắp thế gian, để đem lại sự hỗ trợ tinh thần cho nhân loại đau khổ.

Tín Đức Bồ Tát đặt trọn niềm tin nơi hiệu lực của tâm thành, Saddha, hay niềm tin chân thành là đặc điểm chánh yếu của ngài. Cùng với Saddha (niềm tin nơi Tam Bảo) như người bạn đồng hành trung tín, Ngài thành tựu mục tiêu. Tất cả các hình thức về lễ bái, thờ phượng bụt tượng, là sở trường của vị Tín Đức Bồ Tát. Tượng Phật là một nguồn gợi cảm quan trọng đối với Ngài. Nên hiểu rằng người Phật tử không sùng bái pho tượng vì chính cái pho tượng bằng đồng hay bằng gỗ ấy, người Phật Tử bày tỏ lòng kỉnh mộ tinh thần cao cả mà pho tượng tượng trưng, và suy niệm về phẩm hạnh, và ân đức của đức Từ Tôn. Càng suy tưởng đến Đức Phật, càng kỉnh mộ Ngài. Đó là lý do tại sao mà Phật Giáo không khi nào phủ nhận các hình thức ngưỡng mộ bề ngoài (amisa puja) mặc dầu pháp hành (patipatti puja) đáng được khuyến khích hơn và chắc chắn là bổ ích hơn. Vả lại, để đi đến thành quả thỏa đáng, đôi khi trí thức khô khan cũng cần được hưởng chút ít hương vị của Bhakti (đức tin). Nhưng Bhakti, đức tin, quá đáng thì cũng phải nhờ trí tuệ kiềm hãm để khỏi phải sa vào cuồng tín.

Tinh Tấn Bồ Tát thì luôn luôn tìm cơ hội để phục vụ kẻ khác. Không có gì làm cho vị Bồ Tát hoan hỷ bằng tích cực phục vụ. Đối với các Ngài, "làm việc là hạnh phúc và hạnh phúc là làm việc". Không tích cực hoạt động thì các Ngài không có hạnh phúc. Như đức vua Sangha-bodhi xứ Sri Lanka nói: "Ta mang tấm thân bằng thịt và máu này là chỉ để đem lại trạng thái tốt đẹp và an lành cho thế gian." Bồ Tát không chỉ sống cho riêng mình mà còn sống cho kẻ khác nữa. Luôn luôn hoạt động luôn luôn làm việc, không ngừng, không biết mệt, không chán, không phải làm việc như người nô lệ, mà như một chủ nhân. Các Ngài không ham muốn, không bám vào danh thơm tiếng tốt. Các Ngài chú trọng đến việc làm, đến sự phục vụ. Ai biết, ai không biết mình làm gì, điều ấy không quan trọng. Chẳng màng được khen, không bị sợ chê, Bồ Tát thản nhiên trước lời tán dương hay khiển trách.

Bồ Tát quên mình trong khi phục vụ kẻ khác, có khi phải hy sinh mạng sống của mình để cứu mạng chúng sanh khác, những người bạn đồng hành trên bước đường dài dẵng của vòng luân hồi. Muốn quên mình để hiến thân cứu mạng cho một chúng sanh khác, Bồ Tát phải hành tâm Bi và tâm Từ đến mức độ đặc biệt. Bồ Tát ước mong sự tốt đẹp và an lành của thế gian. Ngài thương chúng sanh như bà từ mẫu thương đứa con duy nhất của bà. Bồ Tát hòa mình với tất cả mọi người như anh, như chị. Thương yêu tất cả như mẹ, như cha, như bạn, như thầy. "Tâm Bi của Bồ Tát nhằm thực hiện tánh cách bình đẳng giữa Ngài và người khác và cũng đặt mình trong kẻ khác". Trong khi thực hành như vậy, Bồ Tát mất dần ý niệm về cái "Ta" và không còn thấy sự khác biệt giữa Ngài và người khác. Ngài tự đồng hóa với tất cả, lấy tốt trả xấu, lấy thiện trả ác lấy, lành trả dữ, giúp đỡ tất cả, chí đến những người chủ tâm hại mình, bởi vì Bồ Tát hiểu rằng "lực lượng của người dẫn đạo là pháp nhẫn". Bị nhục mạ nhưng không nhục mạ lại, bị đánh đập nhưng không đánh đập lại, bị làm phiền nhưng không gây phiền nhiễu ai, Bồ Tát một mực giữ đức khoan hồng. Tựa như đất mẹ trầm lặng, Bồ Tát âm thầm chịu đựng tất cả những lỗi lầm của kẻ khác.


TÁC GIẢ: ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA THỨ 14

Dịch Giả: Tuệ Uyển








Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |