Vietnam war, bàn về lịch sử
#16
Gửi vào 10/04/2021 - 11:09
1. Trật tự thế giới, Henry Kissinger.
2. Bàn về Trung quốc, Henry Kissginer.
3. Sự Minh định của Địa lý, Robert Kaplan.
4. Bàn cờ lớn, Zbigniew Brzezinski.
5. Tù nhân của Địa lý, Tim Marshall
Thanked by 2 Members:
|
|
#17
Gửi vào 11/04/2021 - 11:58
Vài trích đoạn liên quan vùng Đông Bắc Á và ĐNA.
---
Trong bối cảnh toàn cầu hiện nay, có ít nhất năm đấu thủ địa chính trị chủ chốt và năm trung tâm địa chính trị (với hai trong số những nước ở nhóm sau phần nào hội đủ điều kiện tham gia cuộc chơi) có thể được xác định trên bản đồ chính trị mới của lục địa Á-Âu. Pháp, Đức, Nga, Trung Quốc và Ấn Độ là những đấu thủ chính và tích cực, trong khi Vương quốc Anh, Nhật Bản và Indonesia, được thừa nhận là những quốc gia rất quan trọng, lại không đủ điều kiện.
Ukraine, Azerbaijan, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Iran đóng vai trò là những trung tâm địa chính trị quan trọng, mặc dù ở một mức độ nào đó, Thổ Nhĩ Kỳ và Iran - trong phạm vi khả năng có giới hạn - cũng năng động về mặt địa chiến lược.
---
Cũng có những lĩnh vực nơi tham vọng của Trung Quốc có thể xung đột với lợi ích của Mỹ (và cả Nhật Bản), nhất là khi Trung Quốc theo đuổi chúng thông qua những chiến thuật mạnh tay quen thuộc trong lịch sử. Đây là lưu ý đặc biệt cho Đông Nam Á, Đài Loan và Triều Tiên.
Đông Nam Á, xét về tiềm năng, quá rộng về mặt địa lý và đơn giản là quá lớn để có thể dễ dàng bị phụ thuộc vào một Trung Quốc mạnh mẽ, nhưng nó cũng quá yếu và quá phân mảnh về mặt chính trị nên ít nhiều khó tránh việc trở thành một phạm vi bảo hộ đối với Trung Quốc. Ảnh hưởng khu vực của Trung Quốc, được khuyến khích bởi sự hiện diện tài chính và kinh tế của Trung Quốc tại tất cả các quốc gia trong khu vực, chắc chắn sẽ tăng lên khi sức mạnh Trung Quốc tăng lên. Phần lớn phụ thuộc vào cách Trung Quốc áp dụng sức mạnh đó, nhưng không rõ ràng rằng Mỹ có bất kỳ lợi ích đặc biệt nào trong việc chống đối nó trực tiếp hoặc tham gia vào các vấn đề như tranh chấp Biển Đông. Người Trung Quốc có kinh nghiệm lịch sử đáng kể trong việc quản lý một cách linh hoạt các mối quan hệ bất bình đẳng (hoặc với nước chư hầu), và chắc chắn sẽ có lợi cho chính Trung Quốc khi họ tự kiềm chế để tránh nỗi lo ngại nhắm vào chủ nghĩa đế quốc Trung Quốc tại khu vực. Nỗi sợ hãi đó có thể tạo ra một liên minh chống Trung Quốc trong khu vực (và một số phản ứng quá mức đã hiện diện trong hợp tác quân sự Indonesia-Australia còn non trẻ), thứ sau đó rất có thể sẽ tìm kiếm sự hỗ trợ từ Hoa Kỳ, Nhật Bản và Australia.
Một Đại Trung Hoa, đặc biệt là sau khi tiếp quản Hồng Kông, gần như chắc chắn sẽ tìm kiếm nhiều năng lượng hơn để hoàn tất hợp nhất Đài Loan vào đại lục. Điều quan trọng là phải đánh giá cao thực tế Trung Quốc chưa bao giờ chấp nhận sự chia rẽ vô định với Đài Loan. Do đó, tại một thời điểm bất kỳ, vấn đề đó có thể tạo ra một vụ va chạm trực diện giữa Mỹ và Trung Quốc.
---
Cuối cùng, Hàn Quốc là một trung tâm địa chính trị ở Viễn Đông. Có được những liên kết chặt chẽ với nước này, Hoa Kỳ vừa có thể bảo vệ Nhật Bản và qua đó giữ cho nước này không trở thành một cường quốc quân sự độc lập, vừa không phải áp đặt sự hiện diện của mình trên đất Nhật. Bất kỳ thay đổi đáng kể nào về tình trạng của Hàn Quốc, thông qua thống nhất và/hoặc thông qua một bước chuyển chịu ảnh hưởng của Trung Quốc đang bành trướng nhất thiết sẽ làm thay đổi vai trò của Mỹ ở vùng Viễn Đông, và do đó cũng làm thay đổi Nhật Bản. Ngoài ra, sức mạnh kinh tế ngày càng mạnh lên cũng khiến Hàn Quốc tự thân trở thành một “không gian” quan trọng hơn, và việc kiểm soát nước này trở nên có giá trị.
Danh sách đấu thủ địa chiến lược và trung tâm địa chính trị trên đây không lâu dài và cố định. Có thời điểm phải thêm vào hay bớt ra một số nước. Trường hợp như Đài Loan, Thái Lan, Pakistan, hay có lẽ Kazakstan hoặc Uzbekistan, có thể nằm trong nhóm sau, một lúc nào đó. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, không một thay đổi nào trong số hai phương án trên là hấp dẫn. Thay đổi địa vị của bất kỳ nước nào trên thế giới đều là dấu chỉ cho thấy các sự kiện lớn và liên quan đến một số chuyển dịch trong phân phối quyền lực, nhưng liệu những hệ quả dây chuyền sau đó sẽ để lại ảnh hưởng sâu rộng ra sao, chúng ta chưa quyết chắc được.
Ngoại lệ duy nhất có thể là Đài Loan. Nếu Đài Loan được xem là nằm ngoài Trung Quốc, thì vấn đề sẽ chỉ nảy sinh một khi Trung Quốc sử dụng lực lượng quân sự khổng lồ để chinh phục lãnh thổ này nhằm thách thức Hoa Kỳ, do đó đe dọa uy tín chính trị Mỹ ở Viễn Đông. Xác suất xảy ra một sự kiện như vậy có lẽ thấp, nhưng vẫn phải được cân nhắc khi hoạch định chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc.
---
Trong bất kỳ liên minh “chống bá quyền” nào như vậy, Trung Quốc sẽ luôn là mấu chốt. Họ là thành phần lãnh đạo, quan trọng nhất và năng động nhất. Một liên minh như vậy chỉ có thể hình thành xoay quanh một Trung Quốc không bằng lòng, phẫn chí và thù nghịch. Cả Nga lẫn Iran đều không đủ điều kiện để trở thành cục nam châm trung tâm cho liên minh đó.
Như đã phản bác trước đó trong các Chương 4 và Chương 6, bất kỳ liên minh Trung Quốc-Nga-Iran nào chống lại Mỹ đều không khả thi hay thi thoảng có gì đó hàm ý nhiều hơn một vài biểu hiện chiến thuật. Quan trọng là Hoa Kỳ phải thỏa thuận với Trung Quốc theo cách không khiến cho Bắc Kinh đi theo con đường đó. Do đó, một cuộc đối thoại giữa Mỹ và Trung Quốc - liên quan đến các khu vực mà cả hai quốc gia đều mong muốn không bị các nước bá quyền đầy tham vọng thống trị - là rất khẩn thiết.
---
Trong bất kỳ tình huống nào, vì các lý do lịch sử lẫn địa chính trị, Trung Quốc nên cân nhắc xem nước Mỹ là đồng minh tự nhiên của mình. Không như Nhật Bản và Nga, Mỹ không có bất kỳ ý đồ lãnh thổ nào đối với Trung Quốc, và, không như Vương quốc Anh, người Mỹ chưa bao giờ hạ nhục Trung Quốc. Ngoài ra, nếu không có sự đồng thuận chiến thuật vững vàng với Mỹ, Trung Quốc không thể nào tiếp tục thu hút nguồn đầu tư nước ngoài khổng lồ rất cần thiết cho tăng trưởng kinh tế để mà từ đó nước này đạt được ưu thế khu vực. Vì lý do tương tự, nếu không có sự dàn xếp chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc như một “mỏ neo” phương Đông cho Mỹ can thiệp vào khu vực Á-Âu, Mỹ sẽ không có một địa chiến lược nào cho châu Á đại lục, và nếu không có một địa chiến lược cho châu Á, Mỹ sẽ không có một địa chiến lược cho toàn khu vực Á-Âu. Do đó, đối với Mỹ, thế lực của Trung Quốc trong khu vực, được kết nạp vào một thiết chế hợp tác quốc tế rộng lớn hơn, có thể là một tài sản địa chiến lược vô cùng quan trọng - có thể quan trọng ngang hàng với châu Âu và có sức nặng hơn Nhật Bản trong việc đảm bảo ổn định cho khu vực Á-Âu.
...
#18
Gửi vào 11/04/2021 - 18:26
--
Phân tích của Đặng về tình hình chiến lược có bao gồm một thông báo cho Nhà Trắng rằng Trung Quốc có ý định đi đến chiến tranh với Việt Nam, vì họ kết luận rằng Việt Nam sẽ không dừng lại ở Campuchia. "Đông dương sẽ bao gồm nhiều hơn ba nước". Ba quốc gia sẽ chỉ là bước đi đầu tiên. Rồi Thái Lan sẽ được thêm vào. Đặng tuyên bố Trung Quốc trách nhiệm phải hành động. Họ không thể chờ đợi những sự phát triển; một khi chúng phát sinh, sẽ là quá muộn.
Đặng nói với Carter rằng mình đã cân nhắc đến "khả năng tồi tệ nhất" - sự can thiệp lớn của Xô Viết, như Hiệp ước phòng thủ Moscow - Hà Nội mới ký. Thực ra, các báo cáo nêu rõ rằng Bắc Kinh đã sơ tán đến 300.000 dân khỏi các vùng lãnh thổ biên giới phía Bắc của mình, đặt các lực lượng dọc theo biên giới Trung - Việt ở mức cảnh báo tối đa. Nhưng Đặng nói Bắc Kinh cho rằng một cuộc chiến ngắn gọn, giới hạn sẽ không cho Moscow thời gian để có "một phản ứng lớn", và rằng những điều kiện mùa Đông khiến cuộc tấn công tổng lực của Xô Viết lên miền Bắc Trung Quốc thêm khó khăn. Đặng nêu rõ, Trung Quốc "không sợ", nhưng họ cần "sự hỗ trợ đạo đức" của Washington, theo đó ý ông đủ mơ hồ về các kế hoạch của Mỹ chặn đứng quân Xô Viết.
Căn cứ theo biên bản ghi nhớ kể lại chi tiết cuộc đối thoại riêng tư (lúc đó chi có người phiên dịch hiện diện), Đặng khăng khăng rằng phân tích chiến lược không thèm đếm xia đến Carter viện ra ý kiến thế giới. Cuối cùng, Trung Quốc không phải là kẻ dễ uốn nắn: "Trung Quốc vẫn phải dạy cho Việt Nam một bài học. Liên bang Xô Viết có thể sử dụng Cu Ba, Việt Nam và sau đó là Aíghanistan để phát triển thành một sự ủy quyền [cho Liên bang Xô Viết]. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đang tiếp cận vấn đề này từ một vị thế mạnh me. Hành động sẽ rất được giới hạn. Nếu Việt Nam nghĩ rằng Trung Quốc mềm mại, tình hình sẽ còn tệ hơn".
---
Bản sắc dân tộc Việt Nam phản ánh di sản của cả hai thế lực phần nào khác nhau: Một mặt, ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, một mặt phản đối sự thống trị về quân sự và chính trị của Trung Quốc. Phản kháng Trung Quốc giúp sản sinh niềm tự hào nồng nhiệt, thiết tha về nền độc lập và truyền thống quân sự ghê gớm của người Việt. Anh hưởng một nền văn hóa Trung Quốc mang lại cho Việt Nam một tinh hoa Khổng Giáo theo phong cách Trung Quốc, người sở hữu nỗi mặc cảm của riêng họ về một đất nước Trung Hoa cục bộ so với người láng giềng. Trong các cuộc chiến tranh Đông Dương vào thế kỷ XX, Hà Nội đã cho thấy cảm nhận của mình về tư cách chính trị và văn hóa bằng cách sử dụng lãnh thổ trung lập của Lào và Campuchia, và sau chiến tranh, mở rộng 'các quan hệ đặc biệt' với các phong trào c.... s.. tại những nước này, ủng hộ ưu thế của Việt Nam.
Việt Nam ép Trung Quốc phải đương đầu với thách thức về địa chính trị và tâm lý chưa có tiền lệ. Các nhà lãnh đạo của Hà Nội đã quen thuộc với Binh Pháp của Tôn Từ và triển khai các nguyên tắc của nó nhằm tạo hiệu quả đáng kể chống lại cả Pháp lẫn Mỹ. Ngay cả trước khi kết thúc các cuộc chiến tranh Việt Nam lâu dài, đầu tiên là với Pháp khi họ cố gắng giành lại thuộc địa của mình sau Thế chiến II, và sau đó là với Mỹ từ năm 1963 đến 1975, cả Bắc Kinh lẫn Hà Nội đều bắt đầu nhận ra rằng bối cảnh tiếp theo sẽ là cuộc chiến giữa chính họ giành ưu thế đối với Đông Dương và Đông Nam Á.
...
#19
Gửi vào 18/04/2021 - 10:37
Bản gốc: In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam, Robert Mcnamara
Thanked by 1 Member:
|
|
#20
Gửi vào 20/04/2021 - 11:08
Thanked by 1 Member:
|
|
#21
Gửi vào 20/04/2021 - 12:50
Thanked by 2 Members:
|
|
#22
Gửi vào 23/04/2021 - 12:25
Sau này tôi biết, các quan chức Mỹ luôn tin tưởng rằng những giá trị này thực sự là tốt nhất cho người dân Việt Nam, cũng như cho Mỹ. Người Pháp, chế độ Ngô Đình Diệm, các tướng tá người Pháp tốt cho Việt Nam hơn là c.... s... Có cơ sở để người ta tin rằng nhiều người Việt Nam rất ngây thơ và bị lừa phỉnh về những gì mà chiến thắng của c.... s.. sẽ mang lại cho họ. Nhưng tôi cũng nhận ra rằng đến lượt chúng ta, những quan chức Mỹ cũng không hay biết gì về bản chất của người Pháp hay của các chế độ Sài Gòn khác nhau mà chúng ta hậu thuẫn hoặc động cơ khiến người dân Việt Nam cầm súng đứng lên, chống lại các thế lực siêu phàm hơn - và trên hết là gánh nặng của một cuộc chiến tranh đối với người dân nông thôn. Dù thế nào, đánh giá những gì tốt đẹp nhất cho họ, khi cuộc sống và sinh mạng bị đe doạ, là đỉnh cao của tính ngạo mạn đế quốc, "ngạo mạn về quyền lực" như thượng nghị sỹ Fulbright đã gọi.
Trước đây tôi mới chỉ đọc những ước tính tình báo cho thập kỷ trước năm 1961 thì giờ đây tôi được đọc toàn bộ phân tích trong nghiên cứu của McNamara với tài liệu viết về những quyết định trong thập kỷ 50, cả trong cuộc "chiến tranh Pháp" và những năm sau đó khi Mỹ "ủng hộ" cuộc chiến chính trị và chiến tranh vũ trang tại Nam Việt Nam. Tôi quyết định đọc những tài liệu này cuối cùng vì tôi cho rằng những tài liệu đó ít liên quan nhất đến việc tìm hiểu thập kỷ 60. Tôi đã nhầm. Đây là những gì tôi hiểu, mà mới chỉ vài tháng trước đó tôi không hiểu, khi đọc xong toàn bộ Hồ sơ Lầu Năm Góc tới cuối tháng 9-1969:
- Không có chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và lần thứ hai; chỉ có một cuộc xung đột liên tục kéo dài gần một phần tư thế kỷ. Trên thực tế, đó luôn luôn là cuộc chiến của người Mỹ ngay từ đầu: lúc đầu là giữa Pháp và Mỹ, cuối cùng là toàn bộ Mỹ. Trong cả hai trường hợp, đó là cuộc chiến đấu của người dân Việt Nam - không phải tất cả người Việt Nam nhưng số lượng đủ lớn - để chống lại chính sách và tài trợ của Mỹ, kỹ thuật viên, súng đạn và cuối cùng là binh lính và phi công.
- Ít nhất là từ cuối thập kỷ 40, không có một năm nào mà bạo lực chính trị tại Việt Nam có thể đạt tới quy mô của một "cuộc chiến" nếu như Tổng thống Mỹ, Nghị viện Mỹ hay người dân Mỹ không đổ tiền của, vũ khí và cuối cùng là sức người: đầu tiên thông qua người Pháp, sau đó qua nguỵ quyền Sài Gòn và cuối cùng là rót trực tiếp. Thực ra sẽ không có cuộc chiến nào sau năm 1954 nếu Mỹ và tay chân nguỵ quyền tại Việt Nam được Mỹ tài trợ không quyết tâm đi ngược lại và phá hoại quá trình giải quyết chính trị bằng tổng tuyển cử như đã đàm phán ở Geneva.
Sau năm 1955 hoặc 1960, cuộc chiến ở Việt Nam không hơn gì một cuộc nội chiến so với thời kỳ Pháp mưu toan tái chiếm Việt Nam và được Mỹ hậu thuẫn. Một cuộc chiến tranh mà một bên được cường quốc nước ngoài hoàn toàn trang bị và đổ tiền của vào thì không thể coi là nội chiến. Nói rằng chúng ta đang "can thiệp" vào việc định nghĩa "thế nào là nội chiến", như phần lớn các học giả và thậm chí các nhà phê bình tự do ngày nay vẫn làm, chỉ càng làm cho thực tiễn thêm đau đớn hơn. Theo như những điều khoản của Hiến chương Liên Hợp quốc và lý tưởng được công nhận thì đó là một cuộc chiến tranh xâm lược, cuộc chiến tranh xâm lược của người Mỹ.
#23
Gửi vào 24/04/2021 - 13:10
Note từ BBC: Cuốn "H.C.M: Những năm chưa biết đến" (H.C.M: The Missing Years 1919 - 1941) của tiến sĩ Sophie Quinn-Judge, Đại học LSE, London, chủ yếu dựa trên tư liệu về Quốc tế Cộng sản được giải mật năm 1992 của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia Nga - và tư liệu từ kho lưu trữ quốc gia Pháp.
Thanked by 1 Member:
|
|
#24
Gửi vào 26/04/2021 - 21:04
Các giả thuyết về vụ ám sát Kennedy khá nhiều, trong đó liên quan tới Chiến tranh Việt nam là một trong những giả thuyết khá trọng lượng.
Sách: JFK: CIA, Việt Nam, và âm mưu ám sát John F. Kennedy
Tác giả: Fletcher Prouty (1917–2001), một đại tá đã nghỉ hưu của Không quân Hoa Kỳ, từng là tham mưu trưởng các chiến dịch đặc biệt cho Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân trong những năm Kennedy. Ông trực tiếp phụ trách hệ thống toàn cầu được thiết kế để cung cấp hỗ trợ quân sự cho các hoạt động bí mật của CIA.
Trích một review:
Cuộc bầu cử tổng thống Kennedy là một thảm họa cho High Cabal. JFK đã can thiệp vào kế hoạch chi tiêu của họ, không phải hàng tỷ đô la, mà là hàng nghìn tỷ đô la ở Việt Nam và các dự án Chiến tranh Lạnh khác của họ. JFK đã can thiệp vào khả năng kiểm soát chính phủ Mỹ của họ.
Sau Thế chiến II, High Cabal đã tạo ra nhận thức trong tâm trí của công chúng về một cuộc đấu tranh hoành tráng giữa Chủ nghĩa c.... s.. và phương Tây. Họ đã sử dụng tiền đề sai lầm này để tạo ra chiến tranh hạn chế, kéo dài trên toàn thế giới. Nhưng họ phải đảm bảo cuộc chiến không trở nên quá căng thẳng vì mối đe dọa hiện tại của vũ khí hạt nhân.
Có thể thực sự là High Cabal không quan tâm đến cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa Chủ nghĩa c.... s.. và phương Tây hoặc bất kỳ hệ tư tưởng nào khác cho vấn đề đó? CIA, KGB và các nhóm tương tự khác có thể thực sự cung cấp vũ khí cho các chiến binh ở tất cả các bên chỉ để kéo dài chiến tranh mãi mãi? Đó là những gì Fletcher Prouty nói trong cuốn sách này. Một điểm nữa là cuộc xung đột Việt Nam không có bất kỳ mục tiêu quân sự nào được xác định rõ ràng nên nó đã trở thành một cuộc tắm máu kéo dài và cuối cùng không thành công với số lượng cơ thể là thước đo thành công duy
nhất.
#25
Gửi vào 26/04/2021 - 22:57
Vào giữa năm 1963, Kennedy đã đi đến quyết định rút tất cả quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam và sẽ “tất cả nhân viên Hoa Kỳ” — quân đội, CIA, và những người khác — “khỏi Việt Nam vào cuối năm 1965.”
Bất kỳ ai quan tâm đến mức độ bao quát chính xác của các bước trong việc hoạch định chính sách này nên đọc Quan hệ đối ngoại của Hoa Kỳ, 1961-1963, tập. IV, “Việt Nam: Tháng 8 - Tháng 12 năm 1963” của Bộ Ngoại giao và được xuất bản bởi Văn phòng In ấn của Chính phủ Hoa Kỳ, năm 1991.
#26
Gửi vào 27/04/2021 - 00:06
Sửa bởi AnKhoa: 27/04/2021 - 00:13
#27
Gửi vào 27/04/2021 - 00:53
Đáp:
1. Là Nhật đồng hàng đồng minh, kết thúc Thế chiến thứ 2.
2. Là ngày thành lập Việt nam Dân chủ Cộng hòa.
Một sự tiếp nối rất tài tình.
Trích sách JFK: CIA, Việt Nam, và âm mưu ám sát John F. Kennedy
Vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, đại diện của Nhật hoàng đã ký giấy đầu hàng do Tướng Douglas MacArthur đặt trước mặt ông trên boong của thiết giáp hạm Missouri ở Vịnh Tokyo. Với buổi lễ đó, màn kịch vĩ đại của lịch sử mang tên Thế chiến thứ hai đã khép lại. Vào thời điểm đó, các lực lượng Đồng minh của Hoa Kỳ, Trung Quốc, Anh và Liên Xô tuyên bố mình là kẻ chiến thắng, và các lực lượng quân sự của chủ nghĩa phát xít dưới thời Hitler, Mussolini và Hirohito đã bị tuyên bố là kẻ bại trận.
Đó là những gì các sử gia đã ghi lại, nhưng điều họ không lưu ý là buổi lễ lịch sử này không đánh dấu sự kết thúc của chiến tranh vì nó chỉ đơn giản là kết thúc chương đó, kịch bản đó, với dàn nhân vật đó.
Đến ngày 2 tháng 9 năm 1945, kịch bản mới này đã được vạch ra. Tất cả những gì còn lại là tạo dựng quan điểm của thế giới, thay đổi quan điểm của thế giới từ suy nghĩ của Thế chiến thứ hai sang một liên kết mới dựa trên một cuộc đối đầu lớn giữa Đông-Tây.
Cùng ngày đó, tại thủ đô Hà Nội, tại Việt Nam, H.C.M với tư cách là Chủ tịch nước mới, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) đã ký Tuyên ngôn Độc lập. Có vẻ như không thể tin được như ngày nay, tuyên bố bắt đầu với dòng nổi tiếng “Tất cả đàn ông đều được tạo ra bình đẳng. Họ được tạo hóa ban tặng cho một số quyền bất khả xâm phạm, trong số đó có Quyền sống, Tự do và Theo đuổi Hạnh phúc. . . ” (chú thích, trích dẫn từ Tuyên ngôn độc lập Hoa kỳ)
Trước khi mực khô trên các tài liệu được ký kết trên thiết giáp hạm Missouri, chiến trường chính đầu tiên của Chiến tranh Lạnh mới này, Hàn Quốc và Việt Nam, đã được lựa chọn và đang được tích trữ vũ khí.
Khi H.C.M ký Tuyên ngôn độc lập cho dân tộc mới vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, Người đã đọc những dòng sau đây từ văn kiện đó: “Một dân tộc đã anh dũng chống lại ách đô hộ của Pháp hơn tám mươi năm, một dân tộc đã sát cánh chiến đấu sát cánh cùng Đồng minh chống lại Phát xít trong suốt những năm cuối cùng — một dân tộc như vậy phải được tự do và độc lập. ”
Sau cuộc đấu tranh lâu dài đứng về phía Hoa Kỳ và Trung Quốc chống lại Nhật Bản, và với bằng chứng cụ thể về sự hỗ trợ của Hoa Kỳ dưới hình thức một chuyến hàng lớn, H.C.M có lý do chính đáng để tin rằng những ngày chiến đấu của mình sẽ kết thúc. Sự thống trị của Pháp trên đất nước của ông sắp kết thúc.
#28
Gửi vào 27/04/2021 - 08:00
Người Nhật đã đầu hàng và bỏ đi. Người Pháp đã bị đánh bại bởi người Nhật và sẽ không quay trở lại — hoặc ông nghĩ vậy. Trong khi đó, trên đường phố Hà Nội, các đặc vụ của Văn phòng Dịch vụ Chiến lược (OSS), tiếp tục làm việc với Việt Minh, những kẻ đã nhanh chóng giành quyền kiểm soát miền Bắc Việt Nam khi nỗ lực chiến tranh của Nhật Bản sụp đổ.
Võ Nguyên Giáp, nhà chỉ huy quân sự lỗi lạc của Hồ, khi còn giữ chức Bộ trưởng Nội vụ của chính phủ lâm thời, đã có bài phát biểu mô tả Hoa Kỳ là bạn tốt của Việt Nam. Đó cũng là vào tháng 9 năm 1945.
Sợi dây thao túng của tầng lớp quyền lực vẫn chưa được kéo ra. Các vai trò chính trị vẫn chưa được thay đổi. Sẽ mất vài năm tuyên truyền khéo léo để thế giới chuẩn bị cho kịch bản mới. Thời gian sẽ trôi qua trước khi giới tinh hoa quyền lực có thể tạo ra một kẻ thù mới - Xô Viết và chủ nghĩa c.... s..; và những người bạn mới - những người theo chủ nghĩa Phát xít trước đây, Đức, Ý và Nhật Bản, những người bây giờ được gọi là “những người chống Cộng thân thiện”. ”
Vào ngày 2 tháng 9 năm 1953, đúng tám năm sau khi Thế chiến II chính thức kết thúc, ngoại trưởng mới của Tổng thống Dwight Eisenhower, John Foster Dulles, đã có một bài diễn văn quan trọng trước một đại hội của Quân đoàn Mỹ ở St. Louis. Mặc dù hầu hết các nhận xét của Dulles tập trung vào giai đoạn cuối của Chiến tranh Triều Tiên, vốn đã dẫn đến một bế tắc đáng thất vọng, nhưng ông đã đưa vào một tuyên bố quan trọng nhất liên quan đến chủ nghĩa c.... s.. và Đông Dương. Dulles nói:
- Hiệp định đình chiến ở Hàn Quốc không chấm dứt mối quan tâm của Hoa Kỳ ở khu vực Tây Thái Bình Dương. Một cuộc đình chiến của Triều Tiên sẽ là một trò gian lận nếu nước này chỉ giải phóng các lực lượng c.... s.. để tấn công ở nơi khác. Ở Đông Dương, một cuộc đấu tranh tuyệt vọng đang ở năm thứ tám. . . . Chúng tôi đã đóng góp phần lớn bằng tiền và tiền bạc cho những nỗ lực chung của người Pháp và của Việt Nam, Lào và Campuchia.
Trong tuyên bố đáng chú ý này, "tám năm" mà Dulles trích dẫn vào ngày 2 tháng 9 năm 1953, trùng khớp chính xác, với ngày đó là ngày 2 tháng 9 năm 1945, khi các văn bản đầu hàng được ký kết tại Vịnh Tokyo, khi các con tàu khởi hành từ Okinawa có nguồn cung cấp vũ khí khổng lồ cho Hàn Quốc và Việt Nam, và khi bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới được H.C.M ký tại Hà Nội, với các quan chức Mỹ bên cạnh. Đó khó có thể là một sự trùng hợp. Các sự kiện thế giới được lên kế hoạch.
Cũng đã gần tám năm kể từ ngày người Mỹ thương vong đầu tiên — Thiếu tá. A. Peter Dewey của OSS — xảy ra ở Việt Nam. Ông bị giết trong một cuộc giao tranh ở ngoại ô Sài Gòn vào ngày 26 tháng 9 năm 1945.
John Foster Dulles, ngoại trưởng của Eisenhower, công nhận rằng ngày 2 tháng 9 năm 1945, chính thức là ngày bắt đầu “cuộc đấu tranh tuyệt vọng” ở Đông Dương — sau này được gọi là Chiến tranh Việt Nam. Quan trọng hơn, trong tám năm đó, bầu không khí chống Cộng đã được điều chỉnh đến một mức độ cuồng loạn, cả trong và ngoài nước. Hàn Quốc đã bị xâm lược bởi lực lượng "c.... s.." từ phía bắc, và thông qua một phương tiện truyền thông mới được gọi là truyền hình, những bức ảnh chuyển động về một cuộc chiến đang diễn ra đã được đưa vào ngôi nhà của hàng triệu người Mỹ lần đầu tiên. Các gia đình cũng theo dõi trong khi Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy trình bày chi tiết về mối đe dọa nội tại của chủ nghĩa c.... s.. trong chính phủ và ngành công nghiệp. Công chúng đã trực tiếp xem kịch bản và như giới quyền lực mong muốn: c.... s.. Liên Xô là “kẻ thù” trên toàn thế giới. H.C.M và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã không còn là bạn của chúng ta. Họ cũng là một phần của kẻ thù "c.... s..".
Trong nhiều trường hợp, Hoa Kỳ hoặc Liên Xô đã trang bị vũ khí cho cả hai bên xung đột vào những thời điểm khác nhau. Trong bài phát biểu tại St.Louis, Dulles thừa nhận rằng Hoa Kỳ đã đóng góp cho cả hai bên của “cuộc đấu tranh tuyệt vọng” mới nhất, tức là “cho những nỗ lực tổng hợp của người Pháp và của Việt Nam” - một sự thừa nhận hiếm hoi và đúng như vậy. Với tư cách là nhà sản xuất vật tư và thiết bị quân sự lớn, điều đó hoàn toàn không quan trọng đối với các tổ hợp công nghiệp vĩ đại của Hoa Kỳ đã mua sản phẩm của họ. Chiến tranh là công việc kinh doanh tốt nhất.
Sửa bởi AnKhoa: 27/04/2021 - 08:08
#29
Gửi vào 27/04/2021 - 08:23
Vì OSS đã hoạt động ở Đông Dương kể từ Thế chiến II, nên không mất nhiều thời gian để người kế nhiệm của nó, CIA, bắt đầu tác động đến dòng thiết bị quân sự vào khu vực đó của thế giới. H.C.M đã được Hoa Kỳ cung cấp một lượng thiết bị quân sự khổng lồ, và ông ta kỳ vọng có thể điều hành chính phủ mới của mình ở Việt Nam mà không bị phản đối thêm.
Nhưng vào ngày 23 tháng 9 năm 1945, ngay sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Tuyên ngôn Độc lập, một nhóm lính Pháp cũ, hành động với sự đồng ý của các lực lượng Anh đã đến Sài Gòn từ cuộc càn quét Miến Điện trong những ngày cuối cùng. của Thế chiến thứ hai và trang bị vũ khí Nhật Bản đánh cắp từ kho dự trữ đầu hàng, tổ chức một cuộc đảo chính địa phương và giành quyền kiểm soát chính quyền Sài Gòn.
Họ đã cài đặt chính phủ Pháp ở đó một lần nữa. Động thái này đã trả lại Cochin - khu vực phía nam của Việt Nam - vào sự thống trị của Pháp, mặc dù tại Hội nghị Potsdam2 đã có thỏa thuận rằng quân đội Anh sẽ có quyền kiểm soát hành chính đối với khu vực này. Bây giờ có hai chính phủ ở miền Nam Việt Nam, với quân đội Anh vẫn ở bên ngoài dòng chảy sự kiện và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của H.C.M ở phía bắc.
Căn cứ vào hồ sơ của những năm đó, Việt Nam hy vọng sự trợ giúp hoặc trung gian của Mỹ trong việc giành độc lập từ tay Pháp.
Tất cả các lực lượng còn lại của Nhật đã bị vây bắt và đã đầu hàng bộ chỉ huy quân sự Anh tại Sài Gòn vào ngày 30 tháng 11 năm 1945. Đến ngày 1 tháng 1 năm 1946, Pháp đã thực hiện mọi cam kết quân sự tại Việt Nam. Sau đó, vào ngày 28 tháng 1 năm 1946, quyền chỉ huy tất cả các lực lượng của Pháp tại Việt Nam được chuyển từ người Anh sang Tướng Jean Leclerc của Pháp. Do đó, bắt đầu một giai đoạn viện trợ quân sự khác của Hoa Kỳ ở Đông Dương, lần này là cho người Pháp. Các cuộc đàm phán giữa Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu vào đầu năm 1946. H.C.M đến Paris vào giữa năm, nhưng hội nghị thất bại do sự can thiệp của Pháp. Anh ta tiếp tục nỗ lực của riêng mình trong các cuộc đàm phán cho đến tháng 9, mà không đạt được thỏa thuận mà anh ta mong muốn.
Giao tranh nổ ra giữa Pháp và Việt Nam vào cuối tháng 11 năm 1946, và đến cuối năm chiến tranh du kích đã lan rộng khắp Việt Nam. Tất cả hy vọng giải quyết tranh chấp Pháp / Việt này đã tan thành mây khói vào năm 1947, và đến cuối năm 1949, chiến tranh đã trở thành một vấn đề quốc tế quan trọng.
Đây là cách nó đã được. Không thể có bức tranh rõ ràng hơn về các sự kiện của thời điểm đó. Chúng tôi không có câu trả lời chính xác về lý do tại sao chúng tôi đưa Hoa Kỳ cho H.C.M vào năm 1945 và sau đó vài năm lại cung cấp cho kẻ thù của Hồ, người Pháp, với 3 tỷ đô la vũ khí của chúng tôi. Tình hình không được cho là rõ ràng. Kế hoạch được thực hiện trước khi Thế chiến II kết thúc là gây chiến ở Đông Dương, và đây là cách mà nó đã được thực hiện. Từ năm 1945 đến năm 1975, có chiến tranh kiểu này hay kiểu khác.
Đằng sau hậu trường, người Pháp, với sự chấp thuận của Hoa Kỳ, đang thành lập một chính phủ bù nhìn quốc gia chống c.... s.. dưới sự lãnh đạo của cựu hoàng Bảo Đại. Kết quả là vào cuối năm 1949, có ba chính phủ tham vọng ở Việt Nam: Chính quyền thuộc địa Pháp, Nhà nước Việt Nam của Bảo Đại và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của H.C.M.
Tiếp:
Ngay từ năm 1947, các thành phần quốc gia “chống Cộng” trong chính phủ bao gồm Ngô Đình Diệm, người mà Hoa Kỳ sẽ lên làm tổng thống vào năm 1954. Nhưng vào năm 1948, Diệm từ chối ủng hộ đề xuất của Pháp về một “chính phủ trung ương lâm thời. ” Cấu trúc ba chiều này khá cần thiết cho kế hoạch tầm xa cho cuộc chiến tranh vô hình. Người Pháp đã quyết định rằng họ phải ra khỏi Việt Nam. Họ đã trở nên nghiêm túc tham gia vào Algeria, gần nhà hơn nhiều, và các vấn đề chính trị nội bộ của họ rất nghiêm trọng.
Tuy nhiên, nếu người Pháp rút lui trước khi Hoa Kỳ sẵn sàng tham gia cuộc tranh cử, thì chính phủ duy nhất ở Việt Nam sẽ là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Không ai khác có thể tranh chấp chế độ H.C.M. Vì vậy, trò chơi chiến tranh vô hình đòi hỏi một chính phủ mới để bù đắp cho Cộng hòa Dân chủ. Bảo Đại bất đắc dĩ thừa cơ giao nhiệm vụ. Như người Liên Xô đã nói, đây là một “chính phủ bù nhìn mới do người Pháp thành lập với sự chúc phúc của người Mỹ”. Họ đã hoàn toàn chính xác.
Đến tháng 2 năm 1950, cả Anh và Mỹ đều thiết lập quan hệ ngoại giao với Nhà nước mới của Việt Nam ở miền Nam, mặc dù mỗi quan hệ đều không hơn một cái vỏ rỗng. Khi tất cả những chi tiết này đã được chính thức hóa, tình hình đã sẵn sàng để phát triển như một mặt trận chiến tranh.
Ngày 8 tháng 5 năm 1950, Ngoại trưởng Dean Acheson tuyên bố Hoa Kỳ sẽ viện trợ kinh tế và quân sự cho Pháp và cho Nhà nước Việt Nam. Giá trị của khoản hỗ trợ quân sự này đã vượt qua 3 tỷ USD. Một tháng sau, chúng tôi xảy ra chiến tranh ở Hàn Quốc, và cuộc chiến ở Việt Nam đã trở thành một cuộc khủng hoảng quốc tế khác - dự phòng.
Những sự kiện này đã đóng vòng tròn. Không có lúc nào mọi thứ nằm ngoài tầm kiểm soát. Cùng một dòng sông băng đáng suy ngẫm đã được bắt đầu chuyển động vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, khi những chuyến tàu chở đầy nặng nhọc đó rời Okinawa đến Hàn Quốc và Việt Nam, đã không ngừng di chuyển. Vào giữa năm 1950, một hành động quân sự quan trọng, không có lực lượng hạt nhân, đang được tiến hành. Những gì bắt đầu như một sự phân bổ lại lực lượng và tạo ra một thế giới lưỡng cực đã trở thành một "cuộc chiến tranh nóng" chính thức trên hai chiến trường được lựa chọn, Hàn Quốc và Việt Nam. Điều quan trọng cần lưu ý là trong hai cuộc chiến này, CIA đã phát triển từ một cơ quan “tình báo” non trẻ thành cơ quan thực sự là bậc thầy về các dịch vụ bí mật của Mỹ. Nó đã mở rộng rất nhiều và trưởng thành.
Một quan niệm sai lầm phổ biến khác là CIA tự hành động. Điều này hoàn toàn không đúng. Nó là một "cơ quan". Nó thực hiện các mệnh lệnh của người khác, với tư cách là đại lý của họ. CIA là cơ quan điều tra mở đầu, người kích động hoặc người điều phối. Ở nhiều khía cạnh, nó hoạt động giống như một công ty luật. Nó hiếm khi lập kế hoạch. Nó luôn hoạt động để đáp lại một số sáng kiến khác. Ngay phía sau nó là các đồng minh mạnh mẽ và hiện tại, phần còn lại của cơ sở hạ tầng chính phủ, cùng với sự hỗ trợ sẵn sàng của toàn bộ cộng đồng quân sự-công nghiệp và tài chính.
#30
Gửi vào 27/04/2021 - 16:08
Thay vào đó, vào ngày 1 tháng 10 năm 1 963, sáu tuần trước khi ông bị ám sát, Tổng thống Kennedy đã ban hành lệnh bí mật yêu cầu Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam trong Bản ghi nhớ Hành động An ninh Quốc gia (NSAM) 263.3 Đó là một mệnh lệnh không bao giờ được tuân theo vì vụ ám sát. Kennedy đã quyết định loại bỏ một nghìn thành viên của quân đội Hoa Kỳ vào cuối năm 1963 và tất cả họ vào cuối năm 1 965. Trong tháng rưỡi trước khi ông qua đời, quyết định đáng hoan nghênh này đã nhận được tiêu đề trang nhất trong cả hai báo chí quân sự và dân sự.
Tuy nhiên, vì vụ ám sát tổng thống, thậm chí giai đoạn đầu của kế hoạch rút lui của anh ta đã lặng lẽ rút ruột. Tài liệu của Lầu Năm Góc, một cuốn sách tiết lộ về lịch sử Chiến tranh Việt Nam của Bộ Quốc phòng đã được công bố bởi nhà phân tích quốc phòng Daniel Ellsberg, chỉ ra: "Các kế hoạch rút 1.000 cố vấn Hoa Kỳ theo từng giai đoạn vào cuối năm-1963 đã được thực hiện bằng cách tập trung luân chuyển về nước vào tháng 12 và để sức mạnh phục hồi trong hai tháng sau đó."
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
TIN BUỒN : Bố của anh vietnamconcrete vừa qua đời |
Báo Tin | huygen |
|
|
|
Dự đoán trận chung kết nữ VietNam vs ThaiLan SEA Games 2019Soccer |
Tử Vi | Hoa Cái |
|
||
Gửi thầy vietnamconcrete - Về Thái ất |
Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | NguoiGiuRung |
|
||
Hình (Another side of Vietnam)hình ảnh mọi miền |
Nguồn Sống Tươi Đẹp | Lou |
|
|
|
TPP & Vietnam |
Vài Dòng Tản Mạn... | AnKhoa |
|
|
|
Welcome to Vietnam - Đất nước mình đẹp mà! |
Nguồn Sống Tươi Đẹp | phuctinh |
|
3 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 3 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |