1
Vietnam war, bàn về lịch sử
Viết bởi AnKhoa, 03/04/21 10:40
35 replies to this topic
#31
Gửi vào 28/04/2021 - 08:47
Một số người sẽ bị sốc khi biết rằng Hoa Kỳ và H.C.M, kẻ thù của chúng ta trong phần lớn chiến tranh Việt Nam, đã từng là đồng minh. Thật vậy, trong năm cuối cùng của Thế chiến II, các điệp viên Mỹ ở Đông Dương thấy mình hợp tác chặt chẽ với H.C.M và các phe phái chống thực dân khác - buộc phải cùng nhau chiến đấu chống lại người Nhật. Dixee Bartholomew-Feis tiết lộ mối quan hệ này nổi lên và hoạt động như thế nào và nó ảnh hưởng như thế nào đến cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam.
Những người của Văn phòng Dịch vụ Chiến lược mới thành lập của Tướng William Donovan đã hợp tác chặt chẽ với các nhóm c.... s.. ở cả châu Âu và châu Á chống lại kẻ thù của phe Trục. Ở Việt Nam, điều này có nghĩa là các sĩ quan OSS đã làm việc với H.C.M và Việt Minh, với mục đích cuối cùng là loại bỏ khu vực của tất cả các cường quốc đế quốc, không chỉ người Nhật. Về phần mình, Ho đã làm bất cứ điều gì có thể để khuyến khích quan điểm tiêu cực của OSS về người Pháp, những người đang tuyệt vọng để lấy lại thuộc địa của họ. Tiết lộ chi tiết mà trước đây không biết về các hoạt động bí mật của họ, Bartholomew-Feis ghi lại những chiến công của các đồng minh này khi họ phát triển mạng lưới người cung cấp thông tin, phá hoại cơ sở hạ tầng của nhật bản, tiến hành các hoạt động du kích và tìm kiếm các phi công Mỹ bị bắn rơi và tù binh Chiến tranh Đồng Minh.
Nghiên cứu của bà cũng gợi ý rằng, nếu nước Mỹ tiếp tục bảo vệ chống thực dân và cuộc tìm kiếm độc lập của họ, thay vì tham gia vào người Pháp, chúng ta có thể đã thoát khỏi cuộc chiến lâu dài và rất nguy hiểm của chúng ta ở Việt Nam.
#32
Gửi vào 29/04/2021 - 20:15
Tác giả: Archimedes Patti sinh năm 1914 tại New York. Ông gia nhập quân đội Hoa Kỳ từ năm 1941 và trở thành một sĩ quan bộ binh trên chiến trường châu Âu trong Thế Chiến II. Cuối năm 1944, ông chuyển sang công tác tình báo tại Cục tình báo Chiến lược (OSS - Office of Strategic Services, tiền thân của CIA sau này) và được phân công làm Trưởng ban Đông Dương thuộc Pháp của OSS, hàm Đại úy. Tháng 4 năm 1945, ông sang Côn Minh và có những cuộc tiếp xúc đầu tiên với lãnh tụ của Việt Minh là H.C.M.
Trích Why Vietnam: Prelude to America's Albatross, Archimedes Patti
Đồng minh rõ ràng sẽ chiến thắng ở châu Âu và ông Hồ đã thấy trước là toàn bộ lực lượng của bộ máy chiến tranh Đồng minh sẽ chuyển sang chống Nhật Bản. Ông Hồ cũng biết rằng thời giờ còn lại cho ông rất eo hẹp. Ông phải sẵn sàng, nếu không theo luật pháp thì trên thực tế, là người đại diện cho chính quyền ở Đông Dương đối với những người Đồng minh chiến thắng, nếu như ông giành và duy trì được sự kiểm soát của một nước Việt Nam độc lập. Trong thực tế, thời gian của ông còn bị hạn chế hơn ông tưởng rất nhiều vì có vụ nổ bom nguyên tử.
Nhờ có đầu óc phân tích, bản chất thực dụng và một sự thông hiểu sâu sắc tình hình chính trị thế giới, ông Hồ đã rất sớm rút ra kết luận phải tranh thủ cảm tình của nước Mỹ. Ông đã xác định được không thể coi Trung Quốc như là một Đồng minh và thậm chí còn hơn thế nữa, có thể trở thành đối kháng. Ông đoán trước sẽ không có một sự ủng hộ tích cực về phía nước Nga “anh dũng” đối với kế hoạch giành độc lập của ông, bởi ngay sau khi thắng trận họ đã bị kiệt sức vì chiến tranh. Trong khối Đồng minh phương Tây, các nước thục dân như Anh, Pháp và cả Hà Lan - sẽ nhất tề không thể nào khác được trong việc chống lại cuộc vận động chống chủ nghĩa thực dân của ông. Đối với những nước này thì chỉ có việc đẩy mạnh công cuộc đề kháng. Trong suy nghĩ của ông, nhất định là khi có cơ hội, Pháp sẽ đòi lại Đông Dương làm thuộc địa.
Chỉ còn có Mỹ, một khả năng cuối cùng của ông. Nhưng đồng thời Mỹ cũng là một điều bí ẩn đối vối tâm tình của một con người đã được đào luyện chính trị ở Matxcơva. Ông Hồ đã phải vắt óc suy nghĩ để tìm ra những điều khá lạ lùng để dung hoà những đòi hỏi về lý thuyết và thực hành của ông. Ông cảm thấy người Mỹ rõ ràng là chống thực dân, bối cảnh lịch sử, thành tích trước kia và những lời tuyên bố mới đây, tất cả đều chứng minh điều đó. Nhưng Mỹ cũng vẫn là tư bản. Những cải cách kinh tế xã hội của họ chưa thực sự “dân chủ”. Vô sản của họ thật chưa được “tự do” và được “giải phóng” như ở Nga. Nhưng chỉ còn có người Mỹ có lẽ mới chịu nghe và giúp đỡ phong trào của ông một cách có thiện cảm.
---
Trích Why Vietnam: Prelude to America's Albatross, Archimedes Patti
Đồng minh rõ ràng sẽ chiến thắng ở châu Âu và ông Hồ đã thấy trước là toàn bộ lực lượng của bộ máy chiến tranh Đồng minh sẽ chuyển sang chống Nhật Bản. Ông Hồ cũng biết rằng thời giờ còn lại cho ông rất eo hẹp. Ông phải sẵn sàng, nếu không theo luật pháp thì trên thực tế, là người đại diện cho chính quyền ở Đông Dương đối với những người Đồng minh chiến thắng, nếu như ông giành và duy trì được sự kiểm soát của một nước Việt Nam độc lập. Trong thực tế, thời gian của ông còn bị hạn chế hơn ông tưởng rất nhiều vì có vụ nổ bom nguyên tử.
Nhờ có đầu óc phân tích, bản chất thực dụng và một sự thông hiểu sâu sắc tình hình chính trị thế giới, ông Hồ đã rất sớm rút ra kết luận phải tranh thủ cảm tình của nước Mỹ. Ông đã xác định được không thể coi Trung Quốc như là một Đồng minh và thậm chí còn hơn thế nữa, có thể trở thành đối kháng. Ông đoán trước sẽ không có một sự ủng hộ tích cực về phía nước Nga “anh dũng” đối với kế hoạch giành độc lập của ông, bởi ngay sau khi thắng trận họ đã bị kiệt sức vì chiến tranh. Trong khối Đồng minh phương Tây, các nước thục dân như Anh, Pháp và cả Hà Lan - sẽ nhất tề không thể nào khác được trong việc chống lại cuộc vận động chống chủ nghĩa thực dân của ông. Đối với những nước này thì chỉ có việc đẩy mạnh công cuộc đề kháng. Trong suy nghĩ của ông, nhất định là khi có cơ hội, Pháp sẽ đòi lại Đông Dương làm thuộc địa.
Chỉ còn có Mỹ, một khả năng cuối cùng của ông. Nhưng đồng thời Mỹ cũng là một điều bí ẩn đối vối tâm tình của một con người đã được đào luyện chính trị ở Matxcơva. Ông Hồ đã phải vắt óc suy nghĩ để tìm ra những điều khá lạ lùng để dung hoà những đòi hỏi về lý thuyết và thực hành của ông. Ông cảm thấy người Mỹ rõ ràng là chống thực dân, bối cảnh lịch sử, thành tích trước kia và những lời tuyên bố mới đây, tất cả đều chứng minh điều đó. Nhưng Mỹ cũng vẫn là tư bản. Những cải cách kinh tế xã hội của họ chưa thực sự “dân chủ”. Vô sản của họ thật chưa được “tự do” và được “giải phóng” như ở Nga. Nhưng chỉ còn có người Mỹ có lẽ mới chịu nghe và giúp đỡ phong trào của ông một cách có thiện cảm.
---
#33
Gửi vào 30/04/2021 - 00:14
Tiếp một đoạn trong cuốn sách trên về việc bị Pháp Mỹ bỏ rơi.
Từ giữa tháng 11-1945 đến tháng 3-1946, cơ quan tôi đã nhận được các bản sao của nhiều bức điện và thư của H.C.M gửi cho Tổng thống, Bộ trưởng Ngoại giao, Chủ tịch Uỷ ban đối ngoại Thượng viện, và Liên hợp quốc. Đó là những lời khẩn thiết kêu gọi can thiệp vào Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc đã hình thành trong Hiến chương Đại Tây Dương và vì lý do nhân đạo. Các văn kiện trên chủ yếu yêu cầu một sự ủng hộ chính trị trong việc giành độc lập của người Việt Nam, nêu ra ví dụ của Mỹ ở Philippin và bày tỏ hy vọng là người Pháp sẽ noi gương người Mỹ. Tôi hỏi Bộ Ngoại giao xem các thư từ và điện tín này đã được trình bày chưa hoặc ít ra thì cũng đã được ai đó có thẩm quyền xem xét một cách nghiêm chỉnh không; và tôi đã được nói cho biết rằng “Chính phủ” Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không được Mỹ công nhận và sẽ là một điều không thích đáng “nếu như Tổng thống hoặc một người có chức quyền nào khác xem xét tới các tài liệu đó”. Hơn nữa, Mỹ “đã cam kết” dựa vào người Pháp hơn là dựa vào những người Việt Nam Quốc gia để nhằm thực hiện những bước đi xây dựng tiến tới nền độc lập của Việt Nam.
Cuộc tuyển cử ngày 6-1-1946 đã bầu ra Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đầu tiên, A.B. Moffat, đứng đầu Vụ Đông Nam Á thuộc Bộ Ngoại giao có đến gặp tôi. Ông hỏi những tin tức mật về H.C.M và tôi đã cung cấp cho ông những gì mà tôi có. Rất nhiều, đặc biệt là công việc ông Hồ làm ở Quốc tế c.... s.. (Comintern) và sự tham gia của ông với Đảng c.... s.. Trung Quốc. Nhưng, trước hết, tôi nhấn mạnh đến tính chất dân tộc chủ nghĩa của ông Hồ - cái điều trước tiên phải là một người Việt Nam yêu nước rồi thứ đến mới là người c.... s...
Ông Hồ cố gắng một cách tuyệt vọng muốn “đóng hàng” đất nước mới ra đời của ông với các nước phương Tây và muốn xoá bỏ những lời lên án của Pháp cho ông và Việt Minh của ông là tay sai của Mátxcơva, nhưng chúng ta đã không ghi nhận tín hiệu đó của ông.
Khi tôi đang theo dõi kết cấu tình hình ở Đông Dương thì lại đúng là lúc tôi phải tiếp tục những công việc khác không có liên quan gì tới Viễn Đông. Nhưng cũng chính vì thế mà sự quan sát của tôi tỏ ra đúng mức, và tôi vẫn hoàn toàn tin tưởng rằng không có một sự chống đối nào lại có thể làm cho Việt Nam chuyển hướng khỏi cuộc đấu tranh vì độc lập của họ, dù cho họ phải trả bằng giá nào và điều dó phải kéo dài đến đâu.
Thật đáng tiếc là chính đất nước chúng ta đã không chịu nhìn nhận cho hết thực tế này và đã không vạch ra được một phương hướng có thể đáp ứng lại những quyền lợi tối cao của chúng ta. Có thể nghĩa là hoàn toàn đứng ngoài sự việc trên và giữ vững một thái độ thực sự trung lập, một cách cụ thể và theo quan điểm đã được vạch ra của chúng ta.
Tình hình Đông Dương diễn biến theo chiều hướng đã được dự đoán. Người Trung Quốc đã kéo dài thời gian đủ để “bóp nặn” người Pháp được ở mức tối đa: từ 28-2 tới 14-3 năm 1946, Pháp đã phải ký một loạt các Hiệp định nhượng lại các đặc quyền đặc lợi trước chiến tranh của họ ở Trung Quốc. Theo hiệp định 14-3, việc rút lui của quân chiếm đóng Trung Quốc sẽ bắt đầu vào ngày 15-3 và kết thúc vào ngày 31, nhưng trong thực tế thì mãi tới tháng 10-1946, đơn vị cuối cùng của Trung Quốc mới rời khỏi Hải Phòng. Trong khi đó bọn tay sai thương mại và tài chính của Tưởng đã triển khai được một cách chắc chắn một cơ sở kinh tế khá vững vàng để tiến hành bóc lột Đông Dương trong một thời gian kéo dài hơn 30 năm sau, như hiện nay chúng ta đã thấy qua câu chuyện “thuyền nhân”.
Bị Mỹ bỏ rơi, không được thế giới c.... s.. biết tới, lại bị người Tnmg Quốc tham lam vô độ o ép, H.C.M đã phải đi tới chấp nhận một “Hiệp định” khá mong manh, ngày 6-3-1946, không phải với chính phủ Pháp, mà với một quan chức cấp thấp hơn, đại diện cho giới quân sự ở Đông Dương. Nhưng ông Hồ cũng đã sớm thấy ngay là bản Hiệp định không có sự phê chuẩn của Bộ Ngoại giao Pháp và các điều khoản buộc Pháp phải công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một “quốc gia tự do”, có “Nghị viện riêng, quân đội riêng, và nền tài chính riêng của mình”, nên bản Hiệp định đó đã không bao giờ được thi hành.
Thay vào đó, quân đội Pháp đã nhanh chóng vào chiếm đóng Hà Nội ngày 18-3. Và đúng một tháng sau khi chính thúc kết thúc việc chiếm đóng của Đồng minh, quân đội Leclerc (phần lớn do Mỹ viện trợ vận chuyển, trang bị vũ khí và khí tài) đã chiếm đóng các thành phố chủ yếu của Việt Nam. Chính sách của Mỹ đối với Đông Dương lúc đó đã ngả từ phương hướng chiến lược thời chiến sang lãnh vực kinh tế chính trị của mối quan hệ giữa Mỹ và Pháp.
Hiệp định 6-3 đã nhanh chóng dẫn đến Hội nghị Đà Lạt (từ tháng 4 đến tháng 5). Ở đó “bè lũ Sài Gòn” do D'Argenlieu, “một Raesputin(1) người Pháp” cầm đầu, đã tạm thời cắt rời Nam Kỳ khỏi Việt Nam. Tiếp sau đó là Hội nghị Fontainebleau (tháng 7 đến tháng 9) tai hại. Ở đó, ông Hồ đã ký kết một cuộc ngừng bắn nhưng nó đã sớm chết yểu. Quyết tâm của ông Hồ cộng tác với người Pháp ít nhất cũng trong một thời gian, đã làm cho cả những người Quốc gia thân Trung Quốc cũng như các thế lực thực dân Pháp hoảng sợ. Việc tiếp tục tồn tại của ông Hồ và Việt Minh của ông có nghĩa là họ sẽ chết, và đó là điều họ muốn tránh bằng bất cứ giá nào. Qua những con đường có thế lực ở Trùng Khánh và Paris, một chiến dịch chống ông Hồ và Việt Minh lại được bung ra với những thủ đoạn cũ, cho họ là những tay sai trung thành của Mátxcơva.
Mùa hè 1946, những luận điệu tuyên truyền này lan tới Washington, và trong tất cả những gì chính thức nói đến ông Hồ đều được gắn thêm chữ “c.... s..”. Ngày 5-12-1946, khi Moffat tới thăm Đông Dương, Bộ trưởng Acheson đã có điện chỉ dẫn trong trường hợp có thể gặp ông Hồ, Moffat “phải luôn luôn nhớ rằng ông Hồ đã được xác định là một tay sai của Quốc tế c.... s..…”, mặc dù vẫn tồn tại một điều thực tế là dấu vết âm mưu do Kremlin điều khiển đều có thể tìm thấy được ở mọi nơi, trừ Việt Nam ra. Chúng ta không có chứng cớ gì về mối liên lạc Việt Nam - Mátxcơva. Liên Xô không những đã không ủng hộ ông Hồ trong cuộc đấu tranh giành độc lập trước đây, mà còn không công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong nhiều năm sau nữa.
Từ Fontainebleu “tay không” trở về, ông Hồ lại phải đương đầu với sự phản đối kịch liệt của các phần tử chống lại ông trong Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh Hội. Chúng hò hét kết tội ông là “phản bội” và “hợp tác” yêu cầu ông từ chức. Để tránh đổ máu và tranh thủ thông qua được Hiệp định Fontainebleu, ông Hồ cho triệu tập phiên họp thứ hai Quốc hội để phê chuẩn bản Hiệp định đình chiến và do đó gạt bỏ trước được sự chống đối của Pháp. Quốc hội đã biểu quyết tín nhiệm ông Hồ và yêu cầu ông đứng ra lập nội các mới.
Từ giữa tháng 11-1945 đến tháng 3-1946, cơ quan tôi đã nhận được các bản sao của nhiều bức điện và thư của H.C.M gửi cho Tổng thống, Bộ trưởng Ngoại giao, Chủ tịch Uỷ ban đối ngoại Thượng viện, và Liên hợp quốc. Đó là những lời khẩn thiết kêu gọi can thiệp vào Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc đã hình thành trong Hiến chương Đại Tây Dương và vì lý do nhân đạo. Các văn kiện trên chủ yếu yêu cầu một sự ủng hộ chính trị trong việc giành độc lập của người Việt Nam, nêu ra ví dụ của Mỹ ở Philippin và bày tỏ hy vọng là người Pháp sẽ noi gương người Mỹ. Tôi hỏi Bộ Ngoại giao xem các thư từ và điện tín này đã được trình bày chưa hoặc ít ra thì cũng đã được ai đó có thẩm quyền xem xét một cách nghiêm chỉnh không; và tôi đã được nói cho biết rằng “Chính phủ” Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không được Mỹ công nhận và sẽ là một điều không thích đáng “nếu như Tổng thống hoặc một người có chức quyền nào khác xem xét tới các tài liệu đó”. Hơn nữa, Mỹ “đã cam kết” dựa vào người Pháp hơn là dựa vào những người Việt Nam Quốc gia để nhằm thực hiện những bước đi xây dựng tiến tới nền độc lập của Việt Nam.
Cuộc tuyển cử ngày 6-1-1946 đã bầu ra Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đầu tiên, A.B. Moffat, đứng đầu Vụ Đông Nam Á thuộc Bộ Ngoại giao có đến gặp tôi. Ông hỏi những tin tức mật về H.C.M và tôi đã cung cấp cho ông những gì mà tôi có. Rất nhiều, đặc biệt là công việc ông Hồ làm ở Quốc tế c.... s.. (Comintern) và sự tham gia của ông với Đảng c.... s.. Trung Quốc. Nhưng, trước hết, tôi nhấn mạnh đến tính chất dân tộc chủ nghĩa của ông Hồ - cái điều trước tiên phải là một người Việt Nam yêu nước rồi thứ đến mới là người c.... s...
Ông Hồ cố gắng một cách tuyệt vọng muốn “đóng hàng” đất nước mới ra đời của ông với các nước phương Tây và muốn xoá bỏ những lời lên án của Pháp cho ông và Việt Minh của ông là tay sai của Mátxcơva, nhưng chúng ta đã không ghi nhận tín hiệu đó của ông.
Khi tôi đang theo dõi kết cấu tình hình ở Đông Dương thì lại đúng là lúc tôi phải tiếp tục những công việc khác không có liên quan gì tới Viễn Đông. Nhưng cũng chính vì thế mà sự quan sát của tôi tỏ ra đúng mức, và tôi vẫn hoàn toàn tin tưởng rằng không có một sự chống đối nào lại có thể làm cho Việt Nam chuyển hướng khỏi cuộc đấu tranh vì độc lập của họ, dù cho họ phải trả bằng giá nào và điều dó phải kéo dài đến đâu.
Thật đáng tiếc là chính đất nước chúng ta đã không chịu nhìn nhận cho hết thực tế này và đã không vạch ra được một phương hướng có thể đáp ứng lại những quyền lợi tối cao của chúng ta. Có thể nghĩa là hoàn toàn đứng ngoài sự việc trên và giữ vững một thái độ thực sự trung lập, một cách cụ thể và theo quan điểm đã được vạch ra của chúng ta.
Tình hình Đông Dương diễn biến theo chiều hướng đã được dự đoán. Người Trung Quốc đã kéo dài thời gian đủ để “bóp nặn” người Pháp được ở mức tối đa: từ 28-2 tới 14-3 năm 1946, Pháp đã phải ký một loạt các Hiệp định nhượng lại các đặc quyền đặc lợi trước chiến tranh của họ ở Trung Quốc. Theo hiệp định 14-3, việc rút lui của quân chiếm đóng Trung Quốc sẽ bắt đầu vào ngày 15-3 và kết thúc vào ngày 31, nhưng trong thực tế thì mãi tới tháng 10-1946, đơn vị cuối cùng của Trung Quốc mới rời khỏi Hải Phòng. Trong khi đó bọn tay sai thương mại và tài chính của Tưởng đã triển khai được một cách chắc chắn một cơ sở kinh tế khá vững vàng để tiến hành bóc lột Đông Dương trong một thời gian kéo dài hơn 30 năm sau, như hiện nay chúng ta đã thấy qua câu chuyện “thuyền nhân”.
Bị Mỹ bỏ rơi, không được thế giới c.... s.. biết tới, lại bị người Tnmg Quốc tham lam vô độ o ép, H.C.M đã phải đi tới chấp nhận một “Hiệp định” khá mong manh, ngày 6-3-1946, không phải với chính phủ Pháp, mà với một quan chức cấp thấp hơn, đại diện cho giới quân sự ở Đông Dương. Nhưng ông Hồ cũng đã sớm thấy ngay là bản Hiệp định không có sự phê chuẩn của Bộ Ngoại giao Pháp và các điều khoản buộc Pháp phải công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một “quốc gia tự do”, có “Nghị viện riêng, quân đội riêng, và nền tài chính riêng của mình”, nên bản Hiệp định đó đã không bao giờ được thi hành.
Thay vào đó, quân đội Pháp đã nhanh chóng vào chiếm đóng Hà Nội ngày 18-3. Và đúng một tháng sau khi chính thúc kết thúc việc chiếm đóng của Đồng minh, quân đội Leclerc (phần lớn do Mỹ viện trợ vận chuyển, trang bị vũ khí và khí tài) đã chiếm đóng các thành phố chủ yếu của Việt Nam. Chính sách của Mỹ đối với Đông Dương lúc đó đã ngả từ phương hướng chiến lược thời chiến sang lãnh vực kinh tế chính trị của mối quan hệ giữa Mỹ và Pháp.
Hiệp định 6-3 đã nhanh chóng dẫn đến Hội nghị Đà Lạt (từ tháng 4 đến tháng 5). Ở đó “bè lũ Sài Gòn” do D'Argenlieu, “một Raesputin(1) người Pháp” cầm đầu, đã tạm thời cắt rời Nam Kỳ khỏi Việt Nam. Tiếp sau đó là Hội nghị Fontainebleau (tháng 7 đến tháng 9) tai hại. Ở đó, ông Hồ đã ký kết một cuộc ngừng bắn nhưng nó đã sớm chết yểu. Quyết tâm của ông Hồ cộng tác với người Pháp ít nhất cũng trong một thời gian, đã làm cho cả những người Quốc gia thân Trung Quốc cũng như các thế lực thực dân Pháp hoảng sợ. Việc tiếp tục tồn tại của ông Hồ và Việt Minh của ông có nghĩa là họ sẽ chết, và đó là điều họ muốn tránh bằng bất cứ giá nào. Qua những con đường có thế lực ở Trùng Khánh và Paris, một chiến dịch chống ông Hồ và Việt Minh lại được bung ra với những thủ đoạn cũ, cho họ là những tay sai trung thành của Mátxcơva.
Mùa hè 1946, những luận điệu tuyên truyền này lan tới Washington, và trong tất cả những gì chính thức nói đến ông Hồ đều được gắn thêm chữ “c.... s..”. Ngày 5-12-1946, khi Moffat tới thăm Đông Dương, Bộ trưởng Acheson đã có điện chỉ dẫn trong trường hợp có thể gặp ông Hồ, Moffat “phải luôn luôn nhớ rằng ông Hồ đã được xác định là một tay sai của Quốc tế c.... s..…”, mặc dù vẫn tồn tại một điều thực tế là dấu vết âm mưu do Kremlin điều khiển đều có thể tìm thấy được ở mọi nơi, trừ Việt Nam ra. Chúng ta không có chứng cớ gì về mối liên lạc Việt Nam - Mátxcơva. Liên Xô không những đã không ủng hộ ông Hồ trong cuộc đấu tranh giành độc lập trước đây, mà còn không công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong nhiều năm sau nữa.
Từ Fontainebleu “tay không” trở về, ông Hồ lại phải đương đầu với sự phản đối kịch liệt của các phần tử chống lại ông trong Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh Hội. Chúng hò hét kết tội ông là “phản bội” và “hợp tác” yêu cầu ông từ chức. Để tránh đổ máu và tranh thủ thông qua được Hiệp định Fontainebleu, ông Hồ cho triệu tập phiên họp thứ hai Quốc hội để phê chuẩn bản Hiệp định đình chiến và do đó gạt bỏ trước được sự chống đối của Pháp. Quốc hội đã biểu quyết tín nhiệm ông Hồ và yêu cầu ông đứng ra lập nội các mới.
Thanked by 1 Member:
|
|
#34
Gửi vào 02/05/2021 - 17:24
Trích Bí mật Đế chế Hoa Kỳ:
( The Secret History of the American Empire, John Perkins )
Tổng thống John F. Kennedy đã xây dựng châu Á thành bức tường thành bảo vệ đế quốc chống lại chủ nghĩa c.... s.. khi ủng hộ cuộc đảo chính chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam năm 1963. Diệm đã bị ám sát và nhiều người tin rằng CIA đã nhúng tay vào việc này. Tiếp đến, CIA đã dàn dựng những cuộc đảo chính chống lại Mossadegh ở Iran, Qasim ở Iraq, Arbenz ở Venezuela, và Lumumba ở Congo. Thất bại của Diệm ngay lập tức dẫn đến việc nước Mỹ xây dựng các căn cứ quân sự ở khu vực Đông Nam Á và cuối cùng là cuộc chiến tranh Việt Nam.
Những sự kiện này không để lộ ra bất kỳ manh mối nào cho thấy có bàn tay của Kennedy núp đằng sau. Một thời gian dài sau vụ ám sát Tổng thống Mỹ, cuộc chiến tranh này trở thành thảm họa đối với toàn nước Mỹ. Năm 1969, Tổng thống Richard M. Nixon bắt đầu thực hiện những cuộc rút lui quân sự hàng loạt. Chính quyền Nixon thực hiện một chiến lược bí mật hơn nhằm tập trung ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa c.... s.. lúc này đang lan rộng ở nhiều nước. Indonesia trở thành chìa khóa quan trọng trong chiến lược của Mỹ.
Một trong những mắt xích quan trọng của chiến dịch này chính là Tổng thống Indonesia, Haji Mohammed Suharto. Haji nổi tiếng là kẻ kiên quyết chống lại chủ nghĩa c.... s.. và cũng là người không do dự sử dụng những hành động vô cùng tàn ác nhằm thực hiện chính sách của mình. Năm 1965, với tư cách là người thống lĩnh quân đội, chính ông ta đã tiêu diệt tận gốc đội quân thân cộng, trực tiếp chỉ huy vụ thảm sát đẫm máu dẫn đến cái chết của khoảng 300 nghìn đến 500 nghìn người, một trong những vụ thảm sát hàng loạt vì mục đích chính trị đẫm máu nhất thế kỷ XX… Theo ước tính, có khoảng một triệu người khác bị bỏ tù và giam giữ tại các trại giam. Hệ quả của các cuộc giết người, bắt bớ này là việc Suharto đứng đầu chính quyền với tư cách tổng thống vào năm 1968.
Năm 1971, tại thời điểm tôi đặt chân đến Indonesia, mục tiêu của các chính sách đối ngoại của Mỹ rất rõ ràng: khai trừ chủ nghĩa c.... s.. và ủng hộ tổng thống. Chúng tôi kỳ vọng Suharto sẽ phụng sự nước Mỹ như cựu vương Shah đã làm ở Iran. Hai người đàn ông này có rất nhiều điểm tương đồng: tham lam, tự phụ và vô cùng tàn nhẫn. Không chỉ thèm muốn những mỏ dầu của Indonesia, chúng tôi còn muốn lấy đất nước này làm mẫu hình cho cả châu Á cũng như thế giới Hồi giáo noi theo.
------------------------ (vốn post hai bài mà bị gộp thành một bài, nên update lại thêm đoạn này tách cho dễ đọc )
Trong quá trình nghiên cứu về lịch sử chiến tranh tại Việt nam, thì sự kiện Ngô Đình Diệm và John F Kennedy bị ám sát là có vẻ khó hiểu hơn cả, và đây có lẽ cũng là một bước ngoặt định đoạt số phận cuộc chiến tranh sau này. Đi tìm trả lời cho sự khó hiểu này thì tình cờ tôi bắt gặp những cuốn sách nói về Tổ hợp công nghiệp quân sự và CIA vốn rất mạnh sau Chiến tranh thế giới lần hai, và đây là một cuốn mà tôi đang đọc, trích dẫn vài đoạn.
Trích: The War State: The Cold War Origins Of The Military-Industrial Complex And The Power Elite, 1945-1963
Tôi nhớ khi tôi còn là một đứa trẻ vào năm 1989, khi xem bố tôi kỷ niệm sự kiện Bức tường Berlin sụp đổ trên truyền hình khi ông uống một vài ly rượu. Anh lớn lên như một đứa trẻ của Chiến tranh Lạnh. Khi trưởng thành, cả cuộc đời trong quân đội của ông đã dành để chống lại Liên Xô. Ông đã lên kế hoạch dự phòng để chống lại các cuộc tấn công bằng vũ khí hóa học của Liên Xô chống lại binh lính Mỹ ở châu Âu trong trường hợp Thế chiến III nổ ra. Ông đã có các cuộc họp giao ban tại trụ sở của Cơ quan Tình báo Trung ương ở Langley, Virginia, ngoài Công viên Tưởng niệm George Washington, và có một văn phòng ở Lầu Năm Góc.
Khi chứng kiến Bức tường Berlin sụp đổ, ông đã nâng ly chúc mừng chiến thắng. Những cuốn sách ra mắt nói rằng chúng ta đang tiến gần đến “sự kết thúc của lịch sử” như thế nào, bởi vì cuộc chiến ý thức hệ chống lại chủ nghĩa c.... s.. đã bị phương Tây và Hoa Kỳ giành chiến thắng một cách rõ ràng. Cha tôi biết rằng ông ấy đang đạt đến đỉnh cao của sự nghiệp, và tôi nhớ ông ấy đã rất ngạc nhiên khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Ông tự hỏi liệu bằng cách nào đó quân đội Hoa Kỳ sẽ mất việc làm. Nếu không có xung đột gián điệp thời Chiến tranh Lạnh, ông cho rằng Cục Tình báo Trung ương không còn phục vụ bất kỳ mục đích nào và ông tin rằng nếu không có nguy cơ xảy ra chiến tranh với siêu cường Liên Xô, chi tiêu quốc phòng sẽ giảm và số lượng người phục vụ trong quân đội cũng sẽ giảm theo. Nhưng không có điều này xảy ra. Đúng vậy, đã có những đợt cắt giảm lực lượng và đóng cửa căn cứ trong nhiệm kỳ tổng thống của Bill Clinton, nhưng ông không giảm chi tiêu quân sự theo bất kỳ cách nào. Sau khi George W. Bush lên kế vị tổng thống, cú sốc từ vụ tấn công khủng bố 11/9 năm 2001 đã bao trùm đất nước và ông tuyên bố "Cuộc chiến chống khủng bố" mới tuyên bố mọi quốc gia trên thế giới giờ đây đều được coi là bạn hoặc thù. Anh ta tuyên bố ba trong số họ — Iran, Iraq và Bắc Triều Tiên — là một phần của “Trục Ác ma” mặc dù họ không liên quan gì đến vụ tấn công 11/9 và chẳng liên quan gì đến nhau. Đó là một động lực thiện và ác tương tự như trong Chiến tranh Lạnh. Vào những năm 1950, trong thập kỷ đầu tiên của Chiến tranh Lạnh, các tế bào gián điệp của c.... s.. với nhiều chất hư cấu hơn đối với họ.
---
Khoảng 200 năm qua, nước Mỹ là một ví dụ điển hình cho nền dân chủ và công bằng. Bản Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp của chúng tôi đã thúc đẩy phong trào tự do trên khắp các lục địa. Chúng tôi đã cố gắng tạo ra những thể chế toàn cầu thể hiện lý tưởng của mình. Thế kỷ XX đã chứng kiến sự xuất hiện của ngày càng nhiều các nhà lãnh đạo phong trào dân chủ và công bằng trên thế giới. Chúng tôi có công xây dựng Tòa án thường trực tư pháp quốc tế tại Hague, Hiệp định liên minh các dân tộc, Hiến chương Liên hợp quốc, Bản tuyên ngôn toàn cầu về nhân quyền và rất nhiều công ước của Liên hợp quốc.
Tuy nhiên, từ cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, vai trò dẫn đầu của chúng tôi đã bị suy yếu. Mô hình đất nước bị tập đoàn trị nanh ác ngấm ngầm phá hoại nghiêng hẳn theo xu hướng xây dựng đế quốc. Khi còn là một tình nguyện viên trong Tổ chức Hòa bình Mỹ, tôi nhận thấy nhân dân Ecuador cũng như người dân các nước láng giềng hết sức phẫn nộ trước sự tàn bạo và thất vọng trước những mâu thuẫn công khai trong chính sách của chúng tôi. Chúng tôi tuyên bố bảo vệ nền dân chủ ở những nơi như Việt Nam trong khi lại trục xuất và ám sát những tổng thống được nền dân chủ bầu ra. Học sinh phổ thông trên khắp Mỹ Latinh đều biết chính nước Mỹ đã lật đổ tổng thống Allende ở Chile, Mossadegh ở Iran, Arbenz ở Guatemala, Goulart ở Brazil và Qasim ở Iraq. Chính sách của Washington đã truyền đến thế giới một bức thông điệp rối rắm. Hành động của chúng tôi đã bán rẻ những lý tưởng thiêng liêng nhất.
Một phương pháp mà tập đoàn trị tác động vào bộ máy quyền lực trong những năm 1970 đó là trao quyền cho chính phủ chuyên chế ở Mỹ Latinh. Những chính phủ này đã thử nghiệm các chính sách kinh tế đem lại lợi nhuận cho các nhà đầu tư Mỹ và các tập đoàn quốc tế nhưng về cơ bản lại gây ra sự thất bại cho nền kinh tế trong nước – gây khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp và khiến tăng trưởng kinh tế thụt lùi. Bất chấp sự phản đối ngày càng tăng, Washington vẫn tiếp tục tán dương những kẻ lãnh đạo đồi bại, những kẻ làm vỡ nợ quốc gia trong khi lại tích lũy tài sản cho riêng chúng. Vấn đề càng trở nên trầm trọng khi Mỹ ủng hộ những kẻ độc tài cánh hữu và đội quân tàn sát của chúng tại Guatemala, El Salvador và Nicaragua.
Trong những năm 1980, làn sóng cải cách dân chủ lan rộng khắp lục địa. Chính phủ mới được bầu đã nhờ “các chuyên gia” của Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới giải quyết vấn đề của họ. Họ bị thuyết phục hoàn toàn trước các chương trình điều chỉnh cơ cấu (SAP) và đã tiến hành những biện pháp không được lòng dân từ tư nhân hóa các dịch vụ đa dụng đến cắt giảm trợ cấp cho các dịch vụ xã hội. Họ chấp nhận những khoản vay lớn đến đáng ngờ để phát triển các dự án cơ sở hạ tầng mà thường chỉ phục vụ cho tầng lớp thượng lưu và để lại nợ nần cho đất nước gánh chịu.
---
Tôi nhớ lại bài phát biểu của Tổng thống Eisenhower về tổ hợp công nghiệp quân sự. Thật đáng mỉa mai khi chính một sĩ quan quân sự và là người chỉ huy tối cao của lực lượng đồng minh trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai lại là người đầu tiên công khai lột trần sự tồn tại của cái mà ngày nay chúng ta gọi là “tập đoàn trị”.
Eisenhower đã nhìn thấy những quản trị viên này tranh giành ảnh hưởng như thế nào trong chính sách đối ngoại của Mỹ khi cuộc chiến tranh Triều Tiên diễn ra. Ông cũng chứng kiến họ đã thao túng giới truyền thông và quốc hội như thế nào và sử dụng hiểm họa c.... s.. như là lời bào chữa cho việc họ xóa bỏ dần các đặc quyền công dân. Và chính ông cũng từng đứng yên khi họ bán công nghệ cho quân đội để đưa đầu đạn tên lửa hạt nhân đến những vùng đất xa xôi. Nhưng tại Ai Cập, trong cuộc khủng hoảng tại kênh đào Suez, ông bắt đầu cảm thấy thật sự lo sợ khi hiệp ước giữa chính phủ, quân đội và các tập đoàn được thực hiện. Vâng, ông buộc phải bằng lòng. Nhưng tận sâu trong suy nghĩ của mình, hẳn là ông đã giận dữ lắm. Theo tôi đoán, người đàn ông được huấn luyện bằng những kỷ luật của riêng mình hẳn đang chờ đợi cơ hội tốt nhất, chờ cho tới khi nhiệm kỳ tổng thống của mình kết thúc.
Sau đó, ông sẽ thả “quả bom” của riêng mình. Giống như rất nhiều người phản đối cuộc chiến tranh ở Việt Nam hồi cuối những năm 1960, tôi cũng treo một bản copy bài phát biểu kết thúc nhiệm kỳ vào ngày 17 tháng 1 năm 1961 của Ike lên bàn làm việc của mình.
Trong bài phát biểu, Eisenhower miêu tả đất nước Mỹ như là một đất nước có nền kinh tế được xây dựng dựa trên những nỗ lực hòa bình: “Mãi đến tận khi những xung đột gần đây nổ ra trên thế giới, ở nước Mỹ vẫn chưa xuất hiện ngành công nghiệp vũ khí. Những người chế tạo lưỡi cày ở Mỹ, với thời gian và khi cần thiết, cũng có thể chế tạo ra những thanh kiếm”. Sau đó, ông cảnh báo: “Trong các hội đồng của chính phủ, chúng ta phải chống lại những nỗ lực giành ảnh hưởng của hệ thống công nghiệp quốc phòng. Khả năng gia tăng tình trạng quyền lực đặt sai chỗ sẽ vẫn tồn tại và còn kéo dài dai dẳng.
Chúng ta không bao giờ được để sức nặng của sự kết hợp này gây nguy hiểm tới nền hòa bình cũng như quá trình dân chủ của chúng ta. Chúng ta không được chấp thuận điều đó. Chỉ cần một cảnh báo và những người dân có hiểu biết của chúng ta có thể kiểm soát được sự ăn khớp hoàn hảo của bộ máy công nghiệp và quân sự bằng các biện pháp và mục tiêu hòa bình. Chỉ có vậy, hòa bình và tự do mới có thể cùng đạt được.”
---
Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) được thành lập sau Thế chiến II để các quan chức an ninh quốc gia có thể tham gia vào việc kiểm soát theo kiểu đế quốc đối với các khu vực trên thế giới. NSC-68 ra lệnh rằng "trật tự" thế giới là một mục tiêu mới của Hoa Kỳ để Hoa Kỳ không chỉ mong muốn mà còn tích cực theo đuổi.
Để làm như vậy, chính phủ liên bang phải vượt ra ngoài Hiến pháp và thực hiện các hành vi như ám sát, đảo chính, phá hoại, lật đổ và các hoạt động gắn cờ giả được bao hàm bởi các khái niệm như sự phủ nhận hợp lý nằm ngoài hệ thống kiểm tra và cân bằng thông thường hoặc bất kỳ loại nào giám sát thực sự của quốc hội. Một số ví dụ nổi tiếng nhất đã diễn ra ở Iran, Guatemala, Bolivia, Nicaragua, El Salvador, Indonesia, Campuchia, Brazil, Congo, Peru, Haiti, và ở Cộng hòa Dominica. Thực sự danh sách là vô tận.
Tổng thống Harry Truman không có kế hoạch để Cơ quan Tình báo Trung ương có liên quan đến khắp nơi trên thế giới như thế này và cảm thấy hối tiếc về sự tồn tại của nó. Anh nghĩ rằng nó đã có một cuộc sống của riêng mình. Vào ngày 22 tháng 12 năm 1963, một tháng trước ngày tổng thống John F.Kennedy bị ám sát, Truman đã đăng một bài xã luận trên tờ Washington Post rằng, “Trong một thời gian, tôi cảm thấy bối rối bởi cách CIA đã chuyển hướng so với nhiệm vụ ban đầu của mình. Nó đã trở thành một hoạt động và đôi khi là một cánh tay hoạch định chính sách của chính phủ. Điều này đã dẫn đến rắc rối và có thể làm tăng thêm khó khăn của chúng tôi trong một số lĩnh vực dễ bùng nổ. Chúng ta đã lớn lên như một quốc gia, được tôn trọng vì các thể chế tự do và khả năng duy trì một xã hội tự do và cởi mở. Có điều gì đó về cách hoạt động của CIA đang phủ bóng lên vị trí lịch sử của chúng tôi và tôi cảm thấy rằng chúng tôi cần phải sửa chữa nó”.
( The Secret History of the American Empire, John Perkins )
Tổng thống John F. Kennedy đã xây dựng châu Á thành bức tường thành bảo vệ đế quốc chống lại chủ nghĩa c.... s.. khi ủng hộ cuộc đảo chính chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam năm 1963. Diệm đã bị ám sát và nhiều người tin rằng CIA đã nhúng tay vào việc này. Tiếp đến, CIA đã dàn dựng những cuộc đảo chính chống lại Mossadegh ở Iran, Qasim ở Iraq, Arbenz ở Venezuela, và Lumumba ở Congo. Thất bại của Diệm ngay lập tức dẫn đến việc nước Mỹ xây dựng các căn cứ quân sự ở khu vực Đông Nam Á và cuối cùng là cuộc chiến tranh Việt Nam.
Những sự kiện này không để lộ ra bất kỳ manh mối nào cho thấy có bàn tay của Kennedy núp đằng sau. Một thời gian dài sau vụ ám sát Tổng thống Mỹ, cuộc chiến tranh này trở thành thảm họa đối với toàn nước Mỹ. Năm 1969, Tổng thống Richard M. Nixon bắt đầu thực hiện những cuộc rút lui quân sự hàng loạt. Chính quyền Nixon thực hiện một chiến lược bí mật hơn nhằm tập trung ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa c.... s.. lúc này đang lan rộng ở nhiều nước. Indonesia trở thành chìa khóa quan trọng trong chiến lược của Mỹ.
Một trong những mắt xích quan trọng của chiến dịch này chính là Tổng thống Indonesia, Haji Mohammed Suharto. Haji nổi tiếng là kẻ kiên quyết chống lại chủ nghĩa c.... s.. và cũng là người không do dự sử dụng những hành động vô cùng tàn ác nhằm thực hiện chính sách của mình. Năm 1965, với tư cách là người thống lĩnh quân đội, chính ông ta đã tiêu diệt tận gốc đội quân thân cộng, trực tiếp chỉ huy vụ thảm sát đẫm máu dẫn đến cái chết của khoảng 300 nghìn đến 500 nghìn người, một trong những vụ thảm sát hàng loạt vì mục đích chính trị đẫm máu nhất thế kỷ XX… Theo ước tính, có khoảng một triệu người khác bị bỏ tù và giam giữ tại các trại giam. Hệ quả của các cuộc giết người, bắt bớ này là việc Suharto đứng đầu chính quyền với tư cách tổng thống vào năm 1968.
Năm 1971, tại thời điểm tôi đặt chân đến Indonesia, mục tiêu của các chính sách đối ngoại của Mỹ rất rõ ràng: khai trừ chủ nghĩa c.... s.. và ủng hộ tổng thống. Chúng tôi kỳ vọng Suharto sẽ phụng sự nước Mỹ như cựu vương Shah đã làm ở Iran. Hai người đàn ông này có rất nhiều điểm tương đồng: tham lam, tự phụ và vô cùng tàn nhẫn. Không chỉ thèm muốn những mỏ dầu của Indonesia, chúng tôi còn muốn lấy đất nước này làm mẫu hình cho cả châu Á cũng như thế giới Hồi giáo noi theo.
------------------------ (vốn post hai bài mà bị gộp thành một bài, nên update lại thêm đoạn này tách cho dễ đọc )
Trong quá trình nghiên cứu về lịch sử chiến tranh tại Việt nam, thì sự kiện Ngô Đình Diệm và John F Kennedy bị ám sát là có vẻ khó hiểu hơn cả, và đây có lẽ cũng là một bước ngoặt định đoạt số phận cuộc chiến tranh sau này. Đi tìm trả lời cho sự khó hiểu này thì tình cờ tôi bắt gặp những cuốn sách nói về Tổ hợp công nghiệp quân sự và CIA vốn rất mạnh sau Chiến tranh thế giới lần hai, và đây là một cuốn mà tôi đang đọc, trích dẫn vài đoạn.
Trích: The War State: The Cold War Origins Of The Military-Industrial Complex And The Power Elite, 1945-1963
Tôi nhớ khi tôi còn là một đứa trẻ vào năm 1989, khi xem bố tôi kỷ niệm sự kiện Bức tường Berlin sụp đổ trên truyền hình khi ông uống một vài ly rượu. Anh lớn lên như một đứa trẻ của Chiến tranh Lạnh. Khi trưởng thành, cả cuộc đời trong quân đội của ông đã dành để chống lại Liên Xô. Ông đã lên kế hoạch dự phòng để chống lại các cuộc tấn công bằng vũ khí hóa học của Liên Xô chống lại binh lính Mỹ ở châu Âu trong trường hợp Thế chiến III nổ ra. Ông đã có các cuộc họp giao ban tại trụ sở của Cơ quan Tình báo Trung ương ở Langley, Virginia, ngoài Công viên Tưởng niệm George Washington, và có một văn phòng ở Lầu Năm Góc.
Khi chứng kiến Bức tường Berlin sụp đổ, ông đã nâng ly chúc mừng chiến thắng. Những cuốn sách ra mắt nói rằng chúng ta đang tiến gần đến “sự kết thúc của lịch sử” như thế nào, bởi vì cuộc chiến ý thức hệ chống lại chủ nghĩa c.... s.. đã bị phương Tây và Hoa Kỳ giành chiến thắng một cách rõ ràng. Cha tôi biết rằng ông ấy đang đạt đến đỉnh cao của sự nghiệp, và tôi nhớ ông ấy đã rất ngạc nhiên khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Ông tự hỏi liệu bằng cách nào đó quân đội Hoa Kỳ sẽ mất việc làm. Nếu không có xung đột gián điệp thời Chiến tranh Lạnh, ông cho rằng Cục Tình báo Trung ương không còn phục vụ bất kỳ mục đích nào và ông tin rằng nếu không có nguy cơ xảy ra chiến tranh với siêu cường Liên Xô, chi tiêu quốc phòng sẽ giảm và số lượng người phục vụ trong quân đội cũng sẽ giảm theo. Nhưng không có điều này xảy ra. Đúng vậy, đã có những đợt cắt giảm lực lượng và đóng cửa căn cứ trong nhiệm kỳ tổng thống của Bill Clinton, nhưng ông không giảm chi tiêu quân sự theo bất kỳ cách nào. Sau khi George W. Bush lên kế vị tổng thống, cú sốc từ vụ tấn công khủng bố 11/9 năm 2001 đã bao trùm đất nước và ông tuyên bố "Cuộc chiến chống khủng bố" mới tuyên bố mọi quốc gia trên thế giới giờ đây đều được coi là bạn hoặc thù. Anh ta tuyên bố ba trong số họ — Iran, Iraq và Bắc Triều Tiên — là một phần của “Trục Ác ma” mặc dù họ không liên quan gì đến vụ tấn công 11/9 và chẳng liên quan gì đến nhau. Đó là một động lực thiện và ác tương tự như trong Chiến tranh Lạnh. Vào những năm 1950, trong thập kỷ đầu tiên của Chiến tranh Lạnh, các tế bào gián điệp của c.... s.. với nhiều chất hư cấu hơn đối với họ.
---
Khoảng 200 năm qua, nước Mỹ là một ví dụ điển hình cho nền dân chủ và công bằng. Bản Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp của chúng tôi đã thúc đẩy phong trào tự do trên khắp các lục địa. Chúng tôi đã cố gắng tạo ra những thể chế toàn cầu thể hiện lý tưởng của mình. Thế kỷ XX đã chứng kiến sự xuất hiện của ngày càng nhiều các nhà lãnh đạo phong trào dân chủ và công bằng trên thế giới. Chúng tôi có công xây dựng Tòa án thường trực tư pháp quốc tế tại Hague, Hiệp định liên minh các dân tộc, Hiến chương Liên hợp quốc, Bản tuyên ngôn toàn cầu về nhân quyền và rất nhiều công ước của Liên hợp quốc.
Tuy nhiên, từ cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, vai trò dẫn đầu của chúng tôi đã bị suy yếu. Mô hình đất nước bị tập đoàn trị nanh ác ngấm ngầm phá hoại nghiêng hẳn theo xu hướng xây dựng đế quốc. Khi còn là một tình nguyện viên trong Tổ chức Hòa bình Mỹ, tôi nhận thấy nhân dân Ecuador cũng như người dân các nước láng giềng hết sức phẫn nộ trước sự tàn bạo và thất vọng trước những mâu thuẫn công khai trong chính sách của chúng tôi. Chúng tôi tuyên bố bảo vệ nền dân chủ ở những nơi như Việt Nam trong khi lại trục xuất và ám sát những tổng thống được nền dân chủ bầu ra. Học sinh phổ thông trên khắp Mỹ Latinh đều biết chính nước Mỹ đã lật đổ tổng thống Allende ở Chile, Mossadegh ở Iran, Arbenz ở Guatemala, Goulart ở Brazil và Qasim ở Iraq. Chính sách của Washington đã truyền đến thế giới một bức thông điệp rối rắm. Hành động của chúng tôi đã bán rẻ những lý tưởng thiêng liêng nhất.
Một phương pháp mà tập đoàn trị tác động vào bộ máy quyền lực trong những năm 1970 đó là trao quyền cho chính phủ chuyên chế ở Mỹ Latinh. Những chính phủ này đã thử nghiệm các chính sách kinh tế đem lại lợi nhuận cho các nhà đầu tư Mỹ và các tập đoàn quốc tế nhưng về cơ bản lại gây ra sự thất bại cho nền kinh tế trong nước – gây khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp và khiến tăng trưởng kinh tế thụt lùi. Bất chấp sự phản đối ngày càng tăng, Washington vẫn tiếp tục tán dương những kẻ lãnh đạo đồi bại, những kẻ làm vỡ nợ quốc gia trong khi lại tích lũy tài sản cho riêng chúng. Vấn đề càng trở nên trầm trọng khi Mỹ ủng hộ những kẻ độc tài cánh hữu và đội quân tàn sát của chúng tại Guatemala, El Salvador và Nicaragua.
Trong những năm 1980, làn sóng cải cách dân chủ lan rộng khắp lục địa. Chính phủ mới được bầu đã nhờ “các chuyên gia” của Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới giải quyết vấn đề của họ. Họ bị thuyết phục hoàn toàn trước các chương trình điều chỉnh cơ cấu (SAP) và đã tiến hành những biện pháp không được lòng dân từ tư nhân hóa các dịch vụ đa dụng đến cắt giảm trợ cấp cho các dịch vụ xã hội. Họ chấp nhận những khoản vay lớn đến đáng ngờ để phát triển các dự án cơ sở hạ tầng mà thường chỉ phục vụ cho tầng lớp thượng lưu và để lại nợ nần cho đất nước gánh chịu.
---
Tôi nhớ lại bài phát biểu của Tổng thống Eisenhower về tổ hợp công nghiệp quân sự. Thật đáng mỉa mai khi chính một sĩ quan quân sự và là người chỉ huy tối cao của lực lượng đồng minh trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai lại là người đầu tiên công khai lột trần sự tồn tại của cái mà ngày nay chúng ta gọi là “tập đoàn trị”.
Eisenhower đã nhìn thấy những quản trị viên này tranh giành ảnh hưởng như thế nào trong chính sách đối ngoại của Mỹ khi cuộc chiến tranh Triều Tiên diễn ra. Ông cũng chứng kiến họ đã thao túng giới truyền thông và quốc hội như thế nào và sử dụng hiểm họa c.... s.. như là lời bào chữa cho việc họ xóa bỏ dần các đặc quyền công dân. Và chính ông cũng từng đứng yên khi họ bán công nghệ cho quân đội để đưa đầu đạn tên lửa hạt nhân đến những vùng đất xa xôi. Nhưng tại Ai Cập, trong cuộc khủng hoảng tại kênh đào Suez, ông bắt đầu cảm thấy thật sự lo sợ khi hiệp ước giữa chính phủ, quân đội và các tập đoàn được thực hiện. Vâng, ông buộc phải bằng lòng. Nhưng tận sâu trong suy nghĩ của mình, hẳn là ông đã giận dữ lắm. Theo tôi đoán, người đàn ông được huấn luyện bằng những kỷ luật của riêng mình hẳn đang chờ đợi cơ hội tốt nhất, chờ cho tới khi nhiệm kỳ tổng thống của mình kết thúc.
Sau đó, ông sẽ thả “quả bom” của riêng mình. Giống như rất nhiều người phản đối cuộc chiến tranh ở Việt Nam hồi cuối những năm 1960, tôi cũng treo một bản copy bài phát biểu kết thúc nhiệm kỳ vào ngày 17 tháng 1 năm 1961 của Ike lên bàn làm việc của mình.
Trong bài phát biểu, Eisenhower miêu tả đất nước Mỹ như là một đất nước có nền kinh tế được xây dựng dựa trên những nỗ lực hòa bình: “Mãi đến tận khi những xung đột gần đây nổ ra trên thế giới, ở nước Mỹ vẫn chưa xuất hiện ngành công nghiệp vũ khí. Những người chế tạo lưỡi cày ở Mỹ, với thời gian và khi cần thiết, cũng có thể chế tạo ra những thanh kiếm”. Sau đó, ông cảnh báo: “Trong các hội đồng của chính phủ, chúng ta phải chống lại những nỗ lực giành ảnh hưởng của hệ thống công nghiệp quốc phòng. Khả năng gia tăng tình trạng quyền lực đặt sai chỗ sẽ vẫn tồn tại và còn kéo dài dai dẳng.
Chúng ta không bao giờ được để sức nặng của sự kết hợp này gây nguy hiểm tới nền hòa bình cũng như quá trình dân chủ của chúng ta. Chúng ta không được chấp thuận điều đó. Chỉ cần một cảnh báo và những người dân có hiểu biết của chúng ta có thể kiểm soát được sự ăn khớp hoàn hảo của bộ máy công nghiệp và quân sự bằng các biện pháp và mục tiêu hòa bình. Chỉ có vậy, hòa bình và tự do mới có thể cùng đạt được.”
---
Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) được thành lập sau Thế chiến II để các quan chức an ninh quốc gia có thể tham gia vào việc kiểm soát theo kiểu đế quốc đối với các khu vực trên thế giới. NSC-68 ra lệnh rằng "trật tự" thế giới là một mục tiêu mới của Hoa Kỳ để Hoa Kỳ không chỉ mong muốn mà còn tích cực theo đuổi.
Để làm như vậy, chính phủ liên bang phải vượt ra ngoài Hiến pháp và thực hiện các hành vi như ám sát, đảo chính, phá hoại, lật đổ và các hoạt động gắn cờ giả được bao hàm bởi các khái niệm như sự phủ nhận hợp lý nằm ngoài hệ thống kiểm tra và cân bằng thông thường hoặc bất kỳ loại nào giám sát thực sự của quốc hội. Một số ví dụ nổi tiếng nhất đã diễn ra ở Iran, Guatemala, Bolivia, Nicaragua, El Salvador, Indonesia, Campuchia, Brazil, Congo, Peru, Haiti, và ở Cộng hòa Dominica. Thực sự danh sách là vô tận.
Tổng thống Harry Truman không có kế hoạch để Cơ quan Tình báo Trung ương có liên quan đến khắp nơi trên thế giới như thế này và cảm thấy hối tiếc về sự tồn tại của nó. Anh nghĩ rằng nó đã có một cuộc sống của riêng mình. Vào ngày 22 tháng 12 năm 1963, một tháng trước ngày tổng thống John F.Kennedy bị ám sát, Truman đã đăng một bài xã luận trên tờ Washington Post rằng, “Trong một thời gian, tôi cảm thấy bối rối bởi cách CIA đã chuyển hướng so với nhiệm vụ ban đầu của mình. Nó đã trở thành một hoạt động và đôi khi là một cánh tay hoạch định chính sách của chính phủ. Điều này đã dẫn đến rắc rối và có thể làm tăng thêm khó khăn của chúng tôi trong một số lĩnh vực dễ bùng nổ. Chúng ta đã lớn lên như một quốc gia, được tôn trọng vì các thể chế tự do và khả năng duy trì một xã hội tự do và cởi mở. Có điều gì đó về cách hoạt động của CIA đang phủ bóng lên vị trí lịch sử của chúng tôi và tôi cảm thấy rằng chúng tôi cần phải sửa chữa nó”.
Sửa bởi AnKhoa: 02/05/2021 - 17:26
#35
Gửi vào 23/12/2022 - 01:35
Cái gì cực đoan quá cũng dở. Mỹ đề cao quyền Tự do ban đầu có vẻ hay, nhưng nhấn mạnh Quyền tự do mãi mà không nói đến Nghĩa vụ của sự tự do nên tâm lý công dân Mỹ bị nghiêng lệch. Nếu mỗi bang của Mỹ mà cứ răm rắp đòi Quyền thì có khi Liên bang lại bị cánh hữu cực đoan chia năm xẻ bảy.
Có thể cháu của Uncle sẽ thuyết phục được Mỹ, để những trang sử chiến tranh này mãi mãi trở thành quá khứ và mối bang giao Việt Mỹ sẽ kiến tạo nền hòa bình mãi mãi cho thế giới về sau.
Có thể cháu của Uncle sẽ thuyết phục được Mỹ, để những trang sử chiến tranh này mãi mãi trở thành quá khứ và mối bang giao Việt Mỹ sẽ kiến tạo nền hòa bình mãi mãi cho thế giới về sau.
#36
Gửi vào 24/09/2024 - 18:16
noname123, on 23/12/2022 - 01:35, said:
Cái gì cực đoan quá cũng dở. Mỹ đề cao quyền Tự do ban đầu có vẻ hay, nhưng nhấn mạnh Quyền tự do mãi mà không nói đến Nghĩa vụ của sự tự do nên tâm lý công dân Mỹ bị nghiêng lệch. Nếu mỗi bang của Mỹ mà cứ răm rắp đòi Quyền thì có khi Liên bang lại bị cánh hữu cực đoan chia năm xẻ bảy.
Có thể cháu của Uncle sẽ thuyết phục được Mỹ, để những trang sử chiến tranh này mãi mãi trở thành quá khứ và mối bang giao Việt Mỹ sẽ kiến tạo nền hòa bình mãi mãi cho thế giới về sau.
Có thể cháu của Uncle sẽ thuyết phục được Mỹ, để những trang sử chiến tranh này mãi mãi trở thành quá khứ và mối bang giao Việt Mỹ sẽ kiến tạo nền hòa bình mãi mãi cho thế giới về sau.
mỹ rất khôn khéo trong việc áp vs tuyên truyền cái tự do để gây ảnh hưởng lên các nước khác nhưng lúc cần quyền lợi j đó thì kệ luôn. Trc mỹ từng tiếp tay cho nhiêud chế độ độc tài như ở hàn quốc, mỹ latinh, vnch (hay mấy năm gần đây mỹ tranh giành ảnh hưởng vs tq ở vn thì cũng kệ k nhắc, lên án nhiều như trc). Nhưng n vẫn khôn khéo duy trì một bộ phận đối lập để gây ảnh hưởng, kiềm chế, ở vnch vs hq hồi trc cũng thế.
Thực sự mỹ rất cao tay trong các chiêu bài ctri. Nhưng vì đóng vai là ng ban phát tự do, dân chủ, bình đẳng nên cũng tự hạn chế mỹ k dám chơi chiêu nhiều bài bẩn vs bẫy các nc khác vào nợ xấu như tq.
Dân phương tây tính độc lập, tự do rất cao nên cái tự do dc duy trì từ con ng, quan từ dân mà ra. Cùng là cs mà tinh thần trách nhiệm lxô hơn hẳn tq,vn. K nói tới các yếu tố địa chính trị, thiên thời địa lợi khác thì cs ở đông âu vs lxo sụp đổ một phần chính là vì lòng dân k muốn nữa.
Địa chính trị mỹ cũng rộng lớn nên từng bang, vùng có quyền tự chủ lớn, hay tq cũng rộng lớn nên các phe phái địa phương nâng đỡ cũng mạnh. Trong lịch sử phong kiến tq, vn thì các vua thường hay cho ng trấn yểm, phá huỷ phong thuỷ nên địa phương bị suy yếu, khó độc lập so trung ương.
Thế kỉ này chứng kiến công nghệ càng ngày càng phát triển nhưng con ng có vẻ ít tự do về tư duy vs tư tưởng hơn, dần bị mxh nhồi nhét cách nên nghĩ ntn, định hướng mạnh mẽ. Các nhà nước gia tăng tính chất toàn trị nhờ vào công nghệ.
Mong nếu có bác nào phân tích được vấn đề dưới đề tử vi, phong thuỷ để mọi ng mở mang tầm mắt (những việc như này có ngẫu nhiên hay theo chu kì thành trụ hoại diệt)!!! Thế kỉ này có sóng gió như tk20 k?
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
TIN BUỒN : Bố của anh vietnamconcrete vừa qua đời |
Báo Tin | huygen |
|
|
|
Dự đoán trận chung kết nữ VietNam vs ThaiLan SEA Games 2019Soccer |
Tử Vi | Hoa Cái |
|
||
Gửi thầy vietnamconcrete - Về Thái ất |
Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | NguoiGiuRung |
|
||
Hình (Another side of Vietnam)hình ảnh mọi miền |
Nguồn Sống Tươi Đẹp | Lou |
|
|
|
TPP & Vietnam |
Vài Dòng Tản Mạn... | AnKhoa |
|
|
|
Welcome to Vietnam - Đất nước mình đẹp mà! |
Nguồn Sống Tươi Đẹp | phuctinh |
|
8 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 8 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |