Ví dụ số 1 trong cuốn Trích Thiên Tủy:
Sơ đồ dùng toán học của VULONG để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần như sau:
Qua sơ đồ tính toán trên ta thấy Thân là Kim có tới 12,52đv lớn hơn Thủy, Mộc và Hỏa mỗi hành trên 1đv lên theo định nghĩa của VULONG thì Thân của Tứ Trụ này là vượng. Thân vượng mà Kiêu Ấn ít và Thực Thương không nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Đinh ở trụ tháng.
Điểm vượng của các trạng thái trong bảng “Sinh Vượng Tử Tuyệt“ được VULONG xác định chính xác tới 1% đv (đã được ghi trong bảng “Sinh Vượng Tử Tuyệt“ ở trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“, muốn tìm hãy gõ lên Google chủ đề “Vulong: Tứ Trụ cho tất cả mọi người“ là có ngay, hiện giờ có sửa lại chút ít).
Giả dụ như Tân trụ tháng Lâm Quan ở lệnh tháng Dậu có 9đv, Bính trụ giờ ở trạng thái Tử có 2,95đv, Mão trụ năm ở trạng thái Tuyệt có 3,2đv…
Cách tính toán được tóm tắt đơn giản như sau:
1 – Quy ước: Tứ Trụ được mô tả bằng hình chữ nhật như sơ đồ trên cùng can chi của 4 trụ, lần lượt trụ đầu tiên là trụ năm Tân Mão tới trụ tháng rồi trụ ngày và cuối cùng là trụ giờ Bính Tý.
Vùng tâm là vùng mặt phẳng được giới hạn bởi hình chữ V có can trụ ngày ở phía trong, có thể coi can ngày là tâm điểm của vùng tâm. Ý nghĩa của vùng tâm là vùng không còn phải lo lắng (Nước xa không cứu nổi Lửa gần) nữa, tức là với điểm vượng của các can chi trong vùng tâm thì biết ngay chúng tác động tới Thân (can ngày) là như nhau không còn sợ chúng ở xa hay gần Can ngày nữa).
2 - Những can bị khắc gần (tức can của trụ ở ngay bên cạnh) như Tân trụ năm và Canh trụ ngày bị khắc gần bởi Đinh trụ tháng nên 2 can này phải khoanh tròn để biết chúng không sinh hay khác được với các can chi khác.
Ngọ trụ ngày bị khắc gần bởi Tý trụ giờ, Bính trụ giờ bị khắc trực tiếp bởi Tý cùng trụ nên Ngọ và Bính cũng phải khoanh tròn lại.
Mão trụ năm không bị Dậu hay Tân và Canh khắc, còn Dậu chỉ bị Đinh khắc trực tiếp cùng trụ mà thôi.
3 – Can Chi bị khắc cùng trụ giảm 1/2đv của nó, khắc gần giảm 1/3đv, tức giảm 4/12 (với khác dấu tức âm dương khắc nhau, còn cùng dấu - âm khắc âm hay dương khắc dương - giảm 5/12) của nó, khắc cách 1 ngôi giảm 1/5 (với khác dấu còn cùng dấu giảm 1/4), khắc cách 2 ngôi giảm 1/10 (với khác dấu còn cùng dấu giảm 1/9), khắc cách 3 ngôi giảm 1/20 (với khác dấu còn cùng dấu giảm 1/19).
4 – Điểm vượng của can ở trụ năm, chi trụ tháng và chi trụ giờ vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv của chúng còn chi trụ năm vào vùng tâm giảm thêm 1/2đv của nó.
Bây giờ ta áp dụng lý thuyết này để tính cụ thể từng can chi khi vào vùng tâm còn lại bao nhiêu:
1 – Can trụ năm là Tân ở trạng thái Lâm quan ở lệnh tháng Dậu có 9đv bị Đinh trụ tháng khắc gần cùng dấu giảm 5/12 còn 9.7/12đv, khi vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 9.7/12.3/5đv = 3,15đv.
2 – Đinh trụ tháng ở trạng thái Trường sinh ở lệnh tháng Dậu có 6đv bị Tý trụ giờ khắc khác dấu cách 2 ngôi giảm 1/10 còn 6.9/10đv = 5,4đv (Dậu ở trong vùng tâm).
3 – Canh trụ ngày đế vượng ở tháng Dậu có 10đv bị Đinh khắc gần khác dấu giảm 4/12 còn 10.8/12đv = 6,67đv.
4 - Bính trụ giờ ở trạng thái Tử có 2,95đv bị Tý cùng trụ khắc trực tiếp giảm ½ còn 2,95.1/2đv = 1,48đv.
5 - Tý trụ giờ ở trạng thái Mộc dục có 7đv không bị can chi nào khắc cả nên vào vùng tâm giảm 2/5 còn 5.3/5đv = 4,2đv.
6 - Ngọ trụ ngày Tử ở tháng Dậu có 2,95đv bị Tý khắc gần cùng dấu giảm 5/12 còn 2,9.7/12đv = 1,72đv.
7 – Dậu trụ tháng ở trạng thái Lâm quan có 9đv bị Dậu khắc trực tiếp cùng trụ giảm 1/2 còn 9.1/2đv, vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 9.1/2.3/5đv = 2,7đv.
8 – Mão trụ năm Tuyệt ở tháng Dậu có 3,2đv vào vùng tâm giảm 1/2 còn 3,2.1/2đv = 1,6đv.
Bây giờ ta chỉ cần cộng tất cả các điểm vượng của từng hành trong vùng tâm là xong.
Mộc có 1,6đv.
Hỏa có (5,4 + 1,48 + 1,72)đv = 8,6đv.
Thổ có 0đv (không tính các can tàng là tạp khí).
Kim có (3,15 + 6,67 +2,7)đv = 12,52đv.
Thủy có 4,2đv.
Ta thấy số điểm vượng của từng hành trong vùng tâm đúng như kết quả đã ghi trên sơ đồ tính toán trên.
Từ đây ta thấy Thân (Kim) có 12,52đv lớn hơn Thủy có 4,2đv, Mộc có 1,6đv và Hỏa có 8,6đv mỗi hành trên 1đv nên ta kết luận Thân của Tứ Trụ này là vượng (theo định nghĩa về Thân vượng hay nhược của VULONG).
Nếu tự tính trên chục Tứ Trụ thì các bạn sẽ quen dần lên khi đó tính ví dụ này chắc các bạn chỉ mất 10 phút là cùng, khi đó các bạn có quyền tự hào đã thắng được cả tới cao thủ Nhâm Thiết Tiều là cái chắc, vì ông ta mất cả đời nghiên cứu Tử Bình mà xác định Tứ Trụ này vẫn sai là Thân nhược.
Sửa bởi SongHongHa: 11/03/2021 - 21:27