Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
pxtho1612, on 09/03/2021 - 18:47, said:
50 là 46 sinh phù, 54 ức chế
51 là 43 sinh phù, 57 ức chế
Cám ơn Pxtho161,
Vậy là theo phần mềm này thì cả ví dụ 50 và 51 của cuốn Trích Thiên Tuỷ đều có Thân nhược.
Đây là 3 ví dụ cực khó đủ để kiểm tra trình độ xác định Thân vượng hay nhược của bất kỳ cao thủ Tử Bình nào.
Điều khẳng định này đúng 100% bởi vì đến trình độ của Nhâm Thiết Tiều vẫn xác định sai cho ví dụ số 1 là Thân nhược, còn ví dụ 50 và 51 thì ông ta không thể xác định Tứ Trụ nào có Thân là vượng hay nhược nên đã lé tránh động chạm tới Thân vượng hay nhược mà luận chung chung theo cách cục.
Đấy là xác định Thân vượng hay nhược theo kiểu ước lượng số can chi của mỗi hành xuất hiện trong Tứ Trụ để dự đoán nên mới quá khó như vậy mà thôi.
Còn nếu xác định Thân vượng hay nhược của 3 ví dụ này theo cách luận hành vận của VULONG thì lại dễ ợt, đến "Trẻ Con" nó cũng xác định được chính xác (ở đây chưa động chạm gì tới phương pháp dùng Toán Học của VULONG để xác định Thân vượng hay nhược).
Thật vậy, nếu không tin tôi sẽ chứng minh nó ngay tức thì:
Như ví dụ số 1:
VD 1- Càn tạo mệnh:
Tân mão đinh dậu canh ngọ bính tý
Đại vận: bính thân/ ất mù/i giáp ngọ/ quý tị/ nhâm thìn/ tân mão/ canh dần / kỷ sửu/ mậu tý
Thiên can canh tân bính đinh, chính phối hỏa luyện thu kim; địa chi tý ngọ mão dậu, cư ở bốn cung khảm ly chấn đoài. Cả bốn chi đều ở tứ chính, khí quán tám phương, nhưng ngũ hành thiếu thổ, tuy sinh vào mùa thu đương lệnh, chẳng luận vượng. rất cần tý ngọ gặp xung, thủy khắc hỏa, khiến cho ngọ hỏa chẳng khắc phá dậu kim, mà sinh phù nhật chủ; đổi lại mão dậu gặp xung, kim khắc mộc, tắc mão mộc không thể sinh trợ ngọ hỏa, chế phục đắc cách, sinh hóa hữu tình. Mão dậu tức chấn đoài chủ nhân nghĩa hơn người; tý ngọ tức khảm ly, là khí đứng đầu trong trời đất. Với lại khảm ly đắc nhật nguyệt chi chính thể, vô tiêu vô diệt, một tươi nhuận một ấm áp, tọa tại đoan môn, thủy hỏa ký tế. Cho nên tám phương qui phục, bốn biển cùng về, thiên hạ thái bình thịnh thế vậy(Thanh cao tông-càn long. Trích trong ái tân giác la mệnh phổ).
Trước khi “Bình Loạn“ ta phải hiểu các từ chuyên môn ứng dụng cho môn Tử Bình:
Như Tứ Trụ của vua Càn Long thì Thân của Tứ Trụ này mang hành Kim (do can trụ ngày là Canh mang hành Kim).
Do vậy hành Thổ sinh cho Kim được gọi là Kiêu Ấn, nên Kiêu Ấn (Thổ) và Thân (Kim) là phe ta (phe sinh phù – theo ngôn ngữ của phần mềm), 3 hành còn lại là Thủy, Mộc và Hỏa được gọi là phe địch (hay phe ức chế - theo ngôn ngữ của phần mềm).
Và cũng theo ngôn ngữ của phần mềm này thì phe sinh phù lớn hơn phe ức chế thì được coi là phe ta thắng phe địch, như vậy được gọi là Thân vượng còn ngược lại thì gọi là Thân nhược.
Theo
“Vượng Suy Pháp“ khi Thân vượng thì hành sinh phù (Kiêu Ấn và Thân) được gọi là các hành Kỵ Thần còn các hành ức chế được gọi là hỷ dụng thần, còn Thân nhược thì ngược lại.
Đến đây ta bắt đầu “Bình Loạn“ được rồi:
Các vận của Tứ Trụ vua Càn Long là:
Đại vận: bính thân/ ất mùi/ giáp ngọ/ quý tị/ nhâm thìn/tân mão/ canh dần/ kỷ sửu/ mậu tý
Chú ý: Theo đại sư Lưu Bá Ôn chỉ lấy hành của các Can đại vận là hỷ dụng thần thì các đại vận đó được gọi là các vận hỷ dụng thần, còn các Can là kỵ thần thì các đại vận đó được gọi là các vận kỵ thần (tức coi Can đại vận quan trọng hơn Chi).
Còn người bình là Nhâm Thiết Tiều ngược lại lấy Chi của các đại vận là hỷ hay kỵ thì gọi các đại vận đó là hỷ hay kỵ (tức là coi Chi đại vận quan trọng hơn Can).
Phương pháp luận hành vận của VULONG thì theo đại sư Lưu Bá Ôn, tức lấy Can đại vận làm trọng nhưng không bỏ qua Chi đại vận mà coi Chi đại vận đóng vai trò như chi tháng trong Tứ Trụ. Tức coi chi đại vận là Lệnh đại vận để xác định vượng suy của tất cả các can chi trong Tứ Trụ và của cả can chi của đại vận tại đại vận đó. Tất nhiên nếu chi đại vận hợp với chi trong Tứ Trụ hóa cục là hỷ dụng thần thì tốt còn hóa cục là kỵ thần thì xấu nhưng lệnh đại vận vẫn không thay đổi (đây là Kim Chỉ Nam cho tất cả những ai muốn nghiên cứu Tử Bình hay gọi cách khác là Binh Pháp Tử Bình Luận Hành Vận)
Nếu luận theo phương pháp của VULONG thì đầu tiên ta thấy cả cuộc đời của vua Càn Long đều thành công huy hoàng, rực rỡ…hết cỡ, điều này phải ứng với tất cả các đại vận phải có các Can đều là hỷ dụng thần.
Ta thấy 5 đại vận đầu có các can là
Nhâm, Quý, Giáp, Ất, Bính là Thực Thương, Tài tinh và Quan Sát phải là các hỷ dụng thần nên
Tứ Trụ này phải có Thân vượng.
2 vận tiếp là Tân Mão và Canh Dần, mặc dù là vận kỵ thần (vì Canh và Tân là kỵ thần) nhưng bị Bính trụ giờ vượng ở đại vận Dần, Mão hợp khắc làm Tân và Canh bị thương tổn nặng thêm Canh và Tân đều tử tuyệt ở vận nên 2 vận này từ vận kỵ thần chuyển thành vận hỷ thần (tức tốt nhiều hơn xấu).
Kết luận: Cả 7 vận đầu tiên đều là các vận hỷ dụng thần nên hoàn toàn phù hợp với cuộc đời của vua Càn Long.
Từ đây kết luận Tứ Trụ của vua Càn Long có Thân vượng.
Mọi người thấy xác định Thân vượng hay nhược theo cách luận hành vận này có phải là dễ ợt như tôi nói lúc đầu hay không?
Nếu ai đó không biết cách xác định Thân vượng hay nhược dựa theo cách luận hành vận này (nhất là khi đương số còn trẻ hay không biết quá khứ của đương số) thì phải dùng đến phương pháp dùng Toán Học của VULONG để xác định Thân vượng hay nhược là biết ngay thôi (chỉ cần tính toán từ 5 đến 10 phút là cùng).
Ai muốn biết phương pháp này thì hãy gõ lên Google tựa đề:
“Vu long: Tứ Trụ cho tất cả mọi người“ là có ngay.
Tôi sẽ dùng phương pháp của VULONG để xác định Thân của Tứ Trụ này sau.
Ví dụ 50 và 51:
(Còn tiếp)
Sửa bởi SongHongHa: 10/03/2021 - 06:26