Jump to content

Advertisements




Dấu Chân Trên Cát


25 replies to this topic

#1 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6740 Bài viết:
  • 5562 thanks

Gửi vào 06/07/2020 - 13:12

The Egyptian - Dấu Chân Trên Cát
Mika Waltari - Nguyên Phong

Mục Lục
Dấu Chân Trên Cát
Lời giới thiệu
CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 2
CHƯƠNG 3
CHƯƠNG 4
CHƯƠNG 5
CHƯƠNG 6
CHƯƠNG 7
CHƯƠNG 8
CHƯƠNG 9
CHƯƠNG 10
CHƯƠNG 11
PHẦN PHỤ LỤC


Mika Waltari
Dấu Chân Trên Cát
Nguyên Phong phóng tác theo THE EGYPTIAN của MikaWaltari

Lời giới thiệu

Ngày nay Ai Cập chỉ được biết đến như một quốc gia chậm tiến với những Kim Tự Tháp đồ sộ và những cổ mộ chứa xác ướp. Rất ít ai biết về quá khứ đầy huy hoàng của nền văn minh đã bị vùi lấp trong lòng cát sa mạc này. Hiển nhiên lịch sử đã ghi nhận về triều đại của các vua Pharaoh, những người đã tốn rất nhiều xương máu dân chúng để xây cất các Kim Tự Tháp, nhưng xây cất vào việc gì thì vẫn còn là một câu hỏi mà ngày nay người ta chưa tìm được câu trả lời. Lịch sử triều đại vua chúa Ai Cập cũng chứa đựng nhiều bí mật lạ lùng không thể giải thích. Hiện nay các nhà khảo cổ thông thái nhất vẫn không tìm được một chút manh mối hay di tích gì về các đấng quân vương, những người đã xây dựng lên nền văn minh bậc nhất bên bờ sông Nile này. Họ chỉ khai quật được mồ mả, lăng tẩm của các bạo chúa, những người đã gây chiến tranh khắp nơi, làm đổ máu dân lành vô tội.Nhà khảo cổ Kevin Livingston đã viết: "Hình như các vị minh quân không hề xây cất lăng tẩm, không hề dựng bia đá khắc ghi công trạng của mình. Phần lớn các lăng tẩm hay mồ mả đã được đào lên chỉ toàn của các vị vua bất tài,những bạo chúa khát máu, những người mà tên tuổi không còn ai muốn nhắc đến nữa". Ngày nay người ta biết đến
triều đại các vua chúa Ai Cập thời cổ qua sách vở của người Hy Lạp. Sở dĩ các sử gia Hy Lạp biết được các chi tiết này vì họ đã học hỏi từ một người Ai Cập bị đày biệt xứ tên là Sinuhe. Đây là một nhân vật lạ lùng, đã có công mang văn minh Ai Cập truyền vào Hy Lạp khi quốc gia này còn ở một tình trạng kém mở mang so với Ai Cập lúc đó. Các sử gia ngày nay đã đưa ra nhiều giả thuyết về nhân vật Sinuhe này. Có người cho rằng ông chỉ là một lái buôn đến Hy Lạp lập nghiệp nhưng làm sao một lái buôn lại mở trường dạy học và để lại nhiều tài liệu quí giá như thế được? Từ ngàn xưa, chỉ riêng giai cấp vua chúa và giáo sĩ mới được hưởng quy chế giáo dục toàn vẹn như vậy mà thôi. Do đó, một số người cho rằng ông thuộc giai cấp giáo sĩ nhưng việc một giáo sĩ Ai Cập đến mở trường dạy học tại Hy Lạp cũng là điều khó chấp nhận. Mặc dù khi đó văn minh Hy Lạp chưa tiến bộ như Ai Cập nhưng tôn giáo xứ này đã phát triển rất mạnh, hiển nhiên các giáo sĩ Hy Lạp không thể chấp nhận cho một giáo sĩ ngoại quốc đến mở trường dạy học tại thánh địa Olympia của họ được. Nếu thế, phải chăng Sinuhe thuộc giai cấp hoàng tộc? Điều này xét ra cũng không có lý vì một người thuộc giai cấp hoàng tộc không thể bị đày biệt xứ. Luật pháp Ai Cập chủ trương xử tử những kẻ trong hoàng tộc nếu họ vi phạm một tội trọng nào đó chứ không có lệ đày biệt xứ, vì các vua Pharaoh rất sợ những người trong bọn họ chiêu binh mãi mã làm phản. Việc một người Ai Cập, thân thế mơ hồ, bị đày biệt xứ, đến mở trường dạy học tại Athens, trung tâm văn hóa của Hy Lạp, vẫn là một bí mật đến nay các nhà khảo cổ chưa tìm được câu trả lời.


Tiểu sử tác giả

Mika Waltari (1908-1979) là một nhà soạn kịch nổi tiếng, đã viết hơn tám mươi kịch bản cho sân khấu kịch nghệ Broadway.Trong chuyến du lịch Hy Lạp, ông nghe kể về Sinuhe, một giai thoại phổ thông vẫn được lưu truyền trong dân gian xứ này. Ông đã tìm hiểu, tiếp xúc với các bô lão để ghi chép, thâu thập chi tiết về nhân vật lạ lùng này; rồi thêm vào đó một vài tình tiết với ý định sẽ dựng lên một vở kịch lớn nhưng nửa chừng, ông bỏ ý định và soạn thành cuốn tiểu thuyết The Egyptian (tạm dịch: Dấu Chân Trên Cát). Xuất bản năm 1945, The Egyptian là một trong những cuốn sách có số bán rất chạy và đã được tái bản nhiều lần. Tuy là một tiểu thuyết hư cấu (fiction) nhưng tác giả đã xây dựng nó từ những truyền thuyết trong dân gian, nên nó vẫn có giá trị trên địa hạt sử liệu và khảo cổ. Cho đến nay, dù đã soạn hơn tám mươi vở kịch nổi tiếng nhưng The Egyptian vẫn là cuốn tiểu thuyết đầu tay và duy nhất của ông.



Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:

#2 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6740 Bài viết:
  • 5562 thanks

Gửi vào 06/07/2020 - 14:29

Chương 1

Tôi tên là Sinuhe, câu chuyện tôi kể lại sau đây là chuyện của tôi, một người Ai Cập, mặc dù hiện nay tôi không còn được sống tại quê hương của tôi nữa. Tên tuổi tôi đã hoàn toàn bị xóa bỏ trong các đền đài, lăng tẩm, văn kiện, bia đá, và có lẽ hiện nay không còn ai nhắc nhở gì đến tôi nữa. Tôi viết lại chuyện này không phải để phục hồi tên tuổi cho tôi nhưng vì tôi thấy cần phải ghi lại các biến cố đã xảy ra tại quê hương tôi một cách trung thực, để thế hệ sau có thể biết rõ về những biến cố trong buổi giao thời lịch sử này. Tôi hy vọng nhờ thế họ có thể học hỏi, tránh không đi vào các vết xe cũ, những lỗi lầm xưa.

Người Ai Cập có thành ngữ: "Kẻ nào đã từng uống nước sông Nile thì không thể uống nước ở đâu được nữa." Quả thế, tuy sống tại Hy Lạp nhưng không bao giờ tôi có thể quên được Ai Cập, quê hương thân yêu của tôi. Mặc dù hiện nay được giải khát bằng những loại rượu nho thơm ngon nhất của Hy Lạp nhưng không bao giờ tôi có thể quên được hương vị trong mát, ngọt ngào của những bình nước được múc lên từ sông Nile, dòng sông mà người Ai Cập thường gọi là "mẹ Nile", một danh từ tràn đầy thương yêu, không bút mực nào có thể tả xiết.

Tôi xin bắt đầu câu chuyện của tôi...


° ° °


Tôi là một đứa bé Ai Cập sống tại thành Thebes. Hôm đó đang chạy nhảy nô đùa cùng những đứa trẻ đồng tuổi ngoài phố thì mẹ tôi gọi:

- Này Sinuhe, cha muốn con trở về nhà ngay.

Cha tôi là Sen Moot, một y sĩ nổi tiếng đã được huấn luyện tại Abydos, trung tâm giáo dục nổi tiếng nhất tại Ai Cập lúc đó. Mặc dù đỗ thủ khoa, được coi là một trong những y sĩ giỏi nhất nước, nhưng không như các bạn đồng nghiệp, chỉ tiếp bệnh nhân thuộc thành phần giàu có, cha tôi lại chọn một khu xóm bình dân để mở phòng mạch. Ông không đòi hỏi một giá biểu nhất định như các y sĩ đương thời, mà chỉ đặt một hòm gỗ trước cửa phòng khám bệnh để bệnh nhân có thể tùy ý, muốn bỏ vào đó bao nhiêu tiền cũng được.

Có hôm sau khi đóng cửa phòng mạch, mẹ tôi mở hòm ra và chỉ thấy vài đồng xu lẻ, vừa đủ mua một con cá ngoài chợ. Thấy bà có vẻ thất vọng, cha tôi đã khuyên:

"Chúng ta còn sung sướng chán, ít ra cũng có một con cá để ăn bữa chiều."

Mẹ tôi nhẹ nhàng giải thích:

"Em không cần ăn nhiều
nhưng thằng Sinuhe cũng cần phải có thức ăn bổ dưỡng, nó đang tuổi lớn."

Cha tôi bật cười rồi vỗ mạnh lên vai tôi một cách tự hào:

"Bà đừng lo, nó chỉ cần uống vài thang thuốc bổ của ta bào chế là đủ. Xem chừng bà không mấy tin công hiệu của các thang thuốc bổ của ta thì phải?"

Mẹ tôi lắc đầu:

"Đâu phải em không tin nhưng trẻ con
cũng cần phải ăn chút thịt cá chứ, ăn uống mấy loại rễ cây đó mãi đâu có tốt."

Cha tôi bèn quay qua tôi âu yếm:

"Này con trai, người ta
ăn để sống hay sống để ăn?"

Dĩ nhiên đã quá quen thuộc với những lời khuyên bảo này nên tôi trả lời ngay:

"Con chỉ ăn đủ để sống mà thôi."


Cha tôi bật cười sung sướng, nhấc bổng tôi lên quay mấy vòng và reo lớn:

"Thật đúng ý ta. Con ngoan lắm!"


Tuy nhiên không phải ngày nào tình trạng tài chánh cũng bi đát như thế. Mỗi khi có những đoàn lái buôn từ
phương xa ghé qua thành phố thì chiếc hòm gỗ của cha tôi thường chứa đầy những đồng tiền vàng, tiền bạc. Thấy mẹ tôi lúi húi đếm tiền, cha tôi ân cần nhắc nhở: "Này em, chúng ta chỉ nên giữ một món tiền nhỏ, vừa đủ ăn tiêu trong vòng bảy ngày thôi, còn dư ra bao nhiêu em đem phân phát cho những người nghèo khó hơn chúng ta." Mẹ tôi mỉm cười đồng ý rồi cúi xuống đống bạc trước mặt, chia ra làm hai phần không đều nhau, phần nhỏ bà cất đi để dành chi dùng, phần kia sẽ được đem ra phân phát cho người nghèo trong xóm.

Mẹ tôi xuất thân từ một gia đình thế gia vọng tộc nhưng ngay từ nhỏ bà đã không thích nếp sống xa hoa phung phí này. Bà thường dành nhiều thì giờ chăm lo săn sóc những kẻ nô lệ hay người nghèo khó trong xã hội. Tôi nghe kể có lần ông ngoại tôi mua cho bà một chiếc vòng ngọc rất quí nhưng bà đã đem bán chiếc vòng đó đi, lấy tiền mua thuốc giúp nhưng kẻ nô lệ đang mắc bệnh thời khí. Sự kiện này khiến ông ngoại tôi nổi giận lôi đình và có ý trừng phạt bà thật nặng. May thay, tấm lòng nhân hậu của bà đã cảm đến cha tôi, người y sĩ mà bà tìm đến mua thuốc. Cha tôi bèn cầu hôn. Lúc đầu mẹ tôi từ chối vì bà vẫn có ý định trở nên một nữ tu trong đền thần Isis. Tuy nhiên vì lý do gì đó mà cha tôi đã thuyết phục được mẹ tôi bỏ ý định này. Sau hôn lễ, cha mẹ tôi rời thủ đô Memphis dọn đến Thebes, mở phòng khám bệnh tại khu phố bình dân này. Cả hai cha mẹ tôi đều phát nguyện sống thanh bần để phụng sự nhân loại.

Hôm đó khi vừa về đến nhà thì tôi thấy cha tôi đang cạo tóc cho một bệnh nhân. Có lẽ đã được uống một thang thuốc mê nên hai mắt y nhắm nghiền như đang say ngủ. Cha tôi thong thả tuyên bố:

- Này Sinuhe, năm nay con đã lên bảy tuổi rồi, không còn là một đứa bé nữa. Kể từ nay, con sẽ phụ việc cho ta và ta muốn con quan sát những phương cách chữa trị hiếm có.Ngày hôm nay, ta sẽ mổ sọ cho bệnh nhân này...

Sống trong căn nhà nhỏ, vỏn vẹn có hai phòng, tôi không lạ gì công việc chữa trị của cha tôi. Không những tôi rất quen thuộc với những dụng cụ y khoa mà còn biết cả tên những chậu dược thảo hay các vị thuốc mà ông đích thân bào chế nữa. Tôi đã chứng kiến cha tôi chẩn bệnh, chữa bệnh, bào chế thuốc, băng bó cho các bệnh nhân trật tay, gẫy chân. Đã có lần tôi xem cha tôi đỡ đẻ cho một sản phụ và giải phẫu cho một người có bướu trong ruột, nhưng mổ sọ người là việc hiếm có chưa từng thấy.

Nhìn vẻ mặt đầy thích thú của tôi, cha tôi gật đầu và nói một cách hãnh diện:

- Này con trai, mổ sọ người là một việc vô cùng khó khăn mà rất ít y sĩ có thể làm được. Tuy nhiên đây là môn sở trường của ta, vì thế ta muốn con phụ giúp ta trong cơ hội hiếm có này.

Ông lấy ra một chiếc hộp lớn chứa đầy những dụng cụ giải phẫu kỳ lạ và bắt đầu giải thích công dụng của từng cái một. Tôi im lặng theo dõi và đặt câu hỏi mỗi khi không hiểu rõ. Cha tôi giải thích từng chi tiết cho đến khi cuộc giải phẫu bắt đầu. Ông đặt những dụng cụ này vào một chiếc đĩa bằng đồng, rắc lên đó một chút hương liệu và châm lửa đốt. Tôi nín thở theo dõi những ánh lửa màu xanh liếm quanh những con dao mổ hình thù kỳ lạ. Không khí trong căn phòng đột nhiên trở nên im lặng khác thường. Cha tôi thong thả làm việc. Vừa làm ông vừa giải thích và sau cùng ông dừng tay đưa mắt nhìn tôi, chậm rãi nói:

- Này Sinuhe, con có sợ không?

Tôi lắc đầu. Cha tôi mỉm cười đặt lưỡi dao lên sọ bệnh nhân:

- Tốt lắm! Trong nghề này, việc giáp mặt với cái chết là lẽ thường, không có gì phải sợ hãi. Khi ta khởi sự làm việc này thì thần chết cũng đã lảng vảng quanh đây rồi. Ta và y
sẽ bắt đầu một cuộc so tài và kết quả ra sao khó có thể biết trước được. Ông khởi sự bằng những đường mổ quanh đầu bệnh nhân rồi lấy ra một cái búa nhỏ khẽ gõ quanh đầu bệnh nhân mấy cái. Trước cặp mắt kinh ngạc của tôi, ông thong thả nhấc hẳn mảng sọ ra khỏi đầu bệnh nhân một cách nhẹ nhàng như người ta nhắc nắp vung ra khỏi cái nồi. Ông chỉ vào một vết bầm màu xám trong bộ óc:

- Con hãy xem đây... Bệnh nhân này bị một cái bướu đè lên màng óc nên y không thể nói năng được nữa. Khi cắt cái bướu này đi thì y sẽ phục hồi và có thể nói được như thường.

- Tại sao như thế?

- Có lẽ cái bướu này ngăn trở sự lưu thông của huyết mạch liên hệ đến các giác quan nói trên.

- Nhưng cái bướu đó ở đâu ra? Làm sao nó lại có thể chui vào sọ của bệnh nhân được?

- Nếu xét về nguyên nhân bệnh trạng thì vô chừng, không thể giải thích ngay được. Sau này ta sẽ giải thích cho con nhưng hiện nay không phải là lúc.

Ông hít một hơi dài như để định thần rồi bắt đầu làm việc. Tôi im lặng theo dõi từng cử chỉ của ông với vẻ thán phục. Thỉnh thoảng ông ra lệnh cho tôi mang đến cho ông một ít thuốc cầm máu hay vài dụng cụ mà ông không thể với tay lấy được. Không khí trong phòng dần dần trở nên căng thẳng, tôi thấy trán của cha tôi lấm tấm mồ hôi nhưng mắt ông vẫn không rời vết thương, hai tay ông vẫn thoăn thoắt làm việc. Sau cùng ông ngưng lại ngắm nghía công trình của mình rồi bật lên một tràng cười sảng khoái:

- A ha! Lần này thì ta lại lừa được gã thần chết một lần nữa rồi.


Dĩ nhiên không phải lần nào cha tôi cũng may mắn như vậy. Kể từ khi trở nên người phụ tá cho ông, tôi đã chứng kiến nhiều cuộc tranh đấu đầy gay go giữa ông với thần chết. Có khi cha tôi thắng nhưng cũng có lúc ông đành bó tay sau khi đã tận lực cứu chữa. Nhìn những thể xác nằm bất động, tôi thắc mắc:

- Tại sao người ta lại chết?

Cha tôi thản nhiên trả lời:

- Con hỡi, đã sinh ra ai chẳng phải chết. Điều khác biệt chỉ là vấn đề thời gian mà thôi. Người chết sớm, kẻ chết muộn nhưng trước sau ai cũng chết...

- Nếu vậy thì cứu chữa làm gì nếu trước sau ai cũngchết?

Cha tôi nheo mắt nhìn tôi với vẻ thích thú rồi nói:

- Bởi thế mới có cuộc so tài giữa y sĩ và thần chết để kéo dài thêm thời gian.

- Nhưng rốt cuộc thần chết vẫn thắng vì trước sau ai cũng phải chết.

- Đúng thế.

- Nếu vậy tại sao cha lại tốn công nhọc sức làm gì?

- Điều này ta không thể nói được mà con phải tự tìm ra.

- Tại sao đã biết, cha lại không thể nói ra được?

Cha tôi dịu dàng nhìn tôi một lúc rồi thong thả nói:

- Con hỡi, cuộc đời là một bài toán hết sức phức tạp mà trong đó mỗi người phải tự tìm kiếm ra câu giải đáp cho mình. Kẻ nào không biết sử dụng đời mình để tìm kiếm ra câu giải đáp đó thì thật không đáng sống chút nào. Đời sống vốn là một sự bí mật, đòi hỏi một sự tìm kiếm không ngừng, và đó chính là ý nghĩa chân thật nhất của đời sống.

- Nhưng sau khi chết, người ta đi về đâu?

Cha tôi im lặng như suy nghĩ rồi nói một cách chậm rãi:
- Này con trai, có một khoa học của sự sống và cũng có một khoa học của sự chết. Điều ta được truyền dạy là khoa học của sự sống, do đó trọn đời ta chỉ nghiên cứu các kỹ thuật, phương pháp, cùng các loại dược thảo có công hiệu chữa trị và kéo dài sự sống mà thôi. Đối với những người nghiên cứu khoa học của sự chết thì đối tượng của họ là một thế giới khác hẳn với thế giới của ta. Họ nghiên cứu các kỹ thuật, phương pháp làm cho những sự vật vô hình trở nên hữu hình, khám phá các định luật huyền bí trong vũ trụ, đi vào các cõi giới xa xăm để bào chế các chất liệu bí mật rồi sử dụng vào những điều mà ta không biết rõ vì nó ở ngoài khả năng hiểu biết của ta.

Từ khi trở nên người phụ tá cho cha tôi thì tôi ít có cơ hội ra phố chạy nhảy, chơi đùa với những đứa bé cùng xóm như trước nữa. Tuổi thơ của tôi trôi qua rất nhanh. Những trò chạy nhảy, bơi bội, đánh chuyền... đã được thay thế bằng những phương pháp chẩn bệnh, định bệnh và bào chế các vị thuốc lấy ra từ những lá cây, rễ cây mà cha tôi gửi mua từ những nơi rất xa. Thỉnh thoảng cũng có khi cha tôi phải đích thân đi hái thuốc. Những lần như thế, có khi ông đi cả tháng mới trở về nhà. Khi ông đi vắng, tôi lại có dịp nô đùa với những đứa bé cùng tuổi trong xóm nhưng các trò chơi này không còn quyến rũ tôi như trước nữa. Giáp mặt thường xuyên với cái sống và cái chết, tôi trở thành một đứa bé hay tư lự, suy nghĩ với những điều mà một đứa bé cùng tuổi ít khi nào nghĩ đến.

Một hôm cha tôi đi vắng, mấy đứa bạn cùng xóm rủ tôi đi câu cá ở một chiếc hồ phía bắc thành phố. Trong lúc chúng tôi đang câu thì có một đám trẻ khác ở đâu cũng mang cần câu đến. Thấy chúng tôi, một đứa bé to lớn lực lưỡng, trông có vẻ như tên cầm đầu nhóm kia, đã xông đến quát nạt:

- Mấy thằng kia, ai cho phép chúng mày câu cá ở đây?

Thấy dáng điệu hung hăng của đám trẻ kia, chúng tôi vội thu hồi cần câu lại, toan bỏ đi nhưng không kịp nữa, đám trẻ kia đã xông đến cướp lấy rổ cá mà chúng tôi vừa câu được. Thằng bé to lớn quát:

- Hồ này là của chúng ta, cá trong hồ cũng thuộc quyền của chúng ta. Ai cho phép chúng mày được câu?

Mấy đứa tôi sợ hãi nên tình nguyện đưa hết mấy rổ cá cho chúng nhưng thằng đầu đảng vẫn ra lệnh:

- Tịch thu luôn cả cần câu của bọn chúng.

Tuy tiếc rẻ nhưng trước vẻ hung hăng của đám trẻ kia, chúng tôi đành líu ríu đưa cần câu cho chúng. Bọn chúng được thể, xông đến lục soát túi quần túi áo của chúng tôi, xem chúng tôi còn cất giấu những gì. Chúng tịch thu thêm được vài chiếc bánh, vài lưỡi câu và mấy món đồ chơi vặt vãnh. Nhìn vẻ mặt ngơ ngác đầy sợ hãi của chúng tôi, thằng cầm đầu thích thú ra lệnh:

- Mấy đứa mày cởi quần áo ra, ta tịch thu luôn cả quần áo của bọn mày để trừng phạt tội đã đến câu tại hồ của t*o.

Tuy sợ hãi nhưng tôi cũng cố năn nỉ:

- Các anh đã lấy cần câu và cá của chúng tôi rồi thì hãy để cho chúng tôi đi.

Nghe thấy thế, thằng cầm đầu bèn ra oai bằng cách xông tới đấm vào mặt tôi khiến tôi loạng choạng, máu mũi tuôn xối xả. Hắn cười lớn:

- Đó là bài học cho những đứa dám cãi lời t*o.

Tôi vừa đưa vạt áo lên chùi mặt thì thằng này đã tiện chân đá tôi thêm một cái nữa khiến tôi ngã lăn ra đất. Trong lúc cố gắng đứng dậy thì tôi thấy một đứa bé cởi trần, chỉ
khoác một cái khố nhỏ, tay xách cần câu ở đâu đi đến. Đứa bé vừa thả cần câu xuống hồ vừa hỏi:

- Tại sao chúng mày lại đánh nhau vậy?

Một đứa trong bọn kia lên tiếng:

- Này thằng kia! Ai cho phép mày đến câu cá ở đây như thế? Mày muốn chung số phận với những thằng này hay sao?

Thằng bé mới đến ngạc nhiên:

- Tại sao lại thế được? t*o vẫn thường câu cá ở đây và có ai cấm đâu?

Đám trẻ bật cười khoái chí, đứng bao quanh thằng bé cởi trần:

- Hồ này là của bọn t*o, tất cả tôm cá trong hồ cũng là của bọn t*o và đứa nào đến đây câu cá cũng đều phải nộp hết tôm cá cho bọn t*o.

Thằng bé mới đến cười nhạt:

- Thì ra thế! t*o không biết cá trong hồ này là của chúng mày.

- Thì mấy đứa này không biết, dám đến câu nên mới bị trừng phạt đấy!

Thằng bé nghe xong, gật gù như vừa tìm ra điều gì thích thú lắm:

- May quá! t*o đang muốn biết xem ai làm chủ cái hồ này. Hôm qua t*o câu được mấy con cá ở hồ này mang về ăn thì bị đau bụng nên đang muốn tìm xem ai là chủ mấy con cá đó để bắt đền đây.

Trước cặp mắt kinh ngạc của đám trẻ kia, thằng bé cởi trần lạnh lùng:

- Chúng mày phải để mọi thứ lại đây cho t*o, nếu không chớ có trách.

Tình thế trở nên căng thẳng. Đám trẻ kia vội vã bỏ chúng tôi xoay ra vây quanh thằng bé cởi trần. Thằng bé này không hề sợ hãi, chỉ cười nhạt:

- Tốt lắm! Cả đám cùng đánh thì càng tiện!

Vừa dứt lời, hắn đã xông đến tấn công ngay thằng đầu bọn. Thằng này cũng không phải tay vừa, hắn vừa đánh đỡ vừa quát tháo om sòm. Đám trẻ đồng bọn vội vàng xông vào tiếp tay, bụi cát bay mù mịt. Nhóm bạn tôi nhân lúc lộn xộn, vội kéo tôi bỏ chạy. Tuy không muốn đụng chạm nhưng tôi cũng không muốn thấy thằng bé mới đến bị ăn đòn nên ngần ngại không chịu đi. Tôi hy vọng có thể làm được một cái gì đó. Mấy đứa bạn tôi vừa chạy, vừa kêu lớn:

- Sinuhe, chạy mau lên!

Tôi chần chừ:

- Khoan đã, chúng ta không thể bỏ chạy như thế được.

Ngay lúc đó thằng bé cởi trần bị một đứa trong bọn xông đến ôm lấy chân, quật nó ngã xuống đất. Đám trẻ kia mừng rỡ vội xông đến đấm đá túi bụi. Nhìn thấy thế, tự nhiên tôi cảm thấy trong người nóng ran lên, không còn tự chủ được nữa. Tôi hét lên rồi xông vào trợ chiến. Tôi ôm lấy chân thằng đầu đảng, kéo nó ngã xuống đất, bất chấp những trận mưa đấm đá trút lên người. Không hiểu sao lúc đó tôi không cảm thấy đau đớn nữa mà chỉ thấy hung hăng kỳ lạ.

Bất ngờ những quả đấm thưa dần rồi những tiếng rên la đau đớn vang lên. Hình như đang có ai đỡ tôi dậy. Tôi giật mình mở choàng mắt ra thấy thằng bé cởi trần đang đỡ tôi đứng dậy, còn đám trẻ kia thì đang lăn lộn dưới đất. Thằng bé cởi trần nhìn tôi mỉm cười:



- Khá lắm! Mày can đảm lắm, nhưng t*o không cần có đứa giúp. t*o có thể tự lo lấy thân được rồi.

Hắn thong thả bước đến bên thằng đầu bọn đang nằm rên la dưới đất:

- Thế nào? Chúng mày còn muốn nằm đó chơi hay sao? Có muốn ăn thêm mấy quả đấm nữa không?

Thằng bé kia hoảng hốt lồm cồm ngồi dậy kêu đồng bọn bỏ đi nhưng thằng bé cởi trần đã lạnh lùng:

- Không được, chúng bay phải để lại cần câu và rổ cá lại đây.

Mấy đứa bé tiu nghỉu như mèo cụt đuôi, bỏ lại "chiến lợi phẩm" rồi dắt díu nhau bỏ đi, nhưng tôi đã quay lại thằng bé cởi trần hỏi:

- Tại sao bạn làm thế?

Thằng bé cởi trần lạnh lùng:

- Chúng lấy cần câu của mày thì nay t*o lấy cần câu của chúng chứ có gì lạ đâu?

- Như thế... không đúng.

- Cái gì? Chúng vừa đánh mày chảy máu mũi mà mày không muốn trả thù hay sao?

- Không, tôi không muốn như thế.

Thằng bé cởi trần nhếch miệng:

- Thế mày muốn gì?

Tôi do dự một lúc rồi ngập ngừng:

- Tôi nghĩ bạn nên trả lại cần câu cho chúng. Nếu bạn lấy cần câu của chúng thì bạn... có khác gì chúng đâu?

Thằng bé cởi trần trợn mắt nhìn tôi một lúc rồi quay qua đám trẻ kia:



- Chúng mày nhặt cần câu và cút ngay đi chỗ khác, t*o đổi ý là có đứa ăn đòn thêm.

Đám trẻ kia vội vã nhặt cần câu và kéo nhau bỏ đi.

Thằng bé cởi trần nhìn tôi từ đầu đến chân rồi thong thả
hỏi:

- Tại sao mày lại... khác người như vậy?


Tôi bật cười vì hai chữ "tại sao". Đây vốn là câu quen
thuộc trên đầu môi, chót lưỡi của tôi. Là một đứa bé hay thắc mắc, suốt ngày tôi thường hỏi cha mẹ tôi "tại sao" lại thế này hay "tại sao" lại thế kia, nhưng đây là lần đầu tôi bị hỏi "tại sao" và thấy mình không trả lời được.

Thằng bé cởi trần thong thả nhặt cần câu và rổ cá lên rồi
hỏi tôi:

- Mày tên gì?


- Tôi là Sinuhe. Còn bạn tên gì?


- t*o là Horemheb. Phải chăng mày là con của y sĩ Sen Moot?

- Phải rồi. Thế còn bạn?


Horemheb ngần ngại một lúc rồi nói:


- t*o là con của... Bitha.


- Bitha? Phải chăng... Bitha, người bán bánh ngoài chợ?

Horemheb gật đầu ngượng nghịu:


- Phải rồi, Bitha... người bán bánh.


Thấy hắn có vẻ không sốt sắng khi nói về gia thế của
mình nên tôi hỏi:

- Tại sao bạn lại không được... tự nhiên như thế?


Horemheb bực mình:

- Sao mày cứ hỏi "tại sao" mãi! Bán bánh thì có ra cái quái gì đâu!

Tôi ngạc nhiên và theo thói quen lại hỏi:


- Tại sao?


Horemheb im lặng như suy nghĩ một lúc rồi ngập ngừng:

- Đáng lẽ ra cha t*o phải là một... sĩ quan hay ít ra cũng
là một người lính chứ bán bánh thì có ra gì!

- Nhưng... tại sao? Đó là một nghề lương thiện.


Horemheb giận dữ:

- Lương thiện làm cái quái gì! t*o chỉ muốn cha t*o là một người hùng thôi.

- Tại sao?


Horemheb nhìn tôi một lúc rồi chậm rãi:


- Mày không thể hiểu đâu. Cha mày là một y sĩ, dù
không giàu có gì nhưng ít ra ông ta cũng được mọi người nể vì, kính trọng. Còn cha t*o chỉ là một người bán bánh rong ngoài chợ, một kẻ tầm thường, hèn mọn, không ai thèm đểý đến.

- Nhưng như thế thì đã sao?


Horemheb trừng mắt vung tay lên đấm mạnh vào không
khí:

- Đó là một điều không thể chấp nhận được. t*o không thể làm con một kẻ hèn mọn, lúc nào cũng khúm núm trước những mụ đàn bà vừa mua bánh vừa chê ỏng, chê eo. t*o không thể làm con một kẻ cúi rạp mình xuống cám ơn những tên nô lệ, vừa đi mua bánh cho chủ, vừa kỳ kèo bớt một thêm hai để ăn xén tiền chợ. t*o không thể làm con một kẻ quì mọp xuống năn nỉ những tên chủ nợ mập ú, chuyên cho vay lấy lãi cắt cổ. t*o không thể làm con một kẻ nịnh bợ những kẻ đi thâu thuế chợ vừa tham lam, vừa hống hách. t*o không thể là con của một thằng bán bánh tầm thường như thế được!

Tôi đứng im không biết phải nói gì để an ủi Horemheb.
Đây là lần đầu tiên tôi biết giữ im lặng thay vì lên tiếng hỏi như thường lệ. Chúng tôi gật đầu chia tay nhau một cách ngượng nghịu, không ai nói thêm câu gì.

Chiều hôm đó, sau bữa cơm, tôi đã mang câu chuyện
này ra kể cho mẹ tôi. Bà trầm ngâm một lúc rồi chép miệng:

- Tội nghiệp thằng Horemheb!


- Tại sao?


- Nó là một đứa bé đáng thương. Nó chưa biết gì về mình mà đã lo chạy đuổi theo những ảo tưởng điên rồ.

- Tại sao?
- Dù muốn hay không, nó cũng là một phần của cha mẹ nó. Nó không thể phủ nhận cha mẹ của nó được. Phủ nhận cha mẹ có khác gì phủ nhận chính mình.

- Tại sao?


- Này Sinuhe, một ngày nào đó con sẽ hiểu điều ta
muốn nói.

Tôi sà vào lòng mẹ:


- Con thì không như thế đâu! Con rất hãnh diện được làm con của mẹ.

Không hiểu sao mẹ tôi bỗng bật lên khóc, bà tiếp tục
khóc và ôm chặt lấy tôi một lúc rất lâu.

° ° °


Vài hôm sau Horemheb đến rủ tôi đi câu cá. Tôi giữ ý
không nhắc gì đến câu chuyện hôm trước, và từ đó tình bạn giữa hai chúng tôi nảy nở mỗi ngày một thắm thiết. Từ khi quen Horemheb, tôi đã học hỏi được nhiều điều mới lạ. Horemheb là một đứa bé từng trải giang hồ, giao thiệp nhiều, quen biết rộng. Hắn đưa tôi đi dạo chơi khắp thànhThebes, gần như chỗ nào hắn cũng biết, gặp ai hắn cũng quen, nhưng thường hắn chỉ thích quanh quẩn gần mấy trại lính, xem thao diễn quân sự hoặc tập luyện võ nghệ mà thôi. Đối với một đứa bé nhút nhát, từ nhỏ chỉ quanh quẩn ở nhà bên cha mẹ thì việc giao du với Horemheb đã mở ra cho tôi một khung trời mới lạ với nhiều thích thú. Vì Horemheb đến nhà tôi chơi thường xuyên nên cha mẹ tôi cũng đối đãi với hắn như một người con trong nhà. Có khi hắn sống ở nhà tôi cả tuần lễ hay nửa tháng.

Thời gian êm đềm trôi. Một hôm sau bữa cơm chiều, cha
tôi lên tiếng:

- Sinuhe, năm nay con đã được mười sáu tuổi rồi. Con
đã phụ giúp ta trong mấy năm qua và đã học hỏi rất nhiều về cách chữa trị của ta, bây giờ đến lúc con phải đi Abydos để học thêm. Con hãy cố gắng học hỏi và đừng bao giờ quên rằng sứ mạng thiêng liêng của một y sĩ là phụng sự nhân loại và phụng sự không ngừng.

Đã được dạy dỗ từ nhỏ về việc này nên tôi không ngần
ngại:

- Cha đừng lo! Những điều cha dạy con luôn ghi nhớ.


Cha tôi im lặng quan sát tôi một lúc rồi chậm rãi:


"Này Sinuhe, trước khi con lên đường đi học xa, ta có mấy lời khuyên và con phải ghi nhớ cho kỹ. Để trở nên một người sở hữu những kiến thức đặc biệt, con cần phải trau giồi tính kiên nhẫn. Nếu không kiên nhẫn, chịu đựng thì con không thể đi xa được. Đó là lời khuyên thứ nhất.

Khi vượt qua thử thách này, con sẽ phải học thêm tính
khiêm tốn. Chỉ khi nào biết khiêm tốn, nhũn nhặn thì con
mới học hỏi được những điều cao thượng, quí báu. Đây là lời khuyên thứ hai.




Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



đến trang 22


Thanked by 2 Members:

#3 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6740 Bài viết:
  • 5562 thanks

Gửi vào 07/07/2020 - 07:24

Sau đó, con phải chuyên cần, học hỏi không ngừng và biết rút tỉa bài học từ những đắng cay cũng như vui sướng mà cuộc sống đem đến. Này Sinuhe, cuộc đời là một trường học vĩ đại mà trong đó phần lớn con người chỉ học được các bài học cần thiết qua yếu tố đau khổ. Đó là lời khuyên thứ ba của ta.

Nếu con biết áp dụng cả ba lời khuyên này thì con có thể giải quyết được câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời. Đây là một câu hỏi quan trọng mà ít ai có thể giải đáp được nhưng nếu con thành công thì tất cả mọi chân lý trong vũ trụ này sẽ phơi bày ra cho con, và con hỡi, lúc đó không có một điều gì là không tốt đẹp, mỹ lệ hay hoàn hảo cả. Đó chính là ý nghĩa bí mật của "khoa học của sự sống" mà ta đã được truyền dạy."

- Con xin ghi nhận lời cha khuyên bảo.

- Tốt lắm! Ngày mai chúng ta sẽ lên đường đi Abydos. Ta đã lo mọi thủ tục nhập học cho con rồi.

- Tại sao lại ngày mai? Như vậy có sớm quá không?

Cha tôi ngạc nhiên:

- Ta đã thu xếp chuyến xe đi Abydos rồi. Con muốn gì

Tôi ngần ngại một lúc rồi lên tiếng:

- Con không biết cha đã sắp đặt trước như vậy. Nếu ngày mai lên đường thì con muốn đến từ giã Horemheb.

Mẹ tôi gật đầu:

- Phải rồi, con đến từ giã Horemheb đi. Chắc con đi xa hắn sẽ nhớ lắm đấy! Mọi hành trang cứ để mẹ thu xếp cho.

Khi nghe nói về việc đi học tại Abydos, Horemheb im lặng một lúc rồi chua chát nói:

- t*o biết trước sau gì mày cũng đi Abydos. Bọn y sĩ chúng mày đều như thế cả, cha làm y sĩ thì con cũng làm y sĩ. Rồi mày sẽ trở nên một người có địa vị trong xã hội, mày sẽ được mọi người kính nể, sẽ có nhiều tiền, ở nhà lớn, có vợ đẹp con khôn, rồi có rất nhiều nô lệ hầu cận...

- t*o sẽ theo gương cha t*o, chỉ làm y sĩ cho người nghèo.

Horemheb nheo mắt nhìn tôi rồi cười nhạt:

- Bây giờ thì mày nói thế nhưng khi tốt nghiệp thành một y sĩ thì mày sẽ nói khác. Theo thời gian chẳng có ai lại không thay đổi.

- Nhưng t*o khác.

- Được lắm! Để xem lúc đó mày còn nhớ đến thằng Horemheb, con nhà bán bánh nghèo hèn này không!

- Trước sau gì t*o vẫn là Sinuhe, thằng bạn của mày.

Horemheb nhún vai, lạnh lùng:

- Rồi đến lúc đó sẽ hay.Tôi khẳng khái nắm chặt lấy tay hắn:

- Này Horemheb, ngoài mày ra t*o chẳng có đứa bạn thân nào. Nếu không chơi với mày thì t*o chơi với ai? Mày có thể nghĩ gì về t*o cũng được, nhưng đừng bao giờ mày nghĩ rằng t*o sẽ thay đổi hay coi thường mày. t*o xin thề trước mặt thần Osiris, lúc nào cũng coi mày như người bạn thân nhất của t*o. Thật ra t*o vẫn coi mày như một người anh... phải rồi, một người anh lớn thì đúng hơn.

Horemheb có vẻ cảm động. Hắn im lặng một lúc rồi xiết chặt tay tôi:

- Được lắm! Hay lắm! t*o Horemheb, cũng xin thề trước mặt thần Osiris từ nay sẽ coi mày như một đứa em. t*o thề sẽ hết lòng bảo vệ mày, dù gặp khó khăn trở ngại thế nào, t*o cũng lo cho mày như một đứa em ruột thịt. Mạng sống của mày là mạng sống của t*o, đứa nào đụng chạm đến mày tức là đụng chạm đến t*o, và thằng Horemheb này sẽ không để cho nó yên.


CHƯƠNG 2



Trường y khoa Abydos hay trường dạy về "Khoa Học Của Sự Sống" là một tu viện nên các giáo sư giảng dạy đều là tu sĩ. Vì là tu viện nên kỷ luật của trường rất nghiêm khắc.Theo truyền thống, học sinh năm thứ nhất phải phục vụ, hầu hạ những học sinh lớp trên một cách tuyệt đối, để được dạy bảo những kiến thức căn bản cần thiết. Đây cũng là dịp để học sinh lớp trên có dịp quan sát, xem xét khả năng những học sinh mới nhập học và tuyển lựa ra những người xứng đáng. Chỉ khi nào vượt qua kỳ khảo hạch gắt gao của các bậc đàn anh này thì học sinh mới được trực tiếp đến học với các tu sĩ về kiến thức y học.

Người Ai Cập rất quí trọng kiến thức, truyền thống xứ này cho kiến thức là những thứ có giá trị rất lớn, được gìn giữ cẩn thận và chỉ một số rất ít, được tuyển chọn kỹ lưỡng, mới được truyền dạy các kiến thức này.

Khi nhập học, học sinh được chia ra làm nhiều nhóm, mỗi nhóm khoảng vài người, và giao cho một học sinh lớp trên trông coi. Học sinh này có trách nhiệm dạy dỗ, hướng dẫn đàn em của mình các kiến thức căn bản để chuẩn bị cho kỳ thi tuyển lúc cuối năm. Có vượt qua kỳ thi này, học sinh mới được chính thức thâu nhận vào trường Khoa Học Của Sự Sống. Sau đó việc huấn luyện còn kéo dài nhiều năm với những kỳ thi và thử thách gắt gao trước khi học sinh tốt nghiệp thành y sĩ.

Ngay từ hôm đầu, tôi và hai đứa mới nhập học đã được xếp vào một nhóm, đặt dưới quyền chỉ huy của một học sinh lớp trên tên là Kareb. Ba đứa chúng tôi quì trước mặt Kareb để nhận chỉ thị:

- "t*o cần một đứa dọn dẹp căn phòng. Khi t*o ra khỏi phòng, nó sẽ phải vào lau chùi thật sạch. Nếu t*o trở về mà căn phòng bừa bộn, nó sẽ ăn đòn. Nhẹ thì mười roi, nặng thì năm chục roi. Nếu vi phạm ba lần t*o sẽ báo cáo đuổi nó ra khỏi trường. t*o cũng cần một đứa giặt giũ quần áo, lau chùi giày dép, hễ quần áo bẩn nó phải giặt lập tức. Nếu t*o thấy bẩn thì nó sẽ bị trừng phạt.

Ngoài ra t*o cũng cần một đứa làm thư ký, thu xếp tài liệu và soạn thảo các hồ sơ cho t*o..."

Kareb ngưng nói đưa mắt nhìn ba đứa chúng tôi như dò xét. Thấy vậy, một thằng trong bọn vội rút trong người ra một chiếc túi nhỏ:

- Xin đàn anh nhận cho em chút lễ vật ra mắt này.

Kareb thản nhiên mở chiếc túi ra coi. Đó là một số tiền vàng trị giá bằng năm con ngựa. Hắn có vẻ hài lòng, nhét ngay túi tiền vào áo.

Thằng thứ hai cũng vội vã mang ra một hộp nhỏ đựng những dụng cụ y khoa bằng vàng chói lọi. Kareb hài lòng thâu nhận lễ vật rồi đưa mắt nhìn tôi.

Tôi lúng túng không biết phải xử trí ra sao vì gia cảnh nghèo, hành trang chỉ vỏn vẹn mấy bộ quần áo cũ và ít xu lẻ mẹ tôi đưa cho để ăn uống dọc đường. Không thấy tôi nói gì, Kareb mỉm cười nhắc khẽ:

- Này Sinuhe, t*o chắc mày phải có một món quà ra mắt đặc biệt lắm?

Không biết phải làm gì hơn, tôi đành đưa chiếc túi nhỏ đựng ít đồng xu ra. Kareb mở chiếc túi ra xem. Khuôn mặt hắn bỗng sa sầm xuống:

- Này Sinuhe, t*o chắc mày không đùa đấy chứ?

Tôi lắp bắp:

- Không... đó là tất cả những gì tôi có.

Kareb vung tay ném thẳng chiếc túi vào mặt tôi rồi rít lên:

- t*o không ngờ có một đứa đàn em không biết điều như thế này! Mày nghĩ rằng với mấy chục xu lẻ đó mà mày sẽ được t*o dạy bảo các kiến thức về y khoa hay sao?
- Nhưng... nhưng...

Kareb giận dữ quát lớn:

- "Không! Không bao giờ! Những kẻ bần tiện như mày sẽ không bao giờ được dạy dỗ một điều gì hết. t*o không hiểu sao lại bị giao phó trách nhiệm hướng dẫn một thằng nghèo mạt rệp như mày!

Được lắm! Đã thế thì mày sẽ là thằng dọn dẹp, lau chùicăn phòng và kiêm luôn cả việc giặt quần áo cho t*o nữa. Mày sẽ làm việc này cho đến khi nào t*o thấy công phu của mày tương xứng với những món quà kia thì mày mới có quyền đến lớp học."

- Tại sao như thế?

Kareb rít lên:

- Một thằng mới nhập học như mày mà dám chất vấn t*o hay sao? Mày nên biết rằng trong năm đầu, chúng mày thuộc quyền sở hữu của t*o. t*o có quyền đánh đập hoặc đuổi mày ra khỏi trường. Tương lai của mày hoàn toàn tùy thuộc vào sự báo cáo của t*o lên các tu sĩ. Nếu t*o nói rằng mày không có khả năng hay không thích hợp với nghề y sĩ thì mày sẽ bị đuổi ra khỏi trường ngay.

- Nhưng... tại sao?

Kareb không giữ được bình tĩnh, hét lớn:

- "Đồ ngu! Mày có biết mấy năm nay t*o đã khổ sở như thế nào không? t*o đã phải hầu hạ các bậc đàn anh, đã phải tốn kém biết bao tiền bạc, công sức mới được địa vị như ngày nay.

Bây giờ đến lượt t*o được hưởng sự sung sướng, thế mà vẫn có đứa ngu si cho rằng chỉ cần bỏ ra vài xu là được t*o truyền dạy các kiến thức quí báu như vàng này!"

Tôi định biện bạch thêm nhưng may thay lúc đó tôi nhớ đến lời khuyên của cha tôi: "Con cần phải kiên nhẫn và chịu đựng. Nếu không thì không thể đi xa được", tôi bèn im lặng không nói gì nữa.

Kareb chăm chú nhìn tôi nhưng thấy tôi không phản ứng gì, hắn hậm hực:

- Thằng nghèo kiết xác kia, từ nay mày sẽ là nô lệ của t*o.

Từ đó tôi trở nên kẻ hầu cho Kareb. Hắn đối xử với tôi vô cùng tàn nhẫn, chỉ một sơ hở hắn đã thẳng tay trừng trị tôi bằng chiếc roi da mà hắn mang theo mình. Thời gian trôi qua, thấm thoát tôi đã sống tại Abydos gần một năm. Một năm với những đau khổ, nhục nhằn; với những vết roi ngang dọc trên mình nhưng tôi vẫn cắn răng chịu đựng, hy vọng sẽ được dạy bảo các kiến thức cần thiết. Tuy nhiên tôi không hề được chỉ dẫn một điều gì trong khi hai thằng bạn cùng nhóm thỉnh thoảng còn được dạy dỗ ít nhiều.[

Một hôm tôi nghe nói đã sắp đến kỳ thi tuyển nên hỏi Kareb:

- Chỉ còn ít lâu nữa sẽ đến kỳ thi, em muốn biết phải học hỏi những gì để còn chuẩn bị.

- Mày nói sao?

- Chỉ còn vài tháng nữa...

Kareb nổi giận quát ầm lên:

- Mày dám đòi hỏi hay sao? Số mạng và tương lai của mày hoàn toàn tùy thuộc vào t*o. Nếu thấy mày xứng đáng thì t*o sẽ dạy cho mày, nếu mày không có khả năng thì nhà trường sẽ đuổi mày ra...

- Nhưng làm sao người ta có thể biết được khả năng của em khi em không biết rõ về chương trình học hay được dạy dỗ điều gì?

Kareb bật cười:

- Thằng ng* d*t kia, nếu t*o không dạy cho mày thì không ai có thể chỉ dạy cho mày hết.

- Nhưng... khi nào anh sẽ dạy em?

- t*o là người quyết định số phận của mày. Luật lệ ở đây đã ghi rõ rằng học sinh lớp trên sẽ quan sát, nhận xét khả năng của những học sinh lớp dưới. Nếu xét thấy không có khả năng thì phải báo cáo để trục xuất nó ra khỏi trường.

Tự nhiên tôi có cảm tưởng rằng Kareb sẽ không dạy dỗ gì cho tôi hết. Tôi bèn thu hết can đảm đặt câu hỏi:

- Phải chăng nếu anh không dạy thì em không thể vượt qua kỳ thi tuyển và như thế em sẽ bị đuổi ra khỏi trường.

- Đúng thế.

- Mặc dù... em đã tận lực hầu hạ anh?

Kareb ôm bụng cười sằng sặc:

- Đúng thế. Số phận của mày tùy thuộc vào sự quyết định của t*o. Này Sinuhe, dù mày có tận lực hầu hạ t*o thêm mười năm nữa, t*o cũng chẳng dạy gì cho mày vì t*o không ưa những đứa thích hỏi những câu lẩm cẩm như mày.

Tôi đứng yên, mồ hôi toát ra như tắm. Không lẽ tương lai của tôi lại sụp đổ chỉ vì thằng đàn anh này hay sao? Tôi nhớ lại những lời hứa hẹn, những trận đòn, những lúc hầu hạ, dọn dẹp lau chùi căn phòng cho hắn. Thì ra hắn chỉ lợi dụng truyền thống "ma cũ bắt nạt ma mới" và sự ngây thơ của tôi mà thôi.

Cơn giận ở đâu kéo đến khiến tôi quên cả lời khuyên của cha tôi, quên kỷ luật khắt khe của nhà trường. Tôi gầm lên một tiếng rồi vung tay đấm mạnh vào khuôn mặt khả ố của Kareb. Trong lúc bất ngờ, thằng này trúng đòn ngã nhào xuống đất nhưng hai đứa bạn cùng nhóm đã vội vã nhảy vào can thiệp.

Chỉ trong thoáng giây, tôi đã bị đè nghiến xuống đất.

Kareb hầm hầm rút chiếc roi da treo gần đó và cứ thế liên tiếp quất xuống người tôi. Đây không phải là lần đầu tôi bị đánh nhưng không hiểu sao, lần này tôi không cảm thấy đau đớn nữa mà đầu óc chỉ sôi sục một ý nghĩ lạ lùng, một điều từ trước đến nay chưa bao giờ tôi nghĩ đến.

Sau khi đánh đập một trận cho hả giận, Kareb ra lệnh trói gô tôi vào cột nhà rồi hầm hầm dắt hai đứa kia ra khỏi phòng. Tôi biết hắn sẽ báo cáo lên các tu sĩ, hiển nhiên hai đứa kia sẽ làm chứng cho hắn và với kỷ luật hết sức nghiêm khắc của tu viện, chắc chắn tôi sẽ bị trục xuất ngay. Trong cơn đau đớn cùng cực, tôi gục xuống thiếp đi cho đến khi tỉnh dậy thì trời bên ngoài đã sáng.

Tôi vùng vẫy muốn thoát ra, nhưng sợi dây trói chặt quá khiến tôi không sao cựa quậy gì được. Vì cố gắng nên các vết thương trên mình trở nên đau đớn vô cùng. Tôi cảm thấy khát nước, muốn lên tiếng nhưng không sao nói được, cổ họng tôi khô ran và đau buốt nên tôi đành chịu đựng, chờ Kareb trở về.

Trời đã về chiều mà Kareb vẫn chưa trở lại. Phải chăng hắn lại đi uống rượu như thường lệ? Mỗi khi giận dữ điều gì, hắn thường đi uống rượu và khi say lại trút cơn thịnh nộ lên đầu tôi.

Mãi đến khuya Kareb mới về. Thay vì giận dữ, hắn vội vã cởi trói rồi dìu tôi nằm xuống giường của hắn. Hai thằng học sinh kia mang đến một chậu nước nóng để lau chùi các vết thương cho tôi.

Kareb run rẩy nói:

- Thưa... bạn... Sinuhe, xin... bạn... đừng giận chúng tôi.

- ?

- Xin bạn hãy nghỉ ngơi tĩnh dưỡng... Khi nào khỏe... chúng ta sẽ bắt đầu duyệt qua các kiến thức cần thiết...

- ?

- Bạn đừng lo, với tài trí thông minh của bạn thì... vài tháng cũng đủ rồi. Tôi sẽ hết lòng hướng dẫn cho bạn. Tôi sẽ báo cáo lên các tu sĩ rằng không một ai tài giỏi hơn, xứng đáng hơn và có đầy đủ khả năng để trở thành y sĩ hơn bạn.

Tôi ngạc nhiên muốn lên tiếng nhưng cổ họng đau quá không nói gì được. Kareb thấy tôi yên lặng, nghĩ rằng tôi vẫn còn giận nên quì sát xuống bên giường:

- Xin bạn hãy nghĩ lại... chúng tôi có mắt mà như mù.. không biết bạn là người... có thế lực... Xin bạn bỏ qua cho...

Dưới ánh nến leo lét, tôi thấy rõ khuôn mặt của Kareb sưng vù và đầy máu. Tôi quay qua nhìn hai thằng học sinh đang lau chùi những vết thương cho tôi, đứa nào cũng áo quần lem luốc, mặt mày đầy máu.

- Tại sao? Chuyện gì xảy ra thế này?

Ngay lúc đó một người to lớn ở đâu bước vào, lạnh lùng lên tiếng:

- Ba thằng kh*n n*n kia! Nếu Sinuhe có làm sao thì t*o sẽ thiến cả ba đứa chúng mày. Tôi nhận ra ngay Horemheb. Xa nhau gần một năm Horemheb đã thay đổi khá nhiều, trông hắn lực lưỡng khỏe mạnh hơn xưa. Ba thằng học trò vội quì mọp xuống đất.

- t*o không ngờ lại có những đứa tồi tệ như vậy!

Tôi muốn ngồi dậy nhưng không sao nhấc mình lên được. Horemheb cúi xuống đỡ tôi lên nhưng nhìn thấy thân thể đầy máu me của tôi, hắn nổi giận tung chân đá mạnh vào Kareb:

- Tội của mày đáng bị thiến lắm!

Thằng đàn anh oai phong lẫm liệt khi xưa quì mọp dưới đất không dám lên tiếng. Horemheb quay qua phía tôi:

- Này Sinuhe, xa nhau đã lâu nên t*o đi thăm mày, không ngờ lại có chuyện như thế này. Nếu mày có mệnh hệ gì thì t*o sẽ đốt cháy cả ngôi trường này.

Thì ra trên đường đi thăm tôi, Horemheb ghé vào một quán rượu và gặp Kareb cùng hai thằng học sinh kia cũng đang uống rượu tại đó. Trong lúc say sưa, chúng vô tình nhắc đến tên tôi khiến Horemheb chú ý. Hắn bèn giả say để hỏi sự tình và sau khi biết rõ mọi sự, hắn đã dạy cho chúng một bài học đích đáng.

Từ đó tôi không phải hầu hạ Kareb nữa mà lại được hắn săn sóc cẩn thận. Thằng đàn anh này đã mang tất cả kiến thức của hắn ra chỉ bảo cho tôi. Hai đứa bạn học trò cũng hầu hạ, săn sóc tôi tận tình. Cuối năm đó, tôi trúng tuyển vào trường Khoa Học Của Sự Sống. Horemheb lưu lại Abydos một thời gian chờ đến khi biết tôi thi đậu mới trở về Thebes.

Trường "Khoa Học Của Sự Sống" là một đạo viện gồm nhiều dãy nhà bao quanh một ngôi đền rất lớn có hai cánh cửa bằng đá luôn luôn khép chặt. Chúng tôi được dạy rất kỹ rằng đó là một nơi chốn linh thiêng, chỉ những bậc đạo trưởng mới được vào trong đó mà thôi. Trước cửa ngôi đền là một pho tượng thần Osiris rất lớn, nơi các buổi tế lễ quan trọng được cử hành. Ngày hôm đó, những học sinh trúng tuyển được đưa đến trước thần Osiris làm nghi thức nhập môn.

Sau buổi lễ, một vị đạo trưởng tuổi đã cao, râu tóc bạc phơ, bước ra nói:

- "Ta là đạo trưởng Akhanuxem, một trong những người trông coi ngôi trường này. Hôm nay là ngày đầu nhập học nên ta có mấy lời muốn nói với các con.

Này các học sinh của trường Khoa Học Của Sự Sống, các con cần biết rằng phương pháp chữa trị là một nghệ thuật có tính cách thiêng liêng. Vì là một nghệ thuật thiêng liêng nên việc chữa trị phải bao gồm cả phần thể xác lẫn phần linh hồn. Không một người nào có thể gọi là khỏe mạnh nếu tâm hồn của họ què quặt, yếu đau.

Vì tính chất tổng quan toàn diện này, nên phương pháp chữa trị đòi hỏi một sự cố gắng, học hỏi không ngừng. Do đó các con cần phải cố gắng, chuyên cần..."

Vị đạo trưởng già đưa mắt nhìn các học sinh đứng quanh rồi nói tiếp:

- "Các con sẽ được truyền dạy những kiến thức đặc biệt, những kiến thức vẫn được giữ kín từ bao thế kỷ nay, và chỉ truyền dạy cho một thiểu số những kẻ xứng đáng mà thôi. Từ nay các con sẽ được học hỏi những phương pháp chữa trị, những vị thuốc bí truyền, cũng như những khoa học mà ít ai biết đến.

Kiến thức của chúng ta dựa trên những sự nghiên cứu và kinh nghiệm của những vị thầy đã khổ công tìm hiểu các hiện tượng thiên nhiên bên ngoài cũng như những chỗ sâu kín nhất của bên trong tâm hồn con người.

Này các con, khoa học của sự sống chính là phương pháp biết sống thuận theo thiên nhiên, biết rung động cùng nhịp với sự tuần hoàn của thiên nhiên, và biết sống hòa hợp với các sinh vật khác trong thiên nhiên. Khi con người không biết sống thuận theo thiên nhiên, không biết rung động đồng nhịp với sự tuần hoàn của thiên nhiên, thì sẽ phát sinh ra các phản ứng không tự nhiên hay bất bình thường.

Chính các phản ứng này sẽ tạo ra các sự rung động không tốt lên cơ thể, và từ đó bệnh tật phát sinh.

Dựa trên qui tắc căn bản này, chúng ta đã sắp đặt và phân chia bệnh tật ra nhiều loại khác nhau. Tùy theo cách phân loại bệnh tật mà cách chữa trị cũng thay đổi theo, từ việc sử dụng dược chất, đến việc giải phẫu, hay sử dụng các năng lực từ điện.

Ngoài khả năng chuyên môn thông thường, một y sĩ còn phải học hỏi thêm kiến thức về thiên nhiên và biết sống theo các kỷ luật đặc biệt để phát triển khả năng định bệnh một cách chính xác. Tùy theo khả năng định bệnh mà các con sẽ được thu xếp để học hỏi các nghệ thuật chữa trị khác.

Do đó tuy cũng là y sĩ nhưng cách thức chữa trị của mỗi người sẽ không giống nhau."

° ° °


Từ đó chúng tôi bắt đầu học hỏi những kiến thức chuyên môn về Khoa Học Của Sự Sống. Ngoài việc mổ xẻ, nghiên cứu các cơ quan trong thân thể, chương trình học còn chú trọng đến việc dinh dưỡng, phương pháp hô hấp, sự vận động như: thư giãn, xoa bóp... cũng như công dụng của các dược chất đối với thân thể con người. Vì đã từng phụ giúp cha tôi từ nhỏ, tôi rất quen thuộc với các phương pháp này nên chỉ một thời gian ngắn, tôi đã trở nên một học sinh xuất sắc nhất trường.

Hôm đó tôi đang đi dạo ngoài sân thì gặp đạo trưởng Akhanuxem đi đến. Ông đứng lại nói với tôi:

- Ta rất hài lòng về việc học của con. Con là một trong những học sinh mà ta hy vọng là sẽ làm rạng danh trung tâm Abydos này.

- Thưa đạo trưởng, đó là nhờ công ơn dạy dỗ của các giáo sư...

Đạo trưởng Akhanuxem vuốt râu cười rồi lắc đầu:

- Con không cần phải khiêm tốn như thế. Ta đã để ý đến con từ lâu và vẫn theo dõi việc học của con. Con là một học sinh thông minh, hiếu học, có óc cầu tiến, lúc nào cũng muốn tìm tòi hiểu biết thêm.

Ông nhìn tôi một lúc rồi nói:

- Đó là điều tốt. Ta rất thích những học sinh hiếu học như thế. Từ nay nếu có gì thắc mắc, con có thể đến hỏi ta, và ta sẵn sàng giúp con.

Đây là một cơ hội hiếm có vì đạo trưởng Akhanuxem là người có kiến thức uyên bác nhất trường. Được ông chỉ dạy không những là một đặc ân mà còn bảo đảm cho việc sưu tầm, học hỏi các kiến thức về "Khoa Học Của Sự Sống" nữa.

Không bỏ lỡ cơ hội, tôi lên tiếng hỏi ngay:

- Thưa đạo trưởng, phải chăng "Khoa Học Của Sự Sống" chú trọng đến việc nghiên cứu các nguyên nhân gây nên bệnh tật vì đã biết nguyên nhân thì có thể tìm được cách chữa trị?

- Đúng thế, đó là nguyên tắc căn bản. Chúng ta tin rằng bệnh tật chỉ là phản ứng của cơ thể đối với những thái độ sống hay các hành động ngược với thiên nhiên vì sống thuận theo thiên nhiên không thể có bệnh. Phản ứng của cơ thể này có thể xảy ra trên phương diện vật chất hay tinh thần, do đó mới có các bệnh thuộc về thân và bệnh thuộc về tâm.

- Như thế... phải chăng tất cả bệnh tật đều do hành động trái với các định luật thiên nhiên?

Đạo trưởng Akhanuxem cười lớn:

- Không hẳn thế đâu. Có những bệnh gây ra do tai nạn như té gẫy tay, trẹo chân hoặc ăn uống thiếu dinh dưỡng, và những bệnh này không hẳn bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa nào khác. Ngoài ra còn có những bệnh bẩm sinh, hiển nhiên một đứa trẻ sơ sinh đâu đã biết sống thuận hay nghịch với thiên nhiên.

- Nhưng nếu một đứa bé vừa sinh ra đã có bệnh thì nguyên nhân từ đâu đến?

Đạo trưởng Akhanuxem vuốt râu gật gù:

- Theo sự hiểu biết của ta thì các bệnh bẩm sinh xảy ra do những nguyên nhân từ trước, vượt ngoài tầm nghiên cứu của "Khoa Học Của Sự Sống". Nó là những kiến thức thuộc về cõi giới bên kia cửa tử, xuất phát từ ký ức của một kiếp sống khác. Đó là đối tượng của "Khoa Học Của Sự Chết".

- Làm sao người ta có thể hiểu biết về những kiến thức này?

Đạo trưởng Akhanuxem bật cười:

- Con quả là người có nhiều thắc mắc. Chỉ những giáo sĩ chuyên nghiên cứu cõi âm, những người lãnh việc tống táng, ướp xác mới biết về những kiến thức này. Đối tượng của họ là sự kiện ở thế giới bên kia cửa tử. Là y sĩ, con chỉ nên quan tâm đến sự kiện xảy ra trong đời sống hiện tại mà thôi.

- Nhưng... nếu thế không lẽ chúng ta phải bó tay trước những bệnh tật phát xuất từ những nguyên nhân ngoài sự hiểu biết của chúng ta hay sao?

Đạo trưởng Akhanuxem im lặng một lúc như suy nghĩ rồi lên tiếng:

- "Này Sinuhe, con thật là người ham hiểu biết. Rất ít ai đặt câu hỏi như thế với ta. Hiển nhiên có những định luật bất biến của vũ trụ mà chúng ta được học hỏi mặc dù nó vượt ngoài phạm vi nghiên cứu của chúng ta.

Nếu con biết nhìn đời sống này như một phần nhỏ của một hành trình kéo dài rất lâu, qua các cõi giới, các kiếp sống khác nhau, thì con sẽ thấy việc sống ngược với các định luật thiên nhiên có thể gây ra những hậu quả, không hẳn xảy ra trong kiếp này, mà có thể ảnh hưởng đến những kiếp sống khác nữa. Bệnh bẩm sinh có thể bắt nguồn từ các hành động trái ngược với luật thiên nhiên từ một kiếp sống trước..."

- Như thế... Phải chăng có những yếu tố nhất định nào đó chi phối đời sống hiện tại hay sao?

- Hiển nhiên phải như thế rồi.

- Nếu thế làm sao một y sĩ có thể chữa trị các bệnh này khi nguyên nhân của nó bắt nguồn từ những điều xảy ra trong quá khứ?

Đạo trưởng Akhanuxem gật đầu, vuốt chùm râu bạc:

- "Đây là một vấn đề phức tạp, không thể giải thích vắn tắt được nhưng vấn đề chính vẫn là việc chẩn bệnh và tìm hiểu nguyên nhân, dù nguyên nhân này nằm ngoài đối tượng nghiên cứu. Nếu biết được nguyên nhân thì sẽ tìm được cách chữa.

Có nhiều cách chẩn bệnh và chữa trị khác nhau, nhưng phương pháp thông thường như giải phẫu, xoa nắn, hay sử dụng dược chất chỉ là một phần trong Khoa Học Của Sự Sống mà thôi."

- Như thế phải chăng còn có những phần khác nữa?

Đạo trưởng Akhanuxem tỏ ra dè dặt:

- Đúng thế. Điều chúng ta biết thì nhiều nhưng điều chúng ta truyền dạy cho học sinh thì giới hạn vì có phần chỉ được truyền dạy trong phạm vi thu hẹp mà thôi.

- Tại sao?

Đạo trưởng Akhanuxem mỉm cười:

- Này Sinuhe, kiến thức là một kho tàng vô giá, không phải những điều có thể mang ra truyền dạy bừa bãi. Nếu không cẩn thận, người ta có thể lạm dụng các kiến thức đặc biệt này vào mục đích ích kỷ, sằng bậy.

- Nếu vậy, phần thuộc phạm vi bí truyền này như thế nào?

Đạo trưởng Akhanuxem do dự một lúc rồi ngập ngừng giải thích:

- "Hãy lấy thí dụ như môn Cơ Thể Học mà hiện nay con đang theo học. Kiến thức về Cơ Thể Học của chúng ta không giới hạn vào thể xác hay thể hữu hình, mà còn mở rộng đến những thể vô hình nữa.

Nếu con biết rằng con người không phải chỉ có một thể xác này mà còn sở hữu rất nhiều các thể khác nữa. Trước khi triệu chứng bệnh tật phát sinh trên thể xác hay thể hữu hình, nó đã phát sinh trên những thể vô hình rồi.

Do đó, thay vì chẩn bệnh qua việc quan sát triệu chứng trên thể xác bệnh nhân, người sở hữu kiến thức bí truyền có thể chẩn bệnh qua việc xem xét các rung động trên những thể vô hình. Nói một cách khác, họ có thể biết căn bệnh đó trước khi nó phát xuất... "

Tôi giật mình kêu lớn:

- Nếu thế... tại sao những kiến thức hữu dụng to tát như vậy lại được giữ bí mật?

- "Kiến thức về những thể vô hình đòi hỏi một công phu tu tập đặc biệt, không mấy ai có đủ khả năng và kiên nhẫn để học. Nó có những ưu điểm cũng như khuyết điểm mà ta khó giải thích cho người chưa có kiến thức về huyền môn như con.

Này Sinuhe, nếu con có khả năng chẩn bệnh đó thì con sẽ phải thuyết phục bệnh nhân thế nào khi triệu chứng bệnh đó chưa hề phát ra? Mấy ai tin là con nói đúng hay bằng lòng để con chữa trị một căn bệnh còn đang tiềm ẩn?"

Tôi im lặng, điều này quả là tôi chưa hề nghĩ đến. Đạo trưởng Akhanuxem nói tiếp:

- "Này Sinuhe, trong thiên nhiên không có bệnh tật nào lại phát sinh ra một cách nhanh chóng bất ngờ cả đâu. Tất cả đều bắt nguồn từ những nguyên nhân nào đó. Các nguyên nhân này âm thầm ảnh hưởng lên thân thể bệnh nhân mà họ không hề hay biết đó thôi. Một khi nó bột phát thì đó là giai đoạn cuối rồi.

Phần lớn con người không biết sống một cách ý thức nên họ không biết được những đổi thay âm thầm đang diễn ra trong thân thể họ. Họ chỉ cảm thấy hậu quả của bệnh tật khi nó đã ăn sâu vào thể xác chứ đâu biết gì khi nó chỉ là những rung động bất bình thường trên các thể vô hình khác."

- Nếu vậy làm sao người ta có thể chữa bệnh khi nó chưa phát ra?

Đạo trưởng Akhanuxem im lặng một lúc rồi trả lời:

- "Có một cách chữa bệnh khác với các phương pháp điều trị thông thường. Đó là phương pháp sử dụng năng lượng (energy).

Nếu bệnh tật chỉ là những rối loạn do các hành động đi ngược với luật thiên nhiên gây ra, thì người ta có thể sử dụng năng lượng để tái tạo trật tự này. Khi các thể vô hình được quân bình thì các ảnh hưởng chi phối lên thể xác cũng chấm dứt. Do đó thay vì chữa các triệu chứng xảy ra trên thể xác, người ta sẽ tập trung việc chữa trị trên các thể vô hình.

Con nên biết rằng trong phương pháp này, sự liên hệ giữa người chữa trị cũng như kẻ được chữa trị hết sức quan trọng. Thật ra không hề có việc người này chữa cho người kia mà cả hai đều là những yếu tố của một tiến trình chữa trị chi phối bởi những động năng mầu nhiệm, chứ không phải những năng lượng có tính cách cá nhân."

- Tại sao nó không có tính cách cá nhân?

- Vì năng lượng tự nó không có tính cách cá nhân. Người ta không thể tạo ra nó hay hủy hoại nó được.

- Như vậy muốn học phương pháp sử dụng năng lượng này con phải làm gì?

Đạo trưởng Akhanuxem mỉm cười:

- "Trước hết con phải học hỏi các kiến thức về thiên nhiên, vũ trụ và sự liên quan giữa con người và vũ trụ. Khi đã có kiến thức về sự tuần hoàn của vũ trụ thì con sẽ hiểu rằng mọi đổi thay trong vũ trụ không phải do ngẫu nhiên mà do một quyền năng cao cả điều hành tất cả mọi vật. Mọi năng lượng trong vũ trụ này đều xuất từ quyền năng cao cả đó mà ra. Con sẽ học phương pháp sử dụng các năng lượng phát xuất từ quyền năng đó vào mục đích chữa bênh. Muốn thế, con phải sống theo những kỷ luật và quy tắc nhất định. Con phải biết khiêm tốn, không tự xem mình là quan trọng và phải biết hoàn toàn dẹp bỏ bản ngã. Trong phương pháp này không thể có một bản ngã riêng tư được."

- Tại sao?

- "Vì trong phương pháp sử dụng năng lượng, người y sĩ chỉ đóng vai trò trung gian mà thôi. Họ chỉ là một khí cụ chứ không phải một tác nhân chính. Nếu họ nắm vai chủ động thì năng lượng phát xuất từ chính họ sẽ chuyển qua bệnh nhân chứ không phải năng lượng phát xuất từ quyền năng cao cả kia, và như thế việc chữa trị sẽ chuyển qua một vấn đề khác. Trong tiến trình chữa trị có sự trao đổi năng lượng giữa hai bên, khi năng lượng từ cá nhân y sĩ chuyển qua bệnh nhân thì năng lượng từ bệnh nhân cũng sẽ chuyển qua y sĩ.

Hậu quả của việc này là chính y sĩ sẽ vô tình nhiễm phải căn bệnh kia mà không hay biết.

Cũng vì lý do này, phương pháp chữa bệnh bằng năng lượng được giữ bí mật, không truyền cho các y sĩ mà chỉ dành riêng cho một số giáo sĩ."

Tôi ngạc nhiên:

- Tại sao? Tại sao... chỉ giáo sĩ mới được học phương pháp này?

- Vì các giáo sĩ có những lời thề nguyện thiêng liêng, cương quyết bước vào một đời sống tôn giáo với những sự thanh lọc, với những kỷ luật tự giác để không còn bản ngã riêng tư.

- Nếu vậy một người như con không thể học phương pháp này?

Đạo trưởng Akhanuxem gật đầu:

- Đúng thế, trừ khi con phát nguyện trở nên một giáo sĩ như ta.

Tôi đâm ra bất mãn:

- Vậy bệnh nhân đi kiếm y sĩ làm chi cho mất công. Cứ đến thẳng các giáo sĩ chuyên về phương pháp chữa bệnh này có hơn không?

Đạo trưởng Akhanuxem lắc đầu:

- "Này Sinuhe, có những việc không giản dị như con nghĩ đâu. Con chớ nên vội vàng kết luận khi chưa hiểu rõ. Mỗi người đều có một sứ mạng riêng phù hợp với những ước nguyện riêng. Một y sĩ có những chức năng của một y sĩ và một giáo sĩ cũng có những nhiệm vụ của một giáo sĩ.

Kiến thức là một kho tàng quí báu nhưng đôi khi nó cũng là một con dao hai lưỡi, nếu không biết sử dụng cẩn thận, nó có thể đem đến những hậu quả tai hại."

Lúc đó tôi chưa hiểu hết ý nghĩa câu nói của đạo sĩ Akhanuxem nên chua chát:

- Phải chăng ngài muốn nói khi các y sĩ bó tay thì bệnh nhân chỉ có cách tìm đến các giáo sĩ? Ngoài ra đâu còn cách nào khác, phải không?

Đạo trưởng Akhanuxem lắc đầu:

- "Không hẳn thế! Trong việc chữa trị bằng năng lượng, một khí cụ trung gian không hẳn đã cần thiết. Nếu một bệnh nhân biết mở rộng tâm hồn trước quyền năng cao cả, biết giao trọn đời mình cho quyền năng cao cả, biết phục thiện và thay đổi lối sống, từ thể xác đến tinh thần, thì sự chữa trị trực tiếp có thể xảy ra, và đó là sự chữa bệnh bằng niềm tin."

Đạo trưởng Akhanuxem im lặng một lúc như đắm chìm trong một ý nghĩ nào đó. Sau cùng ông nhìn tôi như muốn nói gì thêm nhưng không hiểu sao ông chỉ đưa tay ra vỗ nhẹ lên vai tôi như khuyến khích rồi đi thẳng vào căn phòng nhỏ của ông gần đó.

Buổi nói chuyện ngắn ngủi này đã khơi dậy lòng ham muốn hiểu biết của tôi về những phương pháp bí truyền tại đây. Là người nhiều thắc mắc và thích tìm hiểu, tôi mong có dịp học hỏi những phương pháp chữa bệnh này nhưng tôi không có ý định trở nên một giáo sĩ mà chỉ muốn theo gương cha tôi, làm y sĩ phục vụ người nghèo mà thôi.

Cuối năm đó, Horemheb đến thăm tôi. Chúng tôi tâm sự với nhau rất tương đắc, và tôi vô tình kể cho hắn nghe về những phương pháp chữa bệnh bí truyền này.

Horemheb lắc đầu cười nhạt:

- Mấy thằng giáo sĩ quỷ quyệt chỉ lừa được những đứa ngây thơ như mày thôi chứ chẳng thể lừa được t*o.

- Mày nói gì?

Horemheb mỉm cười:

- t*o không ưa trò "mỡ nhử miệng mèo" như thế. Nếu quả là có những phương pháp bí mật thì tại sao họ nói ra cho mày biết làm gì? Phải chăng họ muốn khuyến khích mày trở nên một giáo sĩ như họ? Theo t*o, đó chỉ là những lời hứa hẹn viễn vông, hão huyền để dụ dỗ những đứa ngây thơ, dễ tin như mày.

- Nhưng... nhưng đạo trưởng Akhanuxem là người... rất đứng đắn...

Horemheb bật cười lớn:

- Một người đứng đắn thì đã sao? Theo mày, một người đứng đắn không biết dụ dỗ hay sao? Thôi được, nếu các giáo sĩ có phương pháp cất giữ bí mật thì mày có muốn coi không?

- Dĩ nhiên rồi, mày biết t*o rất ham học hỏi...

- Tốt lắm! Nếu biết họ giấu tài liệu bí mật đó ở đâu thì t*o sẽ tìm ra cho mày coi chơi, biết đâu mày chẳng giỏi hơn tụi giáo sĩ kia.

Lúc đó có lẽ vì lòng ham muốn thôi thúc nên tôi chỉ ngay vào ngôi đền lớn, có hai cánh cửa bằng đá lúc nào cũng khép chặt:

- t*o chắc họ cất giấu trong đó vì chỉ các bậc đạo trưởng mới được vào trong ngôi đền này mà thôi.

Horemheb sung sướng reo lên:

- Thế ư? Tưởng gì chứ nếu họ cất giấu trong đó thì t*o có thể lấy ra dễ dàng. Đối với t*o, việc trèo tường khoét vách chỉ là trò trẻ.

- Nhưng... kỷ luật nhà trường rất nghiêm khắc, nếu có chuyện gì...

Horemheb vỗ mạnh lên vai tôi:

- Điều đó chẳng ăn nhập gì tới t*o cả. Mày là học sinh chứ t*o có phải là học sinh đâu mà sợ vi phạm kỷ luật.

Bất chấp sự khuyên can của tôi, Horemheb quyết tâm đột nhập ngôi đền cấm. Tôi biết tính hắn đã quyết thì không thể can ngăn nhưng đêm đó khi hắn ra đi, tôi thấy hồi hộp, vừa lo sợ, vừa mừng nên cứ đứng ngồi không yên.

Gần sáng Horemheb trở về với vẻ thất vọng:

- t*o chắc mày lầm rồi. Trong ngôi đền đó chẳng có tài liệu, sách vở gì hết.

- Mày nói sao?

- Đó chỉ là một ngôi đền trống rỗng.

- Tại sao lại như thế được? Ngôi đền đó luôn luôn được canh giữ cẩn thận, không ai được phép vào ngoại trừ những vị đạo trưởng...

Horemheb trầm ngâm:

- t*o đã lục soát khắp nơi nhưng không thấy gì. Trong đền hoàn toàn trống trơn không có đồ đạc gì hết mà chỉ có một cỗ quan tài bằng đá.

- Cái gì? Một cỗ quan tài bằng đá?

- Đúng thế, một cỗ quan tài lớn bằng đá nhưng lại không có nắp đậy, bên trong trống rỗng, chẳng có một thây ma nào hết.

- Horemheb, mày không đùa đấy chứ?

Horemheb nghiêm trang lắc đầu:

- t*o đã xem xét cẩn thận, ngoài cỗ quan tài rỗng đó ra, trong đền cũng không có các đồ vật tẩm liệm hay bàn ghế, đồ đạc gì hết. Thật kỳ lạ! Một ngôi đền không có hình tượng thần linh, ngay cả trên vách cũng trống trơn, không có hình vẽ hay dấu hiệu chi hết. Nếu cất giấu tài liệu bí mật thì chắc họ giấu ở chỗ nào khác...

- Nhưng... nhưng biết đâu chẳng có những chỗ cất giấu bí mật?

Horemheb lắc đầu:

- t*o đã xem xét kỹ từng phiến đá dưới sàn, từng vách tường để tìm kiếm nhưng không thấy một dấu vết khả nghi nào. Nếu không tin, đêm mai t*o sẽ đưa mày vào đó xem cho biết.

Tôi không phải là người thích mạo hiểm nhưng câu chuyện Horemheb kể về ngôi đền và cỗ quan tài đã kích thích óc tò mò của tôi rất nhiều. Sau một lúc đắn đo, tôi quyết định cùng Horemheb lẻn vào ngôi đền để xem xét thực hư.

Đó là một đêm không trăng, trời tối đen như mực. Horemheb dẫn tôi đi về phía đền cấm. Thỉnh thoảng hắn lại ra hiệu cho tôi núp vào một chỗ khi gặp những toán nô lệ canh phòng đi ngang. Ngôi đền cấm tọa lạc giữa một khoảng sân rộng, chung quanh có người canh gác cẩn thận nhưng Horemheb đã nghiên cứu từ trước. Hắn biết rõ đường đi nước bước của nhóm người canh gác này nên chúng tôi vào sát ngôi đền mà không gặp khó khăn nào.


Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



đến trang 46


Thanked by 3 Members:

#4 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6740 Bài viết:
  • 5562 thanks

Gửi vào 08/07/2020 - 05:25

Horemheb quả là tay "nhà nghề", chỉ thoáng cái hắn đã leo lên nóc đền, nhẹ nhàng như một con mèo, rồi thả dây xuống cho tôi leo lên. Chúng tôi lần theo những hàng cột đá chống giữ nóc đền rồi chui vào chỗ thông hơi trên nóc. Từ đây, chúng tôi có thể quan sát phía bên trong ngôi đền.

Mặc dù bên trong rất tối, chỉ có vài ngọn đèn nhỏ nhưng đúng như lời Horemheb nói, đó là một căn phòng lớn, không có đồ đạc hay hình tượng thần linh như những ngôi đền khác. Dưới ánh đèn lờ mờ, tôi thấy giữa phòng có một cỗ quan tài lớn bằng đá.

Horemheb nói nhỏ:

- Để t*o thả dây xuống cho mày xuống đó xem xét.

Chúng tôi đang chuẩn bị trèo xuống thì đột nhiên có tiếng động. Cánh cửa chính được mở ra, và một nhóm tu sĩ ở đâu bước vào. Dưới ánh sáng của những ngọn đuốc, các vịđạo trưởng mặc y phục hành lễ rất long trọng. Đi đầu là đạo trưởng Akhanuxem khoác áo thụng, hai tay trịnh trọng nâng một cái khay lớn. Theo sau ông là bốn vị trưởng lão, mỗi người cầm một tích trượng chạm trổ những hình ảnh thần linh. Kế tiếp là một người cao lớn mặc quần áo trắng, đầu quấn một cái khăn lớn phủ kín mặt nên tôi không nhận ra y là ai. Sau cùng là sáu vị đạo trưởng bưng những chiếc khay đồng trên để các dụng cụ hành lễ.

Họ thong thả đi đến trước cỗ quan tài đá rồi đứng quây chung quanh đó và khởi sự các nghi thức dâng hương. Việc các đạo trưởng hành lễ giữa đêm khuya không có gì lạ vì trong tu viện vẫn có những khóa lễ ngày cũng như đêm, nhưng tại sao họ không hành lễ trước bàn thờ các thần linh mà lại dâng hương trước cỗ quan tài bằng đá như vậy? Chúng tôi im lặng theo dõi các nghi thức long trọng, kéo dài rất lâu này.

Sau cùng Horemheb nói khẽ:

- .t*o thấy chẳng có gì đáng xem, chúng ta nên rời đây kẻo trời sắp sáng rồi.

Tôi gật đầu đồng ý và định leo ra nhưng lúc đó khóa lễ cũng vừa chấm dứt. Giữa làn khói hương nghi ngút, đạo trưởng Akhanuxem trịnh trọng bước đến bên người mặc áo trắng, giơ hai tay đặt lên trán người kia như làm một nghi thức gì đó. Người này thong thả bước vào nằm trong cỗ quan tài.

Horemheb giật mình buột miệng nói:

- Thằng khùng kia chui vào quan tài làm gì vậy?

May mắn là lúc đó đạo trưởng Akhanuxem và bốn vị trưởng lão đồng loạt giơ hai tay lên trời, đọc thần chú nên không ai nghe thấy. Đó là một bài thần chú hết sức lạ lùng, âm thanh kỳ lạ khác hẳn những bài thần chú mà tôi thường nghe trong các khóa lễ. Sau một lúc đọc thần chú và làm các nghi lễ, đạo trưởng Akhanuxem phất tay, ra hiệu cho các giáo sĩ đi vòng quanh cỗ quan tài rồi sắp thành hàng một, từ từ tiến ra cửa. Đạo trưởng Akhanuxem đi sau cùng, đi đến đâu ông tắt đèn đến đó, chỉ chừa lại một ngọn đèn rất nhỏ, đặt trên đầu cỗ quan tài mà thôi. Cánh cửa đá từ từ đóng, để lại bóng tối dầy đặc mênh mông phía trong ngôi đền.

Horemheb quay qua tôi, nói nhỏ:

- Bây giờ chúng ta trở về phòng.

Lúc đó không hiểu sao tính tò mò của tôi nổi lên:

- t*o muốn xem xét cái thằng nằm trong cỗ quan tài kia đã.

Đến lượt Horemheb ngạc nhiên:

- Cái gì? Mày muốn gì?

- Tại sao các giáo sĩ lại để người kia nằm trong quan tài như vậy? Tại sao họ lại tắt hết đèn đuốc? Hắn nằm trong đó làm gì? Liệu hắn còn sống hay đã chết?

Horemheb lắc đầu:

- Có lẽ đó là một nghi thức quái đản gì đó của bọn giáo sĩ nhưng tìm hiểu điều này đâu phải mục đích của chúng ta.

Tôi biết Horemheb là người chỉ thích làm những việc có mục đích rõ rệt nên nói khích:

- t*o chắc mày sợ rồi... Có lẽ chuyện kỳ quái này đã làm mày sợ hãi...

- Cái gì, thằng Horemheb này mà sợ ư?

- Nếu không sợ thì mày hãy để t*o leo xuống đó xem xét.

Chúng tôi rón rén leo xuống đất và tiến thẳng về cỗ quan tài. Dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn dầu, người kia vẫn nằm yên bất động. Khuôn mặt y được phủ bằng một tấm khăn mỏng nên chúng tôi không biết hắn đang tỉnh hay mê.

Chúng tôi đứng yên lặng trong bóng tối quan sát rất lâu nhưng y vẫn nằm bất động, tấm màn mỏng phủ trên mặt cũng không hề rung động, hình như y không thở nữa thì phải. Không lẽ y đã chết?

Chờ mãi vẫn không thấy động tĩnh gì, Horemheb đánh bạo đưa tay nhấc tấm khăn mỏng đó lên để lộ ra khuôn mặt của một thanh niên còn trẻ, có gò má cao và đôi lông mày rất rậm. Người thanh niên vẫn nằm yên không nhúc nhích, như một pho tượng. Horemheb đưa tay để gần lên mũi y và thấy gã này không thở nữa.

Hắn giật mình nói khẽ:

- Hình như thằng nầy đã chết rồi!

Tôi ngạc nhiên. Không lẽ người này có thể chết một cách dễ dàng như vậy sao? Tôi vội đưa tay bắt mạch thì thấy rõ tim hắn cũng đã ngưng đập mặc dù cơ thể hắn vẫn còn hơi ấm.

Horemheb nói nhỏ vào tai tôi:

- Mày thỏa mãn rồi chứ?

- Tại sao hắn lại chết như vậy?

- Mày thắc mắc làm gì cho mệt, hay mau đi khỏi nơi đây kẻo trời sắp sáng rồi.

Tôi còn đang chần chừ chưa quyết định thì Horemheb đã kéo xốc tôi đi. Chúng tôi leo lên nóc đền và theo lối cũ trở về.

Khi về đến phòng tôi vẫn thắc mắc:

- Thật lạ lùng! Rõ ràng người thanh niên kia tự nguyện chui vào nằm trong quan tài rồi không hiểu sao lại tắt thở.

Chắc phải có một sự kiện bí mật nào đó.

- Hắn sống hay chết thì ăn nhập gì đến việc tìm tài liệu bí mật của các giáo sĩ?

- Nhưng đây là một sự kiện kỳ quái, phải chi t*o có thể khám nghiệm tử thi để tìm ra nguyên nhân của cái chết. Biết đâu...

Horemheb bật cười:

- Mày thắc mắc nhiều quá chỉ khổ thân thôi. Chúng ta cómột mục đích là tìm kiếm những tài liệu mật thì chỉ để hết nỗ lực vào việc đó mà thôi. Việc khác hãy để qua một bên.

Tôi biết tính Horemheb rất thực tế, trái ngược với tôi là kẻ nhiều mơ mộng, hay thắc mắc viễn vông nhưng tôi không thể quên được sự kiện lạ lùng mà tôi chứng kiến ở ngôi đền cấm cũng như khuôn mặt kỳ lạ của người thanh niên nằm trong cỗ quan tài đá kia. Hình như có một cảm giác gì đó kỳ lạ, thân mật giữa tôi và cái tử thi đó mà tôi không thể diễn tả. Nhiều đêm tôi đã giật mình thức giấc rồi mất ngủ vì bị khuôn mặt người đó ám ảnh. Là một y sĩ, tôi đã từng khám nghiệm và mổ tử thi, đã nhìn thấy hàng trăm khuôn mặt người chết nhưng tại sao tôi lại bị ám ảnh bởi khuôn mặt đó? Tại sao chỉ nhìn thoáng qua khuôn mặt người chết trong một khung cảnh tranh tối tranh sáng mà người ta có thể bị ám ảnh mạnh như thế được?

Mấy tuần lễ sau, dù cố công tìm kiếm nhưng chúng tôi không tìm ra manh mối gì về những tài liệu bí mật mà chúng tôi nghĩ vẫn được cất giữ tại một nơi chốn nào đó trong khuôn viên tu viện. Ít hôm sau, Horemheb trở về Thebes, còn tôi tiếp tục việc học về "Khoa Học Của Sự Sống".

Thời gian thấm thoát trôi, chẳng mấy chốc tôi đã hoàn tất chương trình huấn luyện tại Abydos. Tôi thi đỗ thủ khoa và chính thức trở nên một y sĩ như cha tôi. Năm đó tôi vừa tròn hai mươi ba tuổi.


CHƯƠNG 3




Khi tôi trở về thành Thebes thì cha mẹ tôi đã chờ sẵn với một bữa cơm thịnh soạn để ăn mừng. Trong lúc khuân hành lý vào nhà, tôi ngạc nhiên thấy cha mẹ tôi cũng đã thu xếp quần áo, hành trang như chuẩn bị cho một chuyến đi xa.

- Cha lại đi hái thuốc hay sao?

Cha tôi mỉm cười lắc đầu:

- Không. Lần này ta và mẹ con sẽ đi thăm viếng một số đạo viện. Từ nhiều năm nay, chúng ta vẫn mong có cơ hội theo đuổi những công việc tinh thần nhưng vì còn trách nhiệm săn sóc những bệnh nhân nghèo nên chúng ta chưa hoàn thành ý định. Hiện nay con đã trở thành một y sĩ, có thể thay ta nối tiếp việc này nên chúng ta muốn lên đường để hoàn tất những ước nguyện thuở trước.

- Nếu vậy cha mẹ dự định sẽ đi trong bao lâu?

- Điều đó còn tùy hoàn cảnh, có thể vài tháng hay vài năm không chừng.

Tôi nhìn khuôn mặt đầy những vết nhăn của cha tôi, người y sĩ cả đời tận tụy với việc cứu nhân độ thế, rồi nắm chặt lấy tay ông:

- Cha cứ yên chí, con sẽ thay mặt cha trông nom săn sóc những bệnh nhân nghèo, đúng như ý cha muốn.

Cha tôi cảm động. Ông ngập ngừng một lúc rồi nói:

- Tốt lắm, ta biết con sẽ làm được việc này. Từ nhiều năm nay chúng ta vẫn sống thanh bạch, không sở hữu gì ngoại trừ căn nhà làm nơi khám bệnh. Chúng ta giao cho con trông nom khi chúng ta đi xa. Tuy nhiên lần này chúng ta đi không biết bao giờ về nên ta muốn nói với con một điều quan trọng...

Cha tôi ngưng lại một lúc như suy nghĩ rồi nói tiếp:

- Này Sinuhe, đáng lẽ ra chúng ta phải nói cho con biết về việc này từ lâu rồi nhưng ta không muốn con thắc mắc suy nghĩ nhiều có thể ảnh hưởng đến việc học nên hôm nay mới có dịp cho con biết. Theo ý ta, những việc đã qua thì có lẽ nên để nó chìm vào quá khứ thì hơn nhưng mẹ con đã bàn với ta không nên giấu con điều gì, do đó ta muốn kể cho con nghe một câu chuyện xảy ra cách đây hơn hai mươi năm...

Cha tôi im lặng, cặp mắt ông trở nên mơ màng như đang chìm đắm trong một kỷ niệm nào đó. Sau cùng ông thong thả lên tiếng:

- "Hồi đó ta là một y sĩ trẻ, vừa tốt nghiệp như con ngày nay vậy. Như con đã biết, kiến thức về Khoa Học Của Sự Sống thì bao la vô cùng nhưng kiến thức về y giới chỉ giới hạn trong phương diện chữa trị mà thôi. Chỉ riêng các giáo sĩ trong dòng tu Osiris, những người đã phát nguyện sống trong sạch để phụng sự nhân loại, mới được truyền dạy thêm kiến thức về Khoa Học Của Sự Sống. Vì muốn học hỏi kiến thức này, ta đã phát nguyện không lập gia đình để trở thành một giáo sĩ dành hết thì giờ cho việc nghiên cứu.

Khi đó mẹ con là con gái út của hoàng thân Oka Mazuk trong triều. Hoàng thân Oka Mazuk là em họ của hoàng đế Pharaoh, được lệnh cai quản khắp miền nam Ai Cập, sát biên giới Nubia. Tuy xuất thân trong một gia đình giàu có, thế lực vào bậc nhất Ai Cập nhưng ngay từ nhỏ, mẹ con đã không ham thích đời sống xa hoa đài các này. Bà chỉ muốn theo đuổi những công việc tinh thần nên đã phát nguyện trở nên một nữ tu của dòng tu Isis, chứ không hề muốn lập gia đình như những phụ nữ khác.

Năm đó ông ngoại con theo hoàng đế Pharaoh kéo binh chinh phạt xứ Nubia, mang về rất nhiều nô lệ. Gặp thời tiết nóng nực, có dịch thời khí nên số nô lệ đem về bị chết rất nhiều. Mẹ con thấy vậy động lòng thương xót nên đã hết lòng tìm thầy thuốc chữa chạy, săn sóc những người nô lệ. Bà đã bán chiếc vòng ngọc mà ông ngoại con đã tặng bà nhân sinh nhật mười sáu tuổi, để mua thuốc chữa trị cho các nô lệ. Đây là một chiếc vòng ngọc vô cùng quí báu, có giá trị rất lớn mà ông ngoại con đã tốn rất nhiều công sức mới chiếm đoạt được nó.

Khi hay tin mẹ con đem bán chiếc vòng để giúp nô lệ, ông ngoại con nổi giận. Để trừng phạt. Ông có ý định gả mẹ cho một sĩ quan đã lập nhiều chiến công cho triều đình, bất chấp việc bà đã phát nguyện trở nên một nữ tu trong sạch. Trước tình trạng ấy, mẹ con quyết định tự tử để giữ tròn lời nguyện. Là y sĩ bán thuốc cho mẹ con và cũng là người được bà yêu cầu bào chế một thang thuốc độc, ta biết rõ tình trạng căng thẳng lúc đó. Để cứu một người mà ta vô cùng kính phục, ta bèn đưa ra một giải pháp tạm thời cho tình trạng lúc đó, là ngỏ lời cầu hôn mẹ con.

Vì cả hai chúng ta đều đã phát nguyện sống trong sạch nên cuộc hôn nhân của chúng ta chỉ xảy ra trên danh nghĩa mà thôi chứ thật ra không hề có sự ô nhiễm tình dục. Ta hy vọng thời gian sẽ làm nguôi cơn giận của ông ngoại con và rồi mọi việc sẽ sáng tỏ..."

Đây không phải là điều mới lạ vì tôi đã nghe kể về việc này từ trước mặc dù lần này cha tôi kể chi tiết hơn. Cha tôi nhìn tôi một lúc rồi tiếp tục:

- "Dĩ nhiên là điều này qua mắt được ông ngoại con nhưng không lọt qua sự nghi ngờ của Smenkere, người quan đã lập nhiều chiến công cho triều đình lúc đó. Smenkere vẫn thầm nuôi hy vọng lấy được một người thuộc giai cấp hoàng tộc như mẹ con vì đó là con đường dẫn đến danh vọng và quyền lực cho hắn. Khi nghe mẹ con và ta lập gia đình, hắn vô cùng thất vọng và tức giận. Dĩ nhiên nếu cuộc hôn nhân giả mạo này bại lộ, ta sẽ không thoát khỏi án tử hình, và mẹ con sẽ không tránh khỏi việc bị ép làm vợ Smenkere.

Sau nhiều ngày suy nghĩ, ta bàn với mẹ con nên rời Memphis đến Thebes lập nghiệp, để tránh cặp mắt soi mói của Smenkere. Tuy đã đi xa nhưng chúng ta vẫn bị theo dõi rất gắt. May thay lúc đó cuộc chiến với dân Hitites xảy ra nên Smenkere phải cầm quân ra trận..."

Tôi thắc mắc:

- Rồi sao nữa? Liệu... cha mẹ có giữ... lời nguyện không?

Cha tôi quay sang nhìn mẹ tôi rồi mỉm cười:

- Này Sinuhe, khi một người đã chọn để theo đuổi một lý tưởng thì thà chết chứ không bao giờ vi phạm lời nguyện, nhất là khi cả hai chúng ta đều phát nguyện trong những buổi lễ điểm đạo tại các thánh điện trang nghiêm.

Tôi giật mình kêu lớn:

- Nhưng nếu... nếu thế... làm sao lại có con được?

Mẹ tôi vẫn ngồi yên lặng, bây giờ mới lên tiếng:

- Này Sinuhe, lúc đầu chúng ta giả vờ kết hôn để giải quyết một khó khăn nhất thời nhưng chúng ta không ngờ nó lại tạo ra những khó khăn khác. Chúng ta đã nguyện sống trong sạch, coi nhau như anh em ruột thì làm sao có con với nhau được...

Cha tôi đỡ lời:

- Mẹ con nói đúng đấy. Chúng ta đến Thebes nhưng vẫn bị theo dõi vì dường như Smenkere đã nghe nói về lời nguyện giữ mình trong sạch của chúng ta.

Tôi nóng nảy, không giữ được bình tĩnh:

- Như vậy con là... con là con của ai?

Cha tôi thong thả trả lời:

- "Hôm đó chúng ta có việc đi ngang một khúc sông vắng thì nghe có tiếng trẻ khóc từ một giỏ mây thả trôi trên sông Nile. Con biết đấy, xã hội nào cũng có những đứa con rơi, những giọt máu vô thừa nhận, hậu quả của những cuộctình lầm lỡ. Những bà mẹ bất hạnh thường đặt những đứa trẻ vô thừa nhận đó vào những giỏ mây thả trôi trên sông Nile, phó mặc cho thần sông Nile che chở. Hàng năm có biết bao đứa trẻ bị thả trôi sông như vậy.

Nghe tiếng trẻ khóc, mẹ con động lòng nên yêu cầu ta vớt đứa bé đó vào bờ nhưng không ai muốn nuôi đứa trẻ ấy cả. Bất chợt mẹ con nảy ra một ý kiến hay, bà bàn với ta rằng nếu chúng ta làm như đã có con với nhau thì sẽ đánh tan được mối nghi ngờ của Smenkere, và chúng ta có thể sống yên ổn. Hiển nhiên đã giả việc kết hôn thì việc nhận nuôi một đứa trẻ để giả làm con ruột cũng đâu có khó gì.

Và con chính là đứa trẻ được chúng ta vớt từ sông về nuôi để che mắt mọi người..."

Tôi kêu lớn:

- Như thế... con là một đứa trẻ... vô thừa nhận?

Mẹ tôi an ủi:

- Này Sinuhe, tuy ta không sinh ra con nhưng lúc nào con cũng là con của ta. Lúc đầu chúng ta nuôi con chỉ vì muốn che mắt Smenkere nhưng về sau chúng ta đã yêu thương con đâu khác gì một đứa con ruột.

Tôi thất vọng:

- Thế rồi... sao nữa?

- Khi Smenkere đánh trận trở về và nghe tin chúng ta đã có con với nhau thì hắn đành bỏ mộng làm rể gia đình hoàng gia. Từ đó chúng ta được sống yên ổn, không bị ai nhòm ngó, theo dõi nữa.

Cha tôi mở tủ thuốc lấy ra một cái chăn đã cũ:

- Đây chính là tấm chăn đã lót con trong giỏ mây, nó được may bằng một loại sợi đan rất thô. Loại sợi này chỉ có ở vùng Phalon, thượng lưu sông Nile. Đây là miền mà đa số dân chúng đều sống bằng nghề chài lưới nên chúng ta đoán rằng có lẽ con xuất thân là con nhà thuyền chài...

Thấy tôi thất vọng, mẹ tôi khuyên giải:

- Này Sinuhe, có thể hiện nay con đang bàng hoàng xúc động nhưng rồi cảm xúc này sẽ qua đi vì trước sau gì con vẫn là con của chúng ta. Ngày trước chúng ta yêu con bao nhiêu thì bây giờ chúng ta vẫn yêu thương con như vậy. Chúng ta chỉ muốn con biết rõ nguồn gốc của mình mà thôi. Chuyện đã qua, có lẽ nên để nó chìm vào quá khứ thì hơn nhưng chúng ta không muốn giấu con một điều gì. Con đã trưởng thành, có thể chấp nhận được sự thật này.


° ° °






Đúng như lời mẹ tôi nói, tôi đã xúc động một thời gian nhưng sau khi cha mẹ tôi lên đường và tôi bắt đầu trông coi phòng mạch, thì thời gian và công việc đã giúp tôi nguôi ngoai rất nhiều. Được tin tôi trở về, Horemheb vội vã đến thăm. Trong lúc hàn huyên tâm sự, tôi đã kể cho hắn nghe về thân thế mình. Horemheb bật cười vỗ mạnh lên vai tôi:

- Thì ra thân thế mày cũng chẳng hơn gì t*o. Mày là một thằng con rơi, không ai thèm nhận; còn t*o là con một tên bán bánh tầm thường, không ai thèm để ý. Như thế chúng ta kết bạn là đúng quá rồi. Tuy nhiên nếu mày đã kể cho t*o nghe về việc bí mật của mày thì t*o cũng có một việc riêng để nói với mày và muốn mày đừng kể với ai...

Tôi ngạc nhiên:

- Cái gì nữa đây? Phải chăng mày cũng là...

Horemheb lắc đầu:

- Thôi đi Sinuhe, đừng nghĩ rằng ai cũng là con rơi như mày đâu! Thân thế t*o hèn kém, là con một tên bán bánh ngoài chợ thì t*o chỉ có thể hành nghề bán bánh, quét chợ hay làm phu khuân vác mà thôi. Tuy nhiên t*o đã quen được một sĩ quan trong đội Ngự lâm quân, người này sẵn sàng thâu nhận t*o làm lính. Thật ra t*o đã man khai lý lịch rằng cha t*o là một người lính đã tử trận để được thâu nhận.

- Tại sao mày làm vậy?

Horemheb giải thích:

- Này Sinuhe, tuy mày không phải là con ruột của y sĩ Sen Moot nhưng đã mấy ai biết điều ấy. Hiện nay mày là một y sĩ, được xã hội kính trọng. Phần t*o thuộc giai cấp hèn kém, chỉ hơn giai cấp nô lệ một chút, có muốn ngóc đầu lên cũng không thể được nên t*o mới phải làm lý lịch giả như thế. Giai cấp quân nhân, dù không vẻ vang gì nhưng cũng còn hơn giai cấp thợ thuyền. t*o đã quyết định rời thành Thebes lên Memphis đầu quân, t*o sẽ mời mày lên đó ăn mừng.

Tôi biết lúc nào Horemheb cũng nuôi mộng làm lính nên không ngạc nhiên về chuyện này. Sau khi Horemheb lênđường, tôi tiếp tục hành nghề y sĩ. Đã quen với cuộc sống thanh bạch, tôi không phiền hà gì về số tiền thu nhập thất thường trong chiếc thùng gỗ để trước cửa phòng mạch. Có nhiều hôm tôi chỉ nhận được ít tiền lẻ, vừa đủ mua một ổ bánh mì khô, nhưng cũng có khi tôi nhận được những số tiền khá lớn. Theo lệ cũ, tôi chia số phần này ra làm hai phần, một phần giữ lại để đủ ăn trong bảy ngày, phần kia tôi mang ra phân phát cho những người nghèo khó trong xóm.

Thời gian êm đềm trôi. Một hôm tôi để ý thấy trong suốt mấy tháng, số tiền trong thùng càng ngày càng ít đi. Hình như bệnh nhân không chịu trả tiền nữa thì phải. Lúc đầu tôi không để ý nhưng về sau tôi thấy lần nào mở thùng ra, tôi cũng chỉ thu được một ít xu lẻ, vừa đủ mua một ổ bánh cho bữa tối mà thôi. Một hôm tôi mổ óc cho một lái buôn giàu có, đeo đồ trang sức đầy người. Ông này cám ơn cứu mạng nên ra lệnh cho tên nô lệ theo hầu bỏ vào thùng gỗ của tôi một số tiền rất lớn. Tôi nghe rõ tiếng tiền bạc kêu rổn rảng trong hòm, thế mà buổi chiều hôm đó, khi mở thùng ra, tôi vẫn chỉ thấy có một ít xu lẻ như mọi lần. Biết có kẻ lấy trộm, tôi bèn để ý rình.

Hôm sau, khi bệnh nhân cuối cùng vừa bước vào phòng khám bệnh, thay vì chữa trị, tôi yêu cầu bệnh nhân ngồi chờ, còn tôi thì lẻn ra phía sau nhà quan sát. Tôi tin rằng nếu có kẻ trộm tiền thì hắn sẽ phải ra tay trước khi tôi đóng cửa phòng mạch. Quả nhiên đúng như dự đoán, tôi thấy một người to lớn, quần áo xốc xếch, bước đến bên cạnh thùng tiền. Hắn lấm lét nhìn trước nhìn sau, rồi rút trong mình ra một chiếc chìa khóa nhỏ, mở thùng và trút hết tiền bạc trong đó vào túi. Cơn giận ở đâu nổi lên, tôi xông ra túm chặt lấy hắn quát tháo ầm ĩ. Tên trộm vùng vẫy toan chạy nhưng tôi đã ôm chầm lấy hắn, đẩy hắn ngã lăn ra đất. Biết không thể chạy được, hắn vội quì mọp bên chân tôi năn nỉ:

- Thưa y sĩ, tôi... trót dại, mong ông tha cho.

- Thằng khốn! Mi ăn trộm tiền của ta từ bao lâu rồi?

- Thưa ông, tôi nghèo đói nên lỡ dại...

Nhìn thấy khuôn mặt lấm lem và con mắt bên phải của gã trắng dã, không tròng, tôi động lòng thương xót:

- Này thằng chột kia, mi tên gì, ở đâu đến đây?

- Tôi tên là Kepta, thuộc bộ lạc Do Thái. Tôi vốn là một nô lệ nhưng chẳng may chủ tôi chết sớm, không để lại tiền bạc gì nên trở nên một kẻ vô chủ, lang thang đầu đường xó chợ. Tôi già yếu, không làm được việc lao động, lại chột mắt, hình dáng xấu xí nên chẳng ai muốn nuôi. Tôi lang thang xin ăn khắp thành Thebes cho đến khi thấy thùng tiền của ông để trước cửa...

Kepta vừa nói vừa chăm chú nhìn tôi. Khi thấy tôi có vẻ nguôi giận, hắn lập tức đổi giọng lý luận:

- Thưa y sĩ, tôi biết ông thường đem tiền này giúp kẻ nghèo khó trong xóm; nhưng thưa ông, tôi là kẻ nghèo khó nhất xóm. Tôi cam đoan không ai nghèo hơn tôi nên tôi đành phải... tạm thời sử dụng số tiền này đấy thôi. Điều nầy thật ra cũng đâu có hại gì vì nếu tôi không lấy thì ông cũng đem tiền cho người khác.

Tôi suýt bật cười vì giọng lưỡi ngụy biện của tên Do Thái chột mắt này:

- Mi giỏi thật! Đã lấy trộm tiền lại còn dám cãi lý với ta nữa.

Kepta nhăn mặt xua tay rối rít:

- Ấy chết, xin ông đừng nói quá! Nếu tôi lấy trộm thì phải lấy hết số tiền này chứ nhưng... tôi vẫn để lại... một chút cho ông dùng kia mà!

Tôi bật cười vì miệng lưỡi lợi hại của tên nô lệ vô chủ này:

- Thằng chột kia, nếu đã để lại ít tiền thì sao mi không để lại một số tiền kha khá mà lần nào cũng chỉ một vài xu lẻ?

Kepta lấm lét nhìn tôi rồi cười xòa:

- Tôi biết ông là người ăn uống thanh đạm. Một ổ bánh mì cũng đủ nên tôi để lại vừa đủ tiền cho ông ăn bánh mì... Nếu để lại nhiều tiền hơn, ông lại mất công mang đi cho người khác. Như thế là tôi giúp ông đấy chứ...

Tôi chưa biết phải nói làm sao thì nghe tiếng bệnh nhân trong phòng mạch gọi nên tôi bèn chỉ mặt tên chột mắt:

- Thôi được! Lần này ta tha cho mi, hãy mau cút đi nơi khác kiếm ăn. Nếu ta còn bắt gặp mi lảng vảng quanh đây thì chớ có trách.

Tôi nghĩ tên chột mắt này sẽ sợ hãi bỏ đi ngay nhưng chiều hôm đó, khi vừa khám bệnh xong tôi đã thấy Kepta ngồi chờ trước cửa. Hắn nói ngay:

- Thưa y sĩ, tôi biết ông không nuôi nô lệ nhưng nếu ông không chê tên chột mắt, xấu xí, thì hãy thu nhận tôi làm nô lệ hầu hạ cho ông.

- Cái gì? Ta nhận để ngươi ăn cắp tiền chữa bệnh của ta nữa ư?

Kepta lắc đầu:

- Không, không đời nào! Nếu tôi làm nô lệ cho y sĩ thì tôi sẽ bảo vệ thùng tiền này bằng mạng sống của tôi. Đứa nào đụng vào sẽ chết với thằng chột này.

Tôi không hề có ý định nuôi nô lệ nhưng bấy lâu nay sống cô độc, không ai trò chuyện, gặp tên Do Thái ăn nói có duyên tôi cũng thích. Tôi bèn nhận cho hắn ở chung, để dọn dẹp nhà cửa và làm những việc vặt. Từ đó Kepta trở nên một người phụ tá đắc lực cho tôi. Không biết hắn ra phố quảng cáo những gì mà từ ngày có hắn, số bệnh nhân tăng lên rất nhiều và số tiền thu được cũng tăng lên thấy rõ. Mặc dù tôi chủ trương sống thanh bạch, ăn uống giản dị nhưng Kepta không quan niệm như vậy. Hắn ép tôi phải ăn uống đàng hoàng, cẩn thận để có sức khỏe, phục vụ mọi người.

Một hôm tôi nhận được tin của Horemheb từ Memphis báo rằng hắn vừa được tuyển làm lính Ngự lâm quân và muốn tôi lên đó ăn mừng với hắn. Tôi vội thu xếp lên Memphis ngay. Gặp tôi, Horemheb mừng rỡ kéo vào một quán rượu gần đó:

- .t*o đã được chấp nhận, chỉ còn chờ ngày làm nhập ngũ mặc quân phục nữa thôi. Mày phải uống rượu mừng cho t*o.

Tôi chưa hề uống rượu nhưng vì muốn chung vui với Horemheb nên cũng vui lòng cầm ly lên uống một hơi. Mùi rượu nồng nặc khiến tôi ho sặc sụa. Thấy vậy, Horemheb vỗ vai tôi cười lớn:

- Trước sau gì mày cũng phải tập uống rượu. Đàn ông mà không biết uống rượu thì có ra gì!

Horemheb là người quảng giao, quen nhiều biết rộng nên chúng tôi vừa ngồi vào bàn thì đã có nhiều người khác cũng đến uống rượu chung vui với hắn. Một lúc sau, bàn của chúng tôi đã qui tụ hàng chục người say sưa ăn uống nói cười, hết sức vui vẻ. Horemheb luôn miệng gọi rót thêm rượu và nhất định bắt mọi người phải nâng ly uống cho hết. Vì không quen uống nên tôi rất dè dặt, chỉ nhắp vài ngụm lấy lệ, nhưng mặc dù uống rất ít, tôi cũng bị choáng váng, xây xẩm mặt mày. Hiển nhiên những tay bợm nhậu này thấy ngay, họ ép tôi phải uống cho thật say.

Người rót rượu, một thiếu nữ rất trẻ, lên tiếng bênh vực:

- Các ông chớ ép ông này uống nữa. Tôi xem chừng ông ta không chịu nổi đâu.

Đám bợm nhậu nhao nhao lên:

- Say chút ít đâu có sao!

- Phải cho hắn nếm mùi say một lần cho biết.

Cô gái lắc đầu:

- Nhưng ông này coi bộ chịu hết nổi rồi, xin các ông tha cho...

Đám bợm nhậu rú lên cười:

- Này Meryt, hôm nay cô làm sao vậy? Hắn càng uống nhiều thì cô càng thu lắm tiền kia mà?

- Tại sao cô không muốn cho tên này uống rượu?

- Phải chăng cô đã thích hắn?

Meryt, người thiếu nữ bán rượu, lên tiếng:

- Tôi xem chừng ông này muốn quị rồi, uống thêm sợ có chuyện gì...

Horemheb cười ha hả, gạt đi:

- Cô cứ tiếp tục rót đi. Sinuhe là em tôi, hắn phải uống mừng cho tôi, có chuyện gì thì để Horemheb này chịu.

Trong lúc đám bợm nhậu đang ồn ào bắt tôi phải uống thêm thì bỗng có tiếng tù và thổi vang khắp nơi rồi tiếng người nhốn nháo kêu gọi khắp đường phố. Horemheb giật mình đặt ly rượu xuống bàn, nghe ngóng:

- Tại sao có tiếng tù và báo động như vậy?

Tiếng tù và mỗi lúc một cấp bách rồi tiếng chân người chạy dồn dập. Một lúc sau có thêm tiếng kèn và tiếng hò hét rầm rĩ. Horemheb biến sắc:

- Đó là tiếng kèn báo động trong hoàng cung.

Horemheb và đám bạn vội bước ra cửa thì thấy quân lính xuất hiện khắp nơi, gươm giáo sáng ngời. Horemheblên tiếng hỏi:

- Chuyện gì vậy?

Một người lính trả lời:

- Hoàng đế Pharaoh vừa qua đời.

- Tại sao lại náo loạn như thế?

Một người lính khác xen vào:

- Hoàng đế đã được mang đi chôn cất nhưng đám nô lệ lo việc mai táng không chịu chết theo, chúng nổi loạn và đang đánh nhau với lính ngự lâm.

Phong tục chôn cất những nô lệ hay cung nữ theo các vị vua chúa để hầu hạ những người này ở cõi giới bên kia là một việc thường. Đối với người Ai Cập, Hoàng đế Pharaoh là một vị thần nên sự chết đối với họ chỉ là một cuộc hành trình đi qua cõi giới khác mà thôi. Để bảo đảm cuộc hành trình này, việc chôn cất luôn luôn được cử hành theo những nghi thức nhất định, tiễn đưa vua Pharaoh lên đường. Một trong những nghi thức rất quan trọng là việc giữ gìn thể xác vì tính cách thiêng liêng của thể xác này. Nếu thể xác bị hư hại, đời sống vĩnh cửu ở thế giới bên kia sẽ gặp khó khăn. Đây là một điều được các giáo sĩ thuộc nhóm nghiên cứu Khoa Học Của Sự Chết ghi nhận rất kỹ.

Cũng vì sự tin tưởng này nên việc đầu tiên của bất cứ vị vua Pharaoh nào khi vừa lên ngôi là lo chuẩn bị xây cất cho mình một lăng tẩm, một ngôi mộ kiên cố, để giữ gìn thể xác của mình, để bảo đảm cho đời sống ở cõi giới bên kia. Để có thêm những tiện nghi, các vua Pharaoh bắt chôn theo những tùy tùng, nô lệ và cung nữ để hầu hạ nên việc những người này phản đối, không chịu bị chôn sống theo không phải là điều đáng ngạc nhiên. Thường thì bao giờ họ cũng bị cưỡng bách, đàn áp bằng võ lực hoặc cho uống những loại thuốc mê trước khi mang đi chôn sống.

Cuộc nổi dậy của nhóm nô lệ kéo dài suốt mấy ngày nhưng rồi cũng bị dẹp tan và tình hình Memphis trở lại bình thường. Vài hôm sau khi Horemheb đến làm thủ tục nhập ngũ thì hắn được biết vị sĩ quan chỉ huy nhóm Ngự lâm quân, người mà hắn đặt nhiều hy vọng, đã bị giết trong cuộc chống đối vừa qua. Vị sĩ quan chỉ huy mới lạnh lùng:

- Ta không biết ngươi là ai, hiện nay chúng ta không cần tuyển thêm lính vì còn phải chờ lệnh vị tân hoàng đế.

- Nhưng tôi đã hoàn tất đầy đủ các nghi thức nhập ngũ.

- Điều đó ta không cần biết. Chúng ta chỉ tuyển lính khi có lệnh mới.

- Nếu vậy chừng nào sẽ có lệnh mới?

Người sĩ quan bật cười lớn:

- Điều này chắc còn lâu lắm. Các vị hoàng đế Pharaoh vừa lên ngôi có hàng trăm, hàng ngàn việc quan trọng phải làm. Việc tuyển thêm lính hầu chỉ là việc phụ, chắc cũng phải nhiều năm nữa.

Dĩ nhiên Horemheb biết ngay rằng người sĩ quan này không muốn tuyển lựa những người đã được viên sĩ quan trước thâu nhận. Vị chỉ huy nào cũng muốn đưa bè phái, phe nhóm của mình vào, để bảo đảm sự trung thành tuyệt đối. Horemheb vô cùng thất vọng, cái mộng được mang quân phục Ngự lâm ấp ủ trong bao năm qua đã tan tành như mây khói. Trong suốt mấy ngày sau, Horemheb uống rượu liên miên và say lúy túy. Hắn chửi rủa tất cả những gì có thể chửi được, và rồi lên cơn sốt nặng khiến tôi phải tốn rất nhiều thì giờ và công sức săn sóc cho hắn.

Horemheb mê sảng cả tuần lễ nhưng nhờ các loại thuốc an thần cực mạnh nên bệnh tình của hắn cũng thuyên giảm dần. Một buổi sáng, hắn tỏ ra bình tĩnh hơn trước, thay vì đòi uống rượu hắn đã nói với tôi:

- Cám ơn mày đã săn sóc cho t*o. Có lẽ những kẻ tầm thường như chúng mình chỉ nên yên phận, mong muốn nhiều quá chỉ khổ thôi. Bây giờ t*o muốn trở về Thebes bán bánh, quét chợ rồi thỉnh thoảng đi câu cá với mày.

Tôi mừng rỡ:

- Mày cứ tĩnh dưỡng cho thật khỏe đã, chuyện đâu còn đó.

- Nhưng t*o thấy trong mình khỏe rồi và muốn trở về Thebes ngay.

Tôi liền chuẩn bị hành trang cùng với Horemheb trở về Thebes, nhưng trước khi lên đường hắn hỏi tôi:

- Này Sinuhe, mày đã đi săn sư tử bao giờ chưa?

- Cái gì? Săn sư tử ư? Mày không đùa đấy chứ?

Horemheb mỉm cười vỗ mạnh lên vai tôi:

- Một thú vui như thế mà mày không biết sao?

- Không, t*o không nghe ai nói săn sư tử là một thú vui hết.

Horemheb chăm chú nhìn tôi rồi lắc đầu than:

- Săn sư tử là một trò giải trí đặc biệt của dân chúng thủ đô Memphis, gần như ai cũng biết săn sư tử. Một trò vui như thế mà mày chưa nếm mùi sao?

Tôi hết sức ngạc nhiên:

- Không, t*o chưa từng săn sư tử nhưng... liệu có nguy hiểm không?

Horemheb bật cười ha hả:

- Lối đi săn này không nguy hiểm vì người săn ngồi trên xe ngựa chạy như bay, sư tử nào đuổi kịp họ được. Họ sử dụng cung tên thay vì giáo mác. t*o đã từng săn vài chục con sư tử như thế rồi, cũng dễ như đi... câu cá thôi.

Thấy tôi có vẻ ngần ngại, Horemheb thúc giục:

- Một trò vui như thế không nên bỏ qua. Trước khi về Thebes, mày cũng nên hưởng thú săn sư tử với t*o cho biết.

Không đợi tôi trả lời, Horemheb đã lo thu xếp chuyến đi săn sư tử ngay. Tôi biết hắn buồn chán, thất vọng vì việc nhập ngũ không thành nên thấy hắn lấy lại tinh thần, tôi cũng mừng và không muốn làm phật lòng hắn.

° ° °



Chiều hôm sau, Horemheb mang ở đâu về một cỗ xe ngựa với đầy đủ các dụng cụ đi săn như cung tên, giáo mác.

Tôi và hắn vượt cổng thành tiến ra sa mạc. Trên đường, tôi thấy khắp nơi quân lính canh phòng rất nghiêm, mặc dù cuộc nổi dậy của nhóm nô lệ đã bị dẹp tan nhưng hình như triều đình vẫn cẩn thận đề phòng một chuyện gì.

Đêm ấy trăng tròn, ánh trăng tỏa sáng khắp sa mạc, soi rõ những cồn cát trắng xóa chạy dài đến tận chân trời. Horemheb điều khiển cỗ xe một cách khéo léo khiến xe chạy như bay. Khoảng nửa đêm, chúng tôi đến một thung lũng hẹp, phong cảnh hoang vu, Horemheb lên tiếng:

- Người ta thường săn sư tử vào ban đêm. Ban ngày chúng ngủ trong hang núi nên rất khó tìm...

Horemheb chưa dứt lời, tôi đã nghe thấy một tiếng gầm dữ dội và một con sư tử lớn, bộ bờm mầu sẫm ở đâu xuất hiện. Horemheb trao cương ngựa cho tôi:

- Mày cứ bình tĩnh điều khiển cỗ xe, mọi việc đã có t*o...

Vì bất ngờ nên tôi luống cuống không biết phải làm gì. Từ trước đến nay tôi chưa hề điều khiển một cỗ xe như thế này. Tuy nhiên tôi không có thì giờ phản ứng vì con sư tử đã từ xa phóng đến. Horemheb thản nhiên lắp tên vào cung:

- Mày đã muốn chết thì t*o cho mày chết ngay.

Mặc dù tôi đã cố gắng giữ cương thật chặt nhưng hai con ngựa thấy sư tử xông đến đã hoảng sợ hí vang và sải vó chạy. Horemheb hét lớn:

- Cẩn thận! Nắm chặt dây cương!

Bất chấp sự điều khiển vụng về của tôi, hai con ngựa cắm đầu chạy khiến cỗ xe hết nghiêng bên này lại ngả bên kia làm Horemheb bắn hụt mấy lần. Hắn bình tĩnh lắp tên vào cung và ra lệnh:

- Mày kềm cương ngựa cho thật chặt...

Nhưng không kịp nữa rồi! Trong lúc luống cuống tôi đã để tuột dây cương. Hai con ngựa không người điều khiển, lồng lên, cắm đầu chạy về phía trước. Horemheb vội vã chồm người lên để nắm lấy cương nhưng vì xe ngựa chạy quá nhanh, hắn không bắt kịp. Con sư tử tiếp tục đuổi và chỉ một lúc chúng tôi đã vượt qua thung lũng, tiến về một hẻm núi đầy những tảng đá lớn. Horemheb quát lớn:

- Cẩn thận! Chỗ này nguy hiểm lắm!

Hắn vừa dứt lời thì cỗ xe đã cán trúng một tảng đá lớn và lật qua một bên. Tôi và Horemheb bị hất ngã nhào ra khỏi xe. Chiếc trục xe gẫy lìa nên hai con ngựa được tự do, vùng lên chạy mất. Con sư tử mải miết đuổi theo hai con ngựa nên không để ý đến chúng tôi. Horemheb bình tĩnh rút cây giáo dài bên hông xe:

- Mày đi sát bên t*o, mình chạy lên phía hốc đá trên kia.

Chúng tôi chạy dọc theo sườn núi. Horemheb nói nhỏ:

- Nếu con sư tử không đuổi kịp hai con ngựa, nó sẽ quay về đây. Chúng ta cần rời khỏi chỗ này càng sớm càng tốt.

Chúng tôi tiếp tục di chuyển theo những tảng đá nhấp nhô bên sườn núi, thỉnh thoảng lại đứng lại để thở. Horemheb vừa đi vừa quan sát địa thế, sau cùng hắn tìm được một hốc đá nhỏ:

- Chúng ta tạm chui vào đây nghỉ ngơi, đợi đến sáng sẽ tìm đường ra khỏi sa mạc.

Lúc trước vì mải lo chạy nên tôi không để ý đến thời tiết. Sau khi chui vào trong hốc đá được một lúc thì tôi mới cảm thấy khí hậu sa mạc về đêm rất lạnh. Mặc dù đã cố thu mình lại nhưng tôi vẫn run lên, răng đập vào nhau lập cập. Horemheb bật cười:

- Mày cẩn thận kẻo sư tử nghe tiếng răng mày mà tìm đến thì nguy đấy!

Tôi thầm phục trong tình trạng nguy hiểm như thế mà Horemheb vẫn bình tĩnh khôi hài được. Horemheb nắm chặtchiếc giáo nhọn trong tay:

- Mày hãy ngủ để lấy sức vì ngày mai chúng ta cần rời khỏi nơi đây.

Tôi ngập ngừng:

- Này Horemheb, t*o tiếc... không quen điều khiển xe ngựa nên...

Horemheb bỗng trở nên lạnh lùng:

- Mày tưởng t*o không biết việc đó sao?

- Cái gì? Mày biết t*o chưa bao giờ điều khiển xe ngựa mà vẫn...

Horemheb chăm chú nhìn tôi. Trong bóng đêm chập chờn, cặp mắt hắn sáng quắc lên một cách kỳ lạ. Sau cùng hắn trầm giọng nói:

- Này Sinuhe, t*o rất ân hận đã đưa mày vào tình trạng này. Đáng lẽ ra t*o không nên rủ mày đi như thế, thật ra t*o không còn muốn sống nữa nên...

Tuy hắn không nói hết câu nhưng tôi hiểu. Thì ra tâm trạng bình tĩnh kỳ lạ của hắn sau cơn mê sảng tuyệt vọng vừa qua chỉ là một sự che đậy và cuộc đi săn sư tử này là cách đi tìm cái chết của Horemheb. Tôi run giọng:

- Như vậy... đi săn sư tử không... giản dị như mày nói?

Horemheb gật đầu cười nhạt:

- Mày tưởng săn sư tử dễ như đi câu cá hay sao? Này Sinuhe, mày quả là một đứa bé ngây thơ khờ dại.

Cả hai chúng tôi im lặng nhìn nhau. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩa riêng. Sau cùng Horemheb lên tiếng:

- Lúc trước t*o quả có ý định muốn tìm cái chết. Nhưng bây giờ t*o lại thấy chết không dễ như t*o nghĩ. Trong tình trạng nguy hiểm này t*o lại muốn sống hơn bao giờ hết. Này Sinuhe, mày cứ yên trí, thằng Horemheb này đã thề sẽ bảo vệ cho mày thì nó sẽ làm tròn điều đó.

Tôi im lặng, đầu óc quay cuồng với bao ý nghĩ nhưng sau cùng tôi cũng lên tiếng:

- Này Horemheb, chúng ta đã thề sống chết có nhau thì dù việc xảy ra thế nào, t*o cũng không trách mày. t*o sẽ tận tâm giúp mày như mày đã lo cho t*o vậy.

Horemheb có vẻ cảm động lắm. Hắn im lặng một lúc rồi nói nhỏ:

- Mày nên ngủ một chút đi, trời sắp sáng rồi.

Tôi chợp mắt được một lúc thì Horemheb đánh thức tôi dậy:

- Chúng cần lên đường ngay. Trời đã sáng rồi.

Chúng tôi rời hốc đá đi dọc theo hẻm núi. Mặt trời vừa nhô cao, tỏa ra muôn ngàn tia sáng chói lọi khiến tôi cảm thấy choáng váng, hoa cả mắt. Đi được một quãng, bỗng Horemheb giật mình chỉ về phía trước:

- Sinuhe, nhìn kìa!

Trên tảng đá lớn gần đó, một người trong chiếc áo khoác trắng đang xếp bằng ngồi yên quay mặt về phía mặt trời mọc. Horemheb ngạc nhiên:

- Tại sao giữa sa mạc đầy thú dữ lại có kẻ dám đến đây?




Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




đến trang 70

Thanked by 1 Member:

#5 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6740 Bài viết:
  • 5562 thanks

Gửi vào 09/07/2020 - 06:56

Chúng tôi rảo bước về phía người kia nhưng y vẫn ngồi yên bất động. Dường như y không để ý đến chúng tôi mà chỉ tập trung vào vầng thái dương trước mặt.

Khi đến cách người đó khoảng mấy thước thì tôi giật mình. Hình như người này có một cái gì quen thuộc lắm! Bất chợt tôi nổi gai ốc khắp mình vì nhận ra người đang ngồi kia chính là kẻ đã chui vào nằm chết trong cỗ quan tài ở đền cấm Abydos. Tôi không thể quên khuôn mặt dài như mặt ngựa và đôi lông mày rậm rạp đó được. Nhưng tại sao lại như thế vì rõ ràng hắn đã chết kia mà? Chính tay tôi đã bắt mạch và thấy tim hắn đã ngưng đập từ lâu.

Horemheb bước đến trước mặt người kia:

- Này, ông bạn làm gì ở đây thế?

Người thanh niên vẫn ngồi yên lặng, hai mắt mở lớn như đang tập trung tinh thần vào một cái gì. Tôi định lên tiếng thì một tiếng gầm dữ dội vang lên. Con sư tử đã đánh hơi chúng tôi và tìm đến. Horemheb vội vã nói:

- Mày và thằng kia chạy đi, để t*o cản đường cho.

Nhưng không kịp nữa rồi! Con sư tử đã xông đến trước mặt chúng tôi, vừa đi vừa gầm gừ rất dữ dội. Horemheb im lặng ghì chặt cây giáo trong tay. Thời gian dường như ngưng lại. Tôi luống cuống muốn chạy nhưng vì qua sợ hãi nên không sao nhấc chân được.

Con sư tử chăm chú nhìn chúng tôi rồi bất chợt phóng mình lao thẳng vào tôi. Horemheb chỉ chờ có thế, hắn nghiêng người vung tay phóng thẳng ngọn giáo vào ngực con thú. Con sư tử bị lưỡi giáo xuyên trúng ngực nhưng sức phóng của nó quá mạnh nên nó vẫn vồ trúng tôi. Tôi ngã ngửa, đè cả lên mình gã thanh niên đang ngồi kia. Mặc dù bị trọng thương, nhưng con sư tử vẫn còn sức, nó há miệng cắn mạnh vào tay tôi. Horemheb quát lớn rồi nhảy lên nắm chặt lấy bờm con sư tử, tay kia hắn rút dao liên tiếp đâm vào cổ họng con thú. Máu con vật phun ra có vòi. Nó giẫy giụa một lúc rồi nằm im không cử động nữa.

Tôi lồm cồm ngồi dậy, khắp mình bị máu sư tử phun ướt đẫm. Tôi quay qua định đỡ gã thanh niên kia dậy nhưng thấy gã vẫn nằm yên, miệng sùi bọt, lưỡi thè ra và chân tay thì co quắp lại. Horemheb ngạc nhiên kêu lớn:

- Nó cũng bị sư tử vồ trúng hay sao?

Tôi hoảng hốt lắc đầu:

- Không. Có lẽ là t*o ngã đè lên người nó nhưng... tại sao lại thế này?

Horemheb và tôi cúi xuống xem xét. Chỉ một thoáng giây, tôi biết ngay lý do:

- Có lẽ vì kinh hãi nên hắn lên cơn động kinh, chân tay co quắp, miệng sùi bọt ra như vậy. Horemheb, mày xé cho t*o một miếng vải để t*o đút vào miệng hắn, nếu để hắn cắn trúng lưỡi thì phiền lắm.

Là y sĩ nên tôi quen thuộc với những trường hợp khẩn cấp như thế này. Tôi cắm cúi săn sóc cho gã thanh niên cho đến khi nghe Horemheb kêu lớn mới ngẩng đầu nhìn lên. Một đoàn quân võ trang ở đâu kéo đến, cầm đầu là một sĩquan lớn tuổi, khuôn mặt khắc khổ đầy những nét nhăn. Ông ta quát lớn:

- Hãy bắt những tên phản loạn kia!

Horemheb giật mình phản đối:

- Cái gì vậy? Chúng tôi đã làm gì?

Hắn chưa dứt lời đã bị toán lính xông đến đè nghiến xuống đất, trói chặt tay chân lại. Tôi vừa đứng lên thì cũng bị chung số phận. Tôi vùng vẫy kêu lớn nhưng bị đập một gậy lên đầu khiến tôi bất tỉnh.


° ° °



Tôi không biết mình ngất đi bao lâu nhưng khi tỉnh dậy, tôi thấy chân tay bị trói chặt, không sao cử động được. Quanh chỗ tôi nằm cũng có hàng chục người bị trói chặt như vậy, mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Tôi nghe văng vẳng tiếng gào thét của những người bị tra tấn cùng tiếng gầm rú ghê rợn của những con sư tử đói. Đầu óc tôi trở nên hoang mang. Tôi cố ôn lại chuyện xảy ra nhưng có lẽ vì bị đập mạnh vào đầu nên tôi thấy choáng váng, không nhớ được gì rõ rệt.

Tôi nằm được khoảng nửa ngày thì một toán lính ở đâu bước vào lôi chúng tôi dậy, xiềng bằng những sợi xích rất nặng rồi áp tải chúng tôi đi theo những con đường hầm ngoằn ngoèo, sâu hun hút, mùi tanh tưởi bốc lên khắp nơi. Một tù nhân vừa lên tiếng đã bị người cai ngục đập cho một gậy ngã nhào. Horemheb đi sát bên cạnh tôi như để che chở và ra hiệu cho tôi đừng nói gì.

Sau một lúc loanh quanh trong đường hầm, chúng tôi được đưa vào một căn phòng lớn có rất nhiều binh sĩ võ trang cẩn thận. Đám tù nhân được lệnh phải quỳ cả xuống đất trước mặt một sĩ quan trông rất oai vệ. Dưới ánh đuốc chập chờn, tôi nhận ra đó là người chỉ huy già có khuôn mặt khắc khổ hôm trước. Ông ta lên tiếng:

- Chúng ta có đầy đủ bằng chứng về âm mưu phản nghịch của các ngươi và chiếu theo luật pháp, tội phản nghịch phải xử tử hình...

Ông quay qua nhìn một tù nhân đang quì dưới đất, gằn giọng:

- Hoàng thân Kira, ông đâu có ngờ có ngày hôm nay phải không?

Người kia tức giận, ngửng mặt lên nói như quát:

- Smenkere, tên phản phúc! Thần Seth sẽ giết mày!

Vừa nghe đến tên Smenkere tôi đã giật mình. Phải chăng đây là người mà cha mẹ tôi vẫn thường nhắc đến? Smenkere cười ha hả:

- Này Kira, ngươi mới là kẻ phản bội. Từ trước đến nay triều đình vẫn đối đãi với ngươi tử tế, sao ngươi dám làm phản? Hoàng đế Pharaoh chết chưa lạnh mồ mà ngươi đã âm mưu soán nghịch. Tội rành rành ra đó mà ngươi dám cãi sao?

Hoàng thân Kira gầm lên:

- Hoàng tử Amenophis mất tích đã cả năm và thái hậu Taiya là đàn bà, không thể cầm quyền nhiếp chính được nên... nên...

Smenkere cười nhạt:

- Bởi thế nên người mới đòi làm Pharaoh chứ gì?

Hoàng thân Kira tức giận:

- Ai Cập không thể thiếu người lãnh đạo được. Hoàng đế Pharaoh qua đời, hoàng tử Amenophis mất tích. Ta là em ruột hoàng đế, dĩ nhiên ngôi vị Pharaoh phải thuộc về ta. Smenkere, mày không làm Pharaoh được. Lẽ ra ta phải giết mày từ lâu... Đồ phản nghịch!

Smenkere cười lớn:

- Ngươi lầm rồi! Smenkere này đâu dám đòi làm Pharaoh.

Hoàng thân Kira ngạc nhiên:

- Nhưng... nhưng thái hậu Taiya cũng không thể làm Pharaoh được. Chúng ta không thể để lịch sử tái diễn việc Pharaoh Hatshepshut...

Smenkere bật cười:

- Ai bảo ngươi là thái hậu Taiya muốn làm Pharaoh?

Hoàng thân Kira sửng sốt:

- Vậy chứ còn ai vào đây nữa?

Smenkere gằn giọng:

- Còn ai xứng đáng với ngôi vị Pharaoh hơn hoàng tử Amenophis?

Hoàng thân Kira giật mình, lắp bắp:

- Mày nói gì? Hoàng tử... hoàng tử Amenophis đã mất tích cả năm nay rồi. Không lẽ... không lẽ...

Smenkere đắc chí:

- Đúng thế. Ta đã tìm ra hoàng tử Amenophis và suy tôn ngài lên địa vị Pharaoh. Lễ đăng quang đã được cử hành sáng hôm nay rồi. Này Kira, tội soán nghịch như ngươi phải quăng vào hầm sư tử đói mới đúng...

Smenkere đang hứng chí thì một người lính hấp tấp chạy vào báo cáo:

- Thưa ngài, hoàng đế Pharaoh muốn gặp hoàng thân Kira.

Smenkere biến sắc. Khuôn mặt nhăn nheo của hắn co rúm lại như vừa gặp một chuyện gì ghê gớm lắm. Hắn chưa kịp nói gì thì một toán lính võ trang ở đâu đã xông vào, đứng dàn ra hai bên để chừa lối đi cho một người mặc quần áo trắng, khoan thai chậm rãi bước vào. Người này không phải ai xa lạ mà chính là gã thanh niên có khuôn mặt dài và đôi lông mày rậm, kẻ đã mắc chứng động kinh trong sa mạc.

Smenkere và toán lính vội quì cả xuống. Người thanh niên thong thả nói:

- Này Smenkere, ông đang nói chuyện gì với hoàng thân Kira vậy?

Hoàng thân Kira kêu lớn:

- Cháu Amenophis đấy ư? Ta tưởng cháu bị mất tích...

Smenkere quát lớn:

- Tên phản loạn kia! Ngươi không được hỗn! Đây là hoàng đế Pharaoh, vị lãnh đạo tối cao của Ai Cập, người đã được các thần linh lựa chọn...

Người thanh niên gạt đi:

- Này Smenkere, đây không phải là chốn triều đình. Hơn nữa, lúc này ta không đến đây với tư cách Pharaoh mà chỉ là của một người cháu đến hỏi thăm chú ta, hoàng thân Kira mà thôi.

Smenkere nghiêm giọng nhắc khẽ:

- Ngài đã lên ngôi Pharaoh rồi. Một Pharaoh lúc nào cũng là Pharaoh, lúc nào cũng là thần linh tối cao, lãnh đạo và cai quản Ai Cập...

Người thanh niên mỉm cười, từ tốn nói:

- Ngươi không phải nói nhiều, ta biết việc đó. Quân sĩ, hãy mau cởi trói cho những người này, ta muốn nói chuyện với họ.

Trước cặp mắt khó chịu của Smenkere, nhóm quân sĩ vội vã bước đến cởi trói cho mọi người kể cả tôi và Horemheb. Hoàng đế Pharaoh bước đến cạnh hoàng thân Kira, nói bằng giọng từ tốn, nhẹ nhàng:

- Tuy chú đã làm đổ máu nhiều người vô tội nhưng đó cũng là do hoàn cảnh mà thôi. Lúc cha cháu qua đời, cháu không có mặt tại triều. Một nước không thể thiếu người lãnh đạo được nên cháu chắc chú cũng vì bất đắc dĩ mà phải làm thế. Cháu tin rằng đã có những sự hiểu lầm...

Hoàng thân Kira ấp úng không nói nên lời. Hoàng đế Pharaoh thong thả nói tiếp:

- Tuy nhiên khi cha cháu vừa qua đời, chú đã cho người vào cung ám sát mẹ cháu và em Baketamon. Chuyện này chắc phải có những dự tính, âm mưu từ trước. Vậy chú nghĩ như thế nào?

Hoàng thân Kira nghẹn họng không biết nói gì. Hoàng đế Pharaoh vẫn nhẹ nhàng nói tiếp:

- Nếu đã có âm mưu từ trước thì có lẽ cũng do sự thiếu suy xét mà thôi. Luật pháp Ai Cập đã ghi rõ tội phản nghịch phải tử hình nhưng máu đã chảy nhiều rồi, và cháu không muốn thấy máu chảy nữa.

Smenkere vội kêu lớn:

- Xin Hoàng đế hãy xét lại, luật pháp là do các vua Pharaoh đời trước đặt ra...

Hoàng đế Pharaoh quay qua nhìn Smenkere, nói một cách oai vệ:

- Ta biết điều này nhưng phải chăng ta cũng là Pharaoh? Phải chăng chỉ có Pharaoh mới có thể sửa đổi được luật pháp của các Pharaoh khác? Các ngươi hãy nghe lệnh của ta đây: "Hoàng thân Kira sẽ được đưa đến tu viện Karnak, tại đây ông sẽ làm tu sĩ cho đến ngày cuối cuộc đời, để ăn năn về tội lỗi của mình. Tên tuổi của ông sẽ bị xóa bỏ vĩnh viễn trên mọi bia đá, lăng tẩm, đền đài và các thạch trụ. Dòng họ Amenophis của chúng ta không có những người phản nghịch như vậy."

Hoàng đế Pharaoh vừa nói vừa đưa tay lên, trong tay ông cầm cái vương ấn bằng vàng chói lọi. Toàn thể quân sĩ vội quì mọp xuống, một người thư ký (Scribe) vội vã cắm cúi ghi chép lệnh này lên tấm bảng đá. Truyền thống Ai Cập vẫn cho ghi chép lại mọi mệnh lệnh của Pharaoh lên bia đá như vậy.

Hoàng thân Kira run rẩy định nói gì nhưng hoàng đế Pharaoh đã phất tay ra lệnh, hai người lính vội vã dìu ông nầy ra cửa ngay. Smenkere im lặng nhưng khuôn mặt đầy vết nhăn của hắn trở nên nhăn nhúm hơn trước.

Hoàng đế Pharaoh quay qua những người khác, truyền lệnh:

- Các ngươi đều là tướng sĩ của triều đình nhưng đã theo hoàng thân Kira làm phản, gây đổ máu cho quân sĩ và dân lành vô tội. Đáng lẽ các ngươi đều phải bị tử hình nhưng ta quyết định tha tội chết, chỉ bắt các ngươi trở thành nô lệ, đầy đi các công trường xây cất lăng tẩm, đền đài để chuộc tội.

Hoàng đế phất tay, những người này đều bị áp tải đi ra bên ngoài nhưng Smenkere đã giơ tay chỉ hai đứa chúng tôi:

- Khoan đã! Hai thằng này đã phạm tội đụng chạm vào thân thể của hoàng đế Pharaoh, tội này phải bị xử tử.

Horemheb vội vã lên tiếng:

- Xin Hoàng đế hãy nghe tôi nói. Lúc đó chúng tôi không biết ngài là Pharaoh và trong tình trạng đó, chính chúng tôi đã cứu ngài khỏi nanh vuốt sư tử...

- Nanh vuốt sư tử ư? Này Smenkere, chuyện này thế nào?

Smenkere ngần ngại một lúc rồi nói:

- Quả có xác một con sư tử gần đó nhưng...

Horemheb lên tiếng:

- Ngài đang ngồi trên một tảng đá lớn và bị một con sư tử tấn công, chính chúng tôi đã phải tranh đấu với thú dữ để cứu mạng ngài. Sau đó ngài bị...

Smenkere quát lớn:

- Câm miệng! Không ai được nói về tình trạng của...

Hoàng đế Pharaoh gật đầu như đã hiểu:

- Thì ra thế! Quan ngự y đã nói rõ về tình trạng của ta và nếu không có sự chữa trị cấp thời thì chắc ta đã qua đời rồi.

Sắc mặt của Smenkere trở nên nhợt nhạt, hình như hắn muốn nói gì nhưng lại ngập ngừng không lên tiếng. Hoàng đế Pharaoh mỉm cười:

- Quan ngự y tỏ ra khen ngợi tài chữa bệnh của các ngươi. Phải chăng các ngươi cũng là y sĩ?

Horemheb mau mắn trả lời:

- Thưa hoàng đế, Sinuhe là y sĩ giỏi nhất thành Thebes.

Hắn đã tốt nghiệp thủ khoa tại Abydos...

Khuôn mặt của hoàng đế Pharaoh bỗng trở nên rạng rỡ, ông mỉm cười:

- Trường khoa học tại Abydos ư? Hay lắm, hay lắm...

Horemheb tiếp tục:

- Hắn là con của Sen Moot, cha hắn cũng là một y sĩ giải phẫu nổi tiếng tại Thebes.

Khi tên của cha tôi vừa được nhắc đến, Smenkere bỗng giật nẩy mình. Cặp mắt hắn trợn lên, nửa ngạc nhiên nửa tức giận. Toàn thân hắn run bắn lên khiến hắn phải nắm chặt hai tay vào nhau để giữ bình tĩnh. Tự nhiên tôi cảm thấy thương hại người sĩ quan đã yêu say đắm mẹ tôi khi xưa. Dường như có một động năng nào không rõ thúc giục, tôi bèn lên tiếng cải chính:

- Kính thưa hoàng đế, thật ra kẻ này không phải là con ruột của y sĩ Sen Moot mà chỉ là một đứa bé vô thừa nhận...

Tôi kể lại chuyện cha mẹ tôi đã vớt tôi từ dưới sông như thế nào nhưng dĩ nhiên giữ ý, không nói gì về mối tình tuyệt vọng của Smenkere cả. Hoàng đế Pharaoh nhìn tôi thích thú:

- Hay lắm! Câu chuyện ngươi kể rất hấp dẫn. Ngày mai ngươi hãy vào trong cung để kể chuyện này cho Nefertiti, ta chắc nàng sẽ thích lắm. Ngoài ra ta cũng muốn thưởng công cho ngươi một cách xứng đáng.

Tôi vội vã cúi đầu thưa:

- Xin cám ơn hoàng đế đã có lòng nghĩ đến, nhưng kẻ này đã phát nguyện sống thanh bần, tuyệt sở hữu để phụng sự những người nghèo khó.

Hoàng đế Pharaoh tỏ ra ngạc nhiên:

- Ngươi không muốn nhận phần thưởng hay một đặc ân gì sao?

Tôi chỉ vào Horemheb:

- Kính thưa hoàng đế, kẻ này không dám xin đặc ân gì nhưng người bạn này, người đã giết sư tử để cứu mạng hoàng đế, vẫn mong được làm lính ngự lâm. Xin ngài thu dụng hắn.

Hoàng đế Pharaoh quay qua nhìn Horemheb rồi gật đầu:

- Phải lắm. Ngươi cũng có công cứu mạng ta. Một kẻ dám đương đầu với sư tử thì cũng không phải là tay tầm thường. Ta sắc phong cho ngươi làm sĩ quan chỉ huy đội ngự lâm trong nội cung của ta.

Đây quả là một đặc ân lớn lao, vượt ngoài sự mong ước của Horemheb. Hắn vội vã quì mọp xuống đất:

- Xin cám ơn hoàng đế. Horemheb này nguyện đem sinh mạng mình để bảo vệ cho ngài. Dù phải vào sinh ra tử, kẻ này quyết trung thành với ngài mãi mãi.

Hoàng đế Pharaoh quay qua nhìn Smenkere:

- Này Smenkere, công lao của ông không nhỏ. Ngày mai thiết triều ta sẽ thưởng công cho ông xứng đáng.

Smenkere im lặng quì xuống cám ơn nhưng nét mặt của hắn vẫn lạnh lùng, không cảm xúc. Hoàng đế Pharaoh gật đầu có vẻ hài lòng rồi thong thả bước ra ngoài, đám quân sĩ hộ tống vội bước theo.

Smenkere chỉ vào Horemheb, nói với một người lính hầu:

- Ngươi hãy đưa người này vào cung nhận chức theo lệnh Hoàng đế. Ta muốn nói chuyện riêng với Sinuhe.

Horemheb vỗ nhẹ lên vai tôi ngỏ ý cảm kích:

- Mày cứ yên chí, ngày mai t*o sẽ gặp mày trong cung.

Sau khi Horemheb và nhóm quân sĩ rời căn phòng, Smenkere nhìn tôi chằm chặp rồi ra hiệu cho tôi ngồi xuống ghế:

- Thì ra ngươi không phải là con ruột của Sen Moot? Nhưng ngươi có biết ta là ai không?

- Tôi có nghe cha mẹ tôi nói về ông.

Smenkere ngạc nhiên:

- Cha mẹ ngươi đã nói gì về ta?

- Tôi biết ông ngày trước là sĩ quan chỉ huy quân đội cho ông ngoại tôi. Ông vẫn nuôi mộng làm rể gia đình Oka nhưng chuyện không thành...

Smenkere lạnh lùng:

- Nếu ngươi biết vậy, tại sao lúc nãy lại không kể chuyện này?

- Cha tôi thường nói: "Chuyện đã qua hãy để nó chìm vào quá khứ thì hơn. Nếu không ích lợi thì chẳng nên nói ra". Thật ra cha mẹ tôi đều là những người lý tưởng và họ chỉ mong được sống trọn vẹn với lý tưởng cao đẹp đó mà thôi...

Tôi thành thật kể lại lời phát nguyện sống trong sạch của cha mẹ tôi và những sự việc phức tạp xảy ra sau đó. Smenkere im lặng nghe, tuy khuôn mặt của hắn vẫn nhăn nhó nhưng ánh mắt đã bớt hung hãn và dần dần trở nên mơ màng như hồi tưởng những kỷ niệm quá khứ. Hắn im lặng một lúc rất lâu rồi thở dài:

- Ta không ngờ sự việc lại xảy ra như vậy. Cám ơn ngươi đã cho ta biết những chi tiết mà ta không hề hay biết. Ta cũng cám ơn ngươi đã có ý, không nhắc gì đến chuyện quá khứ của ta. Sen Moot nói đúng, việc đã qua hãy để nó chìm vào quá khứ thì hơn. Ngươi hãy về nói với cha mẹ ngươi rằng từ nay Smenkere này sẽ không bao giờ làm phiền những người có lý tưởng thanh cao như vậy nữa.

Smenkere im lặng một lúc rồi thân mật hỏi:

- Ngươi có công cứu mạng Pharaoh thì cũng nên xin một chức vụ trong triều.

- Không đâu. Tôi đã phát nguyện theo gót cha tôi phục vụ những người nghèo khó và sống thanh bần, tuyệt sở hữu. Tôi không nhận chức vụ gì đâu.

- Thế còn Horemheb, bạn của ngươi, thì sao?

- Horemheb vẫn nuôi mộng làm quân nhân nhưng tôi chỉ mong làm y sĩ sống với lý tưởng phụng sự mà cha mẹ tôi đã đề xướng. Tôi sẽ trở về Thebes tiếp tục công việc của cha tôi.

Smenkere im lặng quan sát tôi một lúc rồi gật đầu, nói một cách thong thả:

- Hay lắm! Ta mong ngươi có thể sống trọn vẹn với cái lý tưởng cao đẹp ấy như cha mẹ của ngươi vậy. Này Sinuhe, con đường danh lợi mà chúng ta đang theo đuổi có những khó khăn trở ngại của nó, nhưng con đường tinh thần màngươi muốn theo đuổi còn khó khăn hơn gấp bội. Ngươi còn trẻ, nhiều nhiệt huyết và lý tưởng nhưng ngươi cần biết rằng con đường mà ngươi muốn đi thật không dễ dàng chút nào đâu. Ngươi hãy suy nghĩ cho kỹ trước khi chọn lựa và khi đã quyết định một con đường nào thì hãy đi cho đến cùng. Đừng để xao lãng. Một ngày nào đó ngươi sẽ hiểu điều ta nói.


Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



đến trang 83

Thanked by 1 Member:

#6 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6740 Bài viết:
  • 5562 thanks

Gửi vào 11/07/2020 - 07:09

CHƯƠNG 4



Horemheb đứng chờ tôi trước cửa cung điện trong bộ quân phục oai nghiêm. Hắn tươi cười vỗ mạnh lên vai tôi:

- Này Sinuhe, có bao giờ mày nghĩ t*o sẽ trở nên một sĩ quan chỉ huy Ngự lâm quân cho hoàng đế Pharaoh như thế này không?

Tôi vui mừng nắm chặt tay bạn:

- T*o mừng cho mày đã đạt được điều mong ước.

- Hôm nay hoàng đế Pharaoh thiết triều, các quan khắp nơi kéo về chúc mừng và t*o đã cho quân sĩ đề phòng cẩn thận.

- Tại sao lại như thế?

Horemheb nghiêm mặt:

- Khi Pharaoh đời trước lâm chung, thái tử vắng mặt, triều đình rối loạn vì không người thừa kế. Các quan chia phe nhóm tranh giành quyền lực nên tang lễ hoàng đế phải cử hành gấp rút. Vì thiếu chuẩn bị nên kế hoạch chôn sống nô lệ bị tiết lộ khiến nhóm phu xây mộ và nô lệ nổi loạn. Hoàng thân Kira lợi dụng tình trạng này, kéo quân vào Memphis, lấy cớ dẹp loạn để tự xưng là Pharaoh.

Trong mấy tuần qua đã có nhiều cuộc giao tranh dữ dội giữa nhóm Ngự lâm quân và nhóm phản loạn này. Hoàng thân Kira âm mưu chia quyền với hoàng thân Oka nhưng ông này tương kế tựu kế, cho tướng Smenkere mang quân về thủ đô, giả vờ theo phe Kira rồi nhân cơ hội bắt trọn nhóm phản loạn. Tướng Smenkere điều tra và biết thái tử đang ẩn tu trong sa mạc nên rước ngài về lên ngôi Pharaoh. Mặc dù tình hình bên ngoài có vẻ ổn định nhưng bên trong vẫn còn nhiều rắc rối lắm...

- Tại sao mày biết nhiều vậy?

Horemheb hãnh diện trả lời:

- Ngay sau khi được phong chỉ huy Ngự lâm quân, t*o đã được tường trình đầy đủ về tình hình an ninh trong nước. Suốt đêm qua t*o đã bí mật điều động binh sĩ bổ sung vào những chỗ trọng yếu.

- Mày giỏi quá! t*o thật không ngờ.

Horemheb vỗ mạnh vào vai tôi:

- Này Sinuhe có lẽ vận may của t*o đã đến và t*o không bỏ lỡ cơ hội ngàn năm một thuở này đâu.


Tôi chăm chú nhìn người bạn mà tôi quen biết từ thuở nhỏ. Trong bộ quân phục, Horemheb trông hùng dũng, oai nghiêm khác hẳn khi xưa. Toàn thân hắn dường như toát ra một sức mạnh, một niềm tự tin mãnh liệt mà trước đó tôi không nhận thấy. Horemheb đưa tôi vào một căn phòng rấtlớn, trần thiết nguy nga tráng lệ. Trong phòng, từng nhóm quan lại đang tụ tập thì thầm bàn tán nhưng mặt người nào cũng lộ rõ vẻ lo âu. Nhiều toán quân sĩ đi qua đi lại, gươm giáo sáng ngời, canh phòng cẩn thận. Một hồi chuông trống vang lên, hai hàng quân sĩ hùng dũng bước vào cung điện, đi đầu là tướng Smenkere trong bộ quân phục oai nghiêm, bên ngoài khoác chiếc áo choàng may bằng da báo.

Ông đến trước ngai vàng, hô lớn:

- Xin các thần linh phù hộ cho Pharaoh. Xin mời hoàng đế giáng lâm.

Một hồi chuông trống vang lên, các quan vội vã quì mọp xuống đất. Hoàng đế Pharaoh ở trong bước ra, phong thái ung dung chậm rãi. Bên cạnh ông là hoàng hậu Nefertiti và sau đó là các hoàng phi công chúa. Mỗi người tiến thẳng vào các vị trí nhất định và an tọa.

Smenkere hô lớn:

- Kính chúc hoàng đế Pharaoh, vị thần lãnh đạo dân Ai Cập, an khang vạn tuế.

Các quan cùng hô lớn những lời chúc mừng. Hoàng đế Pharaoh mỉm cười:

- Các ngươi hãy bình thân và đứng dậy.

Smenkere lật đật can thiệp:

- Trước mặt Pharaoh, vị thần linh lãnh đạo Ai Cập, mọi người đều phải quỳ để tỏ lòng kính phục...

Hoàng đế Pharaoh lên tiếng:

- Ta biết đó là phong tục từ ngàn xưa nhưng ta không thích trông thấy mọi người phải quì như thế. Kể từ nay vào triều, các ngươi hãy đứng...

Mỗi mệnh lệnh của Pharaoh đều là luật pháp của quốc gia nên người thư ký triều đình đã vội quì xuống nghi chép. Các quan ngập ngừng đứng lên nhưng người nào cũng ngơ ngác, vừa ngạc nhiên, vừa sợ hãi. Đây là buổi thiết triều đầu tiên của một vị hoàng đế, lên ngôi chưa đầy một ngày, nhưng đã ban hành ngay một mệnh lệnh khác với truyền thống. Trong hoàn cảnh xáo trộn bất an hiện nay, không ai biết ông vua này sẽ còn ban hành những lệnh gì nữa đây.

Hoàng đế Pharaoh phất tay ra hiệu cho Smenkere:

- Này Smenkere, ông hãy bắt đầu tường trình tình hình trong nước đi.

Smenkere lạnh lùng bước ra, tay cầm một cuộn giấy chỉ thảo giơ lên cao:

- Đây là danh sách và hồ sơ những quan lại trong triều đã tư thông với hoàng thân Kira làm phản. Hạ thần đã điều tra kỹ lưỡng và có đầy đủ bằng chứng qua những văn kiện, thư từ liên lạc giữa các quan và phe nhóm phản loạn. Luật pháp từ ngàn xưa đã ghi rõ: Tội phản loạn phải xử tử hình. Kính xin hoàng đế ban chỉ thị để hạ thần thi hành pháp luật.

Horemheb ghé tai tôi nói nhỏ:

- Phải lắm! Nếu lúc này không thẳng tay tiêu diệt đám phản thần thì còn đợi đến lúc nào? t*o chắc trong đám quan triều kia, nhiều đứa đang run rẩy vì sợ hãi.

Hoàng đế Pharaoh dõng dạc lên tiếng:

- Khi thân phụ ta qua đời, ta không có mặt trong triều. Một quốc gia không thể thiếu người lãnh đạo, dù chỉ một ngày, nên việc các ngươi ủng hộ hoàng thân Kira cũng là điều dễ hiểu. Hiện nay tình hình Ai Cập chưa được yên ổn, ở phía bắc thì nước Hitites đang đe dọa vùng biên giới; ở phía nam thì xứ Nubia cũng đang chuẩn bị chiến tranh. Đây không phải là lúc người Ai Cập chúng ta có thể chia rẽ được. Ta sẵn sàng bỏ qua mọi việc cũ và mong từ nay các quan triều hãy vì Ai Cập, hãy vì ích lợi chung của toàn dân, đoàn kết lại để chống ngoại xâm. Này Smenkere, ngươi hãy đốt ngay cuốn giấy chỉ thảo đó đi, ta không muốn xem nó...

Smenkere ngạc nhiên sững người, khuôn mặt vốn nhăn nhó của y lại càng nhăn nhó hơn. Y run rẩy nói:

- Kính xin hoàng đế hãy xét lại, pháp luật đã ghi rõ...

Hoàng đế Pharaoh giơ cao chiếc vương ấn lên:

- Đây là lệnh của ta. Quân bay đâu! Hãy đốt ngay cuốn giấy kia đi cho ta.

Một người lính cầm bó đuốc bước đến. Smenkere run tay châm lửa đốt. Cuốn giấy chỉ thảo bắt lửa cháy bùng lên. Toàn thể các quan trong triều đều nín thở, vài người thở ra nhẹ nhõm.

Horemheb lắc đầu nói nhỏ vào tai tôi:

- Hỏng rồi! Thế là hoàng đế nuôi ong tay áo mất rồi?

Từ trước đến nay tôi vẫn phục sự nhận xét của Horemheb nhưng không hiểu sao lần này tôi lại không đồng ý với hắn. Tôi thán phục hành động cao cả phi thường, vì quyền lợi chung mà quên việc riêng của vị hoàng đế còn trẻ kia. Cử chỉ trầm tĩnh, bình thản và phong thái oai nghiêm của ngài đã chinh phục được tôi.

Smenkere đứng sững nhìn cuộn giấy đang cháy thành tro, rơi lả tả dưới đất. Bàn tay y run lên khiến y phải nắm chặt hai tay vào nhau để giữ bình tĩnh.

Hoàng đế Pharaoh nhìn suốt đám triều thần rồi thong thả tuyên bố:

- Chuyện đã qua, cấm không ai được nhắc đến nữa. Từ nay các ngươi phải đoàn kết, nhất tâm thi hành bổn phận đã được đặt ra.

Này Smenkere, công lao dẹp loạn của ông không nhỏ. Hôm nay ta sắc phong cho ông làm tể tướng, chỉ huy tất cả các quan trong triều. Ta cho phép ông được đổi họ, được coi là người thuộc dòng họ Amenophis. Ngoài ra, ta còn ban cho ông tất cả đất đai, tài sản của hoàng thân Kira nữa. Từ nay ông sẽ là hoàng thân Aya Smenkere Amenophis.

Đây quả là một đặc ân hết sức bất ngờ. Từ xưa đến nay, chức vị tể tướng chỉ dành riêng cho các hoàng thân quốc thích, những người hết sức thân tín cật ruột trong họ Amenophis mà thôi. Một người ngoài, dù công lớn đến đâu, cũng chỉ có thể hy vọng làm quan triều hay làm tướng trấn giữ một địa hạt nào đó. Việc nhận một người ngoài vào trong họ là điều chưa hề xảy ra. Một lần nữa, vị tân hoàng đế Pharaoh đã ban hành một lệnh mới khác hẳn truyền thống cổ xưa.

Smenkere vội quì mọp xuống để nhận chức, tôi thấy rõ hai tay y run lẩy bẩy vì cảm động. Khi trước Smenkere chỉ mong lấy mẹ tôi để tạo sự liên hệ với hoàng tộc, có lẽ hắn đã ấp ủ giấc mộng trở thành một hoàng thân như thế này từ lâu. Không hiểu sao Smenkere quay lại nhìn tôi, hình như có một biến chuyển lạ lùng nào đó nên khuôn mặt nhăn nhó của hắn bỗng rạng rỡ một nụ cười.

Hắn lên tiếng:

-Kính thưa Pharaoh, một người khác cũng rất xứng đáng được hưởng ân huệ của ngài là y sĩ Sinuhe. Hạ thần xin được tiến cử Sinuhe làm chức Ngự y trong triều.

Hoàng đế Pharaoh quay qua phía tôi:

- Sinuhe hãy bước ra đây. Tể tướng Smenkere đã có lòng tiến cử, vậy ngươi nghĩ thế nào?

Tôi bước ra quì mọp bên cạnh Smenkere và khẩn khoản:

- Xin đội ơn Pharaoh, nhưng kẻ này đã phát nguyện sống thanh bần, tuyệt sở hữu để phụng sự những người nghèo khó. Xin ngài cho phép kẻ này được sống đúng với sở nguyện.

Hoàng đế Pharaoh gật đầu:

- Được lắm. Nếu ngươi muốn thế thì ta cũng chuẩn y nhưng ngươi có công cứu mạng ta thì phải được thưởng một cách xứng đáng. Ta biết ngươi đã phát nguyện sống thanh bần, tuyệt sở hữu nhưng ta vẫn có phần thưởng dành riêng cho ngươi.

Hoàng đế đưa tay lên cổ rút ra một sợi dây nhỏ có đeo một miếng đá khắc những hàng chữ loằng ngoằng quanh một chiếc dĩa tròn. Thông thường một vị Pharaoh luôn luôn đeo đồ trang sức bằng vàng hay ngọc nhưng không hiểu sao ông vua này lại đeo một đồ vật tầm thường như vậy. Hoàng đế giơ cao sợi dây lên, nói:

- Đây là vật mà chính ta đã làm lấy trong thời gian ẩn cư ngoài sa mạc. Tuy nó không có giá trị bao nhiêu nhưng ta đã đeo nó khá lâu, nay trao lại cho ngươi làm vật kỷ niệm. Ngươi hãy giữ gìn cẩn thận...

Tôi vui vẻ nhận lấy tặng vật của Pharaoh rồi đeo lên cổ.

Smenkere ra hiệu cho tôi trở về chỗ cũ rồi bắt đầu tường trình những việc xảy ra trong nước.

Hoàng đế Pharaoh chăm chú lắng nghe rồi phán:

- Này Smenkere ta biết có nhiều việc cần phải giải quyết nhưng ta tin ông có thể thu xếp những việc đó cho ta. Hiện nay ta muốn ông cử một phái đoàn ngoại giao qua xứ Hitites và Nubia để nói với quốc vương hai xứ đó rằng ta không muốn có chiến tranh. Bằng mọi giá, ông hãy sử dụng tài khéo léo để tránh cho dân chúng nạn binh đao. Công việc hôm nay đủ rồi, ta truyền lệnh bãi triều.

Tôi và Horemheb vừa bước ra khỏi cung điện thì một người nô lệ ở đâu bước đến nói nhỏ với tôi:

- Hoàng đế Pharaoh truyền cho gọi ông vào nội cung nói chuyện riêng.

Horemheb toan bước theo nhưng người nô lệ đã ngăn hắn lại.

Horemheb nhăn mặt:

- Nhưng ta là người chỉ huy Ngự lâm quân ở nội cung.

- Chúng tôi có lệnh chỉ mời riêng Sinuhe mà thôi.

Horemheb ngạc nhiên nhưng không nói gì. Hắn vỗ vai tôi:

- Mày vào với hoàng đế đi, có gì t*o sẽ gặp mày sau.

Người nô lệ đưa tôi đến một căn phòng nhỏ, trần thiết giản dị, trên tường có treo một chiếc dĩa tròn màu vàng y như hình chiếc dĩa khắc trên miếng đá mà hoàng đế Pharaoh đã ban cho tôi. Tôi đang đứng nhìn thì hoàng đế Pharaoh bước vào:

- Này Sinuhe, đó là biểu tượng của Anten đấy, đấng Chân lý Tuyệt đối duy nhất, điều khiển muôn loài.

Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói đến danh từ Chân lý Tuyệt đối. Truyền thống Ai Cập tin rằng trong thiên nhiên có rất nhiều thần linh khác nhau, mỗi vị có một trách nhiệm riêng như thần Amun-Re cai quản sự sống; thần Maat tượng trưng cho công lý hay cai quản pháp luật; thần Anubis trông coi sự chết, v.v... Pharaoh vừa là người vừa là thần, là trung gian giữa con người và thần linh, có nhiệm vụ cai quản Ai Cập. Danh từ "Chân lý Tuyệt đối" là một quan niệm lạ lùng mà tôi chưa từng nghe nói đến.

Thấy tôi ngơ ngác, hoàng đế Pharaoh bật cười:

- Ta biết ngươi chưa từng nghe nói đến Aten, điều này cũng dễ hiểu. Aten biểu hiệu qua chiếc dĩa tròn, tượng trưng cho Chân lý Tuyệt đối điều hành tất cả mọi vật.

- Như vậy các thần linh thì sao?

- Mỗi vị thần chỉ tiêu biểu một phần nhỏ của Chân Lý mà thôi. Một người hiểu biết không thể hài lòng với những giải thích hay lập luận của các tín ngưỡng thờ thần linh đó được. Có bao giờ ngươi tự hỏi rằng chúng ta từ đâu đến đây? Chúng ta đến đây làm gì? Rồi chúng ta sẽ đi về đâu? Phải chăng cuộc đời này là một sự ngẫu nhiên hay có một ý nghĩa cao cả hơn các truyền thống và các quan niệm thông thường? Này Sinuhe, ngươi là một y sĩ đã được giáo dục trong trường Khoa Học Của Sự Sống, vậy ngươi đã biết gìvề sự sống?

Tôi bối rối trước câu hỏi của Pharaoh. Là một người hay thắc mắc, tôi đã từng đặt nhiều câu hỏi với các giáo sĩ nhưng lần này tôi lại bị dồn vào thế bị động.

Hoàng đế Pharaoh bật cười nói tiếp:

- Này Sinuhe, nếu ta hỏi các giáo sĩ thì mỗi người sẽ trả lời ta theo quan niệm riêng hay theo tín ngưỡng của họ. Có câu trả lời làm thỏa mãn lý trí ta nhưng lại không giải đáp được tâm tình ta. Có cách trả lời giải quyết được tâm tình nhưng lại không làm cho lý trí của ta chịu khuất phục. Tóm lại, giáo lý của các tín ngưỡng thờ thần linh kia đều bất toàn vì không thể làm ta hài lòng. Ta đã tìm hiểu, nghiên cứu trong nhiều năm và thấy rằng các tín ngưỡng thờ thần linh này vốn xuất phát từ các bộ lạc hoang dã cổ xưa, mỗi bộ lạc thờ một vị thần như thần sông, thần núi, thần cây, thần đất,v.v...

Khi xưa, tổ tiên ta, các hoàng đế Pharaoh thống nhất những bộ lạc, đặt nền móng cai trị, tổ chức thành quốc gia thì họ đã có một tôn giáo xây dựng trên căn bản minh triết thiêng liêng. Chính nhờ căn bản của nền tôn giáo này mà họ đã đưa Ai Cập từ tình trạng man dã đến sự văn minh huy hoàng ngày nay. Chính nền tôn giáo này đã đào tạo nên các thế hệ học giả, giáo sĩ, khoa học gia, triết gia, ... những người đã xây dựng nên nền văn hóa Ai Cập. Chính nền tôn giáo này đã đặt căn bản cho các kiến trúc hùng vĩ, những Kim Tự Tháp vĩ đại, những môn học như thiên văn, địa lý, toán học, những khoa học của sự sống cũng như sự chết.

Tiếc thay, theo thời gian nền tôn giáo cao cả này đã bị suy thoái, thất truyền bởi các giáo sĩ lười biếng, thiếu kinh nghiệm tâm linh. Thêm vào đó, các hoàng đế Pharaoh đầy tham vọng cũng bị mê hoặc bởi các tín điều huyền hoặc của các tôn giáo thờ thần linh này nên dần dần nền tôn giáo cổ bị thất truyền.

Ngày nay, tôn giáo Ai Cập đã trở thành một thứ tôn giáo đa thần với hàng trăm đền thờ, hàng ngàn thần linh khác nhau. Ta không thể chấp nhận thứ tôn giáo đa thần như vậy, do đó ta đã ra công nghiên cứu, tìm về mạch nguồn cổ xưa, và ý thức rõ rệt rằng vốn có một định luật cao cả điều khiển tất cả mọi vật trong trời đất...

- Làm sao ngài biết như vậy?

- Để hiểu được sự thật này đòi hỏi một công phu nghiên cứu đặt nền tảng trên một sự hiểu biết đứng đắn, không dựa trên những lý thuyết mơ hồ, không dựa trên sự tin tưởng mà các giáo sĩ thường giảng dạy. Nó đòi hỏi một công phu tu tập và quan sát các sự kiện xảy ra trong thiên nhiên. Đó chính là lý do khiến ta ẩn cư trong sa mạc hoang vu với mục đích tìm hiểu cho ra những nguyên lý này.

- Nhưng... nhưng hình như ngài cũng đã đến... trường Khoa Học Của Sự Sống...

Hoàng đế Pharaoh ngạc nhiên nhìn tôi:

- Làm sao ngươi biết ta đã từng thụ giáo tại trường Khoa Học Của Sự Sống?

Tôi giật mình, biết mình đã lỡ lời. Hình ảnh người thanh niên nằm chết trong cỗ quan tài lại hiện ra trong trí tôi. Tôi phải giải thích thế nào đây? Làm sao một người đã chết lại có thể sống dậy và trở thành một Pharaoh được? Trong lúc tôi đang bối rối chưa biết phải nói gì thì may thay, người nô lệ hầu cận đã bước vào nói nhỏ vào tai hoàng đế Pharaoh.

Ông gật đầu vui vẻ:

- Hoàng hậu Nefertiti nghe ta nói về ngươi và nàng muốn nghe chính ngươi kể về thân thế của ngươi. Ta biết nàng rất thích những chuyện như vậy...

Hoàng đế Amenophis thong thả dẫn tôi đi qua những dãy hành lang dài có quân sĩ canh phòng nghiêm ngặt. Chúng tôi đến một căn phòng khá lớn với khá đông phụ nữ đang ngồi chờ đợi.

Vừa thấy tôi, hoàng hậu Nefertiti đã nói ngay:

- Ta nghe Pharaoh nói rằng ngươi có một thân thế rất ly kỳ, ngươi hãy kể cho chúng ta nghe đi...

Hoàng đế Amenophis mỉm cười nói nhỏ với tôi:

- Các hoàng phi, cung nữ sống trong cung, không mấy khi được ra ngoài nên rất thích nghe kể chuyện. Ta thường cho mời các nhà kể chuyện trứ danh khắp nước đến kể chuyện cho họ giải trí. Câu chuyện của ngươi là chuyện thật, hiển nhiên phải hay hơn các câu chuyện thần thoại rồi... Ngươi hãy kể đi.

Tôi thong thả kể lại đời mình: khi còn nhỏ theo cha tôi đi chữa bệnh như thế nào, khi đi câu cá gặp Horemheb rồi kết bạn ra sao, và khi trưởng thành đi học tại Abydos đã gặp những khó khăn gì. Tôi không phải là người có tài kể chuyện nhưng kể đến đâu, mọi người chăm chú theo dõi đến đó. Thỉnh thoảng họ lại ồ lên, tỏ vẻ ngạc nhiên thích thú lắm. Về sau tôi mới biết đa số hoàng phi, cung nữ được tuyển vào cung từ nhỏ, ít có dịp tiếp xúc với bên ngoài. Cuộc sống êm đềm, bình thản trong cung khiến một câu chuyện, dù chẳng đặc biệt gì như đời sống của tôi, cũng trở nên ly kỳ hấp dẫn lắm.

Tôi không nói gì về nguyên nhân khiến cha mẹ tôi lập gia đình mà chỉ kể rằng khi cha mẹ tôi đi qua sông Nile, nghe tiếng trẻ khóc và vớt tôi ở dưới sông lên như thế nào. Mọi người đang nín thở theo dõi thì bất ngờ có một giọng già nua vang lên:

- Này Sinuhe, ngươi có nhớ cha mẹ ngươi đã vớt ngươi vào lúc nào không?

Người hỏi là một bà lão to lớn khỏe mạnh, nước da bánh mật, tay đang cầm một ly rượu lớn.

Hoàng đế Pharaoh nói nhỏ với tôi:

- Đó là mẹ ta, thái hậu Taiya.

- Kính thưa thái hậu, theo cha tôi nói thì đó là một ngày trăng tròn, khoảng đầu mùa gặt. Có lẽ tôi là con nhà thuyền chài vì tấm chăn lót được dệt bằng một thứ sợi chỉ có ở làng Phalon, thuộc thượng lưu sông Nile.

- Làm sao ngươi biết đó là loại sợi dệt ở làng Phalon?

- Cha tôi nói chỉ dân làng Phalon mới dệt loại sợi này, nó được đan bằng tay và thắt lại bằng một nút thuyền chài đặc biệt.

Thái hậu Taiya ngửa cổ uống cạn ly rượu rồi cười lớn:

- Thì ra ngươi là con nhà thuyền chài. Hay lắm! Hay lắm!

Hoàng hậu Nefertiti vui vẻ:

- Ngươi kể chuyện hấp dẫn lắm. Từ nay mỗi lần có chuyện gì hay thì hãy vào đây kể cho chúng ta nghe...

- Tôi là y sĩ, chỉ biết săn sóc bệnh nhân nhưng bạn tôi, Horemheb mới là người từng trải, quen biết nhiều, giao thiệp rộng...

Hoàng đế Amenophis bật cười lớn:

- Ngươi thật là người tốt, lúc nào cũng nghĩ đến bạn bè. Horemheb chính là kẻ đã giết sư tử để cứu ta. Để ngày mai ta gọi hắn vào đây kể chuyện...

Khi tôi đem chuyện này thuật lại cho Horemheb thì hắn tỏ ra khó chịu:

- Làm sao mày có thể làm một chuyện ngu xuẩn như thế được? Mày tưởng t*o thích kể chuyện cho lũ đàn bà lười biếng đó nghe à! t*o thà đi đánh nhau với sư tử hay uống rượu với những kẻ xa lạ, còn hơn tốn thời giờ với đám phụ nữ vô tích sự đó. Nếu được gọi, t*o sẽ cáo bệnh...

Nhưng Horemheb không dám cáo bệnh khi được Pharaoh triệu vào cung. May thay lần này chúng tôi không được gọi vào để kể chuyện. Khi chúng tôi bước vào căn phòng nhỏ thì hoàng đế Amenophis đang nói chuyện với hai vị võ quan đã già, râu tóc bạc phơ.

Một người chỉ vào tấm bản đồ trên vách, nói:

- Muốn hùng cường, chúng ta cần phải mở mang phát triển bờ cõi. Khi xưa, tiên đế đã từng mang quân chinh phạt Nubia, chiếm được nhiều hầm mỏ và tài nguyên thiên nhiên, làm giàu cho Ai Cập. Hiện nay quốc vương xứ này đang có ý nhòm ngó nước ta, chúng ta cần khởi binh chinh phạt ngay thì mới mong toàn thắng...

Ông lão còn lại gật đầu nói thêm:

- Hoàng đế vừa lên ngôi, cần có những thắng lợi to tát thì sự nghiệp mới vẻ vang được. Ở đời mạnh được yếu thua là lẽ tất nhiên. Lúc này binh lực chúng ta đang hùng cường, chúng ta cần lợi dụng cơ hội...

Hoàng đế Pharaoh bình tĩnh nói:

- Luật của kẻ mạnh sẽ khiến cho xã hội trở nên một bãi chiến trường. Nếu mọi người tiếp tục chém giết lẫn nhau thì xã hội sẽ như thế nào?

- Nhưng thưa Pharaoh, đó là luật thiên nhiên. Người ta tranh đấu để sống còn.

Hoàng đế lắc đầu, ôn tồn nói:

- Các ông đã biết gì về luật thiên nhiên? Nếu mạnh sống yếu chết thì sư tử là giống mạnh nhất ắt phải sống và hươu nai thuộc giống yếu đã phải chết hết, nhưng chúng đâu hề chết! Ta đã quan sát và suy nghiệm về điều này rất lâu.

Luật của kẻ mạnh chỉ có giá trị giới hạn nhưng không phải là sự thật.

- Nhưng trong thiên nhiên, sự tranh đấu là lẽ thường tình. Sư tử giết hươu nai thì chúng ta cũng giết người Hitites hay Nubia. Có thể chúng ta không giết sạch được họ nhưng nếu không tấn công thì họ cũng khởi binh đánh ta. Trong đời sống, kẻ nào gan dạ, liều lĩnh, kẻ đó thành công lớn...

Hoàng đế Pharaoh lắc đầu:

- Chúng ta không phải là loài thú, chúng ta là người và con người hơn con thú ở điểm lương tâm.

- Xin Pharaoh xét lại, trong xã hội, người có lương tâm chẳng phải là người thành công nhất. Phần lớn những người lanh lợi, có mưu lược và thủ đoạn mới chiếm được các địa vị khả quan. Những người giàu sang, có quyền lực là những người khôn ngoan, quỉ quyệt, dám làm tất cả mọi việc...

Hoàng đế Pharaoh ngắt lời vị quan triều:

- Hiển nhiên họ là những kẻ có tâm hồn chai đá, không hề biết thương xót ai hết. Các ông đều là những kẻ có địa vị khả quan, giàu sang và có thế lực, nhưng có bao giờ các ông tự hỏi tại sao mình lại lên được địa vị như thế không?

Hai vị võ quan biết mình lỡ lời nên im bặt, lấm lét nhìn hoàng đế không biết phải xử trí ra sao. Pharaoh cũng im lặng nhìn họ không nói gì. Không khí trong phòng bỗng trở nên căng thẳng.

Một vị quan run rẩy:

- Xin hoàng đế ban chỉ thị... Kẻ này ng* d*t không hiểu ý ngài...

Hoàng đế Pharaoh đột nhiên quay qua Horemheb, hỏi:

- Ngươi thấy thế nào?

Horemheb thẳng thắn trả lời ngay:

- Hoàng đế là người đã được thần linh chọn lựa để chỉ huy Ai Cập. Bất cứ ngài quyết định thế nào, Horemheb này cũng triệt để tuân theo. Nếu ngài ban chỉ thị thì kẻ này sẽ thi hành ngay.

Vừa nói Horemheb vừa đặt tay lên đốc kiếm. Hình như hắn chỉ chờ hoàng đế hạ lệnh là ra tay ngay nhưng hoàng đế Pharaoh đã lắc đầu, ôn tồn nói:

- Người cao cả là người không chà đạp lên những kẻ yếu đuối, hiếp đáp kẻ thế cô. Người cao cả là người biết thương yêu, giúp đỡ kẻ khác, biết hy sinh bản thân mình cho kẻ khác. Người cao cả là người có lòng nhân ái, biết bênh vực những kẻ khốn cùng, che chở kẻ yếu đuối. Một quốc gia hùng cường là quốc gia sản xuất ra những con người cao cả như vậy và một xã hội tiến bộ là xã hội xây dựng trên những căn bản nhân ái đó.

Vị võ quan dè dặt hỏi:

- Phải chăng hoàng đế không muốn gây chiến tranh?

- Ta đã ra lệnh cho Smenkere triệu tập một phái đoàn ngoại giao đi Hitites và Nubia để thương lượng việc này.

Hai vị võ quan nhìn nhau rồi một người đánh bạo lên tiếng:

- Kính thưa Pharaoh, kẻ hèn này đã từng theo tiên đế cầm quân chinh phạt Nubia nhiều lần. Khi ngài còn nằm trong nôi, kẻ này đã tả xung hữu đột để mở mang bờ cõi cho Ai Cập. Kẻ này biết rõ người Nubia hiếu chiến và khó thuyết phục. Hiện nay vua xứ Nubia là người nhiều mưu lược, xảo trá...

Hoàng đế Pharaoh mỉm cười nói ngay:

- Đúng thế, do đó ta mới gọi riêng hai ông vào đây để bàn việc này. Vì các ông biết rõ người Nubia nên ta muốn hai ông cầm đầu phái đoàn ngoại giao qua đó thương thuyết. Khi xưa hai ông đã tạo nhiều chiến công hiển hách, bây giờ hai ông hãy sử dụng miệng lưỡi của mình để tránh cho dân chúng hai bên khỏi cảnh chinh chiến, máu đổ đầu rơi.

Hai vị võ quan ngạc nhiên há hốc miệng không biết nói gì. Một người hỏi lại:

- Thưa Pharaoh. Ngài muốn chúng tôi qua Nubia để thương lượng hòa bình?

Hoàng đế Pharaoh gật đầu:

- Đúng thế. Ngày trước ông đã cầm quân chinh phạt Nubia, bây giờ ta muốn ông cầm đầu một phái đoàn chinh phục nhân tâm xứ này. Võ khí mới của ông không phải là cung tên, giáo mác nữa mà là các giáo sĩ, học giả, nghệ sĩ và khoa học gia. Từ nay, công lao của ông ghi khắc trên bia đá, lăng tẩm không phải là người cầm quân chinh phạt nhưng là người đem lại hòa binh, thịnh vượng cho dân chúng cả hai xứ.

Hai vị võ quan lấm lét nhìn hoàng đế Pharaoh, ngập ngừng muốn nói nhưng không biết phải bày tỏ ra sao.

Hoàng đế Pharaoh thong thả đứng dậy, đặt tay lên vai vị võ quan rồi ân cần nói:

- Ta biết ông chủ trương kẻ nào muốn gây chiến với ta thì ta phải tiêu diệt họ trước khi họ tiêu diệt ta. Nhưng nếu ông bình tĩnh suy nghĩ kỹ thì ông sẽ thấy rằng kẻ nào chỉ khăng khăng đòi tiêu diệt kẻ khác thì kẻ ấy không thể nào tiến bộ được, và chỉ quanh quẩn mãi trong phạm vi thù hận, bạo lực mà thôi. Một hoàng đế chỉ nghĩ đến chiến tranh thì luôn luôn sợ hãi, bất an và không thể cai trị quốc gia hữu hiệu được. Một quốc gia chỉ chuẩn bị cho chiến tranh thì không thể tiến bộ về các phương diện khác được.

Các ông phải biết trách nhiệm của hoàng đế rất lớn, sự thịnh suy của quốc gia đều nằm trong sự suy xét và quyết định của người này. Một hoàng đế chỉ lo củng cố quyền lực của mình qua chiến tranh, thù hận thì quốc gia sẽ suy kiệt, thoái hóa; dân chúng sẽ lầm than, khổ cực.

Trái lại, một hoàng đế biết vượt ra khỏi những lý luận tầm thường của sự oán hận, biết tha thứ những kẻ gây khó khăn cho mình, sẽ vươn lên cao và kéo kẻ khác tiến bộ với mình.

Sở dĩ các ông muốn khởi binh đánh Nubia vì các ông muốn trừng phạt họ; vì nếu không, họ cũng sẽ mang quân xâm phạm lãnh thổ của chúng ta. Hiển nhiên người Nubia muốn đem quân đánh chúng ta vì nếu họ không ra tay trước, có lẽ chúng ta cũng sẽ xâm lăng xứ họ. Cái vòng luẩn quẩn của chiến tranh cứ thế tiếp diễn, chẳng ai chịu nhường ai. Kẻ thắng thì vinh quang, người thua thì nhục nhã và thù hận, cứ thế kéo dài từ đời này sang đời khác, biết bao giờ chấm dứt.

Tuy nhiên thắng bại, được thua chỉ như thời tiết, đến rồi đi. Lần này quân ta thắng, lần khác quân ta thua, rốt cuộc chỉ có dân chúng là chịu thiệt thòi. Là hoàng đế, ta quyết định phải chấm dứt cái vòng luẩn quẩn này. Ta sẵn sàng bỏ qua mọi sự, dù phải chịu đựng nhiều thử thách.

Các ông đừng cho rằng ta hèn nhát mà phải chịu đựng. Lúc này binh lực nước ta hùng cường nhưng ta sẽ không gây chiến vì ta muốn cho người Nubia hiểu lòng ta. Khi họ hiểu ta, họ sẽ từ bỏ giấc mộng xâm lăng và rồi mọi sự sẽ đổi khác. Ta biết mình mới lên ngôi Pharaoh, cả Ai Cập muốn xem ta sẽ làm gì. Họ sẽ đánh giá ta trong lúc này và sẽ có dư luận cho rằng ta hèn nhát, sợ hãi nhưng ta sẵn sàng chịu đựng vì sự đau khổ sẽ làm ta dũng cảm hơn. Ngay cả những nước chư hầu khác cũng sẽ chê bai ta nhưng ta sẽ nhẫn nại vì sự nhẫn nại sẽ làm cho nội tâm ta phong phú hơn.

Này các ông. Sở dĩ ta làm thế vì ta đã biết rõ đâu là sự vĩnh cửu thực sự. Ta mong các ông hiểu sự khó khăn của ta trong những ngày sắp tới và giúp ta hoàn thành sứ mạng của ta đối với Ai Cập. Dĩ nhiên ta có thể lựa chọn những sứ giả khác, nhưng ta quyết định chọn hai ông cầm đầu phái đoàn vì người dân xứ Nubia biết rõ hai ông hơn ai hết. Ta muốn nhờ sự khôn khéo của hai ông mà họ hiểu được lòng ta, và hiểu được ta thì ta có thể giúp cho cả hai quốc gia cùng tiến bộ, phát triển về mọi lãnh vực. Ta mong hai ông hãy nhận lãnh trách nhiệm lịch sử này, cố gắng hoàn tất sứ mạng và chớ phụ lòng tin tưởng của ta.

Hai vị võ quan già run rẩy nhìn nhau, không biết vì cảm động hay còn điều gì khác, nhưng hoàng đế đã phất tay ra hiệu nên họ cúi đầu bước ra khỏi phòng. Hoàng đế Pharaoh trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi nói với tôi:

- Này Sinuhe, hôm nay mẹ ta mệt và muốn ngươi đến khám sức khỏe cho bà. Horemheb hãy ở lại đây, ta có việc quan trọng cần bàn với ngươi.

Tôi theo người nô lệ đến cung điện của thái hậu Taiya. Đó là một căn phong trần thiết lủng củng, đồ đạc rất nhiều nhưng để bừa bãi, lung tung. Thái hậu Taiya là một phụ nữto lớn, đẫy đà, khác hẳn những hoàng phi trong cung.

Bà ngồi trên chiếc ghế dài, tay cầm một ly rượu lớn:

- Này Sinuhe, ta muốn ngươi xem rằng ta còn sống được bao lâu nữa?

Tôi cúi đầu bước đến bắt mạch và khởi sự khám bệnh.

Thái hậu Taiya tiếp tục uống rượu. Tôi bỗng giật mình vì thấy trên nệm ghế của bà có phủ một tấm chăn lớn, đan bằng thứ sợi rất thô kệch, xấu xí được cột bằng những nút thuyền chài đặc biệt của dân làng Phalon.

Thái hậu Taiya chăm chú nhìn tôi rồi hỏi:

- Hình như ngươi đã nhận ra chiếc chăn này?

- Thưa thái hậu, hình như đây là loại sợi Phalon?

- Đúng thế, ngươi nhận xét khá lắm.

- Chiếc chăn lót nôi của kẻ này cũng giống như thế...

Thái hậu Taiya gật đầu cười lớn:

- Hiển nhiên rồi, vì chỉ có làng Phalon mới dệt loại sợi này và ta xuất thân từ làng Phalon. Đúng thế, ta là con nhà thuyền chài, suốt ngày dầm mưa dãi nắng nên nước da của ta mới đen sậm
như thế này. Cách đây mấy chục năm, hoàng đế Amenophis đi thuyền ngang đó, thấy ta đang giăng lưới bên sông nên gọi ta vào hầu.

Ha ha ha, ta tung mẻ lưới bắt được con cá to nhất sông Nile. Ta biết mình chẳng đẹp đẽ gì, chẳng thể so sánh với các hoàng phi, cung nữ nhưng ta khỏe mạnh, rừng rú nên làm hoàng đế vui lòng. Thế là ta được đưa về triều. Chỉ một thời gian ngắn, ta đã sinh ngay một hoàng nam và lên ngôi hoàng hậu. Năm sau ta còn sinh thêm một công chúa nữa, thế là ta củng cố địa vị của mình. Hiện nay hoàng đế đã qua đời, con ta lên ngôi Pharaoh nên ta toại nguyện, chẳng muốn sống nữa. Ngươi hãy xem bao giờ đến ngày ta ra đi để ta chuẩn bị.

- Thưa thái hậu, kẻ này thấy ngài rất khỏe mạnh chẳng có bệnh tật chi. Chắc chắn ngài còn sống vài chục năm nữa nếu ngài... bớt uống rượu một chút.

- Ha ha ha... Bọn y sĩ các ngươi đều nói giống nhau cả, nhưng sống lâu để làm gì? Chồng ta đã qua đời, các con ta đều khôn lớn, kéo dài thêm đời sống vô vị, tẻ nhạt, chán chường trong cung làm gì. Ngươi hãy bào chế cho ta một viên thuốc độc để trả nợ đời cho xong.

Tôi chưa kịp lên tiếng thì một giọng nói rổn rảng vang lên:

- Này Sinuhe, ngươi chớ nghe lời mụ già đó. Bà ta say rồi...

Tôi giật mình quay lại thì thấy một thiếu nữ còn trẻ, dáng người to lớn, mặc võ phục, tay cầm chiếc roi da đang bước vào.

Thái hậu Taiya bật cười:

- Đó là con gái ta, công chúa Baketamon. Ta vô phúc sinh ra một đứa con trai hiền lành như con gái và một đứa con gái hung hăng như con trai...

Công chúa Baketamon cười ha hả:

- Mẹ muốn nói rằng con mới xứng đáng làm Pharaoh phải không? Anh Amenophis hiền lành quá, không thể lãnh đạo Ai Cập được.

- Trong hai đứa bay, đứa nào làm Pharaoh cũng được. Riêng ta chỉ muốn chết cho thật nhanh mà thôi.

- Nhưng đàn bà đâu làm Pharaoh được. Do đó con cần phải lấy chồng để chồng con làm Pharaoh, phần con chỉ đứng ở phía sau ra lệnh cho hắn mà thôi.

Thái hậu Taiya lắc đầu cười lớn:

- Đứa nào lấy mày chỉ khổ thôi. Mày ngang bướng, hung hăng lại ham chuộng võ nghệ, suốt ngày đi đánh nhau với các binh sĩ. Ai lấy mày để mày xé xác nó ra hay sao?

Tôi ngượng ngùng không biết phải làm gì. Từ trước đến nay tôi chỉ tiếp xúc với những phụ nữ đến nhờ tôi chữa trị chứ đâu biết phải làm gì với những phụ nữ như thế này. May thay, đang luống cuống thì Horemheb ở đâu bước vào:

- Này Sinuhe, người đã khám bệnh xong chưa?

Công chúa Baketamon chăm chú nhìn Horemheb:

- Ngươi là ai?

- Kính thưa công chúa, kẻ hèn này là Horemheb, sĩ quan chỉ huy Ngự lâm.

Công chúa reo lên:

- A phải rồi, ngươi đã giết sư tử cứu mạng anh ta. Haylắm! Hay lắm!

Cô vừa dứt lời đã vung tay quất thẳng ngọn roi vào Horemheb. Tôi há hốc miệng kinh ngạc. Baketamon ra tay đã nhanh mà Horemheb còn nhanh hơn. Hắn đưa tay ra bắt trúng ngọn roi nắm chặt khiến Baketamon loạng choạng suýt ngã.

Cô cười lớn:

- Khá lắm! Khá lắm! Ít ai tránh được ngọn roi của ta. Ngươi hẳn là người có bản lãnh.

Horemheb vội vã cúi đầu:

- Xin công chúa tha tội, kẻ này trót dại, đó chỉ là phản ứng tự nhiên...

- Không sao, không sao đâu...

Baketamon ném cây roi xuống đất. Horemheb vội cúi xuống nhặt lên nhưng công chúa thừa thế tung chân đá mạnh vào người Horemheb. Một lần nữa, tôi trợn mắt kinh ngạc nhưng Horemheb lại nhanh nhẹn xoay người tránh được cái đá song phi đó.

Thái hậu Taiya quát lớn:

- Thôi, dừng tay lại! Như thế đủ rồi!

Công chúa Baketamon thản nhiên nói:

- Ta chỉ muốn xem ngươi có xứng đáng chỉ huy quân Ngự lâm không!

Horemheb cười nhạt không nói gì nhưng tôi biết mỗi khi hắn cười nhạt là đang mưu tính một việc gì. Hắn cúi chào thái hậu và công chúa rồi ra hiệu cho tôi đi theo.Ra khỏi cung, hắn nắm tay tôi nói nhỏ:

- Hiện nay Pharaoh còn phải đương đầu với nhiều khó khăn. Là người chỉ huy Ngự lâm nên t*o rất bận, không thể tiễn mày về Thebes được. Tuy nhiên thỉnh thoảng có dịp mày nên ghé qua đây thăm t*o.


° ° °



Tôi trở về Thebes, tiếp tục công việc săn sóc bệnh nhân như xưa. Hôm đó tôi và Kepta đang mang tiền phân phát cho người nghèo trong xóm thì một thiếu nữ đi ngang nhìn tôi mỉm cười. Hình như tôi đã gặp cô này ở đâu nhưng không sao nhớ được. Kepta thấy vậy liền vặn hỏi ngay:

- Phải chăng cô đó là bệnh nhân của y sĩ?

- Ta không nhớ rõ.

Kepta mỉm cười nói nhỏ:

- Này y sĩ, cứ nhìn nụ cười và ánh mắt đó, tôi thấy cô ta phải có cảm tình với y sĩ lắm lắm.

- Ngươi đừng nói bậy. Ta cắt lưỡi ngươi bây giờ.

Kepta bật cười lắc đầu:

- Thằng nô lệ này chột mắt chứ chưa có mù đâu!Thấy thiếu nữ đang múc nước giếng, Kepta vội bước đến gần:

- Ông chủ tôi đi đường xa khát nước, phiền cô cho mượn cái gáo múc nước.

Thiếu nữ vội trao cho Kepta chiếc gáo nhỏ. Trong lúc Kepta múc nước, cô ta vẫn nhìn tôi mỉm cười khiến tôi bối rối. Kepta bèn hỏi:

- Hình như cô có quen biết ông chủ tôi?

- Tôi là Meryt, bán rượu ở thành Memphis. Y sĩ Sinuhevà Horemheb thường ghé qua đó uống rượu...

Lúc đó tôi mới sực nhớ ra người thiếu nữ bán rượu này:

- Thì ra cô Meryt, tôi nhớ ra rồi... Cô làm gì ở đây?

Meryt có vẻ thẹn thùng:

- Lúc này trên Memphis làm ăn khó khăn nên... em dọn về Thebes...

Kepta vội vã quảng cáo ngay:

- Tốt lắm! Nếu cô đau ốm thì hãy đến phòng mạch của ông chủ tôi. Ông là y sĩ tài giỏi nhất thành Thebes này, bệnh gì ông chủ tôi cũng chữa khỏi...

Meryt gật đầu nói ngay:

- Em biết điều đó.

Kepta chăm chú nhìn Meryt rồi hỏi tiếp:

- Cô đến Thebes này một mình hay với ai?

Meryt cúi đầu nhìn xuống đất nói nhỏ:

- Em còn cha mẹ già.

Kepta tủm tỉm cười hỏi tiếp:

- Như vậy cô chưa lập gia đình? Một người đẹp như cô mà chưa có gia đình sao?

Meryt vẫn cúi mặt vân vê tà áo:

- Em còn phải săn sóc cha mẹ già...

Tôi thấy Kepta đã bắt đầu đi quá xa nên nắm lấy áo gã,lôi đi chỗ khác:

- Thằng chột mắt này, mi không được nói năng lộn xộn.

Từ đó thỉnh thoảng tôi vẫn gặp Meryt trong xóm. Lần nào gặp nhau cô đều mỉm cười và tỏ ra bẽn lẽn nhưng tôi không hề chú ý đến Meryt. Đầu óc tôi vẫn còn mải suy nghĩ những chuyện không đâu. Tôi nghĩ đến hoàng đế Amenophis và chủ trương mới mẻ của ông, tôi cũng băn khoăn về Aten, hay định luật tối cao điều hành tất cả mọi sự.



° ° °




Một hôm tôi đang bào chế mấy vị thuốc thì có tiếng ngựa hí vang trước cửa rồi Kepta chạy vào báo cáo:

- Thưa y sĩ, có một nhóm quân sĩ ở đâu kéo đến...

Tôi ngạc nhiên chưa biết phải làm gì thì đã thấy Horemheb đẩy cửa bước vào, theo sau là một nhóm lính hầu võ trang cẩn thận:

- Này Sinuhe, t*o có việc cần bàn riêng với mày.

- Chuyện gì vậy?

Horemheb phất tay ra hiệu cho lính hầu bước ra ngoài canh phòng cẩn thận rồi ngồi xuống cạnh tôi:

- T*o biết mày chỉ muốn phục vụ cho người nghèo nhưng lúc này t*o cần một y sĩ tin cẩn ở bên hoàng đế.

- Tại sao? Horemheb hạ giọng nói nhỏ:

- Chắc mày cũng biết hoàng đế Amenophis không được khỏe lắm. Ngài mắc chứng động kinh, thỉnh thoảng lại lên cơn, chân tay co quắp, miệng sùi bọt. Đây là bí mật quốc gia, phải được giữ kín. Ngày trước chúng ta đã chẳng suýt chết khi cứu chữa cho ngài ở sa mạc đó sao!

- Nhưng trong triều đã có các ngự y tài giỏi...

Horemheb gật đầu:

- Đúng thế, nhưng t*o không thể tin những người đó được.

- Tại sao?

- Vì hôm trước t*o phát hiện một âm mưu đầu độc hoàng đế.

- Cái gì? Ngài có sao không?

Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




đến trang 107

#7 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6740 Bài viết:
  • 5562 thanks

Gửi vào 12/07/2020 - 06:39

Horemheb lắc đầu:

- May là âm mưu kịp thời bị phát hiện. Thằng nô lệ vừa bỏ thuốc độc đã bị phát giác. t*o đích thân điều tra và tóm được một số kẻ phản nghịch.

- Nhưng... nhưng phe nhóm của hoàng thân Kira đã bị bắt cả rồi...

Horemheb ghé sát vào tai tôi:

- Không phải phe Kira đâu, còn những nhóm khác trong bóng tối nữa. Trong triều có nhiều phe nhóm tranh chấp lẫn nhau. Ngay cả tể tướng Smenkere cũng bị ám sát hụt mấy lần. Sự việc triều đình phức tạp chứ không giản dị như mày nghĩ đâu.

- Nhưng tại sao lại như thế?

Horemheb nhìn tôi một lúc rồi thong thả giải thích:

- Trên đời có hai điều mà ai cũng thèm muốn là quyền lực và danh lợi. Khi Hoàng đế sắc phong cho Smenkere, một người ngoài dòng họ, chức vị tể tướng thì ngài đã làm phật ý nhiều người trong hoàng gia đang thèm muốn địa vị này. Ngoài ra, Hoàng đế còn ban hành nhiều sắc lệnh cải tổ mới như giảm thuế, bỏ việc sưu tra để bắt đinh, thay đổi lễ nghi trong triều và những điều này dĩ nhiên đụng chạm đến quyền lợi của một số người khác nữa.

- Nhưng một y sĩ như t*o thì làm được gì?

Horemheb nói nhỏ:

- Trong tình trạng đầy xáo trộn, bất an hiện nay, t*o không tin ai cả, trừ mày. Không hiểu sao Smenkere cũng tỏ ra thích mày và Hoàng đế vẫn thường nhắc đến mày luôn. Tiếc quá, mày chỉ muốn sống thanh bần, nếu không đã có biết bao cơ hội để tiến thân rồi.

- Nhưng... nhưng t*o đã quyết theo gương cha t*o.

Horemheb vỗ nhẹ lên vai tôi:

- t*o biết điều đó nhưng lúc này Ai Cập cần mày, Hoàng đế cần mày và t*o cũng cần mày. t*o mong mày hãy suy nghĩ lại. Hiện nay Hoàng đế đang đi Nekhen chọn đất để xây mồ. Nekhen ở gần đây và có lẽ đã lâu không gặp mày nên ngài muốn mày đến đó đàm đạo với ngài ít lâu.

Theo truyền thống, khi một Pharaoh lên ngôi hoàng đế là lập tức lo tìm đất để xây mồ cho mình. Việc xây cất này hết sức quan trọng vì một triều đại vua chúa thường được đánh giá qua những công trình xây cất. Người Ai Cập tin rằng linh hồn con người vốn bất tử và chỉ khoác lấy thể xác để làm một số việc nào đó thôi. Việc này có thể là cai trị quốc gia, như trường hợp các Pharaoh, hoặc trồng trọt, săn bắn, đánh cá, xây cất như trường hợp thường dân. Sau khi chết, con người sẽ được phán xét, định công luận tội trước mặt thần Osiris. Tùy theo việc làm của họ khi sống mà họ sẽ được dẫn dắt đến những cảnh giới tương xứng. Vì đời sống ở cõi trần chỉ là phần nhỏ của một đời sống khác bao la rộng rãi hơn nên các vua chúa đều chuẩn bị rất kỹ cho đời sống sau khi chết này.

Khởi đầu, người ta soạn thảo kế hoạch xây cất dựa theo niên lịch của các nhà chiêm tinh. Mọi việc xây cất tại Ai Cập đều được soạn thảo theo họa đồ của các nhà chiêm tinh trước khi giao cho thợ xây cất chuyên môn. Nhà chiêm tinh Ai Cập không phải chỉ nghiên cứu về tinh tú mà còn phải chuyên môn về toán học, vật lý học, địa lý học và cả kiến trúc nữa. Tất cả mọi công trình xây cất tại Ai Cập đều dựa theo họa đồ của các nhà chiêm tinh và những đền đài, cổ mộ, lăng tẩm, kim tự tháp đều được xây cất theo những vị trí nhất định có liên quan mật thiết với các bầu tinh tú trong vũ trụ. Từ những kích thước, hình thái, chiều cao, bề sâu, chu vi và diện tích đều dựa trên những tiêu chuẩn của các tinh tú xuất hiện vào những thời điểm nhất định. Người ta không thể hiểu kiến trúc Ai Cập nếu không có kiến thức về khoa chiêm tinh vì mọi họa đồ xây cất đều có những mục đích rõ rệt dựa theo sự vận hành của tinh tú.

Nekhen là vùng có nhiều đồi đá trơ trụi nằm dọc theo bờ sông Nile. Đây là địa bàn hoạt động của các chiêm tinh gia. Trên đỉnh ngọn đồi cao nhất là một viễn vọng đài rất lớn, trong có đền thờ thần Khem. Horemheb đưa tôi đi theo một cầu thang hình xoắn ốc lên đỉnh tháp. Tôi thấy Hoàng đế Amenophis đang trầm ngâm quan sát bầu trời với muôn ngàn tinh tú lấp lánh.

Nghe tiếng động, ông quay lại và nhìn thấy tôi.

- Sinuhe đấy ư? Ngươi có biết gì về khoa chiêm tinh không?

- Thưa Pharaoh, kẻ này là y sĩ chứ không phải nhà chiêm tinh.

- Nếu vậy có lẽ người cần phải học thêm vì đây là một kiến thức quan trọng.

- Tại sao?

- Con người cần phải có kiến thức về vũ trụ cũng như về môi trường thiên nhiên mà họ sinh sống. Chỉ khi nào biết quan sát vũ trụ bao la hùng vĩ, con người mới thấy họ nhỏ bé như con sâu, cái kiến. Chỉ khi nào biết quan sát đại dương sâu thẳm, con người mới thấy họ chỉ là những bèo bọt nổi trôi. Chỉ khi nào biết quan sát sa mạc mênh mông, con người mới thấy họ chỉ là những cát bụi bé bỏng. Nhờ biết quan sát mà con người ý thức được sự tương quan giữa vũ trụ và con người, rồi biết được những định luật cao cả điều hành mọi vật. Từ đó họ biết khiêm tốn hơn và không còn đòi làm những chuyện vá trời lấp biển nữa. Theo ta, người nào biết được vũ trụ sẽ hiểu được mình và kẻ nào hiểu được mình sẽ biết được vũ trụ.

- Tại sao lại thế?

- Vì vũ trụ là môi trường hoạt động của mọi sinh vật, từ côn trùng đến thảo mộc, từ cầm thú đến con người và biết bao sinh vật mà kiến thức của chúng ta chưa biết đến. Vũ trụ không phải là một cái gì trống rỗng mà mọi sự xảy ra một cách ngẫu nhiên. Trong vũ trụ có một sự sắp đặt khéo léo mà ở đó tất cả đều phản ảnh một sự thật rằng có một định luật cao cả chi phối mọi sự. Do đó một người hiểu biết cần phải có kiến thức về vũ trụ.

- Nhưng... đó là kiến thức chuyên môn của các nhà chiêm tinh và dễ gì mà họ chịu truyền dạy cho người khác!

Hoàng đế khẽ vỗ tay. Một ông già từ trong góc phòng bước ra. Hoàng đế chỉ vào tôi, nói:

- Này quan Thiên Giám, ta muốn ông đặc biệt chỉ dạy thêm cho Sinuhe kiến thức về khoa chiêm tinh. Ông hãy chỉ dẫn cho y tất cả những gì mà ông đã truyền dạy cho ta.

Ông lão vội vã cúi đầu:

- Xin tuân lệnh Pharaoh. Lúc nào y sĩ muốn học thì hãy đến đây, tôi sẵn sàng hướng dẫn.

Hoàng đế Amenophis chỉ tay lên bầu trời:

- "Này Sinuhe, chiêm tinh là một khoa học về vũ trụ mà người Ai Cập chúng ta đã bỏ ra rất nhiều công trình để nghiên cứu. Theo khoa này thì có một ảnh hưởng hỗ tương giữa các bầu tinh tú, trái đất và các sinh vật sống trong đó. Nếu nhìn lên không trung, ngươi sẽ cho rằng đó là một khoảng trống bao la, nhưng thật ra có một khí lực bàng bạc bao trùm khắp vũ trụ.

Cái khí lực này hết sức tế vi mà chỉ một số rất ít người biết. Nó có khả năng thu nhận, phổ biến và truyền đạt tất cả những ấn tượng của mọi động lực trong thiên nhiên. Cái ảnh hưởng hỗ tương đó là những từ lực vì tinh tú đều là những khối nam châm có sức thu hút và ảnh hưởng lẫn nhau. Chính trái đất chúng ta đang sống cũng là một khối nam châm rất lớn có sức thu hút mạnh mẽ và dĩ nhiên cũng bị chi phối bởi những từ lực phát sinh từ mặt trời hay các vì tinh tú khác.

Chính vì ảnh hưởng của những từ lực này mà mọi sự vật trong thiên nhiên luôn luôn biến đổi, lên xuống, trồi sụt theo các chu kỳ. Một người nghiên cứu về vũ trụ phải biết rõ định luật về chu kỳ. Đối với đa số mọi người thì chu kỳ chỉ là những sự thay đổi về thời tiết hay mực nước thủy triều lên xuống. Nhưng với người hiểu biết thì nó là những sự sắp đặt huyền bí và mầu nhiệm vô cùng. Thật ra mọi sinh vật đều có khả năng kinh nghiệm được sự vận chuyển của luồng từ lực này vì sự rung động của nó ảnh hưởng lên thể chất của mọi sinh vật."

- Nó ảnh hưởng như thế nào?

Hoàng đế nhìn tôi mỉm cười:

- Chắc hẳn ngươi đã biết ảnh hưởng lên xuống của thủy triều tùy thuộc vào sự vận chuyển của mặt trăng. Mặt trăng cũng ảnh hưởng đến kinh nguyệt của phụ nữ. Là y sĩ, ngươi biết rõ về những chứng bệnh điên loạn thần kinh chỉ phát động vào những ngày trăng tròn. Nếu sự vận chuyển của mặt trăng có thể gây ra những ảnh hưởng cụ thể như thế thì hẳn không phải là điều vô lý khi cho rằng sự tác động của các bầu tinh tú khác trong không gian cũng có thể gây nên những ảnh hưởng mạnh mẽ đối với sự sống của mọi loài trên trái đất. Chắc ngươi cũng biết trường Khoa Học Của Sự Sống đã nghiên cứu rất kỹ về những luồng khí lực vũ trụ trong việc chữa trị?

- Thưa, điều này chỉ được truyền dạy giới hạn cho các giáo sĩ.

Hoàng đế gật đầu:

- "Ta biết điều đó, vì những kiến thức đặc biệt không thể mang ra truyền dạy một cách bừa bãi được. Ngươi phải biết rằng trong vũ trụ có những luồng từ điện rất mạnh, luôn luôn thu hút, ảnh hưởng lẫn nhau theo sự di chuyển của các bầu tinh tú. Tất cả các tinh tú đều chứa đựng những luồng từ điện rất mạnh vì chúng vận chuyển trong luồng từ khí của vũ trụ. Do đó tùy theo sự rung động của cơ thể các sinh vật cảm ứng với luồng từ điện nào mà chúng chịu ảnh hưởng của các bầu tinh tú ấy.

Là y sĩ đi hái thuốc, hẳn ngươi biết rằng có những loại cây cỏ chịu sức thu hút của mặt trời và một số loại khác chịu sự thu hút của mặt trăng. Đa số hoa nở khi có ánh sáng mặt trời nhưng vẫn có một số loài hoa chỉ nở về đêm. Một số cây cỏ chỉ tiết ra dược chất vào giờ khắc nhất định khi các tinh tú nằm ở một vị trí nào đó và người y sĩ đi hái thuốc phải biết rõ điều này."

Tôi giật mình. Kiến thức về y học là khả năng chuyên môn của tôi và tôi đã được dạy bảo rất kỹ về công dụng của các loại dược thảo. Tại sao Hoàng đế lại có thể nói đến vấn đề này một cách rõ ràng như thế? Phải chăng ông đã được thụ giáo những kiến thức này từ Abydos?

Hoàng đế Amenophis thản nhiên nói tiếp:

- "Có những loại cây cỏ hợp tính chất nhau và có những cây cỏ xung khắc nhau vì chúng rung động theo các luồng từ lực khác nhau. Một cây nho không bao giờ mọc gần cây cải vì tính chất xung khắc nhưng cây nho lại thích leo bám vào cây olive vì chúng hợp nhau. Dĩ nhiên cây cỏ đã như thế thì loài người chắc chắn phải có những rung động mạnh hơn.

Nếu ngươi biết rằng phần lớn những xúc cảm của con người cũng chịu ảnh hưởng những biến đổi của trạng thái từ điện trong thiên nhiên. Sự nóng giận, ghen tức, tình thương hay thù hận đều là những biến chứng của trạng thái rung động từ khí trong cơ thể con người.

Tình thương là một trạng thái rung động rất phức tạp, do đó biến thái của nó được biểu hiện ra dưới muôn ngàn khía cạnh khác nhau. Tình yêu cao thượng như tình mẹ con,tình yêu nghệ thuật, tình bằng hữu đều là sự biểu lộ từ điện của sự giao cảm giữa những tâm hồn có sự rung động đồng nhịp hay đồng thanh, đồng khí với nhau. Từ lực của tình thương thuần túy này là căn bản của sự sáng tạo. Do đó một người chưa biết yêu hay không hề yêu chẳng thể sáng tạo được.

Cũng như thế, một kẻ để cho tâm hồn trở nên khô khan, chai đá, dửng dưng không còn xúc cảm thì khả năng sáng tạo của y cũng sẽ kiệt quệ, thui chột đi."

Hoàng đế Amenophis im lặng một lúc như đắm chìm trong một suy tưởng nào rồi nói tiếp:

- Cái luồng khí lực từ điện bao gồm toàn thể vũ trụ này chính là một tâm thức thiêng liêng thấm nhuần tất cả vạn vật. Nó ẩn tàng trong mọi chất liệu và nhờ những tác động và mãnh lực của nó mà những vật thể thu hút lẫn nhau, dần dần kết hợp lại thành những yếu tố vật chất. Chính nhờ nó mà tất cả mọi sự được khích động, nảy sinh, phát triển và thay đổi một cách mầu nhiệm. Đối với những kẻ "có mắt mà không nhìn thấy" thì đó là những thay đổi một cách tình cờ ngẫu nhiên; nhưng với người nào biết quan sát học hỏi thì nó là một kho tàng kiến thức hết sức thâm thúy. Cái luồng khí lực này giữ gìn và lưu trữ tất cả những gì đã có, đang có và sẽ có trong trời đất. Từ những hành vi nhỏ nhặt nhất đến các tư tưởng trừu tượng nhất đều ghi lại trên đó những rung động rõ rệt.

- Làm sao người ta biết được điều đó?

- Đây là điều mà tổ tiên người Ai Cập chúng ta đã bỏ ra rất nhiều công trình để nghiên cứu. Nó chính là tinh hoa của nền tôn giáo cổ mà ngày nay ít nhiều đã bị mai một. Tuy nhiên từ nhiều năm qua, ta đã nghiên cứu, học hỏi với các bậc danh sư, đạo trưởng khắp nơi để khôi phục cái mạch nguồn đã bị bế tắc này. Ngoài ra ta còn nhờ sự giúp đỡ của những người có khả năng Linh Thị (Psychometry) nữa.

- Khả năng Linh Thị là gì?

- Đó là khả năng đặc biệt của một số người có thể thu nhận những ấn tượng phát sinh từ những đồ vật. Một tập bản thảo, một bức họa, một món trang sức cổ xưa vẫn chứa đựng trong nó những từ lực hay sự rung động của người viết, của họa sĩ hay của người thợ kim hoàn. Chỉ cần cầm lấy vật ấy, người có khả năng Linh Thị có thể truy nguyên ra nguồn gốc của nó. Này Sinuhe, trong vũ trụ không một chiếc lá rơi, không một làn sóng gợn trên mặt hồ nào lại không được ghi nhận một cách trung thực trong tâm thức vũ trụ (Akashic Record).

Tôi bàng hoàng. Từ trước đến nay tôi là người rất ham mê học hỏi và luôn luôn đặt câu hỏi với mọi người. Tôi đang được nghe nói về một kho tàng kiến thức vĩ đại. Một dịp may hiếm có để học hỏi thêm nhưng không hiểu sao tôi lại ngần ngại.

Tôi lắp bắp:

- Như thế phải chăng người có khả năng linh thị có thể biết trước được mọi việc?

- Không hẳn như thế. Người ta có thể biết tường tận những việc đã xảy ra trong quá khứ nhưng việc tương lai thìkhác.

- Tại sao?

- Vì tương lai là những gì đang ở trạng thái phôi thai trong khí lực của trời đất, và tùy theo những yếu tố khác nhau mà biến đổi. Đời sống không phải là những gì có tính cách nhất định mà luôn luôn sống động, biến đổi không ngừng theo những diễn tiến rất phức tạp. Tuy nhiên, dù thay đổi thế nào nó cũng vẫn phải tuân theo những định luật bất biến. Mặc dù con người có thể hành động theo ý muốn, nhưng cách thức mà họ hành động vẫn phải tuân theo những quy tắc của một định luật chung.

- Như thế là thế nào?

Hoàng đế Amenophis ôn tồn giải thích:

- "Này Sinuhe, nếu ta gảy một giây đàn thì âm ba rung động của nó sẽ không thể chuyển thành âm ba rung động của một giây đàn khác được. Cũng như thế, bất kỳ một hành động gì cũng đều có những hậu quả tương ứng nhất định nhưng con người hành động như thế nào thì vẫn tùy thuộc vào tự do ý chí của người ấy. Hãy nhìn một cây đàn. Nó có vô số giây và tùy theo giây nào ta gảy thì sẽ có những âm thanh tiết tấu tương ứng. Người nghệ sĩ nhờ biết rõ các quy luật về âm nhạc này mà sáng tạo ra các bản nhạc du dương, trầm bổng tùy theo cảm hứng riêng. Cảm hứng là tự do ý chí nhưng sự rung động và phối hợp của âm thanh hoàn toàn tùy thuộc các quy luật của âm nhạc. Nếu không nắm vững quy luật về âm nhạc này thì người ta chỉ tạo ra những âm thanh rời rạc, vô hồn chứ không thể sáng tác ra âm nhạc được.

Cũng thế, một người đã hiểu rõ qui luật của vũ trụ không bao giờ hành động trái với thiên nhiên, trái với những nhịp điệu điều hòa của trời đất mà chỉ làm những việc thuận với lòng trời. Kẻ thiếu hiểu biết nghĩ rằng mình có thể thay đổi tất cả và làm những việc trái với luân thường đạo lý, trái với luật thiên nhiên và dĩ nhiên kết quả sẽ không đi đến đâu. Con người chỉ có thể kiểm soát được hành động của mình chứ không thể kiểm soát được kết quả. Do đó Pharaoh phải là người biết rõ các định luật thiên nhiên này và hành động theo đó.

Ta có thể gây chiến với Nubia hay gìn giữ sự giao hảo giữa hai nước nhưng kết quả ra sao thì ta không thể biết được. Tuy nhiên ta hy vọng nhờ sự hiểu biết của ta mà Ai Cập sẽ tiến bộ và khi Ai Cập tiến bộ, nó sẽ ảnh hưởng đến những quốc gia chung quanh, và theo thời gian một nền văn minh tiến bộ thực sự sẽ được phát triển khắp nơi."

Hoàng đế Amenophis đưa mắt nhìn lên bầu trời mênh mông, tiếp:

- Đó là sứ mạng của ta. Sứ mạng của Pharaoh với đúng ý nghĩa cao đẹp của nó.

Chúng tôi im lặng, mỗi người đều theo đuổi những cảm xúc riêng. Thời gian gần như ngưng lại cho đến khi Hoàng đế quay qua nói với quan Thiên Giám:

- Này quan Thiên Giám, gần đây ta đã quan sát rất kỹ những biến chuyển của những bầu tinh tú. Theo sự suy nghiệm của ta thì hiện nay nhân loại đang ở trong khúc quanh thấp nhất của một chu kỳ và hiển nhiên đang ở trong giai đoạn chuyển tiếp. Ta cảm thấy có sự cằn cỗi, suy hoại trong các nhịp điệu điều hòa của thiên nhiên. Mối tương quan giữa con người và thiên nhiên dường như hoàn toàn bị gián đoạn. Sự giao cảm giữa người và cây cỏ, giữa các sinh vật và khoáng vật chỉ còn là những rung động mơ hồ.

Ta thấy rõ sự hoài nghi chán nản mỗi ngày một lan rộng khắp nơi; các giá trị đạo đức, tâm linh bị coi thường và tiếng nói huyền diệu của thiên nhiên chỉ là một tiếng vang ngoài sa mạc.

Ta thấy rõ các giáo sĩ đã không làm tròn nhiệm vụ hướng dẫn tâm thức con người. Các tôn giáo thờ thần linh đã gây chia rẽ khắp nơi, giáo sĩ nào cũng cho rằng giáo lý của mình đúng nhất, hay nhất và chê bai những giáo lý khác. Tín đồ các tôn giáo cũng cho đấng thần linh của mình mạnh nhất và nhiều quyền lực nhất.

Ta thấy rõ sự liên hệ giữa con người với nhau cũng ngày một suy đồi và chỉ còn sự tranh giành, bóc lột, cướp đoạt, thù hằn, lợi dụng lẫn nhau không thương tiếc.

Ta thấy rõ thảm họa chiến tranh chỉ còn trong sớm tối vì quốc gia nào cũng lo chuẩn bị cho một cuộc chiến không thể tránh.

Ta thấy rõ tiềm lực của nhân loại đang bị hoang phí cho những giấc mộng viển vông, những ảo vọng của những kẻ lãnh đạo nhiều tham vọng nhưng thiếu hiểu biết.

Làm vua, ai chẳng muốn tìm cho mình những bầy tôi trung thành, những hiền tài để giúp nước, vậy mà trải qua bao đời, tại sao các quốc gia quanh vùng đều suy kiệt, hết vua này đến vua khác đều đưa quốc gia đến chỗ suy vong, phá gia hại nước.

Ta đã suy nghiệm về điều này và thấy rằng người mà vua cho là bầy tôi trung, thật ra chẳng trung thành chút nào. Người vua cho là tướng giỏi, thật ra cũng chẳng giỏi gì. Họ chỉ biết nghĩ đến quyền lợi của mình hay phe nhóm mình mà thôi. Vì phần đông các vua chúa đều mê muội trong việc dùng người như vậy mà xứ Nubia đã mất đi phân nửa đất đai và kinh tế xứ Hitites thì kiệt quệ, dân tình đói khổ triền miên.

Ngay trong triều đình ta, đa số các quan vẫn còn nuối tiếc những chiến thắng ngày trước, những cuộc xâm lăng đẫm máu, mượn danh nghĩa mở mang bờ cõi, nhưng thật ra chỉ là những cuộc tranh cướp đất đai, tài nguyên. Sự hận thù giữa Ai Cập và các quốc gia lân cận ngày một gia tăng và nước nào cũng lo tăng cường binh lực, chờ dịp xâm lăng chém giết lẫn nhau.

Là Pharaoh, ta có thể theo gương cha ta, mang quân chinh phạt khắp nơi, tiếp tục bành trướng bờ cõi Ai Cập. Tuy nhiên ta thấy trọn đời cha của ta chỉ biết đến chiến tranh, lúc nào cũng lo sợ Ai Cập bị các xứ láng giềng đánh úp. Cha ta đã sử dụng hầu hết các tiềm lực quốc gia cho quân sự và trong suốt mấy chục năm nay, Ai Cập chưa được hưởng một ngày thái bình. Chẳng gia đình nào lại không có người chết trận, và không vùng đất nào lại không đầy những uất khí của những kẻ tử trận.

Ta đã sống một mình trong sa mạc hoang vu, hằng đêm ta vẫn nghe tiếng than khóc ai oán của các hồn ma. Không! Ta không thể tiếp tục đi theo vết chân của cha ta được! Ta không thể để cho Ai Cập tiếp tục lăn theo những vết xe lịch sử. Đã đến lúc Ai Cập cần một thay đổi lớn, một sự thay đổi tận gốc rễ."

Quan Thiên Giám ngập ngừng:

- Thưa Pharaoh, theo thiển ý thì chúng ta đang ở trong một giai đoạn hắc ám xấu xa, trong lúc này bất cứ sự thay đổi nào cũng đều bất lợi.

Hoàng đế Amenophis mỉm cười:

- Này quan Thiên Giám, ông là thầy của ta và đã dạy dỗ ta rất nhiều, nhưng ta cũng có sự quan sát và quyết định của riêng ta.

Quan Thiên Giám im lặng suy nghĩ rồi mạnh dạn lên tiếng:

- "Thưa Pharaoh. Suốt bao năm nay thần đã quan sát và nghiên cứu kỹ lưỡng các bầu thiên thể cai quản vận mạng con người cũng như các quốc gia. Hẳn ngài cũng biết trong chu kỳ trước đã có những sự thay đổi hết sức lớn lao, ảnh hưởng đến khắp mọi loài trên trái đất.

Ngài đã từng biết về những thiên tai, những trận đại hồng thủy thay đổi hoàn toàn các chủng loại trên mặt địa cầu.

Ngài đã được chỉ dẫn về những điềm báo trước, thời kỳ mà các tai ương, hoạn nạn, thiên tai, bệnh tật, chiến tranh xảy ra một cách đột ngột, bất ngờ hơn những thời kỳ khác.

Ngài đã được học hỏi về thời kỳ mà toàn thể nhân loại đều bị ô nhiễm vì chịu ảnh hưởng xấu xa từ thể xác đến tinh thần và trở nên sa đọa đến cực điểm.

Ngài cũng biết rằng có thời kỳ mà sự tranh chấp xảy ra liên miên khắp nơi, các thảm cảnh như chiến tranh, bóc lột, ngược đãi, khủng bố, đàn áp và rồi các bệnh tật, tai ương lan tràn và sau cùng là các thiên tai như hạn hán, bão tố, động đất, núi lửa phun rồi toàn thể địa cầu sẽ thay đổi một cách nhanh chóng bất ngờ và phũ phàng hơn mọi sự tưởng tượng.

Theo sự quan sát của thần thì hiện nay chúng ta đang ở trong thời buổi hắc ám tương tự, do đó thần mong ngài hãy suy nghĩ lại trước khi cho thi hành những đường lối cải cách vì không ai biết kết quả xấu tốt sẽ như thế nào."

Hoàng đế Amenophis thong thả nói:

- "Ta hiểu rõ sự liên hệ của các bầu tinh tú cũng như ảnh hưởng của chúng đối với mọi sinh vật. Ta cũng biết quan sát các bầu thiên thể đang di chuyển vào những cung rất xấu nhưng ta cũng thấy bầu thiên thể lớn nhất là ngôi Thái Dương đang nằm ở một vị trí đối lập với các bầu thiên thể kia, do đó ta không tuyệt vọng như ông.

Ta biết nếu không có ảnh hưởng của ngôi Thái Dương thì tất cả mọi sinh vật trên trái đất này đều chết hết cả rồi. Chúng ta, những người đã được truyền dạy về kiến thức bí truyền, những người luôn luôn phóng tầm mắt ra ngoài vũ trụ để tìm hiểu những năng lực bí ẩn ảnh hưởng đến vận mạng con người hầu đi đến những quyết định hợp thời, hợp cảnh.

Này quan Thiên Giám, chúng ta cũng có đủ khôn ngoan để biết rằng, nếu các bầu tinh tú có thể ảnh hưởng đến con người thì con người cũng có thể ảnh hưởng đến các bầu tinh tú. Bằng sự đổi thay qua sức mạnh của ý chí, chúng ta có thể thắng đoạt các nghịch cảnh và chế ngự các khuynh hướng bất hảo. Nếu con người biết phục thiện, biết nhì nnhận các lỗi lầm quá khứ, biết thay đổi đường hướng cho tương lai thì họ có thể thay đổi vận mạng của mình, của xã hội, của quốc gia, chứ không thụ động, cam chịu mặc cho số phận đưa đẩy đến đâu hay đến đó."

Quan Thiên Giám thở dài:

- Theo sự tính toán của kẻ này thì thời điểm hoàng kim đó chưa đến đâu. Có lẽ phải cần thời gian...

Hoàng đế Amenophis lắc đầu:

- Ta biết sự thay đổi nào cũng cần một thời gian nhưng thời gian là điều ta không thể kiểm soát được. Hôm nay ta đang nói chuyện với các ông nhưng ngày mai ta sẽ ra sao là điều ta không thể biết được. Chỉ một kẻ liều lĩnh với lưỡi dao nhọn, hay một tên nô lệ với liều thuốc độc là tất cả sẽ đổi khác, nhưng ta không thể vì quá lo lắng cho mình mà để cho Ai Cập đi vào tình trạng thoái hóa đó được...

Horemheb khẳng khái vỗ mạnh lên ngực:

- Xin Hoàng đế chớ lo ngại. Ngày nào kẻ này còn được ở bên ngài thì không một kẻ liều lĩnh nào có thể đụng chạm đến ngài được.

Tự nhiên tôi cũng cảm thấy một bầu nhiệt huyết ở đâu dâng lên:

- Xin Hoàng đế hãy yên chí. Ngày nào tên y sĩ này còn ở bên ngài thì không một liều độc dược nào có thể qua mắt kẻ này được.

Hoàng đế Amenophis có vẻ hài lòng. Ông mỉm cười:

- "Hay lắm! Nếu các quan trong triều đều một lòng như các ngươi thì làm gì mà kế hoạch cải tổ và phục hưng Ai Cập của ta chẳng thành công. Ta chỉ mong Ai Cập sẽ hùng cường, không phải bằng lực lượng quân sự mà bằng một nền văn hóa và tôn giáo đầy minh triết. Ta muốn biến Ai Cập thành một trung tâm văn minh của thế giới.

Này quan Thiên Giám, ông hãy nhìn kỹ vị trí của ngôi Thái Dương, nó đứng một mình đối diện với các bầu thiên thể khác mà vẫn tỏa ánh sáng, nuôi sống muôn loài. Chính nhờ quan sát ngôi Thái Dương trong bao năm nay mà ta biết rằng sự thật không bao giờ thay đổi và không sức mạnh nào có thể khuất phục được nó.

Do đó, với tư cách một Pharaoh, ta phải can đảm, dũng mãnh và cương quyết thay đổi đường lối cai trị hà khắc hiện nay vì một người hiểu biết như ta không thể làm những việc trái với lương tâm được."

Hoàng đế ngưng nói, chỉ tay về phía chân trời. Bình minh đang bắt đầu. Một giải mây đỏ ửng từ từ xuất hiện rồi một bầu ánh sáng chói chan tỏa lan ra khắp nơi. Ánh sáng soi đến đâu, màn đêm tan biến đến đó và ngôi Thái Dương xuất hiện như một chiếc đĩa tròn (Aten) rực rỡ hơn bao giờ hết.

Hoàng đế Amenophis quỳ xuống đất kêu lớn:

- Hỡi Aten, xin cho con sức mạnh để thực hiện những việc đúng với sứ mạng của con.

Quan Thiên Giám ra hiệu cho chúng tôi quì cả xuống bên cạnh Pharaoh. Hoàng đế tiếp tục cầu nguyện:

- Hỡi Aten, xin cho con hòa nhập với ngài, để cho con có được sự minh triết như ngài... Re-Harakhty. (Đây là câu thần chú ghi ở phần đầu cuốn Tử Thư Ai Cập nói về sự tái sinh hay đổi mới. Dịch sát nghĩa là sự hòa nhập với mặt trời nơi cuối chân trời hay sự tiến lên cõi sáng - Ghi chú của dịch giả).

Hoàng đế Amenophis giơ hai tay ra như muốn ôm lấy mặt trời nhưng ông loạng choạng suýt ngã. Horemheb vội vã bước lại đỡ lấy ông nhưng ông đã lấy tay vuốt ngực rồi nói nhỏ:

- Ta phải cẩn thận hơn. Mỗi lần chiêm ngưỡng sự rực rỡ của ngôi Thái Dương thì ta lại xúc động. Thôi, các ngươi hãy lui ra để ta nghỉ ngơi một lúc.

Ra khỏi phòng, Horemheb vỗ mạnh lên vai tôi:

- t*o rất mừng thấy mày nhận lời săn sóc Hoàng đế. Từ nay t*o và mày sẽ gần nhau hơn và t*o sẽ đưa mày đi chơi khắp thành Memphis.



Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



đến trang 123

#8 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6740 Bài viết:
  • 5562 thanks

Gửi vào 19/07/2020 - 08:28

CHƯƠNG 5



Khi tôi và Horemheb bước vào cung điện thì Hoàng đế Amenophis đang ngồi làm mẫu cho các nhà điêu khắc tạc hình ngài. Theo truyền thống, các Pharaoh đều cho tạc một pho tượng mẫu làm tiêu chuẩn cho việc khắc ghi hình ảnh của mình trong các đền đài, lăng tẩm, cột trụ, bia đá để lại cho đời sau. Việc chọn bức tượng mẫu là điều vô cùng quan trọng nên các Pharaoh đều xét rất kỹ pho tượng này cho đến khi thật vừa ý mới thôi.

Vừa thấy chúng tôi, Hoàng đế Amenophis đã hỏi:

- Này Horemheb, ngươi thấy những bức tượng này như thế nào?

Horemheb nhìn ngắm qua loa một vài pho tượng rồi khéo léo nói:

- Pho tượng nào cũng đẹp cả, hạ thần là kẻ chỉ biết dùng kiếm chứ không biết gì nhiều về nghệ thuật, xin Pharaoh hãy hỏi những người có khiếu thẩm mỹ hơn.

Hoàng đế quay qua tôi:

- Phần ngươi thấy sao?

Tôi chăm chú quan sát những pho tượng nhưng thất vọng vì không hiểu sao chúng không giống Hoàng đế chút nào. Pharaoh Amenophis có khuôn mặt dài như mặt ngựa, đôi lông mày rất rậm và hai con mắt lớn, gần như lồi ra. Theo tiêu chuẩn lúc đó thì ngài không phải là người đẹp trai cho lắm nhưng đa số pho tượng nào cũng tạc ngài có khuôn mặt vuông vức, cặp mắt oai nghiêm với những đường nét hùng tráng. Tuy Hoàng đế cao lớn nhưng vì ít hoạt động nên bụng ngài cũng to hơn người thường. Thế mà các nhà điêu khắc lại tạc ngài có một thân thể cân đối, khỏe mạnh, ngực nở, bụng thon. Tôi định lên tiếng phê bình thì bỗng Horemheb đằng hắng một tiếng lớn khiến tôi giật mình ấp úng, nửa muốn nói, nửa lại ngại ngùng.

Hoàng đế mỉm cười:

- Ta đang trách các nhà điêu khắc vụng về vì các pho tượng này không giống ta chút nào. Ta muốn họ tạc lại cho đúng với sự thật... Này Sinuhe, ngươi đừng ngại ngùng gì, cứ thẳng thắn nói đi.

- Hạ thần đồng ý với nhận xét của Pharaoh.

Nghe thế, Horemheb liền phát tay ra hiệu cho các nhà điêu khắc:

- Các ông đã nghe rõ lệnh của Pharaoh chưa?

Các điêu khắc nhìn nhau ngơ ngác. Theo truyền thống Ai Cập, Pharaoh vừa là người, vừa là thần, làm trung gian giữa các sức mạnh huyền bí và các kiến thức siêu việt. Một người như thế phải có hình dáng oai nghiêm, hùng tráng khác thường chứ tạc hình một kẻ mặt dài, mắt lồi, bụng phệ thì có khác gì chế giễu Hoàng đế? Tội phạm thượng như thế có thể bị quăng vào hầm sư tử đói ngay. Không những thế, đây là bức tượng mẫu làm chuẩn cho mọi công trình kiến trúc, nghệ thuật và tài liệu lịch sử sau này. Không lẽ trong các lăng tẩm, bia đá, thạch trụ lại tạc hình một người xấu trai như thế sao?

Hình như đoán được ý các nhà điêu khắc, Hoàng đế Amenophis mỉm cười khuyên:

- Các ông hãy làm việc cho đúng với sự thật, đừng thay đổi hay thêm thắt gì. Nghệ thuật chân chính là việc nói lên sự thật vì chỉ có sự thật mới tồn tại muôn đời. Các ông đừng vẽ vời những đường nét không đúng với sự thật.

Các nhà điêu khắc vội vã bắt tay vào việc. Hoàng đế Amenophis thong thả ngồi xuống ghế làm mẫu. Một gã nô lệ đưa vào một đoàn hát giúp vui. Horemheb ra dấu cho tôi ngồi xuống nghe nhưng tôi không phải là người biết thưởng thức âm nhạc nên chỉ ngồi nghe lấy lệ. Truyền thống âm nhạc Ai Cập gắn liền với tôn giáo, đa số các nhạc sĩ đều được giáo dục cẩn thận trong các đền thờ vì âm nhạc chính là những nghi thức tôn giáo. Cũng vì thế, đối tượng của âm nhạc luôn luôn bị giới hạn và tập trung vào việc ca tụng thần linh hoặc công lao của Pharaoh mà thôi.

Nghe một lúc, Hoàng đế Amenophis nhăn mặt:

- Ta chán những loại âm nhạc như thế này rồi. Horemheb hãy ra ngoài thành tìm cho ta một đoàn hát rong vào đây.

Đoàn hát rong là những nghệ sĩ lang thang sống rày đây mai đó và không chịu sự quản thúc của các giáo sĩ trong đền thờ. Không những người hát rong có một loại nhạc khác thường mà còn sử dụng các nhạc khí khác hẳn với các nhạc khí truyền thống. Vì không chịu tuân theo các khuôn mẫu tôn giáo nên đối tượng âm nhạc của họ rất tự do, phóng khoáng và vì thế các nhóm hát rong đều bị giới giáo sĩ lên án gắt gao. Có nhiều lúc họ bị ngược đãi, tù đày và loại nhạc của họ bị cấm đoán nhưng họ vẫn lén lút hoạt động vì nhạc của họ thích hợp với lòng dân hơn các loại nhạc truyền thống tôn giáo.

Một lúc sau, Horemheb dẫn vào một đoàn hát rong phục sức rất lạ lùng. Họ ngơ ngác nhìn Pharaoh với một vẻ e dè, sợ sệt vì không biết vị hoàng đế này muốn gì.

Đoàn hát gồm một ông già sử dụng nhạc khí, hai thanh niên chuyên nhào lộn biểu diễn và ba cô gái vừa múa, vừa hát, vừa kể chuyện cổ tích dân gian. Được lệnh, họ bắt đầu trổ tài nhưng có lẽ còn e ngại nên họ tự giới hạn việc trình diễn trong các bản nhạc truyền thống mà thôi.

Nghe một lúc, Hoàng đế lên tiếng:

- Phải chăng các ngươi từ miền Đông đến?

- Thưa vâng, chúng tôi đến từ vùng Beda.

Hoàng đế gật đầu ra lệnh:

- Nếu vậy ta muốn nghe những bài hát đặc biệt của dân Palestine.

Đối với người Ai Cập, Palestine chỉ là miền sa mạc hoang vu, dân cư thưa thớt sống quanh những ốc đảo và bị coi khinh là man di mọi rợ. Việc Pharaoh thưởng thức nhạc của kẻ thiếu văn minh này là một điều hết sức bất ngờ cho những nhạc công trong triều. Tôi nhìn rõ những nét mặt khó chịu, đầy bất mãn của họ nhưng dĩ nhiên không ai dám có phản ứng gì. Tôi ngồi nghe một lúc rồi nhân cơ hội không ai để ý, chuồn về nhà trọ nghỉ ngơi.

Việc một Pharaoh lại thích nghe những loại nhạc dân gian này được loan truyền khắp thủ đô. Người ta bàn tán xôn xao, người chê, kẻ khen nhưng vài hôm sau khi có tin một đoàn hát rong khác cũng được mời vào cung trình diễn thì dư luận đã thay đổi nhanh chóng. Khắp Memphis, các đoàn hát rong ở đâu xuất hiện như cỏ dại sau cơn mưa rào. Các bài hát với thể nhạc và âm điệu mới được dịp phổ biến và lan rộng khắp nơi.

Ít lâu sau, khi pho tượng mẫu của Hoàng đế Amenophis đời thứ tư được hoàn tất thì người ta còn sửng sốt hơn nữa. Đây là lần đầu tiên người Ai Cập thấy Pharaoh của họ có đường nét giống người hơn là một vị thần. Pho tượng Pharaoh có khuôn mặt dài, lông mày rậm, mắt lồi và chiếc bụng khá lớn đã trở thành đề tài của nhiều cuộc bàn cãi sôi nổi. Người bảo thủ thì chê Pharaoh không có khiếu thẩm mỹ nhưng giới nghệ sĩ đã dẫn chứng câu nói của Pharaoh: Nghệ thuật chân chính là việc nói lên sự thật vì chỉ có sự thật mới tồn tại muôn đời" như bằng chứng cho sự thay đổi đang bắt đầu.

Theo truyền thống, cửa cung điện luôn luôn đặt một tấm bia đá ghi chép công trạng của Pharaoh đương thời. Khi vua qua đời, tấm bia đá này sẽ được chôn theo mộ vua như một chứng tích về cuộc đời và công trạng hiển hách của hoàng đế đối với lịch sử Ai Cập. Vì tầm mức quan trọng của nó, các Pharaoh đều cho khắc thêm hình ảnh của mình oai nghiêm ngồi trên ngai vàng với các thần linh bao quanh che chở và ban phép lành.

Đến đời Pharaoh Ahmose, nhà vua cho khắc hình ảnh của vua và mẹ vua, Thái hậu Ebana, ngồi cạnh nhau. Đây là lần đầu trong lịch sử Ai Cập, hình ảnh một người đàn bà được khắc lên tấm bia đá danh dự này. Trong suốt mấy chục năm, Hoàng đế Ahmose phải lo đánh nam dẹp bắc, mở mang bờ cõi cho Ai Cập nên mẹ vua, Thái hậu Ebana, đã thay mặt ông trông coi việc triều chính, do đó bà được hưởng danh dự này.

Đến đời Pharaoh Amenophis đệ nhất, nhà vua cũng cho khắc hình ảnh mình và mẹ mình, Thái hậu Nofretari, lên bia đá. Sở dĩ Thái hậu Nofretari được tôn sùng vì bà đã cho xây nhiều đền thờ khắp nước và được giới giáo sĩ coi là ân nhân lớn của họ. Hình ảnh bà và Pharaoh đang làm lễ dâng hương trước bàn thờ thần linh, với các giáo sĩ đứng hầu chung quanh, đã nói lên lòng sùng tín và sức mạnh của tôn giáo trong triều đại này.

Pharaoh Amenophis đệ nhị có công mở mang bờ cõi lên miền bắc. Ông chiếm đất Palestine và Syria, bắt sống hai vị vua xứ này rồi cầm tù họ trong nhiều năm trước khi thả ra. Ông cho khắc hình ảnh của mình oai hùng ngồi&nbsp trên xe ngựa với hai vị vua xứ kia bị trói ở phía sau.

Theo gương cha, Pharaoh Amenophis đệ tam tiếp tục mở mang bờ cõi cho Ai Cập. Phía bắc, ông đánh phá Syria và Palestine, bắt hai xứ này qui phục làm chư hầu, hàng năm phải triều cống. Phía nam, ông xua quân chiếm Nubia và bắt hàng ngàn trẻ con xứ này mang về Ai Cập làm nô lệ. Vua xứ Nubia phải cắt một nửa lãnh thổ, những vùng có mỏ vàng mỏ bạc, cống hiến cho Ai Cập. Không như Syria và Palestine là nước chư hầu, Nubia trở thành thuộc địa, đặt dưới sự cai quản của một hoàng thân có công lớn là OkaMazuk (ông ngoại tôi). Pharaoh Amenophis đệ tam đã cho ghi khắc hình ảnh của mình oai hùng ngồi trên xe ngựa, theo sau là những đoàn xe chuyên chở tài nguyên, chiến lợi phẩm, cùng rất nhiều nô lệ bị trói dẫn đi theo xe.
Dư luận Ai Cập bắt đầu bàn tán, không biết Pharaoh Amenophis đệ tứ sẽ cho ghi khắc hình ảnh, công trạng của mình như thế nào lên tấm bia đá danh dự kia? Không lẽ lại tạc hình một kẻ mặt dài, lông mày rậm, bụng to ngồi xem các đoàn hát rong trình diễn? Khắp Memphis, người ta đã bàn bạc và đánh cá với nhau về hình ảnh ghi khắc trên tấm bia này cho đến khi nó được công bố: Theo gương cha và ông nội, Hoàng đế Amenophis đời thứ tư cũng cho khắc hình ảnh của mình đứng trên xe ngựa. Thay vì cầm gươm thì nhà vua lại cầm một bó hoa và đang ôm hôn Hoàng hậu Nefertiti một cách nồng nàn. Thay vì có các thần linh bao quanh che chở thì nhà vua cho khắc một chiếc đĩa vàng (Aten) to lớn, tượng trưng cho ngôi Thái Dương. Ngay trên tấm bia, Hoàng đế còn ban sắc lệnh thay đổi danh hiệu cho mình từ Amenophis đời thứ tư thành Akhenaten đời thứ nhất.

(Akhenaten có thể tạm dịch là thuận theo ý trời hay ngôi Thái Dương, tượng trưng bằng chiếc đĩa tròn (Aten). Chữ Akhen có nghĩa là hoàn toàn dâng hiến. Chữ Khen, gốc ở bộ chữ Shu còn có nghĩa là ánh sáng hướng dẫn. Cuốn Tử Thư Ai Cập đề cập rất nhiều đến bộ chữ Shu và sử dụng chữ Khen như luồng sáng hướng dẫn linh hồn đi tái sinh hay sự đổi mới. - Ghi chú của dịch giả)

Tấm bia đá lịch sử này đã tạo ra một chấn động lớn khắp nước. Giới giáo sĩ cực lực phản đối vị lãnh đạo tinh thần của họ vì không chú trọng gì đến các thần linh mà chỉ đề cao một chiếc đĩa tròn, tượng trưng cho ngôi Thái Dương. Ngoài ra họ cũng bất mãn về việc nhà vua cho khắc hình ảnh một người đàn bà, chưa có công trạng gì rõ rệt, lên tấm bia đá danh dự. Giới quan lại cũng hết sức khó chịu vì việc đầu tiên Pharaoh ban hành là những đạo luật giảm thuế, bãi bỏ việc sưu tra để bắt đinh và cắt giảm quyền hành của một số quan lại và giáo sĩ. Giới quân nhân cũng phản đối vị lãnh đạo quân sự của họ, thay vì cầm gươm giáo lại cầm một bó hoa. Một vị chỉ huy thích hoa và đàn bà hơn gươm giáo như thế sẽ khó lòng gây chiến tranh và nếu không có chiến tranh thì quân đội sẽ không được hưởng các quyền lợi vật chất như đất đai, nô lệ; đó là chưa kể việc thăng quan tiến chức nhờ chiến tranh.

Tuy nhiên với người dân Ai Cập thì việc có một Pharaoh"khác thường" này đã tạo ra nhiều thích thú bất ngờ và mở đầu cho một phong trào cải cách chưa từng có trong lịch sử. Người ta bắt đầu nói đến tình yêu nam nữ trong văn chương và âm nhạc; người ta đề cập đến thời trang phụ nữ qua hình ảnh Hoàng hậu Nefertiti.

Khi mối đe dọa của chiến tranh không còn nữa, qua những hòa ước ký kết với các nước láng giềng, thì người dân Ai Cập bắt đầu lo kiến thiết. Các công trình xây cất được khởi công từ Abka, sát biên giới Nubia đến Beda, biên giới Palestins. Khắp nơi, các thi sĩ được tự do làm thơ, các đoàn hát rong được tự do phổ biến tư tưởng mới lạ và nhiều môn văn học nghệ thuật mới được phát sinh.

Người Ai Cập rất thích bích họa nhưng hầu như từ trước đến nay, mọi tranh ảnh đều có tính cách tôn giáo, miêu tả giai thoại phục sinh của thần Osiris hay việc xét xử của thần Horus. Kể từ lúc Hoàng đế Akhenaten lên ngôi, không đề cao thần linh nữa, thì những bức tranh miêu tả đời sống bình thường của người dân bắt đầu xuất hiện. Tranh vẽ cảnh dân chúng làm ruộng, cảnh những thuyền đánh cá trên sông Nile, cảnh trẻ con chơi đùa trong những ngày hội v.v... được vẽ nhan nhản khắp nơi. Các họa sĩ đua nhau sáng tác, các trường phái hội họa ra đời đưa nghệ thuật hội họa Ai Cập lên một địa vị quan trọng chưa từng có.

Ngành thủ công nghệ cũng phát triển. Các hàng sợi dệt được phổ biến khắp nơi nên thời trang cũng bắt đầu thay đổi. Mái tóc của phụ nữ được chải chuốt và bới cao lên thay vì để xõa, rồi được tô điểm bằng những màu sắc lạ lùng. Đồ trang sức, mỹ phẩm từ các xứ quanh vùng như Assyria, BaTư, Babylon, A Phú Hãn, Ấn Độ được dịp tràn vào thị trường Ai Cập khiến việc buôn bán, trao đổi hàng hóa phát triển mãnh liệt. Những bộ lạc Do Thái nghèo đói sống vất vưởng trong vùng Palestine bỗng trở nên những con buôn thiện nghệ, hăng hái tìm đến những nơi xa xôi mua những thứ hiếm có để bán tại Ai Cập.

Từ trước đến nay, văn kiện, thư từ đều được khắc lên bảng đá hoặc ghi lại trên giấy chỉ thảo rất tốn kém, chỉ dành cho triều đình và giới quí tộc. Từ lâu, người Ba Tư đã phát kiến ra việc sử dụng những mảnh đất sét để khắc chữ vào rồi nung lên để giữ được lâu nên việc liên lạc, truyền thông đã được phổ biến mạnh mẽ. Ba Tư là xứ yêu chuộng văn chương, thơ phú nên thơ văn ghi chép trên những mảnh đất nung này cũng theo hàng hóa truyền vào Ai Cập. Các bài thơ ghi trên mảnh ngói được thanh niên nam nữ truyền tay nhau đọc rất nhiều.

Chỉ một thời gian ngắn sau khi Hoàng đế Akhenaten lên ngôi, bộ mặt của Ai Cập đã đổi khác. Từ Memphis đến Thebes, từ Edfu đến Hiba đều tràn ngập những đoàn thương buôn khắp nơi kéo đến mua bán, đổi chác.

Đối với người Ai Cập, Pharaoh là một vị thần có trách nhiệm cai trị xứ này, quyền hành của Pharaoh là tuyệt đối, kẻ nào bất tuân sẽ bị xử tử, nên dù không đồng ý với chủ trương cải cách của Akhenaten nhưng không ai dám tỏ thái độ. Sau Pharaoh là giới giáo sĩ, làm trung gian giữa thần và người, phụ tá cho Pharaoh trong việc cai trị Ai Cập. Dù Pharaoh được truyền ngôi cho con nhưng người này chỉ chính thức trở thành Pharaoh sau khi được các giáo sĩ làm nghi lễ phong vương. Trong buổi lễ này, Pharaoh sẽ hứa hẹn với thần linh một số điều kiện như cúng lễ vật, xây cất đền thờ, hoặc ban hành các đạo luật dành nhiều quyền lợi cho giới giáo sĩ.

Không ai biết lúc lên ngôi, Akhenaten đã hứa hẹn những gì nhưng việc ông thay đổi nghi thức trong triều, không đề cao thần linh mà tôn thờ chiếc đĩa tròn (Aten) tượng trưng cho ngôi Thái Dương đã làm giới giáo sĩ quan tâm nhưng họ chưa dám tỏ thái độ. Đa số chưa quên biến cố phản loạn vừa xảy ra. Mặc dù Akhenaten đã ra lệnh thiêu hủy chứng tích, không trừng phạt ai nhưng mọi người đều biết Smenkere là người đã đích thân điều tra, phát hiện các phần tử phản nghịch nên ai cũng kiêng nể ông này. Việc Akhenaten phá lệ, phong cho một người ngoài dòng họ như Smenkere làm tể tướng đã củng cố ngôi vị của Pharaoh thêm vững chắc.

Người Ai Cập tôn thờ rất nhiều thần linh, hầu như làng mạc, thôn xóm nào cũng có những vị thần địa phương như thần làng, thần cây, thần sông, thần núi. Không những thế, mỗi gia tộc còn có những thần linh trông nom gia tộc của họ. Họ xây cất một nhà từ đường để những người trong gia tộc đến đó lễ bái, cầu xin. Trên nguyên tắc, thần gia tộc không nhiều quyền lực như thần làng, thần làng không nhiều quyền lực bằng thần tỉnh, và thần tỉnh không bằng các thần linh cai trị những vùng có phạm vi địa lý rộng lớn hơn.

Có hàng ngàn thần linh và những thần này luôn luôn thay đổi tùy theo các biến cố xảy ra trong xã hội loài người. Một gia đình giàu có, thế lực, có thể ảnh hưởng đến cả làng, có nghĩa là vị thần gia tộc đó đã mạnh hơn vị thần làng. Người gia trưởng của gia tộc đó có quyền làm lễ truất phế thần làng, bắt mọi người trong làng phải thờ cúng vị thần gia tộc của mình và phong vị này lên chức thần làng. Khi một người làm quan lớn, được Pharaoh ban cho cả một vùng đất thì thần gia tộc đó được suy tôn thành vị thần trông coi toàn vùng đó, và hiển nhiên mọi người trong vùng đều phải thờ cúng vị thần này.

Mỗi khi các thành phố hay làng xã được sát nhập vào nhau thì dân chúng các vùng liên hệ sẽ bàn tính thảo luận xem thần nào phải ra đi và thần nào ở lại để được thờ cúng. Do đó danh hiệu và quyền lực các vị thần luôn luôn thay đổitùy theo các biến cố xã hội.

Ngoài ra còn có những vị thần sông, thần núi, thần sa mạc, thần đất, thần cây, thần mặt trời, mặt trăng, thần công lý, và các vị thần cai quản các cõi giới vô hình nữa. Vì có quá nhiều thần linh và danh xưng thay đổi luôn luôn nên chỉ các giáo sĩ mới thuộc hết tên các vị thần và biết làm các lễ nghi thờ cúng mà thôi. Từ đó, giới giáo sĩ trở nên một quyền lực rất mạnh vì làm trung gian giữa thần và người. Họ chỉ thua có Pharaoh vốn vừa là người vừa là thần. Tuy quyền lực giáo sĩ cao hơn các quan nhưng các quan lại có một quyền lực khác, thực tế hơn, là quân đội; cho nên giới giáo sĩ và quan lại thường hợp tác với nhau rất chặt chẽ để bảo vệ quyền lợi cũng như quyền lực của đôi bên.

Ngoài các thần linh địa phương, người Ai Cập còn thờ phụng những thần khác như Thoth, vị thần tượng trưng cho minh triết. Theo truyền thuyết, chính Thoth đã hướng dẫn dân chúng xứ này cách cày bừa, canh tác, săn bắn và thờ cúng thần linh. Những lời dạy bảo của thần Thoth được truyền tụng sâu rộng trong dân gian và được đúc kết lại thành cuốn Tử Thư Ai Cập (Egyptian Book of the Dead). Nhiều người coi đó là cuốn sách nói về các nghi thức thờ cúng, đọc thần chú, làm lễ khâm liệm, tống táng người chết nhưng thật ra trong đó còn đề cập đến sự thành lập vũ trụ, quan niệm sống và một số đoản văn với những ẩn nghĩa huyền bí đặc biệt mà chỉ một số rất ít giáo sĩ hiểu được mà thôi.

Theo cuốn Tử Thư, lúc đầu vũ trụ chỉ là một luồng ánh sáng tinh khiết không có màu sắc (tượng trưng cho sự Tuyệt đối), nhưng sau phân chia ra thành hai màu đen và trắng hay ngày và đêm (tượng trưng cho sự Tương đối). Từ khi có sự phân chia này thì quan niệm hữu hình - vô hình, chánh tà, thiện ác, tốt xấu, bắt đầu nảy sinh. Chính sự phân chia này đã làm đảo lộn trật tự trong vũ trụ, tạo ra các động lực xoay vần theo các vòng xoáy và sinh ra những cảnh giới hữu hình cũng như vô hình. Trong cảnh giới hữu hình, các động lực tiếp tục xoay vần tạo ra tinh tú, rồi các tinh tú tiếp tục xoay vần phát sinh ra vô số các tinh tú khác, mãi mãi không bao giờ ngưng. Quan niệm về cái gọi là vô tận (infinity) mãi mãi không chấm dứt này chính là then chốt của cuốn Tử Thư Ai Cập vì nó ám chỉ vũ trụ tương đối chỉ là những động lực chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau nên không có sự chấm dứt (sự chết) mà chỉ có sự thay đổi, biến thiên, chuyển hóa, từ trạng thái này qua trạng thái khác, từ cõi giới này qua cõi giới khác, từ kiếp sống này qua kiếp sống khác, như ngày và đêm, sáng và tối, đen và trắng, v.v...

Ngoài nghi thức cúng tế người chết, cuốn Tử Thư Ai Cập(chương 13) còn đế cập đến sự sống: "Trong sự hỗn loạn của những xoay vần trong vũ trụ, thần Nu đã tạo ra trái đất nhưng lúc đó trái đất chưa có sự sống. (Nu được coi như vị thần đã tạo ra quả đất này). Chính nhờ ánh sáng của Ra (mặt trời) rọi xuống trái đất mà trái đất mới có sự sống và từ đó muôn loài phát sinh". Vì lý do này, Ra hay thần mặt trời, được tôn kính như vị thần trông coi sự sống.

Sách chép rõ: Ta là thần Temu (có khi gọi là Amu), đấng duy nhất mang ánh sáng của Ra (Thái dương) đến Suten-Henen (tên một vùng sa mạc ở Ai Cập). Từ ánh sáng của Ra mà sự sống bắt nguồn và từ đó tất cả mọi vật phát sinh.

Một số giáo sĩ cho rằng Temu là người đem ánh sáng của Ra đến trái đất và sinh ra loài người. Do đó Temu được coi là thủy tổ của loài người. Một số giáo sĩ khác quan niệm Temu là hóa thân của Ra, hay hình thức nhân cách hóa của Ra mà thôi. Vì là người đầu tiên trên trái đất nên Temu sinh sản bằng sự trực phân (thân thể tự động tách ra làm hai, làm bốn...) và đứa con đầu là Shu, sinh ra từ mắt bên phải của Temu. Lúc đó trời đất còn hỗn độn, chưa phân chia rõ rệt nên Shu đã dựng nên những cột trụ bằng đá để chống đỡ bầu trời, không cho trời sụp đổ xuống đất. Shu được coi là vị thần kiến thức vì Shu đã dạy cho loài người các kiến thức về toán học, vật lý, hóa học, thiên văn, kiến trúc, v.v...

(Ghi chú: Tất cả mọi công trình xây cất tại Ai Cập từ các thánh điện, đền thờ, đến kim tự tháp đều có ghi những dòng chữ rằng họ đã làm theo họa đồ và phương pháp xây cất của Shu).

Vì sở hữu kiến thức, tiêu biểu bằng chiếc cột chống trời của Shu, loài người không còn sống theo bản năng như loài thú mà bắt đầu biết suy nghĩ.

Tefnut là em gái của Shu, sinh ra từ mắt bên trái của Temu. Tefnut không thờ cúng mặt trời (tượng trưng cho sự sống) mà đặt ra nghi thức thờ cúng mặt trăng (tượng trưng cho sự chết). Thay vì dạy bảo những kiến thức khoa học như anh thì Tefnut lại đặt ra các nghi thức huyền bí, truyền dạy giới hạn cho một số người.

Cuốn Tử Thư Ai Cập đưa Temu, Shu và Tefnut lên địa vị ba ngôi (Trinity) với những mật nghĩa rất đặc biệt.

Seb là con trai của Shu, hay thần đất (Thổ thần).

Nut là vợ của Seb hay thần nước (Thủy thần).

Osiris là con của Seb và Nut và là vị Pharaoh đầu tiên của Ai Cập, Isis là vợ của Osiris và là hoàng hậu đầu tiên của Ai Cập.

Seth là em của Osiris, tranh giành ngôi Pharaoh với anh, rồi giết anh cắt thây thành mười bốn mảnh chôn quanh Ai Cập.

Isis, vợ của Osiris, lúc đó đang có thai, phải bỏ trốn vào một đạo viện và học hỏi được những giáo lý huyền môn. Isis lập đàn, đọc thần chú khiến cho Osiris tuy bị phân thây nhưng các mảnh này tự nhiên ráp lại rồi hồi sinh. (Sự hồi sinh của Osiris được giải thích như sự chiến thắng sự chết, sự chuyển hóa hay niềm hy vọng của con người).

Isis sinh ra Horus, và chính Horus sau này đã tranh lại ngôi vị Pharaoh từ Seth, chú ruột của mình. (Truyền thuyết về Osiris, Isis, Horus và Seth đã được truyền tụng từ đời này qua đời khác, gần như người Ai Cập nào cũng biết. Theo các nhà khảo cổ, đây là một trong những câu chuyện cổ nhất của lịch sử nhân loại. Các cổ mộ xây từ 4000 năm trước Công nguyên đều có đề cập đến sự tích này. - Ghi chú của dịch giả)

Osiris tuy chết nhưng hồi sinh nên trở thành vị thần cai quản cõi chết, có nhiệm vụ xét xử người chết. Isis nhờ học hỏi các kiến thức huyền bí, biết lập đàn tràng, đọc thần chú nên được coi là vị thần trông coi kiến thức huyền môn. Isis thường được tượng trưng bằng hình ảnh người đàn bà có khuôn mặt được che bằng một tấm lụa mỏng hay một thiếu nữ để một ngón tay lên miệng, ngụ ý rằng chân lý tuyệt đối vốn không thể tiết lộ hay nói được. Horus tượng trưng cho lòng can đảm, sự thật, lẽ phải và thường được vẽ lại qua hình ảnh một người đầu chim ó. (Đối với người Ai Cập, chim ó tượng trưng cho lẽ phải hay sự không sợ hãi). Seth vì giết anh, tranh ngôi nên được coi là tượng trưng của những gì xấu xa,& tàn ác, hung dữ và luôn luôn được vẽ như một người mặc áo đen. Cuộc tranh đấu giữa Horus và Seth còn được coi là sự tranh đấu giữa chánh và tà, giữa thiện và ác, giữa phải và trái, v.v...



Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




đến trang 136 Chương 6

#9 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6740 Bài viết:
  • 5562 thanks

Gửi vào 23/07/2020 - 14:15

CHƯƠNG 6



Một buổi chiều tôi đang đọc sách thì Horemheb đẩy cửa bước vào:

- Này Sinuhe, hôm nay t*o sẽ đưa mày đến một nơi mà mày sẽ không bao giờ quên được.

- Nơi nào thế?

Horemheb mim cười bí mật:

- t*o được thăng quan tiến chức là nhờ mày, nên hôm nay t*o đưa mày đi ăn mừng một bữa cho biết mùi đời.

Horemheb đưa tôi đến một biệt thự sang trọng nằm sát bờ sông Nile. Tuy đã từng qua lại hoàng cung mà tôi vẫn phải ngạc nhiên trước sự trang hoàng lộng lẫy của ngôi biệt thự này. Tôi đoán chủ nhân của nó hẳn phải là một bậc thân vương, đại thần vì thế đã sững sờ trước một thiếu nữ xinh đẹp, kiều diễm trong chiếc áo màu hồng nhạt với những nữ trang lạ lùng chưa từng thấy mà Horemheb cho biết đó mới chính là chủ nhân.

Cô ta ngồi trên chiếc ghế dài, quan sát mọi việc diễn ra chung quanh với một vẻ lạnh lùng, thản nhiên. Quanh đó còn có các thiếu nữ xinh đẹp khác đang tiếp đãi khách khứa mà tôi nhận ra một vài vị quan trong triều. Trên bàn tiệc bày đầy những sơn hào hải vị mà tôi chưa từng biết. Cuối phòng là một ban nhạc đang trình diễn những điệu nhạc kỳ lạ mà tôi chưa từng nghe.

Thấy vẻ ngơ ngác của tôi, Horemheb bật cười:

- Nhạc của dân Babylon đó, man rợ và đầy kích động, mày không biết ư?

- Không, t*o không biết gì về âm nhạc cả.

Horemheb là người quảng giao. Vừa đến nơi hắn đã đi vòng quanh các bàn tiệc thăm hỏi người này ít câu, chuyện trò với người khác vài thứ và liên tục uống rượu. Tôi rụt rè đi theo nhưng vì không biết uống rượu nên chỉ cười trừ. Khi chúng tôi ngồi xuống bàn thì một nhóm thiếu nữ xinh đẹp đã ùa đến bao quanh.

Horemheb cười ha hả, chỉ vào tôi:

- Đây là Sinuhe, em kết nghĩa của ta. Mọi việc đã có ta lo, các cô hãy tiếp đãi hắn cho tử tế.

Nhóm thiếu nữ chỉ chờ có thế, đua nhau mời mọc tôi đủ điều nhưng tôi không quen nên lắc đầu từ chối lia lịa. Từ trước đến nay tôi tiếp xúc với phụ nữ qua việc chữa trị, săn sóc bệnh nhân nên gặp hoàn cảnh này, tôi đâm ra lúng túng, không biết đối đáp ra sao. Vì không biết phải làm gì nên tôi chỉ ừ ào cho qua chuyện, bất chấp mọi lời mời mọc chào đón. Horemheb đã bước qua bàn khác, cười đùa ầm ĩ với một số bạn hữu quen biết từ trước. Các món ăn sang trọng, thơm phức được mang đến cho tôi nhưng vốn là người quen sống thanh bần, dù các cô mời tiếp mãi mà tôi vẫn không nuốt trôi. Thấy tôi không ăn mà cũng chẳng uống bao nhiêu, các thiếu nữ tỏ ra chán nản, dần dần kéo nhau qua bàn khác, mặc tôi ngồi đó ngơ ngác nhìn quanh. Tôi thấy nữ chủ nhân vẫn ngồi trên chiếc ghế dài, nét mặt lạnh lùng như băng trước sự ồn ào, náo nhiệt của căn phòng.

Tôi đang quan sát thì Malik, một đại quan trong triều từ bàn tiệc bước đến bên cạnh chủ nhân, đặt trước mặt cô một chuỗi ngọc sáng ngời và nói:

- Hãy cười lên đi em, hãy ban cho ta một cụ cười đi!

Nữ chủ nhân vẫn thản nhiên ngồi yên, sắc mặt lạnh lùng. Malik quì xuống ôm lấy chiếc chân trần của cô này mơn trớn:

- Nàng hay ban cho ta một nụ cười, chỉ một nụ cười thôi cũng đủ làm ấm lòng ta nhiều lắm rồi.

Người thiếu nữ vẫn dửng dưng, bất chấp quan đại thần cứ lải nhải nói những câu thừa thãi. Sau cùng dường như khó chịu, cô khẽ phất tay. Một người nô lệ da đen thân hình cao lớn, bước đến lôi xốc quan đại thần ra chỗ khác. Tôi ngạc nhiên vì Malik có quyền uy rất lớn trong triều, chỉ một lệnh ban ra đã có thể làm rơi hàng trăm chiếc đầu, thế mà ông ta vẫn để cho một tên nô lệ kéo đi như vậy mà không có phản ứng gì.

Một người lái buôn Ba Tư, thân hình cao lớn, bước đến bên nữ chủ nhân với một túi vàng lớn:

- Ta không cần em cười nhưng ít ra em hãy nói với ta một câu, chỉ một câu mà thôi là số vàng này sẽ thuộc về em liền.

Thiếu nữ có vẻ giận, đôi mày có hơi nhíu lại và miệng hơi bĩu ra. Chỉ có thế thôi mà gã lái buôn đã sợ cuống lên:

- Xin lỗi, ta đã lỡ lời. Em không cần phải nói gì, chỉ nhìn ta cũng đủ...

Người thiếu nữ khẽ liếc nhìn gã lái buôn nhưng nét mặt cô vẫn lạnh lùng như băng giá. Gã lái buôn mừng rỡ quì mọp xuống bên cạnh cô nói lung tung những gì không rõ. Một lần nữa, thiếu nữ lại phất tay và gã nô lệ da đen ở đâu bước tới lôi phắt gã này ra ngoài. Tôi ngạc nhiên không biết thiếu nữ này là ai mà có quyền hành lớn như vậy! Vì mải theo dõi gã nô lệ kéo người lái buôn Ba Tư ra cửa nên khi tôi quay lại thì thiếu nữ chủ nhân đã đi đâu mất. Trên chiếc ghế dài chỉ còn lại một chiếc khăn màu hồng nhạt. Không hiểu sao tôi cảm thấy trong lòng tự dưng trống trải, dường như vừa mất mát một thứ gì.

Ngay lúc đó, Horemheb ở đâu bước đến, hai tay ôm hai cô gái và cười ha hả:

- Này Sinuhe, mày có muốn ra vườn sau hái hoa với t*o không?

Tự nhiên tôi cảm thấy khó chịu, không muốn đi đâu hết nên trả lời nhát gừng:

- Mày cứ việc ra vườn đi, t*o ngồi chờ ở đây được rồi.

- Cái gì? Nếu mày muốn chờ t*o thì... ít ra phải đến sáng.

- Tại sao?

Horemheb bật cười rồi hạ giọng nói nhỏ:

- Hôm nay t*o hái đến hai bông hoa nên chắc lâu lắm...

Hai cô gái nghe hắn nói, bật cười khúc khích. Tôi khó chịu nhún vai:

- Không sao, t*o chờ được.

Sau khi Horemheb bỏ đi rồi thì tôi mới thấy mình lầm. Quanh bàn tiệc, người ta cười nói ồn ào nhưng tôi cảm thấy lạc lõng làm sao. Tôi muốn đứng dậy ra về nhưng hình như tâm hồn còn vương vấn một điều gì không giải thích được. Tôi ngồi đó, bất chấp những người khách dập dìu qua lại, rồi như bị một điều gì kỳ lạ thúc đẩy tôi nâng ly rượu uống một hơi dài. Tiệc đã tàn. Những người khác dần dần bỏ đi đâu mất. Các thiếu nữ xinh đẹp cũng tản mát dần, chỉ còn tôi ngây ngô ngồi đó với một tâm trạng trống trải kỳ lạ. Đầu óc tôi trở nên hoang mang, không biết vì men rượu hay cái gì khác!

Bất chợt tôi ngửi thấy một mùi hương rất dịu dàng. Thiếu nữ chủ nhân đang đứng trước mặt tôi. Cô đã thay đổi y phục, mặc một chiếc áo mỏng màu xanh nhạt. Cô hỏi:

- Anh là ai? Tại sao còn ngồi đây?

Giọng nói của cô thánh thót như thủy tinh khiến tôi cảm thấy chếnh choáng:

- Tôi là Sinuhe, y sĩ cho hoàng đế Akhenaten...

Thiếu nữ nhíu mày như suy nghĩ rồi nhẹ nhàng hỏi:

- Phải chăng Sinuhe còn có nghĩa là "con người cô độc"?

- Cha tôi nói Sinuhe có nghĩa là "người sống một mình". Ông chọn tên này trong một cuốn cổ thư nói về sự biết sống một mình...

Tôi chưa nói hết thì thiếu nữ đã để tay lên môi ra hiệu cho tôi đừng nói rồi lắc đầu:

- Em không thích... cô độc.

Tự nhiên tôi thấy một cảm giác ấm áp kỳ lạ truyền đi khắp thân thể khiến tim tôi đập mạnh và miệng lưỡi trở nên khô ráo lạ thường. Thiếu nữ thì thầm:

- Anh ơi, em rất sợ sống một mình...

Chưa bao giờ tôi nghe câu nói nào tình tứ như thế. Tôi muốn lên tiếng nhưng không sao thốt nên lời. Thiếu nữ thản nhiên:

- Vì thế mỗi đêm em đều mở tiệc để tránh sự cô đơn nhưng... tiệc vui nào rồi cũng có lúc tàn, và rồi mọi người đều bỏ đi và em lại cô đơn...

Tôi run giọng nói không ra hơi:

- Nhưng... nhưng còn có tôi đây.

Thiếu nữ mỉm cười không nói nhưng tôi đã ngây ngất trước nụ cười hàm tiếu đó. Bất chợt tôi nghĩ đến quan đại thần Malik và gã lái buôn người Ba Tư. Cả hai đều sẵn sàng bỏ ra những số tiền rất lớn chỉ để đổi lấy nụ cười mỹ nhân. Tôi đâm ra ngượng ngùng:

- Tôi chỉ là một y sĩ nghèo... không có gì để tặng cô hết.

- Nhưng em đâu đòi hỏi anh một thứ gì.

Tôi run giọng hỏi dồn:

- Thật... thật... không?

Thiếu nữ chăm chú nhìn tôi một lúc rồi thì thầm:

- Nefer này chưa bao giờ đòi hỏi ai một thứ gì hết.

Thì ra thiếu nữ tên là Nefer. Tôi say sưa nhắc lại tên nàng:

- Nefer... Nefer... Ôi! Cái tên tuyệt đẹp...

Thiếu nữ nhíu mày:

- Chỉ có cái tên đẹp thôi sao?

- Không... không đâu... Không những tên cô đã hay mà cô còn đẹp tuyệt vời nữa. Tôi chưa thấy ai đẹp hơn cô.

Thiếu nữ mỉm cười có vẻ hài lòng:

- Anh khéo nói lắm. Người từng trải như anh chắc phải nói câu này nhiều lần rồi?

Tôi cảm thấy chếnh choáng như người say rượu:

- Không... không đâu... Đây là lần đầu. Tôi chưa hề khen ai hết.

- Thôi đi, đàn ông các anh lúc nào cũng thế...

Tôi thành thật:

- Nefer, tôi chưa hề quen biết ai như cô... Thật ra cô là người phụ nữ đầu tiên...

- Thế ư?

Tôi nói như mê sảng:

- Nefer, tôi không biết phải nói thế nào nữa. Nefer, cô đẹp tuyệt trần. Nhìn vào đôi mắt cô, tôi có thể quên đi tất cả mọi sự. Nhìn đôi môi của cô, tôi có thể làm tất cả mọi thứ cô muốn. Nefer, nếu được yêu thì dù chết tôi cũng sẵn sàng...

Nefer chăm chú quan sát tôi rồi nhẹ nhàng hỏi:

- Anh sẽ không hối hận chứ?

- Hối hận ư? Làm sao tôi có thể hối hận được nếu...

Nefer mỉm cười, nói thật chậm:

- Này Sinuhe, Con Người Cô Độc! Anh có thể ở đây với em cho qua đêm nay nhưng anh hãy suy nghĩ thật kỹ vì anh chỉ có thể đến với em một lần mà thôi.

Tôi giật mình hoảng hốt:

- Tại sao? Tại sao... chỉ một lần thôi?

Nefer nhìn tôi với vẻ thương hại:

- Khi đến với em, người nào cũng mang cho em một món quà. Phần anh cũng thế, món quà của anh là sự ngây thơ nhưng anh chỉ có thể cho em một lần mà thôi...

- Tại sao?

- Vì sau đó anh sẽ được đối xử như mọi người đàn ông khác, không hơn, không kém.

- Tại sao thế?

Nefer có vẻ ngạc nhiên, khuôn mặt của cô chợt đanh lại nhưng rồi cô bật cười:

- Sinuhe, anh thật ngây thơ! Không lẽ anh không biết em là ai sao? Anh hãy suy nghĩ cẩn thận vì em không muốn anh phải đau khổ sau này.

- Tôi không cần, tôi chỉ muốn...

Nefer mỉm cười nắm lấy tay tôi khiến tôi bủn rủn chân tay:

- Anh đã suy nghĩ kỹ chưa? Tôi cảm thấy tim mình đập mạnh như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực:

- Tôi... tôi đã suy nghĩ kỹ rồi...


° ° °



Nghe tiếng đập cửa, gã nô lệ da đen bước ra. Hắn nhìn tôi từ đầu xuống chân nhưng im lặng không nói gì. Tôi thu hết can đảm lên tiếng:

- Tôi... tôi muốn gặp cô Nefer.

- Ông là ai?

- Tôi là Sinuhe... Tôi... đã từng đến đây... mấy hôm trước.

Gã nô lệ lạnh lùng:

- Nếu thế hẳn ông biết quy luật nơi đây. Ông có mang quà gì cho chủ nhân của tôi không?

Tôi luống cuống:

- Tôi... tôi không có gì cả nhưng...

- Thế thì không được.

Gã đóng sập cửa lại một cách tàn nhẫn. Hiển nhiên không phải là người thông minh tôi cũng biết rõ tình trạng hiện tại của mình. Sau cái đêm thần tiên đó, tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng vẫn không thể quên Nefer được. Tôi đã đi qua đi lại trước cửa ngôi biệt thự này biết bao lần mà không dám vào. Tôi tự nhủ phải quên Nefer nhưng tôi vẫn không thể đừng nhớ tới ánh mắt và nụ cười nàng. Tôi đã tìm đủ mọi việc bận rộn để làm mong tìm quên nhưng hình ảnh Nefer vẫn ngự trị trong tim tôi.

Tôi tìm đến kể lể với Horemheb thì hắn bật cười:

- Trong trời đất thiếu gì đàn bà mà sao mày lại khổ vì một đứa như thế?

- Nefer không giống những người đàn bà khác.

Horemheb lắc đầu thương hại:

- Có lẽ mày cần gặp những phụ nữ khác rồi mày sẽ quên nó.

- Không, không bao giờ t*o quên được Nefer.

Horemheb không phải là người thích nói nhiều. Thấy tôi buồn, hắn rủ tôi đi uống rượu nhưng dù uống đến say mèm, tôi vẫn không thể quên được Nefer. Vài hôm sau, Horemheb phải hộ tống Pharaoh đi Tel El Amarna nên tôi không còn ai để tâm sự nữa. Sau nhiều đêm mất ngủ, tôi lại thất thểu tìm đến biệt thự của Nefer. Một lần nữa, gã nô lệ da đen mở cửa nhưng thấy tôi hắn bèn đóng sập cửa lại. Tuy thế tôi cũng thoáng thấy một người đàn ông đang ngồi sát bên Nefer. Cơn giận ở đâu tràn đến, tôi chồm lên đẩy gã nô lệ qua một bên để xông vào trong nhà nhưng tôi không đi được xa. Nghe tiếng động, một toán gia nhân khác đã xúm đến đè chặt tôi xuống đất.

Trong cơn tuyệt vọng, tôi kêu lên:

- Nefer! Nefer! Sao cô nỡ đối xử với tôi như vậy?

Đám gia nhân bịt chặt miệng tôi lại và kéo thẳng tôi ra cửa nhưng bất ngờ thay, Nefer từ trong bước ra:

- Này Sinuhe, em đã nói rất rõ với anh rồi...

Tôi thều thào van xin:

- Tôi biết... tôi biết nhưng... tôi vẫn muốn gặp cô.

- Nếu muốn gặp em, anh cứ việc mang quà đến như những người khác.

- Nhưng tôi chỉ là một y sĩ nghèo, tài sản chỉ có hai bàn tay trắng.

Nefer nheo mắt nhìn tôi rồi lạnh lùng nói:

- Anh vẫn có một căn nhà... phải rồi, một phòng mạch.

Tôi giật mình như bị sét đánh trúng rồi lắp bắp nói không ra hơi:

- Nhưng... đó là... đó là nhà của... cha mẹ tôi...

- Em đã nói rồi, muốn gặp em anh phải mang quà đến.

- Phải chăng... nếu tôi biếu cô căn nhà đó thì cô sẽ...

Nefer nhăn mặt như không muốn nghe. Tự nhiên tôi cảm thấy hối hận hơn bao giờ hết:

- Nefer, cô hãy tha lỗi cho tôi... đáng lẽ tôi không nên nói như thế.

- Em không bao giờ đòi hỏi anh một thứ gì.

- Đúng rồi! Đúng rồi!

Tôi vội vã trở về Thebes thu xếp văn tự, địa đồ mà cha tôi vẫn cất kỹ trong tủ. Tôi nhặt nhạnh thuốc men, dụng cụ hành nghề y khoa của cha tôi để lại, mang hết ra chợ bán lấy một số tiền. Trước khi Kepta kịp phản ứng, tôi đã tống cổ tên nô lệ Do Thái này ra đường, rồi trở lại Memphis. Tôi phủ phục dưới chân Nefer, đưa cho cô này tất cả giấy tờ, tiền bạc. Cũng như lần trước, sau một đêm ân ái, tôi lại thấy mình lang thang trước cửa ngôi biệt thự đó. Trong cơn tuyệt vọng, tôi cố gắng gõ cửa một lần nữa.

Gã nô lệ nhìn ngắm thân thể bạc nhược của tôi rồi lắc đầu:

- Ông không nên trở lại đây nữa.

- Nhưng tôi cần gặp cô Nefer.

- Chủ tôi không bao giờ tiếp những người như ông đâu.

- Xin chú hãy thương tôi, làm ơn cho tôi gặp Nefer.

- Không được.

Gã nô lệ đóng sập cửa lại. Tôi liều lĩnh đưa chân ra chận lại nên bị cánh cửa kẹp trúng làm máu phun ra có vòi. Tôi đau đớn rú lên nhưng gã nô lệ thản nhiên đẩy tôi ngã nhào ra thềm rồi khép chặt cửa. Tôi ôm chiếc chân đầy máu nằm gục trước cửa cho đến khi ngửi thấy mùi hương dịu dàng ở đâu thoảng đến.

Nefer đứng trước bực thềm nói vọng xuống:

- Này Sinuhe, em đã cảnh cáo anh từ trước rồi.

- Tôi biết... tôi biết nhưng... tôi vẫn muốn gặp cô.

- Nếu muốn gặp em, anh cứ việc mang quà đến như những người khác.

- Nhưng... nhưng quả thật tôi không còn gì để tặng cô nữa.

Nefer nhìn tôi chăm chú một lúc rồi thong thả nói:

- Sinuhe, em biết anh vẫn còn một thứ.

Tôi mừng rỡ kêu lớn:

- Cái gì? Tôi còn cái gì?

Nefer chỉ tay vào sợi dây đeo trên cổ mà hoàng đế Akhenaten đã tặng tôi:

- Người ta nói rằng trong thời gian ẩn tu ngoài sa mạc, Pharaoh đã tự tay quấn lấy cho mình chiếc dây này để đeo trên cổ. Tuy nó không có giá trị hiện vật những nó cũng là thứ mà anh có thể tặng cho em được.

Tôi run giọng:

- Đây là kỷ vật của Pharaoh, đâu thể mang ra đổi chác được. Nếu ngài biết được thì tôi chỉ có nước chết.

Nefer nhún vai thản nhiên:

- Em chỉ muốn thử lòng anh thôi và bây giờ em biết rõ tình yêu của anh đối với em như thế nào rồi. Này Sinuhe, chiều nay có một đại phú thương từ Syria đến, ông ta sẽ tặng em một vòng ngọc mà khi xưa hoàng đế xứ Hitites đã phải tốn bao công phu mới chiếm được nó. So với chiếc vòng đó thì...

Tôi đau đớn cởi sợi dây đeo trên cổ ra đưa cho Nefer:

- Đây, cô hãy cầm lấy. Tôi sẵn sàng cho cô tất cả những gì tôi có.

- Em không bao giờ đòi hỏi anh một thứ gì mà anh không muốn.

- Đúng rồi! Đúng rồi! Cô cứ việc cầm lấy đi.

Nefer nhận sợi dây đeo cổ rồi lắc đầu một cách thương hại:

- Sinuhe, anh quả đã yêu em một cách tuyệt đối.

Tôi thều thào:

- Nefer... Nefer... Tại sao cô không thể yêu tôi tuyệt đối như vậy?

Nefer im lặng nhìn tôi một lúc rồi ghé sát vào tai tôi thì thầm:

- "Này Sinuhe, nếu anh có thể hiểu được em. Nếu anh có thể hiểu được tâm trạng một người con gái chưa đầy mười hai tuổi đã bị bán làm nô lệ như thế nào. Trong nhiều năm, người ta đã bán em từ chủ này qua chủ khác như bán một con vật.

Em đã trải qua những giây phút nhục nhằn, tủi hổ và em đã tìm cái chết nhiều lần. Em đã từng yêu nhưng không được đáp lại. Em đã từng hiến tặng những gì em có nhưng chỉ nhận lại những phản bội, lường gạt. Em đã khóc hết nước mắt và sự đau khổ đã làm tâm hồn em chai đá. Em thề sẽ không bao giờ để ai làm chủ mình nữa. Em cương quyết sẽ không bao giờ yêu ai nữa.

Đối với em, tình yêu chỉ là một sự đổi chác, mua bán, được cái này thì mất cái khác. Em tự nhủ rằng người ta đã đối xử với mình ra sao thì mình sẽ đối xử như thế với người khác. Ngày trước em là một nô lệ, một thứ giải trí của đàn ông thì ngày nay đàn ông phải là nô lệ của em, phải là trò tiêu khiển của em. Ngày trước em đã bị mua đi bán lại như một con vật thì ngày nay những người đến với em đều phải tán gia bại sản, thân bại danh liệt. Như thế mới công bình, có phải không?

Này Sinuhe, em đã cảnh cáo anh từ trước nhưng anh không nghe. Đa số đàn ông chẳng bao giờ biết nghe hết. Lòng tự hào đã khiến họ hành động như loài thiêu thân, tuy biết mà vẫn lao mình vào ánh đèn để cháy tan xác.

Này Sinuhe, em đã dạy anh một bài học vè đàn bà nhưng có lẽ anh chưa học được. Đã thế anh còn đòi một tình yêu tuyệt đối.

Này "Con Người Cô Độc", trong đời này chẳng có gì là tuyệt đối cả. Tuyệt đối chỉ là trò chơi chữ nghĩa của những triết gia, học giả, hay những kẻ mơ mộng, vô công rỗi nghề mà thôi. Tuy nhiên vì anh đã muốn nên hôm nay em sẽ dạy cho anh một bài học về tình yêu tuyệt đối để không bao giờ anh có thể quên được..."

Trước khi tôi kịp phản ứng, Nefer đã đứng phắt dậy nói với gã nô lệ da đen:

- Kể từ nay, người này tuyệt đối không bao giờ được đặt chân đến đây nữa.

Tôi ngạc nhiên kêu lớn:

- Ô hay! Tại sao lại như thế?

Nhưng cánh cửa to lớn đã đóng sập lại một cách phũ phàng.

Đời sống thường có những thay đổi bất ngờ. Người hôm trước là bạn, hôm sau có thể là thù, và người trước là kẻ thù thì sau có thể đổi thành bạn. Trường hợp của tôi cũng thế. Không bao giờ tôi ngờ tình bạn giữa tôi và Horemhebcó thể thay đổi, chỉ vì một người đàn bà.

Sau nhiều ngày lang thang trước cửa nhà Nefer nhưng không được đáp ứng, tôi đành bắt chước Horemheb mượn hơi men để giải sầu. Chẳng mấy chốc tôi đã trở thành một kẻ lang thang trà đình tửu quán, say sưa và nói năng lảm nhảm. Hôm đó tôi tìm đến một quán rượu để giải khuây, mặc dù trong túi chẳng còn một đồng xu nào nữa. Người chủ quán đã biết tình trạng tài chánh của tôi nên chỉ nhìn tôi bằng ánh mắt khinh bỉ. Trong lúc tôi đang tìm cách thuyết phục hắn bán rượu chịu thì một gã lái buôn quần áo sang trọng, cùng một đoàn tùy tùng bước đến. Gã này hỏi tôi:

- Tôi muốn đi tìm một người, phiền ông chỉ giùm.

- Tôi không biết, xin ông đi ra chỗ khác.

Gã lái buôn nhìn ngắm tôi từ đầu đến chân rồi thản nhiên:

- Tôi cần gặp một người bạn để thương lượng công việc buôn bán nhưng người ta nói rằng hắn đang ở biệt thự của cô Nefer, phiền ông chỉ giùm...

Vừa nghe đến đó tôi đã giật mình và trong thoáng giây, đầu óc tôi làm việc thật nhanh. Tôi trả lời ngay:

- Tôi biết chỗ nhưng rất khó tìm. Có lẽ tôi phải đưa ông đến đó mới được.

Gã lái buôn mừng rỡ cám ơn rối rít. Tôi đưa hắn đến biệt thự của Nefer. Khi cánh cửa vừa mở, tôi đã nhanh chân lẩn vào đoàn tùy tùng của hắn nên người giữ cửa không thấy. Cảnh vật bên trong vẫn như xưa, những đoàn thiếu nữ xinh đẹp, những người lái buôn sang trọng, những bàn tiệc đầy sơn hào hải vị cùng những điệu nhạc dồn dập kỳ lạ. Tôi không thấy Nefer trên chiếc ghế quen thuộc, có lẽ nàng đang bận tiếp khách. Vừa nghĩ đến đó, đầu óc tôi đã nóng ran lên, tôi phải cố gắng lắm mới bình tĩnh bước ra phía sau vườn.

Căn phòng của Nefer nằm sát khu vườn với những chậu hoa tươi bầy chung quanh. Tôi tiến đến nhìn vào cửa sổ và bất ngờ chứng kiến một cảnh tượng mà không bao giờ tôi có thể quên được. Tôi thấy Nefer đang quấn quít trong vòng tay lực lưỡng của một người đàn ông có thân hình rắn chắc như một lực sĩ. Người đàn ông đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là Horemheb, người bạn chí thân của tôi.

Đầu óc tôi trở nên quay cuồng. Tôi cố trấn tĩnh nhưng tim tôi đập liên hồi. Tôi dụi mắt, tưởng mình đang mơ nhưng không, tôi đang tỉnh táo hơn bao giờ hết. Tại sao lại có thể như thế được? Trong thoáng chốc, cơn ghen ở đâu nổi lên khiến tôi không còn bình tĩnh nữa. Tôi gầm lên một tiếng, xông thẳng vào phòng. Horemheb giật mình buông Nefer ra nhưng trước khi hắn kịp đứng dậy, tôi đã xông đến chụp lấy cổ hắn. Horemheb là tay võ nghệ tuyệt luân, chỉ một thoáng hắn đã thoát khỏi tay tôi:

- Cái gì thế Sinuhe?

- Thằng kh*n n*n! t*o phải giết mày!

Tôi xông vào đấm đá túi bụi nhưng Horemheb đã xoay mình tránh được những quả đấm của tôi.

- Này Sinuhe, mày hãy bình tĩnh nghe t*o nói đã...

- Thằng khốn kiếp! Đồ vong ân bội nghĩa! t*o phải giết mày...

Tôi điên cuồng chụp lấy cái ghế gần đó ném thẳng vào Horemheb nhưng hắn cũng tránh được.

- Khoan đã... Mày hãy nghe t*o nói đây...

Nhưng tôi không còn nghe thấy gì hết. Cơn giận làm đầu óc tôi trở nên tê liệt. Tôi xông đến, tiện tay vớ được cái gì thì đập phá cái đó. Horemheb lắc đầu co cẳng chạy ra vườn rồi mất hút trong lùm cây rậm rập. Tôi quay qua Nefer:

- Con kh*n n*n! Mày đã phụ lòng ta...

Khuôn mặt Nefer trở nên xanh xám, có lẽ cô vừa bực tức vừa ngạc nhiên nên không phản ứng gì được. Tôi gầm lên một tiếng lớn rồi xông đến nhưng Nefer đã quay mình chạy ra vườn. Được vài bước, cô trượt chân ngã nhào xuống đất. Tôi nhảy đến chụp lấy chiếc cổ thon của Nefer bóp mạnh nhưng lúc đó đám gia nhân nghe tiếng động đã ùa đến. Gã nô lệ da đen đưa tay nhấc bổng tôi lên khỏi mặt đất. Một trận mưa đấm đá trút lên thân thể tôi nhưng tôi không còn thấy đau đớn mà vẫn tiếp tục gầm rú như một con thú điên.


° ° °



Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình đang nằm trong một bụi cây ven đường, thân thể đầy máu. Lần đầu tiên trong đời, lòng tôi dâng lên một mối căm hờn kỳ lạ. Tôi nghĩ đến Nefer và nụ cười nửa lạnh lùng, nửa quyến rũ. Tôi nghĩ đến Horemheb và dáng dấp hiên ngang với nụ cười ngạo nghễ mà thấy trong lòng tràn lên một sự đau xót chưa từng thấy. Trong cơn cuồng nộ, tôi thét lớn: "t*o thề sẽ giết cả hai đứa chúng mày!" Sau một lúc gào thét chửi rủa, tôi đứng dậy thu xếp hành trang trở về Thebes.

Khi tôi trở lại căn nhà cũ ở Thebes thì nó không còn là nhà của tôi nữa. Một người lạ mặt cho biết họ đã mua căn nhà này từ một gã lái buôn trên Memphis. Tôi đứng nhìn căn nhà thân yêu đã lọt vào tay người khác mà lòng đau như cắt. Sau cùng tôi đành kéo lê tấm thân tiều tụy đi trên đường phố mà chẳng biết mình đi đâu cho đến khi nghe tiếng gọi rối rít của Kepta:

- Ông chủ! Phải ông chủ đó không?

- Kepta! Ngươi đấy ư?

- Thưa y sĩ, chính tôi đây.

- Kepta, ta rất mừng đã gặp lại ngươi. Căn nhà của ta...

Kepta gật đầu than dài:

- Y sĩ ơi, tôi biết chuyện đó nhưng... ông bà... ông bà thân sinh của y sĩ...

Tôi hốt hoảng:

- Cái gì? Ngươi nói gì?

- Hôm trước ông bà thân sinh ra y sĩ đi xa trở về. Ôi chao, khó nói quá!

- Cha mẹ ta đã trở về hay sao? Người ở đâu?

Kepta im lặng nhìn tôi. Con mắt duy nhất của hắn đảo qua đảo lại về phía sau. Lúc đó tôi mới thấy Kepta đang kéo một chiếc xe nhỏ. Một cảm giác kỳ lạ nổi lên khiến tôi rùng mình sởn gai ốc. Tôi vội bước đến nhìn thì thấy trong xe có hai xác chết đã được bó chiếu cẩn thận. Tôi mở ra xem và thấy đó là xác cha mẹ tôi.

- Kepta! Tại sao lại như thế này?

- Còn làm sao nữa! Hai ông bà đi xa trở về thấy căn nhà hương hỏa đã bị bán mất. Hỏi thăm thì biết y sĩ mang tất cả dụng cụ hành nghề, thuốc men ra chợ bán để bao một cô gái nào đó trên Memphis. Khắp thành Thebes, người ta đã nói rất nhiều về y sĩ, nào là y sĩ bỏ nghề lương y để vào làm việc trong triều rồi theo các quan đi đến những chỗ ăn chơi xa xỉ. Nào là y sĩ tiêu tiền như nước, toàn giao thiệp với những thiếu nữ đến từ Babylon. Nghe nói y sĩ chỉ chữa cho người giàu, không thèm tiếp bệnh nhân nghèo. Ôi chao, đủ mọi lời đồn chẳng tốt đẹp gì. Nghe được thế, ông bà thân sinh ra y sĩ chỉ biết khóc. Bao hy vọng ở y sĩ đều tan thành mây khói nên ông bà đành đến đền thờ Amun-Ra cầu nguyện...

Tôi nắm chặt lấy vai Kepta hét lớn:

- Rồi sao nữa? Tại sao cha mẹ ta chết?

Kepta đưa tay chùi con mắt duy nhất:

- Còn sao nữa! Khi tuyệt vọng, người y sĩ nào chẳng biết sử dụng độc dược. Hôm sau các tu sĩ thấy xác hai người nằm đó nên định quăng xuống sông cho cá sấu ăn, nhưng thằng nô lệ này thấy tội nghiệp quá, xin lãnh về chôn cất. Nếu y sĩ còn nghĩ đến công ơn dưỡng dục sinh thành thì hãy tẩm liệm hai cụ cho tử tế, thằng nô lệ này chỉ xin được hai tấm chiếu rách đó thôi...

Tôi đứng sững không nói được tiếng nào. Tất cả mọi sự đều sụp đổ tan tành. Cơn đau làm cho tôi không còn khóc được nữa. Tôi đứng nhìn xác cha mẹ mình mà trong đầu chỉ một ý nghĩ duy nhất là trả thù.


° ° °



Người Ai Cập tin rằng sau khi chết, thể xác tan rã nhưng sự sống vẫn tiếp diễn tại những cõi giới khác bên kia cửa tử, tùy theo sự phán xét của thần Osiris. Do đó chết không phải chấm dứt mà là sự thay đổi, chuyển hóa từ cõi này đến cõi khác, từ trạng thái này đến trạng thái kia mà thôi.

Truyền thống Ai Cập quan niệm rằng con người gồm có tám thể (Bodies), mỗi thể có một nhiệm vụ đặc biệt, tương ứng với những cõi giới khác nhau.

Thể thứ nhất là Xác (Khat), tương ứng với cõi trần và là "căn nhà" của những thể khác.

Thể thứ hai là Phách (Ka), có nhiệm vụ như cây cầu liên lạc giữa thể Xác với những thể kia. Thể Phách chứa đựng kiến thức của con người, nó có thể hoạt động riêng biệt và thường mang hình dáng của thể xác. Sau khi chết, thể Phách thường quanh quẩn trong mồ và có thể hưởng thụ những đồ vật cúng tế nên người Ai Cập gọi hương hoa, đồ vật chôn cất theo người chết là sở hữu của thể Phách.

Thể thứ ba là thể Vía (Khu), hiện hữu dưới trạng thái những chất hơi nên có thể thay đổi hình dạng thành các đốm sáng hay các hình ảnh mập mờ. Thể Vía chứa đựng tình cảm và tương ứng với cõi Trung giới.

Thể thứ tư là Hồn (Ba) hay là phần tinh thần của con người và tương ứng với cõi Thượng giới. Khi sống, Hồn cư ngụ trong trái tim, sau khi chết nó tiềm ẩn trong thể Phách một thời gian trước khi siêu thoát lên cõi Thượng giới.

Thể thứ năm là Sinh (Ab) hay sự sống. Thiếu thể này người ta không thể sống được vì nó liên hệ đến việc vận chuyển năng lượng vũ trụ đến các thể. Người Ai Cập coi Sinh như năng lực của Hồn vì nó là trung tâm liên lạc giữa các cõi giới.

Thể thứ sáu là Thân (Sakhem), một thể đặc biệt chỉ phát triển ở những người có đời sống tinh thần rất cao, đây công phu tu luyện. Đối với người thường, thể này không phát triển bao nhiêu. Chữ Sekhem còn có nghĩa là "đã hoàn toàn tự chủ" và thường được đồng hóa với chữ quyền năng. Thân thường được coi như tương ứng với cõi Thiên giới.

Thể thứ bảy là Ký (Khaibit), có nhiệm vụ lưu trữ, gìn giữ tất cả kinh nghiệm có tính cách tổng quan cũng như các ràng buộc giữa các cá nhân với nhau.

Thể thứ tám là Danh (Ren), chỉ lưu trữ kinh nghiệm riêng biệt có tính cách cá nhân và định hướng cho sự phát triển riêng của từng cá nhân.

Người Ai Cập tin rằng đời sống ở cõi trần liên quan đến thể xác, nhưng sau khi thể xác chết đi, các thể kia phát động và con người tiếp tục sống ở những cõi giới tương ứng, tùy theo sự phán xét, định công luận tội của thần Osiris. Trong cuộc phán xét này, thể Phách (Ka) và Danh (Ren) giữ vai trò quan trọng vì nó tiêu biểu cho cá tính, kinh nghiệm và danh tánh của cá nhân. Mất danh tánh, họ sẽ trở thành đồ vật vô tri như bàn ghế, gỗ đá; mất cá tính, họ sẽ trở thành loài vật hạ đẳng, không còn cá tính riêng biệt nữa mà có một cá tính chung, như loài kiến, loài ong hay loài sâu bọ.

Để tìm cách bảo vệ Phách và Danh, họ phát minh ra nghệ thuật ướp xác vì thể xác vốn là nơi các thể kia cư ngụ. Các nghi thức ướp xác, tẩm liệm và chôn cất tại các ngôi mộ kiến trúc đặc biệt, liên hệ đến vị trí các bầu tinh tú, còn có một ẩn nghĩa huyền bí nên việc ướp xác đã được các giáo sĩ ấn định chỉ dành riêng cho vua chúa, một số rất ít người trong hoàng tộc, hay các giáo sĩ có chức tước quan trọng mà thôi. Vì mẹ tôi là một quận chúa và cha tôi là người có đời sống trong sạch, xứng đáng được an táng bên cạnh những vua chúa và quan lớn trong triều, nên tôi quyết định ướp xác và chôn cất cha mẹ tôi trong thung lũng dành riêng cho các gia đình hoàng tộc. Tôi bèn tìm đến trường Khoa Học Của Sự Chết để xin giúp đỡ.

Đó là nột hang đá nằm sâu trong vùng đồi núi hoang vu, rất ít ai dám bén mảng đến. Người ta kể rằng các giáo sĩ giao thiệp với cõi âm này có thể sai khiến các động lực vô hình vật chết những kẻ tò mò tìm đến như chơi. Ngay các vua chúa đầy oai phong cũng kiêng nể vùng này và chỉ sai nô lệ liên lạc với các giáo sĩ mỗi khi có việc chôn cất mà thôi.


Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



đến trang 156

#10 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6740 Bài viết:
  • 5562 thanks

Gửi vào 24/07/2020 - 06:12

Ombo, vị trưởng lão chỉ huy trường Khoa Học Của Sự Chết, là một người có khuôn mặt lạnh lùng như thây ma:

- Ngươi đến đây làm gì?

- Tôi muốn nhờ ông ướp xác cho cha mẹ tôi.

- Việc gì ngươi phải đích thân mang xác đến đây? Tạisao không gọi nô lệ?

- Tôi không có tiền mướn nô lệ.

- Nếu không có tiền mướn nô lệ thì làm sao ngươi có thể trả công ướp xác cho chúng ta được?

- Đúng thế, tôi không có đồng nào dính túi cả.

Ombo lạnh lùng lắc đầu:

- Ngươi hãy cút đi ngay. Ta không tiếp những kẻ nghèo kiết xác như ngươi.

- Nhưng tôi sẵn sàng làm việc ở đây để trả thay tiền công.

Gã giáo sĩ có khuôn mặt như thây ma cười nhạt:

- Thằng ngu xuẩn kia! Ngay những nô lệ nghèo đói nhất cũng chẳng dám đến đây làm việc. Chỉ những tù nhân lãnh án tử hình, những kẻ không còn một hy vọng gì trên đời này nữa, mới làm những việc này. Ngươi nên biết chúng ta chuyên mổ xẻ xác chết, làm việc với ma, giao du với quỉ, khiến mọi người chỉ mới nghe nói đã sợ hãi mất hồn rồi...

- Tôi đã chán mọi sự trên đời rồi nên không còn sợ hãi một điều gì nữa.

- Ha ha ha... Thì ra ngươi là một kẻ tuyệt vọng, nhưng ngươi có thể làm gì?

- Tôi là y sĩ giải phẫu xuất thân từ Abydos. Tôi có thể mổ xác khéo hơn tất cả những nhân viên thiện nghệ của ông.

Ombo ngạc nhiên nhìn tôi không chớp mắt:

- Ta không ngờ một kẻ tốt nghiệp trường Khoa Học Của Sự Sống mà lại hết muốn sống! Phải chăng ngươi muốn đến đây để học về nghệ thuật chết? Được lắm, nếu ngươi làm việc tại đây trong vòng một năm thì chúng ta sẽ ướp xác cho cha mẹ ngươi.

Từ đó tôi trở thành kẻ chuyên mổ xác người. Đối với xã hội bên ngoài, tôi là kẻ đã chết, không ai biết tôi ở đâu hay làm gì nhưng với tôi, ngoài việc ướp xác, tôi đã dành thì giờ còn lại để duyệt xét lại các căn bản giá trị mà tôi vẫn tin tưởng khi xưa. Tôi nghĩ đến đời sống đầy những tranh dành,thù hận vừa qua và tự hỏi, phải chăng muốn sống còn, con người phải tranh đấu, giành giật như thế?

Tôi nghĩ đến Akhenaten với chủ trương cải cách của ông và tự hỏi liệu một Pharaoh nhiều lý tưởng như ông có thể giữ vững ngôi vị trong cái thế giới đầy những mưu mô phản trắc này?

Tôi nghĩ đến tình bạn giữa tôi và Horemheb, hiển nhiên hắn biết rõ cảm tình của tôi với Nefer nhưng tại sao hắn lại làm như thế? Một kẻ hào hoa như hắn thì thiếu gì phụ nữ, tại sao hắn phải tranh giành Nefer với tôi? Phải chăng danh vọng và quyền lực đã biến hắn thành một con người khác?

Tôi nghĩ đến lý tưởng phụng sự người nghèo của cha mẹ tôi rồi tự hỏi người ta đã đạt được gì khi lý tưởng chẳng còn chút giá trị gì trong cái thế giới điên đảo, quay cuồng hiện nay!

Tôi suy nghĩ về những điều mà tôi vẫn theo đuổi và tự hỏi nó sẽ giúp gì cho tôi trong phần đời còn lại? Ngày trước tôi là một thanh niên ngây thơ nhiều lý tưởng, nhưng sự đau khổ và lòng thù hận đã dần dần biến đổi tôi thành một người khác.


° ° °



Thời gian lạnh lùng trôi qua. Đời sống trong hang đá đầy xác người không giản dị như tôi nghĩ. Ngay cả những tử tội, những kẻ không còn hy vọng gì trên đời cũng không chịu nổi công việc ghê rợn nơi đây. Nhiều kẻ sau một thời gian làm việc đã trở nên điên loạn; kẻ khác tìm cách trốn khỏi đây nhưng lòng thù hận đã nuôi sống tôi trong khung cảnh "địa ngục" này. Tôi thản nhiên làm việc, bất chấp mọi khó nhọc, và nhủ thầm sau khi chôn cất cha mẹ tôi xong, tôi sẽ trở về để rửa hận.

Một đêm nọ, tôi đang ngồi suy nghĩ vẩn vơ thì Ombo ở đâu bước đến:

- "Này Sinuhe, từ lâu nay chúng ta vẫn theo dõi ngươi. Ta rất hài lòng thấy ngươi đã làm trọn vẹn những điều được giao phó. Không mấy ai có thể làm được như ngươi. Không những ngươi mổ xác đã giỏi mà còn ướp xác thiện nghệ nữa. Khả năng ướp xác, tẩm liệm của ngươi đáng được gọi là một công trình nghệ thuật. Chúng ta, những giáo sĩ của trường Khoa Học Của Sự Chết, đã quyết định mở cho ngươi một cánh cửa mà rất ít khi nào được mở.

Này Sinuhe, Khoa Học Của Sự Chết là một khoa học bí truyền, chúng ta kén chọn học trò rất kỹ nhưng chúng ta sẵn sàng thu nhận ngươi. Chúng ta cho phép ngươi học hỏi, nghiên cứu môn học này. Tuy ngươi đã từng học về Khoa Học Của Sự Sống, nhưng môn Khoa Học Của Sự Chết lại khác hẳn vì đối tượng của nó là cái thế giới bên kia, cái thế giới vô hình với các chủng loại lạ lùng và các kiến thức huyền bí rất ít ai biết. Đây là một đặc ân cho ngươi đó, vậy ngươi nghĩ sao?"

- Nhưng... nhưng tôi chưa biết gì về môn học này cả.

Ombo im lặng nhìn tôi một lúc rồi thong thả giải thích:

- "Này Sinuhe, đa số con người từ lúc sinh ra cho đến lúc chết đều không ý thức gì về sự sống cũng như ý nghĩa thật sự của nó. Với họ, khoảng thời gian trước khi ra đời là một cái gì mơ hồ và diễn biến sau khi chết cũng là một cái gì không rõ rệt. Mặc dù con người bao gồm tám thể với những giác quan đặc biệt nhưng phần lớn chỉ biết sử dụng giác quan của thể Xác mà thôi nên họ đã mất đi cơ hội tìm hiểu thêm về những cõi giới khác. Họ không hề ý thức về cái khả năng siêu việt sẵn có, vẫn tiềm ẩn trong mọi cá nhân, mà chỉ biết sống một cách giới hạn, què quặt trong cái thế giới thu hẹp của cõi trần. Không những thế, họ còn sống một cách thờ ơ, mặc cho số phận lôi cuốn chứ không chịu tìm hiểu thêm về ý nghĩa của sự sống.

Tóm lại, con người chẳng biết trước khi sinh ra mình ở đâu, khi sống cũng chẳng ý thức mình sống với mục đích gì, và khi chết cũng chẳng biết mình đi về đâu.

Từ ngàn xưa, thánh Thoth đã dạy cho con người cách sống trọn vẹn bằng cách phát triển khả năng tự chủ để kiểm soát các thể kia và học hỏi, kinh nghiệm các cõi giới qua việc phát triển những giác quan đặc biệt. Vào thời hoàng kim, học trò của Thoth đã du hành khắp các cõi, di chuyển quanh vũ trụ và học hỏi rất nhiều. Nhờ thế, họ đã góp phần xây dựng một nền văn minh huy hoàng với những Kim Tự Tháp hùng vĩ, những đền đài nguy nga, những thạch trụ đặc biệt. Họ đã phát minh ra những bộ môn khoa học như Thiên văn, Kiến trúc, Toán học v.v...

Theo thời gian những lời dạy bảo của thánh sư Thoth đã được học trò của ông chia ra hai phần riêng biệt là Công Truyền hay Khoa Học Của Sự Sống, đề cập đến sự phát triển cá nhân và nghiên cứu các thể cấu tạo nên con người, và Bí Truyền hay Khoa Học Của Sự Chết, chuyên nghiên cứu các cõi giới và chủng loại vô hình. Vì tính cách công truyền nên Khoa Học Của Sự Sống lại được phân chia, sắp đặt thành các bộ môn khoa học thực tiễn như Y học, Dược học, Tâm học, Sinh học v.v... Các giáo sĩ của ngành này đã phổ thông hóa những căn bản giáo lý của Thoth thành những lý thuyết khoa học để giảng dạy cho học trò mặc dù tinh hoa của nó vẫn được cất kỹ và chỉ dạy riêng cho giới giáo sĩ mà thôi. Vì tính cách bí truyền, Khoa Học Của Sự Chết hoạt động giới hạn và thu nhận học trò rất cẩn thận nên ít ai biết gì về môn học vày. Phần lớn chỉ biết ngành này nghiên cứu các phương pháp chôn cất, tẩm liệm mặc dù đó chỉ là một phần rất nhỏ của ngành học này."

Ombo nhìn tôi như quan sát rồi tiếp tục:

- "Này Sinuhe, sở dĩ môn phái của chúng ta kén chọn học trò rất kỹ vì kiến thức này có thể bị sử dụng với mục đích sai lầm, đưa đến những hậu quả ghê gớm. Trong lịch sử môn phái, đã có những người dùng kiến thức này vào các mục đích ích kỷ, hại nhân, sử dụng tà thuật, biến khoa học này thành một pháp môn phù thủy. Ngươi nên biết, khi xưa khoa ướp xác chỉ áp dụng cho những bậc thánh vương, những giáo sĩ có công phu tu hành rất cao để những luồng từ điện thiêng liêng phát xuất từ xác thân của các ngài được tồn tại lâu bền, ban rải ân huệ cho thế gian. Ngoài ra những xác ướp đó còn là những chứng tích để cho con cháu biết đến tổ tiên, biết đến công phu tu hành, dựng nước của tiền nhân mà noi gương.

Tuy nhiên vào khoảng nguyên đại thứ hai, đã có những rạn nứt trong hàng ngũ học trò của Thoth và đưa đến sự tranh chấp lớn lao mà người sau gọi là sự tranh chấp giữa hai phe Bạch đạo và Hắc đạo; hay Chánh và Tà. Các giáo sĩ thuộc phe Hắc đạo đã sử dụng các động lực vô hình hay âm binh để giúp họ phát triển và bành trướng ảnh hưởng. Vào thời buổi hôn ám, việc sử dụng tà thuật rất thịnh hành, đưa Ai Cập vào một giai đoạn hết sức đen tối, xấu xa.

Xã hội lúc đó bị phân hóa thành hai giai cấp: thống trị và bị trị. Kẻ thống trị sử dụng quyền năng, tà thuật và các lực lượng ma quái để kiểm soát, cai trị những kẻ khác. Kẻ bị trị thì sống khổ sở, bị áp bức, bóc lột, đánh đập như thú vật. Để duy trì ảnh hưởng tà môn này, các giáo sĩ ra lệnh cho ướp xác mình, biến nó thành một trung tâm thần lực của tà môn, hay nói một cách khác, sử dụng xác ướp đó như cây cầu liên lạc giữa cõi vô hình và hữu hình. Từ cõi âm, họ vẫn có thể ảnh hưởng đến những người sống, khuyến khích tiếp tục duy trì con đường tà muội mà họ đã khởi xướng. Vì lý do đó, Khoa Học Của Sự Chết đã bị mang tiếng rất nhiều mặc dù không phải giáo sĩ nào của môn phái này cũng tôn thờ ma quỉ hay làm những điều xằng bậy.

Để tránh những sai lầm đáng tiếc, những giáo sĩ còn sót lại đã đặt ra các tiêu chuẩn tuyển chọn học trò hết sức kỹ lưỡng và kiến thức của ngành này được giữ gìn cẩn thận hơn xưa. Chúng ta đã tỏ ra lạnh nhạt khi ngươi đến đây vì không muốn những kẻ lạ mặt, tò mò làm rộn sự nghiên cứu của chúng ta. Theo truyền thống, chúng ta sinh sống bằng việc ướp xác, chôn cất người chết, nhưng thật ra đây chỉ là một việc rất nhỏ, không đáng kể trong chương trình tu học và nghiên cứu của chúng ta."

Ombo chỉ lên bầu trời với muôn ngàn tinh tú lấp lánh:

- "Này Sinuhe, hãy nhìn lên bầu trời! Ngươi đừng tưởng vùng không gian bao la vô tận kia trống rỗng mà lầm. Thực ra nó giống như một đại dương với biết bao cõi giới và muôn ngàn sinh vật. Nếu biển cả có các loài thủy tộc thì không gian kia cũng có những sinh vật vô hình mà mắt thường không thể nhìn thấy được. Nếu có loài cá sống ở biển, ở ao hồ hay sông rạch, thì không gian kia cũng có những chủng loại khác nhau cư trú trong các cõi giới riêng biệt. Nếu loài thủy tộc có các sinh hoạt riêng rẽ, có loài hiền lành có loài nguy hiểm thì không gian kia cũng có những loài vật sinh hoạt như thế, có loài hiền lành, có loài hung dữ và có loài còn thù nghịch với loài người nữa. Nếu có loài cá sống gần mặt nước, có loài cá sống ở dưới đáy sâu, có loài cá thích ẩn trong hang, có loài cá thích vượt sóng đi xa ngàn dặm thì trong không gian bao la kia cũng có những chủng loại thích hợp với các rung động thanh t*o, nhẹ nhàng và có loài chỉ thích hợp với các rung động thô bạo, nặng nề. Có loài ít khi hoạt động và cũng có loài tích cực đi khắp đó đây."

- Nhưng làm sao ông biết được những điều ấy?

Ombo thản nhiên:

- "Tùy ngươi, tin hay không tin cũng không sao vì chỉ khi nào chính ngươi phát triển khả năng "nhìn thấy" cõi vô hình như chúng ta thì ngươi mới có thể hiểu được điều ta nói. Này Sinuhe, mọi sinh vật trong vũ trụ, vô hình cũng như hữu hình, đều sống trong những môi trường thích hợp riêng với nó. Loài cá sống và thở dưới nước, loài chim bay trên trời và loài người sống ở dưới đất. Ngoài ra còn có những loài sống trên những vùng núi rất cao, không khí rất loãng và có những loài sống dưới hang sâu, không khí dày đặc. Đối với một số sinh vật thì sự sống tùy thuộc vào ánh sáng mặt trời, nhưng cũng có loài sự sống chỉ xảy ra trong bóng tối.

Tóm lại, sự sống trên trái đất này được phân phối thật khéo léo khiến cho mọi loài đều sinh hoạt thích ứng với mọi hoàn cảnh. Điều này có thể đưa đến một kết luận rằng trong thiên nhiên, không có một phần nào bỏ trống một cách vô ích. Mỗi loài, mỗi vật đều được cung ứng những hoàn cảnh đặc biệt và môi trường thích nghi, cần thiết cho sự sinh hoạt của chúng."

- Phải chăng điều này cũng áp dụng cho cõi giới bên kia?

Ombo gật đầu:

- Đúng thế. Trong vũ trụ có nhiều cõi, hữu hình cũng như vô hình và định luật thiên nhiên đã định rằng cõi vô hình cũng phải có sự sống như cõi hữu hình. Do đó các chủng loại vô hình cũng được cung ứng những điều kiện sinh hoạt cần thiết, thích nghi riêng với chúng. Hiển nhiên cũng như cõi hữu hình, cõi vô hình có những môi trường riêng biệt và điều kiện sinh hoạt khác nhau. Nếu cõi hữu hình có hàng triệu sinh vật thì cõi vô hình cũng phải có hàng triệu sinh vật tương tự sống rải rác khắp nơi trong vũ trụ.

- Nhưng làm sao ông biết được các cõi này?

Ombo thản nhiên:

- Này Sinuhe, kiến thức là những điều đã được người xưa nghiên cứu và truyền lại cho hậu thế, nhưng nếu người sau không chịu nghiên cứu, học hỏi thêm thì đó chỉ là những tin tưởng suông mà thôi. Là kẻ nghiên cứu cõi vô hình, hiển nhiên chúng ta có khả năng đến tận nơi để học hỏi. Chúng ta biết khi sống con người đã không suy nghĩ, hành động giống như nhau thì khi chết họ cũng không thể đến cùng một nơi được. Tùy theo sự phán xét của Osiris, mỗi vong linh sẽ đến những cảnh giới và môi trường sinh hoạt thích hợp. Đó chính là định luật về sự tương quan giữa sự sống và sự chết. Khi sống ra sao thì khi chết cũng sẽ như thế. Khi sống lương thiện thì sẽ đến cõi giới lành và khi sống hung ác thì sẽ đến những cõi giới xấu xa. Nhờ nghiên cứu về các cõi giới vô hình và các chủng loại tại đây mà chúng ta hiểu rõ những ảnh hưởng của các cõi này đối với sinh hoạt của loài người như thế nào.

Tôi chăm chú nhìn vị giáo sư chỉ huy trường Khoa Học Của Sự Chết. Những điều ông ta nói tuy hợp lý nhưng tôi vẫn chưa tin được. Trí suy luận của tôi chưa thể chấp nhận những điều lạ lùng, vượt ngoài khả năng hiểu biết này.

- Theo như ông nói thì phải chăng có sự liên hệ mật thiết giữa cõi sống và cõi chết; hay cõi hữu hình và cõi vô hình?

- Dĩ nhiên là như thế.

- Nhưng tại sao tôi không nghe ai nói về những điều này?

Ombo lạnh lùng:

- Đa số con người vốn ng* d*t lại ngạo mạn. Họ chỉ tin tưởng vào các giác quan thô thiển của thể Xác chứ không biết cách phát triển các giác quan khác để học hỏi thêm. Vũ trụ là một môi trường mà trong đó sự sống biểu hiện chứ không phải là một khoảng không gian trống rỗng vô ích. Nếu mỗi chiếc lá, mỗi giọt nước đều có các loại sâu bọ hay sinh vật sống bám vào trong đó thì làm sao vũ trụ bao la kia lại chỉ là một khoảng trống rỗng, không có sinh vật nào? Không lẽ vũ trụ lại không bằng một giọt nước hay chiếc lá sao? Môn phái của chúng ta nghiên cứu sự chuyển hóa thay đổi của các thể qua những cõi giới trong vũ trụ và ảnh hưởng của các thể này đối với các sinh vật vô hình thuộc các cõi giới kia vì chúng và loài người có những tương quan rất đặc biệt.

- Các sinh vật vô hình này hoạt động ra sao?

- Sở dĩ ta gọi là "cõi vô hình" vì mắt, một giác quan của thể Xác không thể nhìn thấy được chúng, nhưng với những kẻ biết sử dụng giác quan của các thể kia thì chúng không "vô hình" chút nào. Trong vũ trụ có rất nhiều cõi giới, mỗi cõi có hàng triệu sinh vật, cấu tạo bằng những vật chất khác với vật chất của cõi trần. Có loài mong manh như sương khói, có loài nặng nề như đất đá. Có loài tốt lành, khôn ngoan và có loài gian manh, bất hảo. Có loài không thích gần loài người nhưng cũng có loài thù nghịch với loài người. Mỗi loài thích hợp với một cõi giới tùy theo những rung động riêng biệt của chúng. Một kẻ có kiến thức về các cõi này phải biết quan sát, học hỏi từ cõi thanh cao đến cỏi thấp hèn. Mỗi cõi đều có các sinh vật với những tôn ti trật tự riêng nhưng tất cả đều chịu ảnh hưởng của những định luật thiên nhiên.

- Nhưng biết đâu đó chỉ là một lý thuyết trừu tượng?

- Không, đây không phải là một lý thuyết. Các danh sư trong môn phái của chúng ta đã nghiên cứu các cõi này cả ngàn năm nay và chính bản thân ta cũng đích thân đến đó nghiên cứu. Môn học sở trường của ta là kiến thức về Tinh Linh của Tứ Đại (Đất, Nước, Gió, Lửa).

- Tinh Linh (Madan) là cái gì?

- Đó là một loài sinh vật khác với loài người, có nhiệm vụ điều khiển, trông coi một nguyên tố (Đại) trong vũ trụ như Đất, Nước, Gió, Lửa. Chúng không có hình dáng nhất định mà cấu tạo bởi những yếu tố riêng nên có thể thay hình đổi dạng, biến hóa trong các cõi giới, khoác lấy những hình dáng vật chất, sử dụng các năng lực huyền bí, tạo ra các hiện tượng vật chất nếu cần. Một pháp sư có thể kêu gọi sự trợ giúp của các Tinh Linh này vào việc tạo ra các hiện tượng huyền bí...

- Việc kêu gọi này như thế nào?

- "Một trong những định luật quan trọng của vũ trụ là định luật về sự quân bình tuyệt đối. Ngươi nên biết rằng vũ trụ là một môi trường hết sức quân bình nên bất cứ một sự thay đổi nào cũng tạo ra những tác động ngược lại để tái lập trạng thái quân bình lúc đầu. Căn bản của yếu tố quân bình này gồm có bốn nguyên tố hay Tứ Đại. Nếu một trong những yếu tố này thay đổi thì nó sẽ làm mất đi sự quân bình và ảnh hưởng đến những yếu tố kia khiến chúng thay đổi theo để tái lập sự quân bình. Sự thay đổi này sẽ tạo ra những hiện tượng vật chất trong thiên nhiên.

Thí dụ khi yếu tố Phong phát khởi thì nó sẽ tạo những áp lực trong môi trường vật chất mà ta gọi là gió. Một pháp sư của môn Khoa Học Của Sự Chết phải có kiến thức thật rõ rệt về các cõi giới bên kia cửa tử; phải nắm vững từng chi tiết về các điều kiện cần thiết của sự quân bình tuyệt đối cũng như các công thức liên quan đến bốn nguyên tố căn bản (Tứ Đại). Do đó vị pháp sư có thể triệu tập các Tinh Linh đến những nơi chốn cần thiết để tạo ra những hiện tượng vật chất. Y có thể hô phong hoán vũ bằng cách sai khiến các Tinh Linh chi phối yếu tố Phong và Thủy để tạo ra mưa gió hay sấm sét. Dĩ nhiên muốn sở hữu những kiến thức này, pháp sư phải học hỏi, rèn luyện và tuân theo các phương pháp tu luyện đặc biệt..."

- Như vậy ông sẵn sàng chỉ dạy cho tôi những kiến thức ấy?

Ombo im lặng nhìn tôi một lúc trước khi nói tiếp:

- "Trước khi học hỏi, ngươi cần một giai đoạn chuẩn bị rồi trải qua các thử thách mà rất ít ai có thể vượt qua. Chỉ khi nào vượt qua được các thử thách này, ngươi mới được truyền dạy các phương pháp bí truyền, nhờ thế giác quan của ngươi sẽ trở nên bén nhạy hơn, tinh thần của ngươi sẽ mạnh mẽ hơn, và có thể giao tiếp với các cõi giới vô hình mà không bị ảnh hưởng. Đây không phải là một quyền năng như nhiều người vẫn nghĩ, mà là một kiến thức đặc biệt để nghiên cứu vũ trụ qua các giác quan thần bí.

Này Sinuhe, chúng ta là những khoa học gia chứ không phải là thầy phù thủy. Đây là điều quan trọng mà ngươi phải ghi nhớ cho kỹ. Tất cả những sự kiện xảy ra trong thiên nhiên đều tuân theo những định luật riêng. Một khoa học gia nghiên cứu, học hỏi những định luật này để hiểu biết vũ trụ. Một thầy phù thủy dựa vào kiến thức này để làm một điều gì đó, thường có tính cách cá nhân, và đó là sự khác biệt giữa khoa học và tà môn. Cả hai đều biết rõ những nghi thức thỉnh cầu hay kêu gọi, và nắm vững các yếu tố căn bản chi phối thiên nhiên nhưng mục đích việc làm thì khác nhau rất xa."

Ombo im lặng suy nghĩ một lúc rồi thong thả nói tiếp:

- Ngươi nên biết thế giới bên kia là một vùng cấm địa mà mỗi bước đi đều chứa đầy nguy hiểm. Một kẻ tò mò, vô ý có thể làm thức động những quyền năng mà y không thể kiềm chế. Một kẻ thiếu ý thức có thể làm khơi dậy các động lực bí mật mà chỉ các bậc đạo sư dày công tu luyện mới có thể kiểm soát và chỉ huy. Chỉ một lầm lẫn, bất cẩn nhỏ có thể làm xáo trộn trật tự thiên nhiên, gây ra các hậu quả lớn lao, không thể lường. Sự xáo trộn này sẽ tạo cơ hội cho những sinh vật bất hảo của các cõi giới bên kìa xâm nhập vào những kẻ táo bạo ấy, lợi dụng họ. Thiếu kiến thức về những sinh vật này, họ sẽ để cho chúng hướng dẫn sai lạc và sẽ trở nên nô lệ cho chúng.

- Điều ấy xảy ra như thế nào?

- Trong thiên nhiên có rất nhiều cõi giới khác nhau và các sinh vật tùy theo sự rung động mà thích hợp với một cõi nào đó. Các vong linh khi từ trần cũng tùy theo sự rung động của các thể mà danh từ huyền bí gọi là sự phán xét của Osiris, để thích hợp với cõi giới tương ứng. Tuy nhiên nếu người chết có một ý chí mạnh mẽ, nhất định không thích hợp với cảnh giới tương ứng thì y sẽ rơi vào trạng thái không sống mà cũng không chết. Đây là trạng thái mà các thể thanh cao bị tê liệt và các thể thấp như thể Phách hay thể Vía không tan rã mà quanh quẩn trong mồ, gần xác thân. Vào lúc tối trời, nó có thể xuất hiện quanh các nấm mồ mà người sống gọi là hồn ma. Tuy nhiên theo thời gian, sự luyến tiếc, ham muốn phai nhạt, tiêu hao đi thì các thể này cũng tan biến dần và đó là điều tự nhiên. Trường hợp đặc biệt là có những kẻ khi còn sống đã giao thiệp với các sinh vật cõi âm, làm nô lệ cho ma quỉ và các mãnh lực bất hảo để thực hiện các điều tà muội thì khi chết, họ sẽ trở thành một trung tâm liên lạc giữa cõi âm và cõi trần mà danh từ của chúng ta gọi là "sứ giả của cõi âm" hay một loài quỉ sống.

- Ông muốn nói đến một loài ác quỉ nào đó chăng?

- "Chính thế. Phần lớn họ là các giáo sĩ thực hành tà thuật, những người đi ngược với các định luật thiên nhiên. Khi còn sống họ có nhiều tham vọng và thường chủ trương những tà thuyết ích kỷ hại nhân, lôi kéo nhân loại vào các con đường sa đọa, xấu xa. Họ sử dụng tà thuật, kêu gọi sự trợ giúp của các động lực bất hảo trong thiên nhiên nên có khả năng hấp dẫn, thôi miên rất mạnh. Họ có thể lôi cuốn hay sai bảo người khác theo mình làm những việc xấu xa, ghê gớm. Sau khi chết họ vẫn muốn duy trì ảnh hưởng nên tìm cách bảo vệ thể xác qua việc ướp xác để nhờ đó mà các thể của họ có chỗ cư ngụ, tiếp tục gây ảnh hưởng lên những người sống.

Ác quỉ hay sứ giả cõi âm là những người có đời sống song đôi: một cái xác ướp trong mồ và một thể vía hoạt động khắp nơi để tiếp tục ảnh hưởng lên đầu óc tín đồ hay những kẻ tin tưởng theo chủ thuyết của họ. Họ sẽ tiếp tục xúi giục con người thù ghét nhau, chia rẽ nhau, chém giết nhau và cổ súy chiến tranh vì những việc này sẽ gây thêm căm thù, oán ghét, bạo động là những lực làm gia tăng sức mạnh của họ. Ngoài ra, có chém giết là có đổ máu và tạo cơ hội cho họ rút lấy sinh lực từ máu của những người đó, hòng nuôi sống cái xác thân trong mồ cũng như các động lực bất hảo xuất phát từ các cõi giới ghê gớm bên kia."

- Thế còn những sinh vật vô hình khác?

- "Có hàng trăm, hàng ngàn sinh vật khác nhau nhưng ta chuyên nghiên cứu về các giống Tinh Linh (Madan) nên có thể kể cho ngươi nghe về một vài loài như Tinh Linh hành Hỏa (Shudala Madan). Loài này thường sống gần chỗ chôn xác người hay nghĩa địa. Vì thuộc hành Hỏa nên chúng có thể giúp các pháp sư đi vào lửa mà không cháy, dẫm lên than hồng hay chế ngự được các đám cháy.

Tinh Linh hành Thổ (Shala Madan) thường sống dưới mặt đất. Chúng có thể giúp cho pháp sư làm một hạt giống mọc thành cây, đơm hoa kết trái chỉ trong khoảnh khắc.

Tinh Linh hành Thủy (Kumli Madan) thường sống quanh các nơi ẩm ướt, như suối hay sông ngòi và có thể làm mưa gió hay tiết lộ các điều sẽ xảy ra trong tương lai. Khoa Chiêm Thủy, bói toán kiết hung bằng cách nhìn xuống nước, thấy những hình ảnh lờ mờ hiện ra cũng là do sự phụ giúp của các Tinh Linh loài này.

Tinh Linh hành Phong (Poruthu Madan) là loài Tinh Linh có sức mạnh vô cùng, chúng có thể nhấc bổng người lên khỏi mặt đất hay giúp pháp sư dùng thuật khinh thân, đi nhanh như gió và khuất phục các thú dữ.

Ngoài ra còn có Tinh Linh Ảo giác (Diakka Madan), một loài sinh vật thích đóng trò, giả mạo thành những nhân vật này nọ. Vì không có trí thông minh nên chúng thường tìm cách bám víu vào ký ức của con người để tìm lạc thú trong đó. Chúng có thể biết được các sự kiện tiềm ẩn trong ký ức mà người ta đã quên mất từ lâu, mang ra làm điều giả trá, lừa phỉnh. Đối với chúng, lời cầu nguyện thiết tha hay lời đùa cợt đều không khác nhau vì chúng không đủ thông minh để biết đến sự công bình, lòng vị tha, bác ái. Chúng cũng không có quan niệm rõ rệt gì về tình yêu hay thù hận mà chỉ thích mang những ước ao thầm kín của con người ra hứa hẹn quàng xiên để tìm lấy thích thú nhất thời. Điều bất ngờ nhất là chính loài Tinh Linh này lại thường được nhiều người tin tưởng, thờ cúng như các thần linh địa phương.

Đó là sơ lược về các chủng loại vô hình mà ta đã nghiên cứu từ nhiều năm nay. Ta biết ngươi là kẻ ham chuộng kiến thức và có khả năng học hỏi nên ta sẵn sàng hướng dẫn ngươi về những điều ta biết."


° ° °



Từ đó tôi bắt đầu học hỏi thêm về căn bản của môn Khoa Học Của Sự Chết với các giáo sĩ tại đây. Mặc dù việc học rất giới hạn nhưng tôi cũng biết rằng kiến thức của môn phái này được xây dựng trên những sự hiểu biết hết sức uyên bác về định luật thiên nhiên. Các bậc đạo trưởng ngày xưa trong phái này đã ra công nghiên cứu tường tận về đặc tính cũng như khả năng của mọi loài trong vũ trụ, từ khoáng vật, thực vật đến các sinh vật ở nhiều cõi giới cũng như sự tương quan của chúng trong vũ trụ. Là người ham học hỏi, tôi đã cố công trau dồi kiến thức căn bản này nhưng đôi khi tôi cũng không khỏi nghĩ về những vết thương lòng.



Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



đến trang 170

Thanked by 1 Member:

#11 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6740 Bài viết:
  • 5562 thanks

Gửi vào 25/07/2020 - 05:48

Một hôm trưởng lão Ombo đến gặp tôi:

- "Này Sinuhe, ngươi quả hết sức siêng năng, không phụ lòng dạy bảo của chúng ta. Hiện nay đã đến thời hạn một năm của ngươi. Chúng ta đã ướp xác và làm các nghi thức tẩm liệm cho cha mẹ người rồi nên ngươi có thể đem xác song thân đi chôn cất cho đúng nguyện vọng khi xưa. Ta rất mừng vì chỉ một thời gian ngắn, ngươi đã nắm được căn bản môn phái chúng ta. Ngươi nên nhớ rằng kiến thức này vốn có tính cách thiêng liêng vì nó đưa đến việc tham dự vào những định luật tối cao, điều khiển tất cả mọi sự trong vũ trụ.

Kiến thức này vốn có từ ngàn xưa, có lẽ từ khi loài người xuất hiện trên trái đất nhưng trải qua thời gian, qua công phu nghiên cứu của các bậc đạo gia thời cổ mà nó được đúc kết thành một hệ thống khoa học cao siêu mặc dù căn bản của nó thật ra rất giản dị. Trong môn phái của chúng ta, ý chí là bí quyết của tất cả mọi sự. Ý chí là một cái gì tế nhị, khôn ngoan, vô hình nhưng mạnh mẽ, ngự trị trên tất cả mọi vật chất bất động, vô tri. Khi con người muốn cử động, một ý định phát ra, thế là chân tay của hắn lập tức cử động. Cũng như thế, một kẻ biết tập trung ý chí sẽ có thể sai khiến người khác hay tạo ra hiện tượng vật chất nào đó."

- Nhưng việc sai khiến chân tay cử động khác xa với việc tạo ra các hiện tượng vật chất hay sai khiến người khác chứ!

- "Không đâu! Mọi việc đều bắt nguồn từ việc sử dụng ý chí. Vấn đề khác nhau là sự tập trung và việc sử dụng một cách ý thức hay vô thức mà thôi. Nếu ta lấy một mảnh vải cọ xát vào miếng hổ phách, ta có thể làm miếng hổ phách thu hút các vật nhẹ và thanh hơn nó. Điều này phải giải thích thế nào? Phải chăng ta đã khích động các yếu tố tiềm ẩn bên trong miếng hổ phách khiến nó có thể thu hút các chất khác, thanh nhẹ hơn? Hiện tượng thu hút này là gì nếu không phải là sự hấp dẫn của các vật chất. Nếu quan sát hiện tượng thiên nhiên, ngươi sẽ thấy một con rắn có thể thôi miên một con ếch khiến nó sợ hãi đứng yên cho con rắn ăn thịt, một con cọp cũng có thể thôi miên một con nai và đó là những hành động hữu thức của ý chí hay kết quả của một tư tưởng được tập trung.

Một tư tưởng hay ý chí khi tập trung sẽ có sức mạnh không thể diễn tả, có thể làm những chuyện hết sức lạ lùng, bất ngờ. Dĩ nhiên chỉ những người công phu tu luyện mới làm được việc này vì hầu hết con người không biết gì về sức mạnh của ý chí nên họ để đầu óc mông lung, thiếu tự chủ nên rất dễ bị ảnh hưởng hoặc sai khiến. Do đó căn bản đầu tiên của môn phái chúng ta là việc tập tánh tự chủ, làm chủ thân lẫn tâm, làm chủ tất cả mọi thể bằng sức mạnh của ý chí."

Ombo im lặng nhìn tôi rồi nói tiếp:

- "Tất cả mọi vật trong thiên nhiên đều tiềm ẩn bên trong nó một sự sống thiêng liêng, dù nhỏ nhặt hay tế vi thể nào. Mỗi sinh vật có thể thay đổi hình hài, sắc tướng và trải qua những cõi giới vô hình cũng như hữu hình nhưng cái sự sống thiêng liêng này thì không bao giờ đổi thay cả. Vì cùng chung một sự sống nên các vật chất đều tương quan và thu hút lẫn nhau. Nếu ngươi theo dõi sự phát triển của muôn loài thì ngươi sẽ thấy cái nguyên lý của sự sống này phát triển mỗi lúc một tinh vi, phức rạp và hoàn hảo hơn. Đối với cõi hữu hình, con người là sinh vật có tổ chức hoàn bị nhất vì trong mọi yếu tố vật chất cũng như tinh thần (ý chí) đều phát triển mạnh mẽ và trọn vẹn. Do đó khả năng kiểm soát của con người rất cao, y có thể sử dụng sức mạnhcủa ý chí để kiểm soát và làm chủ các yếu tố vật chất. Các bậc đạo trưởng trong môn phái chúng ta là những người đã làm chủ được tư tưởng của mình và thoát ly khỏi các kiềm tỏa của vật chất. Một ý chí quyết định là yếu tố khởi đầu của tất cả mọi tác động mầu nhiệm trong thiên nhiên.

Này Sinuhe, muốn bước vào con đường của môn phái chúng ta, ngươi cần nhớ kỹ nguyên tắc sau đây: Ngươi phải cương quyết giải tỏa ý chí ra khỏi vòng kiềm tỏa, vây hãm,lệ thuộc của các yếu tố vật chất và vận dụng ý chí để kiểm soát tất cả mọi hành động của mình.

Hôm nay là ngày huấn luyện cuối vì từ nay ngươi sẽ lên đường và sẽ gặp nhiều thử thách. Chỉ khi nào ngươi vượt qua được những thử thách này thì ngươi mới có thể trở lại đây học hỏi thêm về các kiến thức huyền bí của môn phái chúng ta."

Ombo nhìn tôi chăm chú rất lâu rồi chỉ lên tường, nơi có hình vẽ một con rắn đang quấn quanh biểu tượng "Tau" (tượng trưng cho sự sống):

- "Này Sinuhe, trước khi ngươi lên đường, ta có vài lời nhắn nhủ riêng với ngươi. Hãy nhìn con rắn kia, nó tượng trưng cho các mãnh lực của vật chất mà bất cứ người nào trong môn phái này đều phải tìm cách tự giải thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa của nó và điều khiển nó. Trước khi nhập môn, ngươi sẽ phải trải qua nhiều thử thách của con rắn ma quái ấy. Có lúc nó sẽ nói với ngươi: "Ta sẽ ban cho ngươi tất cả những gì ngươi muốn, nếu ngươi chịu khuất phục ta". Ngươi sẽ phải đáp lại bằng tất cả sức mạnh của ý chí rằng: "Ta không bao giờ chịu khuất phục mày, mà chính mày sẽ phải nằm mọp dưới chân ta. Mày không thể cho ta một thứ gì cả, mà chính ta sẽ sai khiến mày làm những gì ta muốn vì ta là chủ của mày". Nếu ngươi không thoát khỏi mãnh lực cám dỗ của con rắn ma quái đó, ngươi sẽ đi lạc vào tà đạo như bao người trước đã đi, và rồi ngươi sẽ không thể thoát ra khỏi ảnh hưởng ghê gớm của mãnh lực đó. Do đó ta khuyên ngươi hãy thận trọng..."

Ombo đắm chìm trong im lặng. Lần đầu tiên tôi thấy khuôn mặt lạnh lùng như thây ma của ông một vẻ ưu ái khó tả. Ông rút trong túi ra một chiếc huy hiệu nhỏ:

- "Ta trao cho ngươi chiếc huy hiệu này. Nó là biểu hiệu của môn phái chúng ta. Nhờ nó mà ngươi có thể đến nơi chôn cất trong thung lũng mộ vua mà không người nào có thể đến đó được. Nhờ nó mà ngươi sẽ nhận được sự giúp đỡ đặc biệt của những huynh đệ trong môn phái chúng ta.

Này Sinuhe, kể từ nay ngươi sẽ bắt đầu một cuộc hành rình đầy gay go, nhiều thử thách nhưng ta tin rằng ngươi có thể vượt qua được. Từ nhiều thế kỷ nay, kể từ khi học trò của Thoth phân chia những lời dạy bảo của ông thành hai môn phái riêng biệt, mới có một trường hợp đặc biệt hãn hữu như thế này. Ta rất vui mừng vì ngươi là kẻ duy nhất đã thụ giáo kiến thức của phái Khoa Học Của Sự Sống, rồi lại có dịp học hỏi thêm về kiến thức của phái Khoa Học Của Sự Chết. Mặc dù ngươi chưa được chỉ dẫn tường tận về tinh hoa của cả hai môn phái, nhưng theo sự suy luận của ta, đây chỉ là vấn đề thời gian. Ta hy vọng ngươi sẽ vượt qua được những khó khăn, thử thách rồi tiếp tục học hỏi với các danh sư của môn Khoa Học Của Sự Sống, và sau đó đến đây học thêm các kiến thức huyền môn với chúng ta. Chúng ta tin rằng ngươi có một sứ mạng quan trọng là phục hồi toàn bộ kiến thức của Thoth để dạy bảo cho các thế hệ sau. Ta mong ngươi sẽ hoàn tất sứ mạng cao cả này, phục hồi nền minh triết thiêng liêng của Thoth, hướng dẫn nhân loại sống đúng với các định luật thiên nhiên. Biết đâu qua sự dạy bảo của ngươi mà tương lai nhân loại chẳng sáng sủa, tốt đẹp hơn."


Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



#12 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6740 Bài viết:
  • 5562 thanks

Gửi vào 25/07/2020 - 07:07

CHƯƠNG 7



Đó là một đêm tối trời, vầng trăng lưỡi liềm tỏa ánh sáng mờ nhạt xuống thung lũng mộ vua, khu nghĩa trang dành riêng cho Pharaoh và những người trong hoàng tộc. Đây là vùng cấm địa, được canh gác cẩn thận và bất cứ ai lai vãng trái phép đều bị xử tử hình. Tuy nhiên dù không canh gác cũng chẳng mấy ai dám bén mảng tới vì mọi người đều biết những ngôi mộ trong nghĩa trang này chẳng những được chôn giấu, che đậy kỹ lưỡng mà còn có những động lực vô hình bảo vệ, ai đụng chạm đến sẽ bị trừng phạt hết sức nặng nề.

Nhờ có phù hiệu và giấy tờ chứng minh của trường Khoa Học Của Sự Chết nên các binh sĩ canh gác đã để tôi qua các trạm canh một cách dễ dàng. Theo lời chỉ dẫn, tôi mang xác ướp cha mẹ tôi đến khu nghĩa trang của dòng họ Oka. Đây là một khu đất rộng, chính giữa có trồng một thạch trụ khắc ghi công trạng của những người trong họ. Phần lớn những ngôi mộ đều được chôn sâu dưới lòng đất và dĩ nhiên không ai biết chỗ nào, nhưng nhờ được chỉ dẫn, tôi tìm một miếng đất trống và khởi công đào sới. Trong lúc đang chuẩn bị hạ huyệt thì bỗng có tiếng động ở đâu vang lên rồi từ hốc đá gần đó, một bóng đen xuất hiện. Tuy đã làm việc tại trường Khoa Học Của Sự Chết quen mổ xẻ thây ma, xác chết nhưng tôi cũng không khỏi hoảng hốt. Phải chăng đó là một vong linh hay các ma quỉ giữ mồ?

Tôi lùi lại quát lớn:

- Ngươi là ai?

Bóng đen cũng hỏi lại:

- Ngươi là ai?

Tôi thở phào nhẹ nhõm:

- Thì ra ngươi không phải là ma quỉ hay vong linh giữ mồ.

Bóng đen chăm chú nhìn tôi rồi lặp lại câu hỏi:

- Ngươi là ai?

- Tôi là Sinuhe, y sĩ tại thành Thebes.

- Sinuhe ư? Phải chăng ngươi là con của y sĩ Sen Moot?

- Đúng thế.

Bóng đen thong thả bước về phía tôi. Dưới ánh trăng lờ mờ, tôi nhận ra đó là một ông già, quần áo rách rưới. Ông lão chăm chú nhìn tôi rồi trầm giọng:

- Ta biết cha ngươi là người lương thiện. Ngày xưa ta bị thương và được cha ngươi cứu chữa... Nhưng ngươi làm gì ở đây với hai cái xác ướp kia?

- Đó là xác cha mẹ tôi và tôi muốn chôn cất hai người tại đây.

- Tại sao ngươi muốn chôn tại nghĩa trang dành riêng cho hoàng tộc này?

- Đây là khu đất của dòng họ Oka, mẹ tôi là người thuộc dòng họ này. Tôi hy vọng nhờ được ướp xác và chôn cất tại đây, cha mẹ tôi sẽ được hưởng một đời sống tốt đẹp hơn ở cõi giới bên kia...

Ông lão cười khảy:

- Thì ra ngươi tin là có đời sống ở thế giới bên kia.

- Tôi không tin gì hết nhưng cha mẹ tôi thì tin như vậy. Khi xưa cha mẹ tôi thường sống theo các kỷ luật nhất định, mong sẽ được hưởng những điều tốt đẹp ở thế giới bên kia. Tiếc thay tôi không làm được như thế, tôi đã phụ lòng tin tưởng của cha mẹ tôi nên đành ướp xác hai người mang đến đây chôn cất, mong có thể đền đáp được chút gì.

Ông lão cười gằn:

- Trò đời vẫn chẳng thay đổi bao nhiêu. Khi cha mẹ còn sống thì chẳng lo hầu hạ, phụng dưỡng; nhưng lúc chết thì con cái nào cũng lo ướp xác, tổ chức chôn cất ma chay linh đình. Ha ha... ngươi tin rằng nhờ được chôn cất trong thung lũng mộ vua này thì cha mẹ ngươi sẽ được hưởng những đồ cúng tế, những lễ vật mà người ta dâng cúng cho các vua chúa sao?

- Có thể như thế.

Ông lão ngửa cổ cười sằng sặc:

- Ngươi lầm rồi! Người chết chẳng thể hưởng cái gì hết vì nếu có các lễ vật dâng cúng thì nó chỉ lọt vào chiếc bụng rỗng của chúng ta mà thôi.

- Thì ra ông là kẻ chuyên đào mồ mả, trộm lễ vật của người chết.

- Đúng thế. Ta là Ansara, thủ lãnh của những kẻ chuyên trộm cướp mồ mả nơi đây.

Tôi tỏ vẻ khó chịu:

- Không lẽ trên đời này chẳng có nghề nghiệp gì khá hơn sao mà ông phải tranh giành cả đồ cúng tế với người chết?

Ông lão nổi giận:

- Thằng kia, nếu t*o không chịu ơn cha mày khi xưa thì có lẽ mày đã bỏ mạng rồi! Không kẻ nào dám ăn nói hỗn hào với Ansara này như vậy. Mày biết gì về chúng ta mà dám lên giọng dạy đời như thế?

Tôi cũng tức giận, định lên tiếng cãi lại nhưng thấy trong giọng điệu hằn học của ông lão phảng phất một điều gì bi phẫn nên ngưng lại, không nói gì. Ansara cũng chăm chú nhìn tôi như chờ đợi phản ứng nhưng không thấy tôi nói gì thì im lặng.

Một lúc sau ông thở dài:

- "Nếu ngươi biết rằng ngày trước chúng ta cũng là những kẻ lương thiện. Chúng ta là những nông dân, chỉ biết cày sâu cuốc bẫm, cho đến khi Pharaoh gây chiến tranh, bắt trai tráng phải nhập ngũ. Chúng ta từ giã gia đình ra đi, hy vọng cuộc chiến sẽ chấm dứt sớm, nhưng nào ngờ hết cuộc chiến với người Hitites lại đến chiến tranh với Nubia, rồi Syria và Babylon để thỏa mãn giấc mộng mở mang lãnh thổ của Pharaoh. Sau mấy chục năm chinh chiến, bao nhiêu máu dân lành đã đổ, bao nhiêu sinh mạng đã mất, bao nhiêu thế hệ đã mang xương máu ra hy sinh cho tham vọng của Pharaoh, cho đến khi ông ta già yếu, lâm bệnh thì chiến tranh mới chấm dứt.

Khi chúng ta trở về quê cũ thì hầu hết ruộng nương, nhà cửa, vườn tược, đất đai đều đã lọt vào tay các quan lớn trong triều, phần thưởng của Pharaoh ban cho tướng lãnh có công. Các binh sĩ như chúng ta chẳng được gì ngoài tấm thân tàn phế bệnh hoạn. Vì chiến tranh kéo dài quá lâu, làng xóm tan hoang, gia đình ly tán, chẳng ai tìm được họ hàng thân thuộc nữa. Đám thương phế binh già như chúng ta không nơi nương tựa, không nghề sinh sống, lang thang rày đây mai đó kiếm ăn. Sau cùng chúng ta đành phải hành nghề trộm mả này."

Ansara ngửa cổ lên trời cười sằng sặc:

- Ha ha ha... Khi xưa các văn quan võ tướng đã cướp nhà cửa, ruộng vườn, đất đai của chúng ta thì ngày nay chúng ta cũng đào xới mồ mả, cướp lại những đồ vật chôn cất theo thây ma của chúng. Này Sinuhe, ngươi còn trẻ, chưa nếm mùi chinh chiến nên không thể nào hiểu được những điều ta nói đâu. Chỉ những kẻ đã từng trải chiến tranh như chúng ta mới hiểu rõ hậu quả tàn khốc của nó. Chiến tranh không những phá hoại tất cả mọi tiềm lực quốc gia mà còn làm hư hỏng con người nữa. Ta hy vọng Pharaoh sẽ không dẫm vào vết xe cũ, không gây chiến tranh, không nuôi thù hận, vì nếu có tiếp tục đường lối cũ thì tương lai Ai Cập sẽ không thể nào khá được...

Tôi ngậm ngùi nhìn ông già trong bộ quần áo rách nát:

- Nhưng hẳn ông cũng biết việc đào mồ mả rất nguy hiểm.

- Tại sao ngươi lại quan tâm đến chúng ta như vậy? Kẻ chuyên đào mồ, ăn trộm đồ quí trong mồ như chúng ta hẳn nhiên phải biết rõ những cạm bẫy trong mồ chứ...

- Nhưng còn những xác ướp giữ mồ...

- Ai sợ xác ướp chứ chúng ta không sợ chút nào. Chúng ta đã có võ khí riêng.

- Nhưng làm sao ông có thể đối phó với các động lực vô hình?

Ansara nhìn tôi ngạc nhiên:

- "Ta không ngờ ngươi cũng biết về các động lực ma quái đó. Với những kẻ đã không còn sợ chết thì xác ướp giữ mồ kia chẳng thể làm gì được. Dù các pháp sư phép thuật có cao cường đến đâu thì cũng phải dựa vào các xác ướp làm môi giới cho động lực cõi âm tác oai tác quái. Chúng ta chỉ việc đốt cháy các xác ướp này thì sự liên lạc với cõi âm phải chấm dứt ngay.

Ha ha ha... điều này giản dị chứ có khó khăn gì! Chúng ta đào đường hầm vào trong mồ, dùng lửa đốt cháy mọi thứ, từ các ký hiệu, bùa chú, đến các xác ướp để trừ sạch các động lực ma quái trước khi vơ vét mọi thứ chôn theo trong mồ. Các ảnh hưởng cõi âm dù ghê gớm đến đâu cũng phải dựa vào xác ướp làm trung gian. Mất đi thứ này chúng trở nên vô hiệu nên bọn trộm mồ mả như chúng ta mặc tình thao túng. Này Sinuhe, bất kỳ ảnh hưởng của cõi âm nào cũng kỵ lửa. Chỉ cần một mồi lửa là những ảnh hưởng ma quái đều tiêu tan ra tro bụi hết...

Ha ha ha... những vua chúa tàn bạo, những giáo sĩ tà đạo đầy tham vọng cứ nghĩ rằng khi ra lệnh ướp xác để cho các động lực vô hình từ cõi âm sử dụng thì họ có thể kéo dài ảnh hưởng ma quái này mãi mãi, nhưng họ đã lầm rất lớn. Dù các ngôi mộ được canh gác kỹ lưỡng, dù dân chúng chẳng ai dám bén mảng đến, dù con cháu họ có ngày đêm tế lễ, dâng cúng lễ vật thì họ cũng chẳng thể tác oai tác quái gì nữa vì họ không bao giờ ngờ các xác ướp trung gian đã bị chúng ta đốt cháy rụi từ lâu. Có bao giờ ngờ được rằng có những kẻ chẳng sợ chết, chẳng sợ ma quỉ, sẵn sàng đào mồ phá mả, đốt sạch xác ướp và bùa chú ma quái kia để trộm đồ quí.

Ha ha ha... trên đời này chẳng có gì tồn tại mãi với thời gian, chỉ có cát bụi mới thực sự vĩnh viễn mà thôi..."

Ansara ngưng nói nhìn về cuối chân trời rồi gật đầu:

- Trời đã gần sáng rồi. Để ta giúp ngươi một tay chôn cất song thân ngươi cho tử tế rồi ngươi hãy rời khỏi chỗ này ngay kẻo quân lính bắt được hỏi lôi thôi thì phiền lắm.

Nói xong Ansara nhặt một cái cuốc gần đó phụ giúp tôi chôn cất. Sau khi chôn xong, tôi định nhặt vài hòn đá gần đó để đánh dấu thì Ansara đã lắc đầu:

- Ngươi mất công đánh dấu làm gì, trước sau tất cả rồi cũng trở về với cát bụi. Này Sinuhe, ngươi hãy nhìn cho kỹ, có hàng trăm Pharaoh được chôn cất trong thung lũng này nhưng ngươi đã thấy gì ngoài bãi cát mênh mông bát ngát kia? Dù ngươi có quyền uy tột đỉnh thế nào đi nữa nhưng khi nằm xuống thì cũng chỉ là cái xác khô mà thôi. Dù họ có bỏ ra bao nhiêu năm xây dựng sự nghiệp, mở mang lãnh thổ, kiến tạo những lâu đài đồ sộ, những lăng tẩm vĩ đại nhưng khi chết thì cũng nằm trong cái hố không đầy ba thước. Dù họ có chinh phục được bao nhiêu quốc gia, thôn tính được bao nhiêu đất đai, xưng hùng xưng bá thế nào thì cuối cùng vẫn chỉ là một nắm xương tàn, không giá trị bằng một hạt cát trong sa mạc. Hạt cát ít ra cũng biết mình là cát bụi nên khiêm tốn nằm yên nhưng con người thì cứ mải miết, lăng xăng với những ước vọng viễn vông, chẳng ý thức được đời người vài chục năm có là mấy so với cát bụi đã hiện hữu nơi đây hàng ngàn năm rồi. Có lẽ những hạt cát đều bật cười trước sự ngu xuẩn của con người. Ha ha ha... Chúng cười cho sự điên rồ của con người, không biết thân phận mình bé nhỏ mong manh như thế nào mà còn đòi bất tử. Ha ha ha...

Ansara thong thả bước đi nhưng tiếng cười của lão vẫn rền vang trong sa mạc. Tôi im lặng nhìn theo bóng ông lão khuất dần trong bóng đêm.


° ° °



Trời bắt đầu sáng, một vài tia nắng xuất hiện trên nền trời. Tôi trở về Thebes với một tâm trạng khó tả. Đã hơn một năm nay, tôi mới trở lại thành phố thân yêu này. Những đường phố quen thuộc từ từ hiện ra trước mắt tôi. Bên bờ giếng, một thiếu nữ đang múc nước. Vài đứa trẻ chạy nhảy quanh đó. Phiên chợ sớm đã họp. Tôi nghe rõ tiếng người cười nói và chào mời vang vang vọng lại. Khi tôi vừa đến bên giếng thì người thiếu nữ múc nước chợt ngẩng mặt lên nhìn và hoảng hốt kêu lớn:

- Sinuhe đấy ư? Anh... anh làm gì ở đây?

Tôi nhận ra Meryt, người thiếu nữ bán rượu năm xưa:

- Chào cô Meryt.

Meryt cuống quít:

- Em tưởng... em tưởng... anh đã chết rồi!

- Không, tôi vẫn còn sống... Tại sao cô lại hoảng hốt như thế?

Meryt không trả lời, dáo dác ngó quanh rồi đưa tay lên miệng ra hiệu cho tôi đừng nói. Tôi đang ngạc nhiên thì Meryt đã kéo tấm khăn choàng đầu trùm ngay lên mặt tôi rồi ghé sát vào tai tôi nói nhỏ:

- Anh đừng nói gì hết... Hãy đi theo em ngay.

- Tại sao?

Meryt kéo tay tôi rảo bước qua mấy con đường nhỏ đến một quán rượu. Khi tôi vừa bước vào thì thấy Kepta đang cắm cúi lau chùi sàn nhà. Hắn ngửng lên thấy tôi thì cuống quít la lớn:

- Ông chủ... phải ông chủ đó không?

- Kepta, ngươi làm gì ở đây?

Gã nô lệ ôm chầm lấy tôi mừng rỡ:

- Từ lúc ông chủ đem xác hai cụ đi chôn rồi không trở về, tôi tưởng ông chủ đã chết theo hai cụ rồi.

- Không, ta vẫn còn sống đây... Tại sao ngươi hoảng hốt thế?

Kepta đưa tay lên chùi con mắt duy nhất rồi hỏi:

- Không lẽ... không lẽ ông chủ không biết gì sao? Pharaoh Akhenaten... giận ông chủ lắm đó.

- Tại sao?

Kepta vội vã giải thích:

- Đúng vào lúc ông chủ bỏ đi thì hoàng tử Teay bị sưng màng óc. Hoàng đế Akhenaten chỉ có một con trai duy nhất nên ngài quí hoàng tử vô cùng. Khi hoàng tử lâm bệnh, ngài cho gọi ông chủ đến cứu chữa. Các quan ngự y đều nói rằng ông chủ là người mổ sọ tài giỏi nhất và có thể chữa cho hoàng tử nên Pharaoh đợi ông chủ mãi. Hoàng tử mắc bệnh ít lâu rồi qua đời mà ông chủ vẫn biệt vô âm tín nên một số quan triều cho rằng ông chủ đã mưu mô với phe chống đối nên lánh mặt không chịu cứu chữa, để cho dòng họ Amenophis phải tuyệt tự. Khắp nước người ta đã bàn tán việc này rất sôi nổi. Sau cùng các quan triều yêu cầu hoàng đế phải trừng trị ông chủ thật nặng nề để làm gương và án tử hình đã ban hành từ mấy tháng nay rồi.

Tôi bàng hoàng không ngờ:

- Nhưng... nhưng không lẽ... Horemheb cũng tin như vậy sao?

- Lúc đầu Horemheb bị nghi ngờ là đã che chở cho ông chủ. Sau này chính Pharaoh ra lệnh cho Horemheb phải tìm cho được ông chủ bằng bất cứ giá nào. Hắn đích thân đốc thúc quân sĩ khám xét khắp nơi. Hiện nay Horemheb đang treo giải thưởng cho ai bắt được ông chủ.

Tôi căm giận gầm lên:

- Horemheb, thằng khốn kiếp! Ta không ngờ ngươi lại thay lòng đổi dạ nhanh như thế!

Đến lúc đó Meryt mới lên tiếng:

- Sinuhe, có lẽ anh cần rời khỏi Ai Cập ngay. Nếu để Horemheb bắt được, chắc anh phải chết.

Một lần nữa tôi cảm thấy mọi sự đều sụp đổ tan tành. Tôi chán chường:

- Ta không sợ chết. Sống chết đối với ta không có nghĩa gì nữa.

- Sinuhe, tại sao anh lại nói thế?

- Ta đã được học về sự chết nên không còn sợ chết nữa.

Meryt chăm chú nhìn tôi một lúc rồi nghiêm nghị:

- Này Sinuhe, có thật đó là kiến thức về sự chết hay chỉ là sự thất vọng đối với đời sống?

Câu nói của Meryt như gáo nước lạnh dội lên đầu khiến tôi giật mình. Cả một dĩ vãng đầy đau khổ tưởng đã chìm sâu lại hiện lên rõ rệt. Meryt tiếp tục:

- Phải chăng anh vẫn còn đau khổ vì người đàn bà Babylon kia nên chỉ muốn tìm lấy cái chết?

Câu nói của Meryt đã đụng chạm đến vết thương mà bao lâu nay tôi vẫn cố quên. Hình ảnh Nefer và Horemheb lại hiện ra trong trí khiến tôi gầm lên:

- Meryt, cô nói đúng đấy! Đứa con gái kh*n n*n kia đã phản bội ta... ta thề sẽ băm nó ra trăm mảnh rồi quăng cho cá sấu... Ôi đàn bà! Đàn bà chúng mày chỉ toàn là đồ xấu xa, phản bội...

Meryt ôn tồn lắc đầu:

- Anh nghĩ tất cả mọi người phụ nữ đều xấu xa như thế sao?

Tôi biết mình lỡ lời nên ngập ngừng bào chữa:

- Tôi... tôi không... không có ý nói cô.

Meryt nhẹ nhàng:

- Em biết anh không có ý vơ đũa cả nắm như thế.

Tôi bối rối chữa thẹn:

- Cô là người tốt... chứ không như đứa con gái kh*n n*n thành Babylon kia. Nhưng tại sao cô lại đối xử tử tế với tôi như vậy? Tôi là một kẻ khốn cùng, đã mất hết danh dự, tài sản, danh vọng, sự nghiệp... Hiện nay tôi còn là kẻ đang bị truy nã nữa, thế tại sao cô lại giúp tôi?

Meryt im lặng cúi đầu vân vê tà áo. Kepta vội đỡ lời:

- Khi ông chủ bỏ đi mất tích, thằng nô lệ này không nơi nương tựa, lang thang đầu đường xó chợ. May thay có Meryt thương tình cho tá túc...

- Tại sao cô làm thế?

Meryt cúi đầu nói nhỏ:

- Tại vì em biết... y sĩ... là người tốt...

Đến lúc đó tôi mới hiểu được cảm tình của Meryt dành cho tôi. Tôi nhớ khi xưa có lần bị Horemheb và bạn bè ép uống rượu, chính Meryt đã can thiệp và bênh vực tôi. Sau này khi tôi trở về Thebes, cô đã theo tôi về tận đây nhưng tôi vẫn vô tình không để ý.

Tôi im lặng nhìn Meryt một lúc rồi nói thật chậm:

- Này Meryt, tôi cám ơn cô đã đối xử rất tốt với chúng tôi. Tôi là kẻ xấu xa, hèn hạ thật không xứng đáng với cô...

- Anh, đừng nói thế.

- Tôi là kẻ đang mang án tử hình, một kẻ đã phụ lòng tất cả những người yêu thương tôi. Cha mẹ tôi đã chết, nhà cửa tôi đã mất, sự nghiệp của tôi cũng không ra gì, danh dự của tôi đã bị đứa con gái thành Babylon chà đạp. Hoàng đế Akhenaten vì tin tưởng ở tôi nên con trai ông đã chết. Hiện nay tôi chỉ mang lại bất hạnh cho những ai gần tôi.

- Có lẽ anh đã bị người ta lừa gạt...

- Không, chẳng ai lừa gạt tôi cả. Tôi đã làm thì tôi phải lãnh chịu hậu quả.

- Không. Anh đừng nói thế. Lúc này hoàng đế đang giận dữ, triều đình đang xáo trộn. Horemheb cũng bị nghi ngờ che giấu anh nên phải treo giải thưởng để bắt anh mà thôi. Lúc này anh xuất hiện chẳng ích lợi gì, nhưng theo thời gian mọi sự sẽ thay đổi và...

- Không, tôi đã chán ngấy cuộc sống tại Ai Cập rồi. Cha mẹ tôi là người tốt nhưng họ đâu được gì ngoài cái chết thê thảm. Tôi muốn sống theo lý tưởng của cha mẹ tôi nhưng kết quả là mất hết danh dự, nhà cửa, tài sản. Ngay cả người bạn thân nhất cũng phản bội tôi. Hoàng đế Akhenaten thì lên án tử hình tôi. Không, tôi đã chán ngấy cái xứ kh*n n*n này rồi. Tôi không thể tiếp tục kéo dài cuộc sống như thế này nữa.

Kepta gật đầu:

- Ông chủ nói đúng đó. Xứ này không biết đến tài nghệ của ông chủ thì ông chủ qua xứ khác lập nghiệp. Với tài nghệ của ông chủ thì sống chỗ nào chẳng được.

Tôi đồng ý:

- Từ nay thằng Sinuhe này sẽ không còn dính dáng gì đến Ai Cập nữa.

Meryt lắc đầu:

- Sinuhe, anh nên bình tĩnh lại. Chuyện đâu còn đó, lúc này anh cần lánh mặt một thời gian rồi từ từ mọi việc sẽ tự nó giải quyết.

- Không, tôi không còn muốn sống ở đây nữa.

Kepta gật đầu nói nhỏ:

- Thưa ông chủ, lúc này việc buôn bán tại Palistine đang phát đạt. Người Do Thái chúng tôi kiếm ăn rất khá nhưng xứ chúng tôi không có nhiều y sĩ giỏi. Nếu ông chủ qua đó làm ăn thì chắc chắn sẽ kiếm được khá lắm...

- Phải đấy, ngươi thu xếp cho ta đi Palestine ngay.

Kepta vội vã bỏ đi. Meryt im lặng nhìn tôi một lúc rồi òa lên khóc. Tôi nắm chặt lấy tay cô gái:

- Meryt, tôi hiểu rõ tình cảm của cô dành cho tôi, nhưng tôi mong cô hãy quên tôi đi. Cô còn trẻ, cuộc đời còn tươi sáng...

Meryt tiếp tục thút thít khóc cho đến khi Kepta trở lại:

- Thưa ông chủ, tôi đã thu xếp xong. Lúc này có thuyền buôn đi dọc trên sông Nile đến Beda, thằng nô lệ này đã đút lót tiền bạc cho chủ thuyền nên hắn không hỏi han chi cả. Chúng ta cần lên đường ngay.

- Ngươi làm gì có tiền để làm chuyện đó?

Kepta hấp háy con mắt duy nhất nhìn tôi rồi cười xòa:

- Thì tiền của ông chủ chứ còn của ai nữa... Thằng nô lệ này vẫn giữ giùm cho ông chủ số tiền bệnh nhân bỏ trong rương trước phòng khám bệnh. Có lẽ ông chủ quên rồi chăng?

Từ đó tôi và Kepta bắt đầu cuộc sống mới tại Palestine...



° ° °



Tôi đi bỏ lại phía sau mảnh đất chôn nhau cắt rốn cũng như quãng đời thanh niên ngây thơ, vô tư và đầy lạc quan. Trong thời gian đầu, chúng tôi bám theo những nhóm người Do Thái chuyên buôn bán, trao đổi hàng hóa quanh sa mạc Palestine. Vì buồn chán, không tha thiết gì đến đời sống nữa nên tôi thường mượn rượu giải khuây. Nhờ Kepta còn giữ được chút tiền bạc nên chúng tôi không gặp khó khăn gì mấy, nhưng khi số tiền này cạn dần thì chúng tôi bắt đầu nếm cảnh nghèo túng đói khát. Đến lúc tiền bạc hết sạch thì chúng tôi trở thành những kẻ hành khất, tá túc dưới các mái hiên nhà hay các ốc đảo ngoài sa mạc. Được nuôi dưỡng và giáo dục trong hoàn cảnh thanh bần nên việc ăn uống, ngủ nghỉ đối với tôi không quan trọng mấy, nhưng sự kiện đang ở địa vị một y sĩ được trọng đãi, kính nể nhất thành Thebes bỗng trở nên kẻ hành khất hạ lưu, cặn bã xã hội, bị mọi người khinh miệt là điều tôi không chịu nổi. Đã thế, còn phải sống chung đụng với những thành phần bất hảo, trộm cắp, du đãng, vô gia cư, vô nghề nghiệp, những kẻ đầy thói hư tật xấu là một khổ tâm lớn cho tôi.

Theo thời gian, khi sự đau khổ dần dần giảm bớt thì tôi bắt đầu sử dụng khả năng chữa bệnh để kiếm sống. Chúng tôi đi quanh các làng mạc trong vùng để chữa bệnh. Palestine là miền sa mạc hoang vu, sỏi đá khô cằn, dân cư thưa thớt nên người bản xứ không mấy ai có dịp tiếp xúc với các y sĩ chuyên môn như tôi. Đối với họ, những căn bệnh thông thường cũng là cả một vấn đề nên chỉ ít lâu sau, tôi đã trở nên một người nổi tiếng, có thể chữa được nhiều chứng bệnh.

Chúng tôi tiếp tục đi qua rất nhiều làng mạc, thôn xóm. Càng đi xa tôi càng trở nên nổi tiếng. Dọc đường tôi đã chứng kiến nhiều cảnh bất công, những sự bóc lột, những nỗi đau khổ triền miên của con người gây ra cho con người nhưng trái tim của tôi đã khô héo và không còn xúc động nữa. Thời gian sống đói khổ, lam lũ với những kẻ hạ lưu trong xã hội đã dạy cho tôi một bài học về giá trị của đồng tiền. Tôi nghe theo lời khuyên của Kepta, chỉ chữa cho những bệnh nhân giàu có vì họ có thể trả cho tôi những số tiền lớn. Đối với những kẻ nghèo đói, tôi chẳng thèm để ý đến họ làm chi. Họ sống cũng thế mà chết đi thì xã hội lại giảm bớt được một miệng phải nuôi mà thôi.

Khi rời Ai Cập, tôi và Kepta chỉ có mảnh áo trên lưng nhưng vài năm sau, chúng tôi đã mặc những y phục sang trọng nhất, di chuyển với đoàn tùy tùng hầu hạ đông đảo. Tại các thành phố lớn, người ta đã phải mang kiệu đến rước tôi đi chữa bệnh. Tôi cho Kepta đến điều tra trước, xem xét gia cư, điền sản bệnh nhân và thảo luận giá cả trước khi chữa bệnh. Ở đâu cũng thế, khi đã mắc bệnh, người ta sẵn sàng làm mọi thứ để được chữa khỏi và tôi đã lợi dụng tình trạng này tối đa. Có những bệnh nhân bị tôi cố tình kéo dài thời gian, chờ bệnh nặng lên, đến lúc thập tử nhất sinh mới bắt đầu cứu chữa và khi đó đòi hỏi gì họ cũng sẵn sàng dâng hiến. Nhiều người phải trao trọn sản nghiệp cho tôi để thoát cơn bệnh ngặt nghèo. Có người phải mang vợ con ra cầm cố, làm nô lệ cho tôi để được cứu sống.

Theo thời gian, tôi đã làm chủ vô số tài sản từ Babylon đến Syria. Khắp nơi, thành phố nào cũng có nhà cửa, dinh thự của tôi. Từ khi hành nghề trở lại và thành một y sĩ nổi tiếng, tôi chỉ giao thiệp với giai cấp thượng lưu, quý phái, những người có quyền thế, địa vị trong xã hội. Người ta cần quen biết tôi để phòng khi bệnh hoạn yếu đau và tôi cũng cần quen biết họ, những kẻ có thế lực, để được bảo đảm về an ninh.

Cuộc sống cứ thế tuần tự trôi, chẳng mấy chốc tôi đã rời Ai Cập được hơn mười năm. Ngày ra đi tôi là một thanh niên yếu đuối, non nớt nhưng hiện nay tôi đã trở thành một người trung niên trưởng thành, từng trải mùi đời. Cuộc sống tiện nghi vật chất cũng khiến tôi nguôi ngoai phần nào cái quá khứ cay đắng tại Ai Cập. Tuy nhiên có những buổi chiều, khi ánh nắng sa mạc hắt lên khung cửa, nỗi buồn xa xứ lại dấy lên trong lòng tôi. Mỗi khi hình ảnh Horemheb và Nefer hiện lên thì các nô lệ xinh đẹp, các tiệc tùng xa hoa lộng lẫy thế nào cũng không làm sao xóa mờ được hình ảnh đó.

Một hôm tôi đang ngủ thì Kepta đẩy cửa bước vào:

- Thưa y sĩ, có một bệnh nhân đang cần chữa trị gấp.

Tôi khó chịu gắt ầm lên:

- Ngươi không thấy ta đang ngủ đây sao? Hãy để hôm khác...

- Nhưng đây là trường hợp khẩn cấp không thể chờ được...

Tôi định lên tiếng quát tháo nhưng thấy Kepta giơ tay ra hiệu nên ngưng lại. Hiển nhiên đây phải là một thân chủ rất "xộp" nên Kepta mới dám phá giấc ngủ của tôi như thế.

Khi tôi bước vào phòng khám bệnh thì thấy một nhóm người đang bao quanh một bệnh nhân mặc quân phục Ai Cập, thân thể đầy máu. Tôi khám xét vết thương và giật mình khi thấy bệnh nhân bị một vét chém rất nặng, xuyên qua cả bộ giáp trụ. Trong cuộc đời làm y sĩ, tôi chưa bao giờ nhìn thấy vết chém nào nặng như thế.

- Làm sao mà người bị thương như thế? Bệnh nhân ú ớ như không hiểu tôi nói gì. Kepta lên tiếng:

- Người này là Hitites chứ không phải Ai Cập.

- Nhưng tại sao y lại mặc giáp trụ Ai Cập.

Kepta chưa kịp trả lời thì một người đứng gần đó đã lạnh lùng lên tiếng:

- Đó là việc của chúng ta, ngươi hãy khám vết thương này xem có thể chữa được không?

Tôi cúi xuống xem xét rất kỹ. Đây quả là vết thương trí mạng. Bệnh nhân bị vật gì chém xuyên qua bộ giáp trụ kiên cố, đâm thẳng vào các cơ quan nội tạng. Càng khám tôi càng bàng hoàng vì các cơ quan bên trong đều bị hư hỏng, thịt xương nát bấy, không thể cứu chữa gì được.

- Vết chém này quá nặng, tôi nghĩ y khó có thể sống được qua hôm nay.

- Ngươi hãy xem xét cho thật kỹ đi.

Tuy cảm thấy khó chịu về thái độ trịch thượng của người lạ mặt nhưng theo thói quen nghề nghiệp, tôi vẫn cố gắng xem xét một lần nữa. Điều làm tôi ngạc nhiên hơn cả là bộ giáp trụ kiên cố bằng kim khí đã bị vật gì đó chém xuyên qua như người ta cắt một miếng bánh. Tôi lên tiếng:

- Tôi đã từng chữa rất nhiều người bị thương vì đâm chém nhưng chưa bao giờ thấy vết thương nào nặng như thế này. Đã thế, bộ giáp trụ kiên cố cũng bị hư hỏng, hiển nhiên người này đã bị một vật gì rất sắc bén đâm trúng.



Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




đến trang 190

#13 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6740 Bài viết:
  • 5562 thanks

Gửi vào 28/07/2020 - 07:49

Nhóm người lạ nhìn nhau, không giấu được vẻ đắc chí. Người cầm đầu có khuôn mặt lạnh lùng gật đầu:

- Khá lắm! Ngươi quả có con mắt tinh đời đó, nhưng chúng ta chỉ muốn biết vết thương nặng như thế này có thể cứu chữa được không?

- Tôi đã xem rất kỹ, nội tạng của y bị thương nặng lắm, không thể chữa được.

- Một y sĩ nổi tiếng như ngươi mà cũng không thể chữa được sao?

- Tôi biết rõ khả năng của tôi, vết thương này quá nặng tôi không thể nào chữa nổi.

- Nếu vậy, các y sĩ khác thì sao?

Kepta vội vã lên tiếng:

- Ai cũng biết trong vùng này, ông chủ tôi là y sĩ giỏi nhất. Nếu chủ tôi đã tuyên bố không thể cứu chữa thì tôi cam đoan các lang băm quanh vùng chẳng dám mó tay vào đâu!

Nhóm người lạ mặt đưa mắt nhìn nhau khoái chí. Hiển nhiên họ chẳng quan tâm gì đến bệnh nhân mà chỉ muốn biết hậu quả của vết thương kia ra sao mà thôi. Người có khuôn mặt lạnh lùng rút ra một túi tiền vàng lớn đưa cho Kepta:

- Tốt lắm! Đây là phần thưởng cho việc khám bệnh của ông.

- Nhưng tôi đâu cứu được bệnh nhân?

- Điều ấy không quan trọng. Phiền hai ông chôn cất bệnh nhân giùm.

Nói xong họ kéo nhau bỏ đi một cách thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra.


° ° °



Tuy nhiên vài hôm sau nhóm người này trở lại với vẻ căng thẳng rõ rệt. Người cầm đầu lên tiếng:

- Chúng tôi muốn nhờ y sĩ đi khám bệnh cho một người.

Kepta lên tiếng:

- Ông chủ tôi không tiếp bệnh nhân bất ngờ như thế. Tôi phải đến trước thu xếp mọi việc đã...

Người cầm đầu nhếch miệng cười:

- Ngươi đừng lo, chúng ta sẵn sàng trả công cho chủ ngươi xứng đáng.

Kepta cương quyết lắc đầu:

- Nhưng tôi phải đến đó xem xét...

Người cầm đầu lạnh lùng nói:

- Ngươi nghĩ rằng chúng ta không biết việc ngươi đi điều tra gia cảnh bệnh nhân để định giá trước khi chủ ngươi chữa bệnh hay sao?

Người nô lệ chột mắt của tôi thản nhiên:

- Đó là cách làm việc của chúng tôi, nếu không thích các ông cứ đi tìm y sĩ khác.

- Quanh đây mấy trăm dặm không có y sĩ nào giỏi cả.

Kepta đắc chí:

- Nếu biết thế, hẳn các ông cũng biết phương cách làm việc của chúng tôi.

Người cầm đầu gằn giọng:

- Nếu chủ ngươi có thể chữa được cho người này thì chúng ta sẵn sàng trả công cho các ngươi cả một rương vàng. Từ trước đến nay ta chắc chưa ai dám trả món tiền lớn như thế đâu!

Kepta há hốc miệng nói không ra lời. Con mắt duy nhất của hắn đảo qua đảo lại như tính toán vì một rương vàng quả là một tài sản rất lớn, chỉ bậc vua chúa mới có thể sở hữu mà thôi. Tôi cũng im lặng vì cảm thấy hình như có điều gì không ổn.

Quả nhiên người cầm đầu nói tiếp:

- Chúng ta sẵn sàng đặt trước một số tiền lớn để y sĩ theo chúng ta lên đường ngay.

- Nhưng các ông muốn đi đâu?

- Ta không thể nói được, xin y sĩ lên đường ngay cho.

Nói xong hắn phất tay một cái, một kẻ tùy tùng vội vã đặt lên bàn một hũ đựng đầy ngọc. Kepta trố mắt xuýt xoa:

- Được lắm! Được lắm! Nhưng tôi và ông chủ tôi không bao giờ rời nhau. Để tôi thu xếp dụng cụ lên đường.

Chúng tôi theo đoàn người vượt sa mạc đến một thung lũng rộng lớn, chung quanh có nhiều quân sĩ canh gác cẩn thận. Thì ra đó là chỗ đóng quân của người Hitites. Chúng tôi được đưa đến một căn lều lớn, bệnh nhân là một người dáng dấp hiên ngang, oai vệ. Ông ta ngồi trên một chiếc ghế lớn, bên cạnh đặt một thanh kiếm hình thù kỳ dị. Vừa nhìn thấy thanh kiếm, tôi đã giật mình, hẳn đây là một vũ khí đã chém nát bộ giáp trụ của người sĩ quan Hitites hôm trước. Bệnh nhân chăm chú nhìn tôi như dò xét rồi ra hiệu cho tôi bước đến khám bệnh.

Tôi thong thả chẩn bệnh rất kỹ rồi lên tiếng:

- Ông bị một cái bướu trong đầu, cái bướu này đè lên óc khiến cho tay trái của ông không cử động được nữa. Nếu không cứu chữa, chỉ ít lâu nữa toàn thân ông sẽ bị bại liệt...

Bệnh nhân kinh ngạc, không ngờ chỉ mới một khám xét mà tôi đã nói trúng bệnh trạng của ông ta như thế. Nhóm người chung quanh cũng ngạc nhiên không kém. Người sĩ quan có khuôn mặt lạnh lùng, gật đầu:

- Nếu đã chẩn bệnh chính xác như thế hẳn y sĩ có thể chữa được cho hoàng đế của chúng tôi?

Thì ra bệnh nhân chính là hoàng đế xứ Hitites, thảo nào ông ta sẵn sàng trả thù lao chữa bệnh cao như thế! Tôi im lặng suy nghĩ rồi nói:

- Dĩ nhiên tôi có thể chữa được, nhưng tôi sợ rằng ông sẽ không dám để cho tôi chữa...

- Tại sao?

- Việc chữa trị đòi hỏi tôi phải mổ sọ ông ra, cắt cái bướu đi rồi ráp mảnh sọ lại như cũ. Đây là một phương pháp đặc biệt mà rất ít y sĩ dám đảm nhận và chẳng ai có thể bảo đảm...

Tôi chưa dứt lời thì nhón người đứng quanh đó đã hầm hầm rút võ khí ra. Người nào cũng cầm những cây kiếm hình thù kỳ dị, y hệt như thanh kiếm đặt trên bàn.

- Quả nhiên chúng ta đoán không sai, ngươi hẳn là tay sai của hoàng đế Ai Cập trà trộn đến đây để ám sát chủ nhân chúng ta...

- Ngươi phải chết...

Trong lúc tôi chưa kịp phản ứng thì một người dáng dấp bé nhỏ vẫn đứng yên lặng trong góc lều bước ra nói lớn:

- Các ngươi chớ hàm hồ! Người y sĩ này nói rất đúng vì chính ta đã đích thân chẩn bệnh cho hoàng đế và biết phải chữa như thế...

Nói xong ông quay ra chăm chú nhìn tôi rất lâu rồi ôn tồn nói:

- Ta chính là quan ngự y cho hoàng đế xứ Hitites. Ta biết việc mổ sọ người là một phương pháp đặc biệt của trường Khoa Học Của Sự Sống và rất ít ai được truyền dạy. Theo sự tìm hiểu của ta thì chỉ có Sen Moot, y sĩ thủ khoa của trường này biết cách mổ sọ nhưng ông này đã chết từ lâu rồi. Hiện nay chỉ có người con trai của ông, đang làm chức ngự y cho hoàng đế Ai Cập biết phương pháp này thôi. Ngươi có liên quan gì đến người y sĩ tên Sinuhe đó không?

- Tôi chính là Sinuhe đây.

Toàn thể mọi người đều giật mình. Người sĩ quan chỉ huy hầm hầm:

- Thì ra thế! Ta biết là phải có những âm mưu ám muội...

Bất ngờ hoàng đế Hitites bật cười lớn:

- Ha ha ha... Quan ngự y của hoàng đế Ai Cập lại đến chữa cho vua xứ Hitites trước khi hai bên khởi binh giao tranh! Không những thế, hắn còn đề nghị một phương pháp chữa bệnh lạ lùng là mổ sọ người. Ha ha ha... thảo nào các tướng sĩ của ta nghi ngờ cũng phải. Này Sinuhe, ngươi giải thích thế nào đây?

Tôi lạnh lùng:

- Khi xưa tôi là quan ngự y cho hoàng đế Akhenaten nhưng hiện nay tôi không còn dính dáng gì đến Ai Cập nữa cả. Nếu các ông có thiêu rụi Ai Cập thì cũng chẳng ăn nhằm gì đến tôi nữa. Tôi là y sĩ chữa bịnh lấy tiền và các ông sẵn sàng trả cho tôi một số tiền lớn. Nên nhớ chính các ông đã mời tôi đến đây chứ không phải tôi tự ý tìm đến. Các ông có muốn tôi chữa hay không?

Quan ngự y tò mò:

- Ta nghe nói ngươi bị hoàng đế Ai Cập kết án tử hình...

- Đúng thế! Tôi là kẻ có tội nên phải trốn đi biệt xứ. Hiện nay tôi không có quê hương, không trung thành với vua chúa nào hết. Tôi chỉ biết có tiền bạc mà thôi và sẵn sàng làm mọi sự. Việc chữa trị tùy các ông quyết định...

Hoàng đế xứ Hitites gật đầu:

- Ngươi nói đúng đó, hiện nay có lẽ ngươi là kẻ duy nhất có thể chữa bệnh cho ta, nhưng ngươi cần biết rằng nếu ta chết thì quân sĩ của ta cũng không để cho ngươi yên đâu.

- Tôi biết rõ điều này.

- Được lắm! Nếu ta khỏi bệnh thì ta sẽ cho ngươi bất cứ món gì ngươi muốn.

Gã chỉ huy có khuôn mặt lạnh lùng lên tiếng:

- Xin hoàng đế hãy nghĩ lại nếu như tên y sĩ này có âm mưu...

- Các ngươi yên tâm, nếu ta không chữa thì sẽ bị tê liệt toàn thân. Ta thà chết còn hơn sống tàn phế như thế. Chết ngoài trận mạc hay chết dưới tay tên y sĩ này cũng thế thôi... Này Sinuhe, ngươi khởi sự đi.

- Tôi sẽ cho ông uống một thang thuốc mê trước khi tôi mổ sọ.

- Hà tất phải như thế, hãy mang rượu cho ta uống là được rồi.

Mổ sọ người không phải việc tầm thường. Hầu hết mọi bệnh nhân đều được uống thuốc mê để khỏi đau đớn sợ hãi nhưng vị vua này đã làm tôi kinh ngạc. Tôi ra hiệu cho Kepta chuẩn bị dụng cụ và thuốc men. Mọi người quây quần quanh đó xem xét. Cuộc giải phẫu kéo dài đến nửa đêm mới xong.

Tôi băng bó vết thương cho hoàng đế Hitites rồi nói:

- Tôi đã cắt bỏ hoàn toàn cái bướu đó. Khoảng sáng mai,hoàng đế sẽ tỉnh lại.

Gã chỉ huy nhếch miệng cười:

- Xin y sĩ hãy ra bên ngoài nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Khi nào hoàng đế khỏe mạnh, chúng tôi sẽ cho người đưa y sĩ trở về.

Tôi hiểu ý hắn nên ra hiệu cho Kepta bước ra căn lều gần đó. Đó là một căn lều trang hoàng giản dị, sạch sẽ, chung quanh có quân sĩ canh phòng cẩn thận. Vì mệt mỏi nên tôi đặt mình xuống giường là ngủ thiếp đi. Trong giấc ngủ tôi thấy hình ảnh Horemheb và Nefer hiện ra nhưng lần này tôi thấy mình đang cầm thanh kiếm hình thù kỳ dị kia. Tôi vừa vung kiếm lên, đầu Nefer đã rời khỏi cổ. Horemheb quay lưng bỏ chạy nhưng tôi đã xông đến, lưỡi kiếm sắc bén chém xuyên qua bộ giáp trụ bằng kim khí, cắm ngập vào lưng Horemheb. Hắn ngã gục xuống. Tôi thong thả bước đến chém bồi thêm một nhát nữa. Lưỡi gươm xuyên qua bộ giáp trụ của hắn, máu phun ra có vòi. Horemheb giơ hai tay ra như van xin nhưng một lần nữa, tôi vung kiếm chém rụng cả hai tay hắn:

- Sinuhe, sao bạn lại làm thế?

- Ai bạn bè gì với mày? Đồ vong ân bội nghĩa!

Tôi giơ kiếm đâm thẳng vào ngực hắn. Horemheb kêu lớn:

- Sinuhe... Sinuhe... Xin bạn đừng làm thế...

Tôi sung sướng bật lên một tràng cười sảng khoái và cười mãi không thôi, nhưng không hiểu sao tiếng cười của tôi bỗng trở thành tiếng khóc. Tôi hốt hoảng, rõ ràng mình đang cười nhưng lại nghe ra tiếng khóc, rồi cả thế giới như quay cuồng, đảo lộn. Quanh tôi đầy những âm thanh cuồng nộ, kỳ lạ.

Tôi giật mình tỉnh dậy, bên ngoài trời chưa sáng hẳn. Văng vẳng đâu đây hình như vẫn còn những tiếng gầm thét cuồng nộ. Tôi muốn ngồi dậy nhưng đầu óc còn choáng váng quay cuồng bởi hình ảnh của giấc mơ vừa qua. Chưa bao giờ tôi sợ hãi như vậy. Phải chăng tôi là một kẻ hung bạo và tàn ác? Từ lâu nay tôi muốn rửa hận, nhưng khi thấy mình làm việc này, dù chỉ trong giấc mơ, tôi lại thấy đó không phải là điều mình thực sự mong muốn. Tuy lòng ghen tức thúc đẩy tôi phải trả thù nhưng vẫn có một cái gì khác, tiềm ẩn, không cho phép tôi làm thế. Hơn mười năm nay,tôi đã sống trong đau khổ, chán chường vì chưa quên được chuyện cũ nhưng hiện nay hình như có một cái gì đó đang nhen nhúm, thay đổi xảy ra trong tôi.

Tôi ngồi dậy bước ra khỏi lều. Mặt trời đã mọc ở cuối chân trời, những tia sáng chói chan nhảy múa trên cồn cát sa mạc khiến tôi nghĩ đến hoàng đế Akhenaten. Hình ảnh con người trầm tĩnh với chủ trương cải cách lạ lùng kia tự nhiên hiện ra trước mắt tôi. Vừa lên ngôi ông đã gặp khó khăn bởi cuộc phản loạn, nhưng ông đã khắc phục được nó, biết tha thứ cho những kẻ âm mưu tạo phản trong triều để thiết lập một trật tự mới. Liệu ông có thành công trong việc thay đổi những truyền thống cổ xưa hay không, vẫn còn là một nghi vấn.

Tôi chợt nghĩ đến thanh gươm kỳ lạ và gã Hitites mặc giáp trụ Ai Cập bị chém trọng thương kia. Phải chăng người Hitites đang thí nghiệm một vũ khí mới lạ, cực kỳ sắc bén để chuẩn bị chiến tranh với Ai Cập? Vừa nghĩ đến thân thể bị chém nát bét của gã, tôi chợt nảy sinh ý nghĩ, biết đâu Horemheb cũng sẽ lâm số phận như thế! Tự nhiên tôi đâm ra hoảng hốt. Hình ảnh Horemheb trong bộ quân phục oai nghiêm hiện ra trước mắt tôi nhưng lần này tôi không thấy ghen tức nữa mà thực sự lo ngại cho hắn. Tôi không ưa Horemheb vì hắn đã cướp mất Nefer của tôi, nhưng tôi cũng không muốn thấy hắn chết thảm dưới lưỡi gươm kỳ lạ kia. Hình ảnh Nefer trong vòng tay của Horemheb một lần nữa lại hiện ra nhưng không hiểu sao lần này tôi cảm thấy bình tĩnh lạ thường. Tự nhiên tôi nhủ thầm, có lẽ Horemheb xứng đáng với Nefer hơn. Hắn là người từng trải, có kinh nghiệm, hào hoa phong nhã, trong khi tôi chỉ là một thanh niên ngây thơ, khờ dại trên tình trường. Đây là lần đầu tôi thấy mình không có ý định so sánh như trước mà biết chấp nhận rằngtôi và Horemheb khác nhau rất xa.

Tự nhiên tôi thấy trong lòng nhẹ hẳn đi như vừa trút được một gánh nặng. Tôi tự nhủ không lẽ chỉ vì một người con gái tầm thường mà tôi lại để mất đi một người bạn thâm giao như Horemheb hay sao? Khi vừa nghĩ đến đó, bất chợt những kỷ niệm thời thơ ấu hiện ra trong trí tôi. Đã lâu lắm rồi tôi mới thấy mình có thể suy nghĩ một cách thanh thản như thế và ý thức rằng mình đã lãng phí thời gian cho một chuyện ghen tương hết sức vô lý.

Tôi nghĩ đến cuộc chiến tranh giữa người Hitites và Ai Cập sắp xảy ra, tự hỏi liệu một Pharaoh như Akhenaten sẽ phải đối phó thế nào khi quốc gia bị đe dọa? Một lần nữa, những câu nói sáng suốt, đầy minh triết của ông lại vang lên trong tâm trí tôi. Hình ảnh con người trẻ tuổi vừa lên ngôi Pharaoh, ngay trong buổi thiết triều lần đầu đã xóa bỏ mối hận thù để xây dựng một thể chế mới, khác hẳn các truyền thống xưa. Lòng quảng đại và can đảm của ông đã chinh phục tôi và tôi tự nhủ sẽ phải làm gì để xứng đáng với sự đãi ngộ của vị Pharaoh này.

Chiều hôm sau, viên sĩ quan chỉ huy có nét mặt lạnh lùng đến gặp tôi;

- Hoàng đế của chúng tôi cho mời y sĩ đến.

Giọng điệu của gã này đã có vẻ tử tế, bớt hống hách. Chúng tôi theo chân hắn bước vào căn lều của hoàng đế Hitites. Ông ta vẫn ngồi trên chiếc ghế quen thuộc, chung quanh có đông tướng sĩ hầu cận. Nét mặt mọi người vui mừng thấy rõ.

Vừa thấy tôi, hoàng đế Hitites đã nói ngay:

- Này Sinuhe, ngươi thật giỏi. Ta thấy trong mình hết sức dễ chịu, chân tay ta đã cử động được bình thường rồi.

- Xin hoàng đế hãy cẩn thận, ngài cần tĩnh dưỡng khoảng một tuần cho vết thương hoàn toàn bình phục đã.

- Được lắm, ta sẽ nghe theo lời khuyên của ngươi. Vậy ngươi muốn ta trả công như thế nào đây?

Tôi không do dự, chỉ ngay vào thanh gươm kỳ lạ để gần đó:

- Tôi chỉ xin hoàng đế ban cho tôi một thanh gươm như thế kia là được rồi.

Toàn thể sĩ quan đứng quanh đó đều giật mình. Gã chỉ huy quát lớn:

- Không được! Đó là bí mật quân sự của chúng ta.

Hoàng đế Hitites xua tay ra hiệu cho mọi người im lặng rồi ôn tồn hỏi:

- Tại sao ngươi lại muốn lấy thanh gươm đó?

- Đó là việc riêng của tôi.

Hoàng đế Hitites nhìn tôi như dò xét rồi hỏi:

- Phải chăng ngươi muốn mang thanh gươm này về Ai Cập để báo động cho Pharaoh Akhenaten? Tuy là kẻ tội phạm nhưng dù sao ngươi cũng là người Ai Cập, hiển nhiên ngươi không muốn thấy binh sĩ xứ ngươi bị tàn sát dưới lưỡi gươm sắc bén này chứ gì?

Tôi không trả lời nhưng im lặng là xác nhận nên nhóm tướng sĩ quanh đó đã ồn ào phản đối.

Hoàng đế Hitites phất tay ra hiệu cho họ im lặng rồi nói:

- Trong vòng mười ngày nữa, chúng ta sẽ tấn công Ai Cập và lúc đó lưỡi gươm này sẽ chẳng còn gì là bí mật. Dù biết, người Ai Cập cũng không thể xoay trở kịp và trước sau phần thắng sẽ về tay chúng ta. Này Sinuhe, trong bao năm qua, người Ai Cập và Hitites vẫn tàn sát lẫn nhau. Có khi chúng ta thắng và có khi người Ai Cập thắng, nhưng lần này phần thắng chắc chắn sẽ về tay chúng ta vì chúng ta có võ khí cực kỳ sắc bén có thể chém nát giáp trụ của người Ai Cập.

Hoàng đế Hitites chỉ vào thanh gươm để gần đó:

- Ta đã hứa thì sẽ giữ lời. Ngươi hãy cầm cây gươm này về Ai Cập và nói rõ cho Akhenaten biết rằng nội trong vòng một tuần nữa, chúng ta sẽ kéo quân vào Memphis...

- Ông tin rằng lần này quân đội Hitites sẽ thắng?

- Hiển nhiên phải thế! Quân lực chúng ta thiện chiến không kém Ai Cập và chúng ta có vũ khí sắc bén hơn.

- Tại sao ông nghĩ rằng với vũ khí đó, ông sẽ chinh phục được Ai Cập?

Hoàng đế Hitites ngạc nhiên nhìn tôi rồi hỏi:

- Ngươi còn muốn nói gì nữa?

- Pharaoh Akhenaten vẫn nói rằng: "kẻ nào chỉ khăng khăng đòi tiêu diệt người khác thì không thể tiến bộ được. Một hoàng đế chỉ nghĩ đến chiến tranh thì luôn luôn sợ hãi, bất an và không thể cai trị quốc gia hữu hiệu được. Một quốc gia chỉ chuẩn bị cho chiến tranh thì không thể tiến bộ về các phương diện khác. Do đó thay vì xuất quân đánh nam, dẹp bắc để bành trướng thế lực, Pharaoh Akhenatenđã cho người đi thương thuyết hòa bình với các quốc gia lân cận...

- "Đúng thế, chúng ta đã ký kết hòa ước với Ai Cập nhưng đó chỉ là vấn đề thời gian mà thôi. Khi xưa chúng ta chưa đủ sức chống cự với các đạo binh hùng mạnh của Ai Cập, nhưng hiện nay thì khác. Người Hitites đã có những đạo quân thiện chiến với vũ khí sắc bén hơn xưa và Ai Cập ngày nay không còn là Ai Cập khi xưa nữa. Ha ha ha... Pharaoh của ngươi chỉ là một thằng khùng, không những y đã ra lệnh giải giới các lực lượng quân sự mà còn đòi cải tổ cả tôn giáo nữa.

Hiện nay Ai Cập là một xứ đầy xáo trộn, giới quí tộc thì bất mãn, giới giáo sĩ thì hoang mang và dân chúng chỉ lo thờ cúng chiếc đĩa tròn tượng trưng cho Thái Dương mà thôi. Nếu lúc này không lợi dụng cơ hội tấn công ngay thì còn đợi đến lúc nào nữa?"

Các binh sĩ đứng quanh đó cười ầm lên. Tôi thản nhiên lên tiếng:

- Khi Akhenaten vừa lên ngôi Pharaoh thì các tướng sĩ của ông đã đưa kế hoạch tấn công xứ Hitites ngay để diệt trừ hậu họa nhưng tôi nhớ rõ nhà vua đã nói: "Các ông muốn đánh xứ Hitites vì nếu không, họ cũng mang quân xâm phạm lãnh thổ ta. Hiển nhiên người Hitites muốn mang quân đánh chúng ta vì nếu họ không ra tay trước, có lẽ chúng ta cũng xâm lăng xứ họ. Cái vòng luẩn quẩn của chiến tranh cứ thế tiếp diễn, chẳng ai chịu nhường ai. Kẻ thắng thì vinh quang, người thua thì nhục nhằn và thù hận. Cứ thế kéo dài từ đời này đến đời khác, biết bao giờ chấm dứt? Tuy nhiên thắng bại, được thua chỉ như thời tiết, đến rồi đi. Lần này quân ta thắng, lần khác quân ta thua, rốt cuộc chỉ có dân chúng là chịu thiệt thòi. Là người lãnh đạo quốc gia, ta quyết định phải chấm dứt cái vòng luẩn quẩn này. Ta sẵn sàng bỏ qua mọi sự, dù phải chịu nhiều thử thách. Các ông đừng cho rằng ta hèn nhát mà phải chịu đựng. Lúc này binh lực nước ta hùng cường nhưng ta sẽ không gây chiến vì muốn cho người Hitites hiểu lòng ta. Khi họ hiểu ta, họ sẽ từ bỏ giấc mộng xâm lăng và rồi mọi sự sẽ ổi khác."

Hoàng đế xứ Hitites im lặng suy nghĩ rồi hỏi:

- Phải chăng vì thế mà Akhenaten đã gửi tặng ta một chiếc dĩa vàng tượng trưng cho vầng thái dương?

- Đó là chủ trương bày tỏ thiện chí của Pharaoh.

Hoàng đế xứ Hitites nghiến răng quát lớn:

- Người Hitites chúng ta không hơi sức đâu để ý đến chiếc đĩa vàng đó mà cần trả hận, mối hận đã bị Ai Cập làm nhục, phải được trả bằng máu.

Các sĩ quan quanh đó đều vung tay reo hò hăng hái. Tôi thản nhiên nói:

- "Dù cho các ông chiếm được Memphis, rửa được mối hận khi xưa nhưng sau đó các ông sẽ làm gì? Chiến thắng bằng quân sự không khó khăn lắm, nhưng cai trị một xứ như Ai Cập không dễ chút nào. Ngày trước người Ai Cập đã đánh phá xứ Hitites nhiều lần và đặt nền móng cai trị nhưng chỉ ít lâu sau, người Hitites lại nổi lên giành độc lập. Ngày nay dù người Hitites có chiếm Ai Cập nhưng ít lâu nữa cũng sẽ có những cuộc nổi dậy.

Người Ai Cập chẳng thể cai trị Hitites cũng như người Hitites chẳng thể cai trị Ai Cập. Nếu các ông tiếp tục trả hận bằng máu thì tôi e rằng chẳng bao lâu nữa, dân chúng cả hai quốc gia đều kiệt quệ sinh lực và tương lai chưa biết thế nào."

Hoàng đế Hitites im lặng suy nghĩ một lúc rồi chỉ vào thanh gươm:

- Ngươi hãy cầm cây gươm đó về Ai Cập và nói rõ cho Pharaoh của ngươi biết rằng nếu không muốn đổ máu vô ích, ông ta có thể đến đây xin quy hàng. Ta sẽ án binh bất động trong vòng một tuần, nếu Akhenaten không đến hàng ta sẽ khởi binh ngay.

Ông quay qua các tướng sĩ, ra lệnh:

- Các ngươi hãy chuẩn bị tấn công trong vòng một tuần.

Sirah đâu, ngươi hãy cho quân sĩ hộ tống y sĩ Sinuhe trở về Ai Cập.

Tôi im lặng cầm lấy thanh gươm bước ra cửa. Kepta đi theo nhăn nhó:

- Ông chủ ơi, mình đang sung sướng nơi đây, trở về Ai Cập làm chi cho khổ! Ai chém giết mặc ai, miễn là chúng ta được lợi lạc thì thôi. Dù ai làm hoàng đế thì cũng đâu ăn nhập gì đến chúng ta! Miễn khi đau ốm họ đến nhờ chúng ta chữa bệnh là được rồi!

Tôi im lặng không nói gì. Kepta vừa đi vừa lải nhải than:

- Ông chủ ơi, tại sao ông chủ lại dính dáng vào những việc rắc rối làm gì! Ông về Ai Cập rủi gặp chuyện không may thì bao nhiêu nhà cửa, dinh thự tại Palestine này để cho ai ở đây?




Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



đến trang 204 chương 8

Thanked by 1 Member:

#14 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6740 Bài viết:
  • 5562 thanks

Gửi vào 29/07/2020 - 07:13



CHƯƠNG 8



Thật khó có thể diễn tả cảm tưởng của tôi khi trở lại Ai Cập. Quanh cảnh Memphis không khác xưa bao nhiêu, phố xá vẫn đông đúc náo nhiệt, các phiên chợ vẫn họp, người mua bán ồn ào tấp nập nhưng tôi thấy chung quanh cung điện có rất nhiều binh sĩ bố trí canh phòng cẩn thận như đề phòng một chuyện gì. Tôi bước vào đại điện, nơi Pharaoh thiết triều nhưng lúc đó triều đình không họp mà chỉ có một số tướng sĩ đang bao quanh một tấm bản đồ lớn, vẽ những chỗ đóng quân và các vị trí trọng yếu.

Một vị tướng đang sang sảng ra lệnh cho tướng sĩ phải điều động quân đội ra sao, cho bố trí phòng thủ như thế nào. Phải chăng họ cũng đã biết người Hitites đang chuẩn bị tấn công?

Tôi bước đến gần và nhận ra viên tướng nọ chẳng phải ai xa lạ mà chính là Horemheb. Nhìn thấy tôi, hắn ngẩn người ra một lúc như không tin ở mắt mình:

- Sinuhe? Phải Sinuhe đấy không?

- Chính t*o đây.

Horemheb bước đến trước mặt tôi ngỡ ngàng trong giây lát rồi nói nhỏ:

- Sinuhe, chắc hẳn mày cũng biết việc Pharaoh đã tuyên án tử hình...

- Dĩ nhiên t*o biết.

Horemheb bối rối, ngập ngừng nhìn quanh rồi hỏi nhỏ:

- Nếu đã biết thế thì mày trở về đây làm gì?

Thì ra hắn vẫn còn lo cho tôi, nhưng tôi thản nhiên:

- t*o cần báo tin về việc người Hitites đang chuẩn bị tấn công Ai Cập.

Horemheb tỏ ra bình tĩnh:

- t*o biết! Các thám tử của t*o đã báo cáo đầy đủ.

- Nếu vậy hẳn quân sĩ Ai Cập đã chuẩn bị sẵn sàng để đối phó?

- Dĩ nhiên rồi.

- Tốt lắm! Hẳn thám tử của mày biết rõ về sự chênh lệch vũ khí giữa hai bên?

- Mày nói cái gì chênh lệch, t*o không hiểu?

Thì ra Horemheb chưa biết bí mật của người Hitites. Tôi chỉ tay vào thanh gươm đeo bên hông của Horemheb:

- Mày hãy rút gươm ra đi.

- Cái gì? Mày nói gì?

Tôi rút thanh gươm của người Hitites ra rồi nhìn thẳng vào mặt Horemheb nói lớn:

- Mày chém thử vào lưỡi gươm của ta thì biết.

Horemheb nhíu mày:

- Sinuhe, mày không đùa đấy chứ? Có bao giờ mày sử dụng gươm đâu?

- Mày cứ thứ xem.

Horemheb rút gươm ra nhưng vẫn e ngại:

- Sinuhe, hãy cẩn thận! t*o không thích đùa đâu!

Hiển nhiên Horemheb không có ý hại tôi. Tôi nói khích:

- Mày cứ ra tay đi, t*o sẵn sàng đây!

Horemheb vung kiếm chém thẳng vào lưỡi gươm của tôi nhưng vì hắn cố ý nới tay nên khi hai lưỡi gươm vừa chạm nhau, hắn đã rút tay lại, do đó lưỡi gươm của hắn chỉ bị mẻ một miếng. Tôi bật cười:

- Này Horemheb, không lẽ mày lại yếu đến thế hay sao?

Horemheb vung tay ra, lần này hắn chém khá mạnh. Sau một tiếng kêu chát chúa, lưỡi gươm của hắn gẫy lìa. Horemheb giật mình lùi lại nhìn thanh gươm gẫy rồi chăm chăm nhìn vào lưỡi gươm của tôi. Tôi bèn xoay gươm lại, chìa cán ra đưa cho hắn:

- Mày hãy lấy thanh gươm này chém thử vào một bộ giáp trụ xem sao.

Horemheb vội vã cầm lấy thanh gươm rồi quay qua viên sĩ quan hầu cận, ra lệnh cho người này cởi bỏ bộ giáp trụ bằng sắt trên người ra. Hắn vung kiếm chém mạnh vào đó. Lưỡi gươm xuyên thẳng qua bộ áo giáp như cắt một miếng bánh. Toàn thể tướng sĩ quanh đó đều giật mình. Horemheb quay qua hỏi tôi:

- Sinuhe, mày lấy cây gươm này ở đâu ra vậy?

- Đó là vũ khí mới của người Hitites. Trong bao năm nay, họ đã bí mật rèn những thanh gươm sắc như thế này để chuẩn bị chiến tranh.

Mọi người trong phòng đều im lặng, không ai dám thốt lên câu nào.

Horemheb suy nghĩ một lúc rồi cười nhạt tuyên bố:

- Này Sinuhe, việc này t*o không thể quyết định được mà phải trình với Pharaoh để xin chỉ thị. Mày hãy theo t*o lên đường đi Tel El Amarna ngay.

Horemheb vội ra lệnh thắng một cỗ xe song mã để lên đường. Đây là lần thứ hai tôi và Horemheb cưỡi xe ngựa như thế này. Nhớ lại kỷ niệm lần đầu cưỡi xe ngựa đi săn sư tử, tôi không khỏi cảm khái. Horemheb im lặng không nói gì nhưng khi xe vừa đi được một quãng xa thì hắn bật lên mộttràng cười sảng khoái:

- Này Sinuhe, mày có nhớ khi xưa t*o với mày đi săn sư tử không?

- Dĩ nhiên t*o nhớ chứ.

- Thấm thoát đã hơn mười năm rồi nhỉ, biết bao chuyện đổi thay...

- Đúng thế.

Horemheb quay qua nhìn thẳng vào mặt tôi:

- Này Sinuhe, t*o chắc mày giận t*o vô cùng?

- Tại sao mày lại hỏi thế?

Horemheb im lặng một lúc như hồi tưởng chuyện xưa rồi thong thả:

- Nếu khi đó mày bình tĩnh hơn thì mọi việc đã không xảy ra một cách đáng tiếc như vậy. Suốt mười năm nay t*o vẫn mong có dịp để giải thích với mày về nguyên nhân việc ấy.

"Hôm ấy t*o đang huấn luyện quân sĩ luyện tập võ nghệ thì công chúa Baketamon ở đâu bước đến.

- Này Horemheb, ta muốn nhờ ngươi một việc.

- Xin tuân lệnh công chúa.

- Ngươi đã biết ta nhờ việc gì đâu mà nhanh nhảu thế?

- Thưa công chúa, một quân nhân chuyên nghiệp lúc nào cũng phải sẵn sàng.

Công chúa Baketamon bật cười ha hả:

- Thôi đi, cái gì mà quân nhân chuyên nghiệp... Con nhà đi bán hàng rong ngoài chợ thì đúng hơn.

t*o giận run lên, thì ra lý lịch hèn hạ mà t*o giấu kỹ đã bị đám thám tử triều đình truy lùng ra được. t*o đành gượng cười:

- Công chúa quả có mắt tinh đời. Xin ngài ban chỉ thị.

- Ta rất quan tâm về tình trạng hiện nay của Sinuhe. Ta biết hắn đang say mê một cô gái giang hồ và ta muốn ngươi giúp hắn thoát khỏi cạm bẫy của đứa con gái thành Babylon kia.

- Tưởng gì chứ chuyện đó thì quá dễ. Công chúa chỉ cần hạ lệnh quăng con điếm đó vào hầm sư tử là xong.

- Không được. Nếu ta giết nó thì Sinuhe sẽ đau khổ và oán hận ta suốt đời. Một kẻ si tình như hắn có thể liều lĩnh chết theo con điếm đó không chừng.

- Công chúa quả biết rõ tâm lý đàn ông. Hiển nhiên một kẻ hiền lành như Sinuhe có thể hành động ngu xuẩn như thế. Tuy nhiên kẻ này chỉ biết dụng kiếm chứ không biết làm gì khác.

- Nhưng... nhưng hắn là bạn của ngươi.

- Horemheb này không thích can thiệp vào đời tư người khác.

Công chúa Baketamon nổi giận:

- Nhưng đây là lệnh của ta.

- Nếu công chúa ra lệnh, kẻ này sẽ chém đầu đứa con gái giang hồ kia ngay, nhưng hậu quả ra sao thì Horemheb này không chịu trách nhiệm.

Công chúa Baketamon lạnh lùng:

- Ngươi đúng là kẻ chỉ biết dùng võ lực chứ không biết dùng mưu. Ta muốn Sinuhe hoàn toàn quên hẳn đứa con gái giang hồ kia và ngươi phải làm chuyện đó cho ta. Ta muốn ngươi dùng tất cả khả năng để quyến rũ đứa con gái giang hồ kia trước mặt Sinuhe, cho hắn thấy rằng con bé đó chỉ là một đứa hèn hạ, dơ bẩn, không xứng đáng với hắn.

t*o không hiểu sao một công chúa quyền quí lại chú ý đến tên y sĩ quèn như mày. Tuy nhiên t*o biết Baketamon là người lẳng lơ, có nhân tình khắp nơi nên biết đâu mày chẳng tốt số, lọt vào mắt xanh của cô ả.

t*o suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Nếu thế, xin công chúa hãy cởi xâu chuỗi ngọc trên cổ kia đưa cho kẻ này.

- Chưa xong việc mà ngươi đã đòi thưởng công hay sao?

- Hiện nay đám quân sĩ của kẻ này đang nhìn thấy chúng ta nói chuyện. Họ không hiểu tại sao công chúa lại đến gặp thằng bán bánh vừa được thăng chức chỉ huy ngự lâm như thế này. Nếu công chúa trao cho kẻ này xâu chuỗi ngọc thì họ sẽ nghĩ công chúa và kẻ này có tình ý chi đó. Chỉ có món quà đặc biệt như thế, Horemheb này mới có thể gặp đứa con gái Babylon được.

Công chúa Baketamon gật đầu khen ngợi:

- Hay lắm! Ngươi quả là đa mưu. Ta không ngờ chỉ thoáng giây mà ngươi đã nghĩ ra mưu mẹo như thế...

- Cám ơn công chúa đã khen... thằng con nhà bán hàng rong này.

Hiển nhiên chỉ vài hôm sau, dư luận đã đồn t*o và công chúa có tình ý với nhau và công chúa đã tặng t*o xâu chuỗi ngọc. t*o cho đàn em phao đồn tin này khắp các trà đình tửu quán rồi đến tìm Nefer. Trước đó t*o cho một đàn em giả làm lái buôn đến gặp mày và dàn xếp cho mày lọt vào biệt thự đó. Hiển nhiên với món quà đặc biệt như chuỗi ngọc của công chúa, Nefer không ngần ngại tiếp t*o và đúng như t*o đã dự tính, mày bắt gặp tụi t*o rồi nổi cơn ghen..."

Tôi im lặng, mồ hôi toát đầy áo. Horemheb tiếp tục:

- Này Sinuhe, chúng ta là bạn tâm giao từ nhỏ. Dù thằng Horemheb này có tồi bại thế nào thì cũng không thể tranh giành một đứa con gái với bạn của nó được. Lúc đó t*o muốn giải thích nhưng mày đâu có nghe. Mày điên cuồng xông đến đấm đá t*o túi bụi. Nếu bình tĩnh hơn thì mày phải tự hỏi tại sao một kẻ võ nghệ cao cường như t*o lại cắm đầu bỏ chạy như thế? Mày biết rõ thằng Horemheb này có bao giờ sợ ai đến nỗi phải bỏ chạy thục mang như thế đâu? Tuy nhiên t*o cũng không trách mày được, t*o biết đàn ông khi ghen tuông sẽ hành động như thế nào. Hiển nhiên khi t*o bỏ chạy thì mày trút cơn giận lên Nefer, mày xông đến bóp cổ nó và bị đám gia nhân đánh cho một trận thừa chết thiếu sống. Này Sinuhe, lúc đó t*o vẫn ẩn núp gần đó để ngầm bảo vệ mày. t*o đã chứng kiến cảnh mày bị quăng ra đường và nghe mày khóc lóc, chửi mắng, thề thốt, nguyền rủa lung tung. Mày thề sẽ không bao giờ nhìn mặt bất cứ một đứa đàn bà nào nữa. t*o mừng thầm vì mày đã tỉnh ngộ, sau đó t*o thấy mày thất thểu bỏ về Thebes...

Tôi im lặng nhưng trong lòng vô cùng xúc động. Quả thật tôi đã ghen với Horemheb một cách vô lý và không đủ sáng suốt để phân tích mọi việc. Dĩ nhiên khi si mê, người ta thường mù quáng nhưng điều đáng tiếc là tôi đã để một việc ghen tức tầm thường như vậy chi phối mình trong bao năm qua.

Tôi quay qua Horemheb nói nhỏ:

- t*o rất tiếc... quả thật... t*o không ngờ sự việc lại như vậy...

- Không đâu! Chính t*o là đứa có lỗi vì đã đưa mày đến gặp Nefer. t*o không ngờ một việc nhỏ lại gây hậu quả lớn đến thế! Sau đó mày bỏ đi biệt tích, t*o đã cho người tìm kiếm khắp nơi mà không thấy...

Tôi đưa tay nắm chặt lấy tay Horemheb. Hắn cũng xiết chặt tay tôi. Chưa khi nào tình bạn giữa chúng tôi lại đằm thắm như vậy.

Horemheb lên tiếng:

- t*o rất mừng khi thấy mày vẫn bình an trở về. t*o mong rằng với tin tức quan trọng về thanh gươm của người Hitites, Pharaoh sẽ xóa bỏ tội lỗi cho mày. Ngoài ra t*o cũng phải cám ơn mày rất nhiều, vì nếu không, kẻ lãnh ấn tiên phong cầm quân ra trận chính là t*o và hiển nhiên sẽ là nạn nhân đầu tiên của cây gươm này.

Tôi cảm động nắm chặt tay Horemheb:

- Này Horemheb, khi xưa chúng mình đã thề trước mặt thần Osiris là coi nhau như anh em ruột thịt, vậy mà hơn mười năm nay t*o đã nghĩ lầm về mày, t*o rất hối hận.

Horemheb lắc đầu:

- t*o không thể trách mày được. Đáng lẽ t*o phải biết rằng mày chưa hề có kinh nghiệm về chuyện tình ái. Này Sinuhe, t*o đã thề sẽ bảo vệ mày thì dù gặp khó khăn thế nào t*o cũng cố gắng hết lòng. Khi Pharaoh tuyên án tử hình mày, t*o vô cùng lo sợ và không biết phải làm gì. May thay chẳng ai biết mày trốn ở đâu... Thật ra chuyện này cũng chỉ vì đám giáo sĩ thờ thần Amun...

- Tại sao các giáo sĩ lại dính vào việc này?

- "Hẳn mày cũng biết Pharaoh Akhenaten chủ trương cải cách xã hội và tôn giáo. Điều này đụng chạm đến quyền lợi nhiều người, nhất là giới giáo sĩ mà tiêu biểu là giáo sĩ phái Amun tại Thebes. Từ trước đến nay, nhóm này vẫn được các Pharaoh tin dùng nên họ có nhiều quyền lợi đáng kể. Từ khi lên ngôi Pharaoh, Akhenaten chủ trương tôn sùng Thái Dương, biểu tượng bằng chiếc dĩa tròn chứ không tin vào giáo điều của phái Amun nên nhóm giáo sĩ này hết sức bất mãn.

Akhenaten cho rằng con người có thể trực tiếp học hỏi các chân lý trong vũ trụ, tượng trưng qua ngôi Thái Dương,mà không cần phải nhờ đến sự trung gian của các giáo sĩ. Do đó thay vì tôn thờ ánh sáng (Amun) xuất phát từ vầng Thái Dương, con người có thể tiếp xúc thẳng với vầng Thái Dương qua biểu tượng là chiếc dĩa tròn. Điều này hoàn toàn khác với chủ trương của các giáo sĩ phái Amun vốn cho rằng chỉ riêng giới giáo sĩ mới có thể giao tiếp với chân lý qua các thần linh trung gian, tiêu biểu bằng Ánh Sáng (Amun) xuất phát từ vầng Thái Dương, chứ không thể trực tiếp đến thẳng với Thái Dương được.

Sự khác biệt về căn bản này đã tạo ra nhiều cuộc tranh chấp trong triều. Khi hoàng tử Teay bị bệnh, phe giáo sĩ muốn Pharaoh Akhenaten thân hành mang lễ vật đến đền thờ Amun tại Thebes, cầu xin cho hoàng tử khỏi bệnh. Nhưng Akhenaten cho rằng việc chữa bệnh là thẩm quyền của giới y sĩ chứ không phải của giáo sĩ. Thay vì cầu xin thần quyền Amun, ông lại đề cao khoa học và chủ trương để các y sĩ chữa bệnh cho hoàng tử. Là quan ngự y của Pharaoh, mày vô tình bị kẹt vào vòng tranh chấp này. Pharaoh Akhenaten tin vào khả năng chữa bệnh của mày nên cho người đi kiếm, không ngờ tìm mãi mà mày vẫn biệt vô âm tín.

Vài hôm sau, bệnh tình hoàng tử trở nên trầm trọng và sau cùng thì việc phải đến đã đến. Cái chết của hoàng tử Teay là một thất bại lớn của Akhenaten, ông vừa mất con vừa mất mặt với triều đình. Hiển nhiên nhóm giáo sĩ thờ thần Amun đã khai thác triệt để việc này và cho rằng các thần linh đã trừng phạt Pharaoh. Để giữ thể diện cho Pharaoh, một số quan triều đã trút trách nhiệm lên này vì lúc hoàng tử đang đau nặng mà quan ngự y lại vắng mặt thì còn ra thể thống gì nữa. Bất đắc dĩ, Pharaoh đành phải tuyên án tử hình như thế..."

Horemheb im lặng một lúc rồi nói tiếp:

- "Hiện nay uy tín của Pharaoh bị giảm sút rất nhiều. Việc cải cách xã hội của ông khiến giới quí tộc bất mãn. Việc thay đổi tôn giáo, đi ngược truyền thống cố hữu đã khiến giới giáo sĩ khó chịu và họ bắt đầu liên kết với nhau. Mấy năm nay lại bị các thiên tai như hạn hán, mất mùa xảy ra khắp nơi nên giới giáo sĩ đổ lỗi tại Pharaoh không chịu dâng cúng lễ vật cho Amun nên Ai Cập bị trừng phạt như thế.

Khi xưa dân chúng thấy việc cải cách của Akhenaten đem lại cho họ sự thoải mái, tự do nên ai cũng tin tưởng, nhưng mấy năm nay mùa màng thất thu, nạn hạn hán kéo dài thì họ đâm ra hoang mang, sợ hãi. Qua sự đồn đãi của giới giáo sĩ, một số đã bắt đầu nghi ngờ tài lãnh đạo và chủ trương cải cách của Akhenaten. Tình hình Ai Cập lúc này không yên ổn như xưa, dân chúng đói khổ vì thiên tai, quan lại bất mãn vì mất quyền lợi, các giáo sĩ mất ảnh hưởng, phao vu những tin thất thiệt nên xã hội bắt đầu rối loạn, mất an ninh."

Horemheb dừng ngựa,chỉ tay về phía trước:

- Hãy nhìn kìa! Đó là Tel El Amarna, thủ đô mới của Ai Cập. Pharaoh Akhenaten đã chán cảnh Memphis với những đền thờ Amun nên ông cho dời đô về đây và xây cất đền thờ Aten...

Trên sa mạc hoang vu, một thành phố nguy nga tráng lệ được xây cất với những đền đài, lăng tẩm, các cột trụ bằng đá hàng hàng lớp lớp. Chiếc xe ngựa dừng lại trước cửa một ngôi đền lớn, kiến trúc hùng vĩ. Toán binh sĩ giữ cửa vội vã bước ra nghênh đón.

Horemheb hất hàm hỏi:

- Pharaoh đang ở đâu?

- Ngài đang chuẩn bị hành lễ trước đền Aten.

- Các ngươi hãy đưa chúng ta đến đó ngay.

Toán lính vội vã mở đường. Horemheb và tôi theo sau. Đó là một đền thờ với những cột trụ bằng đá to lớn đang được xây cất dở dang, chính giữa ngôi đền làm một bàn thờ lộ thiên, trên đặt tấm bia đá lớn khắc hình ngôi Thái Dương,tiêu biểu bằng chiếc dĩa tròn. Pharaoh Akhenaten và hoàng hậu Nefertiti đang đứng trước đó, chuẩn bị hành lễ. Nghe tiếng động, ông quay lại thấy chúng tôi bèn ra hiệu cho chúng tôi đến gần.

Horemheb lo lắng:

- Mày hãy đứng yên tại đây để t*o nói chuyện với Pharaoh trước. Nếu thấy ngài vẫn còn giận thì t*o sẽ giả bộ bắt giam mày rồi đưa mày đi chỗ khác.

Horemheb bước thẳng đến trước mặt Pharaoh Akhenaten. Tôi giữ ý, đứng yên tại chỗ. Đã lâu không gặp Akhenaten, tôi thấy ông khắc khổ, già nua hơn trước rất nhiều. Horemheb quì xuống báo cáo mọi việc, hắn còn rút thanh gươm kỳ lạ của người Hitites đưa cho Pharaoh xem.

Akhenaten không để ý đến thanh gươm mà quay lại vẫy tay ra hiệu gọi tôi đến gần:

- Này Sinuhe, đã lâu lắm không gặp ngươi, không ngờ ngươi lại lưu lạc đến tận xứ Palestine...

- Kính thưa Pharaoh, kẻ có tội này...

- Khoan đã, ta nghe nói ngươi đã mang được thanh gươm của người Hitites về đây. Công lao này quả không nhỏ. Nhưng làm sao người Hitites lại để cho ngươi mang một thanh gươm quí như thế này về Ai Cập?

Tôi bèn đem hết mọi việc ra kể lại cho Pharaoh nghe. Akhenaten im lặng suy nghĩ rồi lắc đầu:

- Ta đã cho sứ giả mang nhiều phẩm vật qua tặng cho quốc vương xứ Hitites để hàn gắn việc cũ nhưng không ngờ họ vẫn chưa quên được mối thù xưa...

Horemheb vội vã xen vào:

- Kính thưa Pharaoh, hiện nay tình thế cấp bách, xin ngài ban chỉ thị để kẻ này chuẩn bị đối phó. Nếu người Hitites đã có những vũ khí sắc bén như vậy thì chúng ta không thể sử dụng các chiến thuật cũ được nữa mà phải dùng cách khác. Trong lúc này, quân sĩ đang cấp tốc sản xuất cung tên để tấn công trước...

- Tại sao ngươi lại muốn tấn công trước?

- Thưa Pharaoh. Kẻ này muốn lợi dụng lúc đêm khuya sử dụng tên lửa để tấn công trước khi quân sĩ Hitites kịp mặc giáp trụ. Chỉ có cách đó mới mong tránh được tổn thất...

Tôi giật mình khâm phục khả năng phối trí thần tốc của Horemheb. Trong một thời gian ngắn, hắn đã nghĩ ra cách sử dụng hỏa công để đối phó với những thanh kiếm sắc bén của người Hitites kia. Pharaoh Akhenaten lắc đầu:

- Ta không muốn như vậy, chúng ta phải tránh sự giết chóc...

Horemheb quì mọp xuống năn nỉ:

- Hiện nay quân lực Hitites rất hùng mạnh, lại có vũ khí sắc bén, nếu để họ tấn công trước thì chúng ta sẽ thua mãi.

Theo kẻ này, chỉ có cách ra tay trước, dùng tên lửa đốt cháy doanh trại của họ. Khi lính Hitites hoảng hốt, chưa kịp mặc giáp trụ thì kẻ này sẽ cho quân sĩ dùng cung nỏ, tấn công từ xa để tránh tổn thất. Mặt khác xin Pharaoh ra lệnh cho các tướng lãnh điều động quân sĩ vượt sa mạc, tấn công thẳng vào kinh đô của người Hitites. Họ dốc toàn lực ra đánh chúng ta, ắt phải bỏ trống kinh đô nên chúng ta cần chiếm thượng phong tấn công vào xứ họ trước. Thấy kinh đô nguy ngập, họ phải rút quân về cứu viện thì chúng ta sẽ hai mặt giáp công và có cơ hội đoạt phần thắng...

Akhenaten lắc đầu:

- Không được! Ta không muốn có sự giết chóc như thế. Ngươi hãy thu xếp để ta đến gặp hoàng đế xứ Hitites.

Horemheb sửng sốt:

- Tại sao lại thế? Thằng lính này thà chết chứ không bao giờ chịu nhục để Pharaoh phải đầu hàng như vậy.

Akhenaten nghiêm giọng:

- Ai bảo ta sẽ đầu hàng? Ta có cách giải quyết riêng của ta. Các ngươi hãy cho sứ giả đến nói với hoàng đế xứ Hitites rằng ta muốn gặp riêng ông ta để nói chuyện.

Tôi vội vã lên tiếng:

- Thưa Pharaoh, kẻ này đã nói hết lời nhưng người Hitites quyết gây chiến...

Akhenaten mỉm cười ôn tồn nói:

- Việc ưu tiên của ta hiện nay là tránh sự giết chóc vô ích này.

Horemheb lắc đầu:

- Xin Pharaoh nghĩ lại, nếu không ra tay trước, người Hitites sẽ tràn vào lãnh thổ chúng ta và như thế số người Ai Cập chết vì vũ khí lợi hại của họ không phải là ít.

- Ta muốn bảo vệ sinh mạng dân chúng cả hai xứ chứ không riêng cho Ai Cập. Do đó ta muốn gặp vua xứ Hitites để thảo luận việc đem lại hòa bình cho toàn miền này. Ý ta đã quyết, các ngươi chớ nhiều lời.

Akhenaten quay qua tôi:

- Này Sinuhe, ngươi đã có dịp tiếp xúc với vua xứ Hitites nên có thể thu xếp cho ta gặp ông ta càng sớm càng tốt. Bây giờ các ngươi hãy lui ra để ta còn làm lễ dâng hương cho Aten.

Vừa bước ra khỏi ngôi đền. Horemheb khó chịu:

- Tình thế cấp bách như thế mà Pharaoh cứ lo cúng lễ Aten thì có khác gì đám giáo sĩ lúc nào cũng chỉ biết cầu xin thần Amun, rốt cuộc chỉ có đám binh sĩ như t*o là lãnh mọi hậu quả.

Chúng tôi vừa ra đến cổng thành thì từ xa một đoàn quân sĩ ở đâu kéo đến, dẫn đầu là một viên tướng mặc giáp trụ oai nghiêm. Tể tướng Smenkere. Ông dừng ngựa trước mặt Horemheb:

- Ta vừa nhận được tin mật báo của ngươi nên thân hành đem toàn bộ binh mã đến đây. Ngươi đã lấy được chỉ thị của Pharaoh chưa?

Horemheb kể lại mọi sự cho Smenkere. Viên tướng già lắc đầu than:

- Nếu lúc này không tấn công ngay thì còn đợi đến bao giờ? Này Horemheb, kế hoạch của ngươi tuy táo bạo nhưng ta thấy có thể thi hành được. Ta sẽ mang quân sĩ vòng qua sa mạc để tấn công kinh đô của người Hitites nếu ngươi có thể cầm chân họ tại đây trong ít hôm.

Horemheb gật đầu nói nhỏ:

- Tể tướng cứ theo kế hoạch mà thi hành. Một mặt chúng ta thu xếp cho Pharaoh gặp vua xứ Hitites nói chuyện, nếu việc thương thuyết không thành, chúng ta sẽ tấn công ngay.

Smenkere quay qua nghiêm khắc nhìn tôi:

- Này Sinuhe, khi xưa ta đã khuyên ngươi hãy chuyên tâm lo việc tinh thần như cha mẹ ngươi. Tại sao ngươi lại dính vào những việc phiền toái như thế này?

Horemheb ngạc nhiên:

- Kính thưa Tể tướng, Sinuhe có công đã mang về được bí mật quân sự của người Hitites...

Smenkere cắt ngang:

- Ta không muốn Sinuhe dính dáng vào việc triều chính trong lúc này. Đây là lệnh của ta...

- Nhưng Pharaoh muốn Sinuhe thu xếp...

Smenkere trừng mắt gạt đi:

- Ta không muốn Sinuhe dính vào những việc đó. Hãy tìm người khác...

Smenkere chăm chú nhìn tôi rồi lạnh lùng nói:

- Này Sinuhe, ngươi cần ý thức rõ rệt về con đường mà ngươi đang theo đuổi. Ngươi có thể làm một vị quan triều như chúng ta, hưởng những vui sướng vật chất cũng như những phiền toái, lo sợ, hoặc đi theo con đường lý tưởng như cha mẹ ngươi, sống thoải mái về tinh thần và chấp nhận những thử thách mà con đường này đòi hỏi. Ngươi không thể có thái độ nửa chừng được vì không những nó đem đến cho ngươi những đau khổ, dằn vặt mà còn mang sự bất hạnh cho những người chung quanh nữa.

Tôi biết Smenkere muốn nói đến cái chết bi thương của cha mẹ tôi nên im lặng cúi đầu không nói gì. Viên tướng già quay qua nói với Horemheb:

- Thôi ta lên đường đây! Ngươi khéo cầm cự với bọn Hitites. Nếu không có tin tức gì, ta sẽ theo đúng kế hoạch tấn công xứ Hitites.

Smenkere vung tay ra lệnh, đoàn quân vội vã lên đường. Horemheb lẩm bẩm:

- Smenkere xứng đáng là một vị anh hùng. Vì đã có lệnh của Smenkere nên Horemheb cho người liên lạc, giàn xếp cuộc tiếp xúc giữa Akhenaten và quốc vương xứ Hitites. Phần tôi được lệnh tạm trú trong doanh trại gần đó chờ kết quả. Vài hôm sau, vào lúc nửa khuya tôi đang ngủ thì Horemheb ở đâu hốt hoảng chạy vào:

- Sinuhe! Mày cần phải đi với t*o ngay!

- Chuyện gì vậy?

Horemheb không trả lời mà vội vã kéo tôi lên xe ngựa phóng nhanh ra sa mạc. Xe đi được một quãng ngắn hắn mới giải thích:

- Pharaoh đang trên đường đi gặp vua xứ Hitites, bất ngờ lại lên cơn động kinh như hôm nào...

- Mày nói gì?

- Akhenaten đang lên cơn động kinh, các y sĩ điều trị cho biết ngài cần tĩnh dưỡng nên t*o muốn nhờ mày đến xem xét.

Chúng tôi đến căn lều dựng tạm trong một ốc đảo, chung quanh có quân sĩ canh phòng cẩn thận. Horemheb tức tốc đưa tôi vào trong. Akhenaten đang nằm bất động trên tấm da sư tử, mặt xanh như tàu lá, chân tay co quắp, miệng sùi bọt mép. Mấy viên ngự y đang cắm cúi săn sóc cho ông.

Tôi vội cúi xuống chẩn bệnh rồi nói ngay:

- Quan ngự y nói đúng. Pharaoh không thể di chuyển được, phải tĩnh dưỡng tại đây ít hôm. Lần này ngài bị nặng hơn lần trước...

Horemheb lo lắng nhìn vầng trăng lưỡi liềm lơ lửng trên nền trời:

- Đã đến thời điểm gặp gỡ... Nếu Pharaoh không đến thì...


Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



đến trang 220

Thanked by 1 Member:

#15 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6740 Bài viết:
  • 5562 thanks

Gửi vào 29/07/2020 - 13:18

Chưa lúc nào tôi cảm thấy tình trạng lại nghiêm trọng như vậy. Dĩ nhiên nếu Akhenaten không đến điểm hẹn thì cuộc chiến sẽ xảy ra ngay.

Horemheb nghiến răng:

- Mày hãy ở đây trông nom Pharaoh, t*o phải về Memphis điều động binh sĩ.

- Lúc này đã muộn, việc điều động binh sĩ cần thời giờ. Mày hãy để t*o đến gặp vua xứ Hitites, t*o sẽ...

Horemheb lắc đầu:

- Tể tướng Smenkere đã dặn t*o đừng để mày dính dáng vào những việc thị phi.

- Đây là việc bất ngờ, dù đã có kế hoạch từ trước để hai mặt giáp công nhưng Smenkere có đi suốt ngày đêm cũng phải mất vài hôm nữa mới đến được xứ Hitites trong khi quân đội Hitites đóng cách đây vài chục dặm. Nếu chiến tranh xảy ra thì chắc chắn phần thắng sẽ về tay người Hitites trong lúc này. Mày hãy để t*o đến đó thuyết phục,kéo dài thời gian để mày kịp chuẩn bị.

Horemheb lẩm bẩm:

- Nếu biết thế t*o đã tấn công trước từ đêm qua, ít ra cũng có cơ hội gây tổn thất cho chúng.

- Hiện nay đã đến lúc nguy ngập, mày hãy để t*o đến gặp vua xứ Hitites. Dù sao t*o cũng đã quen biết trước...

Horemheb không nói gì nhưng tôi biết hắn đang đắn đo suy nghĩ. Sau cùng hắn xiết chặt tay tôi:

- Được rồi, mày hãy cố gắng kéo dài thời gian, t*o về Memphis chuẩn bị ứng chiến. Nếu mày có mệnh hệ gì thì t*o thề sẽ không để cho bọn Hitites yên.

Khi tôi đến địa điểm hẹn thì vua xứ Hitites cùng một nhóm quân sĩ đang chờ sẵn. Ông lẳng lặng nhìn tôi một lúc rồi hỏi:

- Sinuhe, ngươi đến đây làm gì?

- Tôi mang một thông điệp của Pharaoh Akhenaten cho ông.

- Akhenaten không đến ư?

Sirah, vị sĩ quan có vẻ mặt lạnh lùng tỏ ra thận trọng:

- Thưa hoàng đế, nếu Akhenaten không đích thân đến đây mà chỉ cho tên y sĩ này thay thế thì hạ thần e ngại có âm mưu gì. Xin hoàng đế ban chỉ thị để hạ thần tấn công Ai Cập ngay.

Các vị tướng lãnh khác cũng nhao nhao lên:

- Đúng thế! Nếu Akhenaten không đích thân đến xin hàng, chúng ta hãy tấn công ngay.

Hoàng đế Hitites bình tĩnh phất tay ra hiệu im lặng rồi nói:

- Ta chắc Akhenaten không chịu đầu hàng mà chỉ muốn kéo dài thời gian để chuẩn bị một kế hoạch khác. Tuy nhiên ta đã dự tính trước điều này. Chắc hẳn họ cho quân sĩ đi vòng qua sa mạc để đánh úp Hitites...

Tôi giật mình, không ngờ vua Hitites lại đoán trước được âm mưu của Horemheb như vậy. Hoàng đế Hitites chăm chú nhìn tôi rồi lạnh lùng:

- Hiển nhiên họ sẽ phải sử dụng một lực lượng quân sự khác vì cần lực lượng quân đội ở Memphis để đối phó và cầm chân chúng ta tại đây. Theo ta thì có lẽ tướng Smenkere, vị chỉ huy miền nam Ai Cập sẽ làm việc đó. Này Sinuhe, ngươi thấy ta nói có đúng không?

Tôi đang bối rối chưa biết xử trí ra sao thì vua xứ Hitites đã cười lớn:

- Sinuhe, ngươi chỉ là một y sĩ, không thể làm sứ giả ngoại giao được. Chỉ nhìn thái độ của ngươi, ta đã biết rằng ta suy đoán không sai. Này Sinuhe, nếu ngươi không có ơn cứu mạng ta thì giờ này ngươi đã chết! Akhenaten thật là một thằng ngu...

Đám tướng lãnh đứng quanh đó cười ầm lên. Vua xứ Hitites lạnh lùng:

- Smenkere kéo quân lên miền bắc ắt hẳn miền nam phải bỏ trống và giờ này có lẽ hoàng đế xứ Nubia đã lợi dụng cơ hội tấn công vào Ai Cập rồi.

Tôi hoảng hốt rụng rời chân tay. Từ trước đến nay Ai Cập vẫn lo ngại người xứ Nubia hơn cả nên dù đã làm đến chức tể tướng, Smenkere vẫn nắm giữ binh quyền miền nam để phòng bị người Nubia đánh úp. Lần này ông kéo toàn bộ lực lượng quân đội lên miền bắc để tấn công xứ Hitites nhưng lại bị vua xứ này tương kế tựu kế, âm mưu với người Nubia để hai mặt giáp công Ai Cập.

Hoàng đế Hitites cười lớn:

- Nếu Smenkere kéo quân đánh Hitites thì phải đi qua thung lũng Nethkha và làm mồi cho phục binh của ta đang chờ sẵn mà thôi. Ha ha ha... với võ khí sắc bén của chúng ta thì thắng bại ra sao chắc ngươi cũng đã rõ. Này Sinuhe, ngươi chỉ là một con chốt thí mà Akhenaten sử dụng để kéo dài thêm thời gian nhưng điều này không có nghĩa gì với ta hết vì ta đã dự tính trước. Ha ha ha...

Tôi luống cuống chưa biết phải xử trí ra sao thì bỗng nghe tiếng quân sĩ canh phòng quát lớn:

- Ai đó? Ngươi là ai?

Hoàng đế Hitites giật mình đặt tay lên đốc kiếm. Các tướng sĩ quanh đó đều đồng loạt rút phắt gươm ra. Tôi quay lại thấy dưới ánh trăng mờ nhạt, một toán người đang hộ vệ một người thân hình cao lớn, khoác áo choàng trắng đang cưỡi ngựa thong thả đi đến: Pharaoh Akhenaten. Tôi ngạc nhiên không hiểu vì sao một người đang bị động kinh, mê sảng như ông lại có thể đến đây được.

Tôi kêu lớn:

- Pharaoh, sao ngài lại đến đây?

Akhenaten ôn tồn xua tay:

- Sinuhe, ngươi đã làm xong bổn phận, bây giờ đến lượt ta nói chuyện với vua xứ Hitites.

Một bầu không khí kỳ lạ bao trùm khắp sa mạc. Các tướng lãnh Hitites vội vã chia nhau ra canh chừng như sợ có âm mưu gì, nhưng họ không thấy ai ngoài Akhenaten và vài người hầu cận. Pharaoh Akhenaten thản nhiên bước xuống ngựa. Hai vị vua im lặng nhìn nhau như dò xét.

Hoàng đế xứ Hitites nói:

- Ta không ngờ ông lại đến. Phải chăng ông đã chấp thuận điều kiện của ta?

Akhenaten ôn tồn:

- Khi xưa ta đã cho sứ giả mang rất nhiều phẩm vật tặng ngươi để bày tỏ thiện chí nhưng có lẽ ngươi không hiểu ý ta.

- Mối thù giữa Hitites và Ai Cập không thể bỏ qua bằng những phẩm vật tầm thường đó được. Hiện nay chúng ta đang chiếm phần thắng...

Akhenaten lắc đầu:

- Ngươi quá tự tin về kế hoạch của mình nhưng liệu ngươi có nắm chắc phần thắng không?

Hoàng đế Hitites ngạc nhiên nhưng vẫn nói cứng:

- Hiển nhiên là ta nắm phần thắng vì ta đã đoán trước âm mưu của ngươi và có kế hoạch đối phó.

Akhenaten nhẹ nhàng:

- Nếu ta là ngươi, chẳng bao giờ ta lại tin một người nhiều tham vọng như Maati cả.

Câu nói dường như vô tình của Akhenaten khiến hoàng đế Hitites giật mình như bị một cái gì đánh trúng. Ông đằng hắng mấy tiếng nhưng không thốt nên lời. Sirah, viên sĩ quan hầu cận, lật đật lên tiếng:

- Hoàng đế... hoàng đế... giao trách nhiệm trông coi thủ đô cho Maati ư?

Các tướng lãnh nhìn nhau ngơ ngác. Vua xứ Hitites đằng hắng:

- Ta... ta đã phái tướng Heru ra tiếp viện cho nhóm phục binh ở thung lũng Nethkha... Dĩ nhiên Maati... Maati... sẽ trông coi thủ đô.

Akhenaten thong thả lên tiếng:

- Nếu ngươi biết Maati đã liên lạc với vua xứ Nubia và cuộc tấn công vào miền nam Ai Cập sẽ không xảy ra như ngươi dự định. Hoàng đế Nubia không phải là người thiếu mưu trí, y chẳng dại gì tấn công Ai Cập trước để người Hitites hưởng lợi. Theo ta biết thì y sẽ án binh bất động để chờ cơ hội...

Một lần nữa tôi thấy nét mặt của vua xứ Hitites nhăn nhó hơn bao giờ hết. Ông nắm chặt lấy đốc kiếm như để giữ bình tĩnh. Các tướng lãnh yên lặng nhìn ông nhưng nét mặt mọi người đều căng thẳng.

Akhenaten tiếp tục:

- Ngươi nghĩ rằng một tướng lãnh đầy kinh nghiệm như Smenkere lại dẫn quân đi vào thung lũng Nethkha mà không cho người đi do thám trước hay sao? Nếu ngươi biết Smenkere đã được Maati thông báo về nhóm phục binh của tướng Heru vì hắn cần lợi dụng quân đội Ai Cập để diệt trừ Heru. Nếu Heru chết, quyền hành xứ Hitites sẽ thuộc về tay Maati và y sẽ ra lệnh rút quân về để Smenkere có thể tập trung quân lực quay về giải cứu Ai Cập. Tóm lại, hiện nay các ngươi mới là những kẻ đang ở tình trạng khó xử, tiến cũng không xong và lui cũng không được.

Vua xứ Hitites gầm lên một tiếng rồi quay qua một sĩ quan hầu cận, ra lệnh:

- Tamas, ngươi hãy cho người đi xem tình hình thế nào rồi báo cáo ngay cho ta.

Vị sĩ quan lập tức lên ngựa phóng đi. Vua Hitites phất tay ra lệnh cho quân sĩ bao vây lấy tôi và vua Akhenatenvào giữa.

Ông ta nghiến răng:

- Này Akhenaten, nếu thế ngươi sẽ phải chết trước.

Pharaoh Akhenaten vẫn bình tĩnh:

- Tại sao ngươi cứ khăng khăng đòi giết người này hay giết người khác như vậy? Phải chăng chỉ có giết chóc mới giải quyết được mọi sự? Kẻ thù của người đâu phải là người ngoài mà chính là người bên trong xứ của ngươi đó. Bao năm qua, ngươi chỉ lo chiến tranh với Ai Cập mà xao lãng kẻ nghịch bên trong.

Vua xứ Hitites im lặng, hiển nhiên câu nói của Akhenaten đã tác động rất lớn vào tâm lý ông ta. Akhenaten tiếp tục:

- Ngươi rời thủ đô vào sa mạc để huấn luyện quân sĩ nên đâu biết việc gì xảy ra trong cung của ngươi. Các tướng lãnh trung thành với ngươi cũng thế, họ đã rời xa vợ con để theo ngươi rèn binh luyện kiếm nhưng họ có biết tình trạng gia đình, vợ con của họ lưu lại thủ đô như thế nào không?

Câu nói của Akhenaten đã làm các tướng lãnh Hitites hung hãn đứng quanh đó rung động. Bao năm qua họ chỉ nuôi mộng chiêu tập binh mã để tấn công Ai Cập mà xao lãng bổn phận với gia đình. Vẻ mặt mọi người tự nhiên dịu đi.

Akhenaten quay qua tôi, nói một cách nhẹ nhàng:

- "Này Sinuhe, ta chủ trương cải cách xã hội và tôn giáo Ai Cập vì thấy vết xe cũ đã mang lại quá nhiều đau khổ cho người dân xứ này. Tổ tiên của ta chỉ lo mở mang bờ cõi bằng chiến tranh mà không biết đào luyện, trau dồi phẩm cách cho con người. Cha ta trọn đời chỉ lo chiến đấu với người Hitites và Nubia vì lúc nào cũng sợ họ xâm lăng và hiển nhiên người Nubia và Hitites cũng lo Ai Cập xâm phạm bờ cõi.

Tất cả đều mắc vào cái vòng luẩn quẩn của sự sợ hãi vô cớ này. Chính sự sợ hãi đã đem lại thù hận và hận thù cứ thế tăng lên do các cuộc chiến tranh kéo dài từ năm này qua năm khác.

Rốt cuộc mọi người đều chỉ biết giết chóc chứ không biết thương yêu, chỉ biết sử dụng võ khí chứ không biết trau dồi phẩm hạnh. Khi con người sa đọa đến mức này thì xã hội đã rối loạn sẽ rối loạn thêm, do đó ta muốn cắt đứt cái vòng luẩn quẩn ấy.

Dĩ nhiên đa số không hiểu được lòng ta, không thể tin rằng Pharaoh của Ai Cập lại muốn rời xa truyền thống cũ. Ta đã cho sứ giả đi khắp nơi giảng dạy cách sống mới nhưng phần lớn chưa tin rằng ta có thiện chí thực sự. Này Sinuhe, con đường ta đang đi là con đường rất khó vì nó đòi hỏi một sự nhẫn nại rất lớn nhưng ta thấy ngoài nó ra, không còn giải pháp nào khác. Trong nhiều năm qua, ta tiếc không có ngươi ở bên cạnh để chia sẻ với ta những thay đổi mà ta cho thi hành..."

Akhenaten ngưng nói, quay qua hoàng đế Hitites:

- Ông và ta đều là những người lãnh trọng trách lịch sử. Ông có bổn phận với quốc gia của ông và sứ mạng của ông là làm thế nào để quốc gia trở nên thịnh vượng, phú cường. Một sự thịnh vượng được xây dựng trên sự hiểu biết đúng đắn chứ không phải trên xương máu đồng loại. Con đường của ta đang theo đuổi không những phải tránh sự giết chóc mà còn tránh những tư tưởng hận thù xấu xa, những quyết định nóng nảy hấp tấp nữa.

Hoàng đế Hitites đang trầm ngâm suy nghĩ thì có tiếng vó ngựa dồn dập rồi Tamas, viên tùy tùng được sai đi xem xét tình hình đã dẫn về một nhóm người.

Akhenaten thong thả lên tiếng:

- Này hoàng đế Hitites, đây chính là giây phút quyết định của ông đó!

Tamas đưa một người mặc quân phục rách nát, dính đầy máu đến trước mặt vua xứ Hitites. Người này vừa khóc vừa báo cáo:

- Kính thưa hoàng đế, Maati làm phản, tự xưng làm vua. Hắn triệu hồi binh sĩ phòng thủ tại thung lũng Nethkha... Tướng Heru đã bị giết. Hiện nay quân đội Ai Cập đã vượt qua thung lũng Nethkha mà không gặp một sự kháng cự nào. Maati còn cho người đến gặp Tể tướng Smenkere xin thương thuyết đầu hàng nữa...

Hoàng đế Hitites tức giận gầm lên một tiếng lớn. Các tướng lãnh đứng quanh đó nhốn nháo, xôn xao bàn tán. Sirah, viên tướng chỉ huy vội lên tiếng:

- Tình thế cấp bách, xin hoàng đế cho phép hạ thần dẫn quân trở về giải cứu thủ đô và trị tội thằng phản phúc Maati kia.

Hoàng đế Hitites lắc đầu:

- Không được, nếu trở về ngươi sẽ phải đương đầu với Smenkere trước. Dù có võ khí sắc bén nhưng chưa chắc ngươi đã chiếm được phần thắng. Trong lúc này, phân tán lực lượng quân sự sẽ chỉ làm mồi cho người Ai Cập.

Sirah giơ tay chỉ vào Akhenaten:

- Nếu chúng ta giữ Pharaoh của họ làm con tin thì họ đâu dám làm gì.

Các tướng lãnh quanh đó đều gật đầu đồng ý. Hoàng đế xứ Hitites suy nghĩ một lúc rồi quay qua phía Akhenaten, đổi giọng:

- Trong tình thế hiện tại, liệu chúng ta có thể thỏa thuận một giải pháp tốt đẹp cho cả hai bên không?

Pharaoh Akhenaten mỉm cười lắc đầu:

- Trước đây không lâu, khi nắm chắc phần thắng trong tay, ông chỉ muốn tấn công Ai Cập để rửa hận; nhưng lúc này ông lại sẵn sàng thỏa hiệp với Ai Cập khi nội bộ triều chính của ông gặp khó khăn. Nếu Hitites và Ai Cập vẫn còn thù hận nhau thì mọi thỏa hiệp chỉ là những giai đoạn nhất thời chứ không phải vĩnh viễn. Ta không thể chấp thuận một giải pháp như thế được.

Hoàng đế Hitites tức giận:

- Ông nên nhớ rằng số phận của ông nằm trong tay ta và chỉ cần một lệnh nhỏ, quân sĩ của ta sẽ băm ông nát ra trăm mảnh.

Akhenaten điềm nhiên:

- Hiển nhiên ta biết thế, nhưng nếu ta chết thì chỉ nội ngày mai, khi lực lượng quân sự của Smenkere và Horemheb hai mặt cùng giáp công thì các ông cũng khó bảo toàn tính mạng. Dù có võ khí sắc bén nhưng thiếu viện binh của người Nubia và Hitites, liệu các ông có thể chống cự một sức mạnh quân đội đông đảo như thế không? Nếu ta chết, Ai Cập sẽ có một Pharaoh khác và có lẽ người đó sẽ không để cho xứ Hitites của ông được yên. Rốt cuộc chúng ta vẫn tiếp tục đi theo vết xe cũ, gây chiến tranh và gia tăng hận thù giữa hai nước...

Hoàng đế Hitites im lặng đặt tay lên chuôi kiếm, nửa muốn rút ra nhưng nửa lại ngập ngừng. Pharaoh Akhenatenim lặng quan sát đối thủ. Không khí trở nên căng thẳng, mọi người đều nín thở theo dõi. Chỉ một quyết định sẽ có máu đổ, đầu rơi và chiến tranh sẽ xảy ra.

Bất chợt Pharaoh Akhenaten khoan thai nói:

- "Ta biết mối thù giữa Ai Cập và Hitites kéo dài đã nhiều năm, khó có thể giải quyết ngay trong chốc lát, nhưng ta vẫn muốn chứng tỏ thiện chí của ta. Này hoàng đế Hitites. Ta biết ông có một con trai mà ông rất thương yêu. Ông muốn mở mang bờ cõi để sau này con ông có thể cai trị một miền đất rộng lớn nên ông không quản công lao khó nhọc chiêu tập binh mã, vừa để phát triển bờ cõi cho con ông sau này, vừa để trả mối hận đã bị Ai Cập xâm lăng khi xưa. Những chuyện đã xảy ra trong quá khứ, ta không thay đổi được nhưng hiện nay ta vẫn có thể làm những việc để dân chúng cả hai nước có một tương lai tốt đẹp hơn.

Này hoàng đế xứ Hitites, ta muốn đề nghị với ông một giải pháp để nối tình giao hảo giữa hai nước một cách lâu dài. Ta vốn không có con trai nối dõi mà chỉ có con gái nên ta đề nghị một cuộc hôn nhân giữa hai bên. Ông và ta kết tình thông gia, giao hảo tốt đẹp. Con trai ông làm rể ta, dĩ nhiên sau này sẽ lên ngôi Pharaoh cai trị khắp miền này mà không phải tốn một sinh mạng nào. Người Ai Cập và người Hitites sẽ vĩnh viễn không gây chiến tranh, không gây hận thù nữa... Ông nghĩ thế nào?"

Toàn thể mọi người đều giật mình, không ai ngờ Akhenaten lại đưa ra một giải pháp táo bạo như thế. Hoàng đế Hitites xúc động run bắn người, bàn tay đặt trên đốc kiếm của ông từ từ rút về. Không bao giờ ông ngờ kẻ thù của mình lại có thiện chí đến thế. Ai Cập là một cường quốc rộng lớn thịnh vượng, trong khi Hitites chỉ là một tiểu quốc bé nhỏ nằm ngoài sa mạc, nếu con ông lên ngôi Pharaoh thì nó sẽ cai trị khắp miền này.

Pharaoh Akhenaten bình tĩnh nói tiếp:

- Nếu ông với ta thông gia với nhau thì hiển nhiên xứ Hitites cũng là của con rể ta, không lẽ một Pharaoh Ai Cập như ta lại để cho một tên phản thần như Maati tung hoành hay sao? Này vua xứ Hitites, nếu chúng ta không làm những việc mà không ai dám làm để nối lại tình giao hảo giữa hai xứ thì ai sẽ làm việc này và đến bao giờ sự thù hận mới hàn gắn cho được?

Hoàng đế Hitites run giọng:

- Pharaoh... Pharaoh... ngài không nói đùa đấy chứ?

Pharaoh Akhenaten oai nghiêm giơ cao chiếc vương ấn:

- Trước mắt đấng tối cao biểu hiện qua tượng trưng của Aten, ta thề sẽ giữ đúng những điều ta vừa hứa với ông.

Hoàng đế Hitites vội vã chắp tay lại:

- Pharaoh... Akhenaten... Ngài thật cao cả... kẻ này... kẻ này...

Ông chưa dứt lời thì quân sĩ Hitites đã hò hét báo động ầm lên. Mặc dù trời chưa sáng hẳn nhưng người ta có thể nhìn thấy từ phía chân trời xa, một đoàn quân Ai Cập đang rầm rộ kéo đến. Pharaoh Akhenaten quay qua một kẻ tùy tùng:

- Ngươi hãy đến nói cho Horemheb biết rằng ta và hoàng đế Hitites đang nói chuyện với nhau, các ngươi chớ làm rộn.

Sau khi kẻ tùy tùng vừa đi khỏi, Pharaoh Akhenaten quay qua nói với vua xứ Hitites:

- Ý ông thế nào?

Hoàng đế Hitites vội vã đưa cây gươm còn nguyên trong vỏ ra:

- Đây là thanh gươm quý mà tôi vẫn mong có dịp được rửa bằng máu của ngài. Hiện nay tôi xin trao cho ngài làm tin để bày tỏ thiện chí của tôi.

Akhenaten đón lấy thanh gươm hình thù lạ lùng kia, oai nghiêm nói:

- Quân sĩ đâu, mang rượu ra đây! Ta và hoàng đế Hitites sẽ uống rượu để kết tình thông gia.

Trước vò rượu lớn, Akhenaten rút gươm ra cắt nhẹ lên cánh tay mình để máu chảy xuống vò rượu rồi nói:

- Hoàng đế Hitites, ông vẫn mong thanh gươm của ông sẽ nhuộm máu ta thì hôm nay ta giúp ông hoàn tất ý nguyện đó. Tuy nhiên ta mong máu của ta đổ ra để cho máu của dân chúng hai nước không phải chảy nữa...

Hoàng đế Hitites cảm động đỡ lấy thanh gươm, trích máu trên tay mình:

- Pharaoh Akhenaten, ngày nào tôi còn sống thì không bao giờ xứ Hitites lại gây chiến với Ai Cập nữa.

Hai vị vua cùng nâng chén uống và cười ha hả. Tôi đứng sững người mà trong lòng vô cùng xúc động. Một lần nữa, sự can đảm và đức độ của Akhenaten đã hoàn toàn chinh phục tôi. Pharaoh Akhenaten quay qua các tướng lãnh Hitites đứng gần đó:

- Ta biết các ông đều là những bầy tôi trung thành của vua Hitites, nhưng hiện nay chúng ta không còn là kẻ thù nữa. Ta nghĩ đã đến lúc các ông nên trở về nhà để săn sóc, nuôi dạy con cái nên người.

Hoàng đế xứ Hitites tiếp lời:

- Các ngươi hãy nghe cho rõ, từ nay Ai Cập và Hitites không bao giờ gây chiến tranh với nhau nữa. Chúng ta hãy trở về nước trừng trị tên phản phúc Maati.

Toàn thể tướng sĩ Hitites đồng loạt giơ tay hưởng ứng. Pharaoh Akhenaten ra lệnh cho một kẻ tùy tùng:

- Ngươi hãy đi theo hoàng đế Hitites để thông báo cho tể tướng Smenkere biết rõ quyết định của ta.

Hoàng đế Hitites và tướng sĩ vội vã kéo quân lên đường. Pharaoh Akhenaten im lặng nhìn theo đoàn người từ từ khuất xa rồi thong thả nói:

- Trời sắp sáng rồi, ta phải chuẩn bị chiêm ngưỡng sự huy hoàng của vầng Thái Dương và biết rằng ta vừa làm đúng sứ mạng cao cả của người lãnh đạo quốc gia là tránh cho dân chúng khỏi nạn binh đao. Này Sinuhe, ngươi có biết tại sao lại có chiến tranh không?

Tôi rụt rè trả lời:

- Tại vì có những kẻ xấu xa, tham lam, không biết sống thuận theo lẽ phải.

Pharaoh Akhenaten lắc đầu:

- "Không hẳn thế đâu. Trên thế giới này, những kẻ gây ra chiến tranh không phải vì họ xấu hay họ làm trái lẽ phải mà chỉ vì họ không đồng ý kiến hoặc quan niệm với nhau mà thôi. Là người, ai cũng có ý kiến riêng và người nào cũng có lý trong việc làm của họ. Dù người khác cho rằng ý kiến đó sai nhưng đối với họ, điều họ làm chính là lẽ phải. Chỉ vì bất đồng ý kiến mà con người gây gỗ nhau vì cái gì đúng với người này chưa chắc đã đúng với người khác. Do đó các quan niệm như phải trái, đúng sai. Tốt xấu chỉ có giá trị tương đối, chịu ảnh hưởng của không gian và thời gian. Điều hôm nay đúng thì ngày mai có thể sai; quan niệm ấy tại nơi này thì hữu lý nhưng ở nơi khác lại vô lý. Một người hiểu biết phải vượt lên trên sự phân biệt đó và không bao giờ bắt ai phải tuân theo ý kiến của mình. Chỉ có những kẻ thiếu hiểu biết mới điên rồ đòi mọi người phải đồng ý với mình."

- Nhưng nếu thế thì chúng ta phải giải quyết như thế nào?

- Việc duy nhất để giải quyết sự bất đồng ý kiến, dị biệt tư tưởng là tình thương. Tình thương đưa đến sự chấp nhận những khác biệt này thì hận thù mới có thể chấm dứt được. Thiếu tình thương là thiếu hiểu biết và khi đã không hiểu biết thì con người không thể cảm thông được với nhau mà chỉ thấy những khác biệt, sai trái. Chính quan niệm về sự khác biệt này làm nảy sinh sự bất đồng rồi đưa đến thù hận, chiến tranh. Để giải quyết nó, người ta cần biết thay đổi chính mình chứ không thể đòi hỏi người khác phải thay đổi được. Sự thay đổi chính mình là một sức mạnh hết sức lớn lao, một quyền năng phi thường mà chính ngươi đã từng kinh nghiệm.

Tôi ngạc nhiên:

- Thưa Pharaoh... kẻ này... kẻ này đâu đã... biết gì về việc thay đổi chính mình...

- Sao ngươi mau quên thế? Vì ghen tuông với Horemheb mà ngươi đã bỏ đi thật xa, đến tận xứ Palestine hoang vu... Không lẽ ngươi quên rồi sao? Này Sinuhe, chỉ một việc nhỏ bé, tầm thường như thế đã khiến ngươi căm hận thì làm sao ngươi có thể làm được những việc lớn lao, cao cả? Sự thù hận đã làm ngươi mù quáng, ngu xuẩn và hậu quả là ngươi đã phải sống trong dằn vặt khổ đau suốt bao năm qua.

Tôi giật mình không ngờ Pharaoh cũng biết việc này. Phải chăng Horemheb đã kể lại cho ông? Có lẽ hiểu ý tôi nên Akhenaten cười lớn:

- "Horemheb là kẻ không thích nói nhiều. Hắn vẫn ăn năn về việc để cho ngươi sa ngã thì đời nào lại kể chuyện xấu xa này ra cho ta. Tuy nhiên ta vẫn biết và còn biết nhiều hơn thế nữa.

Này Sinuhe, tuy ngươi được giáo dục cẩn thận nhưng vì thiếu kinh nghiệm nên không vượt qua được thử thách vừa qua. May thay, vì có lương tâm nên ngươi biết dẹp bỏ lòng ghen tuông nhỏ bé để nghĩ đến quyền lợi chung, không ngại nguy hiểm trở về Ai Cập để báo động về hiểm họa Hitites. Chính vì thế mà ngươi mới được chứng kiến sự kiện lịch sử hôm nay, còn nếu không thì có lẽ ngươi vẫn sống trong đau khổ mãi mãi và chẳng bao giờ có thể trở về Ai Cập được.

Này Sinuhe, việc xảy ra vừa qua chỉ là một thử thách nhỏ trên con đường mà ngươi muốn theo đuổi. Ngươi nên biết mỗi thử thách trong cuộc đời là một bài học mà ngươi cần học hỏi, một kinh nghiệm mà ngươi cần phải biết. Con đường ngươi đi còn dài và nhiều thử thách nhưng ta mừng cho ngươi đã kinh nghiệm được sự mầu nhiệm của việc thay đổi chính mình."

Một lần nữa tôi ngạc nhiên về sự hiểu biết lạ lùng của Akhenaten. Tôi muốn nói nhưng nghĩ sao lại thôi.

Akhenaten chăm chú nhìn tôi rồi nói tiếp:

- Ngươi đã được cha mẹ dạy dỗ để đi theo đường đạo nhưng có lẽ ngươi chưa ý thức rõ rệt gì về nó nên đã bỏ qua nhiều cơ hội học hỏi. Ngươi cần biết rằng đây là một con đường rất khó khăn và nhiều thử thách. Nếu đường đời đầy chông gai bão tố thì đường đạo còn hiểm trở gấp trăm lần; nhưng thử thách có lớn thì sự thành công mới huy hoàng và chỉ có những kẻ được trui rèn trong đau khổ mới vượt qua được những thử thách này và xứng đáng nhận lãnh trách nhiệm lịch sử...

Pharaoh chưa nói hết thì nhóm quân sĩ Ai Cập do Horemheb dẫn đầu đã kéo đến. Horemheb dừng ngựa trước mặt Akhenaten:

- Kính thưa Pharaoh, hạ thần nghĩ rằng ngài đang nghỉ ngơi ở ốc đảo nên mạo muội trở về Memphis điều động binh sĩ mà không biết ngài đã đến gặp vua xứ Hitites... May thay... may thay... ngài vẫn vô sự...

Pharaoh Akhenaten phất tay ra hiệu:

- Đủ rồi, ngươi không cần phải nói nhiều. Hãy đưa ta về cung nghỉ ngơi.

Horemheb cúi đầu tuân mệnh và ra lệnh cho binh sĩ đưa Pharaoh trở về cung. Dọc đường hắn hỏi tôi chi tiết buổi tiếp xúc giữa hai vị vua và ngỏ ý tiếc đã không được chứng kiến cuộc gặp gỡ lịch sử đó. Sau khi đưa Pharaoh vào cung, Horemheb dẫn tôi đến một căn nhà rộng rãi, nguy nga gần đó:

- Đây là nhà riêng của t*o, mày hãy tạm nghỉ ở đây ít hôm. t*o cần đi kiểm soát hàng ngũ quân sĩ và gặp tể tướng Smenkere rồi sẽ trở về.



Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



đến trang 236 chương 9

Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |