Jump to content

Advertisements




SỔ TAY CÁC SAO TRONG TỬ VI


215 replies to this topic

#121 Expander

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2701 Bài viết:
  • 5883 thanks

Gửi vào 30/04/2019 - 14:52

Mời quý vị tham khảo một đoạn trong Thái Vi Phú, gồm tiếng Hán và phần dịch của ông QNB:

太微賦 – Thái Vi Phú

斗數至玄至微,理旨易明,雖設問於百篇之中,猶有言而未盡。
至如星之分野,各有所屬,壽夭賢愚,富貴貧賤,不可一概論議。

Đẩu số vô cùng huyền ảo thâm thúy, lý lẽ và ý nghĩa khó mà lường hết được. Tuy rằng có đặt ra các vấn đáp trong mỗi chương, nhưng do ngôn ngữ có giới hạn nên không thể nói hết thành lời được. Ngay như phân dã (địa phận) của các sao, tinh chẫt sở thuộc của chúng, thọ yểu hiền ng.u, phú quỷ bần tiện, đều không thể luận cứng nhắc theo một kiểu được đâu.

其星分佈一十二垣,數定乎三十六位,人廟為奇,失度為虛,
大抵以身命為福德之本,加以根源為窮通之資。

Sao phân bố trên 12 cung của nó, số định ba mươi sáu vị, nhập miếu là hay mà thất độ (lạc hãm) thì hỏng. Đại để lấy Phúc Đức làm gốc của Thân Mệnh, thêm căn nguyên là sự biến đổi cùng-thông của sự thiên bẩm.

星有同躔,數有分定,須明其生剋之要,必詳乎得垣失度之分,

Sao có thể cùng chỗ, nhưng số có sự phân định (khác biệt), nên hiểu sinh khắc của chủng là trọng yếu, tất sẽ tỏ tường sự phân biệt miếu đắc hay thất hãm ở cung viên.

觀乎紫微舍躔,司一天儀之象,率列宿而成垣。
土星苟居其垣,若可移動;
金星專司財庫,最怕空亡

Xem triền xá (nơi cư ngụ của sao trên vòng xoay) của Tử Vi, tượng chủ mỗi một ngày, thống suất chư tinh liệt tú mà tạo thành tinh viên, thổ tinh tạo ra thành quách cung viên có thể di động, kim tinh chuyên ti tài khó rất sợ không vong.

帝星動則列宿奔馳;
貪守空而財源不聚。
各司其職,不可參差。
苟或不察其機,更忘其變,則數之造化遠矣。

Đế tinh động thì liệt tủ ắt sẽ xáo động gấp rút, Tham thủ Không thì tài nguyên chẳng thể tụ được.
Chức vụ của các ti (có sự phân biệt), không thể can dự (chồng chéo) vào được.
Tự răn mình (tạm) không xét xét đến Cơ, (tạm) quên đi Biến, để biết số cùa tạo hóa vậy.

Quy ước rẳng:

例曰:祿逢衝破,吉處藏凶

Lộc phùng xung phá, cát xứ tàng hung.
(Lộc gặp Sát Phá xung chiếu thi như chỗ cát mã có tàng ẩn cái hung).

馬遇空亡,終身奔走;

Mã ngộ Không Vong, chung thân bôn tẩu.
(Mã gặp Không Vong thì suốt đời bôn ba vất vả).

生逢敗地,發也虛花;

Sinh phùng bại địa, phát dã hư hoa.
(Mệnh cư chỗ bại địa là như hoa sớm nở chiều tàn).

絕處逢生,花而不敗;

Tuyệt xứ phùng sinh, sinh hoa bất bại.
(Mệnh ở chỗ tuyệt địa nhưng được tương sinh thi không thể suy tàn sớm được).


Bằng hiểu biết nông cạn, có kẻ đang muốn bẻ cong Tử Vi Đẩu Số toàn thư, cho vào đó những ý nghĩ hợm hĩnh, thiếu hiểu biết. Khổ nhất là nghĩ mình đúng nên đi chửi người khác. Ai có lỗ lẻ nào không, giới thiệu ngay cho hắn!

Thanked by 3 Members:

#122 Expander

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2701 Bài viết:
  • 5883 thanks

Gửi vào 30/04/2019 - 16:42

THÁI VI PHÚ CHÚ GIẢI



絕處逢生,(花而)生花不败Tuyệt xứ phùng sinh, sinh hoa bất bại


假如水土人安命在巳,巳為水土所絕之地,卻得金星(长)生於巳,金又得生水不絕,為母來救子之理。

- Giả như Thủy Thổ nhân an Mệnh tại Tỵ, Tỵ vi Thủy Thổ sở Tuyệt chi địa, khước đắc Kim tinh Sinh vu Tỵ, Kim hự đắc sinh Thủy bất Tuyệt, vi mẫu lai cứu tử chi lý.

巳中丙火乘旺,火又生土,雖寅申巳亥為四絕又為四生,故曰五行絕處即是胎元,生日逢之又名受氣。

- Tỵ trung Bính Hỏa thừa vượng, Hỏa hự sinh Thổ, tuy Dần Thân Tỵ Hợi vi tứ Tuyệt hựu vi tứ Sinh, cổ viết ngũ hành tuyệt xử tức thị thai nguyên, sinh nhật phùng chi hựu danh thụ khí.

Dịch:

- Nếu người sinh nhằm hành Thổ và hành Thủy, Mệnh an tại Tỵ, Tỵ là nơi Thổ, Thủy bị Tuyệt, nhưng lại được sao hành Kim (Tràng) Sinh tại Tỵ, Kim lại sinh Thủy, làm Thủy không bị Tuyệt, do nguyên lý “mẹ cứu con”.

- Bính Hỏa trong Tỵ thêm vượng, Hỏa lại sinh Thổ, tuy Dần, Thân, Tỵ, Hợi là đất Tứ Tuyệt, lại là đất Tứ Sinh, vì thế nên nói rằng Ngũ Hành Tuyệt xứ tức là Thai Nguyên, ngày sinh được gặp điều này thì gọi là “Thụ Khí”.


P/s: Ai hiểu được đến đâu thì hiểu, tùy sở học!

Sửa bởi Expander0410: 30/04/2019 - 16:46


Thanked by 2 Members:

#123 Quách Ngọc Bội

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4517 Bài viết:
  • 29122 thanks
  • LocationThảo Nguyên

Gửi vào 30/04/2019 - 16:48

Nghe có người bảo tôi bị vướng vào thị phi, liền lật đật chạy vào đây để định giải trình. Sau khi đọc kỹ thì mới biết không phải anh Expender0410 mắng tôi mà đang bức xúc với người khác, mới thấy nhẹ nhõm

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Nhân tiện, tôi có 1 đoạn bình chú cho Cốt Tủy Phú, có liên quan. Xin tham khảo để rộng đường thảo luận.

Đẩu Số - Cốt tủy phú – bình chú
3-
Yếu tri nhất thế chi vinh khô, định khán ngũ hành chi cung vị.
Lập mệnh khả tri quý tiện, an thân tiện hiểu căn cơ.
Vinh giả phú quý dã, khô giả bần tiện dã,
Nhân sinh nhất mệnh chi trung nhi kiến chi dã.
Chủ tinh cát tá tinh cát vận hạn cát, tắc nhất sinh an nhiên,
Vận hạn hung nhi lưu niên ngộ sát kiếp, định tai hối nhi ngôn.
Ngũ hành tức mộc hỏa thổ kim thủy dã,
Như dần thân tị hợi tắc vi tứ sinh, tý ngọ mão dậu tắc vi tứ bại, thìn tuất sửu mùi tắc vi tứ mộ,
Tứ sinh lâm quan đế vượng tắc vi phú quý, ngộ suy bại tử mộ tuyệt tắc vi bần tiện, mộ khố thai dưỡng tắc vi dung thường.
Lập mệnh tại ngũ hành sinh vượng chi cung tắc phú, tử tuyệt chi cung tắc bần,
An thân tại sinh vượng chi cung tắc quý, tử tuyệt chi cung tắc tiện,
thử diệc thừa thượng văn nhi ngôn chi.

Nghĩa là:
Nên biết sự tươi hay héo của một đời người, được định bởi việc xem ngũ hành cung vị.
Chỗ lập Mệnh có thể thấy được sang quý hay hèn kém, nơi an Thân có thể hiểu được căn cơ của bản thân đương số.
Được tươi tốt thì phú quý vậy, còn khô héo thì hèn kém vậy,
Xem trong số mệnh của con người mà biết vậy.
Chủ tinh cát, phụ tá tinh cát, vận hạn cũng cát thì sẽ được một đời an nhiên tự tại,
Vận hạn hung mà lưu niên gặp phải Sát Kiếp thì nhất định là gặp tai họa, hối hận.
Ngũ hành tức là Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy vậy.
Như Dần Thân Tị Hợi thì là tứ Sinh, Tý Ngọ Mão Dậu là tứ Bại, Thìn Tuất Sửu Mùi là tứ Mộ,
Ở tứ Sinh mà Lâm Quan Đế Vượng thì là phú quý, gặp Suy Bại Tử Mộ Tuyệt thì là bần tiện, chỗ Mộ khố Thai Dưỡng thì là trung bình.
Lập Mệnh tại cung của ngũ hành Sinh Vượng thì giàu, còn ở cung của Tử Tuyệt thì nghèo,
An Thân tại cung của ngũ hành Sinh Vượng thì quý, còn ở cung của Tử Tuyệt thì ti tiện,
tới đây thì cũng cứ theo như lý luận ở trên mà nói (tức, cứ phỏng theo đó mà suy diễn,...)

Tại sao đoạn nói về Ngũ Hành này được viết ngay lập tức sau cái đoạn nhấn mạnh về vai trò quan trọng của Cách Cục?
Thưa, dĩ nhiên nó chính là một bộ phận tính chất không thể thiếu để định lượng sự ảnh hưởng của Cách Cục.
Sau khi phân định rõ ràng Cách Cục, lại xem xét các phụ tá tinh cũng như sát hung bại tinh tham gia vào Cách Cục ấy ít nhiều nặng nhẹ ra sao. Thời lập tức trở lại sử dụng quy tắc Vượng – Suy để mà đong đếm cho tường sự tươi tốt hay khô héo. Vượng thì tươi tốt, Suy thì khô héo, được tươi tốt thì tất sẽ sướng, còn khô héo dĩ nhiên khổ vậy.

Tại sao nhắc đến Ngũ Hành ở đây lại nói đến các vị của vòng Tràng Sinh?
Thưa, dùng vòng Tràng Sinh chính là cốt yếu của Vượng – Suy pháp, mỗi vị trí của vòng Tràng Sinh chính là mô tả một trạng thái đang Vượng hay Suy hay Trung Bình của một hành nào đó, bởi vì vòng Tràng Sinh là một chu trình tuần hoàn khép kín như một đồ thị hình Sin của quy luật thịnh suy, sinh lão bệnh tử, sinh sinh diệt diệt kéo dài liên miên bất tận.

Ngũ Hành đang nói ở đây là loại Ngũ Hành gì?
Thưa, là loại Ngũ Hành Nạp Âm.

Nạp Âm của Bản Mệnh hay của Cục?
Của Cục.

Phạm vi áp dụng với tinh đẩu trên thiên bàn ra sao?
Áp dụng cho 14 Chính Tinh.

Tại sao?
Số của Cục dùng an tinh tạo thành Cách, còn Hành của Cục định vượng suy cho cái Cách ấy. Đó chính là yếu chỉ trong việc xác định độ số của Cách Cục. Cũng chính là bí mật ngàn năm nay của môn Tử Vi Đẩu Số. Xưa kia, Đẩu Số và Bát Tự có chung cái gốc, sau này tách ra Đẩu Số chuyên dụng Thái Âm lịch với Số - Cung - Tinh coi nhẹ Ngũ Hành, còn Bát Tự chuyên dụng Thái Dương lịch với Can Chi - Ngũ Hành bỏ hết cả cách lập cung an Mệnh coi nhẹ Tinh Số. Chút Ngũ Hành còn lại trong môn Đẩu Số không thể bỏ được chính là phần tinh túy nhất, đặc trưng nhất, để định Vượng Suy cho Cách Cục. Cho nên, cần phải suy ngẫm cho kỹ để hiểu mà giữ lấy cái tinh túy này.

#124 CaspianPrince

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1404 Bài viết:
  • 1902 thanks
  • LocationCaspian Sea

Gửi vào 30/04/2019 - 18:37

1. 星有同躔,數有分定 (a),須明其生剋之要,必詳乎得垣失度之分,
(nghi vấn câu này thứ tự thực tế phải ở trước)
a.
(1)Tinh đẩu có thể đồng triền (cùng cung nhưng khác tầng): thiên bàn, địa bàn, nhân bàn. Tử Vi có thể đồng cung với Cự Môn, Thái Dương có thể đồng cung với Thất Sát là vì lẽ này. Cũng tinh đẩu đấy nhưng ở thiên bàn số sẽ khác địa bàn (tại số chủ... tại đẩu chủ....)
(2) cùng ngày tháng năm sinh, bố cục tinh đẩu giống nhau, thì phải xem số chứ không thể chỉ xem đẩu. Số tất phân định giữa người A và B tùy vào nhiều yếu tố khác ngoài ngày tháng năm sinh của bản thân, vd: năm sinh của cha mẹ, vợ chồng

2. 其星分佈一十二垣,數定乎三十六位,人廟為奇,失度為虛 kỳ tinh phân bố nhất thập nhị triền, số định hồ tam thập lục vị (a), nhập miếu vi kỳ (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

, thất độ vi hư (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


a. 12 viên (địa chi) mỗi cung 3 số (bản cung và hai cung tam hợp) = 36 vị
b. nghi vấn 奇 kỳ khôi vs 其 kỳ thực chất
c. thất độ là vừa phải lạc hãm (căn cứ theo địa chi) vừa phải không đạt về số (36 vị số; số của ngày sinh âm lịch ~ biến và hóa, thực biến rồi hóa thành hư hoặc ngược lại). Hư thì không thực, không nhất thiết phải là xấu

3. 大抵以身命為福德之本 (a),加以根源為窮通之資 (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

đại để dĩ thân mệnh vi phúc đức chi bản, gia dĩ căn nguyên vi cùng thông chi tư


a. nghi vấn phải là "dĩ phúc đức vi thân mệnh chi bản" ~ phúc đức là gốc của thân mệnh
b. căn nguyên ở đây là thiên can và nạp âm (cục), quyết đinh tinh đẩu không thể biến hóa và phi hóa (cùng) hoặc có thể biến hóa và phi hóa (thông)

Thanked by 2 Members:

#125 Expander

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2701 Bài viết:
  • 5883 thanks

Gửi vào 01/05/2019 - 01:13

@QNB: cho tôi xin lỗi vì cách diễn đạt gây dễ gây hiểu nhầm. Cũng xin cám ơn đã chia sẻ kiến thức hữu dụng.

@Casp: Tôi không phải dịch giả, đương nhiên rồi. Nhưng vì câu hỏi trong topic nên theo lẽ thường tôi biết đến đâu thì sẽ cố gắng tham luận, giải thích cùng quý vị đến đó.

Ở #124: Tôi đọc thì thấy thứ tự (2) trước (1) sau mới xuôi, tức trước tiên nêu đến vị của sao, rồi sự miếu hãm, sau thì là biết sinh khắc sẽ phân biệt được miếu đắc hãm của sao dẫu đồng vị. Nếu trình bày ngược lại thì bị hụt hẫng quá.

其 ... 垣 --> cụm này dịch thành "cung (viên) của nó", thiết nghĩ hợp lý

人廟為奇 --> chữ 奇 nghĩa là hay, tốt, đẹp, thiết nghĩ hợp ngữ cảnh.

Đồng ý về đoạn giải thích 失度, nhưng ngay đầu tiên đã có câu "斗數至玄至微,理旨易明", do vậy người đọc luôn cần chuẩn bị tâm thế tìm tòi thêm khi đọc.

"dĩ thân mệnh vi phúc đức chi bản", thiết nghĩ cũng giống đoạn "vi mẫu lai cứu tử chi lý" ở #122, dịch thành do nguyên lý mẹ cứu con, nghĩa rằng phần chữ in đậm mới là nguyên lý, nguyên nhân, nguồn gốc.

Sửa bởi Expander0410: 01/05/2019 - 01:29


Thanked by 3 Members:

#126 Quách Ngọc Bội

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4517 Bài viết:
  • 29122 thanks
  • LocationThảo Nguyên

Gửi vào 01/05/2019 - 09:34

@Casp: Cái được gọi là "36 vị" tức là thuộc về nội dung của Thiên Văn học

Trích dẫn

Lại có thuyết nói rằng Lạc Thư được sắp xếp dưới dạng Ma Phương 3x3 ô, tức là Cửu cung, là một dạng Ma Phương cơ bản nhất, cổ nhân dựa vào mô hình toán học của các dạng Ma Phương này để mà dùng tính toán sự vận hành của các Hành Tinh trong lãnh vực Thiên Văn Học cổ đại.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Mô hình tính toán Thiên Văn này không phải là sản phẩm độc quyền của người Hán ở Trung Quốc, mà các dân tộc khác tại các nước như Ấn Độ, Ai Cập, Ả Rập, Babylon và các nước phương Tây cũng có những mô hình tính toán Thiên Văn này. Hiện nay, các di tích văn hóa tâm linh, các đền thờ, các môn thuật số bói toán (điển hình là trong môn bói bằng bài Tarot với Ma Phương chữ 4x4) ở phương Tây vẫn còn sử dụng chúng. Loại Ma Phương 3x3 được gọi là Ma Phương Thổ Tinh (Saturn), loại 4x4 được gọi là Ma Phương Mộc Tinh (Jupiter), loại 5x5 được gọi là Ma Phương Hỏa Tinh (Mars), loại 6x6 được gọi là Ma Phương Thái Dương (Sola), loại 7x7 được gọi là Ma Phương Kim Tinh (Venus), loại 8x8 được gọi là Ma Phương Thủy Tinh (Mercury), loại 9x9 được gọi là Ma Phương Thái Âm (Luna). Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng các dạng Ma Phương với các mô hình toán học của chúng đều có ý nghĩa đặc biệt trong việc tính toán Thiên Văn Học, cụ thể ở đây là Thất Chính (Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh) đều có đặc trưng ở 7 loại Ma Phương đã nói.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Các con số Âm Dương trong Cửu Cung Lạc Thư (tức Ma Phương Thổ Tinh), cộng tổng các chiều theo dọc, ngang, chéo, đều cho ra con số 15. Nếu cộng tổng tất cả các số thì cho con số 45 (= 1+2+3+4+5+6+7+8+9). Coi số 5 là Thái Cực thì ở 4 phía Tứ Chính và Tứ Ngung sẽ thu được tổng các số Dương bằng tổng các số Âm là 20 (= 2+4+6+8 = 1+3+7+9).
Với số tổng bằng 15, mỗi cung 3 số phân bố vào 12 cung, chúng ta liền nhận được mối quan hệ cực kỳ quan trọng trong môn Tử Vi Đẩu Số, đó chính là tương tác Tam Hợp chiếu, Tam Hợp Cục, các bộ ba của số [1 – 5 – 9] cũng với tổng số bằng 15 luôn vĩnh viễn tạo thành các hệ Tam Hợp. Ở trong môn thuật số Chiêm Tinh Phương Tây hay Chiêm Tinh Vedic cũng sử dụng nguyên tắc này, thuật ngữ của họ gọi là Grand Trine - Đại Tam Hợp, trong phương pháp luận của họ còn có kết hợp với các nhóm Tứ Nguyên Tố là Đất – Nước – Lửa – Khí, cũng tương tự như trong môn Tử Vi Đẩu Số luận 4 nhóm Tam Hợp Cục là [Dần – Ngọ - Tuất] thuộc Tam Hợp Cục Hỏa, [Thân – Tý – Thìn] thuộc Tam Hợp Cục Thủy, [Tị - Dậu – Sửu] thuộc Tam Hợp Cục Kim, [Hợi – Mão – Mùi] thuộc Tam Hợp Cục Mộc, các Hành Khí của các Tam Hợp Cục này đều lấy các cung ở Tứ Chính – tức là chỗ Vượng của Hành Khí theo Tam Hội Cục để mà làm đặc trưng của chúng theo Ngũ Hành.
Thông qua đây, chúng ta cũng có thể nhận thấy, các môn thuật số tuy có hình thức khác nhau nhưng xét cho cùng thì cũng đều có chung nguồn gốc và đều phải dựa vào các tính toán theo Thiên Văn Lịch Pháp cũng như phải suy luận dựa trên sự vận hành của Khí Hậu nóng lạnh thịnh suy biến đổi trên địa cầu.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Các ký hiệu bên trong Cửu Cung của hình trên chính là các Bán Thủ trong Thái Huyền Kinh của Dương Hùng (tự là Tử Vân, 53 TCN – 18 SCN, thời Tây Hán), ông mô phỏng Dịch Kinh mà sáng tạo ra một hệ thống số Thái Huyền rất đặc sắc, Dịch Kinh triển khai số theo hệ nhị phân Âm Dương lũy thừa sáu = 64 = (1 + 1)6, còn Thái Huyền Kinh triển khai số theo hệ tam phân với Tam Thủ lũy thừa bốn = 81 = (1 + 1 + 1)4, trong đó mỗi cung quản số 81 (Thủ) nên Cửu Cung có số 729 (= 81x9, chính là số của các Tán – tương tự với Dịch có 384 Hào), đem mỗi Tán quản ½ ngày cho nên 729 Tán quản 364.5 ngày, chính là số ngày của 1 năm Mặt Trời, cũng chính là số ngày Tuế Tinh đi được 1 cung trong 12 cung.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Việc phân chia vòng tròn 12 cung thành 36 cung như trên cũng được Thiệu Khang Tiết sử dụng, ông tổng kết trong bài phú

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

rằng “Thiên căn Nguyệt quật thường lai vãng, tam thập lục cung đô thị xuân”, nghĩa là, Thái Dương Nguyệt Lượng thường qua lại, ba mươi sáu cung tràn nhựa sống. Nếu như ai có thắc mắc về nguồn gốc con số 36 của phố phường Hà Nội cổ thì nó chính là xuất phát từ cái gốc Thiên Văn của thuật số. Lại nói, con số 36 cung không phải là độc quyền của người Trung Quốc, bởi vì 36 cung chính là các Decans (các cung 10 độ) trong hệ thống Thiên Văn của người Ai Cập, Ấn Độ và Babylon cổ đại, chúng cũng đều là các hệ thống cung độ tín hiệu của Mặt Trời, ngày nay vẫn có thể dễ dàng thấy các môn bói toán bằng Tarot, Chiêm Tinh Vedic, Chiêm Tinh Zodiac sử dụng.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Triền thứ của các cung được phân chia bằng độ số, Sao đi đúng độ thì sáng tỏ nhập miếu, lạc sai độ thất độ là lạc hãm mờ tối. Cái được gọi là "Sao" ở đây chính là các Chính Tinh của Đẩu Số và chúng chính là các tọa độ toán học trong Thiên Văn - lấy giao điểm của Kinh độ và Vĩ độ giữa 7 Chính và 28 Tú rồi giả lập mà thành sao.

Sao có thể ở chung 1 cung (đồng triền, cùng triền thứ) như số thì khác nhau, bởi vì mỗi cung thứ thì quản tới 30 độ.
Ngay sau bài Phát Vi Luận của Bạch Ngọc Thiềm có phần tăng bổ nói rằng:
Tinh canh triền độ,
số phân định cục.

(Sao thay đổi tính chất theo vị trí cung nó qua trên quỹ đạo của nó,
Số thì được phân định tùy theo Cục).

Bản chất của nguyên lý Cục Số chính là:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



#127 Quách Ngọc Bội

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4517 Bài viết:
  • 29122 thanks
  • LocationThảo Nguyên

Gửi vào 01/05/2019 - 09:51

Dưới đây là thí dụ về sự vận dụng Cách & Cục, Tinh & Số:
Để đánh giá được phẩm vị thứ bậc của 1 con người trong xã hội, ngoài kiến thức Tam Hợp của môn Đẩu Số, thì các môn thuật số khác liệu có làm được chi tiết hơn hay không???


Thí dụ 1:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đinh Văn Tân, on 28/11/2014 - 02:26, said:

Nhân tìm đống giấy tờ, thấy có lá số ghi lại . Mười mấy năm rồi .Thử nghiệm xem !

Nam, sinh 0h48 ngày 28/12/1945 DL

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Sao đắc thượng cách Nguyệt Sinh Thương Hải (Thủy Trừng Quế Ngạc cách), Số đắc dưới trung cách.

Cho nên QNB mới đoán ông này được tinh đẩu đắc cách nhưng độ số không cao vì thế làm quan chỉ tới mức Thị Lang (thứ trưởng), Thượng Thư (bộ trưởng), nếu đi buôn thì giàu có.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

BryanAdam, on 28/11/2014 - 03:29, said:

Mệnh thủy cư vượng địa, Nguyệt sinh thương hải cách, tuổi Ất hợp cách nhưng Kình Đà xâm phạm Nhật Nguyệt.
Mệnh cung hội Tả Hữu Xương Khúc tất sẽ tránh được Hình Riêu Không Kiếp xâm phạm Nhật Nguyệt.
Kị cư thủy cung cũng không phải là họa lớn, còn có thể tăng cường độ thâm sâu của mưu trí.
Mệnh Cục tương khắc nhưng âm dương nghịch lý thì khắc cũng không đến nỗi ghê gớm.
Số này làm chính trị cũng có thể tới đại thần cỡ Thị Lang, Thượng Thư. Còn đi buôn cũng đại phú.
Hậu vận Hỏa Cục đến đại vận Quý Mùi thì sự nghiệp thành giấc Nam Kha.


Thí dụ 2:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đinh Văn Tân, on 05/12/2014 - 02:57, said:

Nhân ngày giáp năm của Ông nầy . Các Bạn nghiệm xem Ông nầy lên voi đến mức nào ?

http://

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Đối với các Chính Cách của Quý Cục thì đều ở Mệnh còn Thứ Cách đều ở Quan Lộc và cung an Thân (những cái này đã ghi rõ trong TVĐS Tân Biên của VĐTTL).

Ông này có Thứ Cách của Nhật Lệ Trung Thiên, là Quý Cách trong số các Cách của nhóm Quý Cục.Sao đắc thượng cách, số đắc trung cách, cho nên QNB mới đoán rằng ông này có thể lên voi tới mức Nhất Phẩm (tức là mức Bộ Trưởng trở lên).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

BryanAdam, on 05/12/2014 - 09:55, said:

Nhật lệ trung thiên, thứ cách, may là tuổi Bính hợp cách, âm dương thuận lý Mệnh Cục tương sinh, nên ban đầu phát sau thì phá vì Thái Dương chỉ có Linh Tinh trợ sáng nhưng lại gặp đủ 3 đại khắc tinh của Nhật là Kình, Hình, Địa Không. Cho nên có phát được thì nhất định phải có dị tật / ám tật hoặc theo binh nghiệp, quân đội, từ văn sang võ mới có thể phát.
Số này đã phát thì phải sớm, nửa cuối đại vận Nhâm Thìn (23 - 32) gặp Quyền Lộc tuần phùng là đã phát như lôi rồi, khoảng năm 29 tuổi trên cung Sửu là đủ bộ phù trợ để thăng tiến (chậm lắm thì 30 đến Thái Tuế chính danh).
Lên cao nhất có thể đến mức Nhất Phẩm (thậm chí là chức Thừa Tướng) ở đại vận Quý Tị.
Kiếp Không độc thủ thị kỉ phi nhân (cứ cho mình là tài là đúng, cho là người khác trái ý mình là sai cả), hội thêm bầy sát hung tinh + Thái Tuế Đẩu Quân thì ngạo mạn, dễ sinh lòng phản trắc nên sẽ dẫn đến bạo phát bạo tàn, tù tội, nhưng sẽ được cứu thoát.

Sửa bởi Quách Ngọc Bội: 01/05/2019 - 14:46


#128 Expander

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2701 Bài viết:
  • 5883 thanks

Gửi vào 01/05/2019 - 15:38

Xin cám ơn @ QNB đã chia sẻ và cho ví dụ thực tế.

Khi xem số, ngoài chú ý đến cách cục, bộ vị ra thì việc xác định độ số của sao/cách cục là rất quan trọng.

Hy vọng quý vị đọc những kiến thức trên và tự rút ra cho mình nhiều điều có ích!

Sửa bởi Expander0410: 01/05/2019 - 15:40


Thanked by 4 Members:

#129 deephorizon

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 400 Bài viết:
  • 504 thanks

Gửi vào 02/05/2019 - 09:33

Nhắc đến sao kiếp sát thì lại nhớ cô quả. Lý do tại sao? vì kiếp sát an theo tam hợp cục, cô quả an theo tam hội cục. Thấy lý thú là: đặc tính cô quả chỉ phần hồn, kiếp sát ảnh hưởng tới phần xác.
đây lại là một cách xem khác của mệnh hihi

Thanked by 3 Members:

#130 VanNhanTieu

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 71 Bài viết:
  • 63 thanks

Gửi vào 15/05/2019 - 01:57

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

deephorizon, on 02/05/2019 - 09:33, said:

Nhắc đến sao kiếp sát thì lại nhớ cô quả. Lý do tại sao? vì kiếp sát an theo tam hợp cục, cô quả an theo tam hội cục. Thấy lý thú là: đặc tính cô quả chỉ phần hồn, kiếp sát ảnh hưởng tới phần xác.
đây lại là một cách xem khác của mệnh hihi
Kiếp sát vốn là khởi đầu trong phi thiên tam sát . Tam hội của kiếp sát khắc tam hợp thái tuế . Nghĩa là làm việc trái lẽ thì nhân quả chỉ là sớm muộn , nhân đến đâu nhận quả đến đó , sau kiếp sát còn tai sát và tuế sát

Thanked by 2 Members:

#131 deephorizon

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 400 Bài viết:
  • 504 thanks

Gửi vào 15/05/2019 - 07:01

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

VanNhanTieu, on 15/05/2019 - 01:57, said:

Kiếp sát vốn là khởi đầu trong phi thiên tam sát . Tam hội của kiếp sát khắc tam hợp thái tuế . Nghĩa là làm việc trái lẽ thì nhân quả chỉ là sớm muộn , nhân đến đâu nhận quả đến đó , sau kiếp sát còn tai sát và tuế sát
cám ơn anh Vannhan đã comment!
tôi thì tôi luôn tách bạch môn tử vi đẩu số ra khỏi phật học, vì tôi thấy hai môn này có nguồn gốc khác nhau. nhưng tôi không phản đối ai đó bổ sung thuyết nhân quả vào tử vi. Các bài viết của anh Tây đô Đạo sỹ ( đã khuất bóng) rất hay dùng thuyết nhân quả.

Thanked by 3 Members:

#132 Expander

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2701 Bài viết:
  • 5883 thanks

Gửi vào 25/05/2019 - 23:27

Nhân việc topic đang bàn về Kiếp Sát, Tai Sát, Tuế Sát ... xin chia sẻ một chút kiến thức có liên quan.

Tinh diệu của TVĐS chia ra làm 5 loại: chính diệu, hóa diệu, phụ tá cát diệu, sát diệu và tạp diệu (Tính cho cả Trung Châu tam hợp phái).

- Chính diệu gồm có 14 sao: Tử Vi 紫微, Thiên Cơ 天機, Thái Dương 太陽, Vũ Khúc 武曲, Thiên Đồng 天同, Liêm Trinh 廉貞, Thiên Phủ 天府, Thái Âm 太陰, Tham Lang 貪狼, Cự Môn 巨門, Thiên Tướng 天相, Thiên Lương 天梁, Thất Sát 七殺, Phá Quân 破軍.

- Hóa diệu gồm có 4 loại: Hóa Lộc 化禄, Hóa Quyền 化權, Hóa Khoa 化科, Hóa Kị 化忌. Có điều, Tứ Hóa phải dựa vào tinh diệu khác chứ không thể tồn tại độc lập, vì vậy trong thực tế hệ thống sao Tứ Hóa tổng cộng có 39 'sao'.

- Phụ diệu gồm có Tả Phù 左輔, Hữu Bật 右弼, Thiên Khôi 天魁, Thiên Việt 天鉞; Tá diệu gồm có Văn Xương 文昌, Văn Khúc 文曲, Lộc Tồn 禄存, Thiên Mã 天馬.

- Sát diệu gồm có Hỏa Tinh 火星, Linh Tinh 鈴星, Kình Dương 擎羊, Đà La 陀羅, Địa Không 地空, Địa Kiếp 地劫.

- Tạp diệu: Thai Phụ 台輔, Phong Cáo 封誥, Ân Quang 恩光, Thiên Quý 天貴, Tam Thai 三台, Bát Tọa 八座, Long Trì 龙池, Phượng Các 风阁, Thiên Quan 天官, Thiên Phúc 天福, Thiên Thọ 天寿, Thiên Tài 天才, Thiên Hình 天刑, Thiên Không 天空, Tuần Không 旬空, Triệt Không 截空, Thiên Khốc 天哭, Thiên Hư 天虛, Âm Sát 隂煞, Thiên Riêu 天姚, Hồng Loan 紅鸞, Thiên Hỉ 天喜, Hàm Trì 咸池, Giải Thần 解神, Thiên Vu 天巫, Cô Thần 孤辰, Quả Tú 寡宿, Kiếp Sát 阴煞, Thiên Trù 天廚, Hoa Cái 華蓋, Phá Toái 破碎, Phi Liêm 飞廉, Nguyệt Đức 月德, Long Đức 龍德, Thiên Đức 天德, Thiên Nguyệt 天月.

Trong hệ thống tạp diệu có 4 nhóm sao có sức ảnh hướng yếu khác là “Bác sĩ thập nhị thần”, “Tướng Tiền thập nhị thần”, “Tuế Tiền thập nhị thần”, “Trường Sinh thập nhị thần”.

- Trường sinh thập nhị thần 长生十二神: Trường Sinh 长生, Mộc Dục 沐浴, Quan Đới 冠带, Lâm Quan 临官, Đế Vượng 帝旺, Suy 衰, Bệnh 病, Tử 死, Mộ 墓, Tuyệt 绝, Thai 胎, Dưỡng 养.

- Bác sĩ thập nhị thần 博士十二神: Bác Sĩ 博士, Lực Sĩ 力士, Thanh Long 青龙, Tiểu Hao 小耗, Tướng Quân 将軍, Tấu Thư 奏书, Phi Liêm 飞廉, Hỉ Thần 喜神, Bệnh Phù 病符, Đại Hao 大耗, Phục Binh 伏兵, Quan Phủ 官府.

- Tuế tiền thập nhị thần 嵗前十二神: Thái Tuế 太嵗, Hối Khí 晦氣, Tang Môn 孝服, Quán Sách 貫索, Quan Phù 官符, Tiểu Hao 小耗, Tuế Phá 歲破, Long Đức 龍德, Bạch Hổ 白虎, Thiên Đức 天德, Điếu Khách 弔客, Bệnh Phù 病符.

- Tướng tiền thập nhị thần 將前十二神: Tướng Tinh 將星, Phan An 攀鞍, Tuế Dịch 歲驛, Tức Thần 息神, Hoa Cái 華蓋, Kiếp Sát 阴煞, Tai Sát 災煞, Thiên Sát 大煞, Chi Bối 指背, Hàm Trì 咸池, Nguyệt Sát 月煞, Vong Thần 亡神.

Số tinh diệu nhiều như thế khiến cho người mới tìm hiểu khoa Tử Vi Đẩu Số nhức đầu, hoa cả mắt. Nhưng thực ra chỉ cần biết theo thứ tự tiệm tiến, biết được đâu là điều chủ yếu và đâu là điều thứ yếu thì bạn có thể nắm được hệ thống mệnh lý TVĐS một cách tổng thể và tất cả mạch lạc của nó.

Sửa bởi Expander0410: 25/05/2019 - 23:41


#133 Expander

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2701 Bài viết:
  • 5883 thanks

Gửi vào 25/05/2019 - 23:40

LƯU DIỆU

Tử Vi Đẩu Số có hai bộ lưu diệu; một bộ là các lưu diệu phụ, tá, sát, hóa, chủ yếu dùng để luận đoán 12 cung của đại vận hoặc lưu niên; một bộ khác là chuyên dùng để đoán tiểu hạn.

Các lưu điệu phụ, tá, sát, hóa, gổm có: Lưu Khôi, Lưu Việt, Lưu Xương, Lưu Khúc, Lưu Lộc, Lưu Mã, Lưu Tứ Hóa, Lưu Dương, Lưu Đà, ngoài ra còn có Niên Giải của lưu niên.

Ý nghĩa của các lưu diệu này tương đồng với ý nghĩa của bản thân các sao phụ, tá, sát, hóa. Nếu lưu diệu xung khởi các sao phụ, tá, sát, hóa của nguyên cục thì sức mạnh của hai bên sẽ mạnh thêm. Đây là những điểm then chốt khi luận đoán về những biên hóa ở 12 cung của lưu niên hoặc đại vận.

Lưu diệu dùng để luận đoán tiểu hạn thì có ba nhóm là "Bác sĩ Thập nhị thần", "Tướng tiền thập nhị thần", và "Tuế tiền thập nhị thần". Nếu tiểu hạn gặp chúng, dựa vào tính chất của chúng để trọ giúp luận đoán 12 cưng lưu niên.

Dưới đây xin lần lượt trình bày tính chất của ba nhóm lưu diệu này.

1 - Bác Sĩ thập nhị thần

Bác Sĩ chủ về thông minh. Khi hội hợp với các sao phụ, tá ở tiểu hạn, lưu niên, chủ về danh, và tâm trạng tốt.

Lực Sĩ chủ về quyên thế; đồng độ với Hóa Quyền, chủ về quyền lực.

Thanh Long chủ về kiếm được tiền, nhất là kiếm được tiền nhờ hỉ sự.

Tiểu Hao chủ về hao tài, nhất là rơi mất, làm mất.

Tướng Quân chủ về uy, phúc, và đắc ý.

Tấu Thư chủ về tin vui, nhờ chữ nghĩa mà tiến thủ, còn chủ về kiện tụng thắng lợi.

Phi Liêm chủ về tiểu nhân, đào hoa, bị dèm xiểm, còn chủ về mua sắm.

Hỉ Thần chủ về hỉ khánh (chuyện mừng); cũng chủ về kéo dài, hỉ sự liên tiếp.

Bệnh Phù chủ về nạn tai, bệnh tật nhỏ, còn có tính chất thị phi.

Đại Hao chủ về hao tài, phá tán, mất đồ; còn chủ về không giữ được tổ nghiệp. Đại Hao hội hợp với các sao đào hoa là vì sắc mà xảy ra nạn tai.

Phục Binh chủ về ngầm có âm mưu ám hại, cũng chủ về trở ngại kéo dài.

Quan Phủ chủ về phạm pháp kiện tụng, đồng độ với tài tinh, Hóa Kị, chủ về vì tiền mà xảy ra bất hòa, tranh chấp; đồng độ với Thất Sát, Kình Dương còn gặp thêm Bạch Hổ, thì chủ về hình phạt.

2 - Tướng tiền thập nhị thần

Tướng Tinh chủ về võ nghiệp quý hiển, còn chủ về đắc ý. Lưu nhật mà gặp nó thì chủ về thần thái hổ hởi, cũng chủ về được trợ lực trong cạnh tranh. Tướng Tinh là Đinh cấp tinh, có thể hóa hung thành cát, không kỵ các loại sao hung. Thích ở cung Mệnh, Thân, nhập cung Mệnh thì giỏi võ, gặp Tướng Tinh là người có vận thế thịnh vượng, mọi việc đều có tiến triển, có thể phát huy năng lực lãnh đạo, được đánh giá tốt. Cùng với Vũ Khúc tọa thủ cung Quan chủ làm chức quân cảnh. Tọa thủ cung Tài chủ về phá tài, là cung mạnh nhất trong lưu niên.

Phan An lợi về công danh, còn chủ về gần gũi bậc quyền quý, có thế lực. Phan An là Đinh cấp tinh, thích ở cung Mệnh, Thân chủ về giỏi võ, giỏi văn, không sợ gặp các sao hung. Văn nhân hay học sinh gặp sao này có thể được xã hội đánh giá tốt, có tiếng tăm, các kỳ thi đều đỗ đạt, là sao tiểu khoa Lưu niên, có thể hóa giải nguy nan.

Tuế Dịch lợi về di chuyên, ưa đồng độ với Lưu Lộc (Tồn), Lưu Hóa Lộc, là cách "Lộc Mã giao trì". Tuế dịch là Đinh cấp tinh, còn gọi là sao Thiên Mã lưu niên, chủ về di chuyển. Thích ở cung Thân, Mệnh chủ về giỏi võ, nên theo nghiệp võ thì tốt hơn nghiệp văn, không kỵ các sao hung. Gặp sao này thì chủ về các sự việc như: xuất ngoại, du lịch, di chuyển, có tiến triển thuận lợi. Người mà trong cung có nhiều sao cát lợi chủ về xuất ngoại thuận lợi, yên ổn. Người mà trong cung có nhiều sao hung thì vất vả, bôn ba.

Tức Thần chủ về tiêu trầm, thất chí, không ưa đồng độ với sát tinh. Tức thần là Mậu cấp tinh, chủ về nhụt chí, kỵ các sao hung, ưa cát tinh hóa giải. Tọa thủ ở cung Thân, Mệnh, nếu không có sao cát hóa giải thì chủ về không có sinh khí, nhụt chí, không có tinh thần, thiếu khả năng sáng tạo, thần kinh không tốt, khi giao tiếp, trao đổi, thảo luận khó thể phát huy thực lực. Lưu nguyệt, lưu nhật hành vận ở cung vị Tức Thần thì chủ về thiếu tinh thần, nhụt chí.

Hoa Cái chủ về cô độc, cao ngạo nhưng có tài nghệ. Lưu nhật mà gặp nó có thể hóa giải tai ách; cũng chủ về ưa thích đàm kinh luận đạo. Hoa Cái là Đinh cấp tinh, cũng chủ về có tư tưởng xuất thế, thiếu nhiệt tình với cuộc sống hiện thực, nhập cung Mệnh, Thân nên xuất gia, không nên làm người phàm tục. Người gặp sao này thường nhụt chí, tinh thần nhiều phiền muộn, dễ bi quan, cô độc, vất vả, trốn tránh hiện thực. Người còn trẻ gặp sao này luôn cảm thấy u tối, hoặc đau thương, thất vọng, thất tình. Người trung niên gặp sao này luôn thiết nhiệt huyết với công việc, thất vọng, Người già gặp sao này thường xuất gia, chạy trốn hiện thực. Nên chăm chỉ nghiên cứu triết học, nghệ thuật, tôn giáo.

Kiếp Sát chủ về cướp tiền của, không ưa đồng độ với Vũ Khúc, Thất Sát, Hỏa Tinh, Kình Dương, chủ về bị cướp của, hoặc bị tranh đoạt tài vật. Kiếp sát là Mậu cấp tinh, chủ về trộm cắp, thích gặp sao cát hóa giải, kỵ gặp sao hung. Có tiểu nhân hãm hại, dễ gặp chuyện thị phi, làm nhiều hưởng ít, không được như ý, công việc không thuận lợi, có tổn thất về tiền tài, đề phòng mất trộm. Kỵ tọa thủ ở cung Mệnh, Thân, Tài, Quan, Điền.

Tai Sát chủ về tiền của bị tiểu nhân dòm ngó, hoặc vì nạn tai, bệnh tật mà hao tài. Tai sát là Mậu cấp tinh, chủ về tai họa, thích sao tốt hóa giải, kỵ gặp sao xấu. Dễ phát sinh sự cố ngoài ý muốn, nên đề phòng bị lừa tiền của.

Thiên Sát đối với nữ mệnh, bất lợi về cha và chồng; chủ về đi xa hoặc chia li. Nam mệnh chủ về vì cha mà hao tài. Thiên sát là Mậu cấp tinh, thích gặp sao tốt, có thể hóa giải điềm hung, kỵ nhập cung lục thân như Mệnh, Thân, Phụ, Phu. Nếu là mệnh nữ dễ gặp chuyện tranh cãi, đối lập với cha, chồng, người khác giới. Nếu là mệnh nam dễ có xung đột với người khác, thường gặp tai họa bất ngờ.

Chi Bối chủ về phi báng, nói xấu, bêu rêu, thị phi sau lưng. Chi bối là Mậu cấp tinh, kỵ nhập cung Mệnh, Thân. Người gặp sao này nếu không có sát tinh hóa giải dễ bị dị nghị, phỉ bang, hãm hại sau lưng, cả đời gặp nhiều thị phi.

Hàm Trì chủ về đào hoa, hội Đại Hao thi chủ về vì sắc mà phá tài. Hàm trì là Mậu cấp tinh, nhập cung Mệnh, Thân Tài, Phúc thì phần lớn là người háo sắc, khá chú trọng tình dục, thích hư vinh, dễ đổi thay, thích vui chơi. Về mặt tình cảm không thuận lợi, thường vì bạn khác giới mà đau khổ, cãi cọ.

Nguyệt Sát đối với nam mệnh, bất lợi về mẹ và vợ; chủ về đi xa hoặc chia li; nữ mệnh chủ về vì mẹ mà hao tài. Nguyệt sát là Mậu cấp tinh, kỵ nhập cung lục than như Mệnh, Thân, Phụ, Phu, thích gặp các sao tốt, có thể hóa giải điềm hung. Người gặp sao này dễ có chuyện cãi cọ, đối lập với mẹ, vợ, người khác giới, phần lớn là tiểu nhân.

Vong Thẩn chủ về hao tài, gặp sát tình thì chủ về mât đổ. Vong thần là Mậu cấp tinh, chủ về mất của, gặp nhiều tai họa, nhiều việc không thuận lợi, dễ mất của. Gặp sao hung dễ phá sản, tán tận tiền của hoặc do nợ mà bị liên lụy đến công việc, gia đình.

3 - Tuế tiền thập nhị thần

Thái Tuế (Tuế Kiến) ở cung nào sẽ chủ về cát hung của năm đó, ưa có sao cát cùng bay đến, chủ về có nhiều chuyện mừng; có sao hung cùng bay đến thì nhiều họa tai, phải xem các sao ở cung mệnh của lưu niên mà định tính chất cụ thể. Ngũ hành của Thái Tuế thuộc Hỏa, là Đinh cấp tinh, chủ phúc họa thành bại một năm, kỵ tương xung với cung Mệnh ở cung đối diện. Gặp sao này nếu gặp cát là tốt, gặp hung càng them hung họa, gặp nhiều phiền phức.

Hối Khí chủ về sóng gió, trắc trở, u ám; còn chủ về tâm trạng không ổn định. Hối khí là Mậu cấp tinh, chủ về xấu xa, thích gặp sao tốt để hóa giải, kỵ gặp sao xấu. Gặp sao này thì nhiều việc không thuận, tinh thần buồn bực, dễ gặp sự cố, thường vì làm sao mà phiền não. Vận thế không tiến triển. Nếu tọa thủ ở cung Sửu, Mùi nhập miếu, tai họa giảm bớt.

Tang Môn chủ về có tang; gặp các sao sát, kị thì càng đúng. Lưu nhật mà gặp nó thì chủ về có tang. Ngũ hành của Tang Môn thuộc Mộc, là Mậu cấp tinh, chủ tang vong, hiếu phục, phương hại vợ, sợ hãi, thích sao tốt hóa giải. Người gặp sao này thì người nhà, người than hoặc bản than dễ có vấn đề về sức khỏe, gặp nhiều chuyện sinh tử ly biệt hay bất hạnh. Tọa thủ cung Tý, Ngọ thì nhập miếu, tai họa giảm bớt.

Quán Sách chủ về trói buộc, gò bó; gặp các sao sát, kị thì chủ về lao ngục; ở cung tật ách mà gặp thêm các sao sát, kị thì chủ về phải ở trong bệnh viện. Quán sách là Mậu cấp tinh, chủ về hình phạt, tố tụng, kiện tụng, thích sao cát hóa giải, kỵ sao hung, đặc biệt kỵ đồng cung với các sao Cự, Kình, Hình, Liêm, Kỵ, ở cung Sửu Mùi là nhập miếu, tai họa khá nhẹ.

Tiểu Hao chủ về hao tài, chủ về rơi mất, đánh mất. Chi dùng trong lưu nguyệt và lưu nhật. Ngũ hành của Tiều hao thuộc Hỏa, là Mậu cấp tinh, chủ về mất mát nhỏ, thích sao tốt hóa giải, kỵ sao xấu và Địa Kiếp, Địa Không, Triệt Không, Tuần Không. Gặp sao này thì mất mát của cải nhỏ, tang thêm chi tiêu hoặc lãng phí. Tọa thủ ở cung Dần, Ngọ, Tuất, Thân, Tý, Thìn là nhập miếu, tai họa giảm bớt.

Đại Hao chủ về hao tài, có tính chất đào hoa. Cũng chi dùng trong lưu nguyệt và lưu nhật. Đại hao thuộc hỏa, là Mậu cấp tinh, chủ về đại bại, kỵ sao xấu và sao Địa Kiếp, Địa Không, Triệt không, Tuần Không, thích sao tốt hóa giải. Gặp sao này thì bị mất nhiều tiền của. Kỵ nhập cung Mệnh, Thân, Tài, Điền. Tọa thủ cung Dần Ngọ Tuất Thân Tý Thìn thì nhập miếu, tai họa giảm bớt.

Long Đức chủ về phùng hung hóa cát, còn chủ về được thưởng. Long Đức là Đinh cấp tinh, không kỵ sao hung, có thể tránh sát, thích nhập cung Mệnh, Thân, có thể chuyển vận. Gặp sao này thì vận thế thịnh vượng, có thể phát triển.

Bạch Hổ chủ về hung họa; ngại gặp Quan Phù, chủ về bị hình phạt. Ở cung phụ mẫu của lưu niên là hung tang. Ngũ hành của Bạch Hổ thuộc Kim, là Mậu cấp tinh, chủ hình thương, thích gặp sao tốt hóa giải, kỵ gặp sao xấu. Gặp sao này dễ gặp tai họa ngoài ý muốn, lúc thì có bệnh, thương hại, sự nghiệp dễ phá bại, tổn thất tài sản. Tọa thủ ở cung Mão Dậu là nhập miếu, tai họa giảm bớt.

Thiên Đức chủ về hóa giải hung hiểm, đối với hỉ sự là được tăng thêm vinh dự. Thiên Đực là Đinh cấp tinh, hóa hung thành cát, không kỵ gặp sao xấu, có thể tránh sát, là Thần bảo vệ có sực mạnh, dù gặp khốn khó cũng có viện trợ, thích ở cung Mệnh, Thân.

Điếu Khách chủ về điếu tang, hoặc chủ về đi khám bệnh; gặp sao hung thi chủ về có tang. Ngũ hành của Điếu Khách thuộc hỏa, là Mậu cấp tinh, chủ về hiếu phục, sợ hãi, thích gặp sao tốt hóa giải, kỵ gặp sao xấu. Gặp sao này thì gia tộc, người thân sợ là có việc đau buồn hoặc bất hạnh, ở cung Thìn Tuất là nhập miếu, tai họa giảm bớt.

Bệnh Phù chủ về nạn tai, bệnh tật nhỏ, thị phi lặt vặt. Bệnh Phù là Mậu cấp tinh, chủ về tật bệnh, thích sao tốt hóa giải, kỵ gặp sao xấu, Kỵ nhập cung Phúc, Tật. Gặp sao này dễ mắc bệnh, nên chú ý sức khỏe.

Quan Phù chủ về thưa kiện, bị truy tố.

Thanked by 6 Members:

#134 ckem1st

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 149 Bài viết:
  • 87 thanks

Gửi vào 09/09/2020 - 06:48

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Expander, on 23/04/2019 - 00:46, said:

"1. Mã ngộ tam thai anh hùng vô đối."

Trước tiên phải nói rằng câu này nên áp dụng với Mệnh tại Dần và Tỵ, khi đó Thiên Mã chủ công danh, tài lộc. Chỉ chung chung vậy thôi, nhưng sẽ rõ hơn nếu đi cùng một số sao, trong số đó:

- Tam Thai: Sách thiên văn ví sao này như ngôi Tam Công tức ba chức quan lớn nhất triều đình phong kiến xưa gồm Thái Sư, Thái Phó và Thái Bảo.

- Bát Tọa có tượng là xe của vị quan đứng đầu lục tào (Chỉ chung những người làm việc triều đình) ngồi để phân phát hiệu lệnh của thượng cấp.

>> Như vậy thì Thiên Mã đi cùng Tam Thai chỉ công danh hiển đạt đến mức làm quan đầu triều, vậy thì một câu "anh hùng vô đối" cũng chẳng ngoa. Còn Thiên Mã đi cùng Bát Tọa thì có lẽ thấp kém hơn nhiều, chỉ là chân sai vặt cho thượng cấp.

Chú ý rằng, ta đang nói vể Mệnh Người chứ không nói về con Mã. Vậy nên cũng chẳng cần xét đến Mã Linh làm chi.

P/s: Và đương nhiên Mã không bị phá thì mới đảm bảo toàn vẹn ý nghĩa!

... rồi cũng phải hội nhiều sao cát hóa nữa mới tốt!

>> Như vậy thì Thiên Mã đi cùng Tam Thai chỉ công danh hiển đạt đến mức làm quan đầu triều, vậy thì một câu "anh hùng vô đối" cũng chẳng ngoa. Còn Thiên Mã đi cùng Bát Tọa thì có lẽ thấp kém hơn nhiều, chỉ là chân sai vặt cho thượng cấp.

Chào anh cho e hỏi các trường hợp mã đi cùng Tam Thai ở đây là sao a nhỉ. Là Mã đồng cung Tam Thai hay trong tam hợp chiếu?

Và trong trường hợp đồng cung thì như thế nào và trong tam hợp mệnh thì sao anh? và cả bộ Thai tọa trong tam hợp thì sao?

Rất mong nhận được câu trả lời sớm từ anh.

#135 Expander

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2701 Bài viết:
  • 5883 thanks

Gửi vào 09/09/2020 - 10:19

Đa số các câu phú hay cách cục nêu trong sách tử vi thì tính là đồng cung (trừ khi câu phú chỉ rõ là gia, hội, giáp....).

Vậy nên đồng cung (không bị phá) thì tốt nhất. Tam phương tứ chính vẫn có nhưng uy lực kém đi đôi chút.

Để so sánh Thai và Tọa thì như trên. Còn rõ ràng có cả 2 thì tốt hơn 1.

Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |