CHƯƠNG 25: GIẢI VÍ DỤ VẬN DỤNG LINH HOẠT TỨ HÓA PHI TINH
"Tứ Hóa phi tinh" chính là sự kết hợp của 2 từ "Tứ Hóa" và "Phi Tinh", hai cái từ này có ý nghĩa khác biệt, không thể lẫn lộn. Có người cho rằng "Tinh thần rơi vào cung nào thì gọi là Phi Tinh" hoặc "Lưu Niên tinh rơi vào một cung nào thì gọi là Phi Tinh". Những cái đó đều không phải ý nghĩa gốc gác của "Phi Tinh", trước hết chúng ta xem người xưa giải thích về Tứ Hóa phi tinh:
"Cái Dụng ấy, chính là lấy Thể dựa vào làm thành chỗ dùng được; cái Thần ấy, Thần không có phương hướng, khí không có hình thể, sinh hóa biến thiên, cao thâm khó lường, chỉ có thể lấy cái tâm mà hiểu ý. Cho nên cái Tứ Hóa, [mượn Can an Sao, mượn Tượng, phối hợp với Địa Chi, ứng với Thời gian] hoá khí bay qua 12 cung, lấy tượng để hiểu rõ lý, lấy sao để hiểu rõ vật, tốt xấu theo lý, ứng Số thành Cục; điều hành bói toán vận mệnh, thông suốt cả giàu nghèo, thọ yểu, tươi héo, đều là xuất Khí hóa lấy làm Thần vậy, Số biến lấy làm Dụng vậy. "
Vốn là thông qua Thiên Can diễn biến Tứ Hóa, khiến cho bản thân tinh tú chia ra nhiều lần khiến cho phân thân phóng đến các cung vị tương quan. Rồi lại kết hợp cùng các sao tọa thủ ở các cung vị phi xuất đi và cung vị nhập vào để mà biểu lộ hình ảnh của sự vật. Đồng thời phối hợp cùng Địa Chi biểu thị thời gian ứng nghiệm. Cho nên thông qua Thiên Can Tứ Hóa có thể khiến cho tinh tú hóa Khí bay đi trong 12 cung, phối hợp Tượng mà cung vị đại biểu cùng với sự kết hợp tinh tú đưa ra biểu hiện hình ảnh của sự vật. Cho nên không thể chỉ dựa vào một tinh tú tại cung nào đó bị nhập vào để luận cát hung. Hiện tượng cát hoặc hung, nhất định phải lấy "Tứ Hóa" phi độn diễn biến "tính chất sao" khiến cho lộ tượng hiện hình.
Phối hợp hai cái "Tứ Hóa" và "Phi Tinh" mới có thể suy đoán được cát hung của vận trình. Cho nên không thể bỏ qua "Tứ Hóa" và "Phi Tinh", nếu không thì sẽ không có cách nào xem vận. Vì thế mới nói "Tứ Hóa chính là Dụng Thần của Đẩu Số". Phi tinh lấy lý số để dẫn đường, dùng Tứ Hóa liên kết thông suốt mà có quy luật nhất định. Cho nên có quy tắc mới có thể bám theo sợi dây để biết được tương lai, không cần phải dựa vào pháp thuật dùng vong linh quỷ hồn mật báo tin tức.
Đến bước này, chúng ta đã sáng tỏ công dụng của Tứ Hóa, chúng dựa vào Thiên can diễn Tứ Hóa dùng Phi tinh, lấy sự kết hợp của tính chất sao và cung vị để biểu thị "Hình tượng Sự Vật" và phối hợp Địa Chi để suy tính ra thời gian ứng nghiệm "Hình tượng Sự Vật" đó một khi nó tới. Mối quan hệ giữa "Thời Gian, Không Gian, Sự Kiện" tạo thuận lợi xâu chuỗi dẫn đến có thể suy tính ở trong một Không Gian nào đó vào Thời Gian nào đó sẽ phát sinh chuyện gì. Như vậy, liền có 5 yếu tố "Người, Việc, Lúc, Nơi, Vật" có thể đem sự kiện định nghĩa được kỹ lưỡng hơn mà không phải là mập mờ như câu nói "Cả đời cẩn thận tai nạn xe cộ".
Chúng ta đều đã rõ các "Tinh Thần (Sao)" ở trong "Vũ Trụ", đều có sự vật đối ứng với nó. Những sự vật này ta có thể chia làm:
Thứ nhất, mặt vật lý: Vật chất thực thể, sự tình hoặc hoàn cảnh;
Thứ hai, mặt tâm lý: Không gian vô hình, trong tâm có thể cảm nhận được cảnh giới hư vô, hoặc có thể nói là về vấn đề trong cõi lòng;
Hai cái đó hỗ trợ lẫn nhau, ví dụ như:
Không phải là loại sao nào tọa ở cung Mệnh thì cũng đều đại biểu tâm tính cả đời, mà là phối hợp hoàn cảnh sinh trưởng và vận trình Đại Hạn biến đổi thì tâm tính cũng sẽ tùy theo đó mà thay đổi. Nếu hiểu rõ lý lẽ của tinh tú, ứng dụng vào mặt tâm lý thì có thể dùng cách dựa vào tính chất sao mà bổ túc sự biến hóa cá tính khí chất, khi chất biến đổi tác động đến cơ hội, sửa đổi vận trình, cho nên Tử Vi mệnh lý là một loại mệnh lý học của "Thuật - Đức kiêm tu" (QNB chú: gồm đủ cả về Phương pháp kỹ thuật & Đạo đức phẩm hạnh).
Trước khi bước vào chương này nói về việc vận dụng linh hoạt Tứ Hóa Phi Tinh, cần phải lý giải về: Mối quan hệ giữa Thiên Can Tứ Hóa, Địa Chi, bản tính các sao và Ý tượng, thì mới có thể giải thích vấn đề diễn biến hiển tượng của các sao trong mệnh bàn.
Thứ nhất, giải thích quy tắc lý lẽ Tứ Hóa tới cung:
Lá số bày ra có cả thảy 12 cung, có sự khác biệt về tính chất âm dương của các cung:
Cung Dương: Mệnh, Phu Thê, Tài Bạch, Thiên Di, Quan Lộc, Phúc Đức.
Cung Âm: Huynh Đệ, Tử Tức, Tật Ách, Nô Bộc, Điền Trạch, Phụ Mẫu.
6 cung Dương chủ Quý, 6 cung Âm chủ Phú, do đó 6 cung Dương mà có kết cấu cát lợi đều thuộc vào Quý cách, mà 6 cung Âm có kết cấu tốt thì ắt là mệnh giàu có.
1, Cung Mệnh: Đại biểu cho sự cao thấp về mệnh cách của 1 cá nhân.
Lấy Can cung Mệnh gốc phi Tứ Hóa, mà Lộc, Quyền, Khoa nhập vào Tam phương của cung Mệnh gốc thì là Quý cách, chủ tự lực cánh sinh. Nếu rơi vào đối cung của Tam phương (Phu Thê, Thiên Di, Phúc Đức) là chiếu Mệnh, cũng là Quý cách, có thể có được sự trợ giúp của người khác mà thành công.
Hóa Kị nhập Tam phương của cung Mệnh gốc, là tọa Kị, hung lực tương đối kém, thành công nhiều trở ngại, nhất định phải dựa vào sự chăm chỉ trong công tác, làm việc đến nơi đến chốn mà thành công, cũng tức là không có vận khí hoạnh phát của cải.
Nếu Hóa Kị xung Tam hợp, thì cuộc đời tương đối thất thế, trong tốt có xấu, thành bại bất định. Cho nên Kị xung Tam hợp thì nên đi làm, lĩnh lương hàng tháng. Nếu không cam phận, tự lập gây dựng sự nghiệp, hơn phân nửa là thần tài qua cửa, nếu có thành công quá trình tràn ngập gian khổ, gặp lúc vận đồ suy bại thì thất bại cũng cấp tốc mà mãnh liệt.
2, Cung Tài Bạch: Đại biểu cho năng lực kiếm tiền; hoặc kiếm được tiền qua nghề gì.
Phàm là cung Tài Bạch hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa nhập vào Tam phương của cung Mệnh gốc, biểu thị có năng lực đủ tự lập mưu sinh, sẵn có năng lực ưu tú về quản lý tài sản, cho nên tương đối dễ làm giàu.
Nếu chiếu Tam hợp của Mệnh gốc, cũng là cách tự lập, chẳng qua người có dạng chiếu Tam phương khéo ở chỗ vận dụng thành công sự trợ lực từ xung quanh; còn người có dạng nhập Tam hợp, là thông qua nỗ lực của bản thân mà thành công, hai dạng có chút khác nhau.
Hóa Kị không nên xung Tam hợp của Mệnh gốc, có xung thì hung, thích hợp đi làm, không thích hợp gây dựng sự nghiệp, rơi vào Tam hợp của Mệnh gốc thì cát lợi, đối với cách vận dụng tiền bạc hoặc đầu tư tương đối cẩn thận hoặc tiết kiệm.
3, Cung Quan Lộc: Đại biểu cho sự nghiệp, vận đồ, còn gọi là cung học nghiệp.
Lộc, Quyền, Khoa nhập Tam hợp của Mệnh gốc là cách độc lập tự chủ, lý tưởng cao xa, có cơ hội thành công. Cát lực của nhập Tam hợp trội hơn so với chiếu Tam hợp, chủ sự nghiệp thuận lợi, cũng có nhiều phương diện phát triển, thành tựu lớn.
Chiếu Tam hợp biểu thị hoàn cảnh bên ngoài tốt, thời cơ đối với ta có lợi nhưng mình có năng lực nắm bắt hay không, hoặc có ý nguyện tự mình tham dự hay không, thường thường bị quản chế bởi tại các nhân tố khác của bản thân. Ví dụ như: có người rất được thượng cấp trọng dụng, nhưng khi sắp xếp chức vụ thì tính chất công việc lại không được như anh ta mong muốn, mặc dù trong mắt người khác anh ta rất may mắn, nhưng tâm tình của đương sự có chỗ khổ khó nói, hoặc ý nguyện bản thân không như vậy.
Hóa Kị thích hợp nhập vào Tam hợp, biểu lộ trong lòng vô cùng quan tâm đến tiền tài, sự nghiệp. Nếu hành vận cát lợi thì có cơ hội thành công nhưng khá chật vật, trong quá trình khá nhiều trở ngại nhưng đều không ảnh hưởng tới thành tựu.
Nếu Hóa Kị xung Tam hợp, nhất định bất lợi ở trong sự nghiệp, công việc nhiều biến động, kẻ đi làm hay thay đổi đổi công việc, hoặc hoàn cảnh công tác tương đối kém, hoặc không hứng thú nhưng lại phải tiếp nhận cái công việc ấy. Cũng có dấu hiệu khó thăng chức, bởi vậy nên giữ thái độ thận trọng, khi vận đồ chuyển sang tốt thì mới thực hiện kế hoạch.
4, Cung Lục thân: Mệnh, Huynh Đệ, Phu Thê, Tử Tức, Nô, Phụ Mẫu là các cung lục thân.
Phàm cung lục thân hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa nhập hoặc chiếu Tam hợp của Mệnh gốc, chính là chủ có tình nghĩa, ăn ở hòa thuận.
Hóa Kị không nên tới Xung, nếu Hóa Kị tới xung thì vô duyên với lục thân (được chủ bởi cung đó), ngăn cách sâu rộng, ý kiến không hợp, tư tưởng bất đồng, thường sinh cãi vã.
Nếu phi hóa kỵ nhập Tam hợp của mệnh, thì hung lực tương đối kém, đại biểu quan tâm lục thân nhưng bởi vì nguyên nhân không có cách nào biểu thị tâm ý bằng vật chất, chỉ có quan tâm tinh thần mà thôi.
5, Cung Phúc Đức: Đại biểu cho năng lực hưởng thụ, có thể gọi là cung vận lúc về già, lại cũng có thể nói là cung tổ tiên ông bà. Bình thường khi luận mệnh thì dùng làm cung hưởng thụ của bản thân, có thể quan sát một cá nhân có thể hưởng phúc hay không. Có vài người rất nhiều tiền nhưng bận rộn công tác chẳng được hưởng thụ, lại cũng có người chẳng giàu có gì nhưng rất thỏa mãn mà sống vui vẻ hạnh phúc. Sự khác biệt giữa hai kiểu người ấy, chính là ở tại cung Phúc Đức.
Tam hóa cát tinh của (can) cung Phúc Đức nhập Tam hợp của Mệnh gốc, chủ vận về già tốt đẹp, có thể hưởng phúc, bản thân có thể được bề trên che chở, cũng tương đối có phúc để hưởng hoặc tương đối có thể hưởng phúc. Tam hợp chiếu cũng chủ người có thể hưởng phúc.
Hóa Kị (của can cung Phúc) nhập Tam phương của Mệnh gốc, không hề hung, chủ về muốn hưởng phúc nhất định phải nỗ lực làm việc, kiếm tiền để tiêu xài, là thuộc dạng người lao lực thân thể nhưng tinh thần tương đối đơn giản, không ôm đồm.
Nếu xung Tam phương, thì nhất định là không có phúc để hưởng, hoặc là người không có tiền để hưởng phúc. Cảnh già cô độc, phải tự chăm sóc chính mình, tốt nhất là dựa vào tôn giáo sớm một chút, cầu tâm linh siêu thoát khỏi ràng buộc của thế tục, để tránh gặp lại sát tinh xung kích, thấy cũng không phát động (sát tính).
6, Cung Điền Trạch: chủ nắm vận nhà, còn gọi là cung bất động sản.
Kiếm tiền đem về nhà cất giữ, cho nên còn gọi là Tài Khố (kho tiền). Nếu cung Điền Trạch bị phá thì kho của cải bị nứt thủng, chuột liền tới trộm mất của, dẫu cung Tài Bạch tốt cũng không cách nào cất giữ được, cái ông Thần Tài chỉ cho mượn tiền để ngắm chút mà thôi. Cho nên, cung Điền Trạch là cung vị vô cùng trọng yếu.
Cung Điền Trạch không nên có sao Hóa Kị tới xung, xung thì kho bị phá, rò rỉ mất tiền mãi không ngưng.
Tam hóa cát tinh của cung Điền Trạch nhập Tam hợp của Mệnh gốc, thì gia vận sẽ được cát tường, giữ được tiền tài.
Phi Kị của cung Điền Trạch hóa ra không được xung Tam hợp của Mệnh, nếu không sẽ dễ bất ngờ gặp phải chuyện ngoài ý muốn, hoặc điền trạch có biến động.
7, Cung Tật Ách: chính là cung thân thể, còn được gọi là cung tướng mạo, chủ về tình hình sức khỏe.
Tứ hóa tinh của cung Tật Ách nhập tam phương của Mệnh gốc thì khá cát tường.
Sao Hóa Kị không được xung Tam hợp của Mệnh gốc, có xung thì thân thể gặp nạn, dùng tiền để chữa bệnh hoặc bởi vì tật bệnh mà chểnh mảng về công việc sự nghiệp, khiến tình trạng kinh doanh không tốt.
Người già kiêng bị Lộc, Kị của cung Tật Ách xung cung Mệnh gốc hoặc xung cung Tật Ách gốc, nếu không thì sẽ hung hiểm, bởi vì Hóa Lộc có nghĩa là "Nhiều", dễ có các loại bệnh trạng như phát sinh các tổ chức dị thường hoặc chứng cao huyết áp. Cho nên cung Tật Ách người lớn tuổi không thích thấy hóa lộc hoặc bị hóa kị tới xung chiếu, phi hóa kỵ nhập Tật Ách cũng luận như vậy.
Thứ hai, hàm nghĩa của các Hóa tinh theo 10 Thiên can.
1, Can Giáp:
Liêm Trinh hóa Lộc: Thăng chức, tốt cho chuyện kinh doanh đồ điện khí, ở tại các nơi Tứ Mã địa, tốt cho buôn bán xuất khẩu, thích hợp nhân viên công vụ.
Phá Quân hóa Quyền: Vận xuất ngoại mạnh mẽ, có hiện tượng hoạnh phát, giữa vợ chồng bạn bè có nhiều tranh chấp, con cái không nghe lời, rất có chủ kiến, thành tựu cũng không kém, nhưng tính phản trắc lớn.
Vũ Khúc hóa Khoa: Đi làm công việc ổn định trong giới tài chính ngân hàng; thông thường tài vụ cũng không tệ lắm, không có cảm giác giật gấu vá vai.
Thái Dương hóa Kị: Bất lợi cho lục thân là nam giới, mắt, đầu dễ có tật đau nhức, mất ngủ, nôn nóng, cùng Thiên Hình đồng cung dễ có tai họa quan tụng, lao ngục. Người chưa lập gia đình thì dễ thất tình, dù là Dịch Mã động nhưng xuất ngoại không được thuận. Người sinh ban đêm càng bất lợi, bất kể đối với mình hoặc chồng, con trai, đều có khiếm khuyết ở trên người hoặc phát sinh tình huống bất lợi.
2, Can Ất:
Thiên Cơ hóa Lộc: Anh em giỏi, giỏi kỹ thuật, tiền bạc ổn định, đa phần không thuộc về dạng hoạnh tài, nhiều kế hoạch dễ thành công. Lấy trí tuệ để sinh tài. Sắm thêm đồ cơ khí.
Thiên Lương hóa Quyền: Khăng khăng cố chấp, thích hợp với Quan toà, luật sư, nhân viên điều tra, bác sĩ / thầy thuốc, nhân viên chính phủ làm quan thanh hiển, có thành tựu, có được nhân duyên.
Tử Vi hóa Khoa: trọng thể diện, có quý nhân bồi dưỡng, không hội cát tinh, một trong Tứ Sát đồng cung, thì dễ gặp khó khăn, mọi việc dây dưa mãi.
Thái Âm hóa Kị: Bất lợi cho lục thân là nữ giới, người chưa lập gia đình thì dễ thất tình, gia vận có biến, chú ý bị thương ở đầu và con mắt, đặc biệt người sinh vào đầu tháng, cuối tháng, ban ngày cực kỳ bất lợi, đối với vợ, con gái cũng sẽ có xảy ra sự tình bất lợi, nhưng không có cách nào để rõ ràng xem là bất lợi việc gì.
3, Can Bính:
Thiên Đồng hóa Lộc: Nghề phục vụ, nghề nhà hàng ăn uống tốt đẹp, không làm nhiều mà được thu hoạch, làm nhân viên công vụ cũng tốt đẹp.
Thiên Cơ hóa Quyền: Có biến động dễ lên chức, chủ động, cơ trí, sự nghiệp nhiều thay đổi, tăng cường lực thực hành.
Văn Xương hóa Khoa: Đi vào giới văn nghệ phát triển năng lực mà thành danh, văn chương lừng danh, có lợi trong việc đọc sách thi cử cho học tập.
Liêm Trinh hóa Kị: Quan tụng thị phi, bệnh hoa liễu, viêm nhiễm máu mủ, tranh chấp do chuyện đào hoa, cùng Thất Sát Kình Dương đồng cung ở cung Thiên Di xung cung Mệnh sẽ phát sinh tai nạn xe cộ, thêm sao Hóa Kị lại thêm ứng nghiệm.
4, Can Đinh:
Thái Âm hóa Lộc: Nữ giới tốt về tài lộc, vận điền trạch tốt đẹp, có lợi ở trong buôn bán bất động sản hoặc vật phẩm chuyên dụng cho phái nữ.
Thiên Đồng hóa Quyền: Đem sự lười nhác của Thiên Đồng chuyển hóa thành tích cực, thích hợp các nghề nghiệp phục vụ, ăn uống, quần áo trang sức, hùn vốn chung cũng hợp.
Thiên Cơ hóa Khoa: được tài chính bình ổn chứ không nhiều, quan hệ bạn bè không tệ, khó xảy ra chuyện tranh chấp tài chính với bạn bè.
Cự Môn hóa Kị: Nhiều khẩu thiệt thị phi, ngôn từ không thích đáng dẫn đến họa, biểu đạt không tốt, coi chừng âm miếu, bùa chú, mất trộm. Từng có bằng hữu đã nói một câu "Ngươi cẩn thận cho ta một chút!" kết quả chọc quan tòa, tội danh là đe dọa. Kỳ thực chỉ là nói gắt gỏng một chút mà thôi, trên mệnh bàn của anh ta thì có Cự Môn hóa Kị, mà lại đúng lúc vận đồ đi tới vị trí sao này. Bạn nào có sao này, tốt nhất là nên thận trọng mồm miệng.
5, Can Mậu:
Tham Lang hóa Lộc: Có nhậu nhẹt; kiếm tiền tốt từ nghệ thuật; cùng Vũ Khúc hội hợp thì hoạnh phát của cải; nhân duyên tốt, nữ tính rất thích cũng rất giỏi làm nũng.
Thái Âm hóa Quyền: Nữ giới có năng lực mạnh hơn đàn ông, nam nhân động tác phái nữ như nam giới cá tính lại mạnh, có lợi tại bất động sản hoặc gia vận.
Hữu Bật hóa Khoa: Nhiều quý nhân, chú ý tình cảm phức tạp, có lòng cầu tiến có được danh lợi.
Thiên Cơ hóa Kị: Bất lợi cho người thân ngang hàng thuộc phái nam, bị thương ở tay chân, để tâm vào chuyện vụn vặt luẩn quẩn trong lòng, xe cộ hoặc máy móc đè bị thương, có sao Hóa Kị loại này đại đa số sẽ bị tình trạng tay chân lưu lại dấu vết.
6, Can Kỷ:
Vũ Khúc hóa Lộc: gặp bộ Vũ Tham hội hợp thì giỏi buôn bán; chủ hoạnh phát, năng lực quản lý tài sản mạnh, giỏi tích lũy.
Tham Lang hóa Quyền: Lòng hiếu thắng mạnh, cá tính gấp gáp, thực dụng, tính ghen tuông mạnh, không giỏi lập kế hoạch, dũng cảm xung phong phá trận.
Thiên Lương hóa Khoa: Lợi cho thi cử, nghành y, công chức, bình ổn mà thăng tiến.
Văn Khúc hóa Kị: Tranh chấp giấy tờ, có đánh bạc ắt thua, bất lợi cho sự nghiệp, thần kinh có bệnh, tai nạn xe cộ, cẩn thận trong việc nhận khế ước, chi phiếu, công văn trao tay bởi vì thủ tục không được đầy đủ mà khơi dậy mầm mống tai vạ.
7, Can Canh:
Thái Dương hóa Lộc: Có tiền từ bôn ba bận rộn nhưng chưa chắc có thể giữ được bởi vì nguyên nhân phóng khoáng hào sảng; nữ mệnh có cốt cách rất nam nhi, chưa chắc lớn lên ngoại hình xinh đẹp, nhưng có thể tìm được người chồng tốt, so với nữ mệnh có Thái Dương hóa Kị thì tốt hơn rất nhiều, cung Tử Tức cũng luận như vậy.
Vũ Khúc hóa Quyền: sử dụng tiền tài linh hoạt, chủ nắm đại quyền về tài chính, nhưng không nhất thiết là tiền của chính mình, có thể là quản lý ngân hàng hoặc quản lý công ty tài chính. Cùng Văn Khúc đồng cung, văn võ toàn tài, nhưng cô độc, kết hôn tương đối muộn.
Thái Âm hóa Khoa: Nổi danh trong giới nghệ thuật, gia vận bình ổn hài hòa, chú ý bị thương bởi dao kéo, nếu dùng dao kéo thì dễ có dấu hiệu đổ máu.
Thiên Đồng hóa Kị: Giữ được tiền tài mà không tốn sức, có nốt ruồi kín, đau đầu, ngực có khí ứ đọng không tiêu tan, hậm hực bất đắc chí, có điều khó nói.
8, Can Tân:
Cự Môn hóa Lộc: Khéo miệng để kiếm tiền, nhiều tiền nhiều thị phi, khả năng ăn nói giỏi, phản ứng mạnh mẽ, có sức thuyết phục, ưa gặp Thái Dương vượng địa hoặc Lộc Tồn tới chế hóa tính thị phi, chủ phúc hậu, thích hợp lấy miệng làm chủ trong hành động.
Thái Dương hóa Quyền: sao chủ quan lộc hóa Quyền thì chủ vất vả cực nhọc càng tăng sự tài giỏi, bôn ba, lao lực, dịch mã động mạnh thì có cơ hội xuất ngoại du lịch, ở cung Ngọ bất lợi, dễ bảo thủ, tính chủ quan quá mạnh, có cát tinh giúp đỡ thì cát lợi.
Văn Khúc hóa khoa: Thích hợp hướng phát triển trong giới văn nghệ, nhưng thiên hướng ở tại Ngũ thuật (QNB chú: tức Mệnh, Tướng, Bốc, Y, Sơn), nghệ thuật thuộc loại bàng môn tà đạo, học sinh lợi cho thi cử, học tập chuyên tâm.
Văn Xương hóa Kị: phải cẩn thận kẻo Lôi thôi về giấy tờ, ký hợp đồng, thư xác nhận, thư bảo đảm, dễ nhận ngân phiếu khống, học sinh học tập không được chuyên tâm, việc học hành kém, gián đoạn; ở tại Tật ách, huyết quản có tật, Văn Khúc hóa kị cũng như vậy.
9, Can Nhâm:
Thiên Lương hóa Lộc: Thông minh, nhân duyên tốt, được sự che chở của bậc trưởng bối, ở tại Tài Bạch kiếm tiền từ việc đầu cơ, không làm mà có tiền, thu nhận tiền biếu tặng dễ sinh chuyện.
Tử Vi hóa Quyền: Chủ quan chức, tự cho mình là đúng, bảo thủ, ưa gặp cát tinh phụ tá, chủ đại phú đại quý, được người khác tôn sùng, nắm quyền thế, có uy.
Tả Phụ hóa Khoa: Chủ công danh, danh lợi song thu, có lòng cầu tiến, dễ có chuyện phức tạp trong tình cảm.
Vũ Khúc hóa Kị: Bất lợi cho tiền tài, quay vòng khó khăn, cùng Thiên Hình đồng cung, vì tiền tài mà phạm pháp; cùng Kình Dương đồng cung, vì tiền tài mà động đao kiếm, nếu cùng Thất Sát đồng cung lại thêm ứng nghiệm, cũng có thể ám chỉ thân thể gặp phải hình thương.
10, Can Quý:
Phá Quân hóa lộc: Tiền do cầm cố, vay mượn, không phải là tiền của mình, thịnh vượng trong buôn bán, ở cung phu thê chủ gương vỡ lại lành. Lợi cho người làm nghề vận tải, đi thuyền, buôn bán.
Cự Môn hóa Quyền: Ăn nói sắc bén, năng lực ngôn ngữ tốt, lời nói có uy, năng lực thuyết phục tốt, quan chức dễ lên chức nhưng phòng khẩu thiệt thị phi, tốt nhất cho: Nhân viên nghiệp vụ, hành chính, giáo viên.
Thái Âm hóa Khoa: Chủ đào hoa, bởi vì đào hoa mà sinh họa, loại đào hoa này là do khác giới chủ động, những cái khác cũng giống như can Canh Thái Âm hóa khoa.
Tham Lang hóa Kị: Bởi vì tình dục mà gây rủi ro, hoặc khiến cho dính dáng đến kiện tụng, chú ý: Sắc dục, ăn uống và các phương diện ham muốn khác, để tránh thân thể khỏi bị hao tổn hoặc rủi ro dẫn đến kiện tụng. Xuất hiện rất nhiều loại hiện tượng có tiên nhân múa hát, tắm giặt, tình dục, giết chóc,… nhưng đều là tình cảm bất chính, quan hệ không dứt ra được, thích hợp: buôn bán thiên môn, buôn bán tiền mặt.
Ở trên là những giải thích đơn giản về ý tượng 10 can Hóa tinh, nhất định phải cùng tham khảo cân nhắc cùng với những kị tinh, sát tinh khác ở trong cung để giải thích. Thế nhưng bởi vì hiệu lực của Hóa tinh tương đối mạnh, sao mà khi chưa hóa thì ảnh hưởng tương đối không rõ ràng. Còn như ứng dụng với Đại Hạn, Lưu Niên cũng có thể phỏng theo đó để mà giải thích.
Thứ ba, giải thích nguyên tắc sử dụng Tứ Hóa của Đại Hạn:
Căn cứ vào thuyết Thiên Địa Nhân: tại Thiên gieo tượng, tại Địa thành hình, tại Nhân thành sự. Đó là 3 bước trong quá trình luận mệnh, tại Thiên Bàn chỉ có thể thấy 1 hình ảnh mờ nhạt mà thôi, giống như trứng vừa mới thụ tinh, đã có bắt đầu sinh mệnh, qua quá trình mang thai của cơ thể mẹ mà từ từ thành hình (tại Địa thành hình), càng ngày càng có năng lực độc lập sinh tồn, qua kỳ mang thai, cất tiếng khóc chào đời, hiện nên một cơ thể, sinh mạng sống rõ ràng (tại Nhân thành sự).
Sự hình thành của một sự kiện, dùng Tử Vi Đẩu Số để suy tính cũng chọn dùng phương pháp suy luận 3 bước ấy. Nếu suy tính "Sự kiện" trong Lưu Niên thì lá số Gốc chính là "Thiên Bàn", lá số Đại Hạn chính là "Địa Bàn", lá số Lưu Niên chính là "Nhân Bàn".
Cũng tức là 1 sự kiện trong Lưu Niên, có gieo tượng ở trong lá số Gốc, thành hình ở trong lá số Đại Hạn và hiện thành sự kiện ở tại lá số Lưu Niên. Theo đó để thấy, suy tính lá số Lưu Niên, Đại Hạn là một khâu vô cùng trọng yếu, nó phụ trách sự thai nghén tượng của "Thiên Bàn", sau đó giáng sinh ở trên "Nhân Bàn".
Vì vậy, suy tính vận Lưu Niên, lá số Lưu Niên chỉ là tiếp nhận cái "Thai nhi" đã thai nghén thành hình ở lá số Đại Hạn mà thôi. Cho nên ứng vận Lưu Niên từ Thiên can Tứ Hóa của lá số Đại Hạn để suy luận, lại cùng phối hợp với tượng của lá số Gốc, xâu chuỗi mạch lạc 3 mắt xích với nhau mới có thể Gieo Tượng, Thành Hình, Thành Sự. Mới có thể trách khỏi việc suy lý không chính xác, thiếu điều kiện phối hợp của đại hạn, sự kiện liền không cách nào thành hình.
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Cho nên nói "Thiên Địa Nhân" ở trong Đẩu Số chính là một loại trình tự suy luận 3 bước, và trong quá trình suy luận này có liên quan tới nhân tố môi trường xung quanh, chứ chẳng phải là kể thần giảng quỷ về hiện tượng Thiên Địa Nhân thần bí cao siêu; Nếu như các vị có đọc qua các thư tịch cùng loại, tin rằng sẽ lý giải cách cổ nhân dùng từ, giấu diếm rất nhiều huyền cơ. Người không hiểu thì lấy trò "giả thần lộng quỷ" để giải thích, lừa dối phương hướng, đem mệnh lý học chính tông và tôn giáo hoặc hiện tượng pháp thuật thần quái kết hợp, dẫn đến nghiên cứu lạc lối.