Jump to content

Advertisements




Mùng 3 tháng 3 - Lạc Việt căn tổ tế tự đại điển


59 replies to this topic

#46 NNLTT

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 563 Bài viết:
  • 215 thanks

Gửi vào 04/06/2018 - 22:46

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vô Danh Thiên Địa, on 04/06/2018 - 22:05, said:



Mấy cái gạch đích này vứt đi không thể dùng để làm tiêu chuẩn để xét lịch sử được đâu ông à. Nên nhìn dưới con mắt của Chính trị và Xã hội học. Thời xưa thì ông nhân dân nào thành công rồi thì cũng thành TẬP ĐOÀN CHÍNH TRỊ PHONG KIẾN và nếu có ông nhân dân khác lại khơỉ nghĩa chống lại ông nhân dân đi trước nay là đại diện cho TẬP ĐOÀN CHÍNH TRỊ PHONG KIẾN thì đó MỚI LÀ CUỘC KHỞI NGHĨA CHÂN CHÍNH . Luẩn quẩn vậy đó .
Tôi đọc cũng hơi nhức mắt phải tắt máy tính để đi ngủ ngay buổi hôm ấy.Nay lại thấy đâu ra Nguyễn Ánh kỳ tài thiên hạ số một không hai đời sau tán thán ghê quá,nào tài năng nào đức độ, nào nhân nghĩa.Xứng đáng lập đền thờ hương khói vạn năm.
Nghe thực lấy làm chướng.Nên dẫn luôn cho cả hai mặt Đằng Âm và Đằng Dương để cho được tỏ tường Công Tội.Không có thiên hạ lại đi lập cái đền thờ Nguyễn Ánh thì nguy,thế thì còn ra cái thể thống gì...Nói vậy chứ thiên hạ nó cũng biết cả đấy nên mới chẳng thờ.
Rồi lại còn "mở mang" bờ cõi không tốn xương máu,... thổ ra những câu tanh tưởi đến như vậy... Mà lại vỗ tay khen rằng là hay.Ngậm máu phun hết cả lên sách vở cha ông cũng học đòi thi thư lễ nghĩa????


#47 NNLTT

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 563 Bài viết:
  • 215 thanks

Gửi vào 04/06/2018 - 23:36

Thời xưa học hành, viết lách khá cẩn trọng.Đều phải học qua :Nho, Lão, Phật.Làm tôn chỉ.
Nho giáo thì đề cao: Nhân, Nghĩa, lễ, trí, tín.
Lão giáo đề cao Vô Vi: không Cầu,không tranh,không đoạt,không chấp.
Phật giáo đề cao: Từ , bi, hỷ, xả.
Người xưa đã đặt bút xuống chỉ những sợ phí giấy tốn mực viết xong còn nhờ người khác đọc sửa chỗ sai, thiếu,rồi đem tặng cho những người có học hành gọi làm quà quý.Đâu như bây giờ gõ phím xoành xoạch rồi thi nhau bẻ cong chữ nghĩa cho sai mãi đi.Rồi lại còn hò nhau kêu rằng muốn học hỏi nọ kia... Nhố nhố nhăng nhăng,vớ va vớ vẩn.
Sở học chỉ xoay quanh: Ăn Cắp, Ăn trộm và Ăn cướp.Như vậy thì thứ gì chẳng dễ dàng nói gì đến tri thức,cần gì phải động não suy nghĩ tự đặt ra câu hỏi đúng sai, phải trái, trắng đen và đi tìm câu trả lời?.

Thanked by 1 Member:

#48 NNLTT

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 563 Bài viết:
  • 215 thanks

Gửi vào 05/06/2018 - 00:22

Ồ tôi mới đi lòng vòng trên mạng thấy cũng có cái đền thờ đấy nên phải đính chính kẻo lại OAN CHO NGƯỜI CÓ TÀI.Nhìn cũng khang trang đấy chứ nhỉ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


À nhưng mà thằng cha nhà báo thật sỏ xiên, đểu cáng nó dám ghi là :"ngày đêm hương khói".Ngày đêm mà chụp cái ảnh có dăm ba nén hương lấy lệ(chắc nó cắm vào để tạo bối cảnh)Dân mê tín ra chỉ lấy nước suối về chữa bệnh ... Nhưng cúng lại có mấy thanh kẹo quế.Thế thì sót ruột lắm.Mà tại sao lại là dân mê tín, rồi dân ra chụp ảnh seofie?? Lếu láo thật.
Ngó xuống Ông Nguyễn Trung Trực sinh sau đẻ muộn, chẳng vua cũng chẳng phải chúa bát hương... Ố sao cái bát hương to thế nhỉ...Anh /Chị nào tinh mắt nhìn hộ tôi cái.
ĐƯỢC CHƯA MẤY ANH CHỊ GIÁO SƯ SỬ HỌC.TÔI BẤT BÌNH HỘ RỒI ĐẤY NHÉ!!!.


#49 Vô Danh Thiên Địa

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3526 Bài viết:
  • 5104 thanks

Gửi vào 05/06/2018 - 02:53

Nhắc chuyện ông Nguyễn Trung Trực thì tôi nhớ dân Phú Quốc kể câu chuyện rất thương tâm về vợ chông và đứa con mớí sanh của ông cũng như lời nguyền không ai có thể mang tài sản ra khỏi đảo PQ được. Chuyện này chẳng thấy ghi trong sách sử có lẻ nó quá xấu hổ cho dân bản xứ để ghi nó vào sử sách chăng hay là lời đồn không chứng cứ? Nghe mà chua xót thay cho một vị anh hùng.

Sửa bởi Vô Danh Thiên Địa: 05/06/2018 - 02:55


Thanked by 2 Members:

#50 CaspianPrince

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1404 Bài viết:
  • 1902 thanks
  • LocationCaspian Sea

Gửi vào 05/06/2018 - 21:30

Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Câu chuyện về nải chuối vàng :

Khi nguyễn trung trực đang bị lùng sục ở Phú Quốc .

Vợ ông phải ôm đưa con vài tháng tuổi vào rừng bỏ trốn .

Bà đã nhờ rất nhiều người giữ con của cô ấy nhưng do kẻ địch có lệnh ai mà giữ con sẽ cũng sẽ bị tử hình nên không ai dám giữ .

Bà chạy vào rừng, vì lo sợ bị phát hiện 2 mẹ con đều bị giết nên bà bỏ đứa con lại vào trong rừng và đặt một nải chuối bằng vàng kế bên và ghi mảnh giấy , nếu ai chịu nuôi đứa trẻ này thì xin nhận nải chuối vàng . Nhưng vài tuần sau người dân phát hiện đứa trẻ đã bị chết khô còn nải chuối thì đã bị lấy mất . Biết tin này Nguyễn Trung Trực thật sự rất phẩn nộ và đã đưa ra một lời nguyền . Ai sinh ra trên hòn đảo này , nam thì vô chí, nữ thì vô tri . do đó trong thời gian đầu ai sinh đứa con đầu lòng đều phải qua đất liền sinh con chứ không dám sinh trên đảo . Tuy nhiên giờ đây cùng với sự phát triển mọi người đã không còn sợ lời nguyền này nữa và đã chấp nhận việc sinh con .

Hằng năm vào ngày 27 28 29 tháng 8 âm lịch hấu hết mọi người dân sống ở Phú Quốc đều thăm viếng ông .

Sửa bởi CaspianPrince: 05/06/2018 - 21:33


Thanked by 1 Member:

#51 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 16/06/2018 - 21:30

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Miền Tây kỳ bí: Thực hư chuyện oan hồn phá tan sản nghiệp của một cự phú Nam Kỳ

Từ một lực điền tay trắng, chân đất bỗng chốc trở thành cự phú giàu nhất Nam Kỳ. Đến độ, người này còn cho đào một con kênh chở lúa nuôi cả đạo quân chúa Nguyễn Ánh suốt 3 tháng ròng. Nhưng, cũng chính người này, với tính cách ngông cuồng, đã ra tay sát hại hai anh em người dân tộc và bị báo oán, phá tan sản nghiệp. Thực hư chuyện này ra sao?

Ai là người giàu nhất Nam Kỷ? Nhiều người cho rằng đó là Hội đồng Trần Trinh Trạch – cha của Hắc Công Tử, với trên 100.000 héc-ta ruộng và trên 20.000 héc-ta ruộng muối cùng nhiều bất động sản khác.
Hoặc người ta nhắc đến chú Hỏa, chú Hỉ với câu: “Ở nhà chú Hỏa, đi tàu chú Hỉ”. Xưa hơn thì có câu Nhất Sĩ, Nhì Phương, Tam Xường, Tứ Định… Nhưng theo Đào Văn Hội, 1 công chức cao cấp thời Pháp, đồng thời là tác giả nhiều sách địa chí lịch sử đã ghi nhận trong sách Tân An ngày xưa thì 4 người giàu nhất Nam Kỳ cuối thế kỷ 19 là Nhất Sĩ, Nhì Phương, Tam Xường, Tứ Định góp lại tài sản cũng chỉ bằng một phần ngàn ông Hóng. Ông Hóng là ai? Vì sao giàu có tột bậc như vậy mà ít người biết đến?
Điềm báo từ 4 ngọn đèn trời!
Tờ Nam Kỳ tuần báo ngày 16/10/1943 có bài 25 ngày theo dấu người xưa của nhà báo Khuôn Việt, ghi nhận ông Hóng tên thật là Phan Văn Nghêu – người gốc miền Trung, vào Nam khẩn hoang rồi trở nên giàu có thành cự phú trong vùng. Tên ông Hóng được người đương thời đặt cho là chỉ tiền bạc của ông nhiều như khói bồ hóng trong giàn bếp mọi nhà.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đầu kênh ông Hóng phía sông Vàm Cỏ Tây
Tác giả Đào Văn Hội, ghi chép chi tiết hơn: Ông Phan Văn Nghêu vốn là 1 người canh điền làm thuê cho 1 điền chủ trong vùng. Tính tính chất phác, làm lụng siêng năng để dành được chút ít tiền nên ông Nghêu được chủ điền cho 1 miếng đất nhỏ để cất nhà và cho thuê ruộng làm tá điền trên địa phận xã Bình Lãng ngày nay. Ông Nghêu dọn miếng đất chủ cho, dựng 4 cây cột chuẩn bị cất nhà.
Đêm ấy, chủ điền thức dậy thấy khu đất của ông Nghêu sáng rực. Chạy tới nơi, ông phát hiện 4 ngọn nến đó chính là 4 cột nhà. Ông chủ điền hiểu ra về nhà nói với vợ, đây là điềm trời báo hiệu ông Nghêu sẽ giàu tột bậc. Thật vậy, từ đó năm nào ông Nghêu cũng trúng mùa và điền đất của vị điền chủ và nhiều điền đất khác trong vùng lần lượt về tay Nghêu – tức ông Hóng…
Khi Nguyễn Ánh bôn đào đóng quân ở Phủ lỵ Tân An (xã Mỹ Bình, huyện Tân Trụ ngày nay), cho người đến ngỏ lời giúp cho “bữa cháo”. Không chỉ giúp lương thực cho một vài bữa ăn cho đạo quân Nguyễn Vương, ông Hóng đã đốc thúc dân đào kênh và cho đoàn ghe lườn hàng chục chiếc chở lương thực cho quân chúa Nguyễn suốt 3 tháng trời. Kênh ông Hóng bắt nguồn từ đó. Khi Nguyễn Vương thống nhất sơn hà nhớ ơn người cũ muốn ban thưởng chức tước nhưng ông Hóng nhất định không nhận phẩm hàm.
Báo oán kỳ lạ
Giàu có là thế, nhưng chỉ sau 3 đời, khoảng gần 100 năm, cơ ngơi của ông Hóng chỉ còn lại mảnh ruộng rộng mấy ngàn mét vuông, phần mộ của ông và ngôi nhà lá rách nát…
Đến làng Bình Lãng, nhà báo Khuôn Việt đã tìm gặp Phan Văn Chơi – cháu 3 đời của ông Hóng và được dẫn đi thăm phần mộ của gia đình ông Hóng gồm 4 ngôi mô cổ xây từ đời Gia Long hình mái nhà. Phía trước mộ có bình phong, hồ bán nguyệt, phía sau có tường thấp bao 3 mặt.
Mộ vợ chồng ông Hóng còn lờ mờ vết đắp nổi hình con rồng, con Phụng. Qua thời gian, mộ 2 người con ông Hóng bị nứt nẻ lòi cả hòm ra ngoài. Toàn cảnh 4 ngôi mộ của gia đình giàu có đã từng nuôi dưỡng cả đạo quân giờ chỉ là dấu tích hoang phế đổ nát.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đình thần xã Bình Lãng có nguồn gốc từ sự đóng góp tài lực của ông Hóng
Trong nhà chỉ còn lại dấu tích thời vàng son là cái bàn thờ trang nghiêm với tấm biển có 2 chữ Thọ dân do vua Minh Mạng ban tặng. Ông Chơi không giải thích được nguyên nhân sự phá sản của tổ tiên. Ông chỉ biết rằng theo sổ bộ, phần lớn ruộng đất đứng tên ông nội ông là Phan Văn Nghị ở khắp Tân Trụ và nhiều vùng đất khác giờ đã thành ruộng của Huyện Sĩ (Lê Phát Thanh – ông ngoại của Hoàng hậu Nam Phương) hoặc ruộng công điền.
Ông Đào Văn Hội lý giải việc phá sản này bằng nguyên nhân tâm linh. Là bởi, tính khí ông Hóng rất bất thường. Khi đi thăm thú trong vùng, gặp người tá điền nghèo khổ ruộng thất mùa, vợ đau, con rách rưới ông liền lấy cho mấy lạng bạc làm vốn hẹn năm sau làm ăn khá sẽ trả lại.
Đúng năm sau, ông Hóng quay lại, ngôi nhà đã khang trang, lúa đầy bồ. Vợ chồng người tá điền đội ơn ông trả nợ nhưng ông không lấy và còn bảo họ nếu cần vốn ông sẽ cho thêm. Ngược lại, gặp kẻ bê bối rượu chè cơ bạc, nợ nần ông đánh chết tươi rồi cho gia nhân đem tiền đến bồi thường nhân mạng. Thế lực của ông quá lớn nên chẳng ai dám thưa kiện.

Thời ấy nhà Nguyễn còn cho phép người giàu được mua người mọi (người dân tộc thiểu số) về làm tôi đòi. Oái oăm, ông Hóng đã cho đổ đầy 1 ghe tiền kẽm, mổ bụng 2 người mọi dồn tiền vô bụng rồi bỏ lên ghe dìm xuống lòng kênh của mình để trấn yểm.
Những đêm trăng sáng, những người dân chài bắt cá trên kênh thường gặp 2 anh mọi chèo ghe đi trong sương mờ. Từ truyền thuyết này ông Hội cho rằng do giàu nhưng không tích đức lại giết người oan, bị hồn ma báo oán nên tiền của điền sản ông Hóng mau chóng tiêu tán.
Trong khi đó theo nghiên cứu của nhà báo Khuôn Việt, vào thời Minh Mạng gia đình này vẫn giữ được gia thế. Thời cháu nội ông Hóng, điền sản gia đình chắc hẳn cũng còn khá giả nên mộ con ông Hóng được xây dựng khang trang. Sự suy tàn chỉ bắt đầu vào đời vua Tự Đức thuộc thế hệ cháu nội ông Hóng. Đây là giai đoạn người Pháp xâm chiếm và cai trị miền Nam.
Lý giải sự xuống dốc
Theo nhà văn Sơn Nam trong sách Lịch sử khẩn hoang miền Nam thì sau khi đã chiếm toàn cõi Nam Kỳ, chính quyền thuộc địa đã ra nghị định buộc các chủ ruộng ở Nam Kỳ phải đăng bộ lại đất đai, điền sản trong thời hạn 3 tháng. Quá thời hạn này ruộng đất không đăng ký sẽ bị sung công thành công điền hoặc bán phát mãi.
Trong thực tế, khi Pháp xâm chiếm miền Nam, phần lớn điền chủ ở Nam Bộ đã tham gia các phong trào khởi nghĩa của Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân hoặc chí ít cũng đóng góp vật lực tài sản cho khởi nghĩa, kháng chiến nên rất ít người ra đăng ký đất đai theo nghị định này.
Vàm Nhật Tảo, điểm bắt đầu của kênh ông Hóng chính là nơi ghi chiến tích đốt cháy chiến hạm Expérance của Pháp. Chính vì vậy phần lớn điền chủ vùng này đều phải trốn tránh, không đăng ký đất đai với Pháp và bị mất đất.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Cầu Binh Lãng bắc qua kênh
Huyện Sĩ, nguyên là thông ngôn của Pháp đã giàu lên nhanh chóng nhờ mua phát mãi ruộng đất bị trưng thu với giá rẻ như cho không. Ông Phan Văn Chơi trần tình với nhà báo Khôn Việt là ruộng đất do ông nội ông đứng bộ đã về tay Huyện Sĩ và thành ruộng công điền hẳn là do nguyên nhân này.
Kênh ông Hóng tạo sức sống cho cả vùng
Trong kho tàng dân ca dân gian Nam bộ có câu ca dao: “Ba phen Quạ nói với Diều/ Ngã kênh ông Hóng có nhiều vịt con”, cho thấy ông Hóng đã để lại cho đời sau 1 dòng kênh không chỉ để vận quân lương cho Nguyễn Ánh mà trong thời đầu mở cõi cho đến khi Pháp xâm chiếm miền Nam là thủy lộ quan trọng nối 2 sông Vàm Cỏ Đông, Tây, nối liền Sài Gòn và ĐBSCL. Dòng kênh này còn có vai trò quan trọng với huyện Tân Trụ, Tân An – vùng đất được khẩn hoang đầu tiên của Nam Bộ, nơi tập trung rất nhiều đồn điền trù phú.
Vào thập niên 1980 – 1990, huyện Tân Trụ thực hiện chủ trương đa dạng hóa cây trồng và thâm canh trên vùng đất vốn chỉ độc canh cây lúa. Nghiên cứu các yếu tố thổ nhưỡng đất đai, địa lý thủy văn của vùng này vấn đề khó khăn nhất trong chuyển vụ, tăng vụ là nguồn nước. Do nằm ở phía hạ lưu sông Vàm Cỏ nên 1 năm có 6 tháng nước mặn.
Nhưng từ kinh nghiệm dân gian ở 2 đầu kênh ông Hóng người ta phát hiện ra nước ông Vàm Cỏ Tây nhiễm mặn chậm hơn phía Vàm Cỏ Đông 1 tháng. Từ đây, Tân Trụ đã đào nhiều kênh dẫn nước từ Vàm Cỏ Tây qua phía Vàm Cỏ Đông, tận dụng 1 tháng nước ngọt này để tăng thêm 1 vụ lúa hoặc 1 vụ màu.
Vậy là, Tân Trụ đã có thêm vụ dưa hấu tết và nhiều loại nông sản mới. Ngay Bình Lãng, vùng đất của kênh ông Hóng đã trở thành vùng chuyên sản xuất lúa giống năng suất cao và hình hành tổ hợp tác sản xuất lúa giống cho khu vực phía Nam. Nhờ đó, đời sống người dân ở đây đã được nâng lên một bước.

Anh Kiệt



Thanked by 4 Members:

#52 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 05/07/2019 - 21:59

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thành cổ Nam bộ: Thành Vĩnh Long - nỗi đau Phan Thanh Giản

05/07/2019
Với Long Hồ dinh được thành lập dưới thời

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

1732, Vĩnh Long được biết đến là thủ phủ, trung tâm quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa của miền Tây Nam bộ. Đặc biệt là hệ thống thành trì quân sự - chính trị, trong đó đáng chú ý là thành Vĩnh Long.
Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chép: “Tháng 2 năm Gia Long thứ 12 (1813) sắc cho trấn thủ Lưu Phước Tường đắp thành đất tọa ngồi kiềm hướng về tốn, nam bắc cách nhau 20 tầm, đông tây cũng thế. Bốn ngả đều có chỗ lõm vào ở giữa, mà ngoài bao thân, thành cửa cong ra, hình như đầu ngọc khuê. Bốn góc thành có góc nhọn thò ra như hình con rùa, lại như dáng hoa mai...”. Căn cứ vào bản vẽ thành Vĩnh Long năm 1864, 1867, 1872 của người Pháp cho thấy, kích thước thành Vĩnh Long đo được mỗi cạnh khoảng 600 m, chu vi toàn thành là 2.400 m.
Sau khi lần lượt chiếm thành Phụng, thành Biên Hòa, thành Mỹ Tho vào ngày 22.3.1862, liên quân Pháp - Tây Ban Nha với 10 chiến thuyền đến sông Long Hồ (còn gọi là rạch Long Hồ), đồng thời cho hơn 1.000 quân lập công sự trên bộ sát thành Vĩnh Long, đánh phá các đồn tiền tiêu, rồi đồng loạt tấn công bắn đại bác vào thành. Tổng đốc Trương Văn Uyển cùng quan binh biết không thể chống lại được bèn đốt hết dinh thự, kho tàng đạn dược trong thành rồi chạy về huyện lỵ Vĩnh Trị. Thành Vĩnh Long mất vào tay liên quân Pháp - Tây Ban Nha lần thứ nhất.
Thành Vĩnh Long bị chiếm, nguy cơ người Pháp chiếm toàn bộ Nam bộ là rất lớn.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

khi đó có nhiều rối ren: phía Bắc thì nông dân nổi loạn, nội bộ triều đình bất an, 4 tỉnh Nam bộ đã bị liên quân Pháp - Tây Ban Nha xâm chiếm (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long). Nhận được thư của người Pháp ở Gia Định mang đến nghị hòa, vua Tự Đức đã bàn với quần thần thống nhất cử đại thần Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp đi Gia Định để thương lượng, hòng cứu vãn những gì còn có thể trong buổi suy tàn của chế độ.
Hòa ước Nhâm Tuất 1862 và nỗi đau Phan Thanh Giản

Ngày 5.6.1862, Hòa ước Nhâm Tuất được ký kết giữa nước Đại Nam do đại thần toàn quyền

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

đại diện với Pháp - Tây Ban Nha. Theo thỏa thuận được ký kết, 3 tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, quần đảo Côn Lôn (Côn Đảo) là thuộc địa của Pháp. Trong đó, đáng chú ý là khoản 11 của hòa ước với nội dung: “Thành Vĩnh Long sẽ được binh lính (Pháp) canh gác cho đến khi có lệnh mới mà không ngăn cản bằng bất cứ cách nào hoạt động của các quan Đại Nam. Thành này sẽ được trao trả cho hoàng đế nước Đại Nam ngay khi ngài đình chỉ cuộc chiến loạn do lệnh ngài tại các tỉnh Gia Định và Định Tường, và khi những người cầm đầu cuộc phiến loạn này ra đi và xứ sở được yên tĩnh và quy phục như trong một xứ bình yên”. Tuy nhiên, âm mưu gian xảo, quyết chiếm toàn bộ Nam bộ, Pháp đã phản bội, đi ngược lại nội dung của hòa ước sau khi có được những chiến lợi, chiến phí khủng từ triều Nguyễn.
Vì không hài lòng với bản hòa ước, vua Tự Đức đã cách chức Phan Thanh Giản, cho làm Tổng đốc Vĩnh Long khi triều đình tiếp nhận trở lại tỉnh thành Vĩnh Long. Năm 1863, vua triệu Tổng đốc Vĩnh Long Phan Thanh Giản trở về kinh, sung làm Chánh sứ đi Tây. Vua hỏi Phan Thanh Giản: “Về việc 3 tỉnh (vua Tự Đức muốn thương lượng chuộc lại 3 tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường - NV), quả là cân nhắc nhẹ nặng mà làm, hay là có ý riêng gì?”. Giản thưa rằng: “Thần xem kỹ thời thế, không thể không được. Thần nay phụng mệnh đi sứ, thành sự hay không thành, là ở 2 nước ấy (Pháp và Tây Ban Nha - NV). Thần chỉ biết hết tâm lực thôi”.
Sau khi đi sứ trở về, Phan Thanh Giản dần được khôi phục chức vụ, năm 1865 ông được cử trở lại làm Khâm sai đại thần, Tổng đốc Vĩnh Long. Mặc dù vậy, đúng như nhận định thời cuộc của ông trước đây về nguy cơ đe dọa dân tộc, nỗi lòng của một nhà nho yêu nước luôn dằn vặt, giày vò, năm 1866 ông đã xin được về hưu nhưng vua không cho.
Năm 1867, trước sức mạnh của quân đội Pháp, nhận thức được binh lực của triều đình và thời đại, không muốn nhìn thấy đồng bào và binh lính phải đổ máu xương, ông đã bỏ thành Vĩnh Long đầu hàng để tránh thương vong, từ đây Nam kỳ lục tỉnh trở thành thuộc địa của Pháp. Ngày 22.6.1867, người Pháp chiếm thành Vĩnh Long lần thứ hai.

Sau khi tuyệt thực 17 ngày, ông đã uống thuốc độc tự tử và thi hài của ông được đưa về Bảo Thạnh (Ba Tri, Bến Tre) an táng. Triều đình truy luận tội xử trảm nhưng vì ông đã chết nên tha, đục bỏ tên trên bia tiến sĩ. Đến thời Đồng Khánh (1885) mới xóa bỏ án, truy phục chức tước và khắc lại tên trên bia.
Mặc dù phải gánh cái án lịch sử “Phan Lâm mãi quốc, triều đình thí dân” nhưng người dân Nam bộ nhiều nơi vẫn tôn nhớ và ghi nhận công lao của ông. Hiện nay, ngoài đền thờ ông trong khu mộ ở Bảo Thạnh, Ba Tri, Bến Tre, ông còn được thờ trong Văn thánh miếu Vĩnh Long; ở hữu ban trong đền thờ Tả quân Lê Văn Duyệt (Bình Thạnh, TP.H.C.M); đình Ba Thê (TT.Óc Eo, H.Thoại Sơn, An Giang), đình Tương Bình Hiệp (Thủ Dầu Một, Bình Dương) và nhiều nơi khác. Trong những năm qua, giới sử học VN cũng đã tiến hành nhiều cuộc hội thảo khoa học, xuất bản nhiều ấn phẩm liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp Phan Thanh Giản (1796 - 1867) đối với lịch sử dân tộc nhằm ghi nhận lại công lao của ông, trả lại cho lịch sử những gì thuộc về chân lý khi đánh giá nhân vật lịch sử ở góc độ đa chiều.



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Bản vẽ chi tiết thành Vĩnh Long năm 1872
Ảnh: Tư liệu của tác giả

Lương Chánh Tòng

Thanked by 2 Members:

#53 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 09/08/2019 - 21:13

Thụy Khuê

Quê hương ngày trở lại


V. Quy Nhơn

Quy Nhơn có bề dầy trọng đại của lịch sử.
Đến Quy Nhơn, chúng tôi ở khách sạn M.T. trên bờ biển. M.T. là tên một chuỗi khách sạn mọc trên toàn thể đất nước, ông chủ có lẽ là người gốc dân tộc (ngày trước gọi là người thiểu số) hay ông sinh ra ở miền núi rừng M.T. Bây giờ ông trở thành triệu phú. Ở nước ngoài thì người ta ca tụng ông tay trắng làm nên sự nghiệp (như bin-ghết) còn ông ở VN, nên ông bị coi là tư bản đỏ, nhờ "đút lót" bọn "tham nhũng" mà nên. Du khách đến miền duyên hải nước ta gần như đương nhiên được ở khách sạn trên bờ biển, nhưng khách sạn M.T. thường có địa điểm tốt, thức ăn ngon và nhân viên tiếp đón lịch sự, vì thế mà thành công.
Khách sạn của chúng tôi nhìn chéo vào cửa đầm Thị Nại. Điều thật bất ngờ. Bởi đầm Thị Nại là nơi tôi ao ước được đến ít nhất một lần trong đời, để xem bề thế của nó, nơi đã xẩy ra bao nhiêu cuộc chiến ác liệt trong lịch sử, từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XIX do vị trí chiến lược hiểm yếu nhất vùng Bình Định. Và Bình Định, tức Quy Nhơn hay Đồ Bàn là cột trụ của cuộc di dân mở nước từ Bắc xuống Nam của dân tộc ta.
Gần ta nhất, Thị Nại là nơi xẩy ra hai trận đánh lịch sử, giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn: Thị Nại 1792 và Thị Nại 1802. Trận 1802 là trận quyết liệt, có thể coi là trận Xích Bích của Gia Long, quyết định sự thống nhất đất nước.
Sự mênh mông và vị trí kín đáo của đầm Thị Nại giải thích tại sao, năm 1800, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng, chỉ huy quân Tây Sơn, lại chọn nơi này đóng đại bản doanh để tiến đánh thành Bình Định (tức thành Quy Nhơn) nơi Võ Tánh và Ngô Tòng Châu cố thủ, từ 1799.
Từ balcon của phòng chúng tôi, nhìn ra cửa đầm Thị Nại, một cảm tưởng không thể diễn tả giữa khâm phục và kinh hoàng của kẻ hậu duệ "nhìn về" trận địa lịch sử oanh liệt và đẫm máu giữa hai thế lực đối đầu của tổ tiên mà mình không thiên bên nào, không mong ai thắng ai bại. Muốn được như vậy, cần phải hơn hai trăm năm. Bởi hiện giờ tôi vẫn chưa thể đi thăm Quảng Trị, vì máu xương như vẫn còn đọng, còn tươi, chưa hề siêu thoát trên những dòng chữ Phan Nhật Nam.
Tháng 3/1773, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ khởi binh ở ấp Tây Sơn, chiếm Quy Nhơn, mưu đồ diệt nhà Nguyễn. Năm năm sau, Quy Nhơn sẽ trở thành kinh đô của Nguyễn Nhạc: Tháng 6/1778, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng Đế, lấy hiệu là Thái Đức, xây cung điện trên vùng đất cũ của thành Đồ Bàn, tức thành Quy Nhơn.
Sau khi Quang Trung băng hà (16/9/1792), từ năm 1793 đến 1799, Nguyễn Vương tiến đánh Quy Nhơn ba lần. Lần đầu, Nguyễn Nhạc cầu cứu cháu là Cảnh Thịnh đóng ở Phú Xuân, nhưng tướng của Cảnh Thịnh sau khi thắng trận, uy hiếp Nguyễn Nhạc, khiến ông uất ức mà chết năm 1793. Đến lần thứ ba, tháng 7/1799, Võ Tánh chiếm được Quy Nhơn. Nguyễn Ánh vào thành, đổi tên là Bình Định, để Võ Tánh và Ngô Tòng Châu (tham tri bộ lại) ở lại trấn giữ và cai trị.
Tháng giêng năm 1800, Tây Sơn bắt đầu phản công: Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng đem đại binh thuỷ bộ chiếm Thị Nại rồi vây thành Bình Định. Nguyễn Vương tính kho lương thực trong thành đủ dùng một năm, định củng cố lực lượng, năm sau sẽ giải vây Bình Định.
Tháng giêng năm 1801, quân sư Đặng Đức Siêu hoàn tất chiến thuật: đánh hoả công triệt hạ hải quân của Võ Văn Dũng đóng ở đầm Thị Nại, để tiến lên phá vòng vây của Trần Quang Diệu bao quanh thành Bình Định, giam chặt Võ Tánh và Ngô Tòng Châu cố thủ trong thành.
Từ khách sạn, tôi nhìn thấy cửa biển mở vào đầm Thị Nại xa xa, bên phiá trái: Đấy là chỗ đại quân Nguyễn Ánh sẽ tiến vào đầm để tiêu diệt toàn bộ hạm đội Tây Sơn đêm 27 rạng ngày 28/2/1801.
Về phiá Tây Sơn, để chắn địch, Võ Văn Dũng dùng ba chiến hạm đại hiệu, có giàn đại bác nòng lớn và hơn trăm thuyền chiến đóng chặn cửa biển Thị Nại, khít khao, không ai có thể lọt vào nếu không biết mật khầu. Cửa đầm còn được canh giữ bằng bãi Nhạn Châu (nay là Bãi Nhạn) bên trái và núi Tam Toà bên phải, đều đặt giàn đại bác và nhiều súng lớn, mục đích tiêu diệt mọi ý đồ thâm nhập.
Làm sao vào được?
Bên trong đầm, đóng toàn bộ hải quân Tây Sơn do Võ Văn Dũng làm tư lệnh. Trên bờ là bộ binh, bao vây thành Bình Định. Tất cả thuỷ bộ dưới quyền Tổng tư lệnh của Trần Quang Diệu.
Phiá quân Nguyễn, Nguyễn Vương đích thân làm Tổng tư lệnh, tiên phong có Nguyễn Văn Trương, Tư lệnh hải quân (nguyên là tướng Tây Sơn, đem thuyền binh về theo Nguyễn Ánh từ năm1787), Lê Văn Duyệt và Võ Di Nguy, điều động quân cảm tử.
Quân của Nguyễn Vương từ Cù Mông tiến về Thị Nại chiều 27/2/1801, sau khi tập trận, lần này Vương không dùng thuyền đại hiệu, chỉ dùng ga-le và thuyền nhỏ. Thuyền chỉ huy của Vương đậu ở cửa biển Thị Nại, ngoài tầm đại bác Tây Sơn.
Đến chiều tối, đầu tiên hết, Nguyễn Vương ra lệnh cho đội Túc Trực của Lê Văn Duyệt, Võ Di Nguy (1.200 quân cảm tử) đổ bộ lên bãi cát, ngang tầm đảo Hòn Đất, đi trong yên lặng, đến chiếm giàn đại bác ở bãi Nhạn Châu.
Nguyễn Văn Trương bắt được lính tuần của Tây Sơn, biết mật hiệu vào cửa biển.
10 giờ đêm, Trương sửa soạn 60 ghe đại bác để xung kích ba chiến hạm đại hiệu Tây Sơn đóng chặn cửa biển.
10 giờ 30, Nguyễn Văn Trương bắn phát súng hiệu đầu tiên: Nguyễn Vương hạ lệnh Tổng tấn công.
Đại bác Tây Sơn từ đồn Tam Toà nã xuống như mưa, gây kinh hãi. Quân cảm tử của Lê Văn Duyệt xông trận, trèo lên thuyền Tây Sơn đốt phá, tấn công.
Võ Di Nguy trúng đạn, mất đầu. Quân Nguyễn hoảng sợ. Lê Văn Duyệt chém đầu thuyền trưởng địch, hô tiến lên. Nguyễn Vương thấy quân sĩ chết nhiều, ra lệnh tạm lui, nhưng Duyệt thề chết chứ không lùi.
Nguyễn Văn Trương và Tống Phước Lương, dùng mật hiệu, bằng thuyền nhỏ, tiến sâu vào hậu quân Tây Sơn ở cuối đầm, đốt đồn thuỷ và những ga-le đang chuẩn bị tiếp chiến. Hàng ngũ Tây Sơn rối loạn: đầu quân nhận đại bác của bãi Nhạn Châu (đã bị quân Nguyễn chiếm), lại tưởng hậu quân (bị Nguyễn Văn Trương đốt phá) làm phản.
Nhưng quân Tây Sơn vẫn can trường chống trả mãnh liệt.
Quân Nguyễn dùng hoả công của Đặng Đức Siêu đốt thuyền. Hai bên đánh giáp lá cà. Đến 4 giờ sáng lửa tràn lên tất cả các thuyền, tầu, chiến hạm. Đến rạng đông, một phần lớn đã nổ trên không trung với tất cả thuỷ thủ.
Nguyễn Ánh thiệt hại khoảng 4.000 quân, Tây Sơn mất 50.000 quân và toàn thể hạm đội bị tiêu diệt (gồm 1.800 chiến thuyền lớn nhỏ. 6.000 đại bác, và đủ loại vũ khí đạn dược và vàng bạc châu báu). Võ Văn Dũng điên dại lăn vào đống tro tàn.
Trận Thị Nại kéo dài 12 tiếng từ 10 giờ đêm 27/2/1801 đến 10 giờ sáng 28/2/1801. Có ba người Pháp lần đầu tiên tham dự cuộc chiến là Chaigneau, Vannier, và de Forçant, họ lái ga-le hộ vệ Nguyễn Ánh, đậu ở cửa biển. Nhưng người Pháp (thuộc điạ) sẽ viết lại lịch sử rằng trận Thi Nại là chiến công của Pháp.
Toàn thắng ở trận Thị Nại, nhưng Nguyễn Ánh vẫn không thể nào đánh lên Quy Nhơn để giải cứu Võ Tánh và Ngô Tòng Châu. Vương viết thư giục Võ Tánh tìm đường máu thoát ra ngoài. Võ Tánh trả lời: Người làm tướng không bỏ thành. Chúa công nên nhân cơ hội quân Tây Sơn tập trung toàn lực ở đây mà đánh chiếm lấy kinh đô. Biết khó phá được quân Trần Quang Diệu (sau Huệ, Ánh chỉ sợ có Diệu), Vương nghe lời khuyên của Đặng Đức Siêu đánh ra Quãng Ngãi, Quảng Nam, rồi chiếm Phú Xuân.
Ngày nay đứng trên cầu Thị Nại, nhìn xuống đầm nước mênh mông bát ngát như biển cả, ta không khỏi ngậm ngùi, tưởng đến bao nhiêu bộ xương còn đọng lại dưới đáy đầm của hơn năm mươi ngàn quân hai bên đã hy sinh, cho một lý tưởng nào, không rõ, nhưng chắc chắn cho sự trung thành tuyệt đối với một mầu cờ mà họ đã chọn. Và mầu cờ ấy, của Tây Sơn hay của Nguyễn Ánh, đối với chúng ta ngày nay, không có nghiã lý gì. Đó là sự phi lý của lịch sử.
Sau trận Thị Nại là trận Quy Nhơn: Võ Tánh và Ngô Tòng Châu, bị bao vây trong một năm rưỡi, lương thực đã cạn, phải giết ngựa, voi, để ăn dần. Ngoài thành, quân Trần Quang Diệu vây ba vòng, không lối thoát.
Trận Quy Nhơn chính là sự phục thù của Tây Sơn sau chiến bại Thị Nại: Ngô Tòng Châu uống thuộc độc tự tử. Võ Tánh chôn cất Tòng Châu, rồi viết thư cho Quang Diệu yêu cầu tha cho quân lính, đoạn nộp thành, tự thiêu ở lầu Bát Giác. Trần Quang Diệu vào thành, chảy nước mắt nghiêng mình trước thi hài cháy đen của Võ Tánh, tha cho quân Nguyễn về làm ruộng, cử hành đám tang Võ Tánh trọng thể.
Tất cả xẩy ra trong lòng thành Hoàng Đế của Nguyễn Nhạc, tức Quy Nhơn hay Bình Định. Năm 1814, vua Gia Long dọn thủ phủ sang thành mới gần thành phố Quy Nhơn bây giờ, nay thành này không còn lại gì, ngoài chiếc cổng tượng trưng, mới được dựng lại.

Rời Thị Nại, chúng tôi đi tìm thành cổ Quy Nhơn, nơi Võ Tánh và Ngô Tòng Châu tử thủ. Thành cổ cách Quy Nhơn khoảng 27 cây số về phiá tây bắc, chính là thành Hoàng Đế.
Thành Hoàng Đế nằm khuất trong một làng nhỏ (xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn), không mấy ai biết đến, sách du lịch không chỉ dẫn. Chúng tôi lạc đường nhiều lần, dù anh tài xế và anh guide đều người Bình Định, hỏi người dân sống ở chung quanh, họ không biết.
Nhưng khi đến nơi, tính cách vừa đế vương vừa khiêm tốn của phần hoàng thành còn lại, khiến ta không khỏi khâm phục và ngậm ngùi.
Thành dựng trên nền Đồ Bàn mà ngày trước vua Lê Thánh Tông đã san bằng, nay chỉ còn lại hai con nghê chầu và gần đó là tháp Cánh Tiên, di tích duy nhất còn lại của Đồ Bàn xưa. Nhưng vết dấu vết Quy Nhơn đầu thế kỷ XIX, khi Võ Tánh và Ngô Tòng Châu tử thủ, rất rõ.
Nhìn Lầu Bát Giác (vừa trùng tu) nơi Võ Tánh tự thiêu sau khi nộp thành. Đứng trước ngôi mộ bề thế hình nửa trái địa cầu, của tướng quân, và ngôi mộ chữ nhật, bé hơn, của cai cơ Nguyễn Tấn Huyên gieo mình vào lửa chết theo chủ tướng, một thứ âm khí thiêng liêng trộn lẫn hùng khí, như còn phảng phất đâu đây, mặc dù đã hơn hai thế kỷ trôi qua, gieo cho ta cảm tưởng lạ lùng như mình đang sờ được lịch sử, đang thở không khí lịch sử, bởi nó luôn luôn hiện diện.
Từ lúc lên 10, mỗi lần đi học, tôi thường đạp xe qua hai con đường Võ Tánh và Ngô Tòng Châu, nay, hơn 60 năm sau, tôi mới được nhìn thấy mộ người anh hùng, như thể ông đang sống trước mắt. Tiếc rằng mộ Ngô Tòng Châu đã được gia đình rời về Phù Cát quê ông gần đấy, sau bị chiến tranh tán phá.
Nhưng người dân Quy Nhơn hôm nay, không mấy ai biết đến Võ Tánh, Ngô Tòng Châu. Thậm chí anh guide còn ngập ngừng hỏi tôi: Nguyễn Nhạc là ai mà cô mất công đi tìm như thế? Tôi buồn. Thật buồn. Chẳng kể Nguyễn Nhạc mà cả Võ Tánh, Ngô Tòng Châu, Trần Quang Diệu cũng không thấy tên trên các đường phố Quy Nhơn, mặc dù Quy Nhơn do họ xây, và chính họ đã tạo nên một phần lịch sử của vùng này.
Công lao xoá sổ ấy, bắt đầu có từ khi nhà sử học thời danh Trần Huy Liệu, viện trưởng viện sử học thập niên 1960, viết những bài cực kỳ thô thiển để buộc tội nhà Nguyễn, khiến lịch sử (ở miền Bắc) đồng tâm nhận sự chi phối một chiều, cả đến quá khứ cũng bị vạ lây.
Nay đã đến lúc Quy Nhơn nên nhìn lại lịch sử của chính mình: bởi vì Quy Nhơn không chỉ có Tam Kiệt: Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ [gọi là Đền Tam Kiệt, thực ra cũng chỉ có Nguyễn Huệ là kiệt xuất và được tôn sùng. Nhưng Nguyễn Huệ lại chẳng làm gì cho Quy Nhơn cả. Người Quy Nhơn hiện nay mấy ai biết Nguyễn Nhạc là ai, xá gì Nguyễn Lữ, ông thầy tu chết nhát, thấy đánh nhau là chạy trước]. Với lại đền này còn mới quá, phải ba trăm năm sau may ra mới cũ. Hoành tráng và cảm động hơn là thăm ấp Tây Sơn, bao la hùng vĩ, đi một vòng xe hơi để thấy tại sao anh em Tây Sơn đã chọn nơi này làm đại bản doanh: bởi thế núi bao quanh như một vòng thành thiên nhiên bất di bất dịch, không đánh đổ được, không xâm nhập được.
Quy Nhơn có những anh hùng trực tiếp đã đóng góp vào những chiến công, chiến bại, như Trần Quang Diệu của Tây Sơn, như Võ Tánh, Ngô Tòng Châu của phe đối diện. Họ biểu dương cho sự dũng cảm, can trường, trung thành, là những giá trị bất biến của mọi thời. Chúng ta là con cháu, không nên thiên vị bên nào, dù thắng, dù bại, của lịch sử.
Quy Nhơn còn một bộ mặt lịch sử ngàn năm: Bởi Quy Nhơn chính là Đồ Bàn, kinh đô Chiêm Thành từ thế kỷ XII, sau khi kinh đô Phật Thệ ở Huế bị Lý Thường Kiệt san bằng.
Phải đến đây mới thấy vị trí hiểm yếu của vùng Bình Định, và hiểu tại sao, sau khi Phật Thệ bị phá huỷ, các vua Chiêm đã chọn nơi này để lập đô. Những tháp Chàm còn lại ghi dấu một nền văn minh lâu đời của một dân tộc oanh liệt: Chiêm Thành.
Chiêm Thành mà nước ta đã phải chinh phục trong tám thế kỷ, để lập nên miền Trung.
Chiêm Thành đã từng làm ta khốn đốn và đã để lại cho ta bao nhiêu chủ đề văn chương nghệ thuật.
Ngay từ năm 982, sau khi thắng Tống, vua Lê Đại Hành (980-1009) đã đem quân chinh phục Chiêm Thành, đánh vào kinh đô nước Chiêm "để trị tội sang quấy nhiễu".
Nửa thế kỷ sau, năm 1044, vua Lý Thái Tông (1028-1054) thân chinh đánh vào kinh đô Phật Thệ (làng Nguyệt Biều, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên, Hoàng Xuân Hãn xác định là thành Lồi), vua Chiêm dàn trận ở phiá nam sông Ngũ Bồ (Sông Hương?) Thái Tông giết được vua Chiêm là Xạ Đẩu và bắt vương phi Mỵ Ê, nhưng nàng không chịu chầu vua mà tuẫn tiết.
Năm 1069, vua Lý Thánh Tông (1054-1072) lại đem quân đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Chế Củ, Chế Củ xin dâng đất ba châu: Bố Chính, Điạ Lý, Ma Linh (Quảng Bình và bắc Quảng Trị) để "chuộc tội". Nhưng Chiêm Thành vẫn tiếp tục chống lại đòi đất ba châu.
Năm 1075, trước khi đánh Tống, Lý Thường Kiệt đem quân sang đánh Chiêm, bình định ba châu Bố Chính, Điạ Lý, Ma Linh, vẽ bản đồ và đưa người Việt vào ở.
Năm 1103, ở Nghệ An có Lý Giác làm phản, chạy sang Chiêm Thành, kết hợp với vua Chiêm là Chế Ma Na, đem quân chiếm lại ba châu.
Năm 1104, vua Lý Nhân Tông (1072-1127) lại sai Lý Thường Kiệt, lúc đó đã 70 tuổi, vào đánh Chiêm Thành, san bằng kinh đô Phật Thệ. Chế Ma Na thua chạy, xin trả lại ba châu. Lý Thường Kiệt trở về Thăng Long, một năm sau mất.
Có lẽ chính ở thời kỳ này, Chiêm Thành mới xây dựng kinh đô mới ở Trà Bàn còn gọi là Đồ Bàn, sâu về phiá nam, điạ thế hiểm trở hơn Huế.
Ranh giới nước ta lúc đó mới chỉ tới Quảng Bình và bắc Quảng Trị. Hai bên không chinh chiến trong một thời gian dài.
Đến đời nhà Trần, 1301, thượng hoàng Trần Nhân Tông đi chơi Chiêm Thành, hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân. Mân dâng hai châu Ô và Rí làm sính lễ. Năm 1306, cho công chúa về Chiêm. Năm 1307, vua Trần Anh Tông thu phục hai châu Ô, Rí, đổi tên là Thuận châu, Hoá châu, nước ta có thêm đất Thuận Hoá (Huế) từ đấy.
Huyền Trân công chúa lấy chồng chưa được một năm thì Chế Mân chết, vua Anh Tông không thể để em gái chết thiêu theo tục Chiêm Thành, bèn sai Trần Khắc Chung vào tìm kế rước công chuá về nước. Chế Chi, kế vị, muốn phục thù, Anh Tông mang đại quân cùng Trần Quốc Chân và Trần Khánh Dư vào đánh, bắt được Chế Chi đem về Thăng Long, ít lâu sau Chế Chi bị chết ở Gia Lâm, từ đó nước ta và Chiêm Thành có thù.
Năm 1376, quân Chiêm tấn công Hoá Châu (Huế), Trần Duệ Tông (1374-1377) thân chinh cùng Hồ Quý Ly đi đánh, vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga, khuôn mặt kiệt xuất của lịch sử Chiêm Thành sẽ cho ta nhiều bài học và làm ta khốn đốn trong mười ba năm.
Đại quân Duệ Tông và Quý Ly đóng ở cửa Nhật Lệ, tập trận. Đầu năm 1377, tiến xuống cửa Thị Nại, lấy đồn Thạch Kiều và động Kỳ Mang, rồi tiến đánh Đồ Bàn, kinh đô Chiêm Thành. Chế Bồng Nga phục quân ở ngoại thành, đoạn phao tin mình đã bỏ thành chạy trốn, Duệ Tông tưởng thật; mặc lời can gián, tiến binh vào thành, quân Chiêm hai bên đổ ra đánh úp. Duệ Tông tử trận. Quân lính gần như bị tiêu diệt. Đỗ Tử Bình giữ hậu quân không tiếp ứng. Hồ Quý Ly bỏ chạy. Đồ Bàn hay Quy Nhơn còn là mồ chôn Trần Duệ Tông.
Giết được Duệ Tông rồi, tháng sau Chế Bổng Nga đem quân ra đánh Thăng Long, thế mạnh không ai cự nổi. Nhà Trần hoàn toàn suy nhược, mỗi lần Chế Bồng Nga ra cướp phá Thăng Long, thượng hoàng Trần Nghệ Tông và vua Trần Phế Đế phải bỏ kinh đô chạy trốn. Quân Chiêm Thành bấy giờ vào nước ta như ra vào chỗ không người.
Năm 1389,Chế Bồng Nga lại tiến đánh Thăng Long, Nghệ Tông sai Trần Khát Chân, vua tôi đều khóc, đem binh ra chống cự ở sông Hải Triều (sông Luộc, Hưng Yên). Một tên hầu của Chế Bồng Nga có tội, sợ bị giết, chỉ cho Khát Chân thuyền Chế Bồng Nga. Khát Chân cho lệnh bắn vào thuyền, Bồng Nga trúng đạn chết. Đó là tháng Giêng năm Canh Ngọ (1390).
Những năm kế tiếp, Hồ Quý Ly đảo chính lập nhà Hồ, đến năm 1402, Quý Ly mới sai Đỗ Mãn đem quân vào đánh Chiêm Thành, vua Chiêm dâng đất Chiêm Động (Quảng Nam), Quý Ly đòi thêm đất Cổ Lụy (Quãng Ngãi).
Năm 1403, Quý Ly lại sai Phạm Nguyên Khôi và Đỗ Mãn đem 20 vạn quân thủy bộ vào vây thành Đồ Bàn, muốn chiếm nốt vùng Bình Định, nhưng quân Chiêm giữ vững không đánh nổi phải rút về.
Nước Việt trải qua cuộc lệ thuộc nhà Minh và cuộc kháng chiến Lê Lợi.
Gần 70 năm sau, năm 1470, vua Lê Thánh Tông (1460-1497) mới cử đại binh hơn 20 vạn quân thân chinh đi đánh Chiêm Thành. Thánh Tông dừng quân ở Thuận Hoá tập trận và sai người xuống Bình Định vẽ bản đồ các chỗ hiểm yếu, rồi mới tiến quân chiếm cửa Thị Nại, đánh vào Đồ Bàn, bắt được vua Chiêm là Trà Toàn.
Lê Thánh Tông san bằng Đồ Bàn. Thanh thế nước Nam lừng lẫy. Người em Trà Toàn trốn vào núi, cầm cự thêm vài năm nữa.
Đến khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hoá (1558), năm 1611, ông lấy thêm đất Phú Yên. Biên giới phiá Nam của nước ta lúc ấy dừng ở đèo Cả.
Chúa Hiền Nguyễn Phước Tần (1648-1687), vị chúa lớn nhất triều Nguyễn, tiếp tục đánh chiếm hết nước Chiêm Thành rồi chiếm xuống Thuỷ Chân Lạp. Đến đời Võ Vương Nguyễn Phước Khoát (1738-1765) ta chiếm xong Thủy Chân Lạp, lập nên 6 tỉnh Nam kỳ.
Cuộc chinh phạt chiếm Chiêm Thành và Thủy Chân Lạp kéo dài từ Lê Đại Hành đến Nguyễn Phước Khoát, trải tám thế kỷ, nước ta đã mở rộng thêm diện tích từ Quảng Bình đến Hà Tiên.

Quy Nhơn, với bề dầy lịch sử của cuộc Nam tiến, đối với tôi là một vinh dự và ân hận. Vinh dự vì tổ tiên ta đã mở rộng đất nước gần gấp ba lần, về phương Nam. Ân hận vì chúng ta đã tiêu diệt dân Chiêm Thành. Vinh dự vì người dân miền Trung đều ít nhiều lai Chiêm Thành, một dân tộc oanh liệt, có nền văn minh lớn lao, để lại những tháp Chàm thiêng liêng, huyền bí.
Miền Trung, đã kết hợp hai tâm hồn Chiêm-Việt, tạo nên những khúc nam ai, nam bình, những điệu hò Huế, đậm nỗi u hoài của một dân tộc đã bị tiêu diệt nhưng lại hồi sinh trong lòng một dân tộc mới.
Miền Trung, nhắc tôi không bao giờ kỳ thị chủng tộc, bởi vì sự lai giống luôn luôn cho ta một sản phẩm mới, kết hợp thể xác và tâm hồn của hai dân tộc.
Chế Lan Viên làm tập thơ Điêu tàn để nói lên nỗi uất hận của dân Hời, gửi cho báo Phong Hoá, Khái Hưng viết lời giới thiệu nồng nhiệt, nhưng khi biết Chế Lan Viên là Hời giả, Khái Hưng không đếm xỉa đến nữa. Chỉ cần đọc một câu trong bài tựa của Chế Lan Viên là hiểu: "Điêu tàn có riêng gì cho nước Chiêm Thành yêu mến của tôi đâu. Kìa kìa nó đang đục sọ dừa anh. Tiếng xương rạn vỡ dội thấu đáy hồn tôi". Thơ ông trong Điêu tàn cũng nhạt như vậy (chỉ có Hoài Thanh là khen), thơ có nhiều đầu lâu, sọ, có ma, nhưng không làm ai sợ, cũng không gây rung động gì.
Phạm Duy có bài Nước non ngàn dậm ra đi, kể chuyện Công Chúa Huyền Trân, thật hay, thật lãng mạn.
Nhưng tội ác diệt chủng dân Chàm, người Việt không ai công khai nhìn nhận. Bởi lịch sử Việt Nam mà chúng ta được học là lịch sử anh hùng, mở mang bờ cõi.
Bà Mọi hú của Bình Nguyên Lộc chính là toà án lương tâm đầu tiên của người Việt xây dựng trên văn bản về sự xám hối đã sát hại người Chàm. (Bây giờ người ta gọi là Chăm, Champa, tôi thấy chữ Chàm thơ mộng hơn và chữ Chiêm Thành sang trọng hơn, tôi chưa bao giờ cảm thấy chữ Chàm và chữ Chiêm Thành ngụ ý xấu, mà ngược lại chữ Chăm trong tiếng Việt, nó thế nào ấy, vô nghiã và chẳng đẹp gì hơn).
Trong Bà Mọi hú, Bình Nguyên Lộc mô tả một trái núi bé con đi lạc, xưa nó vốn thuộc dãy Trường Sơn, nhưng dân tộc nó bị dồn mãi, dồn mãi, nó phải ty nạn xuống phiá nam, đến Biên Hoà nó dừng lại, sau này người ta gọi nó là núi bà Mọi. Chữ Mọi thực sự không ăn nhập với câu chuyện nguyên khởi, vì là từ chữ M.O.I (Main d'Œuvre Indochinoise), chỉ mới có từ thời thực dân, với ý khinh bỉ, miệt thị người thợ Đông Dương sang làm việc cho Pháp.
Nguyên khởi là từ khi người Việt chiếm dần đất Chiêm, họ đốt rừng, làm rẫy, dồn người Chiêm vào sâu, lên núi. Mới đầu người Chiêm còn chống lại, sau sức yếu dần, chết hết, chỉ còn lại độc một mình "mụ Mọi già, tóc tai bồm xồm, trông rất ghê sợ" ở lại giữ công tác du kích tuyệt vọng. "Rừng già bị gặm ngày một, chậm mà chắc chắn, mãi cho đến ngày kia thì vòng vây đã siết chặt quanh hòn núi như ở nhà quê người ta cạo trọc đầu con trẻ, chừa lại chiếc bánh bèo". Nhưng rồi một ngày kia, bọn di dân chiếm đất bỗng thấy sáu con suối phát xuất từ đỉnh núi, chẩy xuống miền khẩn hoang dần dần bớt nước, rồi cạn hẳn. Thủ phạm là mụ Mọi già. Mụ đút nút nguồn của sáu ngọn suối bằng thịt cây gồ, một thứ gỗ khi thấm nước, nó cứ nở mãi, nở mãi... Không bắt được mụ, bọn di dân bèn đốt rừng, đốt mụ.
"Lửa leo núi được vài giờ thì người ta nghe tiếng hú dài ghê rợn trên đỉnh núi nổi lên.
Tiếng hú như kêu gọi một cách tuyệt vọng đồng bào sơn dã của mụ đến giải thoát mụ ... tiếng kêu của mụ mất hút trong không khí, không có lấy một tiếng vang nào vẳng lại.
Tiếng hú vang rền từng hồi, hấp hối, rồi lại nấc lên và rốt cuộc chết lần, tắt hẳn, trong ngọn lửa cao ngất trời đã bò lên tới đỉnh".
Tác phẩm của Bình Nguyên Lộc gây ấn tượng kinh hồn trong lòng người đọc về tội ác của tổ tiên mình.
Đến bài Hận Đồ Bàn của nhạc sĩ Xuân Tiên, là một tác phẩm độc đáo khác. Xuân Tiên ông không đổi tên thành Chế, nhưng ông đã làm một bản nhạc tuyệt vời tưởng niệm dân Chàm:[indent]
Rừng hoang vu, vùi lấp bao nhiêu uất căm hận thù,
Ngàn gió ru, muôn tiếng vang trong tối tăm mịt mù
Vạc kêu sương buồn nhắc đây bao lúc xưa quật cường
Đàn đóm vương, như bóng ai trong lúc đêm trường về

Rừng trầm cô tịch đèo cao thác sâu hoang vắng cheo leo
ngàn muôn tiếng âm, tháng năm buồn ngâm
âm thầm hoạ bài hận vong quốc ca

Người xưa đâu mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu
Lầu các đâu nay thấy chăng rừng xanh xanh một mầu
Đồ Bàn miền Trung đường về đây máu như loang thắm
chưa phai dấu xương trắng sâu vùi khí hờn căm... khó tan

Kìa ngoài trùng dương đoàn thuyền ai nhấp nhô trên sóng
xa xa tắp
mơ bóng Chiêm thuyền Chế Bồng Nga
vượt khơi...
về kinh đô, ngàn thớt voi uy hiếp quân giặc thù
triền sóng xô, muôn lớp quân Chiêm tiến như tràn bờ
Tiệc liên hoan, nhạc tấu vang lên khí thiêng Đồ Bàn
dạ yến ban...

Người xưa đâu, mộ đắp cao nay đã sâu thành hào
Lầu các đâu, nay thấy chăng rừng xanh xanh một mầu? [/indent]

Bình Nguyên Lộc gọi người Việt là quân xâm lăng, Xuân Tiên gọi người Việt là quân giặc thù, đúng quá và đáng quá. Niềm ăn năn bất tận của một dân tộc có tội ác được nói lên công khai qua nghệ thuật. Nhạc của Xuân Tiên toát ra khí thiêng, đượm hồn sông núi, não nùng quyến rũ như những điệu múa Chiêm nữ trên đỉnh tháp chàm. Mỗi khi một ca sĩ hát lên, dù là người Chiêm chính hiệu như Chế Linh, hay Lão Nông, gốc Cần Thơ, hay người Việt Duy Khánh, gốc Quảng Trị, hoặc Trường Vũ gốc Triều Châu... ta nghe đều giật mình, rung động, nổi da gà. Một cảm tình không thể diễn tả được: ta vừa tự hào là kẻ chinh phục, vừa xám hối là kẻ giết người, giống như tình trạng người dân châu Mỹ La tinh, thù ghét tổ tiên mình, những tên Bồ, tên Y đã chinh phục cưỡng chiếm mẹ da đỏ để làm nên dân tộc họ. Tổ tiên ta cũng đã cưỡng chiếm Chiêm Thành để làm nên miền Trung, xương sống nước Việt.
Và ta, cùng với niềm hối hận khôn nguôi là một niềm vinh dự vô bờ, bởi sự kết hợp hai dân tộc anh hùng trong một.

Paris tháng 6/2019

Thụy Khuê


------------------------------------------------------------------------------------------

P/S: Dạ, cho hỏi trong bài viết của Thụy Khuê thì "Đứng trước ngôi mộ bề thế hình nửa trái địa cầu, của tướng quân, và ngôi mộ chữ nhật, bé hơn, của cai cơ Nguyễn Tấn Huyên gieo mình vào lửa chết theo chủ tướng".

Còn trong bài của bạn Thúy Hà Lê thì "khu mộ Võ Tánh hình tròn, mộ Ngô Tùng Châu hình vuông bên cạnh. Vì Châu quê gần đó nên dòng họ đã dời cốt về chôn trong lăng gia đình."
vậy Mộ hình chữ nhật là của ai? của ngài Nguyễn hay ngài Ngô?

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Mộ Nguyễn Tấn Huyên và Võ Tánh

Thanked by 1 Member:

#54 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 02/04/2020 - 20:05

MỘT CÁCH HIỂU KHÁC VỀ “MỐI BẤT HÒA”
GIỮA VUA MINH MẠNG VÀ TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT

(chuyện cũ 6 năm với nhiều chi tiết được cập nhật, chỉnh sửa và bổ sung)
Trong lịch sử triều Nguyễn, và có lẽ trong cả lịch sử nước Việt, chưa vụ án nào có tính nghiêm trọng và kỳ lạ như vụ án Tả quân Lê Văn Duyệt, được tuyên sau khi ông đã mồ yên mả đẹp hơn ba năm trời. Giữa năm 1835, vụ nổi dậy tại thành Phiên An do con nuôi ông Duyệt là Nguyễn Hữu Khôi (sau bị đổi là Lê Văn Khôi) chủ xướng bị quân triều đình dẹp tan sau hơn hai năm vất vả, khó nhọc, thì cuối năm 1835, ông bị mang ra truy xét và bị kết 7 tội trảm (chém đầu), 2 tội giảo (treo cổ), ngôi mộ ở Gia Định bị xiềng lại, dựng bia đề hàng chữ “Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ”.
Cũng từ vụ án trên mà không ít tác giả đã kết nối nhiều sự kiện xảy ra từ lúc vua Minh Mạng chưa lên ngôi đến sau ngày Tả quân Lê Văn Duyệt qua đời thành một chuỗi xuyên suốt nhằm minh họa cho điều mà họ gọi là mối bất hòa nghiêm trọng giữa hai nhân vật lịch sử này.
Trong chuỗi sự kiện đó, có các câu chuyện sau:
- Chuyện Hoàng tử Đảm (sau là vua Minh Mạng) được chỉ định làm chủ tế trong lễ tang mẹ nuôi của ông là Thừa Thiên Cao Hoàng hậu vào năm 1814.
- Chuyện đình nghị chọn Hoàng tử Đảm làm Hoàng Thái tử (sẽ kế vị ngôi vua) vào năm 1816
- Chuyện Tả quân Lê Văn Duyệt giết cha vợ vua Minh Mạng vào năm 1820.
Các sự kiện đó lần lượt được chính sử ghi lại như sau:
* Năm 1814, Thừa Thiên Cao hoàng hậu băng, khi bàn về việc chọn người chủ tự, sử chép rằng có người bàn chọn hoàng tôn Đán (con Hoàng thái tử Cảnh), nhưng vua Gia Long không thuận vì hoàng tử Đảm là con nuôi có văn tự của hoàng hậu, việc con tế mẹ không có gì không hợp lẽ. Sử cũng chép rõ là sau quyết định này của nhà vua, “Nguyễn Văn Thành tỏ ý không bằng lòng”. Và không có một dòng nào nhắc đến Lê Văn Duyệt hết.
- Năm 1816, tháng ba âm lịch, vua Gia Long triệu bầy tôi đến, giao cho Thượng thư bộ Lại Trịnh Hoài Đức viết chỉ lập hoàng tử Hiệu (Đảm) làm Hoàng Thái tử và hỏi ý kiến mọi người. Sử chép rằng :”Quần thần đều nói:’Ý thánh định trước, thực là phúc không cùng của Xã tắc, bọn thần xin noi theo mệnh lệnh’”. Không có dòng nào nói đến chuyện hai ông Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt chống lại việc lập hoàng tử Đảm làm Thái tử hết!
- Năm 1820, sau khi vua Minh Mạng vừa lên ngôi, Tả quân Lê Văn Duyệt xin và được nhà vua cho trở vào Gia Định, tiếp tục cương vị Tổng trấn Gia Định thành đã giao tạm cho người khác từ trước năm 1816. Nhà vua đã tiếp kiến ông Duyệt, cho phép tự quyết định "việc thành và việc biên cương, hưng lợi trừ hại, tùy nghi mà làm", một hình thức tiền trảm hậu tấu dành cho những đại thần gánh vác việc quan trọng.
Ông Duyệt vào đến Gia Định, tiếp nhận nhiều oán thán của dân về sự nhũng nhiễu của Phó Tổng trấn Huỳnh Công Lý, cha của một trong những nàng hầu của vua Minh Mạng. Sau khi điều tra sự việc, nắm rõ việc làm tệ hại của Công Lý, Lê Văn Duyệt tâu về triều. Việc tống giam họ Huỳnh do triều đình trực tiếp quyết định và trong nhiều buổi chầu, vua Minh Mạng thường nhắc đi nhắc lại tội trạng của Công Lý để làm răn với mọi người. Cái chết của viên Phó Tổng trấn này cũng nằm ngoài tầm tay của ông Duyệt.
Tuy nhiên, trong nhiều năm qua, một số cây bút đã nêu lên những sự kiện kể trên với nhiều sai lạc, nhằm tô đậm điều họ gọi là mối bất hòa giữa Tả quân Lê Văn Duyệt và vua Minh Mạng. Họ cho rằng mối bất hòa này bắt nguồn từ việc ông Duyệt (cùng Nguyễn Văn Thành) muốn đưa con trai Hoàng tử Cảnh (Hoàng tôn Đán, sau là Mỹ Đàng) lên kế vị thay vì chọn Hoàng tử Đảm (vua Minh Mạng về sau), khiến sau khi lên ngôi, vua Minh Mạng nuôi trong lòng mối ác cảm với vị Tổng trấn họ Lê. Trong khi đó, theo chính sử, ông Duyệt chưa từng có lần nào đề xuất ý kiến chọn con hoàng tử Cảnh làm chủ tế hay nối ngôi.
Chẳng những thế, các cây bút trên vẽ vời về chuyện bắt tội Huỳnh Công Lý, cho rằng ông Duyệt dùng quyền tiền trảm hậu tấu chém đầu Lý trước khi có chỉ của triều đình cho giải Lý về kinh. Chi tiết "giết cha vợ vua Minh Mạng" được nhấn mạnh thường xuyên để tạo sự giật gân và dùng để giải thích về mối bất hòa của ông Duyệt với nhà vua. Trên thực tế, Lê Văn Duyệt không hề giết Huỳnh Công Lý. Mặt khác, vua Minh Mạng có hàng trăm nàng hầu, không chắc nhớ mặt nhớ tên từng bà, chuyện liên quan đến sự phạm pháp của một trong hàng trăm cha mẹ của những nàng hầu ấy không có gì quan trọng cả.
Từ những thực tế lịch sử này, ta thấy rằng các yếu tố nòng cốt được sử dụng để minh họa cho điều gọi là sự bất hòa giữa Tả quân Lê Văn Duyệt và vua Minh Mạng đã bị làm cho méo mó, sai lạc rất nhiều.
Bên cạnh những yếu tố trên, có thể xét thêm một số chi tiết cần được làm rõ như sau:
* Không ít người cho rằng Lê Văn Duyệt ỷ mình công lớn, ăn nói bổ bả, coi thường cả vua Minh Mạng, nhưng những gì ghi trong chính sử cho thấy ông là một quan lại rất biết điều phải trái. Năm 1825, một viên thơ lại thuộc tào Binh ở Gia Định thành lỡ tay đóng triện ngược trong sổ binh dâng về triều, cho dù là một sơ xuất nhỏ của người dưới quyền, song khi hay tin, Tả quân Lê Văn Duyệt đã dâng biểu xin nhận tội vì lỗi không trông nom kẻ dưới.
Việc làm này thật quá khiêm cung của một bề tôi. Vua Minh Mạng đã miễn trách, lại còn ban dụ rằng:”Duyệt là bậc đại thần ở nơi bờ cõi, phàm trong hạt việc lợi thì làm, việc hại thì bỏ, người có tài thì tiến lên, người không tài thì bãi đi, khiến quan lại được xứng chức, nhân dân được yên nghiệp, như thế thì quan to sợ phép, quan nhỏ giữ liêm, ai là không biết khuyên răn, phép làm cho quan lại trong sạch như thế chẳng là đẹp tốt sao ? Điều mà trẫm đòi ở Duyệt là ở đó, mà Duyệt làm được xứng chức cũng là ở đó…” (Đại Nam thực lục). Những lời nói đó không ẩn chứa một điều gì có thể giúp suy diễn rằng nhà vua nuôi lòng oán hận hay đố kỵ với ông Duyệt hết.
* Đến như khi Tổng trấn Lê Văn Duyệt có một việc làm tuy hợp tình hợp lý song không được nhà vua chấp nhận, như việc xuất kho gạo cứu đói cho người dân Chân Lạp, khi ông về Huế bệ kiến vào năm 1827, nhà vua cũng cho lên điện ngồi (một đặc ân hiếm hoi dành cho quan lại) và ôn tồn trách cứ:”Trước đây Chân Lạp kêu đói, khanh tiện nghi phát chẩn, không phải là việc nhỏ đâu. Quyền nghi thông biến ở khanh thì còn được, chứ người khác thì phải cẩn giữ pháp độ” (ĐNTL). Sử còn chép rằng:” Mỗi lần Duyệt vào chầu, vua còn đãi hậu hơn lên, từng nói với thị thần là bọn Trần Văn Năng, Tống Phước Lương rằng:” Người ta nói Duyệt tính bướng, nay trẫm xem ra là người trung thuận, cái nghĩa thờ bề trên có sẵn lúc ngày thường . Thì ra cái tính bướng bỗng đã gột sạch, không ngờ tuổi già lại tỉnh ngộ như thế” (ĐNTL)
* Giữa năm 1828, Tả Tham tri bộ Hộ (như Thứ trưởng bộ Tài chánh) Trần Nhật Vĩnh khi còn ở Gia Định thành được Lê Văn Duyệt tin dùng nên đã làm những chuyện bại hoại như ăn của đút, chiếm đoạt tài sản của người…, khi vừa mới đổi đi, dân nộp đơn kiện. Tả quân Lê Văn Duyệt đã đem việc này tâu lên, xin giải Vĩnh về Gia Định để đối chất, lại xin cử quan ở Huế về cùng hội xét, đồng thời làm tờ tâu xin nhận tội đã tin dùng kẻ làm bậy. Nếu đã sẵn mối bất hòa thì đây là cơ hội vàng cho nhà vua xuống tay, song vua Minh Mạng cũng chỉ nói với ông Duyệt:” …có lỗi mà biết lỗi thánh nhân còn tha, nữa là trẫm đối với khanh à. Việc khanh xin nghị xử thì gia ân miễn cho. Vậy ban dụ này ân cần chỉ bảo cho được yên lòng” (ĐNTL). Nhận được chỉ dụ, ông Duyệt vô cùng mừng rỡ.
* Thân phụ Lê Văn Duyệt là Lê Văn Toại chưa một ngày ở chốn quan trường, dưới triều Gia Long-Minh Mạng đã được phong Thống chế, hàm chánh nhị phẩm (ngang Thượng thư), vậy mà cho rằng như thế còn chưa xứng, đến đầu năm 1828, vua Minh Mạng còn thăng ông Toại lên chức Đô thống, hàm tòng nhất phẩm, bà Toại được phong làm Nhất phẩm phu nhân. Nếu không một lòng trọng đãi ông Duyệt, nhà vua không bao giờ làm thế.
Những chi tiết lịch sử trên không cho thấy một dấu hiệu bất hòa rõ ràng nào giữa hai nhân vật lịch sử Minh Mạng và Lê Văn Duyệt , ít nhất là trong lúc ông Duyệt còn tại thế. Sau khi ông Duyệt đã qua đời, Bố chánh Bạch Xuân Nguyên lấy cớ có mật chỉ của triều đình truy xét việc làm của cố Tổng trấn, việc này còn là một chi tiết mơ hồ, vì không ai rõ trên thực tế có mật chỉ không, nếu có thì nội dung ra sao, và họ Bạch có làm đúng mật chỉ không? Chỉ biết rằng việc tác oai tác quái của Xuân Nguyên đã làm nổ ra vụ nổi dậy của Lê Văn Khôi và binh lính thành Phiên An, khiến cho binh triều lắm phen vất vả.
Mãi sau khi lấy lại được thành Phiên An, triều đình mới làm cái việc giận cá chém thớt, một số quan lại được lệnh “làm án” Lê Văn Duyệt với những lời kết tội hàm hồ, như “sai người đi Diến Điện âm kết ngoại giao”, “giấu chứa giấy ngự bảo”, “mộ cha tiếm gọi là lăng”…, mỗi việc như thế là một tội chết!
Theo thiển ý của người học sử này, bản án Lê Văn Duyệt xuất phát từ tấm lòng ganh tỵ, thù ghét ông Duyệt của một số quan lại triều đình từ khi ông còn sống, nay được dịp thừa gió bẻ măng, và chủ yếu từ vụ nổi dậy ở thành Phiên An mà người chủ xướng là con nuôi ông Duyệt, sau khi vị Tả quân đã qua đời. Tất nhiên, nhà vua phải chịu trách nhiệm cuối cùng về quyết định của triều đình đối với một bậc khai quốc công thần đã chết, song đó là một quyết định u mê đúng hơn là hành vi xuất phát từ một mối bất hòa chất chứa từ hàng chục năm trước.
Từ vụ án Lê Văn Duyệt, có thể xác định là bên cạnh những việc ích nước lợi dân to lớn mà triều Minh Mạng đã làm được, từ việc đào sông Thoại Hà, kênh Vĩnh Tế ở An Giang, lập hai huyện Kim Sơn, Tiền Hải ở phía Bắc, bảo vệ biên cương và mang lại cơm no áo ấm cho nhiều người, vua Minh Mạng đã chuốc lấy ít nhất hai vết nhơ sâu đậm trong đời làm vua của ông, một là u mê hành xử theo kiểu giận cá chém thớt trong vụ án Lê Văn Duyệt (và Lê Chất), hai là nhẫn tâm sát hại trên một ngàn người chỉ trong một ngày, bất kể binh dân hay nam phụ lão ấu, trong vụ “mả ngụy” đã được đề cập đến trong một bài khác.
Lê Nguyễn
30.3.2014 - 30.3.2020





Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 3 Members:

#55 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 08/06/2020 - 19:35

LĂNG BÀ VÚ - VUA GIA LONG NINH HÒA

Lăng Bà Vú (còn gọi là Lăng Nhũ Mẫu), tọa lạc tại tổ 9, phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.
Lăng Bà Vú là nơi chôn cất người phụ nữ đã có công giúp chúa Nguyễn Phúc Ánh qua cơn hoạn nạn lúc giao tranh với nhà Tây Sơn. Công trình do vua chỉ đạo xây dựng theo kiến trúc lăng tẩm để đền ơn đáp nghĩa nên dân gian gọi là lăng.
Năm 1775 trở đi, Khánh Hòa là vùng đất thường xuyên xảy ra việc tranh chấp giữa quân Tây Sơn và quân Chúa Nguyễn. Sách Đại Nam thực lục ghi chép: Nguyễn Ánh đã 5 lần đem quân ra đánh chiếm phủ Bình Khang (Khánh Hòa ngày nay) và trong tất cả những lần đó, Nguyễn Ánh đều bị quân Tây Sơn đánh cho tan tác, bị đuổi chạy khắp nơi, điển hình như trận thủy chiến ở khu vực Hòn Thị (năm 1784).
Khi giao tranh với nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh nhiều lần thất bại phải kéo tàn quân bỏ chạy, trong một lần khi chạy đến làng Mỹ Hiệp thì lương thực cạn kiệt, trong mình lại đang bị bịnh, quân lính vừa đói vừa kiệt sức…tình thế vô cùng nguy khốn. Trong đêm tối, Nguyễn Ánh cùng đoàn tùy tùng đến gõ cửa nhà một người dân để xin cơm đỡ dạ. Chủ nhà (tương truyền là bà Trương Thị Tiềm) động lòng trắc ẩn nên mời Nguyễn Ánh và đám tùy tùng vào nhà nghỉ ngơi. Sau đó, bà cho người giúp việc giết heo làm thịt, nấu cơm đãi tất cả mọi người, đồng thời cung cấp thêm lương thực để đi đường. Riêng đối với Nguyễn Ánh, ngoài việc lo thuốc men chu đáo, bà còn cho người vắt sữa bò cho ông uống để mau phục hồi sức khỏe. Nhờ sự chăm sóc tận tình và đối đãi tử tế mà Nguyễn Ánh sớm lành bịnh, dần dần phục hồi sức khỏe để tiếp tục kéo quân về phương Nam.
Nhớ lại ơn người cứu giúp năm xưa, vua Gia Long sai người về làng Mỹ Hiệp đưa bà cụ ra kinh đô phụng dưỡng. Tuy nhiên, khi sứ giả tới nơi thì bà cụ đã mất. Để tỏ lòng tri ân, vua Gia Long truy phong cho bà danh hiệu “Nhũ Mẫu” (người Vú nuôi). Đồng thời, vua ra lịnh cho bộ Công cử một số thợ giỏi đang xây dựng cung điện nhà vua ở kinh đô lúc bấy giờ vào Mỹ Hiệp phối hợp với thợ địa phương xây dựng lăng mộ cho người Vú nuôi theo quy cách lăng tẩm của hoàng tộc. Khu lăng mộ được xây dựng trong hai năm, từ năm 1802 đến năm 1804 hoàn thành. Buổi lễ khánh thành được tổ chức cúng rất lớn và do quan đầu tỉnh trực tiếp làm chủ lễ.
Bên cạnh đó, vì Bà không có con cháu để nhang khói và tế tự, vua còn cấp ruộng đất cho bà con trong vùng cày cấy không phải nộp thuế để lo cúng giỗ của Bà (truyền khẩu là ngày 16 tháng Chạp). Hàng năm, cứ đến ngày giỗ của Bà, chức sắc và dân làng tập trung làm lễ giỗ rất trọng thể, đủ lễ nhạc như các lăng tẩm ở triều đình. Từ đó, việc nhang khói, cúng tế ở lăng Bà Vú vẫn do quan Tuần Vũ Khánh Hòa đến làm chủ lễ theo lệ Xuân Thu nhị kỳ. Ngày nay, Ban quản lý di tích cùng chánh quyền và nhơn dân địa phương vẫn tổ chức lễ giỗ Bà Vú vào ngày 16 tháng Chạp hàng năm.
Lăng Bà Vú nằm trên một khu đất rộng 1.766 m2 (lăng mộ có diện tích 291m2 ). Phía trước lăng là khoảng đất trống rộng dùng trồng hoa, cây cảnh, xa nhứt về phía trước là hồ nước hình chữ nhật (diện tích 262m2), theo quan niệm xưa, di tích có vị trí đẹp thì phía trước phải có hồ nước là nơi tụ thủy (tức là tụ phúc) làm yếu tố minh đường và phía sau lăng Bà Vú là một hòn giả sơn đắp bằng đất làm yếu tố hậu chẩm (thế dựa lưng), tuy nhiên vì nhiều nguyên nhơn hiện nay hòn giả sơn đã không còn.
Lăng quay về phía Đông, hơi lệch sang hướng Bắc (chừng 150), có kết cấu gồm 3 lớp tường thành:
– La Thành (Lớp tường thành thứ 1): Bao bọc bên ngoài hình chữ nhựt (kích thước 9,65m x 13,46m), có cửa vào rộng 3,62m, chiều cao trung bình 2,0m. Trên đỉnh ở hai bên cổng đắp 2 con lân nằm với chất liệu vôi vữa. Đỉnh thành có đắp mũ, trát gờ chỉ. Mặt ngoài trát vữa tô trau, mặt trong trang trí các cảnh tích. Trên hai góc tường phía trước nguyên đắp câu đối nhưng nay đã mờ gần hết chữ, dưới hai con lân đắp nổi hai chữ Phúc.
.– Bửu Thành (Lớp tường thành thứ 2): Có dạng hình chữ nhựt (kích thước 9,43m x 12,3m), cao 1,385m, cửa mở về phía Đông (giống La Thành), rộng 2,97m. Đỉnh tường cũng đắp mũ tròn, gờ chỉ. Trên cổng ở hai bên cũng đắp 2 con lân trong tư thế đặt một chưn lên quả cầu. Toàn bộ mặt trong và ngoài của Bửu Thành trang trí ô hộc, đắp hoa văn và cảnh tích bằng vữa tô màu.
– Uynh Thành (Lớp tường thành thứ 3): Là vòng thành trong cùng bao bọc lấy phần mộ. Uynh Thành có dạng hình ô van, đỉnh tường thành nhấp nhô kiểu yên ngựa (đầu và đuôi cao, giữa thấp). Thành được tạo dáng giống như hai con lân quấn đuôi vào nhau, hai đầu nằm trên cổng. Các chùm tóc xoắn lông, chùm đuôi lân đắp nối liền với đầu, trùm lên mũ tường Uynh Thành; thân tường chia ô hộc và đắp hoa văn cảnh tích.
Từ ngoài vào trong, ngoài 3 vòng thành nói trên còn có án phong, bệ bia, huyệt mộ và hương án.
– Về vật liệu: Lăng mộ được xây bằng vữa truyền thống theo kỹ thuật thời Nguyễn, người dân địa phương quen gọi là “bê tông cổ” hay vữa tam hợp. Các nhà nghiên cứu cho rằng, hợp chất này được chế tạo bằng cách trộn các vật liệu gồm: cát thô (cỡ hạt tới 10mm), vôi hàu giã, bột giấy, mật mía, nhựa cây bời lời (hoặc lá bồ đề giã nhỏ lấy nhớt). Các vật liệu được hòa trộn với nhau theo một tỉ lệ nhứt định và kết cấu công trình có bền vững hay không phụ thuộc vào tỉ lệ pha trộn vật liệu của người nghệ nhân. Các tường thành hoặc khối tạo hình theo từng lớp dày 20-30cm, vữa trát ngoài hoặc các họa tiết trang trí dày 12mm. Màu sắc các chi tiết được xử dụng theo màu truyền thống pháp lam Huế.
– Về hoa văn trang trí: Các họa tiết trang trí ô hộc và các văn tự phần lớn được đắp trên các tường thành: La Thành, Bửu Thành, Uynh Thành….Hệ thống ô hộc dàn trải trong không gian của từng vòng thành bao bọc khu Lăng mộ. Đề tài thể hiện phỏng theo những cảnh tích cổ như: Nhị thập tứ hiếu (Lão Lai Tử, Quách Cự, Lục Tích, Giang Cách, Hoàng Hương, Dương Hương, Tăng Tử, Mẫn Tử Khiên…), thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh, Sơn thủy tùng định, Bát tiên, Tùng lộc, Dương liễu, Song phụng triều nghi,…Các cảnh tích này thể hiện lối sống thanh t*o, trong sáng của người quân tử; đạo nghĩa làm người…nhằm thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.
Các ô hộc có kích thước lớn được trang trí bằng những hồi văn chữ Vạn hay những hoa văn dây leo được cách điệu. Đặc biệt khu vực Hương án, các họa tiết trang trí được thể hiện khá chi tiết. Đây được xem như ngai thờ, cũng là điểm chánh của khu Lăng mộ. Ngoài các họa tiết hoa văn trang trí còn có một bức văn bia bằng chữ Hán Nôm có nội dung ca ngợi Đức hạnh Bà Vú.
Tài liệu tham khảo:
Đại Nam thực lục, Đại Nam Nhứt Thống chí.

Đất và Người Nam Kỳ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn







Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:

#56 nahtlee

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 269 Bài viết:
  • 184 thanks

Gửi vào 10/06/2020 - 16:16

Họ giỗ tổ là đúng theo lẽ thường.
Tàu và ta xưa kia đều có chung 1 bố mà ra cả, a phương bắc , e phương nam , mà xưa kia lãnh thổ nước ta rộng đến sông Dương Tử luôn thì giờ còn sót lại phần cũ vẫn giữ được nguồn gốc có gì lạ.

#57 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 13/07/2020 - 20:17

HÔM NAY, KỶ NIỆM HAI SỰ KIỆN XẢY RA CÁCH ĐÂY 135 NĂM
Hôm nay, ngày 13/7/2020 (23 tháng Năm, Canh Tí), là một ngày rất đặc biệt: kỷ niệm 135 năm ngày “Thất thủ kinh đô” (23 tháng Năm, Ất Dậu, nhằm ngày 5/7/1885) và kỷ niệm 135 ngày vua Hàm Nghi ban “Dụ thiên hạ Cần vương” (ngày 2 tháng Sáu, Hàm Nghi nguyên niên, nhằm ngày 13/7/1885) ở căn cứ Tân Sở (Cam Lộ, Quảng Trị), kêu gọi toàn dân đứng lên chống Pháp cùng triều đình nhà Nguyễn.
Xin giới thiệu tóm lược về hai sự kiện này từ những nguồn tài liệu đã được công bố, để ai quan tâm thì đọc, copy hay share tùy ý.
1. THẤT THỦ KINH ĐÔ
Nhận rõ việc trước sau gì thực dân Pháp cũng mở rộng ách xâm lược ra toàn cõi Đại Nam và sẽ bắt triều đình nhà Nguyễn trở thành một triều đình hư vị đặt dưới sự cai trị của người Pháp, nhóm chủ chiến trong triều đình Huế do Tôn Thất Thuyết (Phụ chính đại thần, Thượng thư bộ Binh) cầm đầu, đã chuẩn bị một kế hoạch kháng Pháp lâu dài.
Sau khi phế bỏ được vua Hiệp Hòa (cầm quyền được 4 tháng năm 1883, bị nhóm chủ chiến cho là thân Pháp), nhóm chủ chiến đã khởi công xây dựng căn cứ Tân Sở ở vùng rừng núi thuộc huyện Cam Lộ, phía tây tỉnh Quảng Trị từ cuối năm 1883.
Song song với việc chấn chỉnh quân đội, nâng cao khả năng và tinh thần chiến đấu, tinh giản bộ máy hành chính, nhóm chủ chiến đã bắt tay chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến chống Pháp lâu dài: họ sắp đặt kế hoạch dời các tỉnh thành lên các sơn phòng ở phía tây, tu bổ và mở rộng con đường thượng đạo dọc theo Trường Sơn, chuẩn bị để đưa nhà vua rời khỏi Huế trong trường hợp xảy ra giao chiến...
Tuy nhiên, công việc chuẩn bị và thực hiện của nhóm chủ chiến ở triều đình Huế, đều bị các giám mục Caspar (ở Huế), Camelbeck (ở Quy Nhơn) và Puginier (ở Hà Nội) theo dõi và mật tường trình cho Pháp.
Để ngăn chặn quá trình thực hiện của triều đình Huế, vào tháng 3/1884, tướng Pháp Courbet đã đề nghị với chính phủ Pháp cho phép ông ta mở cuộc tấn công vào Kinh đô Huế, nhưng bấy giờ hai bên đang thương thảo một hòa ước, sau này có tên là Hòa ước Giáp Thân (ký kết vào ngày 6/6/1884), nên kế hoạch tấn công Kinh đô Huế của Courbet không được chuẩn thuận.
Đầu tháng 7/1885, Thống tướng De Courcy (Pháp) đem quân đến Huế với ý đồ gây áp lực buộc triều đình phải thi hành Hòa ước Giáp Tuất (1884). Hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết là quan Phụ chánh nắm hết mọi quyền hành trong triều lúc bấy giờ. Thái độ của De Courcy rất hống hách; vừa đến nơi thì hôm sau đã yêu cầu hai quan Phụ chánh sang gặp mặt để bàn định về việc bệ kiến vua Hàm Nghi. Chỉ có Nguyễn Văn Tường, vốn mưu trí và ngoại giao khôn khéo, sang gặp, còn Tôn Thất Thuyết cáo bệnh không đi; De Courcy bảo dẫu có bệnh cũng phải khiêng sang. Bàn về lễ bệ kiến vua Hàm Nghi, De Courcy đòi cùng đoàn tùy tùng đi cửa giữa của Ngọ Môn. Điều này trái với quốc lễ vì cửa giữa chỉ dành riêng cho vua. Phía triều đình chỉ bằng lòng để một mình De Courcy đi cửa giữa (như sứ Tàu), còn đoàn tùy tùng thì đi cửa hai bên nhưng De Courcy không chịu. Thái độ hống hách này làm Phụ chánh Tôn Thất Thuyết không chịu được, quyết định phải đánh úp một trận, may ra thắng được thì cũng hả dạ.
Ngày 04/7/1885, De Courcy từ chối không tiếp các quan của Viện Cơ Mật sang Tòa Khâm sứ để thương thảo về nghi thức bệ kiến vua Hàm Nghi, ông ta cũng từ chối không nhận quà tặng xã giao của Hoàng Thái hậu Từ Dụ (mẹ vua Tự Đức). Tối hôm đó, lợi dụng việc De Courcy mở tiệc tại Tòa Khâm sứ khoản đãi các sĩ quan Pháp, Phụ chánh Tôn Thất Thuyết đã phóng ra một cuộc tấn công vào hai mục tiêu là Tòa Khâm sứ và đồn Mang Cá (Trấn Bình Đài) là nơi Pháp đóng quân tại góc đông bắc Kinh thành Huế.
Ban đầu, vì bị tấn công bất ngờ, lại đêm hôm tăm tối, chưa nắm được tình hình nên quân Pháp chỉ bắn cầm cự, đến tảng sáng, khi quân Việt hết thuốc đạn, cuộc nổ súng yếu dần thì quân Pháp phản công, quân ta thua chạy, đến 8 giờ sáng ngày 05/7/1885 (tức 23 tháng Năm Ất Dậu), Kinh đô hoàn toàn thất thủ. Nhà cửa dân chúng, dinh thự, bị đốt cháy, kho tàng bị cướp phá, hàng ngàn dân chúng và quân lính chết vì súng đạn hoặc vì dẫm đạp lên nhau khi tranh nhau chạy thoát ra các cửa thành, tạo nên một cảnh tang tóc kinh hoàng chưa từng có.
Phụ chánh Nguyễn Văn Tường được bà Từ Dũ chỉ thị ở lại để điều đình với Pháp. Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi ra Quảng Trị, rồi Quảng Bình, cầm đầu cuộc kháng chiến Cần vương chống Pháp. Không chiêu dụ được vua Hàm Nghi trở về, người Pháp và triều đình Huế lập Kiên Giang Quận Công Nguyễn Phúc Ưng Đường, anh ruột vua Hàm Nghi, lên thay (19/9/1885), tức vua Đồng Khánh.
Do sự tổn thất lớn lao này, ngày 23 tháng Năm hàng năm trở thành ngày giỗ tập thể của Huế bắt đầu từ đó, và chính triều đình cũng phải lập một đàn thờ những oan hồn này ngay trong Kinh thành và làm lễ tế hàng năm.
(Dẫn theo: Trần Viết Ngạc, “Không có chiếu Cần vương nào cả!”,

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

; Ngày 9/11/2010; Võ Hương-An, “Từ điển Nhà Nguyễn”, Nam Việt xuất bản, California, 2012, tr. 638).
2. VUA HÀM NGHI BAN “DỤ THIÊN HẠ CẦN VƯƠNG” TỪ TÂN SỞ
Nhiều sử liệu bằng tiếng Việt đã gọi văn bản do vua Hàm Nghi ban hành từ Tân Sở (Quảng Trị) là “Chiếu Cần vương”, trong khi sách “Đại Nam thực lục” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, ghi là “Dụ thiên hạ Cần vương” hay “Dụ Cần vương” (Đại Nam thực lục, tập 36, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, tr. 225, 241, 244).
* Theo NNC. Trần Viết Ngạc (trường ĐH Sư phạm TPHCM), thì:
“Chiếu và dụ là hai loại văn bản đều do nhà vua ban hành, nhưng hình thức cũng như nội dung rất khác nhau:
- “Chiếu” (proclamation) là một tuyên cáo, một thông báo quan trọng của nhà vua cho toàn dân được biết về một sự kiện quan trọng, một nhu cầu thiết yếu của quốc gia như “Chiếu dời đô” (Lý Thái Tổ), “Chiếu thân chinh Chiêm Thành” (Lê Thánh Tông), chiếu lên ngôi, chiếu cầu hiền... Mở đầu của bài chiếu là một cụm từ quy ước: “Thừa Thiên hưng vận, Hoàng đế chiếu viết”... hoặc là “Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu viết”... (Vâng trời ứng vận, Hoàng đế ban chiếu rằng...).
- “Dụ” (decree, edict) là một mệnh lệnh của nhà vua có giá trị như một đạo luật, một sắc lệnh, bắt buộc đối tượng nhận “dụ” (tiếp dụ) phải thi hành. Kháng dụ là một trọng tội. Mở đầu một đạo dụ là hai chữ: “Dụ viết” (dụ rằng), khi dịch có thể viết “Dụ” hoặc “Dụ rằng”... Kết thúc luôn luôn là hai chữ “khâm thử”. Như thế mở đầu và kết thúc của dụ rất đơn giản và không thể khác được”.
* Theo sách “Từ điển Nhà Nguyễn” của NNC. Võ Hương-An (tức Võ Văn Dật, California, Hoa Kỳ), thì:
- “Dụ (諭): Lệnh của vua truyền ra bằng lời hoặc bằng văn bản. Khi Quốc sử quán vâng lệnh chép bộ “Đại Nam thực lục” (Thực lục I, tr. 200), đã đề ra những nguyên tắc biên soạn (Phàm lệ), có nói rõ: Lời vua ban xuống gọi là sắc là dụ. Công đồng tuân theo ý của vua mà truyền bảo cũng viết chữ sắc, chữ dụ”
- “Cần vương” nghĩa là hết lòng, tận tụy vì vua.
(Võ Hương-An, “Từ điển Nhà Nguyễn”, Nam Việt xuất bản, California, 2012, tr. 146).
Như vậy bản văn mà chúng ta quen gọi là “Chiếu Cần vương”, thực ra là “Dụ Cần vương” hay “Dụ thiên hạ Cần vương”, là một mệnh lệnh của vua Hàm Nghi ban ra từ Tân Sở (xem ảnh).
* “Dụ Cần vương” được ban hành vào ngày 13/7/1885 sau khi vua Hàm Nghi cùng những lãnh đạo chủ chốt của nhóm chủ chiến thất bại trong vụ phản công Kinh thành Huế vào ngày 5/7/1885, phải xuất bôn ra Tân Sở, ban dụ kêu gọi toàn dân thi hành nghĩa vụ cứu vua, giúp nước.
Bấy giờ vua Hàm Nghi còn vị thành niên, nên có thể hiểu rằng dụ này do Tôn Thất Thuyết nhân danh vua mà làm ra và ban hành.
Nội dung lời dụ nhằm kêu gọi, là sự kích động lòng trung quân ái quốc chống Pháp, từ đó đã dẫn đến Phong trào Cần vương , do những văn thân, sĩ phu yêu nước, đứng lên hiệu triệu đồng bào, tập hợp lực lượng và chỉ huy họ đánh Pháp, kéo dài từ năm 1885 đến năm 1913.
* Phong trào cần vương
Ngay sau khi “Dụ Cần vương” được ban bố, lời kêu gọi “Cần vương, kháng Pháp” của vua Hàm Nghi đã được đáp ứng ở khắp Trung Kỳ, Bắc Kỳ, ngoại trừ Nam Kỳ là nơi đã trở thành thuộc địa của Pháp:
- Tại Thừa Thiên có cha con Đặng Hữu Cát và Đặng Hữu Phổ.
- Tại Quảng Nam có Trần Văn Dư và Nguyễn Duy Hiệu.
- Tại Quảng Ngãi có Lê Trung Đình.
- Tại Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, có Đào Doãn Địch, Mai Xuân Thưởng, Bùi Giáng, Bùi Điền.
- Tại Quảng Bình có Nguyễn Phạm Tuân, Lê Trực.
- Tại Hà Tĩnh có Lê Ninh, Phan Cát Tựu, Nguyễn Thoại, Nguyễn Thạch.
- Tại Nghệ An có Nguyễn Xuân Ôn và Lê Doãn Nhạ.
- Tại Thanh Hóa có Nguyễn Đôn Tiết.
Kịch liệt nhất trong phong trào Cần vương này là những cuộc kháng chiến lâu năm và gây nhiều tổn thất cho quân Pháp của Phan Đình Phùng ở Vụ Quang (Hà Tĩnh), của Nguyễn Thiện Thuật với chiến khu Bãi Sậy ở Hưng Yên, của Đinh Công Tráng với chiến lũy Ba Đình ở Thanh Hóa, và của Hoàng Hoa Thám với chiến khu Yên Thế.
(Võ Hương-An, “Từ điển Nhà Nguyễn”, Nam Việt xuất bản, California, 2012, tr. 81-82).
Phong trào Cần vương đã tập hợp được nhiều tầng lớp nhân dân ở Trung Kỳ trở ra, tiến hành kháng chiến chống Pháp, khiến cho thực dân Pháp và triều đình Đồng Khánh (1885 - 1889) thân Pháp ở Huế phải vất vả đối phó trong nhiều năm trời. Mãi đến khi cuộc khởi nghĩa Yên Thế bị dập tắt vào năm 1913, thì phong trào Cần vương mới thực sự chấm dứt.
Hôm nay là tròn 135 năm ngày xảy ra hai sự kiện trên (tính theo ngày âm là 23 tháng Năm và theo ngày dương là 13/7).
Trùng hợp ngẫu nhiên, và quá nhiều ý nghĩa.
Bài: Ts Trần Đức Anh Sơn

Thanked by 1 Member:

#58 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 02/11/2020 - 19:30

CHÚA NGUYỄN ÁNH
TRONG CON MẮT MỘT NHÀ NGOẠI GIAO NGƯỜI ANH
(bài dịch cách đây đúng 5 năm, song thiển nghĩ đến nay vẫn còn hữu dụng khi nhắc đến nhân vật lịch sử Nguyễn Ánh-Gia Long)

Trong lịch sử Việt Nam thế kỷ 19, chúa Nguyễn Ánh được nói đến nhiều bởi ông là người khai sáng triều Nguyễn, sau khi giành lại được những gì mà cha ông của ông đã gầy dựng từ mấy trăm năm trước. Cuộc đời của ông là một chuỗi dài những hiểm nguy, gian khó, từng thoát chết nhiều lần, và phải nhiều năm ẩn lánh trên xứ người. Nếu không là một người có bản lãnh, kiên tâm và cách hành xử dễ thu phục lòng người, chắc chắn rằng ông không thể lấy lại được cơ nghiệp của 9 đời chúa Nguyễn.
Song sang thế kỷ 20, trong cuộc nội chiến giữa hai miền Nam Bắc, Nguyễn Ánh trở thành biểu tượng ph.... đ.... và tồi tệ nhất, vì ông là người đã triệt tiêu triều đại Tây Sơn của “những nông dân áo vải cờ đào” vốn được nhiều người thần thánh hóa và đồng hóa với chính hoạt động của họ. Để hiểu được phần nào con người thật của Nguyễn Ánh, không cách nào tốt hơn là đọc lại những gì mà người cùng thời với ông viết về ông, qua những cuộc gặp gỡ trực tiếp với ông, quan sát ông, hoặc ít ra cũng nghe được nhiều nhân chứng kể lại về ông.
Năm 1792-1793, John Barrow một nhân viên trong phái bộ của Huân tước George Macartney được nước Anh cử sang Trung Hoa, có ghé lại Hội An một thời gian và sau khi về nước, vào năm 1806, đã xuất bản tập du ký có tên A voyage to Cochinchina (Một chuyến du hành sang Nam Hà) trong đó dành một đoạn dài viết về chúa Nguyễn Ánh. Xin ghi ra đây bản tạm lược dịch những gì Barrow viết về Nguyễn Ánh vào những năm cuối thế kỷ 18.

***
“ … Từ năm 1790 là thời điểm Nguyễn Ánh quay lại miền Nam (*) đến năm 1800, ông chỉ có được hai năm yên bình là 1797 và 1798, và hai năm đó có lẽ là thời kỳ quan trọng nhất trong triều đại của ông. Dưới sự hỗ trợ của giám mục Bá Đa Lộc, mà ông coi như người cố vấn, ông quay sang chú tâm đến việc cải thiện xứ sở của mình.
Ông thiết lập một xưởng làm “saltpetre” (nitrat kali, dùng làm thuốc súng - LN) ở Fen-Tan (Champa), mở đường giao thông giữa những đồn lũy quan trọng và thị trấn lớn, trồng cây hai bên đường để lấy bóng mát. Ông khuyến khích việc trồng trầu, cau ở những đồn điền đã bị quân Tây Sơn phá hủy. Ông tưởng thưởng cho việc quảng bá nghề nuôi tằm, tạo ra những vùng đất dành trồng cây mía, và thiết lập những xưởng chế tạo nhựa đường và nhựa cây. Ông chế tạo hàng ngàn súng hỏa mai, mở một mỏ khai thác quặng sắt, xây dựng các lò luyện kim.
Ông chia lực lượng bộ binh thành các trung đoàn, thiết lập các trường học quân sự, nơi đó, quan binh của ông được các ông thầy người châu Âu hướng dẫn việc sử dụng súng ống. Bá Đa Lộc dịch các kỹ thuật quân sự ra chữ Hán để sử dụng trong quân đội của ông. Trong hai năm đó (tức 1797-1798 – LN), ông đã chế tạo ít nhất 300 thuyền lớn có trang bị vũ khí hay thuyền có mái chèo, 5 thuyền buồm, và một đội thuyền chiến theo kiểu thuyền của người Âu. Ông đưa ra một hệ thống chiến thuật áp dụng cho thủy quân và cho các quan lại trong ngành thủy quân học cách sử dụng tín hiệu. Một trong những nhà quí tộc người Anh mà tôi từng lưu ý là đã có mặt ở Sài Gòn vào năm 1800, nhìn thấy một đoàn tàu có 1.200 thuyền buồm đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Nguyễn vương, thả neo trên sông với một trật tư cao nhất. Chúng được chia ra ba thành phần tách biệt nhau, xếp thành những đội ngũ sẵn sàng chiến đấu, theo thứ tự khép và mở và vận hành với nhiều cách khác nhau, dựa vào những tín hiệu được ban ra.
Trong thời khoảng yên bình đó, ông còn cải cách hệ thống luật pháp với sự hỗ trợ của giám mục Bá Đa Lộc. Ông bãi bỏ nhiều loại hình tra tấn mà luật pháp trong nước lúc đó vẫn còn cho phép áp dụng và làm giảm nhẹ những hình phạt xem ra không phù hợp với tội trạng của người gây nên. Ông mở trường công và các bậc cha mẹ bị buộc phải cho con họ đi học ở tuổi lên bốn, nếu không sẽ bị trừng phạt. Ông thiết lập một hệ thống luật pháp và ban hành những qui định về thương mại trong vương quốc của mình, làm cầu bắc qua sông, đặt phao và dấu hiệu ở những nơi nguy hiểm trên bờ biển và tiến hành các cuộc nghiên cứu ở những vịnh và cảng chính. Ông cử các phái bộ đi vào vùng rừng núi ở phía Tây vương quốc, nơi cư trú của người Lào và người Miaotsé, là những nước còn man rợ mà ông mong muốn biến họ thành nước văn minh, có chính quyền tốt. Những người sơn dã này bị người Tàu gọi một cách khinh thường là “người có đuôi”, cho dù họ là hậu duệ bình thường của những cư dân ban đầu trong một vương quốc văn minh….
… Nguyễn Ánh được miêu tả như một chiến sĩ toàn diện, với tất cả ý nghĩa chính xác nhất của từ này. Người ta nói rằng ông cảm thấy vinh dự với danh vị nguyên soái hơn là danh vị một quốc vương. Ông được mô tả như một người dũng cảm nhưng không thô bạo, biết tùy cơ ứng biến. Ông thường có những quan niệm đúng đắn. Không bao giờ khó khăn làm cho ông chán nản, không có trở lực nào làm cho ông lùi bước.
Thận trọng trong quyết định, mau lẹ và mạnh dạn trong việc thi hành những gì đã quyết định, ông luôn đứng đầu hàng quân, ở những vị trí đặc biệt nhất của chiến trường, luôn biểu lộ một tính khí vui vẻ, dễ chịu, lịch sự và ân cần với tất cả tướng sĩ thuộc quyền. Ông thận trọng tránh để cho người khác thấy mình có sự ưu ái riêng một người nào. Trí nhớ của ông rất vững chắc, đến nỗi ông nhớ tên nhiều binh sĩ trong đội quân của mình. Ông nói chuyện với binh sĩ một cách thích thú, nhắc nhở với họ về những hành động, những chiến công của họ. Ông hỏi thăm vợ con họ với sự chăm chút đặc biệt, muốn biết họ có thường xuyên cho con đến trường học hay không, chúng muốn làm gì khi lớn lên…
Cách cư xử của ông với người nước ngoài đầy tính nhã nhặn và lịch sự. Ông công khai bày tỏ sự quý mến đối với những nguyên tắc của Ki tô giáo. Ông tỏ lòng khoan hòa với tôn giáo này cũng như với chân lý của những tôn giáo khác trong xứ sở của ông. Ông gìn giữ với sự cẩn trọng những câu châm ngôn về lòng hiếu thảo mà Đức Khổng tử đã trình bày trong các tác phẩm của Ngài.
Ông đứng trước bà mẹ – hiện còn sống – với sự kính cẩn của một đứa trẻ trước người thầy học của mình. Ông tỏ ra rất am tường những tác giả ưu tú của Trung Hoa. Nhờ giám mục Bá Đa Lộc dịch ra tiếng Hán nhiều bài trong bộ Bách khoa toàn thư mà ông học hỏi được các ngành khoa học cùng nghệ thuật châu Âu và ham mê nhất ngành hàng hải và đóng tàu. Người ta kể rằng để kết hợp lý thuyết với thực hành về kỹ thuật đóng tàu, ông đã mua một chiếc tàu Bồ Đào Nha chỉ nhằm mục đích duy nhất là tự tay tháo từng mảnh ván ra rồi mô phỏng kích thước của những mảnh ván đã tháo, thay bằng những mảnh ván mới cho đến khi ráp thành một chiếc tàu mới. …..
Để chăm lo một cách chắc chắn hơn những gì liên quan đến chính quyền, ông tuân thủ một cách sống cố định và nền nếp. Ông thức dậy lúc 6 giờ sáng và tắm nước lạnh. Lúc 7 giờ các quan lại được thông báo việc ông đã thức, tất cả văn thư trình ông hôm trước được mở ra và chỉ dụ của ông được nhiều viên thư ký ghi chép lại. Sau đó, ông đi đến xưởng thủy quân, xem xét những gì đã làm lúc vắng mặt ông, rồi ông ngồi lên một chiếc thuyền chèo đi suốt cảng, kiểm tra các tàu chiến, đặc biệt chú tâm đến pháo binh và thăm xưởng đúc nằm trong xưởng đóng tàu, ở đó, người ta đúc súng đại bác đủ cỡ.
Giữa trưa hoặc lúc một giờ, ông dùng cơm ở xưởng tàu. Bữa ăn gồm cơm và một ít cá khô. Lúc hai giờ (chiều), ông trở về phòng và ngủ cho đến năm giờ chiều. Sau đó, ông tiếp kiến quan lại các ngành thủy bộ, những người đứng đầu các tòa án hay các cơ sở công quyền. Trong những buổi tiếp kiến này, ông phê chuẩn, bác bỏ hay sửa chữa những đề án đã được trình lên ông. Thường thì công việc triều chính khiến cho ông bận rộn đến nửa đêm. Đến lúc ấy, ông mới trở về văn phòng, viết lại những lời ghi chú hay phê duyệt mà ông cho là thích hợp trong ngày hôm ấy. Kế đó, ông ăn nhẹ, sống với gia đình trong một tiếng đồng hồ và luôn đi ngủ lúc hai hay ba giờ sáng. Như vậy, trong 24 tiếng đồng hồ (mỗi ngày), vị vương này chỉ nghỉ ngơi có 6 tiếng….”
(*) Đúng ra, ông đã lấy lại đất Gia Định từ tay nhà Tây Sơn vào nửa sau năm 1788

Lê Nguyễn
1.11.2015 - 1.11.2020
(lược dịch từ A voyage to Cochinchina của John Barrow – London 1806, trang 273-278)

Thanked by 2 Members:

#59 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 24/02/2021 - 22:05

Thác Bản Giốc: Hùng vĩ giữa đại ngàn

Với nét đẹp thiên nhiên quyến rũ hòa cùng vẻ thanh bình của làng quê.
_________________

Giữa bốn bề núi non hùng vĩ, Thác Bản Giốc hiện ra sừng sững, đẹp "như miền cổ tích" khiến bất cứ ai khi đến đây cũng không khỏi choáng ngợp. Khung cảnh thiên nhiên kỳ vĩ mà vô cùng thơ mộng,thác Bản Giốc tựa như dải lụa trắng mềm mại nổi bật trên nền xanh của núi rừng miền biên giới, là niềm tự hào của người Việt Nam, đồng thời là điểm đến mà bất cứ ai cũng phải tới thăm.

Gắn với câu chuyện tình buồn

Ai đã từng một lần đến thác Bản Giốc, chắc hẳn đều được nghe hướng dẫn viên kể về sự tích của dòng thác. Đó là câu chuyện về một tình yêu rất đẹp nhưng lại có kết thúc buồn. Chuyển kể rằng, xưa kia, lúc người Tày mới về đây phá nương làm rẫy, cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn nhưng trời lại ban cho các cô gái Tày một vẻ đẹp thuần khiết, nết na, thùy mị. Bởi thế thường được quan trong vùng tìm để tiến cử vào cung dâng lên bậc vương chúa.

Thác Bản Giốc sở hữu vẻ đẹp hoang sơ nguyên vẹn.

Nhưng có một lần, cô gái đẹp nhất của Bản Giốc khi ấy lọt vào mắt xanh của hoàng tử đã liều mình trốn thoát cùng người mình yêu. Hai người dìu nhau chạy về tới Bản Giốc thì trời vừa tối. Họ dừng lại nghỉ chân cạnh khe suối ở bìa rừng, ngồi đó cùng ôn lại kỷ niệm một thời yêu nhau và những đắng cay khi bị chia lìa. Vì quá kiệt sức sau thời gian chạy trốn dài ngày, cả hai đã lịm đi trong những hồi tưởng và hạnh phúc. Ngay sau đó, dân bản chứng kiến trời đổ mưa tầm tã cả tuần liền.

Nước ngập khe suối, không ai dám ra ngoài vì mưa to kèm sấm sét dữ dội. Kỳ lạ thay, khi mưa tạnh, nơi đôi tình nhân ấy say giấc ngủ ngàn thu, người ta không còn tìm thấy xác hay bất cứ dấu tích gì mà chỉ thấy có hai ngọn thác lớn đổ nước trắng xóa phía bên cạnh bản. Dưới chân thác, mặt nước trong xanh hiền hòa như không vướng víu bụi trần. Kể từ đó, người dân gọi nơi đây là thác Bản Giốc để tưởng nhớ về một thời gái bản tiến vua, cũng là niềm tự hào của người Tày với sắc đẹp trời ban.

Người ta đồn rằng ngọn thác ở giữa chia ba tầng, có hai tầng sát nhau như tư thế đôi tình nhân ôm nhau. Đó chính là hình ảnh người con trai đang ôm người yêu vào lòng, cả hai cùng khóc. Giọt nước mắt chảy dài thành dòng thác cuồn cuộn. Còn ngọn thác bên phải từ chân thác nhìn lên đổ ầm ào không ngớt là hình ảnh của vị hoàng tử nọ.

Hoàng tử vì uất ức mà ngồi đó tiếc nuối người con gái mình yêu thương rồi cũng hóa thành thác dữ. Nhưng vì sự cảm phục trước tình yêu của đôi trai gái bản Tày, giọt nước mắt của hoàng tử cũng hòa chung với nước mắt của đôi tình nhân. Câu chuyện tưởng như rất buồn của chuyện tình đẹp nhưng lại là dấu ấn, là biểu tường tình yêu cho đời.

Vẻ đẹp khó cưỡng nơi biên cương

Từ lâu, thác Bản Giốc đã là nguồn cảm hứng bất tận của những người nghệ sĩ và đi vào nghệ thuật tạo hình với những tác phẩm hội hoạ, nhiếp ảnh đặc sắc. Thác sở hữu vẻ đẹp hoang sơ nguyên vẹn, là ngọn thác hùng vĩ mà ai đã từng một lần chứng kiến, tận mắt chiêm ngưỡng sẽ nhớ mãi những cảm xúc choáng ngợp, ấn tượng khó có thể diễn tả trước vẻ đẹp mà tạo hóa đã vẽ lên.

Thác Bản Giốc cách thành phố Cao Bằng gần 100 km và cách Hà Nội gần 400 km. Thác được mệnh danh là thác nước đẹp nhất Việt Nam, lớn nhất Đông Nam Á và là thác tự nhiên lớn thứ tư thế giới trong các thác nước nằm ở biên giới các quốc gia. Đường dẫn tới thác quanh co, uốn lượn lưng núi.

Thác Bản Giốc cao hàng chục mét với nhiều khối nước lớn đổ xuống qua nhiều tầng đá vôi, tạo thành một màn bụi nước trắng xóa. Ở giữa có một mô đá rộng phủ đầy cây đã xẻ dòng nước thành 3 luồng như ba dải lụa trắng. Dưới chân thác là mặt sông Quây Sơn phẳng lặng như gương, nước trong xanh soi bóng núi mây trời. Hai bên bờ là ruộng đồng xanh tốt của người Tày, Nùng sinh sống lâu đời ở xóm Bản Giốc.

Nhìn từ xa, thác Bản Giốc như bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Đến đây, không ít người sẽ bị choáng ngợp trước sự hùng vĩ, bao la của thiên nhiên và sự thân thiện của người dân bản địa. Ghé thăm thác Bản Giốc vào bất cứ thời điểm nào trong năm cũng đều khiến bạn hài lòng vì hầu như lúc nào nơi đây cũng đẹp mê đắm lòng người. Mùa mưa ở thác Bản Giốc kéo dài 4 tháng (từ tháng 6 tới tháng 9).

Đây là thời điểm thác Bản Giốc mang trong mình vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội. Nước thác cuồn cuộn, tung bọt trắng xóa, ngỡ như làn mây trời đang lũ lượt kéo về khi mưa đến. Từ tháng 10 đến tháng 5 năm sau là mùa khô. Lúc này, dòng nước hiền hòa và thanh bình hơn. Thác Bản Giốc mang trong mình nét đẹp yên bình, nước xanh trong vắt kết hợp với mùa lúa chín vàng trên những thửa ruộng bậc thang tầng tầng lớp lớp nối tiếp nhau dưới chân thác tạo nên một khung cảnh không thể lãng mạn hơn, đẹp tựa một bức họa muôn màu.

Nguyễn Thái Sơn
24/2/2021

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:

#60 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3829 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 10/06/2021 - 22:32

TẠI SAO GỌI NGƯỜI BÌNH ĐỊNH LÀ "DÂN NẪU" ?
Năm 1578, chúa Nguyễn Hoàng cử Phù nghĩa hầu Lương Công Chánh làm Trấn biên quan có bổn phận đưa lưu dân nghèo không sản nghiệp khai khẩn vùng đất mới từ nam đèo Cù Mông đến đèo Cả (tỉnh Phú yên bây giờ). Sau 33 năm khai phá vùng đất mới, hình thành làng mạc, năm 1611 chúa Nguyễn Hoàng thành lập phủ Phú Yên gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa. Năm 1629, chúa Nguyễn Phúc Nguyên nâng cấp phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên . Do đặc điểm của vùng đất mới còn hoang hóa, dân cư thưa thớt nên các đơn vị hành chính của vùng biên viễn có những nét đặc thù. Dưới cấp huyện có cấp Thuộc, dưới Thuộc là các đơn vị hành chính nhỏ hơn như Phường, Nậu , Man.
Phường là các làng nghề có quy mô như phường Lụa, phường Sông Nhiễu. Nậu là tổ chức quản lý một nhóm nhỏ cùng làm một nghề, người đứng đầu gọi là đầu Nậu.
Ví dụ: “Nậu nguồn” chỉ nhóm người khai thác rừng, “Nậu nại” chỉ nhóm người làm muối, “Nậu rổi” chỉ nhóm người bán cá, “Nậu rớ” chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ vùng nước lợ, “Nậu cấy” chỉ nhóm người đi cấy mướn, “Nậu vựa” chỉ nhóm người làm mắm...
Do sự phát triển của xã hội Đàng Trong, năm 1726, chúa Nguyễn Phúc Chu (1697-1738) cử Đại ký lục chính danh Nguyễn Đăng Đệ quy định phạm vi, chức năng của các đơn vị hành chính. Các đơn vị hành chính như “Thuộc”, “Nậu” bị xóa bỏ.
Khái niệm thành tố chung cấp hành chính “Nậu” được biến nghĩa dùng để gọi người đứng đầu trong đám người nào đó và sau này dùng để gọi đại từ nhân xưng ngôi thứ ba.
Từ “Nậu” không xuất hiện độc lập mà chỉ có mặt trong các tổ hợp danh ngữ. Ví dụ:
Mất chồng như nậu mất trâu
Chạy lên chạy xuống cái đầu chôm bơm.
Tiếc công anh đào ao thả cá
Năm bảy tháng trời nậu lạ tới câu.
Ai về nhắn với nậu nguồn
Mít non gởi xuống cá chuồn gởi lên.
Từ chữ “Nậu” ban đầu, phương ngữ Phú Yên - Bình Định tỉnh lược đại từ danh xưng ngôi thứ ba (cả số ít và số nhiều) bằng cách thay từ gốc thanh hỏi. Ví dụ: Ông ấy, bà ấy được thay bằng: “ổng”, “bả”. Anh ấy, chị ấy được thay bằng: “ảnh”, “chỉ”.
Và thế là “Nậu” được thay bằng “Nẫu”.
Nẫu đã đi vào ca dao Bình Định, Phú Yên khá mượt mà, chân chất:
Ai về sông núi Phú Yên
Cho nẫu nhắn gở nỗi niềm nhớ quê
Phương ngữ Thuận Quảng (Thuận Hóa - Quảng Nam) với “mô, tề, răng, rứa, chừ”, vượt qua đèo Bình Đê (ranh giới Bình Định - Quảng Ngãi) được đổi thành “đâu, kia, sao, vậy, giờ”.
Và đặc trưng ngữ âm của vùng Nam Trung bộ (Bình Định - Phú Yên) không phân biệt rạch ròi cách phát âm dấu hỏi và dấu ngã. Đặc biệt, bà con vùng biển từ Hoài Nhơn (Bình Định) đến Gành Đỏ (Sông Cầu-Phú Yên), các âm dấu ngã đều phát âm thành dấu hỏi.
Riêng đồng bằng Tuy Hòa, khi phát âm không phân biệt được dấu hỏi và dấu ngã. Bởi vậy, “Nẩu” hay được phát âm là “Nẫu”.
Đồng bằng Tuy Hòa trù phú, nhiều nhà giàu trong vùng cho con cái đi học chữ phương xa. Các vị có chữ nghĩa viết chữ “Nẩu” theo phát âm quen miệng thành chữ “Nẫu”.
Nói nôm na, tiếng Nẫu là tiếng địa phương của vùng Bình Định và Phú Yên có nghĩa là họ, hay người ta, vì là “đại từ nhân xưng” nó nằm ở vị trí ngôi thứ ba vừa số ít mà cũng vừa số nhiều. Ví dụ thay vì hỏi “Hôm nay người ta đi đâu mà nhiều vậy? ” thì người dân Bình Định và Phú Yên hỏi là “Hôm nay nẫu đi đâu mà nhiều dậy?” hay “Cái nhà này là của họ” thì dân Nẫu sẽ nói là “Cái nhà nhà này là của nẫu”.
Chính vì vậy mà khi hòa cùng tất cả tiếng nói của mọi miền đất nước thì tiếng nẫu sẽ không lạc vào đâu được, thậm chí còn dùng những từ hoàn toàn khác với những từ thông dụng, ví dụ thay vì nói “Vào tận trong đó” thì nói là “Dô tuốt trỏng” hay hỏi "vậy hả?” thì hỏi là “dẫy na?”, “dẫy ngheng” (vậy nghen hay thế nhé), “dẫy á” (vậy đó), “chu cha wơi” (trời đất ơi) v.v...
==================================================
....Người Việt mình từ văn minh lúa nước mấy ngàn năm đến giờ đã nổi tiếng là “nhà quê”, cho dù có ở thành thị thì vẫn là “dân nhà quê” so với các nước khác. Vậy thử hỏi trong đất Việt Nam mình, xứ nào là “nhà quê” nhứt? Đó chính là “xứ Nẫu”. Tôi đi khắp Việt Nam , ai hỏi tôi quê đâu? Tôi thưa rằng quê tôi xứ Nẫu, tôi dân Nẫu, Nẫu nè, Nẫu ơi…
Vì sao “quê”, vì ngay cái chữ “Nẫu” nghe nó đã quê rồi. Nó khởi thủy là chữ “nậu” ở miền Nam Trung Bộ. Từ “nậu” để chỉ một nhóm người theo ngành nghề hoặc theo nơi ở: ví dụ: “Nậu nguồn” chỉ nhóm người trên rừng, “Nậu nại” chỉ nhóm người làm muối, “Nậu rổi” chỉ nhóm người bán cá, “Nậu rớ” chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ, “Nậu cấy” chỉ nhóm người đi cấy mướn, “Nậu vựa” chỉ nhóm người làm mắm... mãi sau, bằng nguyên lý tăng âm đặc trưng của dân Việt mình: “ông + ấy = ổng”, “chị + ấy = chỉ”, thì cái “nậu + ấy= Nẫu”.
Xứ Nẫu bắt đầu từ Bình Định, Phú Yên và một phần của Khánh Hòa. Cũng như các vùng miền khác, mà gần nhất là xứ Quảng, giọng nói người xứ nẫu không lẫn vào đâu được. Người xứ Nẫu luôn nói lớn tiếng, giọng nặng và hầu hết các âm tiết đều bị biến dạng theo hướng nặng hơn, khó phát âm hơn…khó đến nỗi chỉ người xứ Nẫu mới nói được, làm như cái cấu tạo thanh quản của dân xứ Nẫu đã khác đi so với người xứ khác. Nẫu (người ta), rầu (rồi), cái đầu gấu (gối), trời tấu (tối), cái xỉ (muỗng), tộ (chén)…người xứ Nẫu nói cho người xứ Nẫu nghe, cho nên từ ngữ quê mùa cục mịch, đến mức câu ca dao mẹ hát ru con cũng nặng trình trịch, nhưng mà nặng nhất là cái tình:
Thương chi cho uổng công tình
Nẫu dzìa xứ nẫu, bỏ mình bơ vơ
Khi còn nhỏ, mỗi lần làm điều gì không đúng cha, mẹ, hay ông bà thường nói: “đửng làm dẫy, nẫu cừ” (đừng làm vậy, người ta cười). Dân Nẫu đúng như giọng xứ Nẫu, hiền nhưng cộc cằn, phóng khoáng nhưng ngang ngạnh, tình cảm nhưng hơi thô kệch…
Dân Nẫu đi đến đâu cũng là “dân nhà quê”, học hành đến mấy vẫn không trút được cái gốc “nẫu” của mình. Nẫu không khôn ngoan, khéo léo như người Bắc. Nẫu không dịu dàng, lịch lãm như người xứ Huế. Nẫu cũng chẳng rộng rãi, vô tư như người Nam. Nẫu là Nẫu. “Nẫu dzẫy” (nậu vậy), Dân Nẫu không quan tâm người khác nghĩ gì về mình, tốt xấu gì cũng mặc, “kệ nẫu”. Cho nên dân Nẫu đi xứ khác làm ăn bị thiệt thòi nhiều, ít bạn, nhưng nếu có bạn, nẫu sẽ sống chết với bạn...
Nguồn: Bình Định Xưa

Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |