----------------
Tầng này trong sách "La kinh thấu giải" của Vương Đạo Hanh viết rằng: "tầng 15 là Thấu địa quái, lấy Thấu địa làm nội quái, gọi là quẻ Liên sơn. Nhà Hạ dùng Nhân Thông, nên kinh dịch lấy quẻ Cấn làm đầu, quẻ phối thì lấy Hỗn Thiên Ngũ hành, phố hợp với quẻ Tử Phụ, Tài Quan, Lộc Mã Quý nhân là tứ cát của Sa, Thủy làm đắc dụng. Ở sách của Thái Văn Thi gọi là tầng "tinh vận quái".
HÌNH THÀNH PHỤ QUÁI
HÌNH THÀNH MẪU QUÁI
GIỚI THIỆU GIANG NAM PHỤ QUÁI, GIANG BẮC MẪU QUÁI
GIỚI THIỆU GIANG ĐÔNG NGHỊCH TỬ, GIANG TÂY THUẬN TỬ QUÁI
PHÂN KIM CHO 2 VÒNG QUẺ
HÌNH THÀNH PHỤ QUÁI
Dựa vào Tiên thiên bát quái có số thứ tự là: Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8 - người xưa khi lập ra 64 quẻ tiên thiên bèn lấy số từ 1 cho tới 8 đại diện cho 8 quẻ - gọi là "nhất trinh, bát hối" (1 quẻ đứng yên, 8 quẻ chạy) - như thế là lập ra 64 quái tiên thiên.
TÊN VÀ SỐ THỨ TỰ CỦA 64 QUẺ:
Dựa trên nguyên tắc của bát quái tiên thiên, ta có thứ tự của 64 quẻ bày biện trên một vòng tròn 360 độ. Đồng thời, ở mỗi cung tiên thiên theo thứ tự 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 (xem trong hình minh họa dưới là các quẻ được sơn màu vàng và xanh) - ta có 8 quái Giang Nam, Phụ quái là:
- bát thuần Càn
- bát thuần Đoài
- bát thuần Ly
- bát thuần Chấn
- bát thuần Tốn
- bát thuần Khảm
- bát thuần Cấn
- bát thuần Khôn
Trên la bàn, Giang Đông quái là quẻ "Nghịch tử", là quẻ được biến ra từ 3 hào nội quái của Phụ quái. Các quẻ biến ra được sắp xếp phối nhập thành Tả phù 8 làm Thiên nguyên, Phá quân 7 làm Nhân nguyên, Vũ khúc 6 làm Địa nguyên.
HÌNH THÀNH MẪU QUÁI
64 quẻ vòng trong được hình thành bằng cách hoán đổi hay nghịch đảo tiên thiên bát quái, các quái có thứ tự: Khôn 1, Cấn 2, Khảm 3, Tốn 4, Chấn 5, Ly 6, Đoài 7, Càn 8 [nghĩa là bỏ các quẻ Gốc vào cửu cung theo thứ tự của tiên thiên từ 1 tới 8 như hình dưới đây]. Sau đó:
- Quẻ gốc làm ngoại quái
- Quẻ phối làm nội quái, theo thứ tự Khôn 1, Cấn 2, Khảm 3...
- Bĩ
- Hàm
- Vị Tế
- Hằng
- Ích
- Ký Tế
- Tổn
- Thái
Dịch kinh nói "Bĩ Thái phản loại, Tổn Hàm kiến nghĩa, Ví Tế - Ký Tế, Hằng Ích khởi ý". Cho nên đem Bĩ, Hàm, Vị Tế, Hằng, Ích, Ký Tế, Tổn, Thái sắp sếp là cửu vận, là hữu bật, là Mẫu Quái, là đất.
Trên la bàn, gọi Giang Tây quái là quẻ "Thuận tử", là quẻ được biến ra từ 3 hào nội quái của Mẫu quái. Đem quẻ biến ra được phối với cửu tinh: biến hào 1 thành sao Cự môn - là Thiên nguyê, biến hào hai thành sao Lộc tồn - là Nhân nguyên, biến hào 3 thành Văn khúc - là Địa nguyên.
GIỚI THIỆU GIANG NAM PHỤ QUÁI, GIANG BẮC MẪU QUÁI
Đây là nguyên tắc sắp xếp quẻ dịch trên La kinh:
- cột 1 ở bảng dưới đây là các quẻ Gốc xuất phát từ vòng Tiên thiên bát quái an thuận, khi biến hào 1, hào 2, hào 3 thì hóa thành thiên nguyên tả phù, Nhân nguyên Phá quân, Địa nguyên Vũ khúc. Cho nên gọi là Quẻ Phụ/Giang Nam quái (bởi vì xuất phát gốc từ phía Nam cung Ly tức là quẻ Càn tiên thiên: quẻ Phụ lần lượt mang số dòng Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8).
- Cột 9 ở bảng dưới đây là các quẻ Gốc xuất phát từ vòng Tiên thiên bát quái an nghịch. Gọi là Giang Bắc mẫu quái bởi vì 8 quẻ mẹ KHỞI ĐẦU từ phía Bắc, cung Khảm - tức là cung Khôn tiên thiên. Lần lượt thứ tự là Bĩ 1, Hàm 2, Vị Tế 3, Hằng 4, Ích 5, Ký Tế 6, Tổn 7, Thái 8. Khi biến hào 1, hào 2, hào thì biến thành Thiên nguyên Cự môn, Nhân nguyên Lộc tồn, Địa nguyên Văn khúc.
GIỚI THIỆU GIANG ĐÔNG NGHỊCH TỬ, GIANG TÂY THUẬN TỬ QUÁI
- Bảng nghịch tử và bảng thuận tử đều phát sinh từ Mẫu quái. Bảng nghịch tử có được từ các Quẻ ở dòng số 1 trong bảng nghịch đảo tiên thiên, các quẻ này lần lượt biến hào 1, 2, 3 thành các sao Tả phù, Phá quân, Vũ khúc.
- Bảng thuận tử có được bằng cách lấy các quẻ ở dòng số 8 trong bảng nghịch đảo tiên thiên, các quẻ này lần lượt biến các hào 1, 2, 3 thành các sao Cự môn, Lộc tồn, Văn khúc.
- Ta có thể hiểu đây là vòng đời thứ 2 của các quái, lấy ra từ bảng Tiên thiên bát quái nghịch. Trong la kinh là vòng thứ 2.
- Các mũi tên nằm ngang phía trên đỉnh của bảng miêu tả quan hệ sinh thành giữa sao Tham lang và Hữu bật của đời thứ 2. Các mũi tên nằm dọc bên cạnh bảng chỉ vị trí xuất phát của quẻ con cái, phát sinh từ bảng Mẫu quái (ví dụ như quẻ Thái là quẻ số 1 trong cung Ly trong bảng Mẫu quái, quẻ Khôn là quẻ số 8 trong cung Ly của bảng mẫu quái).
PHÂN KIM CHO 2 VÒNG QUẺ
Dựa vào bảng "Tiên thiên bát quái" hình thành vòng quẻ ngoài; dựa vào bảng "Nghịch đảo Tiên thiên bát quái" hình thành quẻ trong như dưới hình minh họa:
PHÂN KIM CHO CÁC QUẺ VÒNG NGOÀI
Vòng ngoài, như nói phía trên, được hình thành từ phép khởi quẻ Tiên thiên "nhất trinh, bát hối" của bàn Tiên thiên bát quái phần sinh ra Phụ quái. Tại vòng ngoài, ta có 64 quẻ, vậy mỗi quẻ chiếm 5.625 độ (360/64). Quẻ Phục khởi từ 0 độ, tới quẻ Càn là vừa hết 180 độ, tới hết quẻ Khôn là vừa tròn 360 độ. Bàn của "Tinh vận bàn" được thành lập trên Địa bàn chính châm 24 sơn. Dựa vào đó ta có bảng phân kim sau:
- cột 1: số thứ tự 64 quẻ
- cột 2: tên quẻ
- cột 3: sao Cửu tinh cho mỗi quẻ
- cột 4: là đại số tương ứng với sao Cửu tinh
- cột 5: thể hiện quẻ Giang Nam phụ quái, Giang Bắc mẫu và quẻ Giang Đông nghịch tử, Giang Tây thuận tử quái.
- từ cột 6 tới cột 10 là độ số. Lưu ý hai cột có chữ "Gốc" là phần ranh giới giữa các quẻ, cũng là đường không vong kỵ dùng.
PHÂN KIM CHO CÁC QUẺ VÒNG TRONG
Vòng quẻ trong được sinh ra từ bàn Tiên thiên bát quái nghịch đảo, tức là bàn Mẫu quái. Vòng trong cũng có 64 quẻ, mỗi quẻ chiếm 5.625 độ (360/64). Khởi đầu từ quẻ Tiểu súc tại 0 độ, tới quẻ Khôn là vừa hết 180 độ, tới hết quẻ số 64 là quẻ Càn vừa đủ hết 360 độ:
- cột 1 là số thứ tự của quẻ
- cột 2 là quẻ phụ mẫu vòng ngoài
- cột 3 là quẻ tử tôn vòng trong
- cột 4 là Đại số Cửu tinh của quẻ vòng trong
- cột 5 là Đại số Cửu tinh của quẻ vòng trong nghịch đảo
- từ cột 6 cho tới cột 12 là độ số phân kim của quẻ trên La bàn - tính theo địa bàn chính châm. Lưu ý hai cột có chữ Gốc (sơn màu vàng) là ranh giới của các quẻ, tức là các đường không vong, kỵ dùng.
==============
Ý KIẾN RIÊNG: Tôi nghĩ rằng gọi nó là Liên sơn, bởi vì quẻ khởi từ cung Cấn vậy - như quẻ Vòng ngoài khởi từ quẻ Phục, quẻ vòng trong khởi từ Tiểu Súc - đều bắt đầu từ cung Cấn cả.