Tôi chỉ có một yêu cầu duy nhất là quý vị đọc rồi, có chỗ nào sử dụng được thì sử dụng, không sử dụng được thì thôi. Nhưng xin vui lòng đừng đem những lý luận tôi trình bày ra đây xào lại rồi đăng là của mình. Như cách đây không lâu tôi có đăng một bài nhỏ trong mục Coi Tử Bình - Tứ Trụ về dụng thần biến hoá. Đại khái tôi nói dụng hỷ chỉ là đường hướng cơ bản của bát tự. Ví dụ, nói dụng hoả thì nó chỉ mới là định hướng. Còn muốn xác định chính xác dụng thần thì phải xem hoả đó là hoả gì, là Bính hay Đinh hay Tỵ, Ngọ, Mùi, Tuất và đôi khi là Dần. Đối với một số bát tự đặc biệt thì đường hướng cơ bản nó thay đổi theo hành vận.
Sau đó 1, 2 ngày thì ngay lập tức có người xào lại, họ chỉ đổi từ việc gọi tên cái "sự vật" đó là "đường hướng cơ bản" thành một thuật ngữ khác. Tức là nội dung lí luận thì y chang, chỉ có câu chữ là khác. Sau đó đăng vào mục Học Thuật Tử Bình. Kiến thức đó không mới mẻ gì, đối với tôi cũng không quan trọng, nhưng việc hành xử kém văn hoá như vậy làm tôi rất bực mình vì tôi cũng chỉ là người bình thường thôi chứ không phải thánh nhân. Hơn nữa việc như vậy tôi gặp vài lần, từ vài cá nhân khác nhau.
Cho nên đối với việc bình chú Ngũ Ngôn Độc Bộ, tôi chỉ xin một câu: Kính xin tự trọng.
----------
NGŨ NGÔN ĐỘC BỘ (nguyên văn tiếng Hán)
五言独步
有病方为贵,无伤不是奇;格中如去病,财禄喜相随。
寅卯多金五,贫富高低走。南地怕逢申,北方休见西。
建禄生提月,财官喜透天,不宜身再旺,惟喜茂财源。
土厚多逢火,归金旺遇秋,冬天水木泛,名利总虚浮。
甲乙生居卯,金多运吉祥;不宜重见煞,火地得衣粮。
火忌西方西,金沉怕水乡;木神休见午,水到卯宫伤。
土宿休行亥,临官在己富;南方根有旺。西北莫相逢。
明日朝阳格,无根月建辰,西方还有贵,干怕火来侵。
乙木生居西,莫逢全已丑;富贵坎离宫,贫穷坤民守。
有煞只论煞,无煞方论用。只要去煞星,不怕提纲重。
甲乙若逢申,煞印暗相生。木旺金逢旺,冠袍必挂身。
丙火怕重逢,北方返有功;虽然宜见水,犹恐对提冲。
八月官星旺,甲逢秋气深,财官兼有助,名利自然亨。
血直生春月,庚辛干上逢;南离推富贵,坎地却犹凶。
甲乙生三月,庚辛戌来存,丑宫壬癸位,何虑见无根。
木茂宜金火,身衰鬼作关,时分西与北,轻重辨东南。
时上胞胎格,月逢印经通,煞官行运助,职位至三公。
二子不冲午,二寅不冲申,二午不冲子,二申不冲寅。
得一分三格,财官印经全;运中逢克破,一命丧黄泉。
进气死不死,退气生不生;终年无发旺,犹忌少年刑。
时上偏财格,干头忌比肩;月生身主旺,贵气福重深。
时上一位贵,藏在支中是,日主要刚强,名利方有气。
运行十载数,上下五年分;先看流年岁,深知来往旬。
----------
CÂU 1: 有病方为贵,无伤不是奇;格中如去病,财禄喜相随。
Hữu bệnh phương vi quý, vô thương bất thị kỳ; cách trung như khử bệnh, tài lộc hỷ tương tuỳ.
(Có bệnh thì mới là quý, không bị thương thì không phải mệnh phú quý. Trong mệnh cách nếu như bệnh được chữa, tài lộc tin tui đến bên cạnh).
Để hiểu được chữ “bệnh” cần phải hiểu sự vận hành của thiên đạo.
“Thiên chi đạo, tổn hữu dư nhi bổ bất túc”. Tức là đạo vận hành của trời luôn chú trọng sự cân bằng. Chỗ nào dư ra thì lấy cái dư của nó mà bù cái thiếu của chỗ khác. Đạo trời ví như là giương cung nhắm bắn. Giơ quá cao thì cần hạ thấp xuống, giơ quá thấp thì cần nâng cao lên, dùng lực quá nhiều thì cần bớt lực đi, dùng lực quá ít thì cần thêm lực vào. Chủ yếu chú trọng ở chữ “cân bằng”.
Một bát tự cũng như một tiểu thiên địa, tức là một trời đất thu nhỏ. Nó cũng cần phải tuân theo qui luật cân bằng. Cân bằng trong bát tự có nhiều khía cạnh: cân bằng giữa hai khí âm dương, cân bằng của nhiệt độ nóng và lạnh, cân bằng giữa khô và ẩm, và cân bằng của ngũ hành.
Ở đây để đơn giản chỉ nói về cân bằng của ngũ hành. Ngũ hành bao gồm năm khí: kim, thuỷ, mộc, hoả, thổ. Ngũ hành nếu có một hành quá cường vượng (mạnh) hoặc quá nhược (yếu) sẽ làm mất cân bằng toàn bát tự.
Lấy mệnh chủ là mộc làm ví dụ. Mộc quá vượng có thể xảy ra các trường hợp sau:
(1) Mộc vượng mà gặp thổ thì nó khắc thổ, làm thổ bị thương. Như vậy bệnh là ở mộc.
(2) Hoặc nếu nó không gặp thổ mà cũng không gặp hoả thì tự mộc quá vượng nó sẽ tự thương bản thân nó. Như vậy bệnh là ở mộc.
(3) Hoặc mộc vượng cần hoả tới để tiết khí, vì mộc sinh hoả, sẽ làm mộc bớt vượng đi. Trong bát tự có hoả, nhưng hoả lại bị thuỷ khắc, không tiết khí được mộc. Như vậy bệnh là ở thuỷ.
(4) Hoặc mộc vượng cần kim tới khắc cho bớt vượng. Bát tự có kim, mà kim lại bị hoả gần bên khắc. Vậy bệnh là ở hoả.
(5) Hoặc mộc vượng cần kim tới khắc cho bớt vượng. Bát tự có kim, mà lại có thuỷ ở gần bên hoá kim sinh mộc (kim sinh thuỷ sinh mộc). Tức là kim không thể khắc mộc. Vậy bệnh là ở thuỷ.
Lấy mệnh chủ là mộc làm ví dụ. Mộc quá nhược có thể xảy ra các trường hợp sau:
(1) Mộc nhược cần thuỷ tới sinh cho bớt nhược. Bát tự không có thuỷ thì mộc không có sinh khí. Như vậy bệnh là ở mộc.
(2) Mộc nhược cần thuỷ tới sinh cho bớt nhược. Bát tự có thuỷ, nhưng có thổ ở gần bên khắc thuỷ, làm thuỷ không còn đủ sức sinh mộc. Như vậy bệnh là ở thổ.
(3) Mộc nhược, lại có hoả gần bên tiết khí (mộc sinh hoả nên bị tiết khí); làm cho mộc nhược càng nhược. Như vậy bệnh là ở hoả.
(4) Mộc nhược sợ bị khắc; bị khắc sẽ nhược càng nhược. Trong bát tự lại có kim gần bên khắc mộc. Như vậy bệnh là ở kim.
Như vậy bệnh không chỉ là sự mất cân bằng của ngũ hành, mà nó còn là nhân tố cản trở hệ thống ngũ hành trở về trạng thái cân bằng.
Có hai cách nhìn khác nhau về bệnh. Thứ nhất là mệnh quý trung hoà, tức là mệnh không có bệnh, bát tự trung hoà thì quý; thứ hai là có bệnh mới quý.
Cách nhìn thứ nhất là thuận theo thiên đạo. Tức lấy “tổn hữu dư nhi bổ bất túc” làm tôn chỉ. Cách nhìn thứ hai là thuận theo nhận đạo. Tức “tổn bất túc nhi phụng hữu dư” làm tôn chỉ.
Nhân đạo khác với thiên đạo. “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu”. Thiên địa, trời đất vốn là vô tình, xem con người như chó rơm. Bất nhân, vô tình ở đây cần phải hiểu là công bằng, không thiên lệch. Muốn công bằng tuyệt đối, muốn xem người người đều như chó rơm, người giàu cũng như người nghèo, quan lại cũng như thường dân, nam cũng như nữ, người khóc cũng như người cười (chó rơm không biết khóc cười), thì thiên địa cần phải vô tình. Có vô tình mới có thể đối xử công bằng. Thiên địa mà có tình cảm thì chắc chắn sẽ xảy ra thiên lệch, ưu ái người này mà bất công với người kia. Như vậy thì thiên địa không thể thực hành cái đạo tổn hữu dư nhi bổ bất túc.
Nhân đạo thì ngược lại, nhân đạo có thất tình lục dục, có tham sân si, nên con người không thể “tổn hữu dư nhi bổ bất túc”. Người giàu có thì lợi dụng tiền bạc sẵn có để tạo lợi thế kiếm tiền nhiều hơn. Người có quyền uy thì dùng quyền uy của mình để tạo điều kiện cho bản thân có được nhiều đặc quyền hơn. Mà tiền bạc của cả xã hội thì có hạn. Mình lấy thêm được tiền tức là người khác phải bớt đi đúng số tiền đó. Vậy người có tiền càng thêm nhiều tiền, người nghèo khổ càng thêm mất tiền. Đã có dư còn muốn dư nhiều hơn. Đó là nhân đạo: "tổn bất túc nhi phụng hữu dư" (lấy cái không đủ mà nuôi cái đã có thừa).
Cách nhìn thứ nhất về bệnh (mệnh quý trung hoà) lấy thiên đạo làm tôn chỉ. Mệnh không có bệnh thì xem như quý. Cả đời bình bình an an, an nhàn tự tại, tu tâm dưỡng tính mà sống.
Cách nhìn thứ hai về bệnh (hữu bệnh phương vi quý) lấy nhân đạo làm tôn chỉ. Sẵn sàng hi sinh chỗ này để được chỗ khác. Như mệnh nam Ất sinh ngày Mão tháng Mão, gặp trụ ngày là Mậu thổ thì thổ bị khắc tổn rất mạnh, là tổn vợ hoặc tổn con. Nhưng một khi hành vận gặp hoả thì sẽ dễ dàng phát đạt, kiếm được nhiều tiền. Đó là chịu tổn vợ hoặc tổn con mà đổi lại tiền bạc.
Thánh nhân không màng danh lợi, tài lộc, chỉ chú trọng tu tâm dưỡng tính, giúp đời giúp người, an nhàn tự tại, nên thánh nhân lấy cân bằng là quý. Phàm nhân xem trọng danh lợi, tiền tài, nên phàm nhân lấy bệnh là quý.
Ở đây cần nhấn mạnh mệnh quý trung hoà còn có thể hiểu theo nghĩa: luận mệnh cần lấy trung hoà làm tôn chỉ. Tức gặp hành vận mà bát tự hướng gần hơn đến vị trí cân bằng thì là quý, là cát lợi. Ngược lại gặp hành vận mà bát tự càng xa rời vị trí cân bằng thì là hung, là bất lợi. Chứ không chỉ thuần tuý có nghĩa mệnh trung hoà là quý mệnh. Tuy nhiên cũng cần chú ý là không có mệnh nào là trung hoà, nó chỉ là một trạng thái lí tưởng mà thôi.
Như vậy “Hữu bệnh phương vi quý, vô thương bất thị kỳ” cần phải hiểu là cách nhìn mệnh lý theo Nhân đạo, nó không hoàn toàn đúng. Nó đúng đến đâu thì cần phải định nghĩa thế nào là "quý", thế nào là "kỳ", như đã giải thích phía trên.
“Cách trung như khử bệnh, tài lộc hỷ tương tuỳ” chính là nói nếu bệnh trong bát tự được khử thì tiền bạc, danh lợi cùng nhau đến. Đây là do khi khử được bệnh, tức có bệnh mà gặp thuốc, chữa được bệnh thì ngũ hành trong mệnh được cân bằng hơn, tức là điều cát lợi, điều lành đã đến.
Tóm lại, câu thứ nhất của Ngũ Ngôn Độc Bộ giới thiệu triết lý về mệnh lý của nó: Nhân đạo.
----------
CÂU 2: 寅卯多金五,贫富高低走。南地怕逢申,北方休见西。
Dần Mão đa kim Sửu, bần phú cao đê tẩu. Nam địa phạ phùng Thân, bắc phương hưu kiến Dậu.
(Dần Mão mà có nhiều kim và kim trong Sửu, muốn biết giàu nghèo sang hèn thì xem hành vận. Hành vận về phía nam thì sợ thấy chi Thân, hành vận về phía bắc thì không muốn thấy chi Dậu.)
“Dần Mão đa kim Sửu”: mệnh Giáp Ất sinh tháng Dần Mão, trong mệnh lại có nhiều kim, tức là thấy từ hai chữ trở lên trong các chữ sau đây: Canh, Tân, Thân, Dậu, Tuất, Sửu. Ngoài ra chữ “đa” ở đây còn phải hiểu là khí thế của kim vững mạnh. Tức là kim này phải có gốc, tức là phải có ít nhất một chữ Thân, Dậu, hoặc Sửu. Đó là phác thảo mệnh cục được đem ra làm ví dụ cho câu này.
“Bần phú cao đê tẩu”: Đối với mệnh cục mộc – kim lưỡng đình (hai bên thế lực gần như ngang nhau) như vậy, vai trò quyết định phú quý sang hèn của mệnh chủ phụ thuộc rất lớn vào hành vận.
Nếu mộc vượng hơn kim, hành vận cần giúp kim chế bớt mộc, giúp cho bát tự cân bằng hơn. Nếu kim vượng hơn mộc, hành vận cần giúp mộc. Tóm lại, những gì chúng ta rút ra ở đây là phú quý bần tiện của một bát tự có phần đóng góp to lớn của hành vận. Chỉ xem mệnh cục mà không xem hành vận là một thiếu sót trong việc cân đo phú quý bần tiện.
Tầm quan trọng của hành vận là vấn đề thứ nhất đề cập đến trong phần này. Vấn đề thứ hai là căn khí.
“Nam địa phạ phùng Thân, bắc phương hưu kiến Dậu”: Sinh tháng Dần Mão là đông phương. Dương nam, âm nữ hành vận thuận, lần lượt sẽ qua đông phương mộc, nam phương hoả và gặp Thân trước Dậu. Âm nam, dương nữ hành vận nghịch lần lượt sẽ qua đông phương mộc, bắc phương thuỷ và gặp Dậu trước Thân.
Mệnh Giáp Ất mộc, sinh tháng Dần Mão, kim vững mạnh. Nếu sinh tháng Dần thì sợ gặp niên vận Thân xung, sinh tháng Mão thì sợ niên vận Dậu xung. Bị Thân hay Dậu xung là Giáp Ất mộc mất đi căn khí, trong khi căn khí của kim trong mệnh vẫn còn (điều kiện để kim vững mạnh, chữ “đa” đã giải thích phía trên). Tức là nói kim là Quan Sát của mộc mà kim vượng lên, mộc yếu đi. Kim vượng hơn mộc thì là hung, chủ công danh không toại, sức khoẻ yếu kém, tiền tài thất thoát, tình duyên lận đận. Cho nên nguyên văn mới lấy chứ “phạ” (sợ), “hưu” (không nên).
Ở đây vấn đề căn khí là rất quan trọng. Có căn khí tức gốc vững thì có thể chịu được hình khắc, có cơ hội trở mình. Không có căn khí thì không thể chịu được hình khắc, khó có cơ hội trở mình.
Căn khí là một vấn đề nhiều người nhầm lẫn. Thường nghe nói đại loại như thân cường mà suy, trong suy mà vượng, vô cùng rắc rối, thâm ảo. Ở đây tôi muốn lý giải lại cho rõ ràng.
Có căn khí vững vàng thì là cường, không có căn khí vững vàng thì là nhược. Nhật chủ được toàn cục sinh trợ, cái sinh trợ nhiều hơn cái tiết chế thì là vượng. Nhật chủ bị toàn cục trấn áp, cái tiết chế nhiều hơn cái sinh trợ thì là suy.
Như vậy, cường – nhược, vượng – suy là hai khái niệm khác nhau. Trong đó, cường – nhược là một yếu tố để cân đo vượng - suy. Cường (có căn khí) thì dễ dàng (nhưng chưa chắc) vượng, vì nhật chủ dễ dàng tiếp nhận khí của nguyên thần (nguyên thần là cái sinh ra ta. Như nhật chủ là mộc, thì nguyên thần là thuỷ). Ví dụ nôm na như sau: nhật chủ mộc có căn thì thuỷ sinh 10 lấy được 8-10. Nhật chủ vô căn thì thuỷ sinh cho 10, lấy được 5-7. Nhật chủ cường thì chịu được hình khắc. Ví dụ nhật chủ mộc có căn, kim đến khắc 10, thì nhật chủ tổn 2-3. Nhật chủ mộc vô căn, kim đến khắc 10 thì chịu đủ 10.
Tại sao vậy? Tại vì nhật chủ là thiên can, là thiên khí. Căn khí tại địa chi, là địa khí, hoặc nhân khí. Nhật chủ có căn thì thiên địa đồng khí liên chi, địa khí trợ cho thiên khí, cho nên thiên khí kim (Canh, Tân) đến tổn Giáp, Ất thì có địa khí (Dần, Mão, Thìn, Mùi) bù lại. Đây chính là thiên – địa – nhân hợp nhất.
Như vậy vấn đề rắc rối, thâm ảo không cần thiết chính là sử dụng cường - nhược, vượng - suy nhầm lẫn cho nhau, râu ông nọ cắm cằm bà kia. Cho nên tên chính xác là trường phái vượng suy, cách gọi chính xác là nhật chủ vượng hoặc nhật chủ suy. Cách gọi nhật chủ nhược vô tình làm đảo lộn khái niệm, khó hiểu. (Nhưng hiện nay tôi vẫn nói nhật chủ nhược vì thuận tiện và dễ hiểu cho người hỏi mệnh).
Tóm lại, nếu câu thứ nhất “Hữu bệnh phương vi quý…” đề cập đến triết lí, kim chỉ nam của Ngũ Ngôn Độc Bộ là Nhân đạo; thì câu thứ hai “Dần Mão đa kim Sửu…”, đề cập đến tầm quan trọng của ba vấn đề cốt lõi khi xem mệnh đó là nguyên cục, hành vận, và căn khí. Muốn phân quý tiện sang hèn không chỉ dựa vào nguyên cục (bát tự) mà còn phải kết hợp hành vận. Muốn định vượng – suy thì không chỉ nhìn khí mà còn phải nhìn thế (căn khí), tức là phải biết cường – nhược.
Sửa bởi ThienKhanh: 26/10/2016 - 00:03