Jump to content

Advertisements




TRUYỆN NGẮN


312 replies to this topic

#1 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 11/09/2016 - 19:01

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Hai nửa vòng đời -Truyện ngắn của Trần Quốc Quân

04:22 AM - 11/09/2016 Thanh Niên

Ngẩng đầu lên bắt gặp ánh mắt của người đàn ông đang đứng trước mặt, Duyên sửng sốt: “Ôi! Sao trông quen quá!”. Không để ý thái độ của Duyên, người đàn ông vẫn hồn nhiên: “Chị à! Tôi thèm thuốc lá. Chị biết quanh đây có người VN nào bán Golden American không?”.



Thấy Duyên lúng túng, người đàn ông trấn an: “Chị đừng sợ! Tôi thèm thuốc lá thật mà. Mấy bữa trước, quanh khu vực cổng Brandenburger này tôi vẫn thường mua của một chị VN mập hơn chị, tóc bới cao, mặc áo khoác xanh olive”.
Ôi! Trời có lạnh lắm đâu, sao tay Duyên lập cập thế. Một chút luống cuống, Duyên kéo khóa túi xách, lấy ra bao thuốc đưa cho khách. Vẫn giọng nói nhẹ nhàng ấy: “Đúng loại này rồi! Nhưng tôi cần năm gói cơ”. Duyên lại thò tay vào túi lấy thêm bốn bao thuốc viền xanh, viền đỏ trên nền vỏ vàng đưa cho người đàn ông. Chợt thấy một vết sẹo dài cạnh thái dương trái của anh, Duyên run bắn. Bốn bao thuốc lá tuột khỏi tay Duyên rơi xuống tuyết. Người đàn ông vội cúi xuống nhặt lên cho vào túi áo ba đờ xuy màu xám nhạt.
Cầm mấy đồng mác (tiền tệ của Đức từ năm 1948 - 2002) khách vừa trả, Duyên nhét cả vào túi quần rồi đứng ngây như bị thôi miên. Khi người đàn ông rẽ vào ngõ nhỏ Duyên mới sực tỉnh.
Ngày… tháng 4 năm 1972.
Mấy hôm nay đánh nhau ác liệt quá. Trạm xá sư đoàn chật cứng thương binh, nhiều giường phải nằm ghép. Tiếng súng từ xa vẫn ì ùng vọng về. Liệu mai địch còn phản kích nữa không?
Chiều nay mình bê chậu quần áo thương binh loang lổ các vết bùn vết máu nặng ơi là nặng ra bờ suối giặt. Mùi khói đạn pháo vẫn theo gió bảng lảng át cả hương rừng. Bỗng dưng mình cao hứng hát “Đi giữa trời khuya sao đêm lấp lánh, tiếng hát ai vang động cây rừng…”. Một chú chim chào mào từ bụi cây ven lối mòn bay vụt ra. Mình giật mình. Eo ơi, sợ quá! Như có người xồ ra vồ ấy. Hí hí! Nhìn bóng chim bay trên nền trời xanh, bất giác mình bật cười. Trên ngọn cây gãy gập, xác xơ lá bên hố bom có đôi chim cu đang gù nhau. “Sao chúng mày sướng thế? Chả bù cho t*o lủi thủi một mình”. Khoảnh khắc giữa hai trận đánh thật thanh bình. Chao ơi! Mình nhớ nhà thế chứ.
Ngửa mặt nhìn trời không một gợn mây, rồi cúi trông dòng nước trong vắt len lỏi qua các mỏm đá, bỗng dưng mình muốn tắm. Hí hí! Có ai rình xem mình trần truồng không nhỉ? Vừa ngâm người dưới làn nước mát, chợt thấy một vệt máu mỏng mảnh như khói thuốc chảy xuôi theo dòng, mình hốt hoảng nhảy ngay lên bờ mặc vội quần áo. Cách chỗ mình đứng không xa, sau một tảng đá đầy rêu có hai ống chân người thõng xuống suối. Không biết ta hay địch? Không biết sống hay chết? Nhặt hòn đá bằng nắm tay, mình rón rén lại gần. Thì ra là một người lính đang nằm ngửa, nửa trên bờ nửa dưới suối, đầu đội mũ sắt, mặc bộ rằn ri, đi giày da cao cổ, hai tay đặt hờ lên khẩu súng vắt ngang bụng. Quân phục này, vũ khí này đích thị là địch rồi.
Từ hôm nghe người đàn ông nói hay ra đây mua thuốc lá, Duyên không đi bán dạo gần chân tháp truyền hình nữa, chỉ quanh quẩn khu vực này. Dù mong manh nhưng Duyên vẫn hy vọng, sau khi hút hết năm bao thuốc anh sẽ quay lại đây. Dạo này cảnh sát “càn quét” gắt gao quá, Duyên không dám vượt sang bên kia bức tường ngăn đôi Berlin mà dạt vào góc đường phía đông cổng Brandenburger. Đứng ở chỗ này dễ quan sát, hễ thấy xe Polizei từ xa là Duyên kịp biến vào ngách nhỏ dẫn tới công viên. Khi cảnh sát bỏ đi, Duyên lại lảng vảng ra bán tiếp.
Linh cảm của người phụ nữ bao năm khắc khoải mong đợi khiến Duyên tin mình không thể nhầm được. Mười chín năm đâu phải quá lâu để Duyên không nhận ra gương mặt anh. Vẫn ánh mắt ấm áp ấy, vẫn nụ cười tươi tắn ấy, vẫn giọng Nam bộ nhỏ nhẹ ấy. Ký ức ăm ắp từ xa xôi dội về, hình ảnh rõ nét từ quá khứ hiện lên. Nhưng sao anh lại ở đây, như từ trong mơ bước ra vậy? Ngày hôm sau, rồi mấy ngày hôm sau nữa, mặc cho Duyên thấp thỏm ngóng trông nhưng vẫn không thấy bóng dáng anh đâu. Từng đấy năm đi tìm chim trời cá biển trong vô vọng, thế mà khi người ấy đứng trước mặt, Duyên lại cuống lên quên cả hỏi tên, thậm chí chỉ vu vơ gợi lại vài kỷ niệm trong ký ức.
Giữa thập niên 1980, những năm đói khổ nhất của thời kỳ bao cấp, mặc dù chiến tranh chưa hết nhưng quân đội phải giảm quân số để đỡ gánh nặng cho nền kinh tế. Lính và sĩ quan tranh nhau đi xuất khẩu lao động. Thời bấy giờ ai cũng nghĩ Đông Đức là nhất quả đất. Giá trị được quy đổi ra xe máy Mokich, xe đạp Mifa và áo khoác. Đang làm y sĩ tại quân y viện, Duyên phục viên với một “cục tiền chế độ” để tham gia khóa đào tạo thợ may.
Giờ hai nước Đức thống nhất, nếu Duyên hồi hương với khoản tiền bồi thường thì cái gì cũng dở dang. Mà thu nhập một tháng làm quần quật ở nhà không bằng một ngày “dạo phố” ở đây.
Ngày… tháng 4 năm 1972.
Hắn bị sức ép thuốc nổ, một mảnh đạn pháo cắm sâu vào chân và một vết thương gần thái dương trái. Mỗi khi thấy hắn nhăn mặt đau, mình thương ơi là thương. Các bác sĩ đã phẫu thuật, băng trắng đầu, trắng chân hắn. Sau gần ba tuần điều trị, hắn đã bình phục. Mấy hôm nay có mình dìu, hắn đã tập tễnh đi được vài chục bước. Ai đời, địch gì mà da trắng mịn màng, nét mặt thanh t*o, mũi cao dọc dừa, môi đỏ như son lại còn nói năng nhỏ nhẹ nữa. Hí hí! Tí nữa mình ngất bởi gã địch quá hiền lành, đẹp trai. Đi một lúc mệt, mình và hắn ngồi bệt xuống cỏ thở dốc. Chỉ tay vào hai ngôi sao đính trên ve áo hắn, mình bảo hóa ra cùng là binh nhì cả. Hắn cãi “Trung úy đấy, đừng đùa!”. Thế rồi hắn cười rất tươi, khoe ra hai hàm răng trắng đều tăm tắp. Gần hắn mình mới biết, địch dễ thương chẳng thua gì ta. Chà! Hay là mình kết hắn rồi? Eo ơi! Xấu hổ quá!
Hôm qua mình nghe thủ trưởng nói, một tuần nữa hắn sẽ được giải về tuyến sau. Vậy là hắn bị bắt làm tù binh? Vậy là mình và hắn sắp phải xa nhau? Không biết cuộc sống trong tù thế nào nhỉ? Trông có vẻ rắn rỏi với bộ quần áo lính nhưng thực ra là cựu sinh viên đại học, hắn mong manh lắm. Nhìn hắn cao ráo, thư sinh thế cơ mà. Mình xuất thân nông dân quen đói khổ, chứ hắn trai thành phố làm sao chịu nổi. Chẳng hiểu sao mình cứ nao nao lòng mỗi khi nghĩ tới hắn? Sao thế nhỉ? Hắn chả là gì, à hắn là địch.
Hí hí!
Đang lúi húi dúi mấy bao thuốc lá vào tay ông Tây, Duyên bàng hoàng thấy một người nhang nhác anh đi ngang qua, cũng tóc đen, cũng khoác áo ba đờ xuy màu xám nhạt. Duyên vội tất tả chạy theo. Vượt lên trên người ấy vài bước chân, Duyên ngoái đầu lại nhìn. Không phải anh. Duyên thẫn thờ. Từ hôm gặp anh đến giờ thế mà đã hai tuần rồi đấy. Sực nhớ vẫn chưa nhận tiền, Duyên vội quay lại chỗ cũ. Ông Tây vẫn đứng chờ. Sau một chút ngẩn ngơ, Duyên đưa lại tiền thừa cho khách. Đứng dựa lưng vào tường, Duyên bần thần ngắm những bông tuyết chấp chới bay trắng trời. Trong lòng Duyên tuyết cũng đang rơi, tê tái.
Tối qua bà ngoại gọi điện thoại sang mách, con trai mải chơi thi trượt đại học. Duyên thao thức cả đêm không ngủ được. Sợ con chán nản theo bạn lêu lổng sinh hư, Duyên muốn đón con sang càng sớm càng tốt. Ngay sáng hôm sau Duyên tìm gặp “đường dây” chuyên đưa người sang Đức để đưa tiền đặt cọc.
Mang nhiều nét giống cả bố và mẹ, thằng bé trông đẹp trai, dễ thương, hiền lành lắm. Từ khi Duyên biền biệt phương trời xa, được ông bà chiều, thằng bé ham chơi nên thi trượt. Cũng may nó chỉ lười học chứ không hư hỏng.
Ngày… tháng 5 năm 1972.
Một tuần nữa trôi qua, chân hắn đã khỏi hẳn. Nhìn hắn đi lại bình thường, không ai nghĩ vết thương ở chân hắn vừa được phẫu thuật. Chiều hôm qua, hắn còn đùa “Bây giờ thì tôi đủ sức cõng cô ra suối, chỗ có tảng đá mà cô tìm thấy tôi nằm ngất tháng trước ấy”. Chà! Hắn nói thế là có ý gì? Hì hì! Ai con trai lại cõng con gái, trông buồn cười lắm. Hay là hắn dụ mình ra suối làm bình phong để hòng trốn thoát? Trạm trưởng vẫn thường nhắc mình không được cho hắn đi ra khỏi tầm kiểm soát của cảnh vệ. Mình không mất cảnh giác thế đâu. Còn lâu hắn mới lừa được mình.
Ngày… tháng 5 năm 1972.
Sáng nay máy bay trinh sát lượn vè vè trên đầu. Đến trưa trạm trưởng thông báo, địch sắp càn lên đây. Chiều tối trên lệnh xuống, trong ngày mai phải di chuyển gấp trạm xá đến địa điểm mới. Mình làm nhiệm vụ tải thương, còn hắn theo cảnh vệ về vùng giải phóng. Vậy là mình và hắn sắp xa nhau, mỗi đứa mỗi ngả chả biết khi nào gặp lại. Ơ! Dơ thế chứ! Tại sao mình nghĩ đến hắn nhiều thế? Chỉ là quan hệ y tá với bệnh nhân thôi mà. Hình như hắn cũng mến mình? Hôm qua hắn bảo, bàn tay mình chạm vào đâu là hết đau ngay chỗ đó, y như có phép thần ấy. Eo ơi, hắn tán giỏi thế chứ! Biết hắn nịnh nhưng mình vẫn thích là sao? Lạ nhỉ! Lâu nay mình vẫn bón ăn, thay băng, dìu hắn nhưng chẳng thấy gì. Vậy mà lúc hắn cầm bàn tay mình xoa nhẹ, mình bỗng run bắn, người như mê đi. Hắn nhìn vào mắt mình, khẽ mỉm cười tinh quái. Mặt và tai nóng bừng, mình vội rụt tay lại. Ôi, xấu hổ quá! Con gái ai lại vô duyên thế chứ.
Nửa năm sau khi thi trượt đại học, con trai Duyên được “đường dây” đưa sang Nga du lịch. Thêm sáu tháng theo “giao liên” băng qua Ukraine, luồn rừng đến Ba Lan rồi lội suối sang Đức, cuối cùng con trai Duyên gặp được mẹ. Trong niềm vui hân hoan đoàn tụ, Duyên vừa mừng vừa lo. Cảnh sát Đức kiểm soát việc buôn lậu thuốc lá ngày càng chặt. Tuần trước Duyên nghe có hai xe Tir chở đầy thuốc lá từ Ba Lan sang bị cảnh sát hốt gọn trong một khu rừng cách Berlin năm mươi cây số. Tuần này Duyên lại nghe xe Polizei lùng sục nhiều tuyến đường, vây bắt người bán thuốc lá dạo. Trong đó có mấy đứa bạn cùng nhà máy với Duyên bị trục xuất về VN.
Dạo này Duyên thường xuyên mất ngủ. Lỡ chẳng may bị trục xuất về nước thì cánh cửa đổi đời với hai mẹ con đóng sập lại. Duyên nghĩ kỹ rồi. Từ nay Duyên không được kiếm tiền bất chính nữa. Từ nay Duyên phải sống hợp pháp. Từ nay Duyên sẽ hội nhập dần vào xã hội Đức. Nhưng bằng cách nào đây?
Ngày… tháng 5 năm 1972.
Mấy ngày nay chạy địch, mình chẳng còn tâm trí đâu để viết nhật ký. Sáng sớm hôm ấy, khi trời mới chạng vạng thì có tiếng hàng đàn máy bay trực thăng từ xa vọng đến to dần, rồi tiếng đạn nổ xối xả. Cả trạm xá hỗn loạn, người trong các lán túa ra, mạnh ai nấy chạy. Đang cắm đầu lao vào rừng, mình chợt thấy một người từ gốc cây nhảy xổ ra chặn lối. Thôi rồi, mẹ ơi! Con bị địch bắt. Mình chỉ kịp nghĩ vậy thì nghe tiếng hét: “Duyên, anh đây! Chạy lối này!”. Thì ra là hắn. Chưa hoàn hồn, mình bị hắn kéo mạnh tay bắt chạy tiếp. Sau lưng mình khói lửa mù trời, tiếng cánh quạt trực thăng phành phạch, tiếng đạn nổ đinh tai nhức óc. Hắn dắt mình chạy về phía núi, ngược với hướng suối.
Mình vấp ngã, hắn quay lại đỡ dậy. Tập tễnh cố đuổi theo hắn nhưng mình cứ tụt xa dần. Thế là hắn quay lại, cõng thốc mình lên lưng chạy tiếp. Đến gần chân núi, chừng như quá mệt hắn ngồi bệt xuống gốc cây thở dốc. Mình hỏi hắn: “Quân bên anh, sao anh phải bỏ chạy?”. Hắn vừa thở vừa nói: “Đạn vô tri, làm sao phân biệt được quân bên nào”. Phía trạm xá không còn tiếng cánh quạt trực thăng nữa, không còn tiếng đạn nổ ầm ầm nữa, chỉ thỉnh thoảng rộ lên đì đẹt vài tiếng súng tiểu liên. Hắn bảo: “Họ đổ quân xuống rồi đấy. Bây giờ là lùng bắt. Thương binh chưa chết chắc sẽ được cứu”. Mình chẳng tin địch lại tử tế thế. Kiểu gì thì hắn vẫn bênh địch. Ơ! Hắn là địch mà. Nhưng trong hoàn cảnh này, biết làm sao được, ta và địch vẫn phải nương tựa vào nhau.
Đút ba tút thuốc Golden American vào túi xách tay, vừa bước ra khỏi thang máy Duyên thấy hai đứa bạn cùng đội hớt hải đi vào. Một đứa nói trong tiếng thở hổn hển: “Chị đừng đi. Ngoài phố nhiều cảnh sát lượn lờ lắm. Cái Lựu bị bắt rồi, tội nó quá!”. Cả ba tất tả quay lên nhà. Ngồi cùng nhau mà mỗi đứa nhìn một hướng, mặt đứa nào đứa nấy lo âu, rầu rĩ. Không khí im ắng, nặng nề tràn ngập căn phòng. Chợt một đứa cất giọng: “Hay là bọn mình về VN đi! Cứ ở đây mãi thế này thì…”. Điên à! Mất bao nhiêu tiền Duyên mới đón được con trai sang. Đứa nào muốn về thì về, mặc xác. Duyên quyết bám trụ ở đây. Đành rằng khó nhưng vẫn có cửa kiếm tiền. Bỗng một đứa reo lên: “À! Bà Thơm mới mở trung tâm thương mại Thái Bình Dương đấy. Hay là bọn mình đến đó thuê quầy, thử vận xem sao”.
Hôm sau cả ba đứa rủ nhau cùng đi. Hai đứa kia thuê quầy bán quần áo, còn Duyên thuê quầy mở quán bán phở. Thời gian này nhà hàng VN tại Berlin còn hiếm lắm, có thể đếm trên đầu ngón tay. Khách ta khách Tây tới ăn ngày càng đông. Duyên mong lắm một ngày nào đó nghe tiếng đồn về quán, anh sẽ tự tìm đến.
Ngày… tháng 5 năm 1972.
Mấy đêm nay trời se lạnh, vừa sợ ma vừa sợ thú dữ, mình phải nằm cạnh hắn mới dám ngủ. Hở lúc nào ra là hắn lại thủ thỉ rủ mình theo về phía bên kia. Dù quý hắn đến đâu, mình cũng không thể phản bội đội ngũ, bán rẻ đồng chí, từ bỏ lý tưởng. Cả đêm chẳng lúc nào hắn chịu để mình yên. Người đâu mà dai như đỉa ấy. Hí hí! Mệt rũ ra, nhưng là lá la… Ôi chao! Sao mà thích thế chứ. Thao thức mãi, tới lúc gà rừng gáy te te mình mới tranh thủ chợp mắt được một tí. Hí hí!
Từ hôm qua tới giờ không còn nghe tiếng máy bay trực thăng, tiếng đạn nổ nữa. Chắc quân địch đã rút xa. Ngày mai hai đứa hai ngả, mình trở về trạm xá tìm đơn vị, còn hắn đi đường hắn. Không hiểu sao trong lòng mình thấy chống chếnh. Mình muốn khóc. Vì ai đây? Vì đồng đội vừa ngã xuống hay vì phải chia xa hắn? Chắc là cả hai rồi! Hu hu!
Có con trai quản lý quán, Duyên nằm viện vẫn thấp thỏm không yên. Một tuần trôi qua, tuy bệnh đã thuyên giảm nhưng Duyên vẫn như có lửa đốt trong lòng. Không sợ thất thu tiền, Duyên chỉ lo những ngày này anh đến mà không có mình ở đó. Bỗng nhiên Duyên nhớ anh đến cào cấu ruột gan.
Ngày… tháng 9 năm 1972.
Dạo này mình thấy người nặng nề mệt mỏi, đôi lúc lơ đãng thiếu tập trung. Càng ngày mình càng thèm ăn, nhưng ở rừng thì đừng mơ vớ được cái gì cho vào mồm. Có hôm đói không chịu nổi, mình vào rừng hái mấy trái lạ đem về lán. Cái Liễu nhìn thấy can: “Mày không được liều thế! Nhỡ quả độc thì sao? t*o nói mày đừng giận. Từ giờ trở đi vì cái thai, mày phải giữ gìn cẩn thận”. Bước tới đầu phản, nó lục ba lô lấy ra một thanh lương khô đưa cho mình. Khi miếng cuối cùng vừa nuốt xong, mình bỗng thấy lợm giọng vội chạy ra hè nôn thốc nôn tháo.
Tuần trước chính trị viên đã báo cáo chuyện “tày đình” của mình lên sư đoàn bộ. Từ khi việc vỡ lở ai cũng nhìn mình với ánh mắt khác lạ, mà đa phần là ác cảm. Chỉ có mấy con bạn cùng tiểu đội thương mình thôi, nhưng chẳng đứa nào dám biểu lộ ra mặt. Ban đêm nằm bên nhau chúng nó mới xoa bụng mình vỗ về, an ủi. Tủi thân, nhớ mẹ, mình ứa nước mắt ướt cả vạt gối.
Hôm qua trong lúc bị đơn vị kiểm điểm, mình khóc suốt. Đành rằng mình gây ra lỗi nhưng con mình đâu có tội, tại sao người nào cũng chỉ trích phê phán mình gay gắt thế? Chẳng hiểu sao trạm phó lại gọi cái thai của mình là kết quả mối tình tội lỗi. Ông còn yêu cầu mình phải “giải quyết” ngay cái thai. Điên à! Mẹ thà chết, kiên quyết không giết con. Mẹ thề bảo vệ giọt máu rất mực yêu quý đến cùng. Thấy mình gạt nước mắt, mặt rắn rỏi, trạm phó không ép nữa. Khi chính trị viên bắt mình phải khai ai là bố đứa trẻ, mọi ánh mắt cùng đổ dồn về phía trạm trưởng. Nhưng mình dứt khoát không mở miệng. Mình hứa chôn chặt bí mật trong lòng.
Chiều nay có lệnh từ sư đoàn bộ truyền xuống, tuần sau theo đường giao liên mình được chuyển ra bắc để chịu kỷ luật và chờ đẻ. Vừa nghe chính trị viên phổ biến, mình sung sướng đến độ suýt nữa hét tướng lên “sống rồi, con ơi!”, may mà kịp kìm lại.
Đang thu tiền bà khách ta mồm ngậm que tăm đứng trước quầy, thấy một người đàn ông bước vào quán, Duyên sững người đánh rơi chiếc máy tính. Thật không thể tin nổi! Đúng ánh mắt ấm áp ấy, đúng nụ cười tươi tắn ấy, đúng giọng nói Nam bộ nhỏ nhẹ ấy, lại thêm cả vết sẹo bên thái dương trái kia nữa. Rõ ràng Duyên đang tỉnh, không phải mơ. Ngỡ như bước ra từ thế giới thần thoại, anh hiện lên trước mặt Duyên. Bốn ánh mắt chạm nhau bối rối. Ngây người vô thức, miệng Duyên tự nhiên bật ra một tiếng “Anh!”. Miệng anh cũng thốt lên một tiếng “Duyên!”. Nếu không có ông khách đang xì xụp húp nước phở ở cái bàn giữa quán thì hai người đã lao vào nhau.
- Sao em lại ở đây?
- Em đi xuất khẩu lao động. Sao anh lại ở đây?
- Anh vượt biên đầu năm 1981, tá túc tại trại tị nạn bên Mã Lai hai năm rồi sang Đức tới giờ.
- Hai năm trước, anh mua thuốc lá của em cạnh cổng Brandenburger. Lúc em đang ngờ ngợ thì anh đã bỏ đi mất.
- Sao anh không nhận ra em? Mới hơn hai mươi năm chứ lâu gì đâu.
- Hôm đó trời lạnh, em đội mũ sùm sụp, lại quàng khăn che kín nửa mặt nữa. Anh làm gì từ ngày sang đây?
- Anh là chuyên viên kỹ thuật công ty sản xuất xe tải MANA nằm bên Tây Berlin. Em ở đây cùng với gia đình à?
- Em và con trai chúng mình.
Duyên đọc được trên gương mặt anh sự ngạc nhiên pha lẫn rạng ngời hạnh phúc.
Đầu năm 1977, sau khi đường sắt Thống Nhất khôi phục xong, Duyên xin nghỉ phép dắt con trai vào Sài Gòn tìm bố. Một người đàn ông chống nạng dẫn Duyên đến tận cửa nhà anh trong cư xá Thanh Đa. Khi đứng trước căn phòng đóng chặt, Duyên quặn thắt tim. Gõ tay lên cánh cửa gỗ bong tróc sơn, Duyên hồi hộp đến ngộp thở. Sau lần gõ thứ tư, Duyên cúi người nhìn qua lỗ khóa. Bên trong chỉ thấy một màn đen thăm thẳm. Đúng lúc đó, từ cửa nhà bên có người đàn ông hắng giọng. Giật bắn mình, Duyên bối rối vội đứng dậy. “Cô tìm ai?”. Duyên nói tên anh. “Ảnh đi cải tạo ngay sau ngày giải phóng rồi cô ơi, không biết bao giờ trở về. Cả nhà ảnh thì đi kinh tế mới hết rồi”. Nước mắt rơi đẫm vạt áo, Duyên lảo đảo vịn tay vào tường. Cố nén lòng để không bật ra tiếng khóc, Duyên hỏi địa chỉ nơi anh cải tạo. Người đàn ông không biết. Ngay hôm sau, hai mẹ con Duyên ngồi tàu Thống Nhất ra Hà Nội.
Mùa thu năm 1981, Duyên lại dắt con trai vào Sài Gòn tìm bố. Gõ cửa nhà bên cạnh, Duyên thấy vẫn người đàn ông ấy bước ra. “Trời ơi, tội nghiệp mẹ con cô quá! Cả nhà ảnh đã vượt biên nửa năm trước. Họ đến nước nào tôi làm sao biết được”. Duyên bàng hoàng, chân như muốn khuỵu xuống. Ngay hôm sau, hai mẹ con Duyên ngồi tàu Thống Nhất ra Hà Nội.
Anh giục Duyên đóng cửa quán về nhà. Chắc anh mong được gặp con quá. Trên xe, đôi lúc anh nắm chặt bàn tay Duyên. Nhớ tới lần rụt vội
bàn tay năm ấy, Duyên khẽ mỉm cười. Bây giờ thì Duyên muốn để bàn tay mình mềm mại trong bàn tay anh ấm áp thật lâu. Nghe anh kể vợ con chết ngoài khơi trên đường vượt biên, sang đây mấy năm sau anh lấy vợ Tây nhưng đã ly hôn hơn một năm trước, Duyên lặng người. Từ hai khóe mắt Duyên những giọt nước mắt ứa ra chảy tràn trên má.

Truyện ngắn của Trần Quốc Quân



Thanked by 3 Members:

#2 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 25/09/2016 - 19:37

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Hoa mặt trời đỏ - Truyện ngắn của Đào Thị Thanh Tuyền

05:00 AM - 18/09/2016 Thanh Niên

Nhiều bạn trẻ thích hoa mặt trời đỏ, không hẳn vì nó đẹp mà có lẽ vì lạ bởi màu sắc rực rỡ 'chết người' của nó.



Ngày xưa hoa mặt trời đỏ là hoa hiếm, hạt giống khó kiếm, ít người trồng, cũng không nhiều người thích. Bây giờ tuy hoa mặt trời đỏ dễ trồng, dễ sống, sinh trưởng mạnh nhưng không lắm người chơi. Có nhiều truyền thuyết về hoa mặt trời, truyền thuyết nào cũng buồn, kể về sự chia ly, đổ vỡ trong tình yêu, lòng ghen tuông, cái chết, nỗi cô đơn... Vậy nhưng, các câu chuyện đều dẫn đến cái kết về sự cứu rỗi, hận thù được tha thứ. Đóa hoa hướng tới mặt trời mang ý nghĩa niềm tin trong tình yêu và cả sự sám hối lỗi lầm.

@

- Hôm nay có gì hay không, bé cưng?
- Không anh à. Toàn cãi nhau. Bất phân thắng bại. Không bên nào muốn bại. Anh làm về muộn thế?
- À, hôm nay anh tiếp khách.
- Vui nhỉ!
- Mệt chết đi được. Mấy cha già mà nói toàn chuyện gái gú, rượu bia. Chán phèo!
- Sao lại chán nhỉ. Tưởng đâu đàn ông thích mấy chuyện đó.
- Riêng anh thì không.
- Ngoan nhỉ!
- Không ngoan cũng chẳng hư.
- Sáng nay anh post hình đôi giày đẹp quá!
- Quà tặng đấy, bé cưng. À, nhắc quà tặng mới nhớ chai rượu bé cưng hứa tặng anh gần năm rồi mà chưa đến tay.
- Em vẫn để nó trên bàn làm việc đây này. Rượu càng lâu càng ngon, anh nhé.
- Vậy hẹn khi nào gặp nhau đi.
- Vâng, dứt khoát rồi!
- Thôi anh ngủ đây. Hôm nay uống hơi nhiều. Chào bé cưng. Chúc ngủ ngon.
- Vâng, em chúc anh ngủ ngon.

@

- Hôm nay anh về nhà sớm thế. Không có độ nào à?
- Lâu lâu anh làm con ngoan. Sao biết anh về nhà?
- Thì có lần anh bảo không online điện thoại, khi nào thấy nick sáng đèn là biết anh về nhà. Khiếp, làm con ngoan thùy mị ghê heng.
- Thùy mị mà sao ghê hả bé cưng? À, con mèo nhà anh bỏ đi cả tháng trời bây giờ dẫn xác về. Bị đập te tua bể đầu, sứt trán, máu me tùm lum, một cái chân què rồi!
- Ôi, tội nó thế. Anh băng bó vết thương cho nó chưa?
- Mẹ anh đang chăm sóc nó.
- Còn ba con mèo kia thế nào hả anh?
- Vẫn bình thường chơi ở đây này.
- Con chó vẫn chơi cùng chứ ạ?
- Ừ, chúng nó sống chung hòa bình với nhau từ ngày con mèo bú sữa con chó đến giờ.
- Anh nhắc em mới nhớ chuyện con chó nhà anh tự nhiên có sữa, loài chó đó hay ghê anh há! Chuyện khó tin nhưng có thật!
- Ừ, thương lắm!
- Hôm nay anh post hình mặc áo sơ mi trắng, đẹp trai nhen!
- Không vào còm khen anh câu nào!
- Em like rồi mà!
- Bé cưng hà tiện lời khen với anh quá! Mà, đổi avatar mới sao không post hình lên cho mọi người ngắm dung nhan xinh đẹp? Toàn chia sẻ clip hài!
- Vui mà anh. Em có thể xem và cười rũ rượi cả ngày không chán.
- Ít ra phải có hình chính chủ!
- Em đã nói với anh rồi mà. Ba em cho chơi Facebook nhưng ông cấm không được post hình cá nhân.
- Ba em khó tính thế. Em chơi mấy năm rồi mà ông ấy vẫn quản chặt thế cơ à? Em đổi nick khác làm sao ông biết được?
- Thôi, ba em khó lắm. À, em kể anh nghe chuyện em bị mất xe máy chưa nhỉ?
- Anh chưa biết!
- Thằng bạn mượn xe máy của em gọi điện báo là mất xe rồi. Em sợ ông cụ khốt biết được chắc nổi trận lôi đình đấy anh ạ.
- Haizz, bạn bè bất cẩn thế! Rồi tính sao?
- Em cũng chưa biết nữa. Đang lo muốn nổ não đây này!
....

@

- Thức khuya vậy bé cưng?
- Em chuẩn bị đi ngủ. Hôm nay anh có chuyện gì vui không?
- Chả có gì, công việc và công việc chán chết đi được.
- Có việc làm vui chứ sao chán hả anh?
- Đôi khi nó làm mình mệt mỏi bé cưng à. Chuyện xe
máy sao rồi? Ông già la mắng dữ không?
- May quá anh ạ. Thằng bạn em nó cắm thôi chứ không phải mất. Mẹ em mang tiền chuộc lại rồi.
- Vậy là ổn há. Ôi, sao bạn bè khiếp thế. Anh là anh tẩy chay ngay mấy thằng lôi thôi đó.
- Vâng, em unfriend nó luôn rồi. Bài học nhớ đời.
- Anh gửi qua tấm hình con chó đang nằm ngủ chung với bốn con mèo, dễ thương không? Coi như lời chúc ngủ ngon nhé!
- Ôi, cưng quá anh ơi! Vâng, em chúc anh ngủ ngon.

@

- Này, bé cưng.
- Sao thế anh?
- Hôm nay anh quyết định rồi!
- Quyết định gì hả anh?
- Gặp em để lấy chai rượu. Chiều mai anh rảnh. Cho anh địa chỉ nhà em, về sớm anh ghé. Hay hẹn nhau ở quán cà phê nào đấy, được không?
- Ối, mai em kẹt rồi.
- Lại nữa. Cứ mỗi lần anh bảo đến gặp em để lấy chai rượu là em bận. Hay thế đấy!
- Giận em rồi hả? Em bận thật mà. Mai sinh nhật đứa bạn, đã hẹn nhau quẩy một trận tưng bừng. Tan việc ra em đi luôn, phải đến khuya mới về. Hẹn ngày khác anh nhé!
- Anh hy vọng lần sau em không vướng chuyện gì. Anh ghi vào sổ hết rồi. Em hứa tặng anh chai rượu hồi tết năm ngoái, anh hẹn gặp em tổng cộng 5 lần bất thành.
- Khiếp, anh làm gì mà nhớ dai và chi tiết đến vậy chứ!
...

@

- Hôm nay có gì vui không bé cưng?
- Hôm nay em lĩnh lương.
- À, em làm công chức nên nhận lương đầu tháng. Bên anh kinh doanh, cuối tháng căn cứ vào bảng chấm công mới có lương. Thế hôm nay có ăn uống đập phá gì không?
- Hôm nay em làm bé ngoan.
- Chúc mừng nhé. Tấm hình em post ban chiều đẹp đấy. Em canh góc hình rất chuẩn.
- Không vào còm khen em lời nào!
- Anh like rồi mà!
....

@

- Hẹn hò đi, bé cưng?
- Ấy chết. Hôm nay anh ăn trúng gì rồi à? Anh sờ tay lên trán xem có ấm đầu không?
- Anh thật đấy! Ngày mai anh sẽ gặp em để lấy chai rượu. Nếu em thoái thác lần nữa anh block em luôn!
- Bình tĩnh, anh. Em chắc hôm nay anh ăn phải quả đắng nào ngoài đường rồi!
- Không, anh dứt khoát, đừng đánh trống lảng. Chiều mai ba giờ. Em bảo cơ quan em ở góc đường D. và Q. phải không? Anh sẽ đợi em trong quán cà phê “Yêu nhau đi”. Em không đến là câu trả lời, nhé!
- Đợi em tí đã, anh.
.....

@

- Mẹ ơi, anh ấy hẹn con ba giờ chiều mai ở quán cà phê. Làm sao đây hả mẹ?
- Dứt khoát phải gặp hả con?
- Vâng mẹ ạ. Anh ấy nói nếu không gặp sẽ unfriend con luôn.
- Đầu giờ chiều ngày mai con hãy nhắn với anh ấy rằng con có việc đột xuất không đi được. Hay, có thể bảo con đang đến nhưng bị mưa, kẹt xe đành xin lỗi hẹn khi khác.
- Mẹ ơi, nhắn cho anh ấy cách nào đây hả mẹ? Anh ấy chỉ online buổi tối khi về nhà. Bao lần đột xuất rồi. Con không muốn anh ấy unfriend con.
- Mẹ sẽ cầu nguyện cho con.

@

- Anh giận em không?
- Giận vì chuyện gì hả
bé cưng?
- Hôm bữa em không đến chỗ hẹn.
- Vậy à. Có chuyện đó sao? Anh quên rồi. Chắc hôm đó say, anh không nhớ. Sorry em.
- Ôi, vậy mà hai hôm nay em lo quá trời. Ngày nào mở Facebook cũng rón rén tìm xem anh đã unfriend em chưa?
- Hai ngày nay anh đi công tác, bận quá không online. Bé cưng ngủ ngoan nhé. Anh phải làm việc tí. Bốn con mèo và con cún hỏi thăm em đấy. Anh gửi qua tấm hình chúng nó ôm nhau nằm ngủ dưới chân anh nè.
- Ôi, thích ghê. Nhà anh buổi tối êm đềm quá. Con mèo có cái sẹo to đùng trên đầu phải bị đánh hôm nọ không anh. Tội nó quá nhỉ. Vâng, anh không giận thì em an tâm rồi. Anh làm việc nhé!

@

- Mẹ ơi, may ghê, anh ấy quên chuyện hôm trước rồi. Nhưng chắc thể nào anh ấy cũng nhắc lại.
- Mẹ sẽ cầu nguyện cho con. Bé yêu của mẹ.

@

- Mấy hôm nay anh đi đâu mà em không thấy?
- Mẹ anh ốm, anh vào viện chăm mẹ.
- Ôi, em không biết. Sorry anh. Bác bị sao thế hả anh?
- Bệnh người già ấy mà. Đã ổn rồi, bé cưng.
- Khi nào bác về nhà hả anh?
- Có thể cuối tuần.
- Mừng quá. Em sẽ cầu nguyện cho bác chóng khỏe.
- Cám ơn em. Mấy hôm nay Facebook có gì vui không?
- Vẫn thế. Lẩu thập cẩm. Họ tranh cãi, gạch đá ném tứ tung vào nhau không thương tiếc, bới bèo ra bọ, buôn bán nhộn nhịp, tiệc tùng ăn uống, con cái học giỏi, đi chơi, chụp hình đẹp, tự sướng, thỉnh thoảng lại triết lý và ghét nhau... Em vẫn trung thành dẫn link các clip hài. Hihi.
- Tự nhiên anh thèm ly rượu của bé cưng. Anh qua nhà em lấy nhé.
- Em đang chơi ở nhà dì. Tiếc thật. Thôi anh nghỉ đi, mấy hôm ở bệnh viện chắc anh cũng mệt rồi, phải không?

@

- Ôi, may quá mẹ ạ.
- Sao thế con?
- Anh ấy vừa bảo là thèm rượu và muốn qua lấy chai rượu.
- Tối rồi mà con, chắc anh ấy ngẫu hứng nói thôi chứ không định vậy đâu.
- Hay anh ấy buồn vì mẹ ốm?
- Có thể.

@

- Bốn năm trời, trừ lúc tôi đi công tác hay bận việc về nhà quá khuya, đêm nào cũng chat với nhau như thế, ông à.
- Ông hẹn tôi ra đây chỉ để kể về những đoạn chat vớ vẩn bốn mươi chưa qua, già chưa tới vậy sao? Ông lấy vợ đi đừng có chanh cốm mãi thế, chướng lắm!
- Ông có nghĩ tình yêu là một thói quen không?
- Lâu quá rồi, từ ngày lao vào sữa, tã đến giờ tôi quên mất tình yêu là gì! Mà, ông có ấm đầu không đấy?
- Tôi hoàn toàn nghiêm túc.
- Ông cứ lửng lửng lơ lơ như thế. Cô ấy mất đã năm năm rồi mà. Không quên được sao?
- Vẫn tỉnh táo. Thế nhưng, cái cảm giác có người đợi mình ở màn hình máy tính khiến chẳng muốn tìm ai nữa. Một nhu cầu có thật.
- Ông sống ảo quá rồi đấy, có khi thành nghiện chứ chẳng chơi.
- Tôi lại nghĩ nó rất thật, sống động, có tiếng cười vui sau những lời dí dỏm, có trách móc, hờn giận và cả lo sợ bị bỏ rơi. Tất cả những điều đó làm nên cảm giác nôn nao thôi thúc trở về nhà có một người đang đợi để cùng sẻ chia những vụn vặt đời thường, những bực dọc bên ngoài và cả những ước mơ không thổ lộ được với ai. Nó như liều doping giúp phấn chấn, phục hồi năng lượng sau một ngày làm việc hay cảm giác nhẹ nhàng được trút bỏ...
- Đúng là ảo giác!
- Cái thói quen tựa lũ chó, mèo được cho ăn đúng giờ, đứa bé chỉ nín khóc khi có hơi mẹ với một thằng đàn ông như tôi thì quả là buồn cười phải không? Nhưng, tôi nghĩ, cuộc sống là như vậy, có khi người ta sống cho những cảm giác không thật vì cái ảo là cần thiết. Nơi đó cho dù có những tranh luận nảy lửa, thách đố phá tan nát đời nhau đến cùng thì cũng đúng theo quy luật vận động và phát triển. Nơi đó, có thể là một sân khấu hoàn hảo cho mình dựa vào, bước đi tự tin hơn, chẳng hạn.
- Nhập đề đủ rồi đó, bây giờ đến phần thân bài đi. Chiều nay tôi phải đón con. Ông còn hơn một tiếng nữa để nói rõ lý do gọi tôi ra đây.
- Một sự lừa đảo. Tôi ở trong trạng thái như sôi lên vì tức tối và mất niềm tin.
- Ai lừa đảo? Cô bé chat với ông hằng đêm hả? Sao ông bảo chưa một lần gặp mặt?
- Ông có nhớ Bích hồi học chung với mình một khóa ở KT không?
- Tôi không chắc lắm.
- Tôi thấy Bích trên Facebook và xin kết bạn. Tò mò tôi qua trang Bích xem có hình ảnh gì về chồng con. Vô tình mở một tấm hình tôi thấy có dòng bình luận của cô bé ấy. Tấm hình không phải do Bích đưa lên mà một người khác đánh dấu qua. Một câu bình luận ngang hàng phải lứa với chủ nhân tấm hình mà tôi tạm gọi là A. Tôi lục tung Facebook của A và tìm mối quan hệ giữa họ với nhau. Tất nhiên không thể dựa vào những thông tin khai báo trên đó, nhưng tự nhiên tôi tin vào con số năm sinh là một người lớn tuổi trên trang cá nhân của A. Trong tôi dấy lên những nghi ngờ chưa bao giờ nghĩ đến. Công cuộc tìm kiếm chẳng dễ dàng gì khi những mối quan hệ thì nhằng nhịt và thông tin lúc sáng lúc tối, có khi bế tắc. Tuy nhiên, lần theo bình luận trên những tấm hình, ánh sáng hé dần ở phía cuối con đường. Mới ngộ ra một điều rằng, bất cứ thứ gì cũng có kẽ hở cho dù giấu kín đến đâu. Tôi thức trắng đêm và tìm thấy loạt ảnh ai đó đánh dấu cô bé ấy. Một vài bình luận khẳng định chính xác người thật, việc thật.
- Lằng nhằng quá, cuối cùng là ai?
- Một phụ nữ, tôi đoán ngoài năm mươi, đẹp, quý phái, sang trọng. Nhưng hình nào cũng mang nét buồn và nỗi cô đơn của người đứng ngoài cuộc chơi.
- Một phụ nữ luống tuổi?
- Chắc chắn. Tôi không hiểu người đó đóng vai một cô bé kém tôi mười tuổi trong suốt bốn năm trời để làm gì?
- Có những người tham gia vào mạng xã hội như chơi trò ú tim, họ diễn đồng thời nhiều vai. Chỉ để vui thôi, không có ý đồ gì hết! Cuộc đời đa dạng là vì thế, không ai đoán được tương lai sẽ có những trò quái chiêu gì nữa. Ông phải chấp nhận điều đó là bình thường. Không phải ai chơi mạng cũng thật thà như đếm kiểu ông đâu. Nếu ông kêu tôi ra cà phê để kể câu chuyện nhạt nhẽo này thì tôi cho rằng không có gì nghiêm trọng hết, rồi ông sẽ mau chóng quên đi. Hãy bỏ theo dõi người ấy và tạm xa Facebook một thời gian.
- Còn một điều nữa hỏi ông.
- Con gái tôi sắp tan trường rồi đấy. Cho ông 10 phút thôi nhé!
- Tối hôm qua tôi đã định unfriend nick đó rồi nhưng vô tình thấy có dòng thông báo hiện lên ông vừa kết bạn với người ấy.
- Ai? Nick là gì? Không chắc tôi nhớ được vì có đến hơn ba ngàn bạn trên đó.
- Hoa mặt trời đỏ.
- Hả, ông nói sao? Đó là một người chị họ xa tôi vừa tìm thấy trên Facebook.
- Ông nói rõ thêm chút?
- Tôi cũng mới biết tin chị ấy có một con gái đã mất trong một tai nạn giao thông bốn năm trước. Nếu còn sống năm nay cô bé hai mươi sáu tuổi.
- Trời!
- Chưa hết, đó là nỗi đau tột cùng của một người mẹ đã đẩy con mình đến chỗ tuyệt vọng khi ngăn cấm cô bé yêu một người hơn cô mười tuổi, đã một lần gãy đổ. Còn nữa, gọi là tai nạn giao thông chứ theo lời các nhân chứng thì người bị nạn chủ động lao vào một chiếc ô tô đang chạy với tốc độ hơi nhanh. Lúc đó hình như là nửa đêm và cô bé trong tình trạng có hơi men!

Đào Thị Thanh Tuyền



#3 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 11/12/2016 - 20:37

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Giữa hai người đàn ông - Truyện ngắn của Trương Văn Tuấn

06:00 AM - 11/12/2016 Thanh Niên
Đám trẻ bắt đầu mang chuyện về người đàn ông hay đứng chờ ở ngã ba Rồng ra bàn tán. Quá khứ của người đàn ông được lắp ghép nên: con chủ tiệm vàng, đẹp trai, học nhiều quá nên phát điên. Thông tin này khiến vài đứa thích thú: Thấy chưa! Xấu trai, học dốt như t*o có cái lợi.

Nhưng ở một phiên bản khác, câu chuyện lại gây hào hứng hơn: Ông ấy bị thất tình. Người yêu đi lấy chồng nên ông ấy phát điên như vậy. Ông điên từ thời trẻ, đến sau này em gái ông đi lấy chồng, ba mẹ mất thì ông bắt đầu ở một mình. Ngôi nhà tường khang trang nhất xã những năm 1990 thành ra hoang phế dơ bẩn. Mỗi ngày người em gái tạt ngang đó một lần, để lại cơm và đồ ăn.
Đám trẻ đang mường tượng ra cô gái kia xinh đẹp, độc đáo đến dường nào mà đến con bà chủ tiệm vàng cô ta cũng không thèm thì bà Nhì bước ra khỏi võng, đằng hắng cắt ngang:
- Nhiều khi chỉ là bệnh hoạn bất thình lình mà thành điên. Bàn chi, lỡ sai mang tội lắm tụi con!
Đám trẻ đành chuyển qua đề tài ác liệt hơn: Dạo này nghe nói có những tên biến thái rạch đùi nữ sinh, con kia giờ vừa đau vừa sợ.
Bà Nhì là nội của Hà, một trong số học sinh lớp 10 kia. Nhà Hà ở xã Long Hưng B nhưng chỉ thi đậu vào mỗi trường Long Hưng A. Nhà cuối xã này, đậu vào cái trường nằm ở cuối xã kia, huyện lộ dài dằng dặc nên con Hà ở hẳn nhà nội cho gần trường.
Ngày con Hà về đây học thì ba nó bắt đầu bồn chồn lo lắng. Rồi đã có lúc cuối tuần con bé về nhà, coi mấy cảnh chia ly cách trở trên phim, nó đã nhắc lại chuyện người điên đứng chờ ở ngã ba Rồng. Những kỷ niệm ngày cũ lại có dịp dội về trong ba nó.
Hai mươi năm trước, Được cũng là học sinh của trường cấp 3 Long Hưng A - nhưng là cái trường cũ, nhỏ thấp.
***
Đám con trai đứng trên lầu trỏ xuống sân:
- Cứ con nhà giàu học giỏi thì cặp với con nhà giàu học giỏi thôi - Chúng bàn tán về đôi trai gái đang quay lưng về dãy phòng học.
- Thằng nào ngồi với con Oanh lớp mình đấy? - Được chỉ nhận ra mỗi cô hoa khôi lớp.
- Tống Minh Quân - Rồi cậu học trò đó kêu lên - Con nhà giàu đến cái tên cũng khác người.
- Ờ - Được gật gù.
Rồi cả đám quay sang Được:
- Phan Văn Được, mày Được là được cái gì mà con gái lớp mày đi cặp với trai lớp khác?
Đám nam sinh lớp 12 cười phá lên rồi xô đẩy, xông vào đấm đá nhau túi bụi.
- Được nè! Được cái mỏ mày nè!
Chiều hôm đó Được ở lại chơi đá banh nên về trễ. Trên con đường quê mù mịt bụi, trước mắt Được là một đứa cũng mặc đồng phục trường đi lững thững. Đó là Quân. Chắc nó sắp thành “rể” lớp này, không cho đi ké người ta lại nghĩ mình ghen ăn tức ở - Được nghĩ vậy nên thắng xe lại.
- Đi không?
Quân mồ hôi nhễ nhại trả lời bằng cái gật đầu dứt khoát.
- Xe ông đâu?
- Mất rồi.
- Trời! Để đâu mà mất.
- Quán kem.
- Uổng quá!
- Ừ.
Quân bất ngờ đập tay mấy cái liền lên lưng Được:
- Gì vậy?
- Cát.
- À, tại mới đá banh xong.
- Ông đi ngang ngã ba
Rồng không?
- Có.
- Mai ông đi ngang cho tôi quá giang được không? Mai chưa mua xe kịp.
- Được.
- Ông tên gì?
- Được.
- Tôi hỏi ông tên gì?
- Phan Văn Được.
- À. Tôi tên Quân.
***
Sự thật là chưa đầy 24 giờ sau mất xe, Quân đã được mẹ mua cho chiếc mới. Cơ bản bà Ngà không muốn mắc nợ ai cả vì điều đó không hợp với danh giá của một chủ tiệm vàng.
- Tự đạp mỏi chân.
Nhưng Quân giải thích với mẹ vậy rồi chạy biến ra ngã ba chờ Được tấp xe vào đón.
Đôi khi sau trận đá banh mệt nhừ, Được sẽ đặt hai chân mình lên sườn xe, chỉ lo việc cầm lái, Quân ngồi phía sau với chân lên đạp.
Rồi có lần Quân đứng đợi đến 30 phút vẫn không thấy Được đâu đành vào nhà lấy xe tự đi học.
Chiều đó Quân tìm đến tận nhà Được thì thấy bạn mình đang trùm mền.
- Ông làm gì trong đó?
- Xông cho hết cảm. Ông có trễ học không?
- Có, trễ một tiết.
- Ông ngu quá, đợi lâu phải quá giang người khác chứ. Đứng đợi hoài làm gì.
- Đã nói đợi thì phải đợi chứ ông.
Chiều đó Quân ở lại ăn cơm ở nhà Được. Cơ bản giữa những đứa trẻ hồn nhiên không có sự phân biệt giàu nghèo. Mọi thứ ở nhà Được đều là một mảng màu khác, nhưng không làm Quân nghĩ ngợi gì ngoài việc vui vẻ. Quân hào hứng khi thấy Được ngồi chồm hổm bưng tô cháo to. Hóa ra bạn của mình khi ăn là ngồi như vậy, ngồi ngay nơi đây, cầm muỗng thế kia, tốc độ ăn thế đó.
Có những hôm Quân lấy xe đạp của mình, rời nhà từ sớm để vào chỗ Được, cùng ăn cơm trưa rồi chở nhau đi học, chiều lại đưa bạn về tận nhà. Đôi lần sau giờ học Được cũng ghé lại nhà Quân, lăn lê trên nền nhà đọc truyện tranh.
***
- Hôm nay bắt ông chở bốn lần có mệt không? - Quân hỏi sau một ngày vừa học chính khóa, vừa học phụ đạo.
- Mỏi chân thấy mẹ.
Khi ấy Được đang nằm dài ở giữa nhà Quân, xắn quần lên tận đầu gối cho mát, đọc nốt các trang truyện tranh còn lại. Quân nhìn Được nhưng hắn không nhìn lại mình, chỉ chú tâm vào truyện.
Quân cúi người xuống đặt môi lên bắp chân của Được. Được giật thót người co chân lên.
- Nhột! - Được kêu lên.
- Trả công đó - Quân đỏ bừng mặt.
- Thằng khùng, nhột thấy mẹ!
- Hình như nó có điện phải không ông - Quân lắp bắp.
Mặt Được cũng đang đỏ lên.
- Không biết, nhà tui chưa có điện.
Được đặt quyển truyện lên kệ, nói: Thôi về đây, rồi nhảy từ hiên nhà ra giữa sân.
Sáng hôm sau Được đi học khi trời còn chưa sáng tỏ, cắm mặt chạy vù vù qua ngã ba.
Rồi hôm sau cũng thế.
Đám con trai lớp bên sang hỏi sao Quân hai ngày không đi học, rồi gửi Được quyển tập nhờ mang về cho Quân chép bài.
Được không ngờ có đứa lại lì và liều hơn cả mình.
- Sao con không chờ nó đi học? Nó than mệt rồi nghỉ luôn hai ngày nè - bà Ngà vừa mở cổng vừa hỏi.
Được phải nói dối là đi sớm chở cá khô cho mẹ.
Quân ngồi khoanh tròn trên ghế xem ti vi, không hề tỏ ra hào hứng.
- Không đi học thi rớt ráng chịu - Được đặt hai quyển tập lên bàn nói trống không.
- Mai có chở không?
- Quân đột ngột la lớn làm Được giật mình.
Được ngập ngừng:
- Không biết.
Được định hôm sau lại đi học sớm - nhưng không sớm quá, sớm vừa phải, nếu gặp Quân ra đón thì chở, không thì thôi.
Nhưng Được tính không bằng Quân tính. Sáng hôm sau vừa bước ra khỏi giường, Được đã nghe tiếng Quân chào mẹ mình. Quân cứ làm vậy suốt một tuần, Được đành chịu thua:
- Để tui ra chở ông đi, ông đừng vô đón nữa, xa lắm.
Thi thoảng Quân đánh liều hỏi lại:
- Có phải nó có điện không?
- Tôi không biết.
- Nhà ông mới có điện hôm qua mà.
- Tôi chưa bị giật lần nào.
***
Tối nọ, em gái Quân thủ thỉ với mẹ:
- Anh Quân hôn anh Được đó.
- Nói bậy! - Mẹ Quân quát làm con bé im luôn.
Nhưng hai tuần sau ba Quân thấy con trai mình nắm chặt tay thằng bạn, nài nỉ ở chơi thêm chút. Ông đạp cửa phòng đang khép hờ quát: Thằng Được đi về liền!
Hai đứa trẻ líu ríu đứng xa ra.
- Mai mốt khỏi qua đây nữa! Thằng Quân tự đi học! - Ông ra lệnh.
Hôm sau bà Ngà gặp bà Nhì ngoài chợ thì bắt đầu mắng như tát nước:
- Thằng con chị m*t d*y lắm! Tui cấm, cấm tuyệt đối! Nó còn rủ rê con tôi nữa là biết tay tôi! Nghen, nghen!
Bà Nhì hớt hải về hỏi con:
- Chuyện gì?
Được xanh tái mặt mày, chỉ chực khóc.
Rồi bà Nhì tự đưa ra giả thiết: Thằng Quân bận ôn bài để thi học sinh giỏi sử cấp tỉnh. Còn Được là đứa nhà không mấy khá giả, học vừa phải. Đẳng cấp khác nhau, không nên chơi cùng nhau.
Hai đứa trẻ bắt đầu chìm trong sợ hãi và xấu hổ. Chúng sợ người ta biết.
Tránh mặt được ít hôm, giờ chơi Quân lân la lại gần lớp học của Được đứng nhìn vào. Được theo ra cầu thang.
- Giờ phải làm sao?
- Thôi đừng gặp nữa.
Quân mếu máo nhìn theo Được.
Chỉ là một lần gặp chớp nhoáng, nhưng chuyện đó vẫn đến tai gia đình Quân. Bà Ngà chỉ tay vào phòng:
- Đừng nghĩ là t*o không biết! Một lần nữa là t*o nhốt ở nhà cả đời!
***
Ba vợ của thầy hiệu trưởng mất. Giáo viên cho học sinh nghỉ nửa buổi để cùng nhau đi viếng.
Quân đánh liều đạp xe vèo ngang cổng nhà, chạy một mạch đến nhà Được.
- Về đi! - Được nài nỉ.
Quân lắc đầu.
Hai đứa trẻ im lặng ngồi bên mâm cơm với các món ăn đạm bạc. Được bỏ miếng cá vào chén Quân, thúc:
- Ăn nhanh rồi về.
Quân gật gù, mắt đỏ hoe.
Ông bà Ngà mỗi ngày đều tiễn con ra cổng và cuối buổi lại đứng chờ con về để xem chừng Quân có đi cùng ai không.
Quân về vẫn sớm hơn giờ thực tế nhưng đã thấy ba mình đứng chờ ở đó. Ông đã biết hôm nay trường cho nghỉ sớm, lại thấy Quân về từ hướng nhà Được.
Thằng bé lủi thủi vào phòng. Ông bước theo đóng ầm cửa lại. Quân biết là ông đang kéo dây xích để khóa cửa phòng của mình, nhưng mặc kệ. Rồi tiếng xe máy ông vọt đi.
Ông ra chợ Rồng. Bà Ngà nghe chồng kể lại thì kéo nhanh cửa tiệm vàng lại, hầm hầm đi đến sạp khô của bà Nhì.
- Tui đã nói sao? Hả! - Bà Ngà gầm lên.
Ông Ngà đưa tay hất sạp khô một phát tung lên rồi rơi xuống nằm lộn ngược.
Chưa kịp hiểu chuyện gì, bà Nhì đã bị bà Ngà sấn đến, túm lấy tóc vật ngang, ngã nhào ra đất. Bà Ngà tay giữ tóc tay kia tát liên hồi.
- t*o đã dặn mày dạy con mày. Hả, hả, hả!
Mỗi cái hả của bà là một cái tát.
Người ta bu lại can ngăn. Vợ chồng bà Ngà thở hồng hộc bỏ về kèm câu cảnh cáo:
- Mày dạy con mày nha!
Được hay tin, ngồi sau xe người hàng xóm ra đến chợ Rồng thì đám đông đã vãn, ông Nhì đang chăm lo cho vợ. Được chỉ biết sững mắt lên nhìn những vết bầm trên mặt mẹ mình, tóc tai bà rũ rượi, quầy khô lật nhào. Hắn không biết nói gì, làm gì lúc này.
Ông Nhì thấy con trai thì sấn lại định đánh, bà Nhì níu lại:
- Thôi mà…
Người ta nghĩ hai đứa trẻ chơi với nhau nhưng có gây hấn, vậy là người lớn cũng gây hấn cùng nhau. Một vài người ngoài chợ xua tay:
- Con về nhà trước đi, ở đây có mấy chú phụ dọn.
- Về trước đi con!
Được quay lưng đi theo lời mẹ rồi dần chạy như điên. Miệng gầm gừ những tiếng ư ử đau đớn rồi to dần thành tiếng hét uất ức.
Được chạy đến không còn sức nữa thì ngã phịch xuống.
Chiều đó người ta tìm thấy cậu nằm bất động trên đê. Mũi chảy máu đọng vũng trên đất, hai tròng mắt thì vằn đỏ tia máu.
***
Ông Ngà nhốt Quân đến tận trưa hôm sau vẫn chưa mở cửa.
Được về nhà thì kêu đau nửa đầu và mờ một mắt nhưng không chịu đi khám, chỉ muốn nằm, mặt quay vào vách. Ông Nhì cũng không nỡ trách con nữa. Được bảo là do tự mình bị thế, không ai đánh đập gì cả. Nhưng máu nhiều dường đó và đầu đau đến thế khiến mọi người lo lắng.
Một người hàng xóm đành ra nhà bà Ngà thật tình hỏi: Anh chị có lỡ tay đánh thằng bé không, để ba mẹ nó biết mà mang đi chữa, chứ để lâu lỡ nó bị gì nguy kịch?
Bà Ngà nghe vậy thì nổi xung thiên chửi tới tấp cái kẻ đi lo chuyện thiên hạ kia.
Tiếng chửi vọng vào đến phòng của Quân.
- Nói anh nghe, chuyện gì vậy? Không nói là anh buồn lắm - Quân nài em gái.
Con bé thấy anh mình tiều tụy quá đành nói thật:
- Hôm qua mẹ nắm đầu mẹ anh Được, đánh nhiều lắm. Anh Được cũng sắp chết rồi.
Quân gầm lên điên dại rồi úp mặt khóc. Khóc thì có gì đáng sợ! Bà Ngà đã ăn trưa xong nên thản nhiên ra lại tiệm vàng, ông Ngà đưa đứa con gái nhỏ đi học chiều.
Ông trở về ghé mắt vô phòng thì nghe tiếng lầm rầm ở góc tường:
- Tại sao? Tại sao?...
Mười đầu ngón tay của Quân đã tróc móng. Miệng Quân dính đầy máu, những thanh dầm nhỏ đâm li ti lên môi. Quân đã cào tay vào vách, nhe răng cắn, cạp những then cửa.
- Tại sao, tại sao… - Quân cứ lầm bầm.
Ông bà Ngà đưa Quân đi chữa khắp nơi nhưng chỉ ngăn được việc Quân hỏi tại sao và thôi làm những hành động khiến bản thân tổn thương. Sự tỉnh táo mãi mãi không thể tìm lại.
Được thấy xấu hổ với ba, với mẹ và với tất cả mọi người. Chính con trai đã khiến mẹ bị người ta đánh. Điều đó quá khủng khiếp! Ba hôm sau Được về nhà nội ở Long Hưng B. Và không về lại đây nữa. Một bên mắt của Được cũng mù dần. Không ai làm gì cả, do cơn phẫn uất mà sinh tai biến - Được nhớ rõ ràng như thế.
Được có vợ, sinh con.
Quân vẫn hay ra ngã ba Rồng đứng chờ thứ gì không rõ.
Em gái Quân có chồng ra sống riêng ở cạnh đó. Ba mẹ lần lượt mất, Quân bắt đầu sống một mình, không còn ai nhắc nhở, việc đứng chờ càng diễn ra thường hơn.
***
Ơn trời, chừng ấy năm, đường về nhà ở Long Hưng A được mở thêm tuyến mới chứ không chỉ có riêng một lối đi qua ngã ba Rồng nên Được cũng thi thoảng về nhà thăm ba mẹ.
Công việc chính của Được là làm mộc, rảnh thì đi hái các loại thuốc nam về phơi trong sân chùa, dành bán lại cho người cần dùng.
Hôm nay vừa rải mớ cỏ vòi voi, nhãn lồng ra sân thì Được nhận cuộc gọi từ nhà trường. Cô giáo bảo bé Hà bị tên biến thái rạch đùi. Mấy hôm nay khu vực Long Hưng A đã xôn xao về việc có những tên côn đồ như thế, áp xe vào rồi dùng vật sắc nhọn tấn công đùi nữ sinh.
Không ngờ chuyện này lại rơi vào con gái mình! Được hốt hoảng thay đồ, chạy một mạch đến bệnh viện huyện.
Đến cổng bệnh viện thì anh lại nhận được cuộc gọi của chính con gái mình:
- Ba ơi, cô giáo nhầm. Lớp có hai Hà...
Như vừa trút khỏi gánh nặng ngàn cân, anh thở phào ờ ờ rồi quay về.
Giờ Được mới nhớ mình đã đi ngang ngã ba Rồng. Đui một mắt trái dường như đã là điều thuận lợi để khi nãy anh không phải nhìn sang bên kia đường. Nhưng giờ trên đường về, dù rẽ hướng nào tại ngã ba này thì một khi đã nhớ ra, con mắt còn lại của Được sẽ không thể lơ đi nếu có ai đó đứng bên đường.
Nếu Quân thấy thì sao, nếu Quân gọi tên, nếu Quân chạy theo?
Được rú ga, quyết định lao qua thật nhanh. Được chỉ nhìn về phía trước, nhưng rõ ràng vẫn thấy có ai đó đứng bên đường vì con lộ cứ trống băng. Được thấy cái dáng đó từ xa, gần dần, rồi mới xẹt ngang.
Đừng nhìn tôi Quân ơi. Đừng gọi tôi. Đừng đuổi theo tôi.
Được chạy về đến nhà vẫn còn bần thần.
***
Được sang Long Hưng A hái thuốc, cách ngã ba Rồng 3 km. Vừa hái vừa tự hỏi có ai nhận ra mình không.
Được lại sang Long Hưng A hái thuốc, cách ngã ba Rồng 2 km. Vừa hái vừa thăm chừng xem có gặp lại những người quen xưa cũ không.
Được lại sang Long Hưng A hái thuốc, cách ngã ba Rồng 1 km. Vừa hái vừa nghĩ ngợi. Chắc người ta chưa hề biết ngày đó, tháng đó, năm đó có hai kẻ như thế, mà dù có biết chắc người ta cũng đã quên mất rồi.
Sau hai ngày mưa rả rích trời bắt đầu nắng đẹp thuận lợi cho việc phơi phóng, Được lại sang ngã ba Rồng hái thuốc.
Được hái một bao cỏ vòi voi, một ít nhãn lồng và bắt đầu nhổ cây trinh nữ. Được nhổ dọc theo lối đi, vừa nhổ vừa di chuyển, nhổ đến khi đầy một bao lớn, hai bàn tay rớm máu thì đã đến được chỗ Quân đang đứng.
Được ngồi bẹp bên vệ đường, ngó trước sau rồi ngập ngừng gọi.
- ... Quân.
Quân đứng thơ thẩn nhìn ra phía xa, không để ý gì đến kẻ đang ngồi dưới chân mình.
Được tháo nón khỏi đầu, quẹt mồ hôi trên trán:
- Quân! Ông nhớ tôi không?
Quân vẫn không nhìn lại.
- Quân, nhìn sang đây nè! - Được lớn tiếng hơn.
Quân quay lại nhìn Được rồi lững thững bước đi xa ra, tiếp tục nhìn ra đường. Quân cứ ngỡ Được gọi để xua đuổi, không cho mình đứng đấy nữa.
- Được nè. Nhớ không Quân?
Quân đưa mắt nhìn Được đầy dè chừng, pha chút cáu gắt rồi lại lơ đi tiếp. Tóc Quân đã khô vàng nắng cháy, lún phún vài sợi bạc. Khuôn mặt đã đen đúa và già đi mất rồi, dưới cằm và quanh miệng lưa thưa râu. Những móng tay, móng chân không quá dài nhưng vì lâu ngày chưa cắt nên viền lên những đường đen của đất. Hẳn đây là bộ đồ Quân cho rằng đẹp nhất, hẳn là đôi dép kia là sạch sẽ nhất phù hợp để đi học nhưng vẫn không thể nào cứu vãn được khuôn mặt và dáng người đờ đẫn của Quân.
Một chiếc xe máy chạy ngang nên Được cúi mặt xuống nhổ thêm hai bụi trinh nữ to đầy gai nhọn.
Ngước lên định gọi Quân lần nữa nhưng nước mắt Được đã giàn giụa trên khuôn mặt trung niên đen nhăn:
- Quân ơi... - Được kêu khe khẽ rồi không nói nổi lời nào nữa.
Được ngồi bệt xuống vệ đường khóc nức nở như đứa trẻ.
Quân chờ mười mấy năm đã quen với việc chờ chứ không nhớ là mình chờ ai. Quân đứng đấy chờ chừng ấy năm nên quen với hết thảy cỏ cây, bụi rậm, cột điện, cột đèn nơi này nhưng đã quên mất mặt người mình muốn chờ.
***
Thấy một đám trẻ con đi ngang, Được lau mắt đứng dậy vội vàng kéo các bao cỏ chất lên xe.
Sau lưng anh đám trẻ con râm ran đọc những câu thơ mà chúng nhặt nhạnh trên mạng internet.
Đứa đi trước hỏi:
Đố ai nằm võng không đưa,
Đố ai gặp lại người xưa không nhìn.
Đố ai quên được chữ tình,
Đố ai quên được bóng hình người xưa.
Đám trẻ đi sau ngân nga:
Người chết nằm võng không đưa
Người mù gặp lại người xưa không nhìn
Người điên quên được chữ tình
Người khùng quên được bóng hình ngày xưa
Những câu thơ đó vờn sau anh như những con sóng lăn tăn đuổi nhau vào bờ. Anh không mù hẳn, anh chỉ hư một mắt.
***
Vợ anh nói với con gái:
- Chú Quân là bạn học hồi xưa của ba. Chú học hành, thức đêm nhiều mà sinh bệnh.
Lâu lâu Được lại ghé chỗ nhà Quân, giúp bạn mình dọn dẹp nhà cửa. Đôi khi Được bày thức ăn ra bàn xong nhưng Quân vẫn còn đứng chờ ở ngoài cổng. Anh lại đi ra nhắc bạn mình:
- Vô đi ông! Bạn ông nghỉ học rồi.
Giữa hai người đàn ông, ngoài tình yêu ra còn có tình bạn.

Trương Văn Tuấn



Thanked by 3 Members:

#4 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 15/01/2017 - 12:31

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Những mảnh lòng dang dở - Truyện ngắn của Nguyễn Hữu Tài

05:00 AM - 15/01/2017 Thanh Niên
1 Dì Miên thức dậy, nhìn ra cửa sổ. Những tia nắng yếu ớt cố vượt ra đám mây mù dày đặc, không đủ hun ấm bầu không khí cuối thu dàu dàu khó tả.
Trời lạnh quá, dù chưa tới mùa đông. Không biết ít tuần nữa tuyết rơi, mình có chịu nổi không nữa? Dung nói, năm kia trong vòng một tháng mà tới mười trận tuyết. Trận này chưa tan thì trận khác đã ập tới rồi. Năm ngoái ít hơn, nhưng có trận rơi hai ngày chưa hết. Mới nghe con kể thôi mà xương cốt dì đã thấy mỏi nhừ, cẳng chân ngồi không vững.
Dì quơ tay lấy áo ấm, khoác vào người, xỏ dép, tới hé cửa phòng bên cạnh. Hai đứa cháu vẫn say sưa trong giấc ngủ, thỉnh thoảng lại nhoẻn miệng cười. Chắc trong mơ đang được mụ bà dạy dỗ. Mồ tổ cha tụi bây. Mát trời nên ngủ thẳng cẳng. Tí nữa dậy lại làm rộn ràng bà ngoại.
Dì xuống dưới lầu, tới bếp, nấu ít nước chế cà phê. Thói quen nhâm nhi mỗi sáng cho tỉnh, bao năm bên nhà vẫn chưa bỏ được. Nhiều lần dì cũng muốn ra quán ngồi uống nước rồi ngắm người ta qua lại cho đỡ nhớ nhà. Nhưng đàn bà xứ này đi đâu mất biệt, quán xá toàn đàn ông không. Chỉ mình dì ngồi, vô cùng dị hợm.
Liếc qua bồn rửa chén. Dung đã lấy con gà tây to đùng ra để rã đông. Hôm trước, cô đã chỉ cho dì cách ướp gà, tối về bỏ vô lò nướng. Nhưng thiệt tình nhìn con gà nặng gần chục ký nằm một đống tự nhiên thấy nhợn tay. Chả biết ướp cách nào cho thấm. Đêm qua dì càm ràm. Đã biểu ra chợ mua hai con gà ta về đây, t*o nấu một nồi cháo, làm thêm thau gỏi bóp rau răm, là ăn ngon thấy mấy ông trời. Chứ gà tây to tổ chảng, nghe đồn thịt bở hơn bột, ngon lành gì. Dung cười to, đó là văn hóa Mỹ má ơi. Lễ Tạ ơn phải ăn gà tây mới đúng điệu. Với lại tối mai nhà mình có nhiều khách khứa. Nhập gia tùy tục. Mình ráng làm một bữa truyền thống có gà tây, khoai tây hầm, nui trộn bơ, bánh táo này nọ cho hợp không khí.
Nghe khách tới nhà tự nhiên dì chột dạ. Ruột gan nóng bừng bừng như lửa đốt.
2 Mới đó mà đã hơn một tháng dì qua đây đoàn tụ cùng con cháu. Ba mươi ngày chứ nhiêu, vậy mà cứ ngỡ như ba mươi năm đằng đẵng, vì cứ trong nhà quanh quẩn đếm ngày trôi. Già cả chẳng làm gì, ở nhà coi cháu, tiết kiệm cho con đồng nào hay đồng đó. Nói nào ngay dì cũng chẳng muốn qua đây chi cho cực. Gần sáu mươi năm sống trên dải đất miền Trung gian khó, dì đã quen từng con đường ngang dọc, mái nhà cao thấp xóm thôn. Chung quanh nhà toàn lối xóm bà con tắt đèn tối lửa, mồ mả cha ông nhang khói, đi sao cho đành đoạn. Nhưng con nói cũng phải. Nhà có ba má con thui thủi với nhau, giờ hai đứa ở bên này, để má một mình bên đó làm sao tụi con yên tâm cho được.
Hôm qua Dung hỏi, má có muốn gặp ba với dì không? Nếu không thì để con nói ba khỏi qua, cho hai đàng không khó xử. Dì ậm ừ, nửa muốn gặp, mà nửa muốn không. Thôi cứ để tự nhiên đi. Ép buộc làm gì. Mà sợ ổng hổng dám tới đây để chạm mặt với t*o. Nếu muốn thì cả tháng t*o ở đây, cũng tới tìm rồi chứ đâu phải chờ bữa nay mới tới.
Dì đâu quên được cái đêm ổng ôm hai đứa con, cầm tay dì khóc ngất. Bà ráng ở lại nuôi tụi nó, tui qua đó năm năm là có quốc tịch, rồi về đây, giả bộ làm đám cưới, bảo lãnh bà với tụi nhỏ qua luôn. Ngờ đâu, đó là lần cuối cùng dượng với dì đối diện. Dượng cùng mấy đứa em làm lại giấy tờ thành những gã độc thân trẻ tuổi, để ông nội sắp nhỏ bảo lãnh đi cho mau. Chứ ông già yếu lắm rồi, xứ người lạnh quá, xương cốt rã rời, không chịu nổi nữa.
Tất cả ra đi sau một lời từ biệt. Để lại nơi quê nghèo khốn khó, bốn người đàn bà có chồng mà như kẻ không chồng, cùng bảy đứa nhỏ có cha mà như kẻ không cha, nương tựa nhau để sống.
Những năm tháng khó khăn sau đổi mới, mấy đồng đô la của dượng gửi về, ít nhiều cũng giúp gia đình qua cơn khốn khó. Dì một nách hai con, chạy vạy khắp nơi, tảo tần buôn bán. Vừa làm mẹ làm cha, vừa làm vợ làm chồng trong gia đình hiu quạnh ấy. Chiều về, ba mẹ con ngồi bên mâm cơm mà nước mắt chảy dài. Đêm đến, hai đứa cứ co ro rúc hai bên nách tìm hơi ấm thâm tình làm dạ lòng dì rối bời, như vò kim mối chỉ. Tủi thân, dì chạnh nghĩ, giá mà hồi đó mình cản, không cho ổng đi, thì nhà cửa đâu có vắng vẻ đến thế này. Và bọn nhỏ đâu có khóc đòi ba, những khi trái trời, trở gió.
Hai năm… bốn năm… sáu năm… bảy năm… Lời hẹn năm xưa vẫn thoang thoảng trong từng cột kèo, rui mè, gạch ngói. Vậy mà chồng vẫn biền biệt phương nào, chưa một lần quay lại. Mỗi tháng tiền vẫn gửi về. Nhưng thư từ và những cú điện thoại cứ thưa dần… thưa dần… rồi tới một ngày thì dừng lại hẳn.
Thằng Tâm có vợ. Thành lập gia đình. Tín mới làm đám cưới hôm qua. Gia đình bên vợ Khương mới mua cho hai đứa căn nhà thiệt bự.
Rồi tin dữ liên tiếp ùa về. Xóm làng xôn xao như chạy lũ.
Những người đàn bà quê đầu tắt mặt tối, cố nuôi con chờ ngày chồng trở lại cuối cùng đã trắng tay. Giấc mơ sum vầy hóa thành công cốc. Những gã đàn ông sang xứ người không giữ lời hẹn cũ. Họ quên mất nơi này có bao người thân trông ngóng mỏi mòn.
Liễu không khóc. Thương cắn chặt môi. Thy ngẩn ngẩn ngơ ngơ tưởng hóa dại cuồng. Dì bải hoải chân tay khi nghe tin dữ.
Ông bà ta nói đúng, thời gian luôn là liều thuốc nhiệm màu xoa dịu tất cả nỗi đau lớn nhỏ. Mấy đứa em bạn dâu chờ không nổi nữa, hết đứa này tái giá, tới đứa khác gá nghĩa với người ta. Tuổi thanh xuân đâu thể mãi đợi chờ, khi chính những kẻ từng đầu ấp tay gối đã lên thuyền sang bến khác. Vậy mà dì vẫn lẻ loi, hổng chịu tiến thêm bước nữa. Những tờ trăm đô la dượng gửi về, dì giữ nguyên trong kẹt tủ. Không phải giàu sang hay sung túc gì, nhưng tự thấy không cần số tiền bạc nghĩa ấy. Năm dài tháng rộng, tiền cứ chất đầy. Dì chuyển từ kẹt tủ sang đào lỗ chôn dưới đầu giường rồi mua vàng về cất. Mai sau hai đứa lấy chồng, dì cho làm của hồi môn. Còn không sau này gặp lại, dì quăng thẳng vô mặt ổng rồi la rằng, tiền của ông đây, tui không đụng một xu teng. Lời hứa ngày nào tui vẫn giữ vẹn nguyên, chỉ có ông không tròn ước hẹn.
Nhiều người nói dì ngu, nó có còn coi mày là vợ nữa đâu. Nó có vợ đẹp, vợ giàu, mắc chi tốn công chờ đợi. Chẳng biết có phải mình ngu không? Cũng không biết có bị thiệt thòi gì trong cuộc tình dang dở. Nhưng dì không muốn hai đứa con phải sẻ chia tình cảm với người đàn ông khác. Rồi liệu người mình gọi bằng chồng, có thương hai đứa nhỏ như chính những đứa con do họ tạo dựng? Rồi khi một nhà chung sống, cơm không lành, canh chả ngọt, lại đâm ra dằn vặt, đau lòng con thơ.
Mấy người bạn thuở thiếu thời đến rồi đi, ngỏ lời ong bướm. Những gã đàn ông cùng làng, chung xóm, góa vợ, to nhỏ, ân cần. Dì đều khéo léo chối từ, chờ lũ nhỏ trưởng thành, rồi mới tính chuyện bản thân, tìm người phối ngẫu. Nào ngờ khi con khôn lớn, đi học xa nhà, rồi được ổng bảo lãnh qua Mỹ, bỏ dì thui thủi một mình nơi quê cũ, thì lửa hương nguội lạnh. Tụi nó gọi về, coi ai hợp tánh hợp tình thì má gật đầu với người ta đi. Tụi con ở xa, lỡ má có chuyện gì mà không người lo, chắc cả đời ân hận.
Năm kia, ông bạn đi du học bên Liên Xô cũ, khi chính biến ở lại không về, giờ giàu sang, tìm tới tận nhà trò chuyện. Vợ chồng ly dị, ba đứa con ở cùng với mẹ bên kia trời. Ông một mình về quê dưỡng già sau bao tháng năm dựng gầy cơ nghiệp. Hai trái tim cỗi già, đơn lẻ, tưởng đâu tìm chung nhịp đập, để xích lại gần nhau. Thì đùng một cái, Ukraine biến động. Chợ Việt bị bố ráp, hàng hóa bị mất hết trơn. Bao nhiêu vốn liếng ông để lại cho vợ cũ giờ biến thành tro. Bà như điên, hóa dại, nhập viện tức thời. Thế là ông tức tốc quay về bên ấy, giúp vợ cũ ổn định tinh thần. Dù không tình, cũng còn cái nghĩa bao năm chung sống.
Thế là dì cô đơn vẫn hoàn cô độc.
3 Dì hé rèm nhìn ra cửa. Xe cộ đậu đầy sân, khách khứa tới đông lắm rồi. Mọi người kéo xuống hết dưới basement (1), vui cười, hát ca, chuẩn bị ăn uống mừng ngày Thanksgiving truyền thống. Dì đã sẵn sàng quần áo, tóc bới gọn gàng, nhưng cứ lừng khừng, nửa muốn xuống nhà, nửa muốn ở lại. Hai mươi mấy năm xa cách, dì không biết khi đối diện với ổng mình sẽ ra sao. Kỷ niệm thương yêu năm xưa có trở về hay vụt tan biến mất. Dì có đủ can đảm để nhìn sâu vào đôi mắt ấy. Có vững lòng khi nghe lại tiếng nói ấm áp của người một thời âu yếm gọi bằng chồng. Rồi gặp vợ sau của ổng, mình sẽ phản ứng ra sao. Dẫu có sắt đá thế nào, nhưng khi đối diện với kẻ (mấy mươi năm trước) đã cướp chồng mình, làm sao giả lả, ngọt ngào cho được? Đừng ai lên đây kêu tui xuống nhen. Không gặp mà hay. Để mọi chuyện nằm im, bới xới làm gì vết tro tàn để khơi tìm mồi lửa.
Nhưng điều ước của dì đã không thành sự thật. Khánh gõ cửa, he hé nhìn vô, thì thầm nói nhỏ.
- Má xuống dưới nói chuyện với ba đi. Ba chờ má nãy giờ.
Dì chầm chậm trên cầu thang bước xuống. Tim đập thình thịch. Tay run lẩy bẩy. Hai hàm răng đánh vào nhau nghe côm cốp. Không được khóc, không được khóc nghe Miên. Bao nhiêu năm dì cầu trời, khấn Phật, chờ đợi cái ngày này, vậy mà cách nhau có mấy bước chân, dì lại hoảng hồn, chùn chân, không muốn xuống.
Trong phòng khách chỉ có một người duy nhất, đang ngồi xoay lưng lại phía cầu thang. Bờ vai ấy dẫu giờ có rộng và to hơn, nhưng có khác gì năm cũ. Tấm lưng ấy giờ phì nhiêu, màu mỡ nhưng làm sao dì không biết nó thuộc về ai. Dì để tay lên ngực, hít một hơi thiệt sâu, rồi tằng hắng.
Nghe tiếng người sau lưng. Dượng quay mặt lại.
Không gian dường như đông thành đá. Tiếng cười nói của mọi người bỗng hóa khói mây. Hai tai ù đi như lúc máy bay hạ cánh. Mất hết sáu mươi giây sững người, im lặng, dượng thở dài, môi mấp máy một vài tiếng ân cần, dịu ngọt.
- Bà vẫn khỏe?
Chỉ ba tiếng hỏi đục khàn, vậy mà dì tưởng tiếng bom nổ sát bên tai, choáng váng. Đúng giọng nói của chồng mình rồi. Cái thanh âm mà bao nhiêu năm nay dì mãi hoài mong, ngóng đợi. Đúng là mùi mồ hôi quen thuộc, thuở nào dì vẫn nép chặt vào ngực chồng, giữa trận gió mùa se sắt lạnh. Giờ có hóa thành tro bụi cũng nhận ra.
Dì mím chặt môi, cố ngăn dòng nước mắt. Muốn tới trước mặt, tát một cái cho xiểng niểng và la to rằng, ông có biết hai mươi mấy năm xa vắng, tui vẫn chung lòng, chặt dạ chờ ông trở lại hay không? Ông có biết bao buổi chiều giông gió, tui vẫn ngồi đó, ngay kẹt cửa, chỗ ông nắm tay tui nói tiếng chia tay, để đợi ông trở về. Anh em ông tệ bạc lắm. Cả nhà ông tệ bạc lắm. Bốn chị em tui vừa tảo tần buôn bán, vừa tay xách, nách mang nuôi mấy đứa nhỏ nhóc nheo, thò lò mũi dãi. Tụi tui không cần tiền lẻ của mấy người. Tụi tui tự làm, tự sống được. Bọn đàn bà này cù bất cù bơ, chồng bỏ, chồng chê như thế nào cũng được. Nhưng tụi nhỏ đâu có lỗi lầm gì, mà bao nhiêu năm không thấy mặt cha. Một lời ân cần, thiết tha cũng không có.
Những lời trách móc, dì đã thì thầm không biết bao nhiêu lần, cứ tưởng ngày gặp lại sẽ tuôn ra như thác đổ suối trào. Vậy mà giờ nghẹn đắng.
4- Ờ, tui cũng mạnh... Dượng quay qua, muốn chạy tới đưa tay chùi mấy giọt nước mắt đang rưng rưng trong mắt người vợ cũ. Muốn cầm bàn tay gầy gò năm xưa áp lên mặt mình. Nhưng chùn bước. Mình đâu còn cái quyền đó khi giờ đã là chồng, là cha của một gia đình ấm êm, đầy đủ khác.
Ngày ra đi, bỏ vợ con lại bên nhà, dượng đã chết đi nửa phần đời trai trẻ. Tuổi thanh xuân hừng hực, không vợ, chẳng con, giữa xứ người cô quạnh. Sáng đi làm, chiều lái xe tới trường lõm bõm học vài ba tiếng Mỹ. Đêm về co ro trong căn phòng trống trải. Bốn thằng con trai, bốn mảnh đời nghiệt ngã. Phải làm gì để qua những mùa đông khắc nghiệt? Sống ra sao giữa nỗi cô đơn giày xéo mỗi ngày? Mấy lá thư viết vội, vài tấm hình bên này gửi lại bên kia, những cái thẻ nghe tiếng được, tiếng mất ở khu chợ Việt xa xôi, là nguồn tin yêu duy nhất.
Dượng gặp Thu trong một lần mang xe tới dealer(2) sửa. Cái tuổi hai mươi xinh đẹp của cô gái rượu con ông chủ tiệm như liều thuốc độc quấn lấy hồn anh. Cô lao vào như con thiêu thân mịt mờ với ánh đèn lấp lánh. Anh quấn quýt bên cô như con sói đói gặp mồi. Cả hai ngất ngây trong cuộc tình vụng trộm. Anh không thiết tha gì tới cô vợ bên nhà. Cũng chẳng nhớ tới hai đứa trẻ đang mỗi ngày kêu ba về cho lẹ. Trái tim cô đơn của gã đàn ông ngoài ba mươi phút chốc được sưởi ấm bởi ngọn lửa tình mê mệt. Luân thường đạo lý, nhân nghĩa phải quấy với anh lúc này như từ giấy xút, chẳng đáng lấy một xu.
Thu dính bầu. Khi biết được, thai đã tròn hai tháng. Nhà cô theo đạo Công giáo. Phá thai không những đi ngược lại với luân thường đạo lý, mà còn nghịch lời đức Chúa trời răn dạy. Họ bảo cưới đi, rồi mua cho căn nhà gần triệu bạc, làm của hồi môn.
Trong phút yếu lòng, dượng đã buông tay nhắm mắt.
Và khi trái tim giá lạnh nơi xứ xa được lấp đầy bởi tiếng nói cười của đứa trẻ thơ trong căn nhà bạc triệu. Đêm về, dượng giật mình hoảng hốt, khi nghĩ tới vợ và những đứa trẻ bên nhà đang ngày đêm trông ngóng mỏi mòn.
Bao nhiêu năm qua, dượng muốn quay về thắp nhang lên phần mộ ông bà, cho ấm lòng người quá cố. Để được ngồi ghe chèo dọc sông Dinh giữa đêm khuya mịt mù với ánh đèn leo lét. Dượng thèm thả lưới bắt từng con cá, con cua. Sáng về ghe đầy tôm cá trong tiếng hò reo mừng rỡ của vợ và hai đứa nhỏ. Những lúc đói bụng, dượng kêu dì ra sau chái bếp bắt con gà, nửa nấu cháo với rau răm, nửa nấu nồi canh chua lá giang, mua thêm lít rượu đế về để nhắm. Dượng muốn nhìn con lớn từng ngày, muốn nghe tụi nó bi bô gọi một tiếng ba, như muôn ngàn đứa trẻ khác. Sáng sớm, dượng bỏ hai đứa lên yên sau, bảo ôm thiệt chặt kẻo té, ba chở con tới trường học nhen. Mỗi chiều, dượng ngồi trước sân hút thuốc, thương yêu nhìn vợ lấy lược dày chải đầu, bắt chí, rồi thắt con rít trên tóc con. Tối đến, dượng ẵm vào giường ầu ơ ru con ngủ.
Dượng cũng muốn nói với dì một lời tạ tội. Dượng biết, anh em dượng là thứ chẳng ra gì khi quên hết nghĩa nhân, quên tình tấm mẳn. Thấy mới nới cũ, có trăng quên đèn. Mong bà thứ tha để nhẹ lòng mà sống. Nhưng dượng sợ chính quyền mới moi ra vụ làm giả giấy tờ năm cũ rồi làm khó dễ đủ đường. Mà nếu mọi thứ trót lọt rồi, dượng cũng không thể mang vợ con bên này về thăm vợ con bên đó. Cũng chẳng thể bỏ họ lại nơi xứ người đất khách để về xứ sở một mình. Bao lần dì Thu kêu anh về thăm chỉ với tụi nhỏ đi, chứ cứ dằn vặt như vầy hoài, tui với con cũng chẳng vui sướng gì. Ông coi ông đó, tóc tai gì cũng rụng hết trơn, không còn một cọng.
Thà bả như mấy đứa em dâu lấy chồng, có gia đình mới thì mình còn thấy nhẹ lòng. Đằng này cứ thui thủi mãi một mình chẳng khác nào những cực hình, tra tấn. Cách duy nhất dượng có thể làm là bảo lãnh hai đứa nhỏ qua để bù đắp phần nào lỗi lầm đè nặng. Và mong sớm một ngày gặp nhau để nói lời tạ tội.
5 - Cho tui xin lỗi…
- Lỗi phải gì?
- Bà vẫn còn giận?
- Già cả hết rồi, trên đầu hai thứ tóc, giận dỗi chi nữa hả ông?
- Ngày đó…
- Thôi. Chuyện gì xong cũng đã xong rồi. Đừng nhắc làm chi nữa. Ông biết nghĩ tới tương lai con cái, còn nhớ tới tui là mừng lắm rồi. Chắc trời bắt nợ duyên tụi mình chấm dứt.
Dượng thở cái phào, như trút được ngàn cân đeo nặng. Biết vậy mình gặp và nói với bả sớm hơn, để mấy chục năm nay yên tâm ngủ thẳng cẳng.
- Bả có tới với ông không?
- Bà hỏi ai?
- Vợ nhỏ của ông…
- Có. Đang ở nhà dưới.
- Để tui xuống gặp rồi cảm ơn bả đã lo lắng cho hai đứa nó lúc mới qua lạ nước lạ cái.
- Ơn nghĩa gì, trách nhiệm của tụi tui mà.
- Biết là vậy, nhưng cũng nói vài lời cho phải đạo.
Dì Miên xoay lưng, đứng dậy. Cái trâm đồi mồi rớt xuống, mớ tóc dài đẫm đuột bung ra, hương bưởi thơm thoang thoảng. Dượng giơ tay, định chạm vô mái tóc ngày xưa, bao nhiêu năm dẫu nhuốm bụi thời gian, nhưng vẫn suôn dài như suối. Giật mình, rụt tay, miệng lầm bầm, sao hổng cắt bớt, uốn quăn lên cho theo thuở, hợp thời, để dài chi mà đau lòng tui dữ quá. Mà qua tới đây rồi, xà bông thường không xài, lại đi nấu nước vỏ bưởi gội đầu. Sang quá!
Dì vừa bới tóc, vừa thì thầm.
- Tui có nấu nồi cháo với làm thau gỏi gà bóp rau răm. Gà xứ này chắc hổng ngon như bên mình, nhưng chắc là ông thích.

Maryland, những ngày giá lạnh cuối năm 2016.

Truyện ngắn của Nguyễn Hữu Tài

Thanked by 2 Members:

#5 Vô Danh Thiên Địa

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3526 Bài viết:
  • 5108 thanks

Gửi vào 29/01/2017 - 00:09

TẤM LÒNG

Thời buổi này còn cái gì không hạ giá nhỉ ? Sách vở, quần áo, đồ điện tử v...v... hạ giá !

Tôi cầm mảnh bằng đại học cạ cục mãi chưa tìm ra việc làm, cũng nhào ra vỉa hè bán sách đại hạ giá. Từ Victor Hugo, Leo Tolstoy, Tagore, Dostoievski... đến Khái Hưng, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng... cả thảy đều bị “hạ” nằm la liệt. Lắm lúc ngồi chồm hổm nhìn xuống các tên tuổi từng “vang bóng một thời”, tôi thầm hỏi: Nên cười hay nên khóc, thưa chư liệt vị ?

Cách đây ít lâu, một ông lão hình dáng tiều tụy mang đến bán hai pho sách dày. Một cuốn là “Hán Việt Từ Ðiển” của Ðào Duy Anh do Khai Trí tái bản. Cuốn kia là “Petit Larousse Illustré” in tại Paris năm 1973. Sách còn tinh tươm lắm, hẳn chủ nhân đã xài rất kỹ. Thấy giá rẻ, tôi mua. Loại ấn bản này đây, gặp loại khách biên biết, bán cũng được lời.

Ngoài bìa và một số trang ruột của mỗi cuốn, đều có ấn dấu son hình ellipse: “Bibliothèque - Ðô Bi - Professeur”. À, té ra ông lão vốn từng là giáo chức. Thảo nào! Cất tiền vào ví rồi mà ông cứ dùng dằng nuối tiếc, ngoảnh lại nhìn những tài liệu - tài sản phải đứt ruột bán đi. Ngoái mãi mấy lần rồi ông mới dắt chiếc xe đạp cà tàng đạp về. Mắt ông đỏ hoe. Lòng tôi chợt se lại !

Chiều 25 Tết. Ngồi cạnh các danh tác tôi vẫn lim dim, thấp thỏm, chồm hổm ra đấy. Qua đường không ai thấy lá vàng rơi trên giấy. Sài Gòn chả có mưa bụi cho đủ khổ thơ Vũ Ðình Liên. Nhưng bụi đường thì tha hồ, đủ khổ thứ dân lê lết vệ đường như tôi.

- Anh mua bánh bò, bánh tiêu ?

Một chị hàng rong đến mời. Tôi lắc đầu. Bỗng chị sững người chăm chú nhìn vào hai bộ từ điển. Chị ngồi thụp xuống, đặt sề bánh bên cạnh, cầm hết cuốn này đến cuốn kia lật lật. Rồi chị hỏi giá cả hai. Ngần ngừ lúc lâu, chị nói:

- Anh có bán... trả góp không ?
- Trời đất ơi! Người ta bán trả góp đủ thứ, chứ sách vở, sách đại hạ giá ai đời bán trả góp ? Vả lại, tôi nào biết chị là ai, ở đâu ?
- Tôi cần mua cả hai - chị nói tiếp - Xin anh giữ, đừng bán cho người khác. Khi nào góp đủ, tôi sẽ lấy trọn. Anh thông cảm làm ơn giúp tôi.


Thấy lạ, tôi hỏi chuyện mới vỡ lẽ: Ðô Bi chính là thầy cũ của chị hàng rong. Chị Tám (tên chị) bất ngờ thấy có dấu son quen, hiểu ra hoàn cảnh của thầy, bèn nảy ý chuộc lại cho người mình từng thọ ơn giáo dục. Song, bán bánh bò, bánh tiêu nào được bao nhiêu, lại còn nuôi con nhỏ, không đủ tiền mua một lần, nên chị xin trả góp.

Tôi cảm động quá, trao ngay hai bộ từ điển cho chị Tám:

- Chị hãy cầm lấy, kịp làm quà Tết cho thầy. Tôi cũng xin lại đúng số vốn mà thôi, chị à.
- Nhưng...
- Ðừng ngại, chị trả góp dần sau này cũng được.


Chị lấy làm mừng rỡ, cuống quít trả tôi một ít tiền.

- Chao ôi, quý hóa quá ! Cảm ơn... cảm ơn... anh nhá !

Mai lại, chị Tám trả góp tiếp. Chị kể:

- Thầy bi thảm lắm... Gần Tết, cô lại ngã bệnh... Thầy nhận sách, mừng mừng tủi tủi tội ghê, anh à !... Thầy cũ trò xưa khóc, khóc mãi!

Tôi vụt muốn nhảy cỡn lên và thét to:

“Hỡi ông Victor, ông Leo, ông Dostoievski... ơi ! Ông Khái, ông Vũ, ông Ngô... ơi! Có những thứ không bao giờ hạ giá được ! Có những người bình thường, vô danh tiểu tốt nhưng có những kiệt tác không hạ giá nổi, đó là:

" Tấm lòng " .

Sửa bởi Vô Danh Thiên Địa: 29/01/2017 - 00:11


#6 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 21/11/2018 - 19:54

Chuyện ngắn EM TÔI của nhà văn quân đội VNCH
Phan Nhật Nam
****
Năm em lên ba, bố tôi bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ lên đường tập kết.
Tôi hơn em sáu tuổi. Chín tuổi con nhà nghèo khôn lắm, tôi đủ khôn để thấy khuôn mặt mẹ buồn hiu hắt, những tiếng thở dài và những giọt nước mắt âm thầm của mẹ trong đêm. Chín tuổi, tôi đã biết mình là người nam độc nhất trong gia đình, đã biết ẵm bồng đút cơm cho em và vỗ về em mỗi khi em khóc. Chín tuổi, tôi đã biết tắm rửa, thay áo thay quần cho em, cõng em đi chơi và dỗ cho em ngủ. Mỗi ngày, trời sập tối mẹ mới gánh hàng về, ba mẹ con ngồi ăn cơm bên ngọn đèn dầu, tôi và em hỏi han, an ủi mẹ. Mẹ kể cho chúng tôi nghe chuyện chợ búa như đang nói chuyện với người lớn, tôi ngồi nghe, nhìn đôi vai gầy của mẹ, nhìn mái tóc và đôi bàn tay khô của mẹ, mà thấy thương mẹ vô cùng.

Tôi phải bỏ học ở nhà hai năm để trông chừng em. Mẹ có một sạp bán rau cải ở chợ Cồn. Gọi là sạp chứ thực ra chỉ là một ô đất nhỏ, sáng mẹ ra đi thật sớm, lúc trời còn mờ sương, buổi trưa mẹ về nhà lo cho chúng tôi ăn, nằm nghỉ ít phút rồi trở dậy sửa soạn cho chuyến chợ chiều. Một tuần bảy ngày, mẹ đi đi về về trong nỗi cô đơn.
Năm em vừa tròn năm tuổi thì mẹ cho em vào mẫu giáo, tôi cũng trở lại trường, đám bạn cũ của tôi nay đã hơn tôi hai lớp, ngồi xung quanh tôi bây giờ là những khuôn mặt lạ, kém tôi hai, ba tuổi. Tôi là học trò lớn nhất và học khá nên được làm trưởng lớp. Gần cuối năm học lớp nhì, tôi nói với mẹ lên xin thầy Hiệu Trưởng cho tôi được thi nhảy tiểu học. Thầy bằng lòng. Tôi cắm cúi học luyện thi và kết qủa là tôi đã đổ được bằng tiểu học năm đó.
Vào lớp đệ thất trường Phan Châu Trinh, tôi tiếp tục học ngày, học đêm, năm đệ ngũ tôi thi nhảy một lần nữa lấy bằng Trung học. Đến niên học đệ tam thì tôi đã bắt kịp đám bạn cũ, tôi hân hoan nhập bầy chung với đám bạn ngày xưa. Đây là giai đoạn mà tôi cần tiền để mua sách học và may thêm quần áo, thời tiểu học và trung học đệ nhất cấp thì mặc sao cũng được, nhưng bây giờ đã lên đệ nhị cấp rồi, đã bắt đầu biết đỏ mặt khi nhìn những đứa con gái trường nữ, thỉnh thoảng đã biết theo bạn tập uống cafe, phì phà điếu thuốc. Tiền mẹ cho không đủ, tôi bắt đầu công việc kèm trẻ tư gia để kiếm thêm tiền. Học trò của tôi là mấy cô cậu đệ thất đệ lục, nghĩa là cũng chỉ thua tôi vài tuổi.
Ba mẹ con tôi vẫn ngày ngày đi về căn nhà nhỏ, căn nhà vẫn không thay đổi một chút nào từ ngày bố bỏ mấy mẹ con để ra đi.
Hết năm đệ tam, tôi nộp đơn thi Tú Tài phần nhất. Tôi đậu bình thứ. Một lần nữa, mọi người ngạc nhiên, nhưng tôi biết sức học của mình, tôi biết mẹ buôn bán tảo tần, tôi thấy những năm tháng gần đây mẹ trở bệnh hoài, mỗi sáng mẹ lục đục dậy thật sớm nấu cơm để dành cho anh em tôi, rồi lặng lẽ mang đôi quang gánh lên vai, những tối ngồi trầm ngâm bên ánh đèn dầu nhìn anh em tôi học bài và những đêm khuya mẹ trở mình húng hắng ho. Tôi thương mẹ và em đến ứa nước mắt, và càng thương mẹ thương em, tôi càng học như điên, như cuồng. Tôi ước gì Bộ Giáo dục cho tôi thi hai bằng tú tài cùng một lúc. Nhìn mái tóc mẹ đã lớm chớm sợi bạc, nhìn lưng mẹ mỗi ngày mỗi như còng xuống, nhìn hai vai gầy của mẹ mà lòng quặn đau, và cứ thế, tôi vùi đầu vào sách vở...
Em đã bắt đầu tuổi lớn, đã bắt đầu tuổi mộng mơ con gái, đã bắt đầu bước vào "tuổi ngọc", nhưng tội nghiệp, biết nhà mình nghèo, biết mẹ mình buôn thúng bán bưng, biết anh mình vẫn chiều chiều đi kèm trẻ kiếm thêm tiền và cặm cụi học đốt giai đoạn cho chóng thành tài. Biết thế nên em ít khi nào xin mẹ, xin anh tiền may áo mới, hai chiếc áo dài trắng đủ cho em thay đổi. Em lớn lên thiếu tình của bố, nên tôi "quyền huynh thế phụ". Nhiều lúc nhìn mẹ, nhìn em, tôi vẫn không hiểu tại sao bố lại đành đoạn dứt áo ra đi.
Tôi thi đỗ Tú Tài toàn phần năm 18 tuổi, và ra Huế học Đại học Văn khoa. Mẹ ở một mình với em ở Đà Nẵng. Mỗi cuối tuần, tôi theo xe đò về thăm mẹ và em, đến sáng thứ hai trở lại trường. Ở Huế, tôi tiếp tục công việc kèm trẻ tư gia. Với số tiền nhỏ nhoi kiếm được, tôi phụ mẹ nuôi em.
Qua sinh nhật thứ 13 của em mấy tháng, một chiều mẹ bỏ buổi chợ, về nhà than nhức đầu, tưởng là cảm nhẹ, mẹ sai em cạo gió và nấu cho mẹ bát cháo hành. Khuya đó mẹ lên cơn sốt, lảm nhảm nói mê, sáng hôm sau em nghỉ học chở mẹ vào nhà thương và nhờ người nhắn tin ra cho tôi ở Huế.
Lật đật trở vào Đà Nẵng bằng chuyến xe đò chót. Trời tối đã lâu, không kịp ăn uống, từ bến xe tôi đi thẳng đến bệnh viện. Trong căn phòng nhỏ, dưới ánh đèn vàng mờ đục, mẹ nằm thiêm thiếp trên giường bệnh, còn em đang ngồi ngủ gà ngủ gật cạnh giường. Đứng yên lặng nhìn mẹ xanh xao bất động, và khuôn mặt thơ dại của em, trong giấc ngủ hai khóe mắt vẫn còn long lanh giọt lệ, tôi nghe lòng mình quặn thắt.
Đánh thức em dậy, em ngơ ngác dụi mắt vài giây. Nhận ra tôi, em nhào tới ôm chầm và òa lên khóc, em cho hay là từ lúc đưa mẹ vào đây, mẹ chỉ tỉnh lại một vài phút vào khoảng giữa trưa, sau đó mẹ hôn mê trở lại. Tôi an ủi em, rồi cùng em ra văn phòng bệnh viện. Cô y tá trực cho hay mẹ bị đứt một tĩnh mạch ở đầu. Tôi bàng hoàng như bị ai nện một nhát búa vào ngực. Cô y tá bùi ngùi nhìn em, đôi mắt xót xa.
Tối đó, anh em tôi cùng ở lại với mẹ, em mệt mỏi, nên chỉ một thoáng là đã ngủ say. Trong giấc ngủ mệt nhọc, thỉnh thoảng em ú ớ mẹ ơi, mẹ ơi rồi nức lên mấy tiếng. Tôi nghe như dao cắt trong lòng. Suốt đêm không ngủ, tôi cứ ngồi nhìn mẹ nằm im lìm và bên chân mẹ em ngủ chập chờn. Tôi tự nhủ thầm với mình đừng khóc, đừng khóc.... nhưng sao nước mắt vẫn cứ trào ra, một tay ve vuốt bàn tay xanh xao của mẹ, một tay nắm lấy bàn tay nhỏ bé của em, tôi để mặc cho hai dòng nước mắt chảy nhạt nhòa trên má.
Mẹ thở hơi cuối cùng lúc năm giờ sáng, mẹ không tỉnh lại để trăn trối với hai con một lời gì. Mẹ đi trong yên lặng. Tôi nắm bàn tay mẹ và thấy tay mẹ lạnh dần. Tôi đánh thức em dậy. Hai anh em hôn lên trán mẹ giã từ. Em vuốt mắt mẹ. Mắt mẹ nhắm hờ. Em ôm chặt hai tay mẹ, ủ vào lòng mình miệng kêu lên nho nhỏ: mẹ ơi, mẹ ơi... Em khóc lặng lẽ, áp mình vào ngực mẹ nước mắt em tuôn ràn rụa làm ướt đẫm cả vạt áo me bạc màu. Những tiếng kêu nghẹn ngào của em như những viên đạn bắn thẳng vào tim, tôi ngồi bất động nhìn mẹ, nhìn em, lòng đau như muối xát. Tội nghiệp mẹ tôi, tội nghiệp em tôi. Em mới mười ba tuổi...
Chôn mẹ xong, tôi bỏ học. Còn lòng dạ nào mà học nửa. Nhưng em thì phải trở lại trường.
Bán đi căn nhà nhỏ xiêu vẹo và gom tóm tất cả vốn liếng của mẹ để lại, tôi đưa hết số tiền cho mẹ của Minh, một người bạn thân tôi. Minh có Hân, cô em gái cùng tuổi, cùng lớp với em. Tôi gửi em đến đó ở và đi học với Hân, cũng may, bố mẹ Minh coi anh em tôi như con. Tôi dặn dò em đủ điều. Số tiền tôi gởi cho mẹ Minh đủ để trả tiền ăn ở của em trong hai ba năm. Tôi còn đưa thêm cho em một ít để em mua sách vở, may áo quần, tiêu vặt. Tôi ôm em và hứa với lòng, hứa với vong hồn mẹ là sẽ lo lắng, sẽ bảo bọc em cho đến trọn đời.
Tôi vào trường Võ Bị Đà Lạt năm 20 tuổi, lương sinh viên sĩ quan ít ỏi, tôi tiết kiệm không dám xài nhiều, để dành gởi về cho em mỗi tháng.. Tôi dặn em viết thư mỗi tuần kể cho tôi nghe chuyện học hành. Tôi bắt em hứa là không bao giờ dấu tôi một điều gì dù nhỏ bé. Em ngoan ngoãn vâng lời. Mỗi năm tôi được về phép một lần, hai anh em quấn quýt không rời. Tôi đưa em đi thăm mẹ. Chúng tôi lặng yên cầm tay nhau quỳ bên mộ mẹ, nước mắt lưng tròng.
Em lớn lên và ngày càng giống mẹ. Cũng khuôn mặt và cái nhìn nhẫn nhục, cũng đôi mắt xa xăm buồn hiu hắt. Bình thường em rất ít nói, có lẽ không cha, mồ côi mẹ quá sớm và anh lại ở xa đã làm em rụt rè. Cũng may, bên cạnh em vẫn còn có Hân. Lễ mãn khóa của tôi, em và Hân cùng lên tham dự, lúc này, em đã thi đổ vào trường Sư Phạm Qui Nhơn, hai năm nửa em sẽ trở thành cô giáo, tôi hãnh diện giới thiệu em và Hân với các bạn mình. Nhìn dáng em thẹn thùng e ấp, tôi thấy lòng mình rạt rào thương em. Tôi thầm gọi mẹ, mẹ ơi, hai con của mẹ đã trưởng thành và đã nên người.
Ra trường, tôi chọn binh chủng nhảy dù, có lẽ cũng chỉ vì tôi thích màu mũ đỏ. Em vào học và ở nội trú trong trường sư phạm. Tôi thấy mình yên tâm hơn. Mỗi tháng, tôi vẫn gửi về cho em một nửa tiền lương lính của mình để trả tiền phòng, tiền ăn. Tôi biết con gái cần nhiều thứ hơn con trai, như áo quần, son phấn... Em vẫn viết thư cho tôi mỗi tuần như em đã làm trong mấy năm qua. Em kể chuyện học hành, chuyện bạn bè, em lo sợ là tôi đi tác chiến nhỡ có ngày bố con gặp nhau ở chiến trường, làm sao nhận ra nhau, em không nói thêm, nhưng tôi cũng hiểu, tên đạn vô tình, nếu nhỡ.
Hai năm em học Sư Phạm trôi qua thật nhanh. Em bây giờ đã là một cô giáo trẻ. Em được đổi về dạy tại một trường tiểu học gần thị xã Phan Rang. Em thuê nhà chung với hai cô giáo khác. Mỗi ngày ba cô giáo ngồi xe lam đi đến lớp, chiều về cả ba cùng quây quần nấu nướng. Em viết thư cho tôi và khoe có quen với Tuấn, một Sĩ quan Hải quân đồn trú ở Phan rang. Em khen Tuấn hiền lành, ít nói. Em kể thêm là Tuấn chỉ còn có mỗi một mẹ già.
Chiến tranh ngày thêm khốc liệt, đơn vị tôi hành quân liên miên, có khi cả năm chúng tôi mới được về hậu cứ một lần. Tôi bị thương hai lần trong cùng một năm. Tôi dấu em, không cho em biết sợ em lo lắng. Trong những tuần lễ nằm bệnh viện và ở hậu cứ dưỡng thương, tôi bắt đầu viết bài đăng trên các báo và tạp chí. Tôi kể lại những trận đụng độ kinh hoàng giữa đơn vị tôi và giặc Cộng, tôi kể lại những "kỳ tích " của bạn tôi, của Mễ, của Lô....
Sau một lần bị thương nhẹ ở tay, tôi lấy mấy ngày phép ra Phan Rang thăm em. Em mừng rỡ ôm lấy anh, nhưng khi thấy cánh tay băng bột em xót xa bật khóc. Tôi an ủi em là biết đâu sau chuyến bị thương này tôi sẽ được về làm việc hậu cứ. Ngày hôm sau, nghe tin, Tuấn đến thăm. Thoạt nhìn, tôi đã có cảm tình với Tuấn, đúng như em nói, Tuấn trông rất hiền lành. Trong suốt tuần lễ ở Phan rang, em vẫn phải đi dạy, nhưng may là có Tuấn, mỗi ngày Tuấn tới chở tôi đi ăn sáng, trưa Tuấn và tôi lang thang ra chợ bạ gì ăn đó đợi giờ ba cô giáo đi dạy học về. Buổi tối, em đi ngủ sớm, Tuấn ngồi lại nói chuyện với tôi cho tới khuya. Bên ly cafe, tôi kể cho Tuấn nghe chuyện của mình. Những hình ảnh yêu dấu, xót xa như một cuộn phim củ quay chầm chậm. Tôi rưng rưng kể lại ngày mẹ mất. Tuấn lấy tay chùi mắt, trong đêm tối, tôi thấy mắt Tuấn long lanh...
Bảy ngày phép cũng trôi nhanh. Tôi trở về Saigòn, lòng cảm thấy vui và nhẹ nhàng vì đã có dịp gặp Tuấn. Tôi tin Tuấn sẽ không làm khổ em. Ba tuần sau, tôi nhận được thư Tuấn, trong thư Tuấn kể về gia đình (mặc dù tôi đã nghe em kể trong các lá thư). Tuấn muốn tiến tới với em. Tuấn xin phép được đưa mẹ Tuấn đến gặp tôi. Tuấn hứa là sẽ săn sóc và thương yêu em. Đọc thư Tuấn tôi ứa nước mắt vì mừng. Mừng cho em may mắn không gặp những trắc trở trên đường tình ái, mừng cho em gặp được một người chồng hiền hậu. Tôi viết thư cho em và Tuấn, bảo hai em lo thế nào cho tiện, chỉ cố làm sao cho giản đơn vì cả hai đứa cùng nghèo.
Bốn tháng sau, Tuấn và em làm đám cưới, nhà gái ngoài tôi còn có thêm mấy thằng bạn trong đơn vị, ông hiệu trưởng, thầy cô giáo và rất đông học trò. Nhà trai ngoài mẹ Tuấn, mấy gia đình anh chị họ còn thêm một số bạn bè Hải quân cùng đơn vị. Nhìn em xúng xính trong bộ đồ cưới, tươi cười đứng bên cạnh Tuấn, tôi gọi thầm mẹ ơi, mẹ ơi, về đây dự đám cưới của em.
Tôi theo đơn vị lội thêm hai năm nửa ở vùng giới tuyến, thì "tai nạn" xảy ra. Trong một lúc nóng giận vì thấy ông xếp của mình sao ngu và bẩn quá, tôi không giữ được lời và đã xúc phạm đến ông, kết qủa là tôi bị đưa ra hội đồng kỷ luật và tống ra khỏi binh chủng nhảy dù.
Sau một thời gian ba chìm bảy nổi, tôi đổi về cục Tâm lý Chiến, thời gian này tôi đã khá nổi tiếng, những bút ký chiến trường về Tết Mậu Thân, Bình Long. An Lộc... đã làm vinh danh binh chủng củ của tôi. Tôi được giải thưởng văn học với bút ký "Mùa Hè Đỏ Lửa". Tiền thưởng và tiền bán sách tôi gửi hết cho em. Tuấn và em dùng tiền này mua được một căn nhà nhỏ ở ngoại ô Phan rang, gần trường em dạy.
Mới ngày nào đó còn thẹn thùng nấp bên vai Tuấn mà bây giờ em đã mấy con. Mỗi dịp rảnh rỗi, tôi lại ra Phan rang ở chơi với em, với cháu. Tôi ôm cháu, hôn vào hai má phúng phính, hít vào phổi mùi thơm của trẻ thơ mà thấy lòng mình dịu lại, những cay đắng, cực nhọc của đời theo tiếng cười lanh lảnh giòn tan của cháu mà bay xa, bay xa. Tôi nhìn hai vợ chồng em, nhìn bầy cháu nhỏ lẫm chẫm quây quần bên chân mẹ mà lòng vừa vui mừng vừa hãnh diện. Tôi ao ước mẹ tôi nhìn thấy được cảnh này.
Biến cố tháng 4 /75 tới như một định mệnh oan nghiệt, cả Tuấn và tôi đều phải ra trình diện cải tạo. Em ở lại một mình với một bầy con nhỏ, đứa lớn nhất chưa đầy sáu tuổi và đứa nhỏ nhất còn nằm trong bụng mẹ. Trong trại, tôi cứ đứt ruột nghĩ về em và bầy cháu nhỏ. Mẹ của Tuấn đã quá già, làm sao lo phụ với em đây. Rồi em còn phải lo lắng về số phận chồng, số phận anh. Tôi quay quắt như ngồi trên đống lửa, tôi nghĩ đến lời hứa với vong hồn mẹ hôm nào mà lòng đau như xé, con đã thất hứa với mẹ, mẹ ơi, con đang ở đây tù tội thì làm sao lo được cho em...
Năm 76 tôi bị đưa ra Bắc. Tôi mất liên lạc với em và Tuấn từ tháng 5/75. Làm sao em biết tôi ở đâu mà thư từ thăm gửi. Không biết em có biết Tuấn ở đâu không, trại tù mọc lên như nấm từ Nam ra Bắc. Hồi còn ở trong Nam, từ Trảng lớn, qua Suối máu, đâu đâu tôi cũng cố dò hỏi tin Tuấn nhưng vô hiệu. Tù nhân đông quá....
Trại cải tạo Sơn La, sau đợt cho viết thư về gia đình đầu tiên, ba tháng sau tôi nhận được thư em. Thư em đến tay tôi vào giữa năm 77. Hơn 2 năm 1 tháng tôi mới nhìn lại nét chữ của em. Run run bóc thư, mắt tôi cay nồng, nhạt nhòa. Em cho hay là Tuấn đang cải tạo ở Long Thành, Tuấn có thư về và cho biết vẫn bình an, mẹ Tuấn dạo này yếu lắm vì cụ đã quá già, em vẫn đi dạy, hai cháu nhỏ ở nhà với bà nội, hai cháu lớn theo mẹ vào trường, em cho hay đứa con gái út em đặt tên Tâm, Trần thị Minh Tâm, cháu sinh ngày 12 tháng 9 năm 75, gần 4 tháng sau ngày bố cháu và bác cháu vào tù.
Gần cuối thư, em báo tin là bố còn sống và hồi đầu năm 76 có tìm đến gặp em, làm sao bố tìm ra địa chỉ thì em không biết, nhưng hôm ấy bố đến, bố tự giới thiệu tên mình. Em ngỡ ngàng, ngày bố ra đi em mới tròn ba tuổi, hơn hai mươi năm sau gặp lại làm sao em nhận được, bố xoa đầu đám cháu ngoại đang trố mắt nhìn người đàn ông lạ, bố hỏi về anh, về Tuấn, khi em hỏi lại bố là làm sao để biết anh và Tuấn đang bị giam giữ ở trại cải tạo nào, bố lắc đầu không nói gì. Bố cho hay là bố đang có gia đình ở Bắc, ngoài ấy bố có thêm hai trai và hai gái. Đứa trai lớn nhất thua em bốn tuổi.
Bố mang vào cho em hai mươi ký gạo và một chục cam. Bố ở chơi một ngày rồi trở về Hà nội. Lúc bố về em có tặng bố cái radio-cassette của anh cho ngày nào. Bố thích lắm, bố hứa sẽ đến thăm anh trong trại tù. Từ hồi trở ra Bắc dến giờ bố chưa liên lạc lại với em, và em cũng không có địa chỉ của bố ở ngoài ấy.
Tôi đọc thư lòng thấy phân vân, tôi cũng như em, không hình dung ra nổi bố tôi hình dáng mặt mũi ra sao, hai mươi mấy năm, tôi tưởng bố tôi đã chết.
Tháng 12 năm 77, tại trại cải tạo Sơn La, bố đến thăm tôi.
Đứng trong văn phòng viên sĩ quan trưởng trại một người đàn ông trung niên, tóc muối tiêu và gương mặt xương. Bộ áo quần dân sự khá thẳng thớm, và sự lễ phép của tên đại úy trưởng trại tiết lộ về địa vị không nhỏ của người này. Thấy tôi vào, viên trưởng trại quay qua nói nhỏ một câu gì đó rồi bước ra ngoài. Tôi im lặng đứng nhìn người đàn ông xa lạ.
Bố đến bắt tay tôi, tự xưng tên mình, bố gọi tôi bằng anh, bố kể là đã gặp em ở Phan rang, bố hỏi tôi học tập thế nào, bố không hề nhắc đến mẹ, có lẽ ông đã biết về cái chết của mẹ. Bố nói là có đọc văn tôi. Tôi ngồi yên nghe bố nói, sau cùng, bố đứng dậy, móc trong xách ra một gói nhỏ bảo đó là đường và thuốc lá, trao cho tôi, khuyên tôi cố gắng học tập tốt để sớm được khoan hồng. Tôi nhìn vào mắt bố, lòng thấy dửng dưng. Tôi bắt tay bố rồi về lại lán mình.
Đó, cuộc hội ngộ của bố con tôi sau hơn hai mươi năm là thế đấy. Chắc cuộc tái ngộ giữa bố với em cũng tẻ nhạt như thế. Có cái gì đó ngăn cách, có cái gì đó phân chia, có cái gì đó tôi không hiểu và không diễn tả được. Bây giờ tôi hiểu vì sao cái tin quan trọng đến thế mà em lại chỉ đề cập một cách ngắn ngủi ở cuối thư.
Lần đó là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi gặp bố trong suốt 13 năm lang thang trong các trại tù biệt giam miền Bắc.
Tháng 12/78, chuyển trại lên Yên Bái, tôi nhận thêm được hai lá thư của em, trong bức thư gần nhất, em viết vào tháng 8/78. Em cho hay tình trạng rất khó khăn, phụ cấp đi dạy không đủ nuôi một mẹ già và bốn con thơ, em đã bán lần mòn hết những đồ trang sức và luôn cả những đồ vật trong nhà. Em vẫn chưa đi thăm nuôi Tuấn được một lần nào. Không thể để bốn cháu nhỏ ở nhà cho bà nội vì cụ bây giờ đã quá yếu, mỗi buổi ăn, Uyên, cháu lớn phải đút cho bà. Ngoài ra, mỗi tối, từ lúc chạng vạng em và Hoàng, hai mẹ con phải ra đầu ngõ, ngồi bán bắp nướng đến khuya để kiếm thêm tiền đong gạo. Em than là dạo này mất ngủ, sức khỏe yếu lắm, em sợ nhỡ có mệnh hệ nào...
Tôi thẫn thờ cả buổi vì bức thư em, ngày xưa tôi chỉ lo cho có mỗi mình em, còn bây giờ em phải lo cho bốn đứa con thơ và một mẹ già, kể luôn người chồng và ông anh đang tù tội là bảy, bảy cây thập giá đời đang đè nặng lên đôi vai gầy guộc, nhỏ bé của em. Tôi viết thư về an ủi, khuyên em cố gắng, tôi vỗ về em là có thể Tuấn sẽ được tha về sớm với em, với cháu, vì Tuấn đi hải quân và lon còn thấp, không có tội với cách mạng nhiều. Rồi tôi viết thêm cho em hai ba lá thư nửa mà vẫn không thấy hồi âm.. Lòng tôi cồn cào, nóng như lửa đốt, những ngày dài tù tội, tôi không nghĩ đến cái đói, cái khổ của mình mà chỉ nghĩ đến em và mấy cháu, không biết giờ này, em và bốn cháu thơ dại đang có gì ăn?
Tháng 6/79, một sáng trên đường lên rừng đốn nứa, tôi nghe loáng thoáng câu chuyện giữa các bạn tù. Họ nghe từ các bà vợ đi thăm nuôi kể lại, rằng ở Phan Rang có một chị có chồng đang đi cải tạo, chị chết đi, để lại bốn con thơ, đứa bé nhất mới lên ba, còn đứa lớn nhất chưa đầy chín tuổi. Tội nghiệp, họ hàng nội ngoại không có một ai. Tôi bỗng dưng thấy lạnh toát cả sống lưng, lại gần hỏi thêm thì người bạn tù cho hay là nghe nói chị ấy làm nghề cô giáo, có chồng sĩ quan hải quân đang đi tù cải tạo ở đâu đó trong Nam. Người chồng, trung úy hải quân trước cũng đóng ở Phan Rang. Trần Nguyên Tuấn, hải quân trung úy Trần nguyên Tuấn.
Tôi thấy đất trời đảo lộn, tôi thấy mặt trời nổ tung trong óc, tôi hụt hơi, miệng há hốc đứng như trời trồng giữa núi rừng Yên Bái, bên cạnh tôi tiếng người nói lao xao. Tôi không nghe gì hết, tai tôi lùng bùng, mắt tôi mờ đi, tôi đang nhìn thấy xác em nằm co quắp trên manh chiếu, bốn đứa cháu của tôi, cháu Minh Tâm chưa đầy ba tuổi đang lấy tay lay lay xác mẹ, cháu lớn Thu Uyên chưa đủ chín tuổi đang ôm chân mẹ khóc lóc ủ ê, hai đứa kia, Hoàng và Châu ngơ ngác đứng nhìn. Trời tháng 6 mùa hè Yên bái mà sao tôi thấy thân mình lạnh buốt. Tôi tê dại, tôi hóa đá, tôi không còn cảm xúc, tôi muốn hét lên cho tan vỡ cả vũ trụ này. Trong lung linh màu nắng vàng buổi trưa Yên Bái, tôi thấy bóng em nhập nhòa, chập chờn. Em của tôi, đứa em côi cút của tôi...
Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du...
Phan Nhật Nam

Thanked by 2 Members:

#7 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 05/02/2019 - 17:18

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

tuphuongsg, on 21/11/2018 - 19:54, said:

EM TÔI
****
Năm em lên ba, bố tôi bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ lên đường tập kết.
Tôi hơn em sáu tuổi. Chín tuổi con nhà nghèo khôn lắm, tôi đủ khôn để thấy khuôn mặt mẹ buồn hiu hắt, những tiếng thở dài và những giọt nước mắt âm thầm của mẹ trong đêm. Chín tuổi, tôi đã biết mình là người nam độc nhất trong gia đình, đã biết ẵm bồng đút cơm cho em và vỗ về em mỗi khi em khóc. Chín tuổi, tôi đã biết tắm rửa, thay áo thay quần cho em, cõng em đi chơi và dỗ cho em ngủ. Mỗi ngày, trời sập tối mẹ mới gánh hàng về, ba mẹ con ngồi ăn cơm bên ngọn đèn dầu, tôi và em hỏi han, an ủi mẹ. Mẹ kể cho chúng tôi nghe chuyện chợ búa như đang nói chuyện với người lớn, tôi ngồi nghe, nhìn đôi vai gầy của mẹ, nhìn mái tóc và đôi bàn tay khô của mẹ, mà thấy thương mẹ vô cùng.

Tôi phải bỏ học ở nhà hai năm để trông chừng em. Mẹ có một sạp bán rau cải ở chợ Cồn. Gọi là sạp chứ thực ra chỉ là một ô đất nhỏ, sáng mẹ ra đi thật sớm, lúc trời còn mờ sương, buổi trưa mẹ về nhà lo cho chúng tôi ăn, nằm nghỉ ít phút rồi trở dậy sửa soạn cho chuyến chợ chiều. Một tuần bảy ngày, mẹ đi đi về về trong nỗi cô đơn.
Năm em vừa tròn năm tuổi thì mẹ cho em vào mẫu giáo, tôi cũng trở lại trường, đám bạn cũ của tôi nay đã hơn tôi hai lớp, ngồi xung quanh tôi bây giờ là những khuôn mặt lạ, kém tôi hai, ba tuổi. Tôi là học trò lớn nhất và học khá nên được làm trưởng lớp. Gần cuối năm học lớp nhì, tôi nói với mẹ lên xin thầy Hiệu Trưởng cho tôi được thi nhảy tiểu học. Thầy bằng lòng. Tôi cắm cúi học luyện thi và kết qủa là tôi đã đổ được bằng tiểu học năm đó.
Vào lớp đệ thất trường Phan Châu Trinh, tôi tiếp tục học ngày, học đêm, năm đệ ngũ tôi thi nhảy một lần nữa lấy bằng Trung học. Đến niên học đệ tam thì tôi đã bắt kịp đám bạn cũ, tôi hân hoan nhập bầy chung với đám bạn ngày xưa. Đây là giai đoạn mà tôi cần tiền để mua sách học và may thêm quần áo, thời tiểu học và trung học đệ nhất cấp thì mặc sao cũng được, nhưng bây giờ đã lên đệ nhị cấp rồi, đã bắt đầu biết đỏ mặt khi nhìn những đứa con gái trường nữ, thỉnh thoảng đã biết theo bạn tập uống cafe, phì phà điếu thuốc. Tiền mẹ cho không đủ, tôi bắt đầu công việc kèm trẻ tư gia để kiếm thêm tiền. Học trò của tôi là mấy cô cậu đệ thất đệ lục, nghĩa là cũng chỉ thua tôi vài tuổi.
Ba mẹ con tôi vẫn ngày ngày đi về căn nhà nhỏ, căn nhà vẫn không thay đổi một chút nào từ ngày bố bỏ mấy mẹ con để ra đi.
Hết năm đệ tam, tôi nộp đơn thi Tú Tài phần nhất. Tôi đậu bình thứ. Một lần nữa, mọi người ngạc nhiên, nhưng tôi biết sức học của mình, tôi biết mẹ buôn bán tảo tần, tôi thấy những năm tháng gần đây mẹ trở bệnh hoài, mỗi sáng mẹ lục đục dậy thật sớm nấu cơm để dành cho anh em tôi, rồi lặng lẽ mang đôi quang gánh lên vai, những tối ngồi trầm ngâm bên ánh đèn dầu nhìn anh em tôi học bài và những đêm khuya mẹ trở mình húng hắng ho. Tôi thương mẹ và em đến ứa nước mắt, và càng thương mẹ thương em, tôi càng học như điên, như cuồng. Tôi ước gì Bộ Giáo dục cho tôi thi hai bằng tú tài cùng một lúc. Nhìn mái tóc mẹ đã lớm chớm sợi bạc, nhìn lưng mẹ mỗi ngày mỗi như còng xuống, nhìn hai vai gầy của mẹ mà lòng quặn đau, và cứ thế, tôi vùi đầu vào sách vở...
Em đã bắt đầu tuổi lớn, đã bắt đầu tuổi mộng mơ con gái, đã bắt đầu bước vào "tuổi ngọc", nhưng tội nghiệp, biết nhà mình nghèo, biết mẹ mình buôn thúng bán bưng, biết anh mình vẫn chiều chiều đi kèm trẻ kiếm thêm tiền và cặm cụi học đốt giai đoạn cho chóng thành tài. Biết thế nên em ít khi nào xin mẹ, xin anh tiền may áo mới, hai chiếc áo dài trắng đủ cho em thay đổi. Em lớn lên thiếu tình của bố, nên tôi "quyền huynh thế phụ". Nhiều lúc nhìn mẹ, nhìn em, tôi vẫn không hiểu tại sao bố lại đành đoạn dứt áo ra đi.
Tôi thi đỗ Tú Tài toàn phần năm 18 tuổi, và ra Huế học Đại học Văn khoa. Mẹ ở một mình với em ở Đà Nẵng. Mỗi cuối tuần, tôi theo xe đò về thăm mẹ và em, đến sáng thứ hai trở lại trường. Ở Huế, tôi tiếp tục công việc kèm trẻ tư gia. Với số tiền nhỏ nhoi kiếm được, tôi phụ mẹ nuôi em.
Qua sinh nhật thứ 13 của em mấy tháng, một chiều mẹ bỏ buổi chợ, về nhà than nhức đầu, tưởng là cảm nhẹ, mẹ sai em cạo gió và nấu cho mẹ bát cháo hành. Khuya đó mẹ lên cơn sốt, lảm nhảm nói mê, sáng hôm sau em nghỉ học chở mẹ vào nhà thương và nhờ người nhắn tin ra cho tôi ở Huế.
Lật đật trở vào Đà Nẵng bằng chuyến xe đò chót. Trời tối đã lâu, không kịp ăn uống, từ bến xe tôi đi thẳng đến bệnh viện. Trong căn phòng nhỏ, dưới ánh đèn vàng mờ đục, mẹ nằm thiêm thiếp trên giường bệnh, còn em đang ngồi ngủ gà ngủ gật cạnh giường. Đứng yên lặng nhìn mẹ xanh xao bất động, và khuôn mặt thơ dại của em, trong giấc ngủ hai khóe mắt vẫn còn long lanh giọt lệ, tôi nghe lòng mình quặn thắt.
Đánh thức em dậy, em ngơ ngác dụi mắt vài giây. Nhận ra tôi, em nhào tới ôm chầm và òa lên khóc, em cho hay là từ lúc đưa mẹ vào đây, mẹ chỉ tỉnh lại một vài phút vào khoảng giữa trưa, sau đó mẹ hôn mê trở lại. Tôi an ủi em, rồi cùng em ra văn phòng bệnh viện. Cô y tá trực cho hay mẹ bị đứt một tĩnh mạch ở đầu. Tôi bàng hoàng như bị ai nện một nhát búa vào ngực. Cô y tá bùi ngùi nhìn em, đôi mắt xót xa.
Tối đó, anh em tôi cùng ở lại với mẹ, em mệt mỏi, nên chỉ một thoáng là đã ngủ say. Trong giấc ngủ mệt nhọc, thỉnh thoảng em ú ớ mẹ ơi, mẹ ơi rồi nức lên mấy tiếng. Tôi nghe như dao cắt trong lòng. Suốt đêm không ngủ, tôi cứ ngồi nhìn mẹ nằm im lìm và bên chân mẹ em ngủ chập chờn. Tôi tự nhủ thầm với mình đừng khóc, đừng khóc.... nhưng sao nước mắt vẫn cứ trào ra, một tay ve vuốt bàn tay xanh xao của mẹ, một tay nắm lấy bàn tay nhỏ bé của em, tôi để mặc cho hai dòng nước mắt chảy nhạt nhòa trên má.
Mẹ thở hơi cuối cùng lúc năm giờ sáng, mẹ không tỉnh lại để trăn trối với hai con một lời gì. Mẹ đi trong yên lặng. Tôi nắm bàn tay mẹ và thấy tay mẹ lạnh dần. Tôi đánh thức em dậy. Hai anh em hôn lên trán mẹ giã từ. Em vuốt mắt mẹ. Mắt mẹ nhắm hờ. Em ôm chặt hai tay mẹ, ủ vào lòng mình miệng kêu lên nho nhỏ: mẹ ơi, mẹ ơi... Em khóc lặng lẽ, áp mình vào ngực mẹ nước mắt em tuôn ràn rụa làm ướt đẫm cả vạt áo me bạc màu. Những tiếng kêu nghẹn ngào của em như những viên đạn bắn thẳng vào tim, tôi ngồi bất động nhìn mẹ, nhìn em, lòng đau như muối xát. Tội nghiệp mẹ tôi, tội nghiệp em tôi. Em mới mười ba tuổi...
Chôn mẹ xong, tôi bỏ học. Còn lòng dạ nào mà học nửa. Nhưng em thì phải trở lại trường.
Bán đi căn nhà nhỏ xiêu vẹo và gom tóm tất cả vốn liếng của mẹ để lại, tôi đưa hết số tiền cho mẹ của Minh, một người bạn thân tôi. Minh có Hân, cô em gái cùng tuổi, cùng lớp với em. Tôi gửi em đến đó ở và đi học với Hân, cũng may, bố mẹ Minh coi anh em tôi như con. Tôi dặn dò em đủ điều. Số tiền tôi gởi cho mẹ Minh đủ để trả tiền ăn ở của em trong hai ba năm. Tôi còn đưa thêm cho em một ít để em mua sách vở, may áo quần, tiêu vặt. Tôi ôm em và hứa với lòng, hứa với vong hồn mẹ là sẽ lo lắng, sẽ bảo bọc em cho đến trọn đời.
Tôi vào trường Võ Bị Đà Lạt năm 20 tuổi, lương sinh viên sĩ quan ít ỏi, tôi tiết kiệm không dám xài nhiều, để dành gởi về cho em mỗi tháng.. Tôi dặn em viết thư mỗi tuần kể cho tôi nghe chuyện học hành. Tôi bắt em hứa là không bao giờ dấu tôi một điều gì dù nhỏ bé. Em ngoan ngoãn vâng lời. Mỗi năm tôi được về phép một lần, hai anh em quấn quýt không rời. Tôi đưa em đi thăm mẹ. Chúng tôi lặng yên cầm tay nhau quỳ bên mộ mẹ, nước mắt lưng tròng.
Em lớn lên và ngày càng giống mẹ. Cũng khuôn mặt và cái nhìn nhẫn nhục, cũng đôi mắt xa xăm buồn hiu hắt. Bình thường em rất ít nói, có lẽ không cha, mồ côi mẹ quá sớm và anh lại ở xa đã làm em rụt rè. Cũng may, bên cạnh em vẫn còn có Hân. Lễ mãn khóa của tôi, em và Hân cùng lên tham dự, lúc này, em đã thi đổ vào trường Sư Phạm Qui Nhơn, hai năm nửa em sẽ trở thành cô giáo, tôi hãnh diện giới thiệu em và Hân với các bạn mình. Nhìn dáng em thẹn thùng e ấp, tôi thấy lòng mình rạt rào thương em. Tôi thầm gọi mẹ, mẹ ơi, hai con của mẹ đã trưởng thành và đã nên người.
Ra trường, tôi chọn binh chủng nhảy dù, có lẽ cũng chỉ vì tôi thích màu mũ đỏ. Em vào học và ở nội trú trong trường sư phạm. Tôi thấy mình yên tâm hơn. Mỗi tháng, tôi vẫn gửi về cho em một nửa tiền lương lính của mình để trả tiền phòng, tiền ăn. Tôi biết con gái cần nhiều thứ hơn con trai, như áo quần, son phấn... Em vẫn viết thư cho tôi mỗi tuần như em đã làm trong mấy năm qua. Em kể chuyện học hành, chuyện bạn bè, em lo sợ là tôi đi tác chiến nhỡ có ngày bố con gặp nhau ở chiến trường, làm sao nhận ra nhau, em không nói thêm, nhưng tôi cũng hiểu, tên đạn vô tình, nếu nhỡ.
Hai năm em học Sư Phạm trôi qua thật nhanh. Em bây giờ đã là một cô giáo trẻ. Em được đổi về dạy tại một trường tiểu học gần thị xã Phan Rang. Em thuê nhà chung với hai cô giáo khác. Mỗi ngày ba cô giáo ngồi xe lam đi đến lớp, chiều về cả ba cùng quây quần nấu nướng. Em viết thư cho tôi và khoe có quen với Tuấn, một Sĩ quan Hải quân đồn trú ở Phan rang. Em khen Tuấn hiền lành, ít nói. Em kể thêm là Tuấn chỉ còn có mỗi một mẹ già.
Chiến tranh ngày thêm khốc liệt, đơn vị tôi hành quân liên miên, có khi cả năm chúng tôi mới được về hậu cứ một lần. Tôi bị thương hai lần trong cùng một năm. Tôi dấu em, không cho em biết sợ em lo lắng. Trong những tuần lễ nằm bệnh viện và ở hậu cứ dưỡng thương, tôi bắt đầu viết bài đăng trên các báo và tạp chí. Tôi kể lại những trận đụng độ kinh hoàng giữa đơn vị tôi và giặc Cộng, tôi kể lại những "kỳ tích " của bạn tôi, của Mễ, của Lô....
Sau một lần bị thương nhẹ ở tay, tôi lấy mấy ngày phép ra Phan Rang thăm em. Em mừng rỡ ôm lấy anh, nhưng khi thấy cánh tay băng bột em xót xa bật khóc. Tôi an ủi em là biết đâu sau chuyến bị thương này tôi sẽ được về làm việc hậu cứ. Ngày hôm sau, nghe tin, Tuấn đến thăm. Thoạt nhìn, tôi đã có cảm tình với Tuấn, đúng như em nói, Tuấn trông rất hiền lành. Trong suốt tuần lễ ở Phan rang, em vẫn phải đi dạy, nhưng may là có Tuấn, mỗi ngày Tuấn tới chở tôi đi ăn sáng, trưa Tuấn và tôi lang thang ra chợ bạ gì ăn đó đợi giờ ba cô giáo đi dạy học về. Buổi tối, em đi ngủ sớm, Tuấn ngồi lại nói chuyện với tôi cho tới khuya. Bên ly cafe, tôi kể cho Tuấn nghe chuyện của mình. Những hình ảnh yêu dấu, xót xa như một cuộn phim củ quay chầm chậm. Tôi rưng rưng kể lại ngày mẹ mất. Tuấn lấy tay chùi mắt, trong đêm tối, tôi thấy mắt Tuấn long lanh...
Bảy ngày phép cũng trôi nhanh. Tôi trở về Saigòn, lòng cảm thấy vui và nhẹ nhàng vì đã có dịp gặp Tuấn. Tôi tin Tuấn sẽ không làm khổ em. Ba tuần sau, tôi nhận được thư Tuấn, trong thư Tuấn kể về gia đình (mặc dù tôi đã nghe em kể trong các lá thư). Tuấn muốn tiến tới với em. Tuấn xin phép được đưa mẹ Tuấn đến gặp tôi. Tuấn hứa là sẽ săn sóc và thương yêu em. Đọc thư Tuấn tôi ứa nước mắt vì mừng. Mừng cho em may mắn không gặp những trắc trở trên đường tình ái, mừng cho em gặp được một người chồng hiền hậu. Tôi viết thư cho em và Tuấn, bảo hai em lo thế nào cho tiện, chỉ cố làm sao cho giản đơn vì cả hai đứa cùng nghèo.
Bốn tháng sau, Tuấn và em làm đám cưới, nhà gái ngoài tôi còn có thêm mấy thằng bạn trong đơn vị, ông hiệu trưởng, thầy cô giáo và rất đông học trò. Nhà trai ngoài mẹ Tuấn, mấy gia đình anh chị họ còn thêm một số bạn bè Hải quân cùng đơn vị. Nhìn em xúng xính trong bộ đồ cưới, tươi cười đứng bên cạnh Tuấn, tôi gọi thầm mẹ ơi, mẹ ơi, về đây dự đám cưới của em.
Tôi theo đơn vị lội thêm hai năm nửa ở vùng giới tuyến, thì "tai nạn" xảy ra. Trong một lúc nóng giận vì thấy ông xếp của mình sao ngu và bẩn quá, tôi không giữ được lời và đã xúc phạm đến ông, kết qủa là tôi bị đưa ra hội đồng kỷ luật và tống ra khỏi binh chủng nhảy dù.
Sau một thời gian ba chìm bảy nổi, tôi đổi về cục Tâm lý Chiến, thời gian này tôi đã khá nổi tiếng, những bút ký chiến trường về Tết Mậu Thân, Bình Long. An Lộc... đã làm vinh danh binh chủng củ của tôi. Tôi được giải thưởng văn học với bút ký "Mùa Hè Đỏ Lửa". Tiền thưởng và tiền bán sách tôi gửi hết cho em. Tuấn và em dùng tiền này mua được một căn nhà nhỏ ở ngoại ô Phan rang, gần trường em dạy.
Mới ngày nào đó còn thẹn thùng nấp bên vai Tuấn mà bây giờ em đã mấy con. Mỗi dịp rảnh rỗi, tôi lại ra Phan rang ở chơi với em, với cháu. Tôi ôm cháu, hôn vào hai má phúng phính, hít vào phổi mùi thơm của trẻ thơ mà thấy lòng mình dịu lại, những cay đắng, cực nhọc của đời theo tiếng cười lanh lảnh giòn tan của cháu mà bay xa, bay xa. Tôi nhìn hai vợ chồng em, nhìn bầy cháu nhỏ lẫm chẫm quây quần bên chân mẹ mà lòng vừa vui mừng vừa hãnh diện. Tôi ao ước mẹ tôi nhìn thấy được cảnh này.
Biến cố tháng 4 /75 tới như một định mệnh oan nghiệt, cả Tuấn và tôi đều phải ra trình diện cải tạo. Em ở lại một mình với một bầy con nhỏ, đứa lớn nhất chưa đầy sáu tuổi và đứa nhỏ nhất còn nằm trong bụng mẹ. Trong trại, tôi cứ đứt ruột nghĩ về em và bầy cháu nhỏ. Mẹ của Tuấn đã quá già, làm sao lo phụ với em đây. Rồi em còn phải lo lắng về số phận chồng, số phận anh. Tôi quay quắt như ngồi trên đống lửa, tôi nghĩ đến lời hứa với vong hồn mẹ hôm nào mà lòng đau như xé, con đã thất hứa với mẹ, mẹ ơi, con đang ở đây tù tội thì làm sao lo được cho em...
Năm 76 tôi bị đưa ra Bắc. Tôi mất liên lạc với em và Tuấn từ tháng 5/75. Làm sao em biết tôi ở đâu mà thư từ thăm gửi. Không biết em có biết Tuấn ở đâu không, trại tù mọc lên như nấm từ Nam ra Bắc. Hồi còn ở trong Nam, từ Trảng lớn, qua Suối máu, đâu đâu tôi cũng cố dò hỏi tin Tuấn nhưng vô hiệu. Tù nhân đông quá....
Trại cải tạo Sơn La, sau đợt cho viết thư về gia đình đầu tiên, ba tháng sau tôi nhận được thư em. Thư em đến tay tôi vào giữa năm 77. Hơn 2 năm 1 tháng tôi mới nhìn lại nét chữ của em. Run run bóc thư, mắt tôi cay nồng, nhạt nhòa. Em cho hay là Tuấn đang cải tạo ở Long Thành, Tuấn có thư về và cho biết vẫn bình an, mẹ Tuấn dạo này yếu lắm vì cụ đã quá già, em vẫn đi dạy, hai cháu nhỏ ở nhà với bà nội, hai cháu lớn theo mẹ vào trường, em cho hay đứa con gái út em đặt tên Tâm, Trần thị Minh Tâm, cháu sinh ngày 12 tháng 9 năm 75, gần 4 tháng sau ngày bố cháu và bác cháu vào tù.
Gần cuối thư, em báo tin là bố còn sống và hồi đầu năm 76 có tìm đến gặp em, làm sao bố tìm ra địa chỉ thì em không biết, nhưng hôm ấy bố đến, bố tự giới thiệu tên mình. Em ngỡ ngàng, ngày bố ra đi em mới tròn ba tuổi, hơn hai mươi năm sau gặp lại làm sao em nhận được, bố xoa đầu đám cháu ngoại đang trố mắt nhìn người đàn ông lạ, bố hỏi về anh, về Tuấn, khi em hỏi lại bố là làm sao để biết anh và Tuấn đang bị giam giữ ở trại cải tạo nào, bố lắc đầu không nói gì. Bố cho hay là bố đang có gia đình ở Bắc, ngoài ấy bố có thêm hai trai và hai gái. Đứa trai lớn nhất thua em bốn tuổi.
Bố mang vào cho em hai mươi ký gạo và một chục cam. Bố ở chơi một ngày rồi trở về Hà nội. Lúc bố về em có tặng bố cái radio-cassette của anh cho ngày nào. Bố thích lắm, bố hứa sẽ đến thăm anh trong trại tù. Từ hồi trở ra Bắc dến giờ bố chưa liên lạc lại với em, và em cũng không có địa chỉ của bố ở ngoài ấy.
Tôi đọc thư lòng thấy phân vân, tôi cũng như em, không hình dung ra nổi bố tôi hình dáng mặt mũi ra sao, hai mươi mấy năm, tôi tưởng bố tôi đã chết.
Tháng 12 năm 77, tại trại cải tạo Sơn La, bố đến thăm tôi.
Đứng trong văn phòng viên sĩ quan trưởng trại một người đàn ông trung niên, tóc muối tiêu và gương mặt xương. Bộ áo quần dân sự khá thẳng thớm, và sự lễ phép của tên đại úy trưởng trại tiết lộ về địa vị không nhỏ của người này. Thấy tôi vào, viên trưởng trại quay qua nói nhỏ một câu gì đó rồi bước ra ngoài. Tôi im lặng đứng nhìn người đàn ông xa lạ.
Bố đến bắt tay tôi, tự xưng tên mình, bố gọi tôi bằng anh, bố kể là đã gặp em ở Phan rang, bố hỏi tôi học tập thế nào, bố không hề nhắc đến mẹ, có lẽ ông đã biết về cái chết của mẹ. Bố nói là có đọc văn tôi. Tôi ngồi yên nghe bố nói, sau cùng, bố đứng dậy, móc trong xách ra một gói nhỏ bảo đó là đường và thuốc lá, trao cho tôi, khuyên tôi cố gắng học tập tốt để sớm được khoan hồng. Tôi nhìn vào mắt bố, lòng thấy dửng dưng. Tôi bắt tay bố rồi về lại lán mình.
Đó, cuộc hội ngộ của bố con tôi sau hơn hai mươi năm là thế đấy. Chắc cuộc tái ngộ giữa bố với em cũng tẻ nhạt như thế. Có cái gì đó ngăn cách, có cái gì đó phân chia, có cái gì đó tôi không hiểu và không diễn tả được. Bây giờ tôi hiểu vì sao cái tin quan trọng đến thế mà em lại chỉ đề cập một cách ngắn ngủi ở cuối thư.
Lần đó là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi gặp bố trong suốt 13 năm lang thang trong các trại tù biệt giam miền Bắc.
Tháng 12/78, chuyển trại lên Yên Bái, tôi nhận thêm được hai lá thư của em, trong bức thư gần nhất, em viết vào tháng 8/78. Em cho hay tình trạng rất khó khăn, phụ cấp đi dạy không đủ nuôi một mẹ già và bốn con thơ, em đã bán lần mòn hết những đồ trang sức và luôn cả những đồ vật trong nhà. Em vẫn chưa đi thăm nuôi Tuấn được một lần nào. Không thể để bốn cháu nhỏ ở nhà cho bà nội vì cụ bây giờ đã quá yếu, mỗi buổi ăn, Uyên, cháu lớn phải đút cho bà. Ngoài ra, mỗi tối, từ lúc chạng vạng em và Hoàng, hai mẹ con phải ra đầu ngõ, ngồi bán bắp nướng đến khuya để kiếm thêm tiền đong gạo. Em than là dạo này mất ngủ, sức khỏe yếu lắm, em sợ nhỡ có mệnh hệ nào...
Tôi thẫn thờ cả buổi vì bức thư em, ngày xưa tôi chỉ lo cho có mỗi mình em, còn bây giờ em phải lo cho bốn đứa con thơ và một mẹ già, kể luôn người chồng và ông anh đang tù tội là bảy, bảy cây thập giá đời đang đè nặng lên đôi vai gầy guộc, nhỏ bé của em. Tôi viết thư về an ủi, khuyên em cố gắng, tôi vỗ về em là có thể Tuấn sẽ được tha về sớm với em, với cháu, vì Tuấn đi hải quân và lon còn thấp, không có tội với cách mạng nhiều. Rồi tôi viết thêm cho em hai ba lá thư nửa mà vẫn không thấy hồi âm.. Lòng tôi cồn cào, nóng như lửa đốt, những ngày dài tù tội, tôi không nghĩ đến cái đói, cái khổ của mình mà chỉ nghĩ đến em và mấy cháu, không biết giờ này, em và bốn cháu thơ dại đang có gì ăn?
Tháng 6/79, một sáng trên đường lên rừng đốn nứa, tôi nghe loáng thoáng câu chuyện giữa các bạn tù. Họ nghe từ các bà vợ đi thăm nuôi kể lại, rằng ở Phan Rang có một chị có chồng đang đi cải tạo, chị chết đi, để lại bốn con thơ, đứa bé nhất mới lên ba, còn đứa lớn nhất chưa đầy chín tuổi. Tội nghiệp, họ hàng nội ngoại không có một ai. Tôi bỗng dưng thấy lạnh toát cả sống lưng, lại gần hỏi thêm thì người bạn tù cho hay là nghe nói chị ấy làm nghề cô giáo, có chồng sĩ quan hải quân đang đi tù cải tạo ở đâu đó trong Nam. Người chồng, trung úy hải quân trước cũng đóng ở Phan Rang. Trần Nguyên Tuấn, hải quân trung úy Trần nguyên Tuấn.
Tôi thấy đất trời đảo lộn, tôi thấy mặt trời nổ tung trong óc, tôi hụt hơi, miệng há hốc đứng như trời trồng giữa núi rừng Yên Bái, bên cạnh tôi tiếng người nói lao xao. Tôi không nghe gì hết, tai tôi lùng bùng, mắt tôi mờ đi, tôi đang nhìn thấy xác em nằm co quắp trên manh chiếu, bốn đứa cháu của tôi, cháu Minh Tâm chưa đầy ba tuổi đang lấy tay lay lay xác mẹ, cháu lớn Thu Uyên chưa đủ chín tuổi đang ôm chân mẹ khóc lóc ủ ê, hai đứa kia, Hoàng và Châu ngơ ngác đứng nhìn. Trời tháng 6 mùa hè Yên bái mà sao tôi thấy thân mình lạnh buốt. Tôi tê dại, tôi hóa đá, tôi không còn cảm xúc, tôi muốn hét lên cho tan vỡ cả vũ trụ này. Trong lung linh màu nắng vàng buổi trưa Yên Bái, tôi thấy bóng em nhập nhòa, chập chờn. Em của tôi, đứa em côi cút của tôi...
Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du...
Phan Nhật Nam

Nguồn: Fb Lâm Nguyễn:
Hôm nay, biết rõ tin tức về những đứa con của O Bé, Phan Thị Phương Khanh, mình mới dám chia sẻ câu chuyện này. Mình cũng có trong tay hai tấm hình của hai vợ chồng O Bé. Họ trẻ trung và rất dễ thương. Nhân vật trung uý Hải quân trong chuyện, chồng O Bé, ngoài đời là phó quận trưởng TQC ở Kon Tum và Gia Định. Theo mình biết, thời đó tốt nghiệp tường Quốc gia Hành chính ra, thấp nhất cũng phải là quận phó.
Tác giả của bài này: Lang Le. (Viết dựa theo cuộc đời và bài thơ "Bé" trong tập thơ "Đêm Tận Thất Thanh" của nhà văn Phan Nhật Nam), Lang Le đã viết thành câu chuyện với một vài chi tiết thay đổi so với đời thực, ví dụ về nhân thân chồng O Bé. Điều quan trọng đây là một cảnh đời có thực thời hậu chiến. Đọc để hiểu và biết thêm về một giai đoạn trong lịch sử.

Sửa bởi tuphuongsg: 05/02/2019 - 17:22


Thanked by 2 Members:

#8 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 05/02/2019 - 17:33

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·
THƯ KÝ CỦA THIÊN THẦN
Tôi đến thị xã Ban Mê Thuột vào một buổi chiều đầu mùa khô năm 1977. Gió bụi của miền cao nguyên đất đỏ làm tôi tối mắt sau một chuyến đi dài trên chiếc xe đò cọc cạch. Để mặc cho anh Chu Sơn – chồng tôi, loay hoay với mấy túi áo quần, sách vở. Bước xuống xe, tôi chỉ còn đủ sức ngồi bệt trên đám cỏ bên vệ đường. Đất đỏ, cỏ úa và bầu trời buổi chiều xám xịt. Đất trời Ban Mê Thuột buổi đầu giao tiếp đối với tôi chẳng thú vị gì.
Nơi tôi làm việc là khoa nhi bệnh viện tỉnh Daklak. Đây là một đấu trường quá sức với tôi. Cảm nhận lúc đầu là như thế. Khoa có 50 giường bệnh, bệnh nhân nằm la liệt hai ba em trên một giường. Những chiếc giường sắt tây cũ rét, cái mất song, cái gãy chân kê đóng khập khểnh. Mền chiếu đen điu, tả tơi rách nát. Nhân viên của khoa vỏn vẹn có 10 người. Một trưởng khoa, một bác sĩ điều trị, sáu y tá và hai hộ lý (y công). Trưởng khoa là chị Liên, y sĩ từ chiến khu về. Bác sĩ điều trị là một đại úy quân y lưu dung, ông Nguyễn Hữu Thới. Sáu chị y tá là các chị: Hoa, Hà, Toan, Ri, Kính và H'Băm làm nhiệm vụ điều dưỡng. Hai y công là chị Thái và chị Bé.
Bệnh viện tỉnh DakLak trước 1975 nguyên là một bệnh viện dã chiến quân dân y. Sau 1975 phần quân y tách riêng để hình thành nên bệnh viện quân đội. Cơ sở hạ tầng của bệnh viện dã chiến quân dân y này trở thành cái vỏ của một bệnh viện đa khoa dành cho dân các huyện nông thôn của tỉnh Daklak (thị xã Ban Mê Thuột có một bệnh viên riêng: bệnh viện thị xã).
Ban Mê Thuột giải phóng từ tháng 3 năm 1975. Tôi lên nhận việc cuối tháng 3 – 1977. Hai năm giải phóng, vừa đủ để những dãy phòng cấp bốn trở thành cái vỏ chật chội, loang lỗ, xập xệ tối tăm của một cơ sở gọi là bệnh viện. Khoa nhi chiếm hai phòng cách nhau một hành lang hẹp. Mỗi phòng có một bóng đèn huỳnh quang ở giữa, hai đầu là hai bóng đèn tròn 100 watts tù mù vàng vọt khi có điện. Khi không có điện thì bà con người dân tộc thiểu số, người kinh tế mới thắp sáng bằng bất cứ thứ gì kiếm được. Nước thì khi có khi không. Bà con người dân tộc thiểu số đun nhét cả vỏ, cùi bắp, lá lảy, dẻ rách xuống miệng cầu xí. Hai chị y công làm việc đầu tắt, mặt tối mà không khí của khoa phòng vẫn nặng nề khó chịu.
Y cụ thì không có gì ngoài hai bình oxy rỉ rét, mấy cái máy đo huyết áp xì hơi, kim tiêm thì phải mài đi mài lại trên các viên đá, khi chích các em khóc thét lên và lòng chúng tôi thì như bị cứa bởi lưỡi dao cùn.
Bệnh nhân của chúng tôi đa phần đến từ các buôn làng người dân tộc thiểu số, các khu dinh điền cũ (được thành lập thời Ngô Đình Diệm) và vùng kinh tế mới.
Hầu hết các em bị suy dinh dưỡng và mắc các bệnh lây nhiễm. Da các em bủng beo, xanh tái, lớp mỡ dưới da hầu như không còn, trên da đầy mụt nhọt, chốc lở và vết cắn thâm tím của muỗi mòng, vắt, đỉa.
Theo sự sắp xếp của lãnh đạo bệnh viện, tôi đến khoa nhi để thay thế bác sĩ Nguyễn Hữu Thới. Bác sĩ Thới sẽ chuyển đến trạm chống lao. Một tuần lễ làm việc dưới sự hướng dẫn của người bác sĩ tiền nhiệm đối với tôi là một cuộc chuyển giao tận tụy giữa hai thầy trò. Ông sợ tôi không đủ sức để đương đầu với một nhiệm vụ quá ư nặng nề. Ông bảo tôi nhanh chóng học tiếng và phong tục tập quán của người dân tộc thiểu số. Qua ông tôi còn học được tính kiên nhẫn, khiêm tốn, lòng yêu nghề, tinh thần lạc quan, tình yêu con người và cuộc sống. Ông đã rời khoa nhi đúng một tuần lễ sau khi tôi đến, nhưng trừ những ngày nghỉ theo qui định hành chánh, những lúc ốm đau hay những trường hợp bất thường, ngày nào ông cũng trở lại khoa nhi suốt ba năm tôi làm việc tại đó. Vợ ông – chị cán sự Bê đang làm việc tại khoa lây (khoa truyền nhiễm). Buổi sáng ông chở vợ đi làm, buổi chiều ông đến đón vợ trên chiếc xe đạp. Ông không chờ vợ ở khoa lây mà chờ vợ ở khoa nhi. Mục đích của ông là để xem tôi có hỏi gì không, và mặc nhiên ông trở thành người cố vấn tự nguyện cho tôi suốt hơn ba năm tôi ở khoa nhi bệnh viện tỉnh Daklak. Đối với ông làm việc ở trạm chống lao là một hình phạt nặng nề. Ở trạm chống lao ông trở nên người nhàn hạ. Ông và cả tôi nữa không hiểu vì lý do gì một bác sĩ chuyên nhi như ông lại bị trói tay trói chân ở trạm chống lao trước tình trạng khoa nhi và cả bệnh viện tỉnh Daklak la liệt bệnh nhân mà bác sĩ chỉ đếm được chưa hết mười ngón tay trên hai bàn tay.
Mỗi buổi chiều khi chị Bê vợ ông xong việc ở khoa lây, đến khoa nhi để ông chở về, tôi nhận ra niềm hân hoan trong mắt họ. Như thế là họ đã qua được một ngày bình yên để trở về với bốn đứa con đang chờ ở nhà.
Tôi rời khoa nhi bệnh viện tỉnh Daklak cuối năm 1980 khi không còn đủ sức để cầm cự. Tôi bị sốt rét, sinh con trai đầu, không có sữa. Chồng tôi, anh Chu Sơn bị lao phổi nặng, bác sĩ Thới điều trị. Chính ông đã khuyên chúng tôi nên nhanh chóng về đồng bằng để có điều kiện cách ly và có thêm dinh dưỡng là những điều kiện tối thiểu để chúng tôi tồn tại.
Chúng tôi về Đà Nẵng, không còn gặp bác sĩ Thới mỗi ngày tại khoa nhi, nhưng tin tức về ông tôi vẫn nhận được.
Ông trụ lại Ban Mê Thuột mặc dầu ông có điều kiện làm lại cuộc đời ở một nơi chốn khác. Tôi nhớ có lần ông đã tâm sự:
– “Mình con địa chủ, học trường Tây, lại là sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa, hơn thế nữa là trí thức. Địa chủ cộng với Tây, cộng với sĩ quan ng... q..., cộng với trí thức, cộng với Ê Đê, cộng với giải phóng, cộng với Xã hội Chủ nghĩa để trở thành người Việt Nam. Làm người Việt Nam mà không đói khát, không đau thương, không khổ nhục, chưa thực sự là người Việt Nam”.
Ôi, cái công thức, cái con đường gì mà đắng cay đến thế. Có đi hết những chặng đường như thế mới là người Việt Nam sao? Đối với riêng tôi, những lời của Nguyễn Hữu Thới là một liệu pháp giúp tôi vượt qua được những bi quan khiếp sợ trong những ngày đối đầu với bệnh tật và môi trường sống xã hội chủ nghĩa tại Ban Mê Thuột. Ông đích thực là người thầy thuốc mẫu mực, một con người lương thiện mà bất cứ một nền y tế, một đất nước bình thường nào cũng nhất thiết không nên rẻ rúng.
Mấy tháng sau khi về Đà Nẵng chồng tôi một lần trở lại Ban Mê Thuột, gặp lại bác sĩ Nguyễn Hữu Thới – người thầy thuốc đồng thời là người tri ngộ trong một đêm cùng nhau trăn trở, đã biết thêm một thông tin ngẫu nhĩ rằng: Nguyễn Hữu Thới là hậu duệ đời thứ mười hai của Nguyễn Hữu Cảnh, người mà 300 năm trước vâng mệnh của chúa Nguyễn đến lập đồn biên phòng ở Mố Xoài, nay thuộc tỉnh Đồng Nai.
Thông tin cuối cùng chúng tôi nhận trễ tại Đà Nẵng vào cuối năm 1994 rằng là bác sĩ Nguyễn Hữu Thới bị đột quỵ, cương quyết không chịu đi bệnh viện, đã qua đời ở cái tuổi chưa đến 60. Ông không còn đủ sức để đi tiếp con đường khổ nạn làm người Việt Nam mà ông đã vạch cho chính mình.
Rời Ban Mê Thuột tôi mang tâm trạng một người bỏ cuộc, chạy trốn. Nhẹ nhàng hơn tôi xem mình như người lính bị loại khỏi cuộc chiến mà mình đã dấn thân. Ba năm hai tháng bảy ngày ở khoa nhi bệnh viện tỉnh Daklak quả là một quãng thời gian đáng nhớ của một người thấy thuốc đến đúng cái nơi cần phải đến.
Nhưng điều đáng nhớ nhất của tôi chưa phải là “liệu pháp Nguyễn Hữu Thới” mà là “liệu pháp Hoàng Ngọc Châu”.
Hoàng Ngọc Châu đến bệnh viện vào một buổi chiều áp tết năm Mậu Ngọ (1978) trong tình trạng cấp cứu: Mặt mày Châu như một tàu lá héo, em khó thở, da xanh mướt, môi nhợt nhạt, mũi hếch, cánh mũi phập phùng, mắt lồi, đầu ngón tay ngón chân bè ra và tím tái. Việc chẩn đoán bệnh cho Châu không khó lắm vì các triệu chứng lâm sàng đã rõ ràng và khá đầy đủ. Em bị tim bẩm sinh: Một trường hợp thông liên thất đã đổi shunt và có biến chứng tăng áp phổi(1).
Chúng tôi nhanh chóng làm các thủ pháp cấp cứu, các thủ tục nhập viện và nói với người nhà (mẹ em) chuẩn bị tinh thần để em ở lại bệnh viện dài ngày.
Những ngày áp tết bệnh viện và khoa nhi giảm dần quan cảnh tấp nập. Các bệnh nhân nhẹ hay đã ổn định lần lượt cùng với thân nhân về quê lo Tết và ăn Tết. Nhân viên bệnh viện một số cũng “tranh thủ” về nhà để làm cái gì đó chuẩn bị các thứ...
Tôi lần đầu tiên đón tết xa nhà. Những thứ phân phối nhận được từ ban “đời sống” bệnh viện nhiều và khác lạ hơn ngày thường nhưng chúng tôi không đủ sức “lo Tết”. Ăn uống cũng rất cần cho tình trạng thiếu thốn dinh dưỡng như chúng tôi, nhưng nghỉ ngơi đối với riêng tôi lại cần thiết hơn rất nhiều. Trang hoàng nhà cửa, cúng kiến, nội ngoại, bạn bè nay đã xa không cần phải thăm hoặc tiếp bất cứ ai. Căn phòng nhỏ hẹp và tối do nhà nước cho ở hoàn toàn không thích hợp với một giò lan rừng do người cha của một bệnh nhân tặng.
Ba ngày Tết của hai vợ chồng “côi cút” chúng tôi là những lần đèo nhau trên chiếc xe đạp đi quanh các nơi cần mà chưa đến được trong thị xã. Chúng tôi không đủ sức đi xa hơn. Kết quả là được thở thoải mái hơn là thăm ngắm cảnh quan. Mỗi lần đi ra khỏi “phòng tiêu chuẩn” chúng tôi đều ghé khoa nhi. Hoàng Ngọc Châu và những em bệnh nặng khác trở thành đối tượng để tôi thăm Tết.
Đặc biệt mẹ con Hoàng Ngọc Châu là hai người nói tiếng Huế duy nhất trong số bệnh nhân của tôi lúc này. Châu đã qua cơn nguy cấp, tỏ ra liến thoắng, sinh động và ưa bắt chuyện. Qua câu chuyện ba ngày tết tôi biết quê cha của Châu là Hải Lăng, Quảng Trị, quê mẹ em là Huế, gia đình theo đạo Chúa, nghèo và đơn chiếc. Cha em là quân nhân của chế độ cũ, mẹ em là thợ may có một bàn máy đặt tại nhà với khách hàng là bà con quanh xóm.
Năm 1972, Châu 3 tuổi, gầy yếu xanh xao theo mẹ vào Huế trong “mùa hè đỏ lửa”. Hai mẹ con em trú tại nhà bà ngoại ở thôn Lịch Đợi, phía sau nhà ga Huế. Ba em là quân nhân, thường xuyên vắng nhà, theo đơn vị nay đây mai đó. Mẹ em bày một cái bàn nhỏ bán nước chè cho khách qua lại tại một góc trước sân ga để sống qua ngày.
Chiến tranh chấm dứt, ba em thôi làm lính, gia đình bé nhỏ của em rời nhà bà ngoại trở lại Hải Lăng sinh sống bằng nghề nông. Gia đình sum họp chưa được bao lâu, chính quyền địa phương đưa ba em đi học tập cải tạo ở Cồn Tiên, mẹ em tham gia hợp tác xã nông nghiệp. Do em bị đau ốm thường xuyên, mẹ phải ở nhà chăm sóc nên công điểm ở hợp tác xã chẳng được bao nhiêu, cuộc sống hai mẹ con trở nên cùng quẫn phải bồng bế nhau vào lại Huế nương nhờ bà ngoại. Việc bán nước chè ở trước ga Huế thu nhập không đủ để đóng góp cùng bà ngoại trong các nhu cầu đơn giản mà cấp thiết của ba người, một già yếu, một trẻ bệnh và một phụ nữ chân yếu tay mềm hết đường bương chải. Họ quyết định đi kinh tế mới theo chủ trương của nhà nước.
Phú Xuân, xã kinh tế mới cách quận lỵ Buôn Hồ 30 cây số, cách Ban Mê Thuột 70 cây số về phía đông bắc là quê hương bất đắc dĩ sau cùng của họ. Bởi phía sau họ còn có ba nơi để nghĩ tưởng và nhớ thương về, bà con đồng đạo, nhà thờ xứ và đặc biệt người đàn ông là cha, là chồng, là rể đang đi học tập cải tạo.
Ở xã kinh tế mới Phú Xuân bệnh tình của Châu ngày một nặng thêm. Bà ngoại trông nom cháu và đảm trách công việc: bếp núc, heo gà. Mẹ cháu, chị Sửu – một mình ra đồng giữa hai thời kiểng với hợp tác xã và đầu tắt mặt tối với mảnh đất vườn 1000m2 bao quanh nhà.
Châu phát bệnh nặng giữa đêm, không đợi được đến sáng để theo chuyến xe công nông duy nhất trong ngày ra huyện, chị Sửu phải gọi nhờ mấy người trong đội sản xuất thay nhau võng Châu đi suốt sáu bảy tiếng đồng hồ đường rừng ra bệnh viện Huyện. Bệnh viên Huyện Buôn Hồ điều trị mấy ngày không thuyên giảm, họ giới thiệu Châu lên bệnh viện Tỉnh Daklak.
Ở khoa nhi bệnh viện tỉnh Daklak, qua giai đoạn cấp cứu, Châu có vẻ khỏe hơn, ăn uống được tí chút. Một tuần sau em đi lại được, nói năng hoạt bát, ưa bắt chuyện, quan tâm nhiều thứ, thắc mắc nhiều điều, tỏ ra là một đứa trẻ thông minh. Tôi phải nhắc nhở cả hai mẹ con là nói nhiều không có lợi cho việc điều trị bệnh, em vâng lời nhưng chóng quên. Em chờ những lúc tôi rỗi tay là lân la hỏi hết chuyện này đến chuyện nọ. Có lần em hỏi tôi:
– Bác biết tiếng Tây phải không?
Tôi nhìn em thật lâu và hỏi lại:
– Con thắc mắc như thế để làm gì? Con cần biết điều gì phải không?
– Hôm trước con thấy bác nói chuyện với bác sĩ Thới toàn tiếng Tây không à(2).
– Ừ mà chuyện bác biết hay không biết tiếng Tây, con hỏi để làm gì.
– Ở với bà ngoại, con hay nghe bà hay nhắc đến Thánh Đường, Thánh Lễ La Vang. La Vang đối với ngoại và cả mẹ nữa vô cùng tôn kính và thiêng liêng. Con không hiểu hai từ La Vang là gì. Con đã hỏi mẹ và ngoại nhiều lần nhưng cũng chỉ được trả lời: đó là một nhà thờ rất to, rất thiêng. Một lần nào đó hồi xa xưa đức Mẹ đã hiện ra che chở cho người có đạo trước sự truy đuổi chém giết của người ngoại đạo. Ba con đi học tập. Mẹ và ngoại muốn đến đó để cầu xin Đức Mẹ cứu giúp cho Ba mau được thả về. Không đi được, đêm nào mẹ và ngoại cũng cầu nguyện, van xin Đức Mẹ La Vang cho ba được về, cho cháu được lành bệnh. Con không hiểu từ La Vang là gì? Có phải kêu to và vang xa hay la lối vang núi đồi như mấy người lớn ở quê mới giải thích không? Hay La Vang là tiếng Tây mà người mình vì dốt mà không hiểu được? Bác biết tiếng Tây, bác giảng cho con, con rất muốn nghe.
Tôi phân vân không biết giải thích thế nào cho em, đây là một vấn đề tôi đã trao đổi nhiều lần với cha Petitjean(3), người dạy pháp văn cho tôi. Tôi cố tóm tắt sao cho thật dễ hiểu.
– Theo bác La Vang không phải là tiếng Tây cũng không là tiếng Việt. Gốc của La Vang là lá vằng. Lá Vằng là loại cây mọc hoang trên núi đồi Quảng Trị, lá vằng là một loại cây thuốc mà ngày xưa các bà mẹ khi mang thai thường uống để sinh con có nước da hồng hào không viêm nhiễm. Lá vằng cũng dành cho các bà mẹ sau khi sinh uống để có sữa nhiều. Vì thương con nên các bà mẹ đã chịu khó uống thứ nước lá rất đắng này trong suốt một thời gian dài từ khi mang thai đến hết thời kỳ cho con bú. Thời vua Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn cách đây khoảng 220 năm, đạo Thiên Chúa bị đàn áp. Dân xứ đạo Cổ Vưu, (một xứ đạo cách thị xã Quảng Trị 1 cây số về phía Đông - Đông Bắc, cách thành phố Huế 60 cây số về phía Bắc) đã chạy trốn ở một ngôi chùa hay đình miếu gì đó đã hoang tàn giữa một đồi chung quanh có nhiều cây lá vằng. Cuộc sống khó khăn, đói khổ, bệnh tật, một đêm nào đó họ thấy đức mẹ Maria hiện ra ban phép lành và che chở họ. Nhờ vậy họ vượt qua hiểm nguy, bệnh tật và tuyệt vọng. Từ sau sự kiện Đức Mẹ hiện ra trên đồi lá vằng, địa danh này trở nên nổi tiếng trong cộng đồng người công giáo. Nhiều người, nhiều gia đình gặp tai ương hoạn nạn đã lên đó cầu xin để được tai qua nạn khỏi. Nhà thờ trên đồi lá vằng được xây dựng, sửa chữa, xây mới ngày một to lớn và đẹp đẽ.
Tôi nói chưa xong thì Hoàng Ngọc Châu nóng vội hỏi:
– Nhưng tại sao nhà thờ trên đồi lá vằng lại gọi là La Vang ?
Tôi lấy một đơn thuốc lật mặt sau viết lớn cùng trên một hàng bốn chữ: Lá Vằng – La Vang đưa cho Châu và bảo:
– Con hãy quan sát và nói cho bác nghe có gì giống nhau và khác nhau trong bốn chữ này.
Hoàng Ngọc Châu cầm tờ giấy nhìn và ngẫm nghĩ một lúc và trả lời:
– Lá Vằng có dấu sắc, dấu á, dấu huyền. La Vang không có dấu nào cả.
Tôi giải thích tiếp cho Châu:
– Tiếng Tây và chữ Tây không có các dấu huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng, chữ Tây cũng không có các âm ă, â. Người Tây quen nói và viết tiếng nước họ, khi họ nói và viết tiếng Việt họ thường nói sai và viết sai. Ví dụ chữ lá vằng họ nói và viết thành la vang. Tên con là Hoàng Ngọc Châu, họ viết và đọc là Hoang Ngoc Chau. Tên mẹ con là Sửu họ viết và đọc là Suu. Trong số những người dân Đạo chạy nạn Tây Sơn lên trốn trên đồi lá vằng chắc chắn có một ông cố đạo người Tây. Ông này nói không chuẩn tiếng Việt, lá vằng ông nói thành la vang. Dân có đạo mình rất kính phục, vâng lời tuyệt đối và hay bắt chước bất cứ thứ gì có thể bắt chước được từ các ông cố đạo suốt mấy trăm năm. La Vang hay Hoang Ngoc Chau hay Suu là ba trong rất nhiều ví dụ.
Hoàng Ngọc Châu chăm chú nghe ra vẻ bằng lòng với những lời giải đáp của tôi.
Tôi hỏi tiếp em:
– Thế con thích gọi nhà thờ La Vang hay nhà thờ Lá Vằng?
Châu trả lời nhanh và gọn:
– La Vang thì dễ nói hơn, Lá Vằng thì hay hơn.
Tôi chửng hững trước nhận xét dứt khoát của em. Đằng sau ánh mắt mệt mỏi, làn da xanh tái, những nhịp thở ngắn thiếu khí ấy tôi cảm nhận được những nét tinh anh, thánh thiện tồn tại như những tia nắng le lói đang tắt dần giữa bầu trời tối đen.
Sau Tết khoảng 10 ngày, thấy chị Sửu, mẹ Châu, đang loay hoay nấu nướng gì đó ở khu bếp dành riêng cho người nhà bệnh nhân, trở lại phòng, tôi bảo Châu:
– Mẹ con nấu nướng vất vả lắm, con gắng ăn nhiều cho mẹ vui. Châu cúi mặt, đưa tay chùi nước mắt và nói:
– Bác không biết mẹ con và bà ngoại cực khổ và thương con như thế nào đâu. Trước khi đi bệnh viện, con nghe được câu chuyện giữa mẹ và bà ngoại. Ba con đi học tập chưa về, con không biết hỏi ai để biết sự thật. Con nói với bác nhưng bác đừng nói lại với ai.
Châu vừa nói đến đó, thấy mẹ bưng cháo vào, em dừng lại, làm ra vui vẻ, nhận tô cháo từ tay chị Sửu, vừa thổi vừa ăn một cách ngon lành. Nét mặt người mẹ tươi hẳn lên, trông chị tràn đầy hạnh phúc và hy vọng.
Mấy hôm sau chị Sửu gởi Châu lại cho người nuôi bệnh bên cạnh để về Phú Xuân lấy thêm gạo củi. Châu chờ lúc tôi không bận việc, em vội đến bên tôi không ấp úng như bữa trước, trái lại em tỏ ra chững chạc tự tín:
– Hôm trước con định kể chuyện con cho bác nghe, nhưng mẹ vào, con vội thôi. Hôm nay bác có rảnh và muốn nghe con nói không? Tôi bảo:
– Con cứ nói , bác nghe đây.
Châu buồn bã, khóc rưng rức rồi nói trong nước mắt:
– Con không... không... phải... là... con... đẻ... của mẹ. Mẹ Sửu... không phải... là... mẹ đẻ... của con.
Tôi bối rối không hiểu chuyện gì, tôi hỏi lại Châu:
– Tại sao con nói thế?
Châu bảo:
– Trước khi đi bệnh viện Buôn Hồ con nghe bà và mẹ nói nhỏ với nhau rằng: “bệnh con thấy tăng không thấy giảm. Phải đưa đi nhà thương thôi. Cả bà và mẹ đều khóc và nói: Dù không phải là con đẻ, là cháu ruột nhưng không thể không thương. Khó khăn thế nào cũng phải cố thôi. Phải bán con heo lấy tiền, mượn thêm thúng lúa xay gạo để đem nó đi chữa bệnh”.
– Bác ơi! Châu tiếp tục nói, con rất nhớ ba, thương mẹ, thương bà. Bác ơi! con có sống được không? Ba con có về kịp không? Bác ơi ... Châu vừa nói liên hồi vừa thở hổn hển, rồi òa khóc.
Tôi đau điếng trong lòng, muốn khóc nhưng cố gắng tỏ ra bình thường và nói:
– Con sẽ không sao đâu, ăn nhiều và đừng nghĩ đến chuyện buồn. Ba con sẽ về thôi. Con có mẹ và bà thật tuyệt vời. Tôi lau nước mắt cho em, xoa đầu an ủi để em bớt xúc động. Được một lúc lâu, hết khóc, Châu nói:
– Bác ơi! con có điều nhờ bác, bác phải hứa giúp con.
– Ừ bác sẽ giúp, làm gì đươc trong sức của bác, bác sẽ làm.
– Con biết không sống được đến ngày ba về, con nhờ bác viết cho ba con một cái thư. Viết rằng con nhớ thương ba, mẹ và bà ngoại hết lòng thương yêu chạy chữa và chăm sóc cho con. Con cũng rất thương bà và mẹ. Con chết vì bệnh nặng không chữa được, mai tê ba về đừng la trách mẹ tội nghiệp.
Tôi bàng hoàng, bao tử thắt từng cơn, không cầm được lòng, nước mắt chảy dài. Cố gắng trấn tỉnh, tôi nói với Châu:
– Con cũng có thể viết thư cho ba kia mà.
Châu bảo:
– Bác viết thì ba tin hơn. Con viết ba không tin bằng bác viết.
Nói được với tôi câu đó, Châu bớt xúc động, em có vẻ thanh thản hơn. Em đến giường, nằm xuống mắt lim dim muốn ngủ.
Một ngày tháng giêng, Ban Mê Thuột gió nổi từng cơn, bụi đỏ mù trời. Các cửa kính bệnh viện cũ kỷ tù mù, bụi phủ hết lớp này đến lớp khác mặc dù các chị y công sáng nào cũng lau chùi. Từ trong phòng làm việc thỉnh thoảng tôi ngước nhìn qua cửa sổ: cây lá lay động tả tơi, vật vờ trong gió cát. Tôi linh cảm một điều gì đó chẳng lành sẽ đến. Hoàng Ngọc Châu, bệnh nhân bé nhỏ tội nghiệp của tôi, thiên thần của tôi ra đi chăng?
Nhớ lời em gởi gắm. Tôi liên tưởng đến tiếng chim hót trong bụi mận gai. Tiếng hót thật hay thoát ra từ trái tim đang rỉ máu.
Hoàng Ngọc Châu ra đi. Không có vị linh mục nào làm thánh lễ cho em. Chỉ có chị Sửu, mẹ em, và tôi – (kẻ ngoại đạo đồng thời là người thầy thuốc bất lực) ở bên em những giây phút cuối cùng. Tôi vuốt mắt, chị Sửu cài lại cúc áo, làm dấu thánh cho em và vở òa một cơn khóc mà chị cố kìm nén bấy lâu. Chị gào lên:
– Con ơi, mẹ biết ăn nói với ba con sao đây?
– Anh ơi! Sao giờ này lại không có anh. Thằng Châu đã bỏ chúng ta rồi..
Tôi lại bàn làm việc, định thần một lúc, viết giấy khai tử cho em. Nhớ lời em nhờ, tôi lật mặt sau tờ giấy khai tử viết mấy dòng sau đây:
“Tôi: Bác sĩ Nguyễn thị Kim Thoa, đã tiếp nhận và điều trị tích cực bệnh nhi Hoàng Ngọc Châu. Bệnh em Châu nặng, khả năng bệnh viện và cá nhân tôi không đủ để duy trì sự sống cho em. Trước khi qua đời, em Hoàng Ngọc Châu nhờ tôi viết lại mấy lời gởi cho người cha đang đi học tập cải tạo: “Ba ơi! con rất nhớ ba. Ở nhà cũng như ở bệnh viện mẹ và bà ngoại đã thương yêu nuôi nấng và chăm sóc con đầy đủ, chu đáo. Con thương mẹ, ba cũng như thương bà. Con của Ba: Hoàng Ngọc Châu”.
Tôi đưa tờ khai tử cho chị y tá Ri lên khu hành chánh để đóng dấu. Tôi dặn chị Ri nhớ đóng dấu cả mặt sau nơi tôi ghi mấy dòng di ngôn theo yêu cầu của Hoàng Ngọc Châu. Chị Ri lau vội nước mắt bước ra.
Ngồi lại một mình, nước mắt vẫn ràn rụa, lòng xúc động nhưng không còn quặn thắt đau như trước đó mấy phút. Tôi nghĩ về Hoàng Ngọc Châu với lòng quí trọng và biết ơn. Tôi đã nhận được từ em, cậu bé tám tuổi trước khi lìa khỏi cuộc đời tàn ác vô tình này, một ý chỉ, một thông điệp về tình yêu thương, lòng vị tha và ý thức trách nhiệm đối với người còn ở lại, không chỉ với cha mẹ, bà ngoại mà còn với tất cả chúng ta, những kẻ đang nhân danh hay mạo danh đủ mọi thứ giữa cuộc tồn tại hai mặt này.
Những lời đơn sơ mộc mạc mà Hoàng Ngọc Châu đã thều thào thốt ra trước lúc lâm chung và cả những điều em đã nói với tôi qua những cuộc trao đổi trong những ngày sau Tết đã làm thay đổi mối giao tiếp giữa tôi và em. Tôi không còn là một bác sĩ với “sứ mệnh” cứu chữa bệnh tật cho em nữa, bởi tôi đã bó tay bất lực để cho cái cậu bé vô cùng thánh thiện ấy ra đi. Còn em mặc dù rất muốn sống để chờ người cha đi học tập về để yêu thương và được yêu thương trong mái ấm gia đình, trong cộng đồng làng nước, nhưng em đành chấp nhận cuộc ly biệt chẳng đặng đừng. Có điều em chẳng hề oán trách bất cứ ai, bất cứ thế lực nào, trần gian hay thiên giới, đặc biệt em không muốn cái chết của chính mình sẽ để lại bất cứ một ngộ nhận nào có thể nẩy sinh từ một sự thật em tình cờ nghe biết được trước khi đi bệnh viện rằng hai phụ nữ đã cúc cung tận tụy nuôi nấng chăm sóc chạy chữa cho em suốt tám năm trời trong tình yêu thương vô hạn không phải là mẹ, là bà ngoại ruột.
Những lời trăn trối em gởi gắm cho người cha mong đợi mà tôi đã ghi lại ở mặt sau tờ khai tử của Hoàng Ngọc Châu đã chuyển hóa tôi từ một người thầy thuốc thất bại thành người thư ký khiêm tốn của một thiên thần.
Ghi chú:
(1): thông liên thất, tăng áp phổi: communication interventriculaire, hypertention pulmonaire: syndrome Eisemenger.
(2)Bác sĩ Thới như tôi đã giới thiệu ở trên, ông có thói quen dùng tiếng Pháp để diễn đạt các khái niệm chuyên môn. Gần như ông không biết các danh từ y khoa tiếng Việt. Tôi nói Thông Liên Thất ông không hiểu. Tôi phải nói communication interventriculaire. Tôi nói tăng áp phổi ông càng tò te. Tôi phải nói hypertention pulmonaire thì ông nhanh chóng ừ ừ gật gật. Tôi xin mở một ngoặc đơn để nói rõ hơn về vấn đề chuyên ngữ tại Đại học Y khoa Huế. Tôi biết thêm một số từ ngữ y khoa tiếng Việt nhờ môt năm học tập chính trị sau giải phóng. Thời gian này sinh viên khóa 10 đại học Y khoa Huế, phải thực tập thêm một năm với tư cách là sinh viên nội trú tại bệnh viện Trung ương Huế. Tại đây chúng tôi nhận sự hướng dẫn bởi các bác sĩ chuyên nhi từ miền Bắc vào. Các vị này bắt buộc chúng tôi phải sử dụng tiếng Việt hoàn toàn trong tất cả mọi trường hợp từ làm bệnh án đến giao tiếp với đồng nghiệp, với bệnh nhân. Tôi biết chủ trương lấy tiếng Việt làm chuyển ngữ đã được một số nhà chuyên môn, nhà văn hóa, nhà báo ở miền Nam cổ vũ từ nhiều năm trước. Tại Huế, bác sĩ Lê Khắc Quyến, nguyên khoa trưởng Đại Học Y khoa Huế đã biên soạn cuốn tự điển danh từ y khoa Pháp – Việt và hô hào mạnh mẽ cho hành động có tính cách chính trị và văn hóa này trên tạp chí Lành Mạnh do ông chủ trương. Nhưng thực tế kết quả chẳng được bao nhiêu. Tại Đại học Y khoa Huế từ các giáo sư người ngoại quốc, các giáo sư, giảng sư người Việt, đến bác sĩ trợ giảng, chế nghiệm viên và sinh viên đều dùng các thuật ngữ y khoa bằng tiếng Anh, tiếng Pháp và cả tiếng Đức. Thậm chí có giáo sư người Việt vẫn soạn giáo trình và giảng hoàn toàn bằng ngoại ngữ. Có nhiều sinh viên phải rời trường Đại Học Y vì trình độ ngoại ngữ không đủ để đáp ứng yêu cầu của một số môn học.
Có điều cần làm rõ là việc sử dụng ngôn ngữ Việt trong giảng dạy và học tập tại tất cả các chuyên ngành khác nhau ở bậc đại học hoàn toàn không đồng nghĩa với việc sinh viên và cả rất nhiều giáo sư tiến sĩ tại các đại học Việt Nam không biết ngoại ngữ. Ngoại ngữ theo tôi là cầu nối ốc đảo trí tuệ và học thuật Việt Nam với các đại lục trí tuệ và học thuật thế giới.
(3) Petitjean tên đầy đủ là Henri Petitjean, linh mục thừa sai thuộc giáo hội Pháp quốc hải ngoại. Trước 1954 hành đạo ở Hải Phòng. Sau 1954 chuyển vào miền Nam, cư trú và hành đạo tại Huế. Bị trục xuất khỏi Việt Nam ngày 4 tháng 9 năm 1975.
Tôi quen ông ở lớp học Pháp văn do ông phụ trách, đồng thời tôi cũng giúp ông hiểu thêm về ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam. Câu chuyện lá vằng và La Vang là một trong những vấn đề chúng tôi đã thảo luận.
(4) Tôi ghi chú thêm về câu chuyện trên: Châu mất mẹ khi lọt lòng. Chị Sửu về làm mẹ Châu sau đó không lâu. Tôi biết được điều này trong một dịp đi công tác tuyến ở xã kinh tế mới Phú Xuân. Tôi đã tìm thăm hai người phụ nữ lương thiện và đáng kính này.

Thanked by 2 Members:

#9 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 05/02/2019 - 17:44

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·


NGƯỜI KHÁCH XUỐNG GA THÁP CHÀM
Tôi gọi cậu ta như thế, bởi vì không biết cậu tên gì. Tôi gặp cậu tình cờ trên một chuyến tàu suốt Hà Nội – Sài Gòn. Tôi lên ga Đà Nẵng, khoang số 6, giường nằm số 2 tầng giữa, cậu ta đã ở đó, giường số đối diện. Cậu xuống ga Tháp Chàm, chúng tôi là bạn đồng hành trên một đoạn đường chừng bảy trăm cấy số, trong một khoảng thời gian chừng mười bảy tiếng đồng hồ. Cậu xuống ga lúc nào tôi không biết, nhưng từ đó đến nay – chừng 25 năm, hình ảnh người thanh niên xấu trai nhưng đôi mắt tinh anh, kiên nghị mà hiền từ thỉnh thoảng trở lại trong ký ức tôi với tình cảm tốt đẹp.
Vào những năm 1993 – 1997 tôi thường vào ra, ra vào Đà Nẵng – Sài Gòn, Sài Gòn – Đà Nẵng do đang theo học một lớp chuyên khoa ở đại học Y dược thành phố H.C.M. Phương tiện đi lại của tôi lúc bấy giờ là tàu hỏa (xe lửa).
Gần mười năm sau thời mở cửa (1985) nhưng phương tiện giao thông đường sắt còn rất phức tạp. Thông thường tôi phải mua vé trước nửa tháng; vào dịp tết hay dịp lễ phải đặt mua vé trước cả một hoặc hai tháng. Đối với tôi là như thế. Nhưng đối với người khác thì không như thế: đến ga là có vé ngay vì có đường dây mua lậu.
Trong một chuyến đi từ Đà Nẵng vào Sài Gòn, khoảng cuối tháng sáu, thời điểm của mùa thi đại học, hành khách đi tàu rất đông. Tôi mua vé giường nằm, tầng hai trong một khoang có sáu giường, giờ khởi hành là 8 giờ sáng. Ra ga mới biết tàu trễ chuyến, chuyến tàu SE1 từ Hà Nội vào chậm hai tiếng. Dưới thời tiết nóng bức ngày hè, ngồi lại tại ga tàu với cảnh người người qua lại và bao âm thanh hỗn độn không thoải mái chút nào. Giở tập sách đem theo để đọc cho qua thời gian nhưng không làm sao nhét vào đầu một chữ. Người mẹ trẻ và đứa con ba tuổi ngồi cạnh tôi cứ loay hoay với hai chiếc túi sách mang theo, hết mở ra rồi khóa lại, đứa trẻ liên tục ho và ói. Qua thăm hỏi tôi được biết hai mẹ con vào Sài Gòn để chữa bệnh cho cháu nhỏ. Từ Điện Hồng, một vùng quê của Quảng Nam, họ ra ga từ chiều hôm trước để sáng nay kịp lên chuyến tàu 8 giờ sáng, hai mẹ con đã qua đêm trên chiếc ghế dài. Tôi hỏi sao không vào bệnh viện Đà Nẵng để điều trị mà phải vào tận Sài Gòn. Chị ấy bảo bệnh viện Đà Nẵng đã điều trị 15 ngày, định bệnh là có khối u ở đáy mắt trái, nguy cơ gây mù cả hai mắt nên chuyển vào Viện Mắt Sài Gòn. Một thoáng màu vàng chất độc da cam hiện về trong tầm mắt của tôi.
Tàu đến lúc 10 giờ 10 phút. Tìm được số khoang và số giường của mình, tôi vội thu xếp hành lý ở góc trong cùng của chiếc giường tầng hai. Đúng là khoang giường nằm. Vì hành khách không thể ngồi trong khoảng cách từ tầng dưới đến tầng trên chừng 6 tấc. Người nằm ở tầng ba còn tệ hơn. Khoảng cách từ giường đến trần khoảng 5 tấc.
Trong khoang số 6 của tôi có 6 hành khách, hai giường tầng một là hai thanh niên độ chừng 30 – 35 tuổi, cả hai ăn mặc theo cách của thanh niên miền Bắc lúc bấy giờ: quần tây dài màu xanh bộ đội, áo sơ mi dài tay màu xanh nước biển đậm bỏ ra ngoài. Tầng hai bên kia, một thanh niên trạc chừng 25 – 27 tuổi mặc quần tây dài màu xám đậm, áo sơ mi màu lam tay dài bỏ vô quần và gài nịt da to bản, cậu ta có dáng vẻ người Miền Nam. Phía trên hai tầng áp mái (tầng ba) là hai thanh niên độ chừng 35 tuổi, mặc áo quần bộ đội màu xanh lá cây rừng, áo bỏ thụng ra ngoài. Cả bốn thanh niên ở hai giường áp mái và hai giường tầng một là một nhóm với nhau, họ chuyện trò, cười cợt thoải mái như chỗ dành riêng. Họ không có ý thức công cộng là gì. Bốn người như bốn pháo thủ, và hai ống điếu thuốc lào (điếu cày) mang theo trông như hai khẩu đại bác.
Đắp chiếc chăn mỏng, nằm quay đầu về hướng cửa sổ, đọc tập thơ Bùi Giáng đem theo để tìm giấc ngủ ngắn, nhưng tiếng máy tàu xình xịch, tiếng cười nói quá tự nhiên như không có ai của bốn anh thanh niên miền Bắc* cộng với những làn khói thuốc lào phun ra liên tục khiến tôi đau đầu và buồn nôn.
– “ Cô đưa cho cháu chiếc khăn mặt, cháu sẽ đi thấm ướt cho cô che mũi, tránh khói thuốc”. Cậu thanh niên ở giường tầng hai bên kia nói với qua phía tôi. Cậu tụt xuống sàn, lấy khăn tôi đưa và đi ra ngoài. Tôi cảm thấy an lòng khi trong khoang có một thanh niên tử tế.
Khăn ướt giúp tôi bớt choáng váng, nhưng phần cơm trưa tôi không thể nhai nuốt được. Mùi thuốc lào vẫn đặc quánh trong bốn mét khối của khoang tàu với sáu con người.
Ăn cơm xong, bốn thanh niên miền Bắc trải tấm nylon lên sàn tàu, họ chơi bài tiến lên và hút thuốc lào. Hai ống điếu để hai bên như hai khẩu đại bác. Họ vừa đánh bài vừa thay nhau hít phả liên tục. Họ hét to khi thắng. Họ văng tục khi thua. Họ phun khói mù mịt. Họ vỗ đùi đôm đốp... Quả là họ rất sảng khoái. Còn tôi thì không thể tiếp tục chịu đựng, tôi tụt xuống khỏi giường, đi ra hành lang để thở. Cậu thanh niên ở giường đối diện cũng ra hành lang với tôi. Cậu ái ngại nhìn tôi: – “Cô không sao chứ? Cô đưa khăn để cháu đi giặt và nhúng nước”. Khi người trai trẻ trở lại, tôi cầm lấy khăn chà xát mặt mày, tóc tai và cả hai tay, chà đi chà lại như một kẻ tâm thần. Người thanh niên rời đi một lúc; mấy phút sau cậu đem về cho tôi một chai nước khoáng, Cậu nói: – “Cô uống đi, sẽ khỏe thôi”. Tôi uống nước. Quả nhiên mấy phút sau tôi bình tỉnh trở lại.
Tôi xấu hổ và tò mò nhìn rất sâu vào đôi mắt lấp lánh sáng và đầy tự tin của người trai trẻ. Tôi hỏi cậu có thể cho tôi biết đôi chút về bản thân được không? Người thanh niên trả lời cậu là người Ninh Thuận, có nhà ở sát cạnh ga Tháp Chàm, ông nội đã từng làm sếp ga thời Ngô Đình Diệm. Cậu đã từng học sử ở đại học sư phạm. Không có tiền đút lót nên không được đi dạy. Hiện cậu là nhân viên đường sắt. Nhà ngoại ở thành phố H.C.M, quê nội ở Huế; làm công nhân đường sắt cũng có cái tiện là có thể đi lại đó đây mà không tốn kém lắm. Nghe người thanh niên nói nhiều về đường sắt, tôi sực nhớ đến một vấn đề đang làm xôn xao dư luận và làm tôi bận lòng: Tổng cục Đường sắt bán đầu máy xe lửa hơi nước để tại ga Đà Lạt theo giá sắt vụn. Tôi hỏi cậu có biết gì về tuyến đường sắt răng cưa Tháp Chàm – Đà Lạt, và cậu có ý kiến gì về việc nhà nước bán đầu máy theo giá sắt vụn?
Như có dịp để giải tỏa bức xúc, người thanh niên nói một mạch:
– “Tuyến đường sắt Tháp Chàm – Đà Lạt là một trong hai tuyến đường sắt đặc biệt trên thế giới, một ở Việt Nam, và một ở Thụy Sĩ. Tuyến đường ở Việt Nam dài hơn, đi qua nhiều đèo dốc hiểm trở hơn. Tuyến đường sắt này được Công ty Đường sắt Đông Dương (Chemin de Fer de L’indochine) đặt mua bên Thụy sĩ. Công ty cũng thuê chuyên viên Thụy Sĩ qua điều khiển thi công. Tuyến đường sắt này dài 84km trong đó có 34km đường răng cưa, được xây dựng trong vòng 30 năm. Khởi công dưới thời toàn quyền Doumer năm 1902, đến năm 1932 mới hoàn thành. Lễ khánh thành tuyến đường này có vua Bảo Đại và Toàn quyền Pháp tại Đông Dương tham dự. Ngoài chức năng vận chuyển du khách, tuyến đường sắt này còn là phương tiện chính chuyên chở rau quả từ Đà Lạt về ga Tháp Chàm, rồi từ ga Tháp Chàm phân phối đi Sài Gòn, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Hà Nội... Nó hoạt động liên tục từ 1932 cho đến những năm 1967 – 1968 thì cầm chừng, và dừng hẳn vào năm 1972 do chiến tranh lan rộng”.
“Sau 1975, chính xác là vào tháng 8. 1975, trong khi trùng tu đường sắt thống nhất Bắc – Nam, Tổng cục đường sắt Việt Nam tháo gỡ các đường ray răng cưa bán sắt vụn, đầu máy hơi nước tiếp tục bỏ hoang phế ở ga Đà Lạt. Đến năm 1990 công ty DFB (Dampfbahn – Furk – Bergstrecke) của Thụy Sĩ đi tìm đầu máy và các chi tiết đường sắt răng cưa mà Thụy sĩ đã chế tạo. Việt Nam đã bán cho công ty trên toàn bộ đầu máy hơi nước và các chi tiết đường sắt răng cưa còn lại với giá sắt phế thải. Toàn bộ tuyến đường sắt có một không hai này biến mất khỏi Việt Nam. Phía Thụy Sĩ đem số “sắt vụn” này về sửa chữa, lắp ghép thành tuyến du lịch đường sắt răng cưa xưa cỗ Fufka – Bergstrecke, nơi thu hút nhiều khách tham quan du lịch của châu Âu”.
“Chắc cô cũng đồng ý với cháu là không nên bán đầu máy xe lửa răng cưa. Chính quyền chỉ nghĩ đến việc thống nhất Hà Nội – Sài Gòn mà không có Đà Lạt. Chính quyền cũng chỉ chú ý cái lợi trước mắt mà không nghĩ tới lợi ích lâu dài. Và vấn đề không chỉ có kinh tế mà còn cả văn hóa”.
Thấy người thanh niên có khuynh hướng mở rộng đề tài, tôi hỏi tiếp:
– “Chú ý đến lợi ích lâu dài và mục tiêu văn hóa, phải chăng cháu nghĩ đền phạm vi tổng quát là đường lối cai trị và xây dựng đất nước của đảng c.... s..?”
Người thanh niên nhìn tôi với một chút thăm dò. Lúc sau anh nói nhỏ và kiên định:
– “Đúng như thế, thưa cô. Người c.... s.. chỉ nghĩ đến mục tiêu trước mắt là lợi ích cho cá nhân và đảng của mình. Cô thấy đó, bốn người khách cùng khoang với chúng ta là kết quả đào tạo của chế độ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa. Không ai ở với họ được cả. Phải chăng nãy giờ đứng ở đây là chúng ta đang di tản?”
Tôi giật mình khi nghe người thanh niên nói lên một sự thật mà tôi chưa từng nghĩ tới. Tôi nói với cậu ta rằng là nếu cả dân tộc mà di tản hết thì còn ai để thay đổi chế độ, bảo vệ và phục hưng đất nước?
Người thanh niên với giọng chắc nịch đầy tự tín nói tiếp với tôi rằng là: “Cô đừng lo, ông nội cháu đã khẳng định rằng dân tộc Việt Nam như một lũy tre, gió bảo có thể làm nó ngã nghiêng trong một thời đoạn, nhưng khi có thời cơ đến nó chắc chắn sẽ bật dậy vươn mình cùng trời xanh. Cháu không bao giờ di tản”.
Tôi bật cười, cùng cậu ta đi vào khoang, nơi bốn người thanh niên miền Bắc đang ăn bữa cơm chiều. Mùi khói thuốc và sự huyên náo nhố nhăng có dịu đi đôi chút. Tôi trèo lên tầng với lòng bớt nặng nề. Con tàu tiếp tục xuôi Nam với câu chuyện “lũy tre bật dậy vươn mình cùng trời xanh sau cơn bão” của người trai trẻ đồng hành đã giúp tôi qua cơn bức xúc. Hơn thế nữa, tôi cảm thấy niềm tin và hy vọng nhen nhóm lại trong tôi...
Vào khoảng ba giờ sáng, cậu thanh niên Tháp Chàm lục đục thu dọn hành lý, bước xuống đi khỏi khoang, chừng 20 phút sau trở lại với một người đàn ông trung niên. Cậu nói với tôi:
– “Cô ơi, cháu đã thu xếp để cô đổi chỗ với bác trai này ở khoang số 4. Đến ga Tháp Chàm cháu phải xuống. Từ đấy vào đến Sài Gòn còn gần 350 km và đến hơn 5 hoặc 6 tiếng đồng hồ nữa. Cô một mình ở đây e không tiện”.
Người đàn ông trung niên vui vẻ nói với tôi bằng cái giọng Quảng nguyên xi:
– “Đòan bòa” con “goái” về một nơi với “nhao” tiện “sinh hoẹc” hơn”.
Sau khi giúp tôi chuyển chỗ, người thanh niên Tháp Chàm và người đàn ông xứ Quảng cười từ giả tôi và trở về khoang của mình.
Khoang số 4 nơi tôi được đổi chỗ chỉ toàn là phụ nữ, tôi gặp lại hai mẹ con người phụ nữ Điện Hồng đi chữa bệnh cho con, hai cô gái miền Trung đi thi cùng với hai bà mẹ đi theo. Tôi nhẹ nhàng đi vào giấc ngủ bù. Tàu đến ga Tháp Chàm lúc nào tôi không biết. Tôi không có dịp để nói lời cám ơn và lời chào tạm biệt người trai trẻ tôi không biết tên, nhưng thái độ, lời nói, tư tưởng của cậu ta đối với cá nhân tôi và đối với đất nước đã trở thành một phần tâm trí của tôi đến tận lúc này.
Những dòng ký ức này tôi muốn gởi đến người khách xuống ga Tháp Chàm để nối lại cuộc hội ngộ 25 năm trước. Tôi cũng muốn gởi đến những người trẻ tuổi trên khắp mọi miền đất nước để bày tỏ niềm tin và sự đồng tình ủng hộ cuộc đấu tranh chống bạo quyền của guồng máy cai trị chỉ biết cái lợi của cá nhân và băng đảng bất chấp quyền lợi tối cao và thiêng liêng của cả dân tộc.
Ghi chú
(*) Từ Miền Bắc tôi dùng ở đây phát xuất từ một thành kiến. Đến lúc này (2018) tôi vẫn chưa hết thành kiến đó.
Những người miền Bắc tôi gặp và tiếp xúc từ 1975 đến nay đa phần (tôi nói đa phần, tôi không nói tất cả) được đào tạo trong chế độ Xã hội Chủ nghĩa. Tôi nói đào tạo, tôi không nói giáo dục. Miền Bắc trong những năm chiến tranh và trong hơn 40 năm thực thi chế độ Xã hội chủ nghĩa trên toàn đất nước chỉ đào tạo công cụ chứ không giáo dục Con Người. Những công cụ này trung thành với chế độ, bám chế độ để sống, để vinh thân phì gia. Họ chỉ biết có đảng c.... s.. và cái bụng tham lam vô đáy của mình. Họ không màng đến đất nước dân tộc. Họ không biết giá trị làm Người là Tự do, Công bình và Nhân ái. Họ xem người Miền Nam là kẻ đáng ngờ và là đối tượng khai thác, lợi dụng. Những con gọi là người c.... s.. này sẵn sàng đối xử với nhau như kẻ thù, cắn xé nhau như muôn thú trước bất cứ mục tiêu quyền lợi cạnh tranh lớn nhỏ nào. Họ xem thường công lợi và ý thức công cộng. Đích thực họ là sản phẩm của chế độ Xã hội Chủ nghĩa.
Hồi 1954 có khoảng gần một triệu người Miền Bắc di cư vào Nam, đa phần là tín đồ Thiên Chúa giáo. Những người Miền Bắc này không để lại trong lòng người Miền Nam lúc bấy giờ những thành kiến nặng nề như kinh nghiệm của người Miền Nam sau 1975.
Sự khác biệt này phải chăng là do ý thức hệ c.... s.. được thể hiện qua sách lược đào tạo công cụ của chế độ Xã hội chủ nghĩa?
Vài hình ảnh về tuyến đường sắt răng cưa Tháp Chàm - Đà Lạt (nguồn internet)




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 3 Members:

#10 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 07/02/2019 - 20:40

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Nhân vụ Bác sĩ Hoàng Công Lương ở tỉnh Hòa Bình bị xử oan, tôi công bố bài này để chia sẻ cùng ông.
BÉ HOÀNG SA VÀ ĐÔI DÉP MÀU HỒNG.
Từ sau 1975 có nhiều ngày trở nên ồn ào, náo nhiệt. Ngày cách mạng tháng Tám, ngày thành lập nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa, ngày giải phóng miền Nam, ngày thương binh liệt sĩ, ngày phụ nữ, ngày nhà báo, ngày người cao tuổi, ngày thầy thuốc, ngày HIV, ngày bệnh lao, ngày thành lập Đảng… Ngày nào cũng là ngày kỷ niệm, cũng rất quan trọng và đáng nhớ. Hội hè, kỵ chạp, cúng giỗ ăn uống ngồm ngoàm, rước xách đều như nhau cả.

Ngày 20 tháng 11, ngày nhà giáo Việt nam Xã hội chủ nghĩa có lẽ là một ngày rộn ràng, náo nhiệt nhất trong năm. Trên các nẻo đường từ thành phố đến thôn xóm làng quê, học sinh, sinh viên các cấp kể cả phụ huynh, từng người, từng nhóm, từng đoàn lũ lượt đi bộ, đèo xe cặp đôi, cặp ba, hàng dọc hàng ngang tìm đến nhà thầy cô để tặng hoa tặng quà.
Trong cái ngày đặc biệt này cảnh sát giao thông cũng tham dự bằng thái độ dễ dãi, thông cảm. Thầy cô giáo đa phần chuẩn bị nhà cửa để đón tiếp học sinh, không ít vị trước đó đã gợi ý với môn đệ, với phụ huynh: nhà tôi thiếu cái này, cái kia. Nhưng cũng có đôi ba vị thấy sợ, thấy chướng, thấy xấu hổ nên từ sáng sớm đã khóa cổng, khóa cửa tìm chỗ trốn tránh.
Ngày 20 tháng 11 năm 1997, như thường lệ, tôi nhận ca trực lúc 5g chiều tại phòng hồi sức cấp cứu nhi, bệnh viện đa khoa Đà Nẵng. Phòng có 10 giường nhưng chỉ có 9 bệnh nhân. Sau khi thăm khám bệnh, xem lại y lệnh, tôi tự nhủ đêm nay có lẽ không vất vả là bao, chỉ một trường hợp xuất huyết não của trẻ 45 ngày tuổi đang thở máy là nặng, những bệnh còn lại tạm ổn.
Tôi vào phòng bác sĩ, bật truyền hình xem thời sự. Chị y tá Tâm (1) đưa tôi ổ mì kẹp thịt và nói:
– Bác Thoa ăn đi kẻo chốc nữa có bệnh nặng lại ăn không được. Hôm nay Xuân(2) nó trực với em, vía nó nặng lắm, chắc không thư thả được đâu.
Nói rồi chị quay sang bình nước lọc rót cho tôi một ly.
Các chị y tá rất tin vào vía của mỗi người: vía nặng, vía nhẹ. Trực với người này, vía nhẹ thì thong thả nhẹ nhàng, trực với người kia, vía nặng thì nhọc nhằn, vất vả, nhiễu sự.
Không tin chuyện vía nặng vía nhẹ, chậm rải ngồi nhai bánh mì và xem truyền hình, tôi để tâm lắng nghe ông giám đốc sở Giáo dục đọc diễn văn nhân ngày nhà giáo Việt Nam. Ông ta nói nhiều, nói dài, nhưng tôi chẳng nhớ điều gì ngoài câu tục ngữ ông lặp đi lặp lại nhiều lần: “Muốn sang thì bắt cầu kiều – muốn con hay chữ phải yêu mến thầy”. Không hiểu ông giám đốc sở Giáo dục nhấn mạnh câu tục ngữ này trong cương vị của mình có thích hợp không? Ông có gợi ý điều gì không trong bài diễn văn đậm đà tính chất dân gian của mình?
Sau biến cố 1975, từ miền Bắc tràn vào miền Nam nhiều thứ, mà nghe đâu một người lãnh đạo kháng chiến nổi tiếng tại khu 5 và Quảng Nam – Đà Nẵng – ông Hồ Nghinh, trong chỗ riêng tư, đã nhận định rằng là: “một làn gió hắc ám và độc hại”. Một trong những thứ hắc ám và độc hại đó, biểu hiện trong ngành giáo dục nói riêng, là những bóng đen núp sau chiêu bài ơn nghĩa. “Khi người ta thiếu hoặc không có cái gì thì người ta hay nói nhiều, nói quá về cái đó”. Ai đó đã nói với tôi câu này. Sau ngày “Giải phóng” tôi nghe quá nhiều từ “ơn” từ phía những người ở miền Bắc vào. Ơn Đảng. Ơn Bác. Ơn kháng chiến. Ơn ông bí thư. Ơn ông chủ tịch và ơn Thầy Cô…
“Khi người ta thiếu cái gì…” Phải chăng nhận định đó không còn là của riêng ai, mà là của tất cả mọi người đã trải nghiệm một cách cay đắng, bẽ bàng, thấm thía sự phá sản, đảo lộn ngôn từ trong bối cảnh “cuộc cách mạng Xã hội Chủ nghĩa long trời lở đất”, “ đấu tranh này là trận cuối cùng..”.
Tiếp theo lời khuyến dụ của ông giám đốc sở Giáo dục là tiết mục trình diễn một bản nhạc của một ca sĩ mà mới nghe qua tôi rất thích: “Khi thầy viết bảng bụi phấn trắng bay bay, có hạt bụi nào vương trên bục giảng, có hạt bụi nào vương trên tóc thầy…”. Rõ ràng giai điệu tha thiết, lời ca đẹp, giọng hát ngọt ngào, xúc cảm… diễn tả hình ảnh và nghĩa cử của người Thầy lí tưởng và lòng biết ơn của người học trò lí tưởng. Cả hai đều không có thật trong cuộc sống nhãn tiền. Rõ ràng có một sự mâu thuẫn trầm trọng giữa thực trạng giáo dục, thực trạng đất nước với lời kêu gọi của ông giám đốc sở với giai điệu, lời ca, giọng hát của người nhạc sĩ, ca sĩ.
Miên man suy nghĩ về ngày nhà giáo, ăn chưa hết nửa ổ mì, chuông cấp cứu réo lên, các chị y tá bỏ lỡ bữa ăn đưa xe tiếp nhận bệnh nhân, tôi vớ chiếc ống nghe vội chạy theo.
Trên xe đẩy, một bé gái chừng 12 tuổi, da xanh tái, trán rịn mồ hôi, thở từng cơn ngắn được chuyển vào. Em bị ngã xe đạp khi cùng các bạn đi thăm thầy cô. Phòng cấp cứu ngoại khoa đã chụp phim cắt lớp (3) loại trừ chấn thương sọ não, em được chuyển vào phòng cấp cứu hồi sức nhi với chẩn đoán: hạ đường huyết (4).
Tôi bắt mạch, bàn tay em lạnh quá, mạch nhẹ và chậm, đếm thoáng 15 giây, án chừng mạch không quá 40 lần/ phút.
Đặt em nằm lên giường cấp cứu, y tá Tâm cho thở oxy, tôi mắc vội monitoring kiểm tra các dấu hiệu sinh tồn (5). Điện tim(6) trên monitoring biểu hiện một cơn nhịp xoang chậm, 42 lần/ phút, đoạn PR dài hơn bình thường: phân li nhĩ thất cấp I(7). Tôi vội cho thuốc nâng mạch và kiểm tra lại đường huyết.
Qua các thông tin sơ khởi, tôi biết được: Em đã cùng các bạn rong ruổi đi thăm thầy cô từ sáng sớm, chưa ăn gì trước khi bị ngất xỉu, té trên đường. Người đi đường và bạn bè gọi cấp cứu 05 đưa vào bệnh viện. Gia đình em ở Hòa Khánh (cách bệnh viện 7 – 8km) đã được thông báo nhưng chưa vào kịp.
Sau khi làm các xét nghiệm khẩn, bơm glucose, nâng mạch bằng Atropin, mười phút sau tình trạng bệnh không cải thiện, trên monitoring nhịp tim còn 40 lần/phút, xuất hiện dấu hiệu phân li nhĩ thất cấp II. Không có máy tạo nhịp, tôi quyết định dùng thuốc Isuprel. Tủ thuốc trực cấp cứu không có Isuprel, muốn dùng phải mua ở các nhà thuốc bên ngoài bệnh viện. Người nhà chưa đến, người nuôi bệnh giường bên cạnh tình nguyện đi mua giùm.
Trong lúc chị y tá Tâm chuẩn bị bơm tiêm để chuyền Isuprel thì chuông điện thoại phòng trực réo lên. Chị hộ lý bắt máy và nói:
– Có người bên Thành ủy cần gặp bác sĩ trực gấp.
Tôi nói với chị hộ lý trả lời giùm rằng tôi đang cấp cứu bệnh nhân, có gì sẽ gặp sau. Chị hộ lý nói lại, và người bên kia đường dây gởi lời nhắn với bác sĩ trực:
– Cháu Trương thị Hoàng Sa là con của một sĩ quan đang đóng quân ở Trường Sa, đề nghị các bác sĩ điều trị chu đáo.
Vừa lúc ấy mẹ cháu Hoàng Sa đến. Chị hớt hải hỏi tôi về bệnh tình của con mình. Tôi giải thích tình trạng bệnh của Hoàng Sa và nói thêm:
– Bệnh cần dùng thuốc Isuprel mà tủ thuốc trực không có, anh nuôi bệnh gường bên đã mua giùm, chị có thể trả lại tiền cho anh ấy.
Người mẹ tần ngần giây lát rồi bảo:
– Bác sĩ chờ cho tôi một chốc, tôi có người quen trên Thành ủy, tôi sẽ nhờ hỏi xem bệnh viện có thuốc tốt hơn không? Thuốc mua ngoài sợ không bảo đảm chất lượng.
Đành phải hoãn tiêm chuyền Isuprel và chờ đợi. Tôi bồn chồn lo lắng, chữa bệnh cần thời gian tính. Thời khắc vàng đôi khi chỉ vài giây. Trong vài giây tìm được cái vein nhỏ xíu để chuyền thuốc là cứu được người bệnh, bằng không là thất bại, là tử vong. Tôi hết nhìn lên monitoring lại nhìn người mẹ đang nói chuyện qua điện thoại ở phòng bên mà lòng rối bời. Cầm bàn tay lạnh và xanh của Hoàng Sa, tôi tiên cảm điều không lành. Chị y tá Tâm nhắc tôi:
– Bác Thoa, qui định của bệnh viện khi dùng thuốc ngoài danh mục bắt buộc phải có hội chẩn với bác sĩ trực giám đốc, bác là người hay quên nhất, khéo mà mang vạ vào thân, con cháu ông lớn đó.
Tôi nói với cô bác sĩ trẻ trực cùng phiên, bác sĩ Hồ Dung Diễm(8) làm các thủ tục mời giám đốc hội chẩn, đồng thời cố giải thích thêm một lần nữa về tình trạng khẩn cấp và trầm trọng của bệnh nhân nếu chậm chuyền thuốc. Nhưng người mẹ vẫn muốn chờ lệnh của Thành ủy và thuốc của bệnh viện.
Cầm ống thuốc đã pha, nhìn lên monitoring thấy nhịp tim chậm dần, chậm dần mà lòng tôi nóng như lửa đốt. Nhưng rồi tôi tự nghĩ: Ống thuốc trong tay mình có chắc là thuốc thật hay không? Ai bảo đảm đây không phải là thuốc dổm. Chị y tá Tâm cầm bơm tiêm nhìn tôi chờ y lệnh và cũng ngầm cảnh báo.
Gần ba mươi phút sau, bác sĩ giám đốc, chủ nhiệm khoa dược đến cùng với vị khách bên Thành ủy.
Trưởng khoa dược thông báo khoa không có Isuprel vì đây là loại thuốc ít khi dùng nên khoa không nhập về.
Bác sĩ giám đốc, dược sĩ trưởng khoa dược ngồi vào bàn, trầm ngâm, chậm rải vuốt tờ biên bản thật thẳng, để lại thật ngay ngắn và thong thả ký biên bản hội chẩn:
– Bệnh viện không có Isuprel, quyết định sử dụng thuốc ngoài danh mục.
Ký xong ba vị đứng dậy ra về. Vị khách Thành ủy đến vỗ vai người mẹ và nói:
– Chị an tâm, bác sĩ sẽ làm tốt thôi.
Người mẹ khúm núm vâng dạ cám ơn.
Trên monitoring lúc này nhịp tim của bệnh nhân còn 32 lần/ phút, biểu hiện phân li nhĩ thất cấp III, hội chứng Adams Stocks, PaO2 còn 60mmHg(9). Tình trạng gần như vô vọng. Isuprel thật hay Isuprel giả không còn là vấn đề nữa rồi. Tôi và các chị y tá đã làm hết sức mình nhưng kết quả hoàn toàn không tốt như lời phán của lãnh đạo Thành ủy. Cái thật, cái giả của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã lấy đi cái may mắn sống còn của em bé 12 tuổi mà mới chiều nay thôi còn cười nói với bạn bè, đi hết nhà này đến nhà kia tặng hoa và quà cho thầy cô giáo.
Cầm bàn tay lạnh ngắt, mạch lặng như tờ, tôi biết mình đã thất bại. Điện tim trên monitoring là một đường thẳng, tiêm Adrenaline xuyên tim, ấn tim ngoài lồng ngực, bóp bóng oxy hổ trợ…, hơn ba mươi phút không hiệu quả, tôi rã rời buồn bã báo với người nhà: Cháu đã ra đi.
Tiếng khóc vỡ òa của người mẹ xé lòng tất cả chúng tôi trong phiên trực.
Trở về bàn làm việc, ngồi viết giấy khai tử, đầu và hai vai tôi nặng trĩu như bị đè bởi cả khối trời.
Bốn ngày sau, 11 giờ 30 trưa, chuẩn bị nghỉ, thấy mẹ cháu Hoàng Sa đứng tần ngần trước cửa ra vào phòng bệnh, tôi đến với chị và hỏi:
– Chị cần gì không? Chúng tôi có thể giúp gì cho chị?
Không trả lời tôi, chị đi thẳng vào bệnh phòng, đến giường số 2 nơi cháu Hoàng Sa nằm cách đây 4 ngày. Chị đi quanh, rồi đứng lại vịn thành giường, hết nhìn vào em bé đang nằm điều trị, lại nhìn xuống nền nhà, miệng lẩm bẩm: “Đôi dép màu hồng của con đâu rồi”? Đi theo chị quanh giường số 2, tôi nói:
– Chúng tôi không thấy có đôi dép nào ở đây cả, chị về nhà xem lại có ai để đâu đó không?
Không trả lời tôi, chị đứng nhìn thật lâu đứa bé đang nằm trên giường số 2 rồi lặng lẽ ra về.
Ngày hôm sau, 11 giờ 30 trưa, người mẹ đó lại xuất hiện, đi quanh giường số 2, hỏi thăm các cô y tá về đôi dép màu hồng rồi lặng lẽ ra về.
Ngày thứ ba cũng thế. Tôi bắt đầu thấy có cái gì đó không ổn ở người phụ nữ này. Tôi mời chị về phòng nói chuyện. Tôi cố giải thích cho chị là chúng tôi đã làm hết những gì có thể làm được. Cái chết của Hoàng Sa, con chị có thể là số mệnh… Tôi nói nhưng hình như tôi cũng không biết mình đang nói gì.
Với đôi mắt ráo hoảnh, vô thần, chị nhìn tôi một lúc rồi bảo:
– Bác sĩ có thấy đôi dép màu hồng của Hoàng Sa đâu không? Ở nhà tôi không nghe tiếng dép của nó đã mấy ngày rồi.
Nói xong, chị đứng dậy nhìn quanh chiếc ghế đã ngồi như tìm kiếm vật gì. Tôi tiễn chị ra cửa phòng mà lòng quặn thắt.
Những ngày tiếp theo, người mẹ ấy không vào phòng bệnh nữa, chị đến phòng hồi sức nhi, đứng ngoài nhìn vào qua cửa kính rất lâu, rồi đến thắp hương nơi chiếc trang nhỏ đặt trên gốc cây sứ trong vườn hoa cạnh phòng cấp cứu. Thắp hương xong, chị đến ngồi trên chiếc ghế đá dưới gốc cây bàng sau phòng bệnh. Cứ thế, mỗi trưa chị đến thắp hương, ngồi lại lẩm bẩm nói chuyện một mình, đến nửa chiều lại ra về.
Một hôm, khoảng 15 ngày sau khi cháu Hoàng Sa ra đi, một người đàn ông dáng vóc khỏe mạnh, nước da ngăm đen đến tìm chị đang ngồi trên chiếc ghế đá dưới gốc cây bàng. Ông trìu mến, dỗ dành, đưa chị về.
Người đàn ông nọ đến gặp tôi tại văn phòng khoa mấy ngày sau đó. Anh tự giới thiệu là bố của Hoàng Sa, anh đến nhận giấy khai tử của con và để cám ơn chúng tôi. Anh còn cho biết thêm anh là chiến sĩ đóng quân trên đảo Trường Sa lớn. Khi con mất anh không về kịp. Hoàng Sa là con gái duy nhất của anh chị, họ đến với nhau khi chiến tranh kết thúc, đã lớn tuổi và khó khăn lắm mới có được mụn con. Tôi nhận ra trên khuôn mặt rám nắng và rắn rỏi của anh nỗi đau dường như bất tận. Anh nói lời cám ơn khiến lòng tôi đau xé. Tôi thầm nghĩ: Không biết người chiến sĩ kia có còn giữ vững được tay súng trước đầu sóng ngọn gió nữa không?
Cái chết của cháu Hoàng Sa không chỉ gây đau thương cho mẹ cha, gia đình và bạn bè của cháu, nó là giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước đã tích lũy từ “Huế, trường y của tôi và cả miền Nam Giải phóng”. Ba năm thật dài tại bệnh viện tỉnh Daklak và 15, 16 năm vô cùng khó khăn căng thẳng của chính tôi tại bệnh viện Đà Nẵng. Có quá nhiều đêm không ngủ với ý nghĩ rằng mình đang bị khủng hoảng và rối loạn tâm thần.
Bà mẹ Hoàng Sa thơ thẩn đi tìm đôi dép màu hồng của đứa con duy nhất.
Còn tôi ngày càng quẩn quanh với quá nhiều câu hỏi khởi đầu bằng chữ nếu.
– Nếu không có cuộc hội chẩn giám đốc quái gỡ…?
– Nếu bệnh viện Đà Nẵng có sẳn ống thuốc Isuprel và người mẹ của Hoàng Sa không kêu cầu Thành ủy?
– Nếu đảng c.... s.. và nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có chính sách lao động, lương bổng hợp lý thay vì kêu gọi mọi người “muốn con hay chữ phải yêu mến thầy”
Nếu… nếu… nếu…?
Và cuối cùng: Nếu đảng c.... s.. không đối lập quyền tuyệt đối của mình với trí khôn bình thường và tình yêu thương con người một cách bình dị của nhân dân.
Chồng tôi, anh Chu Sơn, đâm hoảng khi thấy tình trạng sức khỏe của tôi không được cải thiện sau khi rời Ban Mê Thuột. Anh khuyên tôi tạm thời quên đi những tra vấn không lối thoát. Anh ấy nói rằng:
– Không có lời giải đáp cho chữ nếu khi nhìn lại lịch sử.
Tôi nói:
– Em không nhìn lại lịch sử, mà em, chúng ta đang đối diện với đảng c.... s.. với một đường lối không bình thường và những con người nhẫn tâm trước chết chóc, đau khổ của kẻ khác. Sự tham luyến quyền lực và vật chất của đảng c.... s.. là quá độ.
– Nhưng đảng c.... s.. ngày nay không rơi xuống từ trên trời mà là kết quả của một khủng hoảng nhân loại diễn ra trên bình diện toàn cầu. Không có sự bóc lột dã man những người cùng khổ trong thế giới Tư sản, không có chủ nghĩa thực dân và khai thác thuộc địa bạo tàn, không có những cuộc chiến tranh thế giới giữa các đế quốc để giành tài nguyên và khu vực ảnh hưởng, sẽ không có chủ nghĩa c.... s.. và phong trào c.... s.. quốc tế. Không có các phong trào yêu nước lần lượt thất bại và sự hình thành của đảng c.... s.. với hai ngọn cờ Dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội và cả cuộc kháng chiến trường kỳ, khốc liệt, đẫm máu, và các cuộc cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, cải tạo văn hóa bạo ngược và thô thiển. Tất cả những thứ ấy nằm trong một bối cảnh mà các cực đối lập tương sinh, tương tác và vận hành theo chuyển động quán tính. Khi cuộc sống nhân loại bị kéo lệch về phía bên này thì một ph.... đ.... lực tất yếu vận động theo chiều ngược lại, kéo lệch cuộc sống về phía bên kia. Cuộc vận động ấy không chỉ diễn ra trên bình diện nhân loại, nó còn diễn ra trong những phạm vi nhỏ hơn đến mỗi một cá nhân. Lý tưởng và bản năng, trí tuệ và u mê, vị kỷ và vị tha, hy sinh và cưỡng đoạt, giải phóng và nô lệ chỉ là hai mặt của một tồn tại. Nếu em nhận ra mình đang đứng ở đâu, vào thời điểm nào trong cuộc vận hành ấy thì nỗi khổ và sự giằng xé của em sẽ lắng xuống, tâm thần em sẽ trở lại bình thường. Từ bình thường anh dùng trong trường hợp này em phải hiểu một cách tương đối. Anh không nói chúng ta sẽ sống hạnh phúc và khỏe mạnh đầy đủ giữa một bối cảnh ngày một bế tắc và thối rữa như thế này. Anh chỉ nói em không nên để cho những bi lụy nó hủy hoại thân tâm và cuộc sống gia đình mà em đã góp phần tạo dựng. Vợ – chồng, mẹ – con, thầy thuốc – bệnh nhân, gia đình – cộng đồng, đất nước và thế giới… Em có tồn tại mới có hy vọng cải thiện các mối tương quan ấy. Những bức xúc, phẫn nộ, giằng xé của em tại bệnh viện và của chúng ta giữa đất nước và thế giới chúng tỏ em, anh, chúng ta chưa hoàn toàn tuyệt vọng”. Nhiều lần anh Chu Sơn luận giải với tôi những điều đại loại như thế. Và có lẽ anh cũng tự thuyết phục chính mình bằng những luận giải như thế.
Đành rằng chúng tôi không nên quá bi lụy, hoảng hốt để mình rơi vào tình trạng thụ động suy sụp tinh thần một cách bệnh lý. Nhưng chúng tôi cũng không đủ bản lãnh để nhẫn nhục chịu đựng và an nhiên tự tại như một nhà tu hành trong một thế giới không có lương tâm.
Trong cái thế chẳng đặng đừng, chúng tôi âm thầm chịu đựng và đơn độc chống lại cái ngu, cái ác hoành hành ngang ngược như một dịch bệnh. Nhưng kết quả chẳng được bao nhiêu, chính xác là tất cả những nỗ lực của chúng tôi như muối bỏ biển, như nước chảy lá môn, như sương đêm trước nắng cháy sa mạc. Bất quá chỉ hành xử có tính cách lương tâm.
Tại bệnh viện Đà Nẵng, khoảng 1500 con người gồm y bác sĩ, y tá, y công, dược sĩ, dược tá, nhân viên hành chánh, bảo vệ… từ ba nguồn khác nhau: Mỹ – Ngụy lưu dung, trên núi xuống, ngoài Bắc vào, tất cả bị sai khiến bởi bộ tứ: Đảng ủy, ban giám đốc, công đoàn, đoàn thanh niên. Bộ tứ trên danh nghĩa chứng tỏ có một tập thể, thực tế quyền lực chỉ có một: Đảng. Đảng ủy: đảng, công đoàn: đảng, giám đốc: đảng, thanh niên: đảng. Tôi không nói mọi đảng viên đều ng* d*t và độc ác. Tôi cũng không nói mọi người ngoài đảng, đặc biệt là người miền Nam (Mỹ – Ngụy, lưu dung) đều hoàn hảo. Cái ác, cái đê tiện, cái xấu xa, cái ng* d*t, cái tối tăm ở đâu và bất cứ nới nào cũng có không ít thì nhiều. Có điều trong chế độ c.... s.., đặc biệt trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, cái ác, cái xấu, cái đê tiện, cái ng* d*t tối tăm, cái vô trách nhiệm, cái dửng dưng vô cảm, trơ lì ngày một tăng trưởng và những con người mang những thuộc tính ấy ngày một nhiều thêm. Trái lại, những con người lương thiện ngày một ít đi. Để rồi từ đất nước đến mỗi thành viên, cơ phận, gia đình, con người, và những chi tiết tồn tại trong đó rơi vào tình trạng suy đốn, băng hoại như một căn bệnh nan y.
Trở lại cuộc hội chẩn giám đốc kỳ quái mà tôi đã tham dự với cái chết của cháu Hoàng Sa. Thành phần tham dự hội chẩn gồm có: bác sĩ giám đốc là một bác sĩ chuyên khoa XQuang, trưởng khoa dược là dược sĩ từ Bắc vào, ông khách Thành ủy có lẽ là chuyên khoa lãnh đạo, bác sĩ Hồ Dung Diễm và tôi, bác sĩ chuyên khoa II nhi(10), trưởng tua trực. Cuộc hội chẩn bắt đầu sau khi cháu Hoàng Sa vào viện khoảng 30 phút, kéo dài khoảng 5 phút. Tôi báo cáo tóm tắt tình hình bệnh và đề xuất hướng điều trị. Giám đốc ngồi nghe và vuốt thật thẳng tờ biên bản hội chẩn. Trưởng khoa dược báo cáo khoa dược không có thuốc Isuprel, đề nghị cho dùng thuốc ngoài danh mục (mua ngoài). Ông khách Thành ủy chứng kiến từ đầu đến cuối và ra lệnh chúng tôi tích cực cứu chữa cho cháu Hoàng Sa. Ông nhấn mạnh cháu Hoàng Sa thuộc gia đình có công với cánh mạng, hiện tại cha cháu là sĩ quan đang bảo vệ Trường Sa, mẹ của cháu là giáo viên, cả hai đều là đảng viên. Cuộc hội chẩn kết thúc với biên bản được ký bởi giám đốc bệnh viện, trưởng khoa dược và cuối cùng là tôi. Như thế là sau khi ký vào biên bản hội chẩn tôi mới có quyền điều trị cho cháu Hoàng Sa với liều thuốc Isuprel mà y tá Tâm chuẩn bị hơn 30 phút trước. Và kết quả Hoàng Sa đã chết sau bao nỗ lực tuyệt vọng của chúng tôi. Xin mở một ngoặc đơn giải thích ở đây, nếu không có cuộc điện thoại của Thành ủy, nếu mẹ cháu Hoàng Sa không quá tin vào quyền lực của thành ủy thì tôi có thể sử dụng thuốc ngay từ đầu, Hoàng Sa sẽ có cơ may nhiều phần trăm được cứu sống.
“Hội chẩn giám đốc” hay nói một cách thông thường là “duyệt giám đốc” diễn ra khắp các bệnh viện lớn nhỏ trong cả nước suốt nhiều chục năm Đảng c.... s.. lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối đã cướp đi những cơ may sống sót của rất nhiều bệnh nhân. Trường hợp cháu Hoàng Sa chỉ là một thí dụ.
Xin nói thêm về hoạt động “Hội chẩn” để biểu thị quyền làm chủ tập thể trong các bệnh viện Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Có rất nhiều loại hội chẩn, chỉ xin nói về hai loại phổ biến trong bệnh viện:
– Hội chẩn chuyên môn, đây là một hoạt động thuần túy chuyên môn, nhưng bao giờ cũng có đại diện giám đốc tham dự, đa phần là phó giám đốc. Hội chẩn diễn ra tại các bệnh phòng trong các trường hợp có vướng mắc về chẩn đoán cũng như điều trị. Chẳng hạn bệnh nhi tim mạch thỉnh thoảng mời bác sĩ của khoa chẩn đoàn hình ảnh hay khoa ngoại lồng ngực… Hội chẩn giữa các bác sĩ nội ngoại khoa hay sản khoa khi có sự cần phối hợp.
Để có một chẩn đoán chính xác và giải pháp điều trị đúng đắn ở bất cứ chế độ nào cũng cần những cuộc hội chẩn như thế. Có điều ở đây người đại diện giám đốc là người có phán quyết sau cùng.
– Hội chẩn giám đốc về các vần đề ngoài chuyên môn như hội chẩn để có quyết định sử dụng thuốc ngoài danh mục, hội chẩn chuyển viện… Đây thực chất là sự giám sát của đảng. Đặc biệt là “hội chẩn dùng thuốc ngoài danh mục” là một “sáng tạo” tại các cơ sở điều trị của ngành y tế Việt nam trong bối cảnh “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Tại các bệnh viện công, khoa dược căn cứ vào tình hình thuốc hiện hữu trong kho mà lên một danh sách và thông báo cho các khoa phòng sử dụng: đây là thuốc trong danh mục. Hàng năm khoa dược cũng tổ chức các buổi tham khảo ý kiến các bác sĩ để biết các bác sĩ cần gì cho bệnh nhân, nhưng đó chỉ là việc làm lấy lệ. Khoa dược mua, nhập thuốc gì là còn tùy thuộc vào ý đồ của các đối tác là các công ty, các hãng thuốc ngoại. Ví dụ khoa nhi đã bao lần đề nghị nhập thuốc ở dạng si rô hay dạng bột thơm cho trẻ em, nhưng gần 25 năm trong công việc điều trị nhi khoa tại bệnh viện Đà Nẵng, tôi chỉ được dùng các loại thuốc kháng sinh dạng viên của người lớn: viên nén hay viên con nhộng(11) hàm lượng 500mg hay 250mg. Khi sử dụng y tá phải mở bỏ vỏ hay tán mịn rồi chia hai, chia ba, chia bốn, chia năm tùy theo trọng lượng của cháu bé. Các cháu phải uống thứ thuốc bột đắng, gây ói mửa, tác dụng chỉ còn vài chục phần trăm. Nhiều gia đình xin tự mua thuốc ở ngoài, nhưng bác sĩ cũng ngại vì lỡ có chuyện không hay, mọi trách nhiệm người bác sĩ phải gánh chịu. Một dươc sĩ đã nói với tôi: “Các hãng thuốc nước ngoài đã đúc những chìa khóa bằng vàng để mở tất cả các cửa lớn bé từ Trung ương xuống địa phương. Người bệnh trong các nước Xã hội chủ nghĩa sử dụng thuốc đắt hơn nhiều lần so với người bệnh trong các nước Tư bản”.
Trở lại vấn đề “thuốc trong danh mục”. Bác sĩ ở các khoa phòng căn cứ vào danh mục thuốc do khoa dược thông báo để kê đơn điều trị hoặc ghi vào bệnh án. Thuốc trong danh mục thông thường đáp ứng yêu cầu điều trị các bệnh phổ biến. Trong trường hợp đặc biệt, như trường hợp cháu Hoàng Sa, khoa dược không có. Tại sao? Một bệnh viện lớn như bệnh viên Đà Nẵng lại không có các loại thuốc đặc biệt này là một vấn đề cần thảo luận. Theo khoa dược: vì thuốc ít sử dụng, nếu mua về để quá hạng phải bỏ đi, khoa dược không chuẩn bị những loại thuốc như thế là để tiết kiệm tiền của nhân dân. Lí giải như thế là gian, theo nhận định của tôi và nhiều y bác sĩ khác. Bằng cớ là các nhà thuốc tư nhân phạm vi hoạt động nhỏ hơn khoa dược rất nhiều lại có thuốc đặc dụng để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Động cơ là lợi nhuận.
Khi điều trị tại bệnh phòng với thuốc ngoài danh mục, phải có sự duyệt ký của giám đốc, bác sĩ điều trị không được phép kê đơn cho bệnh nhân mua thuốc ở các quầy thuốc tư nhân mặc dù các cửa hàng này đã có giấy phép của nhà nước, có dược sĩ chịu trách nhiệm và cũng được sở y tế quản lý. Phép tắc này diễn ra dưới các hình thức:
– Hoặc là giám đốc ký vào một tờ trình do y tá hành chính có nhiệm vụ lãnh thuốc trình ký tận nơi ông ta ngồi. Tình trạng này diễn ra hàng ngày. Để có chứ ký của giám đốc, y tá phải đi nhiều lần, có khi nhiều ngày vì giám đốc bận “đi họp” ở đâu đó.
– Hoặc là trong trường hợp trực cấp cứu, giám đốc hay người trực thay giám đốc (đa phần là các phó giám đốc kể cả phó giám đốc đời sống hay vật tư) ký vào biên bản hội chẩn của ít nhất là hai bác sĩ đang trực tại phòng cấp cứu. Biên bản này cũng do y tá trực trình ký tại phòng trực giám đốc. Đôi khi người trực giám đốc đi đâu đó chỉ để lại điện thoại, y tá trực gọi điện và người trực giám đốc “ký miệng”, sáng mai ký thực vào giấy.
– Hoặc là giám đốc quyết định một cuộc hội chẩn tại nơi bệnh nhân đang nằm (như trường hợp cháu Hoàng Sa) để bày tỏ sự quan tâm của Đảng đối vói những gia đình quan trọng cần biệt đãi (gia đình cán bộ cấp cao, gia đình có công cách mạng, gia đình danh tiếng…)
Các cuộc “hội chẩn giám đốc’ như thế thông thường dẫn đến các kết quả như sau:
– Một là chậm trễ trong việc xử lí cấp cứu. Cái sống cái chết của bệnh nhân (đặc biệt là bệnh nhân nhi) trong nhiều trường hợp chỉ tính bằng giây.
– Hai là bác sĩ điều trị cảm nhận một cách cay đắng rằng mình bị Đảng tướt đoạt trách nhiệm và quyền hạn trong phạm vi nghề nghiệp. Trong trường hợp bệnh nhân tử vong (do xử lý cấp cứu trễ) người bác sĩ trực tiếp điều trị bị một chấn thương tâm lý lâu dài: rằng là mình thấy chết mà không cứu.
– Ba là người bác sĩ do chấp hành mệnh lệnh của Đảng lâu ngày trở nên trơ lì, khoanh tay đứng nhìn bệnh nhân từng bước rơi vào tình trạng nguy hiểm, tử vong. Mãi dến thời điểm này (2012), nhiều vụ hành hung, kiện tụng xảy ra tại rất nhiều bệnh viện trong cả nước, lý do bác sĩ điều trị chờ “hội chẩn giám đốc”.
Một câu nói cửa miệng của các bác sĩ đào tạo tại miền Nam trước 1975 được “lưu dung” tại các bệnh viện: “linh hồn ai nấy giữ”. Câu nói này phát xuất từ các bác sĩ đã trải qua một trong hai kinh nghiệm:
– Hoặc là khám chữa bệnh cho một ông bà lớn (hoặc thân nhân của họ), kết quả khả quan không nói gì, kết quả xấu, lập tức bị kết tội ph.... đ...., tay sai Mỹ Ngụy mai phục.
Sau kinh nghiệm đắng cay đó, các bác sĩ lưu dung tìm mọi lý do để từ chối không nhận khám chữa trị cho những bệnh nhân thuộc thành phần trên. Họ thường chọn biện pháp “hội chẩn giám đốc” để tránh trách nhiệm.
– Hoặc là do nóng lòng trước tình trạng cấp cứu của bệnh nhân, người bác sĩ quên rằng mình cần phải “hội chẩn giám đốc”. Kết quả tốt không nói gì, kết quả xấu tức thì bị hành hung, chửi bới, kiện tụng, có khi bị bêu riếu trên báo chí, hoặc bị kỷ luật, bị thuyên chuyển công tác vì đã vượt quá qui định của lãnh đạo (hội chẩn giám đốc).
Trong các chế độ phi Xã hội chủ nghĩa, trọng tài cho những trường hợp trên là Y sĩ đoàn, sự sai phạm được người có chuyên môn và pháp luật phán xét. Trong chế độ Xã hội chủ nghĩa, không có quyền lực nào ngoài quyền lực tuyệt đối của Đảng c.... s.. cả, nên người bác sĩ phải giữ “linh hồn của mình” mặc dù y biết chắc chắn nếu giữ gìn kiểu ấy lâu ngày linh hồn của y sẽ biến dạng, hoặc y không còn linh hồn nữa.
Đến thời điểm này, cũng do sự can thiệp toàn diện và tuyệt đối của Đảng vào các quy trình hành xử chuyên môn, các bác sĩ trẻ xuất thân từ mái trường Xã hội chủ nghĩa, đa phần – tôi nói đa phần – sợ phiền hà do không chấp hành hội chẩn giám đốc, và nhất là do bản chất của nền giáo dục – đào tạo Xã hội chủ nghĩa, nên đã răm rắp tuân thủ mệnh lệnh của Đảng. Lâu dần tất cả đã chai lì trước những nỗi đau của đồng bào, đồng loại. Do Đảng lãnh đạo, người thầy thuốc tại Viêt nam Xã hội Chủ nghĩa, đa phần – tôi nói đa phần – quên rằng mình cũng là Con người đã từng có một linh hồn.
Khi viết những dòng cuối của đoạn ký ức xao xuyến và không vui này tôi nghĩ nhiều hơn về hai ông bà là cha mẹ của người bệnh nhi bé nhỏ xấu số của tôi cách đây 15 năm, người mà hằng năm cứ đến ngày nhà giáo tôi không thể không nhớ đến, bởi cái chết của cháu đã gây cho tôi nỗi trăn trở không nguôi suốt quãng đời còn lại của người thầy thuốc trên đất nước bị tròng kéo theo con đường khổ nạn: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của đảng c.... s.., người mà mỗi ngày khi đọc báo, xem truyền hình, hay khi thực hiện các mối giao tiếp, thậm chí cả khi ngồi một mình, tâm trí tôi cũng vướng bận nghĩ về. Bởi cái tên của cháu còn nhắc nhở tôi về một vùng lãnh thổ của đất nước, một phần máu thịt của dân tộc đang bị chiếm cứ bởi bọn bành trướng Trung quốc: Hoàng Sa.
Tôi không biết vào thời điểm này hai ông bà là cha mẹ của Hoàng Sa đang ở đâu, làm gì? Bà đang ở Hòa Khánh – Đà Nẵng, đang đi dạy học hay đang vẫn vơ đi tìm đôi dép màu hồng trên những nẻo đường tối tăm và giữa những con người trở nên xa lạ. Còn ông? Ông đang ở đảo Trường Sa lớn hay một nơi nào đó trên biển Đông, nói và làm theo mệnh lệnh của Đảng. Hay ông đang đăm đăm nhìn về phía bãi cát vàng mà lòng quặn thắt nhớ thương căm hờn lẫn lộn. Hoàng Sa, đứa con gái bé bỏng của ông đã chết. Hoàng Sa, vùng biển đảo mà ông cùng vợ khi đặt tên con đã thề nguyền sẽ đem cuộc sống và cả máu xương của mình để giành giật lại trong bạo lực của kẻ thù mà ông bà đã nhìn rõ mặt, gọi đúng tên: Trung Quốc. Nhưng Hoàng Sa đối với ông vào thời điểm này (2012) lại bị trùm phủ bởi một bầu trời đen tối của tấn bi kịch mới. Theo lệnh của Đảng c.... s.. – bởi ông là đảng viên – ông không cần nhìn rõ mặt kẻ thù, ông không được gọi đúng tên chúng, ông chỉ được khoanh tay đứng nhìn “kẻ lạ” đang hoành hành ngang ngược trên đảo, trên biển, “kẻ lạ” đang tấn công, đuổi bắt, đánh đập, giam cầm ngư dân ruột thịt của ông. Dường như ông đang lẩm bẩm một mình. Giữa sóng gió muôn trùng không ai nghe rõ lời ông: Kẻ lạ, Đảng lạ, kẻ lạ, Đảng lạ… Và rồi cũng như vợ ông đang đi tìm đôi dép màu hồng giữa cuộc đời ngày thêm tối tăm và xa lạ.
Ông đang đi tìm Đảng của ông, cũng màu hồng của một thời trai trẻ, giữa mịt mùng sóng gió của biển khơi. Tôi không biết đại dương và nỗi đau đớn tuyệt vọng của cặp vợ chồng là cha mẹ của cháu Hoàng Sa cái nào lớn hơn, lúc này và đến bao giờ?
Ghi chú
(1): Chị Nguyễn thị Tâm, y tá của phòng hồi sức cấp cứu nhi, bệnh viên đa khoa Đà Nẵng, chị Tâm là em ruột thi sĩ Nguyễn Nho Sa Mạc.
(2) Chị Thanh Xuân y tá của phòng hồi sức cấp nhi, bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng. (Phòng Hồi sức cấp cứu nhi bệnh viên Đà Nẵng là đơn vị đã được phong tặng danh hiệu: Đơn vị Anh Hùng).
(3) Chụp phim cắt lớp: CT scanner.
(4) Hạ đường huyết: hypoglycémie.
(5) Dấu hiệu sinh tồn: signe vitale.
(6) Điện tim còn gọi là điện tâm đồ (ECG: Electrocardiogramme).
(7) Phân ly nhĩ thất: Bloc A – V ( bloc atrio – ventriculaire)
(8) Hồ Dung Diễm là bác sĩ hay trực cặp với tôi.
(9) PaO2: nồng độ oxy trong máu động mạch.
(10) Chuyên khoa I, Chuyên khoa II: bằng cấp sau đại học thuộc hệ thực hành của từng chuyên ngành.
(11) viên nén: comprimé, viên nhộng: capsule.

Thanked by 2 Members:

#11 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 07/02/2019 - 20:54

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn







































Hình 1: Bà Ấu Oanh (hình nhỏ)
Hình 2: Nhà văn Dương Hùng Cường (1934-1987)
Hình 3: Ca sĩ Khuất Duy Trác
Hình 4: Một trong những tác phẩm của nhà văn Dương Hùng Cường
----


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Một câu chuyện bi thương thời hậu chiến khiến ai đọc cũng phải nghẹn ngào. Người còn sống sót sau cuộc chiến cũng chưa hẳn đã là may mắn.
KHÓC BẠN
Hồi ký của Ấu Oanh


(Tác giả Ấu Oanh là phu nhân của ca sĩ Duy Trác. Hồi ký này bà viết để khóc một người bạn - phu nhân của nhà văn Dương Hùng Cường, cũng như để thuật lại hoàn cảnh gia đình đầy xúc động của hai người phụ nữ sau ngày 30-4-1975)
“Bác Dương thôi đã thôi rồi / Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”. Từ thuở ấu thơ, anh em chúng tôi đều được mẹ ru bằng bài thơ “Khóc Bạn” của cụ Tam nguyên Yên Đổ khóc ông cố nội chúng tôi là cụ Nghè Dương Khuê. Bài thơ trở thành bài ca dao nằm trong ký ức tôi từ ngày đó, hơn 40 năm sau lại bật ra như những lời nhớ thương tha thiết của tôi với người bạn thân: Vũ Hoàng Oanh. Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê lúc tuổi đời đã xế chiều nên nỗi nhớ chỉ là ngậm ngùi, còn tôi khóc bạn khi tuổi đời chưa tới 50 là cái khóc xót thương vô hạn.
Ngày còn học Trưng Vương thì Oanh học trên tôi một lớp. Chúng tôi chỉ biết nhau nhưng chưa phải là bạn. Mãi đến khi thi vào trường sư phạm, vô tình làm sao, hai đứa trùng tên nên có số báo danh kế nhau. Gặp nhau ở trường thi, lại ngồi cạnh nhau thì không quen cũng thành quen huống chi chúng tôi cùng là dân Trưng Vương lại biết nhau từ trước. Dĩ nhiên hai đứa tôi mau chóng kết hợp với nhau, cóp qua cóp lại bài nhau nên kết quả là hai đứa cùng đậu và còn được xếp chung vào một lớp. Tôi và Oanh trở thành bạn thân từ đấy.
Oanh không đẹp nhưng dễ thương với đôi má bầu bĩnh, đôi mắt hơi đượm buồn, lúc nào cũng như vướng vất một câu hỏi gì chưa được giải đáp. Nhưng điều mà bạn bè nhớ nhất ở Oanh là tính tình đôn hậu, chiều bạn và tử tế với mọi người.
Đời học trò, dẫu rằng lớp học trò này đang chuẩn bị làm người lớn, vẫn có biết bao niềm vui, nỗi buồn non trẻ để chia sẻ cùng nhau. Đôi khi thấy bạn bè có người yêu đến đón hoặc ghé thăm, đôi mắt hỏi han của Oanh chợt tối lại, vương một chút buồn bã. Tôi gạn hỏi, Oanh chỉ lắc đầu; nhiều lần sau nữa, chẳng đặng đừng, Oanh cười mỉm chi đáp "Nhớ bồ". "Thế bồ đâu rồi?". "Bồ thuộc người khác rồi", rồi nhanh chóng Oanh lảng ngay "Thôi khỉ ạ, đừng hỏi nữa, chuyện xưa rồi".
Thời gian trôi thật nhanh. Gần đến ngày ra trường, chúng tôi gấp rút học thi và ráo riết chuẩn bị các bài thi thực tập. Một hôm, gặp phải bài thi hóc búa, tôi hỏi mượn Oanh một bài mẫu vì Oanh rất chăm chỉ trong việc sưu tầm các bài dạy mẫu, còn tôi là con cháu họ lười nên rất chểnh mảng. Oanh đang hí hoáy viết nên bảo "Mở cặp ra, ngăn bên trái đó". Tôi mở cặp lục lọi. Bài mẫu chẳng thấy đâu, tôi vớ ngay được một lá thư. Quên béng ngay bài dạy, tôi len lén kéo nhẹ tờ thư ra khỏi bao và liếc thật nhanh vài dòng. "Ồ, thư tình", tôi thầm kêu trong đầu. Vừa lúc đó Oanh quay sang, thấy vậy, Oanh vội vã quăng ngay cây bút, soài người giựt lại lá thư, miệng la bai bải: “Ối, ối, trả đây, trả đây". Lá thư không dài và cũng không có những lời lẽ yêu đương hoa mỹ nhưng đọc thì biết ngay đó là thư tình, thư tình của một nhà văn. Ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ của một người viết văn thì có muôn ngàn cách để bày tỏ tình yêu. Tôi mừng thấy bạn bẽn lẽn cất lá thư. Một chút ửng hồng trên đôi má bầu bĩnh… Từ đó tôi thấy Oanh hay cười hơn.
Trong khi chờ đợi kết quả sắp hạng ra trường, chúng tôi phải đi khám sức khỏe tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Hôm đó Oanh chở tôi bằng chiếc Vélo Solex mượn được. Chỉ còn cách bệnh viện khoảng 100m thì bất ngờ xe đang chạy ngon trớn bỗng đâm sầm vào một đống đá xanh đổ ngay giữa lòng đường. Xe mất thăng bằng đổ ập xuống, quăng hai đứa chúng tôi ra hai nơi. Lúc đó tôi đang có thai cháu đầu lòng khoảng 4 tháng. Hốt hoảng, Oanh bật dậy lao ngay về phía tôi mà không thấy rằng một đầu gối quần bị rách để lộ vết thương rướm máu và một bàn tay bị đá xanh đâm nát máu thấm đỏ cả. Oanh lính quýnh ôm nâng tôi dậy, mặt tái mét, miệng líu lại "Oanh, Oanh có sao không? Có đau bụng không?". Tôi tuy cũng rất lo sợ cho cái thai nhưng thấy Oanh quá lo lắng cho tôi, tôi thấy lòng cồn cào thương bạn nên vội trấn an "Mình không sao, đừng lo. Thôi mau nhấc xe dậy, vào ngay bệnh viện nhờ họ băng bó cho Oanh".
Ra trường, tôi về dạy ở Gia Định, còn Oanh xuống Biên Hòa. Như một xui khiến của số mệnh, người yêu của Oanh - nhà văn Dương Hùng Cường, còn có bút hiệu là Dê Húc Càn, đồng thời là một quân nhân cũng đang làm việc tại phi trường Biên Hòa. Họ đã được gần nhau, cuộc tình dẫn đến kết cuộc tốt đẹp là cái đám cưới vào năm 1964. Năm sau, 1965, Oanh sinh cháu đầu lòng Dương Mạc Thi rồi tiếp theo Oanh sinh liền 7 cô công chúa trong vòng 10 năm. Khi anh Cường đổi về làm việc tại Sài Gòn thì Oanh cũng được thuyên chuyển về dạy học tại trường Hồng Bàng (sau năm 1975 thì dạy tại trường Hùng Vương, cũng thuộc quận 5). Chúng tôi lại có dịp gần gũi nhau.
Vào khoảng năm 1974 tôi thấy Oanh ngoài giờ dạy ở trường công còn dạy thêm ở 2 trung tâm tư nữa. Thấy tôi thắc mắc sao Oanh dạy quá nhiều, không còn thời giờ dành cho các con nữa thì Oanh tâm sự: "Ông Cường giành phần chăm mấy đứa nhỏ. Ông ấy bảo, ổng ru con hay hơn mình", rồi Oanh xuống giọng "Mình phải dạy thêm lấy tiền cho ông Cường in truyện". Nói là chăm sóc con chứ thật ra thì lúc đó gia đình nào cũng có người giúp việc, lo cơm nước, giặt giũ, bế bồng trẻ nhỏ rồi. Tôi thông cảm với Oanh vì thời gian đó, lương hai vợ chồng gom lại, dẫu rằng anh Cường còn viết báo thêm cũng chỉ đủ chi tiêu cho một gia đình mười mấy miệng ăn mà thôi. Muốn in sách truyện, Oanh phải cật lực giúp chồng. Thế là bao nhiêu tiền bạc dành dụm được đều đổ dồn vào việc cho ra đời đứa con tinh thần "Vĩnh biệt Phượng". Thương thay, sách vừa xuất xưởng, chưa kịp phân phối ra ngoài thì ngày 30 tháng 4 như một cơn cuồng phong ập đến, xóa tan hết bao ước mơ, bao xây đắp của cả một miền Nam thân yêu trong đó có 2 gia đình chúng tôi. Ông xã tôi cũng như anh Dương Hùng Cường đều trở thành tù nhân của chế độ mới và hai gia đình chúng tôi trở thành những nạn nhân như trăm ngàn gia đình quân nhân, công chức chế độ cũ, luôn luôn bị soi mói, rình rập, theo dõi, lúc nào cũng sống trong phập phồng, lo lắng, sợ sệt… Với đồng lương chết đói, chúng tôi vẫn phải cố bám vào trường lớp để khỏi phải bị đuổi đi vùng Kinh tế mới. Hai đứa tôi cùng chia nhau cái ngậm ngùi của số phận. Oanh 7 con và tôi 6, gia tài chỉ là hai bàn tay trắng với cõi lòng đầy ắp âu lo. Chúng tôi càng gắn bó với nhau hơn. Hai đứa lăn lưng ra làm đủ mọi việc
Thoạt đầu là bán sách. Lúc bấy giờ chủ trương của chế độ mới là thiêu hủy hết số sách báo của miền Nam được gọi là văn hóa đồi truỵ, tàn dư Mỹ ngụy. Chúng tôi lại thuộc các gia đình văn nghệ sĩ, càng bị để ý, bị lục soát thường xuyên hơn. Nếu trái lệnh sẽ bị ghép vào đủ thứ tội tình. Để được yên thân nuôi con và cũng là để che mắt thế gian, chúng tôi gom góp hết số "tàn dư Mỹ ngụy" trong nhà, nhờ người quen dẫn dắt lên chợ sách cũ bày bán. Nhìn những cuốn sách mình từng nâng niu yêu quý từ từ đội nón ra đi, lòng tôi bùi ngùi khôn tả. Cầm cuốn "Chạy Trốn Tự Do" mà ông xã tôi mới dịch trước đó không lâu, tôi thầm tự hỏi: "Tại sao lại dịch cuốn sách mang cái tên oan nghiệt này?". Cuốn “Vĩnh biệt Phượng” của anh Dương Hùng Cường cũng cùng chung số phận, phơi mặt trên một tấm nilông trải dưới mặt đường phố sách cũ. Tôi và Oanh thủ hai cái nón rộng vành, hễ liếc xa xa thấy người quen kẻ thuộc hay bạn bè gần xa của chồng thì lập tức cái nón được kéo sụp xuống. Ôi thời thế có ai học đến chữ ngờ!
Một hôm vào khoảng xế trưa, hai đứa đang ngồi vêu ra thì một cháu gái của Oanh đạp xe lên tìm mẹ, báo tin em bé út vừa phải vào nhà thương. Khi đó cháu Dao Tiên mới non 1 tuổi. Oanh hốt hoảng ra về. Hôm sau, rồi hôm sau nữa cũng không thấy Oanh lên tôi đoán chắc Oanh phải ở trong bệnh viện với con. Ba, bốn hôm sau Oanh trở lại, cặp mắt còn sưng, òa khóc, nói "Oanh ơi, cháu Dao Tiên mất rồi. Cháu mất vì thiếu dinh dưỡng, vì đói ăn đó Oanh ạ!".
"Nghề" bán sách của chúng tôi do thời cuộc mà tự sinh thì cũng do thời cuộc mà tự diệt. Ch́úng tôi học quấn thuốc lá, vào bao rồi đem vô Chợ Lớn bán nhưng cũng chẳng được bao lâu thì chợ thuốc lá cũng bị càn quét. Tôi nhờ biết may vá từ nhỏ nên quay ra may quần áo con nít đem giao các chợ, còn Oanh thì đi bỏ mối bánh kẹo cho các căntin trường học. Cứ thế, chúng tôi lần hồi sống qua ngày.
Ngoài lúc đi kiếm cơm, chúng tôi còn rủ nhau đi kiếm chồng tù. Hai năm trời biền biệt không chút tin tức, chúng tôi lo sợ cho số phận các ông chồng. Dò la, thăm hỏi chẳng có kết quả, chúng tôi đánh bạo rủ nhau lên tận ban Quân quản Thành phố để hỏi han. Câu trả lời cũng chỉ như bao nơi khác: "Cứ yên tâm chờ đợi". Cuối cùng thì cuối năm 1977 cũng có tin về sau hơn 2 năm kể từ ngày các sĩ quan của chế độ cũ nghe lời đường mật "chuẩn bị đồ ăn uống và vật dụng cá nhân trong vòng 10 ngày để đi trình diện". Ông xã tôi bị nhốt ở trại Hàm Tân, còn anh Cường thì ở Long Khánh. Cứ 3 tháng chúng tôi được phép thăm nuôi tiếp tế thức ăn và thuốc men một lần. Hai đứa lại có dịp chỉ bảo nhau làm món gì để được lâu, thuốc nào cần nhất... để mang lên trại.
Tôi còn nhớ thời gian đó, mỗi chiều tối, sau giờ tan trường, Oanh thường ghé tôi, có khi ở đến tận khuya. Các con Oanh ở nhà đã có cô cháu gái mà Oanh cưu mang từ sau năm 75 chăm nom cơm nước. Chúng tôi ngồi bên nhau chia sẻ mọi điều. Tôi hiểu Oanh nhiều nỗi lo lắng vì nợ nần thúc giục mà không có phương cách giải quyết. Tôi đỡ hơn Oanh một chút là tôi còn có mẹ. Đôi khi hai đứa ngồi bên nhau hàng giờ mà chẳng nói với nhau một tiếng nhưng chúng tôi đều hiểu rằng chúng tôi đang chia nhau nỗi sầu khổ âm thầm.
Một hôm, khoảng sau Tết năm 1978 Oanh ghé tôi theo lệ thường, nhưng hôm đó vẻ mặt Oanh rất bần thần, ngồi hoài không nói. Tôi hỏi :
- Hôm nay Oanh có chuyện gì không mà như mất hồn vậy?
Oanh vẫn ngồi yên không nói. Tôi đứng dậy rót cho bạn ly nước, đến ngồi gần bên ân cần:
- Có việc gì hả Oanh ?
Sau một phút ngập ngừng, Oanh nói khẽ thật khẽ như sợ có ai nghe thấy:
- Ta nói cái này, đừng giật mình nhé… Mình có bầu.
Tôi giật thót mình, hai lỗ tai lùng bùng.
- Oanh nói gì? Ai có bầu?
- Mình.
- Hả?
- Mình có bầu thật đấy, vừa đi khám bác sĩ về xong.
Tôi trân trối nhìn Oanh, vẫn không tin ở hai tai mình. Biết vậy, Oanh mới tỉ tê khai:
- Hôm Tết rồi đi thăm ông Cường, trại cho ở lại một đêm…
Tôi thở phào như trút được cho chính mình gánh nặng nghìn cân. Oanh nói tiếp:
- Oanh ơi, dẫn mình đi phá đi, mới được khoảng hai tháng thôi, phá chắc dễ.
Tôi ngỡ ngàng hỏi lại:
- Phá? Sao lại phá?
- Chứ để thì làm sao coi được. Ai đời cô giáo có chồng đi tù mà lại mang bầu. Đâu có ai hiểu…
- Thì nói ra cho mọi người biết.
- Ai tin? Bạn bè, rồi còn học trò nữa chứ. Eo ôi, nghĩ đến là ta rùng mình rồi.
Tôi chợt thấy Oanh có lý. Ừ, ai mà tin nổi, nhất là thời buổi này. Toàn ban giám hiệu đều là người cách mạng, họ sẽ có cớ để bêu riếu, để bôi tro trát trấu lên đầu lên cổ vợ con “thằng ngụy". Tôi thở dài:
- Ừ, để mình tính xem.
Nói vậy cho Oanh yên lòng chứ thật ra tôi cũng chẳng biết tính làm sao. Tối đến, trong bữa cơm gia đình, tôi nói chuyện với mẹ tôi về việc Oanh muốn tôi chia sẻ. Mẹ tôi bảo:
- Ngày mai Oanh có ghé, con gọi mẹ, mẹ hỏi cô ấy một tí.
- Mẹ hỏi gì hả mẹ?
- Có phải Oanh toàn con gái không?
- Vâng, 7 đứa, bỏ 1 còn 6, toàn là gái cả.
- Mẹ muốn tính xem lần này có bầu, Oanh sẽ sinh trai hay gái.
- Trai hay gái thì thay đổi được gì hả mẹ. Cũng bia miệng mà thôi.
- Mình sẽ nghĩ cách giùm cô ấy. Vả lại, vì sợ bia miệng mà phá bỏ đi một đứa con của mình thì sẽ mang tội con ạ.
Mẹ tôi đặc biệt có một cách tính rất tài tình để biết người mẹ sẽ sinh trai hay gái. Cụ có dạy cho tôi một bài toàn chữ Hán, tôi học mãi không thuộc (vì mình có biết tí teo chữ Hán nào đâu). Tôi đã chép vào một cuốn sổ để dành nhưng qua hết đợt bố ráp này đến đợt bố ráp khác nó đã không cánh mà bay.
Dẫu rằng cả Oanh và anh Cường đều không mang tư tưởng "nhất nam viết hữu thập nữ viết vô" nhưng cha mẹ nào mà chả mong ước mình có đủ cả trai lẫn gái.
Sau khi gặp mẹ tôi, Oanh mừng lắm, không còn nghĩ đến việc phá thai nữa vì tin tưởng rằng lần này sẽ sinh được một quý tử.
Thông thường, cứ mỗi đầu tháng, các giáo viên chúng tôi đều phải họp toàn trường để kiểm điểm công việc dạy và thực hiện các chỉ thị của phòng hoặc sở giáo dục. Tôi xúi Oanh trong phiên họp kỳ này lấy cớ báo cáo một công việc gì đó rồi bôi mặt cám ơn nhà nước đã cho chúng tôi được gặp mặt, tiếp tế cho chồng ở trại giam lại còn gia ân cho ở lại trại 1 ngày 1 đêm nhân dịp Tết vừa qua nữa. Việc đó quả nhiên hiệu nghiệm. Oanh tuy bị trêu chọc song đã thoát được cơn hiểm nguy. Cũng may mắn cho Oanh, chỉ vài tháng sau khi cái bụng bầu của Oanh lộ rõ thì anh Cường được về.
Một hôm tôi vừa từ chợ về nhà thì đã thấy anh Cường ngồi đợi. Không kịp để tôi hỏi han câu nào, anh đã vào đề liền:
- Oanh sinh rồi chị, ở Bệnh viện Hùng Vương, con trai.
- Ồ, chúc mừng anh. Chắc là Oanh vui lắm. Kỳ này hai ông bà có quý tử, phải ăn mừng thôi.
Không trả lời câu nói đùa của tôi, anh chìa ra mảnh giấy cỏn con nói:
- Oanh gửi chị cái này.
Tôi vội vàng mở mảnh giấy đọc, "Oanh ơi, cứu bồ, cho mình mượn 50 đồng để đóng tiền bệnh viện nhé".
Tôi vừa đi giao hàng về nhưng cũng chỉ có trong tay 30 đồng. Tôi vội vã đạp xe lại ngay nhà chị bạn cùng trường. Tuy chẳng giàu có gì nhưng chị tương đối khá giả hơn chúng tôi vì những tháng ngày xa xưa trước 75, chị là con kiến biết lo xa, ki cóp mua vàng để dành (trong khi tôi lại là con ve, kêu ra rả hết mùa hè, chỉ biết rong chơi ca hát, cho nên khi đông về thì đói rã răng). Chị lại có lòng tốt nên bạn bè khi cơ nhỡ chị đều sẵn sàng san sẻ.
Trao cho anh Cường năm chục bạc xong, tôi biết ngày mai không có tiền chợ cho con song trong lòng vẫn vui vì mừng cho bạn, càng mừng hơn vì thấy cách tính của mẹ tôi thật chính xác, không làm cho Oanh mừng hụt. Nhưng người mừng nhất ắt hẳn là anh Dương Hùng Cường. Anh đặt tên cho cháu là Phụng Hoàng, Dương Phụng Hoàng, con chim quí.
Khoảng 3,4 năm sau khi ra tù, anh Cường liên lạc được với nhà văn Trần Tam Tiệp đang cư ngụ tại Pháp xin lên tiếng kêu gọi Văn bút Quốc tế can thiệp và giúp đỡ cho một số các gia đình văn nghệ sĩ miền Nam còn kẹt lại quê nhà, đang gặp rất nhiều khó khăn cả về hai mặt vật chất lẫn tinh thần. Ít lâu sau đó, mỗi năm gia đình chúng tôi nhận được từ 1 đến 3 thùng thuốc tây gửi từ Pháp về (nhưng có lẽ đó là do chính tiền của anh .Tiệp, chứ không phải của VBQT). Song song với thùng quà đôi khi còn có cả 1-2 tờ báo Kháng Chiến nữa. Rồi anh bảo anh em bên nhà viết bài gửi sang. Những thùng quà tuy ít ỏi này cũng đã giúp được gia đình chúng tôi qua những cơn vô cùng bĩ cực. Nhưng oan nghiệt thay, cũng chính những thùng quà này lại đưa chồng tôi, Khuất Duy Trác, anh Dương Hùng Cường và một số các văn nghệ sĩ khác như các nhà văn Doãn Quốc Sỹ, Hoàng Hải Thủy, Hiếu Chân, các nhà thơ Lý Thụy Ý, Trần Ngọc Tự… vào tù lần thứ hai. Bọn công an thành phố còn viết nguyên một cuốn truyện đầy tính bịa đặt và vu cáo có tên “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút”, hòng bôi bẩn và hạ giá nhóm văn nghệ sĩ trên, sửa soạn dư luận cho một bản án thật nặng nề. Chúng đem giam một số tại nhà giam Chí Hòa, số còn lại tại trại giam Phan Đăng Lưu, có ông xã tôi và anh Cường. Oanh và tôi lại có cùng một địa chỉ để tới lui. Số phận chúng tôi cứ gắn chặt với nhau trong những hoàn cảnh nghiệt ngã như vậy.
Do từ việc bỏ bánh kẹo cho các căn-tin trường học, Oanh lần hồi biết được cách thức để đấu thầu toàn bộ cả căn-tin của mỗi trường. Oanh rủ tôi làm công việc này. Thế là hai chúng tôi cùng khởi sự tại một ngôi trường Tàu trong Chợ Lớn. Sau này rành rẽ rồi thì mỗi đứa làm ở mỗi trường khác nhau.
Cứ vào cuối mỗi năm học, giáo viên các trường đều phải điều chỉnh lại tờ lý lịch đã khai từ những ngày đổi đời 30-4-75. Năm 1980, con gái thứ hai của tôi đi vượt biên, tôi không khai. Đến khi ông xã tôi bị bắt lại lần 2 tôi cũng không khai. Ban giám hiệu nhà trường chắc hẳn không biết nên tôi vẫn được yên thân. Bất ngờ, vào đầu năm 87, hiệu trưởng mời tôi lên nói chuyện. Bà hỏi han tôi về tình hình gia đình, chồng con, công việc... và cuối cùng bà hỏi tôi có "up to date" lý lịch đầy đủ cho mỗi năm không. Tôi manh nha thấy điều gì đó không ổn. Tuần lễ sau tôi xin nghỉ bệnh và tuần kế tiếp tôi tống tiếp lá đơn xin thôi việc. Ở thời điểm này, chiến dịch tống khứ gia đình vợ con tù cải tạo đi kinh tế mới đã chấm dứt vì hoàn toàn thất bại. Từ các vùng kinh tế mới, biết bao gia đình đói rách tả tơi, bệnh hoạn, người sống kẻ chết, lũ lượt kéo về thành phố, nằm la liệt tại các công viên, chợ, nhà thờ, chùa…, chính quyền không thể xua đuổi vì họ không còn nơi chốn để dung thân nữa. Do đó tôi không còn lo sợ vì phải lên rừng lập nghiệp. Lại nữa tống khứ đi được một con vợ "ngụy" cũng nhẹ gánh lo cho ban giám hiệu nên họ nhận đơn mà không hỏi han gì cả.
Thời gian này rộ lên rất nhiều tin tức về việc Mỹ sẽ đón các sĩ quan QLVNCH bị tù cải tạo. Tuy rằng chỉ là tin đồn miệng, chẳng có một nguồn xác thực nào nhưng chúng tôi vẫn cứ nuôi hy vọng trong lòng để tiếp tục sống và tiếp tục chịu đựng.
Một ngày đầu tháng 12 năm 1987, lúc đó khoảng 2-3 giờ trưa tôi đang ở nhà thì cô cháu gái của Oanh đến, mặt mũi phờ phạc, nói như đứt hơi: "Cô ơi, chú Cường mất rồi, cô con đang xỉu ở nhà, cô xuống mau đi cô".
Khi tôi bước chân vào đến nhà thì thấy Oanh đang vật vã vừa khóc vừa gào: "Tôi không sống một mình đâu, trời ơi là trời". "Anh Cường ơi, em không sống một mình đâu!”. Tôi ôm lấy tấm thân gầy guộc của bạn, lòng đau xót từng cơn và nước mắt cứ mặc tình tuôn chảy… Không biết bao lâu sau, khi kêu gào đã quá mệt, tôi đỡ Oanh nằm xuống giường rồi bảo với các con Oanh: " Để yên cho mẹ nghỉ một chút".
Hàng xóm xung quanh nghe tiếng khóc, vài ba người lấp ló ngoài cửa.
Bình tâm trở lại, tôi hỏi thăm cháu Linh, cháu tỉ tê kể: "Sáng nay cháu ở nhà, công an khu vực tới đòi gặp mẹ. Cháu bảo mẹ đang dạy ở trường, anh ấy nhắn bảo mẹ ra phường gấp có giấy báo của bố". Khi cháu ra trường bảo cho mẹ biết thì mẹ vẫn nghĩ là tin mừng. Mẹ bảo "chắc bố được thả…ồ, hay là…Mỹ đón". Mẹ bảo cháu về trước, chuẩn bị đồ vest cho Bố. Đến khi hai mẹ con ra đến phường nhận giấy mới vỡ lẽ… Họ bảo sáng ra đến giờ tập họp, không thấy bố ra, đến đập cửa phòng cũng không thấy bố cháu trả lời, họ mở khóa ra thì thấy bố cháu đã mất rồi.
Oanh được phép đến trại giam Phan Đăng Lưu để nhận diện xác chồng trước khi được phép chôn cất. Đám tang phải làm gấp ngày hôm sau và chỉ cho 2 người mang áo quan vào lấy xác tại khám Chí Hòa mà thôi. Hôm sau tôi đi cùng với Oanh nhưng phải ngồi chờ ngoài gốc cây trước cổng trại cùng với các con nhỏ cuả Oanh. Số bạn bè và họ hàng thân thuộc đến đưa tiễn đều không được tập trung một nơi mà phải phân tán rải rác dọc theo con đường Hòa Hưng, chờ đợi khi xe tang ra đến đầu đường rồi mới được tháp tùng theo. Ôi, sao mà độc ác thế. Người sống chúng không tha đã đành, người chết chúng cũng không cho chôn cất tử tế… Huyệt mộ đã lấp lại rồi nhưng Oanh vẫn đứng trơ trơ như một bức tượng. Nước mắt đâu? Có lẽ nó đã chảy ngược vào lòng. Tôi chợt nhớ đến bài thơ "Đi nhận xác chồng" của Lê Thị Ý:
“…Mùi hương cứ tưởng hơi chồng
Ôm mồ cứ tưởng ôm vòng người yêu”.
Thật tội nghiệp cho bạn tôi. Cũng thật tội nghiệp cho những người phụ nữ trót sinh ra trong thời đại chúng tôi.
Vết thương tang chồng chưa ngưng chảy máu thì 3 tháng sau Oanh lại phải rứt ruột đẩy đứa con gái đầu lòng thân yêu, Dương Mạc Thi, ra đi trong một chuyến vượt biển với bao bất trắc chờ đợi. Than ôi, đó cũng là lần cuối cùng Oanh nắm đ̣ược bàn tay nhỏ bé của con: chuyến tàu chở cháu Thi đã không bao giờ tới bến. Chỉ trong vòng 4 tháng Oanh đưa hình hai người thương yêu nhất đời mình lên chùa…
Rồi dòng đời lại tất bật trôi đi. Oanh vội vã bịt kín những vết thương, dấu chặt nó vào tận cùng trái tim để ngày ngày phải đối mặt với những cam go của cuộc sống, với tương lai của bầy con còn lại. Thời gian sau này chúng tôi ít gặp nhau hơn vì mỗi đứa thầu riêng mỗi trường mà công việc thì quá đa đoan, tất bật, cần đến rất nhiều thời gian, Oanh lại vẫn theo đuổi công việc dạy học.
Mùa hè năm 1989, giữa chúng tôi có vài chuyện không vui, tôi giận Oanh. Biết mình không đúng, xin lỗi tôi không xong, Oanh nhờ một cô bạn khác đến năn nỉ, tôi vẫn gan cùng mình không chịu làm hòa. Gần 2 tháng trời chúng tôi không gặp nhau. Một buổi trời đã chạng vạng tối, một anh bạn tù của ông xã tôi, hốt hoảng đến báo tin Oanh bị đụng xe, đã đưa vào Bệnh viện Trưng Vương, nhưng tình trạng hình như không được ổn. Tôi tức tốc vào thẳng nhà thương trong tâm trạng rối bời và thật hồi hộp.
Oanh nằm đó, bất động, đôi mắt đã khép lại vĩnh viễn… Tôi bật lên khóc nức nở, nắm lấy tay bạn, sờ lên mặt bạn, vuốt trên người bạn, tôi muốn gào lên "Oanh ơi. Oanh ơi, mình đây, mình đang ở bên Oanh đây, mình không còn giận Oanh nữa đâu, tỉnh dậy đi Oanh ơi!”. Tôi đưa tay bứt mớ tóc trên đầu xem mình có thật sự tỉnh không, có phải đây là sự thật không… Nỗi hối hận trong tôi trào lên, tôi giận tôi, tôi ghét tôi, tôi là con bạn tồi, sao tôi cố chấp thế…Tuy đã cố dằn vì chỗ đông người, cổ họng tôi vẫn bật lên tiếng gọi "Oanh ơi. Oanh ơi. Dậy đi, mình thương Oanh lắm, có nghe mình nói không?".
Tôi ngồi bên Oanh như thế, nước mắt tiếp tục chảy không thôi, biết bao điều muốn vuột ra khỏi trái tim nên lồng ngực đau thắt… Lâu lắm, chợt nghe tiếng bà dì Oanh nói: "Cô phụ tôi thay quần áo cho Oanh nhé. Người bây giờ còn mềm, thay dễ".
Tôi nâng đầu Oanh dậy, tay chạm ngay vết thương sau ót, máu còn dính bết vào tóc. Đến lúc thay áo lại phát hiện ra phần dưới cũng bị thương, hình như vỡ xương hông thì phải. Ôi, đau đớn biết bao!
Mãi sau này các cháu con Oanh mới kể rằng, sáng hôm đó một cậu nhỏ mới quen đến chở Oanh về Thủ Đức để đi hỏi vợ giùm cho cậu ta. Buổi chiều, trên đường về, đã gần đến nhà, đang băng qua con lộ Lý Thường Kiệt để vào ngõ thì bị một xe hơi do người tài xế say rượu đâm phải.
Oanh là thế đấy, hay làm chuyện bao đồng để giúp người.
Oanh mất đi bỏ lại bầy con 5 đứa. Con chim quý, Phụng Hoàng, của vợ chồng Oanh sinh bất phùng thời, mới 10 tuổi đầu đã mồ côi cả cha lẫn mẹ. Nhưng như một định luật bù trừ, hai con lớn của Oanh tiếp tục công việc của mẹ, không những đã duy trì được mức sống đầy đủ cho gia đình mà các cháu còn dìu dắt nhau học hành tới nơi tới chốn nữa. Nếu người ta tin có linh hồn thì chính linh hồn người Mẹ, day dứt lúc ra đi, đã quay trở lại thế gian này để phù trợ cho các con vươn lên trong cuộc sống.
Hôm nay ngồi viết những dòng hồi tưởng này về một phần đời không nhỏ của bạn tôi, Vũ Hoàng Oanh, người phụ nữ tâm tính hiền lành, hay giúp đỡ người khác nhưng số phận cay nghiệt đã dành cho cuộc đời bao tang thương, oan trái. Khi sống, tâm tư luôn mòn mỏi vì lo toan cơm áo, còn mang nặng những vết thương không cơ hàn gắn. Đến lúc lìa đời, lại ra đi trong một cơn mê khốc liệt với thân thể đớn đau, với cõi lòng đứt đoạn vì bầy con thơ dại.
Oanh ơi, những dòng hồi ức hôm nay cũng còn là những nén hương muộn màng mình thắp lên để nhớ đến Oanh, nhớ đến một quãng đời hai chúng ta cùng chung bước trải dài từ tuổi học trò cho đến khi vĩnh biệt.
“Ngủ đi Oanh, hỡi bạn hiền,
Ngủ cho say nhé, triền miên giấc nồng.
Chuông chùa vọng giữa thinh không
Đưa hồn an lạc về vùng tịnh yên”.
Ấu Oanh

Thanked by 1 Member:

#12 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 18/02/2019 - 20:43

Người v ã i linh hồn

Nếu mọi chuyện trên đời đều diễn biến đúng như ta dự định thì đến bây gờ tôi chẳng còn gì mà viết về trận đánh bốt Chè năm ấy nữa. Công tác chuẩn bị chiến trường tiến hành đúng tinh thần chỉ đạo của phòng tham mưu. Số liệu biến động về quân số và vũ khí của địch được điểm từng ngày. Sơ đồ phòng ngự bốt Chè được vẽ đi vẽ lại đến độ tin cậy gần như tuyệt đối. Trinh sát hoả lực kiểm tra đi kiểm tra lại toàn bộ hoả điểm, đánh dấu bằng đủ các loại lý hiệu trên sơ đồ. Thế là chắc quá chứ gì !

Chiến tranh không phải trò đùa, chỉ có một bên bắn súng và một bên chỉ được quyền ăn đạn. Phải công nhận tên đại uý chỉ huy trưởng bốt Chè là một tay cáo già trong chiến trận, biết giấu chủ bài. Mặc cho mỗi lần trinh sát hoả lực, quân ta nhử thế nào, hắn vẫn ghìm không cho hai ổ đại liên găm ở hầm ngầm phát hoả. Chính vì thế, khi đại đội chúng tôi bung hàng rào tiến vào trung thâm theo đội hình đầu nhọn đuôi dài, hắn mới cho hai ổ đại liên ở hầm ngầm bắn chéo cánh sẻ. Ðợt tiến công của chúng tôi bị chặn khựng lại. Cả đại đội nằm dán bụng xuống đất, không ngóc đầu lên được. Giá có phép gì dũi được đất, dìm cả người xuống, chúng tôi mới hy vọng giữ được cả gáo lẫn càng. Tình huống bất ngờ này không hề được tính đến trong phương án tác chiến. Các cấp chỉ huy không kịp phản ứng, cứ đâu nằm yên đấy. Mọi lần trước, đại đội bị vấp, chi uỷ thường hội ý cấp tốc rồi vạch chủ trương, nhưng lần này Luật, đại đội trưởng nằm ngay vị trí tiểu đội mũi nhọn chúng tôi, chính trị viên ở cuối đội hình, chính trị viên phó đang lo kéo một số thương binh ra ngoài hàng rào kẽm gai băng bó. Chính trị viên rút khẩu Xmít Oétxon, bắn một phát lên trời rồi bật dậy lao về phía trước hô lớn :
- Các đảng viên c.... s.. tiến...
Một viên đạn đã cắt ngang khẩu hiệu tiến quân. Luật bò lùi xuống bên tôi, hất đầu về phía hoả điểm trước mặt.
- Cậu diệt thằng trái, còn thằng phải để mình.
Tiểu đội mũi nhọn chia đôi hàng chữ V, một nửa bò theo Luật, một nửa bò theo tôi. Thằng Vĩnh nằm bẹp lại. Tôi bò lùi xuống :
- Sao ?
Giọng Vĩnh lạc hẳn đi :
- Ðạn nó bắn như mưa, lên sao được.
- Mày nằm đây chờ chết à !
- Lên cũng chết.
Không sao ép một thằng hèn thành người lính dũng cảm trước làn mưa đạn được, tôi quát lên :
- Ðưa băng đạn cho t*o. Cả hai quả lựu đạn nữa.
- Thế nó phản kích, tôi chết à.
Tôi lộn tiết, giằng luôn khẩu tiểu liên của nó :
- t*o phải lên, mày giữ lá cờ đại đội cho t*o.
Bò dưới làn đạn, tôi vẫn quan sát hoả điểm. Tự dưng đốm lửa tắt lịm ở lỗ châu mai. Bọn địch đang thay băng đạn. Tôi bật dậy lao lên áp sát hầm ngầm. Bọn giặc ẩy lựu đạn ra. Tôi chộp ngay lấy, nhét vội vào lỗ châu mai rồi lùa nòng tiểu liên lia một băng. Tiếng reo hò ở phía sau vang dội bên tai tôi. Ðại hội bốn đã tràn ngập căn cứ giặc. Chưa trận nào chúng tôi vất vả như lần này. Chúng tôi phải vật nhau với từng lô cốt con, đến gần sáng mới đánh sập sở chỉ huy của giặc. Luật nhảy bổ lên ôm chầm lấy tôi. Tiểu đoàn trưởng chạy ào đến :
- Nhanh lên các bố ơi. Gần sáng rồi, thu dọn chiến lợi phẩm nhanh lên. Hencát nó cù cho dài rốn, lại iarơcu(1) bây giờ.
(1. IRQ : ỉa ra quần.)
Tôi quay lại thấy thằng Vĩnh vừa chạy đến. ống quần bên trái bám chặt vào bắp đùi nó. Tôi giật vội băng cứu thương vẫn cài ở thắt lưng. Luật giơ tay cản lại :
- Nó **** linh hồn toé ra quần đấy.

Chúng tôi rút về thôn Nội, cách bốt Chè bốn kilômét. Dân quân đã đào sẵn hầm hố tránh máy bay. Các đơn vị ở thê đội hai đêm qua, bây giờ đã chia nhau bảo vệ vòng ngoài cho chúng tôi. Các gia đình ở nông Nội đã chia nhau mỗi nhà nấu sẵn nồi cháo gà, nhưng sau một đêm vừa bận tập vừa lăn lê bò toài, đứa nào đứa ấy chỉ húp qua loa. ¡n là phụ, ngủ là chính, nằm lăn trên ổ rơm chẳng đứa nào biết đất là gì, trời là gì nữa. Ðột nhiên tôi bị dựng dậy. Mắt nhắm mắt mở, tôi nghe lõm bõm lệnh của Luật :
- Ði công tác đột xuất. Cả tiểu đội chỉnh đốn quân trang, lên tiểu đoàn nhận nhiệm vụ.
- Rõ !
Lên tiểu đoàn trưởng, chúng tôi mới biết có đồng chí Bạn về quay phim. Trận đánh đã kết thúc, chúng tôi phải diễn lại. Cảnh đồng chí Bạn cần quay đầu tiên là cảnh cắm cờ trên bốt Chè.
Tôi ngơ ngác hỏi lại :
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, đánh xong, thu dọn chiến trường rồi về đây ngay, chúng tôi không kịp cắm cờ.
- Thì lên phim, các đồng chí phải đóng lại.
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, chúng tôi có cờ đâu mà cắm.
- Lá cờ Quyết Thắng, trung đoàn trưởng giao cho tiểu đội mũi nhọn trước giờ xuất kích đâu ? Ðồng chí là tiểu đội trưởng nhận cờ trước hàng quân, tại sao đồng chí lại nói là không có cờ ? - Báo cáo tiểu đoàn trưởng, lúc đại đội trưởng ra lệnh cho tôi lên, tôi giao cờ cho đồng chí Vĩnh. Lúc tôi bịt mồm được thằng đại liên, cả đại đội xông lên, đồng chí Vĩnh cũng ào theo, bỏ
quên cờ ở trận địa.
- Tại sao các đồng chí không đi tìm ?
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, tôi quay lại tìm nhưng ở chỗ ấy, tôi chỉ ba hố cối 81, chẳng thấy lá cờ đâu cả.
Tiểu đoàn trưởng quay sang bảo liên lạc viên xuống đại đội ba lấy lá cờ Quyết Thắng khác lên.
Cũng may cho thằng vĩnh lại lấy cháu tham mưu trưởng trung đoàn nên việc này đã được tiểu đoàn trưởng cho qua. Chuyện này thôi không nói nữa.
Vừa gặp chúng tôi ở sở chỉ huy trung đoàn, đồng chí Bạn tươi cười bắt tay chúng tôi :
- Vĩnh quang Việt Nam. Tôi tự hào chúng mày !
Chúng tôi mím môi lại không dám cười.

Dựng lại cảnh cắm cờ không đơn giản như chúng tôi đã tưởng. Ðại đội tiểu pháo 20 ly dàn ở vòng ngoài, đại đội trọng liên trợ chiến bố trí ở vòng trong, bốn đài quan sát phòng không dựng ở bốn hướng, một đại đội bộ binh bố trí quanh bốt Chè sẵn sàng đánh quân nhảy dù định vồ mồi. Còn chúng tôi, theo lệnh của đồng chí Bạn, chúng tôi cứ phải diễn đi diễn lại cảnh diệt hầm ngầm cho đến khi thấy đạt yêu cầu, máy quay phim mới bắt đầu quay. Thật hại cho tôi, khi thử pháo nổ, một mảnh bê tông trong hầm ngầm văng vào đầu gối tôi làm ngã dúi xuống. Tôi định chồm dậy nhưng chân không đủ lực làm điểm trụ được nữa rồi. Y tá chạy vào dìu tôi ra băng bó cho cầm máu. Thế là tôi không được đóng tiếp cảnh sau nữa. Luật đến gặp anh phiên dịch, nhờ anh báo cáo với đồng chí Bạn cho thay người cắm cờ. Ðồng chí Bạn gật đầu, vừa lững thững đi trước tiểu đội chúng tôi đang xếp hàng ngang vừa ngắm nghía từng đứa. Khi quay trở lại đồng chí Bạn dừng chân trước mặt Vĩnh, trỏ ngón tay vào ngực cậu ta :
- Tốt. Người lính này cầm cờ.
Trước khi chúng tôi đi, tiểu đoàn trưởng nhắc đi nhắc lại : Bộ phim này rất quan trọng, cả thế giới sẽ xem bộ phim này. Mỗi ý kiến của đồng chí Bạn là một mệnh lệnh, các đồng chí phải nghiêm chỉnh chấp hành. Chính vì thế, Luật vừa giơ tay định nói câu gì đó phản đối nhưng anh vội bỏ tay xuống. Từ đó anh mất vui, đóng cảnh cắm cờ chẳng lấy gì làm hào hứng. Công binh điểm hoả tám cái bánh khảo (1) xung quanh sở chỉ huy bốt Chè cho đồng chí Bạn thu cảnh khói lửa vào ống kính.
(1. Bánh khảo : bộc phá.)

Ðến cảnh cắm cờ, theo sự chỉ dẫn của đồng chí Bạn, Luật vung khẩu Xmít Oétxơn vọt lên trước, Vĩnh giương cao cán cờ chạy theo anh, cả tiểu đội chạy theo sau. Cắt cảnh. Tiếp đó, Vĩnh chạy lên nóc sở chỉ huy, co chân đạp cán cờ cho lá cờ tam tài đổ xuống đất, Vĩnh đứng xoạc chân phất cao lá cờ Quyết Thắng, cả tiểu đội chia nhau đứng hai bên, Vĩnh vừa giơ cao khẩu tiểu liên K50 băng cối vừa hết thật to. Cả tiểu đội phải diễn đi diễn lại cảnh quay này đến ba lần để đồng chí Bạn quay phim. Thấy chúng tôi có chiều uể oải, anh phiên dịch phải giải thích thêm : Theo tiêu chuẩn quốc tế thì quay ba dựng một. Các đồng chí đánh bốt Chè đã vất vả rồi, bây giờ cố vất vả thêm chút nữa để phản ánh khí thế xung trận của quân đội chúng ta cho toàn thế giới biết. Kết thúc chầu quay phim đến tái mào, chúng tôi mới được quay về thôn Nội. Trước khi đóng máy, đồng chí Bạn lần lượt bắt tay chúng tôi :
- Vĩnh quang Việt Nam. Tôi tự hào chúng mày.

Ðời lính chiến vùi đầu trong trận mạc, thì giờ đâu mà nghĩ đến những thước phim đã quay. Sau mỗi trận đánh, nhìn thấy nhau đủ càng đủ gáo là lính mừng rồi. Ðến khi chiến tranh kết thúc, chúng tôi lần lượt trả súng quay về kiếm sống, quên cả cái chuyện cảnh phim cắm cờ trên bốt Chè. Một hôm đi cắt tóc, tôi vơ một tờ báo xem cho đỡ buồn. Dòng chữ đậm đập ngay vào mắt tôi loan tin bộ phim tài liệu Dặm đường máu lửa vừa hoàn thành. Tôi sực nhớ đến đồng chí Bạn : "Tôi tự hào chúng mày". Tôi xem tiếp tấm ảnh ở cuối bài. Ơ thằng Vĩnh đang xoạc cẳng đứng trên nóc chỉ huy, hay tay phất cao lá cờ Quyết Thắng, lũ bạn tôi, nhặt mỗi thằng ở một tiểu đội đứng dàn hàng ngang hai bên thằng Vĩnh, súng giơ cao, miệng đang gào. Tuy biết đây chỉ là cảnh diễn lại sau trận đánh, nhưng tim tôi vẫn cứ đập rộn lên khi đọc đến dòng chú thích : "Cảnh cắm cờ chiến thắng trên nóc sở chỉ huy bốt Chè trong phim Dặm đường máu lửa".

Câu chuyện nếu chỉ đến thế cũng chẳng có gì mà bàn nữa. Chuyện kiếm miếng ăn hàng ngày choán ngợp hết cuộc sống đời thường của người lính đã giã từ vũ khí. Bằng khen không treo, huân chương không đeo, miễn là kiếm được cái gì đó đổ vào nồi là nhất. Vả lại, điện ảnh, còn gọi là xinêma, họ tha hồ mà diễn nhiều trò ma trước mắt chúng tôi. Cần quay phim chuồng lợn tập thể làng tôi thì người ta đi khiêng những con lợn súc của xã viên về trại lợn. Sợ lũ lợn cắn nhau người ta sát tỏi vào mồm chúng. Cần quay phim ao cá điển hình của làng tôi, người ta đã đi mua hàng xảo cá chép cỡ xắt ba xắt tư đổ vào thuyền nan cứ như họ vừa kéo được mẻ cá dưới ao lên. Chiến thắng bốt Chè không còn là niềm tự hào riêng của tiểu đoàn chúng tôi nữa mà còn là niềm tự hào của cả sư đoàn, nên ở bức tường chính giữa ngay ở cửa nhìn vào phòng truyền thống, chính uỷ sư đoàn đã duyệt cho treo tấm ảnh cắm cờ trên bốt Chè phóng to bằng cái chiếu. Loại cựu chiến binh biết thừa là các cụ diễn, còn cánh lính mới toe cứ nghênh mắt nhòm thằng Vĩnh trong ảnh đang phất cao lá cờ Quyết Thắng và cứ tưởng đấy là tấm ảnh được chụp giữa lúc tơi bời khói lửa. Gặp gỡ nhau có một ngày ở doanh trại sư đoàn, anh em còn mê mải hỏi thăm chuyện làm ăn, nên cái cảnh diễn cắm cờ trên bốt Chè cũng qua đi. Phải công nhận tấm ảnh trích ở cảnh phim rất đẹp. Tư thế chiến sĩ quân đội nhân dân đứng trên đầu thù trông rất hiên ngang. Một hoạ sĩ đã phỏng theo tấm ảnh ấy vẽ mẫu tem phát hành trong dịp kỷ niệm ngày thành lập quân đội nhân dân. Công ty phát hành sách lại in tấm ảnh cắm cờ trên bốt Chè vào bìa lịch. Cánh cựu chiến binh bắt đầu xì xào và đến ngày hội truyền thống của sư đoàn, anh em đưa vấn đề đó chất vấn chính uỷ. Chính uỷ đành phải giải thích theo kiểu thích đến đâu giải đến đấy : Các nghệ sĩ phải chọn hình tượng, chọn điển hình chứ làm sao đưa được cả sư đoàn vào một tấm ảnh. Lúc ở doanh trại sư đoàn, cánh lính cựu cứ ngậu xị lên nhưng về đến nhà, chuyện cắm cờ cũng nhạt dần. Ðại tá bơm xe, trung tá bán chè đỗ đen, thiếu tá buôn kem... tiếng gọi của cái bao tử làm chúng tôi quên hết chuyện hoa lá cành.

Hai mươi năm sau... Ðạo diễn Xtivenxơn sang Việt Nam quay bộ phim Máu và hoa. Ông đến các cơ sở sản xuất phim xem những thước phim đã quay trong thời kỳ kháng chiến và ông yêu cầu Bộ Văn hoá cho phép được gặp và phỏng vấn một số người có mặt trong những thước phim tư liệu ông đã chọn mua. Bộ Văn hoá điện sang Cục Chính trị, Cục Chính trị điện xuống sư đoàn. Bấy giờ lớp chỉ huy cũ đã về hưu. Lớp chỉ huy mới ở trường sĩ quan ra hoặc ở các đơn vị khác mới bổ sung về, ai nấy đều tin Vĩnh đã vượt qua lửa nhảy lên cắm cờ ở bốt Chè. Sư đoàn trưởng cử sĩ quan chính trị đi tìm bằng được Vĩnh về doanh trại sư đoàn gặp đạo diễn Xtivenxơn. Bộ phim máu và hoa được chiếu rộng rãi trong cả nước. Tôi cũng được giấy mời đi xem phim. Những chuyện Vĩnh kể với đạo diễn Xtivenxơn đều đúng như trong cảnh diễn cho đồng chí Bạn quay phim. Nó kể diễn biến trận đánh y như thật, có quên chăng chỉ là đoạn nó nằm bẹp xuống đất, sợ đến **** linh hồn. Luật đến tìm tôi. Anh thở dài :
- Thằng Vĩnh nó tưởng anh em ta chết hết cả rồi.
Tôi an ủi Luật :
- Dù cắm cờ thật hay cắm cờ diễn trên phim, cánh lính chiến có được ăn cái giải gì đâu.
- Sự việc chúng mình tận mắt còn bẻ quẹo đi như thế huống chi là những sự việc đã xảy ra từ 50 năm, 100 năm. Mình viết cái giấy lên Trung ương khẳng định không có chuyện cắm cờ trên bốt Chè. Cậu ký vào đây xác nhận hộ mình.
- ừ thì ký. Ðược chưa ?
- Tốt lắm. Phiền cậu ghi rõ chức vụ, phiên hiệu đơn vị hồi đó.

Tôi ghi hết. Sau này tôi mới biết chị Luật đã bán con lợn 50 ký lấy tiền cho chồng đi tìm các bạn đồng đội để khẳng định không có chuyện cắm cờ trên bốt Chè. Anh sao bức thư ấy làm mấy chục bản, anh đem từng bản sao lên nộp các cơ quan có trách nhiệm. Thế là câu chuyện đó rùm beng trong sư đoàn nhưng ai dám hạ tấm ảnh Vĩnh phất cờ ở bức tường giữa phòng truyền thống. Ai dám huỷ hàng triệu con em, hàng chục vạn bìa lịch có in ảnh Vĩnh phất cờ nữa chứ. Sư đoàn trưởng phải gặp riên mấy anh em chúng tôi đê nghị đừng "chiếu bí" sư đoàn. Trận tiêu diệt bốt Chè là trận lớn nhất trong lịch sử sư đoàn, là vinh dự của cả sư đoàn, ông không thể hạ ngay tấm ảnh cắm cờ được, ông sẽ đi tìm tấm ảnh khác. Một trăm năm nữa cũng chẳng ai tìm được tấm ảnh khác ấy đâu. Một hôm, con trai Luật đến tìm tôi :
- Chú ạ, bố cháu sắp mổ dạ dày. Bố cháu muốn gặp chú trước khi lên bàn mổ.
Tôi phóng xe đến bệnh viện.
Luật vẫy tôi đến bên giường, nắm chặt tay tôi :
- Cậu là nhà văn, đừng bao giờ chỉ viết một nửa sự thật và đừng bao giờ viết những chuyện khôn có thật thành chuyện có thật. Cậu hãy viết những điều cậu đã nghe thấy : không có chuyện cắm cờ trên bốt Chè, cậu viết ngay đi và đem đến đây đọc cho mình nghe.
- Anh đừng nói gở. Sửa một chuyện tưởng là có thành một chuyện không hề xảy ra đâu phải ngày một ngày hai. Tôi sẽ viết. Ca mổ đã thành công. Vết mổ chóng liền sẹo. Luật vẫn sống. Tấm ảnh thằng Vĩnh phất cờ treo trong phòng truyền thống sư đoàn. Gần đây, đạo diễn Xitivenxơn đã mời Vĩnh sang Anh bốc phét về chuyện cắm cờ để quảng cáo cho bộ phim Máu và hoa. Thằng con Trời ấy, số nó đỏ thật. Giá lúc tôi bảo nó đưa băng đạn và cả hai quả lựu đạn cho tôi, nó tự ái khi thấy danh dự bị xúc phạm, nó liền leo lên lấy thân mình lấp ngay lỗ châu mai thì bây giờ làm sao còn sống mà sang Anh bốc phét nữa. ở bên Anh, làm sao người ta biết được nó đã **** linh hồn trong trận đánh bốt Chè. Cái quần trong phim là cái quần khác đấy.

Vũ Bão

Sửa bởi tuphuongsg: 18/02/2019 - 20:45


Thanked by 1 Member:

#13 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 20/03/2019 - 21:30

DỦ HỌC DỦ NGU
“Trách ai ăn giấy bỏ bìa, khi thương thương vội, khi lìa lìa xa”. Câu trách như: “Tưởng giếng sâu anh nối sợi dây dài. Ai ngờ giếng cạn, tiếc hoài sợi dây”.
Thú thực, tôi học được ở GS Phạm Chung (GS Anh văn). Khi rỗi rảnh, học sinh nào thắc mắc điều gì đều được thầy giải đáp. Thuở lỏi tì (thời đệ lục, cách đây cũng khoảng 60 năm), tôi phục thầy và cũng là "cảm hứng" mà tôi thích tìm tòi, tò mò, hiếu kỳ và “khoái" học hỏi... Mời các bác chia sẻ...
N.Đ.L.
Nghe cái câu "Dủ học dủ ngu", càng học càng ngu, dễ mấy ai tin được. Càng học thì phải càng khôn ra, cũng như gừng, quế, "dủ lão dủ tân", càng già càng cay, mới phải cho chớ.
Hồi nhỏ, tôi học chữ Nho với thân phụ. Cha thì dạy nghiêm túc, nhưng thằng con thì học lơ là, lại thêm cái tánh rắn mắt, cắc cớ đã quen. Nên nhiều khi nó cố tình cắt nghĩa những câu chữ Nho học được theo ý của nó để cười chơi.
Học tới câu "Dủ học dủ ngu", tôi đã dám ngồi xếp bằng chễm chệ, đã nói là cái tánh rắn mắt, cắc cớ đã quen mà, cắt nghĩa cho thằng em tôi như vầy:
-"Dủ học dủ ngu", là "càng học càng ngu", thành ra, trò học ít thì trò ngu ít, trò học nhiều thì trò ngu nhiều, mà trò không học thì trò không ngu.
Thằng em gật đầu khoái trá, ai dè được mà cha tôi đứng ở sau lưng. Tôi bị 5 roi quắn đít và học 1 bài học nhớ đời: “chữ nghĩa thánh hiền không thể đem ra mà đùa giỡn được".
Không biết ông Mai Thảo có học một bài học để đời như tôi vậy chăng, nhưng ông cũng nói y như vậy, chỉ có điều ông không dùng "chữ nghĩa thánh hiền", mà ông dùng 2 chữ "văn chương". Ông nói : "Đối với văn chương phải nghiêm túc, không đùa giỡn được". Ông có thể lơ ngơ thất thiểu ngoài đường phố, đi bộ mà cũng bị cảnh sát công lộ phạt về tội vi phạm luật lưu thông. Ông có thể lè nhè nơi tiệc rượu khiến cho con nít giỡn mặt. Nhưng, khi viết, ông viết rất nghiêm túc, không bao giờ đùa giỡn với văn chương.
Bị đòn, bị học 1 bài học để đời, nhưng với tuổi trẻ háo thắng, tôi không bao giờ tin rằng "càng học càng ngu". Tin làm sao được khi con đường học vấn cứ thẳng tắp, lấy hết văn bằng này tới văn bằng kia và ra trường với 1 nghề vững chắc, trong khi mặt còn non choẹt, còn búng ra sữa, phải xin phép cha để râu mép. Cho được già dặn thêm 1 chút phải xin phép để râu, vì cha tôi quan niệm rằng: "Cha chưa chết, con không được để râu".
Cho đến khi lăn lộn ngoài đời, tôi mới biết rằng có rất nhiều điều mà sách vở và học đường không hề dạỵ. Học đường học chợ, học trên báo chí, nghe lóm những bậc trưởng thượng, thấy rằng kiến thức của mình "thiên bất đáo, địa bất chí", càng học càng thấy ngu.
Chưa cần nói tới những chuyện trời cao, đất rộng, biển thẳm, núi cao, sông dài chi cho xa, chỉ những câu ca dao, những câu hát ru em huê tình, tai vẫn nghe hoài, miệng cũng có khi hát, tưởng rằng đã hiểu cháo chan, ai dè biết ra, không hiểu 1 cái gì hết.
Hồi nhỏ, chị tôi ru em, vẫn thường hát câu: “Chim quyên ăn trái ổi tàu. Xứng đôi mẹ gả, ham giầu mà chi”.
Tôi nghe câu này tới thuộc lòng mà không hề thắc mắc. Dễ quá mà, "ổi tàu" là giống ổi ở bên Tàu chứ còn cái gì nữa. Giống ổi ở bên Tàu, dĩ nhiên, phải lớn hơn, phải ngon hơn ổi bên mình, cũng như con ngựa to lớn thì gọi là ngựa Bắc Thảo, con gà, con vịt to con, được gọi là gà Tàu, vịt Tàu ...
Không hề thắc mắc như vậy, cho mãi tới hơn nửa đời người, đọc 1 bài của ông Võ Phiến, mới biết rằng "ổi tàu" ở trong câu hát không phải là giống ổi bên Tàu, mà là 1 loại cây hoa, mọc thành từng lùm từng bụi ở mấy vùng đất gò miền Trung. Cây này ở miền Bắc gọi là hoa c*t lợn, còn ở cái xứ "chó ăn đá, gà ăn muối" của tôi thì gọi là bông ngũ sắc. Tôi đã từng hái trái của nó, lớn chỉ bằng hột tiêu, để ăn, đã từng hái những cái bông của nó để hút chất mật ngọt ở cuống bông, mà đâu biết tên của nó là ổi Tàu. Mẹ tôi vẫn thường hái bông ổi tàu này, chưng với đường phèn cho anh em tôi uống mỗi khi bị ho.
Có 1 câu hát ru em nữa, mà tôi cũng nghe đi nghe lại hoài:
“Trách ai ăn giấy bỏ bìa
Khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa”.
Câu này thì tôi có thắc mắc, giấy thì làm sao mà ăn? Ăn giấy bỏ bìa" là làm sao ? Tại sao hạng người "ăn giấy bỏ bìa" khi thương lại thương vội, khi lìa lại 1 mạch lìa luôn theo kiểu "hạ thủ bất lưu tình" ?
Tôi đem những thắc mắc này hỏi nhiều người, kể cả những ông thầy dạy Việt Văn, nhưng không có ai trả lời nghe xuôi tai được.
Cho mãi tới sau khi đổi đời, "giả dại qua ải" (mà chút xíu nữa thành dại thiệt), về ở rẫy, tôi mới được nghe giải thích thỏa đáng câu hát này.
Người dạy tôi là bà Ba Thời. Bà này, cạo đầu, ăn chay trường, tu tại gia, không ăn trầu, nhưng hút thuốc phun khói còn hơn là đầu máy xe lửa. Bà có biệt tài chữa bệnh bằng phương pháp cắt lể rất mát tay. Nhiều người, trong đó có tôi, nhờ bà chữa trị mà lành bịnh được. Đặc biệt bà có 3 con dao để lể, 1 cái bằng vàng, 1 cái bằng bạc, 1 cái bằng đồng, cái nào cũng chỉ lớn bằng cây móc tai. Tuỳ theo con bịnh nặng nhẹ mà bà dùng con dao nào để lể. Bà, người nẩm thấp, hơi nới về chiều ngang, mấy ngón tay mũm mĩm no tròn như nải chuối cau, nhưng cắt lể cho bịnh nhơn, bà làm coi bộ gọn gàng nhặm lẹ khéo léo lắm. Tôi khoái nhất là cái màn được bà se se mấy sợi tóc, rồi giựt nghe cóc cóc.
Đọc tới đây xin độc giả đừng vội lên án tôi là tuyên truyền đề cao cho những phương pháp chữa bệnh thiếu khoa học. Chuyện thiếu khoa học hay đúng theo khoa học, biết làm sao mà nói cho cùng. Tôi viết ra đây là theo những điều chính tôi đã từng trải qua, theo kiểu "thấy mà tin", chớ không hề thuyết phục ai phải tin theo mình cả.
Hồi 77, 78 trong nước bị khủng hoảng kinh tế nặng, một trăm thứ bệnh đều chữa bằng xuyên tâm liên. Sống ở rẫy, nếu không có những người như bà Ba Thời, bà Tám Thông, có lẽ tôi đã ấm mồ xanh cỏ từ lâu. Bà Tám Thông cũng chuyên về giác lể như bà Ba Thời, nhưng hành nghề chính thức. Mỗi ngày, bà quẩy gánh, đem đồ nghề ra chợ Phú Mỹ (nằm trên quốc lộ 15, đường SG-Vũng Tàu), giác lể, ăn tiền. Bà Ba Thời chỉ cắt có 1 vết nhỏ, rồi nặn ra 1 chút máụ. Bà còn dùng bông gòn sạch, tẩm dầu tràm, chặm lên vết thương đàng hoàng. Còn bà Tám Thông sau khi cắt, dùng bầu thủy tinh giác hơi để hút máụ. Bà nào làm ăn cũng rất bầy hầỵ. Bà dùng 1 nùi giẻ rách bươm, lau máu lau vết thương cho bịnh nhơn. Không biết 1 năm bà giặt được mấy lần, nùi giẻ dơ hầy, hôi rình.
Bởi lối chữa bịnh của bà Tám Thông làm mất máu nhiều quá, trong thời buổi ăn khoai mì cầm hơi, 1 gịot máu còn quí hơn vàng và bởi cái lối làm ăn của bà thiếu vệ sinh quá, nên tôi chỉ nhờ bà ra tay có 1 lần. Độ ấy, cứ chiều chiều là tôi cảm thấy ớn lạnh, tay chân bải hoảị. Bịnh kéo dài cả tháng không hết. Một người hàng xóm, là thím Sáu Liệt, nói tôi bị trúng nước, nếu không chữa trị cho sớm, để lậm vô phổi, thì chỉ có "bà cứu nị". Và thím giới thiệu tôi tới bà Tám Thông. Vừa nằm dài, đưa lưng trần cho bà cắt, giác, mà tôi nhờm gớm cái gì đâụ Tôi nhủ thầm là tự hậu, không bao giờ tới bà lần thứ 2. Quả thiệt như vậy, tôi không tới gặp bà lần nào nữa, vì chỉ 1 lần chữa trị đó, bịnh hết hẳn. Mấy chuyện như vậy , biết sao mà nói cho cùng.
Cái chuyện cắt lễ khiến cho tôi nói sang đàng, xin trở về đề tài "ăn giấy bỏ bìa".
Bữa ấy, tôi ráng lội qua nhà bà Ba Thời để nhờ bà trị cho cho cái chứng Thiên Đầu Thống, đau đầu có 1 bên. Bà lấy cây kim vàng ra lể. Nói không phải để quảng cáo cho bà, bà chữa bịnh đâu có nhận tiền thù lao, chỉ cứu nhân độ thế mà thôi, vả chăng, bà mất đã 10 năm có lẻ, cát bụi trở về với cát bụi lâu rồi, đâu cần tôi phải quảng cáo. Bà cắt lể, giựt tóc nghe cóc cóc cho tôi 1 hồi, bịnh 10 phần nhẹ hết 8, 9. Bà chỉ vô cái võng treo tòng teng ở góc nhà, biểu tôi: "Thằng Tám mày nằm đó, đánh 1 giấc đi, ngủ 1 giấc, mày sẽ hết nhức đầu luôn."
Nằm trên võng, chưa ngủ được, tình cờ mà tôi học được thế nào là "ăn giấy bỏ bìa".
Ngồi trên bộ ván ngựa, bà Ba Thời trải rộng tờ giấy quyến, lớn bằng tờ nhật trình khổ lớn. Bà cẩn thận xếp đôi chiều dọc của tờ giấy, bà xếp đôi nữa, rồi lại xếp đôi nữạ. Bà dùng dao rọc theo những lằn xếp. Tờ giấy, như vậy, được rọc ra thành tám mảnh, chiều dài vẫn giữ y nguyên. Tự nhiên, bà nói :
- Rọc giấy như vậy kêu bằng ăn giấỵ. Miếng giấy, t*o rọc làm 8 vun, kêu bằng ăn 8, nhiều người hà tiện, rọc thành 16 vun, kêu bằng ăn 16. Nhưng giấy ăn 16, điếu thuốc ngắn ngủn, kéo chưa đủ 3 hơi đã hết. t*o thà chịu tốn giấy, ăn 8, đặng vấn điếu nào đáng điếu nấy, hút mới đã.
Không chờ không đợi mà tôi còn mừng hơn là khi không bắt được vàng thoi bạc nén vì bỗng dưng, bà ngâm nga :
Trách ai ăn giấy bỏ bìa
Khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa.
Bà cắt nghĩa liền
- Thằng Tám mày thấy không? giấy quyến đâu có bìa, hổng có cái gì đáng mà phải bỏ hết. Vậy mà có những kẻ ăn giấy, bày đặt bỏ trên, bỏ dưới, bỏ tả, bỏ hữụ. Những kẻ ăn giấy bỏ bìa này chánh thị là ba cái quân điệu bộ kiểu cách lỏng nhách, mà lại kiêu căng phí phạm bạc hẳn không ai bằng.
Bà ngậm ngùi ngang :
- t*o khổ gần 1 đời cũng vì ba cái quân "ăn giấy bỏ bìa" này đây... Bị hồi đó, t*o nghèo quá ...
Té ra, giấy ở đây là giấy quyến để vấn thuốc, và ăn giấy là như vậy đó, chớ giấy không lẽ bỏ vô miệng mà ăn được. Và, có nghe bà Ba Thời giải thích như vậy, tôi mới hiểu được tại sao cái kẻ "ăn giấy bỏ bìa" lại "khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa".
Khi tôi cảm ơn vì đã học được, đã được giải thích tường tận những điều thắc mắc ôm ấp từ lâu, thì bà Ba Thời cười, khoe hàm răng ám khói vàng khè.
- t*o mà dạy cái gì? Chữ nghĩa của t*o vừa đủ để ký tên. Đây là tay t*o làm, miệng t*o nói, cho vui vậy thôi ...
Có người sẽ trách rằng tại làm sao mà tôi lại chấp nhận lời giải thích của 1 người phụ nữ quê mùa ít học 1 cách dễ dàng như vậỵ. Trách tôi thì tôi chịu. Thú thật, tôi vẫn còn đem thắc mắc về cái câu "ăn giấy bỏ bìa" ra hỏi nhiều người lắm, có người là nhà ngữ học lừng danh nữa, nhưng không có ai giải nghĩa được hết.
Có 1 lần, đọc trên 1 tờ báo, nơi mục giải đáp thắc mắc, tôi thấy có người cũng thắc mắc về cái câu "ăn giấy bỏ bìa", hỏi rằng giấy làm sao mà ăn được, người giữ mục giải đáp đã trả lời rằng câu đó sai rồi, phải sửa lại là "trách ai được giấy bỏ bìa" mới đúng.
Đọc tới đó tôi bỗng ngậm ngùi, vì phải ai cũng có cơ duyên gặp được bà Ba Thời như tôi vậy đâụ. Bà bây giờ, đã ra người thiên cổ, 1 chữ cũng là thầy, huống hồ bà còn dạy cho tôi nhiều điều khác nữa.
Có lần, bà mời tôi hút thuốc, bà nói thuốc ngon lắm. Thuở đó, chuyện hút thuốc, tôi còn là trong mơ, cứ tưởng thuốc ngon là thuốc nhẹ lâng lâng, như kiểu thuốc vàng sợi ở Lạng Sơn. Nào dè, thuốc của bà, mới rít vô 1 hơi, tôi đã muốn bể phổi, ho sặc sụạ. Té ra, thuốc ngon là thuốc nặng, có biết như vậy rồi, mới hiểu được tường tận ý nghĩa câu "thuốc ngon nửa điếu". Trời ơi, thuốc ngon cỡ như thuốc của bà Ba Thời, mà chỉ còn có phân nửa, quến nhựa của nửa điếu thuốc trước thì... ngon kể gì.
Tôi có cơ duyên may mắn được gặp bà Ba Thời và có gặp được bà rồi mới biết mình còn ngu nhiều lắm.
Có nhiều câu thành ngữ, nghe người ta nói, hay đọc trong báo chí, sách vở, riết rồi quen, tôi cũng nói y theo như vậy, không cần biết trúng trật, không cần nghiệm coi nó có hợp lý hay không. Thí dụ như câu "Một kiểng hai quê". Câu này, người ta vẫn thường nói và tôi vẫn nói theo, để chỉ người đàn ông có 2 vợ..
Một dịp tình cờ, tôi nghe chị Mũ Đỏ Vũ Thị Vui nói khác, chị Vui là 1 phụ nữ, có 1 thời ngang dọc, là 1 sĩ quan nổi tiếng trong binh chủng nhảy dù. Chính chị làm quan, chứ không phải làm quan tắt. Chị bày tỏ ý kiến 1 cách nhẹ nhàng, không cần thuyết phục người nghe:
- Phải nói là "Một kiểng hai huê" mới đúng.
"Huê" là "hoa", vì kiêng tên bà Hồ Thị Hoa là vợ vua Minh Mạng, nên chữ "hoa" phải đọc là "huê", ở miền Trung, có nơi còn đọc là "ba", miền Nam thì nói là "bông".
Bữa chị Vui nói đó, có mặt cả nhà thơ Lê Giang Trần. Nhà thơ này có nghĩ gì không, tôi không biết, riêng tôi, nghe xong, tôi giật mình. Té ra, bấy lâu nay mình quen miệng nói theo người ta, trật lất mà mình không biết. 1 chậu kiểng mà trồng 2 loại hoa khác nhau, để chỉ người đàn ông 2 vợ là phải quá rồi.
Từ cái câu "Một kiểng hai huê", mới hợp với câu ca dao :
"Một bồn một kiểng tuổi xanh
Một chàng, hai thiếp khổ anh nhiều bề".
Tại sao mà khổ dữ vậy?
Tại vì :
"Một chàng, hai thiếp, anh xử hiếp tôi rồi,
Tối, buồng ai nấy ngủ; gạo, hai nồi nấu riêng."
Đó, như đã nói, có nhiều câu nhiều chữ, nói riết thành quen, rồi hiểu cũng theo 1 thói quen, không cần tìm tới tận gốc cái nghĩa đích thực của nó.
Hồi nãy, tôi nói tới chữ "ổi tàu", bây giờ, xin nói tới "thịt kho tàu".
Hồi trước, chỉ có người miền Nam mới biết món thịt kho tàụ Ăn với dưa giá trong mấy ngày tết. Bây giờ, bất kỳ là Bắc, Trung, Nam, không mấy người là không biết món thịt kho tàụ. Kho làm sao, không ướp hành ướp tiều gì hết, mà vẫn thơm tho? Kho làm sao mà miếng thịt mềm rục nhưng không nát? Kho làm sao mà không bỏ nước màu, nước thịt vẫn tươi màu nâu đỏ, trong khe? Mấy điều này, xin hỏi mấy bà nội trợ lành nghề. Tôi chỉ biết về điều tôi học được về "thịt kho tàu".
Ăn món thịt kho này từ hồi mới mọc 3 cái răng cửa, tới hơn nửa đời người, tôi vẫn cứ đinh ninh món này là món của người Tàu.
Thịt kho tàu là món thịt kho của người Tàu, chắc nhiều người cũng nghĩ như tôi vậỵ.
Nghĩ riết như vậy rồi quen, không hề thắc mắc rằng trong các tiệm ăn do chính người Tàu làm chủ và làm đầu bếp chính, kể cả các tiệm ăn bình dân, không hề có món thịt kho tàu, ghi trong thực đơn. Mà thiệt, gẫm cho cùng, bên Tàu, xứ lạnh, làm gì có cây dừa, để có nước dừa tươi đổ vô nồi thịt kho.
Mãi cho đến khi đọc 1 bài của ô Bình Nguyên Lộc, viết cho các em thiếu nhi, mới hiểu rằng chữ "tàu", ở đây, theo nghĩa của người "miền dưới" là "lạt", như sông Cái Tàu Thượng, sông Cái Tàu Hạ là 2 con sông nước lợ.
Té ra, kho tàu là kho lạt lạt chứ không phải là kho theo kiểu người Tàu.
Cũng nói quen miệng mà không cần tìm hiểu là "cây lẻ bạn".
Lẻ bạn là loại cây giống như cây thơm, cây dứa, nhưng thấp hơn, nhỏ hơn, cao độ hai tấc, hai tấc rưỡi là cùng. Tàu lá lẻ bạn màu tím than, bông mục ra ở dưới gốc, giống như 2 cái vỏ sò khép lại. Khi bông nở, hai mảnh hé ra, nhụy là những hột trắng tươi.
Ở miền Nam, người ta thường trồng cây lẻ bạn ở những gò mả, ngụ ý 1 sự thương tiếc ngậm ngùi, người sống cũng lẻ bạn, người chết cũng lẻ bạn.
Đó là tất cả những gì mà tôi biết, tôi hiểu về cây lẻ bạn. Tôi chưa 1 lần trồng cây lẻ bạn bên mộ của ai, nhưng tôi thích cái ý nghĩa nàỵ.
Nào dè tôi biết, tôi hiểu trật lất.
Đọc sách cụ Vương Hồng Sển mới biết cây này tên của nó không phải là cây "lẻ bạn", mà là "lão Bạng", lấy từ câu "lão Bạng sanh châu" (con trai, con sò già, sanh ra ngọc). Sở dĩ cây gọi làm vậy là vì bông của nó giống như 2 vỏ sò úp lại và khi nở bày nhụy trắng tinh bên trong như những hạt minh châụ
Cụ Vương còn cho biết ở vùng núi Ngũ Hành Sơn ở Quảng Nam, cây Lão Bạng mọc làng khang.
Biết thêm 1 điều gì, đỡ ngu thêm 1 chút, nhưng trường hợp của cây Lão Bạng này, tôi nghĩ thà là không biết còn hơn. Bấy lâu, tôi vẫn thấy bụi cây màu tím đó, mọc bên cạnh 1 ngôi mộ, là 1 hình ảnh nên thơ, nói lên 1 ý nghĩa thương tiếc ngậm ngùi. "Lẻ bạn" bỗng trở thành "Lão Bạng", hình ảnh nên thơ, chan chứa tình cảm đó, bỗng nhiên biến mất ...
Tôi, bây giờ, ai "đem tiêu muối vải lên đầu" rồi, mà muối đã nhiều hơn tiêu, ngồi mà tiếc lại thời gian đã qua, bỏ lỡ nhiều dịp may để mà học. Nhưng, tiếc là tiếc vậy thôi chứ làm sao níu kéo lại được thời gian.
Thế giới càng ngày càng văn minh tấn tới. Khoa học kỹ thuật tiến triển mau lẹ tới mức theo không kịp, tôi vẫn nuôi tham vọng muốn học nhiều, nhưng ngày giờ có chừng, sức người có hạn, học làm sao cho hết. Bà Ba Thời đã về với cát bụi, các ông BNL, VHS cũng không còn, nhưng các bạn trẻ tấn lên, cái kiến thức về KHKT của họ, học biết bao giờ rồi?
Đức Khổng Tử dạy rằng: "Vi nhơn nan"(làm người thì khó). Nội cái chuyện học làm sao để sống cho ra con người, xứng đáng là 1 con người, cũng đã hụt hơi.
Tôi lớn lên trong phong trào Hướng Đạo. Luật phong trào dạy: "trong sạch từ tư tưởng, lời nói tới việc làm". Cho tới ngày giờ này, điều luật vẫn làm tôi lao đao, chỉ biết cố giữ câu châm ngôn "gắng sức" của sói con, để cho ngựa đừng trở chứng đạp ràọ.
Đức Phật là người đi mà không đến. Cái học của tôi cũng vậy, học thầy, học bạn, học sách, học báo, học đường, học chợ, học chỉ để mà học. "Dủ học dủ ngu".
Ngày xưa, thầy Tử Lộ hỏi Đức Khổng Tử khi nào thì chấm dứt sự học. Vị Vạn thế Sư Biểu đã trả lời rằng :
- Khi huyệt đã đào nhẵn nhụi rồi, đất đã đắp chắc chắn rồi, người đi đưa đã quay chưn lui gót rồi, lúc đó mới hết học.
Và, cái học khó nhứt vẫn là học làm sao để sống cho ra con người ...
(Tự Truyện Nguyễn Đức Lập) (1945 - 29-2-2016).

---------------------------------------
Có 1 ý kiến của 1 bạn như vầy:



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

: Cho phép tôi nói về câu ca dao nổi tiếng:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Tôi cũng đọc nghêu ngao và thuộc lòng như mọi người , và cũng đinh ninh đó là giá gương. Trong khi đó, phần lớn gương là treo tường. Có nhớ câu: Gương kia ngự ở trên tường, trong chuyện cổ tích Nàng Bạch tuyết và bẩy chú lùn. Rồi may mắn lắm thì có gương có chân để trên bàn trang điểm. Cho tới một hôm cùng ông nội dọn bàn thờ ngày 30 Tết. Thủa đó, bàn thờ nhà tôi chỉ là một cái bàn bình thường chứ không phải như thời nay. Bàn để vị trí trang trọng trong nhà. Ngày thường, lư hương được để trên cái hộp gỗ nhỏ cao khoảng một gang tay người lớn, mà bố tôi thường để giấy tờ trong đó. Trên mặt hộp trải giấy đỏ. Ngày 30, ông nội tôi lấy một miếng lụa đỏ, phủ lên hộp gỗ. Sau đó, ông đặt lư hương lên và đọc cho tôi nghe: Nhiễu điều phủ lấy giá hương. Tức là giá để lư hương được phủ tấm lụa đỏ
Tôi hiểu và nhớ vậy từ nhỏ.
Vậy mà trong các sách đều ghi “ giá gương”
Xin được nghe ý kiến mọi người về câu ca dao đó ạ.

Thanked by 1 Member:

#14 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 07/04/2019 - 21:01

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Mời đọc lại tác phẩm chấn động 30 trước
"Cái đêm hôm ấy.... đêm gì?"

của nhà văn Phùng Gia Lộc

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tác giả Phùng Gia Lộc, tháng 6-1988 - Ảnh tư liệu

Cuối năm 1983, tôi được ở nhà chờ quyết định về nghỉ chế độ. Chiều chủ nhật, thằng Học con tôi rủ rỉ nói:
- Con bắt được bác Quang ăn bánh cuốn ở hàng anh Minh. Bác đi thồ sắn ở chợ Phúc Địa về. Bác cho mấy bó nhưng con không lấy. Bác dặn con về đừng nói với bố mẹ là đã gặp bác. Nói, hôm nào sang bác đánh chết.
- Hừ! Lại thế nữa...
Tôi buột miệng bảo với con thế, rồi thừ ra. Bạn bè anh em cùng một phòng với nhau mà đi qua không vào. Có điều gì nhỉ?
Sáng thứ hai tôi sang cơ quan ứng mấy cân gạo và định bụng sẽ gặp, trút sấm sét lên đầu anh ấy. Nghe tôi trách, Lê Trung Quang, trưởng phòng tổ chức Ủy ban huyện Thọ Xuân, cười hà hà làm lành thật đôn hậu, dễ yêu:
- Giá có một mình thì tôi vào. Đằng này những bốn binh, khao được, anh cũng liệt. Vả lại, bốn cái xe nặng è, sợ tối.
Là trưởng phòng tổ chức ủy ban huyện, anh cũng để gia đình vợ con đói thiếu. Ra anh còn kém cỏi hơn cả tôi, một kẻ chân chim trần trụi, một tay sắp trở thành "phó thường dân". "Nhà mình cũng bí. Nộp sản đi rồi, lúa đã cạn. Khó mà ăn thấu tết được". Quang lắc đầu bảo thế.
Anh gạn tôi:
- Ông ở đây với tôi đêm nay cho vui. Tôi buồn quá.
Tôi chỉ vào mấy cân gạo đã bó buộc sau xe, bảo anh Quang:
- Phải mang "hàng chiến lược" này về chứ.
Nếu nghe lời Lê Quang Trung nằm lại với anh một đêm, thì tôi đã không thể nào hình dung nổi ở Phú Yên xã tôi Cái đêm hôm ấy là đêm gì...
Có cái "các" quá giang của Lê Trung Quang cho mượn, tôi không phải mất ba đồng tiền đò. Qua sông Chu gió vù vù bên tai, tôi phải kéo vành mũ len, trùm thấp cho đỡ run. Tôi về đến nhà, trời đã sẩm tối, con mực xông ra í a í ẳng vờn chân lên hông. Vợ tôi bế thằng Văn ngủ khì trong lòng, ngồi bên bếp than vỏ cao su um khói. Bên cạnh, thằng cu Thức bốn tuổi đang liến láu. Còn Học - thằng con nhớn đang học bài ở nhà trên.
Thấy tôi về thằng Thức reo lên:
- A bố! Bố về là bố về! Có chi không bố?
- Có cái rét cóng đây này!
Tôi nói rồi dắt xe vào nhà, mở túi gạo, vác xuống bếp khoe:
- Ứng được năm cân gạo.
Bà cụ thân sinh ra tôi mệt đã lâu, thấy tôi về, cũng gượng chống gậy xuống bếp sưởi. Cụ bảo:
- Mẹ Học đi nấu cơm cho bố va ăn!
Tôi hỏi:
- Nhà ăn rồi hả mẹ?
Cái thằng Thức đến là hở miệng, cấm có giấu nó được tí gì. Nó nói:
- Chỉ nấu cơm cho bà với em thôi! Mẹ với anh Học, với con ăn cháo rau má rồi. Bữa nay mẹ luộc rõ nhiều rau cải.
Tôi thấy cay sè trong mắt.
- Thế thì nấu thêm vào. Hết thì t*o đi bới đất, nhặt cỏ, van ông vái bà. Làm con người mà miếng cơm chín vào bụng vẫn không đủ thì sống thế nào?
Vợ tôi định cãi câu gì đó, nhưng lại thôi, vội trao thằng Văn cho bà rồi lại mở túi gạo đi vo. Bà cụ nói:
- Rau cải ế nhăn! Đói, chả mấy người mua. Hôm nay mẹ va không đong được gạo. May lấy được đấy, không thì mai gác con lên...
Ngoài cửa gió ào ào, tiếng chó sủa ổng oảng ở đầu ngõ. Có tiếng ai hỏi mua rau cải nhà tôi. Cô Hoa vợ chú Được. Hoa cũng người họ Phùng, gọi tôi bằng bác. Chồng cô ấy là đội trưởng đội sản xuất cũ, nay vừa được rút lên làm trưởng ban định mức, rồi phó chủ nhiệm. Cô vào bếp vừa nói, vừa run:
- Sao năm nay rét sớm thế này? Bác bán cho cháu mấy bó rau cải xào.
Vợ tôi bắc nồi cơm lên bếp, mấy bà cháu phải dồn chỗ cho hai người đàn bà tê cóng này ngồi cạnh bếp hơ tay, ngó chẳng khác những viên đạn bị nén trong cái băng lò xo tròn. Tuy gần bằng tuổi vợ tôi, nhưng là hàng cháu họ, nên Hoa vẫn bác bác, cháu cháu ngon ơ.
- Bác có ngan, gà gì để cho cháu vài cân. Giá mấy cũng được, cháu không quản.
- Còn có vài ba con, phải để hôm sau bà...
Tôi lừ mắt chặn lại câu nói hớ, khiến vợ tôi im bặt. Chả là vì mẹ đẻ ra tôi yếu lắm rồi. Cụ đã bảy mươi lăm tuổi, lại phù nề mặt mũi vàng ủng như quả thị rụng. Ai cũng bảo khó qua cái đầu mùa Đông này. Vì vậy gia đình tôi đã lo chuẩn bị ngầm, phòng sau khi cụ về cõi. Cái gì vợ tôi cũng bảo dành để hôm sau bà... thành quen miệng. Cau cũng phơi kỹ bỏ be để hôm sau, thậm chí bọt bẹt được đồng rau nào cũng dồn mua ván đóng sẵn áo quan để hôm sau... Ấy nhưng nói đến cái chết, cụ lại giận và làm nau: Bay trông t*o chết à? t*o phải sống để nhìn con cháu được đến lúc sung sướng chứ. Khổ mãi rồi.
Tôi hỏi Hoa để lấp láp câu hớ rồi cho bà cụ khỏi giận:
- Mua đồ nhậu làm gì tối thế này?
- À... mua cho mấy thằng về đội ta thu sản, khuya các hắn đớp. Đội và quản trị thuê khoán cháu nấu.
Vì có chồng ở ban quản trị, cô ấy cũng là loại biết nhiều chuyện "bí mật nội bộ". Hoa thì thò cho vợ tôi biết đêm nay là đêm "đồng khởi" thu sản, tổng vét cả xã. Họ sẽ đổi chéo, công an và dân quân đội này về đội kia, vét bằng hết. Vì đội 12 này là nặng gánh nhất, nên họ sẽ điều về đây những tay cứng cựa. Hoa khuyên:
- Bác có thiếu sản, thì liệu mà xoay đi
- Thế thì t*o đét bán rau cho mi nữa.
Vợ tôi toan từ chối, nhưng Hoa nài mãi và có tôi nói vào nên chị chàng mới chịu nghe. Hoa cầm đèn ra vườn soi cho vợ tôi hái. Cô ấy cầm rau, rồi còn đi các nhà bên cạnh hỏi mua gà. Cơm cạn, tôi vần cạnh bếp. Vì không phải ghế độn khoai độn sắn gì nên chín rất mau. Thấy chỉ nấu mình cơm tôi, lòng tôi lại buồn nổi gai. Vợ tôi bế thằng út vào lót cho nó ngủ trong buồng, rồi lấy cho tôi cái bát, đôi đũa. Cuộc chào mời đùn đẩy, nhường nhịn nhau rõ bực.
Tôi lùa hai bát cơm với nước dưa chua, rồi bỏ đấy. Bà cụ nài, rồi tôi dỗ thằng Thức cũng lắc đầu không dám ăn chỗ cơm còn lại. Hắn sợ mẹ. Nhà này, mẹ chúng nó có quyền uy tối thượng. Biết vậy, nhưng tôi cũng sắp trở thành kẻ sống nhờ...
Ngồi ở bếp, tôi hỏi vợ:
- Nhà mình còn thiếu của hợp tác xã bao nhiêu thóc nữa em?
Cô ấy không trả lời tôi mà nói rất vô lễ:
- Có biết thế này, đái tòe tòe vào, chứ tội gì lôi về. Cha đời! Bữa trước thì tuyên bố vớt được nấy ăn nấy, người ta mới hụp lặn xuống nước lụt mà khở (gở) từng bông lúa. Nay lại giở trò giảm tỷ lệ!
Tôi vỗ về:
- Thôi! Lụt thì lụt cả làng, em ạ! Em nói xem, so với tổng sản phải nộp, nhà ta thiếu bao nhiêu?
- Một tạ mười hai cân, em đã trình bày với anh Nhà đội trưởng rồi. Thực tế mò được hạt nào đã ăn hết hạt nấy. Mấy lâu nay bán được đồng rau nào mua ăn, không bán được thì nhịn. Đã nói khất rồi. Không cho khất, thì nhà đấy có dỡ được, đến mà dỡ.
- Phải mềm mỏng, em ạ! Khéo bán khéo mua thua người khéo nói! Gia đình mình, con cái mình còn ăn đời ở kiếp nơi đây.
Vợ tôi rền rĩ như sắp khóc:
- Chả nhẽ kiếm liều thuốc chuột, cho vào nồi cháo, ăn hết cả nhà cho sướng cái đời...
Ngồi sưởi ở bếp rất lâu, vỏ cao su cháy tàn, đã vạc hai ba đống than, mà chẳng ai muốn nói với ai câu nào nữa. Bà cụ ngồi lâu, mỏi và chán chuyện bỏ đi nằm. Thằng Học làm toán xong, lấy cho bà nồi than, rồi cũng rúc xuống bếp. Hắn đi bốc rơm lót ổ ngay cạnh bếp, lấy ván chắn rồi trải chiếu, ôm chăn ra nằm.
- Ngủ đây mà ấm, bố ạ!
Trong giường thằng Út Văn khóc í óe. Hắn lại đái lạnh đít rồi. Mẹ nó vào quả không sai. Nó được ôm ra bếp sưởi, nằm gọn trong lòng mẹ. Gần một tuổi mà nó còn bắt nhá cơm bón và bú thì hơn con bê non. Lại nhai tòm tọp thế đó! Tôi đùa với con để nó cười sằng sặc cho dịu cơn lo buồn.
Gần mười hai giờ khuya, cả nhà đi nằm. Tôi ngủ với hai thằng oắt trong ổ rơm dưới bếp.
Có điều gì đó bồn chồn và nơm nớp...
Bỗng tiếng kẻng gõ giục giã liên hồi. Kẻng khắp xã: từ đội 1 đến đội 15, như một sự bùng nổ dây chuyền. Tiếng loa phóng thanh mở hết cỡ đọc bản tin, kế hoạch huy động lương thực của tỉnh và chỉ thị của tỉnh ủy về công tác lương thực.
Hoàng Văn Nhân, đội trưởng đội 12, đọc trên loa danh sách những nhà thiếu thóc chưa giao nộp cho hợp tác xã. Đèn đóm soi rừng rực ở các ngã đường. Chó sủa ơi là chó sủa. Cũng cái loa phóng thanh ấy, có tiếng ông chủ tịch xã gọi cán bộ về đội 12 hội ý.
Ông trưởng công an xã Nguyễn Đình Định gào rát cổ trên loa, giọng giật giội gọi lực lượng dân quân, công an tăng cường về chi viện cho đội 12, tạo đà cho đội hoàn thành chỉ tiêu huy động. Tôi rùng mình nghĩ đội tôi là đội trọng điểm, nên cán bộ xã, hợp tác xã, vón cục cả về đây. Họ sẽ gõ cho ra chục tấn thóc còn tồn sổ.
Gần một giờ sáng, công an, dân quân đã ập đến các nhà nợ thóc. Tiếng chó sủa vang, tiếng lợn kêu èng ẹch như bị chọc tiết ở các nhà gần quanh, làm thằng Út Văn khóc thét lên, ôm riết lấy mẹ. Thằng Thức cũng im thin thít, nằm co trong lòng tôi không dám cựa. Bên nhà ông Ái, láng giềng cách vườn nhà tôi một hàng rào, công an và dân quân đang lùng sục. Tiếng ông bà Ái kêu xin và tiếng quát lác, tôi nghe rõ mồn một.
- Cứ bắt lấy cái xe đạp! Phích, xô, bắt ráo!
Ở cổng nhà tôi đã có bước chân rình rịch, con chó mực đang có chửa bị quất, kêu ử ử.
Cạch cạch cạch.
- Chị cò Lộc, mở cửa ra!
Tiếng thằng bé trong buồng khóc thét. Thằng Thức đang ôm tôi, nghe em khóc cũng òa khóc toáng lên. Thằng Học mười hai tuổi đã học lớp tám rồi, mà cũng níu lưng tôi run bắn. Nghe tiếng quát lần thứ hai, từ nhà bếp, tôi chạy lên. Một luồng đèn pin soi giữa mặt làm tôi lóa mắt, phải lấy tay che.
- Có chuyện gì đấy, các bạn trẻ ơi?
- Thu thóc, thu thóc chứ còn gì, ông đừng hỏi vờ.
Vợ tôi đã mở toang cửa, tay ôm thằng bé ngất lịm. Một anh, hai anh... bốn anh bạn trẻ ùa vào nhà. Anh đi đầu cao to, tóc cắt tăng gô, mặc áo bông thùng thình, soi đèn pin rồi đánh diêm châm cái đèn hoa kỳ ở bàn thờ. Có lẽ Tâm "hộ pháp" là người này. Phải, tôi đã thấy anh ta đứng chân hộ vệ giữa, trong một cuộc đá bóng với xã khác. Tay anh cầm cái choòng sắt cỡ ngón tay cái. Vợ tôi mời họ ngồi ghế. Bà cụ đang ốm ở giường bên cũng cố ngóc dậy, run rẩy chào.
Theo danh sách đội báo, chị còn thiếu hơn tạ thóc. Yêu cầu chị đem nộp ngay!
Bà cụ tôi đáp thay con dâu:
- Các bác các anh ơi! Có còn cái gì mà nộp. Các anh và các bác không thấy đàn con hắn đói xanh đói trong đi à? Các bác không thấy tôi cũng phát phù phát nề, vàng cây úa lá đây à?
- Chúng tôi không hỏi mụ nghe chưa?
Cả bốn người cùng soi đèn pin khắp nhà trong, nhà ngoài, dưới bếp, bên chái. Hai người tuông soi cả trong vườn rau. Vợ tôi mếu máo:
- Làm gì có lúa để ngoài ấy. Các anh xéo nát cả rau.
Tôi chạy ra trụ sở đội, định tìm cán bộ trình bày. Chủ tịch Phê, bạn dạy học với tôi ngày trước, đi bộ đội về giải nghệ, vào cấp ủy, đang đứng đấy. Thấy thế tôi mừng quýnh. Lại thấy cả Phùng Gia Miện anh họ tôi, làm bí thư đảng ủy cũng có mặt, tôi càng yên trí. Nhưng thấy tôi họ quay đi lảng tránh.
Anh Miện bảo nhỏ tôi:
- Chú về động viên gia đình thanh toán bằng đủ, nhà mình là cán bộ. Không có thóc thì nộp bằng tiền. Lãnh đạo đã nhất trí cho nộp cả bằng tiền rồi đó.
Tôi đang định nói: "Đã không có thóc thì làm cóc gì có tiền", nhưng anh họ tôi đã dịu giọng:
- Ở đội trên, hắn bắt cả anh Thiện, anh ruột tôi, mà tôi cũng phải điếc đi... "Mất mùa màng, lợi ích thứ ba của người lao động phải hy sinh cho lợi ích của nhà nước". Đồng chí bí thư tỉnh ủy đã chỉ thị thế, chú biết rồi đó.
Lúc ấy ở trụ sở, công an, dân quân đã khuân về nào xe đạp, bàn ghế, tủ, chum vại, thùng tôn, lợn gà... để ngổn ngang ra tận ngõ. Tên chủ nhà thiếu thóc đề chữ bằng phấn trắng vào các đồ vật: Ông Ất, ông Do Khả, ông Hưng, ông Hồng, ông Khính (mẹ đẻ cô Hoa, mẹ vợ chú Được phó chủ nhiệm)... Mấy con bò bị bắt cột gần đó sợ đèn, sợ đám đông cứ lồng lên, chực bút mũi. Chúng xoay vòng quanh, mgửa lên mặt kêu "hấp bồ", "hấp bồ"...
Tôi loạng choạng đi về nhà, thấy người ta đang còn soi đèn tìm rất kỹ. Tôi nói:
- Các người anh em soi tìm gì cho mất công. Nhà tôi xin khất đến mai, tìm cái bán chác, nộp tiền bằng đủ.
Anh đầu tốp nháy nháy mắt ra hiệu.
- Đêm nay là đêm nay! Mai chúng tôi mất thưởng ai chịu cho?
- Bắt cái xe đạp ni, bay!
Hai ba anh chạy lại. Tôi từ tốn ngăn họ:
- Các đàn anh ơi! Tôi không làm ruộng sản mà. Đây là xe đạp nhà nước cấp cho tôi để tôi đi công tác. Các vị bắt cái này không được đâu.
- Nếu chúng tôi cứ bắt thì sao?
Tôi loáng nghĩ được một mẹo. Rút cái "thẻ hội viên Hội văn nghệ tỉnh" ra, tôi nói:
- Tôi phản đối! Tôi là "nhà báo"! Tôi sẽ kiện lên tận ông Đồng.
Nước cờ của tôi không ngờ lại có hiệu quả. Họ im lặng. Hẳn họ đã biết tên tôi dưới những bài đăng nào chăng.
Chợt vị "hộ pháp" nhìn chằm chằm vào cỗ quan tài để dưới gầm bàn thờ, rồi đi lại, vừa gõ vừa hỏi:
- Cái gì trong này, chị Lộc?
Im lặng...
- Cái gì trong này, chị nói mau?
Vợ tôi ấp úng. Tôi muốn tắc thở.
- Có cái gì đâu...
Mấy vị hăm hở lại, đạp lật nghiêng một cái. Nắp văn thiên bung ra, lúa chảy rào rào. Cả toán reo lên như một hiệp đào vàng trúng vỉa:
- A! Lúa! A lúa! Lúa! Anh em ơi. Ghê thật! Thế mà giả nghèo giả khổ.
Mẹ tôi chống gậy vái dài:
- Van các anh! Cắn rơm cắn cỏ tôi lạy các anh! Lúa của tôi. Đó là tạ lúa hai đứa con gái hắn mua góp lại cho, để hôm sau tôi chết, bà con thương mà chạy đến để ăn lưng cơm sốt.
Thực ra là của hai bà chị trong đó mỗi người có mười cân thôi. Ba mươi chín cân tiêu chuẩn hai tháng vừa qua tôi lấy về, còn lại là hơn bốn mươi cân, vợ tôi đong để dành "hôm sau" cho bà.
Bà cụ nói như rên rẩm:
- Đã bảo xay phứa đi cho con nó ăn không nghe. Cứ bóp mồm bóp miệng, để dành làm chi. Sống chả thấy đâu nữa là!
Một tay râu tóc lồm xồm hỏi:
- Chị có gánh đi hay không thì bảo?
Một tay khác tôi hơi quen mặt, đến trước vợ tôi lạy lia lịa:
- Thôi em xin bà chị. Em đi làm ở đây thế này, nhưng lại có bọn khác đến chỗ em làm ác y hệt. Nhà em cũng thiếu mà. Chị không gánh, để cánh này bê cả hòm ra, chị phải chịu hai chục công là ít, chưa nói phạt tiền.
Họ xúm vào khiêng bàn thờ ra, để lôi hòm lúa. Bất đồ hai thằng Học và Thức từ bếp tuôn lên, ôm lấy tay chân chư vị, van rối rít.
- Cháu van các chú! Các chú đừng lấy lúa này đi. Lâu nay các cháu phải nhịn để dành bữa sau cúng cỗ bà, làm ma bà!
- Buông ra đi! Ô hay, đồ con nít!
Bà cụ loạng choạng đi lại, giơ gậy cản:
- Các ông không thương trẻ, thì các ông thương lấy thân già, để lấy phúc đức cho con cháu.
Vì họ đá vấp gậy, lại yếu như con căng cắc lột, bà cụ ngã chỏng queo như chiếc ghế đổ.
- Ối Đảng ôi là Đảng ôi! Chính phủ ôi... Trông xuống mà coi...
Tôi xốc mẹ lên giường, bịt mồm cụ lại:
- Mẹ! Mẹ không được la như thế! Đây không phải Đảng! Đảng ta không làm thế. Đảng không chủ trương thế này!
Tôi nói vậy và ngoặp hai hàm răng vào cổ tay mình để kìm giữ cái gì cứ chực tung ra. Hai vợ chồng xúc hết lúa ra thúng bì. Dặn thằng Học trông em, ngó bà, tôi cùng vợ hì hục gánh thóc ra trụ sở nộp...
Đoạn cuối này tôi dành cho anh Quang.
Lê Trung Quang ơi! Anh có thể giấu cái bi kịch của gia đình anh, nhưng tôi không còn có thể che giấu nỗi đau của nhân dân bất hạnh. Dù sự tiết lộ này có làm mất cái chức huyện ủy viên của anh, thì tôi cũng thấy cứ phải nói ra.
Chuyện thật của nhà anh đây: lúa vay ăn còn nợ bảy tạ, con Lâm, thằng Sơn phải đi mò hến từng bữa, chị ấy nấu bánh đúc đi các làng đổi lúa. Anh mà nói ra, người ta cho là anh bêu riếu. Việc thật ở nhà tôi đêm 26 tháng 11 năm 1983, người ngoài cuộc hẳn cho là mình bịa. Cho đến nay, mỗi khi nghĩ đến, tôi cứ thảng thốt hỏi mình: "Cái đêm hôm ấy... đêm gì?".
PHÙNG GIA LỘC - Cuối năm 1987
Theo Báo Văn Nghệ

Thanked by 2 Members:

#15 tuphuongsg

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3833 Bài viết:
  • 5074 thanks

Gửi vào 07/04/2019 - 21:59

THẢM CẢNH PHÙNG GIA LỘC – CHUYỆN BÂY GIỜ MỚI KỂ

Tháng Tám 25, 2016

THẢM CẢNH PHÙNG GIA LỘC – CHUYỆN BÂY GIỜ MỚI KỂ

Thành Khương

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Gia đình nhà văn Phùng Gia Lộc – Ảnh: Tư liệu gia đình

Sự xuất hiện bút ký Cái đêm hôm ấy đêm gì trên báo Văn Nghệ dạo năm 1988 giống như một quả bom thông tin về một sự thật kinh hoàng ở nông thôn nước ta vốn dĩ vẫn bị bưng bít, che giấu bởi lối tuyên truyền dối trá: sự khốn khổ của con người trong chế độ XHCN sau hơn 40 năm giành độc lập. Trong tâm trạng xúc động mạnh, tôi viết bài bình luận Phải chặn tay bọn cướp!. Dạo ấy, một số người gọi bọn tham quan ô lại ở nông thôn Việt Nam là bọn cường hào mới, riêng tôi chưa ưng, gọi chúng là bọn cướp Chúng cướp của những người dân lao khổ một cách có tổ chức: bắt đầu từ chủ trương, nghị quyết ở hàng Tỉnh rồi triển khai theo kế hoạch, lớp lang định sẵn xuống đến hàng Huyện; chúng tuyên truyền công khai trên loa đài, báo chí…Và tôi gửi cho báo Văn Nghệ.
Duyên hạnh ngộ
Công bằng mà nói dạo ấy không chỉ có quả bom – bút ký Cái đêm hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc mà còn có quả bom – bút ký Thủ tục để làm người còn sống của nhà văn Minh Chuyên phản ánh sự đau đớn, bi hài của một quân nhân đã được báo tử, được cúng giỗ hơn chục năm rồi, bống nhiên xuất hiện, về quê nhà với gia đình nhưng không sao có thể hoàn tất được thủ tục để chứng minh rằng mình còn sống, bằng xương bằng thịt hẳn hoi, giữa cõi đời! Dạo đó còn nhiều quả bom như thế nữa. Nhưng với tôi, Cái đêm hôm ấy đêm gì gây ấn tượng rất mạnh…
Hơn một tuần sau khi gửi bài cho Văn Nghệ, một hôm tôi gọi điện đến Tòa soạn hỏi xem bài của mình có được sử dụng hay không. Từ đầu dây bên kia, một giọng đàn ông sang sảng:
– Tôi là Bế Kiến Quốc đây! Xin lỗi, anh ở cơ quan nào vậy?.
– Dạ! Tôi ở Tổng Cục cảnh sát ạ!.
Tiếng anh Quốc cười vang trong máy, sảng khoái:
– Mời anh sang báo nhá. Phùng Gia Lộc đang ở đây!.
Chẳng cần biết nếp tẻ thế nào, tôi ào đến phòng khách báo Văn nghệ thấy anh Quốc và một người đàn ông chờ sẵn trước cửa Phòng khách. Anh Quốc bắt tay tôi thật chặt rồi quay sang một người đàn ông nhỏ thó, trông có vẻ ốm yếu đang đứng bên cạnh:
– Phùng Gia Lộc đây!
Đoạn, anh nói với anh Lộc:
– Còn đây, Thành Khương! Hai ông trò chuyện nhé, tôi đang có việc bận.
Tôi siết chặt tay anh Lộc rồi cùng anh vào phòng khách….
Cuộc trò chuyện của chúng tôi kéo dài dễ có đến 2 tiếng đồng hồ. Tôi thật ngạc nhiên mỗi khi anh cất lời đều trịnh trọng “ Thưa anh Thành Khương”, bèn bảo “ Anh dừng gọi như thế, em ít tuổi hơn anh mà!”. Cuối cùng thì anh cũng đổi cách xưng hô như tôi muốn. Anh Lộc bảo: “Trong số các bài viết về bút ký của tôi thì tôi thích nhất bài của anh. Thành Khương hiểu tôi hơn cả”. Hôm ấy, chúng tôi trò chuyện suốt hai tiếng đồng hồ như hai người thân…
Cái ngày Báo Văn nghệ kỉ niệm 40 năm và đón nhân Huân chương Độc lập hạng nhất ở Cung Văn hóa Hữu nghị Việt-Xô, giữa nhiều bạn văn thân thiết và quen biết, anh Lộc chẳng trò chuyện và ngồi lâu với ai mà luôn ngồi bên tôi, đi lại cùng tôi, kể cà lúc giải lao khi uống café.
Sau “Cái đêm hôm ấy…”
Trong lúc cả tôi và Phùng Gia Lộc đang ngóng đợi bài báo được in thì một hôm, nhà thơ Đỗ Bạch Mai đưa cho tôi xem bài viết đã được đánh máy, có bút tích đã được phê duyệt, rồi bảo: “ Bài của ông đã được duyệt in, xếp số rồi nhưng giờ đành gác lại vì tình hình hiện giờ hơi căng, nếu đăng lên thì căng quá nên đành phải gác lại”.
Tôi tiếc đứt ruột vì bài viết tâm huyết của mình không được đăng, phiền muộn mấy ngày liền. Nhưng rồi nghĩ lại, dẫu sao thì mình vẫn còn may mắn là được trò chuyện cùng Phùng Gia Lộc hàng tiếng đồng hồ tại Phòng khách báo Văn Nghệ và nhờ thế mà biết được thêm thảm cảnh của gia đình anh.
Số là, sau Cái đêm hôm ấy thì mẹ anh ốm nặng. Phần vì tuổi cao, sống trong nghèo đói, cơ hàn, lại bị tổn thương nghiêm trọng từ cái đêm bọn cướp vào nhà cướp thóc từ “ cỗ hậu sự của minh” nên chẳng bao lâu sau bà cụ mất. Thương mẹ, giận mình, Phùng Gia Lộc viết đôi câu đối khóc mẹ, treo trên bàn thờ mẹ:
Sống giữa cơ hàn nghĩa sinh ký tử quy mẹ an bài cùng đất!
Chết trong tức tưởi đành thất kỳ bảo dưỡng con chịu tội với trời!
Nhưng bọn sai nha ở quê anh không chịu nổi. Chúng kéo đến nhà Phùng Gia Lộc, trắng trợn yêu cầu anh gỡ hai câu đối xuống. Anh phân tích giảng giải thế nào chúng cũng không nghe. Những cái đầu bã đậu cắm trên những thân xác nô lệ của chúng sao hiểu nổi văn chương, nghệ thuật. Dọa giẫm một hồi rồi chúng rút đi, nhưng hôm khác, chúng lại đến, bảo chế độ ta làm gì có ai phải “sống giữa cơ hàn và phải chết trong tức tưởi”, rằng câu đối đó là một cách tố cáo, lên án chế độ… Anh Lộc phản kích, dọa sẽ kiện về hành vi vi phạm quyền tự do công dân, chúng mới chịu.
Rồi anh đọc cho tôi nghe một đôi câu đối và bài thơ thật buồn thảm.
Đây, đôi câu đối dặn con, chua xót dường nào:
Làm việc viết văn, lương ốm đã dồn năm, tết đến vẫn có rượu có thơ, bố không quên ơn Nước.
Theo nghề dạy học, của chợ cấp hàng tháng, xuân về vẫn còn lộc còn hoa, các con phải nhớ đời.
(“ lộc” và “hoa” trong vế đối cũng là tên vợ chồng anh).
Đây, bài Vô đề, rút trong tập thơ Một mùa Xuân nhớ đời – thảm cảnh gia đình nhà văn:
Các con ngồi đón giao thừa
Đứa chưa có áo, đứa chưa có quần
Đêm nay ngồi viết thơ Xuân
Rồi ra năm mới biết ăn cái gì!
Vợ đi khất nợ mới về
Pháo giao thừa đã bốn bề nổ vang !
Viết lại một câu văn.
Trong bài viết dạo năm 1988 kể trên, tôi có viết một câu bình luận cảm thán như thế này: “Lão Hạc ơi! Chị Dậu ơi! Cả ông và chị đâu có thể ngờ được rằng hơn bốn mươi năm sau, trên đất nước này vẫn còn có những người khổ hơn ông và chị!” – Một trong những câu bình luận mà Phùng Gia Lộc rất tâm đắc.
Giờ đây, trước thảm cảnh của người dân Thanh Hóa, Nghệ An (và không biết còn bao nhiêu nơi nữa) vẫn đang oằn vai gánh hàng chục thứ sưu thuế kinh hoàng, thường xuyên bị bọn tà quyền bóc lột, hà hiếp, đến mức người phụ nữ tàn tật, thuộc diện hộ nghèo chỉ vì nợ 1,7 triệu đồng tiền sưu thuế mà khi chết không được làm giấy chứng tử, không được mượn đồ tang lễ, tức là không được chết; một gia đình một nông dân nghèo, tài sản chỉ còn một chiếc giường nằm là đáng giá nhưng do nợ tiền sưu thuế, cũng bị bọn tà quyền tịch thu…, tôi muốn viết lại câu văn cảm thán xưa:
“Lão Hạc ơi! Chị Dậu ơi! Cả ông và chị đâu có ngờ được rằng trên đất nước này, bảy mươi mốt năm sau vẫn còn nhiều người khổ hơn ông và chị!”./.
Tháng 8/2016

Thanked by 2 Members:





Similar Topics Collapse

24 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 24 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |