Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
saolongtri, on 04/07/2016 - 16:21, said:
lá số này lại gặp hận nặng trong năm 25 tuổi.Mạch đã mất hoàn toàn, bệnh viện báo gia đình chuẩn bị lo hậu táng, bác sĩ, y tá lần lượt trả lại tiền bồi dưỡng vì sợ kiện, thì tự nhiên mạch dần hồi chở lại, thế là thoát chết.Nhưng qua khỏi thì cũng mất 4 năm nằm nhà và vào viện mổ xẻ để hồi phục, cuộc đời đương số đang êm đềm, thuận lợi, tương lai, công danh rộng mở phải rẽ sang một hướng khác hoàn toàn, bắt đầu lại từ con số không ,khó khăn hơn, chật vật hơn
Xin các bác cho cháu hỏi vì sao đương số lại vất vả thế trong hạn cung phụ mẫu và cung phúc đức không đến nỗi nào,có phải vì năm 25 gặp linh tinh thiên sứ kình dương,bạch hổ, không kiếp,đáng ra phải chết rồi, nhưng qua khỏi thì sao lại kéo dài sang cả cung phúc tốt đẹp vậy
Lá số chính xác giờ sinh
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần theo phương pháp của tôi :
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Qua sơ đồ tính toán trên ta thấy Tứ Trụ này có Thân quá nhược mà Thực Thương là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn là Nhâm ở trụ năm. Hỏa là hành kỵ vượng (vì Hỏa có 10đv lớn hơn hỷ dụng thần).
Sau đây là sơ đồ tính điểm tai họa xẩy ra ngày 2/2/2006 (vẫn thuộc năm 2005 theo Tử Bình):
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Ngày 2/2/2006 thuộc năm Ất Dậu (theo Tử Bình vẫn thuộc năm 2005), nó thuộc đại vận Canh Tuất và tiểu vận Tân Mão (vì sau ngày sinh nhật).
Trong Tứ Trụ có lục hợp Mão trụ giờ với Tuất trụ ngày hóa Hỏa thành công (vì có Đinh là thần dẫn).
Vào đại vận Canh Tuất có Hỏa cục trong Tứ Trụ hợp với đại vận hóa Hỏa nên điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại. Sau khi tính lại dụng thần và hành kỵ vượng không thay đổi.
Đến ngày 2/2 năm 2005 là năm Ất Dậu. Dậu tham hợp với Thân và Tuất trong Tứ Trụ nên không thể xung Mão trụ giờ được. Tam hội Thân Tý Thìn bình thường do có Hỏa cục cản phá nên không thể hóa Kim được nhưng ở đây có thêm Canh đại vận hợp Ất lưu niên cũng có thể hóa Kim được (vì có lệnh tháng hay thái tuế Dậu ở trạng thái động có thể làm thần dẫn). Chính vì có thêm ngũ hợp này mà tam hội Thân Dậu Tuất được coi là có tới 5 can chi là đủ mạnh để vượt qua sự cản phá của Hỏa cục mà hóa thành Kim cục (ở tiểu vận Canh Dần có 2 Canh tranh hợp với Ất lưu niên nên không thể hóa được Kim nên tam hội Thân Dậu Tuất chỉ có 3 chi bị Hỏa cục cản phá không thể hóa thành Kim cục được).
Vì có Hỏa cục trong Tứ Trụ hợp với tuế vận hóa Hỏa nên điểm vượng trong vùng tâm phải được tính lại. Sau khi tính lại dụng thần và hành kỵ vượng không thay đổi (vì điểm vượng của các can chi ở tuế vận không được tính vào vùng tâm).
Sau khi tính thêm điểm vượng của các can chi ở tuế vận, ta thấy hành kỵ vượng Hỏa đã bị thay bởi hành Kim nên dụng thần vẫn không thay đổi. Vì hành Kim không phải là hành kỵ vượng từ lúc đầu và cả sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm nên điểm kỵ vượng của nó chỉ bằng 1/2 so với điểm kỵ vượng bình thường và nó không được tăng gấp đôi khi nó lớn hơn hỷ dụng thần 20đv.
1 - Đinh trụ giờ vượng ở lưu niên nhưng không thể khắc được 2 hóa cục Kim có 5 can chi (vì Đinh….). Do vậy Hỏa cục và Kim cục đã gây ra Đại Chiến có 0,2.8đh = 1,6đh (vì Hỏa cục có số can chi ít hơn Kim cục). Hỏa cục có 0,25đh (vì Mão và Tuất trong Tứ Trụ đã hóa Hỏa từ trước nên không có điểm hạn) còn Kim cục có 0,75đh với tam hội Kim và 0,5đh với ngũ hợp Kim.
2 – Dậu thái tuế và Canh, Ất ở tuế vận hóa Kim nên mỗi can chi có 0,5.1/2đh = 0,25đh kỵ vượng.
3 – Tiểu vận Tân Mão thiên khắc địa xung với lưu niên Ất Dậu có 0,25đh (vì Tân nhược ở tuế vận), được thêm 0,05đh do chỉ có 2 trụ thiên khắc địa xung.
4 – Dụng thần Nhâm vượng ở lưu niên có -1đh.
5 – Nhật can Giáp nhược ở lưu niên có 0đh.
6 - Tân và Mão tiểu vận mỗi can chi có 1 cát thần có - 0,25.1/2đh = - 0,125đh (trên sơ đồ lấy tròn là - 0,13đh).
7 - Nước biển trụ năm có Nhâm vượng ở lưu niên nên khắc Đất dịch chuyển trụ tháng, Lửa đỉnh núi trụ ngày và Kim trang sức đại vận có max là 2đh.
Lửa trong lò trụ giờ có Đinh vượng ở lưu niên khắc Kim trang sức đại vận có 1đh.
8 - Vì có tam hội giữa Tứ Trụ với tuế vận mà trong Tứ Trụ có 2 chi khác nhau nên tổng điểm hạn được trừ đi 1đh, tức là có -1đh.
Tổng số có (5,9 – 1)đh =
4,9 đh. Số điểm này có thể chấp nhận được vì từ 4,9đh tới 4,99đh là số điểm cho biết tai họa nặng tới mức có thể chết lâm sàng. Điều này quá là phù hợp với thực tế của người có Tứ Trụ này.
Từ đây có thể thấy phương pháp của tôi không coi can chi nào là của Ta hay Trời với Đất gì cả mà tất cả các can chi giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận đều là của Đất, Trời cũng như là của Ta. Hiểu đơn giản tất cả chúng đều đang tồn tại trong chính cơ thể của Ta để gây ra cát và hung cho chính Ta. Nếu ai có khả năng đưa thêm các yếu tố như phong thủy, nghề nghiệp, vợ, con, ….vào trong sơ đồ này thì chắc chắn số điểm hạn tính được sẽ càng chính xác hơn hẳn các câu mà các cao thủ Tử Bình hay các sách Kinh điển thường phán đại loại là
“Vào vận Sát, hay Sọt gì đó Ứng kỳ, Ứng kọ mà gây ra Chai Lọa….“ . Làm cho các loại
“Mặt Guốc Mộc“ nghe thấy cứ u.. u, mê…mê… rồi Rống lên vỗ cả 4 chi đến long cả trời nở cả đất để thể hiện sự
“Tâm phục Khẩu phục“.
Bài luận của tôi đã đưa ra tất cả các thông tin góp phần gây ra tai họa và cuối cùng đi đến kết luận tai họa nặng đến đâu. Ấy vậy mà một số người
“Mặt Guốc Mộc“ đã kết luận tôi là chả luận được ví dụ nào cả, chỉ mới dừng lại ở mức độ xác định Thân vượng hay nhược mà thôi... Thật không hiểu được loại này là
“Người hay là Ngợm“ ?
VULONG
Sửa bởi giongto777: 05/07/2016 - 06:58