Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín là ngũ thường trong Nho giáo (tứ đức là công dung ngôn hạnh).
Giải thích sự tương ưng giữa ngũ hành và ngũ thường nói trên thì còn phải biết sự nghịch chiều nữa.
Đó là nói tới "Tín" thì đối nghịch với Tín là Vọng ngôn, nghĩa là nếu Thổ bị kiếm khuyết hay thái quá thì khả năng vọng ngữ (nói nhiều điều không tin cậy được, trong nhà Phật thì tương đương với giới thứ tư là nói dối).
"Nghĩa" (hành Kim), bất cập thái quá thì khả năng trở thành bất nghĩa mất nhân phẩm.
"Trí" (hành Thủy), bất cập thái quá thì khả năng là thiếu khôn ngoan lanh lợi.
"Nhân" (hành Mộc), nghịch lại là "vô nhân", tức thiếu tình người, tàn nhẫn, lãnh đạm...
"Lễ" (hành Hỏa), kiếm khuyết hành này hay quá dư thừa thì khả năng là người không biết giữ gìn lễ giáo.
Tuy nhiên cũng chỉ hiểu đều là tương đối, không cứ thiếu hẳn 1 hành nào là quy vào loại trên, phải tùy trường hợp mà dùng.
Ý nghĩa là muốn đề cập đến cái
Dụng mà cải hóa, thí dụ như "Thủy khắc Hỏa", muốn tránh sự đụng chạm này gây thương tổn cho tâm lý con người thì có thể dụng tính cách của Thủy là sinh Mộc, rồi Mộc sinh Hỏa, các trạng thái bất cập sẽ trở nên hài hòa. Ý là dùng "Trí" (thủy) sinh "Nhân" (mộc), Nhân sinh Lễ (hỏa)!
Trong Tử Bình những sự điều tiết trên là xét các loại hay gọi là "dụng thần, kị thần" như phù, ức, trợ, tiết, điều hậu, thông quan hay dược bịnh...
Sửa bởi 4pillar: 23/03/2016 - 07:18