

MẬT MÃ KINH DỊCH
Viết bởi binhlq, 24/12/15 22:31
Kinh Dịch Tiên Thiên bát quái Hậu Thiên bát quái Mật mã
43 replies to this topic
#16
Gửi vào 05/01/2016 - 11:31
23. SƠN ĐỊA BÁC
Khách quái là Cấn (núi). Chủ quái là Khôn (đất).
Tượng núi trong lòng đất. Nghĩa là núi bị lấy hết đi đất đá nên độ cao chỉ còn ngang bằng mặt đất. Hình tượng bị bóc lột đến tận xương tủy.
Phạm trù: Hành sự.
Cho đối tượng: Quần chúng, nhân dân.
Tên là BÁC: bóc lột, đè nén, lấy đi.
Hình tượng: Tha phương cầu thực.
Thoán từ: 剝不利有攸往.
*Hào 1: 剝床以足蔑貞凶.
*Hào 2: 剝床以辨蔑貞凶.
*Hào 3: 剝之无咎.
*Hào 4: 剝床以膚凶.
*Hào 5: 貫魚以宮人寵无不利.
*Hào 6: 碩果不食君子得輿小人剝廬.
Thoán từ: 剝不利有攸往.
Bóc lột, gây bất lợi cho nhân dân sẽ đẩy nhân dân vào chỗ thiếu thốn, không nhà, không cửa.
Hào từ:
*Hào 1: 剝床以足蔑貞凶.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Khôn. Lấy đi chân gường, cũng không hoàn toàn nguy. Tức là gường bị lấy mất chân thì vẫn nằm ngủ được mặc dù thấp thỏm không ngon giấc.
*Hào 2: 剝床以辨蔑貞凶.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Khôn. Làm cái gường nhỏ lại, cũng không hoàn toàn nguy. Tức là bị thiếu thốn làm cái gường nhỏ thì vẫn nằm ngủ được mặc dù nằm co quắp, thấp thỏm không ngon giấc.
*Hào 3: 剝之无咎.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Khôn. Tiếp ý hào 2. Bị bóc lột đến không còn gường phải nằm trên đất thì xấu.
*Hào 4: 剝床以膚凶.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Cấn. Tiếp ý hào 3. Nhưng đã lấy gường mà còn lấy cả phía bên ngoài (cả nhả ở) sẽ đẩy người vào cảnh vô gia cư thì nguy (như thoái từ).
*Hào 5: 貫魚以宮人寵无不利.
Hào âm. Trung vạch khách quái Cấn. Tiếp ý hào 4. Nếu vua bớt đi những cuộc ăn uống triền miên, những cung điện xa hoa, những người mình sủng ái thì không gì là không lợi cho dân chúng.
*Hào 6: 碩果不食君子得輿小人剝廬.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Cấn. Tiếp ý hào 5. Bóc lột lớn đến mức nhân dân không còn gì để ăn thì vua ăn không hết còn người dân bị bóc lột đến mức đói rách trong những túp lều tranh. Tức là sự bóc lột đã đến cùng cực thì sẽ chuyển sang chổng quái ĐỊA LÔI PHỤC.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
23. QUẺ SƠN ĐỊA BÁC
Trên là Cấn (núi) dưới là Khôn (đất)
Bí là trang sức, trau giồi; trau giồi tới cực điểm thì mòn hết. Cho nên sau quẻ Bí tới quẻ Bác. Bác là mòn, là bóc, lột bỏ cho tiêu mòn lần đi.
Thoán từ
剝: 不利有攸往.
Bác: Bất lợi hữu du vãng.
Dịch: Tiêu mòn: Hễ tiến tới (hành động) thì không lợi.
Giảng: Theo tượng quẻ, năm hào âm chiếm chỗ của dương, âm tới lúc cực thịnh, dương chỉ còn có một hào, sắp đến lúc tiêu hết. Do đó gọi là quẻ thịnh, dương, chỉ còn một hào sắp đến lúc tiêu hết. Do đó gọi là quẻ Bác. Ở thời tiểu nhân đắc chí hoành hành, quân tử (hào dương ở trên cùng) chỉ nên chờ thời, không nên hành động. Chờ thời vì theo luật tự nhiên, âm thịnh cực rồi sẽ suy, mà dương suy cực rồi sẽ thịnh . (Lão Tử khuyên: “đại trí nhược ngu, đại dũng nhược khiếp, đại xảo nhược chuyết (vụng) “nghĩa là phải tạm giấu cái khôn, cái khéo, cái dũng của mình để được yên thân đợi chờ cơ hội).
Thoán truyện: giảng thêm: nên thuận đạo trời mà ngưng mọi hoạt động vì nội quái là Khôn, có nghĩa là thuận, ngoại quái là Chấn có nghĩa là ngưng; mà đạo trời là hết hao mòn (tiêu) thì sẽ phát sinh (tức) – nói về các chào dương; mà hết đầy (doanh) thì sẽ trống không (hư) – nói về các hào âm trong quẻ này.
Đại tượng truyện: chỉ xét tượng của quẻ mà đưa ra một nghĩa khác: ngoại quái là núi, nội quái là đất; núi ở trên đất, đất là nền móng của núi; đất có dày thì núi mới vững; vậy người trên (nhà cầm quyền) phải lo cho dân an cư lạc nghiệp thì địa vị của người trên mới vững. Ý đó thêm vào, không có trong thoán từ.
Hào từ:
*Hào 1: 剝床以足, 蔑貞, 凶.
Sơ lục: Bác sàng dĩ túc, miệt trinh, hung.
Dịch: Hào 1, âm: như cắt (phá hoại) chân giường, dần dần sẽ làm tiêu diệt đạo chính của người quân tử, xấu.
Giảng: âm (tiểu nhân) bắt đầu tiêu diệt dương (quân tử ), cũng như bắt đầu phá cái giường từ dưới chân trở lên.
*Hào 2: 剝床以辨, 蔑貞, 凶.
Lục nhị: bác sàng dĩ biện, miệt trinh, hung.
Dịch: Hào 2, âm: như phá tới then giường (có người dịch là thành giường, hay sườn giường), tiêu diệt đạo chính của người quân tử, xấu.
Giảng: Nghĩa hào này cũng như hào 1: bọn tiểu nhân đã tiến thêm một bước nữa, phá tới then giường rồi, chưa tới mặt giường.
*Hào 3: 剝之, 无咎.
Lục tam: Bác chi, vô cữu.
Dịch: Hào 3 âm: Phá bỏ bè đảng của mình, không có lỗi.
Giảng: Hào này cũng là âm nhu, tiểu nhân, nhưng vì ứng với hào dương, quân tử, ở trên cùng, cho nên theo hào đó mà bỏ các hào âm ở trên và dưới nó (tức các hào 1, 2, 4) chịu mất lòng với các hào âm này (lời Tiểu tượng truyện) mà theo đạo chính, cho nên không có lỗi.
*Hào 4: 剝床以膚, 凶.
Lục tứ: Bác sàng dĩ phu, hung.
Dịch: hào 4, âm: phá giường mà xẻo tới da thịt người nằm trên giường nữa, xấu.
Giảng: Hào âm này đã lên tới ngoại quái, thế là tiểu nhân đã hoành hành, quân tử bị hại quá đau, tai họa bức thiết quá rồi; xấu.
*Hào 5: 貫魚, 以宮人寵, 无不利.
Lục ngũ: Quán ngư, dĩ cung nhân sủng, vô bất lợi.
Dịch: Hào 5, âm: Dắt bầy cung nhân như một xâu cá (ám chỉ bầy tiểu nhân), để lên hầu vua (tức theo người quân tử, hào dương ở trên cùng), như vậy là tiểu nhân biết thuận tòng quân tử, không có gì là không lợi.
Giảng: Hào này làm thủ lãnh bầy âm. Theo nghĩa mấy hào trên, chúng ta tưởng hào này càng phá mạnh hạng quân tử hơn nữa; nhưng ngược lại. Hào từ lấy lẽ rằng hào 5, ở sát hào dương ở trên cùng thân cận với 6, chịu ảnh hưởng tốt của 6, nên dắt cả bầy âm (ví như một xâu cá – cá thuộc loài âm) để theo hào 6 quân tử cũng như bà hậu dắt bầy cung phi lên hầu vua. Thế là theo đạo chính, cho nên không gì là không lợi.
Theo Phan Bội Châu, sở dĩ cổ nhân tới hào này bỏ cái nghĩa âm tiêu diệt dương, mà cho cái nghĩa âm thuận theo dương, là để khuyến khích tiểu nhân cải tà qui chánh, mà giúp đỡ quân tử. Kinh dịch "Vị quân tử mưu” (lo tính cho quân tử) là nghĩa đó. Có thể như vậy. Lý do chính thì coi hào sau ta sẽ thấy.
*Hào 6: 碩果不食, 君子得輿, 小人剝廬.
Thượng cửu: thạc quả bất thực,
Quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư.
Dịch: Hào trên cùng, dương: Còn một trái lớn trên cây, không hái xuống ăn (ý nói dương tức quân tử không bao giờ hết). Quân tử ở hào này được quần chúng (dư) theo; còn tiểu nhân thì biết rằng nếu diệt hết quân tử tức lá phá đổ nhà chúng ở (chúng cũng không còn).
Giảng: Cả quẻ chỉ có mỗi hào này là dương cho nên ví với trái cây lớn còn lại trên cây, không hái xuống ăn thì có ngày nó sẽ rụng mà mọc mầm, như vậy là đạo quân tử không bao giờ hết. Hào 3 và 5 kéo các hào âm khác theo hào dương này, cho nên bảo là quân tử được dân chúng theo. Hào dương này ở trên cùng, cũng như cái nhà che cho tất cả các hào âm ở dưới. Nếu bọn tiểu nhân phá nhà đó cho sập – nghĩa bóng là không còn quân tử thì quốc gia suy vong, chủng tộc tiêu diệt- thì chúng cũng không sống được, không có chốn dung thân.
Vậy ta thấy sở dĩ Chu Công, người viết Hào từ, cho hào 5 theo hào trên cùng (âm theo dương) là vì lẽ có thế xã hội mới tồn tại được, không khi nào người tốt bị diệt hết.
*Thêm:
Quẻ này nói về thời âm thịnh dương suy, tiểu nhân tàn hại quân tử, tiểu nhân tuy rất đông, nhưng vẫn có một số (hào 3 và 5) hiểu đạo cải quá, đứng về phe quân tử, và khi xã hội lâm nguy thì ủng hộ quân tử. Người quân tử mới đầu chỉ nên im hơi lặng tiếng mà chờ thời, chuẩn bị cho lúc thịnh trở lại.
Đó là luật âm dương trong vũ trụ; vũ trụ luôn luôn có đủ cả âm, dương ; khi âm cực thịnh, vẫn còn dương, khi dương cực thịnh cũng vẫn còn âm, âm dương cứ thay nhau lên xuống, thế thôi.
---------------------------------------------------------
24. ĐỊA LÔI PHỤC
Khách quái là Khôn (đất). Chủ quái là Chấn (sấm)
Tượng sét đánh xuống đất. Luật Trời sẽ được thi hành, sẽ có người thế thiên hành đạo xuất hiện từ nhân dân (“Đế xuất hồ Chấn” mà Chấn là chủ quái, khách quái Khôn còn là tượng của nhân dân).
Hình tượng phản kháng đấu tranh của quần chúng khi bị bóc lột đến tận xương tủy (sấm sét đã nổi lên).
Phạm trù: Hành sự.
Cho đối tượng: Quần chúng, nhân dân.
Tên là PHỤC: Phản kháng, phản phục, trả lại.
Hình tượng: Mây đen nặng trĩu. (Nước bốc lên bầu trời thành mây, tích tụ cùng cực thành mây đen, khi này sấm sét sẽ nổi lên và nước ở mây sẽ thành mưa trở lại mặt đất)
Thoán từ: 復亨出入无疾朋來无咎反復其道七日來復利有攸往 .
*Hào 1: 不遠復无祇悔元吉.
*Hào 2: 休復吉.
*Hào 3: 頻復厲无咎.
*Hào 4: 中行獨復.
*Hào 5: 敦復无悔.
*Hào 6: 迷復, 凶有災眚用行師, 終有大敗以其國君凶至于十年不克征.
Thoán từ: 復亨出入无疾朋來无咎反復其道七日來復利有攸往 .
Phản kháng thành công khi hành động không vội vã, bè đảng không phạm sai lầm. Phản phục là cái dụng, cái chuyển luân hồi của Đạo. Bảy ngày lại phục (tức là như đã nói ở hào 6 chồng quái SƠN ĐỊA BÁC sự bóc lột đi đến cùng cực sẽ chuyển đến hào bảy là hạ vạch chủ quái CHẤN của chồng quái ĐỊA LÔI PHỤC), lợi cho những người vô gia cư.
Tổ tiên có câu “Con giun xéo lắm cũng quằn”, bị bóc lột đến tận xương tủy là lúc quần hùng sẽ nổi lên đưa xã hội phản phục trở lại.
Hào từ.
*Hào 1: 不遠復无祇悔元吉.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Chấn. Không chỉ đạo phản kháng từ xa thì không hối tiếc lớn. Người cầm đầu phản kháng biết như vậy sẽ tốt lành.
*Hào 2: 休復吉.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Chấn. Nghỉ ngơi để phản phục thì tốt lành. Có câu “dĩ dật đãi lao” cũng là ý này. Hào này khuyên bãi công, bãi khóa, bãi thị cũng là sự phản kháng trước sự bóc lột và bất công.
*Hào 3: 頻復厲无咎.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Chấn. Phải phản kháng thường xuyên thì gian nan nhưng cũng chẳng phải sai lầm (như thoái từ).
*Hào 4: 中行獨復.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Khôn. Khi đang hành động phản kháng, cần tập trung chỉ một hướng phản kháng chính thôi.
*Hào 5: 敦復无悔.
Hào âm. Trung vạch khách quái Khôn. Tiếp ý hào 4. Và biết phát huy kinh nghiệm đã có trong nhưng lần phản kháng trước thì sẽ không bị hối tiếc.
*Hào 6: 迷復, 凶有災眚用行師, 終有大敗以其國君凶至于十年不克征.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Khôn. Làm lạc hướng sự phản kháng của nhân dân thì thật nguy hiểm và tự chuốc lấy tai vạ. Vua mà dùng cách này ở kinh sư thì gặp nguy đến mười năm (một hào là mười năm) chẳng dám rời kinh sư đi xa.
Như đã nói trong thoái từ sự phản kháng của nhân dân là cái dụng, cái chuyển luân hồi của Đạo. Vua làm khác đi là trái với Đạo, trái với Đạo thì ắt bị diệt vong vậy.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
24. QUẺ ĐỊA LÔI PHỤC
Trên là Khôn (đất), dưới là Chấn (sấm)
Vật không bao giờ tới cùng tận; quẻ Bác, hào dương ở trên cùng thì lại quay trở xuống ở dưới cùng (cùng thượng phản hạ); cho nên sau quẻ Bác tới quẻ Phục. Phục là trở lại (phát sinh ở dưới). Như vậy là đạo tiểu nhân thịnh cực thì phải tiêu, đạo quân tử suy cực thì lại thịnh lần.
Thoán từ.
復: 亨, 出入无疾, 朋來无咎.
反復其道, 七日來復, 利有攸往
Phục: Hanh, Xuất nhập vô tật, bằng lai vô cữu.
Phản phục kì đạo, thất nhật lai phục, lợi hữu du vãng.
Dịch: Trở lại: Hanh thông. Ra vào không gặp tai nạn, bạn bè sẽ lần lượt tới, không lầm lỗi nữa. Vận trời phản phục (tráo đi trở lại), cứ bảy ngày thì trở lại, hành động việc gì cũng có lợi.
Giảng: Khí dương bây giờ trở lại, cho nên hanh thông. Người quân tử (dương) ra vào tự do, không bị tai nạn; rồi sẽ có các hào dương khác kéo nhau tới, cũng như bạn bè tới, không còn lầm lỗi nữa (ý muốn nói; sau quẻ này sẽ tới quẻ Lâm, có hai hào dương ở dưới, rồi tới quẻ Thái, có ba hào dương ở dưới, tới quẻ Đại tráng (4 hào dương) quẻ Quải, (5 hào dương) quẻ Càn (cả 6 hào đều dương), thế là sáu quẻ dương cứ tăng lần. đó là vận phản phục của trời đất, cứ bảy ngày thì trở lại. Chữ nhật (ngày) ở đây thay cho chữ hào; bảy ngày mới trở lại vì sau quẻ Càn, tới quẻ Cấu, một hào âm sinh ở dưới 5 hào dương, ngược lại với quẻ Phục (một hào dương ở dưới 5 hào âm), lúc đó mới hết một vòng (1).
Thoán truyện giảng thêm: Sở dĩ ra vào không bị tai nạn, bạn bè kéo tới, không còn lầm lỗi, vì tượng của quẻ: nội quái Chấn là động, ngoại quái Khôn là thuận; hoạt động mà thuận theo đạo trời thì tốt. Cái đạo của trời đó là tĩnh lâu rôi thì động, ác nhiều rồi thì thiện, có vậy vạn vật mới sinh sôi nẩy nở. Xem quẻ Phục này thấy một hào dương bắt đầu trở lại, tức là thấy cái lòng yêu, nuôi dưỡng vạn vật của trời đất (kiến thiên địa chí tâm).
Đại tượng truyện bảo các vua đời xưa tới ngày đông chí, ngày mà dương bắt đầu sinh (tượng của quẻ Phục: sấm nấp ở dưới đất) thì đóng các cửa ải, không cho khách đi đường và con buôn qua lại mà vua cũng không đi xem xét các địa phương, là có ý muốn yên lặng để nuôi cái khí dương mới sinh.
Hào từ.
*Hào 1: 不遠復, 无祇悔, 元吉.
Sơ cửu: Bất viễn phục, vô kì hối, nguyên cát.
Dịch: Hào 1, dương. Tuy lầm lỗi nhưng thời gian chẳng xa, trở lại tốt lành ngay, thì không đến nỗi ăn năn lớn; rất tốt (chữ Kì ở đây có nghĩa là lớn).
Giảng: Hào 1, dương cương, ở đầu quẻ Phục, có nghĩa là người đầu tiên trở lại đạo, biết tu thân, nên rất tốt.
Theo Hệ từ hạ truyện chương V, thì Khổng tử cho rằng Nhan Hồi có đức của hào 1 này, vì Nhan có lỗi lầm gì thì biết ngay mà biết rồi thì sửa liền không mắc lần thứ nhì nữa.
*Hào 2: 休復, 吉.
Lục nhị: Hưu phục, cát.
Dịch: Hào 2, âm: Trở lại đẹp đẽ (hữu), tốt.
Giảng: Hào này âm nhu đắc trung, chính, vốn tốt rồi, mà lại ở gần hào 1 là người quân tử, tức là người biết khắc kỉ, trở lại đạo nhân nghĩa; cho nên tuy là âm mà tốt lành.
*Hào 3: 頻復, 厲, 无咎.
Lục tam: Tần phục, lệ, vô cửu.
Dịch: hào 3, âm (Mắc lỗi nhưng) sửa lại nhiều lần, tuy đáng nguy, mà kết quả không có lỗi.
Giảng: Hào này bất trung, bất chính, lại ở thời cuối cùng của nội quái Chấn (có nghĩa là động), ví như người không bền chí, theo điều thiện không được lâu, sửa lỗi rồi lại mắc lỗi trở lại, như thế là đáng nguy (lệ), nhưng lại biết phục thiện sửa đi sửa lại nhiều lần, nên rốt cuộc không có lỗi.
*Hào 4: 中行, 獨復.
Lục tứ: Trung hành, độc phục.
Dịch: Hào 4, âm: ở giữa các tiểu nhân (các hào âm: 2,3 và 5,6 ) mà một mình trở lại theo quân tử (hào 1), tức theo đạo.
Giảng: hào này âm nhu, đắc chính ở giữa các hào âm, nhưng chỉ một mình nó ứng với hào 1 là dương, quân tử, cho nên Hào từ khen là một mình nó biết theo người thiện.
*Hào 5: 敦復, 无悔.
Lục ngũ: Đôn phục, vô hối.
Dịch: Hào 5, âm: Có đức dày trở lại điều thiện, không có gì hối hận.
Giảng: Hào này nhu thuận, đắc trung lại ở vị tôn quí, như một người có đức dày phục thiện (trở lại điều thiện), biết tự sửa mình, cho nên không hối hận.
*Hào 6: 迷復, 凶.有災眚.
用行師, 終有大敗, 以其國君凶, 至于十年, 不克征.
Thượng lục: Mê phục, hung, hữu tai sảnh,
Dụng hành sư, chung hữu đại bại, dĩ kì quốc quân hung, chí vu thập niên, bất khắc chính.
Dịch: Hào trên cùng, âm: Mê muội, không trở lại, sẽ bị tai vạ từ ngoài đưa đến (tai) và tự mình gây nên (sảnh); đã vậy lại cậy võ lực mà dùng quân đàn áp người, rốt cuộc sẽ đại bại, làm cho quốc quân cũng bị kh*n n*n (hung), tới mười năm (tới chung cục) cũng không khá được.
Giảng: hào này ở trên cùng, như kẻ tiểu nhân hôn mê đến cùng cực, không biết trở lại, cho nên bị đủ thứ tai vạ. Nó có thế lực nhất trong các hào âm (đám tiểu nhân ) vì ở trên cùng, muốn dùng võ lực đàn áp người, rốt cuộc sẽ đại bại, gây vạ lây cho nước nó, không bao giờ khá được. Chữ thập (số 10) là số cuối cùng (số 1 là số đầu) cho nên thập niên ở đây có nghĩa là tới cùng, chớ không nhất định là 10 năm.
Tiểu tượng truyện bảo hào trên cùng này sở dĩ hung là vì làm trái đạo vua (phản quân đạo), tức đạo của hào 1. Hào 1 này là hào dương duy nhất trong quẻ, làm chủ cả quẻ cho nên gọi là vua.
*Thêm:
Quẻ này xét về sự sửa lỗi để trở về đường chính. Tốt nhất là hạng người tự nhận thấy lỗi rồi sửa liền, không mắc phải lần nữa, rồi tới hạng ở gần người tốt, mà bắt chước vui vẻ làm điều nhân, nghĩa; sau tới hạng có đức dày trở lại điều thiện, hạng ở giữa kẻ xấu mà một mình theo đạo; hạng không bền chí, giữ điều thiện được lâu, nhưng biết phục thiện thì cũng không lỗi.
Xấu nhất là hạng mê muội không biết trở lại đường chính. Ý nghĩa không có gì đặc biệt.
Thanked by 1 Member:
|
|
#17
Gửi vào 08/01/2016 - 08:32
25. THIÊN LÔI VÔ VỌNG
Khách quái là Càn (trời), Chủ quái là Chấn (sấm)
Tượng là sấm. Hiện tượng phóng điện giữa hai đám mây trên bầu trời, không gây tác động đến mặt đất hay con người (không phải là sét, là hiện tượng phóng điện từ đám mây xuống đất). Nên, cũng tượng cho sự không ham muốn.
Ngoài ra chủ quái Chấn cũng tượng cho sự mới bắt đầu trong câu "Đế xuất hồ Chấn" của Hậu Thiên bát quái. Cho nên, cũng tượng cho sự ngây thơ, không dục vọng.
Phạm trù: Xử thế.
Cho đối tượng: Mọi người.
Tên là VÔ VỌNG: Không ham muốn, không dục vọng.
Hình tượng: Sấm giữa thinh không.
Thoán từ: 无妄元亨利貞其匪正有眚不利有攸往.
*Hào 1: 无妄往吉.
*Hào 2: 不耕穫不菑畬則利有攸往.
*Hào 3: 无妄之災或繫之牛行人之得邑人之災.
*Hào 4: 可貞无咎.
*Hào 5: 无妄之疾勿藥有喜.
*Hào 6: 无妄行有眚无攸利.
Thoán từ: 无妄元亨利貞其匪正有眚不利有攸往.
Không ham muốn, không dục vọng. Người cầm đầu có được đức tính này thì hanh thông ích lợi và chắc chắn không sai đường chính mà bị tai vạ. Bất lợi cho hạng du thủ du thực.
Hào từ:
*Hào 1: 无妄往吉.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Chấn. Không ham muốn, không dục vọng từ xưa đã tốt lành.
*Hào 2: 不耕穫不菑畬則利有攸往.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Chấn. Tiếp ý hào 1. Tuy nhiên, lại không ham muốn cầy ruộng, thu hoạch, cày sâu và cuốc bẫm mà lại muốn có lợi thì đó là sự không ham muốn của bọn du thủ du thực.
*Hào 3: 无妄之災或繫之牛行人之得邑人之災.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Chấn. Có những trường hợp không ham muốn vẫn mang lại tai vạ như buộc trâu bên đường, người đi đường thuận tay dắt đi, dù đó là sự không ham muốn lấy trâu nhưng việc đó gây tai vạ cho người trong ấp mất trâu.
*Hào 4: 可貞无咎.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Càn. Tiếp ý hào 3. Phải chắc chắn không ham muốn thì mới không có lỗi, không mang lại tai vạ cho người khác.
*Hào 5: 无妄之疾勿藥有喜.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Càn. Không ham muốn sẽ không bị bệnh (do quá ham muốn) nên vừa không phải uống thuốc lại được vui vẻ.
*Hào 6: 无妄行有眚无攸利.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Càn. Dù trong lòng không ham muốn nhưng hành động càn bậy thì cũng chẳng có lợi gì cả.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
25. QUẺ THIÊN LÔI VÔ VỌNG
Trên là Càn (trời), dưới là Chấn (sấm)
Đã trở lại thiên lý, chính đạo rồi thì không làm càn nữa, cho nên sau quẻ Phục, tới quẻ Vô vọng. Vọng có nghĩa là càn, bậy.
Thoán từ.
无妄: 元亨, 利貞. 其匪正有眚, 不利有攸往.
Vô vọng: Nguyên hanh, lợi trinh.
Kì phỉ chính hữu sảnh, bất lợi hữu du vãng.
Dịch: không càn bậy thì rất hanh thông, hợp với chính đạo thì có lợi. Cái gì không hợp với chính đạo thì có hại, có lỗi, hành động thì không có lợi.
Giảng: Tượng quẻ này: nội quái là Chấn (nghĩa là động, hành động); ngoại quái là Càn (trời), hành động mà hợp với lẽ trời thì không càn bậy, không càn bậy thì hanh thông, có lợi.
Thoán truyện giảng rõ thêm:
Nội quái nguyên là quẻ Khôn, mà hào 1, âm biến thành dương, thành quẻ Chấn. Thế là dương ở ngoài tới làm chủ nội quái, mà cũng làm chủ cả quẻ vô vọng, vì ý chính trong Vô vọng là: động, hành động. Động mà cương kiên như ngoại quái Càn, tức là không càn bậy.
Xét về các hào thì hào 5 dương cương, trung chính ứng, ứng với hào 2 cũng trung chính, thế là hợp với thiên lý, rất hanh thông.
Ở thời Vô vọng (không càn bậy) mình không giữ chính đạo mà đi thì đi đâu được? Chữ đi (vãng) ở đây nghĩa rộng là hành động (nguyên văn: Vô vọng chi vãng, hà chi hĩ? Nên hiểu là : vô vọng: phỉ chính chi vãng, hà chi hĩ; chữ chi thứ nhì này có nghĩa là đi). Trái lẽ trời thì trời không giúp, làm sao đi được ?
Đại tượng truyện bàn thêm về cái đạo của trời (đất) là nuôi nấng, và thánh nhân cũng theo đạo đó mà nuôi nấng vạn dân. Chúng tôi cho là ra ngoài đề.
Hào từ:
*Hào 1: 无妄, 往吉.
Sơ cửu: vô vọng, vãng cát.
Dịch: Hào 1, dương: không còn bậy, mà tiến đi thì tốt.
Giảng: Hào này dương cương, làm chủ nội quái, là người có đức, cho nên khen như vậy.
*Hào 2: 不耕穫, 不菑畬, 則利有攸往.
Lục nhị: Bất canh hoạch, bất tri dư, tắc lợi hữu du vãng.
Dịch: Khi cày thì không nghĩ tới lúc gặt, khi mới khai phá (tri) thì không nghĩ đến ruộng đã thuộc (dự), như vậy mà tiến tới thì có lợi.
Giảng: Lời hào này quá vắn tắt, hơn điện tín ngày nay nữa, nên tối nghĩa, có nhiều sách cứ dịch từng chữ; không thông.
Chu công muốn bảo: Khi cày mà không nghĩ tới lúc gặt, khi mới khai phá mà không nghĩ tới khi ruộng đã thuộc, có nghĩa là thấy việc chính đáng phải làm thì làm mà không nghĩ đến cái lợi rồi mới làm, không chỉ trông mong vào kết quả, như vậy mới tốt.
Hào 2, âm, vừa trung vừa chính, ứng với hào 5 cũng trung chính; nó vốn là âm có đức thuận ở trong nội quái Chấn là động, như một người tốt hành động hợp với trung, chính, cho nên Hào từ bảo như vậy mà tiến thì có lợi.
Có lẽ chính vì ý nghĩa hào này mà Sử ký của Tư Mã Thiên chép tên quẻ là 无 望 (vô vọng :không mong) với nghĩa làm điều phải mà “không mong” có lợi, có kết quả. Hiểu như vậy cũng được.
*Hào 3: 无妄之災, 或繫之牛, 行人之得, 邑人之災.
Lục tam: vô vọng chi tai, hoặc hệ chi ngưu,
Hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai.
Dịch: Hào 3, âm: không còn bậy mà bị tai vạ tự nhiên đến như có kẻ cột con bò ở bên đường (rồi bỏ đi chỗ khác), một người đi qua (thấy bò không có ai coi), dắt trộm đi, được bò, mà người trong ấp bị nghi oan là lấy trộm bò, mà mắc họa.
Giảng: cả 6 hào trong quẻ này đều là không càn bậy, nhưng hào này khác một chút là bất trung, bất chính, nên bị tai vạ; tai vạ đó chỉ là vô cớ mà mắc.
*Hào 4: 可貞,无咎.
Cửu tứ: khả trinh, vô cữu.
Dịch : Hào 4, dương: nên giữ vững tư cách thì không có lỗi (hoặc: có thể giữ vững được tư cách, cho nên không có lỗi).
Giảng : chữ “Trinh” có hai nghĩa: chính đáng và bền. Ở đây nên hiểu là bền. Hào 4 này dương, không ứng hợp với hào nào cả. (vì hào 1 cũng là dương cương như nó), không nên họat động, nhưng nó cương kiện, có thể giữ vững được tư cách.
*Hào 5: 无妄之疾, 勿藥, 有喜.
Cửu ngũ: vô vọng chi tật, vật dược, hữu hỉ.
Dịch: Hào 5, dương: Không càn bậy mà vô cớ bị bệnh (gặp tai họa) thì đừng uống thuốc, sẽ hết bệnh.
Giảng: Hào này ở địa vị cao, trung chính lại ứng với hào 2 cũng trung chính, vậy là rất tốt, chẳng may có bị bệnh (gặp tai họa) thì đừng uống thuốc (nghĩa bóng là đừng chạy chọt gì cả, cứ thản nhiên như Khổng tử khi bị giam ở đất Khuông) rồi sẽ tai qua nạn khỏi (như Khổng tử sau được thả ra, vì người Khuông nhận là rằng họ lầm ông với Dương Hổ, một người mà họ ghét.)
*Hào 6: 无妄, 行有眚, 无攸利.
Thượng cửu: Vô vọng, hành hữu sảnh, vô du lợi.
Dịch: Hào trên cùng, dương. Không càn bậy, nhưng đi (hành động) thì bị họa, không lợi gì.
Giảng: Hào từ khuyên không nên hành động, mặc dầu vẫn là “vô vọng”, chỉ vì hào này tới cuối cùng của quẻ rồi, chỉ nên yên lặng chờ thời.
*Thêm:
Quẻ này cũng nhấn mạnh vào lẽ tùy thời. Cả 6 hào đều là “vô vọng” cả, không càn bậy mà tùy thời, có lúc hoạt động thì tốt như hào 1, 2; có lúc lại nên thản nhiên, chẳng làm gì cả, như hào 5, có lúc không nên hành động như hào 4 (nếu hoạt động thì bị họa) và như hào trên cùng.
----------------------------------------------------
26. SƠN THIÊN ĐẠI SÚC
Khách quái là Cấn (núi). Chủ quái là Càn (trời)
Chủ quái CÀN tượng của sự bao dung có sức chứa phi thường. Khách quái Cấn tượng cho kết thúc, hậu trọng, nặng nề và vững chắc trong câu "Thành hồ Cấn" của Hậu Thiên bát quái. Cho nên, tượng của chồng quái là sự phát triển, sự súc tích quá mức thông thường.
Phạm trù: Xử thế.
Cho đối tượng: Mọi người.
Tên là ĐẠI HỮU: Có quá lớn, chứa quá lớn.
Hình tượng: Núi cao đến trời.
Thoán từ: 大畜: 利貞不家食吉利涉大川.
*Hào 1: 有厲利已.
*Hào 2: 輿說輹.
*Hào 3: 良馬逐利艱貞日閑輿衛利有攸往.
*Hào 4: 童牛之牿元吉.
*Hào 5: 豶豕之牙吉.
*Hào 6: 何天之衢亨.
Thoán từ: 大畜: 利貞不家食吉利涉大川.
Có quá lớn, chứa quá lớn chỉ có có lợi cho phường du thủ du thực vô gia cư (Như kho chứa chứa quá mức sẽ vỡ hoặc không quản lý được thì chỉ có lợi cho phường du thực du thủ, trộm cắp). Lợi nhất cho họ là khi có quá lớn, chứa quá lớn nhiều mà phải vượt sông lớn (gặp trở ngại lớn, nghịch cảnh lớn).
Hào từ:
*Hào 1: 有厲利已.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Càn. Chứa quá lớn sẽ nguy hiểm, chẳng còn gì lợi (như thoái từ).
*Hào 2: 輿說輹.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Càn. Chất lên xe quá nhiều sẽ làm xe không di chuyển được như bị tháo mất trục.
*Hào 3: 良馬逐利艱貞日閑輿衛利有攸往.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Càn. Ngựa đều quá tốt mà tranh nhau chắc chắn gian nan. Quá ỷ vào ban ngày không phòng vệ đầy đủ sẽ mất lợi thế. Tức là những cái quá tốt đều tiềm ẩn cái xấu.
*Hào 4: 童牛之牿元吉.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Cấn. Tiếp ý hào 3. Cho nên, ngay khi con bò mộng còn non đã cần đặt mảnh gỗ chặn sừng nó, người cầm đầu biết như vậy thì tốt. Tức là người cầm đầu phải biết phải đề phòng các tình huống nguy hiểm ngay từ khi còn là mầm mống.
*Hào 5: 豶豕之牙吉.
Hào âm. Trung vạch khách quái Cấn. Tiếp ý hào 4. Hoặc như nuôi dưỡng như nuôi lợn để làm thịt cho cái nanh của nó sẽ không phát triển thì tốt. Tức là thuần hóa lợn rừng để răng nanh của nó không phát triển.
*Hào 6: 何天之衢亨.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Cấn. Tiếp ý hào 5. Cuối cùng mà quá lớn như đỉnh núi cao ngất thông được lên trời thì hanh thông. Tức là thành tựu cuối cùng quá lớn thì lại tốt, còn trong quá trình thực hiện mọi cái có quá lớn, chứa quá lớn đều nguy hiểm, chẳng còn gì lợi (như hào 1).
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
26. QUẺ SƠN THIÊN ĐẠI SÚC
Trên là Cấn (núi), dưới là Càn (trời)
Mình không có càn bậy (Vô vọng) rồi bản thân mới có thể chứa được nhiều tài, đức, hoài bão, nên sau quẻ vô vọng, tới quẻ Đại súc. Chữ súc trong quẻ này cũng là chữ súc trong quẻ Phong thiên tiểu súc, có ba nghĩa: Nhóm chứa, nuôi nấng, ngăn lại. Thoán từ dùng theo nghĩa chứa (súc tích, uẩn súc), mà Hào từ dùng với nghĩa ngăn lại.
Thoán từ:
大畜: 利貞, 不家食,吉; 利涉大川.
Đại súc: Lợi trinh, bất gia thực, cát; lợi thiệp đại xuyên.
Dịch: Chứa lớn: Chính đáng (theo chính đạo) thì lợi. Không phải ăn cơm nhà (tức được hưởng lộc của vua), tốt; vượt qua sông lớn (làm việc khó khăn, gian nguy để giúp nước) thì lợi.
Giảng: Trên là núi, dưới là trời, núi mà chứa được trời thì sức chứa của nó thật lớn, cho nên gọi là Đại súc. Nói về bậc quân tử thì phải “chứa” tài đức, nghĩa là tu luyện cho tài đức uẩn súc; trước hết phải cương kiện như quẻ Càn, phải rất thành thực, rực rỡ (có văn vẻ) như quẻ Cấn, mà những đức đó phải mỗi ngày một mới, nhật tân kì đức (Thoán truyện); phải biết cho đến nơi đến chốn, làm cho đến nơi đến chốn, đủ cả tri lẫn hành (đại tượng truyện).
Người nào “uẩn súc” được như vậy thì được quốc gia nuôi, và khi xã hội gặp gian truân thì cứu được (vượt qua sông lớn), vì ứng với trời (như hào 5 ở vị cao ứng với hào 2 trong quẻ Càn là trời).
Hào từ:
*Hào 1: 有厲.利已.
Sơ cửu: Hữu lệ, lợi dĩ.
Dịch: Hào 1, dương : có nguy, ngưng lại thì lợi.
Giảng: Hào này cương kiện, muốn tiến lên nhưng bị hào 4, âm ở trên chặn lại (trong các hào, súc có nghĩa là ngăn chứ không có nghĩa là chứa), nếu cố tiến thì nguy, ngưng lại thì tốt.
*Hào 2: 輿說輹.
Cửu nhị: Dư thoát phúc.
Dịch: Hào 2, dương, như chiếc xe đã tháo cái trục.
Giảng: Hào này cũng bị hào 5, âm, ngăn lại như hào 1, nhưng vì đắc trung (ở giữa nội quái), nên biết tự ngăn mình (như tự tháo cái trục xe ra) để thôi không đi. Như vậy không có lỗi.
*Hào 3: 良馬逐; 利艱貞.日閑輿衛, 利有攸往.
Cửu tam: Lương mã trục; lợi gian trinh,
Nhật nhàn dư vệ, lợi hữu du vãng.
Dịch: Hào 3, dương : như hai con ngựa tốt chạy đua nhau; phải chịu khó giữ đạo chính thì có lợi, lại phải thường ngày luyện tập, dự bị các đồ hộ thân thì tiến lên mới có lợi.
Giảng: Chúng ta để ý: hai hào 1, 2 đều là dương cương mà đều bị hai hào âm nhu (4 và 5) ngăn cản, vì tuy cương mà ở trong nội quái (quẻ dưới), cũng như các tướng tài năng phải phục tùng Võ Hậu, Từ Hi Thái Hậu. Không phải thời nào dương cũng thắng âm cả đâu. Tới hào 3 này, may được hào trên cùng cũng là dương, ứng với mình như một đồng chí, cho nên cả hai hăng hái như hai con ngựa tốt đua nhau chạy; nhưng hăng quá mà không nhớ rằng trên đường gặp nhiều gian nan, không luyện tập đề phòng hàng ngày thì không tiến được xa, nên Hào từ khuyên như trên.
*Hào 4: 童牛之牿, 元吉.
Lục tứ: đồng ngưu chi cốc, nguyên cát.
Dịch: Hào 4, âm: như con bò mộng còn non, mới nhú sừng, đặt ngay mảnh gỗ chặn sừng nó, thì rất tốt.
Giảng: Trong quẻ Đại súc, hào âm này vẫn ngăn chặn được hào 1, dương, vì tuy nó âm nhu, nhưng hào 1 ở đầu quẻ là dương còn non, như con bò mọng mới nhú sừng, nếu kịp thời ngăn cản ngay, chặn sừng nó lại thì không tốn công mà có kết quả rất tốt. đại ý là phải đề phòng ngay từ khi họa mới có mòi phát.
*Hào 5: 豶豕之牙, 吉.
Lục ngũ: Phần thỉ chi nha, cát.
Dịch: Hào 5, âm: Như thể ngăn cái nanh con heo đã thiến thì tốt.
Giảng: Hào 2 là dương đã già giặn, không non nớt như hào 1, cho nên dữ hơn 1, ví như nanh con heo (rừng). Hào 5 muốn chặn nó, mà chỉ bẻ nanh con heo thôi thì nó vẫn con hung; tốt hơn hết là thiến nó để cho nó hết dữ, lúc đó dù nó còn nanh cũng không hay cắn nữa. Hào 5, chặn được hào 2 là nhờ cách đó, trừ tận gốc, không tốn công mà kết quả tốt.
*Hào 6: 何天之衢, 亨.
Thượng cửu: hà thiên chi cù, hanh.
Dịch : Hào trên cùng, dương. Sao mà thông suốt như dương trên trời vậy.
Giảng: tới hào này là thời gian cản đã cùng rồi, hết trở ngại, đường thật rộng lớn, bát ngát như đường trên trời. Có nghĩa là đại lớn được thi hành.
*Thêm:
Quẻ này Thoán từ nói về sự súc tích tài đức, mà Hào từ lại xét cách ngăn cản kẻ hung hãn.
Hai hào có ý nghĩa nhất là 4 và 5: muốn ngăn thì phải ngăn từ khi mới manh nha; và muốn diệt ác thì phải diệt từ gốc, tìm nguyên nhân chính mà trừ thì mới không tốn công, kết quả chắc chắn.
Thanked by 1 Member:
|
|
#18
Gửi vào 09/01/2016 - 13:09
27. SƠN LÔI DI
Khách quái là Cấn (núi). Chủ quái là Chấn (sấm sét)
Tượng là sét (Chấn) đánh xuống đỉnh núi (Cấn) sẽ tạo vết nứt vỡ lở ra như mép của miệng nên tên chồng quái là DI (ăn uống, cái mép).
Pham trù: Lấy tĩnh chế động.
Cho đối tượng: Mọi người trong xã hội.
Tên là DI: ăn uống.
Hình tượng: Miệng ăn núi lở.
Thoán từ: 頤貞吉觀頤自求口實.
*Hào 1: 舍爾靈龜觀我朵頤凶.
*Hào 2: 顛頤拂經于丘頤征凶.
*Hào 3: 拂頤貞凶十年勿用无攸利.
*Hào 4: 顛頤吉虎視眈眈其欲逐逐无咎.
*Hào 5: 拂經居貞吉不可涉大川.
*Hào 6: 由頤厲吉利涉大川.
Thoán từ: 頤貞吉觀頤自求口實.
Ăn uống chỉ tốt lành nếu quan niệm rằng ăn uống phải biết tự kiềm chế sự tham ăn.
Tức là ăn uống phải biết giới hạn, vượt quá giới hạn sẽ nguy.
Hào từ
*Hào 1: 舍爾靈龜觀我朵頤凶.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Chấn. Con rùa linh thiêng bị bỏ lại mà thèm thuồng xem ta ăn uống thì hung. Tức ta ăn nhiều và ăn ngon miệng đến nỗi con rùa chỉ ăn rau cỏ mà phải nhìn ta thèm thuồng (mồm nó động đậy theo).
*Hào 2: 顛頤拂經于丘頤征凶.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Chấn. Nghiêng ngả vì ăn uống, làm trái với lẽ thường mà tranh giành để được ăn nhiều là mua lấy sự nguy hiểm vậy (như thoái từ).
*Hào 3: 拂頤貞凶十年勿用无攸利.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Chấn. Tiếp ý hào 2. Tham ăn chỉ có nguy. Mười năm cũng không thấy ích lợi gì (một hào tương ứng với hai giờ hoặc hai tháng hoặc mười năm).
*Hào 4: 顛頤吉虎視眈眈其欲逐逐无咎.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Cấn. Nghiêng ngả vì ăn uống nhưng sẽ tốt lành và không có lỗi nếu đang ăn mà tưởng tượng có con hổ đói đang nhìn mình chằm chằm và thèm muốn chực vồ lấy.
*Hào 5: 拂經居貞吉不可涉大川.
Hào âm. Trung vạch khách quái Cấn. Làm trái với sự ăn ở thông thường (ăn uống kiêng khem) chỉ có tốt lành nhưng không thể vượt sông lớn (làm việc khó khăn).
*Hào 6: 由頤厲吉利涉大川.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Cấn. Tiếp ý hào 5. Bởi ăn uống có tác dụng khích lệ, nên nó tốt và có ích khi vượt sông lớn (làm việc khó khăn). Tổ Tiên có câu “Có thực mới vực được đạo” là ý này.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
27. QUẺ SƠN LÔI DI
Trên là Cấn (núi), dưới là Chấn (sấm)
Súc là chứa, có chứa nhóm vật lại rồi mới nuôi được, cho nên sau quẻ Đại súc là quẻ Di. Di có hai nghĩa: nuôi nấng và cái cằm. Nhìn hình quẻ, chúng ta thấy như cái miệng mở rộng, hai nét liền ở trên và dưới như hai cái hàm, toàn bộ gợi cho ta ý cái cằm (thay cái mép) lại gợi cho ta sự ăn uống để nuôi sống.
Thoán từ
頤: 貞吉. 觀頤, 自求口實.
Di : Trinh cát. Quan di, tự cầu khẩu thực.
Dịch: Nuôi: hễ đúng chính đạo thì tốt. Xem cách nuôi người và tự nuôi mình.
Giảng: Nuôi tinh thần hay thể chất, cũng phải hợp chính đạo thì mới tốt. Xem cách nuôi người và tự nuôi mình thì biết tốt hay xấu.
Thoán truyện suy rộng ra: Trời đất khéo nuôi vạn vật mà vạn vật sinh sôi nảy nở về mọi mặt; thánh nhân dùng những người hiền giúp mình trong việc nuôi dân chúng; cái đạo nuôi nấng lớn như vậy đó.
Đại tượng truyện đưa thêm một ý nữa: theo cái tượng của quẻ, thì dưới núi có tiếng sấm, dương khí bắt đầu phát mà vạn vật trong núi được phát triển như vậy là trời đất nuôi vật. Người quân tử tự nuôi mình thì phải cẩn thận về lời nói để nuôi cái đức, và tiết độ về ăn uống để nuôi thân thể (Quân tử dĩ thận ngôn ngữ, tiết ẩm thực). Là vì đời, “họa tòng khẩu xuât, bệnh tòng khẩu nhập” Phải giữ gìn nhất cái miệng.
Hào từ
*Hào 1: 舍爾靈龜, 觀我朵頤, 凶.
Sơ cửu: Xã nhỉ linh qui, quan ngã đóa di, hung.
Dịch: hào 1, dương: chú bỏ con rùa thiêng (tượng trưng phần tinh thần quí báu) của chú đi mà cứ ngó ta, tới xệ mép xuống, xấu.
Giảng: Chúng ta nên để ý: nội quái là Chấn, có nghĩa là động, cho nên cả ba hào đều diễn cái ý mình đi cầu cạnh người.
Hào 1 này dương cương, khôn lanh, nhưng ứng với hào 4 âm, có thế lực ở trên hăm hở theo âm đến nỗi bỏ thiên lí, thèm thuồng cầu ăn ở người khác (hào 4) để nuôi xác thịt, mà quên phần tinh thần của mình (nó quí như con rùa thiêng chỉ sống bằng khí trờii) như vậy rất xâu. Hai chữ “đóa di”, thòng mép xuống, cực tả sự bỉ ổi của bọn người chỉ ham ăn, nói rộng ra là bọn bị tư dục mê hoặc đến mất cả liêm sỉ.
*Hào 2: 顛頤, 拂經, 于丘 頤, 征凶.
Lục nhị: điên di, phất kinh, vu khâu di, chinh hung .
Dịch: Hào 2, âm: Đảo lộn cách nuôi mình, trái với lẽ thường, cầu sự nuôi dưỡng ở gò cao, tiến lên thì xấu.
Giảng: Hào này âm nhu, không tự sức nuôi mình được, nên phải cầu ăn với hai hào dương 1 và 6. nhưng hào 1 ở dưới mình, như vậy là người trên xin ăn người dưới, đảo lộn rồi, trái lẽ thường (kinh) rồi; còn như cầu ăn ở hào trên cùng (ví như cái gò cao), tì hào này không ứng với 2, 2 sẽ bị từ chối, bị khinh mà mắc nhục.
Nên để ý: theo thường lệ, hào 2 này đắc trung, chính thì tốt mà đây lại xấu, vì ý nghĩa của quẻ nuôi dưỡng, mà hào này lại không đủ sức tự dưỡng được.
*Hào 3: 拂頤, 貞凶.十年勿用无攸利.
Lục tam: Phật di, trinh hung. Thập niên vật dụng vô du lợi.
Dịch: Hào 3 âm: Cách nuôi trái hẳn với chính đạo, xấu. Mười năm (có nghĩa là tới cùng) cũng không tốt được không làm nên gì.
Giảng: hào này âm nhu, bất trung, bất chính, lại hay động (vi ở trên cùng nội quái Chấn) không chịu ngồi yên, thấy đâu có ăn là đâm đầu vào. Rất xấu – Về hai chữ “thập niên” chúng ta đã giảng ở hào cuối cùng của quẻ Phục.
*Hào 4: 顛頤, 吉.虎視眈眈, 其欲逐逐, 无咎.
Lục tứ: điên di, cát. Hổ thị đam đam, kì dục trục trục, vô cữu.
Dịch: Hào 4, âm: Đảo lộn cách nuôi mà tốt. Mắt hổ nhìn đăm đăm, lòng ham muốn day dứt không ngớt, không có lỗi.
Giảng: Hào này âm nhu đắc chính, ở vào địa vị cao, được hào 5 chí tôn tương đắc với mình (cùng là âm cả) lại thêm có hào 1 dương ứng với mình, như vậy là người trên biết trọng đạo nghĩa, biết hạ mình cầu người dưới (hào 1) nuôi mình; tuy là điên đảo, trái lẽ thường đấy, nhưng vì là người tốt (đắc chính), cầu 1 giúp mình để mình lập nên sự nghiệp san sẽ giúp đỡ dân chúng, cho nên vẫn là tốt.
Nhưng phải chuyên nhất, không gián đoạn (như mắt hổ nhìn đăm đăm, ham muốn không ngớt), cứ tiếp tục cầu 1 giúp hoài thì mới có kết quả, không có lỗi.
Cầu nuôi ở hào này là cầu nuôi về tinh thần, chứ không phải về thể xác.
*Hào 5: 拂經, 居貞, 吉.不可涉大川.
Lục ngũ: Phật kinh, cư trinh, cát. Bất khả thiệp đại xuyên.
Dịch: Hào 5, âm: Trái lẽ thường, bền chí giữ đạo chính thì tốt. Không thể vượt sông lớn được.
Giảng: Hào này như một vị nguyên thủ, có trách nhiệm nuôi người, nhưng vì âm nhu, kém tài, nên phải nhờ người (tức hào trên cùng) nuôi mình (giúp đỡ mình); tuy là trái lẽ thường, nhưng cứ bền chí, giữ đạo chính thì tốt; vì nhờ người khác giúp đỡ để mình làm trọn nhiệm vụ nuôi dân.
Tuy nhiên, vì tài kém (âm nhu), làm việc lớn gian hiểm không nổi, nên Hào từ khuyên: không thể qua sông lớn được.
Cầu nuôi ở hào này cũng là cầu nuôi về tinh thần.
*Hào 6: 由頤, 厲吉, 利涉大川.
Thượng cửu: do di, lệ cát. Lợi thiệp đại xuyên.
Dịch: Hào trên cùng, dương. Thiên hạ nhờ mình mà được nuôi, trách nhiệm mình lớn như vậy, mình phải thường lo lắng, sợ hãi thì được tốt. Qua sông lớn được.
Giảng: Hào này dương cương mà ở trên cùng, như bậc làm thầy cho vị nguyên thủ, vị nguyên thủ nhờ mình mà nuôi được thiên hạ, thì cũng như chính mình nuôi thiên hạ. Trách nhiệm lớn như vậy nên mình phải thường lo lắng, sợ hãi, rất thận trọng thì mới được tốt lành, mà thiên hạ được phúc lớn (lời Tiểu tượng truyện).
Hào này dương cương có tài, không như hào 5, cho nên làm được việc lớn gian hiểm.
*Thêm:
Tóm lại ba hào cuối đều có nghĩa là nuôi về tinh thần, giúp đỡ dân chúng nên đều được “cát” hết. Ba hào đầu có nghĩa là nhờ người nuôi thể xác của mình, cho nên đều xấu .
---------------------------------------------------------------------
28. TRẠCH PHONG ĐẠI QUÁ
Khách quái là Đoài (chằm). Chủ quái là Tốn (gió).
Tượng của chủ quái Tốn là nề nếp, chuẩn mực trong câu "Tề hồ Tốn" của Hậu thiên bát quái. Tượng của khách quái Đoài là xã hội loài người trong câu "Duyệt ngôn hồ Đoài" của Hậu thiên bát quái. Vì vậy, tượng của chồng quái sẽ là những kinh nghiệm, lề thói của những cái lớn đã qua được đúc kết theo thời gian của xã hội loài người.
Pham trù: Lấy tĩnh chế động.
Cho đối tượng: Mọi người trong xã hội.
Tên là ĐẠI QUÁ: Cái lớn đã qua, chuẩn mực lề thói của xã hội.
Hình tượng: Mái nhà tổ tiên.
Thoán từ: 大過棟撓利有攸往亨.
*Hào 1: 藉用白茅无咎.
*Hào 2: 枯楊生稊老夫得其女妻无不利.
*Hào 3: 棟橈凶.
*Hào 4: 棟隆吉有它吝.
*Hào 5: 枯楊生華老婦得其士夫无咎无譽.
*Hào 6: 過涉滅頂凶无咎.
Thoán từ: 大過棟撓利有攸往亨.
Phá bỏ mọi chuẩn mực lề thói xã hội (mái nhà) chỉ có lợi và hanh thông cho kẻ vãng lai, vô gia cư. Tức là cần giữ giới hạn và tuân thủ chuẩn mực xã hội thì xã hội mới ổn định, an cư và lạc nghiệp.
Hào từ:
*Hào 1: 藉用白茅无咎.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Tốn. Nằm trên chiếu rơm trắng (chiếu bện từ rơm của kẻ sĩ hèn ở quê) thì không có lỗi. Tức là tuân thủ theo lề thói ở quê (đất lề quê thói) thì không có lỗi.
*Hào 2: 枯楊生稊老夫得其女妻无不利.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Tốn. Khi nào cây khô mọc rễ thì đàn ông già cưới được vợ trẻ mới không gì là không lợi.
*Hào 3: 棟橈凶.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Tốn. Lớn quá khiến nóc nhà tan thì nguy (như thoái từ).
*Hào 4: 棟隆吉有它吝.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Đoài. Giữ cho nóc nhà thịnh (giữ vững chuẩn mực, không đi quá giới hạn) thì tốt lành. Còn không sẽ hối tiếc.
*Hào 5: 枯楊生華老婦得其士夫无咎无譽.
Hào dương. Trung vạch khách quái Đoài. Khi nào cây khô ra hoa thì bà già lấy chồng trai tráng mới không chê cũng không khen.
*Hào 6: 過涉滅頂凶无咎.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Đoài. Mực nước sông khi lên quá đầu người sẽ trở nên hung hiểm nếu không có đê ngăn hai bên. Tức là lề thói chuẩn mực xã hội như hai bờ đê kè bên sông, ngăn chặn được những hung hiểm của con sông vào mùa nước lũ.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
28. QUẺ TRẠCH PHONG ĐẠI QUÁ
Trên là Đoài (chằm) dưới là Tốn (gió)
Tự quái truyện giảng rất mù mờ, “Di là nuôi, không nuôi thì không thể động (bất dưỡng tức bất động) (?) cho nên sau quẻ Di đến quẻ Đại quá (lớn quá) “Phan Bội Châu giảng: “Có nuôi rồi sau mới có việc lớn quá”
Chúng tôi nghĩ có thể giảng: Có bồi dưỡng tài đức thì sau mới làm được việc lớn quá (rất lớn), phi thường.
Chữ “đại quá” có hai cách hiểu: Phần dương trong quẻ tới 4 (phần âm chỉ có hai) mà dương có nghĩa là lớn (âm là nhỏ); vậy đại quá có nghĩa là phần dương nhiều quá; - nghĩa nữa là (đạo đức công nghiệp) lớn quá.
Thoán từ
大過: 棟撓, 利有攸往, 亨.
Đại quá: đống nạo, lợi hữu du vãng, hanh.
Dịch: (Phần dương ) nhiều quá (phần âm ít quá) như cái cột yếu, cong xuống (chống không nổi). Trên di thì lợi, được hanh thông.
Giảng: Nhìn hình của quẻ, bốn hào dương ở giữa, 2 hào âm hai đầu, như cây cột, khúc giữa lớn quá, ngọn và chân nhỏ quá, chống không nổi, phải cong đi.
Tuy vậy, hai hào dương 2 và 5 đều đắc trung, thế là cương mà vẫn trung; lại thêm quẻ Tốn ở dưới có nghĩa là thuận, quẻ Đoài ở trên có nghĩa là hòa, vui, thế là hòa thuận, vui vẻ làm việc, cho nên bảo là tiến đi (hành động) thì được hanh thông.
Đại tượng truyện bàn rộng: Đoài là chằm ở trên, Tốn là cây ở dưới, có nghĩa nước lớn quá, ngập cây. Người quân tử trong quẻ này phải có đức độ, hành vi hơn người, cứ việc gì hợp đạo thì làm, dù một mình đứng riêng, trái với thiên hạ, cũng không sợ (độc lập bất cụ); nếu là việc không hợp đạo thì không thèm làm, dù phải trốn đời, cũng không buồn (độn thế vô muộn).
Hào từ:
*Hào 1: 藉用白茅, 无咎.
Sơ lục: Tạ dụng bạch mao, vô cữu.
Dịch: Hào 1, âm: Lót (vật gì) bằng cây cỏ mao trắng, không có lỗi.
Theo Hệ tự thượng truyện Chương VIII, Khổng tử bàn về quẻ này: “Nếu đặt vật gì xuống đất cũng được rồi mà lại còn dùng cỏ mao trắng để lót thì còn sợ gì đổ bể nữa? Như vậy là rất cẩn thận”.
*Hào 2: 枯楊生稊, 老夫得其女妻, 无不利.
Cửu nhị: Khô dương sinh đề, lão phu đắc kì nữ thê, vô bất lợi.
Dịch: Hào 2, dương : cây dương khô đâm rễ mới, đàn ông già cưới được vợ trẻ, không gì là không lợi.
Giảng: Dương cương mà ở vị âm (hào 2), như vậy là cương mà có chút nhu, lại đắc trung. Nó thân cận với hào 1 âm, thế là cương nhu tương tế, bớt cứng đi, như cây khô mà đâm rễ mới, rồi cành là sẽ tươi tốt. Có thể ví với một người già cưới được vợ trẻ. . .
*Hào 3: 棟橈, 凶.
Cửu tam: Đống nạo, hung.
Dịch: Hào ba, dương: cái cột cong xuống, xấu.
Giảng: Hào 3 dương ở vị dương, thế là quá cương, định làm công việc lớn quá (thời Đại quá), quá cương thì cong xuống, gẫy, việc sẽ hỏng.
Chúng ta để ý: Thoán từ nói về nghĩa toàn quẻ , nên dùng hai chữ “đống nạo” mà vẫn khen là tốt (lí do đã giảng ở trên). Còn Hào từ xét riêng ý nghĩa hào 3, chê là xấu, vì hào này quá cương, mặc dầu ứng với hào trên cùng (âm nhu), cũng không chịu để hào đó giúp mình.
*Hào 4: 棟隆, 吉.有它, 吝.
Cửu tứ: Đống long, cát. Hữu tha, lận.
Dịch: Hào 4, dương : như cây cột lớn, vững , tốt. Nếu có ý nghĩa gì khác thì hối tiếc.
Giảng: cũng là hào dương nhưng ở vị âm (4), vừa cương vừa nhu, như cái cột lớn vững đỡ nổi nhà. Ý nói làm được việc lớn, không lo thất bại.
Nó lại ứng hợp với hào 1 âm, tiểu nhân ở dưới, như vậy e nó quá nhu chăng, cho nên Hào từ khuyên: chớ quyến luyến quá với 1, có ý nghĩ khác, mà đáng xấu đấy.
*Hào 5: 枯楊生華, 老婦得其士夫, 无咎, 无譽.
Cửu ngũ: Khô dương sinh hoa, lão phụ đắc kì sĩ phu, vô cữu, vô dự.
Dịch: Hào 5, dương : Cây dương khô ra hoa, bà già có chồng trai tráng, không chê cũng không khen.
Giảng: Hào 5, dương cương, trung chính. Ở ngôi chí tôn, đáng lẽ làm được việc rất lớn, nhưng ở thời đại quá, thì quá cương, quá cương mà ở gần hào trên cùng, âm ở âm vị, là một người quá nhu, không giúp nhau được việc gì, cũng như cây dương đã khô mà ra hoa cuối mùa, sắp tiều tụy đến nơi rồi. Không khác gì bà già mà có chồng trai tráng, chẳng mong gì sinh đẻ nữa.
Hào này khác với hào 2 ở chỗ hào 2 vừa cương vừa nhu, nên tốt, ví với cây dương khô đâm rễ mới; hào 5 thì quá cương, xấu, ví với cây dương khô, không dâm rễ mà ra hoa, nhựa sắp kiệt rồi.
*Hào 6: 過涉, 滅頂, 凶, 无咎.
Thượng lục: quá thiệp, diệt đính, hung, vô cữu.
Dịch : Hào trên cùng, âm. Lội qua chỗ nước sâu, nước ngập đầu, xấu: nhưng không có lỗi.
Giảng: Bản chất âm nhu, tài hèn mà ở vào cuối thời Đại quá muốn làm việc lớn thì rất nguy thân, như người lội chỗ nước sâu lút đầu. Nhưng làm công việc nguy hiểm đó để cứu đời, cho nên không gọi là có lỗi được. Hào này trỏ hạng người “sát thân di thành nhân” (tự hi sinh để làm nên điều nhân), đáng phục chớ không chê được.
*Thêm:
Tên quẻ là Đại quá (lớn quá), mà Hào từ lại ghét những người quá cương, (hào 3, 5) quá nhu như hào trên cùng tuy không có lỗi, nhưng cũng cho là xấu. Vây Kinh Dịch có ý trọng đức trung (vừa cương vừa nhu) hơn cả.
Thanked by 1 Member:
|
|
#19
Gửi vào 10/01/2016 - 12:00
29. THUẦN KHẢM
Khách quái là Khảm (nước). Chủ quái là Khảm (nước).
Tượng là nước thêm nước sẽ tụ chỗ trũng (cái hốc).
Phạm trù: Hành động.
Cho đối tượng: Người dân.
Tên là KHẢM: Tụ, ngưng tụ, gắn vào, nhập vào, hòa vào, khó khăn, hiểm hóc.
Hình tượng: Nước tụ chỗ trũng.
Thoán từ: 習坎有孚維心亨 行有尚.
*Hào 1: 習坎入于坎窞凶.
*Hào 2: 坎有險求小得.
*Hào 3: 來之坎坎險且枕入于坎窞勿用.
*Hào 4: 樽酒簋貳用缶納約自牖終无咎.
*Hào 5: 坎不盈祗既平无咎.
*Hào 6: 係用黴纆寘于叢棘三歲不得凶.
Thoán từ: 習坎有孚維心亨 行有尚.
Người dân tụ tập mà có sự tin tưởng, mục tiêu, tâm điểm để quy tụ thì hanh thông và hành sự có chủ đích, và biết nghe theo sự dẫn dắt của người cầm đầu.
Hào từ:
*Hào 1: 習坎入于坎窞凶.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Khảm. Mới tụ tập mà đã quá đông thì nguy hiểm. Tức là việc tụ tập tạo thành quần thể xã hội thì từ từ lâu dài. Còn sự tụ tâp quá nhanh thường là tụ tập làm loạn nên tiểm ẩn nguy hiểm.
*Hào 2: 坎有險求小得.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Khảm. Rơi vào chỗ khó khăn. nguy hiểm nên cầu cứu dân chúng thì thành. Có câu "Khó trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong" là ý này.
*Hào 3: 來之坎坎險且枕入于坎窞勿用.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Khảm. Đến để quy tụ mà khó khăn, hiểm nguy cũng tụ theo thì chớ nên tụ. Như là những người đang bị truy nã, tụ lại với nhau thì chỉ có chết cả đám.
*Hào 4: 樽酒簋貳用缶納約自牖終无咎.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Khảm. Chén uống rượu, bát ăn cơm cũng có thể dùng như cái vò để hứng nước lúc thiếu thốn một cách tự nhiên và chẳng lỗi lầm gì. Tức là những cái hốc nhỏ (KHẢM) một cách tự nhiên có thể dẫn dụ nước tụ lại. Như là bản chất tự nhiên của người dân, luôn dễ dàng tụ lại với nhau thành quần thể để giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau mưu cầu cuộc sống.
*Hào 5: 坎不盈祗既平无咎.
Hào dương. Trung vạch khách quái Khảm. Chứa nước (KHẢM) không nên đầy mà chỉ ngang bằng thì không có lỗi. Tức là tụ mà quá đầy thì sẽ tán, lúc này KHẢM biến thành LY.
*Hào 6: 係用黴纆寘于叢棘三歲不得凶.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Khảm. Hòa nhập mà như hạt cây mai bị vứt vào bụi cây mâm xôi, ba mùa xuân không nảy mầm được thì nguy. Tức là hoà nhập hay tụ họp phải đúng chỗ, đúng nơi, đúng thời điểm, sai đi thì nguy.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
29. QUẺ THUẦN KHẢM
Trên và dưới đều là Khảm (nước)
Lẽ trời không thể quá (cực đoan) được mãi, hễ quá thì sẽ phải sụp vào chỗ hiểm. Vậy sau quẻ Đại quá, tới quẻ Thuần khảm. Khảm có nghĩa là sụp, là hiểm.
Thoán từ :
習坎: 有孚, 維心亨, 行有尚.
Tập Khảm: Hữu phu, duy tâm hanh, hành hữu thượng.
Dịch: Hai lớp khảm (hai lớp hiểm), có đức tin, chỉ trong lòng là hanh thông, tiến đi (hành động) thì được trọng mà có công.
Giảng: Tập Khảm có nghĩa là trùng khảm, hai lần Khảm. Nhìn hình quẻ Khảm ta thấy một hào dương bị hãm vào giữa hai hào âm, cho nên Khảm có nghĩa là hãm, là hiểm.
Ta lại thấy ở giữa đặc (nét liền), ngoài rỗng (nét đứt), trái với quẻ Ly ☲ giữa rỗng trên dưới đặc, như cái miệng lò; chỗ rỗng đó là chỗ không khí vô để đốt cháy than, củi, cho nên Ly là lửa. Khảm trái với Ly, chỗ nào trống thì nước chảy vào; Ly là lửa thì Khảm là nước. Nguy hiểm không gì bằng nước sâu, không cẩn thận thì sụp xuống, chết đuối, nên bảo nước là hiểm.
Xét theo ý nghĩa thì hào dương ở giữa, dương là thực, thành tín, vì vậy bảo là Khảm có đức tin, chí thành (hữu phu) ở trong lòng, nhờ vậy mà hanh thông. Gặp thời hiểm , có lòng chí thành thì không bị tai nạn, hành động thì được trọng mà còn có công nữa.
Thoán truyện giảng thêm: Nước chảy hoài mà không bao giờ ứ lại (lưu nhi bất doanh) chỗ hiểm trở nào cũng tới, cho nên bảo là có đức tin.
Lòng được hanh thông vì hai hào giữa (hào 2 và 5), đã cương mà đắc trung.
Trời có tượng hiểm (vì không lên trời được) ; đất có tượng hiểm, tức núi sông. Các bậc vương công theo tượng trời và đất mà đặt ra những cái hiểm (tức đào hào, xây thành, đạt ra hình pháp) để giữ đất đai và sự trật tự trong xã hội. Cái công dụng của hiểm nếu hợp thời thì cực lớn.
Đại tượng truyện khuyên nên theo cái đức chảy hoài không ngừng của nước mà giữ bền đức hạnh mà tu tĩnh không ngày nào quên.
Hào từ:
*Hào 1: 習坎, 入于坎窞, 凶.
Sơ lục: Tập khảm, nhập vu khảm năm ( có người đọc là đạm, hạm, lăm), hung.
Dịch: Hào 1, âm: Hai lần hiểm, sụp vào hố sâu, xấu.
Giảng: hào 1 đã âm nhu, lại ở dưới cùng quẻ Thuần Khảm hai lần hiểm, nên rất xấu.
*Hào 2: 坎有險, 求小得.
Cửu nhị: khảm hữu hiểm, cầu tiểu đắc.
Dịch: Hào 2, dương : ở chỗ nước (hiểm) lại có hiểm, mong làm được việc nhỏ thôi.
Giảng: Hào này dương cương, đắc trung, có tài trí, nhưng ở giữa thời trùng hiểm, trên dưới bị hai hào âm nhu bao vây, chưa thóat được; cho nên chỉ mong làm đựơc việc nhỏ thôi.
Hào 4 quẻ Dư (số 6) cũng là dương ở vị âm; cũng bị hai hào âm bao vây, còn kém hào 2 quẻ Khảm vì không đắc trung,vậy mà Hào từ cho là “đại hữu đắc” (thành côn lớn); còn hào 2 quẻ Khảm này chỉ cầu được “tiểu đắc” thôi; chỉ vì thời khác; thời quẻ Dự là thời vui vẻ, hanh thông, thời quẻ Khảm là thời gian nan, nguy hiểm.
*Hào 3: 來之坎坎, 險且枕, 入于坎窞, 勿用.
Lục tam : Lai chi khảm khảm, hiểm thả chẩm, nhập vu khảm năm, vật dụng.
Dịch: Hào 3, âm : tới lui (chử chi ở đây nghĩa là đi) đều bị hãm, trước mặt là hiểm mà sau lưng lại kê (dựa) vào hiểm, chỉ càng sụp vào chỗ sâu hơn thôi, chớ dùng (người ở hoàn cảnh hào 3 này, không được việc gì đâu).
Giảng: Hào này âm nhu, bất trung, bất chính, ở trên cùng quẻ nội khảm, mà tiến lên thì gặp ngoại khảm, trước mặt là khảm, sau lưng là khảm, toàn là hiểm cả, cho nên chỉ sụp vào chỗ sâu hơn thôi.
*Hào 4: 樽酒簋, 貳 用缶, 納約自牖, 終无咎.
Lục tứ: Tôn tửu quĩ, nhị dụng phẫu, nạp ước tự dũ, chung vô cữu.
Dịch: Hào 4, âm: Như thể chỉ dâng một chén rượu, một quĩ thức ăn, thêm một cái vò dựng vài thức khác nữa (không cần nhiều, hễ chí thành là được); (có thể tùy cơ ứng biến) dứt khế ước qua cửa sổ (chứ không đưa qua cửa chính), như vậy không có lỗi.
Giảng: Lời hào này gọn quá, khó hiểu. Phan Bội Châu giảng như sau: tôn là chén rượu, quĩ là đồ đựng thức ăn; nhị là thứ nhì, phó (trái với chánh) là thêm sao, phẫu là cái vò. Tôn tữu quí, nhị dụng phẫu nghĩa là rượu chỉ một chén, thức ăn chỉ một quĩ, các thức khác thêm vào chỉ dùng một cái vò cũng đủ. Ý nói không cần nhiều, miễn lòng chí thành là được. “Nạp ước tự dũ” Nghĩa là khế ước (để làm tin) đáng lẽ phải nộp qua cửa lớn, nhưng lại dứt qua cửa sổ (dũ), như vậy là không chính đại quang minh, nhưng gặp thờ ihiểm, khó khăn, có thể “bất đắc dĩ nhi dụng quyền” (quyền này không phải là quyền hành, mà là quyền biến: tùy cơ ứng biến), miễn là giữ được lòng chí thành.
Hào này như một vị đại thần, nhưng âm nhu, vô tài, không cứu đời ra khỏi cảnh hiểm được; cũng may mà đắc chính, chí thành, cứ giữ đức chí thành đó mà đối với vua, với việc nước, nếu lại có chút cơ trí, biết tòng quyền , thì rốt cuộc không có lỗi.
*Hào 5: 坎不盈, 祗既平, 无咎.
Cửu ngũ: Khảm bất doanh, chỉ kì bình, vô cữu.
Dịch : Hào 5, âm: Nước (hiểm) chưa đầy, nhưng đến lúc nước đầy rồi, lặng rồi, thì sẽ khỏi hiểm, không có lỗi.
Giảng: Hào này dương cương, có tài, đắc trung, đắc chính, ở ngôi chí tôn, mới trải qua già nữa thời Khảm, hiểm chưa hết, nước còn dâng lên nữa, đến khi nào nước đầy rồi mới bình lại, mà dắt dân ra khỏi hiểm được. Chữ Kì ở đây nghĩa là bệnh, tức hiểm nạn, trỏ chữ khảm.
*Hào 6: 係用黴纆, 寘于叢棘, 三歲不得, 凶.
Thượng lục: Hệ dụng huy mặc, trí vu từng cức, tam tuế bất đắc, hung.
Dịch: Hào trên cùng, âm: đã trói bằng dây thừng to, lại đặt vào bụi gai, ba năm không được ra , xấu.
Giảng: Hào này âm nhu, ở trên cùng quẻ Khảm, chỗ cực kì hiểm, đã không có tài ra khỏi cảnh hiểm, lại không biết hối mà sửa mình, nên bị họa rất nặng.
*Thêm:
Quẻ này là cái tượng quân tử bị tiểu nhân bao vây, chỉ có hai hào là tạm tốt (hào 2 và 5), còn các hào khác đều xấu. Lời khuyên quan trọng nhất gặp thời hiểm, phải giữ lòng chí thành, và biết tòng quyền.
-----------------------------------------------------------
30. THUẦN LY
Khách quái là Ly (lửa). Chủ quái là Ly (lửa).
Tượng là lửa thêm lửa sẽ cháy lan tỏa ra xung quanh, tượng của ly tán.
Phạm trù: Hành động.
Cho đối tượng: Người dân.
Tên là LY: Ly tán, nghi ngờ, chia lìa, chia ly, tan vỡ, phân tán, mở rộng.
Hình tượng: Cháy lan bốn phía.
Thoán từ: 離利貞亨畜牝牛吉.
*Hào 1: 履錯然敬之无咎.
*Hào 2: 黃離元吉.
*Hào 3: 日昃之離不鼓 缶而歌則大耋之嗟凶.
*Hào 4: 突如其來如焚如死如棄如.
*Hào 5: 出涕沱若戚嗟若吉.
*Hào 6: 王用出征有嘉折首獲匪其醜无咎.
Thoán từ: 離利貞亨畜牝牛吉.
Phân tán có lợi chắc chắn hanh thông nếu chăm sóc tốt con bò cái. Tức là trong chăn nuôi bò, con cái phải được phân tán và chăm sóc tốt thì đàn bò mới phát triển tốt về số lượng. Hàm ý chung trong xã hội dân sự, người phụ nữ cũng phải phân tán để trở thành hạt nhân gia đình mới thì xã hội mới phát triển tốt được.
Hào từ:
*Hào 1: 履錯然敬之无咎.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Ly. Khi mới phân tán, hành vi sẽ dễ bị hỗn loạn và sai lầm. Lúc này cần thận trọng sẽ không có lỗi.
*Hào 2: 黃離元吉.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Ly. Phân tán từ giữa ra xung quanh mới thật sự tốt lành. Tức là sự phân tán là sự mở rộng thì tốt lành.
*Hào 3: 日昃之離不鼓 缶而歌則大耋之嗟凶.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Ly. Khi người già (xế bóng) sắp lìa đất xa trời (chết), không nên đánh trống khua chiên đàn ca cầu đảo, điều đó chỉ làm người già chết thêm tức tưởi mà thôi. Tức là sự ra đi của người già là thuận lẽ tự nhiên, hết số thì luân hồi kiếp khác. Việc cầu đảo hay gây rối loạn lẽ tự nhiên này chỉ khiến cái chết thêm tức tưởi và đau khổ cho cả người sống lẫn người chết mà thôi.
*Hào 4: 突如其來如焚如死如棄如.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Ly, đã sang khách quái. Lửa cháy thì luôn bất thình lình lan đến, như là muốn đốt người ta đến chết, như là muốn đuổi mọi người bỏ chạy. Tức là bản chất hành động của dân chúng như lửa mới cháy, rất khó lường và đầy bất ngờ.
*Hào 5: 出涕沱若戚嗟若吉.
Hào âm. Trung vạch khách quái Ly. Con gái đi lấy chồng (xuất giá) mà nước mắt ròng ròng, nhưng biết buồn lo than thở, nên tốt (như thoái từ).
*Hào 6: 王用出征有嘉折首獲匪其醜无咎.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Ly. Khi xuất chinh vương nên dùng kế LY gián kẻ cầm đầu với tay chân thì sẽ bắt sống được hết những người dân phản loạn mà không bị mang tiếng là ác (vì giết nhiều dân) và không có lỗi gì. Tức là là người dân thì hay nghi ngờ nhau, khi hành động phản loạn thì càng hay nghi ngờ nhau. Cho nên, nhà vua nên tận dụng hành vi này mà dụng kế ly gián để bắt được hết mà không phải giết nhiều dân.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
30. QUẺ THUẦN LY
Trên dưới đều là Ly (lửa)
Khảm là hãm, hãm thì phải có chỗ nương tựa, cho nên sau quẻ Khảm tới quẻ Ly. Ly [離 ] là lệ [ 麗] ; thời xưa hai chữ đó đọc như nhau, dùng thay nhau được, như nước Cao Ly (Triều Tiên) viết là [高麗 ]. Mà lệ có nghĩa là phụ thuộc vào (như từ ngữ lệ thuộc), dựa vào. Theo hình quẻ, một nét âm ở giữa dựa vào hai nét dương ở trên, dưới.
Ly còn nghĩa thứ nhì là sáng: nét ở giữa dứt, tức là ở giữa rỗng, rỗng thì sáng. Lửa sáng, mặt trời sáng, cho nên Ly có có tượng là lửa, là mặt trời.
Sau cùng Ly còn có nghĩa là rời ra, như chia Ly.
Kinh Dịch mở đầu bằng hai quẻ Càn, Khôn (trời đất); tới giữa Kinh. (cuối phần thượng của Kinh) là hai quẻ Khảm, Ly, vì hai lẽ.
Ba hào thuần dương là Càn, lấy một hào của Khôn thay vào hào giữa của Càn, thành Ly; ba hào thuần âm là Khôn, lấy một hào của Càn thay vào hào giữa của Khôn, thành Khảm; vậy Ly, Khảm là “thiên địa chi trung”, ở giữa trời, giữa đất; công dụng tạo hóa của trời đất nhờ lửa và nước (Ly và Khảm) cả. Khảm ở chính bắc, Ly ở chính nam; Khảm ở giữa đêm (giờ tí), Ly, ở giữa trưa (giờ ngọ).
Khảm, ở giữa là nét dương, liền, thực, cho nên đức của nó là trung thực. Ly ở giữa là nét đứt, hư, rỗng, cho nên đức của nó là sáng, là văn minh.
Thoán từ.
離: 利貞, 亨.畜牝牛, 吉.
Ly: lợi trinh, hanh. Súc tẫn ngưu, cát.
Dịch: Dựa, lệ thuộc: chính đáng thì lợi, hanh thông. Nuôi bò cái thì tốt.
Giảng: Dựa vào chỗ chính đáng, chẳng hạn vào người quân tử thì hanh thông. Dựa vào người thì phải sáng suốt, và thuận theo người, vậy phải nuôi đức thuận, đức của con bò cái (loài này dễ bảo nhất) thì mới tốt.
Ly còn nghĩa là sáng. Quẻ thuần Ly, trên dưới đều là Ly, sáng quá, sáng suốt quá, tỏ mình hơn người thì ít người ưa, cho nên phải giấu bớt cái sáng đi mà trau giồi đức thuận.
Thoán truyện bảo phải có đức trung chính nữa như hào 2 và hào 5 (hào này chỉ trung thôi, nhưng đã đắc trung thì cũng ít nhiều đắc chính) như vậy mới cải hóa được thiên hạ, thành văn minh.
Hào từ:
*Hào 1: 履錯然, 敬之, 无咎.
Sơ cửu: Lý thác nhiên, kính chi, vô cửu.
Dịch: Hào 1, dương : Dẫm bậy bạ; phải thận trọng thì không có lỗi.
Giảng: hào dương này có nghĩa nóng nảy, cầu tiến qua, mà còn non nớt, chưa có kinh nghiệm, như đứa trẻ vội vàng dẫm bậy bạ (Phan Bội Châu hiểu là sỏ giày nhố nhăng), tất có lầm lỗi, nên khuyên phải thận trọng (kính chi).
*Hào 2: 黃離, 元吉.
Lục nhị: Hoàng ly, nguyên cát.
Dịch: Hào 2, âm : Sắc vàng phụ vào ở giữa, rất tốt.
Giảng: hào này ở quẻ Ly có đức văn minh, lại đắc trung, đắc chính, trên ứng với hào 5 cũng văn minh, đắc trung, nên rất tốt. Vì ở giữa, văn minh, nên ví với sắc vàng, đẹp, sắc của trưng ương như đã giảng ở hào 5 quẻ Khôn và hào 5 quẻ Phệ hạp.
*Hào 3: 日昃之離, 不鼓 缶而歌, 則大耋之嗟, 凶.
Cửu tam: Nhật trắc chi Ly, bất cổ phẩu nhi ca, tắc đại diệt chi ta, hung.
Dịch: Hào 3, dương : mặt trời xế chiều lặn, (ý nói người già, tính tình thất thường, không đáng vui mà vui. Không đáng buồn mà buồn). Khi thì gõ cái phẫu (vò bằng đất, đựng rượu mà cũng dùng làm nhạc khí) mà hát, lúc lại than thân già nua; xấu , (Hồi xưa khi hát thì gõ nhịp bằng cái phẫu).
Giảng: Hào 3 này ở trên cùng nội quái ly, như mặt trời sắp lặn mà chưa lên ngoại quái Ly, chưa tới lúc mặt trời mọc (sáng hôm sau).
Câu: “bất cổ phẫu nhi ca, tắc dại diệt chi ta”, Chu Hi hiểu là “chẳng yên phận mà vui vẻ, mà lại than thở vì già nua, thế là không biết tự xử.”
*Hào 4: 突如, 其來如, 焚如, 死如, 棄如.
Cửu tứ: Đột như, kì lai như, phần như, tử như, khí như.
Dịch: Hào 4, dương: thình lình chạy tới, như muốn đốt người ta vậy, thì sẽ chết, bị mọi người bỏ.
Giảng: Hão này dương cương, nóng nảy, bất chính, bất trung, mới ở nội quái lên, gặp hào 5 âm nhu, muốn lấn át 5, như một người ở đâu thình lình tới, lồn lộn lên muốn đốt người ta (hào 5) , táo bạo, vụng về như vậy làm sao khỏi chết, có ai dung được nó đâu.
*Hào 5: 出涕沱若, 戚嗟若, 吉.
Lục ngũ: xuất thế đà nhược, thích ta nhược, cát.
Dịch: Hào 5, âm: Nước mắt ròng ròng, nhưng biết buồn lo than thở, nên tốt.
Giảng: Hào này âm nhu, ở ngôi tôn, trung những không chính, bị ép giữa hào hào dương, mắc vào hoàn cảnh khó khăn, cho nên bảo là “nước mắt ròng ròng”; nhưng nhờ đức văn minh của quẻ Ly, nên là người biết lo tính, than thở, tìm cách đối pó với hoàn cảnh được, cho nên rồi sẽ tốt.
*Hào 6: 王用出征, 有嘉; 折首, 獲匪其醜, 无咎.
Thượng cửu: Vương dụng xuất chinh,
Hữu gia; chiết thủ, hoạch phỉ kì xú, vô cữu.
Dịch: Hào trên cùng, dương: vua dùng (người có tài, tức hào này) để ra quân chinh phạt, có công tốt đẹp, giết đầu đảng mà bắt sống kẻ xấu đi thì thôi, như vậy thì không có lỗi.
Giảng: Hào này dương cương lại ở trên cùng quẻ Ly, thế là vừa cương quyết vừa sáng suốt đến cực điểm, vua dùng tài ấy để trừ kẻ gian tà thì thành công lớn.
Nhưng vì cương quá thì dễ hóa tàn bạo, nên Hào từ khuyên dẹp loạn thì chỉ nên giết những kẻ đầu sỏ, còn những kẻ đi theo thì bắt sống thôi. Như vậy sẽ không có lỗi.
Thanked by 1 Member:
|
|
#20
Gửi vào 11/01/2016 - 11:24
31. TRẠCH SƠN HÀM
Khách quái là Đoài (chằm). Chủ quái là Cấn (núi)
Chủ quái Cấn tượng của núi, người nam và sự nhô lên. Khách quái Đoài tượng của đầm, người nữ và sự thấp xuống. Nam nữ đối lập nhau nhưng luôn có sức hút và là nguồn cảm hứng lẫn nhau. Cho nên, tượng của chồng quái là sự lan truyền cảm hứng giữa nam và nữ. Ở đây, nữ là khách quái nên là nguồn tạo cảm hứng là thuận lẽ tự nhiên, còn nam là chủ quái nên chủ động tìm đến nữ cũng là thuận lẽ tự nhiên. Cả hai cùng thuận lẽ tự nhiên sẽ có cảm hứng đều khắp nên chồng quái có tên là HÀM (đều khắp nơi).
Phạm trù: Phát triển xã hội. Phát triển về lượng.
Cho đối tượng: Người dân.
Tên là HÀM: Đều khắp nơi.
Hình tượng: Tình yêu đôi lứa.
Thoán từ: 咸亨利貞取女吉.
*Hào 1: 咸其拇.
*Hào 2: 咸其腓凶居吉.
*Hào 3: 咸其股執其隨往吝.
*Hào 4: 貞吉悔亡憧憧往來朋從爾思.
*Hào 5: 咸其脢无悔.
*Hào 6: 咸其輔頰舌.
Thoán từ: 咸亨利貞取女吉.
Truyền cảm đều các nơi thì hanh thông và có kết quả chắc chắn. Nếu người nữ là nguồn truyền cảm hứng thì thật tốt lành và hợp lẽ trời.
Trâu đi tìm cọc chứ không cọc đi tìm trâu. Người nữ bao giờ cũng là nguồn cảm hứng cho người nam tìm đến và ở lại bên nhau.
Hào từ:
*Hào 1: 咸其拇.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Cấn. Bắt đầu rung cảm. Mới ở ngón chân cái. Tức là sự rung cảm bắt đầu từ bước đi đến lời ăn tiếng nói.
*Hào 2: 咸其腓凶居吉.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Cấn. Tiếp ý hào 1. Rung cảm dữ dội ở bụng chân . Lúc này nên ở yên trong nhà thời tốt lành. Tức là đã quen hơi bén tiếng, lúc này đã chuyển giai đoạn tương tư (bụng chân) dữ dội khiến hành động không còn minh mẫn, cho nên ở yên một chỗ thì tốt.
*Hào 3: 咸其股執其隨往吝.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Cấn. Rung cảm ở cổ tay, Tức là cầm được tay nhau, chấp nhận hay không còn tùy theo, nhưng thường bị hối tiếc. Lúc này cần suy nghĩ kỹ vì như ở thoái từ phải toàn thân rung cảm mới tốt, nếu chỉ mới cầm tay mà đã chấp nhận thường mang lại sự hối tiếc vì quá vội vã (mới cầm tay, chưa tìm hiểu kỹ đã trao duyên).
*Hào 4: 貞吉悔亡憧憧往來朋從爾思.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Đoài. Tiếp ý hào 3. Rung cảm phải đều các nơi (toàn thân đều cảm nhận) mới chắc chắn tốt lành, không có sự hối tiếc nào cả. Khi này, kể cả là kẻ lông bông qua đường cũng được nhớ nhung, luyến ái (như thoái từ).
*Hào 5: 咸其脢无悔.
Hào dương. Trung vạch khách quái Đoài. Tiếp ý hào 4. Nhưng rung cảm ở lưng, cũng không bị hối hận.
*Hào 6: 咸其輔頰舌.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Đoài. Tiếp ý hào 5. Bởi vì, cũng như lưng, má và lưỡi là nơi trợ giúp cho cảm hứng lan ra toàn thân. Tức là nụ hôn, cảm giác âu yếm va chạm ở má, lưỡi và lưng sẽ trợ giúp cho các rung cảm lan đều toàn thân (cái này thì quá rõ, ai cũng biết).
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
31- QUẺ TRẠCH SƠN HÀM
Trên là Đoài (chằm), dưới là Cấn (núi)
Kinh thượng bắt đầu bằng hai quẻ Càn Khôn: trời, đất. Có trời đất rồi mới có vạn vật, có vạn vật rồi mới có nam, nữ; có nam nữ rồi mới thành vợ chồng, có cha con, vua tôi, trên dưới, lễ nghĩa.
Cho nên đầu kinh thượng là Càn, Khôn, nói về vũ trụ; đầu kinh hạ là Hàm, Hằng, nói về nhân sự. Hàm là trai gái cảm nhau. Hằng là vợ chồng ăn ở với nhau được lâu dài.
Thoán từ:
咸: 亨, 利貞, 取女吉.
Hàm: Hanh, lợi trinh, thú nữ cát.
Dịch: giao cảm thì hanh thông, giữ đạo chính thì lợi, lấy con gái thì tốt.
Giảng: đoài là thiếu nữ ở trên, Cấn là thiếu nam ở dưới (1). Cảm nhau thân thiết không gì bằng thiếu nam, thiếu nữ. Cảm nhau thì tất hanh thông.
Thiếu nữ ở trên, thiếu nam phải hạ mình xuống cạnh thiếu nữ; hồi mới gặp nhau thì phải vậy; chứ nếu thiếu nữ cầu cạnh thiếu nam thì là bất chính, không tốt. Cho nên thoán từ bảo phải giữ đạo chính mới có lợi. Hai bên giữ đạo chính cả thì cưới vợ chắc tốt lành.
Hàm 咸 khác cảm 感 ở điểm: Cảm có chữ Tâm 心 là lòng, hàm thì không. Hàm là tự nhiên hai bên tương hợp, rồi cảm nhau, không có tư ý, không vì một lẽ nào khác, phải hư tâm (trống rỗng trong lòng) .
Đại tượng truyện khuyên: “dĩ hư tâm thụ nhân”. Như trên núi có chỗ trũng xuống (hư) để nước đọng lại mà thành cái chằm.
Hư tâm thì lòng được tĩnh, như cái núi (nội quái là Cấn), mà vui như tính của cái chằm (ngoại quái là Đoài) (chỉ nhi duyệt; lời Thoán truyện); muốn giữ được lòng tĩnh thì phải “khắc kỉ phục lễ” tự chủ được mình mà giữ lễ.
Tóm lại, Thoán từ cho rằng trai gái cảm nhau phải chân thành, tự nhiên, vì nết, vì tài thì mới tốt; mà khi cảm nhau rồi phải tự chủ, giữ lễ, đừng để đến nỗi hóa ra bất chánh.
Coi đạo âm dương giao cảm mà sinh hóa vạn vật, thánh nhân chí thành mà cảm được thiên hạ, thì thấy được chân tình của thiên địa, vạn vật. Đạo cảm nhau quả là quan trọng.
Hào từ:
*Hào 1: 咸其拇.
Sơ lục: Hàm kì mẫu.
Dịch: Hào 1, âm: Như cảm ngón chân cái.
Giảng: Hào từ lấy thân người làm thí dụ. Hào 1 ở dưới cùng. Nó ứng với hào 4, thấp mà cảm với trên cao, sức cảm còn nhỏ, chưa động được lòng người, mới hơi động được ngón chân thôi. Không khen cũng không chê.
*Hào 2: 咸其腓, 凶; 居吉.
Lục nhị: Hàm kì phì, hung; cư cát.
Dịch: Hào 2, âm: Cảm được bắp chân, xấu; ở yên thì tốt.
Giảng: Hào 2, cao hơn một chút, ví như bắp chân. Nó ứng với hào 5, nhưng nó là âm, phận gái, mà còn ở dưới thấp, nếu nóng lòng cầu thân với 5 thì xấu. Nó nên giữ nết trung chính (vì là hào 2 đắc trung, đắc chính) của nó thì mới tốt, như vậy mới hợp đạo lý.
Thoán truyện bảo: quẻ Hàm này, hễ tĩnh thì tốt; cho nên hào 2 này khuyên không nên động.
*Hào 3: 咸其股, 執其隨, 往吝.
Cửu tam: Hàm kì cổ, chấp kì tùy, vãng lận.
Dịch: Hào 3, dương : cảm được tới đùi, chỉ muốn theo người, cứ như vậy mà tíến thì xấu.
Giảng: Hào này ở trên cùng nội quái, nên ví với bắp đùi. Nó là dương cương, ham tiến, muốn theo hào 4 cũng dương cương ở trên nó; trong thời Hàm, nên tĩnh mà nó động, lại động theo người nữa, đáng chê.
*Hào 4: 貞吉悔亡; 憧憧往來, 朋從爾思.
Cửu tứ: Trinh cát hối vong; đồng đồng vãng lai, bằng tòng nhĩ tư.
Dịch: Hào 4, dương: hễ chính đáng thì tốt, mà mất hết những điều đáng ăn năn. Nhược bằng nếu lăng xăng tính toán có qua có lại với nhau thì những người qua lại với anh chỉ là những người anh nghĩ tới mà thôi (ý nói: số bạn không đông, đoàn thể không lớn).
Giảng: Hào này đã lên ngoại quái, dương cương, lại ở quẻ đoài (vui vẻ), tức là có tình hoà duyệt, nặng về cảm tính, cho nên ví với trái tim (tấm lòng). Tình cảm phải chính đáng, chí công vô tư, như vậy mới tốt, không phải ăn năn. Nếu có óc tính toán, tốt với người để mong người tốt lại với mình, có đi có lại thì số bạn không được đông.
Theo Hệ từ truyện, Chương V, Khổng tử giảng hào này rất kỷ, chúng tôi trích ra đoạn dưới đây:
“ Đạo lý trong thiên hạ, cần gì phải ngẫm nghĩ bằng ý riêng, tính toán bằng mẹo vặt, vì thiên hạ đường đi tuy khác nhau mà qui kết thì ý như nhau: tính toán trăm lối mà cuối cùng chỉ tóm vào một lẽ (lẽ đó là có cảm thì có ứng, ứng lại gây ra cảm) cần gì phải ngẫm nghĩ bằng ý riêng, tính toán bằng mẹo vặt. . .”
*Hào 5: 咸其脢, 无悔.
Cửu ngũ: Cảm kì mỗi, vô hối.
Dịch: Hào 5, dương : Cảm tới bắp thịt ở trên lưng, không hối hận.
Giảng: Bắp thịt ở trên lưng, cao hơn tim (hay lòng) mà trái với tim, không cảm được vật. Không cảm được vật mà cũng không có tư tâm, tư ý, nên cũng không có gì hối hận. Có lẽ vì hào 5 này dương cương, ở vị rất cao, trung, chính, cách biệt dân chúng quá, cho nên Chu Hi bảo là “không cảm được vật” chẳng?
*Hào 6: 咸其輔, 頰, 舌.
Thượng lục: Hàm kì phụ, giáp , thiệt.
Dịch: Hào trên cùng, âm: Cảm người bằng mép, má, lưỡi.
Giảng: Hào này ở trên cùng Hàm, nên ví với mép, má, lưỡi. Nó là âm nhu ở trong ngoại quái Đoài (vui vẻ), ham cảm người ta bằng miệng lưỡi, không thành thực. Chẳng cần nói cũng biết là đáng chê rồi.
*Thêm:
Đạo cảm người phải chí thành, tự nhiên, không dùng trí tính toán, nhưng cũng không nên có tư ý, tư tâm.
---------------------------------------------------------------------
32. LÔI PHONG HẰNG
Khách quái là Chấn (sấm). Chủ quái là Tốn (gió).
Chủ quái Tốn tượng của gió, gió thổi mây bay khiến việc cọ sát giữa các đám mây với nhau, với không khí và với mặt đất mà tích điện. Từ đó sấm sét (tượng của khách quái Lôi) sinh ra. Như vậy là có gió thì có sấm sét, gió và sấm sét là hai hiện tượng thời tiết luôn cùng nhau từ khi vũ trụ khởi sinh và sẽ mãi mãi vậy cho đến lúc tận diệt. Cho nên, tượng của chồng quái là sự vĩnh hằng và có tên là HẰNG (lâu dài).
Phạm trù: Phát triển xã hội. Phát triển về lượng.
Cho đối tượng: Người dân.
Tên là HẰNG: Ăn ở lâu dài, gắn bó bền chặt.
Hình tượng: Mãi mãi bên nhau.
Thoán từ: 恆亨无咎利貞利有攸往.
*Hào 1: 浚恆貞凶无攸利.
*Hào 2: 悔亡.
*Hào 3: 不恆其德或承之羞貞吝.
*Hào 4: 田无禽.
*Hào 5: 恆其德貞婦人吉夫子凶.
*Hào 6: 振恆凶.
Thoán từ: 恆亨无咎利貞利有攸往.
Gắn bó bền chặt lâu dài thì hanh thông, không xấu và ích lợi chắc chắn cho những người chưa có gia đình, nay đây mai đó.
Hào từ:
*Hào 1: 浚恆貞凶无攸利.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Tốn. Mới buổi ban đầu (gặp nhau) mà đã khơi chuyện lâu dài, bền chặt thì chỉ có hung, chẳng lợi lộc gì.
*Hào 2: 悔亡.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Tốn. Tiếp ý hào 1. Sống với nhau được hai tháng (một hào), lúc này muốn lâu dài sẽ không bị hối hận.
*Hào 3: 不恆其德或承之羞貞吝.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Tốn. Không có đức ăn ở lâu dài hoặc không biết xấu hổ vì điều đó chắc chắn sẽ hối tiếc.
*Hào 4: 田无禽.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Chấn. Tiếp ý hào 3. Nhưng ở với nhau lâu dài quá sẽ bị mất cảm hứng như ruộng vườn không có vật nuôi.
*Hào 5: 恆其德貞婦人吉夫子凶.
Hào âm. Trung vạch khách quái Chấn. Đức ăn ở bền chặt với nhau chắc chắn tốt cho phụ nữ tốt (vì phụ nữ tốt luôn muốn ăn ở lâu dài với chồng) và xấu cho cho đàn ông xấu (vì đàn ông xấu thì chẳng muốn ăn ở lâu dài với ai hết).
*Hào 6: 振恆凶.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Chấn. Tiếp ý hào 5. Phải chấn chỉnh việc ăn ở lâu dài với nhau thì hung. Tức là chấn chỉnh người đàn ông xấu phải ăn ở lâu dài thì rõ là hung.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
32. QUẺ LÔI PHONG HẰNG
Trên là Chấn (sấm), dưới là Tốn (gió)
Ở đầu quẻ Hàm, tôi đã nói tại sao sau quẻ Hàm (trai gái cảm nhau) tiếp tới quẻ Hằng (đạo vợ chồng có tính cách lâu dài). Hàm: trên là Chấn trưởng na, dưới là Tốn, trưởng nữ chồng trên, vợ dưới ,rất hợp đạo, thì tất được lâu dài.
Thoán từ :
恆: 亨, 无咎; 利貞, 利有攸往.
Hằng: Hanh, vô cữu; lợi trinh, lợi hữu du vãng.
Dịch: Lâu dài thì hanh thông, không có lỗi; giữ được chính đạo thì có lợi, tiến hành việc gì cũng thành công.
Thoán truyện giảng: Cương (Chấn) ở trên, nhu (Tốn) ở dưới, sấm gió giúp sức nhau, Chấn động trước, Tốn theo sau, thế là thuận đạo. Lại thêm ba hào âm đều ứng với ba hào dương, cũng là nghĩa thuận nữa, cả hai bên đều giữ được đạo chính lâu dài.
Hào từ:
*Hào 1: 浚恆, 貞凶, 无攸利.
Sơ lục: tuấn hằng, trinh hung, vô du lợi.
Dịch: Hào 1, âm: Quá mong được thân mật lâu dài; cứ quyết (trinh) như vậy, không chịu bỏ thì xấu, không làm gì được thuận lợi cả.
Giảng: Hào 1 ứng với hào 4, nhưng địa vị mình quá thấp, địa vị 4 quá cao, mà 4 là dương cương, chỉ trông lên không ngó xuống mình; lại thêm có 2 hào 2 và 3 ngăn cách vậy mà không biết phận cứ tiến sâu (tuấn là sâu), mong được thân mật lâu dài, keo sơn với 4, thành ra ngu. Cứ kiên cố giữ cách ấy thì xấu.
*Hào 2: 悔亡.
Cửu nhị: hối vong.
Dịch: Hào 2, dương: hối hận tiêu hết.
Giảng: Hào này dương cương ở vị âm, đáng lẽ có hối hận, nhưng vì đắc trung lại ứng với hào 5 cũng đắc trung, thế là giữ được đạo trung, nên không có gì hối hận.
*Hào 3: 不恆其德, 或承之羞, 貞吝.
Cửu tam: Bất hằng kì đức, hoặc thừa chi tu, trinh lận.
Dịch: Hào 3, dương : không thường giữ được cái đức của mình, có khi bị xấu hổ, dù chính đáng cũng đáng tiếc.
Giảng: Hào dương ở vị dương là đắc chính, nếu thường giữ được đức “chính” đó thì tốt; nhưng vì quá cương mà bất đắc trung, lại theo đòi với hào trên cùng âm nhu, thế là bỏ cái đức chính của mình, muốn kết bạn với hào trên cùng, chưa biết chừng bị xấu hổ đấy. Vậy 3 tuy “ chính “ đấy, chỉ vì không thường giữ được đức đó, thì tuy chính mà vẫn đáng tiếc.
*Hào 4: 田无禽.
Cửu tứ: Điền vô cầm.
Dịch: Hào 4, dương : như đi săn mà không được cầm thú.
Giảng: Hào dương mà ở vị âm, là không phải chỗ của mình mà cứ ở lâu chỗ đó, vì trong quẻ Hằng thì chẳng nên việc gì, chỉ mất công thôi, như đi săn mà không bắt được cầm thú.
*Hào 5: 恆其德, 貞. 婦人吉, 夫子凶.
Lục ngũ: Hằng kỳ đức, trinh. Phụ nhân cát, phu tử hung.
Dịch : Hào 5, âm: giữ được thường (lâu) đức của mình, bền mà chính. Đàn bà thì tốt, đàn ông thì xấu.
Giảng: Hào 5, âm nhu, đắc trung, ứng với hào 2 dương cương cũng đắc trung, nếu cứ thuận tòng từ trước tới sau thì là bền mà chính đáng. Nhưng đó chỉ là đạo của đàn bà như hào 5, âm này thôi; không hợp với đàn ông, vì theo quan niệm thời xưa, phu xướng phụ tùy.
Tiểu tượng truyện giảng thêm, đàn ông phải tìm ra cái gì đáng làm thì làm (phu tử chế nghĩa), chứ cứ một mực theo vợ thì xấu.
*Hào 6: 振恆, 凶.
Thượng lục: chấn hằng, hung.
Dịch: Hào trên cùng, âm: cử động hoài, không chịu yên thì xấu.
Giảng: Ở trên cùng quẻ Hằng và ngoại quái Chấn, cho nên nói là ham động quá, lại âm nhu, không bền chí, ở yên không được sẽ thất bại.
*Thêm:
Quẻ này quan trọng ở hào 5: đạo phu xướng phụ tùy của Trung Hoa thời xưa. Một lời khuyên là theo lý mà làm, đừng hành động càn.
Thanked by 1 Member:
|
|
#21
Gửi vào 12/01/2016 - 10:56
33. THIÊN SƠN ĐỘN
Khách quái là Càn (Trời), Chủ quái là Cấn (núi).
Tượng mặt trời xuống núi là ngày đã hết và đêm đã đến hay thời thế đã hết nên độn (ẩn mình, đi ngủ...). Lúc này cần làm mình nhỏ nhất có thể.
Phạm trù: Xử thế.
Cho đối tượng: Mọi người.
Tên là ĐỘN: Trốn tránh.
Trốn tránh khi mất thời cơ.
Hình tượng: Tránh voi chẳng xấu mặt nào.
Thoán từ: 遯亨小利貞.
*Hào 1: 遯尾厲勿用有攸往.
*Hào 2: 執之用黃牛之革莫之勝說.
*Hào 3: 係遯有疾厲畜臣妾吉.
*Hào 4: 好遯君子吉小人否.
*Hào 5: 嘉遯貞吉.
*Hào 6: 肥遯无不利.
Thoán từ: 遯亨小利貞.
Thất thế hay hết thời nên trốn lánh đi thì hanh thông. Lúc này cần làm mình nhỏ bé đi thì chỉ có lợi.
Hào từ:
*Hào 1: 遯尾厲勿用有攸往.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Cấn. Không nhanh nhẹn, trốn sau cùng thì nguy. Lúc này không nên động đậy.
*Hào 2: 執之用黃牛之革莫之勝說.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Cấn. Tiếp ý hào 1. Hoặc giữ mình nhỏ bé như hạt sạt trong túi mật của con bò không di chuyển thì sẽ thoát.
*Hào 3: 係遯有疾厲畜臣妾吉.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Cấn. Buộc phải trốn mà có sự nhanh nhẹn và được nuôi dưỡng bởi vợ con thì tốt lành.
*Hào 4: 好遯君子吉小人否.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Càn. Trốn càng tốt thì quân tử càng thấy tốt lành nhưng người dân thì lại càng thấy bế tắc. Tức là người quân tử thì biết thời thế cần trốn tránh nên trốn càng kỹ càng thấy tốt. Người dân thì không vậy, vì theo quân tử trốn tránh mà thấy phải trốn nhiều thì càng thấy bế tắc hơn thôi.
*Hào 5: 嘉遯貞吉.
Hào dương. Trung vạch khách quái Càn. Khen thay cho sự trốn. Lúc thất thế, hết thời biết dừng lại, ẩn mình thì chỉ có tốt lành.
*Hào 6: 肥遯无不利.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Càn. Khi sự thất thế đã hết, thời cơ đang đến thì không trốn cũng chẳng sao.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
33. QUẺ THIÊN SƠN ĐỘN
Trên là Càn (Trời), dưới là Cấn (núi)
Hể ở lâu thì phải rút lui, lánh đi, hết ngày thì tới đêm, hết đông tới xuân, ngồi lâu phải đứng dậy, già rồi nên về hưu . . , cho nên sau quẻ Hằng (lâu) tới quẻ động (là trốn lánh đi).
Thoán từ:
遯: 亨, 小利貞.
Độn: Hanh, tiểu lợi trinh.
Dịch: Trốn lánh đi thì hanh thông; trong các việc nhỏ, giữ được điều chính thì có lợi.
Giảng: Trên là trời, dưới là núi: ở chân núi thì thấy đỉnh núi là trời, nhưng càng lên càng thấy trời lùi lên cao nữa, tới đỉnh núi thấy trời mù mịt tít vời, như trời trốn lánh núi, cho nên đặt tên quẻ là Độn.
Quẻ này hai hào âm ở dưới đẩy bốn hào dương lên trên, có cái tượng âm (tiểu nhân) mạnh lên, đuổi dương (quân tử) đi, trái hẳn với quẻ Lâm. Độn thuộc về tháng 5, Lâm thuộc về tháng 12.
Ở thời Động, âm dương tiến mạnh, dương nên rút lui đi là hợp thời, được hanh thông (có thể hiểu là : đạo quân tử vẫn hanh thông). Tuy nhiên âm mới có 2, dương còn tới 4, chưa phải là thời Bĩ (cả 3 âm đều tiến lên), nên chưa đến nỗi nào, trong các việc nhỏ, giữ được điều chính thì còn có lợi, còn làm được.
Sở dĩ chưa đến nỗi nào, còn hanh thông vì trong quẻ có hào 5, dương, ứng với hào 2, âm; cả hai đều trung chính. Vậy ở thời đó, chưa nên trốn hẳn, nên tính xem việc nào còn làm được thì làm, tùy cơ ứng biến, cho nên Thoán truyện bảo lẽ tùy thời trong quẻ Độn này rất quan trọng.
Đại tượng truyện khuyên trong thời này quân tử nên xa lánh tiểu nhân, cứ giữ vẻ uy nghiêm, đừng dữ dằn với chúng quá.
Hào từ:
*Hào 1: 遯尾, 厲, 勿用有攸往.
Sơ lục: độn vĩ, lệ, vật dụng hữu du vãng.
Dịch: Hà 1, âm: Trốn sau cùng, như cái đuôi, nguy đấy, đừng làm gì cả.
Giảng: Hào ở dưới cùng, nên ví với cái đuôi ở lại sau cùng. Nó là âm, nhu nhược, hôn ám, không trốn theo kịp người, còn rù rờ ở sau, nên bảo là nguy.
*Hào 2: 執之用黃牛之革, 莫之勝說.
Lục nhị: chấp chi dụng hoàng ngưu chi cách, mạc chi thăng thoát.
Dịch: Hào 2, âm: Hai bên (hào 5 và hào 2) khăng khít (bền chặt) với nhau như buộc vào nhau bằng da bò vàng, không thể nào cởi được.
Giảng: hào 2 âm, đắc trung đắc chính, ứng với hào 5 dương cũng đắc trung đắc chính, cho nên tương đắc, khắng khít với nhau, không thể rời nhau được, 2 không thể bỏ 5 mà trốn được.
Màu vàng (da bò vàng) là màu trung, ám chỉ hai hào đó đều đắc trung.
*Hào 3: 係遯, 有疾厲, 畜臣妾, 吉.
Cửu tam: Hệ độn, hữu tật lệ, súc thần thiếp, cát.
Dịch: Hào 3, dương, lúc phải trốn mà bịn rịn tư tình thì nguy; nhưng nuôi kẻ tôi tớ trai gái thì tốt.
Giảng: Hào dương này ở gần hào 2 âm, có vẻ bịn rịn tư tình với hào đó, không thể trốn mau được, như bị bệnh mà nguy; có tư tình đó thì không làm được việc lớn, chỉ nuôi bọn tôi tớ trai gái mình tốt với họ thì họ vui lòng mà dễ sai khiến, được việc cho mình.
Bốn chữ “súc thần thiếp, cát” tôi hiểu theo Phan Bội Châu; Chu Hi giảng rất mù mờ, lúng túng; J. Legge giảng là: nếu 3 đổi hào 2, như nuôi tôi tớ trai gái thì tốt. R. Wilhem giảng là 3 vẫn giữ được sự tự quyết, đừng để cho hào 2 sai khiến mình thì tốt.
*Hào 4: 好遯, 君子吉, 小人否.
Cửu tứ: Hiếu độn, quân tử cát, tiểu nhân phủ.
Dịch: Hào 4 dương: Có hệ lụy với người, nhưng trốn được, quân tử thì tốt, tiểu nhân thì không.
Giảng: Hào này cũng tối nghĩa; chữ 好 có người đọc là hảo , chữ 否 có người đọc là bĩ, vì vậy có nhiều cách hiểu, với hào 1 âm nhu, có tình thân thiết (hệ lụy) với nhau; nhưng 4 là quân tử, 1 là tiểu nhân , 4 cắt được tư tình mà trốn đi, theo lệ phải (chính nghĩa); chỉ hạng quân tử mới làm vậy được, tiểu nhân thì không .
*Hào 5: 嘉遯, 貞吉.
Cửu ngũ: gia độn, trinh cát.
Dịch: Hào 5, dương, trốn mà theo điều chính cho nên tốt.
Giảng: Hà 5, dương có đức trung chính, ứng với hào 2 cũng trung chính, ở thời Độn, cả 2 hào trung chính dắt nhau trốn bọn tiểu nhân, giữ được điều chính, cho nên tốt.
*Hào 6: 肥遯, 无不利.
Thượng cửu: Phi độn, vô bất lợi.
Dịch: Hào trên cùng, dương: trốn mà ung dung, đàng hoàng, không có gì là không lợi.
Giảng: Vào lúc cuối thời Độn, càng trốn được xa càng được tự do. Hào này dương cương quân tử, không bịn rịn với hào nào cả (vì hào 3 cũng là dương), có thể ung dung, đàng hoàng trốn được, không nghi ngại gì cả.
*Thêm:
Ý nghĩa quẻ Độn: trốn phải hợp thời; trốn sau cùng là trễ, thì nguy (hào 1) trốn mà còn vương tư tình thì xấu (hảo 3); trốn một cách trung chính thì tốt (hào 5); trốn mà không bịn rịn thì được ung dung (hào 6) . Lại có trường hợp vì hoàn cảnh mà không được trốn đi (hào 2).
------------------------------------------
34. LÔI THIÊN ĐẠI TRÁNG
Khách quái là Chấn (Sấm), Chủ quái là Càn (trời).
Tượng của nó là sấm sét nhà trời nghĩa là lúc đang nắm giữ thời cơ hay thời cơ đã đến không cần ẩn mình nữa mà vươn mình lớn mạnh nhất có thể (ĐẠI TRÁNG)
Phạm trù: Xử thế.
Cho đối tượng: Mọi người.
Tên là ĐẠI TRÁNG: Mạnh mẽ tráng kiện.
Hành động mạnh mẽ khi có thời cơ.
Hình tượng: Đánh đâu trúng đấy.
Thoán từ: 大壯利貞.
*Hào 1: 壯于趾征凶有孚.
*Hào 2: 貞吉.
*Hào 3: 小人用壯君子用罔貞厲羝羊觸藩羸其角.
*Hào 4: 貞吉悔亡藩決不羸壯于大輿之輹.
*Hào 5: 喪羊于易无悔.
*Hào 6: 羝羊觸 藩不能退不能遂无攸利艱則吉.
Thoán từ: 大壯利貞.
Có thời cơ, thời thế cần vươn mình lớn lên và tráng kiện sẽ chắc chắn lợi.
Hào từ:
*Hào 1: 壯于趾征凶有孚.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Càn. Mới bắt đầu mạnh mẽ ở chân mà đã đi xa thì nguy hiểm, hãy chờ cho cây trưởng thành ra hoa kết quả đã. Tức là thời cơ chưa rõ ràng, mới chỉ manh nha chưa nên hành động vội vã, mạo hiểm, nên chờ cho thời cơ rõ ràng.
*Hào 2: 貞吉.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Càn. Tiếp ý hào 1. Trung vạch của quái Càn nghĩa là thời cơ đã rõ ràng, và chín muồi, cần vươn mình lớn lên và tráng kiện sẽ chắc chắn có lợi.
*Hào 3: 小人用壯君子用罔貞厲羝羊觸藩羸其角.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Càn. Người dân dùng sức mạnh cơ bắp, người quân tử không dùng bạo ngược, không như con dê đực bạo ngược húc vào bờ rào bùng nhùng mà vướng sừng vào đó.
*Hào 4: 貞吉悔亡藩決不羸壯于大輿之輹.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Chấn. Khi có thời cơ, sẽ chỉ có tốt lành, những cái xấu đã qua đi và những rào cản bị tan biến không thể cản trở sự vươn lên được nữa. Lúc này cần mạnh mẽ vươn lên như ngồi cỗ xe lớn với trục xe vững vàng.
*Hào 5: 喪羊于易无悔.
Hào âm. Trung vạch khách quái Chấn. Tiếp ý hào 4. Nhưng khi đã quá lớn mạnh thì không nên hành xử mạnh mẽ nữa mới không hối tiếc.
*Hào 6: 羝羊觸 藩不能退不能遂无攸利艱則吉.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Chấn. Tiếp ý hào 5. Còn không sẽ như con cừu đực húc bờ dậu, mắc kẹt, lui không được, húc không đổ, không có lợi gì cả. Lúc này biết lo sợ thì tốt. Tức là lớn mạnh đã hết mức, sử dụng sức mạnh cũng đã hết tầm, thời cơ thì đã qua. Lúc này cần suy nghĩ để ĐỘN (trốn) được thì tốt.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
34. QUẺ LÔI THIÊN ĐẠI TRÁNG
Trên là chấn (sấm), dưới là Càn (trời)
Hết thời lui rồi thì tới thời tiến lên, tiến lên thì lớn mạnh, cho nên sau quẻ Độn tới quẻ đại tráng (lớn mạnh).
Thoán từ:
大壯: 利貞.
Đại tráng, lợi trinh.
Dịch: Lớn mạnh, theo điều chính thì lợi.
Giảng: Quẻ này có 4 nét dương ở dưới, hai nét âm ở trên; dương đã lớn mạnh mà âm sắp bị diệt hết. Quẻ Càn ở trong, quẻ Chấn ở ngoài, thế là có đức dương cương mà động. Lại có thể giảng là sấm vang động ở trên trời, tiếng rất lớn, vang rất xa.
Lớn mạnh thì dĩ nhiên là tốt rồi, nhưng thường tình, gặp thời thịnh, người ta kiêu căng, làm điều bất chính, cho nên thoán từ phải dặn: giữ điều chính, lúc đắc ý nghĩ đến lúc thất ý, thì mới có lợi.
Đại tượng truyện bảo muốn giữ điều chính thì đừng làm cái gì phi lễ. (Quân tử phi lễ phất lí)
Thoán truyện bàn thêm: có chính thì mới có lớn (đại), chính đại là cái “tình” của trời đất, tức cái công dụng hiện ra ngoài của trời đất, (chính đại nhi thiên địa chi tình khả kiến hĩ). Chúng ta để ý: quẻ Phục mới có một nét dương hiện ở dưới cùng, cho nên bảo chỉ thấy cái lòng của trời đất (kiến thiên địa chi tâm), quẻ Đại tráng này, dương đã lớn, được 4 nét rồi, thì thấy được cái tình của trời đất.
Hào từ:
*Hào 1: 壯于趾, 征凶, 有孚.
Sơ cửu: Tráng vu chỉ, chinh hung, hữu phu.
Dịch: Hào 1, dương: mạnh ở ngón chân, đi lên thì xấu, có thể tin chắc như vậy (hữu phu ở đây không có nghĩa là có đức tin như những nơi khác).
Giảng: Hào này ở dưới cùng, dương cương, cho nên ví với ngón chân, ở địa vị thấp mà hăng hái muốn tiến, sẽ vấp, xấu.
*Hào 2: 貞吉.
Cửu nhị: Trinh cát.
Dịch: Hào 2, dương : có đức chính ,tốt.
Giảng: Hào này dương cương, ở vị nhu, tuy không đắc chính, nhưng đắc trung, mà trung thì không bao giờ bất chính, vậy cũng là tốt.
*Hào 3: 小人用壯, 君子用罔.貞厲, 羝羊觸藩, 羸其角.
Cửu tam: Tiểu nhân dụng tráng, quân tử dụng võng.
Trinh lệ, đề dương xúc phiên, luy kì giác.
Dịch: Hào 3, dương: tiểu nhân dùng sức mạnh, quân tử không; dù giữ điều chính cũng nguy, như con cừu đực húc vào cái dậu, bị thương cái sừng.
Giảng: Hào này dương cương, ở vào vị dương (lẻ) trong quẻ Đại tráng, lại ở cuối nội quái Càn, thế là cực kì hung mạnh, dù giữ được chính đáng cũng nguy; quân tử biết vậy mà không hành động, chỉ tiểu nhân mới hung hăng như con cừu đực, húc vào cái dậu.
Bốn chữ “quân tử dụng võng”, Chu Hi, J. Legge,R. Wilhelm đều giảng như vậy. Duy Phan Bội Châu bảo “võng” là gan liều, không sợ gì, và “quân tử dụng võng” là “quân tử hữu dũng mà vô nghĩa thì làm loạn”. Chữ at ở đây không phải là người có đức (như Chu Hi hiểu) mà là người trị dân.
*Hào 4: 貞吉, 悔亡, 藩決不羸.壯于大輿之輹.
Cửu tứ: Trinh cát, hối vong, phiên quyết bất luy, tráng vu đại dư chi phúc.
Dịch: Hào 4, dương : theo điều chính thì tốt, hối hận mất hết; dậu đã mở không khốn nữa, mạnh mẽ tiến lên, như ngồi cỗ xe lớn mà trục xe vững vàng.
Giảng: Hào này dương cương, qua khỏi nội quái là Càn, mà lên ngoại quái là Chấn, là tráng thịnh đến cực điểm; nó ở trên hết các hào dương, làm lãnh tụ đám quân tử, sợ nó hăng quá mà lầm đường nên dặn kĩ: giữ điều chính thì mới tốt, khỏi ân hận.
Ở trên nó là hai hào âm, âm đã đến lúc suy, dễ đánh đổ; như cái dậu ở trước mặt hào 4 đã mở, không còn bị khốn nữa; nó có thể dắt ba hào dương ào ào tiến lên dễ dàng, cơ hội thuận lợi như ngồi cỗ xe lớn mà trục xe vững vàng.
*Hào 5: 喪羊于易, 无悔.
Lục ngũ: táng dương vu dị, vô hối.
Dịch: Hào 5, âm: làm mất sự hung hăng của bầy cừu bằng cách vui vẻ dễ dại, thì sẽ không ân hận.
Giảng: Hào này ở vị chí tôn, nhưng vốn âm nhu, không thể áp đảo được 4 hào dương ở dưới, phải vui vẻ dễ dãi với họ thì họ sẽ hết hung hăng. Bốn hào dương đó ví như bầy dê hung hăng. Sở dĩ phải có thái độ đó vì ngôi của 5 quá cao đối với tư cách âm nhu của nó.
*Hào 6: 羝羊觸 藩, 不能退, 不能遂, 无攸利, 艱則吉.
Thượng lục: đề dương xúc phiên, bất năng thoái, bất năng toại, vô du lợi, gian tắc cát.
Dịch: Hào trên cùng, âm: Cừu đực húc vào dậu, mắc kẹt, lui không được, tiến cho toại ý cũng không được, không có lợi gì cả; chịu khó nhọc thì tốt.
Giảng: hào này ở trên cùng quẻ Đại tráng là hết thời lớn mạnh, mà cũng ở trên cùng ngoại quái Chấn, là rất ham động mà bất lực (âm nhu); như con cừu đực hung hăng húc vào dậu, mắc kẹt, lui không được, tiến lên cho toại ý cũng không được, không lợi ở chỗ nào cả. Nếu bỏ tính hung hăng húc quàng đi mà chịu khó nhọc thì tốt.
*Thêm:
Quẻ này là thời âm suy, dương lớn mạnh lên, đáng lẽ tốt; mà sáu hào không có hào nào thật tốt, chỉ tốt với điều kiện là giữ đạo chính của quân tử; cổ nhân khuyên muốn gặp vận hội tốt thì phải coi chừng hoạ nấp ở đâu đó, nên đề phòng.
Thanked by 1 Member:
|
|
#22
Gửi vào 14/01/2016 - 09:03
35. HỎA ĐỊA TẤN
Khách quái là Ly (lửa). Chủ quái là Khôn (đất).
Tượng lò lửa bằng đất sét. Tức là có chủ quái ĐỊA (lò đất sét) thì khách quái LY (lửa) mới được nhen nhón mà cháy to lên được.
Phạm trù: Xử thế. Tiến và Thoái.
Cho đối tượng: Mọi người.
Tên là TẤN: Tiến lên, lớn lên, bình minh, nhen nhóm.
Hình tượng: Uốn lưỡi bảy lần hẵng nói.
Thoán từ: 晉康侯用錫馬蕃庶晝日三接.
*Hào 1: 晉如摧如貞吉罔孚裕无咎.
*Hào 2: 晉如愁如貞吉受茲介福于其王母.
*Hào 3: 眾允悔亡.
*Hào 4: 晉如鼫鼠貞厲.
*Hào 5: 悔亡失得勿恤往吉无不利.
*Hào 6: 晉其角維用伐邑厲吉无咎貞吝.
Thoán từ: 晉康侯用錫馬蕃庶晝日三接.
Muốn tiến nhanh tiến mạnh thì phải cho ngựa tạm nghỉ trên đường trong ngày ít nhất ba lần.
Có câu “dục tốc bất đạt”, quá vội vã muốn đi nhanh thì chẳng bao giờ được.
Hào từ:
*Hào 1: 晉如摧如貞吉罔孚裕无咎.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Khôn. Phải chắc chắn mới tiến lên chỉ có tốt lành. Nếu còn nghi ngờ thì cứ thong thả sẽ không phạm sai lầm.
*Hào 2: 晉如愁如貞吉受茲介福于其王母.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Khôn. Vừa tiến vừa lo lắng như vâng chỉ tiến lên nâng vạt áo cho mẹ vua khi tế lễ thì chỉ có tốt lành.
*Hào 3: 眾允悔亡.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Khôn. Tiếp ý hào 2. Cho nên, cần làm cho mọi người đều thành thực và biết hối hận mà lo lắng tự sửa chữa được lỗi lầm của mình.
*Hào 4: 晉如鼫鼠貞厲.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Ly. Tiếp ý hào 3. Sau đó tiến lên như con chuột núi thì chắc chắn lẹ làng (nhanh chóng).
Chuột núi là một giống thú giống như con chuột mà lớn, đuôi to mà dài, làm hang ở trong núi hay dưới cây cổ thụ, hay ăn các thứ quả.
*Hào 5: 悔亡失得勿恤往吉无不利.
Hào âm. Trung vạch khách quái Ly. Tiếp ý hào 4. Bởi vì biết hối hận mà tự sửa chữa được lỗi lầm của mình, được mất chẳng màng, cho nên tiến lên sẽ tốt lành và không gì là không lợi.
*Hào 6: 晉其角維用伐邑厲吉无咎貞吝.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Ly. Tiếp ý hào 5. Còn tiến lên mà mạnh mẽ cứng rắn vô lối như cái sừng trâu thì chỉ nên thực hiện ở chốn quê nhà, gắng gỏi được thì tốt và không sai lầm nhưng chắc chắn sẽ hối tiếc.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
35. QUẺ HỎA ĐỊA TẤN
Trên là Ly (lửa) dưới là Khôn (đất)
Đã tráng thịnh thì tất nhiên phải tiến lên, cho nên sau quẻ Đại tráng tới quẻ Tấn [晉], Tấn có nghĩa là tiến [進] lên.
Thoán từ:
晉: 康侯用錫馬蕃庶, 晝日三接.
Tấn: Khang hầu dụng tích mã phồn thứ, trú nhật tam tiếp.
Dịch: tiến lên, bậc hầu có tài trị nước được thưởng ngựa nhiều lần, ban ngày được tiếp tới ba lần.
Giảng: Quẻ này có tượng mặt trời (ly) lên khỏi mặt đất (Khôn), càng lên cao càng sáng, tiến mạnh.
Lại có thể hiểu là người dưới có đức thuận (Khôn) dựa vào bậc trên có đức rất sáng suốt (☲); cho nên ví với một vị hầu có tài trị dân (Khang hầu) được vua tín nhiệm, thưởng (tích) ngựa nhiều lần, nội một ngày mà được vua tiếp tới ba lần.
Thoán truyện giảng thêm: quẻ này hào 5 có cái tượng một hào âm nhu tiến lên địa vị vua chúa: nhu tiên nhi thượng hành. Theo Chu Hi, như vậy là vì quẻ Tấn do quẻ Quán biến thành: hão quẻ Quán là âm, nhảy lên trên, thành 5 quẻ Tấn. Phan Bội châu hiểu khác: hào 5 vốn là hào dương giữa quẻ Càn, biến thành hào âm ở giữa ngoại quái Ly của quẻ Tấn. Theo tôi, cách hiểu của Chu Hi dễ chấp nhận hơn.
Đại tượng truyện khuyên người quân tử xem tượng quẻ Tấn này nên tự làm cho đức của mình càng ngày càng sáng như mặt trời hiện lên khỏi mặt đất rồi tiến mãi lên.
Hào từ:
*Hào 1: 晉如, 摧如, 貞吉, 罔孚, 裕. 无咎.
Sơ Lục: tấn như, tồi như, trinh cát, võng phu, dụ, vô cữu.
Dịch: Hào 1 âm: : muốn tiến lên mà bị chắn lại, giữ đạo chính thì tốt; nếu người chẳng tin mình thì nên khoan thai, bình tĩnh, như vậy sẽ không có lỗi.
Giảng: Âm nhu ở dưới cùng, ứng với hào 4, mà 4 lại bất trung, bất chính, nên chẳng giúp mình được gì, mình muốn tiến lên mà như thể bị chặn lại. Trong hoàn cảnh đó, nếu có người không tin mình thì mình chỉ nên khoan thai, bình tĩnh tu thân là sẽ không có lỗi.
*Hào 2: 晉如, 愁如, 貞吉; 受茲介福于其王母.
Lục nhị: Tấn như, sầu như, trinh cát;
Thụ tư giới phúc vu kì vương mẫu.
Dịch: Hào 2, âm: Tiến lên mà rầu rĩ, giữ đạo chính thì tốt; sẽ được nhờ phúc lớn của bà nội.
Giảng: Hào này có đức trung chính, đáng lẽ tiến lên được nhưng trên không có người ứng viện (vì hào 5 cũng âm nhu như 2), phải tiến một mình, nên rầu rĩ. Nhưng cứ giữ đạo chính thì chẳng bao lâu sẽ gặp cơ hội tốt: hào 5 ở trên, cũng là hào âm như mình, tuy không giúp được mình trong công việc, nhưng cũng đắc trung như mình, sẽ ban phúc lớn cho mình, và mình sẽ được nhờ hào 5 như được nhờ phúc của bà nội (vương mẫu tức như tổ mẫu) mình vậy.
Sở dĩ ví hào 5 với bà nội vì 5 là âm mà ở trên cao, cách 2 khá xa.
*Hào 3: 眾允, 悔亡.
Lục tam: chúng doãn, hối vong.
Dịch: hào 3, âm: mọi người tin cẩn, thì mọi sự hối tiếc sẽ mất đi.
Giảng: hào âm này ở trên cùng nội quái Khôn, bất trung chính, đáng lẽ có điều hối hận, nhưng có hai hào âm ở dưới đều muốn tiến lên với mình, đều tin mình, mình được lòng họ, thì còn gì phải hối tiếc nữa đâu?
*Hào 4: 晉如, 鼫鼠, 貞厲.
Cửu tứ: Tấn như, thạch thử, trinh lệ.
Dịch: hào 4, dương : tiến lên, tham lam như con chuột đồng, cứ giữ thói đó thì nguy.
Giảng: Hào này bất chính, bất trung, ở địa vị cao, tham lam muốn giữ ngôi mà lại sợ một bầy âm ở dưới dương hăng hái dắt nhau tiến lên, nên ví với con chuột đồng, vừa tham vừa sợ người .
Nếu nó giữ thói đó (trinh ở đây là bền vững chứ không phải là chính đáng, vì hào 4 vốn bất chính) thì sẽ nguy, bị tai hoạ mà mất ngôi.
*Hào 5: 悔亡, 失得勿恤, 往吉, 无不利.
Lục ngũ: hối vong, thất đắc vật tuất, vãng cát, vô bất lợi.
Dịch: Hào 5, âm: không có gì ân hận cả; nếu đừng lo được hay mất, mà cứ tiến thì tốt, không gì là không lợi.
Giảng: Hào này làm chủ quẻ Tấn, có đức sáng suốt (vì ở giữa ngoại quái Ly), lại được ba hào âm ở dưới thuận giúp mình, nên không có gì phải ân hận.
Nhưng nó là âm nhu, e có lòng ham được, sợ mất, cho nên Hào từ khuyên thành bại chẳng màng, cứ giữ đức sáng suốt thì sẽ thành công.
*Hào 6: 晉其角, 維用伐邑, 厲吉, 无咎, 貞吝.
Thượng cửu: Tấn kì giác, duy dụng phạt ấp, lệ cát, vô cữu, trinh lận.
Dịch: Hào trên cùng, dương: chỉ tiến cặp sừng thôi, lo trị cái ấp riêng của mình thôi thì dù có nguy, kết quả cũng tốt, không tội lỗi, nhưng dù được điều chỉnh thì cũng đáng thẹn.
Giảng: Dương cương mà ở trên cùng quẻ Tấn, có nghĩa là cứng đến cùng cực, mà ham tiến cũng cùng cực, không khác con thú hung hăng chỉ húc bằng cặp sừng. Như vậy không làm được việc lớn, chỉ giữ được cái vị của mình, như trị được cái ấp riêng của mình thôi, dù có nguy thì cũng vẫn thành công đấy. Có điều là ở thời đại Tiến lên mà chỉ làm được vậy, chứ không thành sự nghiệp lớn thì cũng đáng thẹn đáng tiếc.
-----------------------------------------------------------------------
36. ĐỊA HỎA MINH DI
Khách quái là Khôn (đất). Chủ quái là Ly (lửa) .
Tượng lửa bị cát bụi mà tàn lụi. Chủ quái LY (lửa) bị khách quái là KHÔN (bụi đất ) đến làm cho tàn lụi, yếu đi. Đây cũng là một cách dập lửa truyền thống.
Phạm trù: Xử thế. Tiến và thoái.
Cho đối tượng: Người quân tử, người cầm đầu.
Tên là MINH DI: Thoái lui, tàn lụi, hoàng hôn, mặt trời đang xuống, ẩn giấu ánh sáng.
Chồng quái cũng nói đến vi hành ở hai hào dương là hành động của bậc quân vương giả dạng dân thường nhập vào giới bình dân để nắm rõ lòng dân và tìm người chân tài cho việc an dân.
Hình tượng: Bền tâm vững chí.
Thoán từ: 明夷利艱貞.
*Hào 1: 明夷于飛 垂其翼君子于行三日不食有攸往主人有言.
*Hào 2: 明夷夷于左股用拯馬壯吉.
*Hào 3: 明夷于南狩得其大首不可疾貞.
*Hào 4: 入于左腹獲明夷之心于出門庭.
*Hào 5: 箕子之明夷利貞.
*Hào 6: 不明晦初登于天後入于地.
Thoán từ: 明夷利艱貞.
Thoái lui chỉ có lợi khi bền tâm vững chí mà chịu đựng được gian nan.
Hào từ.
*Hào 1: 明夷于飛 垂其翼君子于行三日不食有攸往主人有言.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Ly. Vi hành phải như con chim không bay lên mà giữ cánh lượn xuống. Được như thế thì vua có vi hành ba ngày không ăn vẫn có thể nói chuyện được với bọn du đãng (những người lang thang nay đây mai đó).
*Hào 2: 明夷夷于左股用拯馬壯吉.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Ly. Thoái lui, lui về bên phải (phía tây với người đối diện với phương bắc) cơ bắp cần rèn luyện để mạnh mẽ như con ngựa khỏe thì tốt lành. Tức là, nếu phải thoái lui cần nhanh chóng và chịu đựng được gian nan trèo đèo luội suối (phía tây là đất Thục có núi rừng hiểm trở).
*Hào 3: 明夷于南狩得其大首不可疾貞.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Ly. Mùa hè (tháng 5, tháng 6) vi hành đến phương nam sẽ có được người hiền lương nhất cho việc an dân, nhưng không được vội vã mà phải từ từ chắc chắn mới được.
*Hào 4: 入于左腹獲明夷之心于出門庭.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Khôn. Tiếp ý hào 2. Vào được phía tây rồi, thoái lui bảo toàn lực lượng được rồi là lúc tâm trí phải để ở phía trước. Tức là đã qua được giai đoạn thoái lui gian nan rồi thì phải bền tâm vững chí tiếp tục sự nghiệp phía trước của mình (như thoái từ).
*Hào 5: 箕子之明夷利貞.
Hào âm. Trung vạch khách quái Khôn. Tiếp ý hào 4. Như là biết thoái lui như Cơ Tử (Chu Văn Vương) để sau đó dựng nghiệp lớn thì chỉ có lợi mà thôi.
*Hào 6: 不明晦初登于天後入于地.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Khôn. Tiếp hào 5. Còn không biết thoái lui thì trước bay lên trời, sau lại sụp xuống đất. Tức là phải biết thoái lui bảo toàn lực lượng để sau đó xây dựng sự nghiệp. Còn không thì sẽ gặp nguy hoặc đổ vỡ tan tành.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
36. QUẺ ĐỊA HỎA MINH DI
Trên là Khôn (đất), dưới là ly (lửa)
Tiến lên thì tất có lúc bị thương tổn, cho nên sau quẻ Tấn tiếp tới Minh di. Di [夷] nghĩa là thương tổn.
Thoán từ.
明夷: 利艱貞.
Minh di: Lợi gian trinh.
Dịch: Ánh sáng bị tổn hại, chịu gian nan, giữ điều chính thì lợi.
Giảng: Quẻ này ngược với quẻ Tấn ở trên; mặt trời (ly) lặn xuống dưới đất (Khôn) ánh sáng bị tổn hại, tối đi (Minh di).
Người quân tử ở thời u ám này, gặp nhiều gian nan, chỉ có cách giữ đức chính trinh của mình thì mới có lợi. Muốn vậy thì ở trong lòng giữ đức sáng mà ở ngoài thì nhu thuận để chống với hoạn nạn như tượng của quẻ Ly là sáng văn minh ở nội quái, Khôn là nhu thuận ở ngoại quái. Vua Văn Vương bị vua Trụ nghi ngờ, giam vào ngọc Dữu Lý, tỏ vẻ rất nhu thuận, không chống đối Trụ, mà để hết tâm trí vào việc viết Thoán từ giảng các quẻ trong Kinh Dịch, nhờ vậy Trụ không có cớ gì để giết, sau thả ông ra.
Không những ở ngoài phải tỏ vẻ nhu thuận, mà có khi còn nên giấu sự sáng suốt của mình đi nữa mà trong lòng vẫn giữ chí hướng, như Cơ tử một hoàng thân của Trụ. Trụ vô đạo, Cơ Tử can không được, giả điên, làm nô lệ, để khỏi bị giết, mong có cơ hội tái tạo lại nhà Ân; khi nhà Ân mất, ông không chết với Trụ, cũng không bỏ nước ra đi. Võ vương – con Văn Vương – diệt Trụ rồi, trọng tư cách Cơ Tử, mời ra giúp nước, ông không chịu; sau Võ vương cho ra ở Triều Tiên, lập một nước riêng. Như vậy là Cơ Tử giấu sự sáng suốt của mình để giữ vững chí, không làm mất dòng dõi nhà Ân (Hối kì minh, nội nạn nhi năng chính kì chí – Thoán truyện).
Đại tượng truyện bảo quân tử gặp thời Minh di, muốn thống ngự quần chúng nên dùng cách kín đáo mà lại thấy được rõ (dụng hối nhi minh), nghĩa là dùng thủ đoạn làm ngơ cho kẻ tiểu nhân , đừng rạch ròi, nghiêm khắc quá mà sẽ bị hại, tóm lại là làm bộ như không biết để chúng không nghi ngờ mình và để lộ hết dụng tâm của chúng ra mà mình sẽ biết được. Cơ hồ tác giả Đại tượng truyện muốn dùng thuật của Hàn Phi.
Hào từ.
*Hào 1: 明夷, 于飛 垂其翼.君子于行, 三日不食, 有攸往, 主人有言.
Sở cửu: Minh di, vu phi thùy kì dực. Quân tử vu hành,
tam nhật bất thực, hữu du vãng, chủ nhân hữu ngôn.
Dịch: Hào 1, dương : ở thời u ám (ánh sáng bị tổn hại), hào này như con chim muốn bay mà cánh rũ xuống. Người quân tử biết thời cơ thì bỏ đi ngay, dù (không có tiền) phải nhịn đói ba ngày, mà đi tới đâu, gặp chủ cũ, cũng bị chủ cũ chê trách.
Giảng: Hào dương ở đầu thời Minh di, là người quân tử gặp thời hắc ám, có thể bị hại như con chim rũ cánh xuống. Cách xử thế là nên bỏ đi ngay, như Phạm Lãi bỏ nước Việt vì biết vua Việt là Câu Tiễn sẽ nghi ngờ mà hại các công thần, nhờ vậy tránh được cái hoạ bị giết như đại phu Chủng.
*Hào 2: 明夷, 夷于左股, 用拯馬壯, 吉.
Lục nhị: Minh di, di vu tả cổ, dụng chửng mã tráng, cát.
Dịch: Hào 2, âm: Ở thời ánh sáng bị tổn hại, hào này như bị đau ở đùi bên trái, nhưng cũng mau khỏi, sẽ như con ngựa mạnh mẽ tiến lên, tốt.
Giảng: Hào này làm chủ nội quái Ly (sáng suốt), đắc trung, đắc chính , là bậc quân tử có tài, nhưng ở thời Minh di, hôn ám nên bị tiểu nhân làm hại ít nhiều, như bị thương ở đùi bên trái, nhưng rồi sẽ mau khỏi (dụng chửng), mà như con ngựa mạnh mẽ.
Tốt vì hào 2 trung, chính, lại vẫn thuận theo (vì là hào âm) phép tắc.
“dụng chửng mã tráng” R. Wilhelm giảng là : sẽ dùng sức con ngựa mạnh mà giúp đỡ người khác khỏi cơn nguy, J. Legge dịch là: tự cứu mình bằng sức một con ngựa mạnh. Chúng tôi theo Chu Hi và Phan Bội Châu.
*Hào 3: 明夷, 于南狩, 得其大首, 不可疾, 貞.
Củu tam: Minh di, vu nam thú, đắc kì đại thủ, bất khả tật, trinh.
Dịch: Hào 3, dương: ở thời ánh sáng bị tổn hại, đi tuần về phương Nam, bắt được kẻ đầu sỏ, nhưng đừng hành động gấp, phải bền chí.
Giảng: Hào này ở trên cùng nội quái Ly là cực sáng suốt; nó là dương cương , ở vị dương, vậy là rất cương kiện, nó ứng với hào âm ở trên cùng quẻ Khôn (ngoại quái), hào này cực hôn ám. Nó sẽ đánh đổ hào âm đó. Nó cứ đem binh đi tuần về phương Nam (Nam thú: Phan Bội Châu giảng là đem quân tiến lên phía trước để trừ loạn) sẽ bắt được tên đầu sỏ phản loạn. Nhưng nó cương cường nóng nảy, nên phải khuyên: đừng gấp, phải bền chí giữ đạo chính.
*Hào 4: 入于左腹, 獲明夷之心, 于出門庭.
Lục tứ: Nhập vu tả phúc, hoạch minh di chi tâm, vu xuất môn đình.
Dịch: Hào 4, âm: như vô phía bên trái của bụng (ý nói chỗ u ám); tấm lòng ở thời u ám (minh di) là nên bỏ nhà mà ra đi.
Giảng: Hào này âm nhu, ở vào thời Minh di, mà lại vượt quẻ Ly, sang quẻ Khôn rồi, tức bỏ chỗ sáng sủa, bước vào chỗ tối tăm, cho nên ví như vô phía bên trái của bụng. Nhưng hào này đắc chính (âm ở vị âm) nên có thể rút chân ra khỏi cảnh kh*n n*n ấy được: cứ bỏ nhà ra đi, tức tránh cho xa cảnh đó, mặc nó.
Đó là hiểu theo Phan Bội Châu. Chu Hi nhận rằng không thấy được nghĩa hào này.
*Hào 5: 箕子之明夷, 利貞.
Lục ngũ: cơ tử chi Minh di, lợi trinh.
Dịch: Hào 5, âm: như ông Cơ Tử ở thời u ám (Minh di), cứ bền giữ đạo chính thì lợi.
Giảng: Thường các quẻ khác, hào 5 là ngôi chí tôn, quẻ Minh di này hào trên cùng mới là ngôi chí tôn, hào 5 là người thân cận với ngôi chí tôn. Hào trên cùng là ông vua rất hôn ám như vua Trụ, hào 5 là người thân cận có đức trung, như ông Cơ Tử; ông giả điên để khỏi bị Trụ hại mà sau giữ được dòng dõi nhà Ân, như vậy là giữ vững đạo chính, ở ngoài làm ra vẻ hôn mê, mà trong lòng vẫn sáng suốt.
*Hào 6: 不明晦, 初登于天, 後入于地.
Thượng lục: Bất minh di, sơ đăng vu thiên, hậu nhập vu địa.
Dịch: Hào trên cùng, âm: không còn là ánh sáng bị tổn thương nữa, lên cao tới trời mà rồi sụp xuống đất.
Giảng: Hào trên cùng, âm; ở cuối cùng thời Minh di, lại ở trên cùng ngoại quái Khôn, tức như người có địa vị tối cao mà lại hôn ám cùng cực; như vậy là tối mù mù, chứ không phải chỉ là ánh sáng bị tổn hại (Minh di), nữa, cho nên Hào từ bảo là “bất minh di”. Có cái tượng lên cao tới trời (địa vị tối cao) mà rồi sụp xuống đất.
*Thêm:
Quẻ này khuyên người quân tử ở thời hắc ám quá thì có thể bỏ nhà, nước mà đi; hoặc muốn ở lại thì giấu sự sáng suốt của mình mà giữ vững đạo chính để chờ thời.
Thanked by 1 Member:
|
|
#23
Gửi vào 15/01/2016 - 09:22
37. PHONG HỎA GIA NHÂN
Khách quái là Tốn (gió). Chủ quái là Ly (lửa).
Chủ quái Ly tượng văn minh văn hóa, con người không còn sống thành bầy đàn mà chuyển thành quần thể xã hội với hạt nhân là gia đình. Khách quái Tốn tượng nề nếp gia phong trong câu “Tề hồ Tốn” của Hậu thiên bát quái. Bởi vậy, tượng của chồng quái này là nề nếp gia đình.
Phạm trù: Xã hội loài người.
Cho đối tượng: Mọi người.
Tên GIA NHÂN: Gia đình, người trong nhà.
Hình tượng: Một cõi đi về.
Thoán từ: 家人利女貞.
*Hào 1: 閑有家悔亡.
*Hào 2: 无攸遂在中饋貞吉.
*Hào 3: 家人嗃嗃悔厲吉婦子嘻嘻終吝.
*Hào 4: 富家大吉.
*Hào 5: 王假有家勿恤吉.
*Hào 6: 有孚威如終吉.
Thoán từ: 家人利女貞.
Gia đình chắc chắn lợi cho người nữ.
Có câu “Nam hướng ngoại, nữ hướng nội”, nghĩa là người nữ luôn hướng về phía gia đình, phía trong nhà thì lợi.
Hào từ:
*Hào 1: 閑有家悔亡.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Ly. Nhàn rỗi mà có gia đình thì chẳng có gì phải hối hận.
Có câu “nhàn cư vi bất thiện”, nên nhàn rỗi mà có gia đình phải quan tâm chăm sóc thì sẽ chẳng còn nhàn cư mà làm những việc bất thiện để phải hối hận.
*Hào 2: 无攸遂在中饋貞吉.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Ly. Không đi đâu mà ở giữa nhà ăn uống thỏa thích thì chỉ có tốt lành.
Có gia đình là có nơi ăn ngủ tốt lành thì không phải lang chạ, ăn uống nơi đầu đường xó chợ nữa.
*Hào 3: 家人嗃嗃悔厲吉婦子嘻嘻終吝.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Ly. Nề nếp gia đình nghiêm khắc thì khi gia đình gặp vận xấu, gian nguy sẽ qua được. Còn để vợ con suốt ngày vui vẻ, không lo nghĩ thì kết cục sẽ hối tiếc.
*Hào 4: 富家大吉.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Tốn. Tiếp ý hào 3 . Tuân thủ nền nếp gia đình sẽ làm hưng thịnh nhà cửa và người trong nhà đều được tốt lành.
*Hào 5: 王假有家勿恤吉.
Hào dương. Trung vạch khách quái Tốn. Tiếp ý hào 4. Còn sự thịnh vượng giả tạo không màng tới thì tốt lành. Tức là những sự thịnh vượng giả tạo không phát nguồn từ việc giữ vững nề nếp gia phong thì chung cuộc chẳng có gì tốt đẹp. Sự thịnh vượng như vậy không nên là mục tiêu hướng tới của các gia đình.
*Hào 6: 有孚, 威如終吉.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Tốn. Tiếp ý hào 5. Có lòng thành về sự tôn nghiêm của nền nếp gia phong như thế thì chung cuộc sẽ tốt.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
37. QUẺ PHONG HỎA GIA NHÂN
Trên là Tốn (gió), dưới là Ly (lửa).
Di là bị thương; hễ ra ngoài bị thương thì trở về nhà, cho nên sau quẻ Minh di tới quẻ Gia nhân. Gia nhân là người trong một nhà.
Thoán từ :
家人: 利女貞.
Gia nhân : Lợi nữ trinh.
Dịch: người trong nhà: hễ đàn bà mà chính đáng thì có lợi.
Giảng: Nội quái là Ly, sáng suốt; ngoại quái là Tốn thuận. Ở trong thì suốt, xử trí không hồ đồ, ở ngoài thì thuận, như vậy việc tề gia sẽ tốt đẹp. Nói rộng ra việc nước cũng vậy, vì người trong một nước lấy nước làm nhà; mà việc thế giới cũng vậy, vì mỗi nước như một người, cả thế giới như một nhà.
Quẻ này, nội quái Ly là trung nữ, ngoại quái Tốn là trưởng nữ (1); hào 2, âm làm chủ nội quái, hào 4, âm làm chủ ngoại quái, hai hào đó đều đắc chính cả, cho nên nói đàn bà mà chính đáng thì có lợi.
Tuy chỉ nói “nữ” trinh thôi, nhưng phải hiểu nam cũng cần chính đáng nữa, vì nếu nam không chính đáng thì nữ làm sao chính đáng được. Cho nên Thoán truyện giải thích: Đàn bà chính đáng ở trong (ám chỉ hào 2, âm ở vị âm trong nội quái), mà đàn ông chính đáng ở ngoài (hào 5, dương, ở vị dương trong ngoại quái); đàn bà lo việc nhà, đàn ông lo việc ở ngoài, cả hai đều giữ đạo chính, đó là hợp với nghĩa lớn của trời đất (nữ chính vị hồ nội, nam chính vị hồ ngoại; nam nữ chính, thiên địa chi đại nghĩa dã). Nam nữ là nói chung, gồm cả cha mẹ, con cái, anh chị em, vợ chồng, ai nấy đều phải giữ đạo chính hết, chứ không phải chỉ có người trên, chồng không phải giữ đạo. Cha mẹ cũng có đúng đạo cha mẹ thì con mới đúng đạo con, anh em cũng vậy, chồng vợ cũng vậy. Thời xưa chẳng riêng ở Trung Hoa mà ở khắp các nước theo chế độ phụ quyền như phương Tây cũng vậy, không có bình đẳng giữa nam nữ; nhưng về tư cách, đạo đức, thì nam nữ đều có bổn phận, trách nhiệm ngang nhau.
Đại tượng truyện khuyên: coi tượng quẻ này, gió từ trong lửa phát ra (điều này khoa học đã giảng rồi), người quân tử hiểu rằng trong thiên hạ, việc gì ở ngoài cũng phát từ ở trong; muốn trị nước thì trước phải trị nhà, muốn trị nhà thì trước phải tu thân; mà việc tu thân cốt ở hai điều: nói phải có thực lý; thực sự, không nói suông, vu vơ; làm thì thái độ phải trước sao sau vậy, triệt để từ đầu tới đuôi, đừng thay đổi hoài (quân tử dĩ ngôn hữu vật, như hạnh hữu hằng).
Hào từ:
*Hào 1: 閑有家, 悔亡.
Sơ cửu: nhàn hữu gia, hối vong.
Dịch: Hào 1, dương: phòng ngừa ngay từ khi mới có nhà thì không hối hận gì cả.
Giảng: Hào này dương cương ở đầu quẻ Gia nhân, chính là lúc mới có nhà, nếu biết đề phòng, ngăn ngừa ngay các tật như lười biếng, xa xỉ thì không có gì phải ăn năn. Ý hào này cũng như tục ngữ của ta: Dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.
*Hào 2: 无攸遂, 在中饋, 貞吉.
Lục nhị: vô du loại, tại trung quĩ, trinh cát.
Dịch: Hào 2, âm: không việc gì mà tự chuyên lấy thành công (nắm hết trách nhiệm), cứ ở trong nhà lo việc nấu nướng, giữ đạo chính thì tốt.
Giảng: Hào này âm nhu mà ở vị âm, đắc trung đắc chính là người dâu hay con gái thuận tòng, nhún nhường, nhưng bất tài, ở địa vị thấp, nên không gánh vác nổi việc trị gia, không lãnh trách nhiệm lớn được, chỉ nên lo việc nấu nướng ở trong nhà thôi.
*Hào 3: 家人嗃嗃, 悔厲, 吉.婦子嘻嘻, 終吝.
Cửu tam: Gia nhân hác hác, hối lệ, cát; phụ tử hi hi, chung lận.
Dịch: Hào 3, dương: người chủ nhà nghiêm khắc, tuy hối hận, có nguy nhưng lại tốt; (nếu quá khoan để cho) dâu con nhí nhảnh chơi đùa thì lại hối tiếc.
Giảng: Hào này là dương ở vị dương, đắc chính nhưng không đắc trung, quá nghiêm khắc, tuy có lúc phải hối hận, gặp nguy, nhưng kết quả lại tốt vì nhà có trật tự, trái lại nếu quá dễ dãi để cho dâu con luông tuồng, thì nhà sẽ suy loạn mà phải hối tiếc.
*Hào 4: 富家, 大吉.
Lục tứ: phú gia, đại cát.
Dịch: Hào 4, âm: Làm giàu thịnh cho nhà, rất rốt.
Giảng: Hào này âm nhu, đắc chính ở vào ngoại quái Tốn, ở địa vị cao, như bà mẹ có trách nhiệm làm cho nhà giàu thịnh lên.
Theo Phan Bội Châu, chữ “phú” ở đây không có nghĩa là làm giàu, mà có nghĩa là gia đạo hưng thịnh lên, mọi người hoà hợp nhau, trên ra trên, dưới ra dưới.
*Hào 5: 王假有家, 勿恤, 吉.
Cửu ngũ: Vương cách hữu gia, vật tuất, cát.
Dịch: Hào 5 dương : vua (hoặc gia chủ) rất khéo về việc trị gia (cách là rất tốt không có gì phải lo, tốt.
Giảng: Chữ vương ở đây có thể hiểu là vua trong nước hay gia chủ, nếu hiểu là vua thì “trị gia” phải hiểu là “trị quốc”
Hào này dương cương, đắc trung, đắc chính, lại có hào 2, âm ở dưới ứng với mình, cũng trung, chính; như có người nội trợ hiền giúp đỡ mình, không còn lo lắng gì nữa, tốt.
*Hào 6: 有孚, 威如, 終吉.
Thượng cửu: Hữu phu, uy như, chung cát.
Dịch: Hào trên cùng, dương: (người trên) có lòng chí thành và thái độ uy nghiêm (không lờn) thì cuối cùng sẽ tốt.
Giảng: Hào này ở trên cùng quẻ Gia nhân, tức lúc gia đạo đã hoàn thành. Người trên chỉ cần thành tín là người dưới tin, lại nghiêm trang thì đạo được tốt đẹp lâu dài.
*Thêm:
Quẻ này dạy cách tề gia, cần nhớ ba điều này:
- Phải ngăn ngừa ngay từ lúc đầu.
- Bất kỳ người nào trong nhà, nhất là những người trên, phải giữ chánh đạo, giữ bổn phận, trách nhiệm của mình.
- Người chủ phải nghiêm, nếu nghiêm thì có điều hối hận đấy, nhưng còn hơn là quá dễ dãi.
Chúng ta để ý: sáu hào không có hào nào xấu; nhưng ba hào dưới thuộc về bước đầu, có lời răn bảo (hào 1: phải phòng ngừa từ lúc đầu, hào 2: phải giữ đạo chính ; hào 3: coi chừng nghiêm quá thì hối hận, nguy); tới hào 4 và 5; kết quả rất tốt, hào cuối chỉ cách giữ được sự tốt đẹp đó tới cùng.
------------------------------------------------------
38. HỎA TRẠCH KHUÊ
Khách quái là Ly (lửa). Chủ quái là Đoài (chằm)
Tượng của chủ quái Đoài là xã hội trong câu “Duyệt ngôn hồ Đoài” của Hậu thiên bát quái, nghĩa là đã hình thành xã hội, quần thể dùng ngôn ngữ và chữ viết để giao tiếp. Tượng của khách quái Ly là văn minh văn hóa. Bởi vậy, tượng của chồng quái là xã hội văn minh.
Phạm trù: Xã hội loài người.
Cho đối tượng: Mọi người.
Tên KHUÊ: Xã hội, người ngoài xã hội, xã hội văn minh.
Xã hội văn minh thì có đủ hạng người, người tốt, người xấu, kẻ ác, người hiền quần tụ mà thành.
Hình tượng: Trăm hoa đua nở.
Thoán từ: 睽小事吉.
*Hào 1: 悔亡喪馬勿逐自復見惡人无咎.
*Hào 2: 遇主于巷无咎.
*Hào 3: 見輿曳其牛掣其人天且劓无初有終.
*Hào 4: 睽孤遇元夫 交孚厲无咎.
*Hào 5: 悔亡厥宗噬膚往何咎.
*Hào 6: 睽孤見豕負塗載鬼一車先張之弧後說之弧匪寇婚媾往遇雨則吉.
Thoán từ: 睽小事吉.
Xã hội văn minh thì những việc công chúng sự vụ được quan tâm thực hiện tốt.
Hào từ
*Hào 1: 悔亡喪馬勿逐自復見惡人无咎.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Đoài. Chẳng nên hối hận khi mất ngựa mà không đuổi theo để tìm. Bởi vì, đuổi theo biết đâu lại gặp kẻ ác đang giữ ngựa thì như là tự giao mình cho kẻ ác mà gặp khốn.
Xã hội quần tụ người ác người hiền. Mất ngựa vào tay kẻ ác, thực ra bản thân con ngựa không mất mà ta chỉ mất quyền sở hữu nó. Bởi vậy cũng chẳng nên hối tiếc đuổi theo mà gặp nguy khi xung đột với kẻ ác thì khốn.
*Hào 2: 遇主于巷无咎.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Đoài. Để gặp được vua hiền thì đi đường tắt cũng chẳng sao.
*Hào 3: 見輿曳其牛掣其人天且劓无初有終.
Hào âm. Thương vạch chủ quái Đoài. Đi đường thấy xe hàng bò kéo, được cầm cương bởi người bị thích chữ ở mặt, lại bị cắt cả mũi. Đầu tiên thì thấy lạ lẫm, sau cùng đồng hành thì cũng quen thuộc mà thôi.
Xã hội văn minh là vậy, có người này người kia. Có người phạm tội đã nhận hình phạt và đã hoàn lương làm công việc nặng nhọc, thì lúc đầu có thể thấy lạ lẫm, nhưng đồng hành với họ cũng chẳng sao.
*Hào 4: 睽孤遇元夫 交孚厲无咎.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Ly. Xã hội văn minh, những người cô độc gặp được người cầm đầu kết thành nhóm, hội mà làm việc công ích thì dù khó khăn những sẽ chẳng có gì mà phải hối hận.
*Hào 5: 悔亡厥宗噬膚往何咎.
Hào âm. Trung vạch khách quái Ly.Tiếp ý hào 4. Nếu người cùng nhóm, hội bêu riếu mình ở ngoài đường, cứ coi đó là lời nói suông thì có gì xấu?.
Như tượng của chồng quái, ở chủ quái Đoài con người đã dùng ngôn ngữ và chữ viết trong xã hội. Đã phải quần tụ thành nhóm, hội với nhau vì cô độc thì hà gì một lời nói xấu mà có thể mất tình bằng hữu. Tổ tiên có câu “Lời nói gió bay” là ý này.
*Hào 6: 睽孤見豕負塗載鬼一車先張之弧後說之弧匪寇婚媾往遇雨則吉.
Xã hội văn minh, một người độc thân thấy một bà già xấu như lợn, mặt mày bôi bẩn thỉu như quỷ dạ xoa. Vậy mà, đầu tiên vẫn trương cung dâu (cung dâu là cung tết bằng dâu treo trước nhà khi sinh hạ con trai, trương cung dâu tức là khoe mẽ, khoe khả năng sinh con), sau lại nói về cung dâu (tán tỉnh). Cuối cùng, không được, vẫn cố cưỡng hôn người đàn bà đó, trên đường về nhà gặp mưa, người phụ nữ hết bùn bẩn hóa ra tốt lành.
Xã hội văn minh, sự chân thật của con người bị những lớp hóa trang, trang trí của văn minh (xem chồng quái SƠN HỎA BÍ) mà không nhận ra nhau, khiến bị cô độc. Nhưng nhu cầu đến với nhau, sinh con đẻ cái duy trì nòi giống là nhu cầu tự nhiên có thể xuyên qua được những rào cản này, như cơn mưa rào xóa nhòa lớp bùn che lấp.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
38.QUẺ HỎA TRẠCH KHUÊ
Trên là Ly (lửa), dưới là Đoài (chằm)
Gia đạo đến lúc cùng thì có người trong nhà chia lìa, chống đối nhau, cho nên sau quẻ Gia nhân tới quẻ Khuê. Khuê nghĩa là chống đối, chia lìa.
Thoán từ
睽.小事吉.
Khuê: Tiểu sự cát.
Dịch: Chống đối: việc nhỏ thì tốt.
Giảng: đoài (chằm) ở dưới Ly (lửa). chằm có tính thấm xuống, lửa có tính bốc lên, trên dưới không thông với nhau mà càng ngày càng cách xa nhau.
Quẻ này xấu nhất trong Kinh dịch, ngược hẳn lại với quẻ Cách. Chỉ làm những việc nhỏ cá nhân thì hoạ may được tốt.
Thoán truyện giảng thêm: Đoài là thiếu nữ, Ly là trung nữ, hai chị em ở một nhà mà xu hướng trái nhau (em hướng về cha mẹ, chị hướng về chồng), chí hướng khác nhau, cho nên gọi là khuê.
Tuy nhiên Ðoài có đức vui, Ly có đức sáng, thế là hòa vui mà nương tựa vào đức sáng. Lại thêm hào 5, âm nhu mà tiến lên ở ngôi cao, đắc trung mà thuận ứng với hào 2, dương dương ở dưới, cho nên bảo việc nhỏ thì tốt.
Xét trong vũ trụ, trời đất, một ở trên cao, một ở dưới thấp, vốn là khác nhau, chia lìa nhau, vậy mà công hoá dục vạn vật là của chung trời đất. Trai gái, một dương, một âm, vẫn là trái nhau, vậy mà cảm thông với nhau. Vạn vật tuy khác nhau mà việc sinh hào cùng theo một luật như nhau. Thế là trong chỗ trái nhau vẫn có chỗ giống nhau, tìm ra được chỗ “đồng” đó trong cái “dị”, là biết được cái diệu dụng (công dụng kỳ diệu) của quẻ Khuê, của thời Khuê.
Thoán truyện khuyên ta như vậy. Đại tượng truyện ngược lại khuyên ta ở trong chỗ “đồng” có khi nên “dị”. Ví dụ người quân tử bình thường hành động cũng hợp thiên lý, thuận nhân tình như mọi người (đó là đồng); nhưng gặp thời loạn, đại chúng làm những việc trái với thiên lý thì không ùa theo họ, mà tách riêng ra, cứ giữ thiên lý, dù bị chê bai, bị gian khổ cũng chịu (đó là dị). Vậy không nhất định là phải đồng mới tốt, dị (chia lìa) cũng có lúc tốt.
Hào từ
*Hào 1: 悔亡, 喪馬, 勿逐, 自復. 見惡人.无咎.
Sơ cửu: Hối vong, táng mã, vật trục, tự phục kiến ác nhân, vô cữu.
Dịch: Hào 1, dương: hối hận tiêu hết; mất ngựa đừng tìm đuổi, tự nó sẽ về: gặp kẻ ác rồi mới tránh được lỗi.
Giảng: Hào này có tính cương , ở địa vị dưới, trong thời chống đối nhau, thì tất ít kẻ hợp với mình, hành động thì sẽ bị hối hận; nhưng may ở trên có hào 4 cũng dương cương , ứng với mình, tức như có bạn đồng chí, cứ chờ đợi rồi sẽ gặp mà bao nhiêu khó khăn, ân hận sẽ tiêu hết. đối với kẻ ác thì tuy không ưa cũng đừng nên tỏ ra, cứ làm bộ vui vẻ giao thiệp họ, để họ khỏi thù oán.
*Hào 2: 遇主于巷, 无咎.
Cửu nhị: Ngộ chủ vu hạng, vô cữu.
Dịch: Hào 2, dương: gặp chủ trong ngõ hẹp (do đường tắt) không có lỗi.
Giảng: Hào này dương cương đắc trung, ứng với hào 5, âm nhu đắc trung, nếu ở trong quẻ Thái (thời thông thuận) thì rất tốt; nhưng ở trong quẻ Khuê (thời chống đối nhau) thì kém vì hào 5 âm nhu có ý kiêng nể hào 2 dương cương, do đó, 2 muốn gặp 5 thì phải dùng đường tắt, rình 5 trong ngõ hẹp như tình cờ gặp nhau vậy. Không có lỗi gì cả, vì thái độ đó chỉ là quyền biến thôi.
*Hào 3: 見輿曳, 其牛掣; 其人天且劓.无初有終.
Lục tam: Kiến dư duệ, kì ngưu xệ (hay xiệt);
Kì nhân thiên thả nghị, vô sơ hữu chung.
Dịch: Hảo, âm: Thấy xe dắt tới, nhưng con bò bị (hào 4) cản, không tiến được; như người bị xâm vào mặt, xẻo mũi, mới đầu cách trở, sau hòa hợp với nhau.
Giảng: Hào 3 bất chính (dương mà ở vị âm), ứng với hào trên cùng cũng bất chính. Vì ứng với nhau nên cầu hợp với nhau, 3 muốn tiến lên gặp hào ứng với nó, nhưng bị hào 4 ở trên ngăn chặn, như cỗ xe đã dắt tới rồi mà con bò bị cản, không tiến được. Lại thêm bị hào 2 ở dưới níu kéo lại. Hào 3 phải chống lại 4 và 2, xô xát với chúng mà bị thương ở mặt ở tai (chữ thiên [天 ] ở đây có nghĩa là bị tội xâm vào mặt, chữ nghị [劓] có nghĩa là bị tội xẻo mũi). Nhưng rốt cuộc là (2 và 4) vẫn không thắng được chính (3) và 3 vẫn hòa hợp được với hào trên cùng.
*Hào 4: 睽孤, 遇元夫, 交孚, 厲无咎.
Cửu tứ: Khuê cô, ngộ nguyên phu, giao phu, lệ vô cữu.
Dịch: Hào 4, dương: ở thời chia lìa chống đối mà cô lập; nếu gặp được người trai tốt (nguyên phu), mà chí thành kết hợp với nhau (giao phu) thì dù có gặp nguy, kết quả cũng không có lỗi.
Giảng: hào 4 này cô lập vì là dương mà bị hai hào âm bao vây, người trai tốt đây là hào 1, cùng đức (dương) với 4.
*Hào 5: 悔亡, 厥宗噬膚, 往, 何咎.
Lục ngũ: hối vong, quyết tôn phệ phu, vãng, hà cữu.
Dịch: Hào 5 âm, hối hận tiêu hết; nếu người cùng phe với mình cắn vào da mình (hết sức giúp đỡ mình) thì tiến đi, không có lỗi gì cả.
Giảng: Hào này không đắc chính (âm mà ở vị dương), ở vào thời chống đối, đáng lẽ xấu, mà nhờ có đức trung, lại có hào 2 dương cương ứng với mình, nên không xấu nữa, hối hận tiêu tan hết. Được vậy là nhờ hào 2 chịu đứng vào một phe với mình, rất thân thiết với mình, như cắn chặt vào da mình.
*Hào 6: 睽孤, 見豕負塗, 載鬼一車.先張之弧, 後說之弧, 匪寇, 婚媾.往遇雨則吉.
Thượng cửu: Khuê cô, kiến thỉ phụ đồ, tải quỉ nhất xa. Tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ, phỉ khấu, hôn cấu. Vãng ngộ vũ tắc cát.
Dịch: Hào trên cùng, dương: ở thời chia lìa mà cô độc (sinh nghi kỵ), thấy con heo đội đầy bùn, thấy chở quỉ đầy một xe. Mới đầu giương cung để bắn, sau buông cung xuống, xin lỗi rằng mình không muốn làm hại hào 3 mà muốn cầu hôn. (Hai bên hòa hợp nhau, vui vẻ) như sau khi nắng lên, gặp cơn mưa, tốt lành gì hơn?
Giảng: Ở vào thời chia lìa, người ta hay nghi kỵ nhau, hào cuối cùng này, dương cương ở địa vị tối cao, không tin ai ở dưới cả, cho nên bị cô độc. Ngay hào 3 âm, chính ứng với mình mà cũng bị mình nghi kỵ, vì 3 ở kẹt vào giữa 2 hào dương, cho rằng 3 theo phe 2 hào dương đó mà chống với mình. Vì nghi kỵ, nên thấy 3 như con heo đội bùn, lại tưởng xe mình chở một bầy quỉ muốn hại mình. Do đó mà đâm hoảng, giương cung muốn bắn 3, nhưng nhờ vẫn còn chút minh mẫn (vì ở trên cùng ngoại quái Ly) nên sau nghĩ lại, buông cung xuống, xin lỗi 3: “Tôi không phải là giặc (kẻ thù) muốn làm hại em đâu, mà trái lại muốn cầu hôn với em” Hết nghị kỵ rồi, hai bên hòa hợp vui vẻ như sau khi nắng lâu gặp trận mưa rào, và cùng giúp nhau cứu đời.
Văn thật là bóng bẩy, tâm lý cũng đúng: Phan Bội Châu khen là “đạo lý rất tinh thâm mà văn tự cũng ly kỳ biến hoá”.
*Thêm:
Quẻ Khuê là quẻ xấu nhất trong Kinh Dịch nhưng kết quả lại không có gì xấu. Sáu hào thì có ba hào “vô cửu”, một hào “hối vong” một hào “hữu chung” (hòa hợp với nhau), nhất là hào cuối lại “cát nữa. Như vậy thì trong cái hoạ vẫn có mầm phúc.
Thanked by 1 Member:
|
|
#24
Gửi vào 16/01/2016 - 14:46
39. THỦY SƠN KIỂN
Khách quái là Khảm (nước). Chủ quái là Cấn (núi)
Tượng túi nước ngầm trong lòng núi. Chủ quái Cấn tượng của sự bền vững, chắc chắn trong câu "Thành hồ Cấn" của Hậu Thiên bát quái. Do vậy, nước ngầm trong lòng núi được bao bọc kín bởi lớp đá sẽ không thoát đi đâu được. Cho nên tượng của chồng quái của sự bế tắc, giam hãm.
Phạm trù: Đấu tranh sinh tồn.
Cho đối tượng: Con người.
Tên là KIỂM: Cùng khốn, bế tắc, gian nan, giữ lại, giam lại, chặn lại, bao vây, tù túng.
Hình tượng: Nồi da nấu thịt.
Thoán từ: 蹇利西南不利東北利見大人貞吉.
*Hào 1: 往蹇來譽.
*Hào 2: 王臣蹇蹇匪躬之故.
*Hào 3: 往蹇來反.
*Hào 4: 往蹇來連.
*Hào 5: 大蹇朋來.
*Hào 6: 往蹇來碩吉利見大人.
Thoán từ: 蹇利西南不利東北利見大人貞吉.
Khi cùng khốn thì đi về tây nam lợi (tây là Tứ xuyên, đất Thục và nam là đất Giao Chỉ), đông bắc không lợi. Phải tiến cử được người có tài có đức ra lãnh đạo thì mới chắc chắn tốt lành và vượt qua được.
Hào từ:
*Hào 1: 往蹇來譽.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Cấn. Tiến cử được người có tài có đức ra lãnh đạo sẽ vượt qua được cùng khốn, bế tắc và yên vui sẽ trở lại (như thoái từ).
*Hào 2: 王臣蹇蹇匪躬之故.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Cấn. Vua tôi tranh giành chẳng phải do ai cũng coi trọng thân mình ư (quái Cấn còn tượng cho thân thể con người). Tức là bế tắc, loạn lạc và lầm than đều có căn nguyên từ dục vọng thấp hèn của con người dù là vua hay bề tôi.
*Hào 3: 往蹇來反.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Cấn. Tiếp ý hào 2. Nếu như vậy thì có hết cùng khốn rồi cùng khốn sẽ lại quay lại. Tức là nếu có xung đột nội bộ, ai cũng vì bản thân mình thì sẽ không vượt qua được bế tắc.
*Hào 4: 往蹇來連.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Khảm. Tiếp ý hào 3. Nếu gặp thêm gian nan, nguy hiểm nữa thì làm gì cũng bế tắc.
*Hào 5: 大蹇朋來.
Hào dương. Trung vạch khách quái Khảm. Tiếp ý hào 4. Cho đến khi cực kỳ cùng khốn rồi thì mới biết ai là bạn hữu, ai là trung thần.
*Hào 6: 往蹇來碩吉利見大人.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Khảm. Tiếp ý hào 5. Nhờ đó mà vượt qua mà tới được thời kỳ thái bình tốt lành. Lúc này phải tiến cử được người hiền tài để xây dựng lại đất nước (nhờ đã rõ ai là bạn hữu, ai là trung thần).
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
39. QUẺ THỦY SƠN KIỂN
Trên là Khảm (nước), dưới là Cấn (núi)
Ở thời chia lìa chống đối thì tất gặp nỗi gian nan, hiểm trở, cho nên sau quẻ Khuê tới quẻ Kiển (gian nan)
Thoán từ;
蹇: 利西南, 不利東北, 利見大人, 貞吉.
Kiển: Lợi Tây Nam, bất lợi đông Bắc, lợi kiến đại nhân, trinh cát.
Dịch: Gian nan: đi về Tây nam thì lợi, về đông Bắc thì bật lợi. Gặp đại nhân giúp cho thì lợi; bền giữa đạo chính thì mới tốt.
Giảng: Trước mặt là sông (Khảm), sau lưng là núi(Cấn), tiến lui đều gian nan hiểm trở nên gọi là quẻ Kiển. Phải bỏ đường hiểm trở mà kiếm đường bằng phẳng dễ đi, ở hướng Tây Nam, hướng quẻ Khôn, đừng đi hướng đông Bắc, hướng quẻ Cấn. Dĩ nhiên chúng ta không nên hiểu đúng từng chữ Tây Nam và Đông Bắc, chỉ nên hiểu ý thôi.
Ở thời gian nan này, phải nhờ có người có tài, đức (đại nhân) giúp cho thì mới thoát nạn (lợi kiến đại nhân), và phải bền giữ đạo chính.
Đại tượng truyện khuyên phải tự xét mình mà luyện đức (phản thân tu đức).
Hào từ:
*Hào 1: 往蹇, 來譽.
Sơ lục: vãng kiển, lai dự.
Dịch: Hào 1, âm: tiến lên thì gặp nạn, lui lại (hoặc ngừng) thì được khen.
Giảng: Vào đầu thời gian nan, hào 1 này âm nhu, không có tài, tiến lên hay hành động thì xấu, chỉ nên chờ thời.
*Hào 2: 王臣蹇蹇, 匪躬之故.
Lục nhị: Vương thần kiển kiển, phỉ cung chi cố.
Dịch: Hào 2 âm: bậc bề tôi chịu gán hết gian nan này tới gian nan khác là vì vua, vì nước, chứ không phải vì mình.
Giảng: hào này cũng âm nhu, kém tài, nhưng đắc trung đắc chính, có đức, được vua (hào 5, dương mà cũng trung chính) phó thác việc nước, nên phải chống chỏi với mọi gian nan, không dám từ, mặc dầu tự biết không chắc gì cứu nước, cứu dân được trong thời khó khăn này. Hoàn toàn không vì mình, đáng khen.
*Hào 3: 往蹇, 來反.
Cửu tam: Vãng kiển, lai phản.
Dịch: Hào 3, dương: Tiến tới thì mắc nạn, nên trở lại.
Giảng: hào này dương cương đắc chính, nhưng vẫn còn ở nội quái, tức chưa hết nửa thời gian nan, lại thêm hào trên cũng âm nhu, ứng với nó mà không giúp được gì, nên Hào từ khuyên đừng tiến, cứ quay lại với hào âm thì vui vẻ hơn; bề gì cũng là bạn cũ rồi.
*Hào 4: 往蹇, 來連.
Lục tứ: Vãng kiển, lai liên.
Dịch: Hào 4, âm: tiến tới thì mắc nạn, nên trở lại mà liên hiệp với các hào dưới.
Giảng: Hào này âm nhu, kém tài, đã tiến lên ngoại quái, quá nữa thời gian nan, nhưng lại gặp hiểm trở (ngoại quái là Khảm) cũng không nên tiến lên, mà nên lùi lại với hào 3, liên hợp với ba hào ở dưới, để thêm thế lực.
*Hào 5: 大蹇, 朋來.
Cửu ngũ: Đại kiển, bằng lai.
Dịch: Hào 5, dương: cực kỳ gian nan, nhưng có bạn tới giúp.
Giảng: Ở giữa ngoại quái khảm (hiểm) cho nên cực kỳ gian nan. Hào này như ông vua có tài, nhưng cũng khó thoát được hiểm. May có hào 2 đắc trung, đắc chính ứng với mình, sẳn lòng dắt các bạn tức các hào 1, 3, 5 tới giúp mình. Nhưng các hào ấy đều ít tài, trừ hào 3; như vậy là tay chân của 5 tầm thường cả, không làm nên việc lớn, nên Hào từ không khen là tốt. Cũng không dùng chữ lai, không bảo nên lùi vì địa vị nguyên thủ của 5 không cho phép 5 lùi được, lùi thì trút trách nhiệm cho ai?
*Hào 6: 往蹇, 來碩, 吉.利見大人.
Thượng lục: Vãng kiển, lai thạc, cát, lợi kiến đại nhân.
Dịch: Hào trên cùng ,âm; tiến tới thì gian nan, lùi lại thì làm được việc lớn, tốt; nên tìm gặp đại nhân thì có lợi.
Giảng: ở cuối thời gian nan, có cảnh tượng đáng mừng; hào này âm nhu, không một mình mạo hiểm được nên quay lại giúp hào 5, bậc đại nhân (có tài đức), thì lập được công lớn (thạc), tốt.
*Thêm:
Gặp thời gian nan, nên thận trọng đợi thời. Riêng vị nguyên thủ phải tìm người tốt giúp mình, liên kết mọi tầng lớp để cùng mình chống đỡ.
----------------------------------------------------------------
40. LÔI THỦY GIẢI
Khách quái là Chấn (sấm). Chủ quái là Khảm (nước).
Tượng mây sinh sấm sét, báo hiệu mưa lớn. Có mưa thì rất nhiều nhu cầu về nước được giải quyết như trồng trọt, chăn nuôi... Cho nên tên của chổng quái là GIẢI nghĩa chính là giải tỏa.
Phạm trù: Đấu tranh sinh tồn.
Cho đối tượng: Con người.
Tên là GIẢI: Giải tỏa, giải pháp, cởi bỏ, từ bỏ, chia ra, giải quyết, di tản, di dân, di trú, phá vây, tự do.
Hình tượng: Gặp khó ló khôn.
Thoán từ: 解利西南无所往其來復吉有攸往夙吉.
*Hào 1: 无咎.
*Hào 2: 田獲三狐得黃矢貞吉.
*Hào 3: 負且乘致寇至貞吝.
*Hào 4: 解而拇朋至斯孚.
*Hào 5: 君子維有解吉有孚于小人.
*Hào 6: 公用射隼于高墉之上獲之无不利.
Thoán từ: 解利西南无所往其來復吉有攸往夙吉.
Di tản về phía tây nam (tây là Tứ xuyên, đất Thục và nam là đất Giao Chỉ ) sẽ có lợi. Không có xứ sở nào bị mất đi cả, rồi đây sẽ quay lại phục hồi tốt đẹp. Lúc này cần chịu thay đổi và di chuyển sớm sẽ tốt lành.
Hào từ.
*Hào 1: 无咎.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Khảm. Sớm có giải pháp thì không có lỗi (như thoái từ).
*Hào 2: 田獲三狐得黃矢貞吉.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Khảm. Đất đai chia ba phần, có được phần ở chính giữa (đất Trung nguyên, hoàng là mầu vàng cũng là ở giữa) thì chỉ có tốt lành.
*Hào 3: 負且乘致寇至貞吝.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Khảm. Đồ vật chỉ đáng mang vác mà lại đưa đi bằng xe tứ mã thì chẳng khác gì mời gọi bọn cướp tới và sẽ chỉ có hối hận. Tức là các vấn đề cần giải quyết theo đúng cách của nó, không đúng cách sẽ chỉ hối hận mà thôi.
*Hào 4: 解而拇朋至斯孚.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Chấn. Giải quyết vấn để mà chỉ ở ngón tay (giải quyết chỉ phần ngọn mà không giải quyết gốc rễ của nó) thì chỉ làm bạn bè mất lòng tin mà thôi.
*Hào 5: 君子維有解吉有孚于小人.
Hào âm. Trung vạch khách quái Chấn. Ngưởi quân tử phải đưa ra được giải pháp hữu hiệu thì sự tốt đẹp mới ra hoa kết quả trong dân chúng được.
*Hào 6: 公用射隼于高墉之上獲之无不利.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Chấn. Tiếp ý hào 5. Như là giải pháp nhìn con chim cắt đang bay trên thành sẽ ước lượng được độ cao của thành là một cách có lợi mà không bị hại. Tức là dùng giải pháp ước lượng được độ cao của thành qua độ to nhỏ của con chim cắt khi nhìn thấy, cách này sẽ không tốn chút sức lực và tính mạng nào của người lính mà vẫn ước lượng được độ cao của thành.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
40. QUẺ LÔI THỦY GIẢI
Trên là Chấn (sấm), dưới là Khảm (nước)
Không thể bị nạn hoài được, thế nào cũng tới lúc giải nạn, vì vậy sau quẻ Kiển tới quẻ Giải. Giải là cởi, tan.
Thoán từ
解: 利西南, 无所往, 其來復吉. 有攸往, 夙, 吉.
Giải : Lợi Tây nam, vô sở vãng, kì lai phục, cát. Hữu du vãng, túc, cát.
Dịch: tan cởi: đi về Tây nam thì lợi, đừng đa sự, cứ khôi phục lại như cũ thì tốt. Nhưng cũng có điều đáng làm, làm cho chóng thì tốt.
Giảng: Tượng quẻ là âm dương giao hoà với nhau, sấm (Chấn) động và mưa (Khảm) đổ, bao nhiêu khí u uất tan hết, cho nên gọi là Giải. Cũng có thể giảng: Hiểm (Khảm) sinh ra nạn, nhờ động (Chấn) mà thoát nạn nên gọi là Giải.
Khi mọi hoạn nạn đã tan rồi, thì dân chỉ mong an cư lạc nghiệp, người trị dân nên có chính sách khoan đại, giản dị (Tây Nam thuộc Khôn là đường lối khoan đại, bình dị); đừng đa sự, cứ khôi phục trật tự cũ cũng đủ tốt rồi. Tuy nhiên cũng phải trừ những tệ đã gây ra những hoạn nạn trước kia, cũng phải sửa đổi cho sự bình trị được lâu dài, công việc đó nên làm cho mau xong (vẫn là ý đừng đa sự) thì tốt.
Đại tượng truyện khuyên sau khi giải nạn rồi, nên tha tội cho những kẻ lầm lỗi trước, nếu không tha được thì cũng nên giảm án cho nhẹ đi (quân tử dĩ xá quá, hựu tội).
Hào từ.
*Hào 1: 无咎.
Sơ lục: Vô cữu.
Dịch: Hào 1, âm: không lỗi.
Giảng: Mới bắt đầu vào thời cởi mở, hào này âm nhu, mà có dương cương (hào 4) ở trên ứng, cứ lặng lẽ ở yên không sinh sự thì không có lỗi gì cả.
*Hào 2: 田獲三狐, 得黃矢, 貞, 吉.
Cửu nhị: Điền hoạch tam hồ, đắc hoàng thỉ, trinh, cát.
Dịch: Hào 2, dương: Đi săn được ba con cáo, được mũi tên màu vàng, giữ đạo chính thì tốt.
Giảng: Không ai biết “ba con cáo” ám chỉ những hào nào, Chu Hi ngỡ là hào âm 1, 3 và trên cùng (trừ hào âm 5). Chỉ có thể đoán ý rằng: hào này dương cương, ứng với hào 5 âm, vị nguyên thủ, cho nên thế khá mạnh, có trách nhiệm với quốc gia trừ bọn tiểu nhân (ba con cáo), mà không mất mũi tên màu vàng (tức đạo trung trực – vàng là màu của trung ương, mũi tên tượng trưng cho việc ngay thẳng: trực). Hào từ khuyên phải giữ vững (trinh) đạo trung đó thì mới tốt.
*Hào 3: 負且乘, 致寇至.貞吝.
Lục tam: Phụ thả thừa, trí khấu chí; trinh lận.
Dịch: Hào 3, âm: kẻ mang đội đồ vật mà lại ngồi xe là xui bọn cướp tới, nếu cứ giữ cái thói đó (trinh ở đây nghĩa khác trinh ở hào trên ) thì phải hối hận.
Giảng: Hào này âm nhu, bất chính, bất trung mà ở trên cùng nội quái, tức như kẻ tiểu nhân ở ngôi cao, không khác kẻ vừa mang đội (người nghèo) mà lại ngất ngưởng ngồi xe (như một người sang trọng), chỉ tổ xui cướp tới cướp đồ của mình thôi.
Theo Hệ từ thượng truyện, Chương VIII, Khổng tử bàn rộng ra như sau: ‘người thường mà ngồi xe của người sang là xui kẻ cướp tới cướp đoạt của mình. Người trên khinh nhờn kẻ dưới tàn bạo thì kẻ cướp (giặc) tìm cách đánh đuổi ngay. Giấu cất không kín đáo là dạy cho bọn gian vào lấy của nhà mình; trau giồi nhan sắc là dạy cho bọn gian dâm tới hiếp mình”.
*Hào 4: 解而拇, 朋至斯孚.
Cửu tứ: Giải nhi mẫu, bằng chí tư phu.
Dịch: Hào 4, dương: Bỏ ngón chân cái của anh đi (chữ nhi ở đây là đại danh từ) thì bạn (tốt) mới tới và tin cậy anh.
Giảng: Hào này là dương, tuy không chính (vì ở ngôi âm) nhưng ở gần hào 5, vị nguyên thủ, là có địa vị cao. Nó ứng với hào 1 âm, tiểu nhân ở dưới, nên bị nhiều người chê, nếu nó biết tuyệt giao với hào 1 (tượng trưng bằng ngón chân cái, ở chỗ thấp nhất trong cơ thể) thì người tốt mới vui tới mà tin cậy ở nó.
*Hào 5: 君子維有解, 吉.有孚于小人.
Lục ngũ: Quân tử duy hữu giải, cát; hữu phu vu tiểu nhân
Dịch: Hào 5, âm: người quân tử phải giải tán bọn tiểu nhân đi thì mới tốt; cứ xem bọn tiểu nhân có lui đi không thì mới biết chắc được mình có quân tử hay không.
Giảng: hào này âm nhu, chưa chắc đã là quân tử, nhưng ở địa vị chí tôn, làm chủ quẻ, cho nên Hào từ khuyên phải tuyệt giao với bọn tiểu nhân (tức ba hào âm kia) thì mới tỏ rằng mình là quân tử được.
*Hào 6: 公用射隼于高墉之上.獲之, 无不利.
Thượng lục: Công dụng xạ chuẩn vu cao dung chi thượng. Hoạch chi, vô bất lợi.
Dịch: Hào trên cùng, âm: Một vị công nhắm bắn con chim chuẩn ở trên bức tường cao. Bắn được, không gì là không lợi.
Giảng: đã tới lúc cuối cùng thời giải, nội loạn đã an rồi, nếu còn kẻ ở ngoài dám gây loạn (tượng trưng là con chim chuẩn ở trên bức tường cao). Thì cứ diệt đi, sẽ thành công. Vị “công” ở đây là hào trên cùng.
Theo Hệ từ hạ truyện, Khổng tử giải thích hào này như sau: “chuẩn là một loài chim, cung tên là đồ dùng, kẻ bắn là người. Người quân tử chứa sẳn đồ dùng (tài, đức) ở trong mình, đợi thời mà hoạt động thì có gì chẳng lợi?
*Thêm:
Ý nghĩa quẻ này ở trong Thoán từ: dẹp loạn xong thì nên khoan hồng với kẻ lỡ lỗi lầm, đừng đa sự, chỉ cần khôi phục trật tự cũ, và củng cố nó bằng một số công việc, nhưng phải làm cho mau để khỏi phiền nhiễu dân.
Hào 3 cũng có một lời khuyên nên nhớ: giấu cất không kín đáo là dạy cho kẻ trộm vào lấy của nhà mình; trau giồi nhan sắc là dạy cho bọn tà dâm tới hiếp mình. (Mạn tàng hối đạo, dã dung hối dâm).
#25
Gửi vào 19/01/2016 - 08:20
41. SƠN TRẠCH TỔN
Khách quái là Cấn (núi). Chủ quái là Đoài (chằm).
Chủ quái Đoài tượng xã hội loài người trong câu "Duyệt ngôn hồ Đoài" trong Hậu Thiên bát quái. Khách quái Cấn tượng kết thúc, thành tựu trong câu "Thành hồ Cấn" trong Hậu Thiên bát quái. Cho nên, tượng của chồng quái là xã hội đã phát triển đến đỉnh cao lúc này số lượng cần chuyển thành chất lượng mà kết thành thành tựu.
Phạm trù: Phát triển xã hội. Phát triển về chất.
Cho đối tượng: Người quân tử, người lãnh đạo.
Tên là TỔN: Bớt đi, chuyển hóa.
Hình tượng: Lượng biến thành chất.
Thoán từ: 損有孚元吉无咎可貞利有攸往曷之用二簋可用享.
*Hào 1: 已事遄往无咎酌損之.
*Hào 2: 利貞征凶弗損益之.
*Hào 3: 三人行則損一人一人行則得其友.
*Hào 4: 損其疾使遄有喜无咎.
*Hào 5: 或益之十朋之龜弗克違元吉.
*Hào 6: 弗損益之无咎貞吉利有攸往得臣无家.
Thoán từ: 損有孚元吉无咎可貞利有攸往曷之用二簋可用享.
Bớt đi để ra hoa kết quả, người cầm đầu, lãnh đạo xã hội biết như vậy sẽ tốt và không có lỗi. Cũng có lợi chắc chắn trong lúc tang lễ, chẳng phải với hai bát cơm vẫn cúng dâng thành kính đó sao? Tức là có những lúc, những nơi mà sự bớt đi những thủ tục rườm rà, những hành động không cần thiết mang lại tác động thiết thực khác thường. Người lãnh đạo biết hành sự như vậy sẽ mang lại sự phát triển cho xã hội mọi lúc, mọi nơi.
Hào từ:
*Hào 1: 已事遄往无咎酌損之.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Đoài. Bớt việc thì làm nhanh hơn và không bị lỗi, càng đỡ phải rót rượu (để chịu phạt).
*Hào 2: 利貞征凶弗損益之.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Đoài. Tiếp ý hào 1. Và có lợi, bớt hiểm nguy chắc chắn khi đi xa (như thoái từ). Tức là khi đi xa bớt mang nhiều đồ sẽ nhanh nhẹn ứng phó hơn và an toàn hơn.
*Hào 3: 三人行則損一人一人行則得其友.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Đoài. Ba người cùng đi nên bớt đi một người (tam nhân bất đồng hành). Bớt một người lại tốt cho một người bộ hành đơn lẻ khác có bạn đồng hành.
*Hào 4: 損其疾使遄有喜无咎.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Cấn. Bớt tật hay la cà khiến đi đâu cũng nhanh hơn chỉ thêm vui mà chẳng có lỗi gì.
*Hào 5: 或益之十朋之龜弗克違元吉.
Hào âm. Trung vạch khách quái Cấn. Tiếp ý hào 4. Hoặc như thêm nhiều bạn hiền để bớt tính hung hăng bạo ngược đi thì thật là tốt lành.
*Hào 6: 弗損益之无咎貞吉利有攸往得臣无家.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Cấn. Chẳng phải bớt mà lại chắc chắn được thêm tốt lành sao? Như bớt của mình để cho kẻ lang thang có lợi thì ta có thêm một bầy tôi ở ngoài nhà.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
41. QUẺ SƠN TRẠCH TỔN
Trên là Cấn (núi), dưới là Đoài (chằm)
Khoan nới thì tất có điều sơ ý mà bị thiệt hại, cho nên sau quẻ Giải tới quẻ Tổn. Tổn là thiệt hại mà cũng có nghĩa là giảm đi.
Thoán từ:
損: 有孚, 元吉, 无咎, 可貞, 利有. 攸往.曷之用 ? 二簋可用享.
Tổn: Hữu phu, nguyên cát, vô cữu, khả trinh, lợi hữu.
Du vãng. Hạt chi dụng? Nhị quĩ khả dụng hưởng.
Dịch: Giảm đi: nếu chí thành thì rất tốt, không có lỗi, giữ vững được như vậy thì làm việc gì cũng có lợi. Nên dùng cách nào? (ví dụ) dùng hai cái bình (hay bát) đồ cúng thôi để dâng lên, cũng được.
Giảng: Quẻ này nguyên là quẻ Thái, bớt ở nội quái Càn hào dương thứ 3 đưa lên thêm vào hào cuối cùng của quẻ Khôn ở trên, nên gọi là Tốn: bớt đi.
Lại có thể hiểu: khoét đất ở dưới (quẻ Đoài) đắp lên trên cao cho thành núi, chằm càng sâu, núi càng cao, càng không vững phải đổ, nên gọi là Tổn (thiệt hại).
Giảm đi, không nhất định là tốt hay xấu. Còn tùy mình có chí thành, không lầm lỡ thì mới tốt. Ví dụ việc cúng tế, cần lòng chí thành trước hết, còn đồ cúng không quan trọng, dù đạm bạc mà tâm thành thì cũng cảm được quỉ thần. Giảm đi như vậy để tiết kiệm, thì không có lỗi.
Thoán truyện giảng thêm: phải biết tùy thời; nếu cương quá thì bớt cương đi nếu nhu quá thì bớt nhu đi, nếu vơi quá thì nên làm cho bớt vơi đi, nếu văn sức quá thì bớt đi mà thêm phần chất phác vào; chất phác quá thì thêm văn sức vào, dân nghèo mà bốc lột của dân thêm vào cho vua quan là xấu; nhưng hạng dân giàu thì bắt họ đóng góp thêm cho quốc gia là tốt; tóm lại phải tùy thời; hễ quá thì giảm đi cho được vừa phải.
Đại tượng truyện thường đứng về phương diện tu thân, khuyên người quân tử nên giảm lòng giận và lòng dục đi ( quân tử dĩ trừng phẫn, trất dục).
Hào từ:
*Hào 1: 已事遄往, 无咎, 酌損之.
Sơ cửu: Dĩ sự thuyên vãng, vô cữu, chước tổn chi.
Dịch: Hào 1, dương: nghỉ việc của mình mà tiến lên gấp, giúp (cho hào 4) như vậy thì không có lỗi, nhưng nên châm chước cái gì nên rút bớt của mình để giúp cho 4 thì hãy rút.
Giảng: hào 1 dương cương, ứng với hào 4 âm nhu ở trên, theo nghĩa thì nên giúp ích cho 4, nhưng cũng dừng nên để thiệt hại cho mình quá; như vậy là cũng hợp chí với người trên ở thời Tổn (rút bớt).
*Hào 2: 利貞, 征凶, 弗損益之.
Cửu nhị: lợi trinh, chính hung, phất tổn ích chi.
Dịch: Hào 2, dương: giữ đạo chính thì lợi, nếu vội tiến ngay (bỏ đức cương trung của mình), để chiều bạn thì xấu; đừng làm tổn hại đức của mình cũng là ích cho bạn đấy.
Giảng : quẻ này có nghĩa tổn dương cương (quẻ Càn ở dưới) để làm ích cho âm nhu (quẻ Khôn ở trên); cho nên hào này là dương cương, nên giúp ích cho hào 5 âm nhu, cũng như hào 1 giúp ích cho hào 4. Nhưng hào 5 bất chính (âm mà ở vị dương), hay đòi hỏi những điều bất chính, nếu hào 2 bỏ đức cương và trung của mình đi mà vội vàng chiều lòng 5 thì sẽ xấu; phải giữ đức cương trung đó mới lợi (lợi trinh). Không làm tổn hại đức cương trung của mình, cũng là một cách khuyên hào 5 phải bỏ tính bất chính đi, như vậy là giúp ích cho 5 đấy.
*Hào 3: 三人行則損一人, 一人行則得其友.
Lục tam: tam nhân hành tắc tổn nhất nhân,
nhất nhân hành tắc đắc kì hữu.
Dịch: Hào 3, âm: Ba người đi thì bớt một người, một người đi thì được thêm bạn.
Giảng: Theo tượng của quẻ, nội quái Càn có ba hào dương bớt đi một để đưa lên trên; ngoại quái Khôn có ba hào âm, bớt đi một để đưa xuống dưới, thành quẻ trùng tổn. Hào 3 dương đi lên, hào trên cùng âm xuống dưới, tương đắc với nhau, thế là tuy tách ra, đi một mình mà hoá ra có bạn.
Xét trong vũ trụ thì một dương một âm là đủ, nếu thêm một âm hay một dương nữa, thành ba thì thừa; mà nếu chỉ có một âm hay một dương thì thiếu, phải thêm một dương hay một nữa mới đủ.
Việc người cũng vậy, hai người thành một cặp, thêm một người thì dễ sinh chuyện, mà nếu chỉ có một người thôi thì lẻ loi quá, phải kiếm thêm bạn (coi Hệ từ hạ truyện, Ch. V số 13).
*Hào 4: 損其疾, 使遄, 有喜, 无咎.
Lục tứ: tổn kì tật, sử thuyên, hữu hỉ, vô cữu.
Dịch: Hào 4, âm: làm bớt cái tật (âm nhu) của mình cho mau hết, đáng mừng, không có lỗi.
Giảng: Hào này có tật âm nhu, được hào 1 dương cương sửa tật đó cho mau hết, tốt.
*Hào 5: 或益之十朋之龜, 弗克違, 元吉.
Lục ngũ: Hoặc ích chi thập bằng chi quí, phất khắc vi, nguyên cát.
Dịch: Hào 5, âm: thình lình có người làm ích cho mình, một con rùa lớn đáng giá mười “bằng”, không từ chối được, rất tốt.
Giảng: Hào này ở vị tối cao, nhu mà đắc trung, được hào 2 dương tận tình giúp ích cho, như cho mình một con rùa rất lớn. Sở dĩ vậy là vì hào này, đắc trung mà hiền (nhu) nên được lòng người, cũng như được trời giúp cho vậy (tự thượng hữu chí – lời Tiểu tượng truyện).
Chữ “bằng” mỗi nhà hiểu một cách: có người cho hai con rùa là một bằng; có người cho mười bằng là chu vị lớn tới 2.160 thước, có người bảo mỗi bằng là 10 “bối” [貝] (vỏ sò, ngao quí, hồi xưa dùng làm tiền, khi chưa có lụa, đồng) 10 hằng tức là 100 bối. Không biết thuyết nào đúng. Chúng ta chỉ nên hiểu con rùa 10 bằng là một vật rất quí thôi.
*Hào 6: 弗損益之, 无咎.貞吉.利有攸往, 得臣无家.
Thượng cửu: phất tổn ích chi, trinh cát.
Lợi hữu du vãng, đắc thần vô gia .
Dịch: Hào trên cùng, dương: làm ích cho người mà chẳng tổn gì của mình, không lỗi, chính đáng thì tốt, làm việc gì cũng vô lợi, vì được người qui phu, chẳng phải chi nhà mình mới là nhà (ý nói đâu cũng là nhà mình, ai cũng là người nhà mình)
Giảng: Hào này tối nghĩa, mỗi sách giảng một khác, chúng tôi châm chước theo Phan Bội Châu. Dương cương ở trên cùng quẻ tổn, nên đem cái cương của mình giúp cho nhiều hào âm nhu, chính đáng như vậy thì tốt, mà chẳng hại gì cho mình, vì mọi người sẽ quí mến, qui phụ mình. Có người hiểu là đừng làm hại, mà làm ích cho người thì tốt. Lẽ ấy dĩ nhiên rồi.
*Thêm:
Đại ý quẻ này là Tổn chưa chắc đã xấu, ích (tăng) chưa chắc đã tốt; còn tùy việc tùy thời, hễ quá thì nên tổn để được vừa phải, thiếu thì nên ích, và mình nên chịu thiệt hại cho mình mà giúp cho người .
---------------------------------------------------------------------
42. PHONG LÔI ÍCH
Khách quái là Tốn (gió). Chủ quái là Chấn (sấm).
Chủ quái là Chấn tượng của sự mới xuất hiện, mới sản sinh trong câu "Xuất hồ Chấn" của Hậu Thiên bát quái. Khách quái Tốn tượng của nền nếp gia phong trong câu "Tề hồ Tốn" của Hậu Thiên bát quái. Mới xuất hiện nhưng đã tề chỉnh và có đức kế thừa lớp đi trước ắt sẽ phát triển. Cho nên, tượng của chồng quái là sự tăng lên, sự phát triển.
Phạm trù: Phát triển xã hội. Phát triển về chất.
Cho đối tượng: Người quân tử, người lãnh đạo.
Tên là ÍCH: Tăng lên, phát sinh.
Hình tượng: Chất biến thành lượng.
Thoán từ: 益利有攸往利涉大川.
*Hào 1: 利用為大作元吉无咎.
*Hào 2: 或益之十朋之龜 弗克違永貞吉王用享于帝吉.
*Hào 3: 益之用凶事无咎有孚中行告公用圭.
*Hào 4: 中行告公從利用為依遷國.
*Hào 5: 有孚惠心勿周元吉有孚惠我德.
*Hào 6: 莫益之或擊之立心勿恆 凶.
Thoán từ: 益利有攸往利涉大川.
Cái mới sẽ phát sinh khi cái cũ mất đi. Lợi khi vượt sông lớn (làm việc lớn).
Hào từ:
*Hào 1: 利用為大作元吉无咎.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Chấn. ÍCH có lợi khi dụng để làm việc lớn. Người lãnh đạo biết dùng sẽ tốt lành và không có lỗi (như thoái từ).
*Hào 2: 或益之十朋之龜 弗克違永貞吉王用享于帝吉.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Chấn. Có như thêm mươi bạn hiền để bớt tính hung hăng bạo ngược đi vĩnh viễn chỉ có tốt lành. Vương sẽ có được đức tính hiền lương để cầu Trời, Trời sẽ giúp cho được tốt lành.
*Hào 3: 益之用凶事无咎有孚中行告公用圭.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Chấn. Tăng thêm hình phạt để kiềm chế bạo ngược thì không có lỗi. Nhưng quan trọng là phải có sự rõ ràng, minh bạch khi hành sự như ngọc khuê là được.
*Hào 4: 中行告公從利用為依遷國.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Tốn. Hành động trung chính ắt sẽ khiến lòng người thuận theo mà có được số đông, nên dựa vào đó mà xoay chuyển đất nước.
*Hào 5: 有孚惠心勿周元吉有孚惠我德.
Hào dương. Trung vạch khách quái Tốn. Có thêm lòng nhân ái sẽ làm cho tâm tĩnh tại, người cầm đầu có được sẽ tốt lành. Cho nên, lòng nhân ái phải là cái đức mà ta phải có.
*Hào 6: 莫益之或擊之立心勿恆 凶.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Tốn. Tiếp ý hào 5. Bởi vậy, tuyệt nhiên không nên cố thêm hung bạo hay đánh người khác để mưu lợi cho mình. Khi định tâm nên tránh xa những ý nghĩ hung hãn.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
42. QUẺ PHONG LÔI ÍCH
Trên là Tốn (gió), dưới là Chấn (sấm).
Tổn đến cùng rồi thì phải tăng lên, cho nên sau quẻ Tổn đến quẻ Ích. Ích là tăng lên, làm ích cho nhau.
Thoán từ:
益: 利有攸往, 利涉大川.
Ích: lợi hữu du vãng, lợi thiệp đại xuyên.
Dịch : Tăng lên: tiến lên thì lợi làm (làm việc ích) thì lợi, qua sông lớn thì lợi (có gian nan nguy hiểm gì cũng vượt được).
Giảng: Quẻ này trái với quẻ Tổn. Ngoại quái vốn là Càn, bớt một hào dương, thành quẻ Tốn; nội quái vốn là quẻ Khôn, được một hào dương quẻ Càn thêm vào, thành quẻ Chấn. Vậy là bớt ở trên thêm (ích) cho dưới; còn quẻ Tốn là bớt ở dưới thêm cho trên.
Xét về tượng quẻ thì sấm (Chấn) với gió (Tốn) giúp ích cho nhau vì gió mạnh thì tiếng sấm đi xa, mà sấm lớn thì gió mới dữ. Vì vậy gọi là quẻ Ích.
Mình ở địa vị cao mà giúp cho người ở thấp, càng làm càng có lợi, khó khăn gì rồi kết quả cũng tốt.
Thoán truyện giải thích thêm: Xét hào 2 và hào 5, đều đắc trung đắc chính cả; lấy đạo trung chính mà giúp ích cho dân, dân sẽ vui vẻ vô cùng mà đạo càng sáng sủa.
Nhưng quẻ này cũng như quẻ Tổn, tốt hay xấu còn tùy cách thức làm và tùy thời nữa (ích chi đạo, dữ thời gia hành): dân đói không có gạo ăn mà cưỡng bách giáo dục; dân rét không có áo bận mà cấp cho xà bông thì việc giúp ích đó chỉ có hại.
Đại tượng truyện đứng về phương diện tu thân, khuyên: Thấy điều thiện thì tập làm điều thiện.
Thấy mình có lỗi thì sửa lỗi (kiến thiện tác thiện, hữu quá tắc cải).
Hào từ:
*Hào 1: 利用為大作, 元吉, 无咎.
Sơ cửu: Lợi dụng vi đại tác, nguyên cát, vô cữu.
Dịch: Hào 1, dương: Lợi dụng (sự giúp đỡ của người) mà làm việc lớn; nhưng phải khéo tính toán, hành động cho đúng, hoàn thiện (nguyên cát) thì mới không có lỗi. Sở dĩ khuyên như vậy vì hào này ở địa vị thấp, không nên lãnh việc nặng nề quá (hạ bất hậu sự dã, lời Tiểu Tượng truyện).
*Hào 2: 或益之十朋之龜 弗克違, 永貞吉.王用享于帝, 吉.
Lục nhị: Hoặc ích chi thập bằng chi qui, phất khắc vi, vĩnh trinh cát. Vương dụng hưởng vu đế, cát.
Dịch: Hào 2, âm: Thình lình có người giúp cho mình một con rùa lớn đáng giá mười “bằng”, không từ chối được, rất tốt. Nếu là vua dùng đức để tế Thượng Ðế, Thượng Đế cũng hưởng, mà được phúc, tốt.
Giảng: Hào này âm, nhu thuận, trung chính, nên được người trên giúp ích cho nhiều (như cho mình một con rùa quí – coi hào 5 quẻ Tổn ở trên), không từ chối được, cứ giữ vững đức trung chính thì tốt. Ví dụ: là nhà vua mà có được đức trung chính để cầu Trời, thì Trời cũng giúp cho.
*Hào 3: 益之用凶事, 无咎.有孚中行, 告公用圭.
Lục tam: Ích chi dụng hung sự, vô cữu.
Hữu phu trung hành, cáo công dụng khuê.
Dịch: Hào 3, âm: giúp ích cho bằng cách bắt chịu hoạn nạn (hay trừng phạt) thì không có lỗi. Nếu chân thành sửa lỗi, giữ đạo trung (ví với ngọc khuê) thì được người trên (ví với vị công) chấp nhận.
Giảng: Hào này âm nhu, bất trung, bất chính, đáng lẽ không được giúp ích, nhưng ở vào thời ích thì cũng được giúp; có điều là giúp cho bằng cách bắt chịu hoạn nạn (dụng hung sự) để mà mở mắt ra thành người tốt; cũng như trừng trị để sửa lỗi cho vậy.
Nhưng 3 phải thật chân thành sửa mình theo đúng đạo trung thì rồi sự cải quá của nó sẽ được bề trên biết, sự chân thành quá ấy như chiếc ngọc khuê (ngọc trắng mà trong) nó dâng lên bậc “công” (vương công) sẽ được nhận.
*Hào 4: 中行, 告公從.利用為依遷國.
Lục tứ: Trung hành, cáo công tòng; lợi dụng vi y thiên quốc.
Dịch: Hào 4, âm: Rán theo đạo trung mà thưa với bậc “công” thì bậc “công” sẽ theo; lợi dụng đạo trung đó làm chỗ tựa thì dù việc lớn như dời đô cũng làm nỗi.
Giảng: Hào này lên tới ngoại quái rồi, có địa vị cao, trách nhiệm quan trọng, thân cận với vua, nhưng kém đức trung nên Hào từ khuyên rán theo đạo trung mà cáo với bề trên (bậc vương công) thì bề trên sẽ nghe mà có thể làm được việc như dời quốc đo.
*Hào 5: 有孚, 惠心, 勿周, 元吉.有孚, 惠我德.
Cửu ngũ: Hữu phu, huê tâm, vật vấn, nguyên cát.
Hữu phu, huệ ngã đức.
Dịch: Hào 5, dương: có lòng chí thành làm ân đức, thì chẳng cần hỏi, cũng biết là rất tốt rồi. Thiên hạ ai cũng tin vào đức ban ân huệ của 5.
Giảng: Hào này là ông vua có tài đức, vừa trung vừa chính, có lòng chí thành ban ơn đức cho dân, cho nên rất tốt. Dân do đó rất tin vào đức của vua (chữ ngã ở đây trỏ hào 5).
*Hào 6: 莫益之或擊之.立心勿恆, 凶.
Thượng cửu: Mạc ích chi hoặc kích chi. Lập tâm vật hằng, hung.
Dịch: Hào trên cùng, dương: Không ai làm ích cho mình mà có kẻ đả kích mình nữa, là vì không giữ được hằng tâm (lòng luôn luôn tốt), xấu.
Giảng: Hào này dương cương, ở cuối quẻ ích, là có lòng cầu ích đến cùng cực, tất bị nhiều người oán; như vậy chỉ vì không giữ được hằng tâm.
*Thêm:
Quẻ Tốn vốn xấu mà hào cuối lại tốt, được chữ “cát, lợi hữu du vãng” quẻ Ích này vốn tốt mà hào cuối lại rất xấu, bị chê là “hung”.
Cũng chỉ là luật “mãn chiêu tổn, khiêm thụ ích”, tràn thì cuối cùng sẽ đổ (cuối quẻ Ích), vơi thì cuối cùng được thêm vào (cuối quẻ Tổn). Ðó là luật thiên nhiên mà Nho, Lão, Dịch học phái đều coi là qui tắc xử thế.
Thanked by 1 Member:
|
|
#26
Gửi vào 20/01/2016 - 09:21
43. TRẠCH THIÊN QUẢI
Khách quái là Đoài (chằm). Chủ quái là Càn (trời)
Tượng của chủ quái Càn là cương kiện, quyết đoán, cũng là tượng người nam. Tượng của khách quái Đoài là xã hội loài người trong “Duyệt ngôn hồ Đoài” của Hậu thiên bát quá, cũng là tượng tính đảm đang quán xuyến của người nữ. Như vậy, tượng của chồng quái là người nam phải hướng ra xã hội.
Phạm trù: Đức tính và hành động.
Cho đối tượng: Người nam.
Tên là QUẢI (QUYẾT): Nam tính, quyết đoán, thẳng thắn, hướng ngoại.
Hình tượng: Thiên hạ là nhà.
Người đàn ông hướng ra xã hội, hướng về cái nửa của mình với tính quyết đoán, tinh thần cương kiện.
Thoán từ: 夬揚于王庭孚號有厲告自邑不利即戎利有攸往.
*Hào 1: 壯于前趾往不勝為咎.
*Hào 2: 惕號莫夜有戎勿恤.
*Hào 3: 壯于頄有凶君子夬夬獨行遇雨若濡有慍无咎.
*Hào 4: 臀无膚其行次且牽羊悔亡 聞言不信.
*Hào 5: 莧陸夬夬中行无咎.
*Hào 6: 无號終 有凶.
Thoán từ: 夬揚于王庭孚號有厲告自邑不利即戎利有攸往.
Nam nhân có tính bốc đồng, nhưng nếu quá đáng, quá thẳng thắn và cứng rắn là dấu hiệu của sự bạo ngược, rồi sẽ tự làm mình uất nghẹn, mù quáng mà gặp bất lợi. Bởi vì tính bạo ngược, ưa bạo lực chỉ làm tan cửa, nát nhà.
Hào từ:
*Hào 1: 壯于前趾往不勝為咎.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Càn. Người nam mà cường tráng trước tiên ở chân thì không thể có chiến thắng được vì đó là sai lầm lớn. Tức là người nam thì tính quyết đoán trước hết ở ý chí rồi mới đến hành động.
*Hào 2: 惕號莫夜有戎勿恤.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Càn. Tiếp ý hào 1. Và phải gạt bỏ không thương tiếc mọi nỗi kinh sợ, đen tối và hoảng loạn.
*Hào 3: 壯于頄有凶君子夬夬獨行遇雨若濡有慍无咎.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Càn. Tiếp ý hào 2. Nhưng cường tráng ở gò má thì gặp nguy (theo tướng pháp gò má biểu hiển quyền lực của cá nhân, nếu quá cao thịnh là người ham muốn quyền lực, chuyên quyền). Cho nên người quân tử quá kiên quyết chỉ theo một đường, gặp được cơn mưa buộc phải dừng lại khiến cho lòng mềm mại, tâm uẩn khúc thì sẽ không phạm sai lầm. Tức là không lên quá cương kiện, chỉ nhất quyết tiến tới, mà phải biết cả chùn bước để suy nghĩ cho cặn kẽ.
*Hào 4: 臀无膚其行次且牽羊悔亡 聞言不信.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Đoài. Người nam mông không to thì đi đến nơi về đến chốn (hành sự nhanh nhẹn có kết quả). Còn to như dắt theo con dê thì vừa xấu vừa khiến mất danh dự, lúc đó có hô hào cũng chẳng ai tin. Tức là để quyết tâm hành sự thành công và hô hào mọi người làm theo thì mình phải có danh dự, cơ cấu hành sự phải gọn nhẹ và hiệu quả.
*Hào 5: 莧陸夬夬中行无咎.
Hào dương. Trung vạch khách quái Đoài. Tiếp ý hào 4. Và ý chí như cây rau dền đồng bằng nhất quyết giữ vững phẩm chất của mình thì chẳng có lỗi lầm gì (cây rau dền đồng bằng mọc hoang dại nhưng luôn là thứ rau lành ăn được).
*Hào 6: 无號終 有凶.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Đoài. Không hô hào, quyết tâm khi chung cuộc thì gặp nguy. Tức là quyết tâm thì phải quyết tâm đến cùng, nếu đến lúc chung cuộc lại không hô hào thì chỉ có thất bại mà gặp nguy hiểm.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
43. QUẺ TRẠCH THIÊN QUẢI
Trên là Đoài (chằm), dưới là Càn (trời)
Tăng lên đến cùng cực thì tới lúc tràn đầy, nứt vỡ nên sau quẻ Ích tới quẻ Quải. Quải có nghĩa là nứt vỡ, lại có nghĩa là quyết liệt.
Thoán từ:
夬: 揚于王庭, 孚號. 有厲, 告自邑.不利即戎, 利有攸往.
Quải: Dương vu vương đình, phu hiệu. Hữu lệ, cáo tự ấp, bất lợi tức nhung, lợi hữu du vãng.
Dịch: Quyết liệt: phải tuyên cáo tội ác của nó ở sân vua, lấy lòng chí thành mà phát hiệu lệnh. Có điều như sợ đấy, phải tự răn phe mình đã, đừng chuyên dùng võ lực, được như vậy thì sự nghiệp của mình càng tiến tới, có lợi.
Giảng: Chằm (Đoài) ở trên, trời (Càn) ở dưới, là nước chằm dân lên ngập trời, tất nhiên các đê ngăn nước phải nứt vỡ khắp nơi.
Lại thêm 5 hào dương tiến lên, quyết tâm trừ một hào âm ở trên cùng. Vì hai lẽ đó mà quẻ này đặt tên là Quải.
Quẻ này thuộc về tháng 3, âm sắp tiêu hết, suy đến cực rồi. Tuy nhiên vẫn phải đề phòng, phải tuyên bố tội ác của tội nhân trước công chúng, rồi lấy lòng chí thành để ban lệnh.
Mặc dầu vậy, vẫn có thể gặp nguy được (cổ nhân thật dè dặt! ) cho nên phải răn phe mình đoàn kết, hành động đàng hoàng, mà đừng nên chuyên dùng võ lực, vì ngoại quái là Đoài có nghĩa là hoà thuận, vui vẻ. Bốn chữ “lợi hữu du vãng” có sách giảng là “cứ như vậy – tức không dùng võ lực – mà tiến tới thì có lợi?
Thoán truyện giảng là: cứ tiến tới, đến khi trừ xong hào âm, chỉ còn toàn quân tử, thì mới là hoàn thành (cương trưởng nãi chung dã).
Đại tượng truyện khuyên nên ban phát lợi lộc cho dân, cũng do cái ý của ngoại quái là đoài: vui vẻ, thuận hoà.
Hào từ:
*Hào 1: 壯于前趾, 往, 不勝為咎.
Sơ cửu: Tráng vu tiên chỉ, vãng, bất thắng vi cữu.
Dịch: Hào 1, dương: mạnh (thăng ở ngón chân bước lên trước (tức hăng tiến lên trước), tiến lên mà không chắc thắng được là có lỗi.
Giảng: Hào này dương cương, hăng lắm, ở địa vị thấp nhất, tài còn non mà muốn tiến lên trước để diệt hào âm ở trên cùng, chưa chắc đã thắng mà cứ tiến lên là có lỗi (vì không lượng sức mình, không chuẩn bị kỷ).
*Hào 2: 惕, 號, 莫夜有戎, 勿恤.
Cửu nhi: Dịch, hao, mạc dạ hữu nhung, vật tuất.
Dịch: Hào 2, dương: lo lắng mà hô hào các bạn (đề phòng) như vậy dù đêm khuya giặc có tới cũng chẳng sợ.
Giảng: Hào này dương cương, quyết tâm diệt tiểu nhân, mà đắc trung là biết lo lắng, đề phòng, cảnh cáo các bạn luôn luôn, khi vô sự mà như vậy thì khi giặc tới thình lình nữa đêm, cũng chuẩn bị sẳn sàng rồi, nên không sợ.
*Hào 3: 壯于頄.有凶.君子夬夬.獨行遇雨, 若濡有慍, 无咎.
Cửu tam: Tráng vu quì (cừu), hữu hung, quân tử quải quải,
Độc hành ngộ vũ, nhược nhu hữu uẩn, vô cữu.
Dịch: Hào 3, dương: Cường bạo ở gò má (hiện trên mặt), có điều xấu. Người quân tử cương quyết (bỏ tiểu nhân): trước kia đã lỡ đi riêng một đường gặp mưa ướt và lấm, bị bạn bè giận, bây giờ cải quá, sẽ không có lỗi.
Giảng: Hào này là dương cương nhưng bất trung, lại ứng với hào âm (tiểu nhân), thì kẻ tiểu nhân đó không ưa mà ngay các bạn quân tử của 3 cũng không ưa, (vì cho là giả dối?), có điều xấu đấy – Câu đầu: “Tráng vu quì, hữu hung” tối nghĩa, mỗi sách giảng một cách mà đều lúng túng.
Hào từ khuyên cứ thật cương quyết bỏ hào trên cùng đi, đánh đổ nó đi; trước kia lỡ thân với nó mà xa các bạn, như một người đi riêng một đường, gặp mưa, ướt và lấm (ý nói mắc tội lỗi), bị bạn bè giận, bây giờ hợp lực với bạn, diệt xong hào âm đó rồi, sẽ rửa sạch được lỗi.
*Hào 4: 臀无膚, 其行次且, 牽羊悔亡, 聞言不信.
Cửu tứ: Đồn vô phu, kì hành tư thư, khiên dương hối vong, văn ngôn bất tín.
Dịch: Hào 4, dương: Như bàn toạ mà không có da (có người cho là không hợp có lớp thịt sau da), đi chập chững (khó khăn); chỉ nên đi sau người ta như người lùa bầy cừu, thì hết ân hận; (nhưng e rằng) nghe (ta) nói mà chẳng tin đâu.
Giảng: Hào dương này bất trung bất chính, ở vào vị âm, thấy mấy hào dương kia tiến nó không lẽ ngồi im, nhưng thiếu tài, tiến chập chững (như người bàn toạ không có da), chỉ có cách tốt nhất là nhường cho các hào dương kia tiến trước, nó đi sau cùng như người lùa bầy cừu, như vậy không ân hận.
Nhưng nó ở vị nhu, không sáng suốt, cho nên khuyên nó vậy mà không chắc nó đã nghe.
*Hào 5: 莧陸, 夬夬, 中行, 无咎.
Cửu ngũ: Nghiễn lục, quải quải, trung hành, vô cữu.
Dịch: Hào 5, dương (Hào trên cùng) như rau sam (được nhiều âm khí), nếu hào 5 cương quyết, đào tận gốc nó, cứ theo đạo trung mà đi thì không lỗi.
Giảng: Hào này ở gần hào trên cùng, gần tiểu nhân (âm, ví như rau sam), như vậy không tốt; nhưng may nó là dương cương , đắc trung đắc chính, nên không bịn rịn với hào trên cùng mà quyết tâm trừ đi. Hào từ khuyên phải giữ đạo trung thì mới không có lỗi (vì 5 vốn có tư tình với hào trên)
*Hào 6: 无號, 終 有凶.
Thượng lục: vô hào, chung hữu hung.
Dịch: Hào trên cùng, âm: Đừng kêu gào, không ai giúp đâu, cuối cùng sẽ bị hoạ.
Giảng: Hào âm ở trên cùng quẻ Quải, bị 5 hào dương tấn công, nguy cơ tới rồi, không có hào nào giúp nó cả, cho nên khuyên nó đừng kêu gào vô ích, cuối cùng sẽ chết thôi.
*Thêm:
So sánh quẻ Quải này với quẻ Phục chúng ta thấy dụng ý của cổ nhân. Quẻ Phục có 5 tiểu nhân kình với một quân tử trong số đó có một tiểu nhân (hào 4) làm nội ứng cho quân tử cho nên được khen là một mình biết trở lại điều phải. Quẻ Quải, trong số 5 quân tử đuổi một tiểu nhân, cũng có một quân tử (hào 3) thân thiện với tiểu nhân, cho nên khuyên là phải cương quyết tuyệt giao với tiểu nhân đi thì sẽ không có lỗi; còn hào 5 tuy không chính ứng với tiểu nhân, nhưng vì là ngôi chí tôn, cầm đầu phe quân tử, mà lại ở gần tiểu nhân (hào 6) cho nên cũng khuyên phải cương quyết diệt tiểu nhân thì sẽ không có lỗi. “Dịch vị quân tử mưu” là vậy.
--------------------------------------------------------------------
44. THIÊN PHONG CẤU
Khách quái là Càn (trời). Chủ quái là Tốn (gió).
Tượng của chủ quái là Tốn là mềm mại, dễ thay đổi, cũng là tượng người nữ. Tượng của khách quái Càn là cương kiện, quyết đoán, cũng là tượng cho tính thẳng thắn, cương kiện của người nam. Như vậy tượng của chồng quái là người nữ hướng về người nam.
Phạm trù: Đức tính và hành động.
Cho đối tượng: Người nữ.
Tên là CẤU: Nữ tính, dễ thay đổi, bao bọc, hướng nội.
Hình tượng: Lạt mềm buộc chặt.
Người nữ với bản tính mềm mại và dễ thay đổi của mình bổ trợ hài hòa với tính quá cương của người nam và hướng vào nội tâm của người nam.
Thoán từ: 姤女壯勿用取女.
*Hào 1: 繫于金柅貞吉有攸往見凶羸豕孚蹢躅.
*Hào 2: 包有魚无咎不利賓.
*Hào 3: 臀无膚其行次且厲无大咎.
*Hào 4: 包无魚起凶.
*Hào 5: 以杞包瓜含章有隕自天.
*Hào 6: 姤其角吝无咎.
Thoán từ: 姤女壯勿用取女.
Nữ nhân có tính mềm mại, dễ thay đổi. Cho nên không được mạnh mẽ, nhanh chóng đối với người nữ, sẽ không có hiệu quả.
Hào từ
*Hào 1: 繫于金柅貞吉有攸往見凶羸豕孚蹢躅.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Tốn. Người nữ luôn muốn ràng buộc người nam với hạnh phúc gia đình lâu dài, được như vậy thì chỉ có tốt lành. Còn nếu người nam lại cứ muốn bay nhảy thì sẽ gặp điều xấu mà như con lợn vừa gầy vừa bị phù mà không cố nhúc nhích được.
*Hào 2: 包有魚无咎不利賓.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Tốn. Chẳng có gì xấu khi người nữ luôn muốn hỗ trợ và bao bọc người nam như nuôi con cá trong bao. Nếu có, thì con cá (người nam) chẳng có vấn đề gì bất lợi khi thuận theo.
*Hào 3: 臀无膚其行次且厲无大咎.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Tốn. Người nữ mông không to thì đi đến nơi về đến chốn nhưng gian nan, và không có sai lầm lớn. Tức là người nữ mà nhanh nhẹn, quyết đoán như người nam thì sẽ gian nan nhưng cũng không phải sai lầm lớn (xem hào 4 chồng quái TRẠCH THIÊN QUẢI).
*Hào 4: 包无魚起凶.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Càn. Tiếp ý hào 2. Còn nếu trong bao không có con cá (người nam) nào thì tiềm ẩn nhiều điều xấu.
*Hào 5: 以杞包瓜含章有隕自天.
Hào dương. Trung vạch khách quái Càn. Tiếp ý hào 4. Như là cây kỉ bao bọc cây dưa, điều đó là quy luật đã định sẵn trong tự nhiên.
*Hào 6: 姤其角吝无咎.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Càn. Nữ tính có gặp thứ cứng như sừng (người nam quá nam tính) dù gian nan nhưng cũng chẳng có lỗi. Tức là nữ tính với bản chất mềm mại, dễ thay đổi, có khả năng bao bọc thì dù người nam có quá nam tính như cái sừng thì vẫn bao bọc được dù gian nan.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
44. QUẺ THIÊN PHONG CẤU
Trên là Càn (trời), dưới là Tốn (gió)
Lời giảng của Tự quái truyện rất ép: Quải là quyết, phán quyết; phán quyết xong rồi thì biết được lành hay dữ, tất có người để gặp gỡ, cho nên sau quẻ Quải tới quẻ Cấn (gặp gở).
Thoán từ
姤: 女壯, 勿用取女.
Cấu: Nữ tráng, vật dụng thú nữ.
Dịch: Gặp gỡ: Con gái cường tráng, đừng cưới nó (cũng có nghĩa là tiểu nhân đương lúc rất mạnh, đừng thân với nó).
Giảng: Trời (Càn) ở trên, gió (Tốn) ở dưới, gió đi dưới trời, tất đụng chạm vạn vật, cho nên gọi là Cấu (gặp gỡ).
Quẻ này một hào âm mới sinh ở dưới (thuộc về tháng 5), đụng với 5 hào dương ở trên, cũng như một người con gái rất cường tráng, đụng với (Cấn) năm người con trái, chống được với 5 người còn trai, hào đó lại bất đắc chính (âm ở vị dương), như người con gái bất trinh, không nên cưới nó.
Thoán truyện đưa thêm một nghĩa khác, trái hẳn, tương truyền là của Khổng tử; một hào âm xuất hiện ở dưới năm hào dương, là âm dương bắt đầu hội ngộ (gặp nhau: cấu), vạn vật nhờ đó sinh trưởng, các phẩm vật đều rực rỡ. Tốt. Lại thêm hào 5 dương cương , trung chính , thế là đạo quân tử được thi hành khắp thiên hạ (cương ngộ trung chính, thiên hạ đại hành dã). Cho nên ý nghĩa chữ “Cấu” này thật lớn lao. Đại tượng truyện chỉ coi tượng quẻ, không để ý tới nghĩa gặp gỡ của quẻ, mà đưa ra lời khuyên người quân tử nên thi hành mệnh lệnh, báo cáo, hiểu dụ khắp bốn phương, như gió thổi vào khắp vạn vật ở dưới trời.
Hào từ
*Hào 1: 繫于金柅, 貞吉.有攸往見凶.羸豕孚蹢躅.
Sơ lục: Hệ vu Kim nê, trinh cát; hữu du vãng kiến hung. Luy thỉ phu trịch trục.
Dịch: Hào 1, âm: chặn nó lại bằng cái hãm xe bằng kim khí, thì đạo chính mới tốt; nếu để cho nó (hào 1) tiến lên thì xấu. Con heo ấy tuy gầy yếu, nhưng quyết chắc có ngày nó sẽ nhảy nhót lung tung.
Giảng: Hào âm (tiểu nhân) này mới xuất hiện, phải chặn ngay nó mới được, đừng cho nó tiến lên thì đạo chính của người quân tử mới tốt; nếu để nó tiến lên thì xấu. Vì bây giờ nó tuy còn non, yếu, nhưng một ngày kia nó sẽ mạnh, nhảy nhót lung tung. Đừng nên coi thường nó.
Đó là cách trừ kẻ tiểu nhân mà cũng là cách trừ những tật mới phát sinh.
*Hào 2: 包有魚, 无咎.不利賓.
Cửu nhị: Bao hữu ngư, vô cữu; bất lợi tân.
Dịch: Hào 2, dương: nhốt con cá (hào 1) vào trong bọc, không có lỗi; nhưng đừng cho nó (hào 1) gặp khách.
Giảng: Hào 2 này tuy ở sát hào 1, nhưng có đức dương cương , lại đắc trung , cho nên chế ngự được 1, như nhốt lỏng nó trong cái bao (ví hào 2 với con cá vì cá thuộc âm), như vậy không có tội lỗi.
Nhưng 1 chính ứng với hào 4; 4 muốn làm thân với 1 lắm, nó bất trung bất chính, không có đức như 2, sẽ bị 1 mê hoặc mất, cho nên Hào từ khuyên hào 2 phải ngăn không cho 1 gặp 4 (chữ tân là khách, trỏ hào 4).
*Hào 3: 臀无膚, 其行次且, 厲, 无大咎.
Cửu tam: Đồn vô phu, kì hành tư thư, lệ, vô đại cữu.
Dịch: Hào 3, dương: như bàn toạ không có da (ngồi không yên mà đứng dậy) đi thì chập chững, có thể nguy đấy, nhưng không có lỗi lớn.
Giảng: Hào 3 này quá cương (dương ở vị dương) , bất trung, muốn có bạn là 1, nhưng hào 2 đã là bạn của 1 rồi; ngó lên trên có hào trên cùng ứng với 3, nhưng cũng là dương như 3, thành thử có vẻ ngồi không an, mà đi thì chập chững, có thể nguy đấy. Nhưng nó đắc chính (dương ở vị dương) nên biết giữ đạo, không mắc lỗi lớn.
*Hào 4: 包无魚, 起凶.
Cửu tứ: Bao vô ngư, khởi hung.
Dịch: Hào 4, dương: Trong bọc của mình không có cá, hoạ sẽ phát.
Giảng: Hào này ứng với 1, nhưng bị 2 ngăn không cho gặp (coi lại hào 2), 1 đã như ở trong cái bọc của 2 rồi, cho nên cái bọc của 4 không có gì cả. Sở dĩ vậy cũng do lỗi của 4, bất trung, bất chính, làm mất lòng 1. Người trên mà mất lòng kẻ dưới, thì hoạ sẽ phát.
*Hào 5: 以杞包瓜, 含章, 有隕自天.
Cửu ngũ: Dĩ kỉ bao qua, hàm chương, hữu vẫn tự thiên.
Dịch: Hào 5, dương: dùng cây kỉ mà bao che cây dưa, ngậm chứa đức tốt, (sự tốt lành) từ trên trời rớt xuống.
Giảng: Hào này ở địa vị tối cao, dương cương , trung chính, có đức tốt mà không khoe khoang (ngậm chứa đức tốt), bao bọc cho kẻ tiểu nhân ở dưới (hào 1) như cây kỉ, cao, cành lá xum xuê che cây dưa (thuộc loài âm). Như vậy là hợp đạo trời, sẽ được trời ban phúc cho.
*Hào 6: 姤其角, 吝, 无咎.
Thượng cửu: Cấu kì giác, lận, vô cữu.
Dịch: Hào trên cùng, dương: gặp bằng cái sừng, đáng hối tiếc, không đổ lỗi cho ai được.
Giảng: Hào này ở trên cùng, thời Cấu (gặp gỡ) cho nên ví với cặp sừng. Gặp nhau mà bằng cặp sừng (đụng nhau bằng sừng) ý nói quá cương – đáng hối tiếc. Mọi sách đều dịch “vô cữu” là không có lỗi mà không giảng tại sau quá cương mà không có lỗi. Riêng Phan Bội Châu hiểu là: không đổ lỗi cho ai được.
*Thêm:
Quẻ Cấu này khuyên ta:
- Phải chế ngự tiểu nhân (và tật của ta) từ khi nó mới xuất hiện hào 1).
- Muốn chế ngự tiểu nhân thì nên có độ lượng bao dụng có đức trung chính như hào 2, hào 5); nếu quá cương (như hào 3) bất trung bất chính (như hào 4) thì tiểu nhân sẽ không phục mình.
#27
Gửi vào 21/01/2016 - 08:35
45. TRẠCH ĐỊA TỤY
Khách quái là Đoài (chằm). Chủ quái là Khôn (đất).
Tượng của chủ quái Khôn là trí tuệ, dân chúng trong câu “Trí dịch hồ Khôn” của Hậu thiên bát quái. Tượng của khách quái Đoài là xã hội loài người, xã tắc trong câu “Duyệt ngôn hồ Đoài” của Hậu thiên bát quái. Như vậy tượng của chồng quái là dân chúng góp sức góp tài cho xã tắc.
Phạm trù: Xã hội loài người.
Cho đối tượng: Dân chúng.
Tên là TỤY: góp sức góp tài, hội họp, thảo luận, hiền tài, trí thức, học tập.
Hình tượng: Hội nghị Diêm Hồng. Đẩy thuyển là dân mà lật thuyền cũng là dân.
Thoán từ: 萃亨王假有廟利見大人亨 利貞用大牲吉利有攸往.
*Hào 1: 有孚不終乃亂乃萃若號一握為笑勿恤往无咎.
*Hào 2: 引吉无咎孚乃利用禴 .
*Hào 3: 萃如嗟如无攸利往无咎小吝.
*Hào 4: 大吉无咎.
*Hào 5: 萃有位无咎匪孚元永貞悔亡.
*Hào 6: 齎咨涕洟无咎.
Thoán từ: 萃亨王假有廟利見大人亨 利貞用大牲吉利有攸往.
Dân chúng góp sức góp tài được cho xã tắc chỉ khi vương đạo được tôn thờ, lợi cho việc xây dựng bộ máy quan lại. Sử dụng được trí tuệ toàn dân chỉ có lợi cho sự phát triển của xã hội, sinh sống của người dân, đặc biệt tốt cho các tầng lớp bần cùng trong xã hội.
Hào từ
*Hào 1: 有孚不終乃亂乃萃若號一握為笑勿恤往无咎.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Khôn. Nhân dân cần thuận theo vương đạo mãi mãi, để yên tâm cùng nhau đóng góp trí tuệ, để cùng nắm tay nhau theo dẫn dắt của vương đạo mà vẫn vui cười. Dân có lòng tin, không tiếc nuối về ngày xưa thì lòng dân sẽ yên định.
*Hào 2: 引吉无咎孚乃利用禴 .
Hào âm. Trung vạch chủ quái Khôn. Tiếp ý hào 1. Dân chúng kéo dài góp sức góp tài thì tốt lành và không có sai lầm. Để cùng nhau hướng về và tôn thờ vương đạo nên cùng nhau tham dự lễ hội mùa xuân.
*Hào 3: 萃如嗟如无攸利往无咎小吝.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Khôn. Người dân hộp họp đóng góp mà như hội họp để than thở thì chẳng có gì lợi. Cuối cùng thì không xấu nhưng dân chúng sẽ lại là người phải chịu gian nan, vất vả.
*Hào 4: 大吉无咎.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Đoài. Đã ra qua đến quái Đoài là tượng xã hội. Khi những đóng góp của dân chúng tác động được đến xã hội thì thật lại điều tốt lành lớn mà chẳng có sai lầm gì cả.
*Hào 5: 萃有位无咎匪孚元永貞悔亡.
Hào dương. Trung vạch khách quái Đoài. Dẫn dắt dân chúng góp sức góp tài vì ngôi vị dẫn dắt của mình thì không xấu nhưng chẳng phải Đạo và người dẫn dắt như vậy sẽ chỉ luôn hối tiếc đến chết.
*Hào 6: 齎咨涕洟无咎.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Đoài. Tiếp ý hào 5. Nhưng biết bỏ đi mưu đồ vì bản thân mình đi rồi than thở sụt sùi thì cũng không sao.
Bản chất của người dân là thuần phác nên người cầm đầu có mưu đồ riêng mà gây hại cho dân mà thôi đi, rồi sụt sùi khóc lóc trước dân thì người dân cũng sẽ bỏ qua cho.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
45. QUẺ TRẠCH ĐỊA TỤY
Trên là Đoài (chằm), dưới là Khôn (đất)
Gặp nhau rồi thì thành bầy, thành bầy thi phải nhóm họp , cho nên sau quẻ Cấu tới quẻ Tụy (nhóm họp)
Thoán từ:
萃 : 亨, 王假有廟.利見大人.亨, 利貞.用大牲, 吉, 利有攸往.
Tụy: hanh, vương cách hữu miếu. Lợi kiến đại nhân,
Hanh, lợi trinh. Dụng đại sinh, cát, lợi hữu du vãng.
Dịch: Nhóm họp: hanh thông. Vua đến nhà Thái miếu, ra mắt kẻ đại nhân thì lợi, hanh thông, giữ vững đạo chính thì lợi. Lễ vật (để cúng) lớn (hậu hĩ) thì tốt, tiến đi (sự nghiệp) được lâu dài.
Giảng: chằm (Đoài ở trên đất (Khôn), là nước có chỗ nhóm, tụ, cho nên gọi là quẻ Tụy.
Nội quái là Khôn có tính thuận, ngoại quái là Đoài có nghĩa vui vẻ, hoà thuận; mà hào 5 ở trên được hào 2 ở dưới ứng trợ cho, tất nhóm họp được đông người, cho nên hanh thông, tốt.
Nhóm họp cần long trọng và tỏ lòng chí thành, có thần linh chứng giám, cho nên vua tới nhà Thái miếu để dâng lễ, thề.
Người đứng ra nhóm họp một đảng phải là bậc đại nhân có tài, đức, được người tin, trọng thì mới tốt; người đó phải giữ vững đạo chính, đường lối chính đáng thì mới tốt (lợi trinh).
Nhóm họp ở thái miếu thì tế lễ phải long trọng, những con vật để cúng phải lớn, thì mới tốt. Nhóm họp để cùng nhau mưu tính mọi việc cho sự nghiệp được lâu dài (lợi hữu du vãng).
Đại Tượng truyện khuyên khi nhóp họp nên có tinh thần hoà thuận vui vẻ như quẻ Khôn, quẻ Đoài, cất khí giới đi để ngừa những sự biến bất ngờ xảy ra.
Hào từ
*Hào 1: 有孚, 不終, 乃亂乃萃.若號, 一握為笑勿恤, 往, 无咎.
Sơ lục: hữu phu, bất chung, mãi loạn nãi tụy;
Nhược hào, nhất ác vi tiếu vật tuất, vãng, vô cữu.
Dịch: Hào 1, âm: có người tin mình mà mình không thể đến cùng, rồi làm rối loạn nhóm của mình; nên biết lầm mà kêu gọi người tin mình kia, dù có bị một bầy (tiểu nhân) cười cũng mặc, cứ theo lên (vãng) với người tin mình, thì không có lỗi.
Giảng: Hào 1 này có chính là hào 4 dương cương, tức là có bạn tin mình, nhưng 1 âm nhu, giữ đạo chính không được vững (không theo 4 đến cùng) mà nhập bọn với 2, 3 đều là âm nhu tiểu nhân, làm rối loạn nhóm của mình. Nếu có biết như là lầm mà kêu gọi 5, theo 4, dù có bị 2, 3 cười cũng mặc, thì sẽ không có lỗi.
*Hào 2: 引, 吉, 无咎, 孚, 乃利用禴
Lục nhị: Dẫn, cát, vô cữu, phu, nãi lợi dụng thược.
Dịch hào 2, âm: dẫn bên lên nhóm với hào 5 thì tốt, không có lỗi, phải chí thành, chí thành thì như trong việc tế lễ, dùng lễ mọn cũng tốt.
Giảng: Hào này âm nhu nhưng trung chính, ứng với hào 5 dương cương trung chính ở trên, là một nhóm rất tốt. Nhưng vì nó xen vài giữa hai hào âm 1 và 3, mà cách xa hào 5, nên Hào từ khuyên nó kéo hai hào âm đó lên nhóm họp với 5, thì tốt, không có lỗi, và nhớ phải chí thành (phu) mới được, chí thành thì như trong việc cúng tế, dùng lễ mọn (thược) cũng tốt) .
*Hào 3: 萃如, 嗟如, 无攸利, 往, 无咎, 小吝.
Lục tam: Tụy như, ta như, vô du lợi, vãng, vô cữu, tiểu lận.
Dịch: Hào 3, âm: Muốn họp mà không được nên than thở, chẳng có gì tốt cả; tiến lên mà họp với hào thượng, tuy hơi bất mãn đấy, nhưng không có lỗi.
Giảng: Hào 3 này âm nhu, ứng với hào trên cùng, nhưng không thích (vì hào này cũng âm nhu), muốn họp với 4 và 5 là dương kia, nhưng 4 có bạn là 1, 5 có bạn là 2 rồi, chê 3 là bất trung ,bất chính không thèm; 3 nhìn xuống dưới, muốn họp với 2,1 cũng không được vì họ có bạn là 5, 4 rồi; vì vậy 3 than thở, chẳng có gì tốt cả. Ðành phải tiến lên mà họp với hào trên cùng vậy, bất như ý đấy, nhưng không có lỗi.
*Hào 4: 大吉, 无咎.
Cửu tứ: đại cát, vô cữu.
Dịch: Hào 4, dương: nếu được rất tốt thì mới không có lỗi.
Giảng: Hào này dương cương, tốt, chỉ hiềm bất chính; nó thân với hào 5, dương cương ở trên, mà lại gần với một bầy âm nhu ở dưới tình thế khó khăn, phải làm sao thuyết phục được bầy âm theo 5, như vậy mới khỏi có lỗi.
*Hào 5: 萃有位, 无咎, 匪孚元永貞, 悔亡.
Cửu ngũ: tụy hữu vị, vô cữu, phi phu nguyên vĩnh trinh, hối vong.
Dịch: Hào 5, dương: Nhờ có vị cao mà nhóm họp được người, không có lỗi, nếu người chưa tin mình thì phải giữ tư cách nguyên thủ, giữ người được lâu, giữ đạo chính được bền, như vậy mới không hối hận.
Giảng: Bốn hào âm trong quẻ này đều muốn họp với hai hào dương, mà trong hai hào dương này, hào 5 có địa vị cao nhất, đức lại thịnh hơn hào 4, đủ cả trung, chính, cho nên các hào âm đều hướng vào (tụy hữu vị), tốt, không có lỗi. Nhưng còn e có người vẫn chưa tin hẳn 5 (phỉ nhu); muốn cho mọi người tin thì phải làm sao xứng đáng là vị nguyên thủ (nguyên), giữ người được lâu (vĩnh) giữ đạo chính (trinh) được bền, như vậy sẽ không hối hận.
*Hào 6: 齎咨, 涕洟, 无咎.
Thượng lục: tế tư, thế di, vô cữu.
Dịch: Hào trên cùng, âm: Than thở, sụt sùi, không trách lỗi ai được.
Giảng: Hào này âm nhu, kém tư cách, lại ở cuối thời nhóm họp (tụy) muốn họp với ai cũng không được, tới nỗi than thở, sụt sùi, cứ an phận thì không có lỗi. Phan Bội Châu hiểu “vô cữu” là không trách lỗi ai được, cũng như hào trên cùng quẻ Cấu ở trên.
*Thêm:
Đại ý quẻ này là muốn họp người, lập một đảng chẳng hạn thì phải là bậc đại nhân: có địa vị cao, có tài, có đức, phải có lòng chí thành, một chủ trương chính đáng.
-------------------------------------------------------------------
46. ĐỊA PHONG THĂNG
Khách quái là Khôn (đất). Chủ quái là Tốn (gió).
Tượng của chủ quái tốn là nền nếp, cách thức, chuẩn mực trong câu “Tề hồ Tốn” của Hậu Thiên bát quái. Tượng của khách quái Khôn là trí tuệ, dân chúng trong câu “Trí dịch hồ Khôn” của Hậu thiên bát quái. Tượng của chồng quái là hành pháp đối với dân chúng.
Phạm trù: Xã hội loài người.
Cho đối tượng: Người cầm đầu, vua quan.
Tên là THĂNG: hành pháp, luật pháp, vương pháp, thăng đường, thăng tiến, làm việc công.
Hình tượng: Chí công vô tư.
Thoán từ: 升元亨用見大人勿恤南征吉.
*Hào 1: 允升大吉 .
*Hào 2: 孚乃利用禴无咎.
*Hào 3: 升虛邑.
*Hào 4: 王用亨于岐山吉无咎.
*Hào 5: 貞吉升階.
*Hào 6: 冥升利于不息之貞.
Thoán từ: 升元亨用見大人勿恤南征吉.
Người cầm đầu biết xây dựng luật và hành luật thì tốt lành, cần phải hành luật cả trong xây dựng bộ máy quan lại. Khi hành luật, hành pháp không được thương xót, nóng nảy (phương nam hỏa, tượng của tính nóng nảy, hay là đi xa về phương nam thì nóng) thì tốt lành.
Hào từ
*Hào 1: 允升大吉 .
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Tốn. Người cầm đầu cần giáo hóa cho dân hiểu, nắm rõ luật pháp và phán xét dân theo luật một cách công bằng là điều tốt lành lớn.
*Hào 2: 孚乃利用禴无咎.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Tốn. Để cho lòng dân hướng về vương đạo, nên thành kính dâng lễ tế Xã tắc, Trời Đất vào ngày tế xuân thì tốt.
*Hào 3: 升虛邑.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Tốn. Tiếp ý hào 2. Và lập pháp và hành pháp không được dung thân. Tức là phải công bằng cho mọi người không được phân biệt người trong hoàng tộc, quan lại hay dân chúng.
*Hào 4: 王用亨于岐山吉无咎.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Khôn. Đã ra qua đến khách quái Khôn tượng dân chúng. Tiếp ý hào 3. Vua làm được như vậy sẽ được lòng dân hướng về và có thành quả lớn như núi Kỳ Sơn, vừa tốt lành vừa yên vui vô sự.
*Hào 5: 貞吉升階.
Hào âm. Trung vạch khách quái Khôn. Chỉ có tốt lành nếu luật pháp phân rõ các bộ luật sao cho đầy đủ và chi tiết trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
*Hào 6: 冥升利于不息之貞.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Khôn. Tiếp ý hào 5. Ở thời luật pháp rõ ràng, minh bạch như vậy sẽ mang đến những lợi ích thiết thực, người dân chớ nên than thở mà chỉ cần giữ vững tấm lòng trong sạch và thuần phác của mình là được.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
46. QUẺ ĐỊA PHONG THĂNG
Trên là Khôn (đất), dưới là tốn (gió)
Nhóm họp lại thì tất nhiên chồng chất mãi lên, cho nên sau quẻ tụy đến quẻ Thăng (lên).
Thoán từ:
升: 元亨, 用見大人, 勿恤, 南征, 吉.
Thăng: nguyên hanh, dụng kiến đại nhân, vật tuất, nam chinh, cát.
Dịch: Lên: rất hanh thông, phải dùng người có tài đức (đại nhân), không có gì là lo ngại, cứ tiến về phía trước thì tốt.
Giảng: Tốn là gió mà cũng là cây. Ở đây hiểu là cây. Cây mọc ở dưới đất, mỗi ngày mỗi đâm lên cao, cho nên gọi là quẻ Thăng.
Cũng có thể hiểu: Khốn vôn là âm nhu mà tiến lên ngoại quái là vì thời tiến lên thì nên như vậy chứ bình thường thì dương mới thăng mà âm thì giáng. Tốn có tính nhún, khôn có tính thuận; lại thêm hào 5 âm có đức nhu và trung , ứng với hào 2 có đức dương cương, cho nên rất hanh thông. Phải dùng người có tài đức (hào 2) thì mới không có gì lo ngại. “Nam chinh” là tiến về phía trước mặt, chứ không có nghĩa là tiến về phía Nam.
Đại Tượng truyện khuyên xem quẻ này nên thuận đạo mà sửa đức, mỗi ngày một chút, lần lần sẽ rất cao (tích tiểu dĩ cao đại).
Hào từ
*Hào 1: 允升, 大吉
Sơ lục: Doãn thăng, đại cát.
Dịch: Hào 1, âm : có lòng tin mà tiến lên, rất tốt.
Giảng: Hào này âm nhu, ở dưới cùng, làm chủ nội quái Tốn, là có đức khiêm tốn, nhu thuận, theo sau hai hào dương (2 và 3) mà nhờ 2 hào đó dắt lên, rất tốt. “Doãn” nghĩa là tin, 1 tin 2 và 3, mà 2 và 3 cũng tin 1. Tiểu tượng truyện gọi như vậy là hợp chí nhau.
*Hào 2: 孚, 乃利用禴, 无咎.
Cửu nhị: Phu, nãi lợi dụng thược, vô cữu.
Dịch: Hào 2, dương: tin nhau có lòng chí thành thì dùng lễ nhỏ cũng được, không có lỗi.
Giảng: Hào 2, này dương cương mà ở dưới, hào 5 âm nhu mà ở vị cao, hai bên khác nhau như vậy mà ứng với nhau là rất tin nhau bằng lòng chí thành, hợp tác với nhau làm nên sự nghiệp ở thời “Thăng”. Đã có lòng chí thành thì lễ vật rất đơn sơ cũng được, không có lỗi.
*Hào 3: 升, 虛邑.
Cửu tam: Thăng, như ấp.
Dịch: Hào 3, dương: lên dễ dàng như vào cái ấp không người .
Giảng: Hào này đắc chính, có tài, ở trên cùng nội quái là Tốn, có đức thuận theo ba hào âm ở trên, được 3 hào dắt lên một một cách dễ dàng, như vào một cái ấp không có ai ngăn cản, không có gì ngại cả.
*Hào 4: 王用亨于岐山, 吉, 无咎.
Lục tứ: Vương dụng hanh vu Kì sơn, cát, vô cữu.
Dịch: Hào 4, âm: vua Văn Vương dùng đạo mà hanh thịnh ở núi Kì sơn, tốt, không có lỗi.
Giảng: Hào này nhu thuận, đắc chính, ở ngay dưới hào 5, như vua một nước chư hầu, giúp thiên tử, dắt các người hiền cùng tiến lên; đó là trường hợp vua Văn Vương, một chư hầu dưới thời nhà Ân, lập nên sự nghiệp ở Kì Sơn.
*Hào 5: 貞吉, 升階.
Lục ngũ: Trinh cát, thăng giai.
Dịch: Hào 5, âm: giữ được đạo chính thì tốt, dễ dàng lên thềm.
Giảng: Hào này tuy âm nhu nhưng đắc trung, ở dưới có hào 2 là hiền thần giúp, nên dễ dàng đắc chí, lên thềm cao một cách dễ dàng (lập được sự nghiệp)
*Hào 6: 冥升, 利于不息之貞.
Thượng lục: Minh thăng, lợi vu vật tức chi trinh.
Dịch: Hào trên cùng, âm:Hôn ám cứ muốn lên hoài, nếu sửa đức cho hợp đạo chính, không bao giờ nghỉ thì có lợi.
Giảng : Hào này âm nhu, hôn ám, ở dưới thời “thăng”, đã lên đến cùng cực rồi mà còn muốn lên nữa; nếu đổi lòng ham lên đó thành lòng tự cường , sửa đức cho hợp đạo chính, không bao giờ nghỉ, thì lại tốt.
*Thêm:
Năm hào dưới đều tốt, chỉ có hào trên cùng là xấu vì quá tham, cứ muốn tiến lên hoài về danh lợi, địa vị.
Thanked by 1 Member:
|
|
#28
Gửi vào 22/01/2016 - 14:56
47. TRẠCH THỦY KHỐN
Khách quái là Đoài (chằm). Chủ quái là Khảm (nước).
Tượng của chủ quái Khảm là lao khổ, khốn quẫn trong câu “Lao hồ Khảm” của Hậu thiên bát quái. Tượng của khách quái Đoài là xã hội trong câu “Duyệt ngôn hồ Đoài” của Hậu thiên bát quái. Tượng của chồng quái là những khốn cùng hỗn độn của xã hội.
Phạm trù: Hành sự. Lấy tĩnh chế động.
Cho đối tượng: Dân chúng.
Tên là KHỔN (HỖN, NHỔN): hỗn loạn, hỗn độn, lổn nhổn, khốn cùng, bạo loạn.
Hình tượng: Sông mùa lũ.
Thoán từ: 困亨貞大人吉无咎有言不信.
*Hào 1: 臀困于株木入于幽谷三歲不覿.
*Hào 2: 困于酒食朱紱方來利用享祀征凶无咎.
*Hào 3: 困于石據于蒺蔾入于其宮不見其妻凶.
*Hào 4: 來徐徐困于金車吝有終.
*Hào 5: 劓刖困于赤紱乃徐有說利用祭祀.
*Hào 6: 困于葛藟于臲卼曰動悔有悔征吉.
Thoán từ: 困亨貞大人吉无咎有言不信.
Xã hội bị bạo loạn chỉ hanh thông trở lại khi quan lại hành sự tốt và không phạm sai lầm. Lúc khốn đốn thì không dùng lời vì nói cũng chẳng ai tin.
Hào từ:
*Hào 1: 臀困于株木入于幽谷三歲不覿.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Khảm, tượng của khó khăn, khốn cùng. Những người ở dưới đáy xã hội bị khốn đốn thì như cây bị đốn gốc, có chạy vào hang tối ba năm cũng không thấy quay lại. Tức là người ở dưới đáy xã hội mà gặp khốn cùng chỉ có cách bỏ xứ ra đi mà không biết khi nào mới về được.
*Hào 2: 困于酒食朱紱方來利用享祀征凶无咎.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Khảm. Khốn cùng vì rượi thịt, những kẻ mặc lễ phục đỏ (trang phục của người chủ tế) lại chỉ nhăm nhăm muốn hưởng thụ đồ tế mà quá lạm dụng điều đó sẽ gặp nguy hiểm mặc dù thói ham rượu thịt tế cũng chẳng xấu.
*Hào 3: 困于石據于蒺蔾入于其宮不見其妻凶.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Khảm. Khốn cùng vì ham hưởng thụ, khốn cùng vì đang cương cứng như đá do dùng quá liều cỏ tật lê (một loại cỏ thuốc có tác dụng cương dương vật), chạy vào buồng mà không thấy vợ ở đó thì thật nguy.
*Hào 4: 來徐徐困于金車吝有終.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Đoài, tượng xã hội. Cách xử lý của xã hội cho hào 1. Phải xoay chuyển từ từ vì sự khốn cùng của tầng lớp dưới đáy như một cái xe nặng bằng kim loại, xoay chuyển từng bước một cuối cùng sẽ được.
*Hào 5: 劓刖困于赤紱乃徐有說利用祭祀.
Hào dương. Trung vạch khách quái Đoài. Cách xử lý của xã hội cho hào 2. Để khỏi bị hình phạt cắt mũi, chặt chân vì tế lễ giả mạo (để kiếm rượu thịt), thì phải chịu khó học hỏi tiếp thu đầy đủ nghi thức tế lễ và qua đó phải vận dụng cho thành khẩn. Tức là muốn hưởng rượu thịt cúng tế mà không bị hình phạt thì phải tế lễ dúng nghi thức, thành thực và thành khẩn mới được.
*Hào 6: 困于葛藟于臲卼曰動悔有悔征吉.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Đoài. Cách xử lý của xã hội cho hào 3. Cái khốn này cần dùng nước sắn dây (một vị thuốc trong đông y để hạ hỏa), và cần xem đó mà lay động hối hận để sau này tránh xa mới tốt.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
47. QUẺ TRẠCH THỦY KHỐN
Trên là Đoài (chằm), dưới là Khảm (nước)
Lên cao mãi thì có lúc sẽ té mà khốn, cho nên sau quẻ Thăng tới quẻ Khốn.
Thoán từ:
困: 亨, 貞, 大人吉, 无咎. 有言不信.
Khốn: Hanh, Trinh, đại nhân cát, vô cữu. Hữu ngôn bất thân (chữ [nhân đứng kế ngôn 信] ở đây dùng như chữ [伸]
Dịch : Khốn: Hanh thông. Chính đính như bậc đại nhân (có đức) thì tốt, không lỗi. Dù nói gì cũng không bày tỏ được lòng mình (không ai nghe mình)
Giảng: Quẻ Khảm là dương ở cuối, quẻ đoài là âm ở trên , dương cương (quân tử) bị âm nhu (tiểu nhân) che lấp, cho nên gọi là Khốn.
Lại thêm: nội quái một hào dương bị kẹt giữa hai hào âm; ngoại quái hai hào dương ở dưới một hào âm, cùng là cái tượng quân tử bị tiểu nhân làm khốn.
Một cách giảng nữa: Chằm (Đoài) ở trên mà Khảm (nước) ở dưới, nước trong chằm chảy xuống dưới, tiết mất hết, chằm sẽ khô, thành ra cái tượng Khốn.
Tuy nhiên, Khảm là hiểm, đoài là hoà duyệt, vậy tuy gặp hiểm mà vẫn vui vẻ hanh thông. Hanh thông chỉ là đối với bậc đại nhân, có đức cương, trung, giữ đạo chính thôi; vì hạng người đó càng gặp cảnh khốn, tài càng được luyện; đức càng được trau, chí càng vững dù có phải hy sinh tính mệnh để thỏa chí nguyện cũng không ngại, thân tuy khốn mà vẫn vui vẻ, đạo của họ vẫn hanh thông, cho nên Hào từ cho là tốt, không có lỗi.
Ở vào thời Khốn, chỉ có cường quyền, không có công lý, nên đừng nói gì cả, càng nói chỉ càng thêm vạ miệng, không biện bạch được gì đâu. Đây là lời khuyên chung, còn bậc quân tử có thể “sát thân dĩ thành nhân” thì lại khác.
Hào từ:
*Hào 1: 臀困于株木, 入于幽谷, 三歲不覿.
Sơ lục: Đồn khốn vu châu mộc, nhập vu u cốc, tam tuế bất dịch.
Dịch: Hào 1, âm: Bàn toạ bị khốn ở gốc cây, lại sụp vào trong hang tối, ba năm không thấy ai.
Giảng: Hào này ở đầu quẻ Khốn, âm nhu, mê muội; hào 3 , dương ứng với nó, bất trung bất chính không giúp gì được nó; như một người ngồi trên cây trụi trồi gốc ra (ý nói ở hào đầu, thấp nhất), rồi lại sụp vào hang tối (hào này âm, nhu mê muội) mà không thấy ai lại cứu (ai đây trỏ hào 4).
*Hào 2: 困于酒食, 朱紱方來.利用享祀, 征凶, 无咎.
Cửu nhị: Khốn vu tửu thực, chu phất lai.
Lợi dụng hưởng tự, chinh hung, vô cữu.
Dịch: Hào này dương cương, đắc trung, đáng lẽ tốt, nhưng ở thời Khốn thì cũng vẫn bị khốn vì ăn uống, do ơn vua lộc nước; được ở trên ứng hợp lại nhờ giúp (ở đây tượng trưng bằng việc đem cái “phất” đỏ, một bộ phận lễ phục để che đầu gối); nên đem lòng tinh thành để tế thần linh mà xử sự trong thời khốn này; nếu cứ tiến hành thì không gặp thời xấu; giữ đạo thì không có lỗi.
*Hào 3: 困于石, 據于蒺蔾, 入于其宮, 不見其妻, 凶.
Lục tam: Khốn vu thạch, cứ vu tật lê, nhập vu kì cung, bất kiến kì thê, hung.
Dịch: Hào 3, âm: như người bị khốn vì đá, mà lại dựa vào cây tật lê, vô nhà thì không thấy vợ, xấu.
Giảng: Hào này bất trung ,bất chính, âm nhu ở vào thời khốn, ở trên cùng nội quái là Khảm, tức ở cảnh cực hiểm, tấn thoái đều không được nên ví với người bị đá dằn ở trên (tức hào 4) mà lại dựa vào một loại cây có gai (tật lê – tức hào 2) , vô nhà lại không thấy vợ (tức hào trên cùng cũng âm nhu, không giúp 3 được gì). Rất xấu.
Theo Hệ từ truyện Chương v, Khổng tử thích nghĩa thêm như sau:
“Không phải chỗ đáng bị khốn mà mình bị khốn thì danh ắt bị nhục, không phải chỗ đáng dựa mà mình dựa vào thì thân tất bị nguy; đã bị nhục lại bị nguy thì sắp chết tơi nơi rồi, còn thấy sao được vợ nữa?”
*Hào 4: 來徐徐, 困于金車, 吝, 有終.
Cửu tứ: Lai từ từ, Khốn vu kim xa, lận, hữu chung.
Dịch: Hào 4, dương : (Bạn mình) lại chậm vì bị cỗ xe bằng kim khí chặn (khốn) có điều ân hận, nhưng được trọn vẹn về sau.
Giảng: Hào này dương cương, nhưng bất trung, bất chính, ở vào Khốn, trong vào hào 1 (ứng với nó) tới giúp; nhưng 1 không tới mau được vì bị hào 2 chặn ở giữa (hào 2 này ví với cỗ xe bằng kim khí, có lẽ vì 2 dương cương, mà kim khí là chất cứng chăng cho nên có điều đáng ân hận, xấu hổ; nhưng cuối cùng vẫn liên hợp được với I vì hai bên đều dốc lòng ứng với nhau (4 là dương, 1 là âm)
*Hào 5: 劓刖, 困于赤紱.乃徐有說, 利用祭祀.
Cửu ngũ: tị nguyệt, khốn vu xích phất,
Nãi từ hữu duyệt, lợi dụng tế tự.
Dịch: Hào 5, dương: Bị xẻo mũi, cắt chân, khốn vì cái “phất” đỏ; thủng thẳng sẽ vui, nên dùng lòng chí thành lúc cúng tế (mà xử vào thời Khốn).
Giảng: Hào dương ở vị chí tôn, có tài đức, nhưng ở vào thời Khốn, người chung quanh mình và ở dưới mìmh đều bị khốn cả, lại thêm hào trên cùng là âm muốn dè ép quanh mình, hào 4 dương cương ở dưới tình làm hại mình, ngay đến hào 2 đã đem cái “phất” đỏ cho nó, nhờ nó giúp, nó cũng chỉ làm cho mình thêm khốn’ như vậy mình không khác gì kẻ bị thương ở mũi (xẻo mũi), ở chân (cắt chân); nhưng 5 và 2 cùng có đức cương trung thì rồi sẽ hợp với nhau, cứ chí thành thì sẽ hanh thông, vui.
*Hào 6: 困于葛藟, 于臲卼.曰: 動悔, 有悔, 征吉.
Thượng lục: Khốn vu cát lũy, vu niết ngột.
Viết động hối, hữu hối, chinh cát.
Dịch: Hào trên cùng ,âm: Bị khốn vì dây sắn dây leo, khập khễnh, gập ghềnh; tự hỏi rằng; hoạt động thì ân hận chăng? Biết suy nghĩ như vậy thì hành động sẽ tốt.
Giảng: Hào này ở cuối thời Khốn, như người bị buộc chằng chịt trong đám dây sắn dây leo mà lại đi đứng trong chỗ khập khễnh, gập ghềnh; nhưng khốn tới cùng cực rồi thì sẽ thông, cho nên nếu thận trọng, biết ăn năn thì sẽ tốt.
*Thêm:
So sánh ba quẻ Truân, Kiển, Khốn.
Quẻ Truân là đầu thời khó khăn, còn có thể hành động chút ít để cứu vãn thời thế được. Quẻ Kiển là giữa thời có khó khăn, nên chờ thời, không làm gì hết, hoặc có vì bổn phận mà làm thì cũng khó có kết quả.
Tới Quẻ Khốn, thời khó khăn lên tới tột điểm, 5 hào xấu (Khốn, lận) chỉ có hào cuối cùng mới tốt, đành phải chờ thời, giữ đức trung, chính, lòng chí thành mới qua được cơn khốn.
---------------------------------------------------------
48. THỦY PHONG TỈNH
Khách quái là Khảm (nước). Chủ quái dưới là Tốn (gió).
Tượng chủ quái Tốn là nề nếp, cách thức trong câu “Tề hồ Tốn”. Tượng của khách quái Khảm là lao khổ, khốn quẫn trong câu “Lao hồ Khảm” của Hậu thiên bát quái. Như vậy, tượng của chồng quái là cách thức để giải quyết khó khăn, đó là phải lấy gió Tốn bay hơi nước Khảm.
Phạm trù: Hành sự. Lấy tĩnh chế động.
Cho đối tượng: Người quân tử, người cầm đầu.
Tên là TỈNH: tỉnh táo, nước sạch, nước trong, rành mạch, rõ ràng.
Hình tượng: Giếng nước trong.
Thoán từ: 井改邑不改井无喪无得往來井井汔至亦未繘井羸其瓶凶.
*Hào 1: 井泥不食舊井无禽.
*Hào 2: 井谷射鮒甕敝漏.
*Hào 3: 井渫不食為我心惻可用汲王明並受其福.
*Hào 4: 井甃无咎.
*Hào 5: 井洌寒泉食.
*Hào 6: 井收勿幕有孚元吉.
Thoán từ: 井改邑不改井无喪无得往來井井汔至亦未繘井羸其瓶凶.
Giếng nước trong không thay đổi dù làng xã của ta có đổi thay. Nó không mất đi, khi ta sinh ra nó đã có. Dù đi đâu xa quay lại làng quê vẫn thấy giếng ở đó với nước trong vắt. Quá ngật ngưỡng (quá say, không còn tỉnh táo) khi kéo dây gàu nước trong giếng để giằng co mà giật đổ bình đựng nước thì nguy. Tức là trong cái khó khăn luôn luôn có phương án giải quyết chỉ cần bình tĩnh, tĩnh tại để tỏ tường nguyên nhân xâu xa của khó khăn, từ đó giải quyết được khó khăn.
Hào từ:
*Hào 1: 井泥不食舊井无禽.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Tốn. Cái giếng mà bùn không thể làm bẩn dù đã qua thời gian dài sử dụng phải là giếng không dùng cho chăn nuôi gia cầm. Tức là giếng dùng cho người thì luôn trong vắt qua thời gian (như thoái từ). Ngược lại với chỗ lấy nước hay chỗ gia cầm uống nước luôn hỗn độn bùn bẩn với nước.
Hàm ý là con người thì phải kiên định, tỉnh táo và rành mạch trong việc giải quyết khó khăn. Nếu không làm được vậy thì cũng chẳng khác gì loài cầm thú (hình tượng chỗ uống nước của gia thú, gia cầm).
*Hào 2: 井谷射鮒甕敝漏.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Tốn. Giếng nước lại dùng như cái hang thả cá diếc thì chẳng khác gì cái hũ để phóng uế. Tức là giếng nước để dùng lấy nước cho việc ăn uống lại thả cá hay là cố ý nuôi cá bên trong thì nó phóng uế không thoát đi đâu được sẽ làm ô nhiễm nguồn nước.
Hàm ý là sự tỉnh táo và thuần phác để giải quyết khó khăn chung sẽ không thể có được nếu có ý vụ lợi cho riêng mình (hình tượng nuôi cá diếc trong giếng).
*Hào 3: 井渫不食為我心惻可用汲王明並受其福.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Tốn. Giếng nước mà không có sự dơ bẩn nào có thể làm hỏng thì uống vào sẽ lay động được tâm can. Một vị vua sáng suốt thì nên múc mà uống sẽ mang lại phúc lành cho dân chúng.
Hàm ý sự thuần khiết, tỉnh táo không thể bị cái xấu trên đời làm hỏng được. Vị vua sáng lấy sự thuần khiết và tỉnh táo trong hành động (hình tượng uống nước giếng trong) sẽ là phúc lành của dân chúng.
*Hào 4: 井甃无咎.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Khảm tượng của gian khổ. Tiếp ý hào 3. Để bảo vệ giếng nước khỏi sự dơ bẩn mà xây thêm thành giếng thì chẳng có gì là sai lầm.
*Hào 5: 井洌寒泉食.
Hào dương. Trung vạch khách quái Khảm. Tiếp ý hào 4. Giếng nước trong leo lẻo rất sợ tài lộc.
Hàm ý là sự trong sạch, tỉnh táo, thuần phác sẽ mất đi nếu tâm can xáo động vì ham muốn tài lộc.
*Hào 6: 井收勿幕有孚元吉.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Khảm. Giếng trời, giếng khơi (giếng dùng để kiêm thu nước mưa) chớ che đậy thì mới tự nhiên, người cầm đầu biết như vậy thì sẽ tốt lành.
Giếng trời, giếng khơi, như là tên gọi được dùng để kiêm thêm việc hứng nước mưa với hàm ý trời đất giao hòa sinh khí thì nước mới trong, nếu che đậy không có nước mưa thì không giao hòa sinh khí được. Người lãnh đạo biết được điều đó thì thật tốt lành cho những người mà mình dẫn dắt.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
48. THỦY PHONG TỈNH
Trên là Khảm (nước), dưới là Tốn (gió)
Lên (Thăng) tới cùng thì bị khốn, mà té xuống dưới, cho nên sau quẻ Khốn tới quẻ Tỉnh (giếng, tức chỗ thấp hơn hết).
Thoán từ:
井: 改邑不改井, 无喪无得, 往來井井.汔至, 亦未繘井, 羸其瓶, 凶.
Tỉnh: Cải ấp bất cải tỉnh, vô táng vô đắc, vãng lai tỉnh tỉnh.
Ngật chí, diệc vị duật tỉnh, luy kì bình, hung.
Dịch: giếng: đổi ấp chứ không đổi giếng, nước giếng không kiệt mà cũng không thêm; người qua người lại để múc nước giếng. Gần đến nơi (đến giếng), chưa kịp thòng dây gàu xuống mà bể cái bình đựng nước, thì xấu.
Giảng: Theo tượng quẻ, trên là nước (Khảm), dưới là gỗ (Tốn ở đây không hiểu là gió mà hiểu là cây, là đồ bằng gỗ - trỏ cái gàu), có nghĩa là thòng cái gàu xuống nước để múc lên.
Theo hình của quẻ: dưới cùng là một âm, như mạch nước, rồi tiến lên là hai hào dương, như lớp đất ở đáy giếng; tiến lên nữa là hào âm, tức nước giếng, lòng giếng: trên nữa là một vạch liền, tức cái nấp giếng, trên cùng là một vạch đứt, tức miệng giếng.
Đại tượng truyện giảng một cách khác: nước (Khảm) ở trên cây (Tốn), tức là nhựa (nước từ dưới đất theo thân cây lên) ở ngọn cây, cũng như mạch nước ở trong giếng, chảy ra, cho nên gọi là quẻ Tỉnh.
Bản thể của cái giếng là ở đâu thì ở đấy, ấp còn có khi thay đổi, chứ giếng thì cố định; có nước mạch chảy vô giếng hoài, nên nước giếng không kiệt, nhưng nước giếng chỉ lên tới một mực nào đó, không khi nào tràn ra. Công dụng của giếng là ai cũng lại giếng để lấy nước (tỉnh tỉnh: chữ tỉnh trên là động từ, chữ tỉnh dưới là danh từ), kẻ qua người lại thường, người nào cũng nhờ nó mà có nước, nó giúp đỡ mọi người mà như vô tâm.
Nói về nhân sự thì người đi lấy nước, đã gần tới rồi, chưa kịp thòng dây gàu (duật) xuống, mà đánh vỡ cái bình đựng nước thì thật uổng công; vậy làm việc gì cũng phải cẩn thận, đến nơi đến chốn để khỏi thất bại nửa chừng.
Thoán truyện bảo giếng ở đâu ở đấy, không thay đổi như ấp, vậy là có đức cương trung của hào 2 và hào 5.
Đại tượng truyện khuyên người quân tử nên coi tượng cái giếng mà nuôi dân và chỉ cho dân cách giúp đỡ lẫn nhau.
Hào từ:
*Hào 1: 井泥不食.舊井无禽.
Sơ lục: tỉnh nê, bất thực, cựu tỉnh vô cầm.
Dịch: Hào 1, âm: Giếng lầy bùn, không ai lại lấy nước; không có con vật nào lại một giếng cũ.
Giảng: Hào 1 âm nhu, ở địa vị thấp nhất, hào 4 ở trên cũng không giúp gì nó, chính là hạng người vô dụng, bất tài, nên ví như cái giếng không có mạch, bị bùn, không ai lại lấy nước, chim muông cũng không tới.
*Hào 2: 井谷, 射鮒, 甕敝漏.
Cửu nhị: Tỉnh cốc, xạ phụ, ủng tệ lậu.
Dịch: Hào 2, dương: giếng ở trong hang (có người hiểu là giếng có cái hang), nước chỉ lách tách ít giọt bắn vào con giếc, như cái chum nứt, nước dỉ ra.
Giảng: Hào này dương cương, có tài hơn hào 1, nhưng địa vị cũng thấp, trên cũng không có người ứng viện cho, nên cũng không làm nổi việc đời, ví như cái giếng nước tuy trong, nhưng nước mạch ít, chỉ dỉ ra đủ nuôi con giếc, chứ không có người tới múc. Hào này khác hào 1 ở chỗ 1 vì bất tài mà vô dụng, hào này vì hoàn cảnh mà hoá vô dụng.
*Hào 3: 井渫不食, 為我心惻.可用汲. 王明, 並受其福.
Cửu tam: tỉnh tiết bất thực, vi ngã tâm trắc.
Khả dụng cấp; vương minh, tịnh thụ kì phúc.
Dịch: Hào 3, dương: giếng trong mà chẳng ăn, để lòng ta thương xót, có thể dùng mà múc lên được; gặp ông vua sáng suốt thì mọi người đều được phúc.
Giảng: Hào dương này đắc chính, là người có tài, muốn giúp đời, nhưng địa vị còn ở thấp (nội quái), không được dùng, ví như cái giếng nước trong mà không ai múc. Nếu được ông vua sáng suốt dùng, thì người đó sẽ giúp cho mọi người được nhờ.
*Hào 4: 井甃, 无咎.
Lục tứ: Tỉnh trứu, vô cữu.
Dịch: Hào 4, âm: Giếng mà thành và đáy xếp đá, không có lỗi.
Giảng: Hào này âm nhu, tài tầm thường, nhưng đắc chính, ở gần hào 5 chí tôn, nên nhờ 5 mà làm được việc nhỏ, không có lỗi, ví như cái giếng mạch không nhiều, nhưng xếp đá ở thành và đáy, thì nước mạch thấm vào, lóng lại, cũng tạm dùng được.
*Hào 5: 井洌, 寒泉食.
Cửu ngũ: Tỉnh liệt, hàn tuyền thực.
Dịch: Hào 5, dương: Nước giếng trong, lạnh, múc lên ăn được.
Giảng: Hào nay dương cương, đắc trung, ở ngôi chí tôn, có ân trạch với dân chúng, nên ví với nước giếng vừa trong, vừa mát, lại múc lên được.
*Hào 6: 井收, 勿幕, 有孚, 元吉.
Thượng lục: Tỉnh thu, vật mạc, hữu phu, nguyên cát.
Dịch: Hào trên cùng, âm: Nước giếng múc lên rồi, đừng che đậy, cứ mãi mãi như vậy, không thay đổi thì rất tốt.
Giảng: Hào trên cùng này tuy là âm nhu, nhưng ở cuối cùng quẻ Tỉnh, nó có cái tượng nước giếng đã múc lên rồi, nên để cho mọi người dùng, chứ đừng che đậy, và cứ như vậy giúp đời mãi thì không gì tốt bằng.
*Thêm:
Chúng ta để ý, quẻ Tỉnh này có điểm đặc biệt là các hào càng lên cao càng tốt, tốt nhất là hào trên cùng.
Thường các quẻ khác, hào trên cùng có nghĩa là cùng cực: hễ là quẻ tốt như quẻ Càn, quẻ thái thì hào trên cùng xấu; nếu là quẻ xấu như quẻ Bĩ, quẻ khốn thì hào trên cùng tốt, vì luật: cực thì phải biến, tốt biến ra xấu, xấu biến thành tốt. quẻ Tỉnh này với quẻ Đỉnh (và một số quẻ nữa như quẻ Tiêm . . .), hào trên cùng không có nghĩa cùng cực, mà có nghĩa là lúc cuối (chung), lúc nước đã múc lên (Tỉnh) hoặc thức ăn đã chính (đỉnh), tức là lúc thành công, cho nên đều tốt cả.
Thanked by 1 Member:
|
|
#29
Gửi vào 23/01/2016 - 17:16
49. TRẠCH HỎA CÁCH
Khách quái là Đoài (chằm). Chủ quái là Ly (lửa).
Tượng của chủ quái Ly là lửa, văn minh, cái mới trong câu “Tương kiến hồ Ly” của Hậu thiên bát quái. Tượng của khách quái Đoài là xã hội trong câu “Duyệt ngôn hồ Đoài” của Hậu thiên bát quái. Bởi vậy, tượng của chồng quái là cách mạng xã hội, thay cũ đổi mới.
Phạm trù: Xã hội loài người. Chiến tranh và hòa bình.
Cho đối tượng: Mọi người.
Tên là CÁCH: cách mạng, cải cách, đổi mới, biến đổi, thay đổi.
Hình tượng: Lá cờ đỏ.
Thoán từ: 革已日乃孚元亨 利貞悔亡.
*Hào 1: 鞏用黃牛之革.
*Hào 2: 已日乃革之征吉无咎.
*Hào 3: 征凶貞厲革言三就有孚.
*Hào 4: 悔亡有孚改命吉.
*Hào 5: 大人虎變未占有孚.
*Hào 6: 君子豹變小人革面征凶居貞吉.
Thoán từ: 革已日乃孚元亨 利貞悔亡.
Cách nghĩa là quá ngày này sẽ là một ngày mới tiếp tục đến. Người lãnh đạo luôn biết đổi mới sẽ tốt, lợi và chắc chắn không có hối hận.
Hào từ.
*Hào 1: 鞏用黃牛之革.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Ly. Cải cách chính là trừ bỏ cái cũ, cái thủ cựu như hạt sạt trong mật con bò (hoàng ngưu là một vị thuốc làm từ hạt sạt trong mật con bò). Tức là đổi mới thì phải phá bỏ cái cũ, cái thủ cựu, cái lỗi thời đã ăn xâu bén rễ trong xã hội.
*Hào 2: 已日乃革之征吉无咎.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Ly. Mỗi ngày một thay đổi, đi xa chinh phạt phải luôn như vậy mới tốt và không có lỗi.
*Hào 3: 征凶貞厲革言三就有孚.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Ly. Tiếp ý hào 2. Bởi vì đi xa chinh phạt chắc chắn gian khó lên mệnh lệnh cũng phải thường xuyên thay đổi cho phù hợp với thời thế.
*Hào 4: 悔亡有孚改命吉.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Đoài. Làm mất cái cũ, hình thành cái mới (biến chuyển) thuận chuyển theo Đạo thì tốt. Tức là thay đổi phải thuận theo tự nhiên mới tốt.
*Hào 5: 大人虎變未占有孚.
Hào dương. Trung vạch khách quái Đoài. Tiếp ý hào 4. Đại nhân thay đổi thuận tự nhiên phải như con hổ, chưa kịp nhận ra đã thay đổi mới.
*Hào 6: 君子豹變小人革面征凶居貞吉.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Đoài. Tiếp ý hào 5. Quân tử thay đổi thuận tự nhiên như con báo, còn người dân thay đổi để ngoảng mặt về phía vương đạo, để dân chúng bỏ đi thì nguy, giữ được dân chúng ở lại thì chỉ có tốt lành.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
49. QUẺ TRẠCH HỎA CÁCH
Trên là Đoài (chằm), dưới là Ly (lửa)
Nước giếng tích trữ lâu ngày, bụi cát và các vật dơ mỗi ngày mỗi nhiều, không còn trong sạch nữa, phải tát hết nước cũ để nước mạch mới chảy vào thay, cho nên sau quẻ Tỉnh tới quẻ Cách. Cách nghĩa là thay đổi, như trong từ ngữ cải cách, biến cách, cách mạng.
Thoán từ.
革: 已日乃孚, 元亨 利貞.悔亡.
Cách: Dĩ nhật nãi phu, nguyên hanh lợi trinh. Hối vong.
Dịch: Thay đổi: Phải lâu ngày người ta mới tin được; phải rất hanh thông, hợp chính đạo (thì người ta mới phục). Ðược vậy thì không phải ăn năn.
Giảng: Theo tượng quẻ, chằm (Đoài) ở trên, lửa (Ly) ở dưới; lửa đốt thì nước cạn, nước xối vào thì lửa tắt; hai thứ đo tranh nhau thì có sự thay đổi, cho nên gọi là quẻ Cách.
Lại có thể giảng: Đoài là con gái út, Ly là con gái giữa, họ có xu hướng khác nhau (con gái út nghĩ tới cha mẹ, con gái giữa nghĩ tới chồng), phải có sự thay đổi, không thể như vậy mà ở chung với nhau được.
Thay cũ đổi mới là một việc khó, ngược với thói quen thủ cựu của con người, cho nên mới đầu người ta không tin, cho là đa sự. Muốn cho người ta tin thì phải một thời gian lâu để người ta thấy kết quả.
Mà muốn có kết quả, sự cải cách phải hợp thời hợp chính đạo, phải sáng suốt, soi xét rạch ròi và có tính hoà duyệt thoả thuận với lòng người (văn minh dĩ duyệt: lời thoán truyện), có vậy mới đắc nhân tâm mà người ta không phản kháng. Sáng suốt là đức của nội quái Ly, hoà duyệt là đức của ngoại quái Đoài. Có đủ những điều kiện đó: hợp thời, hợp chính đạo (tức là thích đáng, chính đáng) sáng suốt và hoà duyệt thì không phải ăn năn.
Vua Thang diệt Kiệt, vua Võ diệt Trụ, hai cuộc cách mạng đó đều thuận với đạo Trời (chính đạo) và ứng với lòng người (hợp thời, hợp nguyện vọng nhân dân) cho nên thành công. Trời đất phải thay đổi mới có mùa, mà vạn vật mới sinh sinh hoá hoá, việc đời lâu lâu cũng phải cải cách, để trừ những tệ hại cũ mà thích hợp với hoàn cảnh mới.
Hào từ.
*Hào 1: 鞏用黃牛之革.
Sơ cửu: củng dụng hoàng ngưu chi cách.
Dịch: Hào 1, dương: bó chặt bằng da con bò vàng.
Giảng: người nào muốn làm việc cải cách lớn thì phải có thời (hợp thời), có địa vị có tài. Hào 1 này mới ở vào buổi đầu của thời Cách (thay đổi), còn lỡ dở, thế là chưa có thời, địa vị lại thấp, tuy dương cương nhưng bất trung thế là tài đức còn kém, trên không có người ứng viện (hào 4 cũng là dương); làm việc cải cách tất hỏng; chỉ nên giữ vững (bó chặt bằng) đạo trung (tượng trưng bằng màu vàng); thuận (đức của loài bò), thì mới khỏi bị lỗi.
*Hào 2: 已日乃革之, 征吉, 无咎.
Lục nhị: Dĩ nhật nãi cách chi, chinh cát, vô cữu.
Dịch: Hào 2, âm: chuẩn bị lâu ngày rồi cải cách, tiến đi thì tốt, không lỗi.
Giảng: Hào này nhu thuận, đắc trung đắc chính, ở giữa nội quái Ly là sáng suốt, ở trên có hào 5 dương cương, trung chính, vị cao, ứng viện cho, đủ tư các, hoàn cảnh thuận tiện để cải cách (vì vị 2 này là cơ hội cải cách đã tới) cho nên cứ việc mà đi miễn là chuẩn bị cho kỹ, để cho người trên kẻ dưới đều tin mình.
*Hào 3: 征凶, 貞厲, 革言三就, 有孚.
Cửu tam: chính hung, trinh lệ, cách ngôn tam tựu, hữu phu.
Dịch: hảo, dương: hăng hái tiến liều thì xấu, bền vững giữ đạo và thận trọng lo lắng, tính toán sắp đặt kế hoạch tới 3 lần thì kết quả mới chắc chắn.
Giảng: Hào này dương cương , bất trung, có tính nóng nảy, muốn làm liều, hăng hái tiến tới, hỏngviệc (chinh hung). Phải giữ vững (trinh) đạo chính, thận trọng, lo lắng(lệ); phải sắp đặt, tính toán kế hoạch đến 3 lần, chắc không có gì khuyết điểm, thì kết quả mới chắc chắn (phu ở đây nghĩa là chắc chắn).
*Hào 4: 悔亡, 有孚, 改命, 吉.
Cửu tứ: Hối vong, hữu phu, cải mệnh, cát.
Dịch: Hào 4, dương: Hối hận tiêu hết, có lòng chí thành, trên dưới đều tin theo, đổi mệnh (cải cách lớn) được, tốt.
Giảng: Hào này dương ở vị âm, đáng lẽ có điều ăn năn, nhưng ở vào thời cải cách, không nên cương quá, cho nên tính cương mà vị nhu, vừa cương vừa nhu là tốt, không phải ân hận. Nếu có đủ lòng chí thành khiến người trên kẻ dưới đều tin mình, thì cứ việc tiến hành việc cách mệnh, tốt.
*Hào 5: 大人, 虎變.未占有孚.
Cửu ngũ: Đại nhân, hổ biến; vị chiêm hữu phu.
Dịch: Hào 5 dương: Bậc đại nhân làm cho xã hội thay đổi như con hổ thay lông (mướt, đẹp hơn) chưa bói cũng đã tin như vậy rồi.
Giảng: Hào này có đủ cả thời (công cuộc cải cách đã được tám chín phần mười rồi, vị ở ngôi chí tôn), tài đức (dương cương, trung chính, đúng là một đại nhân) cho nên thành công mỹ mãn, làm cho xã hội thay đổi, tốt đẹp, mới mẻ lên như con hổ thay lông, dân chúng sẳn lòng in như vậy từ khi chưa bói.
*Hào 6: 君子豹變, 小人革面. 征凶, 居貞, 吉.
Thượng lục: Quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện. Chính hung, cư trinh, cát.
Dịch: Người quân tử (thực hiểu và theo sự cải cách như) con báo thay lông; kẻ tiểu nhân miễn cưỡng theo ngoài mặt. Công việc cải cách đến đây đã xong, nên ngừng lại, tiến nữa thì xấu, cứ giữ vững chính đạo thì tốt.
Giảng: Hào này ở cuối cùng thời cách, công việc cải cách đã xong. Kết quả là hạng người từ bậc trung trở lên, sáng suốt (quân tử) thực tâm tự thay cũ mà theo mới, còn người tư cách thấm kém (tiểu nhân) chỉ thay đổi bề ngoài thôi. Như vậy là kết quả tốt đẹp rồi, đừng cải cách hoài nữa mà sinh hậu hoạn, nên giữ chính đạo.
Phan Bội Châu chê Nã phá Luân khi lật nền quân chủ của Pháp, khai quốc hội, lập hiến pháp rồi, không chịu ngừng lại, còn xưng đế, rồi muốn chinh phục Châu Âu nữa, kết quả thân bị đày, danh bị hủy.
*Thêm:
Sáu hào quẻ này diễn đúng những giai đoạn từ bước đầu khó khăn đến lúc cải cách thành công.
Phải có đủ những điều kiện: hợp thời, hợp đạo, có địa vị, có tài đức, sáng suốt rất thận trọng (tính toán, sắp đặt kế hoạch kỹ lưỡng ba lần), có lòng chí thành, tính hoà duyệt, được nhiều người tin thì làm công việc cải cách lớn mới được. Cần nhất là được lòng tin, chí công vô tư.
-------------------------------------------------------------
50. HỎA PHONG ĐỈNH
Khách quái là Ly (lửa). Chủ quái là Tốn (gió).
Tượng của chủ quái Tốn là nề nếp, chuẩn mực, tề chỉnh, tế lễ trong câu “Tề hồ Tốn” của Hậu thiên bát quái. Tượng của khách quái Ly là lửa, văn minh, cái mới trong câu “Tương kiến hồ Ly” của Hậu thiên bát quái. Như vậy, tượng của chồng quái là ổn định và thịnh vượng.
Phạm trù: Xã hội loài người. Chiến tranh và hòa bình.
Cho đối tượng: Mọi người.
Tên là ĐỈNH: Đang, ổn định, thịnh vượng, vững vàng, thống nhất, bình yên, đủng đỉnh.
Hình tượng: Cái đỉnh ngọc.
Thoán từ: 鼎元吉亨.
*Hào 1: 鼎顛趾利出否得妾以其子无咎.
*Hào 2: 鼎有實我仇有疾不我能即吉.
*Hào 3: 鼎耳革其行塞雉膏不食方雨虧悔終吉.
*Hào 4: 鼎折足覆公餗其形渥凶.
*Hào 5: 鼎黃耳金鉉利貞.
*Hào 6: 鼎玉鉉大吉无不利.
Thoán từ: 鼎元吉亨.
Làm cho xã hội ổn định và thịnh vượng thì người cầm đầu sẽ tốt lành và hanh thông.
Hào từ:
*Hào 1: 鼎顛趾利出否得妾以其子无咎.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Tốn. Thời thái bình thịnh vượng, ngả nghiêng chân lợi cho việc xuất ra những thứ gây bí bách trong người. Nếu có được người vợ thì làm cho người đó sinh con chẳng có gì là xấu cả. Tức là thời thái bình thịnh trị thì việc nghỉ ngơi, xả hơi, sinh con đẻ cái chẳng có gì là xấu.
*Hào 2: 鼎有實我仇有疾不我能即吉.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Tốn. Thời thái bình thịnh trị, ta trở nên giàu có vì những kẻ ganh đua với ta chẳng tài năng bằng ta thì tốt. Tức là thời thái bình thịnh trị để mình trở nên giàu có thì phải dùng chính tài năng của mình để cạnh tranh mà hơn người khác thì tốt.
*Hào 3: 鼎耳革其行塞雉膏不食方雨虧悔終吉.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Tốn. Thời thái bình thịnh trị mà nghe theo người khác đòi đổi mới thì thật bế tắc như nấu cao con chim trĩ (tượng thái bình thịnh trị, có trên mặt trống đồng) rồi thành một thứ không ăn được. Không nghe theo mà gây bạo loạn lật đổ và giảm bớt ý muốn thay đổi những cái đã có thì chung cuộc mới tốt.
*Hào 4: 鼎折足覆公餗其形渥凶.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Ly. Tiếp ý hào 3. Còn không sẽ làm cho cái đỉnh bị gẫy chân làm đổ thức ăn chung của mọi người thì thật ngang với thiên tai, mất mùa. Tức là còn vẫn nghe theo tiếng gọi của sự thay đổi mà gây bạo loạn phá vỡ hạ tầng cơ sở của xã hội thái bình thịnh trị, thì chẳng khác gì đạp đổ miếng ăn của mọi người. Cũng ví như xã hội bị thiên tai mất mùa vậy.
*Hào 5: 鼎黃耳金鉉利貞.
Hào âm. Trung vạch khách quái Ly. Tiếp ý hào 4. Cái đỉnh mầu vàng, biết nghe như cái tai đỉnh bằng vàng mười thì chỉ có lợi. Tức là thời thái bình thịnh trị biết giữ lòng chính trung (mầu vàng là chính giữa), biết nghe những lời chân thật đáng quý như vàng mười thì chỉ có lợi cho mình và cho cả xã hội.
*Hào 6: 鼎玉鉉大吉无不利.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Ly. Tiếp ý hào 5. Còn biết nghe như cái tai đỉnh bằng ngọc ngà đá quý thì thật nhiều tốt lành và chẳng có gì là không lợi. Tức là hơn nữa, biết nghe những lời chỉ dậy của tổ tiên thì thật nhiều tốt lành và chẳng có gì là không lợi (những lời chỉ dạy, truyền lại của tổ tiên được ví như những viên ngọc truyền đời).
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
50. QUẺ HỎA PHONG ĐỈNH
Trên là Ly (lửa), dưới là Tốn (gió)
Cách là biến đổi, có công dụng “cách vật” (biến đổi các vật ) dễ thấy nhất là cái đỉnh (vạc) vì nó dùng để nấu ăn, biến đồ sống thành đồ chín; cho nên sau quẻ Cách tới quẻ Ðỉnh.
Thoán từ:
鼎: 元吉, 亨.
Ðỉnh: Nguyên cát, hanh.
Dịch: Vạc (nấu ăn): rất tốt, hanh thông.
Giảng: Nhìn hình của quẻ , ta thấy vạch đứt ở dưới cùng như cái chân vạc, ba vạch liền ở trên như cái thân vạc trong chứa thức ăn, vạch đứt ở trên nữa như hai tai vạc vạch liền ở trên cùng là cái đòn để khiêng vạc, vì vậy gọi là quẻ đỉnh.
Theo nghĩa thì nội quái Tốn là cây, gỗ (ở đây không nên hiểu tốn là gió), ngoại quái Ly là lửa; đút cây vào lửa để đốt mà nấu thức ăn.
Ở trên đã xét quẻ Tỉnh, về việc uống; ở đây là quẻ Đỉnh, về việc ăn. Cổ nhân trong việc nấu nướng, trước hết để tế Thượng đế, rồi để nuôi bậc thánh hiền. Tế Thượng đế thì cốt thành tâm, nuôi thánh hiền thì cốt trọng hậu. Đó là ý nghĩa câu trong Thoán truyện.
“thánh nhân phanh (chữ ở đây đọc là phanh như chữ dĩ hưởng Thượng đế, nhi đại phanh (đại ở đây là trọng hậu dưỡng thánh hiền”. Vì vậy quẻ Ðỉnh có cái nghĩa rất tốt.
Quẻ Ly có đức thông minh, sáng suốt; quẻ Tốn có đức vui thuận; hào 5, âm nhu mà được ngôi chí tôn, đắc trung, ứng với hào 2 dương cương ở dưới ; vậy quẻ Đỉnh có đủ những đức sáng suốt, vui thuận, đắc trung, cương (hào 2) nhu (hào 5) ứng viện nhau để làm việc đời, thì có việc gì mà không hanh thông?
Hào từ:
*Hào 1: 鼎顛趾, 利出否, 得妾, 以其子, 无咎.
Sơ lục: Đỉnh điên chỉ, lợi xuất bĩ, đắc thiếp, dĩ kì tử, vô cữu
Dịch: Hào 1, âm :Vạc chống chân lên, trút những đồ dơ bụi bặm (bĩ) ra thì lợi; (ngẫu nhiên gặp may) như gặp được người thiếp để sinh con cho mình, không lỗi.
Giảng: Hào này là cái chân vạc, âm nhu mà ứng với hào 4 dương cương ở trên có cái tượng chống chân lên trên, tuy xấu, nhưng vì vạc chưa đựng thức ăn, chưa đặt lên bếp thì nhân nó chống chân lên mà trút hết các dơ bẩn ra, rốt cuộc hoá tốt; ngẫu nhiên gặp may như người đàn ông có vợ rồi, gặp một người thiếp thấp hèn nhưng sinh con cho mình, không có lỗi.
*Hào 2: 鼎有實, 我仇有疾, 不我能即, 吉.
Cửu nhị: Đỉnh hữu thực, ngã cửu hữu tật, bất ngã năng tức, cát.
Dịch: Hào 2, dương: Vạc chứa thức ăn rồi; kẻ thù oán ta vì ghen tuông, nhưng không tới gần ta được. tốt.
Giảng: Hào này dương cương ở vị trung, hữu dụng rồi như cái vạc đã chứa thức ăn. Vì nó thân với hào 5 ở trên, mà không để ý đến hào 1 âm ở sát nó, nên nó bị 1 ghen tương mà oán nó. Nhưng nó quân tử, ứng với hào 5, nên 1 không tới gần mà hãm hại được nó. Nên cẩn thận thôi, vẫn là tốt.
*Hào 3: 鼎耳革, 其行塞, 雉膏不食.方雨, 虧悔, 終吉.
Cửu tam: Đỉnh nhĩ cách, kì hành tắc, trĩ cao bất thực; phương vũ, khuy hối, chung cát.
Dịch: Hào 3, dương: như cái tai vạc dương thay đổi, chưa cất vạc lên được, thành thử mỡ chim trĩ (mỡ ngon) chưa đem ra cho người ta ăn; nhưng sắp mưa rồi, không còn ăn năn nữa, kết quả sẽ tốt.
Giảng: Hào này ở giữa lòng vạc, dương cương, là hạng người tốt, có hào trên cùng ứng với nó, nhưng bị hào 5 ngăn cách (cũng như cái tai vạc hào 5 còn dương sửa, chưa cất vạc lên được) thành thử chưa đắc dụng, cũng như món ăn (hào 3) chưa đem ra cho người ta ăn được. Nhưng 3 có tài, lại chính đáng (dương ở vị dương) thì chẳng bao lâu 5 vả sẽ hợp nhau, âm(5) dương (3) giao hào, tượng như trời sắp mưa, không còn gì ân hận nữa; lúc đó 3 sẽ đắc dụng, kết quả sẽ tốt.
*Hào 4: 鼎折足, 覆公餗其形渥, 凶.
Cửu tứ: Đỉnh chiết túc, phúc công tốc (túc) kì hình ốc, hung.
Dịch: Hào 4, dương: Chân vạc gẫy, đánh đổ thức ăn của nhà công hầu, mà bị hình phạt nặng, xấu.
Giảng: Hào này ở vị cao, gần ngôi chí tôn, vậy là có trách nhiệm lớn, nhưng ứng hợp với 1, âm nhu ở dưới, nên không gánh nỗi trách nhiệm, như cái vạc gẩy chân, đánh đổ thức ăn, mà bị tội.
Theo Hệ từ hạ truyên Chương v, Khổng tử cho rằng hào này cảnh cáo những kẻ đức mỏng mà ngôi tôn, trí nhỏ mà mưu lớn, sức yếu mà gánh nặng.
*Hào 5: 鼎黃耳, 金鉉, 利貞.
Lục ngũ: Đỉnh hoàng nhĩ, kim huyễn, lợi trinh.
Dịch: Hào 5, âm: Vạc có tai màu vàng, có đòn xâu bằng kim khí; giữ được đạo chính thì bền.
Giảng: Hào này là cái quai vạc, đắc trung cho nên tượng bằng màu vàng; ở trên nó là hào dương cương, tượng bằng cái đòn xâu bằng kim khí (chất cứng), vậy là người có tài, đức, chỉ cần giữ được đạo chính thôi.
*Hào 6: 鼎玉鉉, 大吉, 无不利.
Thượng cửu: Đỉnh ngọc huyễn, đại cát, vô bất lợi.
Dịch: Hào trên cùng dương: vạc có cái đòn xâu bằng ngọc rất tốt, không gì là không lợi.
Giảng: Hào trên cùng này là cái đòn để xâu vào tai vạc mà khiêng; nó dương cương mà ở vị âm (chẳn), vừa cương vừa nhu, nên ví nó với chất ngọc vừa cứng vừa ôn nhuận. Ở cuối thời Đỉnh, như vậy là rất tốt.
*Thêm:
Quẻ này cũng như quẻ Tỉnh, hào trên cùng tốt nhất vì tới lúc thành công.
Thanked by 1 Member:
|
|
#30
Gửi vào 25/01/2016 - 10:27
51. THUẦN CHẤN
Khách quái là Chấn (sấm, động). Chủ quái là Chấn (sấm, động).
Tượng sấm sét liên tiếp gây chấn động, sợ hãi.
Pham trù: Tự nhiên. Tĩnh và Động.
Cho đối tượng: Mọi người.
Tên là CHẤN: Chấn động, lung lay, không ổn định, sợ hãi.
Hình tượng: Sấm sét liên hoàn.
Thoán từ: 震亨震來虩虩笑言啞啞震驚百里不喪匕鬯.
*Hào 1: 震來虩虩後笑言啞啞吉.
*Hào 2: 震來厲億喪貝躋于九陵勿逐七日得.
*Hào 3: 震蘇蘇震行无眚.
*Hào 4: 震 遂泥.
*Hào 5: 震往來厲意无喪有事.
*Hào 6: 震索索視矍矍征凶震不于其躬于其鄰无咎婚媾有言.
Thoán từ: 震亨震來虩虩笑言啞啞震驚百里不喪匕鬯.
Sự chấn động dẫn tới hanh thông là khi lúc đầu nó làm cho rất sợ hãi nhưng sau đó lại bật cười ha hả. Sấm chớp liên tiếp kinh động cả trăm nhà nhưng sau đó ăn uống vẫn yên lành, vui vẻ là tốt lành. Tức là sấm sét là hiện tượng tự nhiên báo hiệu cơn mưa lớn, tiếng vang thì xa, tia chớp thì sáng rực cả bầu trời, sét đánh xuống đất mà trúng người thì có thể chết. Do vậy mà gây nỗi sợ hãi và chấn động cho con người trước thiên nhiên từ ngàn xưa. Song mưa xuống là sự vận động thời tiết thường xuyên của tự nhiên mang lại sức sống cho vạn vật, Do vậy sau sấm sét là mưa móc mang lại sự yên vui, hòa thuận của muôn loài.
Hào từ:
Sấm sét đánh từ trời xuống đất. Cho nên, ba hào của chủ quái tượng cho sấm (xem chồng quái THIÊN LÔI VÔ VỌNG). Ba hào của khách quái tượng cho sét (xem chồng quái ĐỊA LÔI PHỤC).
*Hào 1: 震來虩虩後笑言啞啞吉.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Chấn. Sấm gây nơm nớp lo sợ nhưng sau đó lại bật cười ha hả thì tốt lành (như thoái từ). Tức là sấm là hiện tượng phóng điện giữa các đám mây trên trời do vậy không ảnh hưởng dưới đất. Do vậy, tiếng sấm làm ta run sợ nhưng sau đó thì lại bật cười được ngay.
*Hào 2: 震來厲億喪貝躋于九陵勿逐七日得.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Chấn. Tiếp ý hào 1. Nhưng chấn động đã qua mà mãi không hết run sợ thì phải gắng gỏi mang mười vạn tiền âm phủ đến tế lễ ở Cửu Lăng (khu mộ tổ tiên), không được vội vàng, cứ yên định qua bảy ngày sẽ yên ổn. Tức là với những chấn động từ xa không bị hại như sấm mà sau đó không hết run sợ thì phải giải quyết bằng biện pháp tâm linh, như là tế lễ tổ tiên để có được sự yên ổn trong tâm hồn sau chấn động.
*Hào 3: 震蘇蘇震行无眚.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Chấn. Tiếp ý hào 2. Bởi vì sấm có nổ tới nổ lui nhưng cũng chẳng có tai vạ nào xảy ra.
*Hào 4: 震 遂泥.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Chấn. Tiếp ý hào 3. Sét thì không vô vọng như vậy. Tức là sét là hiện tượng phóng điện của đám mây xuống mặt đất nên sẽ có ảnh hưởng tới vạn vật dưới đất.
*Hào 5: 震往來厲意无喪有事.
Hào âm. Trung vạch khách quái Chấn. Tiếp ý hào 4. Bởi vì sét đánh lúc nào thường khó đoán và không gây chết người thì cũng gây thiệt hại phải giải quyết.
*Hào 6: 震索索視矍矍征凶震不于其躬于其鄰无咎婚媾有言.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Chấn. Tiếp ý hào 5. Cho nên, đang đi trên đường gặp cơn mưa mà run sợ chạy tớn tác, mắt nhớn nhác (tìm chỗ nấp) thì nguy (chạy trên đồng hay tìm nấp dưới cây cao đều dễ bị sét đánh). Nếu không chạy, sét sẽ không đánh vào người mà đánh vào chỗ lân cận đấy, như vậy sẽ chẳng sao, chỉ như bị điều tiếng trong đám cưới (ma chê cưới trách là chuyện tự nhiên thôi, chẳng sao cả).
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
51. QUẺ THUẦN CHẤN
Trên dưới đều là Chấn (sấm, động).
Vạc là một đồ dùng quan trọng trong nhà, làm chủ giữ nó, không ai bằng con trai trưởng, cho nên sau quẻ Ðỉnh tới quẻ Chấn. Chấn là sấm mà cũng là trưởng nam.
Thoán từ:
震, 亨.震來虩虩, 笑言啞啞.震驚百里, 不喪匕鬯.
Chấn hanh. Chấn lai hích hích, tiểu ngôn ách ách.
Chấn kính bách lý, bất táng chuỷ xướng.
Dịch: Sấm động thì hanh thông. Lúc sấm nổ ầm ầm mà nớp nớp lo sợ thì sau sẽ cười nói ha ha. Sấm động trăm dặm mà không mất muỗng và rượu nghệ (đồ tế thần)
Giảng: Sấm phát động thì vạn vật mới nảy nở, cho nên bảo là hanh thông.
Khi có điều gì kinh động mà nớp nớp lo sợ, giữ gìn sửa mình thì không bị tai hoạ mà sau sẽ được vui vẻ. Sấm vang động xa đến trăm dặm, mà tinh thần vẫn vững, không đến nỗi đánh mất đồ tế thần (cái muỗng và rượu làm bằng lúa mạch hoà với nghệ) thế là tốt, hanh thông. Nói đến việc tế thần là để diễn cái ý: giữ được tôn miếu, xã tắc.
Hào từ:
*Hào 1: 震來虩虩, 後笑言啞啞, 吉.
Sơ cửu: chấn lai hích hích, hậu tiếu ngôn ách ách, cát.
Dịch: Hào này ở đầu thời sấm động. Hào từ y hệt Thoán từ, chỉ thêm hai chữ “hậu” (sau) và “cát” tốt.
*Hào 2: 震來, 厲.億喪貝, 躋于九陵, 勿逐七日得.
Lục nhị: Chấn lai, lệ; ức táng bối, tê vu cửu lăng, vật trục, thất nhật đắc.
Dịch: Hào 2, âm: Sấm nổ, có cơ nguy, e mất của chẳng (sợ hãi) chạy lên chín từng gò để tránh; dù mất của những đừng đuổi theo, bảy ngày sẽ được.
Giảng: Hào này âm nhu lại cưỡi lên hào 1 dương cương, nhút nhát, sợ 1 áp bức, e có cơ nguy, lại ngại mất của, nên phải tránh xa (lên chín tầng gò); nhưng nó vốn trung, chính, khéo xử nên đừng quá lo mà khiếp sợ, cứ bình tĩnh, dù có mất tiền, sau cũng lấy lại được.
*Hào 3: 震蘇蘇, 震行无眚.
Lục tam: Chấn tô tô, chấn hành vô sảnh.
Dịch: Sấm động mà sinh thác loạn; cứ tránh đi, bỏ điều bất chính thì không bị hoạ.
Giảng: Hào âm, ở vị dương, là hạng người bất chính, nên lo sợ tới thác loạn; nếu trở về đường chính thì không bị tai hoạ.
*Hào 4: 震, 遂泥.
Cửu tứ: chấn, toại nê.
Dịch: Hào 4, dương: sấm động, bi say mê chìm đắm.
Giảng: Hào dương này, bất trung, bất chính, mà lại bị hãm vào giữa bốn hào âm, hai ở trên, hai ở dưới, nên gặp việc chấn động, lo sợ, không tự thoát được, chỉ chìm đắm thôi.
*Hào 5: 震往來, 厲.意无喪, 有事.
Lục ngũ: Chấn vãng lai, lệ; ức vô táng, hữu sự.
Dịch: Hào 5, âm: Sấm tới hay lui cũng đều thấy nguy; cứ lo (ức) sao cho khỏi mất đức trung (vô táng), thì làm được công việc.
Giảng: Hào âm, hay lo sợ, chỉ thấy toàn là nguy, nhưng ở vị 5, có đức trung; cứ giữ đức đó thì sấm tới hay lui (vãng lai cũng có thể hiểu là hào 5 này tới hay lui) cũng không sao mà còn làm được công việc nữa.
*Hào 6: 震索索, 視矍矍, 征凶.震不于其躬, 于其鄰, 无咎, 婚媾有言.
Thượng lục: Chấn tác tác, thị quắc quắc, chinh hung.
Chấn bất vu kì cung, vu kì lân, vô cữu, hôn cấu hữu ngôn.
Dịch: Hào trên cùng: Sấm động mà kinh hoảng, mắt nhớn nhác, nếu đi tới (hành động) thì xấu. Nếu đề phòng trước từ khi sự chấn động chưa tới bản thân mình, mới tới hàng xóm, thì không lầm lỗi, mặc dầu bà con có kẻ chê cười mình.
Giảng: Hào này âm nhu, gặp hoàn cảnh cực kỳ chấn động (vì ở trên cùng quẻ Chấn) cho nên có vẻ quá sợ sệt, mà không có tài nên không nên hành động gì cả, chỉ nên đề phòng trước thôi. Bốn chữ: “hôn cấu hữu ngôn” Chu Hi hiểu là nói về việc gả cưới, không khỏi có lời ngờ vực; các sách khác đều hiểu là bị bà con (hôn cấu) chê cười. Tại sao lại chê cười? Tại hào này nhút nhát: Tại không dám hành động chăng?
---------------------------------------------------------------------------------------
52. THUẦN CẤN
Khách quái là Cấn (núi). Chủ quái là Cấn (núi).
Tượng núi lại tiếp núi thành một dãy núi bền vững và ổn định.
Pham trù: Tự nhiên. Tĩnh và Động.
Cho đối tượng: Mọi người.
Tên là CẤN: Ổn định, bền vững, vững vàng, tĩnh tại, tĩnh lặng, lạc quan.
Hình tượng: Núi non trùng điệp.
Thoán từ: 艮其背不獲其身行其庭不見其人无咎.
*Hào 1: 艮其趾无咎利永貞.
*Hào 2: 艮其腓不拯其隨其心不快.
*Hào 3: 艮其限列其夤厲薰心.
*Hào 4: 艮其身无咎.
*Hào 5: 艮其輔言有序悔亡.
*Hào 6: 敦艮吉.
Thoán từ: 艮其背不獲其身行其庭不見其人无咎.
Tĩnh tại như cái vai dù thân mình di chuyển (chân hoạt động nhưng vai thì không). Hành sự tĩnh lặng như sân đình vắng bóng người thì không có lỗi.
Hào từ.
Núi nhô từ đất lên trời. Cho nên, ba hào của chủ quái tượng cho khiêm nhường để vững vàng (xem chồng quái ĐỊA SƠN KHIÊM). Ba hào của khách quái tượng cho che dấu, lui lại để vững vàng (xem chồng quái THIÊN SƠN ĐỘN).
*Hào 1: 艮其趾无咎利永貞.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Cấn. Chân tĩnh tại và vững vàng không những không có lỗi mà lâu dài chỉ có lợi. Tức là để ổn định bền vững quan trọng ở cái chân. Cái chân dù rất kiêm nhường ở phía mặt đất nhưng nó vững vàng thì mới có khả năng nhấc được vật nặng hay có những hành động phức tạp.
*Hào 2: 艮其腓不拯其隨其心不快.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Cấn. Tiếp ý hào 1. Nhưng chân tĩnh tại và vững vàng do bị bệnh phù đến nỗi không cử động được ngón chân thì tâm trạng lạc quan và hào hứng sao được. Tức là khiêm nhường để vững vàng ổn định hoàn toàn không có nghĩa là yếu đuối và bệnh tật không động đậy được.
*Hào 3: 艮其限列其夤厲薰心.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Cấn. Khiêm nhường dựa vào những giới hạn bền vững (như những dãy núi trùng điệp) sẽ hun đúc được tâm tĩnh tại.
*Hào 4: 艮其身无咎.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Cấn. Cột sống giữ được sự ổn định, vững vàng và tĩnh tại cho thân thể sẽ không có gì xấu cả (như thoái từ).
*Hào 5: 艮其輔言有序悔亡.
Hào âm. Trung vạch khách quái Cấn. Xương má ẩn sau miệng phải vững vàng ổn định thì ăn nói mới không lắp bắp và sẽ không phải hối hận.
*Hào 6: 敦艮吉.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Cấn. Tiếp ý hào 4. Tiếp ý hào 5. Cột sống và xương má đều ẩn giấu và lùi lại phía sau mà mang lại sự ổn định và vững vàng, sự ẩn giấu và lùi lại phía sau như vậy mang lại điều tốt lành cho cơ thể.
Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:
52. QUẺ THUẦN CẤN
Trên dưới đều là Cấn (núi)
Không thể động hoài được, sẽ tới lúc phải ngưng, cho nên sau quẻ Chấn tới quẻ Cấn. Cấn có nghĩa là núi, núi đứng yên một chỗ, cho nên cũng có nghĩa là ngừng lại.
Thoán từ.
艮其背, 不獲其身, 行其庭, 不見其人, 无咎.
Cấn kì bối, bất hoạch kì thân, hành kì đình, bất kiến kì nhân, vô cữu.
Dịch: Ngừng ở cái lưng (tĩnh như cái lưng) không thấy được thân mình, đi ở trước sân, không thấy có người, không có lỗi.
Giảng: Quẻ này vốn là quẻ Khôn, lấy nét thứ ba, dương của quẻ Càn thay vào nét thứ ba, âm của Khôn mà thành một nét dương ở trên, hai nét âm ở dưới; nét dương ngưng lại ở trên, hai nét âm cũng bị chặn ở dưới, cho nên đặt tên là quẻ Cấn (ngừng)
Trong thân thể người ta, đầu, cổ tay chân thường động đậy, chỉ có lưng là thường tĩnh; đó là nghĩa ba chữ: “Cấn kỳ bối”
Hễ tĩnh thì không bị tình dục chi phối, không làm điều ác; tĩnh thì không nghĩ tới mình (bất hoạch kỳ thân), mà cũng quên cả người khác (như đi ở trước sân mà không thấy có người), tức là không phân biệt mình với người, như vậy thì không có lỗi.
Thoán truyện giảng thêm: Lúc đáng ngừng thì ngừng, đáng đi thì đi (đi tức là biết tiến tới chỗ phải ngừng lại), động tĩnh đều hợp thời. Lại phải biết ngừng ở chỗ đáng ngừng, ví dụ cư xử với người cố đạt cho được đức nhân, đức tín, như vậy là biết ngừng ở chỗ đáng ngừng. Không phân biệt mình với người, coi nhân ngã chỉ là nhất thể (cũng như nội quái là Cấn, ngoại quái cũng là Cấn, cùng một thể với nhau, theo cách giải của Thoán truyện), đó là nghĩa sâu sắc của quẻ Cấn.
Đại Tượng truyện khuyên người quân tử chỉ nên ngừng ở chỗ làm trọn bổn phận của mình và đừng trật ra ngoài bổn phận của mình (bất xuất kỳ vị)
Hào từ.
*Hào 1: 艮其趾, 无咎, 利永貞.
sơ lục: Cấn kỳ chỉ, vô cữu, lợi vĩnh trinh.
Dịch: Hào 1, âm: Biết ngừng ở ngón chân thì không có lỗi, giữ bền được chính đạo thì có lợi.
Giảng: hào âm này ở dưới cùng quẻ Cấn ví như ngón chân; lúc mới bắt đầu động mà biết cẩn thận, ngưng lại thì không có lỗi. Sở dĩ khuyên như vậy vì hào 1 bất chính (âm ở vị dương. Mà phải kiên nhẫn giữ chính đạo thì mới có lợi.
*Hào 2: 艮其腓, 不拯其隨, 其心不快.
Lục nhị: Cấn kỳ phì, bất chứng kỳ tùy, kỳ tâm bất khoái.
Dịch: Hào 2, âm: Ngăn ở bắp chân, không cứu được bắp vế mà mình phải theo nó, lòng không vui.
Giảng: hào này ở trên hào 1, như bắp chân; nó đắc trung đắc chính, biết lúc nào nên ngưng, nhưng nó tùy thuộc hào 3 ở trên nó, như bắp vế ở trên bắp chân (vế cử động thì bắp chân cử động theo), mà 3 thì lầm lỗi không sửa được, phải theo một kẻ lầm lỗi thì lòng không vui.
*Hào 3: 艮其限, 列其夤, 厲薰心.
Cửu tam: Cấn kỳ hạn, liệt kỳ di (cũng đọc là dần), lệ huân tâm.
Dịch: Hào 3, dương: Ngăn ở lưng quần (ngang thận), như bị đứt ở giữa xương sống, nguy khốn, lo như cháy cả ruột.
Giảng: Hào này ở trên cùng nội quái, như ở chỗ lưng quần, nơi phân cách trên và dưới. Nó là dương cương, bất trung, tiến lên thì người trên không nghe, lui xuống cũng không được, như bị đứt ở giữa xương sống, rất nguy khốn.
*Hào 4: 艮其身, 无咎.
Lục tứ: Cấn kỳ thân, vô cữu.
Dịch: Hào 3, âm: Ngăn phần thân mình, không có lỗi.
Giảng: Hào này lên đến giữa thân mình, nó đắc chính (âm ở vị âm) biết lúc nên ngừng thì ngừng, tuy không làm được việc gì, nhưng không có lỗi.
*Hào 5: 艮其輔, 言有序, 悔亡.
Lục ngũ: Cấn kỳ phụ, ngôn hữu tự, hối vong.
Dịch: Hào 5, âm: Ngăn cái mép lại (có sách dịch là xương hàm), ăn nói có thứ tự, hối hận mất đi.
Giảng: Hào này lên tới mép, đắc trung, biết thận trọng lời nói, lúc nào không đáng nói thì không nói, nên không có gì hối hận.
*Hào 6: 敦艮, 吉.
Thượng cửu: Đôn cấn, cát.
Dịch: Hào trên cùng, dương: Đôn hậu về đạo biết ngưng phải lúc, tốt.
Giảng: Hào này ở trên cùng, làm chủ quẻ dương cương, có tính đôn hậu, biết lúc nào nên ngừng thì ngừng tốt.
*Thêm:
Phan Bội Châu nhận rằng trong Kinh Dịch có tám quẻ mà ngoại quái là Cấn, tức các quẻ : Bĩ, Bác, Ðại Súc, Cổ, Di, Tổn, Mông và quẻ Thuần Cấn này. Mà hào trên cùng của tám quẻ đó đều tốt.
Như vậy Kinh Dịch rất trọng núi, vì núi có đức “trọng hậu”.
Chúng tôi nghĩ có thể cũng vì lẽ núi có đức “tĩnh” nữa. Dịch học phái như Khổng giáo chủ trương hữu vi (hành động để giúp đời), nhưng cũng trọng đức tĩnh, tĩnh như núi. Tĩnh là không bị thị dục dao động mà ít lỗi, tĩnh thì mới sáng suốt. Đạo Lão rất trong đức tĩnh. Dịch học phái trọng động mà cũng trọng tĩnh, là dung hoà được hai triết lý lớn nhất của Trung Hoa.
Chúng tôi lại nhớ tới câu: “Trí giả nhạo thủy, nhân giả nhạo sơn” trong Luận ngữ (VI 20) Khổng và Lão dễ dung hoà với nhau là phải.
Thanked by 1 Member:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối |
---|
1 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:
An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |
Quỷ Cốc Toán Mệnh |
Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |
Quẻ Mai Hoa Dịch Số |
Bát Tự Hà Lạc |
Thái Ât Thần Số |
Căn Duyên Tiền Định |
Cao Ly Đầu Hình |
Âm Lịch |
Xem Ngày |
Lịch Vạn Niên |
So Tuổi Vợ Chồng |
Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:












