Bất Thường
Lou
17/03/2016
Việt nam - quốc gia hạnh phúc nhất.
Theo báo cáo này 46% ng VN bị ngáo đá. Tỷ lệ này trong QH có thể cao hơn.
Viện nghiên cứu về đời sống và con người khu vực Đông Nam Á Hakuhodo (Hill ASEAN), một tổ chức nghiên cứu độc lập được thành lập bởi Tập đoàn Hakuhodo (Nhật Bản) nghiên cứu và công bố.
Số người Việt Nam tự nhận mình thuộc tầng lớp trung lưu cao nhất khu vực Đông Nam Á. Nếu Singapore có số người tự nhận mình ở tầng lớp trung lưu là 83%, Malaysia là 72%, Thái Lan 80% thì con số này ở Việt Nam lên tới 96%. Chỉ có 2% người Việt Nam tự nhận mình nghèo, 2% còn lại thừa nhận thuộc tầng lớp thượng lưu.
Minh Chiet
Theo báo cáo này 46% ng VN bị ngáo đá. Tỷ lệ này trong QH có thể cao hơn.
Viện nghiên cứu về đời sống và con người khu vực Đông Nam Á Hakuhodo (Hill ASEAN), một tổ chức nghiên cứu độc lập được thành lập bởi Tập đoàn Hakuhodo (Nhật Bản) nghiên cứu và công bố.
Số người Việt Nam tự nhận mình thuộc tầng lớp trung lưu cao nhất khu vực Đông Nam Á. Nếu Singapore có số người tự nhận mình ở tầng lớp trung lưu là 83%, Malaysia là 72%, Thái Lan 80% thì con số này ở Việt Nam lên tới 96%. Chỉ có 2% người Việt Nam tự nhận mình nghèo, 2% còn lại thừa nhận thuộc tầng lớp thượng lưu.
Minh Chiet
Lou
17/03/2016
Con gái nhập học ở Anh
Trường đưa danh sách việc phải làm
1. Làm thẻ sv. Cất hộ chiếu ở nhà. Mất thẻ trường cấp lại được. Mất hc rất lằng nhằng
2. Sang quầy nh bên cạnh mở tk. Gửi hết tiền mặt. Chỉ nên giữ ko quá 50 bảng trong người. Nh cấp thẻ debit/credit. Mất thẻ ko mất tiền. Nh sẽ cấp lại
3. Đi xe đạp thì ko để túi đằng sau, ko để đằng trước. Mà đeo vào ng phía trước ngực
4. Không ra phố sau 10pm
5. Nếu đi chơi thì nên đi cùng vài ng bạn. Báo số dtdd và chỗ định đi cho quản lí biết
6. Khi đi ở chỗ vắng, buổi tối mà gặp ng lạ nên chủ động chào, tỏ thái độ thân thiện. Để tay cho ng ta thấy mình ko mang vũ khí
7. Đi tắm biển phải báo quản lí. Tối thiểu 3 ng. Xảy ra sự cố thì 1 nguoi ở lại định vị. 1 ng chạy đi tìm cứu hộ. Hét to HELP
8. Tuyệt đối chấp hành y cầu của cs. Khi cảnh sát hô FREEZE/STOP thì đứng yên. Ko làm bất cứ cử động gì. Họ có thể bắn.
9. Khi nói chuyện v ng chưa biết rõ thì tránh các đề tài có thể gây tranh cãi: tôn giáo, chủng tộc
10. Ko nhận lời mời ăn uống đi chơi của ng lạ
11. Gặp cướp ko chống cự.
Và nhiều điều nữa. Chủ yếu để bảo toàn tính mạng.
Kỹ năng sinh tồn 1
Khi bạn thuê LS, bạn có thừa tg để tự mình tham khảo luật, bàn thảo v LS của mình. LS của bạn còn phải tranh cãi v LS của bên kia, hoặc công tố viên. Rồi thẩm phán phán quyết nếu là việc liên quan đến Tòa án. Nếu là việc riêng khi cần thì bạn có thể tự quyết định. Nói chung còn có nhiều phản biện và trên cơ sở luật khá tường minh. Tự bạn có thể theo dõi tiến trình vụ việc, có thể thay đổi LS giữa chừng hoặc cùng lắm thì dẹp LS sang 1 bên và tự quyết định.
Với ngành y thì ko thể như thế. Bước chân vào BV là bạn đã giao phó tính mạng cho BS và nv y tế của BV. Cơ hội để bạn sửa sai nói chung là rất thấp.
Vì vậy nên có 1 vài ng bạn thân là BS để tư vấn và cần trang bị cho mình 1 kĩ năng tối thiểu – tra cứu internet.
Tôi kể ra đây 1 trường hợp riêng. Ko có tính phổ quát.
Ba mẹ tôi đều là BS. Bạn của các cụ cũng là BS.
Con cái họ phần lớn theo nghề y. Nay đã 50-60 tuổi, nhiều ng là các GS BS giỏi. Tôi có thuận lợi là luôn giữ quan hệ thân thiết với họ.
Ba tôi cần phải mổ u xơ tiền liệt tuyến. Đây là phẫu thuật đơn giản. Bạn thân của tôi, con 1 BS đồng nghiệp của Ba tôi, là chuyên gia trong lĩnh vực này. Rất giỏi. Anh đang lv tai 1 BV của NN ở HN. Tôi đưa ông cụ vào đây và anh bạn bảo yên tâm. Nằm độ 3-4 hôm rồi về.
Sau phãu thuật thì Ba tôi bị viêm phổi. BV điều trị rất tích cực. Vì khá hiểu biết ngành Y và yên tâm là bạn mình ko tự ái, tôi mời thêm các BS hàng đầu từ các BV lớn khác và các GS bạn của ba tôi đến hội chẩn, cho phác đò điều trị. Ngoài ra tôi tra cứu trên internet các thông tin liên quan để yên tâm rằng các BS này phán đúng. Về điều kiện kĩ thuật thì đây chắc chắn là 1 cơ sở y tế tốt nhất ở VN. Và phí cũng tương ứng. Điều trị thường khoảng 10tr/1 ngày. Nằm phòng cấp cứu khoảng 20tr/1 ngày. Các BS và NV y tế toàn tâm điều trị. Tuyệt đối ko có chuyện tiêu cực. Tuy nhiên bệnh ngày càng nặng. Ba tôi biết tiếng Pháp nên khi nghe các BS trao đổi v nhau thì ông biết là ko còn hi vọng, bắt tôi đưa về nhà. Tôi ko nghe.
Khuya 1 tết, BS trực cấp cứu gọi tôi vào BV – Tiên lượng rất xấu. Gia đình chuẩn bị hậu sự. Ô cụ có thể chỉ sống được 1-2 ngày.
Tôi gọi cho 1 người bạn thân nhờ mua đất nghĩa trang. Sau đó gọi cho các BS khác để tư vấn.
Họ khuyên nên chuyển ô cụ sang 1 BV khác. Và trong trường hợp này thì nên đến BV abc. Tôi quen từ lãnh đạo Bộ Y tế đến GĐ BV này. Việc chuyển viện thuận tiện. Tuy nhiên BV VN thì khác hẳn BV nước ngoài. Rất nhiều thủ tục nhiêu khê và đk vật chất rất tệ ( so với BV NN ). Tóm lại luôn phải có 3-4 người nhà đi theo để di chuyển từ khoa này sang khoa khác, đi chụp phim, vệ sinh, cho ăn… Riêng thanh toán phải đến 3-4 quầy khác nhau. Phải trả bằng tiền mặt vì BV ko đủ tiền trang bị máy đọc thẻ ( hay là ko thích giao dịch qua ngân hàng? ). Tiền cấp cứu 1 quầy, tiền điều trị 1 quầy, tiền thuốc 1 quầy, tiền thuê phíc nước nóng, áo quần y tế cho ng chăm nom 1 quầy, đặt cọc thuê cáng để di chuyển từ khoa nọ sang khoa kia 1 quầy, lại còn thủ tục BHYT nữa. Trong túi tôi luôn phải thủ 50 tr tiền mặt.
Tóm lại chuyển từ khoa nọ sang khoa kia phức tạp hơn làm visa đi Mĩ. Nếu phải đưa người nhà vào BV mà sau đó ko phát điên thì bạn đủ tiêu chuẩn để gia nhập đọi đặc nhiệm SEAL của Mĩ. Là tôi đang nói về BV hàng đầu của Thủ đô.
Cúng may tôi quen nhiều chức sắc trong ngành Y. Phải nói rằng các BS điều trị cho Ba tôi rất tích cực.
Tuy nhiên bệnh ngày càng nặng. Sau 10 ngày Trưởng khoa gọi tôi đến và bào cẩn phải làm 1 cuộc phãu thuật nữa và đăt ống sonde qua thành bụng vào dạ dày.
Rồi sao? Ông cụ sẽ phải sống chung với cái ống này suốt đời.
Oài! Tôi ký vào biên bản đồng ý phẫu thuật.
Rồi thảo luận v Ba tôi. Ông cụ ko đồng ý - Chết thì thôi. Chúng mày lắm chuyện quá. Tuổi thọ TB ng VN là 76. t*o đã 83, lãi rồi.
Tôi lại tư vấn với các BS là bạn thân. Họ khuyên nên chuyển viện lần nữa. Lần này thì đến BV dành riêng cho cán bộ. Ba tôi có tiêu chuẩn điều trị ở đó.
Tôi cũng quen nhiều BS ở BV này. Cái khó là làm sao để equipe BS đang điều trị cho Ba tôi ở BV hiện tại không tự ái. Tôi bịa lí do là thầy bói phán mổ ngày này ko tốt và lẳng lặng chuyển ông cụ sang BV khác.
BV này về điều kiện vật chất và kĩ thuật thì tốt hơn hẳn. Dành cho cán bộ cao cấp cũng có khác. Họ chỉ y cầu tôi khéo léo mời mấy ô GS bạn của Ba tôi về, đừng tham gia hội chẩn. Cứ giao phó việc điều tri cho bọn em. Họ phát hiện ra ba tôi bị suy dinh dưỡng nặng. Hóa ra tôi ko biết, giao phó việc ăn uống cho BV kia – giống như ở các BV NN, và chế độ ăn của BV này quá thiếu chất. Chú em BS của BV mới bảo – Ko cần ốm, khỏe như anh mà ăn thế này cũng chết. Và kê cho ba tôi 1 chế độ dinh dưỡng đặc biệt. Tất nhiên gia đình tự lo phần này. BG thì tôi có kinh nghiệm rồi.
Rất may là sau 20 ngày BV thứ 3 này đã điều trị cho Ba tôi khỏi hẳn.
Khi phải vào bệnh viện, nên cẩn thận tư vấn với vài BS chuyên ngành từ các BV khác, tra cứu thêm thông tin liên quan trên internet và ko phó thác hoàn toàn việc chăm sóc bệnh nhân cho BV.
Khi thấy cần thì dứt khoát chuyển BV, thay equipe BS điều trị nếu có điều kiện.
Minh Chiet
Trường đưa danh sách việc phải làm
1. Làm thẻ sv. Cất hộ chiếu ở nhà. Mất thẻ trường cấp lại được. Mất hc rất lằng nhằng
2. Sang quầy nh bên cạnh mở tk. Gửi hết tiền mặt. Chỉ nên giữ ko quá 50 bảng trong người. Nh cấp thẻ debit/credit. Mất thẻ ko mất tiền. Nh sẽ cấp lại
3. Đi xe đạp thì ko để túi đằng sau, ko để đằng trước. Mà đeo vào ng phía trước ngực
4. Không ra phố sau 10pm
5. Nếu đi chơi thì nên đi cùng vài ng bạn. Báo số dtdd và chỗ định đi cho quản lí biết
6. Khi đi ở chỗ vắng, buổi tối mà gặp ng lạ nên chủ động chào, tỏ thái độ thân thiện. Để tay cho ng ta thấy mình ko mang vũ khí
7. Đi tắm biển phải báo quản lí. Tối thiểu 3 ng. Xảy ra sự cố thì 1 nguoi ở lại định vị. 1 ng chạy đi tìm cứu hộ. Hét to HELP
8. Tuyệt đối chấp hành y cầu của cs. Khi cảnh sát hô FREEZE/STOP thì đứng yên. Ko làm bất cứ cử động gì. Họ có thể bắn.
9. Khi nói chuyện v ng chưa biết rõ thì tránh các đề tài có thể gây tranh cãi: tôn giáo, chủng tộc
10. Ko nhận lời mời ăn uống đi chơi của ng lạ
11. Gặp cướp ko chống cự.
Và nhiều điều nữa. Chủ yếu để bảo toàn tính mạng.
Kỹ năng sinh tồn 1
Khi bạn thuê LS, bạn có thừa tg để tự mình tham khảo luật, bàn thảo v LS của mình. LS của bạn còn phải tranh cãi v LS của bên kia, hoặc công tố viên. Rồi thẩm phán phán quyết nếu là việc liên quan đến Tòa án. Nếu là việc riêng khi cần thì bạn có thể tự quyết định. Nói chung còn có nhiều phản biện và trên cơ sở luật khá tường minh. Tự bạn có thể theo dõi tiến trình vụ việc, có thể thay đổi LS giữa chừng hoặc cùng lắm thì dẹp LS sang 1 bên và tự quyết định.
Với ngành y thì ko thể như thế. Bước chân vào BV là bạn đã giao phó tính mạng cho BS và nv y tế của BV. Cơ hội để bạn sửa sai nói chung là rất thấp.
Vì vậy nên có 1 vài ng bạn thân là BS để tư vấn và cần trang bị cho mình 1 kĩ năng tối thiểu – tra cứu internet.
Tôi kể ra đây 1 trường hợp riêng. Ko có tính phổ quát.
Ba mẹ tôi đều là BS. Bạn của các cụ cũng là BS.
Con cái họ phần lớn theo nghề y. Nay đã 50-60 tuổi, nhiều ng là các GS BS giỏi. Tôi có thuận lợi là luôn giữ quan hệ thân thiết với họ.
Ba tôi cần phải mổ u xơ tiền liệt tuyến. Đây là phẫu thuật đơn giản. Bạn thân của tôi, con 1 BS đồng nghiệp của Ba tôi, là chuyên gia trong lĩnh vực này. Rất giỏi. Anh đang lv tai 1 BV của NN ở HN. Tôi đưa ông cụ vào đây và anh bạn bảo yên tâm. Nằm độ 3-4 hôm rồi về.
Sau phãu thuật thì Ba tôi bị viêm phổi. BV điều trị rất tích cực. Vì khá hiểu biết ngành Y và yên tâm là bạn mình ko tự ái, tôi mời thêm các BS hàng đầu từ các BV lớn khác và các GS bạn của ba tôi đến hội chẩn, cho phác đò điều trị. Ngoài ra tôi tra cứu trên internet các thông tin liên quan để yên tâm rằng các BS này phán đúng. Về điều kiện kĩ thuật thì đây chắc chắn là 1 cơ sở y tế tốt nhất ở VN. Và phí cũng tương ứng. Điều trị thường khoảng 10tr/1 ngày. Nằm phòng cấp cứu khoảng 20tr/1 ngày. Các BS và NV y tế toàn tâm điều trị. Tuyệt đối ko có chuyện tiêu cực. Tuy nhiên bệnh ngày càng nặng. Ba tôi biết tiếng Pháp nên khi nghe các BS trao đổi v nhau thì ông biết là ko còn hi vọng, bắt tôi đưa về nhà. Tôi ko nghe.
Khuya 1 tết, BS trực cấp cứu gọi tôi vào BV – Tiên lượng rất xấu. Gia đình chuẩn bị hậu sự. Ô cụ có thể chỉ sống được 1-2 ngày.
Tôi gọi cho 1 người bạn thân nhờ mua đất nghĩa trang. Sau đó gọi cho các BS khác để tư vấn.
Họ khuyên nên chuyển ô cụ sang 1 BV khác. Và trong trường hợp này thì nên đến BV abc. Tôi quen từ lãnh đạo Bộ Y tế đến GĐ BV này. Việc chuyển viện thuận tiện. Tuy nhiên BV VN thì khác hẳn BV nước ngoài. Rất nhiều thủ tục nhiêu khê và đk vật chất rất tệ ( so với BV NN ). Tóm lại luôn phải có 3-4 người nhà đi theo để di chuyển từ khoa này sang khoa khác, đi chụp phim, vệ sinh, cho ăn… Riêng thanh toán phải đến 3-4 quầy khác nhau. Phải trả bằng tiền mặt vì BV ko đủ tiền trang bị máy đọc thẻ ( hay là ko thích giao dịch qua ngân hàng? ). Tiền cấp cứu 1 quầy, tiền điều trị 1 quầy, tiền thuốc 1 quầy, tiền thuê phíc nước nóng, áo quần y tế cho ng chăm nom 1 quầy, đặt cọc thuê cáng để di chuyển từ khoa nọ sang khoa kia 1 quầy, lại còn thủ tục BHYT nữa. Trong túi tôi luôn phải thủ 50 tr tiền mặt.
Tóm lại chuyển từ khoa nọ sang khoa kia phức tạp hơn làm visa đi Mĩ. Nếu phải đưa người nhà vào BV mà sau đó ko phát điên thì bạn đủ tiêu chuẩn để gia nhập đọi đặc nhiệm SEAL của Mĩ. Là tôi đang nói về BV hàng đầu của Thủ đô.
Cúng may tôi quen nhiều chức sắc trong ngành Y. Phải nói rằng các BS điều trị cho Ba tôi rất tích cực.
Tuy nhiên bệnh ngày càng nặng. Sau 10 ngày Trưởng khoa gọi tôi đến và bào cẩn phải làm 1 cuộc phãu thuật nữa và đăt ống sonde qua thành bụng vào dạ dày.
Rồi sao? Ông cụ sẽ phải sống chung với cái ống này suốt đời.
Oài! Tôi ký vào biên bản đồng ý phẫu thuật.
Rồi thảo luận v Ba tôi. Ông cụ ko đồng ý - Chết thì thôi. Chúng mày lắm chuyện quá. Tuổi thọ TB ng VN là 76. t*o đã 83, lãi rồi.
Tôi lại tư vấn với các BS là bạn thân. Họ khuyên nên chuyển viện lần nữa. Lần này thì đến BV dành riêng cho cán bộ. Ba tôi có tiêu chuẩn điều trị ở đó.
Tôi cũng quen nhiều BS ở BV này. Cái khó là làm sao để equipe BS đang điều trị cho Ba tôi ở BV hiện tại không tự ái. Tôi bịa lí do là thầy bói phán mổ ngày này ko tốt và lẳng lặng chuyển ông cụ sang BV khác.
BV này về điều kiện vật chất và kĩ thuật thì tốt hơn hẳn. Dành cho cán bộ cao cấp cũng có khác. Họ chỉ y cầu tôi khéo léo mời mấy ô GS bạn của Ba tôi về, đừng tham gia hội chẩn. Cứ giao phó việc điều tri cho bọn em. Họ phát hiện ra ba tôi bị suy dinh dưỡng nặng. Hóa ra tôi ko biết, giao phó việc ăn uống cho BV kia – giống như ở các BV NN, và chế độ ăn của BV này quá thiếu chất. Chú em BS của BV mới bảo – Ko cần ốm, khỏe như anh mà ăn thế này cũng chết. Và kê cho ba tôi 1 chế độ dinh dưỡng đặc biệt. Tất nhiên gia đình tự lo phần này. BG thì tôi có kinh nghiệm rồi.
Rất may là sau 20 ngày BV thứ 3 này đã điều trị cho Ba tôi khỏi hẳn.
Khi phải vào bệnh viện, nên cẩn thận tư vấn với vài BS chuyên ngành từ các BV khác, tra cứu thêm thông tin liên quan trên internet và ko phó thác hoàn toàn việc chăm sóc bệnh nhân cho BV.
Khi thấy cần thì dứt khoát chuyển BV, thay equipe BS điều trị nếu có điều kiện.
Minh Chiet
Lou
19/03/2016
Hộ chiếu Việt Nam thuộc loại ‘kém giá trị’ nhất thế giới
Hộ chiếu Việt Nam bị xếp thứ 90 trong số 94 quốc gia trong bảng xếp hạng Chỉ số Giới hạn Thị thực của Henley and Partners.
Việt Nam đứng ở vị trí thứ 90 trong danh sách 94 quốc gia có hộ chiếu quyền lực nhất thế giới, đứng sau cả Campuchia.
Công ty tư vấn toàn cầu Henley and Partners mới công bố bảng xếp hạng có tên gọi Chỉ số Giới hạn Thị thực, theo đó xếp hạng 94 nước trên thế giới dựa trên mức độ tự do nhập cảnh vào các quốc gia trên thế giới.
Các quốc gia nằm trong nhóm đầu, không phải có visa mà vẫn tới được 174 nước bao gồm Phần Lan, Đức, Thụy Điển, Anh và Mỹ.
Chỉ có 2 quốc gia châu Á nằm trong top 20 nước có thị thực “quyền lực nhất thế giới” gồm Nhật Bản và Singapore.
Theo báo chí trong nước, với hộ chiếu phổ thông, công dân Việt Nam được tự do đi lại ở 44 quốc gia trên thế giới mà không cần visa.
Xếp cuối bảng xếp hạng, đứng ở vị trí thứ 94, là Afghanistan. Công dân nước này chỉ có thể tới 28 quốc gia mà không cần visa. Các quốc gia nằm trong nhóm chót bảng còn có Iraq, Pakistan, Somalia và lãnh thổ Palestine.
Đáng chú ý, Bắc Hàn và Cuba không thuộc số các nước đứng cuối bảng, mà đứng ở vị trí tương ứng là 86 và 69.
Theo công ty chuyên tư vấn về quốc tịch và cư trú Henley and Partners, số điểm của mỗi nước được tính toán dựa trên các luật lệ về visa của mọi quốc gia và các vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, cũng như số quốc gia mà công dân mỗi nước có thể tới mà không cần phải xin thị thực.
Công ty Henley and Partners nhận xét rằng các yêu cầu về thị thực “phản ánh mối quan hệ giữa các nước, cũng như cho thấy vị thế của một nước nào đó trên trường quốc tế”.
Cuối năm ngoái, chính phủ Việt Nam đề xuất ý định cấp visa thời hạn một năm với nhiều lần nhập cảnh cho công dân Mỹ, thay vì thị thực ngắn hạn 3 tháng như hiện nay, sau khi quan hệ Hà Nội – Washington trở nên nồng ấm.
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới của Liên Hiệp Quốc (UNWTO), 3/4 số công dân trên thế giới tới châu Âu cần phải xin visa.
Chị Hoài Thu, một tư vấn viên du lịch châu Âu ở Hà Nội, nói với VOA Việt Ngữ rằng việc xin thị thực vào châu Âu đang ngày càng trở nên khó khăn hơn đối với các du khách người Việt.
Chị nói thêm:
“Hồ sơ cũng khá là nhiều và phức tạp, bởi vì phải chứng minh được tài chính, tức là có một sổ tiết kiệm tối thiểu là 200 triệu đồng đã gửi ở ngân hàng, rồi có hợp đồng lao động, đơn xin nghỉ phép rồi tất cả các giấy giờ khác. Điều kiện của đại sứ quán họ đưa ra như vậy, là phải chứng minh được tài chính và chứng minh được công việc để chứng tỏ có mối ràng buộc ở Việt Nam và sẽ quay trở lại Việt Nam chứ không trốn đi. Xin visa châu Âu hiện nay khó bởi vì đợt vừa qua có nhiều người Việt Nam đi nước ngoài và trốn lại nên việc xét duyệt hồ sơ cũng khắt khe hơn”.
Xin visa châu Âu hiện nay khó bởi vì đợt vừa qua có nhiều người Việt Nam đi nước ngoài và trốn lại nên việc xét duyệt hồ sơ cũng khắt khe hơn.
Chị Hoài Thu.
Không chỉ châu Âu mà một số quốc gia châu Á cũng tính tới chuyện thắt chặt việc cấp visa cho người Việt sau tình trạng du khách từ Việt Nam bỏ trốn.
Hồi đầu năm nay, gần 50 người Việt tới thăm Hàn Quốc đã “biến mất” khỏi hòn đảo nghỉ mát Jeju. Theo một điều luật đặc biệt của địa phương, các du khách, trừ các công dân những nước có liên quan tới khủng bố, có thể tới thăm và ở lại hòn đảo nghỉ mát này mà không cần visa tối đa là 30 ngày.
Báo chí Hàn Quốc đưa tin, nhiều người Việt bỏ trốn vì muốn ở lại quốc gia nằm ở khu vực Đông Bắc Á để “kiếm việc làm chui”.
Trong khi đó, lực lượng tuần duyên của Đài Loan và Nhật Bản thời gian qua đã bắt giữ nhiều ngư dân Việt nhảy khỏi các tàu cá nước ngoài khi tới gần lãnh hải của hòn đảo và quốc gia được cho là có nhiều người Việt sinh sống và làm việc.
Giới hữu trách Đài Bắc và Tokyo được báo chí dẫn lời nói rằng những người Việt nhảy xuống biển để bơi vào bờ vì muốn tìm đường nhập cư trái phép.
Tháng trước, ông Đào Việt Trung, Chủ nhiệm văn phòng Chủ tịch nước, đã báo cáo công tác nhiệm kỳ 2011 – 2016 của ông Trương Tấn Sang.
Theo đó, trong 5 năm qua, ông Sang đã cho nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam đối với 3.157 người, và cho thôi quốc tịch Việt Nam đối với 32.638 người.
Tuy nhiên, chủ nhiệm văn phòng chủ tịch nước của Việt Nam không nói rõ lý do vì sao hàng chục nghìn người này lại bị cho thôi quốc tịch.
Nguồn: VOA Tiếng Việt
Hộ chiếu Việt Nam bị xếp thứ 90 trong số 94 quốc gia trong bảng xếp hạng Chỉ số Giới hạn Thị thực của Henley and Partners.
Việt Nam đứng ở vị trí thứ 90 trong danh sách 94 quốc gia có hộ chiếu quyền lực nhất thế giới, đứng sau cả Campuchia.
Công ty tư vấn toàn cầu Henley and Partners mới công bố bảng xếp hạng có tên gọi Chỉ số Giới hạn Thị thực, theo đó xếp hạng 94 nước trên thế giới dựa trên mức độ tự do nhập cảnh vào các quốc gia trên thế giới.
Các quốc gia nằm trong nhóm đầu, không phải có visa mà vẫn tới được 174 nước bao gồm Phần Lan, Đức, Thụy Điển, Anh và Mỹ.
Chỉ có 2 quốc gia châu Á nằm trong top 20 nước có thị thực “quyền lực nhất thế giới” gồm Nhật Bản và Singapore.
Theo báo chí trong nước, với hộ chiếu phổ thông, công dân Việt Nam được tự do đi lại ở 44 quốc gia trên thế giới mà không cần visa.
Xếp cuối bảng xếp hạng, đứng ở vị trí thứ 94, là Afghanistan. Công dân nước này chỉ có thể tới 28 quốc gia mà không cần visa. Các quốc gia nằm trong nhóm chót bảng còn có Iraq, Pakistan, Somalia và lãnh thổ Palestine.
Đáng chú ý, Bắc Hàn và Cuba không thuộc số các nước đứng cuối bảng, mà đứng ở vị trí tương ứng là 86 và 69.
Theo công ty chuyên tư vấn về quốc tịch và cư trú Henley and Partners, số điểm của mỗi nước được tính toán dựa trên các luật lệ về visa của mọi quốc gia và các vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, cũng như số quốc gia mà công dân mỗi nước có thể tới mà không cần phải xin thị thực.
Công ty Henley and Partners nhận xét rằng các yêu cầu về thị thực “phản ánh mối quan hệ giữa các nước, cũng như cho thấy vị thế của một nước nào đó trên trường quốc tế”.
Cuối năm ngoái, chính phủ Việt Nam đề xuất ý định cấp visa thời hạn một năm với nhiều lần nhập cảnh cho công dân Mỹ, thay vì thị thực ngắn hạn 3 tháng như hiện nay, sau khi quan hệ Hà Nội – Washington trở nên nồng ấm.
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới của Liên Hiệp Quốc (UNWTO), 3/4 số công dân trên thế giới tới châu Âu cần phải xin visa.
Chị Hoài Thu, một tư vấn viên du lịch châu Âu ở Hà Nội, nói với VOA Việt Ngữ rằng việc xin thị thực vào châu Âu đang ngày càng trở nên khó khăn hơn đối với các du khách người Việt.
Chị nói thêm:
“Hồ sơ cũng khá là nhiều và phức tạp, bởi vì phải chứng minh được tài chính, tức là có một sổ tiết kiệm tối thiểu là 200 triệu đồng đã gửi ở ngân hàng, rồi có hợp đồng lao động, đơn xin nghỉ phép rồi tất cả các giấy giờ khác. Điều kiện của đại sứ quán họ đưa ra như vậy, là phải chứng minh được tài chính và chứng minh được công việc để chứng tỏ có mối ràng buộc ở Việt Nam và sẽ quay trở lại Việt Nam chứ không trốn đi. Xin visa châu Âu hiện nay khó bởi vì đợt vừa qua có nhiều người Việt Nam đi nước ngoài và trốn lại nên việc xét duyệt hồ sơ cũng khắt khe hơn”.
Xin visa châu Âu hiện nay khó bởi vì đợt vừa qua có nhiều người Việt Nam đi nước ngoài và trốn lại nên việc xét duyệt hồ sơ cũng khắt khe hơn.
Chị Hoài Thu.
Không chỉ châu Âu mà một số quốc gia châu Á cũng tính tới chuyện thắt chặt việc cấp visa cho người Việt sau tình trạng du khách từ Việt Nam bỏ trốn.
Hồi đầu năm nay, gần 50 người Việt tới thăm Hàn Quốc đã “biến mất” khỏi hòn đảo nghỉ mát Jeju. Theo một điều luật đặc biệt của địa phương, các du khách, trừ các công dân những nước có liên quan tới khủng bố, có thể tới thăm và ở lại hòn đảo nghỉ mát này mà không cần visa tối đa là 30 ngày.
Báo chí Hàn Quốc đưa tin, nhiều người Việt bỏ trốn vì muốn ở lại quốc gia nằm ở khu vực Đông Bắc Á để “kiếm việc làm chui”.
Trong khi đó, lực lượng tuần duyên của Đài Loan và Nhật Bản thời gian qua đã bắt giữ nhiều ngư dân Việt nhảy khỏi các tàu cá nước ngoài khi tới gần lãnh hải của hòn đảo và quốc gia được cho là có nhiều người Việt sinh sống và làm việc.
Giới hữu trách Đài Bắc và Tokyo được báo chí dẫn lời nói rằng những người Việt nhảy xuống biển để bơi vào bờ vì muốn tìm đường nhập cư trái phép.
Tháng trước, ông Đào Việt Trung, Chủ nhiệm văn phòng Chủ tịch nước, đã báo cáo công tác nhiệm kỳ 2011 – 2016 của ông Trương Tấn Sang.
Theo đó, trong 5 năm qua, ông Sang đã cho nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam đối với 3.157 người, và cho thôi quốc tịch Việt Nam đối với 32.638 người.
Tuy nhiên, chủ nhiệm văn phòng chủ tịch nước của Việt Nam không nói rõ lý do vì sao hàng chục nghìn người này lại bị cho thôi quốc tịch.
Nguồn: VOA Tiếng Việt
Lou
19/03/2016
Người Việt Nam thần thánh ai cũng có HỌ , nhưng có lẽ ít người biết gốc tích họ của mình, tôi xin giới thiệu bài biên lừng danh của anh Vinhhuy Le , 1 giáo sư lừng danh kim cổ về Họ của người Việt:
HỌ CỦA NGƯỜI VIỆT
Danh tính gắn liền với đời người, ai cũng có quyền tự hào về tên họ của mình, nhưng ít khi người ta quan tâm cái họ của mình bắt nguồn từ đâu; và càng hiếm người phát hiện ra tộc Việt vốn… không có họ. Họ của người Việt, trừ một số rất ít mượn của Chiêm tộc và Chân Lạp, còn thì hầu hết đều bắt nguồn từ Trung Hoa.
Đọc sử Việt Nam, nếu chú ý cái họ, ta sẽ thấy thủy tổ các dòng dõi vương triều Đại Việt đều có huyết thống rơi rớt từ phương Bắc: Ngô Quyền, người sáng lập triều Ngô, gốc ở đất Ký (冀 – tên gọi tắt tỉnh Hà Bắc, Trung Hoa); Đinh Bộ Lĩnh, người gốc Việt (粵 – tên gọi tắt tỉnh Quảng Đông); Lê Hoàn gốc Thục (蜀 – tên gọi tắt tỉnh Tứ Xuyên); Lý Công Uẩn và Trần Thừa cùng gốc Mân (閩 – tên gọi tắt tỉnh Phúc Kiến); Hồ Quý Ly gốc ở Chiết Giang; Mạc Đăng Dung gốc Quảng Đông; Lê Lợi gốc Phúc Kiến; Trịnh Kiểm, cũng như Nguyễn Phúc Ánh, đều gốc Mân Phúc Kiến.
Tại sao lại có sự dính líu của các vương triều ở đây? Thật ra không phải chỉ bọn vua quan, mà cả lê dân ít nhiều đều có gốc gác từ Tàu. Có muốn chối bỏ điều đó cũng không được, nó thể hiện rành rành trên chứng minh thư mỗi người.
HỌ TRIỆU 趙
Xếp theo số lượng thì họ Triệu đứng hàng thứ 7 ở Trung Hoa.
Họ Triệu hình thành chủ yếu là do họ Doanh 嬴. Thủy tổ họ Doanh có công lớn trừ phản tặc, được Chu Mục vương (1054-949 trCn) cắt thưởng cho thành Triệu. Từ đó, để nhớ huân công này, phần nhiều con cháu họ Doanh lấy Triệu làm họ, và lập ra nước Triệu thời Chiến quốc. Triệu quốc thiên đô đến Hàm Đan (nay thuộc tỉnh Hà Bắc), đến năm 222 trCn thì bị Tần diệt. Họ Triệu sinh sôi phát triển chủ yếu ở miền bắc Trung Hoa.
Theo “Sử ký” của Tư Mã Thiên, vào cuối đời Tần, dòng dõi nước Triệu là Triệu Đà, làm huyện lệnh của Tần, vì bất phục, muốn tạo dựng giang sơn riêng, nên đã cát cứ một dải Lĩnh Nam, lấy Quảng Châu làm trung tâm, lập ra nước Nam Việt, tự xưng Nam Việt vương.
Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”: “Họ Triệu, tên húy là Đà, người huyện Chân Định, nước Hán, đóng đô ở Phiên Ngung (nay ở tỉnh Quảng Đông). Giáp Ngọ, năm thứ 1 [207 trCn], Tần Nhị thế năm thứ 3, vua chiếm lấy đất Lâm Ấp và Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt vương”.
HỌ NGÔ 吳
Ngô được xếp hạng là dòng họ lớn thứ 10 ở Trung Hoa, hàng thứ 6 ở Việt Nam, và là một trong 20 họ phổ biến ở Triều Tiên.
Nguồn gốc họ Ngô vốn từ họ Cơ 姬, thủy tổ là Thái Bá và Trọng Ung đời nhà Thương.
Nguyên đời Thương (1766-1122 trCn), thủ lĩnh họ Cơ của bộ tộc Chu là Cơ Cố Công (Chu Thái vương) có ba con trai: Thái Bá, Trọng Ung và Quý Lịch. Chu Thái vương đặt hy vọng lớn vào người con út Quý Lịch. Thái Bá và Trọng Ung do đó truyền ngôi lại cho em. Quý Lịch sau này có người con là Cơ Xương làm nên đại nghiệp, lập nhà Chu, chính là Chu Văn vương, người diệt nhà Thương. Nói về Cơ Thái Bá và Cơ Trọng Ung, họ sau đó đã đến khai phá vùng duyên hải mạn đông nam.
Năm 585 trCn, cháu đời thứ 19 của Trọng Ung là Thọ Mộng chính thức xưng vương, lập nên nước Ngô hùng mạnh, từng tranh bá với thiên hạ. Đến 473 TrCn, Ngô bị nước Việt diệt. Con cháu nước Ngô chạy loạn tứ tán, để khỏi quên nước cũ, họ lấy quốc hiệu Ngô làm họ.
Họ Ngô đào thoát ra hải ngoại, đã sớm đến Nhật Bản. Sau khi nước Ngô bị diệt, khoảng 450 trCn, nhiều con cháu họ Ngô đã đến Nhật Bản. Có nhiều giả thiết cho rằng Thần Võ thiên hoàng (Jinmu Tennō), vị Thiên hoàng đầu tiên của Nhật Bản, là dòng dõi họ Ngô thời Chiến quốc.
Cùng lúc với nhánh lánh nạn sang phương đông, một chi khác của họ Ngô thiên di về phương Nam, đến Giao Chỉ. Sau đó, do nhậm chức quan hoặc bởi doanh thương, họ Ngô ngày càng nhiều người tìm đến vùng đất này. Trong bộ “Nguyên Hòa tính toản” của Lâm Bảo đời Đường biên soạn còn ghi lại: Cháu đích tôn của họ Ngô ở Bột Hải là Ngô Nạp nhậm chức thứ sử An Châu (sau đổi thành Ái Châu, nay là tỉnh Thanh Hóa), do đó nhiều người họ Ngô ở Bột Hải đã di cư đến miền bắc Việt Nam.
Khi nhà Đường diệt vong, Trung Hoa phân rã thành 10 nước. Lúc ấy có Lưu Ẩn là tiết độ sứ Thanh Hải quân kiêm tiết độ sứ Tĩnh Hải quân và An Nam đô hộ phủ. Lưu Ẩn mất, em là Lưu Nham lên thay, tự xưng mình là hậu duệ nhà Hán, lập ra nhà Nam Hán. Đây chính là thời kỳ Ngũ đại Thập quốc bên Tàu (907-979). Năm 917, Nam Hán bổ nhiệm Dương Đình Nghệ làm tiết độ sứ Giao Chỉ.
Năm 937, Dương Đình Nghệ bị bộ tướng là Kiều Công Tiễn sát hại để cướp ngôi vị. Năm sau, một nha tướng khác, đồng thời cũng là con rễ của Dương, là Ngô Quyền, mang quân từ châu Ái (Thanh Hóa) kéo về giết Kiều Công Tiễn, đồng thời đánh bại luôn quân Nam Hán vừa kéo sang toan bình định Giao Chỉ. Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, lập nên nhà Ngô. Sử nước ta vẫn thường tâng bốc Ngô là vương triều độc lập đầu tiên của Đại Việt, nhưng thực ra đây chỉ là sự tranh chấp quyền lợi và thế lực giữa bọn quan lại Trung Hoa trong lúc rối ren mà thôi.
Ngô Quyền chính là một người Tàu, là cháu đời thứ 50 của Ngô Quý Trát ở trấn Diên Lăng thuộc tỉnh Giang Tô. Quý Trát là con thứ tư của Thọ Mộng, người khi xưa đã lập nên nước Ngô. Ngô vương vốn muốn truyền ngôi cho Thọ Mộng, nhưng ông không chịu nhận, bỏ trốn đến Diên Lăng khai khẩn lập ấp. Chi họ Ngô này sau đó có người thiên di sang Nam, đến đời Ngô vương Quyền thì được làm nha tướng, lại được Dương Đình Nghệ gả con, cho phụ coi quản châu Ái.
HỌ ĐINH 丁
Theo các sách “Nguyên Hòa tính toản”, “Vạn tính thống phổ”, “Thông chí – thị tộc lược”, thì gốc của họ Đinh là từ họ Khương. Con trai Khương Tử Nha là Khương Cấp, cùng làm trọng thần nhà Chu, khi mất được Chu ban cho thụy hiệu là Đinh công, con cháu của Cấp vì đó lấy thụy hiệu làm họ.
Thời Ngũ đại Thập quốc, Trung Hoa mênh mông chia thành 10 nước xâu xé nhau, thì quận Giao Chỉ nhỏ bé bằng bàn tay cũng chia làm 12 sứ quân (944-968) tranh giành thế lực, và trong 12 thế lực đó, hết 3/4 có thể xác định đều là người Tàu.
Đinh Bộ Lĩnh, người anh hùng cờ lau tập trận, là con của Đinh Công Trứ. Trứ vốn người Tàu gốc ở Quảng Đông, sang làm thứ sử châu Hoan, là nha tướng của sứ quân Trần Lãm. Khi Trần Lãm mệnh một (năm 967), Đinh Bộ Lĩnh thừa hưởng binh quyền, từ đó dẹp bọn người Tàu kia, lập ra nước Đại Cồ Việt (968). Nếu không có gốc gác họ Tàu đó, vào năm 975, Tống Thái tổ khó lòng phong Đinh Bộ Lĩnh làm “An Nam Đô hộ Kiểm hiệu Thái sư Giao Chỉ quận vương”, để kể từ đó Trung Hoa chịu nhìn nhận Đại Việt như một nước chư hầu, chứ không phải là quận huyện do họ cai quản nữa.
HỌ LÊ 黎
Lê xếp hạng 92 trong sách “Bách tính gia” của Trung Hoa (soạn vào đời Tống), nhưng là một trong 10 họ lớn ở Việt Nam.
Đời nhà Thương, có hai nước chư hầu nhỏ cùng lấy quốc hiệu là Lê: một thuộc khu vực tỉnh Sơn Tây (Trung quốc) ngày nay; và một ở huyện Vận Thành tỉnh Sơn Đông. Con cháu hai nước này đều lấy quốc hiệu làm họ.
Từ thời cổ đại, đã có nhiều người Tàu họ Lê di cư sang Đại Việt, chẳng những thế, họ còn gầy dựng Lê thành vọng tộc suốt một dải Thanh Hóa.
Năm 980, người họ Lê gốc Thục (Quảng Tây) là Lê Hoàn sáng lập nên triều Tiền Lê của Đại Việt.
Năm 1428, một người họ Lê khác, gốc Mân (Phúc Kiến), là Lê Lợi lập nên triều Hậu Lê. Đọc kỹ “Đại Việt sử ký toàn thư”, ta sẽ thấy ông Phúc Kiến Lê Lợi là người quen biết, thường xuyên vào ra trướng phủ của các quan cai trị người Minh.
HỌ LÝ 李
Lý xếp hạng tư trong “Bách gia tính”, tính về số lượng là dòng họ lớn nhất ở Trung Hoa. Họ Lý vốn đã có từ đời nhà Ân, gốc ở Lộc Ấp tỉnh Hà Nam, hậu duệ sau này lập nên Đại Đường (618–907) thịnh trị ở Trung Hoa. Do nhiều duyên khởi, sau khi nhà Đường bị diệt, đã hình thành nên hai chi họ Lý ở Việt Nam và Triều Tiên.
Năm 1009, Lý Công Uẩn, người đất Mân (Phúc Kiến), vốn dòng dõi Tào vương Lý Minh (con trai Đường Thái tôn Lý Thế Dân) lập nên nhà Hậu Lý.
“Đại Việt sử ký toàn thư” ghi thân thế Lý Công Uẩn rất khôi hài: bà mẹ họ Phạm, nhân đi chơi chùa Tiêu Sơn, cùng với thần nhân giao hợp mà có chửa”.
Theo “Tốc thủy ký văn” (soạn khoảng 1019-1086) của Tư Mã Quang viết về giai đoạn Lục triều của Bắc Tống, có đoạn thuật lại nguyên do chiến tranh giữa Tống-Lý, vô tình nhắc đến một chi tiết liên quan đến nguồn gốc nhà Lý:
<Niên hiệu Hy Ninh (1068-1077), tiến sĩ Lĩnh Nam là Từ Bách Tường nhiều lần thi rớt đại khoa, ngầm viết thư cho Giao Chỉ rằng: “Đại vương vốn TỔ TIÊN LÀ NGƯỜI MÂN. Nghe rằng hiện công khanh quý nhân ở Giao Chỉ phần lớn là người Mân. Bách Tường này tài ba chẳng kém ai, nhưng không được dùng ở Trung quốc, mong được phò tá dưới trướng đại vương. Nay Trung quốc muốn cử đại binh tiêu diệt Giao Chỉ. Binh pháp có câu: Kẻ ra tay trước có thể chiếm được lòng người, chi bằng cử binh đánh trước, Bách Tường xin làm nội ứng”. Vì thế mà Giao Châu dấy binh vào đánh cướp, vây hãm ba châu Khâm, Liêm, Ung. Bách Tường không kịp đến quy hàng. Khi ấy Thạch Giám quen thân với Bách Tường, dâng tấu khen Bách Tường có chiến công, ngoài chức Thị cấm, sung thêm làm Tuần kiểm ba châu Khâm, Liêm, Bạch. Triều đình sai Tuyên Huy sứ Quách Quỳ thảo phạt Giao Chỉ. Giao Chỉ xin hàng, cáo giác rằng: “Chúng tôi vốn không có ý cướp phá, là do người Trung quốc xúi giục thôi”. Lại trình thư của Bách Tường cho Quỳ. Quỳ lệnh cho Chuyển vận ty của tỉnh Quảng Tây tra hỏi. Bách Tường chạy trốn, rồi tự treo cổ chết>
Ngoài ra, còn “Mộng Khê bút đàm” (soạn khoảng 1086-1093) của Thẩm Quát (1031-1095); “Tục Tư trị thông giám trường biên” của Lý Đảo (1115-1184), “Trịnh Thiều Châu kỷ lược phụ lục” (soạn khoảng 1240-1280) của Trịnh Tủng, cũng đều khẳng định gốc gác người Mân của nhà Hậu Lý.
Thậm chí, còn có “Lý trang Chử nội Lý thị phòng phả” (soạn năm 1266 – đời Nam Tống), là sách gia phả dòng họ Lý ở đất Mân còn ghi chi tiết cụ thể: ông nội Công Uẩn tên Lý Tung (883-948), nguyên tịch huyện Nhiêu Dương, Thâm Châu. Tung làm tể tướng nhà Hậu Tấn, đời Tấn Cao tổ (trị vì năm 942-946), Tung bị vu oan hãm hại nên con cháu phải dời đến đất Mân; cha Uẩn là Lý Thuần An (921-999), con cả của Lý Tung, đang làm chức Thủy lục Vận sứ, do cha bị hại mà phải bỏ quan chức đào thoát, An từ đó kinh doanh vận tải đường thủy, từng đưa thuyền đến Chân Lạp, Xiêm La, và sau định cư Giao Chỉ; còn Công Uẩn, vốn tên chữ là Triệu Diễn, con thứ của Thuần An.
Những sách liệt kê trên đều là sử liệu quan trọng, có ghi rõ gốc gác Công Uẩn, và đều có trước “Đại Việt sử ký Toàn thư” (soạn 1272-1697), vậy tại sao “Toàn thư” lại chép Uẩn là con hoang của thần nhân, con nuôi của Lý Khánh Văn? Các nhà chép sử của Đại Việt còn nợ hậu thế câu trả lời cho vấn đề này.
Do hoàng thất gốc Mân, nên thời Lý-Trần, người Mân từ Trung Hoa sang đều được ưu đãi, phong cho quan chức và trọng dụng. Triều đình Lý-Trần do đó cũng mô phỏng y hệt thể chế Trung Hoa, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, khoa cử. Chữ Hán được phổ cập và dùng làm phương tiện tiến thân cho tầng lớp nho sĩ. Có thể nói, Lý-Trần tuy tiếng là vương triều độc lập, nhưng lại có công Hán hóa Việt tộc hơn cả người Hán.
Làm vua rồi, Uẩn bắt chước các hoàng đế Trung Hoa, phong “quốc tính” cho những người có công trạng, họ Lý ở Đại Việt từ đó lan rộng.
HỌ TRẦN 陳
Họ Trần được phân bố rất rộng, đây là họ được xếp hàng thứ 10 trong “Bách gia tính”, lớn hàng thứ 5 ở Trung Hoa, và là một trong 10 họ lớn ở Việt Nam.
Họ Trần vốn gốc là nước Trần cổ đời Tây Chu, chiếm lĩnh vùng Hoài Nam (nay thuộc tỉnh Hà Nam – Trung Hoa). Vua khai quốc nước Trần là Duy Mãn, vốn là hậu duệ của vua Thuấn, con cháu lấy quốc hiệu cựu triều làm họ nên có họ Trần.
Họ Trần thiên di hải ngoại, đời Tống đã có người họ Trần đến Giao Chỉ. “Toàn thư” ghi họ Trần vốn người đất Mân. Nhưng truy theo gia phả thì tổ tiên Trần thiệt ra là họ Tạ. Tạ Thăng Khanh vốn người huyện Trường Lạc, phủ Phúc Châu (nay là thủ phủ tỉnh Phúc Kiến), do thất chí trong khoa cử nên bỏ nhà lưu lạc đến Ung Châu, tỉnh Quảng Tây. Sau đó Khanh buôn bán ở vùng biên giới, được viên quan ở Giao Chỉ là Trần Hiếu nhận làm rễ, lại đổi tên cho thành Trần Kính. Kính chính là cha của Trần Thừa, ông nội của Trần Cảnh tức Trần Thái tôn (1218-1277).
[“Đại Việt sử ký Toàn thư” ghi: “... Trước kia, tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có người tên là Kính đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê...” (Bản kỷ, Trần Thái tôn hoàng đế)].
Sau khi lên ngôi, nhà Trần liền cử sứ giả sang Tàu cầu phong, nguyện suốt đời giao hảo với Đại Tống, được sách phong An Nam quốc vương.
Do cả đời chỉ biết Đại Tống là thượng quốc, vẫn cho Trung Hoa là đệ nhất thiên hạ, nên khi Mông Cổ mượn đường đánh Tống, nhà Trần chẳng biết trời cao đất dày, xem quân Mông như phường man di nhược tiểu. Trong cuộc “Kháng Mông lần thứ nhất” (1257), “Toàn thư” thuật lại trận chiến, thấy vua tôi nhà Trần ra trận vẫn khinh thị như đi xem hát, mãi đến lúc kinh thành Thăng Long bị san bằng mới hiểu ra sức mạnh của đội quân Mông Cổ. Và sau này, khi núng thế trước sức mạnh ấy, Thái tôn hỏi kế, Trần Nhật Hiệu đã bày mưu “nhập Tống” (chạy sang nước Tống). Hẵn khi đó, anh em nhà ấy vẫn không sao ngờ rằng hơn 20 năm sau Nam Tống bị Mông Cổ nuốt gọn.
HỌ HỒ 胡
Trong “Bách gia tính”, Hồ đứng hàng thứ 158, nhưng về số lượng lại xếp hàng thứ 13 ở Trung Hoa.
Họ Hồ, cũng như Trần, vốn bắt nguồn từ nước Trần cổ, đầu triều Tây Chu. Vốn Duy Mãn sáng lập nước Trần có thụy hiệu là Hồ công, con cháu do đó chia làm hai chi, một chi lấy quốc hiệu Trần làm họ, chi kia lấy thụy hiệu Hồ làm họ.
Hồ Quý Ly (1336-1407), có lẽ do không được các sử gia đánh giá cao, nên đã ghi rất chi tiết về nguồn gốc: “... Tổ tiên Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật, vốn là người Triết Giang bên Trung quốc, thời Hậu Hán (947-950) được vua Hán cử sang làm Thái thú Châu Diễn (tức vùng Diễn Châu, Nghệ An). Đến thời loạn mười hai sứ quân, họ Hồ dời vào hương Bào Đột (nay là xã Quỳnh Lâm, Quỳnh Lưu, Nghệ An) và trở thành một trại chủ. Đến thời Lý, trong họ có người lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đời cháu thứ 12 của Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Hồ Liêm làm con nuôi của Tuyên úy Lê Huấn rồi lấy họ Lê làm họ của mình. Hồ Quý Ly là cháu 4 đời của Lê Liêm, khi lên làm vua thì đổi lại họ Hồ” (“Toàn thư”, phụ lục Bản kỷ nhà Trần).
Quý Ly không hề giấu diếm nguồn gốc người Tàu của mình. Lên ngôi, ông liền đổi quốc hiệu thành Đại Ngu – để ghi nhớ gốc họ Hồ vốn là con cháu Ngu Thuấn. Do gốc Tàu, thông thạo ngôn ngữ mẫu quốc, nên con Quý Ly là Nguyên Trừng sau này được nhà Minh trọng dụng.
Sau này, có một kẻ họ Hồ từ tông chi Hồ Quý Ly, đổi thành họ Nguyễn và tiếm xưng hoàng đế, chính là Nguyễn Huệ [Hồ Thơm] (1788-1792).
HỌ MẠC 莫
Mạc là dòng họ lâu đời nhất Trung Hoa, được sách “Bách gia tính” xếp hàng 168. Họ Mạc chiếm số lượng lớn ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Tứ Xuyên.
Thủy tổ họ Mạc là Chuyên Húc, cháu nội Hoàng Đế. Chuyên Húc xây dựng thành cổ là Mạc thành (nay thuộc Hà Bắc, Trung Hoa), con cháu lấy tên đất đó làm họ là Mạc.
Họ Mạc khởi nguyên có hai chi: một chi ở Hà Bắc như đã nói trên; chi khác bắt nguồn từ nước Sở thời cổ. Thời Nam Bắc triều (420-589), các ngoại tộc đến định cư ở Tàu phần lớn đều lấy Mạc làm họ. Đến thời Ngũ đại Thập quốc (907-979), họ Mạc ở tỉnh Giang Nam phát triển mạnh, còn họ Mạc ở phương bắc do sự trà trộn của ngoại tộc nên suy yếu mai một dần. Lúc này họ Mạc bắt đầu đến Phúc Kiến sinh sống. Cuối đời Tống, do Mông Cổ xâm phạm, họ Mạc lại lần xuống đến Quảng Đông, Quảng Tây.
Mạc Đăng Dung (1483-1541), tổ tiên vốn là di dân Trung Hoa từ Quảng Đông. Cùng là soán ngôi, nhưng Điện tiền thị vệ Lý Công Uẩn được tôn là minh quân, còn Đô chỉ huy sứ Mạc Đăng Dung phải chịu tiếng lộng thần. Triều Mạc ngắn ngủi, chỉ 13 năm (1527-1540), cũng như triều Hồ, bị lên án vì đã bại binh trước quân Tàu.
Mạc Kính Thự trong tờ biểu cầu cứu Mãn Thanh cũng có kể ra ông cha mình vốn gốc ở thôn Trà Hương, huyện Đông Quan, Quảng Đông.
HỌ TRỊNH 鄭
Họ Trịnh nguồn gốc từ nước Trịnh (806-375 trCn) thời Xuân Thu. Trịnh bị nước Hàn diệt, con cháu lấy tên nước cũ làm họ. Trịnh đứng hàng thứ 7 trong “Bách gia tính”, về số lượng xếp hàng 21 ở Trung Hoa. Họ Trịnh phân bố rất rộng, đặc biệt đông đúc ở Chiết Giang và Phúc Kiến.
Họ Trịnh di dân từ Phúc Kiến đã dựng nên nhà Trịnh ở Đại Việt, tồn tại được 242 năm (1545-1787).
Trịnh Hoài Đức (1765-1825), công thần của nhà Nguyễn, cũng là dòng dõi họ Trịnh ở đất Mân (tên tắt của tỉnh Phúc Kiến) này.
HỌ NGUYỄN 阮
Nguyễn là tên một nước chư hầu nhỏ thời nhà Thương (1766-1122 trCn). Nước này chiếm lĩnh một dải huyện Kính Xuyên, thuộc tỉnh Cam Túc. Cuối đời Thương, nước Nguyễn bị diệt, con cháu lấy tên nước cũ làm họ.
Thời Nam Bắc triều, Trung Hoa đại loạn. Họ Nguyễn ở vùng Giang-Chiết vì muốn tránh xa chiến địa nên dâng tấu tình nguyện sang Giao châu làm quan rất đông. “Hậu Hán thư” ghi lại trong số đó có viên huyện lệnh Đan Dương, tên là Nguyễn Phu xin được chức thứ sử Giao Châu, bèn sang Nam trấn nhậm [vào năm 353].
Họ Nguyễn từ đó phát triển sang Đại Việt. Sau đó, khi Trần cướp ngôi đã buộc toàn bộ họ Lý phải đổi sang họ Nguyễn. Nguyễn vì vậy trở thành dòng họ lớn nhất Việt Nam.
Có nhiều giả thiết đặt ra xoay quanh nguồn gốc chúa Nguyễn, có vài nguồn khẳng định Gia Long chính nhờ gốc Mân này mà được hầu hết Hoa kiều ở Việt Nam hết lòng ủng hộ tài lực, vật lực, làm nên nghiệp đế.
* * *
Rốt lại, như đã nêu, vương tôn hoàng tộc của Đại Việt đều có họ bắt nguồn từ Trung Hoa, vậy còn bọn bá tánh tầm thường thì sao? Xin thưa, cũng vậy mà thôi. Chỉ khác ở chỗ nếu các dòng dõi làm vương làm tướng xứ Đại Việt là có tỵ tổ thuộc hàng quan lại hoặc thương nhân Trung Hoa, thì bọn bá vơ tầm thường cũng là dòng dõi con cháu người Tàu, nhưng lại là con cháu bọn trọng phạm giặc cướp, bị đày xuống vùng ma thiêng nước độc phương Nam này, và bọn này đặc biệt rất đông. “Dòng giống Lạc Hồng” chỉ là lời đánh lừa của bọn sử gia mà thôi. Việt tộc đừng bàn chuyện “thoát Hán” chi thêm mất công, các vị còn lâu lắm mới thoát khỏi được bàn tay của Như Lai, à ha!
HỌ CỦA NGƯỜI VIỆT
Danh tính gắn liền với đời người, ai cũng có quyền tự hào về tên họ của mình, nhưng ít khi người ta quan tâm cái họ của mình bắt nguồn từ đâu; và càng hiếm người phát hiện ra tộc Việt vốn… không có họ. Họ của người Việt, trừ một số rất ít mượn của Chiêm tộc và Chân Lạp, còn thì hầu hết đều bắt nguồn từ Trung Hoa.
Đọc sử Việt Nam, nếu chú ý cái họ, ta sẽ thấy thủy tổ các dòng dõi vương triều Đại Việt đều có huyết thống rơi rớt từ phương Bắc: Ngô Quyền, người sáng lập triều Ngô, gốc ở đất Ký (冀 – tên gọi tắt tỉnh Hà Bắc, Trung Hoa); Đinh Bộ Lĩnh, người gốc Việt (粵 – tên gọi tắt tỉnh Quảng Đông); Lê Hoàn gốc Thục (蜀 – tên gọi tắt tỉnh Tứ Xuyên); Lý Công Uẩn và Trần Thừa cùng gốc Mân (閩 – tên gọi tắt tỉnh Phúc Kiến); Hồ Quý Ly gốc ở Chiết Giang; Mạc Đăng Dung gốc Quảng Đông; Lê Lợi gốc Phúc Kiến; Trịnh Kiểm, cũng như Nguyễn Phúc Ánh, đều gốc Mân Phúc Kiến.
Tại sao lại có sự dính líu của các vương triều ở đây? Thật ra không phải chỉ bọn vua quan, mà cả lê dân ít nhiều đều có gốc gác từ Tàu. Có muốn chối bỏ điều đó cũng không được, nó thể hiện rành rành trên chứng minh thư mỗi người.
HỌ TRIỆU 趙
Xếp theo số lượng thì họ Triệu đứng hàng thứ 7 ở Trung Hoa.
Họ Triệu hình thành chủ yếu là do họ Doanh 嬴. Thủy tổ họ Doanh có công lớn trừ phản tặc, được Chu Mục vương (1054-949 trCn) cắt thưởng cho thành Triệu. Từ đó, để nhớ huân công này, phần nhiều con cháu họ Doanh lấy Triệu làm họ, và lập ra nước Triệu thời Chiến quốc. Triệu quốc thiên đô đến Hàm Đan (nay thuộc tỉnh Hà Bắc), đến năm 222 trCn thì bị Tần diệt. Họ Triệu sinh sôi phát triển chủ yếu ở miền bắc Trung Hoa.
Theo “Sử ký” của Tư Mã Thiên, vào cuối đời Tần, dòng dõi nước Triệu là Triệu Đà, làm huyện lệnh của Tần, vì bất phục, muốn tạo dựng giang sơn riêng, nên đã cát cứ một dải Lĩnh Nam, lấy Quảng Châu làm trung tâm, lập ra nước Nam Việt, tự xưng Nam Việt vương.
Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”: “Họ Triệu, tên húy là Đà, người huyện Chân Định, nước Hán, đóng đô ở Phiên Ngung (nay ở tỉnh Quảng Đông). Giáp Ngọ, năm thứ 1 [207 trCn], Tần Nhị thế năm thứ 3, vua chiếm lấy đất Lâm Ấp và Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt vương”.
HỌ NGÔ 吳
Ngô được xếp hạng là dòng họ lớn thứ 10 ở Trung Hoa, hàng thứ 6 ở Việt Nam, và là một trong 20 họ phổ biến ở Triều Tiên.
Nguồn gốc họ Ngô vốn từ họ Cơ 姬, thủy tổ là Thái Bá và Trọng Ung đời nhà Thương.
Nguyên đời Thương (1766-1122 trCn), thủ lĩnh họ Cơ của bộ tộc Chu là Cơ Cố Công (Chu Thái vương) có ba con trai: Thái Bá, Trọng Ung và Quý Lịch. Chu Thái vương đặt hy vọng lớn vào người con út Quý Lịch. Thái Bá và Trọng Ung do đó truyền ngôi lại cho em. Quý Lịch sau này có người con là Cơ Xương làm nên đại nghiệp, lập nhà Chu, chính là Chu Văn vương, người diệt nhà Thương. Nói về Cơ Thái Bá và Cơ Trọng Ung, họ sau đó đã đến khai phá vùng duyên hải mạn đông nam.
Năm 585 trCn, cháu đời thứ 19 của Trọng Ung là Thọ Mộng chính thức xưng vương, lập nên nước Ngô hùng mạnh, từng tranh bá với thiên hạ. Đến 473 TrCn, Ngô bị nước Việt diệt. Con cháu nước Ngô chạy loạn tứ tán, để khỏi quên nước cũ, họ lấy quốc hiệu Ngô làm họ.
Họ Ngô đào thoát ra hải ngoại, đã sớm đến Nhật Bản. Sau khi nước Ngô bị diệt, khoảng 450 trCn, nhiều con cháu họ Ngô đã đến Nhật Bản. Có nhiều giả thiết cho rằng Thần Võ thiên hoàng (Jinmu Tennō), vị Thiên hoàng đầu tiên của Nhật Bản, là dòng dõi họ Ngô thời Chiến quốc.
Cùng lúc với nhánh lánh nạn sang phương đông, một chi khác của họ Ngô thiên di về phương Nam, đến Giao Chỉ. Sau đó, do nhậm chức quan hoặc bởi doanh thương, họ Ngô ngày càng nhiều người tìm đến vùng đất này. Trong bộ “Nguyên Hòa tính toản” của Lâm Bảo đời Đường biên soạn còn ghi lại: Cháu đích tôn của họ Ngô ở Bột Hải là Ngô Nạp nhậm chức thứ sử An Châu (sau đổi thành Ái Châu, nay là tỉnh Thanh Hóa), do đó nhiều người họ Ngô ở Bột Hải đã di cư đến miền bắc Việt Nam.
Khi nhà Đường diệt vong, Trung Hoa phân rã thành 10 nước. Lúc ấy có Lưu Ẩn là tiết độ sứ Thanh Hải quân kiêm tiết độ sứ Tĩnh Hải quân và An Nam đô hộ phủ. Lưu Ẩn mất, em là Lưu Nham lên thay, tự xưng mình là hậu duệ nhà Hán, lập ra nhà Nam Hán. Đây chính là thời kỳ Ngũ đại Thập quốc bên Tàu (907-979). Năm 917, Nam Hán bổ nhiệm Dương Đình Nghệ làm tiết độ sứ Giao Chỉ.
Năm 937, Dương Đình Nghệ bị bộ tướng là Kiều Công Tiễn sát hại để cướp ngôi vị. Năm sau, một nha tướng khác, đồng thời cũng là con rễ của Dương, là Ngô Quyền, mang quân từ châu Ái (Thanh Hóa) kéo về giết Kiều Công Tiễn, đồng thời đánh bại luôn quân Nam Hán vừa kéo sang toan bình định Giao Chỉ. Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, lập nên nhà Ngô. Sử nước ta vẫn thường tâng bốc Ngô là vương triều độc lập đầu tiên của Đại Việt, nhưng thực ra đây chỉ là sự tranh chấp quyền lợi và thế lực giữa bọn quan lại Trung Hoa trong lúc rối ren mà thôi.
Ngô Quyền chính là một người Tàu, là cháu đời thứ 50 của Ngô Quý Trát ở trấn Diên Lăng thuộc tỉnh Giang Tô. Quý Trát là con thứ tư của Thọ Mộng, người khi xưa đã lập nên nước Ngô. Ngô vương vốn muốn truyền ngôi cho Thọ Mộng, nhưng ông không chịu nhận, bỏ trốn đến Diên Lăng khai khẩn lập ấp. Chi họ Ngô này sau đó có người thiên di sang Nam, đến đời Ngô vương Quyền thì được làm nha tướng, lại được Dương Đình Nghệ gả con, cho phụ coi quản châu Ái.
HỌ ĐINH 丁
Theo các sách “Nguyên Hòa tính toản”, “Vạn tính thống phổ”, “Thông chí – thị tộc lược”, thì gốc của họ Đinh là từ họ Khương. Con trai Khương Tử Nha là Khương Cấp, cùng làm trọng thần nhà Chu, khi mất được Chu ban cho thụy hiệu là Đinh công, con cháu của Cấp vì đó lấy thụy hiệu làm họ.
Thời Ngũ đại Thập quốc, Trung Hoa mênh mông chia thành 10 nước xâu xé nhau, thì quận Giao Chỉ nhỏ bé bằng bàn tay cũng chia làm 12 sứ quân (944-968) tranh giành thế lực, và trong 12 thế lực đó, hết 3/4 có thể xác định đều là người Tàu.
Đinh Bộ Lĩnh, người anh hùng cờ lau tập trận, là con của Đinh Công Trứ. Trứ vốn người Tàu gốc ở Quảng Đông, sang làm thứ sử châu Hoan, là nha tướng của sứ quân Trần Lãm. Khi Trần Lãm mệnh một (năm 967), Đinh Bộ Lĩnh thừa hưởng binh quyền, từ đó dẹp bọn người Tàu kia, lập ra nước Đại Cồ Việt (968). Nếu không có gốc gác họ Tàu đó, vào năm 975, Tống Thái tổ khó lòng phong Đinh Bộ Lĩnh làm “An Nam Đô hộ Kiểm hiệu Thái sư Giao Chỉ quận vương”, để kể từ đó Trung Hoa chịu nhìn nhận Đại Việt như một nước chư hầu, chứ không phải là quận huyện do họ cai quản nữa.
HỌ LÊ 黎
Lê xếp hạng 92 trong sách “Bách tính gia” của Trung Hoa (soạn vào đời Tống), nhưng là một trong 10 họ lớn ở Việt Nam.
Đời nhà Thương, có hai nước chư hầu nhỏ cùng lấy quốc hiệu là Lê: một thuộc khu vực tỉnh Sơn Tây (Trung quốc) ngày nay; và một ở huyện Vận Thành tỉnh Sơn Đông. Con cháu hai nước này đều lấy quốc hiệu làm họ.
Từ thời cổ đại, đã có nhiều người Tàu họ Lê di cư sang Đại Việt, chẳng những thế, họ còn gầy dựng Lê thành vọng tộc suốt một dải Thanh Hóa.
Năm 980, người họ Lê gốc Thục (Quảng Tây) là Lê Hoàn sáng lập nên triều Tiền Lê của Đại Việt.
Năm 1428, một người họ Lê khác, gốc Mân (Phúc Kiến), là Lê Lợi lập nên triều Hậu Lê. Đọc kỹ “Đại Việt sử ký toàn thư”, ta sẽ thấy ông Phúc Kiến Lê Lợi là người quen biết, thường xuyên vào ra trướng phủ của các quan cai trị người Minh.
HỌ LÝ 李
Lý xếp hạng tư trong “Bách gia tính”, tính về số lượng là dòng họ lớn nhất ở Trung Hoa. Họ Lý vốn đã có từ đời nhà Ân, gốc ở Lộc Ấp tỉnh Hà Nam, hậu duệ sau này lập nên Đại Đường (618–907) thịnh trị ở Trung Hoa. Do nhiều duyên khởi, sau khi nhà Đường bị diệt, đã hình thành nên hai chi họ Lý ở Việt Nam và Triều Tiên.
Năm 1009, Lý Công Uẩn, người đất Mân (Phúc Kiến), vốn dòng dõi Tào vương Lý Minh (con trai Đường Thái tôn Lý Thế Dân) lập nên nhà Hậu Lý.
“Đại Việt sử ký toàn thư” ghi thân thế Lý Công Uẩn rất khôi hài: bà mẹ họ Phạm, nhân đi chơi chùa Tiêu Sơn, cùng với thần nhân giao hợp mà có chửa”.
Theo “Tốc thủy ký văn” (soạn khoảng 1019-1086) của Tư Mã Quang viết về giai đoạn Lục triều của Bắc Tống, có đoạn thuật lại nguyên do chiến tranh giữa Tống-Lý, vô tình nhắc đến một chi tiết liên quan đến nguồn gốc nhà Lý:
<Niên hiệu Hy Ninh (1068-1077), tiến sĩ Lĩnh Nam là Từ Bách Tường nhiều lần thi rớt đại khoa, ngầm viết thư cho Giao Chỉ rằng: “Đại vương vốn TỔ TIÊN LÀ NGƯỜI MÂN. Nghe rằng hiện công khanh quý nhân ở Giao Chỉ phần lớn là người Mân. Bách Tường này tài ba chẳng kém ai, nhưng không được dùng ở Trung quốc, mong được phò tá dưới trướng đại vương. Nay Trung quốc muốn cử đại binh tiêu diệt Giao Chỉ. Binh pháp có câu: Kẻ ra tay trước có thể chiếm được lòng người, chi bằng cử binh đánh trước, Bách Tường xin làm nội ứng”. Vì thế mà Giao Châu dấy binh vào đánh cướp, vây hãm ba châu Khâm, Liêm, Ung. Bách Tường không kịp đến quy hàng. Khi ấy Thạch Giám quen thân với Bách Tường, dâng tấu khen Bách Tường có chiến công, ngoài chức Thị cấm, sung thêm làm Tuần kiểm ba châu Khâm, Liêm, Bạch. Triều đình sai Tuyên Huy sứ Quách Quỳ thảo phạt Giao Chỉ. Giao Chỉ xin hàng, cáo giác rằng: “Chúng tôi vốn không có ý cướp phá, là do người Trung quốc xúi giục thôi”. Lại trình thư của Bách Tường cho Quỳ. Quỳ lệnh cho Chuyển vận ty của tỉnh Quảng Tây tra hỏi. Bách Tường chạy trốn, rồi tự treo cổ chết>
Ngoài ra, còn “Mộng Khê bút đàm” (soạn khoảng 1086-1093) của Thẩm Quát (1031-1095); “Tục Tư trị thông giám trường biên” của Lý Đảo (1115-1184), “Trịnh Thiều Châu kỷ lược phụ lục” (soạn khoảng 1240-1280) của Trịnh Tủng, cũng đều khẳng định gốc gác người Mân của nhà Hậu Lý.
Thậm chí, còn có “Lý trang Chử nội Lý thị phòng phả” (soạn năm 1266 – đời Nam Tống), là sách gia phả dòng họ Lý ở đất Mân còn ghi chi tiết cụ thể: ông nội Công Uẩn tên Lý Tung (883-948), nguyên tịch huyện Nhiêu Dương, Thâm Châu. Tung làm tể tướng nhà Hậu Tấn, đời Tấn Cao tổ (trị vì năm 942-946), Tung bị vu oan hãm hại nên con cháu phải dời đến đất Mân; cha Uẩn là Lý Thuần An (921-999), con cả của Lý Tung, đang làm chức Thủy lục Vận sứ, do cha bị hại mà phải bỏ quan chức đào thoát, An từ đó kinh doanh vận tải đường thủy, từng đưa thuyền đến Chân Lạp, Xiêm La, và sau định cư Giao Chỉ; còn Công Uẩn, vốn tên chữ là Triệu Diễn, con thứ của Thuần An.
Những sách liệt kê trên đều là sử liệu quan trọng, có ghi rõ gốc gác Công Uẩn, và đều có trước “Đại Việt sử ký Toàn thư” (soạn 1272-1697), vậy tại sao “Toàn thư” lại chép Uẩn là con hoang của thần nhân, con nuôi của Lý Khánh Văn? Các nhà chép sử của Đại Việt còn nợ hậu thế câu trả lời cho vấn đề này.
Do hoàng thất gốc Mân, nên thời Lý-Trần, người Mân từ Trung Hoa sang đều được ưu đãi, phong cho quan chức và trọng dụng. Triều đình Lý-Trần do đó cũng mô phỏng y hệt thể chế Trung Hoa, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, khoa cử. Chữ Hán được phổ cập và dùng làm phương tiện tiến thân cho tầng lớp nho sĩ. Có thể nói, Lý-Trần tuy tiếng là vương triều độc lập, nhưng lại có công Hán hóa Việt tộc hơn cả người Hán.
Làm vua rồi, Uẩn bắt chước các hoàng đế Trung Hoa, phong “quốc tính” cho những người có công trạng, họ Lý ở Đại Việt từ đó lan rộng.
HỌ TRẦN 陳
Họ Trần được phân bố rất rộng, đây là họ được xếp hàng thứ 10 trong “Bách gia tính”, lớn hàng thứ 5 ở Trung Hoa, và là một trong 10 họ lớn ở Việt Nam.
Họ Trần vốn gốc là nước Trần cổ đời Tây Chu, chiếm lĩnh vùng Hoài Nam (nay thuộc tỉnh Hà Nam – Trung Hoa). Vua khai quốc nước Trần là Duy Mãn, vốn là hậu duệ của vua Thuấn, con cháu lấy quốc hiệu cựu triều làm họ nên có họ Trần.
Họ Trần thiên di hải ngoại, đời Tống đã có người họ Trần đến Giao Chỉ. “Toàn thư” ghi họ Trần vốn người đất Mân. Nhưng truy theo gia phả thì tổ tiên Trần thiệt ra là họ Tạ. Tạ Thăng Khanh vốn người huyện Trường Lạc, phủ Phúc Châu (nay là thủ phủ tỉnh Phúc Kiến), do thất chí trong khoa cử nên bỏ nhà lưu lạc đến Ung Châu, tỉnh Quảng Tây. Sau đó Khanh buôn bán ở vùng biên giới, được viên quan ở Giao Chỉ là Trần Hiếu nhận làm rễ, lại đổi tên cho thành Trần Kính. Kính chính là cha của Trần Thừa, ông nội của Trần Cảnh tức Trần Thái tôn (1218-1277).
[“Đại Việt sử ký Toàn thư” ghi: “... Trước kia, tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có người tên là Kính đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê...” (Bản kỷ, Trần Thái tôn hoàng đế)].
Sau khi lên ngôi, nhà Trần liền cử sứ giả sang Tàu cầu phong, nguyện suốt đời giao hảo với Đại Tống, được sách phong An Nam quốc vương.
Do cả đời chỉ biết Đại Tống là thượng quốc, vẫn cho Trung Hoa là đệ nhất thiên hạ, nên khi Mông Cổ mượn đường đánh Tống, nhà Trần chẳng biết trời cao đất dày, xem quân Mông như phường man di nhược tiểu. Trong cuộc “Kháng Mông lần thứ nhất” (1257), “Toàn thư” thuật lại trận chiến, thấy vua tôi nhà Trần ra trận vẫn khinh thị như đi xem hát, mãi đến lúc kinh thành Thăng Long bị san bằng mới hiểu ra sức mạnh của đội quân Mông Cổ. Và sau này, khi núng thế trước sức mạnh ấy, Thái tôn hỏi kế, Trần Nhật Hiệu đã bày mưu “nhập Tống” (chạy sang nước Tống). Hẵn khi đó, anh em nhà ấy vẫn không sao ngờ rằng hơn 20 năm sau Nam Tống bị Mông Cổ nuốt gọn.
HỌ HỒ 胡
Trong “Bách gia tính”, Hồ đứng hàng thứ 158, nhưng về số lượng lại xếp hàng thứ 13 ở Trung Hoa.
Họ Hồ, cũng như Trần, vốn bắt nguồn từ nước Trần cổ, đầu triều Tây Chu. Vốn Duy Mãn sáng lập nước Trần có thụy hiệu là Hồ công, con cháu do đó chia làm hai chi, một chi lấy quốc hiệu Trần làm họ, chi kia lấy thụy hiệu Hồ làm họ.
Hồ Quý Ly (1336-1407), có lẽ do không được các sử gia đánh giá cao, nên đã ghi rất chi tiết về nguồn gốc: “... Tổ tiên Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật, vốn là người Triết Giang bên Trung quốc, thời Hậu Hán (947-950) được vua Hán cử sang làm Thái thú Châu Diễn (tức vùng Diễn Châu, Nghệ An). Đến thời loạn mười hai sứ quân, họ Hồ dời vào hương Bào Đột (nay là xã Quỳnh Lâm, Quỳnh Lưu, Nghệ An) và trở thành một trại chủ. Đến thời Lý, trong họ có người lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đời cháu thứ 12 của Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Hồ Liêm làm con nuôi của Tuyên úy Lê Huấn rồi lấy họ Lê làm họ của mình. Hồ Quý Ly là cháu 4 đời của Lê Liêm, khi lên làm vua thì đổi lại họ Hồ” (“Toàn thư”, phụ lục Bản kỷ nhà Trần).
Quý Ly không hề giấu diếm nguồn gốc người Tàu của mình. Lên ngôi, ông liền đổi quốc hiệu thành Đại Ngu – để ghi nhớ gốc họ Hồ vốn là con cháu Ngu Thuấn. Do gốc Tàu, thông thạo ngôn ngữ mẫu quốc, nên con Quý Ly là Nguyên Trừng sau này được nhà Minh trọng dụng.
Sau này, có một kẻ họ Hồ từ tông chi Hồ Quý Ly, đổi thành họ Nguyễn và tiếm xưng hoàng đế, chính là Nguyễn Huệ [Hồ Thơm] (1788-1792).
HỌ MẠC 莫
Mạc là dòng họ lâu đời nhất Trung Hoa, được sách “Bách gia tính” xếp hàng 168. Họ Mạc chiếm số lượng lớn ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Tứ Xuyên.
Thủy tổ họ Mạc là Chuyên Húc, cháu nội Hoàng Đế. Chuyên Húc xây dựng thành cổ là Mạc thành (nay thuộc Hà Bắc, Trung Hoa), con cháu lấy tên đất đó làm họ là Mạc.
Họ Mạc khởi nguyên có hai chi: một chi ở Hà Bắc như đã nói trên; chi khác bắt nguồn từ nước Sở thời cổ. Thời Nam Bắc triều (420-589), các ngoại tộc đến định cư ở Tàu phần lớn đều lấy Mạc làm họ. Đến thời Ngũ đại Thập quốc (907-979), họ Mạc ở tỉnh Giang Nam phát triển mạnh, còn họ Mạc ở phương bắc do sự trà trộn của ngoại tộc nên suy yếu mai một dần. Lúc này họ Mạc bắt đầu đến Phúc Kiến sinh sống. Cuối đời Tống, do Mông Cổ xâm phạm, họ Mạc lại lần xuống đến Quảng Đông, Quảng Tây.
Mạc Đăng Dung (1483-1541), tổ tiên vốn là di dân Trung Hoa từ Quảng Đông. Cùng là soán ngôi, nhưng Điện tiền thị vệ Lý Công Uẩn được tôn là minh quân, còn Đô chỉ huy sứ Mạc Đăng Dung phải chịu tiếng lộng thần. Triều Mạc ngắn ngủi, chỉ 13 năm (1527-1540), cũng như triều Hồ, bị lên án vì đã bại binh trước quân Tàu.
Mạc Kính Thự trong tờ biểu cầu cứu Mãn Thanh cũng có kể ra ông cha mình vốn gốc ở thôn Trà Hương, huyện Đông Quan, Quảng Đông.
HỌ TRỊNH 鄭
Họ Trịnh nguồn gốc từ nước Trịnh (806-375 trCn) thời Xuân Thu. Trịnh bị nước Hàn diệt, con cháu lấy tên nước cũ làm họ. Trịnh đứng hàng thứ 7 trong “Bách gia tính”, về số lượng xếp hàng 21 ở Trung Hoa. Họ Trịnh phân bố rất rộng, đặc biệt đông đúc ở Chiết Giang và Phúc Kiến.
Họ Trịnh di dân từ Phúc Kiến đã dựng nên nhà Trịnh ở Đại Việt, tồn tại được 242 năm (1545-1787).
Trịnh Hoài Đức (1765-1825), công thần của nhà Nguyễn, cũng là dòng dõi họ Trịnh ở đất Mân (tên tắt của tỉnh Phúc Kiến) này.
HỌ NGUYỄN 阮
Nguyễn là tên một nước chư hầu nhỏ thời nhà Thương (1766-1122 trCn). Nước này chiếm lĩnh một dải huyện Kính Xuyên, thuộc tỉnh Cam Túc. Cuối đời Thương, nước Nguyễn bị diệt, con cháu lấy tên nước cũ làm họ.
Thời Nam Bắc triều, Trung Hoa đại loạn. Họ Nguyễn ở vùng Giang-Chiết vì muốn tránh xa chiến địa nên dâng tấu tình nguyện sang Giao châu làm quan rất đông. “Hậu Hán thư” ghi lại trong số đó có viên huyện lệnh Đan Dương, tên là Nguyễn Phu xin được chức thứ sử Giao Châu, bèn sang Nam trấn nhậm [vào năm 353].
Họ Nguyễn từ đó phát triển sang Đại Việt. Sau đó, khi Trần cướp ngôi đã buộc toàn bộ họ Lý phải đổi sang họ Nguyễn. Nguyễn vì vậy trở thành dòng họ lớn nhất Việt Nam.
Có nhiều giả thiết đặt ra xoay quanh nguồn gốc chúa Nguyễn, có vài nguồn khẳng định Gia Long chính nhờ gốc Mân này mà được hầu hết Hoa kiều ở Việt Nam hết lòng ủng hộ tài lực, vật lực, làm nên nghiệp đế.
* * *
Rốt lại, như đã nêu, vương tôn hoàng tộc của Đại Việt đều có họ bắt nguồn từ Trung Hoa, vậy còn bọn bá tánh tầm thường thì sao? Xin thưa, cũng vậy mà thôi. Chỉ khác ở chỗ nếu các dòng dõi làm vương làm tướng xứ Đại Việt là có tỵ tổ thuộc hàng quan lại hoặc thương nhân Trung Hoa, thì bọn bá vơ tầm thường cũng là dòng dõi con cháu người Tàu, nhưng lại là con cháu bọn trọng phạm giặc cướp, bị đày xuống vùng ma thiêng nước độc phương Nam này, và bọn này đặc biệt rất đông. “Dòng giống Lạc Hồng” chỉ là lời đánh lừa của bọn sử gia mà thôi. Việt tộc đừng bàn chuyện “thoát Hán” chi thêm mất công, các vị còn lâu lắm mới thoát khỏi được bàn tay của Như Lai, à ha!
Phuongkongfa
19/03/2016
Làm hộ chiếu ở Cam mắc quá trời, mất 3 tháng và 140USD-phí chính thức
140USD không phải ai cũng dễ có số tiền đó để làm hộ chiếu - so với lượng công nhân bình quân là 75-80USD/tháng
140USD không phải ai cũng dễ có số tiền đó để làm hộ chiếu - so với lượng công nhân bình quân là 75-80USD/tháng
Lou
19/03/2016
CHUYỆN XIN XĂM
“Xăm” vốn tiếng Hán là “Thiêm” (籤), nhưng lại thường được phiên âm thành “Sám” (như Xăm Tả quân của Lăng Ông Bà Chiểu được gọi là “Tướng quân linh sám”), có lẽ từ chỗ đọc trại âm tiếng Tàu của nó là “qiān”.
“Xăm” hay “Thiêm”, là những thẻ tre dùng để bói toán, rất tiện dụng để đáp ứng nhu cầu “tiên tri” họa phước hên xui khi ai đó cảm thấy bối rối trước một vấn đề cụ thể. Đây là một dạng “vấn bốc”, dùng bói toán để mượn năng lực siêu nhiên giải đáp cho những nghi vấn của mình. Nhờ đó, trò xin xăm được phổ biến khắp các chùa chiền, đạo quán cõi Á Đông.
XUẤT XỨ
Tất nhiên, các dạng “khoa học huyền bí” (ngôn ngữ Việt Nam hiện đại gọi là “văn hóa tâm linh”) của Á Đông đều khởi nguồn từ Trung Hoa.
Từ xa xưa, người Tàu đã dùng cách gieo quẻ âm dương (xin keo) để hỏi ý thần linh mỗi khi phải lựa chọn quyết định trước những vấn đề quan trọng.
Từ hơn 2.500 năm trước công nguyên, Hiên Viên (Hoàng đế) đã gieo quẻ âm dương khi ra trận đánh nhau với thủ lĩnh Xi Vưu (và ở Việt Nam, vào đầu năm 2016, tức mới tuần trước thôi, thằng cha Năm Tuấn quán cà phê chợ xã chỗ tôi cũng dùng cách tung hai chiếc dép tổ ong để có quyết định theo kèo nào trước một trận bóng Cúp C1). Nhưng gieo quẻ âm dương chỉ cho câu trả lời tối giản “Yes or No”, trong khi người ta thường có khuynh hướng muốn được đối thoại nhiều hơn với thần linh để có thông tin tối đa, nên đã sáng chế ra các thẻ xăm.
QUÁ TRÌNH
Ban đầu, lời thánh phán được ghi trực tiếp trên 49 thẻ xăm cả thảy, đó là những câu văn ngắn cực kỳ cô đọng do các vu sư đời Đường đặt ra.
Qua các đời sau, theo sự phát triển của Đạo giáo, dần dần hình thành các loại xăm khác nhau, từ 49 thẻ thành 64 thẻ theo Dịch quái, rồi thành 100 thẻ để dự đoán thế sự. Đời sống ngày càng phát triển, những câu hỏi do con người đặt ra mong cầu thần linh giải đáp ngày thêm đa dạng, chỉ một câu văn ngắn trên thẻ không hiển thị đủ mặc khải của thần linh, nên xuất hiện thêm “thơ xăm” (thiêm thi). Trên thẻ xăm do đó chỉ còn ghi những ký hiệu hoặc đánh số để phân biệt, người xin quẻ theo đó lãnh “thơ xăm” để đọc. Thơ xăm thường là một bài tứ tuyệt ngũ ngôn hoặc thất ngôn, lời lẽ mông lung bao la, lại phải có thêm lời “giải xăm” (thiêm giải). Nhưng chỗ gọi “lời giải” này thường lại dẫn điển tích cổ xưa, phải người có căn bản Nho học mới lãnh hội được ít nhiều huyền cơ trong đó, vậy là nghề bàn xăm ra đời, thường do các thầy đồ đảm trách.
Nội dung thẻ xăm nhờ các thầy bàn này ngày thêm phong phú đa dạng, có thể giải đáp hầu hết những thắc mắc về công danh tài lộc, hôn nhân gia đạo, mùa màng thất bát, thậm chí cả buôn bán đi xa, giới tính thai nhi, tìm lại của rơi... Nghi thức xin xăm cũng theo đó ngày một trang trọng, được bổ sung thêm lối gieo quẻ âm dương (xin keo) xác nhận lá xăm để tăng phần trang trọng, tạo thêm sự tin tưởng vào hiệu nghiệm linh ứng của quẻ xăm.
Đến khoảng đời Nguyên, cuối thế kỷ XIII trở về sau, ống đựng thẻ xăm và hai miếng gỗ hình bán nguyệt dùng xin keo nghiễm nhiên đã có chỗ trên hương án chánh điện của các danh lam cổ tự, và gian ngoài đền miếu thường có chỗ riêng cho thầy bàn xăm cũng như kệ hộc đựng những tờ xăm. Mỗi chùa đều có bản khắc để có thể tự in xăm ra những tờ giấy mỏng.
NGHI THỨC
Người xin sau khi thắp nhang đèn trước tượng thần phải làm lễ ba quỳ chín lạy, bày tỏ mục đích mình muốn tham vấn thần ý. Sau đó hai tay nâng ống xăm quá đầu để xóc cho đến khi có một thẻ văng ra (nếu ra quá một thẻ thì không tính, phải xóc lại). Khi thẻ xăm đã ra, lại phải gieo âm dương (xin keo) để được thần linh xác nhận thẻ đó. Hạn trong ba lần gieo âm dương, nếu không được thần ý “xác nhận” tức là thiên cơ bất khả lậu, phải trả thẻ, qua tháng sau mới được xin lại.
PHỔ BIẾN
Những thẻ xăm của Trung Hoa được lan truyền sang Nhật, Hàn, Miến, Việt, và biến thể ra nhiều lối khác nhau tùy phong hóa thủy thổ mỗi nơi. Như ở Nhật, ống xăm chỉ chừa lỗ nhỏ vừa đủ một thẻ rơi ra, khi đọc xong quẻ, tờ xăm xấu sẽ được đặt lại trên giá, ngụ ý ký thác, nhờ thần Phật giúp mình sửa đổi vận khí. Gần đây, Nhật lại có máy xin xăm, chỉ cần nhét đồng xu vào, tờ xăm sẽ rơi ra.
LƯU TRUYỀN VĂN HÓA
Những bài thơ xăm tuy tùy mỗi đền chùa có khác nhau (như xăm Chùa Ông, xăm Chùa Bà, xăm Quan Âm, xăm Thiên Hậu...), nhưng đều do những bậc văn tài, sở học uyên thâm quảng bác chế tác. 100 thẻ xăm không chỉ ẩn tàng nguyên lý Dịch học(*) mà còn chứa đựng nhiều điển tích văn học, lịch sử, địa lý, v.v...
Người Trung Hoa thuở xưa vì thời cuộc hoặc sinh kế mà phải lưu lạc tứ tán muôn phương, họ hầu như chỉ có đôi tay trắng và một nhiệt huyết sinh tồn. Theo bước chân những người Tàu trôi dạt, đền chùa, hội quán được dựng lên, làm nơi đoàn kết tụ họp và gìn giữ văn hóa nghìn đời; những lá xăm trong chùa Tàu chính là một phần của kho tàng văn hóa đó. Người ngoài đọc xăm thường thấy rối rắm lung tung, nhưng với Ba Tàu, họ thể nghiệm được nhiều huyền cơ giúp thân tâm an lạc, điềm đạm.
Tôi bắt nhớ hoài hình ảnh bà nội tôi trong một lần xin xăm ở Chùa Ông bên Cù Lao Phố. Khi đó, nhà chỉ còn nội và tôi, có hai ông chú sống chung thì đều bị bắt cải tạo. Một hôm, vào đầu mùa mưa, nội đón xích lô để hai bà cháu đi xin xăm: của cải đồ dùng trong nhà, tivi, máy hát đĩa, rồi cả bộ ván gõ, tủ thờ cũng lần lượt theo nhau ra chợ trời. Bà nội gần như kiệt sức vì gánh mưu sinh và nỗi thương nhớ hai chú, bà muốn xin xăm để biết bao giờ mấy chú được tha về.
Tiếng chuông mõ khoan thai điểm nhịp hòa theo tiếng lóc xóc của ống xăm, nội tôi an nhiên thư thả lắc đều đều. Chừng xin được thì lại là lá xăm “Hạ hạ” xấu nhất, cho biết tương lai còn mờ mịt lắm, hai chú chưa biết chừng nào mới về được. Tôi những tưởng nội sẽ gục xuống vì thất vọng, nhưng bà lại điềm tĩnh mỉm cười trấn an tôi: “Không sao, vậy cũng được!” Với bà, xin xăm không chỉ để cầu lời dự đoán tiên tri, mà chính là một dịp được giao tiếp với thần linh, qua đó được tiếp sức để đi tới, vô cầu vô oán.
TẬP TỤC CẦN GÌN GIỮ?
“Cách mạng văn hóa” do Mao Trạch Đông phát động đã gần như xóa sạch văn hóa ngàn đời của Trung Hoa. Chùa chiền, đạo quán ở đại lục bị đập phá tan tành, tượng thần bị kéo sập cho rụng đầu gãy tay, kinh sách bị thiêu hủy hầu như tuyệt diệt thất truyền, những lá xăm linh thiêng cũng thành đối tượng cần đấu tranh tiêu diệt. 10 năm “Văn cách” là một trường ác mộng, mãi đến chừng Đông tắt thở, người dân đại lục mới được thở phào nhẹ nhõm biết mình còn sống.
Phải qua đến thập niên 90 thế kỷ trước, sau cuộc chiến tranh Trung-Việt, Trung Nam Hải mới cho phục hồi tái thiết nền văn hóa cổ truyền. Nhưng huyết mạch đã đứt đoạn, nguyên khí văn minh học thuật đã thành tàn lụi, cái được dựng lại chỉ là bản sao mờ nhạt nhiều khiếm khuyết. Những bản khắc in xăm còn lại đều chẳng vẹn toàn, các xăm đa phần thất lạc, được chép lại theo trí nhớ; đã vậy, chúng được in lại theo lối giản thể do Trung cộng bày ra, chữ nghĩa đều bị biến dạng, một trong những phương pháp quan trọng để giải xăm là cách chiết tự đã không còn thể vận dụng để giải đoán các xăm mới này; và chủ yếu là thơ xăm bị kiểm duyệt cải sửa thêm thắt cắt xén để khỏi có tư tưởng đi ngược với chủ trương của đảng.
Ở đại lục đã vậy, ở xứ ta thì “văn hóa xin xăm” lại càng tệ lậu bội phần. Chùa miếu chính là những công trình được “xã hội hóa” thành công nhất của chế độ, đó không còn là chỗ thanh lọc, di dưỡng tâm hồn, mà biến thành nơi khai thác lợi nhuận. Việc xin xăm cúng bái nhang đèn trong chùa đều được đấu thầu; hòm công đức được phát minh, đặt chễm chệ nơi chánh điện như đấm vào mặt khách thập phương, và thường xuyên có nguy cơ bị kẻ gian moi móc xén bớt công quả; những lá xăm nhỏ bằng bàn tay, lời lẽ ngây ngô xàm xí, được bán với giá 5, 10 ngàn, kèm theo đó là những dịch vụ giải hạn trừ căn dành cho những người bị nhằm xăm xấu. Và đến gieo quẻ âm dương như thằng cha Năm Tuấn xã tôi, khi xin kèo bóng đá C1 cứ tung đôi dép nhựa hàng chục lần cho đến khi “thần ý” phán đoán kết quả khớp với dự đoán của y mới thôi. Thần thánh phải chìu theo sở thích và dục vọng của con người; và giới hữu trách cũng như các nhà nghiên cứu văn hóa thì cứ lớn tiếng bảo rằng xin xăm là một tập tục cổ truyền của người Việt, cần phải giữ gìn!
GIẢI PHÁP
Ngoại trừ số ít chùa chiền trong Nam là còn giữ được nét đẹp của văn hóa xin xăm, như Lăng Ông Bà Chiểu Sài Gòn, Chùa Ông Cù lao Phố Biên Hòa... còn thì đều là những thứ bát nháo thần chẳng ra thần ma chẳng ra ma.
Thiết nghĩ, cần phải quét sạch những thứ xăm nhảm nhí ta bà trên khắp tổ quốc thương yêu của chúng ta. Bên cạnh đó, cần thiết lập loại xăm mới phục vụ cho mục đích tuyên truyền. Các đền chùa ngày nay đều có đặt tượng H. #.. #..., Võ Nguyên Giáp cạnh thiên binh thần tướng, vậy sao chúng ta không trứ tác ra loại xăm mới, kêu bằng “Lãnh tụ linh sám”, “Đại tướng thần sám”? Chất liệu để sáng tác những thơ xăm sẽ là những điển tích trích dẫn từ cuộc đời và sự nghiệp của hai vị Minh và Giáp, qua đó tư tưởng cách mạng cũng như trình độ lý luận của toàn đảng toàn quân toàn dân sẽ được nâng cao. Còn chờ gì nữa? Muốn có chùa chiền chủ nghĩa xã hội thì cần phải có những lá xăm xã hội chủ nghĩa thôi, nam mô!
_______
(*) Có thuyết cho rằng con số 100 đó là do sự kết hợp của bát quái và lục hào mà ra:
(8 × 8) + (6 × 6) = 100
Một bộ xăm của Đài Loan.
Một lá xăm của Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt
Vinhhuy Le
“Xăm” vốn tiếng Hán là “Thiêm” (籤), nhưng lại thường được phiên âm thành “Sám” (như Xăm Tả quân của Lăng Ông Bà Chiểu được gọi là “Tướng quân linh sám”), có lẽ từ chỗ đọc trại âm tiếng Tàu của nó là “qiān”.
“Xăm” hay “Thiêm”, là những thẻ tre dùng để bói toán, rất tiện dụng để đáp ứng nhu cầu “tiên tri” họa phước hên xui khi ai đó cảm thấy bối rối trước một vấn đề cụ thể. Đây là một dạng “vấn bốc”, dùng bói toán để mượn năng lực siêu nhiên giải đáp cho những nghi vấn của mình. Nhờ đó, trò xin xăm được phổ biến khắp các chùa chiền, đạo quán cõi Á Đông.
XUẤT XỨ
Tất nhiên, các dạng “khoa học huyền bí” (ngôn ngữ Việt Nam hiện đại gọi là “văn hóa tâm linh”) của Á Đông đều khởi nguồn từ Trung Hoa.
Từ xa xưa, người Tàu đã dùng cách gieo quẻ âm dương (xin keo) để hỏi ý thần linh mỗi khi phải lựa chọn quyết định trước những vấn đề quan trọng.
Từ hơn 2.500 năm trước công nguyên, Hiên Viên (Hoàng đế) đã gieo quẻ âm dương khi ra trận đánh nhau với thủ lĩnh Xi Vưu (và ở Việt Nam, vào đầu năm 2016, tức mới tuần trước thôi, thằng cha Năm Tuấn quán cà phê chợ xã chỗ tôi cũng dùng cách tung hai chiếc dép tổ ong để có quyết định theo kèo nào trước một trận bóng Cúp C1). Nhưng gieo quẻ âm dương chỉ cho câu trả lời tối giản “Yes or No”, trong khi người ta thường có khuynh hướng muốn được đối thoại nhiều hơn với thần linh để có thông tin tối đa, nên đã sáng chế ra các thẻ xăm.
QUÁ TRÌNH
Ban đầu, lời thánh phán được ghi trực tiếp trên 49 thẻ xăm cả thảy, đó là những câu văn ngắn cực kỳ cô đọng do các vu sư đời Đường đặt ra.
Qua các đời sau, theo sự phát triển của Đạo giáo, dần dần hình thành các loại xăm khác nhau, từ 49 thẻ thành 64 thẻ theo Dịch quái, rồi thành 100 thẻ để dự đoán thế sự. Đời sống ngày càng phát triển, những câu hỏi do con người đặt ra mong cầu thần linh giải đáp ngày thêm đa dạng, chỉ một câu văn ngắn trên thẻ không hiển thị đủ mặc khải của thần linh, nên xuất hiện thêm “thơ xăm” (thiêm thi). Trên thẻ xăm do đó chỉ còn ghi những ký hiệu hoặc đánh số để phân biệt, người xin quẻ theo đó lãnh “thơ xăm” để đọc. Thơ xăm thường là một bài tứ tuyệt ngũ ngôn hoặc thất ngôn, lời lẽ mông lung bao la, lại phải có thêm lời “giải xăm” (thiêm giải). Nhưng chỗ gọi “lời giải” này thường lại dẫn điển tích cổ xưa, phải người có căn bản Nho học mới lãnh hội được ít nhiều huyền cơ trong đó, vậy là nghề bàn xăm ra đời, thường do các thầy đồ đảm trách.
Nội dung thẻ xăm nhờ các thầy bàn này ngày thêm phong phú đa dạng, có thể giải đáp hầu hết những thắc mắc về công danh tài lộc, hôn nhân gia đạo, mùa màng thất bát, thậm chí cả buôn bán đi xa, giới tính thai nhi, tìm lại của rơi... Nghi thức xin xăm cũng theo đó ngày một trang trọng, được bổ sung thêm lối gieo quẻ âm dương (xin keo) xác nhận lá xăm để tăng phần trang trọng, tạo thêm sự tin tưởng vào hiệu nghiệm linh ứng của quẻ xăm.
Đến khoảng đời Nguyên, cuối thế kỷ XIII trở về sau, ống đựng thẻ xăm và hai miếng gỗ hình bán nguyệt dùng xin keo nghiễm nhiên đã có chỗ trên hương án chánh điện của các danh lam cổ tự, và gian ngoài đền miếu thường có chỗ riêng cho thầy bàn xăm cũng như kệ hộc đựng những tờ xăm. Mỗi chùa đều có bản khắc để có thể tự in xăm ra những tờ giấy mỏng.
NGHI THỨC
Người xin sau khi thắp nhang đèn trước tượng thần phải làm lễ ba quỳ chín lạy, bày tỏ mục đích mình muốn tham vấn thần ý. Sau đó hai tay nâng ống xăm quá đầu để xóc cho đến khi có một thẻ văng ra (nếu ra quá một thẻ thì không tính, phải xóc lại). Khi thẻ xăm đã ra, lại phải gieo âm dương (xin keo) để được thần linh xác nhận thẻ đó. Hạn trong ba lần gieo âm dương, nếu không được thần ý “xác nhận” tức là thiên cơ bất khả lậu, phải trả thẻ, qua tháng sau mới được xin lại.
PHỔ BIẾN
Những thẻ xăm của Trung Hoa được lan truyền sang Nhật, Hàn, Miến, Việt, và biến thể ra nhiều lối khác nhau tùy phong hóa thủy thổ mỗi nơi. Như ở Nhật, ống xăm chỉ chừa lỗ nhỏ vừa đủ một thẻ rơi ra, khi đọc xong quẻ, tờ xăm xấu sẽ được đặt lại trên giá, ngụ ý ký thác, nhờ thần Phật giúp mình sửa đổi vận khí. Gần đây, Nhật lại có máy xin xăm, chỉ cần nhét đồng xu vào, tờ xăm sẽ rơi ra.
LƯU TRUYỀN VĂN HÓA
Những bài thơ xăm tuy tùy mỗi đền chùa có khác nhau (như xăm Chùa Ông, xăm Chùa Bà, xăm Quan Âm, xăm Thiên Hậu...), nhưng đều do những bậc văn tài, sở học uyên thâm quảng bác chế tác. 100 thẻ xăm không chỉ ẩn tàng nguyên lý Dịch học(*) mà còn chứa đựng nhiều điển tích văn học, lịch sử, địa lý, v.v...
Người Trung Hoa thuở xưa vì thời cuộc hoặc sinh kế mà phải lưu lạc tứ tán muôn phương, họ hầu như chỉ có đôi tay trắng và một nhiệt huyết sinh tồn. Theo bước chân những người Tàu trôi dạt, đền chùa, hội quán được dựng lên, làm nơi đoàn kết tụ họp và gìn giữ văn hóa nghìn đời; những lá xăm trong chùa Tàu chính là một phần của kho tàng văn hóa đó. Người ngoài đọc xăm thường thấy rối rắm lung tung, nhưng với Ba Tàu, họ thể nghiệm được nhiều huyền cơ giúp thân tâm an lạc, điềm đạm.
Tôi bắt nhớ hoài hình ảnh bà nội tôi trong một lần xin xăm ở Chùa Ông bên Cù Lao Phố. Khi đó, nhà chỉ còn nội và tôi, có hai ông chú sống chung thì đều bị bắt cải tạo. Một hôm, vào đầu mùa mưa, nội đón xích lô để hai bà cháu đi xin xăm: của cải đồ dùng trong nhà, tivi, máy hát đĩa, rồi cả bộ ván gõ, tủ thờ cũng lần lượt theo nhau ra chợ trời. Bà nội gần như kiệt sức vì gánh mưu sinh và nỗi thương nhớ hai chú, bà muốn xin xăm để biết bao giờ mấy chú được tha về.
Tiếng chuông mõ khoan thai điểm nhịp hòa theo tiếng lóc xóc của ống xăm, nội tôi an nhiên thư thả lắc đều đều. Chừng xin được thì lại là lá xăm “Hạ hạ” xấu nhất, cho biết tương lai còn mờ mịt lắm, hai chú chưa biết chừng nào mới về được. Tôi những tưởng nội sẽ gục xuống vì thất vọng, nhưng bà lại điềm tĩnh mỉm cười trấn an tôi: “Không sao, vậy cũng được!” Với bà, xin xăm không chỉ để cầu lời dự đoán tiên tri, mà chính là một dịp được giao tiếp với thần linh, qua đó được tiếp sức để đi tới, vô cầu vô oán.
TẬP TỤC CẦN GÌN GIỮ?
“Cách mạng văn hóa” do Mao Trạch Đông phát động đã gần như xóa sạch văn hóa ngàn đời của Trung Hoa. Chùa chiền, đạo quán ở đại lục bị đập phá tan tành, tượng thần bị kéo sập cho rụng đầu gãy tay, kinh sách bị thiêu hủy hầu như tuyệt diệt thất truyền, những lá xăm linh thiêng cũng thành đối tượng cần đấu tranh tiêu diệt. 10 năm “Văn cách” là một trường ác mộng, mãi đến chừng Đông tắt thở, người dân đại lục mới được thở phào nhẹ nhõm biết mình còn sống.
Phải qua đến thập niên 90 thế kỷ trước, sau cuộc chiến tranh Trung-Việt, Trung Nam Hải mới cho phục hồi tái thiết nền văn hóa cổ truyền. Nhưng huyết mạch đã đứt đoạn, nguyên khí văn minh học thuật đã thành tàn lụi, cái được dựng lại chỉ là bản sao mờ nhạt nhiều khiếm khuyết. Những bản khắc in xăm còn lại đều chẳng vẹn toàn, các xăm đa phần thất lạc, được chép lại theo trí nhớ; đã vậy, chúng được in lại theo lối giản thể do Trung cộng bày ra, chữ nghĩa đều bị biến dạng, một trong những phương pháp quan trọng để giải xăm là cách chiết tự đã không còn thể vận dụng để giải đoán các xăm mới này; và chủ yếu là thơ xăm bị kiểm duyệt cải sửa thêm thắt cắt xén để khỏi có tư tưởng đi ngược với chủ trương của đảng.
Ở đại lục đã vậy, ở xứ ta thì “văn hóa xin xăm” lại càng tệ lậu bội phần. Chùa miếu chính là những công trình được “xã hội hóa” thành công nhất của chế độ, đó không còn là chỗ thanh lọc, di dưỡng tâm hồn, mà biến thành nơi khai thác lợi nhuận. Việc xin xăm cúng bái nhang đèn trong chùa đều được đấu thầu; hòm công đức được phát minh, đặt chễm chệ nơi chánh điện như đấm vào mặt khách thập phương, và thường xuyên có nguy cơ bị kẻ gian moi móc xén bớt công quả; những lá xăm nhỏ bằng bàn tay, lời lẽ ngây ngô xàm xí, được bán với giá 5, 10 ngàn, kèm theo đó là những dịch vụ giải hạn trừ căn dành cho những người bị nhằm xăm xấu. Và đến gieo quẻ âm dương như thằng cha Năm Tuấn xã tôi, khi xin kèo bóng đá C1 cứ tung đôi dép nhựa hàng chục lần cho đến khi “thần ý” phán đoán kết quả khớp với dự đoán của y mới thôi. Thần thánh phải chìu theo sở thích và dục vọng của con người; và giới hữu trách cũng như các nhà nghiên cứu văn hóa thì cứ lớn tiếng bảo rằng xin xăm là một tập tục cổ truyền của người Việt, cần phải giữ gìn!
GIẢI PHÁP
Ngoại trừ số ít chùa chiền trong Nam là còn giữ được nét đẹp của văn hóa xin xăm, như Lăng Ông Bà Chiểu Sài Gòn, Chùa Ông Cù lao Phố Biên Hòa... còn thì đều là những thứ bát nháo thần chẳng ra thần ma chẳng ra ma.
Thiết nghĩ, cần phải quét sạch những thứ xăm nhảm nhí ta bà trên khắp tổ quốc thương yêu của chúng ta. Bên cạnh đó, cần thiết lập loại xăm mới phục vụ cho mục đích tuyên truyền. Các đền chùa ngày nay đều có đặt tượng H. #.. #..., Võ Nguyên Giáp cạnh thiên binh thần tướng, vậy sao chúng ta không trứ tác ra loại xăm mới, kêu bằng “Lãnh tụ linh sám”, “Đại tướng thần sám”? Chất liệu để sáng tác những thơ xăm sẽ là những điển tích trích dẫn từ cuộc đời và sự nghiệp của hai vị Minh và Giáp, qua đó tư tưởng cách mạng cũng như trình độ lý luận của toàn đảng toàn quân toàn dân sẽ được nâng cao. Còn chờ gì nữa? Muốn có chùa chiền chủ nghĩa xã hội thì cần phải có những lá xăm xã hội chủ nghĩa thôi, nam mô!
_______
(*) Có thuyết cho rằng con số 100 đó là do sự kết hợp của bát quái và lục hào mà ra:
(8 × 8) + (6 × 6) = 100
Một bộ xăm của Đài Loan.
Một lá xăm của Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt
Vinhhuy Le
Lou
19/03/2016
Phuongkongfa, on 19/03/2016 - 10:36, said:
Làm hộ chiếu ở Cam mắc quá trời, mất 3 tháng và 140USD-phí chính thức
140USD không phải ai cũng dễ có số tiền đó để làm hộ chiếu - so với lượng công nhân bình quân là 75-80USD/tháng
140USD không phải ai cũng dễ có số tiền đó để làm hộ chiếu - so với lượng công nhân bình quân là 75-80USD/tháng
cọc cọc bấm máy 140x22 = 3.080 đô la việt, sao mắc dị? Ở vn làm cách đây vài năm có 2ook.
Đợt rồi có làm visa cho mấy đứa em vô Cam chơi, visa vô Cam 75 usd, người Việt free.
Hộ chiếu Vn có đất dụng võ rồi. Mặc dù đứng sắp chót, nhưng vẫn là aka anh Hùn hỉ
Phuongkongfa
19/03/2016
Chẳng ai ham làm anh hùng đâu cô, thấy đàn bà con nít dọc biên giới vô cớ nó giết dã man thì tôi phải cầm súng thế thôi.
Lou
19/03/2016
con biết mà, ba con cũng từng đi lính ở Cam. Làm sao con có thể mang việc đó làm trò đùa được.
Câu trên là câu nói chơi về cái hộ chiếu VN thôi.
Câu trên là câu nói chơi về cái hộ chiếu VN thôi.
Phuongkongfa
19/03/2016
Biết tại sao không, cô bé,
tôi bị dị ứng với cái gọi là anh hùng, là con người ai cũng tham sống sợ chết cả đừng nói là anh hùng. Cầm súng ra trận thằng nào cũng sợ chết cả, giữ được mạng sống mà ra khỏi cuộc chiến là mừng rồi, chẳng cần cái anh hùng đó đâu.
Hôm nào rảnh tôi sẽ kể chuyện cho nghe những đứa nào được gọi là anh hùng.
Mề đay đỏ ngực anh nằm lại,
xác ở nơi đâu để mẹ con em tìm về.
Sửa bởi Phuongkongfa: 19/03/2016 - 13:32
tôi bị dị ứng với cái gọi là anh hùng, là con người ai cũng tham sống sợ chết cả đừng nói là anh hùng. Cầm súng ra trận thằng nào cũng sợ chết cả, giữ được mạng sống mà ra khỏi cuộc chiến là mừng rồi, chẳng cần cái anh hùng đó đâu.
Hôm nào rảnh tôi sẽ kể chuyện cho nghe những đứa nào được gọi là anh hùng.
Mề đay đỏ ngực anh nằm lại,
xác ở nơi đâu để mẹ con em tìm về.
Sửa bởi Phuongkongfa: 19/03/2016 - 13:32
Lou
19/03/2016
mà con thi phi công rớt, nếu có làm lính con mong đc bay vèo vèo trên trời hơn là đi đường bộ. Ba nói hành quân đi bộ trong rừng, có người còn trẻ chắc hơn 18t, mới ra trận pháo kích cái chết. Lính chết, sếp lên lon. Vì vậy nếu đc thì tốt nhất là k có chiến tranh, anh hàng xóm muốn vn hở, tặng luôn, khuyến mãi thêm đảo nữa
Ngu Yên
19/03/2016
Luciferlady, on 19/03/2016 - 10:26, said:
Người Việt Nam thần thánh ai cũng có HỌ , nhưng có lẽ ít người biết gốc tích họ của mình, tôi xin giới thiệu bài biên lừng danh của anh Vinhhuy Le , 1 giáo sư lừng danh kim cổ về Họ của người Việt:
HỌ CỦA NGƯỜI VIỆT
Danh tính gắn liền với đời người, ai cũng có quyền tự hào về tên họ của mình, nhưng ít khi người ta quan tâm cái họ của mình bắt nguồn từ đâu; và càng hiếm người phát hiện ra tộc Việt vốn… không có họ. Họ của người Việt, trừ một số rất ít mượn của Chiêm tộc và Chân Lạp, còn thì hầu hết đều bắt nguồn từ Trung Hoa.
Đọc sử Việt Nam, nếu chú ý cái họ, ta sẽ thấy thủy tổ các dòng dõi vương triều Đại Việt đều có huyết thống rơi rớt từ phương Bắc: Ngô Quyền, người sáng lập triều Ngô, gốc ở đất Ký (冀 – tên gọi tắt tỉnh Hà Bắc, Trung Hoa); Đinh Bộ Lĩnh, người gốc Việt (粵 – tên gọi tắt tỉnh Quảng Đông); Lê Hoàn gốc Thục (蜀 – tên gọi tắt tỉnh Tứ Xuyên); Lý Công Uẩn và Trần Thừa cùng gốc Mân (閩 – tên gọi tắt tỉnh Phúc Kiến); Hồ Quý Ly gốc ở Chiết Giang; Mạc Đăng Dung gốc Quảng Đông; Lê Lợi gốc Phúc Kiến; Trịnh Kiểm, cũng như Nguyễn Phúc Ánh, đều gốc Mân Phúc Kiến.
Tại sao lại có sự dính líu của các vương triều ở đây? Thật ra không phải chỉ bọn vua quan, mà cả lê dân ít nhiều đều có gốc gác từ Tàu. Có muốn chối bỏ điều đó cũng không được, nó thể hiện rành rành trên chứng minh thư mỗi người.
HỌ TRIỆU 趙
Xếp theo số lượng thì họ Triệu đứng hàng thứ 7 ở Trung Hoa.
Họ Triệu hình thành chủ yếu là do họ Doanh 嬴. Thủy tổ họ Doanh có công lớn trừ phản tặc, được Chu Mục vương (1054-949 trCn) cắt thưởng cho thành Triệu. Từ đó, để nhớ huân công này, phần nhiều con cháu họ Doanh lấy Triệu làm họ, và lập ra nước Triệu thời Chiến quốc. Triệu quốc thiên đô đến Hàm Đan (nay thuộc tỉnh Hà Bắc), đến năm 222 trCn thì bị Tần diệt. Họ Triệu sinh sôi phát triển chủ yếu ở miền bắc Trung Hoa.
Theo “Sử ký” của Tư Mã Thiên, vào cuối đời Tần, dòng dõi nước Triệu là Triệu Đà, làm huyện lệnh của Tần, vì bất phục, muốn tạo dựng giang sơn riêng, nên đã cát cứ một dải Lĩnh Nam, lấy Quảng Châu làm trung tâm, lập ra nước Nam Việt, tự xưng Nam Việt vương.
Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”: “Họ Triệu, tên húy là Đà, người huyện Chân Định, nước Hán, đóng đô ở Phiên Ngung (nay ở tỉnh Quảng Đông). Giáp Ngọ, năm thứ 1 [207 trCn], Tần Nhị thế năm thứ 3, vua chiếm lấy đất Lâm Ấp và Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt vương”.
HỌ NGÔ 吳
Ngô được xếp hạng là dòng họ lớn thứ 10 ở Trung Hoa, hàng thứ 6 ở Việt Nam, và là một trong 20 họ phổ biến ở Triều Tiên.
Nguồn gốc họ Ngô vốn từ họ Cơ 姬, thủy tổ là Thái Bá và Trọng Ung đời nhà Thương.
Nguyên đời Thương (1766-1122 trCn), thủ lĩnh họ Cơ của bộ tộc Chu là Cơ Cố Công (Chu Thái vương) có ba con trai: Thái Bá, Trọng Ung và Quý Lịch. Chu Thái vương đặt hy vọng lớn vào người con út Quý Lịch. Thái Bá và Trọng Ung do đó truyền ngôi lại cho em. Quý Lịch sau này có người con là Cơ Xương làm nên đại nghiệp, lập nhà Chu, chính là Chu Văn vương, người diệt nhà Thương. Nói về Cơ Thái Bá và Cơ Trọng Ung, họ sau đó đã đến khai phá vùng duyên hải mạn đông nam.
Năm 585 trCn, cháu đời thứ 19 của Trọng Ung là Thọ Mộng chính thức xưng vương, lập nên nước Ngô hùng mạnh, từng tranh bá với thiên hạ. Đến 473 TrCn, Ngô bị nước Việt diệt. Con cháu nước Ngô chạy loạn tứ tán, để khỏi quên nước cũ, họ lấy quốc hiệu Ngô làm họ.
Họ Ngô đào thoát ra hải ngoại, đã sớm đến Nhật Bản. Sau khi nước Ngô bị diệt, khoảng 450 trCn, nhiều con cháu họ Ngô đã đến Nhật Bản. Có nhiều giả thiết cho rằng Thần Võ thiên hoàng (Jinmu Tennō), vị Thiên hoàng đầu tiên của Nhật Bản, là dòng dõi họ Ngô thời Chiến quốc.
Cùng lúc với nhánh lánh nạn sang phương đông, một chi khác của họ Ngô thiên di về phương Nam, đến Giao Chỉ. Sau đó, do nhậm chức quan hoặc bởi doanh thương, họ Ngô ngày càng nhiều người tìm đến vùng đất này. Trong bộ “Nguyên Hòa tính toản” của Lâm Bảo đời Đường biên soạn còn ghi lại: Cháu đích tôn của họ Ngô ở Bột Hải là Ngô Nạp nhậm chức thứ sử An Châu (sau đổi thành Ái Châu, nay là tỉnh Thanh Hóa), do đó nhiều người họ Ngô ở Bột Hải đã di cư đến miền bắc Việt Nam.
Khi nhà Đường diệt vong, Trung Hoa phân rã thành 10 nước. Lúc ấy có Lưu Ẩn là tiết độ sứ Thanh Hải quân kiêm tiết độ sứ Tĩnh Hải quân và An Nam đô hộ phủ. Lưu Ẩn mất, em là Lưu Nham lên thay, tự xưng mình là hậu duệ nhà Hán, lập ra nhà Nam Hán. Đây chính là thời kỳ Ngũ đại Thập quốc bên Tàu (907-979). Năm 917, Nam Hán bổ nhiệm Dương Đình Nghệ làm tiết độ sứ Giao Chỉ.
Năm 937, Dương Đình Nghệ bị bộ tướng là Kiều Công Tiễn sát hại để cướp ngôi vị. Năm sau, một nha tướng khác, đồng thời cũng là con rễ của Dương, là Ngô Quyền, mang quân từ châu Ái (Thanh Hóa) kéo về giết Kiều Công Tiễn, đồng thời đánh bại luôn quân Nam Hán vừa kéo sang toan bình định Giao Chỉ. Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, lập nên nhà Ngô. Sử nước ta vẫn thường tâng bốc Ngô là vương triều độc lập đầu tiên của Đại Việt, nhưng thực ra đây chỉ là sự tranh chấp quyền lợi và thế lực giữa bọn quan lại Trung Hoa trong lúc rối ren mà thôi.
Ngô Quyền chính là một người Tàu, là cháu đời thứ 50 của Ngô Quý Trát ở trấn Diên Lăng thuộc tỉnh Giang Tô. Quý Trát là con thứ tư của Thọ Mộng, người khi xưa đã lập nên nước Ngô. Ngô vương vốn muốn truyền ngôi cho Thọ Mộng, nhưng ông không chịu nhận, bỏ trốn đến Diên Lăng khai khẩn lập ấp. Chi họ Ngô này sau đó có người thiên di sang Nam, đến đời Ngô vương Quyền thì được làm nha tướng, lại được Dương Đình Nghệ gả con, cho phụ coi quản châu Ái.
HỌ ĐINH 丁
Theo các sách “Nguyên Hòa tính toản”, “Vạn tính thống phổ”, “Thông chí – thị tộc lược”, thì gốc của họ Đinh là từ họ Khương. Con trai Khương Tử Nha là Khương Cấp, cùng làm trọng thần nhà Chu, khi mất được Chu ban cho thụy hiệu là Đinh công, con cháu của Cấp vì đó lấy thụy hiệu làm họ.
Thời Ngũ đại Thập quốc, Trung Hoa mênh mông chia thành 10 nước xâu xé nhau, thì quận Giao Chỉ nhỏ bé bằng bàn tay cũng chia làm 12 sứ quân (944-968) tranh giành thế lực, và trong 12 thế lực đó, hết 3/4 có thể xác định đều là người Tàu.
Đinh Bộ Lĩnh, người anh hùng cờ lau tập trận, là con của Đinh Công Trứ. Trứ vốn người Tàu gốc ở Quảng Đông, sang làm thứ sử châu Hoan, là nha tướng của sứ quân Trần Lãm. Khi Trần Lãm mệnh một (năm 967), Đinh Bộ Lĩnh thừa hưởng binh quyền, từ đó dẹp bọn người Tàu kia, lập ra nước Đại Cồ Việt (968). Nếu không có gốc gác họ Tàu đó, vào năm 975, Tống Thái tổ khó lòng phong Đinh Bộ Lĩnh làm “An Nam Đô hộ Kiểm hiệu Thái sư Giao Chỉ quận vương”, để kể từ đó Trung Hoa chịu nhìn nhận Đại Việt như một nước chư hầu, chứ không phải là quận huyện do họ cai quản nữa.
HỌ LÊ 黎
Lê xếp hạng 92 trong sách “Bách tính gia” của Trung Hoa (soạn vào đời Tống), nhưng là một trong 10 họ lớn ở Việt Nam.
Đời nhà Thương, có hai nước chư hầu nhỏ cùng lấy quốc hiệu là Lê: một thuộc khu vực tỉnh Sơn Tây (Trung quốc) ngày nay; và một ở huyện Vận Thành tỉnh Sơn Đông. Con cháu hai nước này đều lấy quốc hiệu làm họ.
Từ thời cổ đại, đã có nhiều người Tàu họ Lê di cư sang Đại Việt, chẳng những thế, họ còn gầy dựng Lê thành vọng tộc suốt một dải Thanh Hóa.
Năm 980, người họ Lê gốc Thục (Quảng Tây) là Lê Hoàn sáng lập nên triều Tiền Lê của Đại Việt.
Năm 1428, một người họ Lê khác, gốc Mân (Phúc Kiến), là Lê Lợi lập nên triều Hậu Lê. Đọc kỹ “Đại Việt sử ký toàn thư”, ta sẽ thấy ông Phúc Kiến Lê Lợi là người quen biết, thường xuyên vào ra trướng phủ của các quan cai trị người Minh.
HỌ LÝ 李
Lý xếp hạng tư trong “Bách gia tính”, tính về số lượng là dòng họ lớn nhất ở Trung Hoa. Họ Lý vốn đã có từ đời nhà Ân, gốc ở Lộc Ấp tỉnh Hà Nam, hậu duệ sau này lập nên Đại Đường (618–907) thịnh trị ở Trung Hoa. Do nhiều duyên khởi, sau khi nhà Đường bị diệt, đã hình thành nên hai chi họ Lý ở Việt Nam và Triều Tiên.
Năm 1009, Lý Công Uẩn, người đất Mân (Phúc Kiến), vốn dòng dõi Tào vương Lý Minh (con trai Đường Thái tôn Lý Thế Dân) lập nên nhà Hậu Lý.
“Đại Việt sử ký toàn thư” ghi thân thế Lý Công Uẩn rất khôi hài: bà mẹ họ Phạm, nhân đi chơi chùa Tiêu Sơn, cùng với thần nhân giao hợp mà có chửa”.
Theo “Tốc thủy ký văn” (soạn khoảng 1019-1086) của Tư Mã Quang viết về giai đoạn Lục triều của Bắc Tống, có đoạn thuật lại nguyên do chiến tranh giữa Tống-Lý, vô tình nhắc đến một chi tiết liên quan đến nguồn gốc nhà Lý:
<Niên hiệu Hy Ninh (1068-1077), tiến sĩ Lĩnh Nam là Từ Bách Tường nhiều lần thi rớt đại khoa, ngầm viết thư cho Giao Chỉ rằng: “Đại vương vốn TỔ TIÊN LÀ NGƯỜI MÂN. Nghe rằng hiện công khanh quý nhân ở Giao Chỉ phần lớn là người Mân. Bách Tường này tài ba chẳng kém ai, nhưng không được dùng ở Trung quốc, mong được phò tá dưới trướng đại vương. Nay Trung quốc muốn cử đại binh tiêu diệt Giao Chỉ. Binh pháp có câu: Kẻ ra tay trước có thể chiếm được lòng người, chi bằng cử binh đánh trước, Bách Tường xin làm nội ứng”. Vì thế mà Giao Châu dấy binh vào đánh cướp, vây hãm ba châu Khâm, Liêm, Ung. Bách Tường không kịp đến quy hàng. Khi ấy Thạch Giám quen thân với Bách Tường, dâng tấu khen Bách Tường có chiến công, ngoài chức Thị cấm, sung thêm làm Tuần kiểm ba châu Khâm, Liêm, Bạch. Triều đình sai Tuyên Huy sứ Quách Quỳ thảo phạt Giao Chỉ. Giao Chỉ xin hàng, cáo giác rằng: “Chúng tôi vốn không có ý cướp phá, là do người Trung quốc xúi giục thôi”. Lại trình thư của Bách Tường cho Quỳ. Quỳ lệnh cho Chuyển vận ty của tỉnh Quảng Tây tra hỏi. Bách Tường chạy trốn, rồi tự treo cổ chết>
Ngoài ra, còn “Mộng Khê bút đàm” (soạn khoảng 1086-1093) của Thẩm Quát (1031-1095); “Tục Tư trị thông giám trường biên” của Lý Đảo (1115-1184), “Trịnh Thiều Châu kỷ lược phụ lục” (soạn khoảng 1240-1280) của Trịnh Tủng, cũng đều khẳng định gốc gác người Mân của nhà Hậu Lý.
Thậm chí, còn có “Lý trang Chử nội Lý thị phòng phả” (soạn năm 1266 – đời Nam Tống), là sách gia phả dòng họ Lý ở đất Mân còn ghi chi tiết cụ thể: ông nội Công Uẩn tên Lý Tung (883-948), nguyên tịch huyện Nhiêu Dương, Thâm Châu. Tung làm tể tướng nhà Hậu Tấn, đời Tấn Cao tổ (trị vì năm 942-946), Tung bị vu oan hãm hại nên con cháu phải dời đến đất Mân; cha Uẩn là Lý Thuần An (921-999), con cả của Lý Tung, đang làm chức Thủy lục Vận sứ, do cha bị hại mà phải bỏ quan chức đào thoát, An từ đó kinh doanh vận tải đường thủy, từng đưa thuyền đến Chân Lạp, Xiêm La, và sau định cư Giao Chỉ; còn Công Uẩn, vốn tên chữ là Triệu Diễn, con thứ của Thuần An.
Những sách liệt kê trên đều là sử liệu quan trọng, có ghi rõ gốc gác Công Uẩn, và đều có trước “Đại Việt sử ký Toàn thư” (soạn 1272-1697), vậy tại sao “Toàn thư” lại chép Uẩn là con hoang của thần nhân, con nuôi của Lý Khánh Văn? Các nhà chép sử của Đại Việt còn nợ hậu thế câu trả lời cho vấn đề này.
Do hoàng thất gốc Mân, nên thời Lý-Trần, người Mân từ Trung Hoa sang đều được ưu đãi, phong cho quan chức và trọng dụng. Triều đình Lý-Trần do đó cũng mô phỏng y hệt thể chế Trung Hoa, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, khoa cử. Chữ Hán được phổ cập và dùng làm phương tiện tiến thân cho tầng lớp nho sĩ. Có thể nói, Lý-Trần tuy tiếng là vương triều độc lập, nhưng lại có công Hán hóa Việt tộc hơn cả người Hán.
Làm vua rồi, Uẩn bắt chước các hoàng đế Trung Hoa, phong “quốc tính” cho những người có công trạng, họ Lý ở Đại Việt từ đó lan rộng.
HỌ TRẦN 陳
Họ Trần được phân bố rất rộng, đây là họ được xếp hàng thứ 10 trong “Bách gia tính”, lớn hàng thứ 5 ở Trung Hoa, và là một trong 10 họ lớn ở Việt Nam.
Họ Trần vốn gốc là nước Trần cổ đời Tây Chu, chiếm lĩnh vùng Hoài Nam (nay thuộc tỉnh Hà Nam – Trung Hoa). Vua khai quốc nước Trần là Duy Mãn, vốn là hậu duệ của vua Thuấn, con cháu lấy quốc hiệu cựu triều làm họ nên có họ Trần.
Họ Trần thiên di hải ngoại, đời Tống đã có người họ Trần đến Giao Chỉ. “Toàn thư” ghi họ Trần vốn người đất Mân. Nhưng truy theo gia phả thì tổ tiên Trần thiệt ra là họ Tạ. Tạ Thăng Khanh vốn người huyện Trường Lạc, phủ Phúc Châu (nay là thủ phủ tỉnh Phúc Kiến), do thất chí trong khoa cử nên bỏ nhà lưu lạc đến Ung Châu, tỉnh Quảng Tây. Sau đó Khanh buôn bán ở vùng biên giới, được viên quan ở Giao Chỉ là Trần Hiếu nhận làm rễ, lại đổi tên cho thành Trần Kính. Kính chính là cha của Trần Thừa, ông nội của Trần Cảnh tức Trần Thái tôn (1218-1277).
[“Đại Việt sử ký Toàn thư” ghi: “... Trước kia, tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có người tên là Kính đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê...” (Bản kỷ, Trần Thái tôn hoàng đế)].
Sau khi lên ngôi, nhà Trần liền cử sứ giả sang Tàu cầu phong, nguyện suốt đời giao hảo với Đại Tống, được sách phong An Nam quốc vương.
Do cả đời chỉ biết Đại Tống là thượng quốc, vẫn cho Trung Hoa là đệ nhất thiên hạ, nên khi Mông Cổ mượn đường đánh Tống, nhà Trần chẳng biết trời cao đất dày, xem quân Mông như phường man di nhược tiểu. Trong cuộc “Kháng Mông lần thứ nhất” (1257), “Toàn thư” thuật lại trận chiến, thấy vua tôi nhà Trần ra trận vẫn khinh thị như đi xem hát, mãi đến lúc kinh thành Thăng Long bị san bằng mới hiểu ra sức mạnh của đội quân Mông Cổ. Và sau này, khi núng thế trước sức mạnh ấy, Thái tôn hỏi kế, Trần Nhật Hiệu đã bày mưu “nhập Tống” (chạy sang nước Tống). Hẵn khi đó, anh em nhà ấy vẫn không sao ngờ rằng hơn 20 năm sau Nam Tống bị Mông Cổ nuốt gọn.
HỌ HỒ 胡
Trong “Bách gia tính”, Hồ đứng hàng thứ 158, nhưng về số lượng lại xếp hàng thứ 13 ở Trung Hoa.
Họ Hồ, cũng như Trần, vốn bắt nguồn từ nước Trần cổ, đầu triều Tây Chu. Vốn Duy Mãn sáng lập nước Trần có thụy hiệu là Hồ công, con cháu do đó chia làm hai chi, một chi lấy quốc hiệu Trần làm họ, chi kia lấy thụy hiệu Hồ làm họ.
Hồ Quý Ly (1336-1407), có lẽ do không được các sử gia đánh giá cao, nên đã ghi rất chi tiết về nguồn gốc: “... Tổ tiên Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật, vốn là người Triết Giang bên Trung quốc, thời Hậu Hán (947-950) được vua Hán cử sang làm Thái thú Châu Diễn (tức vùng Diễn Châu, Nghệ An). Đến thời loạn mười hai sứ quân, họ Hồ dời vào hương Bào Đột (nay là xã Quỳnh Lâm, Quỳnh Lưu, Nghệ An) và trở thành một trại chủ. Đến thời Lý, trong họ có người lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đời cháu thứ 12 của Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Hồ Liêm làm con nuôi của Tuyên úy Lê Huấn rồi lấy họ Lê làm họ của mình. Hồ Quý Ly là cháu 4 đời của Lê Liêm, khi lên làm vua thì đổi lại họ Hồ” (“Toàn thư”, phụ lục Bản kỷ nhà Trần).
Quý Ly không hề giấu diếm nguồn gốc người Tàu của mình. Lên ngôi, ông liền đổi quốc hiệu thành Đại Ngu – để ghi nhớ gốc họ Hồ vốn là con cháu Ngu Thuấn. Do gốc Tàu, thông thạo ngôn ngữ mẫu quốc, nên con Quý Ly là Nguyên Trừng sau này được nhà Minh trọng dụng.
Sau này, có một kẻ họ Hồ từ tông chi Hồ Quý Ly, đổi thành họ Nguyễn và tiếm xưng hoàng đế, chính là Nguyễn Huệ [Hồ Thơm] (1788-1792).
HỌ MẠC 莫
Mạc là dòng họ lâu đời nhất Trung Hoa, được sách “Bách gia tính” xếp hàng 168. Họ Mạc chiếm số lượng lớn ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Tứ Xuyên.
Thủy tổ họ Mạc là Chuyên Húc, cháu nội Hoàng Đế. Chuyên Húc xây dựng thành cổ là Mạc thành (nay thuộc Hà Bắc, Trung Hoa), con cháu lấy tên đất đó làm họ là Mạc.
Họ Mạc khởi nguyên có hai chi: một chi ở Hà Bắc như đã nói trên; chi khác bắt nguồn từ nước Sở thời cổ. Thời Nam Bắc triều (420-589), các ngoại tộc đến định cư ở Tàu phần lớn đều lấy Mạc làm họ. Đến thời Ngũ đại Thập quốc (907-979), họ Mạc ở tỉnh Giang Nam phát triển mạnh, còn họ Mạc ở phương bắc do sự trà trộn của ngoại tộc nên suy yếu mai một dần. Lúc này họ Mạc bắt đầu đến Phúc Kiến sinh sống. Cuối đời Tống, do Mông Cổ xâm phạm, họ Mạc lại lần xuống đến Quảng Đông, Quảng Tây.
Mạc Đăng Dung (1483-1541), tổ tiên vốn là di dân Trung Hoa từ Quảng Đông. Cùng là soán ngôi, nhưng Điện tiền thị vệ Lý Công Uẩn được tôn là minh quân, còn Đô chỉ huy sứ Mạc Đăng Dung phải chịu tiếng lộng thần. Triều Mạc ngắn ngủi, chỉ 13 năm (1527-1540), cũng như triều Hồ, bị lên án vì đã bại binh trước quân Tàu.
Mạc Kính Thự trong tờ biểu cầu cứu Mãn Thanh cũng có kể ra ông cha mình vốn gốc ở thôn Trà Hương, huyện Đông Quan, Quảng Đông.
HỌ TRỊNH 鄭
Họ Trịnh nguồn gốc từ nước Trịnh (806-375 trCn) thời Xuân Thu. Trịnh bị nước Hàn diệt, con cháu lấy tên nước cũ làm họ. Trịnh đứng hàng thứ 7 trong “Bách gia tính”, về số lượng xếp hàng 21 ở Trung Hoa. Họ Trịnh phân bố rất rộng, đặc biệt đông đúc ở Chiết Giang và Phúc Kiến.
Họ Trịnh di dân từ Phúc Kiến đã dựng nên nhà Trịnh ở Đại Việt, tồn tại được 242 năm (1545-1787).
Trịnh Hoài Đức (1765-1825), công thần của nhà Nguyễn, cũng là dòng dõi họ Trịnh ở đất Mân (tên tắt của tỉnh Phúc Kiến) này.
HỌ NGUYỄN 阮
Nguyễn là tên một nước chư hầu nhỏ thời nhà Thương (1766-1122 trCn). Nước này chiếm lĩnh một dải huyện Kính Xuyên, thuộc tỉnh Cam Túc. Cuối đời Thương, nước Nguyễn bị diệt, con cháu lấy tên nước cũ làm họ.
Thời Nam Bắc triều, Trung Hoa đại loạn. Họ Nguyễn ở vùng Giang-Chiết vì muốn tránh xa chiến địa nên dâng tấu tình nguyện sang Giao châu làm quan rất đông. “Hậu Hán thư” ghi lại trong số đó có viên huyện lệnh Đan Dương, tên là Nguyễn Phu xin được chức thứ sử Giao Châu, bèn sang Nam trấn nhậm [vào năm 353].
Họ Nguyễn từ đó phát triển sang Đại Việt. Sau đó, khi Trần cướp ngôi đã buộc toàn bộ họ Lý phải đổi sang họ Nguyễn. Nguyễn vì vậy trở thành dòng họ lớn nhất Việt Nam.
Có nhiều giả thiết đặt ra xoay quanh nguồn gốc chúa Nguyễn, có vài nguồn khẳng định Gia Long chính nhờ gốc Mân này mà được hầu hết Hoa kiều ở Việt Nam hết lòng ủng hộ tài lực, vật lực, làm nên nghiệp đế.
* * *
Rốt lại, như đã nêu, vương tôn hoàng tộc của Đại Việt đều có họ bắt nguồn từ Trung Hoa, vậy còn bọn bá tánh tầm thường thì sao? Xin thưa, cũng vậy mà thôi. Chỉ khác ở chỗ nếu các dòng dõi làm vương làm tướng xứ Đại Việt là có tỵ tổ thuộc hàng quan lại hoặc thương nhân Trung Hoa, thì bọn bá vơ tầm thường cũng là dòng dõi con cháu người Tàu, nhưng lại là con cháu bọn trọng phạm giặc cướp, bị đày xuống vùng ma thiêng nước độc phương Nam này, và bọn này đặc biệt rất đông. “Dòng giống Lạc Hồng” chỉ là lời đánh lừa của bọn sử gia mà thôi. Việt tộc đừng bàn chuyện “thoát Hán” chi thêm mất công, các vị còn lâu lắm mới thoát khỏi được bàn tay của Như Lai, à ha!
HỌ CỦA NGƯỜI VIỆT
Danh tính gắn liền với đời người, ai cũng có quyền tự hào về tên họ của mình, nhưng ít khi người ta quan tâm cái họ của mình bắt nguồn từ đâu; và càng hiếm người phát hiện ra tộc Việt vốn… không có họ. Họ của người Việt, trừ một số rất ít mượn của Chiêm tộc và Chân Lạp, còn thì hầu hết đều bắt nguồn từ Trung Hoa.
Đọc sử Việt Nam, nếu chú ý cái họ, ta sẽ thấy thủy tổ các dòng dõi vương triều Đại Việt đều có huyết thống rơi rớt từ phương Bắc: Ngô Quyền, người sáng lập triều Ngô, gốc ở đất Ký (冀 – tên gọi tắt tỉnh Hà Bắc, Trung Hoa); Đinh Bộ Lĩnh, người gốc Việt (粵 – tên gọi tắt tỉnh Quảng Đông); Lê Hoàn gốc Thục (蜀 – tên gọi tắt tỉnh Tứ Xuyên); Lý Công Uẩn và Trần Thừa cùng gốc Mân (閩 – tên gọi tắt tỉnh Phúc Kiến); Hồ Quý Ly gốc ở Chiết Giang; Mạc Đăng Dung gốc Quảng Đông; Lê Lợi gốc Phúc Kiến; Trịnh Kiểm, cũng như Nguyễn Phúc Ánh, đều gốc Mân Phúc Kiến.
Tại sao lại có sự dính líu của các vương triều ở đây? Thật ra không phải chỉ bọn vua quan, mà cả lê dân ít nhiều đều có gốc gác từ Tàu. Có muốn chối bỏ điều đó cũng không được, nó thể hiện rành rành trên chứng minh thư mỗi người.
HỌ TRIỆU 趙
Xếp theo số lượng thì họ Triệu đứng hàng thứ 7 ở Trung Hoa.
Họ Triệu hình thành chủ yếu là do họ Doanh 嬴. Thủy tổ họ Doanh có công lớn trừ phản tặc, được Chu Mục vương (1054-949 trCn) cắt thưởng cho thành Triệu. Từ đó, để nhớ huân công này, phần nhiều con cháu họ Doanh lấy Triệu làm họ, và lập ra nước Triệu thời Chiến quốc. Triệu quốc thiên đô đến Hàm Đan (nay thuộc tỉnh Hà Bắc), đến năm 222 trCn thì bị Tần diệt. Họ Triệu sinh sôi phát triển chủ yếu ở miền bắc Trung Hoa.
Theo “Sử ký” của Tư Mã Thiên, vào cuối đời Tần, dòng dõi nước Triệu là Triệu Đà, làm huyện lệnh của Tần, vì bất phục, muốn tạo dựng giang sơn riêng, nên đã cát cứ một dải Lĩnh Nam, lấy Quảng Châu làm trung tâm, lập ra nước Nam Việt, tự xưng Nam Việt vương.
Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”: “Họ Triệu, tên húy là Đà, người huyện Chân Định, nước Hán, đóng đô ở Phiên Ngung (nay ở tỉnh Quảng Đông). Giáp Ngọ, năm thứ 1 [207 trCn], Tần Nhị thế năm thứ 3, vua chiếm lấy đất Lâm Ấp và Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt vương”.
HỌ NGÔ 吳
Ngô được xếp hạng là dòng họ lớn thứ 10 ở Trung Hoa, hàng thứ 6 ở Việt Nam, và là một trong 20 họ phổ biến ở Triều Tiên.
Nguồn gốc họ Ngô vốn từ họ Cơ 姬, thủy tổ là Thái Bá và Trọng Ung đời nhà Thương.
Nguyên đời Thương (1766-1122 trCn), thủ lĩnh họ Cơ của bộ tộc Chu là Cơ Cố Công (Chu Thái vương) có ba con trai: Thái Bá, Trọng Ung và Quý Lịch. Chu Thái vương đặt hy vọng lớn vào người con út Quý Lịch. Thái Bá và Trọng Ung do đó truyền ngôi lại cho em. Quý Lịch sau này có người con là Cơ Xương làm nên đại nghiệp, lập nhà Chu, chính là Chu Văn vương, người diệt nhà Thương. Nói về Cơ Thái Bá và Cơ Trọng Ung, họ sau đó đã đến khai phá vùng duyên hải mạn đông nam.
Năm 585 trCn, cháu đời thứ 19 của Trọng Ung là Thọ Mộng chính thức xưng vương, lập nên nước Ngô hùng mạnh, từng tranh bá với thiên hạ. Đến 473 TrCn, Ngô bị nước Việt diệt. Con cháu nước Ngô chạy loạn tứ tán, để khỏi quên nước cũ, họ lấy quốc hiệu Ngô làm họ.
Họ Ngô đào thoát ra hải ngoại, đã sớm đến Nhật Bản. Sau khi nước Ngô bị diệt, khoảng 450 trCn, nhiều con cháu họ Ngô đã đến Nhật Bản. Có nhiều giả thiết cho rằng Thần Võ thiên hoàng (Jinmu Tennō), vị Thiên hoàng đầu tiên của Nhật Bản, là dòng dõi họ Ngô thời Chiến quốc.
Cùng lúc với nhánh lánh nạn sang phương đông, một chi khác của họ Ngô thiên di về phương Nam, đến Giao Chỉ. Sau đó, do nhậm chức quan hoặc bởi doanh thương, họ Ngô ngày càng nhiều người tìm đến vùng đất này. Trong bộ “Nguyên Hòa tính toản” của Lâm Bảo đời Đường biên soạn còn ghi lại: Cháu đích tôn của họ Ngô ở Bột Hải là Ngô Nạp nhậm chức thứ sử An Châu (sau đổi thành Ái Châu, nay là tỉnh Thanh Hóa), do đó nhiều người họ Ngô ở Bột Hải đã di cư đến miền bắc Việt Nam.
Khi nhà Đường diệt vong, Trung Hoa phân rã thành 10 nước. Lúc ấy có Lưu Ẩn là tiết độ sứ Thanh Hải quân kiêm tiết độ sứ Tĩnh Hải quân và An Nam đô hộ phủ. Lưu Ẩn mất, em là Lưu Nham lên thay, tự xưng mình là hậu duệ nhà Hán, lập ra nhà Nam Hán. Đây chính là thời kỳ Ngũ đại Thập quốc bên Tàu (907-979). Năm 917, Nam Hán bổ nhiệm Dương Đình Nghệ làm tiết độ sứ Giao Chỉ.
Năm 937, Dương Đình Nghệ bị bộ tướng là Kiều Công Tiễn sát hại để cướp ngôi vị. Năm sau, một nha tướng khác, đồng thời cũng là con rễ của Dương, là Ngô Quyền, mang quân từ châu Ái (Thanh Hóa) kéo về giết Kiều Công Tiễn, đồng thời đánh bại luôn quân Nam Hán vừa kéo sang toan bình định Giao Chỉ. Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, lập nên nhà Ngô. Sử nước ta vẫn thường tâng bốc Ngô là vương triều độc lập đầu tiên của Đại Việt, nhưng thực ra đây chỉ là sự tranh chấp quyền lợi và thế lực giữa bọn quan lại Trung Hoa trong lúc rối ren mà thôi.
Ngô Quyền chính là một người Tàu, là cháu đời thứ 50 của Ngô Quý Trát ở trấn Diên Lăng thuộc tỉnh Giang Tô. Quý Trát là con thứ tư của Thọ Mộng, người khi xưa đã lập nên nước Ngô. Ngô vương vốn muốn truyền ngôi cho Thọ Mộng, nhưng ông không chịu nhận, bỏ trốn đến Diên Lăng khai khẩn lập ấp. Chi họ Ngô này sau đó có người thiên di sang Nam, đến đời Ngô vương Quyền thì được làm nha tướng, lại được Dương Đình Nghệ gả con, cho phụ coi quản châu Ái.
HỌ ĐINH 丁
Theo các sách “Nguyên Hòa tính toản”, “Vạn tính thống phổ”, “Thông chí – thị tộc lược”, thì gốc của họ Đinh là từ họ Khương. Con trai Khương Tử Nha là Khương Cấp, cùng làm trọng thần nhà Chu, khi mất được Chu ban cho thụy hiệu là Đinh công, con cháu của Cấp vì đó lấy thụy hiệu làm họ.
Thời Ngũ đại Thập quốc, Trung Hoa mênh mông chia thành 10 nước xâu xé nhau, thì quận Giao Chỉ nhỏ bé bằng bàn tay cũng chia làm 12 sứ quân (944-968) tranh giành thế lực, và trong 12 thế lực đó, hết 3/4 có thể xác định đều là người Tàu.
Đinh Bộ Lĩnh, người anh hùng cờ lau tập trận, là con của Đinh Công Trứ. Trứ vốn người Tàu gốc ở Quảng Đông, sang làm thứ sử châu Hoan, là nha tướng của sứ quân Trần Lãm. Khi Trần Lãm mệnh một (năm 967), Đinh Bộ Lĩnh thừa hưởng binh quyền, từ đó dẹp bọn người Tàu kia, lập ra nước Đại Cồ Việt (968). Nếu không có gốc gác họ Tàu đó, vào năm 975, Tống Thái tổ khó lòng phong Đinh Bộ Lĩnh làm “An Nam Đô hộ Kiểm hiệu Thái sư Giao Chỉ quận vương”, để kể từ đó Trung Hoa chịu nhìn nhận Đại Việt như một nước chư hầu, chứ không phải là quận huyện do họ cai quản nữa.
HỌ LÊ 黎
Lê xếp hạng 92 trong sách “Bách tính gia” của Trung Hoa (soạn vào đời Tống), nhưng là một trong 10 họ lớn ở Việt Nam.
Đời nhà Thương, có hai nước chư hầu nhỏ cùng lấy quốc hiệu là Lê: một thuộc khu vực tỉnh Sơn Tây (Trung quốc) ngày nay; và một ở huyện Vận Thành tỉnh Sơn Đông. Con cháu hai nước này đều lấy quốc hiệu làm họ.
Từ thời cổ đại, đã có nhiều người Tàu họ Lê di cư sang Đại Việt, chẳng những thế, họ còn gầy dựng Lê thành vọng tộc suốt một dải Thanh Hóa.
Năm 980, người họ Lê gốc Thục (Quảng Tây) là Lê Hoàn sáng lập nên triều Tiền Lê của Đại Việt.
Năm 1428, một người họ Lê khác, gốc Mân (Phúc Kiến), là Lê Lợi lập nên triều Hậu Lê. Đọc kỹ “Đại Việt sử ký toàn thư”, ta sẽ thấy ông Phúc Kiến Lê Lợi là người quen biết, thường xuyên vào ra trướng phủ của các quan cai trị người Minh.
HỌ LÝ 李
Lý xếp hạng tư trong “Bách gia tính”, tính về số lượng là dòng họ lớn nhất ở Trung Hoa. Họ Lý vốn đã có từ đời nhà Ân, gốc ở Lộc Ấp tỉnh Hà Nam, hậu duệ sau này lập nên Đại Đường (618–907) thịnh trị ở Trung Hoa. Do nhiều duyên khởi, sau khi nhà Đường bị diệt, đã hình thành nên hai chi họ Lý ở Việt Nam và Triều Tiên.
Năm 1009, Lý Công Uẩn, người đất Mân (Phúc Kiến), vốn dòng dõi Tào vương Lý Minh (con trai Đường Thái tôn Lý Thế Dân) lập nên nhà Hậu Lý.
“Đại Việt sử ký toàn thư” ghi thân thế Lý Công Uẩn rất khôi hài: bà mẹ họ Phạm, nhân đi chơi chùa Tiêu Sơn, cùng với thần nhân giao hợp mà có chửa”.
Theo “Tốc thủy ký văn” (soạn khoảng 1019-1086) của Tư Mã Quang viết về giai đoạn Lục triều của Bắc Tống, có đoạn thuật lại nguyên do chiến tranh giữa Tống-Lý, vô tình nhắc đến một chi tiết liên quan đến nguồn gốc nhà Lý:
<Niên hiệu Hy Ninh (1068-1077), tiến sĩ Lĩnh Nam là Từ Bách Tường nhiều lần thi rớt đại khoa, ngầm viết thư cho Giao Chỉ rằng: “Đại vương vốn TỔ TIÊN LÀ NGƯỜI MÂN. Nghe rằng hiện công khanh quý nhân ở Giao Chỉ phần lớn là người Mân. Bách Tường này tài ba chẳng kém ai, nhưng không được dùng ở Trung quốc, mong được phò tá dưới trướng đại vương. Nay Trung quốc muốn cử đại binh tiêu diệt Giao Chỉ. Binh pháp có câu: Kẻ ra tay trước có thể chiếm được lòng người, chi bằng cử binh đánh trước, Bách Tường xin làm nội ứng”. Vì thế mà Giao Châu dấy binh vào đánh cướp, vây hãm ba châu Khâm, Liêm, Ung. Bách Tường không kịp đến quy hàng. Khi ấy Thạch Giám quen thân với Bách Tường, dâng tấu khen Bách Tường có chiến công, ngoài chức Thị cấm, sung thêm làm Tuần kiểm ba châu Khâm, Liêm, Bạch. Triều đình sai Tuyên Huy sứ Quách Quỳ thảo phạt Giao Chỉ. Giao Chỉ xin hàng, cáo giác rằng: “Chúng tôi vốn không có ý cướp phá, là do người Trung quốc xúi giục thôi”. Lại trình thư của Bách Tường cho Quỳ. Quỳ lệnh cho Chuyển vận ty của tỉnh Quảng Tây tra hỏi. Bách Tường chạy trốn, rồi tự treo cổ chết>
Ngoài ra, còn “Mộng Khê bút đàm” (soạn khoảng 1086-1093) của Thẩm Quát (1031-1095); “Tục Tư trị thông giám trường biên” của Lý Đảo (1115-1184), “Trịnh Thiều Châu kỷ lược phụ lục” (soạn khoảng 1240-1280) của Trịnh Tủng, cũng đều khẳng định gốc gác người Mân của nhà Hậu Lý.
Thậm chí, còn có “Lý trang Chử nội Lý thị phòng phả” (soạn năm 1266 – đời Nam Tống), là sách gia phả dòng họ Lý ở đất Mân còn ghi chi tiết cụ thể: ông nội Công Uẩn tên Lý Tung (883-948), nguyên tịch huyện Nhiêu Dương, Thâm Châu. Tung làm tể tướng nhà Hậu Tấn, đời Tấn Cao tổ (trị vì năm 942-946), Tung bị vu oan hãm hại nên con cháu phải dời đến đất Mân; cha Uẩn là Lý Thuần An (921-999), con cả của Lý Tung, đang làm chức Thủy lục Vận sứ, do cha bị hại mà phải bỏ quan chức đào thoát, An từ đó kinh doanh vận tải đường thủy, từng đưa thuyền đến Chân Lạp, Xiêm La, và sau định cư Giao Chỉ; còn Công Uẩn, vốn tên chữ là Triệu Diễn, con thứ của Thuần An.
Những sách liệt kê trên đều là sử liệu quan trọng, có ghi rõ gốc gác Công Uẩn, và đều có trước “Đại Việt sử ký Toàn thư” (soạn 1272-1697), vậy tại sao “Toàn thư” lại chép Uẩn là con hoang của thần nhân, con nuôi của Lý Khánh Văn? Các nhà chép sử của Đại Việt còn nợ hậu thế câu trả lời cho vấn đề này.
Do hoàng thất gốc Mân, nên thời Lý-Trần, người Mân từ Trung Hoa sang đều được ưu đãi, phong cho quan chức và trọng dụng. Triều đình Lý-Trần do đó cũng mô phỏng y hệt thể chế Trung Hoa, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, khoa cử. Chữ Hán được phổ cập và dùng làm phương tiện tiến thân cho tầng lớp nho sĩ. Có thể nói, Lý-Trần tuy tiếng là vương triều độc lập, nhưng lại có công Hán hóa Việt tộc hơn cả người Hán.
Làm vua rồi, Uẩn bắt chước các hoàng đế Trung Hoa, phong “quốc tính” cho những người có công trạng, họ Lý ở Đại Việt từ đó lan rộng.
HỌ TRẦN 陳
Họ Trần được phân bố rất rộng, đây là họ được xếp hàng thứ 10 trong “Bách gia tính”, lớn hàng thứ 5 ở Trung Hoa, và là một trong 10 họ lớn ở Việt Nam.
Họ Trần vốn gốc là nước Trần cổ đời Tây Chu, chiếm lĩnh vùng Hoài Nam (nay thuộc tỉnh Hà Nam – Trung Hoa). Vua khai quốc nước Trần là Duy Mãn, vốn là hậu duệ của vua Thuấn, con cháu lấy quốc hiệu cựu triều làm họ nên có họ Trần.
Họ Trần thiên di hải ngoại, đời Tống đã có người họ Trần đến Giao Chỉ. “Toàn thư” ghi họ Trần vốn người đất Mân. Nhưng truy theo gia phả thì tổ tiên Trần thiệt ra là họ Tạ. Tạ Thăng Khanh vốn người huyện Trường Lạc, phủ Phúc Châu (nay là thủ phủ tỉnh Phúc Kiến), do thất chí trong khoa cử nên bỏ nhà lưu lạc đến Ung Châu, tỉnh Quảng Tây. Sau đó Khanh buôn bán ở vùng biên giới, được viên quan ở Giao Chỉ là Trần Hiếu nhận làm rễ, lại đổi tên cho thành Trần Kính. Kính chính là cha của Trần Thừa, ông nội của Trần Cảnh tức Trần Thái tôn (1218-1277).
[“Đại Việt sử ký Toàn thư” ghi: “... Trước kia, tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có người tên là Kính đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê...” (Bản kỷ, Trần Thái tôn hoàng đế)].
Sau khi lên ngôi, nhà Trần liền cử sứ giả sang Tàu cầu phong, nguyện suốt đời giao hảo với Đại Tống, được sách phong An Nam quốc vương.
Do cả đời chỉ biết Đại Tống là thượng quốc, vẫn cho Trung Hoa là đệ nhất thiên hạ, nên khi Mông Cổ mượn đường đánh Tống, nhà Trần chẳng biết trời cao đất dày, xem quân Mông như phường man di nhược tiểu. Trong cuộc “Kháng Mông lần thứ nhất” (1257), “Toàn thư” thuật lại trận chiến, thấy vua tôi nhà Trần ra trận vẫn khinh thị như đi xem hát, mãi đến lúc kinh thành Thăng Long bị san bằng mới hiểu ra sức mạnh của đội quân Mông Cổ. Và sau này, khi núng thế trước sức mạnh ấy, Thái tôn hỏi kế, Trần Nhật Hiệu đã bày mưu “nhập Tống” (chạy sang nước Tống). Hẵn khi đó, anh em nhà ấy vẫn không sao ngờ rằng hơn 20 năm sau Nam Tống bị Mông Cổ nuốt gọn.
HỌ HỒ 胡
Trong “Bách gia tính”, Hồ đứng hàng thứ 158, nhưng về số lượng lại xếp hàng thứ 13 ở Trung Hoa.
Họ Hồ, cũng như Trần, vốn bắt nguồn từ nước Trần cổ, đầu triều Tây Chu. Vốn Duy Mãn sáng lập nước Trần có thụy hiệu là Hồ công, con cháu do đó chia làm hai chi, một chi lấy quốc hiệu Trần làm họ, chi kia lấy thụy hiệu Hồ làm họ.
Hồ Quý Ly (1336-1407), có lẽ do không được các sử gia đánh giá cao, nên đã ghi rất chi tiết về nguồn gốc: “... Tổ tiên Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật, vốn là người Triết Giang bên Trung quốc, thời Hậu Hán (947-950) được vua Hán cử sang làm Thái thú Châu Diễn (tức vùng Diễn Châu, Nghệ An). Đến thời loạn mười hai sứ quân, họ Hồ dời vào hương Bào Đột (nay là xã Quỳnh Lâm, Quỳnh Lưu, Nghệ An) và trở thành một trại chủ. Đến thời Lý, trong họ có người lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đời cháu thứ 12 của Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Hồ Liêm làm con nuôi của Tuyên úy Lê Huấn rồi lấy họ Lê làm họ của mình. Hồ Quý Ly là cháu 4 đời của Lê Liêm, khi lên làm vua thì đổi lại họ Hồ” (“Toàn thư”, phụ lục Bản kỷ nhà Trần).
Quý Ly không hề giấu diếm nguồn gốc người Tàu của mình. Lên ngôi, ông liền đổi quốc hiệu thành Đại Ngu – để ghi nhớ gốc họ Hồ vốn là con cháu Ngu Thuấn. Do gốc Tàu, thông thạo ngôn ngữ mẫu quốc, nên con Quý Ly là Nguyên Trừng sau này được nhà Minh trọng dụng.
Sau này, có một kẻ họ Hồ từ tông chi Hồ Quý Ly, đổi thành họ Nguyễn và tiếm xưng hoàng đế, chính là Nguyễn Huệ [Hồ Thơm] (1788-1792).
HỌ MẠC 莫
Mạc là dòng họ lâu đời nhất Trung Hoa, được sách “Bách gia tính” xếp hàng 168. Họ Mạc chiếm số lượng lớn ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Tứ Xuyên.
Thủy tổ họ Mạc là Chuyên Húc, cháu nội Hoàng Đế. Chuyên Húc xây dựng thành cổ là Mạc thành (nay thuộc Hà Bắc, Trung Hoa), con cháu lấy tên đất đó làm họ là Mạc.
Họ Mạc khởi nguyên có hai chi: một chi ở Hà Bắc như đã nói trên; chi khác bắt nguồn từ nước Sở thời cổ. Thời Nam Bắc triều (420-589), các ngoại tộc đến định cư ở Tàu phần lớn đều lấy Mạc làm họ. Đến thời Ngũ đại Thập quốc (907-979), họ Mạc ở tỉnh Giang Nam phát triển mạnh, còn họ Mạc ở phương bắc do sự trà trộn của ngoại tộc nên suy yếu mai một dần. Lúc này họ Mạc bắt đầu đến Phúc Kiến sinh sống. Cuối đời Tống, do Mông Cổ xâm phạm, họ Mạc lại lần xuống đến Quảng Đông, Quảng Tây.
Mạc Đăng Dung (1483-1541), tổ tiên vốn là di dân Trung Hoa từ Quảng Đông. Cùng là soán ngôi, nhưng Điện tiền thị vệ Lý Công Uẩn được tôn là minh quân, còn Đô chỉ huy sứ Mạc Đăng Dung phải chịu tiếng lộng thần. Triều Mạc ngắn ngủi, chỉ 13 năm (1527-1540), cũng như triều Hồ, bị lên án vì đã bại binh trước quân Tàu.
Mạc Kính Thự trong tờ biểu cầu cứu Mãn Thanh cũng có kể ra ông cha mình vốn gốc ở thôn Trà Hương, huyện Đông Quan, Quảng Đông.
HỌ TRỊNH 鄭
Họ Trịnh nguồn gốc từ nước Trịnh (806-375 trCn) thời Xuân Thu. Trịnh bị nước Hàn diệt, con cháu lấy tên nước cũ làm họ. Trịnh đứng hàng thứ 7 trong “Bách gia tính”, về số lượng xếp hàng 21 ở Trung Hoa. Họ Trịnh phân bố rất rộng, đặc biệt đông đúc ở Chiết Giang và Phúc Kiến.
Họ Trịnh di dân từ Phúc Kiến đã dựng nên nhà Trịnh ở Đại Việt, tồn tại được 242 năm (1545-1787).
Trịnh Hoài Đức (1765-1825), công thần của nhà Nguyễn, cũng là dòng dõi họ Trịnh ở đất Mân (tên tắt của tỉnh Phúc Kiến) này.
HỌ NGUYỄN 阮
Nguyễn là tên một nước chư hầu nhỏ thời nhà Thương (1766-1122 trCn). Nước này chiếm lĩnh một dải huyện Kính Xuyên, thuộc tỉnh Cam Túc. Cuối đời Thương, nước Nguyễn bị diệt, con cháu lấy tên nước cũ làm họ.
Thời Nam Bắc triều, Trung Hoa đại loạn. Họ Nguyễn ở vùng Giang-Chiết vì muốn tránh xa chiến địa nên dâng tấu tình nguyện sang Giao châu làm quan rất đông. “Hậu Hán thư” ghi lại trong số đó có viên huyện lệnh Đan Dương, tên là Nguyễn Phu xin được chức thứ sử Giao Châu, bèn sang Nam trấn nhậm [vào năm 353].
Họ Nguyễn từ đó phát triển sang Đại Việt. Sau đó, khi Trần cướp ngôi đã buộc toàn bộ họ Lý phải đổi sang họ Nguyễn. Nguyễn vì vậy trở thành dòng họ lớn nhất Việt Nam.
Có nhiều giả thiết đặt ra xoay quanh nguồn gốc chúa Nguyễn, có vài nguồn khẳng định Gia Long chính nhờ gốc Mân này mà được hầu hết Hoa kiều ở Việt Nam hết lòng ủng hộ tài lực, vật lực, làm nên nghiệp đế.
* * *
Rốt lại, như đã nêu, vương tôn hoàng tộc của Đại Việt đều có họ bắt nguồn từ Trung Hoa, vậy còn bọn bá tánh tầm thường thì sao? Xin thưa, cũng vậy mà thôi. Chỉ khác ở chỗ nếu các dòng dõi làm vương làm tướng xứ Đại Việt là có tỵ tổ thuộc hàng quan lại hoặc thương nhân Trung Hoa, thì bọn bá vơ tầm thường cũng là dòng dõi con cháu người Tàu, nhưng lại là con cháu bọn trọng phạm giặc cướp, bị đày xuống vùng ma thiêng nước độc phương Nam này, và bọn này đặc biệt rất đông. “Dòng giống Lạc Hồng” chỉ là lời đánh lừa của bọn sử gia mà thôi. Việt tộc đừng bàn chuyện “thoát Hán” chi thêm mất công, các vị còn lâu lắm mới thoát khỏi được bàn tay của Như Lai, à ha!
Suy diễn này bị sai lầm dễ thấy là con người ta khi di cư thì trộn máu với tộc khác nên làm gì còn huyết thống riêng của tổ tông .Chúng ta cũng biết là rất nhiều người lấy họ vương triều để tránh bị khó dễ (họ Trần, họ Lê, họ Nguyễn...) , còn người tại chỗ muốn được đồng hóa cũng việt hóa ( và như vậy hán hóa ) họ mình như trường hợp của một số người Mường ra làm quan cho nhà Lê lấy họ Trịnh (Tạ Chí Đại Trường).Thời mới giành lại độc lập thì dĩ nhiên gốc Trung Hoa khá gần vì chỉ có họ mới có điều kiện để nắm thực quyền . Và dĩ nhiên nếu bảo người VN chính cống không có chút máu từ các tộc đến từ thế giới TQ thì phải lên lại thời bà Trưng, Bây giờ thì VN trộn máu rất nhiều, Bắc thì với TQ và Thái , Miêu Trung thì với Chàm, Nam thì với Miên là chính và Nam Trung Bắc cả ba lại trộn với nhau . Còn chuyện độc lập về chính trị, văn hóa (theo nghĩa có cái riêng chứ không phải theo nghĩa thuần túy không giao thoa) , ngôn ngữ ... là chuyện hoàn toàn khác và mới thật sự quan trọng .
Lou
19/03/2016
@ Ngu Yên
haha, bác Ngu Yên thật tinh. Thực ra lúc post bài này con định p.s là nguồn này mang độ khả tín k cao, mà con thì k đọc đc tiếng hoa cho nên k thể tìm hiểu sâu được, định đề nghị mọi người đọc ở mức độ khả tín 50% mà thôi. Nhưng mà sau đó nghĩ là cái mục tả pí lù của mình có ma nào quan tâm mình viết cái gì đâu nên con k viết gì thêm, ai dè lúc sơ xuất cố tình thì bác Ngu Yên bắt thóp. Vote 1+ cho bác Ngu Yên. Chắc con phải tìm anh Huy hỏi sao trong topic của con k có cái vote down với up ta?
Con hoàn toàn đồng ý với bác, nhưng lưu ý là con cũng đồng tình phần cuối của tác giả.
haha, bác Ngu Yên thật tinh. Thực ra lúc post bài này con định p.s là nguồn này mang độ khả tín k cao, mà con thì k đọc đc tiếng hoa cho nên k thể tìm hiểu sâu được, định đề nghị mọi người đọc ở mức độ khả tín 50% mà thôi. Nhưng mà sau đó nghĩ là cái mục tả pí lù của mình có ma nào quan tâm mình viết cái gì đâu nên con k viết gì thêm, ai dè lúc sơ xuất cố tình thì bác Ngu Yên bắt thóp. Vote 1+ cho bác Ngu Yên. Chắc con phải tìm anh Huy hỏi sao trong topic của con k có cái vote down với up ta?
Con hoàn toàn đồng ý với bác, nhưng lưu ý là con cũng đồng tình phần cuối của tác giả.
Phuongkongfa
19/03/2016
Ừa rồi, phi công bay trên trời vèo vèo, bỏ bom nó ùm ùm rồi, nó chết hết, không có bộ binh dưới mặt đất thì ai là người giải quyết phần còn lại của cuộc chiến hả cô bé ?
Lính chết, sếp lên lon có phải ý của cô bé muốn nói là "Danh tướng công thành, vạn cốt khô" đó phải hôn ? Thế bây giờ giặc nó tràn qua giết đồng bào của mình thì đứng đó phân bua là lính chết, sếp lên lon nên tui hổng đi hay là sao cà ? Tướng thì cũng còn tùy tướng à nghe, Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu cũng là tướng vậy, đâu phải chỉ có một loại tướng sát quân đâu, phải hôn cô bé ?
Lính chết, sếp lên lon có phải ý của cô bé muốn nói là "Danh tướng công thành, vạn cốt khô" đó phải hôn ? Thế bây giờ giặc nó tràn qua giết đồng bào của mình thì đứng đó phân bua là lính chết, sếp lên lon nên tui hổng đi hay là sao cà ? Tướng thì cũng còn tùy tướng à nghe, Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu cũng là tướng vậy, đâu phải chỉ có một loại tướng sát quân đâu, phải hôn cô bé ?
Lou
19/03/2016
@Phuongkongfa
cũng đúng, nếu ai cũng chọn việc ngon lành cành đào thì đau khổ chừa phần ai.
hahaha, mắc cười quá, mà giờ con phải đi chơi rồi. Mà con cũng muốn ở lại đây bà 8 với bác nữa. Nhưng mà hẹn trc rồi, cười nãy giờ đói rồi.
Câu hỏi nữa, nick kongfa phải là tiếng Cam phiên âm k ạ? nếu phải thì có nghĩa là gì
Cám ơn bác, chúc bác cuối tuần vui vẻ
cũng đúng, nếu ai cũng chọn việc ngon lành cành đào thì đau khổ chừa phần ai.
hahaha, mắc cười quá, mà giờ con phải đi chơi rồi. Mà con cũng muốn ở lại đây bà 8 với bác nữa. Nhưng mà hẹn trc rồi, cười nãy giờ đói rồi.
Câu hỏi nữa, nick kongfa phải là tiếng Cam phiên âm k ạ? nếu phải thì có nghĩa là gì
Cám ơn bác, chúc bác cuối tuần vui vẻ