Gửi vào 12/07/2015 - 03:21
1: không dân tộc nào thích chiến tranh cả , chỉ có lãnh đạo của họ là thích thôi .
2 tử vi không chỉ bao gồm thiên văn .
"- Tổ Hy-Di họ Trần, húy Đoàn, sinh trưởng ở phía Nam núi Đại-dữu. Thân phụ của tổ là một nhà Thiên-văn, Lịch-số đương thời. Người sinh vào giờ Tỵ, ngày mười sáu tháng giêng, niên hiệu Cảnh-phúc nguyên niên đời Đường Chiêu-Tông (Nhâm-Tý, 894). Thân mẫu lâm bồn sớm một tháng, nên thời thơ ấu tổ bị bệnh hoạn liên miên. Tuy nhiên tổ rất thông minh, học một biết mười. Trong khi đó gặp phải người anh lêu lổng ham chơi, thường hay đánh đập tiên sinh cực tàn nhẫn.
...Vào năm lên tám, tổ bắt đầu học thiên-văn. Bấy giờ tổ đứng xem phụ-thân quan sát Thiên-hà, để tính nhật thực. Phụ thân phải nhân chia dài hàng mười con số, mà tổ cứ hỏi vặt. Người tìm cách sao cho tổ đừng quấy rầy. Người trao cho tổ máy Trắc-thời-đồ, rồi chỉ lên Thiên-hà:
- Con hãy xem, kia là chòm sao Tử-vi, kia là chòm sao Thiên-phủ. Con hãy đếm xem hai chòm này có bao nhiêu sao?
Thế là tổ ngồi xử dụng Trắc-thời-đồ đếm sao. Thân phụ tổ tưởng rằng ít ra phải mất một giờ tổ mới đếm xong. Không ngờ chỉ mấy khắc sau, tổ chạy vào nói:
- Con đếm hết rồi. Đi sau Tử-vi gồm năm sao. Như vậy chòm Tử-vi có sáu sao. Đi sau Thiên-phủ có bẩy sao, như vậy chòm Thiên-phủ có tám sao.
Từ đấy tổ được phụ thân giảng dạy rất kỹ về khoa Thiên-văn, Lịch số. Năm hai mươi tuổi tổ ngộ đạo làm đệ tử phái Hoa-sơn, bắt đầu học võ công.
Khi thành danh, tổ ngao du khắp thiên hạ, rồi khải ngộ tìm ra khoa Tử-vi.
Nhà vua ngắt lời:
- Trẫm đọc bộ Tử-vi chính nghĩa phần tựa tổ viết rằng: Nhân người học thuyết Âm-dương, Ngũ-hành, Dịch-lý, Hình-tượng, Lịch-số, rồi hợp lại thành khoa Tử-vi.
Nhà vua rót chén sâm thang trao cho Tây-Sơn lão nhân:
- Mời đạo-sư uống cho tinh thần thanh thản.
- Đa tạ bệ hạ.
Tự-Mai không dám thở mạnh, vì nó biết nội công Tây-Sơn lão nhân rất cao thâm, chỉ hấp khí hay gây tiếng động nhỏ lập tức lão khám phá ra liền. Trước khi khởi hành, Khai-Quốc vương dặn nó:
- Đời vua Hùng, quan Lịch-lệnh nhìn Thiên-hà tìm ra phép làm lịch. Sau khi dùng trong hơn ba trăm năm, mỗi năm đều có sửa đổi. Niên hiệu Hồng-bàng thứ năm trăm hai mươi bẩy (Mậu-Thân, 2353 trước Tây-lịch), bấy giờ bên Trung-quốc là niên hiệu thứ năm đời vua Nghiêu; vua Hùng thấy Trung-quốc chưa biết làm lịch, mới sai chép phép làm lịch của người Việt lên lưng một con rùa lớn đem cống. Vua Nghiêu sai quan Thái-sử-lệnh chép lấy, rồi làm ra lịch. Bởi vậy gọi là Qui-lịch. Sau này người Hán nghiên cứu rất rộng về Lich-số. Trong khi đó bên mình chỉ có phái Sài-sơn nghiên cứu khoa này. Gần đây đạo sĩ Trần Đoàn tìm ra khoa Tử-vi, truyền cho Tống Thái-tổ. Học Tử-vi để biết kẻ trung người nịnh, vận số tốt xấu mà mưu đại sự. Nhưng họ dấu diếm, không truyền ra dân gian. Hiện tất cả bí mật đó, họ chép thành sách cất ở Tập-hiền viện. Ta phải tìm cách lấy đem về.
Nhưng từ lúc đột nhập vào đây, giữa rừng sách hàng mấy chục vạn quyển, nó không biết những sách đó để ở chỗ nào. Hơn nữa trong phòng chứa sách không có đèn, làm sao mà tìm. Bây giờ nghe Tây-Sơn lão nhân đàm luận với nhà vua về khoa Tử-vi, nó chỉ hiểu lờ mờ, nhưng đã có chút hy vọng.
Tây-Sơn lão nhân tiếp:
- Sau đó tổ được truyền ngôi chưởng môn.
" Một hôm đang cùng chư đệ tử ngắm Thiên-hà, coi vận số đất nước. Bỗng tổ chỉ lên trời kêu lớn:
- Kìa, quái lạ không kìa.
Đệ tử cùng nhìn theo tay tổ chỉ, thấy sao Tử-vi, Thiên-phủ đi vào địa phận sao Phá-quân và Hóa-kị, mà ánh sáng chiếu xuống Hoa-sơn.
Tổ nói:
- Tử-vi, Thiên-phủ thuộc đế tượng, tức là vua. Tử-vi bao giờ cũng đi trước. Thiên-phủ bao giờ cũng theo sau. Hai ngôi sao này chiếu xuống Hoa-sơn ứng vào anh em một gia đình nào đó, đang gặp thủa tiềm-long. Sau này sẽ làm lên sự nghiệp vẻ vang, vị tới đế-vương. Phá-quân là hao tinh, chủ nghèo đói. Hóa-kị chủ bần hàn, như miệng lưỡi kêu xin. Phá ngộ Kị, ắt nghèo quá phải đi ăn xin. Tử-Phủ ngộ Hao, Kị ứng vào đềm hai vị thiên tử chưa gặp thời, đang lưu lạc hành-khất. Tất cả chiếu xuống Hoa-sơn, chắc ngày mai hai vị thiên tử qua đây ăn mày. Vậy ngày mai, các người theo ta xuống núi cứu giúp người anh hùng đang khốn cùng.
Đệ tử thưa:
- Đệ tử nghĩ, nhân lúc thiên tử chưa gặp thời, ta nên cho người vay nợ. Sau này người thành đại nghiệp, ta đòi, để cứu giúp dân nghèo.
Tổ đồng ý. Hôm sau tổ dẫn chư đệ tử xuống núi, có đoàn người chạy loạn đi qua. Tổ để ý thấy một thiếu phụ gánh hai chiếc thúng, trong mỗi thúng để một đứa trẻ khôi ngô dung quang khác thường. Tổ biết hai trẻ ấy ứng vào sao Tử, Phủ. Tổ hỏi thiếu phụ:
- Này bà ơi. Bà gánh hai vị thiên tử đi đâu vậy?
Thiếu phụ đặt gánh xuống thưa:
- Con tôi đó, vua chúa gì đâu. Chúng đang đói. Từ sáng đến giờ bụng trống không. Tiên sinh bố thí cho chút đồ ăn được không?
Tổ truyền đem cơm chay khoản đãi thiếu phụ cùng hai trẻ. Tổ lại hỏi giờ, ngày, tháng cùng năm sinh của hai trẻ. Tổ bấm số Tử-vi rồi nói với đệ tử:
- Đứa lớn đắc cách Tử, Phủ, Vũ, Tướng, ngộ Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc. Ngặt đại hạn đang ngộ Hình, Kị, Kiếp, Không. Số của đứa nhỏ đắc cách Thiên-phủ lâm tuất, ngộ Tả, Hữu, Khoa, Quyền, đại hạn đang gặp Kiếp, Kị. Vì vậy cả hai nghèo đói trong nhất thời mà thôi.
Một đệ tử thưa:
- Sư phụ! Đệ tử nghĩ, hai trẻ là chân mệnh đế vương. Khi đại hạn gặp Khôi, Việt, Xương, Khúc là lúc thành đại nghiệp. Sư phụ nên giúp đỡ, mua lấy cảm tình. Khi thiên tử đắc thời ta nhân đó giúp dân.
Tổ mỉm cười nói với thiếu phụ:
- Bần đạo tính số, biết sau này hai con bà làm vua. Khi lên ngôi vua, tất cả giang sơn vạn dậm đều thuộc về con bà. Vậy bà bán giải núi Hoa-sơn này cho bần đạo, lấy tiền mà tiêu.
Thiếu phụ tưởng tổ điên khùng mới mua núi, nên đồng ý bán ngay. Bởi thiếu phụ không biết chữ, bà xé vạt áo hai con quấn vào đôi đũa, nhét trong ống, coi như văn tự... Tổ trao cho bà mười nén vàng.
Nhà vua bật cười:
- Thiếu phụ đó tức là Chiếu-Huệ thái hậu(1). Còn hai trẻ sau thành đức Thái-tổ, Thái-Tông nhà trẫm. Có phải vậy không?
- Tâu bệ hạ đúng thế.
- Vì vậy sau này suốt một giải Hoa-sơn, triều đình, cũng như quan lại địa phương không được quyền thu thuế. Nhưng không biết từ năm nào?
- Tâu bệ hạ năm Càn-đức nguyên niên (Quý-Hợi, 963), quan trấn thủ vùng Hoa-sơn tâu về triều rằng : Có đạo sĩ tên Trần Đoàn, tự Hi-Di bao dưỡng dân chúng khắp vùng Hoa-sơn không nộp thuế. Đạo sĩ nói rằng Hoa-sơn là đất riêng của ông, đã được thiên-tử bán cho rồi. Đức Thái-Tổ nổi giận, sai bắt tổ giải về triều. Vì tổ có đức, võ công cực cao nên các quan không dám trói, còn cấp lừa cho cỡi về kinh. Trên đường đi, tổ làm bài phú Tử-vi cốt tủy.
Nhà vua gật gật đầu:
- Khi giảng bài phú Tử-vi cốt tủy cho trẫm, Định-vương có nói: Vì bước chân lừa gập ghềnh, nên nhịp điệu bài phú bị ảnh hưởng.
Nhà vua đọc lớn:
"Phượng hàm thư nhi phùng Nhật, Nguyệt,
Tam kỳ lai nhập Tử, Sinh,
Nam tất uy bá quyền danh,
Nữ tất danh đằng xướng vũ.
Mã ngộ Khốc nhi phùng Hình, Quyền, Lộc, ấn tại quan cung,
Võ tất thăng ban đệ nhất, văn hội chuyển đạt Tam-công. (2)
- Người có Thiên-mã, Thiên-khốc thủ mệnh, cung quan có Điếu-khách, Thiên-hình, làm quan võ tới bậc đệ nhất. Cũng mệnh có Mã, Khốc, mà cung quan có Hóa-lộc, Quốc-ấn, làm quan văn tới Tam-công.
Nhà vua gật đầu đọc mấy câu nữa rồi hỏi:
- Cuộc triều hội giữa đức Thái-Tổ với tổ Hi-Di chắc lý thú lắm.
- Vâng. Tổ vào triều kiến. Đức Thái-Tổ hỏi : Đạo sư dù thông thiên, dù võ công cao cũng phải tuân phép nước chứ? Hà cớ phao ngôn rằng mua núi của triều đình?
Tổ tâu:
- Năm nay bần đạo tuổi trên bẩy mươi, đâu dám nói dối bệ hạ? Luật của bệ hạ nói rằng: Đời cha vay nợ, đời con phải trả. Trước đây thái hậu qua Hoa-sơn bán cho bần đạo toàn vùng này. Văn tự thần vẫn giữ.
Tổ trình ống đũa, vạt áo lên. Thái-Tổ truyền đem vào hậu cung hỏi
Chiếu-Huệ thái hậu. Thái-hậu nhớ truyện cũ phán:
- Vị thần tiên ở núi Hoa-sơn đây mà.
Thái hậu kể lại tích xưa. Đức Thái-Tổ và triều thần đều kinh sợ về tài tiên tri của tổ. Truyền lưu tổ sinh lại triều, kính như thầy. Đức Thái-Tổ hỏi về khoa Tử-vi, tổ xuất trong bọc ra bộ Tử-vi chính nghiã dâng lên. Tâu rằng:
- Đây, tất cả tinh nghĩa về khoa Tử-vi. Bần đạo không phải là người đặt ra khoa này. Bần đạo chỉ nhân thấy khoa Dịch-lý, Hình-tượng, Thiên-văn, Lịch-số, Địa-lý đều có uyên nguyên với nhau, mới tước bỏ những phần rườm rà, hợp thành. Với khoa Tử-vi, học tới bậc sơ đẳng, bệ hạ có thể biết kẻ trung, người nịnh, thời nào tốt, khi nào xấu mà mưu đại kế, tránh nhiễu sự. Học tới chỗ uyên thâm, có thể nhân số mạng người thân xấu, dùng loại người nào thì cứu được, cứu bằng cách nào. Thấy kẻ ác, thì dùng người nào, cách nào mới trị được. Còn học tới chỗ uyên nguyên cùng cực, có thể làm đảo lộn thiên hạ, nắm thiên hạ trong tay. Tuy nhiên bần đạo cũng xin dâng bệ hạ một câu: Khi dùng khoa này nên lấy chữ nhân làm gốc, đừng quá ỷ tài, mà đi vào chỗ ác độc tổn âm đức.