Jump to content

Advertisements




Nguyên lý đằng sau cách an Mệnh Thân


30 replies to this topic

#1 KimCa

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1525 Bài viết:
  • 1795 thanks

Gửi vào 11/07/2015 - 18:15

Dịch thì có Khí, Khí sinh Tượng, Tượng có Số, Số có Lý.

Mỗi một năm Trái Đất di chuyển trên Hoàng Đạo được 365+1/4 ngày, đi qua hết 12 Cung, mỗi Cung 30 độ. Trái Đất di chuyển trên Hoàng Đạo tạo ra 4 mùa do sự tự quay và trục Bắc Nam bị lệch. 4 mùa thực chất là Nhiệt, Mùa Xuân thì ấm áp, mùa Hạ thì nóng bức, mùa Thu thì mát mẻ, mùa Đông thì lạnh lẽo. Cũng do sự thay đổi nhiệt độ trong năm nên ta thấy mùa Xuân ứng với Mộc và mùa Hạ ứng với Hỏa thuộc Dương, mùa Thu ứng với Kim và mùa Đông ứng với Thủy thuộc Âm, Khí Thổ có lúc Âm lúc Dương, vào mùa Xuân và Hạ thì Khí Thổ thuộc Dương, mùa Thu và Mùa Đông khí Thổ thuộc Âm. Do vậy tiền đề của Ngũ hành vốn là Âm Dương.

Khí Trái Đất di chuyển trên Hoàng Đạo thì trung bình mỗi tháng sẽ có 2 tiết khí làm chủ, tùy vào tháng Sinh mà con người được hấp thụ cái khí Âm hay khí Dương mạnh nhất, hay là Khí Ngũ hành nào vượng nhất và suy nhất. Cái khí này vốn là Khí Thiên.

Song song với quá trình trên là sự tư quay của Trái Đất từ Tây sang Đông mà sinh ra ngày và đêm, nhìn từ mặt đất sẽ thấy mặt trời di chuyển từ Đông sang Tây do sự chuyển động tương đối của Trái đất so với không gian Thiên Cầu. Vì vậy người xưa có câu “thiên hữu chuyển, địa tả hoàn” , tùy vào người Sinh vào ngày hay đêm mà bẩm thụ khí Âm hay khí Dương mạnh của ngày đó, như sinh vào sáng sớm thì khí Âm Dương điều hòa hơn, sinh vào buổi trưa thì khí Dương thịnh Âm suy, sinh vào buổi chiều và tối thì ngược lại Âm thịnh Dương suy. Kết hợp với Tháng sinh sẽ cho ta biết con người bẩm thụ Khí Âm Dương Ngũ Hành thịnh suy như thế nào. Đó là tiền đề trong cách an Mệnh.

Đồng thời Mặt Trăng di chuyển trên Bạch đạo và hợp góc với Thiên Cầu và Hoàng đạo sẽ cho ta biết người sinh vào ngày trong tháng có đặc điểm gì. Tứ dư trong môn Thất Chính Tứ Dư kỳ thực chỉ là giao điểm của Bạch Đạo Hoàng Đạo và khoảng cách của Mặt Trăng so với Trái Đất, từ chuyển động biểu kiến của Chúng mà Khí Âm Dương Ngũ Hành sẽ thay đổi tạo nên những số mệnh khác nhau. Kết hợp với Năm sinh vốn mang ảnh hưởng mạnh của Ngũ tinh sẽ có số mệnh theo Năm, Tháng, Ngày, Giờ.

Mệnh thuận tháng nghịch giờ chẳng qua là sự quay quanh Mặt Trời trên Hoàng đạo và sự tự quay của nó từ Tây sang Đông, tiền đề trong cách an Thân chính là Trời thì quay về bên phải theo lý Thiên hữu chuyển, địa tả hoàn. Do Mệnh ứng với Địa di chuyển về bên Trái nên thuộc Âm, Thân ứng với Thiên nên thuộc Dương. Từ đây ta xác định được tiên đề tiếp theo Mệnh Thân là một cặp Âm Dương. Do sự chuyển động từ Tây sang Đông của Trái đất vốn là chuyển động thực nên Cung mệnh làm chủ để an 11 cung còn lại, còn Cung Thân vốn là sự chuyển động tương đối của Thiên Cầu từ Đông sang Tây nên không được dùng để an 11 Cung và Chính tinh. Cung Thân chỉ cho ta thấy sự bổ khuyết cho cung Mệnh.

(Còn tiếp)

Sửa bởi KimCa: 11/07/2015 - 18:16


Thanked by 6 Members:

#2 KimCa

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1525 Bài viết:
  • 1795 thanks

Gửi vào 11/07/2015 - 18:30

Từ Cung mệnh ta xác định được Cục Số, vậy Ngũ hành Cục là gì? Ngũ hành Cục chính là Khí mà con người lúc sinh ra được bẩm thụ, tùy vào mỗi thời điểm mà con người bị ảnh hưởng mạnh nhất của một hành so với các hành khác nên người đó sẽ được bẩm thụ Khí ngũ hành đó nhiều nhất lúc sinh ra. Khí ở đây được hiểu theo lý của Chu Hy “trong khoảng Trời Đất chỉ có một thứ duy nhất là Khí” Khí thì có Lý, hay nói cách khác Khí ngũ hành mà ta thụ hưởng lúc sinh ra là Khí Thiên Địa hợp nhất và Khí ngũ hành tạo nên hình hài của ta vậy ( Nhân ).

Số của Cục là gì? Số chính là để diễn giải cụ thể Ngũ hành Cục, hay nói cách khác Số chính là Số hóa ngũ hành Cục, giúp cho việc phân định Hành Cục này so với Hành Cục khác, vì mỗi hành Cục đều có tính lý riêng biệt so với các ngũ hành Cục khác. Nên mỗi ngũ hành khác nhau sẽ có Số khác nhau. Ngũ hành Cục ở trên được nói đến như là Khí Thiên Địa hợp nhất tạo nên hình hài của con người lúc sinh ra, Số chính là những thông tin về ta lúc sinh ra. Những thông tin này giúp cho mỗi người có cái chung và riêng. Từ số ta có thể định vị Chính tinh, Chính tinh vốn là sự lưu chuyển từ Khí sang Hình thông qua Số hóa của Khí Ngũ hành Cục và ngày sinh. Cho nên Số vốn tự nhiên mà có song song với Ngũ hành Cục.

Khí Ngũ hành Cục đại diện cho Nhân, vốn là Khí Trời Đất thụ bẩm lúc sinh ra, mà con người thì có Âm Dương Nam nữ, Âm Nam Dương Nữ đi nghịch, Dương Nam Âm Nữ đi thuận đó vốn là hợp với cái Đạo của Trời Đất vậy. Cho nên Khí Ngũ Hành Cục cũng thuận theo lẽ tự nhiên của Đạo mà đi thuận hoặc đi nghịch. Khí ngũ hành Cục có Vượng có Suy theo thời gian mà tạo nên 12 Thời ( trạng thái ) của Vòng Trường Sinh, con người thì có Sinh Lão Bệnh Tử theo sự Thinh Suy của Ngũ hành Cục.

Đại vận chính là Thời của mỗi người theo Sinh Lão Bệnh Tử, cho nên Đại vận vốn dĩ theo 12 Thời của Vòng Trường Sinh Cục mà đi Thuận hay Ngịch tùy theo Nam Nữ Âm Dương.

Tại sao Đại vận lại Khởi từ Cung Mệnh? Cung Mệnh chính là Không gian của con người lúc sinh ra, mà Không gian thay đổi mà có Thời gian, hay Thời gian chính là thứ tự thay đổi trong Không gian, Không gian Cung Mệnh chính là Cột mốc để tính thời gian cuộc đời của con người, cho nên Đại vận khởi Tại Cung Mệnh.

(Còn tiếp)

Thanked by 4 Members:

#3 CaspianPrince

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1549 Bài viết:
  • 2000 thanks
  • LocationCaspian Sea

Gửi vào 11/07/2015 - 19:45

Mộc tam cục: 3, anh chọn cái nào?
1. Khởi đại vận thứ nhất là từ 0->2 tại cung mệnh, rồi 3-12 tại cung huynh/phụ
2. Khởi đại vận thứ nhất 3-12 tại cung mệnh, 13-22 tại cung huynh/phụ. Còn <3 thì dùng nhiều phương pháp khá lộn xộn

Cả 2 đều khởi tại mệnh (theo một khía cạnh nào đó. Nhưng Tử Vi VN và đa phần mọi người chọn cách 2, TV TQ/ĐL và Đông A chọn cách 1.

#4 KimCa

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1525 Bài viết:
  • 1795 thanks

Gửi vào 11/07/2015 - 20:03

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

uchihakula, on 11/07/2015 - 19:45, said:

Mộc tam cục: 3, anh chọn cái nào?
1. Khởi đại vận thứ nhất là từ 0->2 tại cung mệnh, rồi 3-12 tại cung huynh/phụ
2. Khởi đại vận thứ nhất 3-12 tại cung mệnh, 13-22 tại cung huynh/phụ. Còn <3 thì dùng nhiều phương pháp khá lộn xộn

Cả 2 đều khởi tại mệnh (theo một khía cạnh nào đó. Nhưng Tử Vi VN và đa phần mọi người chọn cách 2, TV TQ/ĐL và Đông A chọn cách 1.

trên đã viết thì tất nhiên sẽ chọn theo cách 2. Không biết TV TQ/DL mà bạn nói đến cụ thể là ông nào đề xướng?

#5 ThichNguNgay

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 466 Bài viết:
  • 711 thanks

Gửi vào 11/07/2015 - 23:40

Lại nói đến tử vi trung quốc , họ tự nhận họ là chinh tông phái , an hoả linh cũng khác luôn !

#6 MrUncle

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 484 Bài viết:
  • 641 thanks

Gửi vào 12/07/2015 - 00:34

Hay, rất hay, tôi chờ chủ đề này lâu rồi
Muốn trở về với cội nguồn của tử vi, phải đi từ thiên văn học
Tuy trung quốc là một dân tộc thích chiến tranh, nhưng không thể phủ nhận một nền thiên văn học phát triển rực rỡ của họ
Sao trong tử vi không phải tự nhiên chém gió mà thành
Đúng ra KimCa phải đặt topic này là:
Trở về cội nguồn môn tử vi: Thiên văn học
tiếc rằng trình thiên văn tôi quá kém, đành lót dép hóng thôi

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


trích lại bài của bác INDOCHINE và anh QNB về cục để tham khảo
http://tuvilyso.org/.../page__st__3150
góp vui chút:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

à, KimCa có viết thế này:
"Đồng thời Mặt Trăng di chuyển trên Bạch đạo và hợp góc với Thiên Cầu và Hoàng đạo sẽ cho ta biết người sinh vào ngày trong tháng có đặc điểm gì"
KimCa cho ví dụ được không? mình không hiểu lắm

#7 ThichNguNgay

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 466 Bài viết:
  • 711 thanks

Gửi vào 12/07/2015 - 03:21

1: không dân tộc nào thích chiến tranh cả , chỉ có lãnh đạo của họ là thích thôi .
2 tử vi không chỉ bao gồm thiên văn .
"- Tổ Hy-Di họ Trần, húy Đoàn, sinh trưởng ở phía Nam núi Đại-dữu. Thân phụ của tổ là một nhà Thiên-văn, Lịch-số đương thời. Người sinh vào giờ Tỵ, ngày mười sáu tháng giêng, niên hiệu Cảnh-phúc nguyên niên đời Đường Chiêu-Tông (Nhâm-Tý, 894). Thân mẫu lâm bồn sớm một tháng, nên thời thơ ấu tổ bị bệnh hoạn liên miên. Tuy nhiên tổ rất thông minh, học một biết mười. Trong khi đó gặp phải người anh lêu lổng ham chơi, thường hay đánh đập tiên sinh cực tàn nhẫn.

...Vào năm lên tám, tổ bắt đầu học thiên-văn. Bấy giờ tổ đứng xem phụ-thân quan sát Thiên-hà, để tính nhật thực. Phụ thân phải nhân chia dài hàng mười con số, mà tổ cứ hỏi vặt. Người tìm cách sao cho tổ đừng quấy rầy. Người trao cho tổ máy Trắc-thời-đồ, rồi chỉ lên Thiên-hà:

- Con hãy xem, kia là chòm sao Tử-vi, kia là chòm sao Thiên-phủ. Con hãy đếm xem hai chòm này có bao nhiêu sao?

Thế là tổ ngồi xử dụng Trắc-thời-đồ đếm sao. Thân phụ tổ tưởng rằng ít ra phải mất một giờ tổ mới đếm xong. Không ngờ chỉ mấy khắc sau, tổ chạy vào nói:

- Con đếm hết rồi. Đi sau Tử-vi gồm năm sao. Như vậy chòm Tử-vi có sáu sao. Đi sau Thiên-phủ có bẩy sao, như vậy chòm Thiên-phủ có tám sao.

Từ đấy tổ được phụ thân giảng dạy rất kỹ về khoa Thiên-văn, Lịch số. Năm hai mươi tuổi tổ ngộ đạo làm đệ tử phái Hoa-sơn, bắt đầu học võ công.

Khi thành danh, tổ ngao du khắp thiên hạ, rồi khải ngộ tìm ra khoa Tử-vi.

Nhà vua ngắt lời:

- Trẫm đọc bộ Tử-vi chính nghĩa phần tựa tổ viết rằng: Nhân người học thuyết Âm-dương, Ngũ-hành, Dịch-lý, Hình-tượng, Lịch-số, rồi hợp lại thành khoa Tử-vi.

Nhà vua rót chén sâm thang trao cho Tây-Sơn lão nhân:

- Mời đạo-sư uống cho tinh thần thanh thản.

- Đa tạ bệ hạ.

Tự-Mai không dám thở mạnh, vì nó biết nội công Tây-Sơn lão nhân rất cao thâm, chỉ hấp khí hay gây tiếng động nhỏ lập tức lão khám phá ra liền. Trước khi khởi hành, Khai-Quốc vương dặn nó:

- Đời vua Hùng, quan Lịch-lệnh nhìn Thiên-hà tìm ra phép làm lịch. Sau khi dùng trong hơn ba trăm năm, mỗi năm đều có sửa đổi. Niên hiệu Hồng-bàng thứ năm trăm hai mươi bẩy (Mậu-Thân, 2353 trước Tây-lịch), bấy giờ bên Trung-quốc là niên hiệu thứ năm đời vua Nghiêu; vua Hùng thấy Trung-quốc chưa biết làm lịch, mới sai chép phép làm lịch của người Việt lên lưng một con rùa lớn đem cống. Vua Nghiêu sai quan Thái-sử-lệnh chép lấy, rồi làm ra lịch. Bởi vậy gọi là Qui-lịch. Sau này người Hán nghiên cứu rất rộng về Lich-số. Trong khi đó bên mình chỉ có phái Sài-sơn nghiên cứu khoa này. Gần đây đạo sĩ Trần Đoàn tìm ra khoa Tử-vi, truyền cho Tống Thái-tổ. Học Tử-vi để biết kẻ trung người nịnh, vận số tốt xấu mà mưu đại sự. Nhưng họ dấu diếm, không truyền ra dân gian. Hiện tất cả bí mật đó, họ chép thành sách cất ở Tập-hiền viện. Ta phải tìm cách lấy đem về.

Nhưng từ lúc đột nhập vào đây, giữa rừng sách hàng mấy chục vạn quyển, nó không biết những sách đó để ở chỗ nào. Hơn nữa trong phòng chứa sách không có đèn, làm sao mà tìm. Bây giờ nghe Tây-Sơn lão nhân đàm luận với nhà vua về khoa Tử-vi, nó chỉ hiểu lờ mờ, nhưng đã có chút hy vọng.

Tây-Sơn lão nhân tiếp:

- Sau đó tổ được truyền ngôi chưởng môn.

" Một hôm đang cùng chư đệ tử ngắm Thiên-hà, coi vận số đất nước. Bỗng tổ chỉ lên trời kêu lớn:

- Kìa, quái lạ không kìa.

Đệ tử cùng nhìn theo tay tổ chỉ, thấy sao Tử-vi, Thiên-phủ đi vào địa phận sao Phá-quân và Hóa-kị, mà ánh sáng chiếu xuống Hoa-sơn.

Tổ nói:

- Tử-vi, Thiên-phủ thuộc đế tượng, tức là vua. Tử-vi bao giờ cũng đi trước. Thiên-phủ bao giờ cũng theo sau. Hai ngôi sao này chiếu xuống Hoa-sơn ứng vào anh em một gia đình nào đó, đang gặp thủa tiềm-long. Sau này sẽ làm lên sự nghiệp vẻ vang, vị tới đế-vương. Phá-quân là hao tinh, chủ nghèo đói. Hóa-kị chủ bần hàn, như miệng lưỡi kêu xin. Phá ngộ Kị, ắt nghèo quá phải đi ăn xin. Tử-Phủ ngộ Hao, Kị ứng vào đềm hai vị thiên tử chưa gặp thời, đang lưu lạc hành-khất. Tất cả chiếu xuống Hoa-sơn, chắc ngày mai hai vị thiên tử qua đây ăn mày. Vậy ngày mai, các người theo ta xuống núi cứu giúp người anh hùng đang khốn cùng.

Đệ tử thưa:

- Đệ tử nghĩ, nhân lúc thiên tử chưa gặp thời, ta nên cho người vay nợ. Sau này người thành đại nghiệp, ta đòi, để cứu giúp dân nghèo.

Tổ đồng ý. Hôm sau tổ dẫn chư đệ tử xuống núi, có đoàn người chạy loạn đi qua. Tổ để ý thấy một thiếu phụ gánh hai chiếc thúng, trong mỗi thúng để một đứa trẻ khôi ngô dung quang khác thường. Tổ biết hai trẻ ấy ứng vào sao Tử, Phủ. Tổ hỏi thiếu phụ:

- Này bà ơi. Bà gánh hai vị thiên tử đi đâu vậy?

Thiếu phụ đặt gánh xuống thưa:

- Con tôi đó, vua chúa gì đâu. Chúng đang đói. Từ sáng đến giờ bụng trống không. Tiên sinh bố thí cho chút đồ ăn được không?

Tổ truyền đem cơm chay khoản đãi thiếu phụ cùng hai trẻ. Tổ lại hỏi giờ, ngày, tháng cùng năm sinh của hai trẻ. Tổ bấm số Tử-vi rồi nói với đệ tử:

- Đứa lớn đắc cách Tử, Phủ, Vũ, Tướng, ngộ Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc. Ngặt đại hạn đang ngộ Hình, Kị, Kiếp, Không. Số của đứa nhỏ đắc cách Thiên-phủ lâm tuất, ngộ Tả, Hữu, Khoa, Quyền, đại hạn đang gặp Kiếp, Kị. Vì vậy cả hai nghèo đói trong nhất thời mà thôi.

Một đệ tử thưa:

- Sư phụ! Đệ tử nghĩ, hai trẻ là chân mệnh đế vương. Khi đại hạn gặp Khôi, Việt, Xương, Khúc là lúc thành đại nghiệp. Sư phụ nên giúp đỡ, mua lấy cảm tình. Khi thiên tử đắc thời ta nhân đó giúp dân.

Tổ mỉm cười nói với thiếu phụ:

- Bần đạo tính số, biết sau này hai con bà làm vua. Khi lên ngôi vua, tất cả giang sơn vạn dậm đều thuộc về con bà. Vậy bà bán giải núi Hoa-sơn này cho bần đạo, lấy tiền mà tiêu.

Thiếu phụ tưởng tổ điên khùng mới mua núi, nên đồng ý bán ngay. Bởi thiếu phụ không biết chữ, bà xé vạt áo hai con quấn vào đôi đũa, nhét trong ống, coi như văn tự... Tổ trao cho bà mười nén vàng.

Nhà vua bật cười:

- Thiếu phụ đó tức là Chiếu-Huệ thái hậu(1). Còn hai trẻ sau thành đức Thái-tổ, Thái-Tông nhà trẫm. Có phải vậy không?

- Tâu bệ hạ đúng thế.

- Vì vậy sau này suốt một giải Hoa-sơn, triều đình, cũng như quan lại địa phương không được quyền thu thuế. Nhưng không biết từ năm nào?

- Tâu bệ hạ năm Càn-đức nguyên niên (Quý-Hợi, 963), quan trấn thủ vùng Hoa-sơn tâu về triều rằng : Có đạo sĩ tên Trần Đoàn, tự Hi-Di bao dưỡng dân chúng khắp vùng Hoa-sơn không nộp thuế. Đạo sĩ nói rằng Hoa-sơn là đất riêng của ông, đã được thiên-tử bán cho rồi. Đức Thái-Tổ nổi giận, sai bắt tổ giải về triều. Vì tổ có đức, võ công cực cao nên các quan không dám trói, còn cấp lừa cho cỡi về kinh. Trên đường đi, tổ làm bài phú Tử-vi cốt tủy.

Nhà vua gật gật đầu:

- Khi giảng bài phú Tử-vi cốt tủy cho trẫm, Định-vương có nói: Vì bước chân lừa gập ghềnh, nên nhịp điệu bài phú bị ảnh hưởng.

Nhà vua đọc lớn:

"Phượng hàm thư nhi phùng Nhật, Nguyệt,

Tam kỳ lai nhập Tử, Sinh,

Nam tất uy bá quyền danh,

Nữ tất danh đằng xướng vũ.

Mã ngộ Khốc nhi phùng Hình, Quyền, Lộc, ấn tại quan cung,

Võ tất thăng ban đệ nhất, văn hội chuyển đạt Tam-công. (2)

- Người có Thiên-mã, Thiên-khốc thủ mệnh, cung quan có Điếu-khách, Thiên-hình, làm quan võ tới bậc đệ nhất. Cũng mệnh có Mã, Khốc, mà cung quan có Hóa-lộc, Quốc-ấn, làm quan văn tới Tam-công.

Nhà vua gật đầu đọc mấy câu nữa rồi hỏi:

- Cuộc triều hội giữa đức Thái-Tổ với tổ Hi-Di chắc lý thú lắm.

- Vâng. Tổ vào triều kiến. Đức Thái-Tổ hỏi : Đạo sư dù thông thiên, dù võ công cao cũng phải tuân phép nước chứ? Hà cớ phao ngôn rằng mua núi của triều đình?

Tổ tâu:

- Năm nay bần đạo tuổi trên bẩy mươi, đâu dám nói dối bệ hạ? Luật của bệ hạ nói rằng: Đời cha vay nợ, đời con phải trả. Trước đây thái hậu qua Hoa-sơn bán cho bần đạo toàn vùng này. Văn tự thần vẫn giữ.

Tổ trình ống đũa, vạt áo lên. Thái-Tổ truyền đem vào hậu cung hỏi

Chiếu-Huệ thái hậu. Thái-hậu nhớ truyện cũ phán:

- Vị thần tiên ở núi Hoa-sơn đây mà.

Thái hậu kể lại tích xưa. Đức Thái-Tổ và triều thần đều kinh sợ về tài tiên tri của tổ. Truyền lưu tổ sinh lại triều, kính như thầy. Đức Thái-Tổ hỏi về khoa Tử-vi, tổ xuất trong bọc ra bộ Tử-vi chính nghiã dâng lên. Tâu rằng:

- Đây, tất cả tinh nghĩa về khoa Tử-vi. Bần đạo không phải là người đặt ra khoa này. Bần đạo chỉ nhân thấy khoa Dịch-lý, Hình-tượng, Thiên-văn, Lịch-số, Địa-lý đều có uyên nguyên với nhau, mới tước bỏ những phần rườm rà, hợp thành. Với khoa Tử-vi, học tới bậc sơ đẳng, bệ hạ có thể biết kẻ trung, người nịnh, thời nào tốt, khi nào xấu mà mưu đại kế, tránh nhiễu sự. Học tới chỗ uyên thâm, có thể nhân số mạng người thân xấu, dùng loại người nào thì cứu được, cứu bằng cách nào. Thấy kẻ ác, thì dùng người nào, cách nào mới trị được. Còn học tới chỗ uyên nguyên cùng cực, có thể làm đảo lộn thiên hạ, nắm thiên hạ trong tay. Tuy nhiên bần đạo cũng xin dâng bệ hạ một câu: Khi dùng khoa này nên lấy chữ nhân làm gốc, đừng quá ỷ tài, mà đi vào chỗ ác độc tổn âm đức.

Thanked by 4 Members:

#8 TNK75

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2700 Bài viết:
  • 3665 thanks

Gửi vào 12/07/2015 - 21:13

hay

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.

#9 KimCa

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1525 Bài viết:
  • 1795 thanks

Gửi vào 13/07/2015 - 06:22

mình viết câu "địa hữu chuyển, thiên tả hoàn" thành thiên hữu chuyển, địa tả hoàn" mà chẳng thấy ai nói gì. mấy chủ đề lập ra toàn chết yểu.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

pytago07, on 12/07/2015 - 00:34, said:

Đúng ra KimCa phải đặt topic này là:
Trở về cội nguồn môn tử vi: Thiên văn học

Không nên đao to búa lớn, nổ tung trời như thế.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

langhp, on 12/07/2015 - 03:21, said:

2 tử vi không chỉ bao gồm thiên văn .


Cái gốc của Lý Học Đông Phương là Thiên văn cổ, Lịch Số chẳng qua là người xưa quan sát chuyển động của Trái Đất, Mặt Trăng, Mặt Trời.

Hà Đồ Lạc Thư vốn có nguồn gốc từ việc quan sát Ngũ Tinh,

Thái Cực vốn là Cái bóng câu sào do ánh sáng của Mặt trời chiếu lên mặt đất, 12 Quẻ Khí chẳng qua là cái bóng của ánh sáng Mặt Trời chiếu qua vách.

Tứ khí Nguyệt Bột, Tử Khí chẳng qua là điểm cận và viễn của Mặt Trăng so với Trái Đất. La, Hầu Kế Đô chẳng qua là giao điểm của Hoàng Đạo và Bạch Đạo

Âm Dương trong Dịch chẳng qua là lấy theo Mặt Trăng và Mặt Trời, Ngũ hành lấy theo tượng Ngũ Tinh

Phong Thủy Huyền Không phi tinh lấy theo Thất Chính và Tả Phù Hữu Bật

Kỳ Môn Độn Giáp là dụng của Lạc Thư vốn có nguồn gốc Thiên Văn

Thái Ất thần số dựa vào sao Bắc Thần và Quan sát chuyển động của Bắc Đẩu và phỏng theo Ngũ tinh

các môn khác cũng phỏng theo chuyển động trên Thiên Cầu mà định lề....

ngoài ra cứ phỏng theo thế.

Sửa bởi KimCa: 13/07/2015 - 06:23


Thanked by 3 Members:

#10 tieupham

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 350 Bài viết:
  • 343 thanks

Gửi vào 13/07/2015 - 11:18

Chào Kim ca, chúc 1 ngày tốt lành.

Theo như mình hiểu, vị trí của cung mệnh là từ vị trí khai sinh ban đầu ở cung dần địa bàn, giờ tý tháng 1, thuận tháng nghịch giờ tức là tìm vị trí mới khi trái đất xoay quanh mặt trời và tự xoay quoanh trục của nó, ta cũng nhận được kết quả là vị trí của cung mệnh so vơi mặt trời theo hướng trục xuyên tâm mặt trời-trái đất là không đổi, và nếu lấy vị trí khai sinh là vị trí xa mặt trời nhất của trái đất, thì vị trí cung mệnh luôn nằm ở điểm xa nhất đó. Nhưng vì sao cái điểm cố định đó lại an mệnh ở đó? Điểm đó có ý nghĩa gì mà mệnh lập ở đó?

Thanked by 1 Member:

#11 KimCa

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1525 Bài viết:
  • 1795 thanks

Gửi vào 13/07/2015 - 12:00

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

tieupham, on 13/07/2015 - 11:18, said:

Chào Kim ca, chúc 1 ngày tốt lành.

Theo như mình hiểu, vị trí của cung mệnh là từ vị trí khai sinh ban đầu ở cung dần địa bàn, giờ tý tháng 1, thuận tháng nghịch giờ tức là tìm vị trí mới khi trái đất xoay quanh mặt trời và tự xoay quoanh trục của nó, ta cũng nhận được kết quả là vị trí của cung mệnh so vơi mặt trời theo hướng trục xuyên tâm mặt trời-trái đất là không đổi, và nếu lấy vị trí khai sinh là vị trí xa mặt trời nhất của trái đất, thì vị trí cung mệnh luôn nằm ở điểm xa nhất đó. Nhưng vì sao cái điểm cố định đó lại an mệnh ở đó? Điểm đó có ý nghĩa gì mà mệnh lập ở đó?

Chào tieupham

Trong thực tế Lý Học Phương Đông ta phải chấp nhận 1 điều rằng, người xưa dùng Thiên Văn để lập Tượng mà hình thành nên các môn như ngày nay. Ví dụ như 2 sao Nhật Nguyệt trong Tử vi vốn là mượn Tượng của mặt trăng, mặt trời chứ nói Nhật là Mặt trời, Nguyệt là Mặt trăng thì vừa đúng lại vừa không đúng, tieupham có thể quan sát thấy rằng với người sinh ban ngày thì có thể Nhật ở các cung ban đêm trên lá số Tử vi, nhưng thực tế làm gì có chuyện đó được. Ta thấy ngay rằng người sinh ban ngày thì Mặt trời cũng phải ở các Cung ban ngày chứ, sao lại nằm ở ban đêm. Như mệnh lập ở Ngọ sinh vào giờ Ngọ mà Thái Dương lại nằm ở Cung Tý, thì tieupham có thấy "khoa học" không?

cho nên Lý Học Phương Đông không thể dùng Duy Lý của Phương Tây để giải thích được, Phương Tây chỉ chấp nhận "tập rõ" như các con số, các định luật...rõ ràng chứ không chấp nhận được "tập mờ" như nguyên lý Phản Phục trong kinh dịch. theo cùng cực tắc biến thì "đi xa tất quay trở lại", nghe rất vô lý, Phương Tây chẳng bao giờ chấp nhận thực tế này. Hay có nhiều người làm khoa học muốn khoa học hóa Lý Học Phương Đông bằng cách Số hóa toàn bộ Kinh Dịch, ta thấy các con số chỉ là cái xác, còn phần hồn thì chẳng thấy đâu.

Vậy thì ở đây tieupham phải chấp nhận một thực tế rằng chúng ta học Tử vi là học Tượng chứ không phải là đang học Thiên Văn, Thiên Văn cổ chỉ dùng để diễn Tượng, mượn Tượng của các vì sao trên bầu trời để thiết lập Lý Học Phương Đông.

Quay trở lại vấn đề tieupham nêu, thì đại ý Mệnh Thân chỉ dùng ( mượn ) Thiên văn để diễn Tượng cho Mệnh Thân trên lá số Tử vi, ở đây Thuận tháng đến Cung có tháng sinh, mà tháng sinh chính là tiết khí, theo mỗi tháng mà có những tiết khí khác nhau làm chủ, và cái khí này có được là do sự chuyển động của Trái Đất quanh mặt Trời và do sự lệch tâm của Trục Trái Đất, nên ta mượn tạm nó gọi là Khí Thiên vậy. Cần phải nhắc lại là tiết khí hay đề cương lệnh tháng vốn vận dụng Khí Âm Dương Ngũ Hành cho nên không thể dùng Duy Lý Phương Tây vào giải thích được. tiếp theo là sự tự quay của Trái Đất theo nguyên lý "Thiên Tả Hoàn, Địa hữu Chuyển" thì lại được một lý nữa, đó là Trái Đất chuyển động từ Tây sang Đông mà có ngày đêm, thì cái Khí theo giờ ta có thể gọi nó là Khí Địa, kỳ thực ngày đêm cũng chẳng qua là bản đồ Nhiệt của Mặt Trời cả thôi, nhưng khi ta xét cái Khí Địa thì ta đặt vào nó cái Lý Học Phương Đông là Âm Dương Ngũ Hành chứ không phải là một bản đồ nhiệt.

Đến đây thì sẽ thấy Cung Mệnh vốn là sự hợp thành của Khí Thiên Địa hợp...mà thực tế theo quan điểm của Phương Tây ta chỉ thấy một bản đồ nhiệt của ngày đêm và tháng sinh. Chứ làm gì có cái Khí nào đâu, vậy Chu Hy nói "trong khoảng trời đất chỉ có một thứ duy nhất là Khí" Nếu ta tinh ý thì thấy Khí ở đây như giống như năng lượng trong công thức nổi tiếng của Einstien, năng lượng bằng khối lượng * bình phương tốc độ ánh sáng. Nhưng đó chỉ là mượn lý Phương Tây giải thích cho dễ hiểu, chứ năng lượng không phải là Khí theo quan điểm của Chu Hy. vì khi sinh ra thì có khối lượng giống nhau ( sơ sinh ) làm gì có năng lượng khác nhau, mà thực tế theo Tử vi hay Tử bình thì rõ ràng cái Khí Âm Dương Ngũ hành là khác nhau, Tử bình sẽ thấy tứ trụ này Thân Vượng, Tứ trụ kia thân nhược...

Rồi lại sang Cung Thân, thì Cung thân ta ví nó là sự chuyển động tương đối ngoài Trái đất ( Thiên Cầu ) từ đông sang Tây, vậy ta " mượn" cái lý của nó để Thiết lập cung Thân vốn tượng trưng cho Thiên. Từ Cung Mệnh ta lại có Cục Số, rồi đến Chính tinh, tất cả chỉ là cái Khí Tượng vốn mượn từ Thiên văn, có nhiều người cho rằng Chiêm Tinh Học Phương Tây chỉ là Chiêm Tinh giả, Tây cũng Giống như Ta chỉ mượn Tượng diễn ý từ Thiên văn chứ làm sao lấy sao này sao kia trên bầu trời để xem mệnh được, cái đó là phi thực tế. Khổng Minh thấy ngôi sao trên trời rơi xuống và mờ dần là ý Khổng Minh sắp chết vì ngôi sao đó chủ mệnh, rồi lại ngậm mấy hạt gạo để giữ mạng sống. Đó chỉ là cái phóng đại thôi,

Đại ý vậy tieupham có thể tham khảo thêm.

Thanked by 4 Members:

#12 ThichNguNgay

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 466 Bài viết:
  • 711 thanks

Gửi vào 13/07/2015 - 14:59

Tử vi có thuyết an mệnh thân , tử bình cũng có thuyết an mệnh thân , cũng đều lấy chu kỳ mặt trời mặt trăng định tính . Kim ca nghĩ sao vấn đề này . Còn thất chính tứ dư kim ca có chắc chăng !

#13 KimCa

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1525 Bài viết:
  • 1795 thanks

Gửi vào 13/07/2015 - 16:28

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

VuVanLang, on 13/07/2015 - 14:59, said:

Tử vi có thuyết an mệnh thân , tử bình cũng có thuyết an mệnh thân , cũng đều lấy chu kỳ mặt trời mặt trăng định tính . Kim ca nghĩ sao vấn đề này . Còn thất chính tứ dư kim ca có chắc chăng !

tôi không hiểu VuVanLang nói Tử bình cũng có thuyết an mệnh thân? nói mệnh là thân, thân là mệnh đều dùng Nhật Can chứ có gì mà an? hay VuVanLang luận Tử bình theo Cung Độ luận Thất Chính tứ Dư giống với Mệnh lý Tinh Hoa của Bàng Khang Dân? nói về lấy Nhật Can thì cũng không có gì khó hiểu. Năm và ngày có sự tương ứng, tháng và giờ có sự tương ứng. Mà luận Tử bình bằng Khí rồi thì phải loại bỏ Tháng và Ngày khỏi việc định Mệnh Thân. chỉ có lấy Năm và Ngày, đối với Năm thì Can trong 1 năm là không đổi thật khó mà xét xem mệnh được, chỉ có lấy ngày mà thôi. Không hiểu người xưa dựa vào đâu để lấy Nhật Can hay vì Nhật Can vốn đại diện cho Trời, mà Số Mệnh là ở Thiên nên lấy Nhật Can? chủ về Số mệnh vốn là ý trời !

Đối với Thất Chính Tứ Dư thì Mệnh xuất tại Mão theo Thái Dương, Thân xuất tại Dậu theo Thái Âm, Tiên thiên Bát Quái tượng Ly là Mặt trời ở Cung Mão, Khảm tượng Mặt Trăng ở Cung Dậu. Cho nên nói Thái Dương xuất tại Mão, Thái Âm xuất tại Dậu. Ly Khảm đối ứng, Nhật Nguyệt phân đôi đường đi. ứng với Hậu thiên thiên Bát quái là lý "Đế xuất hồ Chấn". Cho nên mệnh thân ở môn Thất Chính tứ Dư luận có khác với Tử vi, hiển nhiên không thể giống nhau được, mỗi môn đều có lý luận riêng biệt. Chính vì có một chút tương đồng giữa 2 môn nên nhiều người mới cho rằng Tử vi xuất phát từ môn này.

@tieupham có chổ nào không hiểu hay bàn luận thêm thì cứ tự nhiên nhé, không phải e ngại làm gì.

Sửa bởi KimCa: 13/07/2015 - 16:30


Thanked by 1 Member:

#14 vuive1

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 112 Bài viết:
  • 48 thanks

Gửi vào 13/07/2015 - 21:39

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:

#15 ThichNguNgay

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 466 Bài viết:
  • 711 thanks

Gửi vào 14/07/2015 - 00:32

Hi kimcan , kimcan chắc không để ý về đoạn sơ khai mở đầu tử bình hoặc là không nhớ rồi , tính về lấy tuế hay nhật làm chính kimcan đã nói một nửa rồi đó . Có nhiều cách , đơn giản như phép loại trừ đơn giản nhất đi , tháng là lệnh giờ là tiểu lệnh thì tất không dùng làm mệnh được , chỉ còn tuế hay nhật . Ngày xưa khoa ngũ tinh dùng tuế nhưng xét cho cùng thì dùng tuế chỉ như việc dùng gốc mà không tới cái phát triển , khi tới cái ngày thì ta thấy ngay rằng ngày không có nhiều tác dụng trong bát tự , và việc dùng tuế có nhiều liên quan tới thần sát , vì đa số ngày xưa nhiều thần sát lấy năm làm thứ định tính . Chỉ khi tới thời Từ Tử Bình , thấy rằng việc dùng năm làm chính không có chuẩn xác cho lắm thì mới tới dùng can ngày luận mệnh , theo thuyết chọn lọc tự nhiên thì cái gì không phù hợp thì sẽ bị đào thải và ta thấy rằng luận mệnh theo ngày khá chuẩn xác , khi đó bát tự dùng được tất cả các chữ đều quan trong như nhau . Cũng từ đó mà khoa ngũ tinh chia đôi đường thành từ vi và tử bình đó , thần sát trong tử vi hay tử bình có rất nhiều thần sát trùng hợp , như thiên ất , dịc mã , lộc , cô thần quả tú , hoa cái , thiên la địa võng , kình dương ... Và cổ nhân xưa cũng lấy thần sát trong sao tử vi phối hợp thái tuế kết hợp bát tự khán hạn chuẩn xác , điều này thật kỳ lạ . Mình thì thắc mắc không hiểu ngày xưa cổ nhân sao lại tìm được cách an thần sát . Mình đang đi tìm bí ẩn cách an thần sát , chủ top có hứng thú với việc này chăng , đọc mấy topic trong muc này thấy mấy vị tiền bối cũng đi tìm lý giải này , không biết có ai để trao đổi chăng ?

Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

2 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 2 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |