6. CÁCH CỤC TẠO MỆNH
Phép Tạo Mệnh của bậc Tiên Hiền đều lấy:
- Bổ Long,
- Phù Sơn,
- Tương trợ Chủ Mệnh để dùng.
Cho nên, Tứ Trụ Bát Tự có thành cách, thành cục. Hoặc những cách Thiên Địa đồng lưu, hoặc Thiên Can nhất khí, hoặc Địa Chi nhất khí, hoặc Chính vị Thiên Ấn.
-----------
Giải thích:- Sách nhắc đi nhắc lại nhiều lần về vấn đề Bổ long, Phù sơn, Tương chủ vì ba điều này không thể thiếu một. Mà cách cục thì quá nhiều để có thể minh họa từng trường hợp một, thành ra người đọc phải tự suy ngẫm cho cẩn thận.
-----------
Như Giáp Sơn, Tứ Trụ dùng Tứ Nhâm, Tứ Hợi đó (xét Hợi là Trường Sinh của Giáp, dù Thiên Ấn (là Ấn đã lệch) cũng không kỵ, cùng Tý NGọ Mẹo Dậu không đồng nhau, nếu là Dần Thân Tị Hợi cùng xung thì suy). Những cách khác cùng suy là Chính Ấn Cát, được 3-4 điểm đều khá. Nếu là Thiên Ấn thì 1-2 đểm cũng khá. Nhiều Kỷ thì hung. Như người xưa làm cho Chủ Mệnh tuổi Kỷ Mùi, dùng bốn Đinh Mùi đó đã nói rõ ở trên, đồng với cách Thiên Địa đồng lưu). Nhưng Chính Ấn dù Cát, cũng nên hợp Long, Sơn mà dùng mới là Cát.
1/. (Luận về Chủ Mệnh) QUAN TINH CÁCH:
Quan có Chính Quan, Thiên Quan. Chính Quan là Quý Nhân thành được thân mình, Thiên Quan là hung thần giết hại thân mình cho nên gọi là Thất Sát (
tính từ Can mệnh của thân chủ đếm tới can thứ 7 thì bị xung khắc, nên gọi là Thất sát: ví dụ người tuổi Ất đếm tới can Tân là 7 bước). Như Mệnh Giáp thấy Tân, Mệnh Ất thấy Canh...vv...làm Chính Quan. Nhưng Quan nên hợp bốn ngôi càng Cát, không hợp thì không nên, phần nhiều phản chủ thấy khắc (xét người ta có kẻ dùng đấy, nhưng không bằng hợp là hữu hình).
-------------
Giải thích:- nếu dùng chữ Quan thì phải dùng Chính quan chứ đừng dùng Thiên quan. Dùng Chính quan được tứ trụ năm tháng ngày giờ đủ bộ 4 chữ thì đắc cách "Thiên địa đồng lưu" - nhưng rất khó chọn được, thường 10 năm mới được một lần.
-------------
Đến như Thiên Quan quyết không thể thấy nhiều, chỉ 1 vị, 2 vị khá vậy, còn nên dùng Ấn hoá (Sát, Ấn cùng Sinh nhau), hoặc dùng bốn thân chế là diệu. Nhưng trong Tứ Trụ cốt yếu hợp Phù, Bổ Long Sơn mới là được phép:
- Tăng Công cùng người ta hạ Thân Sơn Dần Hướng, táng người chết Mệnh Đinh Tị. Dùng niên nguyệt nhật thời đều Nhâm Tý cả. Đinh lấy Nhâm làm hợp Chính Quan, lại Nhâm Quan Vượng ở Tý, Trường Sinh ở Thân; lại Tị cùng với Thân là Lục Hợp; Thân Tý Thìn thì Mã ở Dần. Năm Tị Ngọ phát quý hiển, niên mệnh Ất Tị cát
- Xưa Vương thị táng mộ tổ, người chết tuổi Ất, hợp dùng năm Canh Ngọ, tháng Canh Thìn, ngày Canh Tý, giờ Canh Thìn. Ấy là Quan tinh tác hợp. Đời sau làm Tể Tướng.
- Tăng Công làm cho người tuổi Nhâm Ngọ dựng nhà Tị Sơn Hợi Hướng, dùng bốn Kỷ Tị. Đó là Quan Đinh tuy không tác hợp, nhưng bốn Kỷ là Quý Lộc tụ Bản mệnh Ngọ, đó là Quan tinh đới Lộc chầu vào Mệnh; mà Nhâm Mệnh Quý Nhân ở bốn Tị (chi của niên nguyệt nhật thời); lại thêm bốn Tị Bổ cho Tị Sơn; hội Mã đến Hợi Hướng, đắc cả Phù Sơn lẫn Tướng Chủ, lý thần diệu không cùng vậy. Đời sau quả nhiên đỗ Trạng Nguyên.
2/. (Luận về Chủ Mệnh) TÀI THẦN CÁCH:
Tài có Chính Tài, có Thiên Tài. Tài vốn là nguồn nuôi Mệnh, nhưng cũng mừng được hợp là hữu tình. Như:
- Mệnh Giáp dùng Tứ Kỷ, Tứ Sửu, Tứ Mùi; Ất Mệnh dùng Tứ Mậu, Tứ Thìn, Tứ Tuất....là Chính Tài
- Ất Mệnh dùng Tứ Kỷ, Tứ Sửu, Tứ Mùi; Giáp Mệnh dùng Tứ Mậu, Tứ Thìn, Tứ Tuất...là Thiên Tài.
Chính Tài là thượng, Thiên Tài là thứ, nhưng tất cả đều là Cát. Tứ Trụ cũng phải cốt yếu Phù Bổ Long Sơn mới là tận thiện:
- Như Tăng Công làm cho chủ làm nhà tuổi Nhâm Ngọ, làm nhà Tị Sơn Hợi Hướng, dùng Tứ Đinh Mùi. Ông ghi rằng: "Thiên Can đều cùng với Đinh, Địa Chi với Mùi là Thiên Địa đồng lưu nhất khí. Can Chi hợp Mệnh càng là kỳ lạ soi lấy gia bảo đời đời sang". Xét khoá này, tuổi Nhâm lấy Tứ Đinh là Chính Tài cách, Tứ Đinh đều Lộc tại Bản Mệnh Ngọ, Tứ Mùi lấy Nhâm Mệnh làm Chính Tài, Ngọ Mùi là Lục Hợp, Nạp Âm Đinh Mùi Thuỷ sinh cho Nhâm Ngọ Mộc, thật là khoá Thượng Thượng vậy.
- Kiên Tân Long làm cho Cố học sĩ chôn mộ tổ, Tốn Sơn Càn Hướng, người chết tuổi Bính Ngọ, dùng Tân Mẹo niên, Kỷ Hợi nguyệt, Tân Mùi nhật, Tân Mẹo thời, nửa Kỷ (6 năm ) sau đỗ Trạng Nguyên.
- Chúc Cát Sự làm cho Chu Thị lang ở Tín Châu, Thượng Nhiêu, táng cha Khôn Sơn Cấn Hướng, người chết tuổi Tân Tị. dùng năm Ất Mẹo, tháng Ất Dậu, ngày Ất Dậu, giờ Ất Dậu. 6 năm sau, áo đó áo tía đầy nhà, giàu sang không ai sánh. Vì Tân lấy Ất làm Thiên Tài, mệnh Tân thì Lộc ở Dậu, 3 Dậu lại cùng Mệnh Tị phối hợp Tứ Ất Quý Nhân đến Khôn Sơn, lại cung Thân nạp khí, cố nhiên thần diệu.
- Quách Công làm cho Hạng thị táng người chết tuổi Mậu Thìn, Dần Sơn Thân Hướng, dùng năm tháng ngày đều Nhâm Tý, giờ Canh Tý, cũng là cách Thiên Tài.
3/. (Long Mệnh như nhau) ĐÔI CÁCH:
Đôi nghĩa là Tụ, có:
- Tụ Lộc,
- Tụ Quý,
- Tụ Mã,
- Tụ Bảo,
- Tụ Sát,
- Tụ Phúc và
- Tụ Đạo (trộm cắp)..vv..
Có (1) Long (2) Sơn (3) Mệnh tụ ở Tứ Khoá, có Tứ Khoá tụ ở Long Sơn Mệnh, đều gọi là Tụ cả, nhưng ba chỗ Long Sơn Mệnh đều cốt yếu hợp tình mới là toàn mỹ.
- Tụ Lộc như Nhâm Sơn Long Mệnh, khoá dùng Tứ Hợi; hoặc Hợi Long Sơn Mệnh khoá dùng Tứ Nhâm...
- Tụ Quý như Bính, Đinh Long Sơn Mệnh, khoá dùng Tứ Hợi hay Tứ Dậu. Hoặc Hơi, Dậu Long Sơn Mệnh, khoá dùng Tứ Bính, Tứ Đinh...
- Tụ Mã như Tị, Dậu, Sửu Long Sơn Mệnh, khoá dùng Tứ Hợi; hay Hợi Long Sơn Mệnh, khoá dùng Tứ Dậu, Tứ Sửu (không dùng Tị vì Tị Hơi sẽ là khoá xung với Long Sơn Mệnh)...
- Tụ Bảo (tức Trường sinh), như Giáp Long Sơn Mệnh, khoá dùng Thân...(Âm Can không nên dùng Tứ Sinh - vì bị thoát khí)
- Tụ Phúc như Canh Mệnh dùng Tứ Nhâm, Tân Mệnh dùng Tứ Quý... (đây chính là cách lấy Thực Thần của Can Mệnh trong Tứ Trụ, vì Thực Thần cũng chính là Phúc Thần vậy. Cho nên chưa khỏi việc Tiết Khí, chỉ dùng cho Mệnh, Long Sơn không nên dùng).
- Tụ Tài như Sửu, Mùi, Khôn, Cấn Long dùng Tứ Hợi, Tứ Tý... đều Thượng Cát.
- Tụ Sát như Ngọ Long, Ngọ Sơn, khoá dùng Tứ Quý...
- Tụ Đạo như Canh Long Sơn Mệnh, khoá dùng Tứ Quý...
Hai cách Tụ Sát, Tụ Đạo đều Hung hại, không nên dùng. Những loại khác phỏng theo các ví dụ trên đây mà khá suy.
- Dương Công làm cho tuổi Bính Ngọ, dựng nhà Dậu Sơn Mẹo Hướng, dùng năm Tân Tị, tháng Tân Sửu, ngày Tân Mùi, giờ Tân Mẹo. Lấy Tứ Tân Can Tụ Lộc ở Dậu Sơn, Tụ Quý ở Ngọ Mệnh. Tị Sửu hoá Kim cục Bổ Dậu Sơn, Mẹo Mùi hoá Mộc cục sinh vượng cho Hướng Mẹo.
- Dương Công làm cho Hứa Thị táng ở nơi Canh Sơn Giáp Hướng, dùng năm Kỷ Mùi, Tháng Tân Mùi, ngày Kỷ Mùi, giờ Tân Mùi. Đó là Canh Sơn Tụ Quý ở Tứ Mùi. Mặt khác, đây cũng là cách Ám Hợp Lộc, Ám Hợp Quý.
- Dương Công làm cho Văn Thê táng, Cấn Long dùng Tứ Bính Thân. Đó là cách Trọng Long Tụ Bảo, vì Thuỷ Thổ Trường Sinh tại Thân.
4/. (Long Mệnh như nhau) CỦNG CÁCH- Củng là giáp, lấy 2 Chi mà giáp 1 Chi.
Hoặc Củng Lộc, Củng Quý, duy Mã không nên Củng, vì Mã Củng thì không đi, cần phải Phù Bổ đúng phép.
Giả như năm Ất Sửu, tháng Kỷ Mẹo, ngày Kỷ Sửu, giờ Kỷ Mẹo, lấy 2 chi Sửu Mẹo giáp ngầm 1 Dần ở giửa. Ở trường hợp này:
- gặp Giáp Long Mệnh là Củng Lộc,
- gặp Tân Long Mệnh là Củng Quý,
- ở Bính Long Mệnh là Củng Bảo,
- Đinh Long Mệnh là Củng Ấn,
- Nhâm Long Mệnh là Củng Phúc,
- Canh Long Mệnh là Củng Tài,
- Kỷ Long Mệnh là Củng Quan...vv... Các loại khác phỏng đây mà suy.
Dương Công làm cho Tân Hiểu Nhân ở Đầu Giang,
Thân Sơn Dần Hướng,
tuổi người chết Canh Tuất, dùng:
- năm Canh Thân,
- tháng Nhâm Ngọ,
- ngày Canh Thân,
- giờ Nhâm Ngọ:
Vì Mệnh Canh thì sao Quý Nhân ở Mùi, lấy 2 Ngọ 2 Thân giáp chữ Mùi ở giửa. Ghi rằng "Ngọ hợp Dần Hướng, Thân Bổ Mạch, là cách "Song Phi Hồ Điệp", đấy là Tụ Lộc Mã, cũng Bính Thực Lộc, làm đến Tam Công, niên Mệnh, nhật Quý đều ở Mùi Tuất Ngọ củng ra, không còn nghi ngờ gì. Tụ hội Lộc Mã giáp Quý Nhân, lấy dùng diệu thông thần".
Dương Công vì Dư Thị ngự ở Kinh Triệu làm nhà. Bấy giờ Thị Ngự đã về hưu, ở phương Mùi làm nhà ở về hưu. Vốn
tuổi Ất Hợi, dùng:
- năm Canh Dần,
- tháng Canh Thìn,
- ngày Canh Dần,
- giờ Canh Thìn.
Vì Mệnh Ất Lộc ở Mẹo, lấy 2 Dần 2 Thìn Củng Mẹo Lộc. Ất lại lấy Canh làm Hợp Quan. Đó là Quan Lộc đều toàn vẹn. Lại thâm Tứ Canh tụ sao Quý Nhân ở phương Mùi: Thượng Cát. Bấy giờ ông Thị Ngự tuổi đã 76, không thể lại lên quan được nữa. Vua đặc cách tiền để dưỡng lão, cho con cháu ở ngôi quan cao, ông hưởng Thọ ngoài 90, đó là hiệu nghiệm về Giáp Lộc.
Đài Công Vĩ họ Tống ở huyện Phú Dương táng Mẹo Sơn Dậu Hướng, người chết
tuổi Ất Hợi, cũng dùng:
- năm Canh Dần,
- tháng Canh Thìn,
- ngày Canh Dần,
- giờ Canh Thìn,
sau (con cháu được hưởng) Đại phú quý, cũng là cách Giáp Lộc vậy.
5/. (Long Mệnh đồng) DAO CÁCH:
Dao là đón mời, đón mà hợp đấy vậy,
- hoặc Yêu Lộc,
- hoặc Yêu Quý,
- cũng có khi dùng Tam Hợp Yêu,
- có dùng Lục Hợp Yêu,
đều cốt Phù Bổ đúng phép. Tam Hợp Yêu như khoá sau đây:
- Mậu Thân,
- Bính Thìn,
- Nhâm Thân,
- Giáp Thìn;
lấy 2 Thân 2 Thìn Yêu hợp chữ Tý:
- Ở Quý Mệnh là Yêu Lộc,
- ở Ất Kỷ là yêu Quý,
- ở Bính là Yêu Quan,
- Mậu cùng Kỷ là Yêu Tài,
Chính Tài, Ấn thụ, hoặc Củng Lộc, Củng Quý Dao hợp suy xung...vv..Các cách chép ra 1,2 ở dưới để thấy các vị Tiền Hiền tạo táng Tuyển Trạch rất thần diệu.
6/. (Long Mệnh đồng) THIÊN ĐỊA ĐỒNG LƯU CÁCH:
Thiên Địa Đồng Lưu là Can Chi 1 dạng vậy.
- Như 4 Kỷ Tị (nên Mệnh Giáp, Mệnh Tý, Mệnh Ngọ Cát, Mệnh Thân Thứ Cát),
- 4 Canh Thìn (Mệnh Ất, Mệnh Thân Cát),
- Tứ Ất Dậu (Mệnh Canh, Mệnh Tý, Mệnh Thân Cát),
- Tứ Bính Thân (Mệnh Tân, Mệnh Kỷ, Mệnh Dậu Cát),
- Tứ Giáp Tuất (Mệnh Kỷ, Mệnh Dần Cát),
- Tứ Nhâm Dần (Mệnh Đinh, Mệnh Hợi Cát),
- Tứ Tân Mẹo (mệnh Bính, Mệnh Quý, Mệnh Mậu Cát),
- Tứ Mậu Ngọ (Mệnh Quý, Mệnh Tị, Mệnh Kỷ, Mệnh Mùi Cát),
- Tứ Đinh Mùi (Mệnh Nhâm, Mệnh Mgọ Cát), Tứ Quý Hợi (Mệnh Mậu, Mệnh Dần, Mệnh Mẹo, Mệnh Tý Cát).
Có thể chọn, nhưng rất khó được, 60 năm mới 1 lần gặp tiết hậu, lại hoặc nhật thần không có, cập Sơn Hướng bất không, cùng với Chủ Mệnh không hợp, không nên làm gượng, nếu không thời hung.
- Tăng Công vì Nhiêu Thị làm nhà Tị Sơn Hợi Hướng, chủ tuổi Nhâm Ngọ, dùng Tứ Kỷ Tị. Vì Kỷ là Chính Quan tuổi Nhâm, Kỷ Lộc đến Ngọ Mệnh, Mệnh Nhâm Quý Nhân ở Tị Sơn, Mệnh Nhân Lộc ở Hợi Hướng, Tứ Tị tới Xung Lộc (lại thêm cách Xung Lộc), lại Hợp Mã ở Hướng Hợi: Thượng Cách (lại tường Tinh Cách ở dưới đây).
- Dương Công làm cho Trần Trưởng Giả ở Bổ Điển táng mộ tổ, Khôn Sơn Cấn Hướng, người chết tuổi Kỷ Tị, dùng Tứ Kỷ Tị. Sau 3 năm, phát 4 khoa Trạng Nguyên, con cháu thịnh vượng.
- Dương Công ở Kỳ Kháng táng mộ tổ, Càn Sơn Tốn Hướng, người chết tuổi Canh Ngọ, dùng Tứ Ất Dậu, sau con cháu giàu sang không suy. Tứ Trụ đều phạm Âm Phủ.
- Dương Công vì Thừa Tướng đời Tống táng mộ tổ Càn Sơn Tốn Hướng, dùng Tứ Đinh Mùi, vốn là "Thai Nguyên nhất khí", con cháu thịnh vượng không suy.
- Tăng Công làm cho Bành Vận ở huyện Phong Lăng táng mộ tổ, Càn Sơn Tốn Hướng, người chết tuổi Đinh Hợi, dùng Tứ Nhâm Dần, sau 8 con vào Triều làm quan, ăn lộc không suy, nhưng người sinh năm Thân, năm Kỷ không Cát.
- Lại Công làm cho Trần Thừa Tướng ở Hưng Hoá táng mộ tổ, Tý Sơn Ngọ Hướng, dùng niên nguyệt nhật thời đều Quý Hợi. 21 năm sau, rất đông con cháu đều đỗ to, nên người chết tuổi Nhâm hoặc Bính.
- Nguỵ Trịnh Công ở Vĩnh Lạc, Nhữ Dương táng mộ tổ Tý Sơn Ngọ Hướng, dùng Tứ Bính Thân, con cháu đời đời làm quan trong Triều, giàu sang không suy (xét đất này tất Cấn Dậu Long, vào Mệnh Dậu Nhâm, nên Bính Tân, Tị Dậu sinh vậy).
Xưa có 1 người làm nhà
Mệnh Kỷ Mùi, làm
nhà Hợi Sơn Tị Hướng,
dùng Tứ Đinh Mùi, cho là cách Thiên Địa Đồng Lưu, rất mừng.
Làm xong, 2 con đều chết, chân mình bị bệnh hủi.
- Có kẻ hỏi: Khoá này người xưa dùng làm Cát, là cớ sao? Vì Chủ Mệnh hợp không đồng nhau: lấy tuổi Kỷ Mùi thấy Tứ Đinh làm "Kiêu Ấn", tứ Đinh Ấn lại đến Mệnh Mùi, mà Tứ Mùi lại là Dao của Mệnh Kỷ, Kiêu và Dao tụ đảng làm sao không đại hung?
- Hỏi: Sao bản thân không chết mà 2 con chết? Kinh có nói: Kiêu Thần đoạt thực(thần Kiêu cướp ăn), vì Kiêu Thần khắc Tử tinh, mà bản thân chưa kíp chết, còn may Tứ Mùi bổ mệnh.
Khoá này nên:
- tuổi Nhâm thì Cát, Tứ Đinh cùng vời Nhâm hợp là Hợp Tài.
- Tuổi Ngọ Cát, vì Tứ Mùi cùng với Ngọ hợp, lại Tứ Đinh có Lộc Tụ tại Ngọ Mệnh. D
- ùng cho tuổi Mậu, Canh cũng Cát, vì có Tứ Mùi là Tụ Quý, mặt khác, Mậu lấy Đinh làm Chính Ấn là Tụ Ấn, Canh lấy Đinh làm Chính Quan là Tụ Quan.
- Riêng Giáp lấy Tứ Đinh làm Thực Thần chưa khỏi Tiết khí, nên chỉ là Thứ Cát.
Tương Chủ ấy là nói thế đó (
thế mới biết trong phép tạo mệnh, bổ long, phù sơn, tương chủ ba điều này thiếu một đều không được - sai lầm sẽ phải trả giá thảm trọng. Độc giả nên lưu ý)
Trong phép tuyển trạch, cách "Thiên địa đồng lưu" có chia ra làm hai trường hợp:
- Dùng 4 can thành một bộ thì gọi là (Long Mệnh đồng) THIÊN NGUYÊN NHẤT KHÍ CÁCH (lại có tên là Đôi Can cách)
- Dùng 4 chi làm một bộ thì gọi là ĐỊA NGUYÊN NHẤT KHÍ CÁCH (lại có tên là đôi Chi cách):
Thiên NGuyên Nhất Khí là Thiên Can Nhất Khí đồng nhau. Địa Nguyên Nhất Khí là Địa Chi tứ tự đồng nhau. Nhưng cốt yếu cùng với Long Sơn, Chủ Mệnh liên quan hữu tình mới hay. Hoặc Tỉ Kiên, hoặc tác hợp. hoặc Đôi Tụ Lộc, Quý, Trường Sinh, Phúc Đức...vv..mới là Cát, rất kỵ Dương Nhận, Hình, Xung, Phá, Hại, Khắc, nếu vậy lại là Hung.
Dương Công vì người
tuổi Bính Ngọ làm
nhà Dậu Sơn Mẹo Hướng, dùng:
- năm Tân Tị,
- tháng Tân Hợi,
- ngày Tân Mùi,
- giờ Tân Mẹo.
Ghi rằng: "4 vị Tân cùng Can Bính hợp Đôi Can không bác tạp, tứ vị Tiến Lộc, đều đến Sơn ăn Lộc trong muôn năm, 3 phòng được Phúc 1 bậc, đều bất lợi người sinh năm Ất, hợp được Thiên cơ, là cục Đại Cát, con cháu đều hưởng phúc, đợi đến năm Hợi Mẹo Mùi tới sinh con, vượng của cải. Nhà ấy niên nguyệt đều trời cho, rất báu, thực không giá nào bằng". Vì:
- tuổi Bính Ngọ, Bính cùng với Tứ Tân Can hợp là hợp Tài.
- Ngày Mùi cùng với tuổi Ngọ hợp. Tứ Tân Quý Nhân đến Mệnh Ngọ. Lại Tứ Tân đem Lộc về Dậu sơn.
- Tị niên là Bính Mệnh Lộc vị, lại hệ Tị niên Thực LỘc thuộc trưởng nam, Sửu nguyệt Mùi nhật thuộc tiểu nam, Mẹo thời là trung nam, cho nên 3 phòng đều phát phúc.
- Bất lợi người sinh năm Ất, là do Tứ Tân khắc (Tứ khoá phan công vị, 1 lần thấy ở thiên Khải mông, nay ở đây biện ra hết cả, học giả nên lưu tâm).
Dương Công vì Khổng Phu Tử táng mộ tổ Cấn Sơn Khôn Hướng, người đã chết
tuổi Nhâm Ngọ, dùng:
- năm Nhâm Dần,
- tháng Nhâm Tý,
- ngày Nhâm Ngọ,
- giờ Nhâm Dần.
Con cháu 5 đời phong Hầu.
Dương Công vì Lý Khu Mật táng chỗ đất kiểu "Bạch Tượng Quyến Hổ",
mộ tổ Tý Sơn Ngọ Hướng, người chết
tuổi Đinh Tị, dùng:
- năm Nhâm Thân,
- tháng Mậu Thân,
- ngày Nhâm Thân,
- giờ Mậu Thân.
Đời sau ra làm quan không suy, nhưng
sinh người tuổi Dần phần nhiều chết non vì bị Tứ Thân xung.
Dương Công vì Chung Thị táng
mộ tổ Ất Long,
Thìn Sơn Tuất Hướng, dùng năm Giáp Thân, tháng Nhâm Thân, giờ Mậu Thân, 6 năm sau con cháu đều đỗ đạt.
Dương Công vì Đào Chu táng mộ tổ,
Cấn Sơn Khôn Hướng, dùng năm tháng ngày đều
Nhâm Tý, giờ
Canh Tý. Táng sau 1 năm, ruộng đất đều tiến đến đại phát phi thường.
Quách Công vì Hạng Thị ở Cát An,
táng Dần Sơn Thân Hướng, người chết
tuổi Mậu Thìn, cũng dùng năm tháng ngày đều Nhâm Tý, giờ Canh Tý. Vì Mệnh Mậu thấy Nhâm là Thiên Tài, Tứ Tý xung Quý Thuỷ là chính Tài. Ghi rằng: "Tứ Tý Nhất Khí thuận lưu đi, giàu sang ruộng trâu thịnh, không hỏi Quan tinh ra chỗ nào, Tài Vượng Sinh Quan gấp, đầu năm Giáp Ất thì bảng vàng đề tên, chỉ vì thấy Quan tinh, con cháu đều lấy được vợ hiền, chồng hiển, của báu hồi môn chồng chất".
8/. (Long Mệnh đồng) TỈ TRỢ CÁCH:- Tỉ Trợ là hoặc cùng với Can sánh, hoặc cùng với Chi sánh.
Can sánh như:
- Giáp Long Sơn, Giáp Mệnh trong Trụ dùng Tứ Giáp sánh vào;
- Ất Long Sơn, Ất Mệnh trong Trụ dùng Tứ Ất sánh vào...vv...
Chi sánh với Chi như:
- Tý Long Sơn, Tý Mệnh trong Trụ dùng Tứ Tý sánh vào... Cùng với Đôi Cách hơi giống nhau, nhưng Đôi Cách có các loại vậy.
Dao Công vì Trịnh Mã ở Kim Sơn, Nhuận Châu dựng nhà, làm Tốn Sơn Càn Hướng, chủ nhà
tuổi Tân Hợi, dùng:
- năm Tân Mẹo,
- tháng Tân Sửu,
- ngày Tân Mùi,
- giờ Tân Mẹo.
Sau phát bốn viên quan to, nhân đinh đại thịnh. Vì Tứ Tân Can cùng với Mệnh Tân sánh, giúp thân thể khoẻ mạnh. Mẹo Mùi cùng với Hợi Mệnh đón thành Tam Hợp, lại cục Tài của Mệnh Tân. Tứ Tân là cung Tốn Nạp Quái, Tốn thuộc Mộc, nên lại được Tam, Hợp Mộc để Bổ Sơn, cho nên Cát. (Xét Tân Mùi là ngày Phá không phát Cát, tuy với tuổi chủ tân Hợi đón thành Tam Hợp cũng không Cát, xét tháng Tân Sửu tất là viết lẫn, nên Tân Mẹo mới đúng).
Dương Công làm cho Trần Thị ở Bồ Điền, táng người chết tuổi Lỷ Tị, dùng 4 chữ Kỷ Tị, đó là cùng với tuổi người chết hàng Can, hàng Chi sánh giúp.
9/. (Long Mệnh đồng) ẤN THỤ CÁCH:
Ấn Thụ là cha mẹ thân sinh ra mình, nên Chính Ấn không nên Thiên Ấn. Thiên Ấn là Kiêu Thần, không Cát.
Chính Ấn như:
- Mệnh Giáp lấy Quý Tý làm Chính Ấn. Tứ Trụ dùng Tứ Quý hoặc là Tứ Tý.
- Lại như người Mệnh Bính, lấy Ất Mẹo làm Chính Ấn, dùng năm Giáp Tuất, tháng Ất Hợi, ngày Ất Mùi, giờ Kỷ Mẹo. Những cách khác cũng phỏng theo đây.
Kiêu Ấn như:
- Giáp Mệnh lấy Nhâm Hợi làm Thiên Ấn, với Tân là Yêu Phúc, Giáp làm Yêu Ấn (??), đó là Tam Hợp Yêu, trong Trụ kỵ thấy chữ Tý làm Điền Thực.
Lục Hợp Yêu ấy như khoá sau:
- Bính Dần,
- Canh Dần,
- Canh Dần và
- Mậu Dần,
lấy bốn chữ Dần nhất khí độn Hợp chữ Hợi,
- ở Mệnh Nhâm làm Yêu Lộc (vì tuổi Nhâm thì Thiên Lộc tại Hợi)
- ở Mệnh Bính Đinh là Yêu Quý (vì tuổi Bính Đinh thì sao Quý Nhân tại Hợi)
trong Trụ kỵ thấy chữ Hợi Đế Thực đấy vậy. Duy có Khố mừng xung không mừng hợp. Những cách khác cũng phỏng theo đây. Có 1 thuyết nói:
Dao Cách duy 4 chữ Tị, Hợi, Tý, Ngọ mới có thể Dao được, như:
- Tứ Tị Chi Nhất Khí lấy trong Tị Bính Hoả Dao hợp,
- trong Tý, Quý Thuỷ làm Quan, trong Mậu Kỷ Thổ Dao hợp, trong Tý Tý làm Tài, đó là Tài Quan cả hai đều tốt, cho nên gọi là Dao.
Xét Kỷ đều có 3 chữ Bính Tuất Canh, nên lấy Quý làm Tài Quan Cát, mà Canh lấy Quý làm Đạo (trộm) khí thương (hại) Quan hung. Chia làm, gượng dắt, nên cùng bảo nhau. Các cách khác không đợi biện luận, cũng tự tỏ rõ).
Dương Công táng cho Lưu Thị, người chết
tuổi Quý Mùi,
Thân Sơn Dần Hướng, dùng năm:
- Mậu Thân,
- tháng Bính Thìn,
- ngày Nhâm Thân,
- giờ Giáp Thìn.
6 năm sau, con cháu đỗ đạt. Ghi rằng: "Quý Mùi Lộc thế nào? Thân Thìn hợp Tý, thấy Tý. Tạo Hoá không lấy dùng, thực hợp song không động).
Dương Công làm cho Trang Điền Tâm ở phương Sửu
dựng sân ngang, vốn chủ
tuổi Mậu Tuất, dùng:
- năm Bính Thân,
- tháng Tân Sửu,
- ngày Tân Dậu,
- giờ Kỷ Sửu.
Ghi rằng; "Tuế Mệnh 2 Lộc đều ở Tị, dùng gì thấy rõ Dậu Sửu, Tam Hợp mừng cùng gặp Tị Lộc ở trong đó".
Tăng Công táng cho người chết
tuổi Nhâm Ngọ,
Tốn Sơn Càn Hướng, dùng:
- năm Bính Dần,
- tháng Canh Dần,
- ngày Canh Dần,
- giờ Mậu Dần.
Mệnh Nhâm Lộc ở Hợi, Tứ Dần Nhất Khí lấy đón hợp Hợi Lộc, cho nên phát đại phú, đó là Lục Hợp Yêu vậy.
Dương Công táng cho Trần gia,
Khôn Sơn Cấn Hướng, người chết
tuổi Kỷ Tị, dùng 4 Kỷ Tị, tuy là Thiên Địa Đồng Lưu, sánh giúp thân khoẻ mạnh. Nhưng Tuế Mệnh Quý Nhân đều ở Thân, cho nên dùng Tứ Kỷ để đón hợp Thân là sao Quý Nhân. Vả lại đón hợp Tuế Quý ở Khôn Sơn (Khôn Thân hợp cung) thần diệu lắm, cho nên đỗ đầu thiên hạ, đây cũng là Lục Hợp Yêu vậy
10/. XUNG CÁCH:- Xung là đối, hoặc Xung Lộc, hoặc Xung Quý,
cốt yếu phù bổ được đúng. Trong đó:
- Quan, Ấn, Mã không nên xung, Quan nếu xung thì Hình, Ấn xung thì khuyết, Mã xung thì tan.
- Khố mừng được xung.
Giả như năm tháng ngày giờ đều Dậu, 4 Dậu Nhất Khí cùng liền mà xung 1 chữ Mẹo:
- ở Ất Mệnh là Xung Lộc,
- ở Nhâm Quý Mệnh là Xung Quý,
- Canh Mệnh là Xung Tài,
tất cả đều Cát. Như Giáp Mệnh là xung Nhẫn, là Đại Hung. Tất cả đều là Xung Cách, các cách khác theo đây mà suy.
- Tăng Công táng cho nha Giang Miên Tồn, người chết tuổi Giáp Thìn, Thìn Sơn Tuất Hướng, dùng năm Giáp Thân, tháng Nhâm Thân, ngày Giáp Thân, giờ Nhâm Thân, 6 năm sau, con đỗ, quan lộc rất nhiều, vì Giáp thì Lộc ở Dần, 4 Thân Nhất Khí xung tới, lại Thân Thìn giúp hợp Sơn Mệnh, rất Cát.
- Tăng Công táng cho Trần Thị, Tốn Sơn Càn Hướng, người chết tuổi Bính Dần, dùng năm Tân Mẹo, tháng Tân Mẹo, ngày Ất Mẹo, giờ Kỷ Mẹo. Mệnh Bính thì Quý Nhân ở Dậu, 4 Mẹo Nhất Khí xung tới Dậu Quý, lại Địa Chi thuần Mộc để phù Tốn Sơn, cho nên 7 đời đỏ tía lên cửa.
11/. (Luận Mệnh Chủ) THỰC LỘC CÁCH:- Thực Lộc là lấy Bản Mệnh ăn lộc của Thực Thần.
Như Giáp Mệnh lấy Bính làm Thực Thần, Bính Lộc ở Tị, dùng khoá 3 Tị, 4 Tị, hay sửa làm phương Tị đều Cát, cho nên gọi là Thực Lộc, nhưng cốt yếu phù bổ hữu tình mới là đúng phép.
- Dương Công vì Quách Trọng Đạt ở Nhiêu Châu táng mộ tổ, Tuất Sơn Thìn Hướng, người chết tuổi Ất Hợi, dùng năm Canh Ngọ, tháng Bính Tuất, ngày Nhâm Ngọ, giờ Bính Ngọ. Ghi rằng: "Ất ăn Lộc Đinh ở Ngọ. Ngọ là Thực Lộc ngôi ở trong trụ, thấy Đinh thời Ngọ nhiều, tản loạn và lại lệch, sau được thưởng quân lương, là nghiệm Thực Lộc".
- Dương Công vì Nhan Thiệu ở Biện Giang làm nhà. Nhan Thiệu tuổi Quý Sửu, đi thi 2 khoa rồi không trúng, Tinh Thổ Nhật, mệnh tất là Quý. Dương Công bảo nên làm phương Thực Lộc tất là trúng. Thiệu nói: "Văn chương cốt ở Mệnh, hà tất phải như thế?" lại không đỗ. Nhờ Dương Công lấy phương Tị làm Mệnh Quý, làm lầu đọc sách, dùng năm Tân Mẹo, tháng Tân Mẹo, ngày Đinh Mẹo, giờ Quý Mẹo. Quý ăn Ất Lộc ở Mẹo. mẹo dùng phương Tị làm Quý Mệnh Quý Nhân (4 Mẹo cùng Hội Mã ở Tị). Ghi rằng: "Văn chương cốt ở Mệnh, không cần cách Thực Lộc, Lộc Quý làm bổ túc, Thực Lộc ở Mẹo Quý cũng đồng, hai lần đỗ bến cỡi Rồng, sang năm Đinh Dậu tất có ứng, người nên càng kính tin". Thiệu quả đỗ. Dương Công mừng rằng: "Văn chương cốt ở Mệnh ru?". Thiệu nói: "Đâu phải thần công của ông, đâu được thế này".
12/. (Luận Long Mệnh đồng) GIAO QUÝ CÁCH:
Giao Quý là như vằn dệt gấm, quanh quẩn giao nhau. Lấy Lộc Mã Quý Nhân ở trong Tứ Trụ giao lại dệt Long Mệnh, mà Quý Nhân Lộc Mã của Long mệnh lại giao dệt ở Tứ Trụ, hai đằng cùng giao lẫn nhau, tựa như vằn, như hoa văn trong gấm vậy. Như tuổi Tân Mùi dùng năm Canh Ngọ, tháng Mậu Dần, ngày Canh Ngọ, giờ Mậu Dần; hoặc tuồi Ất Tị dùng năm Nhâm Thân, tháng Quý Mẹo, ngày Nhâm Tý, giờ Quý Mẹo....vv... Tóm lại phải phù bổ đúng phép mới là toàn mỹ.
- Liêu Kim Tinh vì Hàng Thị, táng Càn Sơn Tốn Hướng, người chết tuổi Tân Hợi, dùng năm Giáp Dần, tháng Bính Dần, ngày Bính Ngọ, giờ Canh Dần. Vì Mệnh Tân dệt Quý Nhân ở 2 Can Dần Ngọ, mà tháng Bính, ngày Bính dệt Quý Nhân ở Hợi Mệnh, cùng với Càn Hợi sơn.
Cũng có trong Tứ Trụ tự giao nhau dệt:
- Ta vì Phòng cao Tổ, hiệu là Tú Thạch Công, táng người chết tuổi Tân Dậu, đất ở chỗ Sửu Sơn Mùi Hướng kiêm Cấn Khôn, dùng năm Kỷ Tị, tháng Canh Ngọ, ngày Mậu Dần, giờ Giáp Dần. Vì Tân Mệnh thì Quý Nhân ở Dần Ngọ Chi. Mậu Kỷ Can là Ấn thụ sinh thân mình Canh Kim, giúp đỡ Giáp Mộc Tài tinh sinh Lộc. Tuế Mệnh hội họp Tam Kỳ, Quý Nhân gặp Sơn Hướng, lại Tam Hợp Cục Hoả lấy sinh Mùi Khôn Sửu Cấn Thổ hàng Chi. Gặp Thái Dương đối chiếu phù Long Sơn, Tương Chủ Mệnh, không một thứ gì không đủ thần diệu. Huống hồ Tứ Trụ lại tự làm cách La văn: niên Can Kỷ Lộc ở nguyệt Ngọ Chi, nguyệt Can Canh Kim Trường Sinh ở Tuế Tị Chi, nhật Can Mậu Thổ Đế Vượng ở nguyệt Ngọ Chi và Trường Sinh ở giờ Dần Chi, giờ Can Giáp thì có Lộc ở nhật Dần Chi. Đây tự cùng giao nhau. Lại có tên là "Tĩnh lan cách", đều là cách Quý vậy
13/. (Luận Sơn Phương) TAM ĐỨC TÙNG TẬP CÁCH:
Tam Đức là Thiên Đức, Nguyệt Đức và Tuế Đức. Tùng tập là hợp đông.- Tháng 6 năm Giáp Kỷ, Tam Đức cùng ở Giáp.
- Tháng 12 năm Ất Canh, Tam Đức cùng ở Canh.
- Tháng 9 năm Bính Tân, Tam Đức cùng ở Bính.
- Tháng 3 năm Đinh Nhâm, Tam Đức cùng ở Nhâm.
Tôi vì họ Hoàng
sửa phương Canh Dậu, dùng năm Canh Ngọ, tháng Kỷ Sửu ngày Đinh Dậu, giờ Ất Tị là Tam Đức cùng tụ ở Canh. Sau khi sửa, quả nhiên ứng liền thêm 3 trai.
14/. (Sơn Mệnh đồng) TAM KỲ CÁCH:- Ất Bính Đinh là 3 cách lạ (Tam Kỳ cách) ở trên trời.
- Giáp Mậu Canh là 3 cách lạ ở dưới đất.
- Nhâm Quý Tân là 3 cách lạ ở người.
Đều lấy thuận bày ra là Thượng lệ, loạn là Thứ lệ. Dùng Tam Kỳ lại được kỳ lạ Bát Tiết cùng đến Sơn Phương, rất thần diệu (hoặc thích hợp Chân Kỳ Môn đến cũng diệu như vậy).
- Dùng Ất Bính Đinh Kỳ nên được Dậu Hợi Chủ Mệnh là Cát,
- dùng Giáp Mậu Canh Kỳ được Sửu Mùi Chủ Mệnh thì Cát,
- dùng Nhâm Quý Tân Kỳ được Tị Mẹo Chủ Mệnh thì Cát,
tất cả cốt yếu phù bổ đúng phép mới tốt.
- Họ Vương táng mộ tổ Cấn Sơn Khôn Hướng, người chết tuổi Bính Dần, dùng năm Giáp Tý, tháng Mậu Thìn, ngày Canh Ngọ, giờ Canh Thìn, con cháu làm quan không dứt. Đây là cách Tam Kỳ vậy.
- Nhà họ Hoàng ở Thuỷ Cát Khẩu, nhà thờ tổ ngồi hướng Khôn Cấn kiêm Mùi Sửu, khi Nhập Trạch, Tiến Lửa dùng năm Canh Ngọ, tháng Kỷ Sửu, ngày Mậu Tý, giờ Giáp Dần, cũng là cách Tam Kỳ.
Khoá các cách không thể chép ra hết, nay dưới mỗi cách cử ra 1,2 khoá để làm mẫu. Trở lên trên đây là các khoá cách, là Tạo Mệnh Bát Tự to. Tạo, Táng hợp Tỷ cách cục rất là Thượng Cát, song cũng nên Bổ Long, Phù Sơn, Tướng Chủ làm chủ chốt. Lại xét xem chỗ đất giàu sang, lớn nhỏ thế nào, khoá nên xứng nhau.
- Như Quý Long thì chọn Quý cách, nên dùng các Quý cách Chính Quan, Chính Ấn, Tam Kỳ, Quy Giáp, lại hợp Bản mệnh Quý Nhân, Lộc Mã, Văn tinh khoa Giáp tới Sơn, là thời kỳ tốt để ra làm quan.
- Nếu Phú Long nên lấy Tài Thần có khí, lại lấy Bản mệnh Lộc Mã, và Thôi Phú các cách Cát cùng đến Sơn, là thời kỳ tốt để được giàu. Đến cục đất nhà bình thường, chỉ dùng bình ổn Bát Tự nhỏ. Toạ Sơn được Lệnh, có khí, năm tháng phù bổ, không phạm Hình, Xung, Khắc, Tiết, lấy làm Cát khoá, bất tất gượng tìm các cách lớn.
Sách Huyền Kỳ có nói: "Trước xét Mạch Sơn Quý hay Tiện, sau định tạo hoá cao hay thấp, nếu Long yếu mà Nhật Quý chớ làm, Lực nhỏ đồ lớn, trước mắt thấy hung". Dương Công có nói: "Cục đất nhỏ dùng Khoá to, thì trước Hung sau Cát", nên bất tất gượng tìm vậy.
Sửa bởi vietnamconcrete: 03/04/2015 - 10:23