1. Tôi chia sẻ rất tự nhiên - cũng như Gà chỉ ăn thóc không ăn ngọc. => Ngài đã viết:
Sử dụng lẫn lộn Danh từ chỉ khái niệm, các khái niệm lắp ghép khiên cưỡng của các tôn giáo dẫn đến nhầm lẫn trong nhận thức. Cần phải rõ ràng trong nhận thức, Dịch Lão tương đồng. => Như vậy có là chia sẻ tự nhiên hay là phê phán Đại sư và "cho rằng mình đúng"?
2. Pháp vân là danh từ, danh pháp hay pháp danh => Chưa thực sự đầy đủ.
Pháp (zh. fă 法, ja. hō, sa. dharma, pi. dhamma), cũng được dịch theo âm Hán-Việt là Đạt-ma (zh. 達磨, 達摩), Đàm-ma (zh. 曇摩), Đàm-mô (zh. 曇無), Đàm (曇). Chữ dharma vốn xuất phát từ tiếng Phạn, ngữ căn √dhṛ, có nghĩa là "nắm giữ", đặc biệt là nắm giữ tính năng hoạt động của con người. Cách dùng chữ thuật ngữ này rất đa dạng, và vì vậy, nó mang rất nhiều nghĩa: Tập quán, thói quen, tiêu chuẩn của phép cư xử; Điều phải làm, nghề nghiệp, bổn phận, nghĩa vụ; Trật tự xã hội, quy củ trong xã hội; Điều lành, việc thiện, đức hạnh; Sự thật, thật tại, chân lí (sa. satya); Nền tảng của thế gian và các cõi giới; Tín ngưỡng tôn giáo; Tiêu chuẩn để nhận thức về chân lí, về luật tắc; Giáo lí, sự giải thích; Bản thể, bản tính; Thuộc tính, phẩm chất, đặc tính, cấu trúc cơ bản. Ý nghĩa này của thuật ngữ thường được dùng trong các luận giải của Du-già hành tông, liệt kê tất cả kinh nghiệm thế gian thành 100 pháp hoặc 100 cấu trúc cơ bản. Họ cho rằng, các pháp không tồn tại trên cơ sở tự tính này hàng Nhị thừa không thể nào nhận thức được, nhưng là một đối tượng quán sát đặc biệt của hàng Bồ Tát. Không nhận thức được tính không của các cấu trúc cơ bản là điều rất quan trọng cho sở tri chướng. Xem thêm Bách pháp. Trong luận lí học, là tiền đề hay là đối tượng của một động từ. Tổng quát lại, người ta có thể hiểu Pháp là "tất cả những gì có đặc tính của nó - không khiến ta lầm với cái khác - có những khuôn khổ riêng của nó để nó làm phát sinh trong đầu óc ta một khái niệm về nó" (nhậm trì tự tính, quỹ sinh vật giải 任持自性、軌生物解). Pháp vốn được sử dụng trong Ấn Độ giáo, với ý nghĩa là chân lý, thiện pháp. Tương phản với cái thiện là phi pháp. Phật giáo cũng có tư tưởng là thiện pháp nhưng nói rộng hơn thì cái ác, phiền não, khổ, cũng là Pháp. Theo ngài luận sư Giác Âm thì Pháp có 4 nghĩa như: Thuộc tính; giáo pháp; thánh điển và sự vật(bao gồm vật nhìn thấy và không nhìn thấy. Còn đối với Phật giáo nguyên thủy thì pháp bao gồm: Hiện tượng và tâm lý, như ngũ uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hay duyên khởi cũng là pháp. Đối với khái niệm trong pháp luật, pháp số... thì đó lại là những quỹ phạm của con người trong đời sống cộng đồng.
Hiểu được Pháp Vân sẽ biết được Vô Thường
3. Pháp vân còn đam mê
giác làm sao
ngộ ? => Dường như không nên tách rời chúng. Ví như Gấu Trắng tách ra không Gấu làm sao mà Trắng.. (Đùa vui với ngài thôi, đừng giận đại sư).
Giác ngộ (zh. 覺悟, sa., pi.
bodhi), danh từ được dịch nghĩa từ chữ
bodhi (bồ-đề) của
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
, chỉ trạng thái tỉnh thức, lúc con người bỗng nhiên trực nhận
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
(sa.
śūnyatā), bản thân nó là Không cũng như toàn thể vũ trụ cũng là Không. Chỉ với trực nhận đó, con người mới thấu hiểu được thể tính mọi hiện tượng. Tính Không hiểu ở đây không phải sự trống rỗng thông thường mà nói về một thể tính vô biên không thể dùng suy nghĩ, cảm nhận để đo lường, nằm ngoài cặp đối đãi có-không. Tính Không này không phải là một đối tượng để một chủ thể tiếp cận đến vì bản thân chủ thể cũng thuộc về nó. Vì vậy, giác ngộ là một kinh nghiệm không thể giãi bày.
Người giác ngộ hoàn toàn là vị Phật lịch sử
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
, cũng là người bắt đầu giáo hoá cho nên đạo Phật cũng được gọi là "đạo giác ngộ".
Dù rằng cái thể của tính Không là một, nhưng người ta cho rằng có nhiều mức độ giác ngộ khác nhau. Nếu so sánh giác ngộ như phá vỡ một bức tường, thì có mức giác ngộ như chỉ hé mở một lỗ nhỏ và giác ngộ như Phật Thích-ca là phá vỡ hoàn toàn bức tường đó. Có vô vàn khác nhau giữa các mức giác ngộ, biểu hiện bằng sự rõ ràng chính xác của thiền giả đạt được. Dựa trên kinh nghiệm của các bậc giác ngộ, thế giới của sự giác ngộ không hề khác với thế giới hiện tượng của chúng ta, tất cả đều là một, Hiện tượng-Tính không, Tương đối-Tuyệt đối. Kinh nghiệm về cái tất cả là một này chính là kinh nghiệm về thể tính tuyệt đối đó. Trong
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
(sa.
mahāprajñāpāramitā-hṛdaya-sūtra) chỉ rõ "sắc tức là không, không tức là sắc", tức là không hề có hai thế giới. Nhờ tình trạng giác ngộ sâu xa, hành giả từ bỏ được cái Ngã. Trong
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
, một khi cái ngã đã chết ("đại tử") thì "đời sống" mới bắt đầu, đó là một cuộc sống tự tại và an lạc.
Chúng ta đi qua chân lý trước khi biết rằng đó chỉ là chân của Cô Lý mà thôi.
Học đạo tinh thông, cho rằng mình đúng. Nhưng thực ra chỉ có Nhị Nguyên còn chưa vượt qua được.
Vốn ngàn xưa đã đề: Vạn pháp quy tông. Nhưng nay có ngài lại thích: Vạn tông quy pháp của mình.
Vô thường lắm thay!
Sửa bởi Vô Thường: 11/02/2015 - 09:29