

#211
Gửi vào 04/02/2015 - 11:58
Cái gì mà lo dữ dzậy…nín khóc đi cô “ mít tố nữ “…
Thanked by 13 Members:
|
|
#212
Gửi vào 04/02/2015 - 12:21
Từ nay cháu vẫn cố gắng thay đổi để vận được khôi việt quang quý, mong là ổn cả. He
Thanked by 1 Member:
|
|
#213
Gửi vào 04/02/2015 - 16:53
Thanked by 3 Members:
|
|
#214
Gửi vào 10/02/2015 - 00:47
1/-- Nhạc kinh nhân quả 3 đời
( Lick here )
2/-Khuyên người niệm Phât.
( Lick here )
xxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxx
CÁC CÂU PHÚ VỀ TUẦN TRIỆT
Tam phương xung sát hạnh Triệt khả bằng, Tứ Chính giao phùng kị Tuần không trực đối (25)
Giải: TVT giải rằng hạn gặp nhiều sao xấu xa từ bên ngoài chiếu vào nhưng tại bản cung có Triệt án ngữ thì sẽ vô hại, nếu bản cung gặp nhiều sao tốt hội chiếu thì rất kị có Tuần án ngữ tại bản cung sẽ cản hết sự tốt đẹp
Mệnh Triệt Thân Tuần tu cần vô hữu chính tinh vãn niên vạn sự hoan thành khả đãi (3)
Giải: Mệnh Triệt Thân Tuần thì cần phải không có chính tinh (vô chính diệu) thì về già mới được xứng ý toại lòng)
Mệnh Tuần Thân Triệt hoan đắc văn đoàn hữu thủ phú quí danh tài cánh phát chung niên (4)
Giải: Mệnh Tuần Thân Triệt thì cần được các Văn tinh (như Cơ Nguyệt Đồng Lương, Khôi Việt, Xương Khúc hội họp) thì trung niên trở lên sẽ giàu sang vinh hiển
TUẦN TRIỆT VỚI PHỤ TINH
Tuần Triệt ngộ Thiên Hình tha hương cách lý (8)
Giải: Thiên Hình bị Triệt Tuần án ngữ thì ly hương
Tuần Triệt bất khả ngộ Lộc Tồn, tư cơ phá họai (10)
Giải: (Mệnh hay Điền Tài có Lộc Tồn tọa thủ gặp Tuần Triệt thì cơ nghiệp bị tan vỡ)
Tọa Quí Huớng Quí chẳng phùng Không xứ, gặp Khoa thời nhất cử thành danh (4)
Giải: Khôi Việt một sao thủ, một chiếu lại gặp Hóa Khoa và không bị Tuần Triệt án ngữ hoặc Thiên Không, Địa Không thì chỉ một lần đi thi đã công thành danh toại
Mệnh Thân dù có lâm Không Kiếp, gia Triệt Tuần chẳng khiếp tai nguy (14)
Giải: Mệnh Thân có Không Kiếp mà gặp Triệt Tuần thì không sợ tai nguy
Khốc Hư ngộ hãm mạc đàm, Quí phùng không xứ ai làm cho nên (7)
Giải: Mệnh có Khốc Hư thì xấu không bàn đến, có Khôi Việt mà gặp Tuần Triệt án ngữ thì chẳng làm được việc gì
Mã bất kiến Không (không gặp Tuần, Triệt, Thiên không, Địa Không) lương gia quân tử (là bậc quân tử con nhà lương thìện gia giáo) (8)
Giải: Thiên Mã không gặp sao Không (Tuần, Triệt, Thiên không, Địa Không) thì là bậc quân tử con nhà lương thìện gia giáo
Mã ngộ không vong chung thân bôn tẩu (5, 11)
Giải: Thiên Mã gặp Tuần hay Triệt án ngữ cả đời long dong nay đây mai đó
Thiên Mã ngộ Tuần không, chung thân bôn tẩu (B68)
Giải: Thiên Mã gặp Tuần án ngữ cả đời long dong nay đây mai đó
Tuần Triệt bất khả ngộ Lộc Tồn, tư cơ phá hoại (B71)
Giải: Lộc Tồn gặp Tuần hay Triệt thì trở nên xấu, cơ nghiệp bị tan tành
TUẦN TRIỆT TẠI VỊ TRÍ 12 CUNG
Triệt đáo Kim cung (tại Thân Dậu) Tuần lâm Hỏa địa bất kỵ sát tinh bại diệu tai ương sở tác (25)
Giải: Triệt tại cung Kim (Thân Dậu), Tuần tại cung Hỏa (tại Thìn Tỵ hay Ngọ Mùi) gặp sát tinh (như Kình Đà Không Kiếp Hỏa Linh) hay bại tinh (như Song Hao Tang Hổ Khốc Hư) thì không phải lo sợ tai ương họa hại do cac sao do gây ra
Tuần Triệt cư Phụ Mẫu xuất ngoại phương khả thành danh (9, B62)
Giải: Tuần Triệt tại Phụ Mẫu thì sớm xa gia đình xuất ngoại thì sẽ có công danh
Phúc VCD tu cần Không tú, kị ngộ Triệt tinh, nhi phùng Sinh Việt Kỵ Hình vi nhân tiêu trưởng Hỏa (Hỏa Tinh) Khốc (Thiên Khốc) nhập xâm đồng thiết dị thành chân nghiệp (19)
Giải: TVT giải rằng cung Phúc Vô chính diệu thì rất cần sao Không (Tuần Không) nhưng kỵ gặp sao Triệt, gặp Sinh Việt Kỵ Hình thì là người đốn củi hay buôn bán gỗ, gặp Hỏa Tinh, Thiên Khốc thì làm thợ đúc đồng hoặc buôn bán kim khí rất phát đạt, lập nên cơ nghiệp
Phúc hữu chính tinh kị ngộ Triệt Tuần hoặc gia sát diệu (sát tinh) lai ngộ Lưu (Lưu Hà) Kiếp (Kiếp Sát) Cự Đồng thủy nịch tu oan (chết đuối), Phượng (Phượng Cát) Lương (Thiên Lương) hoan ngộ chung thân du tu hư vô (20)
Giải: cung Phúc có chính tinh thì kỵ gặp Triệt Tuần hoặc sát tinh, gặp Lưu Hà Kiếp Sát Cự Đồng thì chết đuối, gặp Phượng Cát,Thiên Lương hãm địa thì cả đời lang thang nay đây mai đó, làm điều tốt cho người nhưng mình thì vẫn chịu nghèo khổ
Phúc tại Khảm cung (cung Tí) Triệt Tuần Tử Kiếp Đồng (Thiên Đồng) Âm (Thái Âm) xâm nhập hữu học vô lương yểu bần chi cách (21)
Giải: TVT giải rằng cung Phúc tại Tí gặp Triệt Tuần Tử Kiếp Thiên Đồng Thái Âm thì có học nhưng không có lương tâm, nghèo hèn và chết sớm
Phúc tọa Dậu cung Tam Không Đà Triệt Kiếp Kình Lưu ( Lưu Hà) Đào (Đào Hoa) tọa củng (thủ chiếu), tán gia bại sản vong hương hựu phùng Tốn Cự Hình Linh vi nhân khất cái bôn hành (22)
Giải: cung Phúc tại Dậu gặp Tam Không Đà Triệt Kiếp Kình Lưu Hà, Đào Hoa thủ chiếu thì gia tài của cải bán sạch, ly hương và chết ở xứ ngoài, nếu gặp Cự Hình Linh thì nghèo khổ phải đi ăn xin
Phúc cư Tốn (tại Tỵ) nhược kiến Triệt cư (tại) Tham Liêm Âm Cự Nam bất thiện nhân, gia hội Đào Hồng Cơ Ky Kiếp Riêu độc phụ chi nhân, hạnh phùng Đế diệu (Tử Vi) Dương Cơ Tướng Mã Vũ Quyền Khoa Tuyệt nữ tất vinh phu lợi tử, nam tài văn võ xuất sử danh ba (24)
Giải: cung Phúc tại Tỵ gặp Triệt Tham Liêm đồng cung hoặc Thái Âm tọa thủ, Cự chiếu thì trong họ đàn ông gian ác bất nhân, nếu gặp Đào Hồng Cơ Ky Kiếp Riêu thì đàn bà nham hiểm thâm độc, nếu gặp Tử Vi, Dương Cơ Tướng Mã Vũ Quyền Khoa Tuyệt thì nữ làm lợi cho chồng con, đàn ông thì văn võ song toàn tiếng tăm lừng lẫy
Mệnh Triệt Thân Tuần tu cần vô hữu chính tinh vãn niên vạn sự hoan thành khả đãi (3)
Giải: Mệnh Triệt Thân Tuần thì cần phải không có chính tinh (vô chính diệu) thì về già mới được xứng ý toại lòng)
Mệnh Tuần Thân Triệt hoan đắc văn đoàn hữu thủ phú quí danh tài cánh phát chung niên (4)
Giải: Mệnh Tuần Thân Triệt thì cần được các Văn tinh (như Cơ Nguyệt Đồng Lương, Khôi Việt, Xương Khúc hội họp) thì trung niên trở lên sẽ giàu sang vinh hiển
Tuần Triệt án ngữ Mệnh Điền, tư cơ cha mẹ không truyền đến cho (11)
Giải: Tuần Triệt tại Mệnh hay Điền thì không hưởng di sản của cha mẹ để lại
Cung Huynh Đệ Triệt Tuần xung củng (án ngữ), chim đầu đàn bay bổng xa khơi (12)
Giải: Cung Huynh Đệ có Triệt Tuần thì anh chị trưởng chết non
Tam Không chiếu nội t*o cát diệu, lai Dưỡng tinh (sao Dưỡng) có đạo con nuôi (13)
Giải: cung Tử Tức VCD đắc Tam Không thêm cát tinh gặp Dưỡng thì có con nuôi
Tam Không hội Văn Xương ư Thê cung, thiềm cung triết quế (14)
Giải: Phu Thê VCD có Văn Xương tọa thủ, gặp Tam Không hội họp thì lấy vợ hay chồng là con nhà danh giá
Không phùng Phá (Phá Quân) Tử Phối hao, vợ chồng trắc trở ba t*o mới thành (15)
Giải: cung Phu có Phá Quân gặp Không thì phải lấy chồng ba lần mới thành
Triệt Tuần ngộ Mã hành Thê vị, vợ bỏ chồng đào tỵ tha hương (16)
Giải: cung Thê có Thiên Mã gặp Tuần Triệt thì vợ chồng bỏ nhau hoặc phải có lúc xa cách nhau
Triệt Tuần xung khắc chẳng sai, Thiên Hư bất chính cả hai vợ chồng (ở cung Phu Thê) (17)
Giải: Phu Thê có Triệt Tuần thì vợ chồng xung khắc, có Thiên Hư thì vợ chồng bất chính
TUẦN TRIỆT TẠI HẠN
Sát tinh bại diệu Tuần Triệt cư lai bất cập a hành nan phùng tai ách vận lai (26)
Giải: Hạn có Tuần Triệt án ngữ gặp sát tinh (như Kình Đà Không Kiếp Hỏa Linh) hay bại tinh (như Song Hao Tang Hổ Khốc Hư) thì không phải lo sợ tai ương họa hại do các sao trên mang đến
Mão Thìn ngộ Triệt táo đường, Tỵ Ngo phùng Tuyệt cũng thường ôn binh (18)
Giải: hạn gặp Triệt án ngữ tại Mão Thìn thì có sự lôi thôi về bếp núc. Cung Tỵ Ngọ gặp Tuyệt thì bị ôn binh quấy phá
==================
CÁC CÂU PHÚ VỀ TUẦN TRIỆT CHƯA ĐƯỢC SẮP XẾP
Mão Dậu Cự Cơ Ất Tân Âm nữ ích tử vượng phu, bất kiến Triệt, Tuần đa tài thao lược (19, TTL)
Giải: Nữ Nhân tuổi Tân, Ất Mệnh tại Mão Dậu có Cự Cơ thì làm lợi cho chồng con, nếu không gặp Triệt Tuần thì có nhiều tài năng và đảm đang. Chú ý TTL giải rằng không bị Triệt xung chiếu cũng có lý vì tuổi Ất Tân Cự Cơ không bao giờ bị Triệt án ngữ
Cơ Lương đồng chiếu, Mệnh Thân Không, vi tăng đạo (TTL)
Giải: Mệnh Thân có Tuần Triệt án ngữ, có Cơ Lương đồng cung chiếu thì là thầy tu
Tử Phủ đồng cung tối vi phúc hậu , thiết hiềm nội trở Triệt Tuần (33, B66)
Giải: Tử Phủ tại Dần Thân là người rất phúc hậu, nhưng sợ gặp Triệt Tuần thì giảm tốt đi nhiều)
Tử Phủ đồng cung, Tuần Không xâm nhập, Đế vô quyền sở, nan giải hung tinh hạn ngộ (44)
Giải: Tử Phủ tại Dần Thân gặp Tuần Không thì như vua mất hết quyền hành, khó giải hạn xấu có hung tinh xâm nhập tại hạn
Đế tọa Thiên La, Thân cư Triệt xứ, ư Giáp Kỷ nhân chung niên nan toại chí, đa trái thê nhi (60)
Giải: Tử Vi tại Thìn mà cung Thân bị Triệt thì người tuổi Giáp Kỷ thì cả đời khó toại chí, chuyện vợ con đều lận đận oan trái. Chú ý tuổi Giáp Kỷ thì Triệt tại Thân Dậu nghĩa là Thân cư Quan có Liêm Trinh bị Triệt và đối cung Quan là cung Thê có Tham Lang
Tử Vi Thất Sát (tại Tỵ Hợi) gia Không Vong (Tuần Triệt), hư danh thụ ấm (63, TTL)
Giải: Tử Vi Thất Sát tại Tỵ Hợi gặp Tuần Triệt thì là người chỉ có tiếng tăm bề ngoài, nhờ cha mẹ mới có hư danh. Điều này cho thấy Tử Sát kỵ gặp Tuần Triệt bị giảm tốt nhiều
Phúc tại Thủy cung Đế (Tử Vi) cư, Kiếp Kình Suy Triệt giá lâm, ác nhân, đãng tử, mãn kiếp nan toàn (82)
Giải: cung Phúc tại Tí, Hợi có Tử Vi tọa thủ gặp Kiếp Kình Suy Triệt thì là người gian ác, con du đãng, cả đời khó tránh tai họa
Phúc cư Ly (cung Ngọ), Đế cách Tử phùng (gặp Tử Vi), nhược gia Sát diệu, Bại tinh, Tuần Triệt, chung thân hỷ bất cập thời (cả đời không gặp thời) hoan giao Tam Hóa điền viên (nếu gặp một sao của Tam Hóa) túc huởng vô tai (thụ hưởng sung túc, không gặp tai nạn) (83)
Giải: Phúc cư cung Ngọ, có Tử Vi gặp sát bại tinh và Tuần Triệt thì cả đời không gặp thời, nhưng nếu gặp một sao của Tam Hóa thì thụ hưởng sung túc, không gặp tai nạn
Phúc thọ Chấn cung, Đế (Tử Vi) Tham Tướng Phủ hạnh phùng cát tú, Tam Hóa giá lâm (mừng gặp Cát tinh, Tam Hóa) phúc tăng bất tuyệt (hưởng phúc bền bỉ), hựu kiến Triệt Tuần, Tứ Sát (sợ gặp Triệt Tuần Không Kiếp Kình Đà) Mộ tinh (sao Mộ), tất hữu đao thương chi ách (thì gặp tai nạn về gươm giáo), dương mộ lạc di (mộ của đàn ông bị thất lạc) (84)
Giải: Phúc tại cung Mão có Tử Vi Tham Lang hoặc Tướng Thiên Phủ nếu gặp cát tinh, Tam Hóa thì hưởng phúc bền bỉ, nhưng nếu gặp Triệt Tuần Không Kiếp Kình Đà thì gặp tai nạn về gươm giáo, mộ của đàn ông bị thất lạc
Khôn cung (cung Thân) Phúc tọa (cung Phúc Đức tại Thân), nhi phùng Tử Phủ Đồng Lương Cơ Nguyệt tu kiến (cần gặp) Hổ (Bạch Hổ) Hình Tam Hóa phùng thời loạn thế (gặp thời loạn mà làm nên), thanh bình khanh hiển (gặp thời bình thì vinh hiển), nhược kiến (sợ gặp) Không tinh sát diệu (Tuần Triệt sát tinh) phù trầm ảo ảnh (công danh như phù du không bền), nhàn sự nhàn lai chi phúc hạnh (nếu không đua chen danh lợi thi hưởng phúc) (85)
Giải: cung Phúc Đức tại Thân có Tử Phủ, Đồng Lương hay Cơ Nguyệt nếu gặp Bạch Hổ, Thiên Hình, Tam Hóa gặp thời loạn mà làm nên, gặp thời bình thì vinh hiển nhưng nếu gặp Tuần Triệt sát tinh thì công danh như phù du không bền, nếu không đua chen danh lợi thi hưởng phúc
Càn địa (cung Dần) Phúc cư tối hỉ Tam Kỳ (Phúc tại Dần mừng gặp Khoa Quyền Lộc) đế cách (Tử Vi), Phượng Long, Phụ Bật thị phát võ công Hầu tước (phát về võ nghiệp, làm đến tước Hầu), mạc phùng (nếu gặp) Triệt, Kỵ, Mã Hình Xương Khúc hiển thân ngoại xứ (hiển đạt nơi xứ người), ưu hiềm đinh tử (lo lắng vì hiếm con) (86)
Giải: Phúc tại Dần mừng gặp Khoa Quyền Lộc, Tử Vi, Phượng Long, Phụ Bật sẽ phát về võ nghiệp, làm đến tước Hầu, nhưng nếu gặp Triệt, Kỵ, Mã Hình Xương Khúc thì tuy hiển đạt nơi xứ người nhưng lại lo lắng vì hiếm con
Nhật Nguyệt Sửu Mùi ái ngộ Tuần không (cần được Tuần án ngữ) Quí Ân (Ân Quang, Thiên Quí) Xương, Khúc ngoại triều (hội chiếu), văn tất thượng cách, đường quan xuất chính (17, TTL)
Giải: Nhật Nguyệt Sửu Mùi cần được Tuần án ngữ có Ân Quang, Thiên Quí, Xương, Khúc hội chiếu thì văn tài lỗi lạc, có quyền cao chức trọng ( chú ý rằng không đề cập đến Triệt)
Nhật Nguyệt Sửu Mùi, Âm Dương hỗn hợp tự giảm quang huy (giảm mất ánh sáng) kị phùng (kị gặp) Kiếp, Triệt (Địa Kiếp và Triệt án ngữ), nhược lai văn diệu (nếu gặp Xương Khúc), diệc kiến Quí Ân (Ân Quang, Thiên Quí), Không Linh Thai Tọa Khôi Hồng (Hồng Loan) văn tài ngụy lý, xuất sử thành công (18)
Giải: Nhật Nguyệt Sửu Mùi thì giảm mất ánh sáng nên kị gặp Địa Kiếp và Triệt án ngữ, nếu gặp Xương Khúc, Ân Quang, Thiên Quí, Không Linh Thai Tọa Khôi Hồng văn tài lỗi lạc, lý luận sắc bén, biết tiến thoái xử sự đúng lúc nên công thành danh toại, vinh hiển. Câu này hơi khác câu trước một chút và nên cẩn thận xét lại
Âm Dương Tuần Triệt tại tiền, mẹ cha định đã qui tiên thuở nào (17)
Giải: Phụ Mẫu có Nhật hay Nguyệt tọa thủ gặp Tuần Triệt án ngữ thì cha mẹ mất sớm
Âm Dương lạc hãm tu cần Không diệu, tối kỵ Sát tinh
Giải: Nhật Nguyệt hãm địa cần sao Không (Tuần Triệt án ngữ hay Thiên Không, Địa Không hội hợp), rất sợ gặp sát tinh
Phúc tại Tí Ngọ Đồng Âm Kiếp Tử (sao Tử) đãn hiềm Triệt Tuần, hữu học vô lương, tiện cách (21)
Giải: Cung Phúc có Đồng Âm tại Tí Ngọ gặp Kiếp, Tử, Triệt, Tuần thì là người có học nhưng không có lương tâm, bất chính, không nghèo hèn thì chết non
Phủ cư Địa Võng (cung Tuất) nhược lâm Tuần Không (gặp Tuần) cô Nhâm, Đinh tuế (tuổi Nhâm và Đinh) mãn thế sự bảo hoài (cả đời không đạt ý muốn) nạn phùng vận lo (4)
Giải: tuổi Nhâm và Đinh có Liêm Phủ tại Tuất gặp Tuần thì cả đời không đạt ý muốn, hay gặp nạn và lo lắng. Chú ý chỉ có tuổi Đinh Mão và Nhâm Thân thì mới bị Tuần án ngữ. Tuổi Đinh Mão có Liêm Phủ Long Đức bị Tuần, có Lộc Tồn Thiên Trù, Thiên Quan Quốc Ấn Trực Phù Thiên Hỉ tam hợp chiếu, có Thiếu Dương Thiên Không xung chiếu và Vũ Tướng tại Dần bị Triệt. Tuổi Nhâm Thân thì Liêm Phủ Đà Thiên Quan Tang Môn Thiên Khốc bị Tuần, có Quyền, Thiên Phúc, Hóa Kỵ, Hao, LNVT, Mã Phượng Cát Giải Thần, Thiên Hư, Điếu Khách tam hợp, có Thất Sát, Đường Phù, Bạch Hổ, Hoa Cái gặp Triệt
Thiên Phủ kị ngộ Không Tinh (Tuần Triệt) lai nhập Tài cung (ở cung Tài) tán hao vô độ (5)
Giải: cung Tài có Thiên Phủ gặp sao Không (Tuần Triệt) thì tiền tài rất hao tán
Phủ phùng Không xứ tài suy, thủy chung nan báo tư cơ lưu truyền (22)
Giải: cung Tài có Phủ gặp Tuần Triệt thì trước sau không giữ được sản nghiệp tổ tiên truyền lại
Thiên Phủ tối kỵ Không Tinh (tối kỵ Tuần Triệt) nhi ngộ Thanh Long phản vi cát tường (3)
Giải: Thiên Phủ tối kỵ gặp Không Tinh (Tuần Triệt) nhưng gặp Thanh Long thì lại trở thành tốt
Tham Lang cư Tí, thử thiết vô nghi ngộ Triệt Tuần phản vi đoan chính (28, TTL)
Giải: Tham Lang tại Tí thì trộm cắp, gian xảo, nói láo, gặp Triệt Tuần thì lương thiện, ngay thẳng, biết giữ lời
Phá Quân Thìn Tuất nhi ngộ Khoa Tuần cải ác vi lương ư hợp Mậu Quí nhân (tuổi Mậu Quí) đa hoạch danh tài (6, TTL)
Giải: TTL giải rằng Phá Quân tại Thìn Tuất gặp Khoa đồng cung, Tuần án ngữ thì lại trở thành lương thiện, thẳng thắn, tuổi Mậu, Quí thì hoạch phát về tài danh. Chú ý tuổi Ất có Khoa xung chiếu, tuổi Mậu phải có Hữu Bật mới có Khoa, tuổi Tân có Văn Khúc mới có Khoa, còn tuổi Quí không có Khoa. Như vậy câu phú này cần giải thích là gặp Khoa hay Tuần mới có nghĩa
xxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxx ( Trích dẫn…còn tiếp…).
Sửa bởi mothaiba: 10/02/2015 - 00:51
Thanked by 21 Members:
|
, , , , , , , , , , , , , , , , , , , , |
#215
Gửi vào 12/02/2015 - 03:51
Biển NGHIỆP mênh mông… Thị thị - Phi phi.
…
Quán trà đá…Chính thức đóng cửa !!!
…
-Chân thành tri ân Quí khách đã ủng hộ !
…
-VDCX ! – (
Thanked by 19 Members:
|
|
#216
Gửi vào 13/02/2015 - 04:42
Mong bác ở lại diễn đàn và tiếp tục chia sẻ với chúng cháu, những bài viết, những lời khuyên của bác ít nhiều cũng đã giúp cho thành viên ở đây có sự lựa chọn, chuẩn bị cho bản thân và cả học hỏi nữa.
Cháu chúc bác sức khỏe và an lành!
Cháu kpc
Thanked by 4 Members:
|
|
#217
Gửi vào 15/02/2015 - 08:33
Thân ái chia sẻ cùng quí hội viên có duyên đến đề mục này & lưu ý lắng lòng nghe các bài thuyết giảng đã được chọn lọc, trong những lúc có thời gian rãnh rỗi…
NGHIỆP cũ chưa trả xong…xin đừng vì một lúc nào đó hãy còn ít-nhiều “ vô minh “ mà vô tình tạo thêm NGHIỆP ( bất thiện ) mới nữa…
Chính ta tạo NGHIỆP và chính ta sẽ phải thọ lãnh chúng…
Dù lành hoặc dữ ! Dù trong quá khứ - hiện tại hoặc vị lai vô cùng-vô tận…!
NGHIỆP vẫn luôn theo ta như “ Hình với Bóng “…!!!
...
Chuyện Tâm Linh & Ngoại Cảm - HT Thích Giác Hạnh
-VDCX !
Thanked by 19 Members:
|
|
#218
Gửi vào 16/02/2015 - 09:15
mothaiba, on 15/02/2015 - 08:33, said:
Chủ quán đi vắng !Nhân viên trốn đi chơi !Chẳng có ai để kêu tách trà !
Sửa bởi pvcpvcp: 16/02/2015 - 09:21
Thanked by 6 Members:
|
|
#219
Gửi vào 16/02/2015 - 16:28
cháu hơi bất ngờ vì bác đóng quán. Những hạt giống khuyến thiện bác đã gieo ít nhiều cũng nảy mầm không ở người này sẽ ở người khác. Cháu chúc bác luôn vui vẻ, an lạc.
Sửa bởi huyenminh: 16/02/2015 - 16:39
Thanked by 6 Members:
|
|
#220
Gửi vào 16/02/2015 - 17:05
Bác chủ quán chơi kì nha. Gửi menu, hem gửi hoá đơn mà muốn khoá quán là sao, sào la.
Chơi hem đẹp nha.
Thanked by 2 Members:
|
|
#221
Gửi vào 16/02/2015 - 17:14
Sửa bởi huyenminh: 16/02/2015 - 17:15
Thanked by 1 Member:
|
|
#222
Gửi vào 16/02/2015 - 17:21
Thanked by 1 Member:
|
|
#223
Gửi vào 16/02/2015 - 21:25
Hi, Tết gần kề rồi ạ, không biết bên Mỹ không khí Tết như thế nào ạ. Cháu xin kính chúc bác và gia đình một năm mới ấm áp, ngập tràn hạnh phúc ạ.
Cháu từng được bác tư vấn, luận giải lá số vào lúc cháu đang gặp chuyện không hay, với những biến cố trong cuộc sống. Đến nay khi cơn bão vẫn chưa qua, lòng vẫn chưa bình yên, hàng ngày cháu vẫn ghé quán để được nương tựa vào Phật Pháp ạ.
Chắc hẳn cũng như cháu, rất nhiều thành viên đều muốn quán trà nhỏ bé này được duy trì. Trên diễn dàn, không tránh khỏi có những lúc này lúc kia, có những thành viên chưa thật sự hiểu tấm lòng của bác. Nhưng vẫn còn rất nhiều người trẻ như bọn cháu, luôn mong muốn được bác tư vẫn chia sẻ trong những vấp ngã đầu đời.
Cháu xin kính chúc bác sức khỏe và an lành ạ.
Thanked by 4 Members:
|
|
#224
Gửi vào 17/02/2015 - 08:50
pvcpvcp, on 16/02/2015 - 09:15, said:
Đạo Phật chủ trương có đau khổ (1) nhưng không có người chịu khổ đau (2).Ta và nghiệp là một (3)
Trời đang giá rét, tuyết dồn lại gần cả tháng nay lên thành lô cốt hết rồi, chắc chủ quán còn đang hì hục cào tuyết thôi. Trà hả? Thế bác muốn loại trà nào?
tuy chỉ có 2 câu được trích bên trên nhưng nó có nội hàm mà 3 tông phái khác nhau trong hàng ngũ Phật gia phải bỏ biết bao nhiêu sức lực để có đấy, chỉ tiếc rằng, ko ai chịu ai cả nên đành phải từ từ mà tiến thôi bác ạ
--------
(1) khổ : thuộc tứ diệu đế - căn bản của hệ phật giáo tiêu thừa
(2) siêu cấp của dạng thiền, bát nhã.
(3) phân tích về duy thức
Chúc mọi người đón tết an lành
Kmm
Thanked by 5 Members:
|
|
#225
Gửi vào 17/02/2015 - 21:03
CHÚC MỪNG QUÍ HỘI VIÊN TRỌN NĂM…Phúc-Lộc-Thọ-Khang-Ninh tràn đầy…
Trời mưa bong bóng phập phồng.
Em thích lấy chồng, em đi lấy chồng.
Chồng em không xịn như anh lắm,
nhưng xịn hơn anh bởi tấm lòng…( Thơ 123 ).
( Năm mới…lâu lâu làm thơ “ quá hay “…).
Xxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxx
Thân ái chia sẻ cùng quí hội viên có duyên đến đề mục này & lưu ý lắng lòng nghe các bài thuyết giảng đã được chọn lọc, trong những lúc có thời gian rãnh rỗi…
…
Phim - Niệm Phật Thành Phật
( Lick here…).
Sự Mầu Nhiệm Của Công Đức Niệm Phật - HT.Thích Giác Hạnh
( Lick here…).
Thân Người Khó Được
( Lick here…).
Sự thật về cỏi tâm linh toàn tập ( hay tuyệt vời ).
( Lick here…).
THẬP THIỆN NGHIỆP ( MƯỜI NGHIỆP LÀNH ).
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Mười nghiệp lành không những ngăn giữ chúng sanh khỏi bị đọa lạc vào bốn con đường đau khổ, mà còn mở cánh cửa thênh thang hạnh phúc an vui của phước báu nhân thiên sang cả. Mười nghiệp lành thường quyết định duyên lành, làm cho thông minh sáng láng, học hành thành đạt, sự nghiệp hanh thông, gia đình ấm êm và cả trí tuệ thông hiểu con đường xuất ly ba cõi nữa.
Người Phật tử sau khi thọ Tam qui, Ngũ giới, Bát quan trai giới thì nên tu tập thêm thập thiện nghiệp để làm hành trang, tư lương tối thắng cho mình giữa thế gian cát bụi, lắm nghiệt ngã và nhiều khổ đau này.
Và thập thiện nghiệp ấy là gì?
1. Thân vĩnh viễn từ bỏ sự giết hại các loài hữu tình.
Tất thảy các loài hữu tình, từ bò, bay, máy, cựa, không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân cho đến chúng sanh có cánh, không cánh, có vây, không vây... ở trên mặt đất, dưới biển, ao hồ, sông rạch, trên hư không... chúng đều có sự sống, có thức tánh, biết đau đớn - thì người Phật tử phải biết tôn trọng, chẳng nên giết hại.
Tất cả các loài, các loại, các giống chúng sanh ấy, do thấp sanh (ẩm ướt, ẩm thấp), do bàng sanh (súc sanh) hay noãn sanh (trứng), chúng đều do sự chi phối, tác động của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Khi chúng trả hết ác nghiệp, chúng có thể trở lại thân người. Trái lại, nếu không tạo trữ phước lành, cứ tà kiến, ngu si, ác độc làm việc dữ; thì chúng ta cũng phải bị đọa vào các cảnh giới đau khổ ấy. Để tránh khỏi sự khổ báo và trả vay nhân quả, chúng ta chẳng nên sát sanh hại vật; dù sinh mạng chúng nhỏ nhiệm thế nào.
Nói rộng hơn nữa, ngay chính cây cối, thảo mộc là loài vô tri, vô giác, không có thức tánh, chúng ta cũng không nên chặt phá bừa bãi; vì chúng cũng có "sự sống" vậy.
Nếu biết vĩnh viễn từ bỏ sự giết hại, người Phật tử sẽ tăng trưởng lòng từ; và những trạng thái tâm ác độc, hung dữ lần hồi sẽ lắng dịu. Tâm từ càng phát triển thì tâm sân, sát, hận, ưu sẽ không còn. Và khi ấy, người Phật tử sẽ cảm nghe một năng lực từ hòa, mát mẻ từ bên trong lan tỏa ra bên ngoài, thấm nhuần khắp cả không gian, người, vật, cây, cỏ... lúc ấy là lúc mà nghiệp lành thứ nhất đã thành tựu, đã tuyệt hảo, trọn vẹn, viên mãn vậy.
Có thơ rằng:
"- Muôn loài sự sống đều nhau
Có thân, có thức biết đau như mình
Nỡ nào giết hại hữu tình
Ruột mềm máu chảy thương sinh não nùng”.
2. Thân vĩnh viễn từ bỏ trộm cắp của cải, tài sản của người khác.
Của cải, tài sản, cái ăn, cái mặc, phương tiện, nhu cầu sinh sống của mọi người trên thế gian; một phần do phước báu tạo trữ từ nhiều kiếp nên được thọ hưởng sung mãn, dư dật trọn đời; còn đa phần là do lao tâm, lao lực, đổ mồ hôi, sôi nước mắt; chịu khó làm ăn, trăm phương nghìn kế, thức khuya dậy sớm, chăm chuyên cần mẫn, biết để dành, vun quén, tiết kiệm... mới có được.
Cũng có thứ tài sản, của cải, gia tài của một số người do làm ăn phi nghĩa, phi nhân, bất chánh. Nhưng chúng hoạnh phát thì hoạnh tàn, sẽ đi kèm theo định luật nhân quả trả vay ngay hiện tại hoặc kiếp sau. Và sự báo ứng, tất nhiên, không thể chạy trốn đâu cho khỏi được.
Như vậy, của cải, tài sản xét theo mọi lẽ, người Phật tử tự biết, nếu khởi tâm trộm cắp đã là ý nghĩ bất chánh, đã do lòng tham khởi động, xúi giục, sai bảo. Là nô lệ của vô minh, ái dục và si mê. Nếu không tỉnh thức, tự chủ, tự chế... thì lòng tham kia sẽ che mờ tâm trí, bịt mắt lương tri, rồi nó sẽ dẫn chúng ta đến chỗ tội tù, lao hình thống khổ. Các tội ác khác, đôi khi cũng từ đó mà đồng loạt dấy sanh. Những mưu mô, thủ đoạn, ác độc, lường gạt, giết người, gian dối, tham nhũng, hối lộ, san đoạt tài sản... xảy ra hằng ngày hằng giờ trên thế gian, không là bài học máu xương cho chúng ta suy gẫm hay sao? Và khi ấy, vòng trầm luân bất định của những con đường đau khổ, một lần rơi đọa, biết mấy triệu kiếp sau mới trở lại thân người? Chỉ cần một tí liên tưởng, một chút tư duy, người Phật tử sẽ vĩnh viễn không dám thò tay, nạy cửa, lấy cắp tài sản, của cải của người, của xã hội. Không những hiện vật có giá trị mà những thứ ít có giá trị hoặc không có giá trị gì mấy, người Phật tử chơn chính cũng sẽ không lấy khi vật ấy chưa được cho, chưa được sở hữu chủ bằng lòng, hoan hỷ cho.
Chỉ "không khởi tâm" trộm cắp, từ bỏ vĩnh viễn không lấy cắp đã là một nghiệp lành cao cả, sẽ đem đến an vui, an toàn cho mọi người xung quanh và xã hội rồi. Khi ấy, những hiện vật trưng bày ở những nơi công cộng như công viên, đường sá, vườn hoa, nhà mát, khu di tích lịch sử, văn hóa... ở đâu đều nguyên vẹn ở đó, được tất thảy mọi người bảo vệ và tôn trọng. Lúc ấy, nhà nhà không cần đóng cửa, không ai cần thiết phải kín cổng, cao tường, rào chông mấy lớp. Các loại ổ khóa không cần dùng. Của rơi dọc đường không ai thèm lượm, nếu nhặt được người ta sẽ tìm cách hoàn lại cho khổ chủ. Khung cảnh và không khí thanh bình tuyệt vời ấy quả là thiên đường trần gian, mà con người không thể ước mơ được hay sao?
Bèn có thơ rằng:
"- Trộm cắp, lấy cướp của người
Làm thân trâu ngựa bao đời trả xong
Lại còn đói khổ chất chồng
Thây ma, xác quỷ trôi sông, dạt bờ”.
3. Thân vĩnh viễn từ bỏ tà dâm, tà hạnh.
Sự chung thủy vợ chồng là nét đẹp văn hóa truyền thống của nền đạo đức và luân lý Đông phương.
Gia đình là nền tảng của xã hội. Gia đình được hạnh phúc, an vui thì xã hội mới được hạnh phúc, an vui. Thật không thể quan niệm được khi một xã hội văn minh, tiến bộ, thịnh mãn về vật chất, áo cơm - lại có thể đem đến hạnh phúc cho mọi nhà, khi "mọi nhà" ấy: vợ chồng tự do ngoại tình, tự do lăng nhăng, tự do bỏ vợ, bỏ chồng để đi tư tình, thương yêu người khác!
Tục ngữ nói: "Thuận vợ thuận chồng, tát biển đông cũng cạn". Thuận là hòa thuận. Hòa thuận là do thương yêu, hòa hợp, đùm bọc, chia sẻ ấm lạnh ngọt bùi, vui buồn gian khổ có nhau, không bao giờ phụ rẫy, hắt hủi, bạc tình, bạc nghĩa với nhau.
Đạo Phật là đạo xuất ly thế gian nhưng mà không đoạn tuyệt thế gian; vẫn phân biệt rõ ràng đâu là hạnh phúc thế gian đâu là hạnh phúc siêu thế. Và đối với người cư sĩ, hạnh phúc gia đình luôn được đức Phật nhắc nhở, dạy bảo. Lác đác trong kinh điển, đức Phật thường giáo giới đến hàng tại gia biết cách vun quén, xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình mình. Những bổn phận của vợ đối với chồng, của chồng đối với vợ, trong đó sự thương yêu và lòng chung thủy luôn được xem trọng hàng đầu. Như vậy, khi muốn gia đình mình được hạnh phúc, an vui thì ta không nên phá hoại hạnh phúc và an vui của gia đình người khác.
Khi vợ chồng không còn thương yêu, chung thủy; lại đem san sẻ tình yêu cho người khác; thì những gấu ó, bất hòa, lời qua tiếng lại, "ông ăn chả, bà ăn nem" đưa đến phân ly, tan nát là một viễn cảnh vô cùng đen tối. Con cái, từ đó sẽ không có nơi nương tựa khi vợ chồng ly thân hoặc ly dị. Chúng sẽ sinh ra hư hỏng, cướp của, giết người, xì-ke, ma tuý, hình lao, tù tội... thật không mấy xa!Thiếu vòng tay mái ấm gia đình, chúng sẽ mất niềm tin với đời, trái tim sẽ băng lạnh, nhân tính biến đổi...
Có thơ rằng:
"- Thương nhau sao nỡ phụ nhau
Bạc tình, bạc nghĩa ôm bầu trăng hoa
Thói quen ác hạnh, dâm tà
Nát tan mái ấm, chết sa khổ đồ”.
4. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói dối.
Thế gian ai cũng ưa ăn ngay nói thật. Lời nói chơn chánh, chân thực, biểu hiện đức độ, sức mạnh nội tâm, đem đến sự tin tưởng, tin cậy, tín cẩn ngọt ngào và dễ mến giữa cuộc đời này.
Những kẻ có nói không, không nói có, bóp méo sự thật, xuyên tạc lẽ phải thường đem đến nhiều nguy hại, khổ đau và bóng tối cho trần gian biết là ngần nào?
- Có lời nói dối đưa đến chém giết, hận thù.
- Có lời nói dối làm cho người ta tán gia, bại sản.
- Có lời nói dối phá vỡ bình yên, hạnh phúc của người khác.
- Có lời nói dối đưa kẻ khác đến tội tù, gia đình người ta phân ly, tan nát.
- Có lời nói dối chận đứng sự tiến thân, danh vọng hoặc sự nghiệp của người khác.
- Có lời nói dối làm cho người ta tức uất thổ huyết mà chết.
- Có lời nói dối đưa đến ganh ghét, đố kỵ, tỵ hiềm.
- Có lời nói dối làm cho người thân, huynh đệ, bạn bè suốt đời không nhìn mặt nhau...
Là người Phật tử, chỉ có việc "từ bỏ vĩnh viễn lời nói dối" đã là tốt đẹp và cao cả lắm rồi. Trên phương diện tương quan nhân quả, nghiệp lành này mang đến cho cuộc đời sự bình yên; hoặc ít ra là tạo được không khí trong lành, không bị ô nhiễm bởi những tác hại do những lời nói dối gây ra.
Ôi! cuộc đời này sẽ dịu dàng và tinh khiết dường bao khi xung quanh ta đều là những người không biết nói dối, không bao giờ nói dối!Chư Bồ-tát, các bậc Thánh nhân dù họ có lìa bỏ sanh mạng, bị hành thân hoại thể, bị sỉ nhục đắng cay; chắc chắn không vì vậy mà nói dối hại người! Vậy, không nói dối là phẩm chất cao thượng, là đức tính quí báu mà ai cũng có sẵn trong chính mình; cần được bảo vệ, phát huy và trưởng dưỡng cho đến độ viên mãn.
Bèn có thơ rằng:
"- Lời nói chẳng mất tiền mua
Tự tâm có sẵn, vốn xưa đầy bồ
Lìa xa dối vạy quanh co
Ngữ ngôn chân thật, thước đo đạo tràng”.
5. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói vu oan, vu cáo.
Lời nói dối đã độc hại, nguy hiểm mà lời nói vu oan, vu cáo kẻ khác còn thâm hiểm, độc ác hơn nhiều.
Lời nói dối, ban đầu, có thể do tham sân điều động nhưng chỉ ở mức độ vừa phải. Lên đến cấp độ vu oan, vu cáo thì tham sân ấy đã cương mãnh hơn nhiều. Đã trở nên mù quáng lý trí, đã đánh mất nhân tính, đã rời xa đạo đức, luân lý và lẽ phải ở đời. Tham sân ở đây đã trở nên tham độc và sân độc, đã biến con người đầy đủ nhân tính, thiện lương thành các loài rắn rít, bò cạp hoặc độc trùng ghê tởm khác.
Là người Phật tử chơn chánh, không những phải giữ trọn nghiệp lành không nói dối mà còn biết từ bỏ vĩnh viễn lời nói vu oan, vu cáo, giá họa, đẩy người khác đến chỗ không tội mà thành tội, không làm mà thành làm, xô người khác vào vực thẳm tội tù hoặc suốt đời bị đọa đày, oan khuất, tối tăm, thống khổ.
Cho nên có thơ rằng:
"- Vu oan, vu cáo hại người
Một lời giá họa nặng mười ác tâm
Độc trùng, dã thú chớ gần
Miệng lời rắn rít, lụy thân nhiều đời”.
6. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói cộc cằn, thô lỗ, chửi rủa, mắng nhiếc, ác ngữ...
Tuy những lời nói thuộc loại này không ác độc bằng hai cách nói trên nhưng cũng chẳng hay ho, tốt đẹp gì, đều đem đến nguy hại cả.
Lời cộc cằn, thô lỗ, chửi rủa, mắng nhiếc... biểu hiện một trạng thái tâm chưa được huấn luyện. Ấy là cái tâm đang còn hoang dã, bản năng, thô xấu, thiếu văn hoá, thiếu giáo dục, thiếu gia phong, lễ giáo nề nếp con nhà! Những lời nói như thế ấy làm đau lòng người khác, thường đưa đến sự xô xát, đánh đập tay chân hoặc đùi gậy, dao búa đến sứt đầu, bể trán mà thôi.
Người có học thức, hiểu biết, nội tâm đã được huấn luyện, có tu tập; thường dễ dàng tránh xa những lời nói kiểu này. Là Phật tử chơn chánh, ngôn ngữ nói ra phải dịu dàng, từ ái, khiêm tốn dễ nghe. Người ta thường ví miệng thơm như hoa lan để nói đến người có lời nói chân thật, ái từ là vậy.
Có thơ rằng:
"- Cộc cằn, thô lỗ ai ưa?
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau
Tâm hoa thơm ngát, thơm lâu
Từ hoà, ái ngữ một câu miệng vàng”.
7. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói nhảm nhí, vô ích, rỗng không, phù phiếm...
Những cách nói như thế ấy quả là làm mất thì giờ vô ích. Chỉ có kẻ ngồi lê đôi mách, ăn rỗi ở thì, nội tâm trống rỗng, không có việc làm, không đọc kinh sách, nhàn cư, thiểu học... mới rơi vào trường hợp này.
Người xưa nói: Một ngày không đọc sách, một ngày hôi miệng! Thế còn những kẻ rỗng không, vô tích sự, giết thì giờ trong những câu chuyện tục tĩu, nhảm nhí thì nội tâm và trí óc họ chứa đựng những gì?!
Vậy, người Phật tử chơn chánh có Tam qui, Ngũ giới, có tu tập và biết phát triển những nghiệp lành, đừng nên coi những cách nói rỗng không, nhảm nhí... là chuyện nhỏ mọn! Một hạt bụi tí ti rơi vào mắt cũng làm cho mắt phải bị nhức nhối, xốn xang. Một chút dơ uế lấm lem vào tâm, khinh thường lâu ngày thì cái tâm kia cũng trở nên đen đúa và xấu xa! Những giọt nước rỉ từng giọt lâu ngày cũng đầy tràn sông hồ, ao biển... đúng như câu kinh Pháp cú số 121:
"- Nước rơi từng giọt giọt thôi
Lâu ngày chầy tháng đến hồi tràn lu
Chút chút việc ác, mặc dù
Ngày qua tháng lại, người ngu ác đầy!"
Những lời nói rỗng không, nhảm nhí, tục tĩu, vô ích... lâu ngày thành thói quen, tích lũy thành nghiệp ác. Những lời nói bỡn cợt, ba lơn, ba láp, ba xàm; ban đầu tưởng là vô hại, nhưng lâu dần chúng trở thành cá tính khó rời; khiến ta thành kẻ không đứng đắn, thiếu tư cách, mất phẩm chất thật là uổng phí vậy. Khi mà đã trở thành như thế thì kẻ ấy dù có chân đứng, địa vị, danh vọng và sự nghiệp gì trên cuộc đời cũng sẽ bị người coi khinh, khi rẻ, nhạo báng, xem thường!
Cho nên có thơ rằng:
"- Rỗng không, tục tĩu, vô duyên
Miệng lời nhảm nhí, trí hiền chẳng ưa
Chẳng nên thêu dệt thiếu thừa
Đẹp ngôn, đẹp khuẩu lại vừa thơm hương”.
8. Ý vĩnh viễn từ bỏ sự tham lam
Có những mong muốn, ước muốn bình thường trong đời sống mà chẳng phải tham lam. Ví dụ đói muốn ăn, khát muốn uống. Hoặc, ta mong muốn làm một điều gì, muốn thực hiện một việc gì... Tất cả những mong muốn ấy, theo Abhidhamma, nó là "chanda", là dục tâm sở; chỉ mới là ước muốn thuần túy chưa quyết định thiện ác. Còn tham lam là do tâm sở "lobha" hay "abhijjā", có trạng thái dính mắc, có sự tham dự củatư tâm sở (cetanā) mới tạo thành nghiệp. Do vậy, khi tâm tham khởi thì những tâm sở bất thiện đồng khởi theo để tạo tác tất cả những việc xấu ác trên trần đời!
Lòng tham ấy sẽ được hiện khởi từ các tâm trạng sau đây:
- Không bằng lòng, không vừa ý, không thỏa mãn những sở hữu mà mình đang có.
- Không bao giờ biết sống đời tri túc, mà luôn cảm thấy thiếu thốn, muốn có thêm vật này, vật kia... tương tự như tục ngữ: "đứng núi này trông núi nọ, được voi đòi tiên".
- Luôn luôn dòm ngó của cải, tài sản của kẻ khác.
- Luôn muốn vơ vét, chiếm đoạt, cướp giật của cải tài sản của người.
Nói rộng hơn, nhưng cũng cô đọng hơn là lòng tham được thỏa mãn lục trần: sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái cùng những tham vọng về tinh thần. Đấy là những tham vọng về quyền lực, danh vọng, sự nghiệp, bá chủ, thần thông, phép lạ...
Lòng tham ấy đã tung rải biết bao nhiêu bóng tối, đau khổ và tang thương cho nhân loại từ xưa đến nay! Thế giới lục trần tươi đẹp và hào nhoáng ấy là đóa hồng diễm kiều hương sắc nhưng lại đầy gai máu! Nó là vực thẳm chông nhọn được trải bằng tấm thảm nhung êm. Nó là mồ chôn biết bao sa-môn, đạo sĩ, đế vương, công hầu, khanh tướng, tỷ phú, triệu phú, anh hùng, quân tử, mỹ nhân, vĩ nhân, danh nhân, thi sĩ, văn sĩ, nghệ sĩ và cả những khoa học gia danh tiếng lẫy lừng... Lòng tham ma vương không chừa một ai trên trần thế! Tham ít khổ ít, tham nhiều khổ nhiều, đấy là định luật tất yếu!Là sức dội lại của quả bóng tuỳ thuộc lực ném vào tường! Là sự bỏng cháy nhiều ít do các ngón tay hay bàn tay vọc lửa!
Vậy, người Phật tử chơn chánh muốn chấm dứt các khổ đau, phiền não thì phải biết nghe lời từ bi và trí tuệ của đức Đại Giác; phải biết vĩnh viễn từ bỏ lòng tham này vì lợi ích cho mình và cho người. Đây là nghiệp lành vừa có phước báu nhân thiên vừa gieo duyên với cứu cánh giải thoát tối hậu.
Có thơ rằng:
"- Lửa nào hơn được lửa tham
Đốt trái tim, cháy lầm than kiếp người
Lá hoa, cây cỏ thắm tươi
Vô tham hạt giống, đâm chồi tự do!"
9. Ý vĩnh viễn từ bỏ sự sân hận ( thù oán, oán hận, ác ý )
Tâm sân do chữ dosa. Theo Abhidhamma, tâm sân không bao giờ khởi một mình, tuỳ theo cường độ, tính chất của nó mà các tâm sở tương ứng cùng khởi theo. Ví dụ: tật, xan, hối...
Theo cách hiểu thông thường, sân mà còn hận nữa thì cường độ sân ấy đã tăng thêm một bậc, có thể thiêu huỷ, đốt cháy các đối tượng. Lửa sân hận rất khủng khiếp, nó có thể tạo nên các tội ác trên cuộc đời, nó có thể đốt cháy tất thảy mọi ruộng vườn công đức, phước báu.
Người có trí, có căn bản giáo pháp, có tu tuệ quán, có thể biết được sự hiện khởi của tâm sân ấy qua mấy dạng sau đây:
- Sân bình thường, tức là sân do phản ứng tự nhiên của tâm sinh lý; chưa có hại, chưa tạo nghiệp.
Ví dụ: Thấy khó chịu khi nghe một âm thanh quá lớn. Trời nóng thì cảm thấy bực bội. Thấy điều ác, không ưa...
- Những điều trái ý, nghịch lòng nếu cứ gặp mãi thì trạng thái sân này sẽ gia tăng, cứ âm ỉ thiêu đốt ở trong lòng. Như vậy là từ sân bình thường (dosa), sân ấy đã chuyển sang ưu (domanassa).
- Nếu ưu càng gia tăng, mới nghĩ đến đối tượng đã không còn chịu nổi, muốn đập phá, muốn tiêu diệt đối tượng. Trạng thái tâm lý này đã chuyển thành hận (pāṭigha).
Tuy nhiên, ưu và hận sẽ không khởi một mình mà nó còn đi theo những tâm sở khác: tật, xan, hối... để tạo thành nghiệp. Do vậy, sân hận sẽ gia tăng cường độ rất nguy hiểm, càng lúc càng không thể kềm chế nổi. Nó có thể hủy diệt nhân loại, thiêu cháy một làng, một xóm. Nó có thể tạo ngũ nghịch đại tội. Nó có thể đưa chúng sanh vào hằng trăm loại địa ngục đồng sôi, lửa đốt, dao đâm, vạc dầu... thật vô vàn thống khổ.
Biết sự nguy hại của sân hận, người Phật tử chơn chánh nguyện phát triển nghiệp lành này, bằng cách tỉnh niệm thường xuyên để thấy rõ sự dấy khởi của nó và vĩnh viễn từ bỏ, loại trừ ưu và hận ra khỏi tâm.
Theo Abhidhamma, vô sân đồng nghĩa với tâm từ vô lượng, nên sự an lành và mát mẻ của nó đúng là môi trường sinh thái tốt lành cho người, vật, chim muông, cây cỏ.
Bèn có thơ rằng:
"- Không sân, mát mẻ xiết bao
Cây lành trái ngọt, ngát ngào hương hoa
Suối trong giữa cõi ta-bà
Tình xanh nhân ái, hoan ca thái bình”.
10. Ý vĩnh viễn từ bỏ tà kiến ( chuyển tà kiến thành chánh kiến )
Tà kiến là thấy sai, thấy lệch, thấy nghiêng, thấy một bên, thấy một phía, không thấy được cái chơn, cái thực, cái toàn diện. Tuy nhiên, mới thấy tà như vậy cũng chưa phải tà kiến. Người thấy tất cả cái tà ấy, còn chấp cái tà ấy là chánh, là sự thật; rồi còn ra sức bảo vệ, phát triển quan điểm lệch lạc ấy nữa, mới chính thật là tà kiến.
Những người học Phật thường gọi danh những người chấp đoạn là đoạn kiến, chấp thường là thường kiến. Đoạn kiến và thường kiến chính là tà kiến vậy.
Đoạn kiến là quan niệm cho rằng chết là hết, không còn gì. Không có kiếp này, kiếp kia, không có thiện ác, không có thiên đường, địa ngục, không có nhân quả báo ứng. Và, đạo đức, luân lý trên thế gian chỉ là trò u mê, ngốc nghếch! Vậy hãy hưởng thụ thân xác, làm cho "cái ta" hiện giờ đây được sung sướng, cực lạc. Hưởng thụ dục lạc ngũ trần chính là Niết-bàn vậy. Các nhà đoạn kiến có quan niệm như vậy rồi dạy môn đệ, viết sách để quảng bá tư tưởng ấy. Chủ nghĩa duy vật chất, chủ nghĩa hư vô, chủ nghĩa hiện sinh rơi vào đoạn kiến này.
Thường kiến có quan điểm cho rằng có một linh hồn, một tự ngã thường hằng bất biến, không thay đổi, đầu thai từ kiếp này sang kiếp kia. Do vậy, kiếp này làm vua thì kiếp sau cũng làm vua. Thương gia, tướng cướp, cùng đinh hoặc đui, què, mẻ sứt... kiếp này thì kiếp sau cũng y như thế. Làm thiện chẳng có tích sự gì, làm việc ác mà được sung sướng thì cứ làm. Nhân, nghĩa, đạo đức, luân lý là con ngáo ộp dọa người đó thôi. Chúng ta do Thượng đế đã cho giàu sang thì sẽ giàu sang mãi mãi...
Như vậy, đoạn kiến và thường kiến đã đầu độc thế gian, làm cho thế gian đổ nát, hoang vu, điêu tàn, băng hoại. Nó thiêu huỷ, đốt cháy đạo đức, nhân luân, nhân tính cùng các giá trị tinh thần thiêng liêng, cao cả khác. Ngoài ra, rải rác trong kinh điển, còn có những cái gọi là biên kiến, kiến kiết phược, kiến hoang vu, kiến sa mạc, kiến điên đảo, kiến rừng rậm... đều là bà con họ hàng với tà kiến cả vậy.
Người Phật tử phải biết chuyển cái thấy sai thành cái thấy đúng, cái thấy nghiêng lệch bằng cái thấy chính chơn, nghĩa là phải biết chuyển tà kiến thành chánh kiến.
Thế chánh kiến là gì?
Chánh kiến là gọi tắt của chánh tri kiến (thấy biết chơn chánh). Chánh tri kiến là gọi tắt của chánh kiến, chánh văn, chánh giác, chánh tri.
Và "kiến, văn, giác, tri" là thế nào?
- Mắt thấy sắc như thực, nghĩa là sắc như thế nào phải thấy sắc như thế ấy. Thấy một cách khách quan, trung thực, không xen lẫn tư tưởng, ý kiến, tình cảm của mình vào: ấy được gọi là chánh kiến.
- Tai nghe âm thanh như thực, nghĩa là âm thanh như thế nào phải nghe âm thanh đúng như thế. Nghe một cách khách quan, trung thực, không xen lẫn tư tưởng, ý niệm, tình cảm của mình vào: ấy được gọi là chánh văn.
- Mũi ngửi hương như thực, nghĩa là hương như thế nào phải biết hương như thế ấy, một cách khách quan, trung thực, không xen lẫn tư tưởng, ý niệm, tình cảm của mình vào: ấy được gọi là chánh giác.
- Lưỡi nếm vị như thực. Tương tự như trên, được gọi là chánh giác.
- Thân xúc chạm như thực. Tương tự như trên, được gọi là chánh giác.
- Ý biết pháp như thực. Nghĩa là pháp nào thì phải biết cho đúng như thực với pháp ấy; đừng suy diễn ra, đừng tưởng tượng thêm, đừng dịch giảng lung tung! Ngoài ra, những thu góp tin tức từ các tiền trạm thông tin mắt, tai, mũi, lưỡi, thân như thế nào; khi vào đến ý phải phản ánh cho trung thực, không bị méo mó, lệch lạc... thì được gọi là chánh tri, tức biết như chơn như chánh vậy.
Kiến, văn, giác, tri là gọi tắt của sự thấy, biết, cảm giác, tri giác của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đối với đối tượng lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Kiến, văn, giác, tri như thực được gọi là chánh kiến.
Từ chánh kiến với nghĩa rốt ráo, tinh tủy, căn bản này, người Phật tử sẽ có được đức tin chơn chánh, không bị rơi vào các loại tà kiến phức nhiễu, hỗn loạn đang vấy độc giữa cuộc đời; không bao giờ còn bị ru ngủ, bị mê lẩn bởi các tôn giáo thần linh huyễn hoặc; những triết thuyết, học thuyết cao đại, khoa trương nhưng thiển cận, rối rắm, tơ vò; những mê tín nhân gian bậy bạ, mù quáng nữa.
Chánh kiến thuộc tuệ phần, quan trọng nhất trong con đường Thánh đạo có 8 nhánh. Vậy chuyển tà kiến thành chánh kiến đúng là nghiệp lành tối thượng, cao cả nhất để đến nơi giải thoát, an vui, chân hạnh phúc.
Bèn có thơ rằng:
"- Lưới mê trói buộc đã nhiều
Ngu si, tà kiến trăm điều đắng cay
Hành trang chơn chánh cầm tay
Tâm trong, trí sáng, non tây ta về”.
Kết luận,
Mười nghiệp lành như vậy là thân có 3, khẩu có 4 và ý có 3. Nếu thân khẩu ý được điều tiết, thu thúc, gìn giữ, bảo trọng, phát huy và tăng trưởng 10 nghiệp lành này, được gọi là thân khẩu ý trọn lành hay tam nghiệp trọn lành.
Lúc 10 nghiệp trọn lành là người Phật tử vĩnh viễn đóng cửa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, có thể mở cửa nhân thiên và thênh thang bước vào đại lộ huy hoàng của an vui và hạnh phúc. Đời kiếp nào cũng không còn rơi đọa vào các cảnh giới đau khổ, miền biên địa, chốn man di mọi rợ hoặc các giống dòng, gia tộc ngoại đạo, tà kiến. Trong các cõi trời và người, đi đâu họ cũng gặp Phật pháp, thiện trí thức bằng hữu hoặc những duyên lành, phước lành thù thắng và tối thượng.
Sau khi cuộc lang thang đã mãn, tín, giới, văn, thí, tuệ đã đầy, ba-la-mật đã đủ; nếu muốn, họ dễ dàng chứng quả Tứ Thánh và đắc Niết-bàn để thọ hưởng hạnh phúc siêu thế.
Tất cả chúng sanh trong 3 cõi, 6 đường đều phải biết nương nhờ 10 nghiệp lành này như một kim chỉ nam vô giá quyết định phương hướng cho hạnh phúc các kiếp sống. Thanh Văn Phật, Độc Giác Phật cũng nương nhờ 10 nghiệp lành này mà đầy đủ tâm, đầy đủ tuệ để tận lìa phiền não. Đức Đại Bồ Tát của chúng ta cũng từ 10 nghiệp lành này mà thành tựu 8 minh và 15 hạnh, đắc quả Chánh Đẳng Giác vậy.
Bèn có thơ rằng:
"- Trọn lành mười nghiệp ra đi
Ngán gì gió chướng, sá chi bụi hồng
Trời, người các cõi thong dong
Phúc đầy, duyên đủ vượt dòng tử sinh!”
Kính, MĐTT
…
- -VDCX ! – (
xxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxx
Mệnh Vô chính diệu có " PHI YỂU TẮC BẦN " không ?...
Cụ Quản Văn Chính (Trích trong Báo KHHB)
Trong số những độc giả đã gửi thư. Tôi để ý nhất đến BS Hoàng Đình Hiển ở Quảng Ngãi. BS Hiển có một cậu con trai, và khi lập xong lá số Tử-Vi, ông hơi băn khoăn khi thấy cháu có Mệnh Vô chính diệu. Nhiều sách và nhiều thầy Tử-Vi cho rằng cung Mệnh Vô chính diệu không có sao chính diệu thủ mệnh đóng thì :” Nếu không nghèo tất chết sớm” BS Hiển nhờ tôi gỉai tỏa nỗi băn khoăn. BS có cho tôi biết thêm là từ nhiều năm qua, kể từ khi còn là sinh viên Y-Khoa, ông vẫn cố gắng làm tròn nhiệm vụ và luôn luôn lấy cái lý tưởng “Cứu nhân độ thế” của các bậc lương y làm kim chỉ nam cho cuộc đời, thế mà không hiểu tại sao cháu bé lại Mệnh Vô chính diệu ?. Theo BS Hiển, đó là một điều hết sức phi lý, vì sách thường bảo rằng những người có Mệnh Vô chính diệu đều thường là con thứ, hoặc mẹ là vợ lẽ nàng hầu. Tôi đã nói với BS Hiển rằng : Sách thường chỉ nêu những nét đại cương còn người xem số phải đem kinh nghiệm ra đối chiếu và phải tham bác các vị tiền bối ngõ hầu tìm ra được một sự thật tương đối !
Kế đó, tôi có kể ra những lá số Tử-Vi Vô Chính Diệu, mà người có số như thế đều :
- Không phải là con thứ; - Không phải là con thứ thiếp hay nàng hầu; - Cũng vẫn khá giàu, có địa vị và thọ gần 70 tuổi.
Đó là trường hợp của một Cụ sanh năm Mậu Tý (sinh năm 1888) và mất năm 1955, thọ được 68 tuổi có 10 con, 5 trai và 5 gái, người nào bây giờ cũng khá giả.
1. Cụ sinh năm Mậu Tý, tháng 3, ngày 30, giờ Thìn
( Lá số )
Mệnh Vô Chính Diệu tại cung Tý, có Thiên-Đồng, Thái âm cư Ngọ và Cự-Nhật cư Thân chiếu vào Mệnh cùng với Tả-Hữu và Xương Khúc. Như thế Mệnh Vô Chính Diệu đâu có “Phi yểu tắc bần”. Cụ này lại là con đầu của một gia đình trung lưu. Nhờ được cụ thân sinh thức thời, khéo uyển chuyển để thích nghi với tình trạng đất nước vào những năm đầu của thế kỷ thứ 20. Cụ Mậu Tý vào năm 1910, năm cụ 22 tuổi, đã bỏ bút lông, chuyển sang học quốc ngữ và Pháp ngữ nên khi chế độ thi cử bị Chính phủ Bảo Hộ bãi bỏ vào năm 1918 tại Miền Bắc để : ông Nghè, ông Cống cũng nằm co Ước gì đi học làm ông Phán Tối rượu sâm banh, sáng lại sữa bò. Thì ông Cụ Mậu Tý đã nghiễm nhiên là một “Chef Comptable” tại một hãng buôn lớn ở Hải Phòng, có lương cao, bổng hậu, tậu được nhiều nhà lớn cùng nuôi được con học thành tài ! Nhưng nếu Cụ Mậu Tý Mệnh Vô chính diệu này chỉ là bậc trung phú và gần thượng thọ, thì Lá số sau đây mới chứng minh được một cách thật rõ ràng rằng Mệnh Vô chính diệu mà vẫn Đại Phú Quý và Đại Thọ. Tôi muốn nói đến lá số của một nhân vật tại Sài Gòn trước đây mà hầu hết giới trí thức và giới sinh viên Luật Khoa đều biết đến. Đó là Giáo sư Đại Học Luật Khoa Vũ Quốc Thông đã từng làm Bộ Trưởng Bộ Y Tế dưới thời cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Đây là người có bằng cấp cao như thế mà Mệnh Vô chính diệu thì đủ cho qúy vị độc giả thấy rằng không một câu “Phú” nào trong khoa Tử-Vi Đẩu Số cũng có gía trị tuyệt đối cả.
( Lời phụ “lăn tăn” 123 : Lá số vừa là VCD vừa là Nhật Nguyệt chiếu hư vô ( Triệt câu hút Nguyệtkhông sáng lắm nhờ Tuần-Xương-Quyền-Tả phù + Trong chuỗi Tam Hóa liên châu, nhưng ngộ Hỏa-Linh-Kình ám - Nhật không tối lắm nhờ có Khoa-Khúc-Hữu bật + Trong chuỗi Tam Hóa liên châu & cư Dương cung…
1/--Mệnh-Thân tam hợp Thiên thọ thì không chết yểu được…Mạng Tích Lịch Hỏa ( Lửa sấm sét ) không kỵ Thủy…
2/--Mệnh-Thân cư tam hợp Thái tuế gia Triệt đắc Nhật-Nguyệt không tối tăm, chiếu hư vô + Khoa Quyền + Tả Hữu + Xương Khúc + Tam hóa liên châu ( ngộ Tuần làm chiết giảm nhiều, cũng vì vậy thay vì được làm chủ, thì làm công ăn lương ), như vậy đương số làm chef , có lương cao, bổng hậu, tậu được nhà lớn cùng nuôi được con học thành tài, cũng là điều đương nhiên…).
2. GS Vũ Quốc Thông sinh ngày 22 tháng 11, năm Đinh Tỵ, giờ Tý :
( Lá số )
Sở dĩ ông đỗ đạt cao như thế, đạt được “công khanh” như vậy là vì ông gần được như có được “cách” ở trong sách.“Mệnh Vô chính diệu đắc Tam không Hữu Song Lộc phú qúy khả kỳ” tức là Mệnh không có chính tinh tọa thủ cần phải có Tam Không thủ và chiếu, lại cần có hai sao Lộc Tồn và Hóa Lộc thủ hay chiếu nữa mới có thể một ngày kia được giàu sang hơn. Căn cứ vào câu phú này, tôi thấy GS Thông có được : - Nhị không, tọa, chiếu : Tuần Không ở hai cung Tí , Sửu và Thiên Không ở cung Thiên Di chiếu thẳng vào Mệnh, tức là GS Thông được cách Mệnh Vô chính Diệu đắc Nhị Không. Cái Không thứ ba là Địa Không, mà trên lá số này, đóng ở Cung Hợi, cung Huynh Đệ, giáp Mệnh, có người lại cho rằng trường hợp của GS Thông lại còn tốt đặc biệt, vì “Chính bất như chiếu, chiếu bất như giáp”. - Song Lộc triều viên : “Thân vinh quý hiển” nghĩa là Mệnh cung có Lộc Tồn và Hóa Lộc chiếu vào thì cuộc đời đỗ đạt lớn và làm nên sự nghiệp vẻ vang. áp dụng câu phú trên vào Lá số của GS Vũ Quốc Thông, tôi thấy ông tuổi ĐINH nên Lộc Tồn ở cung Ngọ, cung Thiên Di, chiếu thẳng vào Mệnh, mà cung Thiên Di lại có Thiên Đồng, Thái âm đóng và theo lối:”Đinh Nguyệt, Đồng Cơ Cự” thì Hóa Lộc và Hóa Quyền đều ở Thiên Di chiếu Mệnh cho nên lá số Tử vi của GS Thông đúng là được cách” Mệnh Vô Chính diệu đắc Nhị không, hữu Song Lộc, phú qúy khả kỳ”. So với Lá số tuổi Mậu Tý nêu trên thì Lá số này thua Lá số tuổi Đinh Tỵ ở 2 điểm chính sau : – Chỉ có Tuần Không ở Ngọ, Mùi chiếu mệnh.
– Không có Song Lộc tọa hay chiếu mệnh.
Nếu nay cho TRIỆT cũng là một KHÔNG lấy cớ là người ta thường gọi “Triệt Lộ Không Vong” thì lá số tuổi Mậu Tý được NHỊ KHÔNG, dù không thua Lá số của GS Thông quá nhiều. Bởi lẽ có Xương, Khúc, Tả Hữu chiếu Mệnh, trong khi của GS Thông thì có Hữu Bật không có Tả Phù, có Văn Khúc không có Văn Xương. Nếu tiếp tục thảo luận thêm thì tôi lại còn thấy như sau : Khi cung Mệnh Vô Chính Diệu hay quá xấu phải căn cứ cung Thiên Di mà đoán Điều này quan trọng lắm, nhiều sách đã nói đến và kinh nghiệm cá nhân cho biết đôi khi tôi chỉ nhìn cung Thiên Di không cần nhìn vào cung Mệnh mà đoán gần trúng mọi việc chính. Lá số của GS Thông tốt đặc biệt như thế là do cung Thiên Di có Lộc, Quyền, có Song Lộc, có Đào Hoa, Thiên Không đồng cung (thông minh) học giỏi là ở hai sao này, mà nhờ có Song Lộc, có Hóa Quyền nên ông không hoạnh phát, ông đi học mỗi năm một lớp rồi dần dần tiến đến địa vị cao sang, mà ông có tài, có học nên sự giàu sang, phú qúy của ông phải bền, chứ không lúc nổi, lúc chìm. Sở dĩ, tôi nói thế là tôi vừa nói theo các sao, lại vừa nói theo tướng mặt và chỉ tay nữa ! về các sao tôi nghĩ, số ông cung Mệnh không ngộ Địa Không và Địa Kiếp vì tôi thường thấy chỉ có những Lá số Mệnh Vô Chính Diệu mà có Địa Không, Địa Kiếp mới phát lên một cách đột ngột, để rồi cũng xuống một cách bất ngờ. Lại nữa, Không, Kiếp tọa thủ Mệnh thì người không khoẻ mạnh mấy. Đằng này, nhờ là sinh vào giờ Tý, mà Mệnh đóng tại cung Tý nên GS Thông người trông thật phúc hậu, đẫy đà với đôi má dày, tức là nơi Địa Khố sung mãn tức là số giàu có lớn. Bây giờ chỉ còn xét xem GS Thông sẽ thọ được bao nhiêu ? Trước hết, nếu hai cụ thân sinh ra giáo sư đã trên 80 tuổi mà còn tại đường, thì GS cũng hy vọng được thọ lắm. Tôi xin đan cử một ví dụ để chứng minh rằng Mệnh Vô Chính Diệu không những đại phú, mà còn đại thọ, hay thượng thọ nữa.
( Lời phụ “lăn tăn” 123 : Lá số vừa là VCD vừa là Nhật Nguyệt chiếu hư vô ( Nguyệtu ám + Thiên không = Sáng sủa + Mạng Âm, sanh vào lúc giữa đêm hạ huyền được hưởng Nguyệt khá nhiều # 60-65 % + Song Lộc-Quyền-Quang Quí-Long Kỵ + Thiếu dương chính Ngọ được Nguyệt kết hợp với Thiên không, không bị chi phối để trở thành “ overheat “, xung chiếu Mệnh nên đương số có trí tuệ linh mẫn, thông minh, học giỏi, có chức danh địa vị cao, bổng lộc hậu - Nhật tối ít, nhờ Thiên quí & cư Dương cung + Kỵ ít ảnh hưởng với người mạng Âm, nhưng vẫn ảnh hưởng tới mắt bị cận hoặc bị loạn thị …Cung Phúc hội tụ những cách tốt như trên + Khoa-Thiên quan-Tam Đức, tránh được các sát tinh + Cục khắc Mệnh nhờ thế mà được bền vững, trái lại còn tạo thêm môi trường thuận lợi giúp đương số có đường công danh, tài lộc thăng tiến không ngừng. ( Sa Trung Thổ (đất bãi cát) không sợ Mộc, vì cây không sống giữa đường cái quan hay trên bãi cát, đầm lầy )…Với những cách tốt trên, thì đương số khó mà bị yểu mệnh…).
…
Cách đây đã lâu tình cờ , ở Sở Thú tôi đã được gặp một ông cụ đầu râu, tóc bạc, cho tôi mượn một quyển sách Tử-Vi bằng chữ Hán, trong đó có ghi một lá số Vô Chính Diệu thọ đến 92 tuổi. Đó là Lá số :
3. Tuổi Đinh Hợi, sinh tháng 9 ngày 20 giờ Dần.
( Lá số )
Mệnh lập tại cung Thân, Vô chính Diệu, có Cự Nhật ở cung Dần và Đồng âm ở cung Tý chiếu lên “Hư không chi địa”. Tôi chú ý đặc biệt lá số này. Bởi vì tác giả quyển sách đã không biết là lá số của ai, nên tôi đã đánh dấu một dấu hỏi to tướng thay cho chỗ vẫn dùng để ghi tên người có số như Khổng Minh, như Hán Cao Tổ. Vì thế đến năm 1964, khi sang Đài Loan tôi có đem ra bàn với các bạn đồng nghiệp tại Bộ Giáo Dục của THQG thì được biết đó là lá số của Tử-Vũ mà phú Thái Vi có viết ”Tử-Vũ tài năng, Cự Tú Đồng Lương, xung thả hợp”. ông Tử-Vũ có tài vì Mệnh vô chính diệu ở cung Thân, có Cự Môn, Thái Dương (chứ không phải là Qủa Tú như có sách đã giảng) và Đồng, âm. Cơ Lương chiếu, cùng với Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc. Số Đinh Hợi này thọ đến 92 tuổi là nhờ : – Không có Địa Không, Địa Kiếp chiếu vào Mệnh, Thân. – Có Thanh Long ở cung Thìn hợp với tuổi Đinh, đi cùng Hóa Kị ở cung Dần chiếu vào Mệnh. Nhân dịp này tôi xin nói thêm rằng Cụ Ba La , rất thích những lá số “Thanh Long Thìn Thổ, Đinh Kỷ âm Nam, gia hội Kỵ tinh, công danh toại mãn”. Cụ Ba La thường chỉ cho tôi biết là chỉ một cách này là đủ để giảng sự giàu sang, phú quý và thượng thọ của lá số tuổi Đinh Hợi nêu trên. Giáo sư Vũ Quang Thông cũng tuổi Đinh Hợi cũng có Thanh Long ở cung Thìn, lại có Hóa Kị ở cung Thân chiếu vào Mệnh như lá số tuổi Đinh Hợi nên tôi chắc GS Thông vừa về lá số, vừa về truyền thống gia đình, ắt cũng sẽ được sống lâu, giàu bền như Tử-Vũ. Lời giải đoán trên cũng là sự trả lời những thắc mắc của BS Hiển cũng như những ai có lá số Mệnh Vô chính diệu có “PHI YỂU TẮC BẦN” không ?.
( Lời phụ “lăn tăn” 123 : Lá số tuy Mệnh là VCD nhưng cư trú ngay nền đất của Tràng sinh +Mệnh-Cung tương sinh, nhưng không bị sinh xuất ( Đất đầu thành không sanh ra Kim được ) + Mệnh Cục đồng Thổ + Bao gồm những cách tốt như trên, thì khó mà bị yểu mạng…Cung Thân cư Quan : Cơ Nguyệt Đồng Lương miếu vượng hoàn hảo + Thiếu dương Thiên không cư Tý, trí tuệ linh mẫn một cách tiềm tàng sâu sắc + Khoa Quyền Lộc + Phi- Long- Lưu hà + Lộc tồn-Sinh- Vượng + Xương Khúc…Với những cách tốt đẹp như trên, thì làm sao bị “ Phi bần tắc yểu “ cho được…)
( Lời phụ ) Tóm lại : Câu “ Mệnh VCD phi bần tắc yểu “ đúng hay sai…còn tùy thuộc vào từng lá số cụ thể & “ Tâm lực “ của mỗi người…!
( Trích dẫn…).
xxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxx
Trong nhiều sách Tử Vi, cũng như trên tờ giai phẩm KHHB này đã có nhiều lần bàn về “ MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”; nhưng vì đề tài này rất bao la nên tôi tưởng không phải là vô ích khi đưa ra những chi tiết và kinh nghiệm dưới đây để qúy bạn tìm hiểu dễ dàng và chính xác hơn về Mệnh Vô Chính Diệu.
Thực vậy, từ trước đến nay, mỗi khi gặp trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu, chúng ta thường thường chỉ biết căn cứ vào những câu phú quen thuộc như:
–Mệnh Vô Chính Diệu phi yểu tắc bàn.
– Mệnh Vô Chính Diệu đắc tam không nhi phú qúy khả kỳ.
– Tam không độc thủ phú qúy nan toàn.
– Xét xem phú qúy mấy người, Mệnh Vô Chính Diệu trong ngoài tam không …
Chứ làm gì có một hệ thống hoặc tài liệu chi tiết nào về trường hợp trên, đành rằng có những nhà tử-vi rất thông suốt về Mệnh Vô Chính Diệu nhưng rất tiếc các vị đó lại không chịu đem ra cống hiến. Vì vậy tôi mạo muội gom góp những chi tiết đã thâu lượm được và tạm chia làm hai phần:
– Những ưu khuyết điểm về Mệnh Vô Chính Diệu.
– Những điều phức tạp về Mệnh Vô Chính Diệu.
1-NHỮNG ƯU KHUYẾT ĐIỂM VỀ MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU
Những khuyết điểm
Hầu hết các nhà tử-vi đều không khen những lá số có cách Vô Chính Diệu tại Mệnh vì cho rằng những cách này có nhiều khuyết điểm hơn là ưu điểm. Những khuyết điểm chính như sau:
1) Căn bản không vững
Căn bản ở đây không có nghĩa là khả năng hoặc tài năng mà chỉ có nghĩa là môi trường của mình. Mệnh Vô Chính Diệu (tức là không có chính tinh thủ mạng) bao giờ cũng phải tuỳ thuộc vào chính tinh ở cung xung chiếu, và khi đã phải tuỳ thuộc tức là không có căn bản vững, hoặc nói nôm na là không có gốc. Nếu không được cung xung chiếu có sao tốt lại phải hướng sang hai cung hợp chiếu (Tài và Quan) mà ảnh hưởng sẽ yếu hơn nhiều và do đó môi trường của Mệnh lại càng bấp bênh hơn nữa. Vì vậy, dù cho người Mệnh Vô Chính Diệu có tài năng, thông minh (do các yếu tố tử-vi khác cho hưởng) rất dễ bị thăng trầm về sự nghiệp khi gặp Đại tiểu hạn giao động mạnh, không khác gì căn nhà không có cửa bị cơn gió lốc thổi thốc vào làm tan tác cả căn nhà, trừ trường hợp có Tuần Triệt án ngữ thì đỡ hơn nhiều.
2 - Khó đóng vai trò chính
Như trên đã nói, Mệnh Vô Chính Diệu không khác gì căn nhà không có cửa dễ bị ảnh hưởng của thời tiết cũng như ngoại cảnh. Do đó người Mệnh Vô Chính Diệu (dù Đắc Tam Không) không thể và không nên giữ vai trò chính trong bất cứ lĩnh vực, cảnh ngộ nào, từ xã hội, gia đình cho đến hôn nhân. Chính cụ Hoàng Hạc cũng đã nêu trên KHHB trước kia là gặp trường hợp này nên cam phận làm “phó” thì yên thân, nếu làm chính dễ bị mất chức. Riêng tôi, tôi còn nói thêm rằng ngay trong gia đình cũng vậy, người Mệnh Vô Chính Diệu cần phải là con thứ hoặc nếu chẳng may là con trưởng thì cần phải là con bà vợ sau của cha mình (tức là bà vợ chính không có con trai). Như thế mới có thể sống lâu hoặc mới có công danh khá được. Thậm chí đến vấn đề hôn nhân, người Mệnh Vô Chính Diệu nên chịu làm “kẻ đến sau” thì cuộc sống dễ thịnh vượng hơn, còn trường hợp vợ mình là chính chuyên thì đương nhiên bị thiệt thòi về sự nghiệp. Đó là một điểm “hận” lớn lao cho người Mệnh Vô Chính Diệu. Kể ra cũng chẳng có gì khó hiểu, vì khi căn nhà trống (vô chính diệu) thì ta cần có một cái vật gì đó che bớt cho khuất gió, tuy hơi trở ngại nhưng đỡ bị tan tác khi có gió mưa lớn. Về người cũng vậy, nếu có người khác “đứng mũi chịu sào” thì khi gặp trách nhiệm lớn lao mình làm phó đâu có chịu lỗi nhiều hoặc gánh vác nhiều, dù cho mình có nhiều khả năng chăng nữa. Còn về hôn nhân tuy không đặt vấn đề trách nhiệm nhưng phải có cái gì đó “án ngữ“ gián tiếp, ví như Tuần, Triệt vậy.
3) Khó phát sớm
Trừ một vài trường hợp đặc biệt, tôi nghiệm thấy các người mệnh vô chính diệu đều không phát khi còn trẻ, không khác gì một cái cây non khi mới nẩy mầm nơi đất xấu, phải trông cậy vào phân bón hoặc mưa nắng thuận hòa mới dần dần vươn cao, có hoa có lá. Vì vậy, nếu qúy bạn có Mệnh Vô Chính Diệu cũng đừng bao giờ qúa thất vọng khi thấy sự nghiệp, công danh của mình phát chậm, miễn là những đại vận từ trung vận trở đi không quá tệ. Nếu qúy bạn nào phát sớm trong trường hợp này tưởng cũng không nên qúa mừng và tự tin vì không khác gì “hoa sớm nở tối tàn” về công danh cũng như về tuổi thọ. Để cho dễ hiểu, tôi xin đơn cử một thí dụ: một đứa bé sơ sinh nếu ra đời non hoặc qúa yếu đuối ngay từ lúc lọt lòng mẹ, nếu cứ cho uống đủ các thứ thuốc bổ để mau mập mạp, khoẻ mạnh không thể đúng cách bằng nuôi nấng một cách điều độ cho khoẻ mạnh lần lần. So với Tử vi cũng vậy, nếu Mệnh Vô Chính Diệu mà gặp ngay Đại Hạn kế tiếp thật tốt rồi những đại hạn sau xấu thì không thể nào hay bằng đại hạn kế kém nhưng những đại hạn sau tốt đẹp, để cho mệnh đủ thời gian hấp thụ các sao thuộc các cung xung chiếu và hợp chiếu, như thế mới đủ khả năng sử dụng các đại hạn tốt một cách vững bền.
4) Nghị lực kém:
Khuyết điểm sau chót của người Vô Chính Diệu tại Mệnh là khó lòng họ có can trường hoặc tinh thần dũng mãnh cương nghị, dù có tài ba lỗi lạc đến đâu cũng vậy. Điều này cũng rất dể hiểu vì khi mình nhờ vả ai (tức là Mệnh nhờ các cung chiếu) thì mình phải chịu ảnh hưởng của người đó, nếu không muốn nói là lệ thuộc và khi đã ở cảnh ngộ như thế thì làm sao giữ vững được lập trường. Tuy nhiên, nếu Mệnh chịu ảnh hưởng của cung Tài Quan nhiều hơn thì việc lệ thuộc cũng nhẹ hơn nhiều, vì Tài Quan là các cung của cá nhân mình, thì chỉ ngại cung Thiên Di, nếu có các chính tinh dùng cho Mệnh được nhiều thì sự lệ thuộc vào ngoại giới sẽ mạnh mẽ hơn vì cung Thiên di tiêu biểu cho giới giao thiệp, bạn bè trong xã hội (Tôi sẽ bàn về cung Thiên Di trong một bài riêng biệt). Vậy quý bạn cần chú ý đến điểm này khi cân nhắc về nghị lực của người Mệnh Vô Chính Diệu.
Những ưu điểm
Chắc qúy bạn nào có Mệnh Vô Chính Diệu sau khi đọc những điểm trên đây đều thất vọng cho số phận của mình, nhưng thực ra con người Mệnh Vô Chình Diệu lại có những điểm độc đáo khác mà những người khác ít khi có.
1) Đa năng mẫn tiệp
Khi Mệnh đã “bỏ ngõ” tuy dể bị ảnh hưởng của các sao xấu bên ngoài nhưng cũng tiếp nhận dễ dàng những tinh hoa của các cách tốt chiếu về, nếu có. Do đó, người Mệnh Vô Chính Diệu (khi lớn tuổi) thành công dễ dàng nhưng tuần tự trong mọi lãnh vực do khả năng tìm hiểu, tò mò, kiên nhẫn của mình, mức độ thành công tùy theo các cách tốt trong tử vi. Vì thế, trong nhiều sách như cuốn Tử-Vi Đầu Số Tân Biên của Vân Đằng Thái Thứ Lang đều nói rằng người Mệnh Vô Chính Diệu khôn ngoan sắc sảo là thế. Nếu qúy bạn là Chủ nhân hay Giám đốc thì nên dùng người Mệnh Vô Chính Diệu vì họ rất chịu khó học hỏi, có lương tâm nhà nghề, có óc cầu tiến, nhưng đừng bao giờ dùng họ trong vai trò chủ chốt như đã nói trên để cho họ khỏi bị mất chức. Đến như Khổng Minh kia (cung Mệnh Vô Chính Diệu) tuy tài ba phi-thường như thế mà cũng đành phải chịu làm cố vấn, quân sư cho kẻ khác, chứ đâu có xưng vương đồ bá gì nổi …
2) Ít bị tai nạn
Tôi xin nói ngay là người Mệnh Vô Chính Diệu bớt được nhiều tai nạn chứ không phải là chẳng bao giờ bị tai nạn. Sở dĩ họ được điểm may như vậy là vì Mệnh Vô Chính Diệu khi gặp Đại tiểu hạn Sát Phá Liêm Tham và hung tinh đắc địa lại phát mạnh, trong khi Mệnh có chính tinh lại không hợp và có khi còn bị nguy hại. Như vậy là Mệnh VCD đã bớt đi một số yếu tố tai hại vì đã quen với hung tinh.
Vì theo nguyên tắc chỉ có hung tinh mới gây ra tai ương nhiều hơn các sao khác, vì các bại tinh chỉ gây thất bại hoặc bịnh hoạn chứ ít khi đem đến tai nạn như hung tinh. Như vậy kể ra cũng công bằng vì người Mệnh Vô Chính Diệu thường hay khổ về tinh thần thì ít ra cũng phải bớt được tai ương nhiều.
3) Dễ thích ứng với hoàn cảnh
Mệnh Vô Chính Diệu chẳng khác gì Mệnh trung lập, gặp đại vận nào cũng thích ứng được không bị cảnh “chéo cẳng ngỗng” như Mệnh có chính tinh, do đó đỡ bị gặp bước đường cùng (Đây tôi không nói về thọ yểu mà chỉ bàn đến công danh, sự nghiệp, vì lẽ tất nhiên gặp hạn xấu qúa thì phải chết). Thí dụ như hạn gặp Tuần, Triệt hoặc Thiên Không đối với Mệnh có chính tinh (nhất là sao Tử-Phủ) thì rất tai hại, bất lợi nhưng đối với Mệnh Vô Chính Diệu lại hay vì không khác gì nhà cửa đang trống trải bị gió thốc vào nay lại được lắp cửa ngõ đàng hoàng (tức là Tuần Triệt, Thiên Không) thì căn nhà yên ổn biết bao. Tôi đã được xem nhiều Lá số vô chính diệu, có người bị thăng trầm luôn luôn nhưng gặp hoàn cảnh nào cũng thích ứng được rồi dần dần ổn định
II- NHỮNG ĐIỂM PHỨC TẠP VỀ MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU
Tôi có thâu thập được khá nhiều điểm phức tạp về cách giải đoán Mệnh Vô Chính Diệu, nhưng chỉ xin nêu ra những điểm chính và quan trọng (tôi không nhắc lại những điểm đã bàn tới trên KHHB) để qúy bạn đỡ bị lúng túng khi quyết đoán:
1) Đắc Tam Không
Thường thường các nhà tử vi đều chê rằng Mệnh Vô chính diệu chỉ tốt khi đắc tam Không (tức là có Tuần, Triệt, Địa không hoặc Thiên không tôi không bàn chứ “Không” ứng cho những sao nào kể trên vì có vị không công nhận Tuần là “Không”, có vị lại bảo rằng Thiên Không mới không phải là “Không” nhưng chưa có ai chứng minh được hợp lý), và cụ Song An Đỗ Văn Lưu (tác giả cuốn Tử vi chỉ nam) có nêu ra thêm là mạng Hỏa và Kim mới hợp với cách này nhất. Điểm này chỉ đúng khi đương số là con một, mà tôi đã bàn trên KHHB rồi. Ngoài ra, quý bạn còn phải phân biệt như sau:
-Nếu mạng có nhiều trung tinh rực rỡ quần tụ mà có một Không án ngữ và hai Không chiếu về thì đừng nên ham cách “Đắc tam không” nữa vì các trung tinh bị mất hiệu lực. Trong trường hợp này chỉ nên có Tam không ở 3 phương chiếu về là hơn, nếu không thì chẳng cần đủ 3 Không mới khỏi tai hại cho Mệnh.
-Khi nào Mệnh không chính tinh mà chỉ có toàn bại tinh hoặc bàng tinh không quan trọng mới cần có một “Không” án ngữ, nhưng lại có điểm thiệt thòi là các cách hay ở bên ngoài khó bổ túc cho Mệnh vì bị “Không” ngăn trở, thành ra chưa hẳn là hoàn toàn có lợi. Về trường hợp này nhiều vị cho rằng nên có Thiên không hoặc Địa không hơn là Tuần, Triệt vì hai sao Thiên Địa Không không ngăn trở sự xâm nhập hoặc ảnh hưởng của các sao bên ngoài.
2) Không đắc Tam Không
-Trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu không đắc Tam Không, tức là chỉ có Nhất, Nhị Không (ít khi không đắc Không nào) chưa hẳn là kém Tam Không và cũng không ngại “phi yểu tắc bần”, vì còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa.Chỉ có điểm cần nhất là cung Phúc Đức không được xấu vì Mệnh yếu sẵn rồi phải nhờ vào cung “gốc” là cung Phúc Đức để tránh vấn đề kém thọ trước đã rồi mới tính đến công danh, sự nghiệp qua các cung hợp chiếu và đại hạn. Tôi đã được xem nhiều lá số Mệnh Vô Chính Diệu chỉ có đắc Nhất Không mà vẫn phú quý và chẳng hề chết non, nhưng những lá số này không có cái nào có cung Phúc Đức xấu.
3) Nhật Nguyệt tịnh minh chiếu hư không chi địa
Cách này chắc nhiều bạn đã biết và nhiều nhà tử vi cho rằng rất hay, nhưng chúng ta cũng cần phân biệt một vài trường hợp như sau để khỏi sai lạc nhiều :
– Khi Mạng vô chính diệu có nhiều sao xấu (như: Địa Kiếp, Hỏa Linh, Phục Binh…) thực ra không nên có Nhật Nguyệt sáng sủa chiếu vì như thế không khác gì “vạch áo cho người xem lưng” bao nhiêu sự xấu xa trong nhà mình đem phô ra hết, tuy vẫn thành công, phú qúy nhưng mọi người đều thấy rõ bộ mặt thực của mình, như vậy tưởng cũng chẳng lấy gì là hay. Trong trường hợp này thà đừng có Nhật Nguyệt hoặc nếu có thì hãm địa (tức là không sáng sủa) còn hay hơn để đỡ bị chê cười, nhục nhã.
– Nếu mạng vô chính diệu có Tuần hoặc Triệt án ngữ mà có Nhật Nguyệt tịnh minh chiếu thì không còn được hưởng cách này nữa, hoặc nếu có được hưởng cũng chỉ là cái vỏ phú quý, đó là “giả cách” mà thôi. ( Cái này thì không đồng ý với tác giả…! Trường hợp này thường gọi là Nhật-Nguyệt tịnh minh chiếu hư vô & khác với Nhật-Nguyệt tịnh minh chiếu hư không chi địa…Thí dụ : lá số của Bill Gates cung Tài có cách Nhật-Nguyệt tịnh minh chiếu hư vô này, chẳng hạn )
– Nếu được đúng cách Nhật Nguyệt (tức là Mệnh không có Tuần, Triệt và cũng không có các sao xấu) thì nên có thêm Thiên Không hoặc Thiên Riêu, Thiên Hư để khoảng chân không được thăm thẳm cho có nhiều chiều sâu cho mặt trời, mặt trăng chiếu, như thế công danh, phú qúy mới phi thường và óc thông minh mới siêu việt, nhưng vẫn phải đóng vai trò “phó” mới lâu bền được ( Riêng cung Tài mà có Thiên không án ngữ trống trơn như vậy, thì phải chờ chứng nghiệm lại…)
…
Một dạng khác của cách “ Nhật Nguyệt tịnh minh chiếu hư không chi địa “.
Nam giới, 02 tháng 05 năm Quý Tị, Giờ Tị
( Lá số )
Bao nhiêu cách cục tốt đẹp đều đổ dồn vào cung Quan hết rồi…!!!
Thiên lương hãm, mệnh âm Kim như con dao nhỏ chặt phát cây cỏ dại um tùm vô dụng + Lửa vừa đủ thiêu đốt cành nhánh đã chặt , cho sân vườn được khoáng đãng để Riêu trở thành lực câu hút mãnh liệt ( hơn cả Tuần-Triệt ) ánh sáng Nhật-Nguyệt chói chang chiếu vào…
Đây là l/s số Đại thông minh-Đại quí hiển…Lá số của 01 vị Lương Thần Quốc đống...Người này nằm được trong BCT là phước của muôn dân…!!!
-VDCX !
…4) Đại tiểu hạn
Đối với Mệnh Vô chính diệu, việc giải đoán Đại tiểu hạn khác hẳn đối với Mệnh có chính tinh thủ Mệnh. Vì Mệnh vô chính diệu có khả năng hấp thụ đủ mọi cách, từ cách Tử Phủ Vũ Tướng, Cơ Nguyệt Đồng lương cho đến cách Sát Phá Liêm Tham cùng với hung tinh đắc địa, chẳng bao giờ không ”ăn khớp” với các cách này. Tuy nhiên, chỉ ngại đi đến Đại tiểu hạn cũng Vô chính diệu lại không có Không nào thì khác nào một cái nhà trống, không cửa ngõ lại ở trên một khu vực “đồng không mông quạnh”, làm sao chống lại được mưa gió hoặc bị ảnh hưởng của bên ngoài, như thế tức là làm ăn thất bại dễ dàng, sự nghiệp suy sụp mạnh mẽ.
Qua những điểm tôi trình bày trên đây, chắc hẳn qúy bạn đều nhận thấy rằng dù sao người có Mệnh Vô chính diệu vẫn chịu nhiều thiệt thòi, bất lợi, nhất là đối với ai ham công danh, quyền chức lớn, mặc dù họ có nhiều tài năng đôi khi xuất chúng, nhưng tài để phục vụ cho kẻ khác (nhiều khi kém mình) thì tưởng cũng là điều không hấp dẫn. Chỉ đối với ai có đầu óc triết lý, ưa sống về tinh thần, ưa nghiên cứu về lý số, biết an phận thời may ra mới hợp cách Mệnh Vô chính diệu, dù đắc Tam Không hay Không.
( Trích dẫn…) KHHB số 74C2
xxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxx
Thanked by 24 Members:
|
, , , , , , , , , , , , , , , , , , , , , , , |
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối |
---|
1 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:












