11
Hợp tịnh Thập Bát Phi Tinh sách thiên Tử Vi Đẩu Số toàn tập
Viết bởi BryanAdam, 20/12/14 12:32
Thập Bát Phi Tinh Tử Vi Đẩu Số Toàn Tập
60 replies to this topic
#31
Gửi vào 07/01/2015 - 12:16
87. Huyền Vi luận
Hi Di tiên sinh viết:
Đẩu số chi liệt chúng tinh, do đại dịch chi phân bát quái,
bát quái phi thoán hệ bất minh,
ngũ tinh phi giảng minh hà thố,
thị dĩ quan đẩu số giả, tái tam thẩm động tĩnh chi cơ,
(Đẩu Số bày ra chúng tinh, do đại Dịch phân chia thành Bát Quái,
Bát Quái mà thiếu Thoán từ (lời luận đoán) thì cũng chẳng rõ nghĩa,
Ngũ Tinh mà không được giảng giải kỹ thì dùng làm sao được,
Môn xem Đẩu Số này đây, luôn xét đến động tĩnh của cơ trời).
Đệ nhất biện tân chủ chi phân, động tĩnh tuần hoàn bất dĩ,
chủ tân canh điệp vô câu,
chủ nhược vô tình, hà tân chi hữu,
tân bất năng đối, hà túc thủ tai!
(Trước tiên phân biệt Chủ-Khách mà xét, Động-Tĩnh tuần hoàn không dứt,
Chủ-Khách luân phiên thay đổi chứ không gò bó cố định,
Chủ (nếu) mà vô tình, lẽ nào Khách lại có tình cho được,
Khách mà không thường xuyên ứng đối, thì sao đủ xứng mà dùng làm khách được!)
Quý bỉ Dương Đà, duy thị Lộc Tồn chi hảo ác, tiếu ngô Nhật Nguyệt dã.
Tư Không Kiếp chi hưng vong, sát hữu sát nhi vô hình, tuy sát hữu cứu; hình hữu hình nhi dị đan, chung thân bất khắc.
(Tự thẹn thay Kình Đà, chỉ trông coi tốt xấu của Lộc Tồn, mà (lại dám) cười Nhật Nguyệt ta vậy.
Ngẫm về hưng vong của Không Kiếp, sát thì có sát (nhưng) mà không Hình (khắc) cứng nhắc, tuy sát mà lại có thể cứu chữa; hình thì có hình nhưng đơn giản dễ thay đổi, (về lâu dài) cả đời sẽ không khắc).
Hỏa Tinh vượng cung vi phú luận, Dương Đà đắc lệnh khởi hung thần?
Lưỡng lân gia vũ thượng khả xanh trì, đồng thất dữ mưu tối nan phòng bị.
(Hỏa tinh ở vượng cung thì luận là phú, Kình Đà chỗ đắc lệnh há có còn là hung thần nữa sao?
Kẻ hung bạo ở ngay sát vách đôi bên nhà mình thì cũng còn có thể miễn cưỡng chống đỡ lại, còn người cùng nhà mà có mưu hiểm đen tối thì thực là khó phòng bị).
Cân hỏa phần Thiên Mã, trọng Dương trục Lộc Tồn.
Kiếp Không thân thích vô thường, Quyền Lộc hành tàng mỹ định.
Quân tử tại Khôi Việt, tiểu nhân dã Dương Linh.
Hung bất giai hung, cát vô thuần cát.
(Cân đo sức nóng, nghị lực của Thiên Mã, coi trọng trục của Kình Dương Lộc Tồn.
Kiếp Không thì coi thân thích là vô thường, Quyền Lộc thì định là tác phong cử chỉ tươi đẹp.
Quân tử (xét ở) tại nơi Khôi Việt, tiểu nhân thì xét ở Dương Linh.
Hung thì không có cái gì hoàn toàn hung, Cát thì cũng chẳng có cái gì thuần là cát).
Chủ cường tân nhược, khả bảo vô ngu.
Chủ nhược tân cường, hung nguy lập kiến.
Chủ tân đắc thất lưỡng tương nghi,
hạn vận Mệnh Thân đương hỗ kiến.
(Chủ cường Khách nhược, thì có thể đảm bảo là chẳng có gì phải lo ngại.
Chủ nhược Khách cường, thì thấy ngay được là hung hiểm nguy hiểm.
(Phải xem) Chủ-Khách, chỗ hay chỗ dở, đôi đàng tương ứng đối đãi lẫn nhau,
Vận hạn Mệnh-Thân cũng đối đãi tương hỗ lẫn nhau).
Thân Mệnh tối hiềm Dương Đà Thất Sát, ngộ chi vị miễn vi hung.
Nhị hạn thậm kỵ Tham Phá Cự Trinh, phùng chi định nhiên tác họa.
Mệnh ngộ Khôi Xương đương đắc quý, hạn phùng Tử Phủ định tài đa.
(Thân-Mệnh rất sợ gặp Dương Đà Thất Sát, gặp thì khó tránh được hung hiểm.
Nhị hạn tối kị Tham Lang Phá Quân Cự Môn Liêm Trinh, gặp thì nhất định sẽ tác họa.
Mệnh gặp Khôi Xương được nhận (quan) Quý, Hạn phùng Tử Phủ xác định đó là lúc đa tài (đến lúc gặp thời để mà được thi thố với đời)).
Phàm quan nữ nhân chi mệnh, tiên quan Phu Tử nhị cung,
nhược trị sát tinh, định tam giá nhi tâm bất túc, hoặc phùng Dương Đà, tu đề khốc nhi lệ bất can.
(Phàm xem mệnh Nữ nhân, trước tiên xem ở hai cung Phu và Tử Tức,
nếu gặp sát tinh, định là nhiều lần xuất giá mà lòng không yên, hoặc phùng Dương Đà thì đó là khóc con cạn nước mắt).
Nhược quan nam mệnh, thủy dĩ Phúc Tài vi chủ, tái thẩm Thiên Di như hà,
nhị hạn tương nhân, cát hung đồng đoán.
(Khi xem Nam mệnh, khởi đầu lấy Phúc và Tài cung làm chủ, sau đó xét Thiên Di xem thế nào,
nhị hạn (có) nguyên nhân hỗ trợ ra sao, (từ đó mới) cùng đoán ra cát hung như thế nào).
Hạn phùng cát diệu, bình sinh vận dụng hòa hài;
mệnh tác hung hương, nhất thị cầu mưu trở ngữ.
(Hạn phùng cát diệu thì lúc bình sinh được mọi sự hoạt động hài hòa;
Mệnh lạc đến chỗ hung thì đúng là một thân mưu cầu mà toàn gặp gập ghềnh trở ngại).
Liêm Lộc lâm mệnh, nữ đức thuần âm trinh khiết chi đức;
Đồng Lương thủ mệnh, nam đắc thuần dương trung chính chi tâm.
(Liêm Lộc lâm Nữ mệnh thuần âm thì đức hạnh trinh trắng, thanh khiết;
Đồng Lương thủ Nam mệnh thuần dương thì một lòng trung thành, chính trực).
Quân tử mệnh trung diệc hữu Dương Đà tứ sát,
tiểu nhân mệnh trung khởi vô Khoa Lộc Quyền tinh,
yếu khán đắc viên thất viên, chuyên luận nhập miếu thất hãm.
(Người quân tử thì ở trong cung Mệnh cũng có Dương Đà tứ sát,
Kẻ tiểu nhân thì ai dám bảo là không có Khoa Quyền Lộc ở trong cung mệnh nào,
(Cho nên) trọng yếu phải xem cung viên tốt xấu thế nào, chuyên sâu luận vào các sao nhập miếu hay lạc hãm).
Nhược luận tiểu nhi, tường thôi đồng hạn,
tiểu nhi mệnh tọa hung hương, tam ngũ tuế tất nhiên yểu chiết,
cánh hữu hạn phùng ác sát, ngũ thất tuế tất chí yểu vong.
(Nếu luận số tiểu nhi, phải suy xét thật tường tận về hạn của trẻ con,
Tiểu nhi mà Mệnh ở chỗ hung, thì dăm ba năm tất nhiên sẽ yểu chiết,
Lại thêm hạn phùng ác sát thì dăm bảy năm nhất định yểu vong).
Văn Xương Văn Khúc Thiên Khôi tú, bất độc thi thư dã khả nhân.
Đa học thiểu thành, chỉ vi Kình Dương phùng Kiếp Sát.
Vi nhân hảo tụng, cái nhân Thái Tuế ngộ Quan Phù.
(Có các sao Văn Xương Văn Khúc Thiên Khôi, chẳng đọc thi thư gì cũng là kẻ có tài.
Đa học mà thiểu thành, chỉ vì Kình Dương phùng Kiếp Sát.
Làm người giỏi lý lẽ, giỏi tranh cãi, khéo nói, đó là do Thái Tuế ngộ Quan Phù).
Mệnh chi lý vi, thục sát tinh thần chi biến hóa;
Số chi lý viễn, tế tường cách cục chi hưng suy.
Bắc cực gia hung sát, vi đạo vi tăng;
Dương Đà ngộ hung tinh, vi nô vi bộc.
(Cái Lý tinh vi của Mệnh, phải bám sát lấy sự biến hóa của các sao;
Cái Lý sâu xa của Số, phải xem cho tường tận sự hưng suy của cách cục.
Sao Tử Vi mà bị gia thêm hung sát tinh thì dễ theo đường tăng đạo;
Mệnh có Kình Đà mà gặp phải hung tinh thì dễ thành thân phận kẻ hầu người hạ).
Như Vũ Phá Liêm Tham, cố thâm mưu nhi quý hiển,
gia Dương Đà Không Kiếp, phản tiểu chí dĩ cô hàn.
Hạn phụ vượng tinh, tuy nhược nhi bất nhược;
mệnh lâm cát địa, tuy hung nhi bất hung.
(Như Vũ Phá Liêm Tham, vốn nhờ có mưu sâu mà quý hiển,
Thêm (vào đó) Dương Đà Không Kiếp thì phản chuyển thành chí nhỏ mà cô đơn, nghèo hèn.
Hạn mà hai bên có vượng tinh thì dù hạn có nhược (kém) cũng được cứu giải,
Mệnh lâm vào nơi cát lợi thì dẫu gặp hung cũng chẳng có gì nguy hiểm).
Đoạn kiều tiệt lộ, đại tiểu nan hành;
Mão Dậu nhị Không, thông minh phát phúc.
Mệnh Thân ngộ Tử Phủ, điệp tích kim ngân;
nhị chủ phùng Kiếp Không, y thực bất túc.
(Đại tiểu (hạn) khó khăn gian khổ, khó đi,... là bởi vì "đoạn kiều tiệt lộ" (đây là 1 thành ngữ có nghĩa đen là "cầu bị chặt gãy, đường bị chặn", nhưng nghĩa bóng ám chỉ việc hành hạn mà gặp phải Tiệt/Triệt lộ thì đó là coi như bị chặn phá, bị ngáng trở, bị gặp khó khăn,...);
Ở cung Mão Dậu mà gặp nhị Không thì lại là thông minh, phát phúc.
Mệnh Thân mà gặp Tử Phủ thì giàu có dồi dào vàng bạc (điệp tích kim ngân);
Nhị chủ (thường chỉ về Mệnh chủ & Thân chủ, nhưng trong trường hợp này thì nên hiểu Nhị Chủ = Tử Phủ) mà gặp Kiếp Không thì thiếu ăn thiếu mặc).
Mưu nhi bất toại, Mệnh hạn ngộ nhập Kình Dương.
Đông tác tây thành, hạn thân t*o phùng Phủ Tướng
Khoa Quyền Lộc củng, định vi phàn quế chi cao nhân.
Không Kiếp Dương Linh, quyết tác cửu lưu thuật sĩ.
(Mệnh hạn mà gặp phải Kình Dương thì mưu sự không xứng ý toại lòng.
Làm giả ăn thật, đánh ở đông mà được ở tây ("đông tác tây thành" đây cũng là 1 thành ngữ) do hạn Thân mà phùng Phủ Tướng.
Khoa Quyền Lộc củng chiếu thì định là người đó sẽ đỗ cao, thăng quan lớn, phát tài lộc,... được vin cành nguyệt quế.
(Nếu mà gặp) Không Kiếp Dương Linh, thì quyết đoán là đi theo giới cửu lưu thuật sĩ).
Tình hoài thư sướng, Xương Khúc mệnh thân;
Quỷ trá hư phù, Dương Đà hãm địa.
Thiên Cơ Thiên Lương Kình Dương hội, tảo kiến hình khắc vãn kiến cô.
Tham Lang Vũ Khúc Liêm Trinh phùng, thiểu thụ bần nhi hậu thụ phúc.
(Tâm tình dào dạt, thư thả sung sướng, ấy là do Xương Khúc ở Mệnh Thân;
Quỷ quyệt xảo trá, hão huyền chẳng thực, đó là bởi Dương Đà hãm địa.
(Dẫu có có Thiện tinh, Phúc Ấm tinh như) Thiên Cơ Thiên Lương mà hội cùng Kình Dương, thì lúc nhỏ thì hình khắc (với người thân) về già thời cô độc.
(Hoặc có là hung tinh, cô tinh, tù tinh như) Tham Lang Vũ Khúc Liêm Trinh, thì lúc nhỏ tuy nghèo khó vất vả nhưng về già lại được hưởng phúc).
Thử giai đẩu số chi áo quyết, học giả thục chi.
(Đây đều là những bí quyết sâu xa của môn Đẩu Số, học giả nên nắm vững).
Hi Di tiên sinh viết:
Đẩu số chi liệt chúng tinh, do đại dịch chi phân bát quái,
bát quái phi thoán hệ bất minh,
ngũ tinh phi giảng minh hà thố,
thị dĩ quan đẩu số giả, tái tam thẩm động tĩnh chi cơ,
(Đẩu Số bày ra chúng tinh, do đại Dịch phân chia thành Bát Quái,
Bát Quái mà thiếu Thoán từ (lời luận đoán) thì cũng chẳng rõ nghĩa,
Ngũ Tinh mà không được giảng giải kỹ thì dùng làm sao được,
Môn xem Đẩu Số này đây, luôn xét đến động tĩnh của cơ trời).
Đệ nhất biện tân chủ chi phân, động tĩnh tuần hoàn bất dĩ,
chủ tân canh điệp vô câu,
chủ nhược vô tình, hà tân chi hữu,
tân bất năng đối, hà túc thủ tai!
(Trước tiên phân biệt Chủ-Khách mà xét, Động-Tĩnh tuần hoàn không dứt,
Chủ-Khách luân phiên thay đổi chứ không gò bó cố định,
Chủ (nếu) mà vô tình, lẽ nào Khách lại có tình cho được,
Khách mà không thường xuyên ứng đối, thì sao đủ xứng mà dùng làm khách được!)
Quý bỉ Dương Đà, duy thị Lộc Tồn chi hảo ác, tiếu ngô Nhật Nguyệt dã.
Tư Không Kiếp chi hưng vong, sát hữu sát nhi vô hình, tuy sát hữu cứu; hình hữu hình nhi dị đan, chung thân bất khắc.
(Tự thẹn thay Kình Đà, chỉ trông coi tốt xấu của Lộc Tồn, mà (lại dám) cười Nhật Nguyệt ta vậy.
Ngẫm về hưng vong của Không Kiếp, sát thì có sát (nhưng) mà không Hình (khắc) cứng nhắc, tuy sát mà lại có thể cứu chữa; hình thì có hình nhưng đơn giản dễ thay đổi, (về lâu dài) cả đời sẽ không khắc).
Hỏa Tinh vượng cung vi phú luận, Dương Đà đắc lệnh khởi hung thần?
Lưỡng lân gia vũ thượng khả xanh trì, đồng thất dữ mưu tối nan phòng bị.
(Hỏa tinh ở vượng cung thì luận là phú, Kình Đà chỗ đắc lệnh há có còn là hung thần nữa sao?
Kẻ hung bạo ở ngay sát vách đôi bên nhà mình thì cũng còn có thể miễn cưỡng chống đỡ lại, còn người cùng nhà mà có mưu hiểm đen tối thì thực là khó phòng bị).
Cân hỏa phần Thiên Mã, trọng Dương trục Lộc Tồn.
Kiếp Không thân thích vô thường, Quyền Lộc hành tàng mỹ định.
Quân tử tại Khôi Việt, tiểu nhân dã Dương Linh.
Hung bất giai hung, cát vô thuần cát.
(Cân đo sức nóng, nghị lực của Thiên Mã, coi trọng trục của Kình Dương Lộc Tồn.
Kiếp Không thì coi thân thích là vô thường, Quyền Lộc thì định là tác phong cử chỉ tươi đẹp.
Quân tử (xét ở) tại nơi Khôi Việt, tiểu nhân thì xét ở Dương Linh.
Hung thì không có cái gì hoàn toàn hung, Cát thì cũng chẳng có cái gì thuần là cát).
Chủ cường tân nhược, khả bảo vô ngu.
Chủ nhược tân cường, hung nguy lập kiến.
Chủ tân đắc thất lưỡng tương nghi,
hạn vận Mệnh Thân đương hỗ kiến.
(Chủ cường Khách nhược, thì có thể đảm bảo là chẳng có gì phải lo ngại.
Chủ nhược Khách cường, thì thấy ngay được là hung hiểm nguy hiểm.
(Phải xem) Chủ-Khách, chỗ hay chỗ dở, đôi đàng tương ứng đối đãi lẫn nhau,
Vận hạn Mệnh-Thân cũng đối đãi tương hỗ lẫn nhau).
Thân Mệnh tối hiềm Dương Đà Thất Sát, ngộ chi vị miễn vi hung.
Nhị hạn thậm kỵ Tham Phá Cự Trinh, phùng chi định nhiên tác họa.
Mệnh ngộ Khôi Xương đương đắc quý, hạn phùng Tử Phủ định tài đa.
(Thân-Mệnh rất sợ gặp Dương Đà Thất Sát, gặp thì khó tránh được hung hiểm.
Nhị hạn tối kị Tham Lang Phá Quân Cự Môn Liêm Trinh, gặp thì nhất định sẽ tác họa.
Mệnh gặp Khôi Xương được nhận (quan) Quý, Hạn phùng Tử Phủ xác định đó là lúc đa tài (đến lúc gặp thời để mà được thi thố với đời)).
Phàm quan nữ nhân chi mệnh, tiên quan Phu Tử nhị cung,
nhược trị sát tinh, định tam giá nhi tâm bất túc, hoặc phùng Dương Đà, tu đề khốc nhi lệ bất can.
(Phàm xem mệnh Nữ nhân, trước tiên xem ở hai cung Phu và Tử Tức,
nếu gặp sát tinh, định là nhiều lần xuất giá mà lòng không yên, hoặc phùng Dương Đà thì đó là khóc con cạn nước mắt).
Nhược quan nam mệnh, thủy dĩ Phúc Tài vi chủ, tái thẩm Thiên Di như hà,
nhị hạn tương nhân, cát hung đồng đoán.
(Khi xem Nam mệnh, khởi đầu lấy Phúc và Tài cung làm chủ, sau đó xét Thiên Di xem thế nào,
nhị hạn (có) nguyên nhân hỗ trợ ra sao, (từ đó mới) cùng đoán ra cát hung như thế nào).
Hạn phùng cát diệu, bình sinh vận dụng hòa hài;
mệnh tác hung hương, nhất thị cầu mưu trở ngữ.
(Hạn phùng cát diệu thì lúc bình sinh được mọi sự hoạt động hài hòa;
Mệnh lạc đến chỗ hung thì đúng là một thân mưu cầu mà toàn gặp gập ghềnh trở ngại).
Liêm Lộc lâm mệnh, nữ đức thuần âm trinh khiết chi đức;
Đồng Lương thủ mệnh, nam đắc thuần dương trung chính chi tâm.
(Liêm Lộc lâm Nữ mệnh thuần âm thì đức hạnh trinh trắng, thanh khiết;
Đồng Lương thủ Nam mệnh thuần dương thì một lòng trung thành, chính trực).
Quân tử mệnh trung diệc hữu Dương Đà tứ sát,
tiểu nhân mệnh trung khởi vô Khoa Lộc Quyền tinh,
yếu khán đắc viên thất viên, chuyên luận nhập miếu thất hãm.
(Người quân tử thì ở trong cung Mệnh cũng có Dương Đà tứ sát,
Kẻ tiểu nhân thì ai dám bảo là không có Khoa Quyền Lộc ở trong cung mệnh nào,
(Cho nên) trọng yếu phải xem cung viên tốt xấu thế nào, chuyên sâu luận vào các sao nhập miếu hay lạc hãm).
Nhược luận tiểu nhi, tường thôi đồng hạn,
tiểu nhi mệnh tọa hung hương, tam ngũ tuế tất nhiên yểu chiết,
cánh hữu hạn phùng ác sát, ngũ thất tuế tất chí yểu vong.
(Nếu luận số tiểu nhi, phải suy xét thật tường tận về hạn của trẻ con,
Tiểu nhi mà Mệnh ở chỗ hung, thì dăm ba năm tất nhiên sẽ yểu chiết,
Lại thêm hạn phùng ác sát thì dăm bảy năm nhất định yểu vong).
Văn Xương Văn Khúc Thiên Khôi tú, bất độc thi thư dã khả nhân.
Đa học thiểu thành, chỉ vi Kình Dương phùng Kiếp Sát.
Vi nhân hảo tụng, cái nhân Thái Tuế ngộ Quan Phù.
(Có các sao Văn Xương Văn Khúc Thiên Khôi, chẳng đọc thi thư gì cũng là kẻ có tài.
Đa học mà thiểu thành, chỉ vì Kình Dương phùng Kiếp Sát.
Làm người giỏi lý lẽ, giỏi tranh cãi, khéo nói, đó là do Thái Tuế ngộ Quan Phù).
Mệnh chi lý vi, thục sát tinh thần chi biến hóa;
Số chi lý viễn, tế tường cách cục chi hưng suy.
Bắc cực gia hung sát, vi đạo vi tăng;
Dương Đà ngộ hung tinh, vi nô vi bộc.
(Cái Lý tinh vi của Mệnh, phải bám sát lấy sự biến hóa của các sao;
Cái Lý sâu xa của Số, phải xem cho tường tận sự hưng suy của cách cục.
Sao Tử Vi mà bị gia thêm hung sát tinh thì dễ theo đường tăng đạo;
Mệnh có Kình Đà mà gặp phải hung tinh thì dễ thành thân phận kẻ hầu người hạ).
Như Vũ Phá Liêm Tham, cố thâm mưu nhi quý hiển,
gia Dương Đà Không Kiếp, phản tiểu chí dĩ cô hàn.
Hạn phụ vượng tinh, tuy nhược nhi bất nhược;
mệnh lâm cát địa, tuy hung nhi bất hung.
(Như Vũ Phá Liêm Tham, vốn nhờ có mưu sâu mà quý hiển,
Thêm (vào đó) Dương Đà Không Kiếp thì phản chuyển thành chí nhỏ mà cô đơn, nghèo hèn.
Hạn mà hai bên có vượng tinh thì dù hạn có nhược (kém) cũng được cứu giải,
Mệnh lâm vào nơi cát lợi thì dẫu gặp hung cũng chẳng có gì nguy hiểm).
Đoạn kiều tiệt lộ, đại tiểu nan hành;
Mão Dậu nhị Không, thông minh phát phúc.
Mệnh Thân ngộ Tử Phủ, điệp tích kim ngân;
nhị chủ phùng Kiếp Không, y thực bất túc.
(Đại tiểu (hạn) khó khăn gian khổ, khó đi,... là bởi vì "đoạn kiều tiệt lộ" (đây là 1 thành ngữ có nghĩa đen là "cầu bị chặt gãy, đường bị chặn", nhưng nghĩa bóng ám chỉ việc hành hạn mà gặp phải Tiệt/Triệt lộ thì đó là coi như bị chặn phá, bị ngáng trở, bị gặp khó khăn,...);
Ở cung Mão Dậu mà gặp nhị Không thì lại là thông minh, phát phúc.
Mệnh Thân mà gặp Tử Phủ thì giàu có dồi dào vàng bạc (điệp tích kim ngân);
Nhị chủ (thường chỉ về Mệnh chủ & Thân chủ, nhưng trong trường hợp này thì nên hiểu Nhị Chủ = Tử Phủ) mà gặp Kiếp Không thì thiếu ăn thiếu mặc).
Mưu nhi bất toại, Mệnh hạn ngộ nhập Kình Dương.
Đông tác tây thành, hạn thân t*o phùng Phủ Tướng
Khoa Quyền Lộc củng, định vi phàn quế chi cao nhân.
Không Kiếp Dương Linh, quyết tác cửu lưu thuật sĩ.
(Mệnh hạn mà gặp phải Kình Dương thì mưu sự không xứng ý toại lòng.
Làm giả ăn thật, đánh ở đông mà được ở tây ("đông tác tây thành" đây cũng là 1 thành ngữ) do hạn Thân mà phùng Phủ Tướng.
Khoa Quyền Lộc củng chiếu thì định là người đó sẽ đỗ cao, thăng quan lớn, phát tài lộc,... được vin cành nguyệt quế.
(Nếu mà gặp) Không Kiếp Dương Linh, thì quyết đoán là đi theo giới cửu lưu thuật sĩ).
Tình hoài thư sướng, Xương Khúc mệnh thân;
Quỷ trá hư phù, Dương Đà hãm địa.
Thiên Cơ Thiên Lương Kình Dương hội, tảo kiến hình khắc vãn kiến cô.
Tham Lang Vũ Khúc Liêm Trinh phùng, thiểu thụ bần nhi hậu thụ phúc.
(Tâm tình dào dạt, thư thả sung sướng, ấy là do Xương Khúc ở Mệnh Thân;
Quỷ quyệt xảo trá, hão huyền chẳng thực, đó là bởi Dương Đà hãm địa.
(Dẫu có có Thiện tinh, Phúc Ấm tinh như) Thiên Cơ Thiên Lương mà hội cùng Kình Dương, thì lúc nhỏ thì hình khắc (với người thân) về già thời cô độc.
(Hoặc có là hung tinh, cô tinh, tù tinh như) Tham Lang Vũ Khúc Liêm Trinh, thì lúc nhỏ tuy nghèo khó vất vả nhưng về già lại được hưởng phúc).
Thử giai đẩu số chi áo quyết, học giả thục chi.
(Đây đều là những bí quyết sâu xa của môn Đẩu Số, học giả nên nắm vững).
Thanked by 10 Members:
|
|
#32
Gửi vào 08/01/2015 - 14:39
88. Chuẩn thằng luận (bài luận mực thước)
Mệnh cư Sinh Vượng định phú quý, các hữu sở nghi.
Thân tọa Không Vong luận vinh khô, chuyên cầu kỳ yếu.
(Mệnh ở chỗ Sinh Vượng định là phú quý, đương nhiên phù hợp.
Thân tọa chỗ Không Vong luận là thăng trầm, đúng như vậy luôn).
Tử Vi đế tọa tại Nam cực bất năng thi công,
Thiên Phủ lệnh tinh tại Nam địa chuyên năng vi phúc.
(Các sao phải ở đúng vị trí của nó, mới là đắc miếu, thế mới tốt, chứ ở sai chỗ là thất hãm thì dẫu có là đế tinh thì chả làm được cái trò trống gì.
QNB chú: Câu này là sử dụng phép ẩn dụ, không thể hiểu theo nghĩa đen được).
Thiên Cơ Thất Sát đồng cung dã thiện tam phân,
Thái Âm Hỏa Linh đồng vị phản thành thập ác.
(Các thiện tinh đồng cung với ác sát hung tinh thì mất đi ba phần mười tính thiện. Cũng như các sao có tính nhu mì mà gặp các sát hung tinh thì cũng trở nên ác độc.
QNB chú: Câu này là sử dụng phép ẩn dụ, không thể hiểu theo nghĩa đen được).
Tham Lang vi ác tú nhập miếu bất hung,
Cự Môn vi ác diệu đắc viên vưu mỹ.
(Tham Lang vốn là hung tinh chủ thiện ác, khi nhập miếu chắc chắn lương thiện,
Cự Môn vốn là ám tinh chủ ám muội thị phi, khi đắc miếu cũng nhất định tốt đẹp).
Chư hung tại khẩn yếu chi hương tối nghi chế khắc,
Nhược tại Thân Mệnh chi vị khước thụ cô đơn.
(Các hung sát tinh ở vào cung quan trọng thì rất cần được khắc chế,
Nếu ở ngay chỗ Thân Mệnh thì lại cô đơn, tịch mịch).
Nhược kiến sát tinh đảo hạn tối hung,
Phúc Ấm lâm chi thứ cơ khả giải.
(Nếu thấy sát tinh tới trong đảo hạn thì rất hung hiểm,
Nhưng có Đồng Lương Cát tinh lâm vào thì có thể giải được).
Đại để tại nhân chi cơ biến, cánh gia tác ý chi thôi tường.
(Đại khái là đều ở tại cái cơ biến, ứng xử của con người, thêm vào dự tính ý nghĩa làm sao để mà đoán cho tinh tường).
Biện sinh khắc chế hóa dĩ định cùng thông,
Khán hảo ác chính thiên dĩ ngôn họa phúc.
(Biện luận về sinh khắc chế hóa mà xác định cái lẽ cùng biến tắc thông,
Xem tốt xấu ngay thẳng chính trực để mà nói về họa phúc).
Quan tinh cư vu Phúc địa cận quý vinh tài,
Phúc tinh cư vu Quan cung khước thành vô dụng.
(Các sao chủ quan lộc quyền chức mà ở cung Phúc thì gần người quyền quý mà giàu có,
Thế nhưng các sao chủ phúc mà ở vào cung Quan thì lại chả có tác dụng gì cả).
Thân mệnh đắc tinh vi yếu, hạn độ ngộ cát vi vinh.
(Thân mệnh có sao đắc cách là quan trọng, đến hạn gặp cát tinh là được vinh hiển).
Nhược ngôn Tử Tức hữu vô, chuyên tại Kình Tù Hao Sát.
Phùng chi tắc hại thê thiếp diệc nhiên.
(Nếu nói về con cái là có hay không, chủ yếu tại vì Kình, Tù, Hao, Sát tinh ở cung Tử Tức.
Gặp chúng ở cung Thê thì cũng dĩ nhiên coi như là hại vợ khắc thiếp mà thôi).
Tướng mạo phùng hung tất đới phá tướng,
Tật ách phùng Kị định hữu uông doanh.
(Tướng Mạo - tức Phụ Mẫu cung - gặp hung sát tinh thì kiểu gì cũng có phá tướng,
Tật Ách cung mà gặp Hóa Kị thì nhất định có bệnh hoặc tật như chân khuềnh, lưng gù).
Tu ngôn định số dĩ cầu huyền,
Cánh tại đồng niên chi tương hợp,
Tổng vi cương lĩnh dụng tác chuẩn thằng.
(Những lời định số để hòng biết cái huyền bí,
Thêm việc tương hợp theo năm nữa,
Tất cả là cương lĩnh để dụng như mực thước).
89. Đẩu số câu suất
Chư tinh cát đa phùng hung dã cát,
Chư tinh ác đa phùng cát dã hung.
(Nhiều cát tinh mà gặp ác tinh thì mất đi tính tốt đẹp,
Nhiều hung ác tinh mà gặp cát tinh thì mất đi tính hung).
Tinh canh triền độ,
Số phân định cục.
(Sao thay đổi tính chất theo vị trí cung nó đi qua trên quỹ đạo của nó,
Số thì được phân định tùy theo cục).
Trọng tại khán tinh đắc viên thụ chế,
phương khả luận nhân họa phúc cùng thông.
(Quan trọng là xem sao miếu đắc, gặp chế hóa thế nào,
mới có thể luận về cái cùng-thông về họa phúc của người ta được).
Đại khái dĩ Thân Mệnh vi họa phúc chi bính,
dĩ căn nguyên vi cùng thông chi cơ.
(Đại khái thì Thân Mệnh là chuôi cán của họa phúc,
lấy căn nguyên làm then chốt của cái sự cùng-thông).
Tử Vi tại mệnh Phụ Bật đồng viên, kỳ quý tất hĩ,
Tài Ấn giáp Mệnh, Nhật Nguyệt giáp Tài, kỳ phú hà nghi.
(Tử Vi đồng cung với Phụ Bật ở mệnh thì tất nhiên sang quý đặc biệt,
"Tài Ấn giáp Mệnh", "Nhật Nguyệt giáp tài" thì giàu có là chẳng phải nghi ngờ nữa).
Ấm Phúc lâm bất phạ hung xung,
Nhật Nguyệt hội bất như hợp chiếu.
(Ấm tinh Phúc tinh tọa thủ thì không sợ hung tinh xung chiếu,
Nhật Nguyệt đồng cung thì không đẹp như là chúng hợp chiếu).
Tham lang cư Tý nãi vi phiếm thủy đào hoa,
Thiên Hình t*o Tham tất chủ phong lưu hình trượng.
(Tham Lang cư Tý gọi là "Phiếm thủy đào hoa" - chủ lãng đãng đa tình,
Thiên Hình gặp Tham thì chủ vì phong lưu mà mang họa đòn roi).
Tử Vi tọa mệnh khố tắc viết kim dư phủng trất liễn,
Lâm Quan an văn diệu hiệu vi cẩm nhạ thiên hương.
(Tử Vi ở chỗ Mộ khố của Mệnh thì viết là kề bên xe vàng của vua,
Lâm Quan mà an các Văn tinh thì gọi là áo gấm có hương trời).
Thái Âm hợp Văn Khúc ư Thê cung hàn lâm thanh dị,
Thái Dương hội Xăn Xương ư Quan lộc kim điện truyền lô.
(Thái Âm, Văn Khúc ở Thê cung chủ làm quan thanh cao chốn hàn lâm viện,
Thái Dương, Văn Xương ở Quan cung chủ được vua truyền gọi lên điện vàng).
Lộc hợp thủ Điền Tài vi lạn cốc đôi kim,
Tài Ấm cư Thiên Di vi cao thương hào khách,
(Lộc mà thủ hoặc chiếu cung Điền Tài là tiền cả đống, thóc cả kho,
Tài Ấm mà cư Thiên Di là kẻ thương gia giàu có hào phóng).
Hao cư bại địa duyên đồ cái cầu,
Tham hội vượng cung chung thân thử thiết.
(Hao cư bại địa, Mệnh đóng ở đó là số ăn m*y,
Tham ở Tý Ngọ Mão Dậu, lại trúng Vượng cung của Tam Hợp Cục tuổi thì là số trộm cắp).
Sát cư tuyệt địa sinh thành tam thập nhị chi Nhan Hồi,
Nhật tại vượng cung khả học bát bách niên chi Bành Tổ.
(Sát cư tuyệt địa là số yểu, chỉ sống được 32 tuổi như Nhan Hồi,
Nhật ở vượng cung có thể thọ tới 800 năm như ông Bành Tổ).
Cự ám đồng viên vu Thân Mệnh Tật Ách doanh sấu kỳ khu,
Hung tinh giao hội vu Tướng Mạo Thiên Di thương hình kỳ diện.
(Cự với Diêu Đà Kị mà cùng ở Thân Mệnh hay Tật Ách cung thì thân hình gầy và xấu,
Hung tinh hội chiếu Tướng Mạo (Phụ Mẫu) và Thiên Di cung, thì trên người và mặt có thương tật).
Đại Hao hội Liêm Trinh ư Quan Lộc gia nữu tù đồ,
Quan Phù hội Hình Sát ư Thiên Di ly hương viễn phối.
(Đại Hao hội với Liêm Trinh ở Quan Lộc là dễ bị gông xiềng tù tội,
Quan Phù hội Hình Sát tinh ở Thiên Di là lấy chồng/vợ ở phương xa).
Thất Sát lâm ư hãm địa lưu Dương tất kiến tử vong,
Hao Sát kị phùng Phá Quân, Hỏa Linh hiềm phùng Thái Tuế.
(Thất Sát ở chỗ hãm địa, hạn gặp Lưu Kình Dương thì dễ toi mạng,
Hao Sát tinh kị gặp Phá Quân, Hỏa Linh thì chớ có gặp Thái Tuế, gặp thì dễ có tai họa).
Tấu Thư Bác Sĩ tịnh Lưu Lộc dĩ tận hồ cát tường,
Lực Sĩ Tướng Quân đắc Thanh Long dĩ hiển kỳ uy phúc.
(Tấu Thư Bác Sĩ cũng như Lưu Lộc Tồn đều chủ mọi sự tốt đẹp - khi gặp trong hạn,
Lực Sĩ Tướng Quân cùng với Thanh Long là chủ về vinh hiển uy danh, rạng rỡ tổ tông).
Đồng tử hạn nhược thủy thượng phù phao,
Lão nhân hạn suy phong trung nhiên chúc.
Ngộ sát tất kinh, lưu niên tối khẩn.
(Hạn của trẻ con như bọt bèo trên nước,
Hạn của người già như đuốc giữa cuồng phong.
Gặp thêm sát tinh thì đáng sợ, lưu niên hạn càng khẩn trương hơn nữa).
Nhân sinh phát đạt hạn nguyên tối phạ phù trầm,
Nhất thế truân chuyên mệnh hạn phùng hồ bác tạp.
Luận nhi chí thửu doãn hĩ huyền vi.
(Hạn phát đạt của người ta vốn rất sợ thăng trầm, phập phù,
Cả đời mà truân chuyên là bởi Mệnh, Hạn cả có thuần cách gì cả, toàn lẫn lộn cát hung.
Luận được vậy coi như là phù hợp với lẽ huyền vi).
Mệnh cư Sinh Vượng định phú quý, các hữu sở nghi.
Thân tọa Không Vong luận vinh khô, chuyên cầu kỳ yếu.
(Mệnh ở chỗ Sinh Vượng định là phú quý, đương nhiên phù hợp.
Thân tọa chỗ Không Vong luận là thăng trầm, đúng như vậy luôn).
Tử Vi đế tọa tại Nam cực bất năng thi công,
Thiên Phủ lệnh tinh tại Nam địa chuyên năng vi phúc.
(Các sao phải ở đúng vị trí của nó, mới là đắc miếu, thế mới tốt, chứ ở sai chỗ là thất hãm thì dẫu có là đế tinh thì chả làm được cái trò trống gì.
QNB chú: Câu này là sử dụng phép ẩn dụ, không thể hiểu theo nghĩa đen được).
Thiên Cơ Thất Sát đồng cung dã thiện tam phân,
Thái Âm Hỏa Linh đồng vị phản thành thập ác.
(Các thiện tinh đồng cung với ác sát hung tinh thì mất đi ba phần mười tính thiện. Cũng như các sao có tính nhu mì mà gặp các sát hung tinh thì cũng trở nên ác độc.
QNB chú: Câu này là sử dụng phép ẩn dụ, không thể hiểu theo nghĩa đen được).
Tham Lang vi ác tú nhập miếu bất hung,
Cự Môn vi ác diệu đắc viên vưu mỹ.
(Tham Lang vốn là hung tinh chủ thiện ác, khi nhập miếu chắc chắn lương thiện,
Cự Môn vốn là ám tinh chủ ám muội thị phi, khi đắc miếu cũng nhất định tốt đẹp).
Chư hung tại khẩn yếu chi hương tối nghi chế khắc,
Nhược tại Thân Mệnh chi vị khước thụ cô đơn.
(Các hung sát tinh ở vào cung quan trọng thì rất cần được khắc chế,
Nếu ở ngay chỗ Thân Mệnh thì lại cô đơn, tịch mịch).
Nhược kiến sát tinh đảo hạn tối hung,
Phúc Ấm lâm chi thứ cơ khả giải.
(Nếu thấy sát tinh tới trong đảo hạn thì rất hung hiểm,
Nhưng có Đồng Lương Cát tinh lâm vào thì có thể giải được).
Đại để tại nhân chi cơ biến, cánh gia tác ý chi thôi tường.
(Đại khái là đều ở tại cái cơ biến, ứng xử của con người, thêm vào dự tính ý nghĩa làm sao để mà đoán cho tinh tường).
Biện sinh khắc chế hóa dĩ định cùng thông,
Khán hảo ác chính thiên dĩ ngôn họa phúc.
(Biện luận về sinh khắc chế hóa mà xác định cái lẽ cùng biến tắc thông,
Xem tốt xấu ngay thẳng chính trực để mà nói về họa phúc).
Quan tinh cư vu Phúc địa cận quý vinh tài,
Phúc tinh cư vu Quan cung khước thành vô dụng.
(Các sao chủ quan lộc quyền chức mà ở cung Phúc thì gần người quyền quý mà giàu có,
Thế nhưng các sao chủ phúc mà ở vào cung Quan thì lại chả có tác dụng gì cả).
Thân mệnh đắc tinh vi yếu, hạn độ ngộ cát vi vinh.
(Thân mệnh có sao đắc cách là quan trọng, đến hạn gặp cát tinh là được vinh hiển).
Nhược ngôn Tử Tức hữu vô, chuyên tại Kình Tù Hao Sát.
Phùng chi tắc hại thê thiếp diệc nhiên.
(Nếu nói về con cái là có hay không, chủ yếu tại vì Kình, Tù, Hao, Sát tinh ở cung Tử Tức.
Gặp chúng ở cung Thê thì cũng dĩ nhiên coi như là hại vợ khắc thiếp mà thôi).
Tướng mạo phùng hung tất đới phá tướng,
Tật ách phùng Kị định hữu uông doanh.
(Tướng Mạo - tức Phụ Mẫu cung - gặp hung sát tinh thì kiểu gì cũng có phá tướng,
Tật Ách cung mà gặp Hóa Kị thì nhất định có bệnh hoặc tật như chân khuềnh, lưng gù).
Tu ngôn định số dĩ cầu huyền,
Cánh tại đồng niên chi tương hợp,
Tổng vi cương lĩnh dụng tác chuẩn thằng.
(Những lời định số để hòng biết cái huyền bí,
Thêm việc tương hợp theo năm nữa,
Tất cả là cương lĩnh để dụng như mực thước).
89. Đẩu số câu suất
Chư tinh cát đa phùng hung dã cát,
Chư tinh ác đa phùng cát dã hung.
(Nhiều cát tinh mà gặp ác tinh thì mất đi tính tốt đẹp,
Nhiều hung ác tinh mà gặp cát tinh thì mất đi tính hung).
Tinh canh triền độ,
Số phân định cục.
(Sao thay đổi tính chất theo vị trí cung nó đi qua trên quỹ đạo của nó,
Số thì được phân định tùy theo cục).
Trọng tại khán tinh đắc viên thụ chế,
phương khả luận nhân họa phúc cùng thông.
(Quan trọng là xem sao miếu đắc, gặp chế hóa thế nào,
mới có thể luận về cái cùng-thông về họa phúc của người ta được).
Đại khái dĩ Thân Mệnh vi họa phúc chi bính,
dĩ căn nguyên vi cùng thông chi cơ.
(Đại khái thì Thân Mệnh là chuôi cán của họa phúc,
lấy căn nguyên làm then chốt của cái sự cùng-thông).
Tử Vi tại mệnh Phụ Bật đồng viên, kỳ quý tất hĩ,
Tài Ấn giáp Mệnh, Nhật Nguyệt giáp Tài, kỳ phú hà nghi.
(Tử Vi đồng cung với Phụ Bật ở mệnh thì tất nhiên sang quý đặc biệt,
"Tài Ấn giáp Mệnh", "Nhật Nguyệt giáp tài" thì giàu có là chẳng phải nghi ngờ nữa).
Ấm Phúc lâm bất phạ hung xung,
Nhật Nguyệt hội bất như hợp chiếu.
(Ấm tinh Phúc tinh tọa thủ thì không sợ hung tinh xung chiếu,
Nhật Nguyệt đồng cung thì không đẹp như là chúng hợp chiếu).
Tham lang cư Tý nãi vi phiếm thủy đào hoa,
Thiên Hình t*o Tham tất chủ phong lưu hình trượng.
(Tham Lang cư Tý gọi là "Phiếm thủy đào hoa" - chủ lãng đãng đa tình,
Thiên Hình gặp Tham thì chủ vì phong lưu mà mang họa đòn roi).
Tử Vi tọa mệnh khố tắc viết kim dư phủng trất liễn,
Lâm Quan an văn diệu hiệu vi cẩm nhạ thiên hương.
(Tử Vi ở chỗ Mộ khố của Mệnh thì viết là kề bên xe vàng của vua,
Lâm Quan mà an các Văn tinh thì gọi là áo gấm có hương trời).
Thái Âm hợp Văn Khúc ư Thê cung hàn lâm thanh dị,
Thái Dương hội Xăn Xương ư Quan lộc kim điện truyền lô.
(Thái Âm, Văn Khúc ở Thê cung chủ làm quan thanh cao chốn hàn lâm viện,
Thái Dương, Văn Xương ở Quan cung chủ được vua truyền gọi lên điện vàng).
Lộc hợp thủ Điền Tài vi lạn cốc đôi kim,
Tài Ấm cư Thiên Di vi cao thương hào khách,
(Lộc mà thủ hoặc chiếu cung Điền Tài là tiền cả đống, thóc cả kho,
Tài Ấm mà cư Thiên Di là kẻ thương gia giàu có hào phóng).
Hao cư bại địa duyên đồ cái cầu,
Tham hội vượng cung chung thân thử thiết.
(Hao cư bại địa, Mệnh đóng ở đó là số ăn m*y,
Tham ở Tý Ngọ Mão Dậu, lại trúng Vượng cung của Tam Hợp Cục tuổi thì là số trộm cắp).
Sát cư tuyệt địa sinh thành tam thập nhị chi Nhan Hồi,
Nhật tại vượng cung khả học bát bách niên chi Bành Tổ.
(Sát cư tuyệt địa là số yểu, chỉ sống được 32 tuổi như Nhan Hồi,
Nhật ở vượng cung có thể thọ tới 800 năm như ông Bành Tổ).
Cự ám đồng viên vu Thân Mệnh Tật Ách doanh sấu kỳ khu,
Hung tinh giao hội vu Tướng Mạo Thiên Di thương hình kỳ diện.
(Cự với Diêu Đà Kị mà cùng ở Thân Mệnh hay Tật Ách cung thì thân hình gầy và xấu,
Hung tinh hội chiếu Tướng Mạo (Phụ Mẫu) và Thiên Di cung, thì trên người và mặt có thương tật).
Đại Hao hội Liêm Trinh ư Quan Lộc gia nữu tù đồ,
Quan Phù hội Hình Sát ư Thiên Di ly hương viễn phối.
(Đại Hao hội với Liêm Trinh ở Quan Lộc là dễ bị gông xiềng tù tội,
Quan Phù hội Hình Sát tinh ở Thiên Di là lấy chồng/vợ ở phương xa).
Thất Sát lâm ư hãm địa lưu Dương tất kiến tử vong,
Hao Sát kị phùng Phá Quân, Hỏa Linh hiềm phùng Thái Tuế.
(Thất Sát ở chỗ hãm địa, hạn gặp Lưu Kình Dương thì dễ toi mạng,
Hao Sát tinh kị gặp Phá Quân, Hỏa Linh thì chớ có gặp Thái Tuế, gặp thì dễ có tai họa).
Tấu Thư Bác Sĩ tịnh Lưu Lộc dĩ tận hồ cát tường,
Lực Sĩ Tướng Quân đắc Thanh Long dĩ hiển kỳ uy phúc.
(Tấu Thư Bác Sĩ cũng như Lưu Lộc Tồn đều chủ mọi sự tốt đẹp - khi gặp trong hạn,
Lực Sĩ Tướng Quân cùng với Thanh Long là chủ về vinh hiển uy danh, rạng rỡ tổ tông).
Đồng tử hạn nhược thủy thượng phù phao,
Lão nhân hạn suy phong trung nhiên chúc.
Ngộ sát tất kinh, lưu niên tối khẩn.
(Hạn của trẻ con như bọt bèo trên nước,
Hạn của người già như đuốc giữa cuồng phong.
Gặp thêm sát tinh thì đáng sợ, lưu niên hạn càng khẩn trương hơn nữa).
Nhân sinh phát đạt hạn nguyên tối phạ phù trầm,
Nhất thế truân chuyên mệnh hạn phùng hồ bác tạp.
Luận nhi chí thửu doãn hĩ huyền vi.
(Hạn phát đạt của người ta vốn rất sợ thăng trầm, phập phù,
Cả đời mà truân chuyên là bởi Mệnh, Hạn cả có thuần cách gì cả, toàn lẫn lộn cát hung.
Luận được vậy coi như là phù hợp với lẽ huyền vi).
Thanked by 5 Members:
|
|
#33
Gửi vào 08/01/2015 - 14:56
90. Ngọc Thiềm phát vi luận
Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh viết:
(Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh nói:)
Quan thiên đẩu số dữ Ngũ Tinh bất đồng, án thử tinh thần dữ chư thuật đại dị.
(Xem thấy Đẩu Số với môn Ngũ Tinh có điểm không giống nhau,
từ đây ta thấy về tinh thần cơ bản nó khác nhiều với các thuật khác).
Tứ chính cát tinh định vi quý, tam phương sát củng thiểu vi kỳ;
Đối chiếu hề tường hung tường cát, hợp chiếu hề quan tiện quan vinh.
(Xét tứ chính thấy cát tinh thì định là quý, Tam phương mà sát tinh vây chiếu thì kém đẹp;
Cung đối chiếu cho biết hung, biết cát, cung hợp chiếu cho biết tiện hay là vinh).
Cát tinh nhập viên tắc vi cát, hung tinh thất địa tắc vi hung.
(Cát tinh nhập mệnh, miếu đắc thì sẽ cát lợi, hung tinh mà hãm địa thì chắc chắn sẽ hung).
Mệnh phùng tử vi, phi đặc thọ nhi thả vinh;
Thân ngộ sát tinh, bất đãn bần nhi thả tiện.
(Mệnh gặp Tử Vi thì vừa thọ vừa vinh hoa;
Thân gặp sát tinh thì không những bần mà còn tiện).
Tả Hữu hội ư Tử Phủ, cực phẩm chi tôn;
Khoa Quyền hãm ư hung hương, công danh thặng đặng.
(Tả Hữu hội cùng Tử Phủ thì tôn quý đến cực phẩm,
Khoa Quyền hãm ở chỗ hung thì công danh lận đận).
Hành hạn phùng hồ nhược địa, vị tất vi tai;
lập mệnh hội tại cường cung, tất năng giáng phucs.
(Hành hạn nếu gặp nơi nhược địa thì chưa hẳn đã gặp tai họa,
lập Mệnh ở chỗ cường cung, nhất định sẽ có thể ban phúc).
Dương Đà Thất Sát, hạn vận mạc phùng, phùng chi định hữu hình thương (Kiếp Không Thương Sứ tại nội hợp đoán;
Thiên Khốc Tang Môn, lưu niên mạc ngộ, ngộ chi thực phòng phá hại.
(Vận hạn chớ có gặp Kình Đà Thất Sát, gặp thì tất sẽ bị hình thương (chú rằng có Kiếp Không Thương Sứ trong đó thì cũng hợp đoán vậy),
Lưu niên chớ có gặp Thiên Khốc Tang Môn, gặp thì phải đề phòng trong nhà bị hao tán).
Nam đẩu chủ hạn tất sinh nam,
Bắc đẩu gia lâm tiên đắc nữ.
(Nam Đẩu chủ hạn tất sẽ sinh con trai,
Bắc Đẩu lâm hạn thì sẽ sinh con gái).
Khoa tinh cư hãm địa, đăng hỏa tân cần;
Xương Khúc tại nhược hương, lâm tuyền lãnh đạm.
(Khoa tinh cư hãm địa, thì vất vả chăm chỉ đèn sách sớm khuya,
Xương Khúc ở chỗ nhược thì ẩn mình lãnh đạm nơi rừng núi).
Gian mưu tần thiết, Tử Vi quý ngộ Phá quân;
Dâm bôn đại hành, Hồng Loan sai phùng Tham tú.
(Tử Vi thẹn gặp Phá Quânvì suốt ngày bày kế hiểm mưu gian,
Hồng Loan gặp lầm phải Tham Lang thì hành vi dâm dật).
Mệnh Thân tương khắc, tắc tâm loạn nhi bất nhàn;
Huyền ảo tam cung, tắc tà dâm nhi đam tửu (tức Thiên Diêu tinh).
(Mệnh với Thân mà tương khắc thì tâm loạn nên chẳng được nhàn,
Ba cung mà huyền ảo thì tất sẽ tà dâm cùng ham rượu (chú rằng "huyền ảo" ám chỉ sao Thiên Diêu)).
Sát lâm tam vị, định nhiên thê tử bất hòa;
Cự đáo nhị cung, tất thị huynh đệ vô nghĩa.
(Sát tinh lâm vào tam vị - Phu Thê cung, chắc chắc bất hòa với vợ con,
Cự Môn đến nhị cung - Huynh Đệ cung, thì anh em vô tình vô nghĩa).
Hình sát thủ Tử cung, tử nan phụng lão;
Chư hung chiếu Tài bạch, tụ tán vô thường.
(Hình sát tinh ở cung Tử Tức, khó có được con chăm sóc lúc già;
Các hung tinh chiếu vào Tài Bạch, thì tiền tụ tán vô thường).
Dương Đà thủ Tật Ách, nhãn mục hôn manh;
Hỏa Linh đáo Thiên Di, trường đồ tịch mạc.
(Kình Đà thủ Tật Ách thì mắt kém, mắt đau, mắt mờ,
Hỏa Linh đến cung Thiên Di, thì đường đời phía trước sẽ cô đơn vắng vẻ).
Tôn tinh liệt tiện vị, chủ nhân đa lao;
Ác tinh ứng bát cung, nô bộc vô trợ.
(Các sao tôn quý bày vào chỗ thấp kém, thì chủ nhân nhiều gian khổ,
Ác tinh ứng vào cung thứ tám - Nô Bộc cung, thì bạn bè và kẻ dưới chẳng tương trợ được gì cho mình).
Quan Lộc ngộ Tử Phủ, phú nhi thả quý;
Điền Trạch ngộ Phá Quân, tiên phá hậu thành.
(Quan Lộc cung gặp Tử Phủ thì vừa phú vừa quý,
Điền Trạch cung gặp Phá Quân thì trước phá hết sau mới thành được).
Phúc Đức ngộ Không vong Kiếp, bôn tẩu vô lực;
Tướng Mạo gia hình sát, hình khắc nan miễn.
(Phúc Đức cung gặp Địa Kiếp, Không Vong, thì lang thang, không có năng lực,
Tướng Mạo cung, tức Phụ Mẫu cung, mà thêm Hình Sát, thì việc hình khắc là khó tránh được).
Hậu học giả chấp thử suy tường, vạn vô nhất thất.
(Học giả đời sau theo đây mà suy cho rõ, đảm bảo không sai).
91. Đẩu Số chỉ nam
Phu nhân chi sinh dã, bẩm tam tài chi khí,
Mệnh hữu đẩu cách, số hữu hạn kỳ,
Thôi nhi tri quý tiện cùng thông,
Luận nhi chí vi áo diệu.
(Con người ta sinh ra vốn được bẩm thụ cái khí của Tam Tài,
Mệnh thì có cách cục tinh đẩu, Số thì có hạn kỳ,
Suy để mà biết được cái lý cùng thông của quý tiện,
Luận để mà đạt đến cái ảo diệu sâu sắc).
Minh sinh khắc chế hóa chi lý, quan đồng viên thất độ chi cơ,
Thọ yểu hiền ngu, bần dâm chính trực, giai hữu sở ti, bất khả khái luận.
(Hiểu rõ cái lý sinh khắc chế hóa, xét then chốt của sự đồng cung đắc miếu hay lạc hãm,
Thọ yểu hiền ngu, nghèo dâm ngay thẳng, đều theo chỗ ti sở, không thể luận đại khái được).
Tử vi bắc đẩu chi chủ tể giả,
Thiên phủ nam đẩu chi lệnh tinh,
Thổ tinh tôn cư kỳ viên, mạc khả di huân.
Lệnh tinh chuyên ti tài khố, tối phạ không vong.
(Tử Vi là Chúa tể của Bắc Đẩu,
Thiên Phủ là Lệnh tinh Nam Đẩu,
Thổ tinh tôn quý cư cung viên của nó, không nên biến động thay đổi,
Lệnh tinh chuyên quản ti tài khố, rất sợ gặp phải Không Vong).
Chủ tinh nhược động, ngoạt chúng tinh bôn trì.
Lệnh tinh nhược không, tắc tài giai thất hao.
Nhược bất mịch kỳ hư thực, quan kỳ biến thiên, tắc phi minh đẩu số chi tạo hóa giả dã.
(Chúa tinh nếu mà động sẽ khiến cho các sao khác đều xáo động gấp rút,
Lệnh tinh nếu gặp Không Vong sẽ khiến tiền tài hao tổn mất mát.
Nếu không tìm cái hư thực của chúng, xét cái sự biến thiên của chúng, thì không thể tỏ tường được sự vận động tạo hóa của Đẩu Số vậy).
QNB chú: Bài “Đẩu Số chỉ nam” này cứ theo như mạch văn thì tôi đoán là có thể còn rất dài nhưng sách này không thấy có, chỉ có một đoạn ngắn như vậy.
Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh viết:
(Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh nói:)
Quan thiên đẩu số dữ Ngũ Tinh bất đồng, án thử tinh thần dữ chư thuật đại dị.
(Xem thấy Đẩu Số với môn Ngũ Tinh có điểm không giống nhau,
từ đây ta thấy về tinh thần cơ bản nó khác nhiều với các thuật khác).
Tứ chính cát tinh định vi quý, tam phương sát củng thiểu vi kỳ;
Đối chiếu hề tường hung tường cát, hợp chiếu hề quan tiện quan vinh.
(Xét tứ chính thấy cát tinh thì định là quý, Tam phương mà sát tinh vây chiếu thì kém đẹp;
Cung đối chiếu cho biết hung, biết cát, cung hợp chiếu cho biết tiện hay là vinh).
Cát tinh nhập viên tắc vi cát, hung tinh thất địa tắc vi hung.
(Cát tinh nhập mệnh, miếu đắc thì sẽ cát lợi, hung tinh mà hãm địa thì chắc chắn sẽ hung).
Mệnh phùng tử vi, phi đặc thọ nhi thả vinh;
Thân ngộ sát tinh, bất đãn bần nhi thả tiện.
(Mệnh gặp Tử Vi thì vừa thọ vừa vinh hoa;
Thân gặp sát tinh thì không những bần mà còn tiện).
Tả Hữu hội ư Tử Phủ, cực phẩm chi tôn;
Khoa Quyền hãm ư hung hương, công danh thặng đặng.
(Tả Hữu hội cùng Tử Phủ thì tôn quý đến cực phẩm,
Khoa Quyền hãm ở chỗ hung thì công danh lận đận).
Hành hạn phùng hồ nhược địa, vị tất vi tai;
lập mệnh hội tại cường cung, tất năng giáng phucs.
(Hành hạn nếu gặp nơi nhược địa thì chưa hẳn đã gặp tai họa,
lập Mệnh ở chỗ cường cung, nhất định sẽ có thể ban phúc).
Dương Đà Thất Sát, hạn vận mạc phùng, phùng chi định hữu hình thương (Kiếp Không Thương Sứ tại nội hợp đoán;
Thiên Khốc Tang Môn, lưu niên mạc ngộ, ngộ chi thực phòng phá hại.
(Vận hạn chớ có gặp Kình Đà Thất Sát, gặp thì tất sẽ bị hình thương (chú rằng có Kiếp Không Thương Sứ trong đó thì cũng hợp đoán vậy),
Lưu niên chớ có gặp Thiên Khốc Tang Môn, gặp thì phải đề phòng trong nhà bị hao tán).
Nam đẩu chủ hạn tất sinh nam,
Bắc đẩu gia lâm tiên đắc nữ.
(Nam Đẩu chủ hạn tất sẽ sinh con trai,
Bắc Đẩu lâm hạn thì sẽ sinh con gái).
Khoa tinh cư hãm địa, đăng hỏa tân cần;
Xương Khúc tại nhược hương, lâm tuyền lãnh đạm.
(Khoa tinh cư hãm địa, thì vất vả chăm chỉ đèn sách sớm khuya,
Xương Khúc ở chỗ nhược thì ẩn mình lãnh đạm nơi rừng núi).
Gian mưu tần thiết, Tử Vi quý ngộ Phá quân;
Dâm bôn đại hành, Hồng Loan sai phùng Tham tú.
(Tử Vi thẹn gặp Phá Quânvì suốt ngày bày kế hiểm mưu gian,
Hồng Loan gặp lầm phải Tham Lang thì hành vi dâm dật).
Mệnh Thân tương khắc, tắc tâm loạn nhi bất nhàn;
Huyền ảo tam cung, tắc tà dâm nhi đam tửu (tức Thiên Diêu tinh).
(Mệnh với Thân mà tương khắc thì tâm loạn nên chẳng được nhàn,
Ba cung mà huyền ảo thì tất sẽ tà dâm cùng ham rượu (chú rằng "huyền ảo" ám chỉ sao Thiên Diêu)).
Sát lâm tam vị, định nhiên thê tử bất hòa;
Cự đáo nhị cung, tất thị huynh đệ vô nghĩa.
(Sát tinh lâm vào tam vị - Phu Thê cung, chắc chắc bất hòa với vợ con,
Cự Môn đến nhị cung - Huynh Đệ cung, thì anh em vô tình vô nghĩa).
Hình sát thủ Tử cung, tử nan phụng lão;
Chư hung chiếu Tài bạch, tụ tán vô thường.
(Hình sát tinh ở cung Tử Tức, khó có được con chăm sóc lúc già;
Các hung tinh chiếu vào Tài Bạch, thì tiền tụ tán vô thường).
Dương Đà thủ Tật Ách, nhãn mục hôn manh;
Hỏa Linh đáo Thiên Di, trường đồ tịch mạc.
(Kình Đà thủ Tật Ách thì mắt kém, mắt đau, mắt mờ,
Hỏa Linh đến cung Thiên Di, thì đường đời phía trước sẽ cô đơn vắng vẻ).
Tôn tinh liệt tiện vị, chủ nhân đa lao;
Ác tinh ứng bát cung, nô bộc vô trợ.
(Các sao tôn quý bày vào chỗ thấp kém, thì chủ nhân nhiều gian khổ,
Ác tinh ứng vào cung thứ tám - Nô Bộc cung, thì bạn bè và kẻ dưới chẳng tương trợ được gì cho mình).
Quan Lộc ngộ Tử Phủ, phú nhi thả quý;
Điền Trạch ngộ Phá Quân, tiên phá hậu thành.
(Quan Lộc cung gặp Tử Phủ thì vừa phú vừa quý,
Điền Trạch cung gặp Phá Quân thì trước phá hết sau mới thành được).
Phúc Đức ngộ Không vong Kiếp, bôn tẩu vô lực;
Tướng Mạo gia hình sát, hình khắc nan miễn.
(Phúc Đức cung gặp Địa Kiếp, Không Vong, thì lang thang, không có năng lực,
Tướng Mạo cung, tức Phụ Mẫu cung, mà thêm Hình Sát, thì việc hình khắc là khó tránh được).
Hậu học giả chấp thử suy tường, vạn vô nhất thất.
(Học giả đời sau theo đây mà suy cho rõ, đảm bảo không sai).
91. Đẩu Số chỉ nam
Phu nhân chi sinh dã, bẩm tam tài chi khí,
Mệnh hữu đẩu cách, số hữu hạn kỳ,
Thôi nhi tri quý tiện cùng thông,
Luận nhi chí vi áo diệu.
(Con người ta sinh ra vốn được bẩm thụ cái khí của Tam Tài,
Mệnh thì có cách cục tinh đẩu, Số thì có hạn kỳ,
Suy để mà biết được cái lý cùng thông của quý tiện,
Luận để mà đạt đến cái ảo diệu sâu sắc).
Minh sinh khắc chế hóa chi lý, quan đồng viên thất độ chi cơ,
Thọ yểu hiền ngu, bần dâm chính trực, giai hữu sở ti, bất khả khái luận.
(Hiểu rõ cái lý sinh khắc chế hóa, xét then chốt của sự đồng cung đắc miếu hay lạc hãm,
Thọ yểu hiền ngu, nghèo dâm ngay thẳng, đều theo chỗ ti sở, không thể luận đại khái được).
Tử vi bắc đẩu chi chủ tể giả,
Thiên phủ nam đẩu chi lệnh tinh,
Thổ tinh tôn cư kỳ viên, mạc khả di huân.
Lệnh tinh chuyên ti tài khố, tối phạ không vong.
(Tử Vi là Chúa tể của Bắc Đẩu,
Thiên Phủ là Lệnh tinh Nam Đẩu,
Thổ tinh tôn quý cư cung viên của nó, không nên biến động thay đổi,
Lệnh tinh chuyên quản ti tài khố, rất sợ gặp phải Không Vong).
Chủ tinh nhược động, ngoạt chúng tinh bôn trì.
Lệnh tinh nhược không, tắc tài giai thất hao.
Nhược bất mịch kỳ hư thực, quan kỳ biến thiên, tắc phi minh đẩu số chi tạo hóa giả dã.
(Chúa tinh nếu mà động sẽ khiến cho các sao khác đều xáo động gấp rút,
Lệnh tinh nếu gặp Không Vong sẽ khiến tiền tài hao tổn mất mát.
Nếu không tìm cái hư thực của chúng, xét cái sự biến thiên của chúng, thì không thể tỏ tường được sự vận động tạo hóa của Đẩu Số vậy).
QNB chú: Bài “Đẩu Số chỉ nam” này cứ theo như mạch văn thì tôi đoán là có thể còn rất dài nhưng sách này không thấy có, chỉ có một đoạn ngắn như vậy.
Sửa bởi BryanAdam: 08/01/2015 - 15:01
Thanked by 7 Members:
|
|
#34
Gửi vào 09/01/2015 - 12:24
92. Chú giải Đẩu Số Cốt Tủy Phú
Thái cực tinh diệu, nãi quần tú chúng tinh chi chủ,
thiên môn vận hạn, tức phù thân trợ mệnh chi nguyên,
tại thiên tắc vận dụng vô thường, tại nhân tắc mệnh hữu cách cục.
(Thái Cực tinh diệu là chủ của chư tinh liệt tú,
vận hạn ở nơi thiên môn cũng chính là căn nguyên của việc phù Thân trợ Mệnh
ở tại trời thì sự vận dụng là vô thường nhưng ở người thì Mệnh có cách cục rõ ràng).
Tiên minh cách cục, thứ khán chúng tinh.
Hoặc hữu đồng niên đồng nguyệt đồng nhật đồng thì nhi sinh, tắc hữu bần tiện phú quý thọ yểu chi dị.
(Trước tiên phải minh định được cách cục, thứ đến mới xem xét tới các sao.
Dẫu cho cùng năm cùng tháng cùng ngày cùng giờ sinh, thì vẫn có sự khác nhau về bần tiện phú quý thọ yểu).
Hoặc tại ác hạn, tích bách vạn chi kim ngân.
Hoặc tại vượng hương, t*o liên niên chi khốn khổ.
Họa phúc bất khả nhất đồ nhi duy,
cát hung bất khả nhất lệ nhi đoán.
(Có thể tại ác hạn mà lại tích lũy được bạc vàng trăm vạn.
Có thể tại nơi vượng cung mà vẫn gặp phải khốn khổ năm này qua năm khác.
Họa phúc không thể theo một đường lối duy nhất mà đoán,
cát hung cũng không thể cứ theo một định lệ mà đoán được đâu).
Yếu tri nhất thế chi vinh khô, định khán ngũ hành chi cung vị.
Lập mệnh khả tri quý tiện, an thân tiện hiểu căn cơ.
(Nên biết rằng tươi tốt hay khô héo của một đời được định bởi việc xem ngũ hành cung vị.
Chỗ lập Mệnh có thể thấy được sang quý hay tiện-hèn kém, nơi an Thân có thể hiểu được căn cơ của bản thân đương số).
Vinh giả phú quý dã, khô giả bần tiện dã,
nhân sinh nhất mệnh chi trung nhi kiến chi dã,
thử tinh cát tá tinh cát vận hạn cát, tắc nhất sinh an nhiên.
Vận hạn hung nhi lưu niên ngộ sát kiếp, định tai hối nhi ngôn.
(Tươi tốt thì được phú quý vậy, khô héo thì bần tiện vậy,
xem trong số mệnh của con người mà biết vậy.
Chủ tinh cát, phụ tá tinh cát, vận hạn cũng cát thì sẽ được một đời an nhiên tự tại.
Vận hạn hung mà lưu niên gặp phải Sát Kiếp thì nhất định là gặp tai họa, hối hận... mà nói).
Ngũ hành tức mộc hỏa thổ kim thủy dã,
như dần thân tị hợi tắc vi tứ sinh, tý ngọ mão dậu tắc vi tứ bại, thìn tuất sửu mùi tắc vi tứ mộ,
tứ sinh lâm quan đế vượng tắc vi phú quý,
ngộ suy bại tử mộ tuyệt tắc vi bần tiện,
mộ khố thai dưỡng tắc vi dung thường.
(Ngũ hành tức là Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy vậy.
Như Dần Thân Tị Hợi thì là tứ Sinh, Tý Ngọ Mão Dậu là tứ Bại, Thìn Tuất Sửu Mùi là tứ Mộ,
Gặp tứ Sinh, Lâm Quan Đế Vượng thì là phú quý,
Gặp Suy Bại Tử Mộ Tuyệt thì là bần tiện,
Mộ khố Thai Dưỡng thì là trung dung bình thường).
Lập mệnh tại ngũ hành sinh vượng chi cung tắc phú, tử tuyệt chi cung tắc bần,
an thân tại sinh vượng chi cung tắc quý, tử tuyệt chi cung tắc tiện,
thử diệc thừa thượng văn nhi ngôn chi.
(Lập Mệnh tại cung có ngũ hành Sinh Vượng thì giàu, còn nếu lập Mệnh ở cung có ngũ hành Tử Tuyệt thì nghèo,
An Thân tại cung có ngũ hành Sinh Vượng thì quý, còn nếu an Thân ở cung có ngũ hành Tử Tuyệt thì ti tiện,
tới đây thì cũng cứ theo như lý luận ở trên mà nói (tức, cứ phỏng theo đó mà suy diễn,...)).
Đệ nhất tiên khán phúc đức,
tái tam tế khảo thiên di,
phân đối cung chi thể dụng,
định tam hợp chi nguyên lưu.
Mệnh vô chính diệu, yểu chiết cô bần.
Cát hữu hung tinh, mỹ ngọc hà điểm.
Ký đắc căn nguyên kiên cố, tu tri hợp cục tương sinh,
kiên cố tắc phú quý duyên thọ, tương sinh tắc tài quan chiêu trứ.
(Thứ nhất khán Phúc Đức,
rồi khảo cứu kỹ Thiên Di,
Phân ra Thể Dụng của đối cung,
xác định căn nguyên lưu chuyển của tam hợp.
Mệnh vô chính diệu, chẳng nghèo khổ hoặc cô đơn thì chết yểu.
Cát tinh mà có kèm hung tinh thì coi như là ngọc đẹp mà có tì vết.
Phàm đã được căn nguyên vững chắc, cần hợp cục tương sinh,
vững chắc thì phú quý diên thọ, tương sinh thì tài quan hiển nhiên rõ ràng).
Mệnh hảo Thân hảo Hạn hảo đáo lão vinh xương,
Mệnh suy Thân suy Hạn suy chung thân khất cái.
(Mệnh tốt, Thân tốt, Hạn tốt thì tới già vẫn được vinh quang hưng thịnh
Mệnh suy, Thân suy, Hạn suy thì cả đời chỉ có đi ăn m*y).
[Giả dụ như, Thân Mệnh tọa ở nơi Trường Sinh Đế Vượng, bản cung lại đắc cát tinh miếu vượng, cùng với đại tiểu hạn tương sinh tốt lành, gặp cát tinh nữa thì cả đời chẳng có mưu cầu gì là không được toại ý cả.
Giả như, Thân Mệnh cư ở chỗ Tử Tuyệt, bản cung không thấy cát hóa, hội thêm Kình Đà, giáp Linh Hỏa Không Kiếp các loại ác diệu, mà vận hạn lại không có cát tinh tiếp ứng, thì nhất định đó là số chủ bần tiện vậy].
Giáp Quý giáp Lộc thiểu nhân tri,
Giáp Quyền giáp Khoa thế sở nghi.
(cách "giáp Quý, giáp Lộc" này trên đời ít người gặp được, Quý ở đây chính là các sao tôn quý và các quý nhân tinh,
Cách "giáp Quyền, giáp Khoa" thì ở đời cũng hiếm như thế.)
[Giả như, người sinh năm Bính Đinh Nhâm Quý, an Mệnh tại Thìn Tuất, là giáp với Khôi Việt, lại có thêm cả cách giáp cung an Thân an Mệnh gặp Tử Vi Thiên Phủ Nhật Nguyệt Quyền Lộc Tả Hữu Xương Khúc thì là giáp Quý, tất sẽ được phú quý vậy. Như người tuổi Giáp, với Thân Mệnh ở Sửu Mão và Dần có Lộc ở trong đó, gọi là "sinh thành chi Lộc", là thượng cách. Ngoài ra giả sử như Giáp Dần, Ất Mão, Canh Thân, Tân Dậu, 4 vị đó đều cùng cách ấy.
Như người sinh năm Giáp mà Mệnh an tại Tý có Liêm Trinh hóa Lộc cư Hợi, Phá Quân hóa Quyền cư Sửu, chính là Quyền Lộc giáp Mệnh, định là chủ phú quý, ngoài ra cứ phỏng theo đó mà tính].
Giáp Nhật giáp Nguyệt thùy năng ngộ,
Giáp Xương giáp Khúc chủ quý hề.
(cách "giáp Nhật giáp Nguyệt" thì người ta thường thông minh,
cách "giáp Xương giáp Khúc" là chủ về quý).
[Giả như Thái Dương, Thái Âm tại Mệnh Thân mà 2 cung trước sau giáp Mệnh, không gặp phải Không Kiếp Kình Linh, tất sẽ quý vậy.
Như Xương Khúc giáp Mệnh thì cũng quý như vậy].
Giáp Không giáp Kiếp chủ bần tiện,
Giáp Dương giáp Đà vi khất cái.
(cách "giáp Không giáp Kiếp" là chủ nghèo hèn,
cách "giáp Kình giáp Đà" là số ăn m*y).
[Giả như Mệnh có Hóa Kị gặp Thiên Không, Địa Kiếp, Kình Đà các sát tinh giáp Thân Mệnh này, cùng Liêm Phá Vũ các sao gặp chúng thì định là chủ cô đơn, nghèo hèn, nếu chẳng nghèo thì yểu, phê là hạ cách.
Lại như Mệnh có Hóa Kị, đồng thời Kình Đà Hỏa Linh đến giáp 2 bên, cũng phê là hạ cách, có thể Lộc tại chỗ Sinh Vượng thì tuy là giáp Kình Đà nhưng không coi là hạ cách.
Lại hoặc như Kình Đà Không Kiếp không cùng tới giáp 2 bên, mà ở tam phương gặp được Quyền Lộc thì cũng không luận là giáp bại được, thế nhưng vận hạn mà gặp sát tinh thì có tai họa liền].
Liêm Trinh Thất Sát phản vi tích phú chi nhân,
Thiên Lương Thái Âm khước tác phiêu bồng chi khách.
(Liêm Trinh Thất Sát khi gặp phản cách là trở thành người giàu có
Thiên Lương Thái Âm mà lạc hãm thì lại thành ra khách phiêu bồng).
[Liêm Trinh thuộc Hỏa, Thất Sát thuộc Kim, là Hỏa chế Kim thành quyền, như Liêm Trinh cư Mùi Sát cư Ngọ, Thân Mệnh gặp được là kỳ cách, phản chuyển thành giàu có, hoặc nếu hãm địa Hóa Kị thì là hạ cách.
(QNB chú: phần sách chú giải cho câu này sai toét, làm gì có chuyện trong cùng lá số mà "Liêm cư Mùi, Sát cư Ngọ, Thân Mệnh gặp được" ở chỗ 2 cung cạnh nhau cho được!!! Theo thiển ý của tôi thì để được gọi là "phản vi kỳ cách" thì Liêm Sát đồng cung và tuổi gặp được cát hóa, xa lánh sát hung tinh, ví dụ tuổi Giáp có Liêm hóa Lộc thủ Mệnh còn Phá hóa Quyền đóng ở cung Quan là hợp cách. Hoặc là một số trường hợp khác,... Độc giả lưu ý vậy).
Thái Âm mà cư Mão Thìn Tị Ngọ đều là hãm địa, như tại Hợi Tị nhị cung gặp Thiên Lương tọa ở Thân Mệnh thì định là chủ cô đơn nghèo túng, bằng không sẽ phải tha hương phiêu đãng, là kẻ đam mê tửu sắc mà thôi, lại nói Thiên Lương tuy không hãm nhưng cũng không thể khiến cho thành người đôn hậu được.
(QNB chú: phần sách chú giải cho câu này cũng nhập nhằng luôn!!! Theo thiển ý của tôi thì nên hiểu rằng Mệnh có Thái Âm hãm, Thân cư Quan có Thiên Lương hãm hoặc ngược lại Mệnh có Thiên Lương hãm, Thân cư Tài có Thái Âm hãm là được. Độc giả lưu ý vậy)].
Liêm Trinh chủ hạ tiện cô hàn.
Thái Âm chủ nhất sinh khoái lạc.
(Liêm Trinh chủ hạ tiện cô đơn nghèo túng
Thái Âm chủ một đời vui sướng mau mắn).
[Giả như Thân Mệnh cư Tị Hợi gặp Liêm Trinh chính là hãm địa, tam phương và hai cung trước sau lại không có cát tinh củng chiếu giáp bên, thì định là bần tiện.
Như Mệnh Thân từ Mùi tới Tý cung gặp Thái Âm tất chủ phú quý, hoặc có nhiều cát tinh thì phú quý chẳng ít, hoặc nếu ít cát tinh thì cũng chủ đao bút công danh].
Xuất thế vinh hoa Quyền Lộc thủ Thân Mệnh chi địa,
Sinh lai bần tiện Kiếp Không lâm Tài Phúc chi hương.
(Ra đời được vinh hoa đó là bởi có Quyền Lộc đóng ở các cung Mệnh Thân,
Cuộc đời nghèo hèn ấy là do Kiếp Không lâm vào các cung Tài Bạch và Phúc Đức).
[Quyền Lộc thủ ở Tài Bạch và Phúc Đức nhập miếu có nhiều cát tinh thì định là chủ vinh hoa, Thân Mệnh gặp được cũng đương nhiên như vậy.
Kiếp Không tại hai cung Tài Bạch Phúc Đức thì chủ nhân nghèo hèn, Thân Mệnh mà gặp thì cũng đương nhiên như vậy].
Tiền bần hậu phú tu hoàn mệnh trị Vũ Tham,
Tiên phú hậu bần chích vi vận phùng Kiếp Sát.
(Trước nghèo sau giàu bù lại là bởi Mệnh gặp Vũ Tham
Trước giàu sau nghèo chỉ vì vận hạn gặp Kiếp Sát).
[Giả như, Mệnh lập tại Sửu Mùi có Vũ Tham đồng cung, cái Kim của Vũ Khúc thường có thể chế Mộc của Tham lang thì Mộc gặp chế hóa thành hữu dụng, vốn trước thì tuy nghèo mà sau này mới giàu, lại vừa được tam phương có Xương Khúc Tả Hữu các cát tinh củng chiếu thì chủ quý, hạn gặp Khoa Quyền Lộc tất sẽ quý hiển đấy mà.
Như Thân Mệnh cung có một, hai chính tinh, phía ngoài cũng gặp cát tinh, hạn trung niên đi vào Tuyệt địa, đồng thời gặp Kiếp Không Hao Sát các hung tinh, thì sao thủ Thân Mệnh vô lực, đó là nguyên do mà sau này nghèo vậy].
Văn Khúc Vũ Khúc vi nhân đa học đa năng,
Tả Phụ Hữu Bật bản tính khắc khoan khắc hậu.
(Văn Khúc Vũ Khúc là người học nhiều và có nhiều năng lực,
Tả Phụ Hữu Bật thì bản tính khoan thai, nhân hậu).
[Giả như, Thìn Tuất Tị Hợi Mão Dậu mà an Mệnh gặp hai sao Văn - Vũ Khúc thì đúng là vậy, có Xương Khúc tọa Mệnh ở Mùi mà thấy Kình Đà các sát tinh thì lại dễ bị tai ương, bởi thế phép xem số cần trọng yếu sự linh hoạt.
Như Tả Hữu nhị tinh mà tọa Mệnh, không cần câu nệ nhiều sao hay ít sao cũng đều chủ người có tính tình khoan hậu].
Thiên Phủ Thiên Tướng nãi y lộc chi thần,
Vi sĩ vi quan định chủ hanh thông chi triệu.
(Thiên Phủ và Thiên Tướng là thần của tước lộc,
Là kẻ sĩ là kẻ quan đều định chủ điềm được hanh thông).
[Giả như, an Mệnh tại Sửu, ở Tị Dậu cung có Phủ Tướng tới chầu, hoặc ở Mùi cung an Mệnh mà ở Hợi Mão có Phủ Tướng tới chầu cũng vậy, người tuổi Giáp mà không có sát tinh thì cứ y như thế mà đoán, nếu như thêm sát thì không phải vậy].
Thái cực tinh diệu, nãi quần tú chúng tinh chi chủ,
thiên môn vận hạn, tức phù thân trợ mệnh chi nguyên,
tại thiên tắc vận dụng vô thường, tại nhân tắc mệnh hữu cách cục.
(Thái Cực tinh diệu là chủ của chư tinh liệt tú,
vận hạn ở nơi thiên môn cũng chính là căn nguyên của việc phù Thân trợ Mệnh
ở tại trời thì sự vận dụng là vô thường nhưng ở người thì Mệnh có cách cục rõ ràng).
Tiên minh cách cục, thứ khán chúng tinh.
Hoặc hữu đồng niên đồng nguyệt đồng nhật đồng thì nhi sinh, tắc hữu bần tiện phú quý thọ yểu chi dị.
(Trước tiên phải minh định được cách cục, thứ đến mới xem xét tới các sao.
Dẫu cho cùng năm cùng tháng cùng ngày cùng giờ sinh, thì vẫn có sự khác nhau về bần tiện phú quý thọ yểu).
Hoặc tại ác hạn, tích bách vạn chi kim ngân.
Hoặc tại vượng hương, t*o liên niên chi khốn khổ.
Họa phúc bất khả nhất đồ nhi duy,
cát hung bất khả nhất lệ nhi đoán.
(Có thể tại ác hạn mà lại tích lũy được bạc vàng trăm vạn.
Có thể tại nơi vượng cung mà vẫn gặp phải khốn khổ năm này qua năm khác.
Họa phúc không thể theo một đường lối duy nhất mà đoán,
cát hung cũng không thể cứ theo một định lệ mà đoán được đâu).
Yếu tri nhất thế chi vinh khô, định khán ngũ hành chi cung vị.
Lập mệnh khả tri quý tiện, an thân tiện hiểu căn cơ.
(Nên biết rằng tươi tốt hay khô héo của một đời được định bởi việc xem ngũ hành cung vị.
Chỗ lập Mệnh có thể thấy được sang quý hay tiện-hèn kém, nơi an Thân có thể hiểu được căn cơ của bản thân đương số).
Vinh giả phú quý dã, khô giả bần tiện dã,
nhân sinh nhất mệnh chi trung nhi kiến chi dã,
thử tinh cát tá tinh cát vận hạn cát, tắc nhất sinh an nhiên.
Vận hạn hung nhi lưu niên ngộ sát kiếp, định tai hối nhi ngôn.
(Tươi tốt thì được phú quý vậy, khô héo thì bần tiện vậy,
xem trong số mệnh của con người mà biết vậy.
Chủ tinh cát, phụ tá tinh cát, vận hạn cũng cát thì sẽ được một đời an nhiên tự tại.
Vận hạn hung mà lưu niên gặp phải Sát Kiếp thì nhất định là gặp tai họa, hối hận... mà nói).
Ngũ hành tức mộc hỏa thổ kim thủy dã,
như dần thân tị hợi tắc vi tứ sinh, tý ngọ mão dậu tắc vi tứ bại, thìn tuất sửu mùi tắc vi tứ mộ,
tứ sinh lâm quan đế vượng tắc vi phú quý,
ngộ suy bại tử mộ tuyệt tắc vi bần tiện,
mộ khố thai dưỡng tắc vi dung thường.
(Ngũ hành tức là Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy vậy.
Như Dần Thân Tị Hợi thì là tứ Sinh, Tý Ngọ Mão Dậu là tứ Bại, Thìn Tuất Sửu Mùi là tứ Mộ,
Gặp tứ Sinh, Lâm Quan Đế Vượng thì là phú quý,
Gặp Suy Bại Tử Mộ Tuyệt thì là bần tiện,
Mộ khố Thai Dưỡng thì là trung dung bình thường).
Lập mệnh tại ngũ hành sinh vượng chi cung tắc phú, tử tuyệt chi cung tắc bần,
an thân tại sinh vượng chi cung tắc quý, tử tuyệt chi cung tắc tiện,
thử diệc thừa thượng văn nhi ngôn chi.
(Lập Mệnh tại cung có ngũ hành Sinh Vượng thì giàu, còn nếu lập Mệnh ở cung có ngũ hành Tử Tuyệt thì nghèo,
An Thân tại cung có ngũ hành Sinh Vượng thì quý, còn nếu an Thân ở cung có ngũ hành Tử Tuyệt thì ti tiện,
tới đây thì cũng cứ theo như lý luận ở trên mà nói (tức, cứ phỏng theo đó mà suy diễn,...)).
Đệ nhất tiên khán phúc đức,
tái tam tế khảo thiên di,
phân đối cung chi thể dụng,
định tam hợp chi nguyên lưu.
Mệnh vô chính diệu, yểu chiết cô bần.
Cát hữu hung tinh, mỹ ngọc hà điểm.
Ký đắc căn nguyên kiên cố, tu tri hợp cục tương sinh,
kiên cố tắc phú quý duyên thọ, tương sinh tắc tài quan chiêu trứ.
(Thứ nhất khán Phúc Đức,
rồi khảo cứu kỹ Thiên Di,
Phân ra Thể Dụng của đối cung,
xác định căn nguyên lưu chuyển của tam hợp.
Mệnh vô chính diệu, chẳng nghèo khổ hoặc cô đơn thì chết yểu.
Cát tinh mà có kèm hung tinh thì coi như là ngọc đẹp mà có tì vết.
Phàm đã được căn nguyên vững chắc, cần hợp cục tương sinh,
vững chắc thì phú quý diên thọ, tương sinh thì tài quan hiển nhiên rõ ràng).
Mệnh hảo Thân hảo Hạn hảo đáo lão vinh xương,
Mệnh suy Thân suy Hạn suy chung thân khất cái.
(Mệnh tốt, Thân tốt, Hạn tốt thì tới già vẫn được vinh quang hưng thịnh
Mệnh suy, Thân suy, Hạn suy thì cả đời chỉ có đi ăn m*y).
[Giả dụ như, Thân Mệnh tọa ở nơi Trường Sinh Đế Vượng, bản cung lại đắc cát tinh miếu vượng, cùng với đại tiểu hạn tương sinh tốt lành, gặp cát tinh nữa thì cả đời chẳng có mưu cầu gì là không được toại ý cả.
Giả như, Thân Mệnh cư ở chỗ Tử Tuyệt, bản cung không thấy cát hóa, hội thêm Kình Đà, giáp Linh Hỏa Không Kiếp các loại ác diệu, mà vận hạn lại không có cát tinh tiếp ứng, thì nhất định đó là số chủ bần tiện vậy].
Giáp Quý giáp Lộc thiểu nhân tri,
Giáp Quyền giáp Khoa thế sở nghi.
(cách "giáp Quý, giáp Lộc" này trên đời ít người gặp được, Quý ở đây chính là các sao tôn quý và các quý nhân tinh,
Cách "giáp Quyền, giáp Khoa" thì ở đời cũng hiếm như thế.)
[Giả như, người sinh năm Bính Đinh Nhâm Quý, an Mệnh tại Thìn Tuất, là giáp với Khôi Việt, lại có thêm cả cách giáp cung an Thân an Mệnh gặp Tử Vi Thiên Phủ Nhật Nguyệt Quyền Lộc Tả Hữu Xương Khúc thì là giáp Quý, tất sẽ được phú quý vậy. Như người tuổi Giáp, với Thân Mệnh ở Sửu Mão và Dần có Lộc ở trong đó, gọi là "sinh thành chi Lộc", là thượng cách. Ngoài ra giả sử như Giáp Dần, Ất Mão, Canh Thân, Tân Dậu, 4 vị đó đều cùng cách ấy.
Như người sinh năm Giáp mà Mệnh an tại Tý có Liêm Trinh hóa Lộc cư Hợi, Phá Quân hóa Quyền cư Sửu, chính là Quyền Lộc giáp Mệnh, định là chủ phú quý, ngoài ra cứ phỏng theo đó mà tính].
Giáp Nhật giáp Nguyệt thùy năng ngộ,
Giáp Xương giáp Khúc chủ quý hề.
(cách "giáp Nhật giáp Nguyệt" thì người ta thường thông minh,
cách "giáp Xương giáp Khúc" là chủ về quý).
[Giả như Thái Dương, Thái Âm tại Mệnh Thân mà 2 cung trước sau giáp Mệnh, không gặp phải Không Kiếp Kình Linh, tất sẽ quý vậy.
Như Xương Khúc giáp Mệnh thì cũng quý như vậy].
Giáp Không giáp Kiếp chủ bần tiện,
Giáp Dương giáp Đà vi khất cái.
(cách "giáp Không giáp Kiếp" là chủ nghèo hèn,
cách "giáp Kình giáp Đà" là số ăn m*y).
[Giả như Mệnh có Hóa Kị gặp Thiên Không, Địa Kiếp, Kình Đà các sát tinh giáp Thân Mệnh này, cùng Liêm Phá Vũ các sao gặp chúng thì định là chủ cô đơn, nghèo hèn, nếu chẳng nghèo thì yểu, phê là hạ cách.
Lại như Mệnh có Hóa Kị, đồng thời Kình Đà Hỏa Linh đến giáp 2 bên, cũng phê là hạ cách, có thể Lộc tại chỗ Sinh Vượng thì tuy là giáp Kình Đà nhưng không coi là hạ cách.
Lại hoặc như Kình Đà Không Kiếp không cùng tới giáp 2 bên, mà ở tam phương gặp được Quyền Lộc thì cũng không luận là giáp bại được, thế nhưng vận hạn mà gặp sát tinh thì có tai họa liền].
Liêm Trinh Thất Sát phản vi tích phú chi nhân,
Thiên Lương Thái Âm khước tác phiêu bồng chi khách.
(Liêm Trinh Thất Sát khi gặp phản cách là trở thành người giàu có
Thiên Lương Thái Âm mà lạc hãm thì lại thành ra khách phiêu bồng).
[Liêm Trinh thuộc Hỏa, Thất Sát thuộc Kim, là Hỏa chế Kim thành quyền, như Liêm Trinh cư Mùi Sát cư Ngọ, Thân Mệnh gặp được là kỳ cách, phản chuyển thành giàu có, hoặc nếu hãm địa Hóa Kị thì là hạ cách.
(QNB chú: phần sách chú giải cho câu này sai toét, làm gì có chuyện trong cùng lá số mà "Liêm cư Mùi, Sát cư Ngọ, Thân Mệnh gặp được" ở chỗ 2 cung cạnh nhau cho được!!! Theo thiển ý của tôi thì để được gọi là "phản vi kỳ cách" thì Liêm Sát đồng cung và tuổi gặp được cát hóa, xa lánh sát hung tinh, ví dụ tuổi Giáp có Liêm hóa Lộc thủ Mệnh còn Phá hóa Quyền đóng ở cung Quan là hợp cách. Hoặc là một số trường hợp khác,... Độc giả lưu ý vậy).
Thái Âm mà cư Mão Thìn Tị Ngọ đều là hãm địa, như tại Hợi Tị nhị cung gặp Thiên Lương tọa ở Thân Mệnh thì định là chủ cô đơn nghèo túng, bằng không sẽ phải tha hương phiêu đãng, là kẻ đam mê tửu sắc mà thôi, lại nói Thiên Lương tuy không hãm nhưng cũng không thể khiến cho thành người đôn hậu được.
(QNB chú: phần sách chú giải cho câu này cũng nhập nhằng luôn!!! Theo thiển ý của tôi thì nên hiểu rằng Mệnh có Thái Âm hãm, Thân cư Quan có Thiên Lương hãm hoặc ngược lại Mệnh có Thiên Lương hãm, Thân cư Tài có Thái Âm hãm là được. Độc giả lưu ý vậy)].
Liêm Trinh chủ hạ tiện cô hàn.
Thái Âm chủ nhất sinh khoái lạc.
(Liêm Trinh chủ hạ tiện cô đơn nghèo túng
Thái Âm chủ một đời vui sướng mau mắn).
[Giả như Thân Mệnh cư Tị Hợi gặp Liêm Trinh chính là hãm địa, tam phương và hai cung trước sau lại không có cát tinh củng chiếu giáp bên, thì định là bần tiện.
Như Mệnh Thân từ Mùi tới Tý cung gặp Thái Âm tất chủ phú quý, hoặc có nhiều cát tinh thì phú quý chẳng ít, hoặc nếu ít cát tinh thì cũng chủ đao bút công danh].
Xuất thế vinh hoa Quyền Lộc thủ Thân Mệnh chi địa,
Sinh lai bần tiện Kiếp Không lâm Tài Phúc chi hương.
(Ra đời được vinh hoa đó là bởi có Quyền Lộc đóng ở các cung Mệnh Thân,
Cuộc đời nghèo hèn ấy là do Kiếp Không lâm vào các cung Tài Bạch và Phúc Đức).
[Quyền Lộc thủ ở Tài Bạch và Phúc Đức nhập miếu có nhiều cát tinh thì định là chủ vinh hoa, Thân Mệnh gặp được cũng đương nhiên như vậy.
Kiếp Không tại hai cung Tài Bạch Phúc Đức thì chủ nhân nghèo hèn, Thân Mệnh mà gặp thì cũng đương nhiên như vậy].
Tiền bần hậu phú tu hoàn mệnh trị Vũ Tham,
Tiên phú hậu bần chích vi vận phùng Kiếp Sát.
(Trước nghèo sau giàu bù lại là bởi Mệnh gặp Vũ Tham
Trước giàu sau nghèo chỉ vì vận hạn gặp Kiếp Sát).
[Giả như, Mệnh lập tại Sửu Mùi có Vũ Tham đồng cung, cái Kim của Vũ Khúc thường có thể chế Mộc của Tham lang thì Mộc gặp chế hóa thành hữu dụng, vốn trước thì tuy nghèo mà sau này mới giàu, lại vừa được tam phương có Xương Khúc Tả Hữu các cát tinh củng chiếu thì chủ quý, hạn gặp Khoa Quyền Lộc tất sẽ quý hiển đấy mà.
Như Thân Mệnh cung có một, hai chính tinh, phía ngoài cũng gặp cát tinh, hạn trung niên đi vào Tuyệt địa, đồng thời gặp Kiếp Không Hao Sát các hung tinh, thì sao thủ Thân Mệnh vô lực, đó là nguyên do mà sau này nghèo vậy].
Văn Khúc Vũ Khúc vi nhân đa học đa năng,
Tả Phụ Hữu Bật bản tính khắc khoan khắc hậu.
(Văn Khúc Vũ Khúc là người học nhiều và có nhiều năng lực,
Tả Phụ Hữu Bật thì bản tính khoan thai, nhân hậu).
[Giả như, Thìn Tuất Tị Hợi Mão Dậu mà an Mệnh gặp hai sao Văn - Vũ Khúc thì đúng là vậy, có Xương Khúc tọa Mệnh ở Mùi mà thấy Kình Đà các sát tinh thì lại dễ bị tai ương, bởi thế phép xem số cần trọng yếu sự linh hoạt.
Như Tả Hữu nhị tinh mà tọa Mệnh, không cần câu nệ nhiều sao hay ít sao cũng đều chủ người có tính tình khoan hậu].
Thiên Phủ Thiên Tướng nãi y lộc chi thần,
Vi sĩ vi quan định chủ hanh thông chi triệu.
(Thiên Phủ và Thiên Tướng là thần của tước lộc,
Là kẻ sĩ là kẻ quan đều định chủ điềm được hanh thông).
[Giả như, an Mệnh tại Sửu, ở Tị Dậu cung có Phủ Tướng tới chầu, hoặc ở Mùi cung an Mệnh mà ở Hợi Mão có Phủ Tướng tới chầu cũng vậy, người tuổi Giáp mà không có sát tinh thì cứ y như thế mà đoán, nếu như thêm sát thì không phải vậy].
Thanked by 7 Members:
|
|
#35
Gửi vào 09/01/2015 - 12:40
Miêu nhi bất tú Khoa danh hãm ư hung hương,
Phát bất chủ tài Lộc chủ triền ư nhược địa.
(Mầm non nhú lên mà chẳng phát triển được, là vì Khoa bị hãm ở nơi hung hiểm,
Phát mà lại không chủ tiền tài, ấy là do Lộc đi vào triền độ của chỗ nhược địa).
[Giả như Khoa lâm vào trong chỗ có Không Kiếp Kình Đà thì vậy, lại hoặc là Thái Dương ở Tuất, hay Thái Âm ở Mão thì kể cả có cát hóa Khoa Quyền Lộc thì cũng không là đẹp được.
Giả như, Hóa Lộc hãm nơi Không Kiếp thì vậy, lại hoặc là ở Tý Ngọ Thân Dậu cung tuy Hóa Quyền Lộc thì cũng vô dụng, chủ cô đơn nghèo túng.
Thất Sát triều đẩu tước lộc vinh xương,
Tử Phủ đồng cung chung thân phúc hậu.
(Thất Sát chầu Đẩu thì quan tước lợi lộc được tốt tươi hưng thịnh,
Tử Phủ đồng cung thì cả đời được hưởng phúc dày).
[Giả như, an mệnh tại 4 cung Dần Thân Tý Ngọ có Thất Sát thì gọi là như vậy (tức, "Thất Sát triều đẩu"), cũng cần Tả Hữu Khôi Việt Xương Khúc tọa chiếu củng hợp thì mới theo y như thế mà đoán, có thể gặp hạn tốt đẹp thì cực hay, nếu như thêm sát tinh thì không đoán thế được.
Giả như, hai cung Dần Thân an Mệnh gặp Tử Phủ đồng cung, tam phương có Tả Hữu Khôi Việt củng chiếu thì tất sẽ chủ phú quý, cả đời được hưởng phúc dày, người tuổi Giáp hóa cát thì cực kỳ đẹp].
Tử Vi cư Ngọ vô sát tấu vị chí tam công,
Thiên lâm Tuất hữu tinh phù yêu kim y tử.
(Tử Vi cư Ngọ mà không có sát tinh tụ tập vây chiếu thì tước vị cỡ Tam Công,
Thiên Phủ ở Tuất có các sao phù trợ thì được mang đai vàng áo tía - ý nói quan phục cao cấp)
[Giả như, người sinh năm Giáp Đinh Kỷ mà mệnh an tại Ngọ được như vậy (Tử Vi vô sát tấu) là nhập cách, chủ đại quý, ngoài ra thì cũng giàu đủ hoặc là tiểu quý.
Giả như, người sinh năm Giáp Kỷ mà an Mệnh ở cung Tuất được như thế (Phủ có sao phù trợ) thì cứ y vậy mà đoán, thêm sát tinh thì không đoán thế nữa, trọng yếu là có Khôi Việt Tả Hữu Lộc Quyền thì chủ đại phú đại quý, nếu như không có các cát tinh ấy thì cũng bình thường thôi].
Khoa Quyền Lộc củng danh dự chiêu chương,
Vũ Khúc miếu viên uy danh hách dịch.
(Khoa Quyền Lộc củng chiếu thì rõ ràng có tên tuổi và vinh dự,
Vũ Khúc nhập miếu thì uy danh cũng lẫy lừng, long trọng).
[Chúng là Tam Hóa cát tinh, nếu như Thân Mệnh tọa thủ một Hóa, Tài Bạch và Quan Lộc có 2 hóa đến hợp chiếu, đích thị là tam hợp thủ chiếu, được gọi là "Khoa Quyền Lộc củng" vậy, thêm cát tinh nữa thì tước vị cỡ Tam Công.
Giả như, an mệnh ở hai cung Thìn Tuất gặp được Vũ Khúc nhập miếu thì là thượng cách, ở Sửu Mùi an Mệnh thì chỉ là thứ cách, cần phải thấy Tả Hữu Xương Khúc và các cát tinh thì cứ y như thế mà đoán].
Khoa minh Lộc ám vị liệt tam thai,
Nhật Nguyệt đồng lâm quan cư hầu bá.
(có cách "Khoa minh Lộc ám", tức có Khoa ở tam phương tứ chính còn Lộc ở giáp cung hoặc ám hợp, thì tước vị cỡ Tam Thai - Tam Thái, Tam Công,
có cách "Nhật Nguyệt đồng lâm", tức là có Nhật Nguyệt cùng chiếu về bản cung, thì làm quan được phong Hầu, phong Bá).
[Giả như, người sinh năm Giáp mà an Mệnh tại Hợi, gặp Hóa Khoa thủ mệnh, lại có Thiên Lộc cư ở cung Dần, thì Hợi với Dần là nhị hợp, cho nên viết là "Khoa minh Lộc ám".
Giả như, Mệnh an tại cung Sửu, trong khi ở Mùi lại có Nhật Nguyệt đồng cung xung chiếu, hoặc Mệnh an tại Mùi còn ở Sửu lại có Nhật Nguyệt đồng cung thì là cách ấy vậy (Nhật Nguyệt đồng lâm), phép bí truyền nói "Nhật Nguyệt đồng lâm luận đối cung", người tuổi Bính tuổi Tân gặp được hưởng phúc hưng thịnh].
Cự Cơ đồng cung công khanh chi vị,
Tham Linh tịnh thủ tướng tướng chi danh.
(Cự Cơ đồng cung thì có tước vị cỡ Công hầu khanh tướng
Tham Linh tịnh thủ thì được nổi danh là tướng tài).
[Giả như, người sinh năm Tân Ất mà Mệnh an tại Mão cung, có Cự Cơ thủ mệnh lại gặp Tả Hữu Xương Khúc thì là thượng cách, như người tuổi Bính thì là thứ cách, người tuổi Đinh thì cũng chủ bình thường, ngoài ra cung phận mà không ở đó (Mão) thì không luận như vậy.
Như an Mệnh tại các cung Thìn Tuất Sửu Mùi Tý mà gặp Tham Linh, thì là nhập miếu nên cứ theo y như vậy mà đoán, nếu như gia cát tinh thì duy chỉ có tọa thủ ở hai cung Tý Thìn thì rất đẹp, người tuổi Mậu Kỷ là hợp cách].
Thiên Khôi Thiên Việt cái thế văn chương,
Thiên Lộc Thiên Mã kinh nhân giáp đệ.
(Có Khôi Việt thì là người có tài văn chương cái thế,
Có Lộc Mã thì cũng đỗ đạt thủ khoa khiến người ta nể phục).
[Giả như, Thân Mệnh tọa chỗ Thiên Khôi và đối cung lại có Thiên Việt, hoặc ngược lại Thân Mệnh tọa Thiên Việt còn đối cung có Thiên Khôi, đó chính là "tọa Quý hướng Quý", hội thêm cát tinh, hóa tinh, thì quý là tất nhiên vậy.
Giả như, an Mệnh tại các cung Dần Thân Tị Hợi gặp Thiên Lộc, Thiên Mã tọa thủ. Mệnh cung có thêm tam hợp cát tinh thủ chiếu thì cứ y như thế mà đoán. Nếu có thêm sát tinh thì không đoán như vậy].
Tả Phụ Văn Xương hội cát tinh tôn cư bát tọa,
Tham Lang Hỏa Tinh cư miếu vượng danh chấn chư bang.
(Tả Phụ Văn Xương hội với các cát tinh thì chỗ ngồi tôn quý, quan cao cấp
Tham Lang Hỏa Tinh cùng cư nơi miếu vượng thì uy danh chấn động các nước láng giềng).
[Giả như, hai sao ấy (Tả Phụ Văn Xương) mà tọa thủ ở nơi Thân Mệnh, thêm ở tam phương có cát tinh củng chiếu thì cứ y theo đó mà đoán. Nếu thêm sát tinh, Không Kiếp, thì không hợp cách ấy.
Giả như, an Mệnh tại Thìn Tuất Sửu Mùi, gặp được chúng (Tham Hỏa) ở đó là thượng cách, tam phương có cát tinh củng chiếu thì rất đẹp. Nếu như ở Mão an Mệnh thì là thứ cách. Nếu như có Kình Đà Không Kiếp thì không được cát lợi].
Cự Nhật đồng cung quan phong tam đại,
Tử Phủ triều viên thực lộc vạn chung.
(Cự Nhật đồng cung thì ba đời được gia phong quan chức
Tử Phủ chầu mệnh viên thì được hưởng lộc ăn tới hàng vạn chung - bổng lộc hậu hĩnh).
[Dần cung an Mệnh mà có Cự Nhật, không có Kiếp Không và Tứ Sát thì là thượng cách, ở cung Thân (khỉ) là thứ cách. Ở Tị Hợi thì không phải là đẹp, như Tị cung có Nhật thủ Mệnh viên, ở Hợi có Cự thì còn coi là thượng cách, như Tị mà có Cự thủ Mệnh và Hợi có Nhật thì đúng là không đẹp, hạ cách.
Cung Thân (khỉ) có Nhật thủ mệnh, ở Dần có Cự đến chầu cũng là thượng cách. Dần có Nhật thủ Mệnh, ở Thân (khỉ) có Cự đến chầu thì là người bình thường.
(QNB chú: Nếu trong 1 lá số thì không bao giờ có các trường hợp Mệnh có Nhật ở Dần, mà Di có Cự ở cung an Thân, và ngược lại được. Theo thiển ý của tôi thì nên hiểu trường hợp này là Mệnh vô chính diệu ở cung Thân (khỉ) và cung Dần an Thân cư Di có Cự Nhật chầu Mệnh, người tuổi Đinh Tân có Khoa Quyền Lộc củng mới có thể coi là thượng cách. Số của ông Vương Hàn - tự là Tử Vũ có cách này. Độc giả lưu ý vậy!).
Như Dần cung mà an Mệnh, ở Ngọ Tuất cung có Tử Phủ đến chầu, hoặc cung Thân (khỉ) mà an Mệnh có Tử Phủ ở Tý Thìn đến chầu, thì là tượng của "nhân quân phỏng thần" (người vua tới thăm hỏi bề tôi), là kỳ cách vậy. Gặp thêm lưu Lộc trong hạn thì tất nhiên sẽ được tước vị tận công hầu khanh tướng. Nếu như Thất Sát tại Mệnh ở Dần Thân cũng coi là thượng cách. Nếu như có Hóa Kị gia thêm hung sát tinh thì luận là bình thường].
Khoa Quyền đối củng dược tam cấp ư vũ môn,
Nhật Nguyệt tịnh minh tá cửu trùng ư nghiêu điện.
(Có Khoa Quyền, 1 đối cung và 1 tam hợp củng chiếu thì như cá chép vượt vũ môn hóa rồng,
Có Nhật Nguyệt cùng sáng rực rỡ thì được phò tá cho bậc quân vương nơi cung điện).
[Thiên Di, Tài Bạch, Quan Lộc, tam phương đối củng chính là cách ấy, có thể (trường hợp) Mệnh có 1 trong Khoa/Quyền/Lộc và tam phương cũng có 1 trong Khoa/Quyền/Lộc chiếu, không gặp sát tinh thì cũng hiển nhiên như vậy.
Cung Mệnh an tại Sửu có Nhật ở Tị và Nguyệt ở Dậu tới chầu là tịnh minh (sáng rực rỡ), người sinh năm Tân Ất là hợp cách, nếu như sinh năm Bính thì chủ quý, tuổi Đinh thì chủ phú, nếu thêm Tứ Sát Kiếp Không Kị thì lại bình thường].
Phủ Tướng đồng lai hội mệnh cung toàn gia thực lộc,
Tam hợp minh châu sinh vượng địa ổn bộ thiềm cung.
(Phủ Tướng mà cùng đến hội tụ ở Mệnh cung thì cả nhà có của ăn của để, có lộc,
Tam hợp mà có (Nguyệt) sáng như ngọc ở nơi vượng địa thì ung dung dạo bước cung trăng).
[Tam hợp (có Phủ Tướng) chiếu đến gặp thêm bản cung nhiều cát tinh, Thân Mệnh không ở chỗ bại địa thì đó là cách "Phủ Tướng triều viên", tất sẽ phú quý vậy. Phép bí truyền nói "Phủ Tướng miếu viên cách cực kỳ tốt, ra làm kẻ sĩ làm quan đều đại cát, hưng thịnh".
Như tại Mùi cung an Mệnh, có Nhật ở Mão, có Nguyệt ở Hợi tới chầu, là cách "Minh châu xuất hải", nhất định là chủ tiền tài quan lộc đều song toàn tốt đẹp. Như Thìn cung có Nhật thủ Mệnh, Tuất cung có Nguyệt đối chiếu, hoặc Nguyệt thủ Mệnh ở Tuất và Thìn cung có Nhật đối chiếu, thì cũng chủ cực quý].
Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại,
Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân.
(Thất Sát Phá Quân thích hợp / cần phải đi ra bên ngoài,
Cơ Nguyệt Đồng Lương thì hợp làm quan lại).
[Hai sao đó (Thất Sát, Phá Quân) hội Thân Mệnh ở chỗ hãm địa, chủ các kiểu tay nghề/tài nghệ tinh thông khéo léo, xuất ngoại thì khá vậy, luận cho Sát ở Dần Thân và (Phá) Quân ở Tị Hợi.
Bốn sao này (Cơ Nguyệt Đồng Lương) tất Thân Mệnh tam hợp (với Văn) Khúc thì có thể có công danh thành tựu trong nghiệp nghiên bút. Thêm Sát tinh Kị tinh là hạ cách. Phép bí truyền nói "Dần Thân hội Đồng Lương Cơ Nguyệt, tất định làm kẻ quan lại", nếu mà không đủ 4 sao mà chỉ có 3 thôi thì khó thành công].
Tử Phủ Nhật Nguyệt cư vượng địa đoán định công hầu khí,
Nhật Nguyệt Khoa Lộc sửu cung trung định thị phương bá công.
(Tử Phủ Nhật Nguyệt mà ở chỗ vượng địa thì đoán định là được tước vị Công, Hầu,
Nhật Nguyệt Khoa Lộc ở trong cung Sửu thì định là có làm quan đến tước Bá, tước Công).
[Tử Vi cư Ngọ và Thiên Phủ ở Tuất cung, Nhật ở Mão Thìn với Nguyệt ở Dậu Tuất Hợi cung, lại hóa Lộc Khoa Quyền tọa nơi Thân Mệnh thì chính là như vậy. Có thêm Sát tinh Kiếp Không Kị thì không phải thế, như vậy là ngọc đẹp mà lại có tì vết.
Sửu Mùi cung mà an Mệnh, có Nhật Nguyệt hóa Khoa Lộc tọa thủ thì là như vậy, nếu như không có cát hóa thì Nhật Nguyệt đồng cung là không đẹp vậy, phép bí truyền nói:
"Nhật Nguyệt Sửu Mùi mệnh trung phùng
Tam phương vô cát phúc nan sinh
Nhược hoàn cát hóa phương vi mỹ
Phương diện uy quyền phúc lộc tăng"
(Nhật Nguyệt Sửu Mùi, mệnh ở trong
Tam phương thiếu cát, phúc khó phong
Nếu mà cát hóa thành ra đẹp
Được cả uy quyền, phúc lộc tăng)].
Thiên Lương Thiên Mã hãm phiêu đãng vô nghi,
Liêm Trinh Sát bất gia thanh danh viễn bá.
(Thiên Lương Thiên Mã cùng chỗ lạc hãm, thì đoán là số phiêu đãng mà khỏi cần nghi ngờ,
Liêm Trinh không bị thêm sát tinh thì thanh danh được gia phong, lừng lẫy).
[Tị Hợi cung mà an Mệnh, gặp Thiên Lương hãm, lại cùng Thiên Mã đồng cung, lại có thể bị vây hãm bởi Hỏa La Không Kiếp (Hỏa Tinh, Đà La, Không Kiếp) thì cứ y như thế mà đoán.
"Sát" là Tứ Sát vậy, như Mão cung mà an Mệnh, có Liêm Trinh không gặp Tứ Sát thì chủ quý, cũng cần phải có tam hợp cát tinh củng chiếu thì được thanh danh vang dội, nếu có thêm sát tinh thì bình thường. Hoặc tại hai cung Mùi Thân mà tọa Mệnh không gặp sát tinh cũng tốt lành].
Nhật chiếu lôi môn phú quý vinh hoa,
Nguyệt lãng thiên môn tiến tước phong hầu.
(Có cách "Nhật chiếu lôi môn" - Mặt Trời chiếu từ cửa nhà sấm - tức là Thái Dương ở cung Mão, thì được phú quý vinh hoa,
Có cách "Nguyệt lãng thiên môn" - Mặt Trăng sáng đẹp ở cửa trời - tức là Thái Âm ở cung Tuất Hợi (chỗ quẻ Càn) thì được tăng tước vị, được phong Hầu).
[Cung Mệnh an tại Mão (cung Chấn - sấm) có Thái Dương tọa thủ thì gọi là "Nhật xuất/chiếu lôi môn", được thêm ở tam phương có Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt thủ chiếu thì phú quý không hề nhỏ, người tuổi Giáp Ất Canh Tân là hợp cách, (dẫu) có thêm Hình Kị Tứ Sát thì cũng chủ no ấm.
Cung Mệnh an tại Hợi (cung Càn - trời) có Thái Âm tọa thủ thì gọi là "Nguyệt lãng thiên môn", được thêm tam phương có cát tinh củng chiếu thì chủ đại phú đại quý, không có cát thì cũng chủ có chút công danh nhưng làm tạp chức, người tuổi Bính Đinh thì chủ quý, người tuổi Nhâm Quý thì chủ phú].
Dần phùng Phủ Tướng vị đăng nhất phẩm chi vinh,
Mộ phùng Tả Hữu tôn cư bát tọa chi quý.
(Ở cung Dần gặp Phủ Tướng chầu về là được thăng tiến vẻ vang tới hàm nhất phẩm,
Ở Mộ cung mà có Tả Hữu thì chỗ ngồi làm quan cao cấp, tôn quý).
[Dần cung an Mệnh, có Phủ ở Ngọ và Tướng ở Tuất đến chầu, người tuổi Giáp gặp được thì đúng là như vậy (thăng tiến quan lộ). Nếu như thêm Sát tinh thì không phải thế. Nếu như ở cung Dậu an Mệnh, có Phủ ở Sửu và Tướng ở Tị tới chầu thì cũng quý.
An mệnh tại Thìn Tuất Sửu Mùi, có Tả Hữu tọa thủ thì vậy, hoặc Thiên Di Quan Lộc Tài Bạch mà gặp (Tả Hữu tứ Mộ) thì cũng chủ cả đời được phúc thọ.
(QNB chú: câu này có lẽ là Tả Hữu phù trì cho cách cục nào đó rất đẹp của chính tinh, nếu không chỉ có Tả Hữu mà nói như vậy thì thật quá lời. Độc giả lưu ý vậy)].
Lương cư Ngọ vị quan tư thanh hiển,
Khúc ngộ Lương tinh vị chí thai cương.
(Thiên Lương ở Ngọ là vị trí của người làm quan vô tư thanh liêm vẻ vang,
Văn Khúc gặp Thiên Lương chỗ miếu vượng thì tước vị cỡ Tam Thai, Tam Công).
[Cung Mệnh an tại Ngọ có Thiên Lương tọa thủ thì đúng là vậy, người tuổi Đinh là thượng cách, người tuổi Kỷ là thứ cách, người tuổi Quý chủ giàu có cũng là thứ cách.
Cung Ngọ an Mệnh có Văn Khúc Thiên Lương đồng cung tọa thủ là thượng cách, ở Dần cung thì là thứ cách, hoặc Lương tại Ngọ và Khúc tại Tý xung củng cũng làm quan tới cỡ nhị phẩm tam phẩm].
Khoa Lộc tuần phùng Chu Bột hân nhiên nhập tướng,
Văn tinh ám củng Cổ Nghị doãn hĩ đăng khoa.
(Hạn gặp Khoa Lộc thì Chu Bột vui mừng được Lưu Bang phong làm tướng quân,
Có Văn tinh ám củng mà Cổ Nghị được đỗ đại khoa, thời Hán Văn Đế).
[Mệnh cung có cát tinh tọa thủ, tam phương Hóa cát xung củng, hoặc là trước cung Mệnh 3 vị (tức là Phúc Đức cung) gặp Khoa Quyền Lộc đều là tốt đẹp chủ phú quý.
Như Mệnh cung có cát tinh, Thiên Di Quan Lộc Tài Bạch có Xương Khúc Hóa Khoa triều củng thì cũng được như vậy (đỗ đại khoa)].
Kình Dương Hỏa Tinh uy quyền xuất chúng,
Tham Vũ đồng hành uy trấn biên di.
(Kình Dương và Hỏa Tinh đồng cung đắc địa thì uy quyền xuất chúng,
Tham Vũ đồng hành thì oai phong trấn áp được các nơi ngoài biên cương).
[Thìn Tuất Sửu Mùi tứ Mộ cung mà an Mệnh, gặp Kình Dương Hỏa Tinh nhập miếu thì chủ văn võ song toàn, binh quyền vạn dặm.
Cũng như Vũ Tham vượng địa ở Mộ cung gặp Hỏa Tinh thì cũng đoán giống như thế].
Lý Quảng bất phong Kình Dương phùng ư Lực Sĩ,
Nhan Hồi yểu chiết Văn Xương hãm ư Thiên Thương.
(Lý Quảng không được Hán Văn Đế phong tước vì Kình Dương gặp Lực Sĩ,
Thày Nhan Hồi bị chết yểu là do Văn Xương hãm ở chỗ Thiên Thương).
[Nhị tinh (Kình, Lực) thủ mệnh mà có nhiều cát tinh thì cũng là số bình thường, nếu thêm sát tinh thì cực kỳ hung hiểm, nữ mệnh lại không luận cách này.
Như người tuổi Sửu mà Mệnh an cung Dần, lại có Văn Xương hãm ở chỗ Thiên Thương, tới hạn lưu niên lại gặp Thất Sát và Kình Đà trùng điệp thì đoán là chết yểu].
Trọng Do uy mãnh Liêm Trinh nhập miếu ngộ tướng quân,
Tử Vũ tài năng Cự tú Đồng Lương xung thả hợp.
(Tử Lộ, tức Trọng Do, oai phong dũng mãnh là do Liêm Trinh miếu gặp Tướng Quân,
Vương Hàn, tức Tử Vũ, có tài năng ấy bởi Cự Môn xung mà Đồng Lương hợp chiếu).
[Mệnh lập tại cung Thân (khỉ) có Liêm Trinh và Tướng Quân tọa thì là vậy, ngoài ra các trường hợp khác cũng phỏng theo đó mà xét.
Mệnh lập tại cung Thân (khỉ) có Cự ở Dần xung củng, có Đồng ở Tý và Lương ở Thìn tam hợp chiếu, lại có Khoa Quyền Lộc Tả Hữu xung củng hợp thì chính là cách ấy].
Phát bất chủ tài Lộc chủ triền ư nhược địa.
(Mầm non nhú lên mà chẳng phát triển được, là vì Khoa bị hãm ở nơi hung hiểm,
Phát mà lại không chủ tiền tài, ấy là do Lộc đi vào triền độ của chỗ nhược địa).
[Giả như Khoa lâm vào trong chỗ có Không Kiếp Kình Đà thì vậy, lại hoặc là Thái Dương ở Tuất, hay Thái Âm ở Mão thì kể cả có cát hóa Khoa Quyền Lộc thì cũng không là đẹp được.
Giả như, Hóa Lộc hãm nơi Không Kiếp thì vậy, lại hoặc là ở Tý Ngọ Thân Dậu cung tuy Hóa Quyền Lộc thì cũng vô dụng, chủ cô đơn nghèo túng.
Thất Sát triều đẩu tước lộc vinh xương,
Tử Phủ đồng cung chung thân phúc hậu.
(Thất Sát chầu Đẩu thì quan tước lợi lộc được tốt tươi hưng thịnh,
Tử Phủ đồng cung thì cả đời được hưởng phúc dày).
[Giả như, an mệnh tại 4 cung Dần Thân Tý Ngọ có Thất Sát thì gọi là như vậy (tức, "Thất Sát triều đẩu"), cũng cần Tả Hữu Khôi Việt Xương Khúc tọa chiếu củng hợp thì mới theo y như thế mà đoán, có thể gặp hạn tốt đẹp thì cực hay, nếu như thêm sát tinh thì không đoán thế được.
Giả như, hai cung Dần Thân an Mệnh gặp Tử Phủ đồng cung, tam phương có Tả Hữu Khôi Việt củng chiếu thì tất sẽ chủ phú quý, cả đời được hưởng phúc dày, người tuổi Giáp hóa cát thì cực kỳ đẹp].
Tử Vi cư Ngọ vô sát tấu vị chí tam công,
Thiên lâm Tuất hữu tinh phù yêu kim y tử.
(Tử Vi cư Ngọ mà không có sát tinh tụ tập vây chiếu thì tước vị cỡ Tam Công,
Thiên Phủ ở Tuất có các sao phù trợ thì được mang đai vàng áo tía - ý nói quan phục cao cấp)
[Giả như, người sinh năm Giáp Đinh Kỷ mà mệnh an tại Ngọ được như vậy (Tử Vi vô sát tấu) là nhập cách, chủ đại quý, ngoài ra thì cũng giàu đủ hoặc là tiểu quý.
Giả như, người sinh năm Giáp Kỷ mà an Mệnh ở cung Tuất được như thế (Phủ có sao phù trợ) thì cứ y vậy mà đoán, thêm sát tinh thì không đoán thế nữa, trọng yếu là có Khôi Việt Tả Hữu Lộc Quyền thì chủ đại phú đại quý, nếu như không có các cát tinh ấy thì cũng bình thường thôi].
Khoa Quyền Lộc củng danh dự chiêu chương,
Vũ Khúc miếu viên uy danh hách dịch.
(Khoa Quyền Lộc củng chiếu thì rõ ràng có tên tuổi và vinh dự,
Vũ Khúc nhập miếu thì uy danh cũng lẫy lừng, long trọng).
[Chúng là Tam Hóa cát tinh, nếu như Thân Mệnh tọa thủ một Hóa, Tài Bạch và Quan Lộc có 2 hóa đến hợp chiếu, đích thị là tam hợp thủ chiếu, được gọi là "Khoa Quyền Lộc củng" vậy, thêm cát tinh nữa thì tước vị cỡ Tam Công.
Giả như, an mệnh ở hai cung Thìn Tuất gặp được Vũ Khúc nhập miếu thì là thượng cách, ở Sửu Mùi an Mệnh thì chỉ là thứ cách, cần phải thấy Tả Hữu Xương Khúc và các cát tinh thì cứ y như thế mà đoán].
Khoa minh Lộc ám vị liệt tam thai,
Nhật Nguyệt đồng lâm quan cư hầu bá.
(có cách "Khoa minh Lộc ám", tức có Khoa ở tam phương tứ chính còn Lộc ở giáp cung hoặc ám hợp, thì tước vị cỡ Tam Thai - Tam Thái, Tam Công,
có cách "Nhật Nguyệt đồng lâm", tức là có Nhật Nguyệt cùng chiếu về bản cung, thì làm quan được phong Hầu, phong Bá).
[Giả như, người sinh năm Giáp mà an Mệnh tại Hợi, gặp Hóa Khoa thủ mệnh, lại có Thiên Lộc cư ở cung Dần, thì Hợi với Dần là nhị hợp, cho nên viết là "Khoa minh Lộc ám".
Giả như, Mệnh an tại cung Sửu, trong khi ở Mùi lại có Nhật Nguyệt đồng cung xung chiếu, hoặc Mệnh an tại Mùi còn ở Sửu lại có Nhật Nguyệt đồng cung thì là cách ấy vậy (Nhật Nguyệt đồng lâm), phép bí truyền nói "Nhật Nguyệt đồng lâm luận đối cung", người tuổi Bính tuổi Tân gặp được hưởng phúc hưng thịnh].
Cự Cơ đồng cung công khanh chi vị,
Tham Linh tịnh thủ tướng tướng chi danh.
(Cự Cơ đồng cung thì có tước vị cỡ Công hầu khanh tướng
Tham Linh tịnh thủ thì được nổi danh là tướng tài).
[Giả như, người sinh năm Tân Ất mà Mệnh an tại Mão cung, có Cự Cơ thủ mệnh lại gặp Tả Hữu Xương Khúc thì là thượng cách, như người tuổi Bính thì là thứ cách, người tuổi Đinh thì cũng chủ bình thường, ngoài ra cung phận mà không ở đó (Mão) thì không luận như vậy.
Như an Mệnh tại các cung Thìn Tuất Sửu Mùi Tý mà gặp Tham Linh, thì là nhập miếu nên cứ theo y như vậy mà đoán, nếu như gia cát tinh thì duy chỉ có tọa thủ ở hai cung Tý Thìn thì rất đẹp, người tuổi Mậu Kỷ là hợp cách].
Thiên Khôi Thiên Việt cái thế văn chương,
Thiên Lộc Thiên Mã kinh nhân giáp đệ.
(Có Khôi Việt thì là người có tài văn chương cái thế,
Có Lộc Mã thì cũng đỗ đạt thủ khoa khiến người ta nể phục).
[Giả như, Thân Mệnh tọa chỗ Thiên Khôi và đối cung lại có Thiên Việt, hoặc ngược lại Thân Mệnh tọa Thiên Việt còn đối cung có Thiên Khôi, đó chính là "tọa Quý hướng Quý", hội thêm cát tinh, hóa tinh, thì quý là tất nhiên vậy.
Giả như, an Mệnh tại các cung Dần Thân Tị Hợi gặp Thiên Lộc, Thiên Mã tọa thủ. Mệnh cung có thêm tam hợp cát tinh thủ chiếu thì cứ y như thế mà đoán. Nếu có thêm sát tinh thì không đoán như vậy].
Tả Phụ Văn Xương hội cát tinh tôn cư bát tọa,
Tham Lang Hỏa Tinh cư miếu vượng danh chấn chư bang.
(Tả Phụ Văn Xương hội với các cát tinh thì chỗ ngồi tôn quý, quan cao cấp
Tham Lang Hỏa Tinh cùng cư nơi miếu vượng thì uy danh chấn động các nước láng giềng).
[Giả như, hai sao ấy (Tả Phụ Văn Xương) mà tọa thủ ở nơi Thân Mệnh, thêm ở tam phương có cát tinh củng chiếu thì cứ y theo đó mà đoán. Nếu thêm sát tinh, Không Kiếp, thì không hợp cách ấy.
Giả như, an Mệnh tại Thìn Tuất Sửu Mùi, gặp được chúng (Tham Hỏa) ở đó là thượng cách, tam phương có cát tinh củng chiếu thì rất đẹp. Nếu như ở Mão an Mệnh thì là thứ cách. Nếu như có Kình Đà Không Kiếp thì không được cát lợi].
Cự Nhật đồng cung quan phong tam đại,
Tử Phủ triều viên thực lộc vạn chung.
(Cự Nhật đồng cung thì ba đời được gia phong quan chức
Tử Phủ chầu mệnh viên thì được hưởng lộc ăn tới hàng vạn chung - bổng lộc hậu hĩnh).
[Dần cung an Mệnh mà có Cự Nhật, không có Kiếp Không và Tứ Sát thì là thượng cách, ở cung Thân (khỉ) là thứ cách. Ở Tị Hợi thì không phải là đẹp, như Tị cung có Nhật thủ Mệnh viên, ở Hợi có Cự thì còn coi là thượng cách, như Tị mà có Cự thủ Mệnh và Hợi có Nhật thì đúng là không đẹp, hạ cách.
Cung Thân (khỉ) có Nhật thủ mệnh, ở Dần có Cự đến chầu cũng là thượng cách. Dần có Nhật thủ Mệnh, ở Thân (khỉ) có Cự đến chầu thì là người bình thường.
(QNB chú: Nếu trong 1 lá số thì không bao giờ có các trường hợp Mệnh có Nhật ở Dần, mà Di có Cự ở cung an Thân, và ngược lại được. Theo thiển ý của tôi thì nên hiểu trường hợp này là Mệnh vô chính diệu ở cung Thân (khỉ) và cung Dần an Thân cư Di có Cự Nhật chầu Mệnh, người tuổi Đinh Tân có Khoa Quyền Lộc củng mới có thể coi là thượng cách. Số của ông Vương Hàn - tự là Tử Vũ có cách này. Độc giả lưu ý vậy!).
Như Dần cung mà an Mệnh, ở Ngọ Tuất cung có Tử Phủ đến chầu, hoặc cung Thân (khỉ) mà an Mệnh có Tử Phủ ở Tý Thìn đến chầu, thì là tượng của "nhân quân phỏng thần" (người vua tới thăm hỏi bề tôi), là kỳ cách vậy. Gặp thêm lưu Lộc trong hạn thì tất nhiên sẽ được tước vị tận công hầu khanh tướng. Nếu như Thất Sát tại Mệnh ở Dần Thân cũng coi là thượng cách. Nếu như có Hóa Kị gia thêm hung sát tinh thì luận là bình thường].
Khoa Quyền đối củng dược tam cấp ư vũ môn,
Nhật Nguyệt tịnh minh tá cửu trùng ư nghiêu điện.
(Có Khoa Quyền, 1 đối cung và 1 tam hợp củng chiếu thì như cá chép vượt vũ môn hóa rồng,
Có Nhật Nguyệt cùng sáng rực rỡ thì được phò tá cho bậc quân vương nơi cung điện).
[Thiên Di, Tài Bạch, Quan Lộc, tam phương đối củng chính là cách ấy, có thể (trường hợp) Mệnh có 1 trong Khoa/Quyền/Lộc và tam phương cũng có 1 trong Khoa/Quyền/Lộc chiếu, không gặp sát tinh thì cũng hiển nhiên như vậy.
Cung Mệnh an tại Sửu có Nhật ở Tị và Nguyệt ở Dậu tới chầu là tịnh minh (sáng rực rỡ), người sinh năm Tân Ất là hợp cách, nếu như sinh năm Bính thì chủ quý, tuổi Đinh thì chủ phú, nếu thêm Tứ Sát Kiếp Không Kị thì lại bình thường].
Phủ Tướng đồng lai hội mệnh cung toàn gia thực lộc,
Tam hợp minh châu sinh vượng địa ổn bộ thiềm cung.
(Phủ Tướng mà cùng đến hội tụ ở Mệnh cung thì cả nhà có của ăn của để, có lộc,
Tam hợp mà có (Nguyệt) sáng như ngọc ở nơi vượng địa thì ung dung dạo bước cung trăng).
[Tam hợp (có Phủ Tướng) chiếu đến gặp thêm bản cung nhiều cát tinh, Thân Mệnh không ở chỗ bại địa thì đó là cách "Phủ Tướng triều viên", tất sẽ phú quý vậy. Phép bí truyền nói "Phủ Tướng miếu viên cách cực kỳ tốt, ra làm kẻ sĩ làm quan đều đại cát, hưng thịnh".
Như tại Mùi cung an Mệnh, có Nhật ở Mão, có Nguyệt ở Hợi tới chầu, là cách "Minh châu xuất hải", nhất định là chủ tiền tài quan lộc đều song toàn tốt đẹp. Như Thìn cung có Nhật thủ Mệnh, Tuất cung có Nguyệt đối chiếu, hoặc Nguyệt thủ Mệnh ở Tuất và Thìn cung có Nhật đối chiếu, thì cũng chủ cực quý].
Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại,
Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân.
(Thất Sát Phá Quân thích hợp / cần phải đi ra bên ngoài,
Cơ Nguyệt Đồng Lương thì hợp làm quan lại).
[Hai sao đó (Thất Sát, Phá Quân) hội Thân Mệnh ở chỗ hãm địa, chủ các kiểu tay nghề/tài nghệ tinh thông khéo léo, xuất ngoại thì khá vậy, luận cho Sát ở Dần Thân và (Phá) Quân ở Tị Hợi.
Bốn sao này (Cơ Nguyệt Đồng Lương) tất Thân Mệnh tam hợp (với Văn) Khúc thì có thể có công danh thành tựu trong nghiệp nghiên bút. Thêm Sát tinh Kị tinh là hạ cách. Phép bí truyền nói "Dần Thân hội Đồng Lương Cơ Nguyệt, tất định làm kẻ quan lại", nếu mà không đủ 4 sao mà chỉ có 3 thôi thì khó thành công].
Tử Phủ Nhật Nguyệt cư vượng địa đoán định công hầu khí,
Nhật Nguyệt Khoa Lộc sửu cung trung định thị phương bá công.
(Tử Phủ Nhật Nguyệt mà ở chỗ vượng địa thì đoán định là được tước vị Công, Hầu,
Nhật Nguyệt Khoa Lộc ở trong cung Sửu thì định là có làm quan đến tước Bá, tước Công).
[Tử Vi cư Ngọ và Thiên Phủ ở Tuất cung, Nhật ở Mão Thìn với Nguyệt ở Dậu Tuất Hợi cung, lại hóa Lộc Khoa Quyền tọa nơi Thân Mệnh thì chính là như vậy. Có thêm Sát tinh Kiếp Không Kị thì không phải thế, như vậy là ngọc đẹp mà lại có tì vết.
Sửu Mùi cung mà an Mệnh, có Nhật Nguyệt hóa Khoa Lộc tọa thủ thì là như vậy, nếu như không có cát hóa thì Nhật Nguyệt đồng cung là không đẹp vậy, phép bí truyền nói:
"Nhật Nguyệt Sửu Mùi mệnh trung phùng
Tam phương vô cát phúc nan sinh
Nhược hoàn cát hóa phương vi mỹ
Phương diện uy quyền phúc lộc tăng"
(Nhật Nguyệt Sửu Mùi, mệnh ở trong
Tam phương thiếu cát, phúc khó phong
Nếu mà cát hóa thành ra đẹp
Được cả uy quyền, phúc lộc tăng)].
Thiên Lương Thiên Mã hãm phiêu đãng vô nghi,
Liêm Trinh Sát bất gia thanh danh viễn bá.
(Thiên Lương Thiên Mã cùng chỗ lạc hãm, thì đoán là số phiêu đãng mà khỏi cần nghi ngờ,
Liêm Trinh không bị thêm sát tinh thì thanh danh được gia phong, lừng lẫy).
[Tị Hợi cung mà an Mệnh, gặp Thiên Lương hãm, lại cùng Thiên Mã đồng cung, lại có thể bị vây hãm bởi Hỏa La Không Kiếp (Hỏa Tinh, Đà La, Không Kiếp) thì cứ y như thế mà đoán.
"Sát" là Tứ Sát vậy, như Mão cung mà an Mệnh, có Liêm Trinh không gặp Tứ Sát thì chủ quý, cũng cần phải có tam hợp cát tinh củng chiếu thì được thanh danh vang dội, nếu có thêm sát tinh thì bình thường. Hoặc tại hai cung Mùi Thân mà tọa Mệnh không gặp sát tinh cũng tốt lành].
Nhật chiếu lôi môn phú quý vinh hoa,
Nguyệt lãng thiên môn tiến tước phong hầu.
(Có cách "Nhật chiếu lôi môn" - Mặt Trời chiếu từ cửa nhà sấm - tức là Thái Dương ở cung Mão, thì được phú quý vinh hoa,
Có cách "Nguyệt lãng thiên môn" - Mặt Trăng sáng đẹp ở cửa trời - tức là Thái Âm ở cung Tuất Hợi (chỗ quẻ Càn) thì được tăng tước vị, được phong Hầu).
[Cung Mệnh an tại Mão (cung Chấn - sấm) có Thái Dương tọa thủ thì gọi là "Nhật xuất/chiếu lôi môn", được thêm ở tam phương có Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt thủ chiếu thì phú quý không hề nhỏ, người tuổi Giáp Ất Canh Tân là hợp cách, (dẫu) có thêm Hình Kị Tứ Sát thì cũng chủ no ấm.
Cung Mệnh an tại Hợi (cung Càn - trời) có Thái Âm tọa thủ thì gọi là "Nguyệt lãng thiên môn", được thêm tam phương có cát tinh củng chiếu thì chủ đại phú đại quý, không có cát thì cũng chủ có chút công danh nhưng làm tạp chức, người tuổi Bính Đinh thì chủ quý, người tuổi Nhâm Quý thì chủ phú].
Dần phùng Phủ Tướng vị đăng nhất phẩm chi vinh,
Mộ phùng Tả Hữu tôn cư bát tọa chi quý.
(Ở cung Dần gặp Phủ Tướng chầu về là được thăng tiến vẻ vang tới hàm nhất phẩm,
Ở Mộ cung mà có Tả Hữu thì chỗ ngồi làm quan cao cấp, tôn quý).
[Dần cung an Mệnh, có Phủ ở Ngọ và Tướng ở Tuất đến chầu, người tuổi Giáp gặp được thì đúng là như vậy (thăng tiến quan lộ). Nếu như thêm Sát tinh thì không phải thế. Nếu như ở cung Dậu an Mệnh, có Phủ ở Sửu và Tướng ở Tị tới chầu thì cũng quý.
An mệnh tại Thìn Tuất Sửu Mùi, có Tả Hữu tọa thủ thì vậy, hoặc Thiên Di Quan Lộc Tài Bạch mà gặp (Tả Hữu tứ Mộ) thì cũng chủ cả đời được phúc thọ.
(QNB chú: câu này có lẽ là Tả Hữu phù trì cho cách cục nào đó rất đẹp của chính tinh, nếu không chỉ có Tả Hữu mà nói như vậy thì thật quá lời. Độc giả lưu ý vậy)].
Lương cư Ngọ vị quan tư thanh hiển,
Khúc ngộ Lương tinh vị chí thai cương.
(Thiên Lương ở Ngọ là vị trí của người làm quan vô tư thanh liêm vẻ vang,
Văn Khúc gặp Thiên Lương chỗ miếu vượng thì tước vị cỡ Tam Thai, Tam Công).
[Cung Mệnh an tại Ngọ có Thiên Lương tọa thủ thì đúng là vậy, người tuổi Đinh là thượng cách, người tuổi Kỷ là thứ cách, người tuổi Quý chủ giàu có cũng là thứ cách.
Cung Ngọ an Mệnh có Văn Khúc Thiên Lương đồng cung tọa thủ là thượng cách, ở Dần cung thì là thứ cách, hoặc Lương tại Ngọ và Khúc tại Tý xung củng cũng làm quan tới cỡ nhị phẩm tam phẩm].
Khoa Lộc tuần phùng Chu Bột hân nhiên nhập tướng,
Văn tinh ám củng Cổ Nghị doãn hĩ đăng khoa.
(Hạn gặp Khoa Lộc thì Chu Bột vui mừng được Lưu Bang phong làm tướng quân,
Có Văn tinh ám củng mà Cổ Nghị được đỗ đại khoa, thời Hán Văn Đế).
[Mệnh cung có cát tinh tọa thủ, tam phương Hóa cát xung củng, hoặc là trước cung Mệnh 3 vị (tức là Phúc Đức cung) gặp Khoa Quyền Lộc đều là tốt đẹp chủ phú quý.
Như Mệnh cung có cát tinh, Thiên Di Quan Lộc Tài Bạch có Xương Khúc Hóa Khoa triều củng thì cũng được như vậy (đỗ đại khoa)].
Kình Dương Hỏa Tinh uy quyền xuất chúng,
Tham Vũ đồng hành uy trấn biên di.
(Kình Dương và Hỏa Tinh đồng cung đắc địa thì uy quyền xuất chúng,
Tham Vũ đồng hành thì oai phong trấn áp được các nơi ngoài biên cương).
[Thìn Tuất Sửu Mùi tứ Mộ cung mà an Mệnh, gặp Kình Dương Hỏa Tinh nhập miếu thì chủ văn võ song toàn, binh quyền vạn dặm.
Cũng như Vũ Tham vượng địa ở Mộ cung gặp Hỏa Tinh thì cũng đoán giống như thế].
Lý Quảng bất phong Kình Dương phùng ư Lực Sĩ,
Nhan Hồi yểu chiết Văn Xương hãm ư Thiên Thương.
(Lý Quảng không được Hán Văn Đế phong tước vì Kình Dương gặp Lực Sĩ,
Thày Nhan Hồi bị chết yểu là do Văn Xương hãm ở chỗ Thiên Thương).
[Nhị tinh (Kình, Lực) thủ mệnh mà có nhiều cát tinh thì cũng là số bình thường, nếu thêm sát tinh thì cực kỳ hung hiểm, nữ mệnh lại không luận cách này.
Như người tuổi Sửu mà Mệnh an cung Dần, lại có Văn Xương hãm ở chỗ Thiên Thương, tới hạn lưu niên lại gặp Thất Sát và Kình Đà trùng điệp thì đoán là chết yểu].
Trọng Do uy mãnh Liêm Trinh nhập miếu ngộ tướng quân,
Tử Vũ tài năng Cự tú Đồng Lương xung thả hợp.
(Tử Lộ, tức Trọng Do, oai phong dũng mãnh là do Liêm Trinh miếu gặp Tướng Quân,
Vương Hàn, tức Tử Vũ, có tài năng ấy bởi Cự Môn xung mà Đồng Lương hợp chiếu).
[Mệnh lập tại cung Thân (khỉ) có Liêm Trinh và Tướng Quân tọa thì là vậy, ngoài ra các trường hợp khác cũng phỏng theo đó mà xét.
Mệnh lập tại cung Thân (khỉ) có Cự ở Dần xung củng, có Đồng ở Tý và Lương ở Thìn tam hợp chiếu, lại có Khoa Quyền Lộc Tả Hữu xung củng hợp thì chính là cách ấy].
Thanked by 7 Members:
|
|
#36
Gửi vào 10/01/2015 - 14:25
Dần Thân tối hỉ Đồng Lương hội,
Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự Môn.
(Ở chỗ Dần Thân thì rất mừng có được Đồng Lương tụ hội,
Nơi Thìn Tuất thì lại ngại có Cự Môn hãm lâm vào).
[Tại cung Dần an Mệnh, gặp Đồng Lương hóa cát, người sinh năm Giáp Canh cùng năm Thân thì được phú quý. Lại như ở cung Thân (khỉ) an Mệnh, gặp Đồng Lương hóa cát, thì người sinh năm Giáp Canh cùng năm Dần được hưởng phú quý.
An Mệnh ở chỗ hai cung Thìn Tuất, gặp Cự Môn hãm, chủ nhân làm việc đảo điên, thêm sát tinh thì toàn nói lời sai quấy, không thể tránh được hình khắc, thương tật, đòn roi. Nếu gặp thêm ác hạn thì hung hiểm vô cùng].
Lộc đảo Mã đảo kị Thái Tuế chi hợp Kiếp Không,
Vận suy hạn suy hỉ Tử Vi chi giải hung ách.
Cô bần đa hữu thọ,
Phú quý tức yểu vong.
(Có cách "Lộc đảo", "Mã đảo", tức là Lộc Mã bị Không Vong án ngữ, thì rất kị gặp năm hạn có Kiếp Không hợp chiếu,
Vận suy hạn suy thì rất mừng được Tử Vi để mà giải hung ách.
Nghèo đói thì lại được thọ,
Phú quý thì phải chết non).
[Như Lộc Mã lâm vào chỗ Bại Tuyệt Không Vong (thì gọi là cách "Lộc đảo, Mã đảo"), mà đến lưu niên thái tuế hội hợp Kiếp Không thì luận là chủ lắm tai nhiều nạn, hối hận, phá tán tài sản.
Như đại tiểu hạn không gặp được cát diệu, mà Thân Mệnh lại có Tử Vi thủ chiếu thì tuy hạn hung nhưng chủ vẫn bình ổn, cái này gọi là Thân Mệnh có Chúa tinh đó mà.
Nếu như sao chủ mệnh nhược kém, cùng Tài Quan Tử Tức hãm địa, cũng cần phải giảm tài lộc để hưởng diên thọ vậy.
Lại như Thái Tuế tọa chỗ sao mệnh chủ cũng đều nhược kém, có thể Tài Quan có nhiều hóa cát, có thể đi đến hạn cát lành thì chủ định hoạnh phát nhưng không bền, được mười hay hai mươi năm khi qua vận thì yểu vong vậy].
Điếu Khách Tang Môn Lục Châu hữu đọa lâu chi ách,
Quan Phù Thái Tuế Công Dã hữu luy tiết chi ưu.
(Hạn có Điếu Khách Tang Môn nên nàng Lục Châu vướng ách nhảy lầu,
Vận gặp Quan Phù Thái Tuế nên chàng Công Dã phiền với gông xiềng).
[Đại tiểu hạn gặp tiền Tang Môn hậu Điếu Khách, cùng tới năm hạn Thái Tuế gặp hung tinh thì tất sẽ bị kinh sợ nguy hiểm như vậy, đó là dùng thần sát lưu niên để luận.
Thân Mệnh có Quan Phù Thái Tuế tọa thủ, cùng nhị hạn lại gặp Quan Phù với các sát tinh, cho nên mới hung như thế (vào tù). Công Dã Tràng là hiền nhân đệ tử của Khổng Tử vậy, Khổng Tử viết "Công Trung Tràng tuy ở trong gông xiềng nhưng cũng chẳng có tội gì cả, có thể gả con gái của mình cho nó"].
Hạn chí Thiên la Địa võng Khuất Nguyên nịch thủy nhi thân vong,
Vận ngộ Địa Kiếp Địa Không Nguyễn Tịch hữu bần cùng chi khổ.
(Hạn tới chỗ Thiên La Địa Võng nên Khuất Nguyên ôm phiến đá nhảy sông Mịch La mà chết,
Vận gặp Địa Kiếp Thiên Không nên Nguyễn Tịch nát rượu lâm vào cảnh cực khổ bần cùng).
[Nhị hạn đi tới hai cung Thìn Tuất gặp phải Vũ Tham, có thêm Thái Tuế Tang Môn Điếu Khách Bạch Hổ cùng Kiếp Sát Không Vong Tứ Sát, hoặc có thể một lần gặp xung chiếu trong kỳ hạn thì cực hung, cho nên mới vậy (nhảy sông tự tử).
Nhị hạn ở trong 12 cung nhưng gặp 2 sao Không Kiếp, tuy nhiều cát cũng thành ra tiền đến rồi tiền lại đi, nếu như gặp lưu niên sát tinh, hung tinh thì nhất định là nghèo khốn].
Văn Xương Văn Khúc hội Liêm Trinh táng mệnh yểu niên,
Mệnh Không hạn Không vô cát tấu công danh thặng đặng.
(Xương Khúc hội Liêm Trinh hãm thì dễ chết non,
Mệnh và hạn đều gặp Không Vong, lại không có cát tinh tụ tập thì công danh lận đận).
[An Mệnh tại hai cung Tị Hợi gặp Liêm Trinh hội Xương Khúc thì xảy ra cơ sự như vậy (chết yểu), người tuổi Tân tối kị. Nếu như gặp được hai sao tài ấn là Vũ Khúc và Thiên Tướng thì lại phản chuyển thành đắc quyền mà chủ quý.
Như Mệnh và hạn đều gặp Không Vong, có thêm sát tinh thì công danh tất sẽ không có thành tựu. Hoặc có chính tinh cát hóa gặp Không Kiếp nơi Mệnh và hạn cũng chủ chuyên cần đèn sách mà chẳng được thành đạt].
Sinh xứ phùng Không do như bán thiên chiết sí,
Mệnh trung ngộ Kiếp kháp như lãng lý hành thuyền.
(Mệnh có Địa Không thì giống như giữa lưng trời gãy cánh,
Địa Kiếp thủ Mệnh thì đúng là như đi thuyền trên sóng nước, tròng trành lênh đênh).
[Mệnh hạn gặp Không tọa thủ thì luận là bình thường, càng sợ lúc trung niên lại gặp nó, nếu mà bỗng vụt phát tài thì tất sẽ chủ hung vong. Như mệnh an tại Hợi cho người sinh giờ Tý và mệnh an tại Tị cho người sinh giờ Ngọ, đều chính là bị như vậy.
Mệnh cung gặp Địa Kiếp tọa thủ thì luận là bình thường, cũng không giữ được tiền tài, nếu có thêm Sát Kị thì rất hung hiểm].
Hạng Vũ anh hùng hạn chí Địa Không nhi táng quốc,
Thạch Sùng hào phú hạn hành Địa Kiếp dĩ vong gia.
(Hạng Vũ anh hùng thế mà hạn đến Thiên Không - tức sao Địa Không của ta, thì mất nước,
Thạch Sùng giàu vậy mà hạn tới Địa Kiếp cũng tan nhà).
[Đại tiểu hạn mà đều gặp Địa Không thì sẽ vậy.
Đại tiểu hạn lâm vào chỗ của Địa Kiếp hãm hay giáp với nó, gặp thêm lưu niên các sát tinh thì tất sẽ hung như thế].
Lã hậu chuyên quyền lưỡng trùng Thiên Lộc Thiên Mã,
Dương phi hảo sắc tam hợp Văn Khúc Văn Xương.
(Bà Lã Hậu chuyên quyền là do cách lưỡng trùng Lộc Mã,
Dương quý phi đẹp mà dâm là bởi tam hợp có Văn Khúc Văn Xương).
[Lộc Tồn gặp Hóa Lộc cùng với Thiên Mã đồng cung thì là vậy (cách "lưỡng trùng Lộc Mã" được phú quý tột bực).
Mệnh cung cùng với Tài Quan và Thiên Di cung có Xương Khúc hợp chiếu, lại gặp thêm Thái Âm Thiên Cơ thì vừa đẹp vừa dâm.
Thiên Lương ngộ Mã nữ mệnh tiện nhi thả dâm,
Xương Khúc giáp Trì nam mệnh quý nhi thả hiển.
(Thiên Lương với Mã cùng hãm vào nữ mệnh thì vừa dâm vừa tiện,
Xương Khúc giáp Đan Trì, Quế Trì thì nam Mệnh vừa quý lại vừa vinh hiển).
[Giả như tại 4 cung Dần Thân Tị Hợi an Mệnh gặp Thiên Mã tọa thủ, mà tam phương gặp Thiên Lương hợp chiếu thì vậy (vào nữ mệnh thì vừa dâm vừa tiện).
Thái Dương là Đan Trì, Thái Âm là Quế Trì, như Thái Dương Thái Âm tại Sửu Mùi cung an Mệnh mà có Tả Hữu Xương Khúc giáp ở 2 cung trước sau thì vậy (vào nam mệnh vừa quý vừa vinh hiển)].
Cực cư Mão Dậu đa vi thoát tục chi tăng,
Trinh cư Mão Dậu định thị công tư lại bối.
(Tử Vi cư Mão Dậu thì thường dễ thoát tục mà đi tu,
Liêm Trinh cư Mão Dậu thì định là phường quan lại cấp thấp).
[Tử Vi là Bắc Cực, nếu như tọa thủ ở cung mệnh mà thêm sát tinh thì chủ tăng đạo, nếu không có sát tinh mà lại có thêm Tả Hữu Khôi Việt thì chủ quý.
Tại Mão Dậu cung mà an Mệnh có Liêm Trinh tọa thủ, thêm sát tinh thì tất sẽ làm tư lại, bộc dịch (quan lại cấp rất thấp, chân sai vặt) ở chốn công môn].
Tả Phủ đồng cung tôn cư vạn thừa,
Liêm Trinh Thất Sát lưu đãng thiên nhai.
(Tả Phụ và Thiên Phủ đồng cung thì vị trí (ngồi trong triều) rất cao,
Liêm Trinh Thất Sát thủ mệnh thì phiêu đãng chân trời góc biển).
[Tại Thìn Tuất mà an Mệnh, gặp 2 sao ấy (Tả Phụ, Thiên Phủ), thêm tam phương có cát hóa củng chiếu xung chiếu thì tất sẽ ở chỗ quý cực phẩm.
Mệnh an tại Tị Hợi mà gặp 2 sao ấy (Liêm Trinh, Thất Sát), thêm sát tinh, Hóa Kị, Không Kiếp, thì số lang bạt nơi chân trời, chẳng giữ nghiệp nhà, phải gian khổ làm quân nhân hoặc buôn bán ở bên ngoài.
Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự Môn.
(Ở chỗ Dần Thân thì rất mừng có được Đồng Lương tụ hội,
Nơi Thìn Tuất thì lại ngại có Cự Môn hãm lâm vào).
[Tại cung Dần an Mệnh, gặp Đồng Lương hóa cát, người sinh năm Giáp Canh cùng năm Thân thì được phú quý. Lại như ở cung Thân (khỉ) an Mệnh, gặp Đồng Lương hóa cát, thì người sinh năm Giáp Canh cùng năm Dần được hưởng phú quý.
An Mệnh ở chỗ hai cung Thìn Tuất, gặp Cự Môn hãm, chủ nhân làm việc đảo điên, thêm sát tinh thì toàn nói lời sai quấy, không thể tránh được hình khắc, thương tật, đòn roi. Nếu gặp thêm ác hạn thì hung hiểm vô cùng].
Lộc đảo Mã đảo kị Thái Tuế chi hợp Kiếp Không,
Vận suy hạn suy hỉ Tử Vi chi giải hung ách.
Cô bần đa hữu thọ,
Phú quý tức yểu vong.
(Có cách "Lộc đảo", "Mã đảo", tức là Lộc Mã bị Không Vong án ngữ, thì rất kị gặp năm hạn có Kiếp Không hợp chiếu,
Vận suy hạn suy thì rất mừng được Tử Vi để mà giải hung ách.
Nghèo đói thì lại được thọ,
Phú quý thì phải chết non).
[Như Lộc Mã lâm vào chỗ Bại Tuyệt Không Vong (thì gọi là cách "Lộc đảo, Mã đảo"), mà đến lưu niên thái tuế hội hợp Kiếp Không thì luận là chủ lắm tai nhiều nạn, hối hận, phá tán tài sản.
Như đại tiểu hạn không gặp được cát diệu, mà Thân Mệnh lại có Tử Vi thủ chiếu thì tuy hạn hung nhưng chủ vẫn bình ổn, cái này gọi là Thân Mệnh có Chúa tinh đó mà.
Nếu như sao chủ mệnh nhược kém, cùng Tài Quan Tử Tức hãm địa, cũng cần phải giảm tài lộc để hưởng diên thọ vậy.
Lại như Thái Tuế tọa chỗ sao mệnh chủ cũng đều nhược kém, có thể Tài Quan có nhiều hóa cát, có thể đi đến hạn cát lành thì chủ định hoạnh phát nhưng không bền, được mười hay hai mươi năm khi qua vận thì yểu vong vậy].
Điếu Khách Tang Môn Lục Châu hữu đọa lâu chi ách,
Quan Phù Thái Tuế Công Dã hữu luy tiết chi ưu.
(Hạn có Điếu Khách Tang Môn nên nàng Lục Châu vướng ách nhảy lầu,
Vận gặp Quan Phù Thái Tuế nên chàng Công Dã phiền với gông xiềng).
[Đại tiểu hạn gặp tiền Tang Môn hậu Điếu Khách, cùng tới năm hạn Thái Tuế gặp hung tinh thì tất sẽ bị kinh sợ nguy hiểm như vậy, đó là dùng thần sát lưu niên để luận.
Thân Mệnh có Quan Phù Thái Tuế tọa thủ, cùng nhị hạn lại gặp Quan Phù với các sát tinh, cho nên mới hung như thế (vào tù). Công Dã Tràng là hiền nhân đệ tử của Khổng Tử vậy, Khổng Tử viết "Công Trung Tràng tuy ở trong gông xiềng nhưng cũng chẳng có tội gì cả, có thể gả con gái của mình cho nó"].
Hạn chí Thiên la Địa võng Khuất Nguyên nịch thủy nhi thân vong,
Vận ngộ Địa Kiếp Địa Không Nguyễn Tịch hữu bần cùng chi khổ.
(Hạn tới chỗ Thiên La Địa Võng nên Khuất Nguyên ôm phiến đá nhảy sông Mịch La mà chết,
Vận gặp Địa Kiếp Thiên Không nên Nguyễn Tịch nát rượu lâm vào cảnh cực khổ bần cùng).
[Nhị hạn đi tới hai cung Thìn Tuất gặp phải Vũ Tham, có thêm Thái Tuế Tang Môn Điếu Khách Bạch Hổ cùng Kiếp Sát Không Vong Tứ Sát, hoặc có thể một lần gặp xung chiếu trong kỳ hạn thì cực hung, cho nên mới vậy (nhảy sông tự tử).
Nhị hạn ở trong 12 cung nhưng gặp 2 sao Không Kiếp, tuy nhiều cát cũng thành ra tiền đến rồi tiền lại đi, nếu như gặp lưu niên sát tinh, hung tinh thì nhất định là nghèo khốn].
Văn Xương Văn Khúc hội Liêm Trinh táng mệnh yểu niên,
Mệnh Không hạn Không vô cát tấu công danh thặng đặng.
(Xương Khúc hội Liêm Trinh hãm thì dễ chết non,
Mệnh và hạn đều gặp Không Vong, lại không có cát tinh tụ tập thì công danh lận đận).
[An Mệnh tại hai cung Tị Hợi gặp Liêm Trinh hội Xương Khúc thì xảy ra cơ sự như vậy (chết yểu), người tuổi Tân tối kị. Nếu như gặp được hai sao tài ấn là Vũ Khúc và Thiên Tướng thì lại phản chuyển thành đắc quyền mà chủ quý.
Như Mệnh và hạn đều gặp Không Vong, có thêm sát tinh thì công danh tất sẽ không có thành tựu. Hoặc có chính tinh cát hóa gặp Không Kiếp nơi Mệnh và hạn cũng chủ chuyên cần đèn sách mà chẳng được thành đạt].
Sinh xứ phùng Không do như bán thiên chiết sí,
Mệnh trung ngộ Kiếp kháp như lãng lý hành thuyền.
(Mệnh có Địa Không thì giống như giữa lưng trời gãy cánh,
Địa Kiếp thủ Mệnh thì đúng là như đi thuyền trên sóng nước, tròng trành lênh đênh).
[Mệnh hạn gặp Không tọa thủ thì luận là bình thường, càng sợ lúc trung niên lại gặp nó, nếu mà bỗng vụt phát tài thì tất sẽ chủ hung vong. Như mệnh an tại Hợi cho người sinh giờ Tý và mệnh an tại Tị cho người sinh giờ Ngọ, đều chính là bị như vậy.
Mệnh cung gặp Địa Kiếp tọa thủ thì luận là bình thường, cũng không giữ được tiền tài, nếu có thêm Sát Kị thì rất hung hiểm].
Hạng Vũ anh hùng hạn chí Địa Không nhi táng quốc,
Thạch Sùng hào phú hạn hành Địa Kiếp dĩ vong gia.
(Hạng Vũ anh hùng thế mà hạn đến Thiên Không - tức sao Địa Không của ta, thì mất nước,
Thạch Sùng giàu vậy mà hạn tới Địa Kiếp cũng tan nhà).
[Đại tiểu hạn mà đều gặp Địa Không thì sẽ vậy.
Đại tiểu hạn lâm vào chỗ của Địa Kiếp hãm hay giáp với nó, gặp thêm lưu niên các sát tinh thì tất sẽ hung như thế].
Lã hậu chuyên quyền lưỡng trùng Thiên Lộc Thiên Mã,
Dương phi hảo sắc tam hợp Văn Khúc Văn Xương.
(Bà Lã Hậu chuyên quyền là do cách lưỡng trùng Lộc Mã,
Dương quý phi đẹp mà dâm là bởi tam hợp có Văn Khúc Văn Xương).
[Lộc Tồn gặp Hóa Lộc cùng với Thiên Mã đồng cung thì là vậy (cách "lưỡng trùng Lộc Mã" được phú quý tột bực).
Mệnh cung cùng với Tài Quan và Thiên Di cung có Xương Khúc hợp chiếu, lại gặp thêm Thái Âm Thiên Cơ thì vừa đẹp vừa dâm.
Thiên Lương ngộ Mã nữ mệnh tiện nhi thả dâm,
Xương Khúc giáp Trì nam mệnh quý nhi thả hiển.
(Thiên Lương với Mã cùng hãm vào nữ mệnh thì vừa dâm vừa tiện,
Xương Khúc giáp Đan Trì, Quế Trì thì nam Mệnh vừa quý lại vừa vinh hiển).
[Giả như tại 4 cung Dần Thân Tị Hợi an Mệnh gặp Thiên Mã tọa thủ, mà tam phương gặp Thiên Lương hợp chiếu thì vậy (vào nữ mệnh thì vừa dâm vừa tiện).
Thái Dương là Đan Trì, Thái Âm là Quế Trì, như Thái Dương Thái Âm tại Sửu Mùi cung an Mệnh mà có Tả Hữu Xương Khúc giáp ở 2 cung trước sau thì vậy (vào nam mệnh vừa quý vừa vinh hiển)].
Cực cư Mão Dậu đa vi thoát tục chi tăng,
Trinh cư Mão Dậu định thị công tư lại bối.
(Tử Vi cư Mão Dậu thì thường dễ thoát tục mà đi tu,
Liêm Trinh cư Mão Dậu thì định là phường quan lại cấp thấp).
[Tử Vi là Bắc Cực, nếu như tọa thủ ở cung mệnh mà thêm sát tinh thì chủ tăng đạo, nếu không có sát tinh mà lại có thêm Tả Hữu Khôi Việt thì chủ quý.
Tại Mão Dậu cung mà an Mệnh có Liêm Trinh tọa thủ, thêm sát tinh thì tất sẽ làm tư lại, bộc dịch (quan lại cấp rất thấp, chân sai vặt) ở chốn công môn].
Tả Phủ đồng cung tôn cư vạn thừa,
Liêm Trinh Thất Sát lưu đãng thiên nhai.
(Tả Phụ và Thiên Phủ đồng cung thì vị trí (ngồi trong triều) rất cao,
Liêm Trinh Thất Sát thủ mệnh thì phiêu đãng chân trời góc biển).
[Tại Thìn Tuất mà an Mệnh, gặp 2 sao ấy (Tả Phụ, Thiên Phủ), thêm tam phương có cát hóa củng chiếu xung chiếu thì tất sẽ ở chỗ quý cực phẩm.
Mệnh an tại Tị Hợi mà gặp 2 sao ấy (Liêm Trinh, Thất Sát), thêm sát tinh, Hóa Kị, Không Kiếp, thì số lang bạt nơi chân trời, chẳng giữ nghiệp nhà, phải gian khổ làm quân nhân hoặc buôn bán ở bên ngoài.
Thanked by 4 Members:
|
|
#37
Gửi vào 10/01/2015 - 15:13
Đặng Thông ngạ tử vận phùng Đại Hao chi hương,
Phu Tử tuyệt lương hạn đáo Thiên Thương chi nội.
(Đặng Thông chết đói là do vận gặp chỗ của Đại Hao,
Khổng Tử bị hết sạch lương thảo là vì hạn vào trong chỗ của Thiên Thương).
[Mệnh mà an tại Tý cung, nhị hạn đi tới hoặc giáp với chỗ đó (chỗ của Thiên Thương), có Đại Hao và gặp thêm các ác diệu thì đói kém, hao phá, chết đói.
Đoán như câu trên].
Linh Xương La Vũ hạn chí đầu hà,
Cự Hỏa Kình Dương chung thân ải tử.
(Hạn gặp Linh Xương La Vũ thì dễ gieo mình xuống sông,
Cách Cự Hỏa Kình Dương thì cả đời dễ thắt cổ tự vẫn).
[Các sao ấy giao hội tại hai cung Thìn Tuất, người tuổi Tân Nhâm Kỷ mà nhị hạn đi tới đó thì định là gặp thủy nạn. Nếu thêm các ác sát tinh thì tất sẽ chết ở ngoài đường. Nếu như 4 sao ấy tại Thìn Tuất tọa mệnh thì cũng thế.
Ba sao này tọa thủ ở Thân Mệnh, đại tiểu nhị hạn mà gặp, lại có thêm ác sát thì cứ y vậy mà đoán (dễ tự tử)].
Mệnh lý phùng Không bất phiêu lưu chủ tật khổ,
Mã đầu đới kiếm phi yểu chiết tắc hình thương.
(Chỗ cung Mệnh mà gặp Không thì nếu chẳng phiêu đãng lưu lạc sẽ bị bệnh tật khốn khổ,
Có cách "Mã đầu đới kiếm" thì không chết non cũng sẽ bị hình phạt, hình khắc, thương tật).
[Như Mệnh cung không có chính tinh, lại có Địa Không đơn thủ, thêm tam hợp có sát tinh, Hóa Kị, thì cứ y như thế mà đoán, có thêm cát tinh thì cũng đỡ hơn.
Kình Dương cư ngọ thủ Mệnh (gọi là "Mã đầu đới kiếm"), ở Mão thì là thứ cách, ở Dậu cũng là thứ cách, đó chính là chỗ mà Kình Dương lạc vào hãm địa, ở Dần Thân Tị Hợi đối với Đà La thì cũng giống vậy, nếu như ở Thìn Tuất Sửu Mùi thì không e ngại].
Tý Ngọ Phá Quân gia quan tiến lộc,
Xương Tham cư mệnh phấn cốt toái thi.
(Ở chỗ Tý Ngọ có Phá Quân thì được tăng tiến về tài lộc, quan chức,
Tham Lang Văn Xương đồng cung lạc hãm thì dễ bị tai nạn tan xương nát thịt).
[Mệnh mà an ở hai cung Tý Ngọ, có Phá Quân tọa thủ, thêm cát tinh thì tất nhiên được vị trí tước hàm cỡ bực Tam Công.
Như an Mệnh ở hai cung Tị Hợi, gặp Tham Xương tọa thủ, thêm sát tinh với Hóa Kị thì yểu vong, hoặc ở Quan Lộc cung mà gặp như vậy thì cũng dễ có tai nạn giống thế].
Triều Đẩu ngưỡng Đẩu tước lộc vinh xương,
Văn Quế Văn Hoa cửu trùng quý hiển.
(Chầu và ngưỡng về chỗ của Tử Phủ thì thường được hưng thịnh vinh hoa về tước lộc,
Có Xương Khúc miếu đắc thì được quý hiển tột bực).
[Thất Sát thủ mệnh ở vượng cung thì là vậy, như ở Tý Ngọ Dần Thân là triều Đẩu, ở tam phương chiếu về là ngưỡng Đẩu, nhập cách thì chủ được phú quý, nếu ở Thiên Di hoặc Quan Lộc thì không luận như thế.
Văn Xương là Văn Quế, Văn Khúc là Văn Hoa, như an Mệnh tại Sửu Mùi mà gặp Xương Khúc, gặp thêm hóa cát củng chiếu hoặc giáp cung thì chính là được hiển quý vậy. Nếu mà không có cát hóa thì cũng vô dụng].
Đan Trì, Quế Trì tảo toại thanh vân chi chí,
Hợp Lộc củng Lộc định vi cự phách chi thần.
(Gặp Nhật Nguyệt miếu vượng thì được toại lòng thỏa chí tang bồng,
Được Lộc hợp và củng chiếu thì nhất định là người tài năng cự phách).
[Đan Trì là Nhật ở Mão Thìn Tị, Quế Trì là Nguyệt nhập vào chỗ Dậu Tuất Hợi, sáu cung ấy mà Thân Mệnh gặp được thì được xứng ý toại lòng, cũng cần phải có Xương Khúc Khôi Việt.
Lộc Tồn với Hóa Lộc tại Tài cung và Quan cung, hợp chiếu vào Mệnh, hoặc Mệnh tọa Lộc mà Thiên Di có Lộc củng chiếu cũng chủ phú quý. Phép bí truyền nói "hợp Lộc củng Lộc đôi kim tích ngọc, tước vị cao thiên y tử bào" (có cách "hợp Lộc củng Lộc" thì giàu có vô cùng, tước vị cao tột bực)].
Âm Dương hội Xương Khúc xuất thế vinh hoa,
Phụ Bật ngộ Tài Quan y phi trứ tử.
(Nhật Nguyệt gặp Xương Khúc thì ra đời được vinh hoa phú quý,
Ở Tài Quan mà có Tả Hữu thì được mặc áo tía, áo lụa đào - ám chỉ quan phục cao cấp).
[Như ở cung Mệnh có Âm Dương, ở Tài Quan có Xương Khúc hội tới, hoặc ở cung Mệnh có Xương Khúc, còn Tài Quan thì lại có Nhật Nguyệt hội về. Gặp thêm Khôi Việt, cát tinh thì tất sẽ phú quý.
Như ở Mệnh Thân có chính tinh hóa cát (Khoa Quyền Lộc), gặp Tả Hữu đến chầu từ tam phương thì được quan tước cao].
Cự Lương tương hội Liêm Trinh tinh,
Hợp Lộc uyên ương nhất thế vinh.
(Cự Lương hội với Liêm Trinh lại có song Lộc hợp chiếu thì một đời được vinh hiển).
[Bốn sao Cự Lương Liêm Tham ở Thân Mệnh mà tam hợp gặp được các cát tinh, lại miếu địa, lại vừa có thêm Lộc Tồn Hóa Lộc ở Phu Thê cung, hoặc có Lộc tới hợp chiếu thì cũng chủ phú quý].
Vũ Khúc nhàn cung đa thủ nghệ,
Tham Lang hãm địa tác đồ nhân.
(Vũ Khúc ở nhàn cung thì đa phần là làm nghề thủ công,
Tham Lang ở chỗ hãm địa thì làm anh đồ tể chuyên giết mổ gia súc).
[Vũ Khúc ở Tị Hợi cung (là hãm địa) mà thủ Mệnh có thêm sát tinh tụ họp thì chỉ làm nghề thủ công mà yên thân.
Tham Lang ở Tị Hợi cung (là hãm địa) mà thủ Mệnh, có thêm sát tinh tụ họp thì làm anh đồ tể chuyên giết mổ lợn bò trâu ngựa. HoặcLiêm Tham ở Tị Hợi mà thêm sát tinh, Hóa Kị thì cũng dễ chết yểu].
Thiên Lộc triều viên thân vinh quý hiển,
Khôi tinh lâm mệnh vị liệt tam thai.
(Lộc Tồn mà chầu cung Mệnh thì tấm thân được vinh quang quý hiển,
Khôi Việt đóng vào Mệnh vị thì cũng được tước vị cỡ ngôi Tam Công).
[Như người sinh năm Giáp mà an Mệnh tại cung Dần, Lộc Tồn đến Dần thủ mệnh năm Giáp cũng khiến cho thành "Lộc triều viên" cách, lại như tuổi Canh an Mệnh tại Thân, tuổi Ất an Mệnh tại Mão, tuổi Tân an Mệnh tại Dậu, bốn vị trí Lộc thủ Mệnh cung đó thì đoán y như vậy. Thêm sát tinh, Hóa Kị thì bình thường. Ngoài ra, người sinh các năm Bính Mậu Đinh Kỷ Nhâm Quý tại 4 cung Tị Hợi Tý Ngọ không được coi là "Lộc triều viên" vậy.
(QNB chú: Nguyên chữ "triều" này vốn được hiểu là triều kiến, chầu, ngoảnh mặt về, hướng về,... chữ "viên" được dùng chỉ Mệnh Viên. Ở đây lại nói về Lộc Tồn thủ mệnh, thì cũng kể là lạ vậy. Xin độc giả lưu ý).
Như an Mệnh tại cung Ngọ có Tử Vi tọa thủ, gặp Văn Xương Khôi Việt đồng cung thì người tuổi Tân là kỳ cách.
(QNB chú: đúng là tuổi Tân, còn trong TVĐS Toàn Thư chép nhầm là tuổi Nhâm).
Vũ Khúc cư Càn Tuất Hợi thượng, tối phạ Thái Âm phùng Tham Lang.
(Vũ Khúc ở Càn cung Tuất Hợi, rất sợ Thái Âm gặp Tham Lang).
[Vũ Khúc tại Tuất Hợi thủ Mệnh, tam phương thấy Thái Âm Tham Lang Hóa Kị thêm các sát tinh thì không đẹp vậy, đoán định chủ thiếu niên bất lợi. (QNB chú: Vũ Khúc với Thái Âm nhị hợp chứ đâu có thể gặp ở tam phương mà nói vậy. Và Âm với Tham kẻ trước người sau. Độc giả lưu ý vậy). Hoặc như có Tham Hỏa xung thì chủ quý, người tuổi Giáp Kỷ là hợp cách].
Hóa Lộc hoàn vi hảo, hưu hướng Mộ trung tàng.
(Hóa Lộc chiếu về mệnh là hay, đừng nằm ở trong Mộ cung).
[Như Vũ Khúc Thái Âm Tham Lang hóa Lộc thủ chiếu Mệnh cung, thêm các cát diệu cũng chủ phú quý, nhưng ở Thìn Tuất Sửu Mùi cung thì dù Hóa cát cũng vô dụng. Thìn Tuất Sửu Mùi là thần của tứ Mộ].
Tý Ngọ Cự Môn thạch trung ẩn ngọc,
Minh Lộc ám Lộc cẩm thượng thiêm hoa.
(Cự Môn ở Tý Ngọ là như ngọc ẩn ở trong đá,
Minh Lộc ám Lộc là như áo gấm được thêm hoa).
[An Mệnh ở hai cung Tý Ngọ mà gặp Cự Môn tọa thủ, thêm đắc ở Dần Tuất (chiếu Ngọ) Thân Thìn (chiếu Tý) có Khoa Quyền hợp chiếu thì tất sẽ phú quý. Bí văn nói "Cự Môn Tý Ngọ Khoa Quyền chiếu, quan tư khanh hiển chí tam công" (Cự Môn ở Tý Ngọ có Khoa Quyền chiếu thì đường quan lộ được hanh thông hiển hách, lên tới tước tam công).
Như người tuổi Giáp mà lập Mệnh tại Hợi cung đắc Hóa Lộc tọa thủ, lại đắc Lộc Tồn ở Dần hợp đến, bởi Dần với Hợi là các cung vị hợp với nhau vậy, cái cách này và "Khoa minh Lộc ám" cũng đoán tương tự vậy].
Phu Tử tuyệt lương hạn đáo Thiên Thương chi nội.
(Đặng Thông chết đói là do vận gặp chỗ của Đại Hao,
Khổng Tử bị hết sạch lương thảo là vì hạn vào trong chỗ của Thiên Thương).
[Mệnh mà an tại Tý cung, nhị hạn đi tới hoặc giáp với chỗ đó (chỗ của Thiên Thương), có Đại Hao và gặp thêm các ác diệu thì đói kém, hao phá, chết đói.
Đoán như câu trên].
Linh Xương La Vũ hạn chí đầu hà,
Cự Hỏa Kình Dương chung thân ải tử.
(Hạn gặp Linh Xương La Vũ thì dễ gieo mình xuống sông,
Cách Cự Hỏa Kình Dương thì cả đời dễ thắt cổ tự vẫn).
[Các sao ấy giao hội tại hai cung Thìn Tuất, người tuổi Tân Nhâm Kỷ mà nhị hạn đi tới đó thì định là gặp thủy nạn. Nếu thêm các ác sát tinh thì tất sẽ chết ở ngoài đường. Nếu như 4 sao ấy tại Thìn Tuất tọa mệnh thì cũng thế.
Ba sao này tọa thủ ở Thân Mệnh, đại tiểu nhị hạn mà gặp, lại có thêm ác sát thì cứ y vậy mà đoán (dễ tự tử)].
Mệnh lý phùng Không bất phiêu lưu chủ tật khổ,
Mã đầu đới kiếm phi yểu chiết tắc hình thương.
(Chỗ cung Mệnh mà gặp Không thì nếu chẳng phiêu đãng lưu lạc sẽ bị bệnh tật khốn khổ,
Có cách "Mã đầu đới kiếm" thì không chết non cũng sẽ bị hình phạt, hình khắc, thương tật).
[Như Mệnh cung không có chính tinh, lại có Địa Không đơn thủ, thêm tam hợp có sát tinh, Hóa Kị, thì cứ y như thế mà đoán, có thêm cát tinh thì cũng đỡ hơn.
Kình Dương cư ngọ thủ Mệnh (gọi là "Mã đầu đới kiếm"), ở Mão thì là thứ cách, ở Dậu cũng là thứ cách, đó chính là chỗ mà Kình Dương lạc vào hãm địa, ở Dần Thân Tị Hợi đối với Đà La thì cũng giống vậy, nếu như ở Thìn Tuất Sửu Mùi thì không e ngại].
Tý Ngọ Phá Quân gia quan tiến lộc,
Xương Tham cư mệnh phấn cốt toái thi.
(Ở chỗ Tý Ngọ có Phá Quân thì được tăng tiến về tài lộc, quan chức,
Tham Lang Văn Xương đồng cung lạc hãm thì dễ bị tai nạn tan xương nát thịt).
[Mệnh mà an ở hai cung Tý Ngọ, có Phá Quân tọa thủ, thêm cát tinh thì tất nhiên được vị trí tước hàm cỡ bực Tam Công.
Như an Mệnh ở hai cung Tị Hợi, gặp Tham Xương tọa thủ, thêm sát tinh với Hóa Kị thì yểu vong, hoặc ở Quan Lộc cung mà gặp như vậy thì cũng dễ có tai nạn giống thế].
Triều Đẩu ngưỡng Đẩu tước lộc vinh xương,
Văn Quế Văn Hoa cửu trùng quý hiển.
(Chầu và ngưỡng về chỗ của Tử Phủ thì thường được hưng thịnh vinh hoa về tước lộc,
Có Xương Khúc miếu đắc thì được quý hiển tột bực).
[Thất Sát thủ mệnh ở vượng cung thì là vậy, như ở Tý Ngọ Dần Thân là triều Đẩu, ở tam phương chiếu về là ngưỡng Đẩu, nhập cách thì chủ được phú quý, nếu ở Thiên Di hoặc Quan Lộc thì không luận như thế.
Văn Xương là Văn Quế, Văn Khúc là Văn Hoa, như an Mệnh tại Sửu Mùi mà gặp Xương Khúc, gặp thêm hóa cát củng chiếu hoặc giáp cung thì chính là được hiển quý vậy. Nếu mà không có cát hóa thì cũng vô dụng].
Đan Trì, Quế Trì tảo toại thanh vân chi chí,
Hợp Lộc củng Lộc định vi cự phách chi thần.
(Gặp Nhật Nguyệt miếu vượng thì được toại lòng thỏa chí tang bồng,
Được Lộc hợp và củng chiếu thì nhất định là người tài năng cự phách).
[Đan Trì là Nhật ở Mão Thìn Tị, Quế Trì là Nguyệt nhập vào chỗ Dậu Tuất Hợi, sáu cung ấy mà Thân Mệnh gặp được thì được xứng ý toại lòng, cũng cần phải có Xương Khúc Khôi Việt.
Lộc Tồn với Hóa Lộc tại Tài cung và Quan cung, hợp chiếu vào Mệnh, hoặc Mệnh tọa Lộc mà Thiên Di có Lộc củng chiếu cũng chủ phú quý. Phép bí truyền nói "hợp Lộc củng Lộc đôi kim tích ngọc, tước vị cao thiên y tử bào" (có cách "hợp Lộc củng Lộc" thì giàu có vô cùng, tước vị cao tột bực)].
Âm Dương hội Xương Khúc xuất thế vinh hoa,
Phụ Bật ngộ Tài Quan y phi trứ tử.
(Nhật Nguyệt gặp Xương Khúc thì ra đời được vinh hoa phú quý,
Ở Tài Quan mà có Tả Hữu thì được mặc áo tía, áo lụa đào - ám chỉ quan phục cao cấp).
[Như ở cung Mệnh có Âm Dương, ở Tài Quan có Xương Khúc hội tới, hoặc ở cung Mệnh có Xương Khúc, còn Tài Quan thì lại có Nhật Nguyệt hội về. Gặp thêm Khôi Việt, cát tinh thì tất sẽ phú quý.
Như ở Mệnh Thân có chính tinh hóa cát (Khoa Quyền Lộc), gặp Tả Hữu đến chầu từ tam phương thì được quan tước cao].
Cự Lương tương hội Liêm Trinh tinh,
Hợp Lộc uyên ương nhất thế vinh.
(Cự Lương hội với Liêm Trinh lại có song Lộc hợp chiếu thì một đời được vinh hiển).
[Bốn sao Cự Lương Liêm Tham ở Thân Mệnh mà tam hợp gặp được các cát tinh, lại miếu địa, lại vừa có thêm Lộc Tồn Hóa Lộc ở Phu Thê cung, hoặc có Lộc tới hợp chiếu thì cũng chủ phú quý].
Vũ Khúc nhàn cung đa thủ nghệ,
Tham Lang hãm địa tác đồ nhân.
(Vũ Khúc ở nhàn cung thì đa phần là làm nghề thủ công,
Tham Lang ở chỗ hãm địa thì làm anh đồ tể chuyên giết mổ gia súc).
[Vũ Khúc ở Tị Hợi cung (là hãm địa) mà thủ Mệnh có thêm sát tinh tụ họp thì chỉ làm nghề thủ công mà yên thân.
Tham Lang ở Tị Hợi cung (là hãm địa) mà thủ Mệnh, có thêm sát tinh tụ họp thì làm anh đồ tể chuyên giết mổ lợn bò trâu ngựa. HoặcLiêm Tham ở Tị Hợi mà thêm sát tinh, Hóa Kị thì cũng dễ chết yểu].
Thiên Lộc triều viên thân vinh quý hiển,
Khôi tinh lâm mệnh vị liệt tam thai.
(Lộc Tồn mà chầu cung Mệnh thì tấm thân được vinh quang quý hiển,
Khôi Việt đóng vào Mệnh vị thì cũng được tước vị cỡ ngôi Tam Công).
[Như người sinh năm Giáp mà an Mệnh tại cung Dần, Lộc Tồn đến Dần thủ mệnh năm Giáp cũng khiến cho thành "Lộc triều viên" cách, lại như tuổi Canh an Mệnh tại Thân, tuổi Ất an Mệnh tại Mão, tuổi Tân an Mệnh tại Dậu, bốn vị trí Lộc thủ Mệnh cung đó thì đoán y như vậy. Thêm sát tinh, Hóa Kị thì bình thường. Ngoài ra, người sinh các năm Bính Mậu Đinh Kỷ Nhâm Quý tại 4 cung Tị Hợi Tý Ngọ không được coi là "Lộc triều viên" vậy.
(QNB chú: Nguyên chữ "triều" này vốn được hiểu là triều kiến, chầu, ngoảnh mặt về, hướng về,... chữ "viên" được dùng chỉ Mệnh Viên. Ở đây lại nói về Lộc Tồn thủ mệnh, thì cũng kể là lạ vậy. Xin độc giả lưu ý).
Như an Mệnh tại cung Ngọ có Tử Vi tọa thủ, gặp Văn Xương Khôi Việt đồng cung thì người tuổi Tân là kỳ cách.
(QNB chú: đúng là tuổi Tân, còn trong TVĐS Toàn Thư chép nhầm là tuổi Nhâm).
Vũ Khúc cư Càn Tuất Hợi thượng, tối phạ Thái Âm phùng Tham Lang.
(Vũ Khúc ở Càn cung Tuất Hợi, rất sợ Thái Âm gặp Tham Lang).
[Vũ Khúc tại Tuất Hợi thủ Mệnh, tam phương thấy Thái Âm Tham Lang Hóa Kị thêm các sát tinh thì không đẹp vậy, đoán định chủ thiếu niên bất lợi. (QNB chú: Vũ Khúc với Thái Âm nhị hợp chứ đâu có thể gặp ở tam phương mà nói vậy. Và Âm với Tham kẻ trước người sau. Độc giả lưu ý vậy). Hoặc như có Tham Hỏa xung thì chủ quý, người tuổi Giáp Kỷ là hợp cách].
Hóa Lộc hoàn vi hảo, hưu hướng Mộ trung tàng.
(Hóa Lộc chiếu về mệnh là hay, đừng nằm ở trong Mộ cung).
[Như Vũ Khúc Thái Âm Tham Lang hóa Lộc thủ chiếu Mệnh cung, thêm các cát diệu cũng chủ phú quý, nhưng ở Thìn Tuất Sửu Mùi cung thì dù Hóa cát cũng vô dụng. Thìn Tuất Sửu Mùi là thần của tứ Mộ].
Tý Ngọ Cự Môn thạch trung ẩn ngọc,
Minh Lộc ám Lộc cẩm thượng thiêm hoa.
(Cự Môn ở Tý Ngọ là như ngọc ẩn ở trong đá,
Minh Lộc ám Lộc là như áo gấm được thêm hoa).
[An Mệnh ở hai cung Tý Ngọ mà gặp Cự Môn tọa thủ, thêm đắc ở Dần Tuất (chiếu Ngọ) Thân Thìn (chiếu Tý) có Khoa Quyền hợp chiếu thì tất sẽ phú quý. Bí văn nói "Cự Môn Tý Ngọ Khoa Quyền chiếu, quan tư khanh hiển chí tam công" (Cự Môn ở Tý Ngọ có Khoa Quyền chiếu thì đường quan lộ được hanh thông hiển hách, lên tới tước tam công).
Như người tuổi Giáp mà lập Mệnh tại Hợi cung đắc Hóa Lộc tọa thủ, lại đắc Lộc Tồn ở Dần hợp đến, bởi Dần với Hợi là các cung vị hợp với nhau vậy, cái cách này và "Khoa minh Lộc ám" cũng đoán tương tự vậy].
Thanked by 6 Members:
|
|
#38
Gửi vào 11/01/2015 - 12:13
Tử Vi Thìn Tuất ngộ Phá Quân, phú nhi bất quý hữu hư danh.
(Tử Vi ở Thìn Tuất gặp Phá Quân, giàu mà chẳng quý chỉ có hư danh).
[An Mệnh tại nhị cung Thìn Tuất, gặp Tử Vi Phá Quân thực là hãm địa, tất nhiên chẳng quý, dù có phát tài nhưng cũng ko thực sự là mệnh được hưởng thụ].
Xương Khúc Phá Quân phùng hình khắc đa lao lục,
Tham Vũ Mộ trung cư tam thập tài phát phúc.
(Xương Khúc với Phá Quân gặp nhau, thì có sự hình khắc, cuộc đời nhiều lận đận,
Tham Vũ cư ở trong cung tứ Mộ, sau ba mươi tuổi thì phát tài phát phúc).
[Như ở Mão Dậu Thìn Tuất có Phá Quân thủ Mệnh, dẫu có được Xương Khúc cũng không toàn cát, thêm sát tinh, Hóa Kị thì càng không được đủ quý vậy.
Như ở Thìn Tuất Sửu Mùi mà có Vũ Tham thủ Mệnh, định rằng chủ bất lợi lúc thiếu niên, thêm sát tinh Hóa Kị thì yểu thọ, sau ba mươi tuổi thì phát tài phát phúc. Bí văn nói "Tham Vũ bất phát thiếu niên nhân, vận quá tam thập phương diên thọ"].
Thiên Đồng Tuất cung vi phản bối, Đinh nhân hóa cát chủ đại quý.
Cự Môn Thìn Tuất vi hãm địa, Tân nhân hóa cát Lộc tranh vanh.
(Thiên Đồng ở Tuất là hãm địa, nhưng với người tuổi Đinh thì Thiên Đồng hóa Quyền, gọi là hóa cát, như thế lại thành ra chủ đại quý.
Cự Môn ở Thìn Tuất là hãm địa, nhưng với người tuổi Tân thì Cự Môn hóa Lộc, gọi là hóa cát, như thế lại thành ra được tài lộc cao chót vót).
[Thiên Đồng ở cung Tuất vốn là chỗ hãm, nhưng người tuổi Đinh thì (ở bản cung Đồng hóa Quyền) ở Ngọ có Lộc Tồn, ở Dần có Cơ Âm hóa Lộc hóa Khoa, ở Thìn có Cự Môn hóa Kị (đắc Mộ cung), cùng xung và củng chiếu thì định là chủ đại quý, Thiên Tướng cũng như vậy (QNB chú: không nói rõ trường hợp Thiên Tướng thì tuổi nào), nếu thêm sát tinh thì dễ theo tăng đạo, định là hạ cục.
Cự Môn tọa Mệnh tại Thìn Tuất cung vốn là hãm địa, nhưng người tuổi Tân thì Cự Môn hóa Lộc, lại được ám hợp Lộc Tồn ở Dậu (khi Mệnh ở Thìn), được Lộc Tồn ở Dậu giáp Mệnh (khi Mệnh ở Tuất), tất sẽ chủ phú quý, nếu thêm sát tinh thì không phải như vậy].
Cơ Lương Dậu thượng hóa cát giả, túng ngộ tài quan dã bất vinh.
(Thiên Cơ, Thiên Lương khi ở trên cung Dậu dù có gặp được hóa cát ở Tài Quan thì cũng không vinh hiển về công danh quan chức được ?!!!).
[Ở cung Dậu mà an Mệnh có Cơ Lương thực là hãm địa, dẫu có gặp cát cũng vô lực vậy. Cự Môn cũng như thế.
QNB chú: Câu phú này chắc là có sự nhầm lẫn trong lúc sao chép, vì ở Dậu thì chỉ có thể có Thái Dương và Thiên Lương đồng cung và cùng hãm mà thôi, không thể là Cơ Lương được].
Nhật Nguyệt tối hiềm phản bối nãi vi thất huy,
Mệnh Thân định yếu tinh cầu khủng sai phân số.
(Nhật Nguyệt rất ngại quay lưng vào nhau vì như thế là mất ánh sáng, lạc hãm,
Phân định chỗ trọng yếu Mệnh Thân thì yêu cầu phải tinh tế, vì sợ có sai số).
[Thái Dương tại Thân Dậu Tuất Hợi Tý, Thái Âm tại Dần Mão Thìn Tị Ngọ, thì là Nhật Nguyệt không có ánh sáng, có quý gì đâu, nhưng mà có Nhật Nguyệt phản bối mà lại giàu có sang quý thì lại phải coi lại xem bản cung và tam hợp có cát hóa củng chiếu, không có sát tinh thì mới vậy, bởi thế Ngọc Thiềm tiên sinh thường viết "nghị luận trong Số rất tinh vi, phép đoán ở lòng người phải linh hoạt biến hóa".
Gặp chỗ an cung Mệnh Thân thì trước tiên biện luận về giờ sinh, giờ đúng thì không thể không ứng, Thân Mệnh đã an định rồi thì sau đó xem bản cung Sinh Vượng Tử Tuyệt thế nào, rồi sau mới theo sao mà phán đoán].
Âm chất diên niên tăng bách phúc,
chí vu hãm địa bất t*o thương.
(Âm đức của tổ tông và số đã định trước là thọ là có thể khiến cho tăng bách phúc,
dẫu có đến chỗ hãm địa cũng không bị tổn thương).
[Câu đó nói về Thân Mệnh nhị tinh (QNB chú: có lẽ chữ "nhị tinh" là để làm rõ rằng muốn đề cập tới Sao chủ Mệnh và Sao chủ Thân, chứ không phải là cung Mệnh & cung Thân), nếu như nhược kém mà vẫn được phúc thọ cát khánh, đó là do ngầm định ấy là người có đức vậy. Thân Mệnh tuy nhược, cùng với hành hạn cũng nhược lại phản chuyển được phúc, đó tất là do tâm tốt lương thiện nên thắng được ngầm định (QNB chú: ý muốn nói đến "đức năng thắng số")].
Mệnh thực vận kiên cảo điền đắc vũ
Mệnh suy hạn nhược nộn thảo thao sương,
(Mệnh có thực lực, vận lại vững chắc thì như ruộng lúa được mưa tưới tắm,
Mệnh mà suy, hạn lại nhược kém thì giống như cỏ non gặp phải sương dầm).
[Nếu như Mệnh tọa hãm địa, lại có bốn bề cát tinh củng chiếu cũng luận là phúc. Còn như Mệnh tọa hãm địa, vận gặp ác sát thì tất sẽ chủ tai họa hối hận.
Nếu Mệnh mà có thực lực (sinh vượng) mà vận lại kiên cố (sinh vượng, có cát củng chiếu) thì phúc của nó khỏi cần nói vậy].
Luận Mệnh tất suy tinh thiện ác,
Cự Phá Kình Dương tính tất cương.
(Luận mệnh tất phải suy sao thiện sao ác,
Cự Môn Phá Quân Kình Dương mà thủ mệnh thì tính tình tất sẽ cương cường, cứng rắn).
[Như 3 sao ấy mà thủ mệnh lại cư vào hãm địa, chẳng những tính cương cường như vậy mà còn định là chủ lời lẽ thị phi, thêm sát tinh thì sẽ bị hình thương, phá bại].
Phủ Tướng Đồng Lương tính tất hảo,
Hỏa Kiếp Không Tham tính bất thường.
(Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Đồng, Thiên Lương thì tính tình rất tốt,
Hỏa Tinh, Địa Kiếp, Địa Không, Tham Lang thì tính khí thất thường).
[Phủ Tướng Đồng Lương đều là sao thuộc Nam đẩu thuần dương trung chính, Thân Mệnh mà gặp thì tất sẽ có được tính trung thực hòa nhã, nếu như Tham Lang gặp được thì phú quý, nhưng có Không Kiếp lâm vào thì đoán là tính khí thất thường. (QNB chú: phần sách chú giải cho vế sau của câu phú hơi mơ hồ. Độc giả lưu ý)].
Xương Khúc Lộc Cơ thanh tú xảo,
Âm Dương Tả Hữu tối từ tường.
(Xương Khúc Lộc Cơ đều thanh tú và khéo kéo,
Nhật Nguyệt Tả Hữu thì đều nhân từ, ân cần).
[Xương Khúc Lộc Cơ mà không gặp thêm sát tinh, chủ nhân lỗi lạch anh hoa thông minh tuấn tú, cũng được hưởng phú quý.
Như Âm Dương Tả Hữu thủ mệnh mà không gặp thêm sát tinh thì chủ nhân tướng mạo thanh kỳ đôn hậu, độ lượng bao dung, luận là phú quý].
Vũ Phá Trinh Tham xung hợp khúc toàn cố quý,
Dương Đà Thất Sát tương tạp hỗ kiến tắc thương.
(Vũ Khúc Phá Quân Liêm Trinh Tham Lang xung hợp khiến được phú quý trọn vẹn lâu dài,
Kình Dương Đà La Thất Sát gặp tạp hỗ sát hung tinh thì tất sẽ bị thương tật).
[Thân Mệnh mà trong tam hợp gặp Vũ Phá Trinh Tham thủ chiếu, được thêm cát hóa thì tất sẽ phú quý vậy, cần gặp Tử Vi để thường hàng Thất Sát thành quyền, thường bảo ban được bọn Kình Đà hướng thiện, do đó Tử Vi cùng cư Mệnh là vốn đẹp đẽ, tại xung hợp cũng có thể được, nhưng Thất Sát Kình Dương Linh Tinh vẫn không phải cát diệu, cho nên đến già thì không được thiện, cuối cùng vẫn không được là mệnh toàn cát].
Tham Lang Liêm Trinh Phá Quân ác
Thất Sát Kình Dương Đà La hung.
(Tham Lang Liêm Trinh Phá Quân là tác tính ác cho người có nó,
Thất Sát Kình Dương Đà La thì tính tình cũng hung ác).
[Thân Mệnh tam hợp hoặc thủ chiếu mà thấy có sáu sao này, lại đồng thời có Hóa Kị mà lại không thấy cát hóa thì định là chủ phá bại, tà dâm hoặc tàn tật thương tích, chủ hình khắc. Như nhập miếu có hóa cát thì cũng cứ giống như trên mà đoán].
Hỏa Tinh Linh Tinh chuyên tác họa
Kiếp Không Thương Sứ họa trùng trùng.
(Hỏa Linh thường gây ra tai họa
Gặp Kiếp Không Thương Sứ thì hao tổn mất mát, tai họa trùng trùng).
[Đại tiểu nhị hạn mà gặp các sao ấy thì định là trong nhà có tai họa, hối tiếc đa đoan, như Thân Mệnh gặp được mà thêm cát tinh thì vô hại với Hỏa Linh, nhưng với Không Kiếp thì không vô hại].
(Tử Vi ở Thìn Tuất gặp Phá Quân, giàu mà chẳng quý chỉ có hư danh).
[An Mệnh tại nhị cung Thìn Tuất, gặp Tử Vi Phá Quân thực là hãm địa, tất nhiên chẳng quý, dù có phát tài nhưng cũng ko thực sự là mệnh được hưởng thụ].
Xương Khúc Phá Quân phùng hình khắc đa lao lục,
Tham Vũ Mộ trung cư tam thập tài phát phúc.
(Xương Khúc với Phá Quân gặp nhau, thì có sự hình khắc, cuộc đời nhiều lận đận,
Tham Vũ cư ở trong cung tứ Mộ, sau ba mươi tuổi thì phát tài phát phúc).
[Như ở Mão Dậu Thìn Tuất có Phá Quân thủ Mệnh, dẫu có được Xương Khúc cũng không toàn cát, thêm sát tinh, Hóa Kị thì càng không được đủ quý vậy.
Như ở Thìn Tuất Sửu Mùi mà có Vũ Tham thủ Mệnh, định rằng chủ bất lợi lúc thiếu niên, thêm sát tinh Hóa Kị thì yểu thọ, sau ba mươi tuổi thì phát tài phát phúc. Bí văn nói "Tham Vũ bất phát thiếu niên nhân, vận quá tam thập phương diên thọ"].
Thiên Đồng Tuất cung vi phản bối, Đinh nhân hóa cát chủ đại quý.
Cự Môn Thìn Tuất vi hãm địa, Tân nhân hóa cát Lộc tranh vanh.
(Thiên Đồng ở Tuất là hãm địa, nhưng với người tuổi Đinh thì Thiên Đồng hóa Quyền, gọi là hóa cát, như thế lại thành ra chủ đại quý.
Cự Môn ở Thìn Tuất là hãm địa, nhưng với người tuổi Tân thì Cự Môn hóa Lộc, gọi là hóa cát, như thế lại thành ra được tài lộc cao chót vót).
[Thiên Đồng ở cung Tuất vốn là chỗ hãm, nhưng người tuổi Đinh thì (ở bản cung Đồng hóa Quyền) ở Ngọ có Lộc Tồn, ở Dần có Cơ Âm hóa Lộc hóa Khoa, ở Thìn có Cự Môn hóa Kị (đắc Mộ cung), cùng xung và củng chiếu thì định là chủ đại quý, Thiên Tướng cũng như vậy (QNB chú: không nói rõ trường hợp Thiên Tướng thì tuổi nào), nếu thêm sát tinh thì dễ theo tăng đạo, định là hạ cục.
Cự Môn tọa Mệnh tại Thìn Tuất cung vốn là hãm địa, nhưng người tuổi Tân thì Cự Môn hóa Lộc, lại được ám hợp Lộc Tồn ở Dậu (khi Mệnh ở Thìn), được Lộc Tồn ở Dậu giáp Mệnh (khi Mệnh ở Tuất), tất sẽ chủ phú quý, nếu thêm sát tinh thì không phải như vậy].
Cơ Lương Dậu thượng hóa cát giả, túng ngộ tài quan dã bất vinh.
(Thiên Cơ, Thiên Lương khi ở trên cung Dậu dù có gặp được hóa cát ở Tài Quan thì cũng không vinh hiển về công danh quan chức được ?!!!).
[Ở cung Dậu mà an Mệnh có Cơ Lương thực là hãm địa, dẫu có gặp cát cũng vô lực vậy. Cự Môn cũng như thế.
QNB chú: Câu phú này chắc là có sự nhầm lẫn trong lúc sao chép, vì ở Dậu thì chỉ có thể có Thái Dương và Thiên Lương đồng cung và cùng hãm mà thôi, không thể là Cơ Lương được].
Nhật Nguyệt tối hiềm phản bối nãi vi thất huy,
Mệnh Thân định yếu tinh cầu khủng sai phân số.
(Nhật Nguyệt rất ngại quay lưng vào nhau vì như thế là mất ánh sáng, lạc hãm,
Phân định chỗ trọng yếu Mệnh Thân thì yêu cầu phải tinh tế, vì sợ có sai số).
[Thái Dương tại Thân Dậu Tuất Hợi Tý, Thái Âm tại Dần Mão Thìn Tị Ngọ, thì là Nhật Nguyệt không có ánh sáng, có quý gì đâu, nhưng mà có Nhật Nguyệt phản bối mà lại giàu có sang quý thì lại phải coi lại xem bản cung và tam hợp có cát hóa củng chiếu, không có sát tinh thì mới vậy, bởi thế Ngọc Thiềm tiên sinh thường viết "nghị luận trong Số rất tinh vi, phép đoán ở lòng người phải linh hoạt biến hóa".
Gặp chỗ an cung Mệnh Thân thì trước tiên biện luận về giờ sinh, giờ đúng thì không thể không ứng, Thân Mệnh đã an định rồi thì sau đó xem bản cung Sinh Vượng Tử Tuyệt thế nào, rồi sau mới theo sao mà phán đoán].
Âm chất diên niên tăng bách phúc,
chí vu hãm địa bất t*o thương.
(Âm đức của tổ tông và số đã định trước là thọ là có thể khiến cho tăng bách phúc,
dẫu có đến chỗ hãm địa cũng không bị tổn thương).
[Câu đó nói về Thân Mệnh nhị tinh (QNB chú: có lẽ chữ "nhị tinh" là để làm rõ rằng muốn đề cập tới Sao chủ Mệnh và Sao chủ Thân, chứ không phải là cung Mệnh & cung Thân), nếu như nhược kém mà vẫn được phúc thọ cát khánh, đó là do ngầm định ấy là người có đức vậy. Thân Mệnh tuy nhược, cùng với hành hạn cũng nhược lại phản chuyển được phúc, đó tất là do tâm tốt lương thiện nên thắng được ngầm định (QNB chú: ý muốn nói đến "đức năng thắng số")].
Mệnh thực vận kiên cảo điền đắc vũ
Mệnh suy hạn nhược nộn thảo thao sương,
(Mệnh có thực lực, vận lại vững chắc thì như ruộng lúa được mưa tưới tắm,
Mệnh mà suy, hạn lại nhược kém thì giống như cỏ non gặp phải sương dầm).
[Nếu như Mệnh tọa hãm địa, lại có bốn bề cát tinh củng chiếu cũng luận là phúc. Còn như Mệnh tọa hãm địa, vận gặp ác sát thì tất sẽ chủ tai họa hối hận.
Nếu Mệnh mà có thực lực (sinh vượng) mà vận lại kiên cố (sinh vượng, có cát củng chiếu) thì phúc của nó khỏi cần nói vậy].
Luận Mệnh tất suy tinh thiện ác,
Cự Phá Kình Dương tính tất cương.
(Luận mệnh tất phải suy sao thiện sao ác,
Cự Môn Phá Quân Kình Dương mà thủ mệnh thì tính tình tất sẽ cương cường, cứng rắn).
[Như 3 sao ấy mà thủ mệnh lại cư vào hãm địa, chẳng những tính cương cường như vậy mà còn định là chủ lời lẽ thị phi, thêm sát tinh thì sẽ bị hình thương, phá bại].
Phủ Tướng Đồng Lương tính tất hảo,
Hỏa Kiếp Không Tham tính bất thường.
(Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Đồng, Thiên Lương thì tính tình rất tốt,
Hỏa Tinh, Địa Kiếp, Địa Không, Tham Lang thì tính khí thất thường).
[Phủ Tướng Đồng Lương đều là sao thuộc Nam đẩu thuần dương trung chính, Thân Mệnh mà gặp thì tất sẽ có được tính trung thực hòa nhã, nếu như Tham Lang gặp được thì phú quý, nhưng có Không Kiếp lâm vào thì đoán là tính khí thất thường. (QNB chú: phần sách chú giải cho vế sau của câu phú hơi mơ hồ. Độc giả lưu ý)].
Xương Khúc Lộc Cơ thanh tú xảo,
Âm Dương Tả Hữu tối từ tường.
(Xương Khúc Lộc Cơ đều thanh tú và khéo kéo,
Nhật Nguyệt Tả Hữu thì đều nhân từ, ân cần).
[Xương Khúc Lộc Cơ mà không gặp thêm sát tinh, chủ nhân lỗi lạch anh hoa thông minh tuấn tú, cũng được hưởng phú quý.
Như Âm Dương Tả Hữu thủ mệnh mà không gặp thêm sát tinh thì chủ nhân tướng mạo thanh kỳ đôn hậu, độ lượng bao dung, luận là phú quý].
Vũ Phá Trinh Tham xung hợp khúc toàn cố quý,
Dương Đà Thất Sát tương tạp hỗ kiến tắc thương.
(Vũ Khúc Phá Quân Liêm Trinh Tham Lang xung hợp khiến được phú quý trọn vẹn lâu dài,
Kình Dương Đà La Thất Sát gặp tạp hỗ sát hung tinh thì tất sẽ bị thương tật).
[Thân Mệnh mà trong tam hợp gặp Vũ Phá Trinh Tham thủ chiếu, được thêm cát hóa thì tất sẽ phú quý vậy, cần gặp Tử Vi để thường hàng Thất Sát thành quyền, thường bảo ban được bọn Kình Đà hướng thiện, do đó Tử Vi cùng cư Mệnh là vốn đẹp đẽ, tại xung hợp cũng có thể được, nhưng Thất Sát Kình Dương Linh Tinh vẫn không phải cát diệu, cho nên đến già thì không được thiện, cuối cùng vẫn không được là mệnh toàn cát].
Tham Lang Liêm Trinh Phá Quân ác
Thất Sát Kình Dương Đà La hung.
(Tham Lang Liêm Trinh Phá Quân là tác tính ác cho người có nó,
Thất Sát Kình Dương Đà La thì tính tình cũng hung ác).
[Thân Mệnh tam hợp hoặc thủ chiếu mà thấy có sáu sao này, lại đồng thời có Hóa Kị mà lại không thấy cát hóa thì định là chủ phá bại, tà dâm hoặc tàn tật thương tích, chủ hình khắc. Như nhập miếu có hóa cát thì cũng cứ giống như trên mà đoán].
Hỏa Tinh Linh Tinh chuyên tác họa
Kiếp Không Thương Sứ họa trùng trùng.
(Hỏa Linh thường gây ra tai họa
Gặp Kiếp Không Thương Sứ thì hao tổn mất mát, tai họa trùng trùng).
[Đại tiểu nhị hạn mà gặp các sao ấy thì định là trong nhà có tai họa, hối tiếc đa đoan, như Thân Mệnh gặp được mà thêm cát tinh thì vô hại với Hỏa Linh, nhưng với Không Kiếp thì không vô hại].
Thanked by 6 Members:
|
|
#39
Gửi vào 11/01/2015 - 12:28
Cự Môn Kị tinh giai bất cát,
Vận Thân Mệnh hạn kị tương phùng.
Canh kiêm Thái Tuế Quan Phù chí,
Quan phi khẩu thiệt quyết bất không.
Điếu Khách Tang Môn hựu tương ngộ,
Quản giáo tai bệnh lưỡng tương công.
(Cự Môn và hóa Kị thì đều chẳng đẹp chút nào,
Thân Mệnh và vận hạn rất e ngại gặp phải.
Nếu thêm Thái Tuế Quan Phù đến,
Quan tai khẩu thiệt nhất định không thể không có
Lại gặp cả Điếu Khách với Tang môn
Đảm bảo là vừa bị tai họa vừa bị bệnh tật).
[Nói đến Hóa Kị tinh là thần quản nhiều sự, ở khắp 12 cung mà Thân Mệnh hay nhị hạn gặp phải thì chủ không được tốt lành, huống hồ Cự Môn vốn cũng chẳng phải cát tinh gì, nếu vào chỗ hãm địa mà còn hóa Kị nữa thì sao mà xem là tốt được.
Nói đến Thái Tuế và Quan Phù vốn là thần của việc dấy lên kiện tụng, huống hồ thêm Cự Môn là sao của thị phi, lại đồng thời kiêm hóa ra Kị lâm vào thì chắc chắn việc quan tụng kiện cáo là không tránh được.
Nói đến Điếu Khách và Tang Môn vốn chủ về hình phạt tang chế, nhưng không gặp Thất Sát Thiên Hình Kình Dương thì có thể miễn được, (nếu gặp chúng) thì tai họa tật bệnh tất sẽ xảy ra vậy, huống chi Hóa Kị lại rất hay sinh ra bệnh tật tai ách nữa].
Thất Sát lâm Thân chung thị yểu,
Tham Lang nhập Mệnh tất vi xướng.
(Thất Sát hãm ở cung an Thân thì chết non,
Tham Lang hãm ở cung Mệnh thì làm ca kỹ).
[Thất Sát thủ ở Thân Mệnh mà hãm địa, thêm hung tinh thì cứ y như thế mà đoán.
Nếu như Tham Lang hãm thủ Mệnh, hoặc tại tam hợp chiếu Tham Lang hãm, dù không có thêm sát tinh, thì cũng chủ nam nữ đều dâm dật. Nếu như có thêm sát tinh thì nam chủ phiêu đãng còn nữ chủ dâm loạn.
Bí văn nói:
"Tham Lang tam hợp tương chiếu lâm
Dã học Hàn Thọ khứ thâu hương"
(Tham lang hãm ở tam hợp chiếu đến
Thì bắt chước Hàn Thọ mà đi làm trộm cắp phấn hương tư tình)].
Tâm hảo mệnh vi diệc chủ thọ,
Tâm độc mệnh cố diệc yểu vong.
(Tâm tốt thì mệnh nhỏ bé cũng được sống thọ,
Tâm ác độc thì mệnh vững chắc cũng chết non).
[Hai câu này, câu trước là thuyết giảng về âm đức, câu sau thì biện về xem phản chuyển ra ti tiện. Như Khổng Minh hỏa thiêu đội quân giáp mây mà cũng bị tổn thọ chính là vậy].
Kim nhân mệnh hữu thiên kim quý, vận khứ chi thì khởi cửu trường.
Số nội bao tàng đa thiểu lý, học giả tu đương tử tế tường.
(Người nay mệnh quý ngàn vàng vậy, Vận vụt trôi qua há mãi sao.
Trong số ít nhiều tàng lý lẽ, học giả xem kỹ để tỏ tường).
93. Chú giải Nữ mệnh Cốt Tủy Phú
Phủ Tướng chi tinh nữ mệnh triền,
tất đương tử quý dữ phu hiền.
(Trong triền độ của cung mệnh người nữ mà có Phủ, Tướng,
Thì tất sẽ có chồng là hiền nhân và có con là quý tử).
[Tại cung Ngọ mà an Mệnh có Thiên Phủ, Thiên Tướng tọa thủ, người tuổi Giáp là hợp cách. Ở cung Tý an Mệnh thì người tuổi Kỷ là hợp cách. Ở cung Thân an Mệnh thì người tuổi Canh là hợp cách, tất sẽ được hưởng thụ vinh hoa, được phong tặng vẻ vang vậy.]
Liêm Trinh thanh bạch năng tương thủ.
Cánh hữu Thiên Đồng diệc lý nhiên.
(Liêm Trinh đắc miếu vào nữ mệnh là năng giữ được sự trong sạch, thuần khiết.
Thêm cả sao Thiên Đồng cũng có cùng cái lý giống như vậy).
[Liêm Trinh tại Mùi cung an Mệnh thì người tuổi Giáp là hợp cách. Tại cung Thân (khỉ) an Mệnh thì người tuổi Quý là hợp cách. Tại cung Dần an Mệnh thì người tuổi Kỷ là hợp cách, đều là thượng cục.
Thiên Đồng tại Dần cung an Mệnh, người tuổi Giáp là hợp cách. Tại cung Mão an Mệnh, người tuổi Ất là hợp cách. Tại cung Tuất an Mệnh, người tuổi Đinh là hợp cách. Tại cung Tị an Mệnh thì người tuổi Bính Tân là hợp cách. Tại cung Hợi an Mệnh thì người tuổi Bính Nhâm là hợp cách, đều chủ phú quý].
Đoan chính Tử Vi Thái Dương tinh,
Tảo ngộ hiền phu tính khả bằng.
(Người nữ có Tử Vi, Thái Dương thủ mệnh là đoan chính,
Sớm gặp được chồng là hiền nhân để nương tựa).
[Tại ba cung Tý, Tị, Hợi mà an Mệnh, không có thêm sát tinh thì chủ phú quý.
(QNB chú: câu này sách chủ giải hơi mơ hồ. Độc giả lưu ý)].
Thái Dương Dần đáo Ngọ, ngộ cát chung thị phúc.
(Từ cung Dần thuận tới cung Ngọ, mà Thái Dương gặp cát tinh thì cả đời hưởng phúc).
[Ngọ cung an Mệnh có Thái Dương tọa thủ thì định là chủ phú quý, hãm địa bình thường.
(QNB chú: câu này sách chủ giải mơ hồ. Độc giả lưu ý)].
Tả Phụ Thiên Khôi vi phúc thọ,
Hữu Bật Thiên Tướng phúc lai lâm.
(Tả Phụ gặp Thiên Khôi là phúc thọ tăng,
Hữu Bật đi với Thiên Tướng là phúc sẽ tới).
[Bốn sao này ở các cung đắc địa, nếu như Thân Mệnh mà gặp chúng tọa thủ, thì định là chủ được hưởng phúc thọ vẻ vang, hưng thịnh.]
Lộc Tồn hậu trọng đa y thực,
Phủ Tướng triều viên mệnh tất vinh.
(Lộc Tồn phúc hậu và thận trọng có được giàu có,
Phủ Tướng chầu mệnh thì tất sẽ được hưng thịnh vẻ vang).
[Lộc Tồn thủ Mệnh ở các cung hễ thấy Tử Phủ Vũ Khúc tam hợp thủ chiếu thì không giàu thì cũng sẽ sang quý. Duy trường hợp Lộc ở Dần mà Mệnh ở Thân (khỉ) hay Lộc ở Thân (khỉ) mà Mệnh ở Dần, là "Lộc triều viên" cách, người tuổi Giáp Canh là thượng cục, người tuổi Tân Ất là thứ chi. Những người tuổi Bính Mậu Đinh Kỷ Nhâm Quý mà an Mệnh tại Tị Hợi Tý Ngọ thì không được đẹp.]
Tử Phủ Tị Hợi tương hỗ phụ,
Tả Hữu phù trì phúc tất sinh.
(Tử Phủ ở Tị Hợi có sự giúp đỡ qua lại cho nhau,
Được thêm Tả Hữu phù trì cho nữa thì phúc sẽ phát sinh).
[Ở Tị Hợi cung mà an Mệnh, gặp Tử Phủ Tả Hữu thủ, chiếu, xung, giáp, mà lại đồng thời có thêm hóa tinh cát tinh nhiều thì tất sẽ được phú quý vậy.]
Cự Môn Thiên Cơ vi phá đãng,
Thiên Lương Nguyệt diệu nữ mệnh bần.
(Nữ Mệnh mà có Cự Môn, Thiên Cơ thì sẽ phá đãng,
Có Thiên Lương, Thái Âm thì sẽ nghèo).
[Tại Dần Mão Thân mà an Mệnh gặp Cự Cơ, tuy là vượng địa, nhưng chung cuộc phúc không được trọn vẹn tốt đẹp, hoặc phú quý thì không tránh được tư tình, nếu như Cự với Cơ mà ở chỗ hãm địa thì là hạng phá đãng hạ tiện.
Tại Tị Hợi cung mà an Mệnh có Thiên Lương tọa thủ, tại Dần Thìn cung an Mệnh có Thái âm tọa thủ, đúng là về đứng đắn và y lộc thì khó mà toại nguyện được, nếu như các chỗ hãm địa khác thì là hạ tiện.]
Kình Dương Hỏa Tinh vi hạ tiện.
Văn Xương Văn Khúc phúc bất toàn.
[Nữ mệnh mà có Kình, Hỏa thủ Mệnh ở vượng cung thì cũng có thể (như vậy), nhưng hình khắc là không thể tránh được. Nếu như cư ở chỗ hãm địa lại có thêm sát tinh thì nếu không như thế thì chắc là chết yểu.
Văn Xương Văn Khúc hợp với Nam mà không hợp với Nữ].
Vận Thân Mệnh hạn kị tương phùng.
Canh kiêm Thái Tuế Quan Phù chí,
Quan phi khẩu thiệt quyết bất không.
Điếu Khách Tang Môn hựu tương ngộ,
Quản giáo tai bệnh lưỡng tương công.
(Cự Môn và hóa Kị thì đều chẳng đẹp chút nào,
Thân Mệnh và vận hạn rất e ngại gặp phải.
Nếu thêm Thái Tuế Quan Phù đến,
Quan tai khẩu thiệt nhất định không thể không có
Lại gặp cả Điếu Khách với Tang môn
Đảm bảo là vừa bị tai họa vừa bị bệnh tật).
[Nói đến Hóa Kị tinh là thần quản nhiều sự, ở khắp 12 cung mà Thân Mệnh hay nhị hạn gặp phải thì chủ không được tốt lành, huống hồ Cự Môn vốn cũng chẳng phải cát tinh gì, nếu vào chỗ hãm địa mà còn hóa Kị nữa thì sao mà xem là tốt được.
Nói đến Thái Tuế và Quan Phù vốn là thần của việc dấy lên kiện tụng, huống hồ thêm Cự Môn là sao của thị phi, lại đồng thời kiêm hóa ra Kị lâm vào thì chắc chắn việc quan tụng kiện cáo là không tránh được.
Nói đến Điếu Khách và Tang Môn vốn chủ về hình phạt tang chế, nhưng không gặp Thất Sát Thiên Hình Kình Dương thì có thể miễn được, (nếu gặp chúng) thì tai họa tật bệnh tất sẽ xảy ra vậy, huống chi Hóa Kị lại rất hay sinh ra bệnh tật tai ách nữa].
Thất Sát lâm Thân chung thị yểu,
Tham Lang nhập Mệnh tất vi xướng.
(Thất Sát hãm ở cung an Thân thì chết non,
Tham Lang hãm ở cung Mệnh thì làm ca kỹ).
[Thất Sát thủ ở Thân Mệnh mà hãm địa, thêm hung tinh thì cứ y như thế mà đoán.
Nếu như Tham Lang hãm thủ Mệnh, hoặc tại tam hợp chiếu Tham Lang hãm, dù không có thêm sát tinh, thì cũng chủ nam nữ đều dâm dật. Nếu như có thêm sát tinh thì nam chủ phiêu đãng còn nữ chủ dâm loạn.
Bí văn nói:
"Tham Lang tam hợp tương chiếu lâm
Dã học Hàn Thọ khứ thâu hương"
(Tham lang hãm ở tam hợp chiếu đến
Thì bắt chước Hàn Thọ mà đi làm trộm cắp phấn hương tư tình)].
Tâm hảo mệnh vi diệc chủ thọ,
Tâm độc mệnh cố diệc yểu vong.
(Tâm tốt thì mệnh nhỏ bé cũng được sống thọ,
Tâm ác độc thì mệnh vững chắc cũng chết non).
[Hai câu này, câu trước là thuyết giảng về âm đức, câu sau thì biện về xem phản chuyển ra ti tiện. Như Khổng Minh hỏa thiêu đội quân giáp mây mà cũng bị tổn thọ chính là vậy].
Kim nhân mệnh hữu thiên kim quý, vận khứ chi thì khởi cửu trường.
Số nội bao tàng đa thiểu lý, học giả tu đương tử tế tường.
(Người nay mệnh quý ngàn vàng vậy, Vận vụt trôi qua há mãi sao.
Trong số ít nhiều tàng lý lẽ, học giả xem kỹ để tỏ tường).
93. Chú giải Nữ mệnh Cốt Tủy Phú
Phủ Tướng chi tinh nữ mệnh triền,
tất đương tử quý dữ phu hiền.
(Trong triền độ của cung mệnh người nữ mà có Phủ, Tướng,
Thì tất sẽ có chồng là hiền nhân và có con là quý tử).
[Tại cung Ngọ mà an Mệnh có Thiên Phủ, Thiên Tướng tọa thủ, người tuổi Giáp là hợp cách. Ở cung Tý an Mệnh thì người tuổi Kỷ là hợp cách. Ở cung Thân an Mệnh thì người tuổi Canh là hợp cách, tất sẽ được hưởng thụ vinh hoa, được phong tặng vẻ vang vậy.]
Liêm Trinh thanh bạch năng tương thủ.
Cánh hữu Thiên Đồng diệc lý nhiên.
(Liêm Trinh đắc miếu vào nữ mệnh là năng giữ được sự trong sạch, thuần khiết.
Thêm cả sao Thiên Đồng cũng có cùng cái lý giống như vậy).
[Liêm Trinh tại Mùi cung an Mệnh thì người tuổi Giáp là hợp cách. Tại cung Thân (khỉ) an Mệnh thì người tuổi Quý là hợp cách. Tại cung Dần an Mệnh thì người tuổi Kỷ là hợp cách, đều là thượng cục.
Thiên Đồng tại Dần cung an Mệnh, người tuổi Giáp là hợp cách. Tại cung Mão an Mệnh, người tuổi Ất là hợp cách. Tại cung Tuất an Mệnh, người tuổi Đinh là hợp cách. Tại cung Tị an Mệnh thì người tuổi Bính Tân là hợp cách. Tại cung Hợi an Mệnh thì người tuổi Bính Nhâm là hợp cách, đều chủ phú quý].
Đoan chính Tử Vi Thái Dương tinh,
Tảo ngộ hiền phu tính khả bằng.
(Người nữ có Tử Vi, Thái Dương thủ mệnh là đoan chính,
Sớm gặp được chồng là hiền nhân để nương tựa).
[Tại ba cung Tý, Tị, Hợi mà an Mệnh, không có thêm sát tinh thì chủ phú quý.
(QNB chú: câu này sách chủ giải hơi mơ hồ. Độc giả lưu ý)].
Thái Dương Dần đáo Ngọ, ngộ cát chung thị phúc.
(Từ cung Dần thuận tới cung Ngọ, mà Thái Dương gặp cát tinh thì cả đời hưởng phúc).
[Ngọ cung an Mệnh có Thái Dương tọa thủ thì định là chủ phú quý, hãm địa bình thường.
(QNB chú: câu này sách chủ giải mơ hồ. Độc giả lưu ý)].
Tả Phụ Thiên Khôi vi phúc thọ,
Hữu Bật Thiên Tướng phúc lai lâm.
(Tả Phụ gặp Thiên Khôi là phúc thọ tăng,
Hữu Bật đi với Thiên Tướng là phúc sẽ tới).
[Bốn sao này ở các cung đắc địa, nếu như Thân Mệnh mà gặp chúng tọa thủ, thì định là chủ được hưởng phúc thọ vẻ vang, hưng thịnh.]
Lộc Tồn hậu trọng đa y thực,
Phủ Tướng triều viên mệnh tất vinh.
(Lộc Tồn phúc hậu và thận trọng có được giàu có,
Phủ Tướng chầu mệnh thì tất sẽ được hưng thịnh vẻ vang).
[Lộc Tồn thủ Mệnh ở các cung hễ thấy Tử Phủ Vũ Khúc tam hợp thủ chiếu thì không giàu thì cũng sẽ sang quý. Duy trường hợp Lộc ở Dần mà Mệnh ở Thân (khỉ) hay Lộc ở Thân (khỉ) mà Mệnh ở Dần, là "Lộc triều viên" cách, người tuổi Giáp Canh là thượng cục, người tuổi Tân Ất là thứ chi. Những người tuổi Bính Mậu Đinh Kỷ Nhâm Quý mà an Mệnh tại Tị Hợi Tý Ngọ thì không được đẹp.]
Tử Phủ Tị Hợi tương hỗ phụ,
Tả Hữu phù trì phúc tất sinh.
(Tử Phủ ở Tị Hợi có sự giúp đỡ qua lại cho nhau,
Được thêm Tả Hữu phù trì cho nữa thì phúc sẽ phát sinh).
[Ở Tị Hợi cung mà an Mệnh, gặp Tử Phủ Tả Hữu thủ, chiếu, xung, giáp, mà lại đồng thời có thêm hóa tinh cát tinh nhiều thì tất sẽ được phú quý vậy.]
Cự Môn Thiên Cơ vi phá đãng,
Thiên Lương Nguyệt diệu nữ mệnh bần.
(Nữ Mệnh mà có Cự Môn, Thiên Cơ thì sẽ phá đãng,
Có Thiên Lương, Thái Âm thì sẽ nghèo).
[Tại Dần Mão Thân mà an Mệnh gặp Cự Cơ, tuy là vượng địa, nhưng chung cuộc phúc không được trọn vẹn tốt đẹp, hoặc phú quý thì không tránh được tư tình, nếu như Cự với Cơ mà ở chỗ hãm địa thì là hạng phá đãng hạ tiện.
Tại Tị Hợi cung mà an Mệnh có Thiên Lương tọa thủ, tại Dần Thìn cung an Mệnh có Thái âm tọa thủ, đúng là về đứng đắn và y lộc thì khó mà toại nguyện được, nếu như các chỗ hãm địa khác thì là hạ tiện.]
Kình Dương Hỏa Tinh vi hạ tiện.
Văn Xương Văn Khúc phúc bất toàn.
[Nữ mệnh mà có Kình, Hỏa thủ Mệnh ở vượng cung thì cũng có thể (như vậy), nhưng hình khắc là không thể tránh được. Nếu như cư ở chỗ hãm địa lại có thêm sát tinh thì nếu không như thế thì chắc là chết yểu.
Văn Xương Văn Khúc hợp với Nam mà không hợp với Nữ].
Thanked by 5 Members:
|
|
#40
Gửi vào 11/01/2015 - 12:54
Vũ Khúc chi tinh vi quả tú,
Phá Quân nhất diệu tính nan minh.
(Vũ Khúc vào nữ mệnh thì dễ cô quả,
Phá Quân là một sao mà tính chất rất khó minh tường).
[Vũ Khúc hợp với Nam mà không hợp với Nữ, nếu như gặp "Thái Âm đắc lệnh" ở tam phương có cát tinh củng chiếu thì có thể là nữ tướng (QNB chú: chỗ này theo tôi nên hiểu cụm "Thái âm đắc lệnh" kia là được mùa, được tháng sinh lúc trăng đang đẹp, trên lá số thì Thái Âm cũng miếu vượng). Nếu như hãm địa mà gặp Xương Khúc và thêm sát tinh thì cô quả.
Phá Quân là sao cô độc dâm dật không phù hợp với nữ Mệnh, thêm tứ sát thì tất vì gian tình mà mưu hại chồng, vì ghen tuông mà hại con, chẳng những là bọn nô tỳ mà còn có thể là ca kỹ vậy].
Tham Lang nội ngoan đa dâm dật,
Thất Sát trầm ngâm phúc bất vinh.
(Tham Lang làm vợ hung ác lại còn đa dâm,
Thất Sát thì do dự, ơ hờ mà không được sinh phúc).
[Tham Lang có tên là Đào Hoa, là sao háo sắc, không dung tha cho bọn tỳ thiếp, tâm có tật ghen tuông, vì gian tình mà hại chồng hại con, thậm chí vô cùng dâm dật.
Thất Sát là tướng tinh, nếu cư miếu vượng thì chủ là nữ tướng.
Bí văn nói:
"Cơ Nguyệt Dần Thân nữ mệnh phùng
Ác sát gia chi dâm xảo dung
Tiện hữu cát hóa chung bất mỹ
Thiên phòng thị phụng chủ nhân ông"
(Nữ mệnh Cơ Âm ở Dần Thân
Gặp thêm ác sát đẹp mà dâm
Dẫu cho cát hóa chẳng vẹn đẹp
Làm thiếp hầu hạ lão chủ nhân)
(QNB chú: câu này sách chú giải mơ hồ. Thậm chí có sự lắp ghép sai phần chú giải, lấy bài bí văn của Cơ Âm mà nói về Thất Sát. Độc giả lưu ý vậy).]
Thập can hóa Lộc tối vinh xương
Nữ mệnh phùng chi đại cát xương
Cánh đắc Lộc Tồn tương tấu hợp
Vượng phu ích tử thụ ân quang.
(Mười can hóa Lộc rất vinh xương
Nữ mệnh gặp là đại cát tường
Thêm gặp Lộc Tồn xung thủ hợp
Vượng phu ích tử vua phong thưởng).
[Như Mệnh tọa Hóa Lộc, lại được Lộc Tồn xung hợp, hoặc hạn gặp Lộc Tồn đồng cung, là chủ quý, phong hiển mệnh phụ phu nhân, cũng chủ đại phú, vượng phu ích tử.]
Hỏa Linh Dương Đà cập Cự Môn
Thiên Không Địa Kiếp hựu tương lâm
Tham Lang Thất Sát Liêm Trinh tú
Vũ Khúc gia lâm khắc hại xâm.
(Kình Đà Linh Hỏa Cự Môn tinh
Địa Kiếp Thiên Không cũng rập rình
Thất Sát Tham Lang Liêm cũng thế
Cùng là Vũ Khúc chủ khắc hình).
[Đại để các sao ấy thì nữ mệnh không hợp gặp nó, như chỉ gặp một hai sao thì cũng dễ chủ dâm tiện, nếu thấy cả lũ thì chủ hạ tiện bần yểu chi mệnh vậy.]
Tam phương tứ chính hiềm phùng phá
Cánh tại phu cung họa hoạn thâm
Nhược thị bản cung vô chính diệu
Tất chủ sinh ly khắc hại chân.
(Tam phương tứ chính ngại gặp phá
Đóng ở phu cung họa hoạn nhiều
Nếu mà bản cung vô chính diệu
Tất chủ sinh ly khắc hại rõ).
[Các sao ấy (ở đoạn thơ bên trên) đến xung phá, duy Thất Sát ở tam phương tứ chính Thân Mệnh hoặc Phu cung đều không nên gặp, gặp thì cứ theo đó mà đoán.
Các câu phú ấy đều là phép khán mệnh, điều nào cũng có ứng nghiệm, cần phải tinh tế mà nghiền ngẫm, nhớ cho kỹ, thì phú quý bần tiện vinh hoa thọ yểu có thể nắm rõ trong lòng vậy.]
94. Chú giải Thái Vi Phú
Lộc phùng xung phá, cát dã thành hung
(Lộc gặp xung phá thì cát cũng thành hung)
[Giả như Thân Mệnh cung gặp Lộc Tồn, hoặc trong tam hợp có Lộc, tiếp đến lại bị gặp Kị tinh xung phá, vì dễ phản chuyển thành điềm hung.
Lại như hạn bộ đến Lộc vị, mà lại gặp các hung tinh cùng tụ tập, cũng đoán là hung vậy.]
Mã ngộ Không Vong, chung thân bôn tẩu
(Thiên Mã gặp Không Vong thì cả đời bôn ba, lưu lạc)
[Giả như người sinh năm Giáp, có Triệt Lộ Không Vong tại cung Thân (khỉ), bàng Không tại Dậu. Nếu an Mệnh tại cung Thân, chủ nhân cả đời bôn tẩu, hoặc là hợp với tăng đạo.
Hễ mà Mã "có yên có cương" tất sẽ là điều lành, tất sẽ có sự dừng lại kìm giữ lại (cho đỡ bị bôn tẩu), còn nếu như không có dây cương rào cản thì tất sẽ là "tán Mã" (ngựa chạy lung tung).
QNB chú: không rõ cụm từ "có yên có cương" trong câu trên là muốn ám chỉ cái gì. Có lẽ muốn nói đến sự chế hóa nào đó đối với sao Thiên Mã trong cách cục lạc Không Vong này. Có thể chữ “Lan” là viết tắt của sao Lan Can mà an theo vòng Tuế Tiền Thần Sát!!! Nguyên văn câu ấy như sau:凡馬有闌有鞍則為吉, 則有停止, 無闌者則為散馬 - Phàm mã hữu lan hữu an tắc vi cát, tắc hữu đình chỉ, vô lan giả tắc vi tán mã.]
Sinh phùng bại địa, phát dã hư hoa.
Tuyệt xứ phùng sinh, hoa nhi bất bại.
("Sinh" mà gặp chỗ Bại địa thì có phát cũng chủ hư hão, sớm hao tán
ở chỗ Tuyệt mà gặp "Sinh", thì tuy ban đầu yếu hao nhưng không không bại được - càng về cuối càng tốt)
[Giả như năm Nạp Âm là Thủy / Thổ, có Trường Sinh tại cung Thân, mà Thân lại chính là kim tinh là chủ của bản cung, nếu như Mệnh an tại Dậu, (thì) Dậu là chỗ Bại địa của Thủy / Thổ, lại thêm các Hình Kị Hao hung tinh thì tuy phát cũng chủ hư hão, chóng hao tàn.
Giả như người Thủy / Thổ mà an Mệnh tại Tị, (thì) Tị vị là chỗ đất của Tuyệt địa của Thủy / Thổ, tiếp đến lại đắc Kim tinh sinh ở Tị, Kim lại đắc sinh Thủy nên không bị Tuyệt, ấy là cái lý mẹ đến cứu giúp con vậy. Ở trong Tị có tàng chứa Bính hỏa thừa vượng, Hỏa lại sinh Thổ, (cho nên) tuy Dần Thân Tị Hợi là "tứ Tuyệt" nhưng lại cũng chính là "tứ Sinh", điển cố viết rằng:
"Ngũ hành Tuyệt xứ tức thị thai nguyên
Sinh nhật phùng chi hựu danh thụ khí"
(Chỗ Tuyệt xứ ấy cũng chính là Thai Nguyên vậy, sinh vào chỗ ấy là có thêm được khí bẩm thụ).]
Tinh lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ.
Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa chi lý
(Sao đã lâm vào nơi miếu vượng, lại xét xem then chốt của sự sinh khắc
Mệnh đóng vào cường cung, cần quan sát kỹ cái lý của sự chế hóa)
[Giả như người có Bản Mệnh là Thủy Thổ có Mộ Khố tại Thìn, nếu lại có Tài Bạch cũng đóng ở Thìn thì đó được gọi là Tài Khố, còn nếu Quan đóng ở Thìn thì đó là Quan Khố, Lộc Tồn đóng ở Thìn thì là Thiên Khố??!!, Hao Sát mà đóng ở Thìn thì là Không Khố, với Thiên Di đóng ở đó là Phá Khố cũng là Kiếp Khố. Phàm cứ là Thìn Tuất Sửu Mùi vị thì coi là tứ Khố, chúng cũng lấy Nạp âm như trên mà xét.]
Nhật nguyệt tối hiềm phản bối.
(Nhật Nguyệt rất ghét bị quay lưng lại - tức ý muốn nói lạc hãm, không sáng sủa)
[Giả như Nhật tại Dậu, Tuất, Hợi, Tý, Sửu, còn Nguyệt tại Mão Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, đều là phản bối. Nhưng lại cần xem Thượng Huyền, Hạ Huyền ra sao, như Nguyệt tại ngày Thượng Huyền (tức đêm mồng 7 rạng ngày mồng 8 âm lịch) tới ngày Vọng (tức ngày Rằm) thì cát lợi, còn tại ngày Hạ Huyền (tức đêm 22 rạng ngày 23 âm lịch) tới ngày Hối (tức ngày cuối tháng, trước ngày mồng 1 - ngày Sóc) thì coi là hung.
Nếu như Nhật Nguyệt đồng cung thì xem người ấy sinh giờ nào, Nhật thì hợp với người sinh ban ngày, Nguyệt thì hợp với người sinh ban đêm, theo đó mới có thể mà luận họa phúc được.
Nhật Nguyệt phản bối thì đều chủ phụ mẫu không đắc lực, hoặc là vô tình vô nghĩa.]
Phá Quân nhất diệu tính nan minh.
(Vũ Khúc vào nữ mệnh thì dễ cô quả,
Phá Quân là một sao mà tính chất rất khó minh tường).
[Vũ Khúc hợp với Nam mà không hợp với Nữ, nếu như gặp "Thái Âm đắc lệnh" ở tam phương có cát tinh củng chiếu thì có thể là nữ tướng (QNB chú: chỗ này theo tôi nên hiểu cụm "Thái âm đắc lệnh" kia là được mùa, được tháng sinh lúc trăng đang đẹp, trên lá số thì Thái Âm cũng miếu vượng). Nếu như hãm địa mà gặp Xương Khúc và thêm sát tinh thì cô quả.
Phá Quân là sao cô độc dâm dật không phù hợp với nữ Mệnh, thêm tứ sát thì tất vì gian tình mà mưu hại chồng, vì ghen tuông mà hại con, chẳng những là bọn nô tỳ mà còn có thể là ca kỹ vậy].
Tham Lang nội ngoan đa dâm dật,
Thất Sát trầm ngâm phúc bất vinh.
(Tham Lang làm vợ hung ác lại còn đa dâm,
Thất Sát thì do dự, ơ hờ mà không được sinh phúc).
[Tham Lang có tên là Đào Hoa, là sao háo sắc, không dung tha cho bọn tỳ thiếp, tâm có tật ghen tuông, vì gian tình mà hại chồng hại con, thậm chí vô cùng dâm dật.
Thất Sát là tướng tinh, nếu cư miếu vượng thì chủ là nữ tướng.
Bí văn nói:
"Cơ Nguyệt Dần Thân nữ mệnh phùng
Ác sát gia chi dâm xảo dung
Tiện hữu cát hóa chung bất mỹ
Thiên phòng thị phụng chủ nhân ông"
(Nữ mệnh Cơ Âm ở Dần Thân
Gặp thêm ác sát đẹp mà dâm
Dẫu cho cát hóa chẳng vẹn đẹp
Làm thiếp hầu hạ lão chủ nhân)
(QNB chú: câu này sách chú giải mơ hồ. Thậm chí có sự lắp ghép sai phần chú giải, lấy bài bí văn của Cơ Âm mà nói về Thất Sát. Độc giả lưu ý vậy).]
Thập can hóa Lộc tối vinh xương
Nữ mệnh phùng chi đại cát xương
Cánh đắc Lộc Tồn tương tấu hợp
Vượng phu ích tử thụ ân quang.
(Mười can hóa Lộc rất vinh xương
Nữ mệnh gặp là đại cát tường
Thêm gặp Lộc Tồn xung thủ hợp
Vượng phu ích tử vua phong thưởng).
[Như Mệnh tọa Hóa Lộc, lại được Lộc Tồn xung hợp, hoặc hạn gặp Lộc Tồn đồng cung, là chủ quý, phong hiển mệnh phụ phu nhân, cũng chủ đại phú, vượng phu ích tử.]
Hỏa Linh Dương Đà cập Cự Môn
Thiên Không Địa Kiếp hựu tương lâm
Tham Lang Thất Sát Liêm Trinh tú
Vũ Khúc gia lâm khắc hại xâm.
(Kình Đà Linh Hỏa Cự Môn tinh
Địa Kiếp Thiên Không cũng rập rình
Thất Sát Tham Lang Liêm cũng thế
Cùng là Vũ Khúc chủ khắc hình).
[Đại để các sao ấy thì nữ mệnh không hợp gặp nó, như chỉ gặp một hai sao thì cũng dễ chủ dâm tiện, nếu thấy cả lũ thì chủ hạ tiện bần yểu chi mệnh vậy.]
Tam phương tứ chính hiềm phùng phá
Cánh tại phu cung họa hoạn thâm
Nhược thị bản cung vô chính diệu
Tất chủ sinh ly khắc hại chân.
(Tam phương tứ chính ngại gặp phá
Đóng ở phu cung họa hoạn nhiều
Nếu mà bản cung vô chính diệu
Tất chủ sinh ly khắc hại rõ).
[Các sao ấy (ở đoạn thơ bên trên) đến xung phá, duy Thất Sát ở tam phương tứ chính Thân Mệnh hoặc Phu cung đều không nên gặp, gặp thì cứ theo đó mà đoán.
Các câu phú ấy đều là phép khán mệnh, điều nào cũng có ứng nghiệm, cần phải tinh tế mà nghiền ngẫm, nhớ cho kỹ, thì phú quý bần tiện vinh hoa thọ yểu có thể nắm rõ trong lòng vậy.]
94. Chú giải Thái Vi Phú
Lộc phùng xung phá, cát dã thành hung
(Lộc gặp xung phá thì cát cũng thành hung)
[Giả như Thân Mệnh cung gặp Lộc Tồn, hoặc trong tam hợp có Lộc, tiếp đến lại bị gặp Kị tinh xung phá, vì dễ phản chuyển thành điềm hung.
Lại như hạn bộ đến Lộc vị, mà lại gặp các hung tinh cùng tụ tập, cũng đoán là hung vậy.]
Mã ngộ Không Vong, chung thân bôn tẩu
(Thiên Mã gặp Không Vong thì cả đời bôn ba, lưu lạc)
[Giả như người sinh năm Giáp, có Triệt Lộ Không Vong tại cung Thân (khỉ), bàng Không tại Dậu. Nếu an Mệnh tại cung Thân, chủ nhân cả đời bôn tẩu, hoặc là hợp với tăng đạo.
Hễ mà Mã "có yên có cương" tất sẽ là điều lành, tất sẽ có sự dừng lại kìm giữ lại (cho đỡ bị bôn tẩu), còn nếu như không có dây cương rào cản thì tất sẽ là "tán Mã" (ngựa chạy lung tung).
QNB chú: không rõ cụm từ "có yên có cương" trong câu trên là muốn ám chỉ cái gì. Có lẽ muốn nói đến sự chế hóa nào đó đối với sao Thiên Mã trong cách cục lạc Không Vong này. Có thể chữ “Lan” là viết tắt của sao Lan Can mà an theo vòng Tuế Tiền Thần Sát!!! Nguyên văn câu ấy như sau:凡馬有闌有鞍則為吉, 則有停止, 無闌者則為散馬 - Phàm mã hữu lan hữu an tắc vi cát, tắc hữu đình chỉ, vô lan giả tắc vi tán mã.]
Sinh phùng bại địa, phát dã hư hoa.
Tuyệt xứ phùng sinh, hoa nhi bất bại.
("Sinh" mà gặp chỗ Bại địa thì có phát cũng chủ hư hão, sớm hao tán
ở chỗ Tuyệt mà gặp "Sinh", thì tuy ban đầu yếu hao nhưng không không bại được - càng về cuối càng tốt)
[Giả như năm Nạp Âm là Thủy / Thổ, có Trường Sinh tại cung Thân, mà Thân lại chính là kim tinh là chủ của bản cung, nếu như Mệnh an tại Dậu, (thì) Dậu là chỗ Bại địa của Thủy / Thổ, lại thêm các Hình Kị Hao hung tinh thì tuy phát cũng chủ hư hão, chóng hao tàn.
Giả như người Thủy / Thổ mà an Mệnh tại Tị, (thì) Tị vị là chỗ đất của Tuyệt địa của Thủy / Thổ, tiếp đến lại đắc Kim tinh sinh ở Tị, Kim lại đắc sinh Thủy nên không bị Tuyệt, ấy là cái lý mẹ đến cứu giúp con vậy. Ở trong Tị có tàng chứa Bính hỏa thừa vượng, Hỏa lại sinh Thổ, (cho nên) tuy Dần Thân Tị Hợi là "tứ Tuyệt" nhưng lại cũng chính là "tứ Sinh", điển cố viết rằng:
"Ngũ hành Tuyệt xứ tức thị thai nguyên
Sinh nhật phùng chi hựu danh thụ khí"
(Chỗ Tuyệt xứ ấy cũng chính là Thai Nguyên vậy, sinh vào chỗ ấy là có thêm được khí bẩm thụ).]
Tinh lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ.
Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa chi lý
(Sao đã lâm vào nơi miếu vượng, lại xét xem then chốt của sự sinh khắc
Mệnh đóng vào cường cung, cần quan sát kỹ cái lý của sự chế hóa)
[Giả như người có Bản Mệnh là Thủy Thổ có Mộ Khố tại Thìn, nếu lại có Tài Bạch cũng đóng ở Thìn thì đó được gọi là Tài Khố, còn nếu Quan đóng ở Thìn thì đó là Quan Khố, Lộc Tồn đóng ở Thìn thì là Thiên Khố??!!, Hao Sát mà đóng ở Thìn thì là Không Khố, với Thiên Di đóng ở đó là Phá Khố cũng là Kiếp Khố. Phàm cứ là Thìn Tuất Sửu Mùi vị thì coi là tứ Khố, chúng cũng lấy Nạp âm như trên mà xét.]
Nhật nguyệt tối hiềm phản bối.
(Nhật Nguyệt rất ghét bị quay lưng lại - tức ý muốn nói lạc hãm, không sáng sủa)
[Giả như Nhật tại Dậu, Tuất, Hợi, Tý, Sửu, còn Nguyệt tại Mão Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, đều là phản bối. Nhưng lại cần xem Thượng Huyền, Hạ Huyền ra sao, như Nguyệt tại ngày Thượng Huyền (tức đêm mồng 7 rạng ngày mồng 8 âm lịch) tới ngày Vọng (tức ngày Rằm) thì cát lợi, còn tại ngày Hạ Huyền (tức đêm 22 rạng ngày 23 âm lịch) tới ngày Hối (tức ngày cuối tháng, trước ngày mồng 1 - ngày Sóc) thì coi là hung.
Nếu như Nhật Nguyệt đồng cung thì xem người ấy sinh giờ nào, Nhật thì hợp với người sinh ban ngày, Nguyệt thì hợp với người sinh ban đêm, theo đó mới có thể mà luận họa phúc được.
Nhật Nguyệt phản bối thì đều chủ phụ mẫu không đắc lực, hoặc là vô tình vô nghĩa.]
Thanked by 5 Members:
|
|
#41
Gửi vào 11/01/2015 - 13:10
Lộc Mã tối hỉ giao trì.
(Lộc Mã rất mừng giao kết với nhau)
[Giả như người sinh năm Giáp thì Lộc tại Dần, mà người tuổi Thân Tý Thìn thì Mã cũng tại Dần, đó là Lộc Mã giao trì. Mệnh Thân cư ở chỗ Lộc Mã đồng hương, thêm cát tinh thì gọi là tuấn mã, gặp Hình Sát thì gọi là phụ thi mã (ngựa chở xác), với Hỏa Tinh (đắc) thì gọi là chiến mã, gặp Không Vong thì là khốn mã (ngựa vào chỗ khốn cùng), ở tuyệt địa thì gọi là tử mã (ngựa chết toi), với Hóa Kị đồng cung thì gọi là bệnh mã (ngựa ốm bệnh), đều chủ bôn ba lao lực vậy.]
Không Vong định yếu đắc dụng, Thiên Không tối vi khẩn yếu.
(Xét Không Vong thì phải xác định xem cốt yếu ở chỗ nào nó đắc dụng, Thiên Không thì rất quan trọng)
QNB chú: Độc giả lưu ý, sách này vốn có cả sao Thiên Không (trước Thái Tuế) và có cả sao Địa Không (cặp với Địa Kiếp), đồng thời một số câu phú mà trong TVĐS Toàn Thư dùng "Thiên Không" thì sách này đều thấy ghi là Địa Không. Nhưng riêng câu này thì vẫn ghi là "Thiên Không" giống như trong TVĐS Toàn Thư.
[Giả như Thân Mệnh cung ở chỗ Không Vong, duy chỉ có Kim Không tắc minh (Kim gặp Không thì sáng), Hỏa Không tắc phát (Hỏa gặp Không thì phát), nhị hạn mà gặp chúng thì phản chuyển thành phúc mà luận. Nếu như Thủy Không tắc phiếm (Thủy gặp Không thì lan tràn lụt lội), Mộc Không tắc chiết (Mộc gặp Không thì gãy), Thổ Không tắc hãm (Thổ gặp Không thì hãm, trũng lở), là họa vậy.]
Nhược cư bại địa, chuyên khán phù trì chi diệu, đại hữu kỳ công.
(Nếu cư vào chỗ bại địa thì cần xem chuyên sâu ở các sao phò trợ, nếu có nhiều thì thành công kỳ lạ)
[Giả như Mệnh tại bại tuyệt địa mà gặp Lộc Tồn, Lộc chủ phò trợ cát vậy.]
Tử Vi Thiên Phủ, toàn ỷ Phụ Bật chi công
(Tử Phủ muốn thành công phải hoàn toàn nhờ vào trợ giúp của phù tá tinh Tả Phụ, Hữu Bật)
[Giả như Mệnh gặp Tử Phủ, lại đắc Phụ Bật thủ chiếu thì cả đời phú quý. Tử Vi và Thiên Phủ là chủ của Nam Bắc đẩu, còn Tả Phụ, Hữu Bật là phụ tá vậy.]
Thất Sát Phá Quân chuyên ỷ Dương Linh chi ngược.
(Sát Phá thường nương theo Kình (đà) Linh (hỏa) mà làm điều mãnh liệt, hung tàn).
[Giả như Mệnh gặp Thất Sát, Phá Quân, lại hội với (Kình) Dương, Linh (Tinh) thủ chiếu, thì Kình Dương Linh Tinh đều trợ giúp các sự ác ngược của sao vậy.]
Chư tinh cát phùng hung dã cát,
chư tinh hung phùng cát dã hung.
(Các sao Cát mà gặp nhiều các sao Hung thì tan rã mất tính cát,
các sao Hung mà gặp nhiều các sao Cát thì tan rã mất tính hung).
[Giả như Thân Mệnh tam phương gặp cát nhiều hung ít thì tất sẽ cát, gặp hung nhiều cát ít thì tất sẽ hung. Nhưng quan trọng xem cát hung tinh đắc viên hay thất hãm như thế nào và xem sinh khắc chế hóa ra sao thì mới có thể định được họa phúc.]
Phụ Bật giáp Đế vi thượng phẩm,
Đào Hoa phạm chủ vi chí dâm.
(Phụ Bật giáp Tử Vi là cách rất đẹp
Tham Lang - chánh đào hoa tinh - mà xâm phạm chỗ của Tử Vi thì rất dâm)
[Giả như Mệnh Thân hai cung gặp Tử Vi với Tham Lang đồng viên, thì nam nữ gian dâm, dụng kế thi cơ (mưu kế, khéo biến trá), nếu như Phụ Bật giáp Đế, Tham Lang gặp chế hóa, thì không luận là như vậy.]
Quân thần khánh hội, tài thiện kinh bang
(Có cách Tử Vi hội họp được các cát tinh phù tá thì là kẻ tài giỏi kinh bang tế thế).
[Giả như Tử Vi thủ mệnh đắc Thiên Tướng, Xương Khúc, Thiên Phủ đắc Thiên Đồng Thiên Lương tương trợ, Tử Vi đắc giáp, ấy là Quân thần khánh hội, gặp thì vô cùng phú quý. Nhưng có Kim tinh với Hình Kị Tù Hao tụ tập thì là nô khinh chủ, thần chửi vua, phản chuyển thành họa loạn vậy.]
Khôi Việt đồng hành, vị cư thai phụ
Lộc Văn củng mệnh, phú nhi thả quý
(Có cách tọa quý hướng quý thì vị trí quan tước cỡ Tam Công).
(Được cách Lộc Văn chầu Mệnh là vừa phú vừa sang quý).
[Giả như Khôi Việt thủ Thân Mệnh, lại kiêm đắc Quyền Lộc Xương Khúc cát diệu đến chầu thì không thể không phú quý được, nhưng nếu như có Hình Kị tương xung thì bình thường, lại chỉ hợp với tăng đạo.]
Nhật Nguyệt giáp tài, bất quyền tắc phú
(Có cách Nhật Nguyệt giáp Tài thì chẳng quyền cao thì cũng giàu to).
[Giả như Nhật Nguyệt giáp Tài Bạch, Mệnh cung, lại đắc cát diệu tương trợ thì tất sẽ phú quý toàn mỹ, nếu thêm Kình Đà Hình Kị xung chiếu thì hợp tăng đạo, làm người thường sẽ không được đẹp.]
Mã đầu đới kiếm, trấn ngữ biên cương
(Có cách Mã đầu đới kiếm thì giỏi trấn giữ, bảo vệ biên cương).
[Giả như Ngọ cung an Mệnh, có Thiên Đồng, Tham Lang, Kình Dương, người tuổi Bính tuổi Mậu gặp là hóa cát, tuy có Kình Dương ở Mệnh nhưng cũng luận là đẹp, phú quý đều có thể hứa hẹn, chỉ là không được bền mà thôi.]
Hình Tù giáp Ấn, hình trượng duy ti
(Có cách Hình Tù giáp Ấn thì chủ quản ti hành pháp, hoặc bị xử phạt đòn roi).
[Giả như Thân Mệnh có Thiên Tướng, tiếp đó có Kình Dương, Liêm Trinh kề bên thì chủ nhân gặp quan bị thụ hình trượng đòn roi, chung thân không phát đạt, chỉ thích hợp với tăng đạo.]
Thiện Ấm triều cương, nhân từ chi trường
(Có cách Cơ Lương chầu mệnh thì là người nhân từ).
[Giả như Thiên Cơ, Thiên Lương thủ ở Thân Mệnh, lại kiêm cả có hóa cát tương trợ, có thể luận là quan quý vậy, thêm Hình Kị Hao Sát, thì hợp với tăng đạo, còn người phàm tục thì không được đẹp.]
(Lộc Mã rất mừng giao kết với nhau)
[Giả như người sinh năm Giáp thì Lộc tại Dần, mà người tuổi Thân Tý Thìn thì Mã cũng tại Dần, đó là Lộc Mã giao trì. Mệnh Thân cư ở chỗ Lộc Mã đồng hương, thêm cát tinh thì gọi là tuấn mã, gặp Hình Sát thì gọi là phụ thi mã (ngựa chở xác), với Hỏa Tinh (đắc) thì gọi là chiến mã, gặp Không Vong thì là khốn mã (ngựa vào chỗ khốn cùng), ở tuyệt địa thì gọi là tử mã (ngựa chết toi), với Hóa Kị đồng cung thì gọi là bệnh mã (ngựa ốm bệnh), đều chủ bôn ba lao lực vậy.]
Không Vong định yếu đắc dụng, Thiên Không tối vi khẩn yếu.
(Xét Không Vong thì phải xác định xem cốt yếu ở chỗ nào nó đắc dụng, Thiên Không thì rất quan trọng)
QNB chú: Độc giả lưu ý, sách này vốn có cả sao Thiên Không (trước Thái Tuế) và có cả sao Địa Không (cặp với Địa Kiếp), đồng thời một số câu phú mà trong TVĐS Toàn Thư dùng "Thiên Không" thì sách này đều thấy ghi là Địa Không. Nhưng riêng câu này thì vẫn ghi là "Thiên Không" giống như trong TVĐS Toàn Thư.
[Giả như Thân Mệnh cung ở chỗ Không Vong, duy chỉ có Kim Không tắc minh (Kim gặp Không thì sáng), Hỏa Không tắc phát (Hỏa gặp Không thì phát), nhị hạn mà gặp chúng thì phản chuyển thành phúc mà luận. Nếu như Thủy Không tắc phiếm (Thủy gặp Không thì lan tràn lụt lội), Mộc Không tắc chiết (Mộc gặp Không thì gãy), Thổ Không tắc hãm (Thổ gặp Không thì hãm, trũng lở), là họa vậy.]
Nhược cư bại địa, chuyên khán phù trì chi diệu, đại hữu kỳ công.
(Nếu cư vào chỗ bại địa thì cần xem chuyên sâu ở các sao phò trợ, nếu có nhiều thì thành công kỳ lạ)
[Giả như Mệnh tại bại tuyệt địa mà gặp Lộc Tồn, Lộc chủ phò trợ cát vậy.]
Tử Vi Thiên Phủ, toàn ỷ Phụ Bật chi công
(Tử Phủ muốn thành công phải hoàn toàn nhờ vào trợ giúp của phù tá tinh Tả Phụ, Hữu Bật)
[Giả như Mệnh gặp Tử Phủ, lại đắc Phụ Bật thủ chiếu thì cả đời phú quý. Tử Vi và Thiên Phủ là chủ của Nam Bắc đẩu, còn Tả Phụ, Hữu Bật là phụ tá vậy.]
Thất Sát Phá Quân chuyên ỷ Dương Linh chi ngược.
(Sát Phá thường nương theo Kình (đà) Linh (hỏa) mà làm điều mãnh liệt, hung tàn).
[Giả như Mệnh gặp Thất Sát, Phá Quân, lại hội với (Kình) Dương, Linh (Tinh) thủ chiếu, thì Kình Dương Linh Tinh đều trợ giúp các sự ác ngược của sao vậy.]
Chư tinh cát phùng hung dã cát,
chư tinh hung phùng cát dã hung.
(Các sao Cát mà gặp nhiều các sao Hung thì tan rã mất tính cát,
các sao Hung mà gặp nhiều các sao Cát thì tan rã mất tính hung).
[Giả như Thân Mệnh tam phương gặp cát nhiều hung ít thì tất sẽ cát, gặp hung nhiều cát ít thì tất sẽ hung. Nhưng quan trọng xem cát hung tinh đắc viên hay thất hãm như thế nào và xem sinh khắc chế hóa ra sao thì mới có thể định được họa phúc.]
Phụ Bật giáp Đế vi thượng phẩm,
Đào Hoa phạm chủ vi chí dâm.
(Phụ Bật giáp Tử Vi là cách rất đẹp
Tham Lang - chánh đào hoa tinh - mà xâm phạm chỗ của Tử Vi thì rất dâm)
[Giả như Mệnh Thân hai cung gặp Tử Vi với Tham Lang đồng viên, thì nam nữ gian dâm, dụng kế thi cơ (mưu kế, khéo biến trá), nếu như Phụ Bật giáp Đế, Tham Lang gặp chế hóa, thì không luận là như vậy.]
Quân thần khánh hội, tài thiện kinh bang
(Có cách Tử Vi hội họp được các cát tinh phù tá thì là kẻ tài giỏi kinh bang tế thế).
[Giả như Tử Vi thủ mệnh đắc Thiên Tướng, Xương Khúc, Thiên Phủ đắc Thiên Đồng Thiên Lương tương trợ, Tử Vi đắc giáp, ấy là Quân thần khánh hội, gặp thì vô cùng phú quý. Nhưng có Kim tinh với Hình Kị Tù Hao tụ tập thì là nô khinh chủ, thần chửi vua, phản chuyển thành họa loạn vậy.]
Khôi Việt đồng hành, vị cư thai phụ
Lộc Văn củng mệnh, phú nhi thả quý
(Có cách tọa quý hướng quý thì vị trí quan tước cỡ Tam Công).
(Được cách Lộc Văn chầu Mệnh là vừa phú vừa sang quý).
[Giả như Khôi Việt thủ Thân Mệnh, lại kiêm đắc Quyền Lộc Xương Khúc cát diệu đến chầu thì không thể không phú quý được, nhưng nếu như có Hình Kị tương xung thì bình thường, lại chỉ hợp với tăng đạo.]
Nhật Nguyệt giáp tài, bất quyền tắc phú
(Có cách Nhật Nguyệt giáp Tài thì chẳng quyền cao thì cũng giàu to).
[Giả như Nhật Nguyệt giáp Tài Bạch, Mệnh cung, lại đắc cát diệu tương trợ thì tất sẽ phú quý toàn mỹ, nếu thêm Kình Đà Hình Kị xung chiếu thì hợp tăng đạo, làm người thường sẽ không được đẹp.]
Mã đầu đới kiếm, trấn ngữ biên cương
(Có cách Mã đầu đới kiếm thì giỏi trấn giữ, bảo vệ biên cương).
[Giả như Ngọ cung an Mệnh, có Thiên Đồng, Tham Lang, Kình Dương, người tuổi Bính tuổi Mậu gặp là hóa cát, tuy có Kình Dương ở Mệnh nhưng cũng luận là đẹp, phú quý đều có thể hứa hẹn, chỉ là không được bền mà thôi.]
Hình Tù giáp Ấn, hình trượng duy ti
(Có cách Hình Tù giáp Ấn thì chủ quản ti hành pháp, hoặc bị xử phạt đòn roi).
[Giả như Thân Mệnh có Thiên Tướng, tiếp đó có Kình Dương, Liêm Trinh kề bên thì chủ nhân gặp quan bị thụ hình trượng đòn roi, chung thân không phát đạt, chỉ thích hợp với tăng đạo.]
Thiện Ấm triều cương, nhân từ chi trường
(Có cách Cơ Lương chầu mệnh thì là người nhân từ).
[Giả như Thiên Cơ, Thiên Lương thủ ở Thân Mệnh, lại kiêm cả có hóa cát tương trợ, có thể luận là quan quý vậy, thêm Hình Kị Hao Sát, thì hợp với tăng đạo, còn người phàm tục thì không được đẹp.]
Thanked by 5 Members:
|
|
#42
Gửi vào 11/01/2015 - 13:46
Quý nhập quý hương, phùng chi phú quý
(Quý tinh mà nhập vào chỗ quý thì được hưởng phú quý).
[Giả như Thân Mệnh gặp Quý nhân, lại có thêm cát diệu với Quyền Lộc đến tương trợ thì gặp là không thể không phú quý được, hạn bộ mà gặp thì cũng chủ phát phúc.]
Tài cư tài vị, ngộ giả phú xa
(Tài tinh mà cư ở cung Tài, Điền, gặp được thì giàu có xa hoa).
[Giả như Tử Vi, Thiên Phủ, Vũ Khúc cư ở cung Tài Bạch, lại kiêm thêm Hóa Quyền, Hóa Lộc với Lộc Tồn thì tất sẽ chủ đại phú xa, nhị hạn mà gặp thì cũng chủ đại phát phú.]
Thái Dương cư Ngọ, vị chi “Nhật lệ trung thiên”, hữu chuyên quyền chi quý, địch quốc chi phú.
(Thái Dương cư Ngọ, mặt trời sáng giữa bầu trời, người quyền quý cực cao, giàu có nhất nhì trong 1 nước).
[Giả như Thân Mệnh tọa ở Ngọ cung có Thái Dương, những người tuổi Canh tuổi Tân mà sinh ban ngày sẽ như thế, được phú quý toàn mỹ. Nữ nhân mà gặp thì vượng phu ích tử, được phong tặng phu nhân.]
Thái Âm cư Tý, hiệu viết “Thủy trừng quế ngạc”, đắc thanh yếu chi chức, trung gián chi tài.
(Thái Âm cư Tý, danh là Nước trong soi bóng cành quế, giữ chức vụ quan trọng, có tài can gián vua).
[Giả như Thân Mệnh tọa ở Tý cung gặp Thái Âm, những người tuổi Bính tuổi Đinh mà sinh đêm thì là như vậy, được phú quý toàn mỹ, tâm tính vô tư, lại có tài can gián.]
Tử Vi Phụ Bật đồng cung, nhất hô bách nặc, cư thượng phẩm.
(Tử Vi đồng cung Phụ Bật thì hô 1 tiếng có trăm người dạ ran, cư quan cao thượng phẩm).
[Giả như Tứ Vi cư nơi Thân mệnh, có Tả Hữu đồng cung hoặc chiếu đến để trợ giúp, có thể luận là được chung thân phú quý toàn mỹ.]
Văn Hao cư Dần Mão, vị chi chúng thủy triều đông.
(Khúc Xương gặp Phá Quân ở Dần Mão được coi là nước đổ ra bể đông, nghèo).
[Giả như Thân Mệnh cư nơi Dần Mão, gặp Xương Khúc với Phá Quân, tiếp đến lại có Hình Sát xung phá, thì cả đời kinh sợ nguy hiểm, hạn hành tới đó nếu mà có thêm cát tinh thì còn được bình, nếu gặp hung thì rất đáng lo ngại. Cách này cả đời hao tâm tổn sức, gặp nhiều cay đắng.]
Nhật Nguyệt thủ bất như chiếu hợp,
(đối với cả 2 sao Nhật Nguyệt thì chiếu hợp giáp đẹp hơn khi chúng đồng cung tọa thủ).
Ấm Phúc tụ bất phạ hung nguy.
(Lương Đồng gặp thêm các cát tinh thì không sợ hung nguy).
[Giả như Nhật nguyệt thủ Thân Mệnh, tuy hội cát diệu cũng không được toàn mỹ, như phùng hung tinh thì sẽ gặp ngay hung hiểm tai nạn. Như thấy tam hợp ở Mệnh thân lại kiêm thêm hóa cát thì có thể xác định là đẹp mà luận.
Ấm tức Thiên Lương, Phúc tức Thiên Đồng, như tại Thân Mệnh gặp cát thì không phải lo ngại về các hung hiểm tai nạn, dù có Hình Kị thì cũng không luận là hung.]
Tham cư Hợi Tý, danh vi "phiếm thủy đào hoa".
(Tham Lang - chánh Đào Hoa tinh - hãm ở các thủy cung gọi là "Đào hoa lênh đênh trên sóng nước").
[Giả như Thân Mệnh tọa ở Hợi, Tý cung mà gặp Tham Lang, gặp thêm cát diệu thì có thể luận là cát, nhưng gặp Hình Kị thì nam lãng đãng nữ đa dâm xướng. Đặc biệt là nói về Tham Lang gặp Kình Đà ở Hợi, Tý thì thành "phiếm thủy đào hoa" - nam nữ tham hoa luyến tửu, có cát diệu nhiều thì mới có thể tốt lành.]
Hình ngộ Tham Lang, hiệu viết "phong lưu thái trượng".
(Hình gặp Tham thì gọi theo biệt hiệu là "khoe mẽ phong lưu" - cách này dễ bị ăn đòn)
[Giả như Tham Lang Kình Dương đồng viên Thân Mệnh ở Dần cung, chủ là người thông minh, cũng chủ phong lưu, nếu như Tham Lang Đà La ở tại Dần cung thì có biệt hiệu là "phong lưu thái trượng".]
Thất Sát Liêm Trinh đồng vị, lộ thượng mai thi
(Liêm Sát đồng cung dễ chôn thây ở trên đường).
Phá Quân ám diệu đồng hương, thủy trung tác trủng.
(Phá với ám tinh đồng cung - có thêm Xương Khúc - thì dễ chết chìm, táng mạng dưới nước)
[Giả như Thân Mệnh gặp hai sao ấy thủ, có thêm Hóa Kị, Hao, Sát thì cũng y như trên mà đoán, hoặc tại Thiên Di cũng thì cũng vậy. Ám diệu là chỉ Cự Môn, cũng cùng đoán như trên. (QNB chú: nếu như "ám diệu" mà lý giải là chỉ Cự Môn thì làm sao Phá với Cự có thể ở chung một chỗ được??? độc giả lưu ý vậy. Theo thiển ý, ám ở đây có lẽ là để chỉ Diêu, Đà Kị mà thôi, ngoài ra chúng ta cũng biết là Phá Quân với Xương Khúc mà gặp ở Thủy cung - tức là cung Hợi thì cũng dễ táng mạng dưới nước nhất là khi có thêm ám tinh).]
Lộc cư Nô Bộc túng hữu quan dã bôn trì,
(Tuy làm quan nhưng vẫn vất vả hoặc làm công việc có tính chất chạy đôn đáo ngược xuôi)
[Giả như Thân Mệnh cung có các sao bình thường, mà Nô Bộc cung lại đắc Lộc Tồn với Quyền Lộc với cát tinh, thì đích thị đó là số vất vả nhọc nhằn.]
Đế ngộ hung đồ tuy hoạch cát nhi vô đạo.
(Tử Vi gặp Kiếp Không, sát tinh, thì tuy vẫn có phần thành công nhưng là kẻ vô đạo)
[Giả như Tử Vi thủ Thân Mệnh gặp Quyền Lộc Hình Kị đồng vị, thì tuy là được cát lợi nhưng đích thị là nhân tâm bất chính.]
Đế tọa kim xa, tắc viết kim dư phù giá,
(Tử Vi cư Ngọ có Tả Hữu chầu + cát tinh là cách vua ngồi xe vàng, quần thần phù tá xa giá)
Phúc an văn diệu, vị chi ngọc tụ thiên hương.
(Phúc cung an Khôi Việt Xương Khúc là coi như ngọc sáng, truyền đời nắm quyền cao).
[Giả như Tử Vi thủ Mệnh cư Ngọ, lại có thêm cát diệu nữa thì là như vậy, nếu gặp Hình Kị thì bình thường.
Phúc đức cung gặp Văn Xương Văn Khúc, cát diệu đến phù trợ tất sẽ đảm đương đại quyền đại chức, miếu đường tiếp nối truyền đời, vị chi là "Ngọc tụ thiên hương".]
Thái Dương hội Văn Xương ư Quan Lộc, hoàng điện triều ban chi quý.
(Nhật hội Văn Xương ở Quan Lộc cung thì làm quan to trong triều, vừa phú vừa quý).
[Giả như Thái Dương hội Văn Xương ở Quan Lộc cung phùng cát diệu, thì được phú quý toàn mỹ, tất sẽ làm tới chức Tể Tướng.]
Thái Âm hội Văn Khúc ư Thê cung, thiềm cung chiết quế chi vinh.
(Thái Âm hội Văn Khúc ở cung Thê thì lấy con gái nhà danh gia, có tài văn chương, thi cử đỗ đạt).
[Giả như Thái Âm Văn Khúc cùng hội vào cung Thê, lại có thêm cát diệu phò trợ, hạn bộ mà hành tới đó, nam thì chủ thi cử đỗ đạt thành công chiêu nạp được vợ quý, nữ thì chủ kết hôn được với chồng quý.]
Lộc Tồn thủ vu Điền Tài, đôi kim tích ngọc
Tài Ấm tọa vu Thiên Di, cự thương cao cổ
(Lộc Tồn cư Điền Trạch, Tài Bạch thì vàng ngọc chồng chất, giàu có vô cùng
Tài tinh, Ấm tinh ở Thiên Di thì đi buôn phát tài lớn).
[Giả như Lộc Tồn thủ ở Điền cung hoặc Tài cung thì chủ đại phú.
Tài tức là chỉ Vũ Khúc, Ấm tức là Thiên Lương, nếu như cung Thiên Di mà có các sao này nhất là khi có thêm Quyền Lộc với cát diệu thì tất sẽ làm nhà buôn lớn. Nếu như có thêm Hình Sát tụ tập thì bình thường.]
(Quý tinh mà nhập vào chỗ quý thì được hưởng phú quý).
[Giả như Thân Mệnh gặp Quý nhân, lại có thêm cát diệu với Quyền Lộc đến tương trợ thì gặp là không thể không phú quý được, hạn bộ mà gặp thì cũng chủ phát phúc.]
Tài cư tài vị, ngộ giả phú xa
(Tài tinh mà cư ở cung Tài, Điền, gặp được thì giàu có xa hoa).
[Giả như Tử Vi, Thiên Phủ, Vũ Khúc cư ở cung Tài Bạch, lại kiêm thêm Hóa Quyền, Hóa Lộc với Lộc Tồn thì tất sẽ chủ đại phú xa, nhị hạn mà gặp thì cũng chủ đại phát phú.]
Thái Dương cư Ngọ, vị chi “Nhật lệ trung thiên”, hữu chuyên quyền chi quý, địch quốc chi phú.
(Thái Dương cư Ngọ, mặt trời sáng giữa bầu trời, người quyền quý cực cao, giàu có nhất nhì trong 1 nước).
[Giả như Thân Mệnh tọa ở Ngọ cung có Thái Dương, những người tuổi Canh tuổi Tân mà sinh ban ngày sẽ như thế, được phú quý toàn mỹ. Nữ nhân mà gặp thì vượng phu ích tử, được phong tặng phu nhân.]
Thái Âm cư Tý, hiệu viết “Thủy trừng quế ngạc”, đắc thanh yếu chi chức, trung gián chi tài.
(Thái Âm cư Tý, danh là Nước trong soi bóng cành quế, giữ chức vụ quan trọng, có tài can gián vua).
[Giả như Thân Mệnh tọa ở Tý cung gặp Thái Âm, những người tuổi Bính tuổi Đinh mà sinh đêm thì là như vậy, được phú quý toàn mỹ, tâm tính vô tư, lại có tài can gián.]
Tử Vi Phụ Bật đồng cung, nhất hô bách nặc, cư thượng phẩm.
(Tử Vi đồng cung Phụ Bật thì hô 1 tiếng có trăm người dạ ran, cư quan cao thượng phẩm).
[Giả như Tứ Vi cư nơi Thân mệnh, có Tả Hữu đồng cung hoặc chiếu đến để trợ giúp, có thể luận là được chung thân phú quý toàn mỹ.]
Văn Hao cư Dần Mão, vị chi chúng thủy triều đông.
(Khúc Xương gặp Phá Quân ở Dần Mão được coi là nước đổ ra bể đông, nghèo).
[Giả như Thân Mệnh cư nơi Dần Mão, gặp Xương Khúc với Phá Quân, tiếp đến lại có Hình Sát xung phá, thì cả đời kinh sợ nguy hiểm, hạn hành tới đó nếu mà có thêm cát tinh thì còn được bình, nếu gặp hung thì rất đáng lo ngại. Cách này cả đời hao tâm tổn sức, gặp nhiều cay đắng.]
Nhật Nguyệt thủ bất như chiếu hợp,
(đối với cả 2 sao Nhật Nguyệt thì chiếu hợp giáp đẹp hơn khi chúng đồng cung tọa thủ).
Ấm Phúc tụ bất phạ hung nguy.
(Lương Đồng gặp thêm các cát tinh thì không sợ hung nguy).
[Giả như Nhật nguyệt thủ Thân Mệnh, tuy hội cát diệu cũng không được toàn mỹ, như phùng hung tinh thì sẽ gặp ngay hung hiểm tai nạn. Như thấy tam hợp ở Mệnh thân lại kiêm thêm hóa cát thì có thể xác định là đẹp mà luận.
Ấm tức Thiên Lương, Phúc tức Thiên Đồng, như tại Thân Mệnh gặp cát thì không phải lo ngại về các hung hiểm tai nạn, dù có Hình Kị thì cũng không luận là hung.]
Tham cư Hợi Tý, danh vi "phiếm thủy đào hoa".
(Tham Lang - chánh Đào Hoa tinh - hãm ở các thủy cung gọi là "Đào hoa lênh đênh trên sóng nước").
[Giả như Thân Mệnh tọa ở Hợi, Tý cung mà gặp Tham Lang, gặp thêm cát diệu thì có thể luận là cát, nhưng gặp Hình Kị thì nam lãng đãng nữ đa dâm xướng. Đặc biệt là nói về Tham Lang gặp Kình Đà ở Hợi, Tý thì thành "phiếm thủy đào hoa" - nam nữ tham hoa luyến tửu, có cát diệu nhiều thì mới có thể tốt lành.]
Hình ngộ Tham Lang, hiệu viết "phong lưu thái trượng".
(Hình gặp Tham thì gọi theo biệt hiệu là "khoe mẽ phong lưu" - cách này dễ bị ăn đòn)
[Giả như Tham Lang Kình Dương đồng viên Thân Mệnh ở Dần cung, chủ là người thông minh, cũng chủ phong lưu, nếu như Tham Lang Đà La ở tại Dần cung thì có biệt hiệu là "phong lưu thái trượng".]
Thất Sát Liêm Trinh đồng vị, lộ thượng mai thi
(Liêm Sát đồng cung dễ chôn thây ở trên đường).
Phá Quân ám diệu đồng hương, thủy trung tác trủng.
(Phá với ám tinh đồng cung - có thêm Xương Khúc - thì dễ chết chìm, táng mạng dưới nước)
[Giả như Thân Mệnh gặp hai sao ấy thủ, có thêm Hóa Kị, Hao, Sát thì cũng y như trên mà đoán, hoặc tại Thiên Di cũng thì cũng vậy. Ám diệu là chỉ Cự Môn, cũng cùng đoán như trên. (QNB chú: nếu như "ám diệu" mà lý giải là chỉ Cự Môn thì làm sao Phá với Cự có thể ở chung một chỗ được??? độc giả lưu ý vậy. Theo thiển ý, ám ở đây có lẽ là để chỉ Diêu, Đà Kị mà thôi, ngoài ra chúng ta cũng biết là Phá Quân với Xương Khúc mà gặp ở Thủy cung - tức là cung Hợi thì cũng dễ táng mạng dưới nước nhất là khi có thêm ám tinh).]
Lộc cư Nô Bộc túng hữu quan dã bôn trì,
(Tuy làm quan nhưng vẫn vất vả hoặc làm công việc có tính chất chạy đôn đáo ngược xuôi)
[Giả như Thân Mệnh cung có các sao bình thường, mà Nô Bộc cung lại đắc Lộc Tồn với Quyền Lộc với cát tinh, thì đích thị đó là số vất vả nhọc nhằn.]
Đế ngộ hung đồ tuy hoạch cát nhi vô đạo.
(Tử Vi gặp Kiếp Không, sát tinh, thì tuy vẫn có phần thành công nhưng là kẻ vô đạo)
[Giả như Tử Vi thủ Thân Mệnh gặp Quyền Lộc Hình Kị đồng vị, thì tuy là được cát lợi nhưng đích thị là nhân tâm bất chính.]
Đế tọa kim xa, tắc viết kim dư phù giá,
(Tử Vi cư Ngọ có Tả Hữu chầu + cát tinh là cách vua ngồi xe vàng, quần thần phù tá xa giá)
Phúc an văn diệu, vị chi ngọc tụ thiên hương.
(Phúc cung an Khôi Việt Xương Khúc là coi như ngọc sáng, truyền đời nắm quyền cao).
[Giả như Tử Vi thủ Mệnh cư Ngọ, lại có thêm cát diệu nữa thì là như vậy, nếu gặp Hình Kị thì bình thường.
Phúc đức cung gặp Văn Xương Văn Khúc, cát diệu đến phù trợ tất sẽ đảm đương đại quyền đại chức, miếu đường tiếp nối truyền đời, vị chi là "Ngọc tụ thiên hương".]
Thái Dương hội Văn Xương ư Quan Lộc, hoàng điện triều ban chi quý.
(Nhật hội Văn Xương ở Quan Lộc cung thì làm quan to trong triều, vừa phú vừa quý).
[Giả như Thái Dương hội Văn Xương ở Quan Lộc cung phùng cát diệu, thì được phú quý toàn mỹ, tất sẽ làm tới chức Tể Tướng.]
Thái Âm hội Văn Khúc ư Thê cung, thiềm cung chiết quế chi vinh.
(Thái Âm hội Văn Khúc ở cung Thê thì lấy con gái nhà danh gia, có tài văn chương, thi cử đỗ đạt).
[Giả như Thái Âm Văn Khúc cùng hội vào cung Thê, lại có thêm cát diệu phò trợ, hạn bộ mà hành tới đó, nam thì chủ thi cử đỗ đạt thành công chiêu nạp được vợ quý, nữ thì chủ kết hôn được với chồng quý.]
Lộc Tồn thủ vu Điền Tài, đôi kim tích ngọc
Tài Ấm tọa vu Thiên Di, cự thương cao cổ
(Lộc Tồn cư Điền Trạch, Tài Bạch thì vàng ngọc chồng chất, giàu có vô cùng
Tài tinh, Ấm tinh ở Thiên Di thì đi buôn phát tài lớn).
[Giả như Lộc Tồn thủ ở Điền cung hoặc Tài cung thì chủ đại phú.
Tài tức là chỉ Vũ Khúc, Ấm tức là Thiên Lương, nếu như cung Thiên Di mà có các sao này nhất là khi có thêm Quyền Lộc với cát diệu thì tất sẽ làm nhà buôn lớn. Nếu như có thêm Hình Sát tụ tập thì bình thường.]
Thanked by 5 Members:
|
|
#43
Gửi vào 11/01/2015 - 13:59
Hao cư Lộc vị, duyên đồ khất thực.
(Phá Quân hoặc Đại Tiểu Hao -hãm- cùng vị trí với Lộc là số ăn m*y).
Tham hội vượng cung, chung thân thử thiết.
(Tham cư Tý Ngọ Mão Dậu, lại trúng chỗ Vượng của Tam Hợp Tuổi là số trộm cắp).
[Giả như Hao tinh mà thủ ở cung Quan Lộc lại gặp Hình Kị thì số nghèo túng.
Người tuổi Dần Ngọ Tuất mà Mệnh tọa ở Ngọ, người tuổi Tị Dậu Sửu mà Mệnh tọa ở Dậu, người tuổi Hợi Mão Mùi mà Mệnh tọa ở Mão, người tuổi Thân Tý Thìn mà Mệnh tọa ở Tý, gặp phải Tham Lang thì chủ phận số bạc như vậy.]
Sát cư Tuyệt địa, thiên niên yểu tự Nhan Hồi.
Tham tọa Sinh hương, thọ khảo vĩnh như Bành Tổ.
(Sát ở Tuyệt đồng cung, mệnh ở đó thì ngàn năm bạc mệnh, yểu như Nhan Hồi
Tham Lang với Tràng Sinh đồng cung thọ như Bành Tổ).
[Giả như Mệnh tọa Dần Thân Tị Hợi, gặp Thất Sát có thêm Hình Kị, lại đúng là chỗ Tuyệt địa, nếu như không có cát diệu hợp chiếu thì hạn lâm vào chỗ ấy rất hung vậy.
Giả như Dần Ngọ Tuất sinh nhân có Mệnh đóng ở cung Dần, hay người Tị Dậu Sửu mà có Mệnh đóng ở cung Tị, hay người Hợi Mão Mùi mà có Mệnh đóng ở cung Hợi, hay người Thân Tý Thìn mà có Mệnh đóng ở cung Thân, nếu như mà gặp Tham Lang với cát diệu thì luận là cát, là trường thọ như vậy.]
Kị Ám đồng cư Thân Mệnh Tật Ách, trầm khốn uông doanh,
(Hóa Kị với Ám tinh cùng cư Mệnh Thân Tật thì mê muội, nghèo khổ, yếu ớt càng nhiều),
[Giả như Thân Mệnh cung Tật Ách cung gặp Cự Môn Kình Đà là người yếu ớt suy nhược, chung thân không vượng phát được mà luận. Kị ở đây chính là Đà La, Ám chính là Cự Môn.]
Hung tinh hội Kị ư Tướng Mạo Thiên Di, hình thương sản thất.
(Hung tinh hội Hóa Kị ở Phụ Mẫu, Thiên Di thì hình khắc, dễ bị phạt, bị thương, phá tán tài sản tổ nghiệp).
[Giả như Hình Kị Hỏa Linh thủ ở cung Thiên Di, cung Phụ Mẫu, tất sẽ là người có Thân thể tàn tật, phá đãng tổ nghiệp, là mệnh chủ bôn ba vất vả lao lực vậy.]
Hình Sát hội Liêm Trinh ư Quan Lộc, gia nữu nan đào,
(Hình Sát và Liêm Trinh hội ở Quan Lộc thì gông xiềng bắt bớ là khó tránh)
[Giả như Hình Sát Liêm Trinh thủ ở Quan Lộc cung, lưu niên nhị hạn đến đó, thì nếu không gặp họa hạn thì xác định là gặp hình pháp vậy.]
Quan Phù giáp Hình Sát ư Thiên Di, ly hương tảo phối.
(Quan Phù giáp với Hình Sát ở Thiên Di thì đi xa kết duyên chồng/vợ).
[Giả như Lưu niên Quan Phù cùng với Quan Phủ (gốc) giáp với Hình Sát ở cung Thiên Di, Thái Tuế tiểu hạn mà đến đó, tất sẽ gặp hình khắc, truất giáng, ly tổ, ly hương kết hôn.]
Thiện Phúc cư Không vị, Thiên Trúc sinh nhai.
(Thiên Cơ, Thiên Đồng đóng vào chỗ Không Vong thì dễ đi tu)
[Giả như Thân Mệnh cư ở nơi Không Vong, có Thiên Cơ, Thiên Đồng tam hợp chính chiếu tất sẽ chủ người theo tăng đạo. Phùng cát tinh thì phúc hậu, phùng ác tinh thì xác định là số tăng đạo, không được đẹp vậy.]
Phụ Bật đơn thủ Mệnh cung, ly tông thứ xuất.
(Tả Phụ hoặc Hữu Bật độc thủ ở mệnh là rời bỏ quê quán tổ tông, nếu là chi thứ trong Họ mà ko phải dòng trưởng thì thậm chí còn có thể đổi họ, còn có thể do người vợ thứ, thiếp sinh ra).
[Giả như Thân Mệnh vô chính diệu, chỉ có Tả Phụ hoặc Hữu Bật thủ thì ly tổ ly tông, là con của thứ thiếp thì còn được luận là đẹp.]
Thất Sát lâm ư Thân Mệnh gia ác sát, tất định tử vong.
(Thất Sát + hung sát tinh nơi Thân Mệnh là số chết yểu).
[Giả như Mệnh tọa Thất Sát, lưu niên Thái Tuế Hình Kị xâm phạm thì tất sẽ chủ tai họa bệnh tật, quan tụng thị phi khẩu thiệt mà luận.]
Linh Dương hợp ư Mệnh cung ngộ Bạch Hổ, tu đương hình lục.
(Linh (hỏa) Kình (đà) hội hợp ở Mệnh gặp Bạch Hổ là phải chịu lăng nhục, hình phạt, tra tấn).
[Kình Linh Hình Sát tọa ở Mệnh cung, hạn lưu niên gặp Bạch Hổ đến đóng thì năm đó tất sẽ chủ quan phi, kiện cáo, nếu như phá tài thì giảm nhẹ tai họa.]
Quan Phủ phát ư cát diệu,
(Quan Phủ mà thấy các Cát tinh thì hay)
Lưu Sát phạ phùng Phá Quân.
(Lưu niên sát tinh e ngại gặp Phá Quân vì dễ tai họa ập đến).
[Hình Kị Kình Hỏa mà thủ ở Thân Mệnh, vận gặp cát diệu thì phát tài, lưu niên thái tuế tiểu hạn mà gặp ác diệu thì tất sẽ gặp hung hiểm tai nạn vậy.]
Dương Linh bằng Thái Tuế dĩ dẫn hành, Bệnh Phù Quan Phù giai tác họa.
(Kình Đà nhờ vào Thái Tuế mà dẫn động lưu hành, Bệnh Phù và Quan Phù đều là tác nhân gây họa).
[Giả như Thân Mệnh gặp Kình Linh Hỏa tọa thủ, lưu niên Thái Tuế gặp chúng tác họa vậy, như Mệnh có phạm vào Bệnh Phù, Quan Phù, Thái Tuế mà đến cũng chủ quan phi khẩu thiệt.]
Tấu Thư Bác Sĩ dữ lưu Lộc, tận tác cát tường.
(Tấu Thư Bác Sĩ cùng Lưu Lộc Tồn đều tạo ra sự hết sức tốt lành).
Lực Sĩ Tướng Quân đồng Thanh Long, hiển kỳ quyền thế.
(Lực Sĩ, Tướng Quân và Thanh Long là hiển lộ về sự quyền lực, quyền thế).
Đồng tử hạn như thủy thượng phao ẩu,
Lão nhân hạn tự phong trung nhiên chúc,
Ngộ sát vô chế nãi lưu niên tối kị.
(Hạn của trẻ nít như là bọt bèo trên mặt nước
Hạn người già tựa đốm lửa giữa gió lộng
Lưu niên hạn gặp phải sát tinh mà không có cát tinh chế giải thì dễ mất mạng).
[Đó là đều nói về lưu niên hạn gặp các sao vậy!]
(Phá Quân hoặc Đại Tiểu Hao -hãm- cùng vị trí với Lộc là số ăn m*y).
Tham hội vượng cung, chung thân thử thiết.
(Tham cư Tý Ngọ Mão Dậu, lại trúng chỗ Vượng của Tam Hợp Tuổi là số trộm cắp).
[Giả như Hao tinh mà thủ ở cung Quan Lộc lại gặp Hình Kị thì số nghèo túng.
Người tuổi Dần Ngọ Tuất mà Mệnh tọa ở Ngọ, người tuổi Tị Dậu Sửu mà Mệnh tọa ở Dậu, người tuổi Hợi Mão Mùi mà Mệnh tọa ở Mão, người tuổi Thân Tý Thìn mà Mệnh tọa ở Tý, gặp phải Tham Lang thì chủ phận số bạc như vậy.]
Sát cư Tuyệt địa, thiên niên yểu tự Nhan Hồi.
Tham tọa Sinh hương, thọ khảo vĩnh như Bành Tổ.
(Sát ở Tuyệt đồng cung, mệnh ở đó thì ngàn năm bạc mệnh, yểu như Nhan Hồi
Tham Lang với Tràng Sinh đồng cung thọ như Bành Tổ).
[Giả như Mệnh tọa Dần Thân Tị Hợi, gặp Thất Sát có thêm Hình Kị, lại đúng là chỗ Tuyệt địa, nếu như không có cát diệu hợp chiếu thì hạn lâm vào chỗ ấy rất hung vậy.
Giả như Dần Ngọ Tuất sinh nhân có Mệnh đóng ở cung Dần, hay người Tị Dậu Sửu mà có Mệnh đóng ở cung Tị, hay người Hợi Mão Mùi mà có Mệnh đóng ở cung Hợi, hay người Thân Tý Thìn mà có Mệnh đóng ở cung Thân, nếu như mà gặp Tham Lang với cát diệu thì luận là cát, là trường thọ như vậy.]
Kị Ám đồng cư Thân Mệnh Tật Ách, trầm khốn uông doanh,
(Hóa Kị với Ám tinh cùng cư Mệnh Thân Tật thì mê muội, nghèo khổ, yếu ớt càng nhiều),
[Giả như Thân Mệnh cung Tật Ách cung gặp Cự Môn Kình Đà là người yếu ớt suy nhược, chung thân không vượng phát được mà luận. Kị ở đây chính là Đà La, Ám chính là Cự Môn.]
Hung tinh hội Kị ư Tướng Mạo Thiên Di, hình thương sản thất.
(Hung tinh hội Hóa Kị ở Phụ Mẫu, Thiên Di thì hình khắc, dễ bị phạt, bị thương, phá tán tài sản tổ nghiệp).
[Giả như Hình Kị Hỏa Linh thủ ở cung Thiên Di, cung Phụ Mẫu, tất sẽ là người có Thân thể tàn tật, phá đãng tổ nghiệp, là mệnh chủ bôn ba vất vả lao lực vậy.]
Hình Sát hội Liêm Trinh ư Quan Lộc, gia nữu nan đào,
(Hình Sát và Liêm Trinh hội ở Quan Lộc thì gông xiềng bắt bớ là khó tránh)
[Giả như Hình Sát Liêm Trinh thủ ở Quan Lộc cung, lưu niên nhị hạn đến đó, thì nếu không gặp họa hạn thì xác định là gặp hình pháp vậy.]
Quan Phù giáp Hình Sát ư Thiên Di, ly hương tảo phối.
(Quan Phù giáp với Hình Sát ở Thiên Di thì đi xa kết duyên chồng/vợ).
[Giả như Lưu niên Quan Phù cùng với Quan Phủ (gốc) giáp với Hình Sát ở cung Thiên Di, Thái Tuế tiểu hạn mà đến đó, tất sẽ gặp hình khắc, truất giáng, ly tổ, ly hương kết hôn.]
Thiện Phúc cư Không vị, Thiên Trúc sinh nhai.
(Thiên Cơ, Thiên Đồng đóng vào chỗ Không Vong thì dễ đi tu)
[Giả như Thân Mệnh cư ở nơi Không Vong, có Thiên Cơ, Thiên Đồng tam hợp chính chiếu tất sẽ chủ người theo tăng đạo. Phùng cát tinh thì phúc hậu, phùng ác tinh thì xác định là số tăng đạo, không được đẹp vậy.]
Phụ Bật đơn thủ Mệnh cung, ly tông thứ xuất.
(Tả Phụ hoặc Hữu Bật độc thủ ở mệnh là rời bỏ quê quán tổ tông, nếu là chi thứ trong Họ mà ko phải dòng trưởng thì thậm chí còn có thể đổi họ, còn có thể do người vợ thứ, thiếp sinh ra).
[Giả như Thân Mệnh vô chính diệu, chỉ có Tả Phụ hoặc Hữu Bật thủ thì ly tổ ly tông, là con của thứ thiếp thì còn được luận là đẹp.]
Thất Sát lâm ư Thân Mệnh gia ác sát, tất định tử vong.
(Thất Sát + hung sát tinh nơi Thân Mệnh là số chết yểu).
[Giả như Mệnh tọa Thất Sát, lưu niên Thái Tuế Hình Kị xâm phạm thì tất sẽ chủ tai họa bệnh tật, quan tụng thị phi khẩu thiệt mà luận.]
Linh Dương hợp ư Mệnh cung ngộ Bạch Hổ, tu đương hình lục.
(Linh (hỏa) Kình (đà) hội hợp ở Mệnh gặp Bạch Hổ là phải chịu lăng nhục, hình phạt, tra tấn).
[Kình Linh Hình Sát tọa ở Mệnh cung, hạn lưu niên gặp Bạch Hổ đến đóng thì năm đó tất sẽ chủ quan phi, kiện cáo, nếu như phá tài thì giảm nhẹ tai họa.]
Quan Phủ phát ư cát diệu,
(Quan Phủ mà thấy các Cát tinh thì hay)
Lưu Sát phạ phùng Phá Quân.
(Lưu niên sát tinh e ngại gặp Phá Quân vì dễ tai họa ập đến).
[Hình Kị Kình Hỏa mà thủ ở Thân Mệnh, vận gặp cát diệu thì phát tài, lưu niên thái tuế tiểu hạn mà gặp ác diệu thì tất sẽ gặp hung hiểm tai nạn vậy.]
Dương Linh bằng Thái Tuế dĩ dẫn hành, Bệnh Phù Quan Phù giai tác họa.
(Kình Đà nhờ vào Thái Tuế mà dẫn động lưu hành, Bệnh Phù và Quan Phù đều là tác nhân gây họa).
[Giả như Thân Mệnh gặp Kình Linh Hỏa tọa thủ, lưu niên Thái Tuế gặp chúng tác họa vậy, như Mệnh có phạm vào Bệnh Phù, Quan Phù, Thái Tuế mà đến cũng chủ quan phi khẩu thiệt.]
Tấu Thư Bác Sĩ dữ lưu Lộc, tận tác cát tường.
(Tấu Thư Bác Sĩ cùng Lưu Lộc Tồn đều tạo ra sự hết sức tốt lành).
Lực Sĩ Tướng Quân đồng Thanh Long, hiển kỳ quyền thế.
(Lực Sĩ, Tướng Quân và Thanh Long là hiển lộ về sự quyền lực, quyền thế).
Đồng tử hạn như thủy thượng phao ẩu,
Lão nhân hạn tự phong trung nhiên chúc,
Ngộ sát vô chế nãi lưu niên tối kị.
(Hạn của trẻ nít như là bọt bèo trên mặt nước
Hạn người già tựa đốm lửa giữa gió lộng
Lưu niên hạn gặp phải sát tinh mà không có cát tinh chế giải thì dễ mất mạng).
[Đó là đều nói về lưu niên hạn gặp các sao vậy!]
Thanked by 8 Members:
|
|
#44
Gửi vào 12/01/2015 - 15:32
95. Chỉ dẫn về phép luận Thân Mệnh 12 cung cát hung tinh
Một. Mệnh cung
Tử Phủ Nhật Nguyệt là thượng quý
Liêm Vũ Cự phối Văn Khúc
Thiên Cơ Tả Hữu Lộc Tướng Lương
Mệnh lý mà gặp nhiều phú quý
Dương, Đà, Sát, Phá, Hỏa Linh trung,
Thiên Sứ, Thiên Thương, Địa Kiếp Không,
Nếu mà Mệnh cung cư hãm địa,
Bôn ba yểu tử chủ bần cùng.
Tử Vi hình mạo đôn hậu, mặt đới sắc đỏ tía, nhập miếu phú quý song toàn, không nhập miếu thì luận là bình thường, nếu có thêm sát tinh thì hợp với tăng đạo.
Thiên Cơ miếu vượng chủ người tính gấp gáp, lương thiện, có năng lực làm việc, suy xét kỹ càng tìm hiểu cặn kẽ, nếu như hóa cát thì phú quý, hãm địa thì thường gian trá, luận là bình thường.
Thái Dương miếu tam phương có cát củng chiếu thì phú quý, hãm địa thì bình thường yểu chiết, dù sao cũng là người thông minh.
Vũ Khúc miếu địa thì mưu lược lắm tài năng, có duyên phận với công danh, thêm sát tinh thì phong lưu hoặc theo tăng đạo.
Thiên Đồng miếu vượng thông minh, tinh thông văn nghệ, bác học đa năng cơ xảo, phú quý cao thọ, nếu chẳng quý thì cũng chủ đại phú. Hãm địa thì quỷ quyệt đa dục mà miệng vẫn nói lời nhân nghĩa.
Liêm Trinh tính tình cương trực liêm khiết, thẳng thắn không nể nang lễ nghĩa, gặp cát cũng chủ hiếu học những cái cổ xưa, miếu vượng thì phú quý, hãm địa thì bình thường.
Thiên Phủ là người thông minh, môi hồng răng trắng, tiết hạnh cao thượng, đa học đa năng, miếu vượng thì phú quý, hãm địa có thêm sát tinh thì làm nghề khéo mà an thân.
Thái Âm chủ người thanh tú sáng suốt, ân cần đôn hậu, thanh nhàn nho nhã, miếu vượng thì phú quý, hãm địa thì nghèo khổ yểu tử.
Tham Lang chủ người thẳng tính, phong lưu háo sắc, miếu vượng thì phú quý, như có thêm Hỏa Linh thì càng thêm tốt đẹp đại quý, nếu hãm địa thì bình thường, làm nghề khéo an thân.
Cự Môn miếu vượng phú quý, hãm địa thêm sát tinh thì làm việc đảo điên, việc lớn ít có thành tựu, tính tình thất thường, thích vặn vẹo bắt bẻ đúng sai, cả đời loay hoay với câu chữ miệng lưỡi bàn cãi.
Thiên Tướng miếu vượng thì cơm áo có thừa, là người đôn hậu hòa bình, thông minh tú lệ, được phú quý, hãm địa thì bình thường.
Thiên Lương chủ người ổn trọng, miếu vượng phú quý phúc thọ, hãm địa thì bình thường.
Thất Sát là người trầm ngâm, tính cương ngạnh, miếu vượng chủ phú quý, hãm địa thì nghèo khổ chết non, hình khắc lục thân.
Phá Quân miếu vượng phú quý, hãm địa bình thường cô đơn nghèo khổ, với người khác khó hóa hợp, thường chiêu chuốc thị phi.
Tả Phụ miếu vượng phú quý, rộng lượng khoan dung, vợ chồng hòa hợp, con cái cũng tốt, hãm địa cũng được bình ổn.
Hữu bật miếu vượng thì phát đạt tiền tài, là người tuấn tú, vợ chồng hiền thục, con cái quý hiển, siêu quần xuất chúng, nếu như đơn thủ hãm địa thì bình thường.
Văn Xương miếu vượng phú quý, là người tuấn tú, có chí đọc sách, hãm địa bình thường.
Văn Khúc chủ người đa học đa năng, miếu vượng phú quý, hãm địa thì chết non.
Khôi Việt chủ phú quý, người thường giàu có mà lại gần quý nhân.
Lộc Tồn là người trọng hậu, miếu vượng phú quý, tay trắng khởi nghiệp, hãm địa bình thường.
Hỏa Linh miếu vượng tính cương cường, hãm địa thì bần tiện, có mẹ nuôi mẹ kế thì thêm thọ, theo tăng đạo thì được phúc.
Địa Kiếp chủ người tính gấp gáp, chẳng tốt lành gì.
Địa Không chủ người tính tình thất thường, hay bảo thủ cố chấp, khó giữ được tổ nghiệp.
Kình Dương chủ hình thương, có nhiều cát thì còn tốt, hãm địa nhất định chiêu chuốc hung.
Đà La nhập miếu chủ quý phát đạt, hãm địa thì cô đơn nghèo khổ, tâm sự day dứt.
Thiên Hình chủ hình khắc.
Thiên Diêu nhập miếu chủ phong lưu, hãm địa thì đam mê tửu sắc.
Khoa Quyền Lộc đắc địa chủ phú quý, lạc hãm cũng bình thường.
Hóa Kị chủ cả đời lắm tai vạ, chẳng toại lòng, đắc địa thì bình thường.
Hai. Huynh Đệ
Tử Vi đắc địa Lộc Văn hòa,
Phủ Tướng Đồng Lương Tả Hữu đa,
Tham Vũ Hỏa Linh Liêm Sát Phá,
Hãm cung khỏi cần hỏi Dương Đà,
Phủ Tướng Đồng Lương anh em hòa,
Âm Dương Tả Hữu Lộc Văn đa,
Thiên Cơ Tham Lang không đồng lòng,
Hỏa Linh Sát Phá lại đến cùng.
Tử Vi hội Xương Khúc thì có 5 người (anh em), thêm Kình Đà Thất Sát Hỏa Linh, khiến cho cả 2 phía đều phá lẫn nhau, chẳng đắc lực trợ giúp, lại chủ có anh em dị bào.
Thiên Cơ miếu vượng có hai ba người anh em được hiển quý, hãm địa chỉ có 1 người, lại cũng chủ có anh em dị bào.
Thái Dương chủ có ba người, hãm địa chủ khắc nhau khó ở cùng, thêm tứ sát thì bất hòa.
Vũ Khúc chủ có hai người mà một người trong đó có lực, thêm Tứ sát Phá Quân Thất Sát chủ có anh em dị bào, dĩ nhiên cũng luận là không hòa hợp.
Thiên Đồng chủ có năm người, thêm Tứ sát thì khắc 2 người, gặp Thiên Lương thì chủ chị em gái chiêu được hiền phu.
Liêm Trinh miếu vượng chủ có hai người đắc lực, nhàn cung hãm địa thì khắc, thêm cát tinh thì một người kém hòa thuận.
Thiên Phủ miếu vượng chủ có năm người, thêm Tả Hữu Khúc Xương thì đắc lực, thêm Thất Sát Vũ Khúc thì chiêu oán, thêm Tứ Sát thì được hai người, hãm thì có anh em dị bào, cát vượng mà có thêm sát cũng khắc, ở nhàn cung thì anh em không sống gần nhau.
Thái Âm chủ có bốn năm người, hãm địa thêm sát thì không đắc lực, cũng có ba người.
Tham Lang miếu vượng có ba người, nhàn cung hãm địa chủ khắc nhau chẳng sống gần nhau, lại chẳng đồng lòng, kém hòa thuận, nếu người do vợ lẽ sinh ra thì lại cát.
Cự Môn chủ có hai ba người kém hòa thuận, nhập miếu mà có cát thêm Xương Khúc Tả Hữu thì đắc lực và hòa thuận.
Thiên Tướng có ba năm người, thêm Sát Kị thì ít người mà lại kém hòa thuận, khác mẹ, có cát tinh thì thân thiết, có Khôi Việt thì chủ anh em hiển quý.
Thiên Lương cô đơn chỉ được chị em gái, cùng với Thiên Đồng Tả Hữu nhiều cát tinh thì có hai người, thêm Kình Đà Hỏa Linh thì khắc.
Thất Sát chủ cô khắc, chỉ có chị em gái, thêm cát tinh thì có được một người, hợp với người anh em dị bào.
Phá Quân chủ khắc, thêm cát thì có hai ba người nhưng vẫn bất hòa, thêm Hỏa Kình thì cô độc.
Tả Phụ chủ có bốn năm người, thêm Phủ Khúc Xương cũng Hữu Bật thì đắc lực, thêm sát tinh chỉ có hai người.
Hữu Bật chủ có ba người, thêm Sát Vũ Đà HỎa thì chủ khắc và chẳng có lực, có anh em dị bào.
Văn Xương chủ có năm người, thêm Phủ Khúc Tả Hữu thì đắc lực, thêm Kình Đà thì xung khắc.
Văn Khúc chủ có năm người, thêm cát thì đắc lực, thêm Thất Sát Tứ Sát xung khắc bất hòa.
Hỏa Linh miếu vượng có hai ngườinh ưng không đắc lực, ở nhàn cung thì có một người nhưng hình khắc cô độc.
Kình Dương tuy có anh em nhưng anh em không tốt chủ tán bại gia đình, bất hòa hình khắc.
Đà La chủ với anh em hình khắc bất hòa.
Thiên Diêu chủ hình thương bất hòa.
Không Kiếp chủ không có anh em, thêm cát nhiều thì có.
Lộc Quyền Khoa Khôi Việt chủ anh em có người hiển quý.
Một. Mệnh cung
Tử Phủ Nhật Nguyệt là thượng quý
Liêm Vũ Cự phối Văn Khúc
Thiên Cơ Tả Hữu Lộc Tướng Lương
Mệnh lý mà gặp nhiều phú quý
Dương, Đà, Sát, Phá, Hỏa Linh trung,
Thiên Sứ, Thiên Thương, Địa Kiếp Không,
Nếu mà Mệnh cung cư hãm địa,
Bôn ba yểu tử chủ bần cùng.
Tử Vi hình mạo đôn hậu, mặt đới sắc đỏ tía, nhập miếu phú quý song toàn, không nhập miếu thì luận là bình thường, nếu có thêm sát tinh thì hợp với tăng đạo.
Thiên Cơ miếu vượng chủ người tính gấp gáp, lương thiện, có năng lực làm việc, suy xét kỹ càng tìm hiểu cặn kẽ, nếu như hóa cát thì phú quý, hãm địa thì thường gian trá, luận là bình thường.
Thái Dương miếu tam phương có cát củng chiếu thì phú quý, hãm địa thì bình thường yểu chiết, dù sao cũng là người thông minh.
Vũ Khúc miếu địa thì mưu lược lắm tài năng, có duyên phận với công danh, thêm sát tinh thì phong lưu hoặc theo tăng đạo.
Thiên Đồng miếu vượng thông minh, tinh thông văn nghệ, bác học đa năng cơ xảo, phú quý cao thọ, nếu chẳng quý thì cũng chủ đại phú. Hãm địa thì quỷ quyệt đa dục mà miệng vẫn nói lời nhân nghĩa.
Liêm Trinh tính tình cương trực liêm khiết, thẳng thắn không nể nang lễ nghĩa, gặp cát cũng chủ hiếu học những cái cổ xưa, miếu vượng thì phú quý, hãm địa thì bình thường.
Thiên Phủ là người thông minh, môi hồng răng trắng, tiết hạnh cao thượng, đa học đa năng, miếu vượng thì phú quý, hãm địa có thêm sát tinh thì làm nghề khéo mà an thân.
Thái Âm chủ người thanh tú sáng suốt, ân cần đôn hậu, thanh nhàn nho nhã, miếu vượng thì phú quý, hãm địa thì nghèo khổ yểu tử.
Tham Lang chủ người thẳng tính, phong lưu háo sắc, miếu vượng thì phú quý, như có thêm Hỏa Linh thì càng thêm tốt đẹp đại quý, nếu hãm địa thì bình thường, làm nghề khéo an thân.
Cự Môn miếu vượng phú quý, hãm địa thêm sát tinh thì làm việc đảo điên, việc lớn ít có thành tựu, tính tình thất thường, thích vặn vẹo bắt bẻ đúng sai, cả đời loay hoay với câu chữ miệng lưỡi bàn cãi.
Thiên Tướng miếu vượng thì cơm áo có thừa, là người đôn hậu hòa bình, thông minh tú lệ, được phú quý, hãm địa thì bình thường.
Thiên Lương chủ người ổn trọng, miếu vượng phú quý phúc thọ, hãm địa thì bình thường.
Thất Sát là người trầm ngâm, tính cương ngạnh, miếu vượng chủ phú quý, hãm địa thì nghèo khổ chết non, hình khắc lục thân.
Phá Quân miếu vượng phú quý, hãm địa bình thường cô đơn nghèo khổ, với người khác khó hóa hợp, thường chiêu chuốc thị phi.
Tả Phụ miếu vượng phú quý, rộng lượng khoan dung, vợ chồng hòa hợp, con cái cũng tốt, hãm địa cũng được bình ổn.
Hữu bật miếu vượng thì phát đạt tiền tài, là người tuấn tú, vợ chồng hiền thục, con cái quý hiển, siêu quần xuất chúng, nếu như đơn thủ hãm địa thì bình thường.
Văn Xương miếu vượng phú quý, là người tuấn tú, có chí đọc sách, hãm địa bình thường.
Văn Khúc chủ người đa học đa năng, miếu vượng phú quý, hãm địa thì chết non.
Khôi Việt chủ phú quý, người thường giàu có mà lại gần quý nhân.
Lộc Tồn là người trọng hậu, miếu vượng phú quý, tay trắng khởi nghiệp, hãm địa bình thường.
Hỏa Linh miếu vượng tính cương cường, hãm địa thì bần tiện, có mẹ nuôi mẹ kế thì thêm thọ, theo tăng đạo thì được phúc.
Địa Kiếp chủ người tính gấp gáp, chẳng tốt lành gì.
Địa Không chủ người tính tình thất thường, hay bảo thủ cố chấp, khó giữ được tổ nghiệp.
Kình Dương chủ hình thương, có nhiều cát thì còn tốt, hãm địa nhất định chiêu chuốc hung.
Đà La nhập miếu chủ quý phát đạt, hãm địa thì cô đơn nghèo khổ, tâm sự day dứt.
Thiên Hình chủ hình khắc.
Thiên Diêu nhập miếu chủ phong lưu, hãm địa thì đam mê tửu sắc.
Khoa Quyền Lộc đắc địa chủ phú quý, lạc hãm cũng bình thường.
Hóa Kị chủ cả đời lắm tai vạ, chẳng toại lòng, đắc địa thì bình thường.
Hai. Huynh Đệ
Tử Vi đắc địa Lộc Văn hòa,
Phủ Tướng Đồng Lương Tả Hữu đa,
Tham Vũ Hỏa Linh Liêm Sát Phá,
Hãm cung khỏi cần hỏi Dương Đà,
Phủ Tướng Đồng Lương anh em hòa,
Âm Dương Tả Hữu Lộc Văn đa,
Thiên Cơ Tham Lang không đồng lòng,
Hỏa Linh Sát Phá lại đến cùng.
Tử Vi hội Xương Khúc thì có 5 người (anh em), thêm Kình Đà Thất Sát Hỏa Linh, khiến cho cả 2 phía đều phá lẫn nhau, chẳng đắc lực trợ giúp, lại chủ có anh em dị bào.
Thiên Cơ miếu vượng có hai ba người anh em được hiển quý, hãm địa chỉ có 1 người, lại cũng chủ có anh em dị bào.
Thái Dương chủ có ba người, hãm địa chủ khắc nhau khó ở cùng, thêm tứ sát thì bất hòa.
Vũ Khúc chủ có hai người mà một người trong đó có lực, thêm Tứ sát Phá Quân Thất Sát chủ có anh em dị bào, dĩ nhiên cũng luận là không hòa hợp.
Thiên Đồng chủ có năm người, thêm Tứ sát thì khắc 2 người, gặp Thiên Lương thì chủ chị em gái chiêu được hiền phu.
Liêm Trinh miếu vượng chủ có hai người đắc lực, nhàn cung hãm địa thì khắc, thêm cát tinh thì một người kém hòa thuận.
Thiên Phủ miếu vượng chủ có năm người, thêm Tả Hữu Khúc Xương thì đắc lực, thêm Thất Sát Vũ Khúc thì chiêu oán, thêm Tứ Sát thì được hai người, hãm thì có anh em dị bào, cát vượng mà có thêm sát cũng khắc, ở nhàn cung thì anh em không sống gần nhau.
Thái Âm chủ có bốn năm người, hãm địa thêm sát thì không đắc lực, cũng có ba người.
Tham Lang miếu vượng có ba người, nhàn cung hãm địa chủ khắc nhau chẳng sống gần nhau, lại chẳng đồng lòng, kém hòa thuận, nếu người do vợ lẽ sinh ra thì lại cát.
Cự Môn chủ có hai ba người kém hòa thuận, nhập miếu mà có cát thêm Xương Khúc Tả Hữu thì đắc lực và hòa thuận.
Thiên Tướng có ba năm người, thêm Sát Kị thì ít người mà lại kém hòa thuận, khác mẹ, có cát tinh thì thân thiết, có Khôi Việt thì chủ anh em hiển quý.
Thiên Lương cô đơn chỉ được chị em gái, cùng với Thiên Đồng Tả Hữu nhiều cát tinh thì có hai người, thêm Kình Đà Hỏa Linh thì khắc.
Thất Sát chủ cô khắc, chỉ có chị em gái, thêm cát tinh thì có được một người, hợp với người anh em dị bào.
Phá Quân chủ khắc, thêm cát thì có hai ba người nhưng vẫn bất hòa, thêm Hỏa Kình thì cô độc.
Tả Phụ chủ có bốn năm người, thêm Phủ Khúc Xương cũng Hữu Bật thì đắc lực, thêm sát tinh chỉ có hai người.
Hữu Bật chủ có ba người, thêm Sát Vũ Đà HỎa thì chủ khắc và chẳng có lực, có anh em dị bào.
Văn Xương chủ có năm người, thêm Phủ Khúc Tả Hữu thì đắc lực, thêm Kình Đà thì xung khắc.
Văn Khúc chủ có năm người, thêm cát thì đắc lực, thêm Thất Sát Tứ Sát xung khắc bất hòa.
Hỏa Linh miếu vượng có hai ngườinh ưng không đắc lực, ở nhàn cung thì có một người nhưng hình khắc cô độc.
Kình Dương tuy có anh em nhưng anh em không tốt chủ tán bại gia đình, bất hòa hình khắc.
Đà La chủ với anh em hình khắc bất hòa.
Thiên Diêu chủ hình thương bất hòa.
Không Kiếp chủ không có anh em, thêm cát nhiều thì có.
Lộc Quyền Khoa Khôi Việt chủ anh em có người hiển quý.
Thanked by 5 Members:
|
|
#45
Gửi vào 12/01/2015 - 15:46
Ba. Phu Thê
Tử Phủ Đồng Lương và Tả Hữu,
Lộc Văn Nhật Nguyệt lưỡng tương nghi,
Tham Dương Thất Sát vào tam vị,
Linh Vũ Liêm Đà phu phụ ly.
Tử Vi chủ nam có vợ hiền, nữ có chồng hiển vinh, tề gia nội trợ vượng phu, có Kình Dương thì lấy chồng là trưởng hoặc hơn tuổi.
Thiên Cơ chủ nam có vợ nhỏ tuổi, tính cương, cưới sớm, nữ thì chủ lấy chồng là trưởng hoặc hơn tuổi, thêm Cự Hỏa Hình Kị thì bất hòa và sống xa nhau.
Thái Dương chủ vợ chồng hòa thuận, thêm tứ sát thì nam nữ đều khắc người hôn phối, nam chủ đa thê.
Vũ Khúc chủ nam có vợ tính gấp gáp, nữ chủ có chồng hiển quý, thêm tứ sát thì khắc hại, sống xa nhau.
Thiên Đồng chủ nam có vợ nhỏ tuổi, thông minh đẹp đẽ, cưới sớm, nữ chủ lấy chồng là trưởng hoặc hơn tuổi, vợ chồng hòa thuận tới già, hãm địa thì chủ hình khắc.
Liêm Trinh chủ nam khắc 3 vợ, nữ khắc 3 chồng, thêm tứ sát thì không hòa hợp, sống xa nhau.
Thiên Phủ chủ nam có vợ nhỏ tuổi, thông minh, nữ chủ chồng là trưởng hoặc hơn tuổi, thêm tứ sát chủ hình khắc, chậm muộn.
Thái Âm chủ nam có nhiều vợ thông minh đẹp đẽ, nữ chủ có chồng là con trưởng hoặc hơn tuổi, cưới sớm, nếu lạc hãm thêm hung sát thì khắc chồng khắc vợ.
Tham Lang chủ nam lấy vợ muộn, nếu lấy sớm thì sẽ khắc, thêm tứ sát thì sinh ly tử biệt, nữ chủ chồng là con trưởng hoặc hơn tuổi, hôn nhân chậm muộn.
Cự Môn chủ nam hình khắc vợ, người tính cương thì có thể hợp, nữ lấy chồng lớn tuổi hoặc là con trưởng thì có thể hợp. Nam gặp Lộc Quyền Xương Nguyệt thì chủ có thiếp, thêm tứ sát gặp Xương thì chủ khắc và ly biệt.
Thiên Tướng chủ đã thân quen từ trước mà nên duyên, nam nữ đều cát lợi, nam hợp vợ là con trưởng hoặc hơn tuổi, cưới sớm, không có sát tinh thì hài hòa đến già, thêm Kình Đà thì khắc.
Thiên Lương chủ nam có vợ là con trưởng hoặc hơn tuổi, hiền hậu nhưng tính cương cường, nữ chủ lấy chồng là con trưởng hoặc hơn tuổi tính cương, thêm quyền lộc thì cát lợi, thêm sát thì kém hòa thuận, có hình khắc.
Thất Sát chủ nam nữ đều khắc vợ chồng, lấy thật muộn thì cát lợi, thêm tứ sát thì nam khắc 3 vợ, nữ khắc 3 chồng, kém hòa thuận chẳng đẹp.
Phá Quân chủ nam nữ đều khắc, hợp cưới thật muộn, thêm tứ sát chủ xa cách, không có trợ lực của người hôn phối.
Tả Phụ chủ nam có vợ nhỏ tuổi, đôn hậu thông đạt, thấy Xương Khúc thì dung mạo đẹp, thấy Cơ Nguyệt thì nhiều vợ, nữ chủ chồng cát lợi, thêm tứ sát thì hình khắc.
Hữu Bật chủ nam có cợ thông minh tính cương, thấy Xương Khúc thì dung mạo đẹp, thấy Cơ Nguyệt thì nhiều vợ, nữ có thêm hình sát thì khắc chồng.
Văn Xương chủ nam có vợ nhỏ tuổi, thông minh đẹp đẽ, lại cũng chủ nhiều (vợ), thấy Khúc Cơ Đồng Cự thì dung mạo đẹp, thêm tứ sát thì thì khắc 3 vợ. Nữ chủ có chồng phú quý, thêm tứ sát nhưng "có đối" thì không bị hình khắc (QNB chú: nguyên văn là "hữu đối bất hình" 有對不刑, không rõ chữ "đối" ở đây ám chỉ nghĩa như thế nào. Có lẽ là ám chỉ lực lượng đối trọng với tứ sát là các cát tinh đến cứu giải. Độc giả lưu ý).
Văn Khúc chủ nam có vợ đẹp thông minh, cưới sớm, nữ chủ lấy chồng là con trưởng hoặc hơn tuổi, thấy Quyền Lộc Xương Cơ Nguyệt thì nam nhiều vợ, thêm tứ sát thì chủ khắc khẩu.
Lộc Tồn chủ nam nữ đều chậm hôn nhân nhưng cát lợi, thêm sát thì làm thiếp, có tư sát thì tất sẽ hình khắc.
Kình Đà nhập miếu chủ cát lợi, không nhập miếu thì khắc, thêm tứ sát Cự Cơ Vũ Sát thì sinh ly.
Hỏa Linh chủ nam nữ đều khắc vợ chồng, cưới muộn thì hôn nhân cát, thấy Dương Đà Thất Sát Cự Môn cũng hình khắc
Kiếp Không Kị miếu vượng thì nam nữ đều có hôn nhân cát lợi, thấy Sát Phá Liêm Tham thì hình khắc.
Lộc Quyền Khoa Khôi Việt chủ nam lấy vợ con nhà quan chức, nữ lấy chồng sang quý.
Bốn. Tử Tức
Tử Phủ Đồng Lương Vũ Khúc nhiều,
Liêm Trinh Tả Hữu điểm ngọc đẹp,
Cự Dương Phá Sát hại con đầu,
Lộc Tồn Thất Sát một hai nhánh,
Tham Dương Hỏa Linh định tổn thương,
Gặp chúng mừng vui tất thất thường,
Cơ Tướng ít con cuối đời ấy,
Kỵ Đà tất định ở ngoài nhà.
Tử Vi chủ có 3 nam 2 nữ, thấy Tả Hữu Xương Khúc chủ quý hiển, thêm Thất Sát thì có 2 con, nếu gặp Tứ Sát thì con vợ bé sẽ cát lợi.
Thiên Cơ chủ con của vợ bé hoặc con gái sẽ đắc lực, hoặc con gái tuyển được chồng tốt, thêm cát thì có 2 con, thêm tứ sát thì hình khắc con.
Vũ Khúc chủ khắc, thêm cát chủ một con tình cảm, con gái đắc lực, đến già thì được hai con do vợ bé sinh ra.
Thiên Đồng chủ nam nữ đều có 5 người, có cát thì thêm quý, gia tứ sát thì chỉ có 2 người đắc lực, thấy Lương Không thì chủ cô đơn nhưng vẫn được quý.
Thiên Phủ chủ nam nữ đều có 5 người, thêm Thất Sát Vũ Khúc thì chủ có 2 người, hợp với con do vợ lẽ sinh ra, thêm tứ sát thì không đắc lực.
Thái Âm miếu vượng chủ có 3 con, hãm địa chủ cô đơn lại cũng chẳng đắc lực, con do vợ lẽ hoặc con gái thì cát lợi, hoặc chủ có hai ba đứa dị bào, nếu độc cư cung Mão cũng có 3 con.
Tham Lang miếu vượng chủ nam nữ có 4 người, hãm địa cô khắc 1 con, là con vợ lẽ cũng không được đắc lực.
Cự Môn chủ nam nữ có 2 người, thêm tứ sát thfi khắc, thấy Thiên Đồng Tả Hữu thì con cái đắc lực thân thiết, con vợ lẽ phụng dưỡng tuổi già, nếu như hội Cơ Tả Hữu thì cũng có 5 con.
Thiên Tướng chủ 3 người, con gái đắc lực, nếu như gặp Thất Sát Phá Quân thì con muôn hoặc con do vợ lẽ sinh ra lại cát lợi.
Thiên Lương hợp sinh con gái đầu lại đắc lực, thấy Tả Hữu Xương Phủ thì có con do vợ lẽ sinh ra đắc lực, nếu như thêm tứ sát thì không đắc lực.
(thiếu Thất Sát)
Phá Quân chậm muộn khắc con, có con gái đắc lực, thêm tứ sát thì cô đơn, có cũng không đắc lực, nếu gặp cát tinh thì có 2 con do vợ lẽ sinh ra.
Tả Phụ chủ nam nữ có 5 người, thêm Xương Khúc Hữu Bật thì quý mà đắc lực, thêm Đà Hỏa thì có 2 người nhưng cuối đời hình thương.
Hữu Bật chủ nam nữ có 3 người, thêm Sát Vũ Hỏa Đà thì khắc hoặc có 1 người không đắc lực.
Văn Xương chủ có 5 người, thêm Khúc Phủ Tả Hữu chủ quý, thêm tứ sát thì khắc, có 2 con đưa tiễn tuổi già.
Văn Khúc chủ nam nữ 5 người, thêm cát thì đắc lực, thêm sát thì khắc.
Lộc Tồn chủ cô đơn con do vợ lẽ sinh ra, con gái đắc lực, gặp cát thì có một người.
Dương Đà chủ cô đơn, có cũng không đắc lực, con gái do vợ lẽ sinh ra thì đắc lực.
Hỏa Linh chủ cô khắc, thêm cát thì có một con, con gái do vợ lẽ sinh ra đắc lực.
Kiếp Không Hóa Kị chủ không có con.
Lộc Quyền Khoa Khôi Việt chủ sinh quý tử.
Tử Phủ Đồng Lương và Tả Hữu,
Lộc Văn Nhật Nguyệt lưỡng tương nghi,
Tham Dương Thất Sát vào tam vị,
Linh Vũ Liêm Đà phu phụ ly.
Tử Vi chủ nam có vợ hiền, nữ có chồng hiển vinh, tề gia nội trợ vượng phu, có Kình Dương thì lấy chồng là trưởng hoặc hơn tuổi.
Thiên Cơ chủ nam có vợ nhỏ tuổi, tính cương, cưới sớm, nữ thì chủ lấy chồng là trưởng hoặc hơn tuổi, thêm Cự Hỏa Hình Kị thì bất hòa và sống xa nhau.
Thái Dương chủ vợ chồng hòa thuận, thêm tứ sát thì nam nữ đều khắc người hôn phối, nam chủ đa thê.
Vũ Khúc chủ nam có vợ tính gấp gáp, nữ chủ có chồng hiển quý, thêm tứ sát thì khắc hại, sống xa nhau.
Thiên Đồng chủ nam có vợ nhỏ tuổi, thông minh đẹp đẽ, cưới sớm, nữ chủ lấy chồng là trưởng hoặc hơn tuổi, vợ chồng hòa thuận tới già, hãm địa thì chủ hình khắc.
Liêm Trinh chủ nam khắc 3 vợ, nữ khắc 3 chồng, thêm tứ sát thì không hòa hợp, sống xa nhau.
Thiên Phủ chủ nam có vợ nhỏ tuổi, thông minh, nữ chủ chồng là trưởng hoặc hơn tuổi, thêm tứ sát chủ hình khắc, chậm muộn.
Thái Âm chủ nam có nhiều vợ thông minh đẹp đẽ, nữ chủ có chồng là con trưởng hoặc hơn tuổi, cưới sớm, nếu lạc hãm thêm hung sát thì khắc chồng khắc vợ.
Tham Lang chủ nam lấy vợ muộn, nếu lấy sớm thì sẽ khắc, thêm tứ sát thì sinh ly tử biệt, nữ chủ chồng là con trưởng hoặc hơn tuổi, hôn nhân chậm muộn.
Cự Môn chủ nam hình khắc vợ, người tính cương thì có thể hợp, nữ lấy chồng lớn tuổi hoặc là con trưởng thì có thể hợp. Nam gặp Lộc Quyền Xương Nguyệt thì chủ có thiếp, thêm tứ sát gặp Xương thì chủ khắc và ly biệt.
Thiên Tướng chủ đã thân quen từ trước mà nên duyên, nam nữ đều cát lợi, nam hợp vợ là con trưởng hoặc hơn tuổi, cưới sớm, không có sát tinh thì hài hòa đến già, thêm Kình Đà thì khắc.
Thiên Lương chủ nam có vợ là con trưởng hoặc hơn tuổi, hiền hậu nhưng tính cương cường, nữ chủ lấy chồng là con trưởng hoặc hơn tuổi tính cương, thêm quyền lộc thì cát lợi, thêm sát thì kém hòa thuận, có hình khắc.
Thất Sát chủ nam nữ đều khắc vợ chồng, lấy thật muộn thì cát lợi, thêm tứ sát thì nam khắc 3 vợ, nữ khắc 3 chồng, kém hòa thuận chẳng đẹp.
Phá Quân chủ nam nữ đều khắc, hợp cưới thật muộn, thêm tứ sát chủ xa cách, không có trợ lực của người hôn phối.
Tả Phụ chủ nam có vợ nhỏ tuổi, đôn hậu thông đạt, thấy Xương Khúc thì dung mạo đẹp, thấy Cơ Nguyệt thì nhiều vợ, nữ chủ chồng cát lợi, thêm tứ sát thì hình khắc.
Hữu Bật chủ nam có cợ thông minh tính cương, thấy Xương Khúc thì dung mạo đẹp, thấy Cơ Nguyệt thì nhiều vợ, nữ có thêm hình sát thì khắc chồng.
Văn Xương chủ nam có vợ nhỏ tuổi, thông minh đẹp đẽ, lại cũng chủ nhiều (vợ), thấy Khúc Cơ Đồng Cự thì dung mạo đẹp, thêm tứ sát thì thì khắc 3 vợ. Nữ chủ có chồng phú quý, thêm tứ sát nhưng "có đối" thì không bị hình khắc (QNB chú: nguyên văn là "hữu đối bất hình" 有對不刑, không rõ chữ "đối" ở đây ám chỉ nghĩa như thế nào. Có lẽ là ám chỉ lực lượng đối trọng với tứ sát là các cát tinh đến cứu giải. Độc giả lưu ý).
Văn Khúc chủ nam có vợ đẹp thông minh, cưới sớm, nữ chủ lấy chồng là con trưởng hoặc hơn tuổi, thấy Quyền Lộc Xương Cơ Nguyệt thì nam nhiều vợ, thêm tứ sát thì chủ khắc khẩu.
Lộc Tồn chủ nam nữ đều chậm hôn nhân nhưng cát lợi, thêm sát thì làm thiếp, có tư sát thì tất sẽ hình khắc.
Kình Đà nhập miếu chủ cát lợi, không nhập miếu thì khắc, thêm tứ sát Cự Cơ Vũ Sát thì sinh ly.
Hỏa Linh chủ nam nữ đều khắc vợ chồng, cưới muộn thì hôn nhân cát, thấy Dương Đà Thất Sát Cự Môn cũng hình khắc
Kiếp Không Kị miếu vượng thì nam nữ đều có hôn nhân cát lợi, thấy Sát Phá Liêm Tham thì hình khắc.
Lộc Quyền Khoa Khôi Việt chủ nam lấy vợ con nhà quan chức, nữ lấy chồng sang quý.
Bốn. Tử Tức
Tử Phủ Đồng Lương Vũ Khúc nhiều,
Liêm Trinh Tả Hữu điểm ngọc đẹp,
Cự Dương Phá Sát hại con đầu,
Lộc Tồn Thất Sát một hai nhánh,
Tham Dương Hỏa Linh định tổn thương,
Gặp chúng mừng vui tất thất thường,
Cơ Tướng ít con cuối đời ấy,
Kỵ Đà tất định ở ngoài nhà.
Tử Vi chủ có 3 nam 2 nữ, thấy Tả Hữu Xương Khúc chủ quý hiển, thêm Thất Sát thì có 2 con, nếu gặp Tứ Sát thì con vợ bé sẽ cát lợi.
Thiên Cơ chủ con của vợ bé hoặc con gái sẽ đắc lực, hoặc con gái tuyển được chồng tốt, thêm cát thì có 2 con, thêm tứ sát thì hình khắc con.
Vũ Khúc chủ khắc, thêm cát chủ một con tình cảm, con gái đắc lực, đến già thì được hai con do vợ bé sinh ra.
Thiên Đồng chủ nam nữ đều có 5 người, có cát thì thêm quý, gia tứ sát thì chỉ có 2 người đắc lực, thấy Lương Không thì chủ cô đơn nhưng vẫn được quý.
Thiên Phủ chủ nam nữ đều có 5 người, thêm Thất Sát Vũ Khúc thì chủ có 2 người, hợp với con do vợ lẽ sinh ra, thêm tứ sát thì không đắc lực.
Thái Âm miếu vượng chủ có 3 con, hãm địa chủ cô đơn lại cũng chẳng đắc lực, con do vợ lẽ hoặc con gái thì cát lợi, hoặc chủ có hai ba đứa dị bào, nếu độc cư cung Mão cũng có 3 con.
Tham Lang miếu vượng chủ nam nữ có 4 người, hãm địa cô khắc 1 con, là con vợ lẽ cũng không được đắc lực.
Cự Môn chủ nam nữ có 2 người, thêm tứ sát thfi khắc, thấy Thiên Đồng Tả Hữu thì con cái đắc lực thân thiết, con vợ lẽ phụng dưỡng tuổi già, nếu như hội Cơ Tả Hữu thì cũng có 5 con.
Thiên Tướng chủ 3 người, con gái đắc lực, nếu như gặp Thất Sát Phá Quân thì con muôn hoặc con do vợ lẽ sinh ra lại cát lợi.
Thiên Lương hợp sinh con gái đầu lại đắc lực, thấy Tả Hữu Xương Phủ thì có con do vợ lẽ sinh ra đắc lực, nếu như thêm tứ sát thì không đắc lực.
(thiếu Thất Sát)
Phá Quân chậm muộn khắc con, có con gái đắc lực, thêm tứ sát thì cô đơn, có cũng không đắc lực, nếu gặp cát tinh thì có 2 con do vợ lẽ sinh ra.
Tả Phụ chủ nam nữ có 5 người, thêm Xương Khúc Hữu Bật thì quý mà đắc lực, thêm Đà Hỏa thì có 2 người nhưng cuối đời hình thương.
Hữu Bật chủ nam nữ có 3 người, thêm Sát Vũ Hỏa Đà thì khắc hoặc có 1 người không đắc lực.
Văn Xương chủ có 5 người, thêm Khúc Phủ Tả Hữu chủ quý, thêm tứ sát thì khắc, có 2 con đưa tiễn tuổi già.
Văn Khúc chủ nam nữ 5 người, thêm cát thì đắc lực, thêm sát thì khắc.
Lộc Tồn chủ cô đơn con do vợ lẽ sinh ra, con gái đắc lực, gặp cát thì có một người.
Dương Đà chủ cô đơn, có cũng không đắc lực, con gái do vợ lẽ sinh ra thì đắc lực.
Hỏa Linh chủ cô khắc, thêm cát thì có một con, con gái do vợ lẽ sinh ra đắc lực.
Kiếp Không Hóa Kị chủ không có con.
Lộc Quyền Khoa Khôi Việt chủ sinh quý tử.
Thanked by 7 Members:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
số buồn ! xưa nay nhân định thắng thiên ?số buồn |
Linh Tinh | kimpah |
|
||
Hỏi thăm bác vothienkhong |
Báo Tin | BiendoiQuyenluc |
|
||
Cho những ai còn mơ ước thiên đàng.. |
Giải Trí | Rey |
|
||
Sử Ký - Thiên Quan Thư |
Thiên Văn - Lịch Pháp - Coi Ngày Tốt Xấu | Quách Ngọc Bội |
|
|
|
Sao Thiên vương Uranus và vòng đời 84 năm |
Thiên Văn - Lịch Pháp - Coi Ngày Tốt Xấu | Elohim |
|
||
BẤM NGÀY GIỜ THIÊN CẨU HẠ THỰC |
Thiên Văn - Lịch Pháp - Coi Ngày Tốt Xấu | drtha |
|
|
4 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 4 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |