1. Thời gian:
- cung Dần đến Ngọ ứng vào ban ngày; cung Thân đến Tý ứng vào ban đêm.
- Trú tinh (Thái Dương) vào cung ban ngày, Dạ tinh (Thái Âm) vào cung ban đêm thì lá số TV hợp thời
- Sửu Mùi là nơi âm dương giao thoa, khi có Trú Dạ tinh cùng xuất hiện thì sinh cảnh hỗn loạn.
2. Không gian:
- Dương tượng (Thái Dương) vào cung âm, Âm tượng (Thái Âm) vào cung dương là cân bằng. Tuy nhiên, Âm Dương tượng luôn hoặc cùng nằm ở cung âm hoặc cùng ở cung dương trên lá số TV. Do đó, phải lấy 1 trong 2 sao làm chủ. Chọn Thái Dương vì Thái Âm là phụ cho Thái Dương. Chấp nhận giả thiết trên, khi Thái Dương nhập âm cung, lá số hợp vị.
B. Giả thiết trên có lý hay không?
-Cùng xem bảng đưới đây: vị trí của sao Thái Dương và độ đắc hãm của các tinh đẩu còn lại. Lưu ý để đơn giản hóa việc phân tích, chỉ có 3 trạng thái: đắc, bình, và hãm. Lưu ý: một số sao có trạng thái đắc hãm không giống như nhiều sách TV đã trình bày. Lý do sẽ trình bày dưới đây.
Một số quy luật có thể nhận ra dễ dàng từ bảng tinh đẩu đắc hãm đính kèm :
i. Thái Dương & Thái Âm cùng đắc hoặc hãm
ii. Thái Dương ở cung dương thì Liêm & Tướng đều ở cung âm và hãm; Thái Dương ở cung âm thì Liêm Tướng đều ở cung dương và đắc.
iii. Khi Tử Vi ở cung dương thì đồng cung với Thiên Phủ hoặc Thiên Tướng và ở trạng thái đắc. Nhưng khi ở cung âm thì đồng cung với Sát/Phá/Tham và trở thành bình.
iv. Cự Môn và Thiên Đồng cùng đắc hoặc cùng hãm
v. Tham Lang và Vũ Khúc cùng đắc hoặc cùng hãm
vi. Số lượng tinh đẩu ở trạng thái đắc là cao nhất khi Thái Dương vừa hợp thời (nằm ở cung ban ngày) và hợp vị (nằm ở cung âm) ~ Tỵ (0 sao hãm).
- Quy luật (i) giống như cách an sao của tiền nhân
- Quy luật (ii) có thể suy ra từ tính ngũ hành và cương nhu của 3 sao này. Thái Dương dương hỏa vào cung dương thì thể quá thịnh. Liêm Trinh âm hỏa vào cung âm thì thể quá nhu. Một đằng là tượng của người quân tử hữu dũng vô mưu, một đằng là tiểu nhân mặt lạnh mưu mẹo đầy âm sát. Thiên Tướng tuy là dương nhưng vốn tính thủy, theo cách an sao thì phải dựa vào Thiên Phủ thổ để định cát hung. Do đó suy ra Thiên Tướng dễ bị lay động, thiếu chủ trương. Để gia cố Thiên Tướng thì sao này cần phải nằm ở cung Dương.
- Quy luật (iii) đi ngược lại với nhiều cách định đắc hãm của tiền nhân. Lý do là vì: Tử Vi vốn không đồng đạo với Sát Phá Tham, nằm lẫn lộn thì dễ ra cảnh: "nửa nạc nửa mỡ" hoặc "nửa ông nửa thằng", .v.v tùy theo tổ hợp. Theo lý ngũ hành thì Phá Quân thủy, Thất Sát kim, Tham Lang Thủy/Mộc đều làm TV phải sinh xuất hoặc khắc xuất, tổn hao nguyên khí. Thiên Tướng tuy cũng là thủy nhưng nó tương tác với các tinh đẩu hành thổ hơi khác biệt (dựa dẫm và bổ trợ cho thổ tinh khác vd như Thiên Phủ, Lộc Tồn) do đó Thiên Tướng không gây tổn thất cho TV như cách Phá Quân ảnh hưởng.
* Tuy nhiên, khi ta quan sát trường hợp Tử Tướng đồng cư Thìn Tuất thì sẽ thấy Âm Dương đồng tranh Sửu Mùi. Có một số sách nhận định rằng Tử Tướng Thìn Tuất là cách dễ làm phản, dễ tham gia cách mạng (vd như 1 lá số nổi tiếng có liên quan đã từng tốn nhiều giấy mực của các nhà TV). Phần biểu hiện thì như đã thấy nơi người thật việc thật, còn phần lý thuyết thì sao. Chú ý rằng khi Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi thì Thiên Lương hãm ở Tỵ Hợi. Thiên Lương đắc ở 10 cung nhưng chỉ có ở Tỵ Hợi là hãm. Hẳn phải có nguyên nhân sâu xa. Theo thiển ý cá nhân, Nhật Nguyệt là nguồn của trí tuệ (thủy hỏa ký tế sinh trí). Khi Nhật Nguyệt hãm thì khó sáng suốt, Nhật Nguyệt đắc thì dễ sáng suốt. Khi Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi thì tâm lý đối với 1 chủ thể nào đó dễ giao động, lúc mờ lúc ảo, lúc muốn phục tùng lúc muốn đả đảo. Mà 1 thì nước bẩn cho vào 1 thùng rượu thì sẽ cho ra 1 thùng nước bẩn nên chỉ cần 1 tia ý đồ phản động xuất hiện thì sẽ ...
- Quy luật (iv) và (v) cũng khác với cách an sao thông thường. Lý do vĩ mô là do mỗi cặp trong 2 bộ sao này di chuyển thành cặp như cách mà cặp Âm Dương di chuyển trên lá số do đó suy luận rằng chúng phải cùng đắc hoặc hãm. Lại thấy rằng trong cách an của cổ nhân, Cự Đồng luôn cùng đắc hoặc hãm trừ trường hợp Cự thân Đồng ngọ và Tham ở Tý Ngọ cung (ngoại lệ không hợp lý).
1) khi Cự Nhật ở Thân thì Cự hãm (và Đồng cũng hãm) thay vì đắc. Tại sao không phải là Đồng đắc ở Ngọ (Đồng Âm). 2 lý do: Nhật ở Thân hãm nên không thể giải ám tính của Cự Môn dù đồng cung; Ngọ cung hỏa cực vượng nên Thiên Đồng khó có khả năng đắc
2) Vũ Khúc ở Thân và Dần đều đắc nhưng tại sao Tham ở Ngọ và Tý không đắc? Có sách Tử Vi nhận định rằng vì Ngọ là nơi ở của Hoàng Đế mà Tham Lang thuộc loại quân thần thấp kém hoặc phận đĩ điếm không xứng đáng đứng nơi được trọng vọng. Lại có nhận định rằng Tham Lang tính mộc, nếu nằm nơi thủy vượng lại hóa cảnh thủy đa trôi mộc, cuộc sống bập bềnh vô định.
Lý thứ nhất không cho Tham Lang ở Ngọ đắc địa mang tính cổ hủ, không phù hợp với XH hiện đại. Lại nói, giả sử như Tham Lang quả thực là tiểu nhân đi chăng nửa và hắn ta leo lên được đến ngai vàng cung Ngọ, từ góc độ quần chúng hắn quả thực đáng ghét, nhưng từ góc độ của hắn ta thì há chẳng phải tiểu nhân đắc chí sao? Nếu bản thân ta có cung mạng là Tham Lang cư Ngọ sao lại nói là số xấu cơ chứ, sao lại nói Tham Lang hãm địa được?!
Lý thứ hai nặng tính hình tượng nhưng cũng hàm chứa lý ngũ hành trong đó. Tuy nhiên không có nghĩa là tôi đồng ý với lý đó. Tại sao mạng Tử Vi vào cung Ngọ hỏa tức là đúng ngôi vua, ngũ hành hợp lý là tốt mà mạng Tham Lang vào cung Tý thủy đúng ngôi phong lưu tiêu diêu tự tại, tinh thần thông suốt, ngũ hành tương sinh lại xấu
Từ 2 lý do này + lý do liên quan đến sự đồng bộ của Vũ Khúc và Tham Lang, tôi nghĩ rằng Tham Lang phải đắc ở Tý và Ngọ.
- Quy luật (vi): thật ra Thái Dương tại Mão cũng thỏa mãn 2 điều kiện hợp thời và hợp vị nhưng có khuyết điểm - 2 cung VCD tại Mùi và Dậu. Cứ cho rằng cung VCD được Âm Dương chiếu là tốt thì chỉ có mỗi cung Mùi được hưởng đặc ân này. Còn cung Dậu thì chỉ được hưởng ánh sáng từ Dương Lương từ cung Mão.
* Nói thêm về Thái Dương tại Hợi: Thái Dương hợp vị nhưng không hợp thời. Tuy nhiên so với Thái Dương tại Mão thì số lượng sao hãm là như nhau (4 sao) tuy có chút ít khác biệt:
TD tại Hợi: sao hãm bao gồm Âm Dương Cự Đồng
TD tại Mão: sao hãm bao gồm Cự Đồng Sát Phá + 2 VCD (nếu chấp nhận giả thiết Tham Lang đắc tại Tý)
Tóm tắt bằng phương trình như sau:
Thái Dương đắc + Thái Âm đắc + Sát hãm + Phá hãm + 2 VCD = Thái Dương hãm + Thái Âm hãm
mà ta biết:
(i) Thái Dương + Thái Âm + thời = Thái Dương đắc + Thái Âm đắc
(ii) Thái Dương + Thái Âm - thời = Thái Dương hãm + Thái Âm hãm
giả thiết (iv)Sát - nhẫn = Sát hãm
(v) Phá - nhân = Phá hãm
(vi) VCD = do dự, mông lung
-->
2 thời + Sát + Phá - nhẫn - nhân + 2 VCD = 0
2 thời + Sát + Phá = nhẫn + nhân - 2 (do dự)
Giả thiết - 2 (do dự) = dũng
~> Muốn có được sức mạnh và sự thành công như của Sát và Phá trong lúc lên như diều gặp gió thì ta chỉ cần lòng nhân, tính nhẫn nại, và lòng dũng cảm.
Sửa bởi uchihakula: 06/09/2014 - 17:58