QNB chú:
Lược bỏ không dịch những phần luận về cung độ và các sao di chuyển trên cung độ, vì đó là chuyên sâu của môn Thất Chính Tứ Dư, không mấy có ích cho chúng ta so sánh, liên hệ với môn Tử Vi. Đại khái phần này bao gồm:
- Luận về thời gian Sóc Vọng, Hối Minh của Nhật Nguyệt.
- Thái Dương thì mỗi ngày đêm đi một độ, một tháng đi 1 cung, 1 năm đi hết vòng chu thiên.
- Thái Âm thì mỗi ngày đêm đi 13 độ, 2 ngày rưỡi thì đi được 1 cung, 1 tháng đi hết vòng chu thiên.
- Tuế Tinh (tức sao Mộc - Mộc Đức - Jupiter), đi thuận 5 ngày đi 1 độ, ước chừng mỗi năm 1 cung, 12 năm đi hết một vòng chu thiên.
- Huỳnh Hoặc (tức sao Hỏa - Vân Hán - Mars), đi thuận 1 ngày rưỡi đi 1 độ, ước chừng 2 tháng 1 cung, 2 năm đi hết một vòng chu thiên.
- Trấn Tinh (tức sao Thổ - Thổ Tú - Saturn), đi thuận 10 ngày 1 độ, ước chừng 28 tháng 1 cung, 28 năm đi hết một vòng chu thiên.
- Thái Bạch (tức sao Kim - Venus), đi thuận mỗi ngày 1 độ, ước chừng mỗi tháng 1 cung, mỗi năm đi 1 vòng chu thiên.
- Thần Tinh (tức sao Thủy - Thủy Diệu - Mercury), đi thuận mỗi ngày một độ, ước chừng mỗi tháng 1 cung, mỗi năm 1 vòng chu thiên.
(QNB chú: 7 sao trên gọi là Thất Chính, còn 4 sao dưới đây là Tứ Dư - tức là 4 hư tinh, La Hầu & Kế Đô chính là giao điểm của quỹ đạo tạo ra Nhật Nguyệt thực, còn Tử Khí & Nguyệt Bột là hiện tượng sao chổi và sao băng. Các sao này đều có trong hệ thống của Chiêm Tinh Vệ-Đà)
- Tử Khí, 29 ngày đi một độ, ước chừng 19 tháng đi 1 cung, 29 năm đi 1 vòng chu thiên.
- Nguyệt Bột, 9 ngày đi 1 độ, 9 tháng đi 1 cung, 9 năm đi 1 vòng chu thiên.
- La Hầu, 18 ngày đi 1 độ, 18 tháng đi 1 cung, 18 năm đi 1 vòng chu thiên.
- Kế Đô, 18 ngày đi 1 độ, 18 tháng đi 1 cung, 18 năm đi 1 vòng chu thiên.
Ngoài ra, đối với phương pháp luận của môn này thì sách cũng đề cập đến việc xét tam phương tứ chính thông qua việc Xung chiếu, Củng chiếu, Giáp cung, Sinh Khắc Chế Hóa, Suy Vượng,... tựa như là trong khoa Tử Vi Đẩu Số.
Cường cung được coi là: Mệnh, Quan, Điền, Phu Thê, Tử Tức, Phúc Đức, Tài Bạch.
Nhược cung gồm có: Huynh Đệ, Nô, Tướng Mạo, Thiên Di.
Sau đây chúng ta sẽ đến với Trương Quả Tinh Tông phần 2. Với nội dung rất thú vị về các Thần-Sát và cách bài bố của chúng, trong đó có khá nhiều liên quan tới bộ môn Tử Vi Đẩu Số.
**********
TQTT 2
Chư tinh khởi lệ (định lệ khởi an các sao), sau này thì chư tinh khởi lệ đều tuân theo Thiên Can của năm làm chủ.
* Biến diệu
Giáp hỏa ất bột bính chúc mộc,
Đinh thị kim tinh mậu thượng cầu.
Kỷ nhân thái âm canh thị thủy,
Tân khí nhâm kế quý la hầu.
(Giáp thì Hỏa Tinh biến,
Ất thời Nguyệt Bột biến,
Bính thì Mộc Đức biến,
Đinh thì Kim Tinh (Thái Bạch) biến,
Mậu thì Thổ Tinh (Thổ Tú) biến,
Kỷ thì Thái Âm biến,
Canh thì Thủy Diệu biến,
Tân thì Tử Khí biến,
Nhâm thì Kế Đô biến,
Quý thì La Hầu biến).
Ca quyết viết:
Lộc, ám, phúc, hao, ấm,
Quý, hình, ấn, tù, quyền.
Hỏa, bột, mộc, kim, thổ,
Nguyệt, thủy, khí, kế, la.
Giả như, người sinh năm Giáp, muốn suy ra sao nào hóa Quý, thì theo bài trên sẽ thấy từ Lộc tới Quý là chữ thứ 6, lại cũng lần lượt từ các sao Hỏa Tinh trong bài trên là từ chữ Hỏa mà đếm đến chữ thứ 6 là chữ Nguyệt thì đó là sao Thái Âm, nó hóa Quý và năm Giáp.
Ngoài ra thì cứ phỏng theo 2 bài đó.
Phàm đương niên mà sao nào biến làm Thiên Lộc, thì chính là sao ấy quản về Quan Lộc vậy.
Biến làm Ám thì nó chủ Tướng Mạo,
Biến làm Phúc thì nó chủ Tài Bạch, Phúc Đức, Thiên Di,
Biến làm Hao thì nó chủ Huynh Đệ,
Biến làm Ấm thì nó chủ Thê Thiếp,
Biến làm Quý thì nó chủ Tử Tức,
Biến làm Hình thì nó chủ Nô Bộc,
Biến làm Ấn thì nó chủ Điền Trạch,
Biến làm Tù thì nó chủ Tật Ách,
Biến làm Quyền thì nó chủ Mệnh cung,
Cái này chính là Biến Diệu sở thuộc vậy,
Nguyên nhân là ở cái kho cải quản các tinh vân.
- Thiên Lộc
Kẻ sĩ mà gặp được thì chủ được hưởng thực lộc, bổng lộc. Còn kẻ thứ dân mà có thì cũng chủ hưởng phúc.
Lộc chủ đương sinh nhập mệnh cung,
Điền tài vượng khí đại hanh thông.
Quan tinh cánh tại cao cường vị,
Niên thiếu thanh danh đạt thánh thông.
(Năm sinh mà Lộc nhập Mệnh cung,
Tiền tài ruộng đất vượng hanh thông
Quan lộc thăng chức lên cao vị
Niên thiếu thanh danh được hanh thông).
Phàm Lộc chủ với quan Lộc mà sáng sủa tốt lành, nhất là cư ở 7 cường cung, thứ nhì là hợp chiếu vào Mệnh, thứ ba là mừng thuận hành, thứ tư là miếu vượng, thứ năm là quan trọng nạp âm năm sinh lại được ở chỗ các cung Tràng Sinh, Lâm Quan, Đế Vượng, thì chủ đại phú quý. Còn nếu như mà ở 5 nhược cung, hoặc là nhập 4 sát vị, thêm nữa là vận đi nghịch, đó là nguyên nhân khiến cho phúc chẳng được thuần, chủ nhân đình trệ, chẳng được toại ý.
- Thiên Ám,
Nó làm cát tinh hóa hung cho nên cát mà chẳng được tốt là vậy.
Phú quý nhân hà phúc bất vinh,
Chích duyên mệnh lý ám thương tinh.
Cao cường giai thị vi hung ác,
Nhập hãm cô cao họa tự khinh.
(Phú quý vì sao phúc chẳng vinh
Chỉ vì mệnh lý Ám hại tinh
Càng mạnh thì nó càng hung ác
Nhập hãm đơn côi, họa lại vơi).
Thường thì Thiên Ám tinh với Tướng Mạo cùng tương thôi, sao ấy tối kị ở tại Quan cung cùng với Quan Khôi Văn tinh, Thân Mệnh mà gặp thì đều không được phát đạt.
- Thiên Phúc,
Là nền tảng của Phúc, Đức, cũng là cái đức của lãnh tụ, có tất được phúc thọ vậy.
Thân cung cập mệnh phúc tinh lâm,
Miếu vượng cao cường hưởng phúc thâm.
Nhược ngộ hãm cung tịnh ác diệu,
Vinh hoa tiêu thước họa nan cấm.
(Thân cung cùng Mệnh, Phúc tinh lâm
Miếu vượng cao cường hưởng phúc thâm
Nếu gặp hãm cung cùng ác diệu
Vinh hoa mất đẹp, họa khó cấm)
Phàm Thiên Phúc dự vào chỗ Phúc Đức, Tài Bạch, Thiên Di mà cùng tốt đẹp, hợp chiếu Phúc Đức là hay nhất, chiếu vào Thân Mệnh thì là kém hơn chút, ở Tử Tức cung mà gặp cũng là thượng cát. Tại miếu vượng mà lại kiêm đi thuận thì đoán là phúc, còn như hãm nhược cùng đi nghịch thì đoán kém hơn.
- Thiên Hao,
Thiên hao chi tinh bất khả phùng,
Sinh lai tài bạch hóa vi không.
Nhược lâm quý địa tịnh quyền lộc,
Thượng tự khu khu đãi hạn thông.
(Thiên Hao sao ấy chẳng nên phùng
Khiến cho tài bạch hóa thành không
Nếu lâm quý địa cùng quyền lộc
Gạo còn một đấu để mà đong).
Thường thì Thiên Hao tinh với Huynh đệ cung tương thôi, sao này là thần của hao tài, là nguyên cớ khiến cho huynh đệ phải cưu mang, rất kị lâm vào hai cung Điền và Tài, các cung khác thì không đến nỗi quá tệ hại.
- Thiên Ấm,
Chủ phụ mẫu, vinh quý mà được ấm phong cho con cháu.
Ấm tinh bàng trứ hữu thao trì,
Tu thị cao cường miếu vượng thì.
Phúc lộc ấn quyền tịnh quý hội,
Quan vinh cực phẩm diệu thiên trì.
(Ấm tinh cũng khéo giỏi lược thao
Nên nơi miếu vượng nó lâm vào
Phúc, Lộc, Ấn, Quyền cùng Quý hội
Thềm rồng vinh hiển tước quan cao)
Thường thì Thiên Ấm tinh với Thê Thiếp cùng tương thôi, hỉ nhập Sinh Vượng cung được thê tài. Nhập vào chỗ Tử Tuyệt cung thì chủ bệnh; đi thuận thì cát mà đi nghịch thì hung. Tại 7 cường cung mà gặp thì hay, ở 5 nhược cung thì bất lợi, sao này mà cư Thiên Di thì chủ về chàng rể, tại Nô bộc thì không hợp với chính hôn, ở các cung tứ chính thì chủ có thê tài, nếu không có ác tinh xâm phạm thì phu thê giai lão vậy.
- Thiên Quý,
Ở chỗ giáp với cát tinh thì chủ sang quý, còn nếu có hung tinh củng chiếu hay giáp thì sẽ hèn.
Thân ngộ cao cường cập ấn quyền,
Mệnh cung tam hợp canh tương liên.
Quý đa hình thiểu cư quan lộc,
Chức vị vinh hoa lộc canh thiên.
(Thân gặp sáng đẹp với Ấn, Quyền
Mệnh cung tam hợp thêm tương liên
Quý nhiều hình ít cư Quan lộc
Chức vị vinh hoa, lộc triền miên).
Thường thì Thiên Quý tinh với Tử Tức cùng một lối, nếu sao này mà cư vào 7 cường cung và thuận hành, lại miếu vượng, cùng với gặp được Quý nhân Lộc Mã thì chủ sinh quý tử; nếu tại Thiên Di Nô Bộc Huynh Đệ cung thì chủ con riêng; hoặc lại 5 nhược cung lại bị ác diệu hình phá thì thường chủ thương khắc; thêm Tử Tức cung có sao hãm thì chủ tuyệt tự; còn Tử Tức cung mà có sao tốt thì lại có con.
- Thiên Hình,
Chủ tội phạm, đạo tặc, đạo chích, ám sát,...
Thiên hình nhược hãm tối vi ác,
Thân mệnh điền trạch phạ phùng trứ.
Hạn lâm tất chủ thân bất toàn,
Kình diện văn thân phương miễn khước.
(Thiên Hình nếu hãm thì rất ác
Thân Mệnh, Điền trạch chớ nên gặp
Hạn lâm tất chủ thân khó vẹn
Thích chữ, xăm mình, không tránh được).
- Thiên Ấn,
Mừng gặp Quan Lộc và các sao cùng loại.
Sinh lai tu hữu hoàng ân mệnh,
Quan lộc cao cường lại thử tinh.
Nhược ngộ khoa danh khoa giáp quý,
Nhân tư thực lộc bá vương đình.
(Cuộc đời mà được hưởng hoàng ân
Quan lộc cao cường nhờ Ấn tinh
Nếu gặp Khoa Danh cùng giáp Quý
Là được thực lộc chốn vương đình).
Thường thì Thiên Ấn với Điền Trạch đều cùng một lối, sao ấy mừng cư vào cung Điền Trạch, cùng với 7 cường cung, nhập miếu sinh vượng địa thì chủ nhiều sản nghiệp. Còn nếu như nghịch lưu vô khí lại thêm nhàn hãm, hung tinh hội chiếu thì không được hưởng tổ nghiệp.
- Thiên Tù,
Nếu gặp phải Quán Sách Tướng Tinh thì chủ hoạn nạn lao ngục.
Thiên tù nhược tại tứ hình cung,
Nùng huyết thương tàn mệnh yêu chung.
Nhược thị thọ tinh lâm chiếu trứ,
Dã tu vi phúc bất vi hung.
Thường thì Thiên Tù với Tật Ách cùng tương thôi, sao này không nên nhập vào 7 cường cung, cùng với đi nghịch hoặc lâm Thân, chiếu Mệnh. Nếu gặp Tử Vi tinh Mộc tinh thì vẫn có tính tù nhưng bản tính thì lại thiện, người tuổi Mậu Quý ít chịu ảnh hưởng từ họa của nó.
- Thiên Quyền,
Chủ chấp chưởng chức quyền sinh sát, chủ có uy quyền.
Quyền tinh ngộ quý tại cao cường,
Túng hữu hình tù diệc bất phương.
Canh ngộ hợp cung cao cách cục,
Định tu quan đáo tử vi lang.
(Quyền tinh ngộ Quý tại miếu cung
Dẫu có Hình Tù cũng không ngại
Thêm gặp hợp chiếu cách cục tốt
Định rằng quan đến cẩm tía bào)
Thường thì Thiên Quyền tinh với Mệnh cùng 1 lối, nếu sao này chiếu Mệnh Thân lại nhập miếu, đi thuận, thì chủ đắc quý nhân phù trì, lại thêm Thái Dương Phúc Lộc đồng cung thì đẹp vô cùng tận.
(QNB chú: đã hết 10 Biến Tinh, các sao do Thất Chính Tứ Dư biến ra theo Thiên Can của năm)
- Thiên Ất
Thiên ất quý nhân giáp kiến mùi,
Mậu Canh tại sửu, Ất thân vị.
Kỷ tý, Bính dậu, Tân cư dần,
Đinh hợi, Nhâm thố, tị phùng Quý.
Thiên ất quý nhân tức là trú quý nhân (quý nhân ngày) vậy.
- Ngọc đường
Ngọc đường quý nhân giáp kiến sửu,
Mậu Canh tại mùi, Đinh cư dậu.
Bính hợi, Ất tý, Kỷ phùng thân,
Nhâm tị, Quý mão, Tân ngọ thủ.
Ngọc đường quý nhân tức là dạ quý nhân (quý nhân đêm) vậy.
QNB bình chú:
Chỗ 2 sao Thiên Ất quý nhân và Ngọc Đường quý nhân này, khiến cho chúng ta liên hệ ngay đến cặp quý nhân Khôi Việt trong Tử Vi Đẩu Số.
Đa số các sách TVĐS dùng cách an Khôi - Việt như sau:
Dựa vào Thiên Can năm sinh. Dùng khẩu quyết
Giáp Mậu Canh ngưu dương
Ất Kỷ thử hầu phương
Bính Đinh trư kê vị
Lục Tân phùng mã hổ
Nhâm Quý thố xà tàng
Lần lượt theo thứ tự mà an Khôi trước Việt sau.
Ngưu = Trâu, tức ám chỉ cung Sửu. Dương = Dê, tức ám chỉ cung Mùi.
Thử = Chuột, ------------------------- Tý. Hầu = Khỉ, ------------------------ Thân.
Trư = Lợn, --------------------------- Hợi. Kê = Gà, -------------------------- Dậu.
Mã = Ngựa, ------------------------- Ngọ. Hổ = Hổ, ------------------------- Dần. (lục Tân = 6 năm Tân trong 60 Hoa Giáp).
Thố = Thỏ, -------------------------- Mão. Xà = Rắn, ------------------------ Tị.
Ta đều nhận thấy, lời thơ trong bài khẩu quyết an Khôi-Việt trong Tử Vi Đẩu Số không có nói rõ an Khôi ở đâu, Việt ở đâu, cách diễn nghĩa sau đó mà trước nay vẫn dùng đều là mặc định hiểu "Khôi trước, Việt sau". Điều này khiến cho không ít người cảm thấy băn khoăn và khó hiểu khi muốn tìm quy luật bản chất của chúng.
Nay ta xét bài an Thiên Ất và Ngọc Đường trong môn Thất Chính Tứ Dư (phái Quả Lão này) và xét phương pháp an "Thiên Ất quý nhân" trong các môn khác thì sẽ thấy đúng như QNB đã từng đề cập:
Xét về bát quái Tiên Thiên và bát quái Hậu Thiên khi chúng phối với 12 cung địa bàn: Khôn thổ xuất Thiên Ất Quý Nhân (viết tắt: QN), tính chất của QN là chẳng tọa Võng La và không đến nơi Xung với sinh vị.
- Tiên Thiên Bát Quái, Khôn thổ tại Tý, phối với Giáp Kỷ hợp hóa. Kể là Kỷ sinh Dương Quý Nhân tại Tý, hành thuận sẽ có: Canh sinh QN tại Sửu, Tân sinh QN tại Dần, Nhâm sinh QN tại Mão, (Thìn = La, Thiên Cương thì QN chẳng ở), Quý sinh QN tại Tị, (Ngọ xung Tý là nơi sinh QN nên nó không đến), Giáp sinh QN tại Mùi, Ất sinh QN tại Thân, Bính sinh QN tại Dậu, (Tuất = Võng, Hà Khôi thì QN chẳng ở), Đinh sinh QN tại Hợi, Mậu sinh QN tại Sửu.
- Hậu Thiên Bát Quái, Khôn thổ tại Thân, Phối giáp Kỷ hợp hóa. Kể là Kỷ sinh Âm Quý Nhân tại Thân, hành nghịch sẽ có: Canh sinh QN tại Mùi, Tân sinh QN tại Ngọ, Nhâm sinh QN tại Tị, (Thìn QN chẳng ở), Quý sinh QN tại Mão, (Dần xung Thân là nơi sinh QN nên nó không đến), Giáp sinh QN tại Sửu, Ất sinh QN tại Tý, Bính sinh QN tại Hợi, (Tuất QN chẳng ở), Đinh sinh QN tại Dậu, Mậu sinh QN tại Mùi.
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Phương pháp này thống nhất trong khá nhiều bộ môn, và nó thỏa mãn bài ca quyết:
Giáp Mậu Canh, ngưu dương
Ất Kỷ, thử hầu phương
Bính Đinh, trư kê vị
Lục Tân phùng hổ mã
Nhâm Quý, thố xà tàng
Thử thị quý nhân phương.
và đồng thời xác định được rõ Khôi an ở đâu và Việt an ở đâu. Có quy luật và biện chứng.
QNB không biết học giả Thiên Kỷ Quý biện luận cụ thể như thế nào, nhưng QNB biết là ông ấy cũng sử dụng cách an giống như trên.