Diễn dịch lại lời các quẻ - hào Chu Dịch /2014
#46
Gửi vào 23/05/2014 - 14:58
Cấu là gặp gỡ, theo sách Ngô Tất Tố thì các tiên nho cho biết trong các bản cổ dùng chữ cấu khác có nghĩa dâu gia (nam nữ giao hợp).Quẻ này đa số nho gia hậu thế hiểu rất thiên kiến là âm nữ, tiểu nhân xấu xa làm lũng đoạn thời thế.Nhưng nhìn tượng hình thì chính là sau dương cực (kiền) âm bắt đầu xuất hiện đúng lẽ thiên nhiên , nên cấu mượn hình tượng nam gặp nữ để điều chỉnh dương cương.
Lời quẻ: Cấu, nữ tráng.Vật dụng.Thú nữ.
dịch : Cấu hợp, âm mạnh lên.Chớ làm nữa.Lấy vợ.
Lời này hay bị ngắt sai " vật dụng thú nữ " thành 1 câu liền: chớ lấy gái ấy. " Nữ tráng " thì được hiểu sái thành nữ ham tính dục. Trong khi lời quẻ thật ra cho thấy thanh niên đã lớn , đã có sự nghiệp thì nên lấy vợ, lập gia đình theo đúng lẽ tự nhiên mà phát triển.đừng vì ham hố công danh sự nghiệp bên ngoài mà quên đạo làm người.Lấy vợ theo Chu Dịch là nên học nhu nhã, mềm mỏng, cảm thông hơn. Tôi theo cách hiểu của Dịch truyện (xem Nguyễn Hiến Lê dẫn ) , không theo cách hiểu hậu thế.
Hào 1 : Hệ vu kim nị, trinh cát.Hữu du vãng.Kiến hung.Luy thỉ phu trịch trục.
dịch : Giữ lại bằng cái dây hãm xe bằng đồng, đoán tốt.Có chỗ đi. Thấy (nên ) đóng. Con lợn (còn ) gầy nhưng hãy tin rằng nó sẽ lớn dần .
Tôi dịch lời này theo nghĩa đây là hào âm duy nhất vừa nảy nở , theo cái nhìn của nó thì nên chậm, dần dà mới bớt dương cương. Nhưng đứng về phía dương cương bối rối thì vế sau có thể giảng là : " ... Thấy (bị ) đóng. con lợn gầy (nhưng ) lòng tin đã giao động ".
Hào 2 : Bao hữu ngư.Vô cữu. Bất lợi tân.
dịch : Trong bọc có cá.Không lỗi. Chẳng nên làm khách.
Hào này cận hợp hào sơ nên dễ dàng chấp nhận ở nhà không đi ra ngoài.
Hào 3 : Đồn vô phu. Kỳ hành từ thư.Lệ.Vô đại cữu.
dịch : Đít không da. Việc làm chậm lại.Nguy. Không lỗi lớn.
Lời hào này tựa như lời hào 4 quẻ cặp Quải.Ý nói khó khăn làm mình chậm lại .Nhưng vẫn còn vọng động nên phê nguy.Không lỗi lớn vì cái thế bắt ta phải chậm lại.
Hào 4 : Bao vô ngư. Khởi hung.
dịch : Bọc không có cá. Dấy lên, đóng.
Hào này ứng với hào sơ âm nên càng bị kềm hãm dữ.Nhìn theo âm thì nên vậy , ở đây nhìn theo dương thì cho là xấu.
Hào 5 : Dĩ kỷ bao qua.Hàm chương.Hữu vận tự thiên.
dịch : Cây liễu rũ che ( ruộng ) dưa.Ngậm sáng. Có (vật ) rơi từ trên trời xuống.
Sự kết hợp tốt giữa âm dương, nam nữ được biểu trưng bởi cây liễu và ruộng dưa.Ánh sáng (dương) ở đây đã được che (âm) .Việc / vật đến từ trời là hệ quả tự nhiên.
Nhìn từ dương thì âm đã bao trùm hết cả.
Hào 6 : Cấu kỳ giác.Lận.Vô cữu.
dịch : Gặp mà sừng sộ.Hối tiếc lận đận. Không lỗi.
Hào này ở cuối thời Cấu mà vẫn không hiểu lẽ kết hợp
Nam nữ gặp gỡ mà sửng cồ thì đáng tiếc vậy.
Thanked by 10 Members:
|
|
#47
Gửi vào 26/05/2014 - 14:50
Tụy là đám đông tụ họp chung quanh đấng thiên vương ( thủ lĩnh đóng cà hai vai trò vua / nhân quyền và thiên tử / thần quyền ), là người có bổn phận và nhiệm vụ kết tụ mọi người lại thành một nhóm người , một bộ lạc, làng xã, đất nước .Để mọi người hiểu rằng sự quần tụ là cái gì vượt qua cái cá nhân , cũng như nếu không có chất keo nào gắn liền tất cả với nhau thì nhóm sẽ tan rã.Nếu mỗi cá nhân không muốn gắn liền mình với cộng đồng thì sức mạnh của nhóm thành ô hợp , mạnh ai nấy tư lợi nên sẽ không đối phó nổi với những cộng thể khác mạnh và đoàn kết hơn.
Lời quẻ! Tụy, hưởng.Vương giả/ cách hữu miếu.Lợi kiến đại nhân .Hanh, lợi trinh.Dụng đại sinh, cát.Lợi hữu du vãng.
dịch : Hợp tụ tế lễ.Nhà vua cúng ở tông miếu , (tổ tiên ) về chứng giám .Nên gặp bậc tài đức.Hanh thông, điềm lợi.Dùng thú lớn mà tế, mở.Nên có chỗ đi.
Để liên kết mọi người trong bộ tộc nhà vua cúng tế tổ tiên .Phải cảm được sự linh thiêng như giả họ có về chứng giám (vương cách là vua đến, giả là làm giả như , nhưng giả không có nghĩa gian dối, giả tạo ).Gặp bậc tài đức, giết trâu bò cho thêm phần to lớn , trang nghiêm.Nên có chỗ đi là cần phải thành tâm và sửa soạn chu đáo.
Hào 1 : Hữu phu bất chung.Nãi loạn, nãi tụy. Nhược hào nhất ác vi tiếu.Vật tuất .Vãng , vô cữu.
dịch : Có tin nhưng không được chót .Loạn ư, Hợp ư ?Kêu gọi thì lại có một đám cả cười.Chớ lo.(Cứ ) tiến , không lỗi.
QNB :Có lòng tin nhưng không trọn vẹn. Chỉ có làm loạn mới tụ tập. Nếu (đã) hô hào, vậy cầm chắc là bị cười chê. Đừng bận tâm. (cứ) tiến, không lỗi.
Thời này sự quần tụ còn yếu ớt vì có nhiều nhóm chia rẽ.Nhưng hãy vững tâm tiến hành.
hào 2 : Dẫn, cát, vô cữu.Phu, nãi lợi dụng thược.
dịch : Dẫn (bèn theo) , mở, không lỗi.Tin nhau , chỉ cần chút lễ sơ sài.
Lãnh đạo (cầm đầu), mở, không lỗi. Thành tín, (thì) chỉ cần dùng lễ mọn cũng được.
Hào này ứng với hào 5 nên tin theo dễ dàng.
Hào 3 : Tụy như, ta như. Vô du lợi.Vãng, vô cữu.Tiểu lận.
dịch : Như tụ họp mà lại có khóc than.Chẳng lợi đâu.Tiến lên, không lỗi.Có chút lận đận / hối tiếc.
Tụ tập lại... (mà) than vãn... (thì) chẳng có lợi. Tiến lên, không lỗi. Có chút hối tiếc.
Sự quần tụ ở đây có vẻ có ép buộc nên bị phê lận nhưng cũng có khi phải thế vì thời bắt vậy nên chỉ là tiểu lận.Cũng có thể có nghĩa nên bỏ đi vì không thấy thích hợp.
Hào 4 : Đại, cát .Vô cữu.
dịch : (Tụ họp ) to rộng, mở.Không lỗi.
Một trong 2 hào dương chủ quẻ.Ở đây nói về sự hợp quần đã thành lớn rộng (khác với lúc ban sơ ở hào 1).
Hào 5 : Tụy hữu vị.Vô cữu.Phỉ phu, nguyên vĩnh trinh.Hối vong.
dịch : Quần tụ có ngôi (cao) .Không lỗi. Giặc (cũng ) tin theo , điềm tốt lớn và lâu dài.Hối lo tiêu tan.
Bàn bạc hoạch định trong cảnh nước mắt lưng tròng. Không lỗi.
Hào vua , chủ quẻ, được tín nhiệm khắp.
Hào này tôi hiểu chữ phỉ là giặc , Javary hay cổ điển đều hiểu là không cho nên bị lúng túng.
Hào 6 : Tê tư, thê di.Vô cữu.
dịch : Than vãn , mắt mũi chảy ròng ròng .Không lỗi.
Hào này không chịu / không làm được quần tụ , nay bị cộng đồng bỏ rơi.không lỗi là không đổ lỗi cho ai được.
Theo QNB thì sự than vãn trong cả hào 6 và hào 3 đều là cảnh người phe Tây Chu, lúc tụ tập Chu Vũ Vương (Cơ Phát) đã than vãn và kể về tội ác của vua Trụ.
Cũng có thể là cảnh Chu Văn Vương (Cơ Xương) dùng nước mắt kể về chuyện nhà Thương giết cha mình (Cơ Quý Lịch) để mà lấy lòng (tìm sự cảm thông) của các bộ lạc chư hầu đang tụ họp.
Thanked by 10 Members:
|
|
#48
Gửi vào 28/05/2014 - 15:09
Thăng là lên, tiến lên, mọc lên từ dưới lên cao như cỏ, cây. Là một cặp với quẻ Tụy nên phải hiểu Thăng là một kết hợp sức mạnh từ dưới để vươn lên cao mới được vững chắc.Như cây, cỏ phải mọc rễ rồi mới lên thân trỗ ngọnđược.Các hào ở vị dương (1,3,5) thì tăng trưởng, vị âm (2,4,6) thì cần sự kết hợp và lòng tin.
Lời quẻ :Thăng.Nguyên hanh.Dụng kiến đại nhân. Vật tuất.Nam chinh cát.
dịch : (Tiến) Lên. Từ đầu đã hanh thông. Để gặp người tài đức. Chớ lo. Đánh dẹp phương Nam , mở.
Hào 1 : Doãn thăng. Đại cát
dịch : Lên bằng đồng thuận.Tốt lớn.
Đồng thuận tiến lên. Tốt lớn.
Sự đồng thuận là căn bản thiết yếu để thành công.
Hào 2 : Phu nãi lợi dụng thược. Vô cữu.
dịch :
Thành tín (thì) chỉ cần dùng lễ mọn cũng được. Không lỗi.
Lòng tin đã có nên chỉ cần lễ nhỏ sơ sài cũng được.
"Phu nãi lợi dụng thược" là giống như hào 2 quẻ Tụy.
Hào 3 : Thăng hư ấp.
dịch : Lên đến một cái ấp trống rỗng.
Tiến lên đến Khư kinh.
Dù không được gì cũng đừng chán nản (ứng với hào 6) .
Chữ Khư 虛 cũng có nghĩa là cái gò lớn, và cũng thông nghĩa với chữ Khư 墟 trong Ân Khư (殷墟) là kinh đô của nhà Ân.
Chữ Ấp 邑 còn có nghĩa là kinh thành, thủ đô,...
QNB ở đây có cùng ý với học giả Đặng Cầu Bá , tôi nghĩ là rất có thể _ nhưng tôi giữ ý cổ điển song song để mọi người tự so sánh.
Hào 4 : Vương dụng hưởng vu Kỳ sơn. Cát, vô cữu.
dịch : Nhà vua cúng tế ở núi Kỳ.Mở, không lỗi.
Vương thi hành thuận lợi thông suốt ở Kỳ Sơn. Mở, không lỗi.
Ở đây tổ chức gia tộc đã lớn mạnh nên cần phải long trọng hơn.Sự gắn bó của mọi người cần được tổ chức hơn.
Hào 5 : Trinh cát. Thăng giai.
dịch : Điềm mở. Lên từng bậc.
Sự thăng tiến được thiết lập từng bước. Chậm mà chắc.
Hào 6 : Minh thăng. Lợi vu bất tức chi trinh.
dịch : Lên cao trong bóng tối. Điềm nên cố gắng không ngừng nghỉ.
Ngầm tiến lên. Điềm thuận lợi không ngừng.
Như hạt mầm trong lòng đất sự nảy nở phải được liên tục để vươn ra đến ngoài.Hào này tổng kết cả tiến trình.
Hào 6 vẫn là sự tiến lên miệt mài. Hai chữ "bất tức" cũng có nghĩa là "nín thở", lại đi với cụm từ "ngầm tiến lên" ở trước đó, cho nên ta có thể hình dung như cảnh hành quân trong đêm tối hoặc âm thầm hành quân trong điều kiện nào đó mà người thì ngậm tăm, ngựa bịt miệng để đảm bảo sự bí mật.
Như vậy, sau các lần rục rịch ở quẻ Ích, Quải, Tụy, thì quẻ Thăng này rất có thể chính là thời mà phía Tây Chu đã khởi binh, hành quân tiến về phía Ân Khư rồi
Theo tôi hào 3 không thể là đỉnh cao mà là nơi hay gặp khó khăn, hay có đột xuất nên cho rằng nếu như Chu đến Ân Khư thì chỉ là được vời tới , một bước tiến trong cả tiến trình làm đại quốc.
Sửa bởi Ngu Yên: 28/05/2014 - 15:10
Thanked by 10 Members:
|
|
#49
Gửi vào 02/06/2014 - 03:14
Khốn là khốn cùng, mỏi mệt, bị vây hãm, bị mắc kẹt. Javary bảo chữ Khốn 困 vốn được tạo thành từ chữ Mộc 木 có nghĩa là cây cối và bên ngoài là chữ Vi 囗 (giản thể của chữ Vi 圍) có nghĩa là bao vây che chắn xung quanh nên hình tượng là cây cối bị rào sát. Đây là một trong những tình cảnh khó khăn nhất , là quẻ duy nhất đòi hỏi phải là người vừa tài vừa đức mới mong vượt qua nổi.
Tất cả 6 hào đều có chữ Khốn cho thấy không có giai đoạn nào thảnh thơi hay thuận lợi, nhưng tùy hào âm hay dương mà cái khốn khác nhau và đòi hỏi những khả năng khác biệt để trải qua .Ba hào dương đều đóng ở chỗ trọng điểm (2,3,5 tức sĩ, khanh, vương) và lời hào cho thấy đều nhận được đề nghị chức vụ cao quý: áo phất, xe đồng.Nhưng mà ở các địa vị đó ta có làm việc được không , có hợp với lý với tình không ? Cho nên hào dương thì phải giữ tâm vững vàng, trong sáng; còn hào âm đều có tượng chỉ loài thảo mộc chỉ sức sống mãnh liệt, đòi hỏi sức chịu đựng lâu dài.
Lời quẻ: Khốn, hưởng. Trinh đại nhân cát. Vô cữu. Hữu ngôn bất tín.
dịch : Khốn cùng, cầu nguyện. Đoán người tài đức thì mở. Không lỗi. Lời nói không được tin.
Thời Khốn thì chỉ có thể cầu nguyện và dụng tâm đại nhân (phải vừa có tài vừa đủ đức) mới mong cởi mở được trói buộc chỉ vì lời nói của mình chẳng thể được tin .
Hào 1 : Đồn khốn vu châu mộc. Nhập vu u cốc. Tam tuế bất dịch.
dịch : Mệt nhọc ngồi bên gốc cây trơ trụi. Vào nơi hang tối. Ba năm chẳng gặp ai.
Thời hoàn toàn cô độc và khó nghèo/ khốn cùng.
Hào 2 : Khốn vu tửu thực. Chu phất phương lai. Lợi dụng hưởng tự. Chinh hung. Vô cữu.
dịch : Thiếu thốn đồ ăn uống. Áo phất đỏ sậm đưa tới. ( Chỉ) nên cúng tổ tiên. Đánh dẹp đóng. Không lỗi.
Hào này được mời ra làm quan nhưng Chu Dịch khuyên nên từ chối .Áo phất là áo quan dành cho nghi lễ. Không lỗi là giữ đạo một mình , lạc đạo vong bần là không sai.
Ở hai hào dưới ta chỉ có thể trốn lùi, xuất thế.
Hào 3 ; Khốn vu thạch, cứ vu tật lê. Nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê. Hung.
dịch : Bị bắt giam trong (ngục) đá, nằm trên cỏ gai. Về đến nhà không thấy vợ đâu. Đóng.
Thân nguy không cứu được khốn vì không có cả sự hậu thuẫn của người thân.
Tật Lê là loài cây Gai chuyên dùng diệt khuẩn,chữa bệnh ghẻ, ngứa, đau mắt, thận hư,... cho nên có thể câu "Khốn vu thạch, cứ vu tật lê" = bị khốn đốn/vây/kẹt trong (hang) đá, hoặc là bị khốn đốn với bệnh chai lì ở bộ phận nào đó mà cần phải nhờ vào tác dụng chữa trị của cỏ Tật Lê (cứ vu tật lê).
Hào 4 : Lai từ từ. Khốn vu kim xa, lận. Hữu chung.
dịch : Đến chầm chậm. Mắc kẹt bên chiếc xe đồng, Lận đận. Sau có hậu.
Có người bảo đây là xe tù nhưng tôi theo Javary xe ở đây chỉ chức vụ .Khó khăn lâu dài nhưng xử việc nhẫn nại có thể mở sau này.
Hai hào giữa nói về va chạm thực tế khó khăn.
Hào 5 : Tỵ nguyệt (Tỵ ngoạt). Khốn vu xích phất. Nãi từ hữu duyệt. Lợi dụng tế tự.
dịch : Xẻo mũi cắt chân. Khốn vì cái áo phất đỏ tươi. Bèn chờ từ từ có vui. Nên cúng tế tổ tiên.
Xẻo mũi, chặt chân. Khốn khổ với cái dải đeo ấn đỏ. Bèn từ từ mà cởi bỏ. Nên cúng tế.
Vì chức vụ cao mà khốn khổ, phải chịu hay dùng hình phạt nặng.Nhưng dần dà thì chắc chắn (hữu) sẽ có cơ giải khốn. Phải cẩn thận và thành tín như thờ cúng tổ tiên.
Hào 6 : Khốn vu cát lũy, vu nghiệt ngột. Viết động hối, hữu hối. Chinh cát.
dịch : Bị vướng ở đám dây leo nơi gập ghềnh. (Tự) nói động thì sợ sẽ hối, chính vì vậy mà sẽ ăn năn. Đánh dẹp tốt.
Dây leo chỉ sự có thể vượt qua khốn thêm lời phê đánh dẹp tốt. Càng ngờ, càng sợ càng sẽ không ra được.
Hai hào trên duy cùng đáng vị nên có khả năng vượt qua trói buộc.Hào dương sửa soạn , hào âm đột phá (đánh dẹp ).Cần lưu ý rằng phải cần 1 thời gian sửa soạn thì lúc cuối hành động è" trói được , bằng không ta lại rơi vào vòng khốn luẩn quẩn (thí dụ : giáo dục, môi trường tốt thì mới đẻ ra con người trách nhiệm)
Thanked by 11 Members:
|
|
#50
Gửi vào 04/06/2014 - 13:57
Tỉnh là cái giếng, là mạch nước, là làng nước, khu vực sinh sống. Giếng là nguồn nước, tức là nguồn sống cho cả làng mạc. Giếng tượng trưng cho cuộc sống hài hòa , nhuần nhã và cho tổ chức gia tộc. Lời hào bàn sự xây dựng, lời quẻ kể việc mọi người tụ tập và hệ thống kéo nước là hình ảnh của tổ chức.
Tỉnh còn là trọng tâm của phương thức phân chia đất đai cho các cụm làng mạc để sản xuất nông nghiệp ở thời Chu. Khởi đầu từ ông tổ nhà Chu là Công Lưu, khi dựng ấp (kinh đô) ở đất Mân/Bân, đã bói quẻ đào giếng xem mạch nước có lành không (vừa là thăm dò xem đất ấy có nước hay không, có mạch nước dồi dào không khô cạn thì đất mớt tốt mà thuận lợi cho nông nghiệp, vừa để xem đất ấy có phèn chua hay không - ta cần nhớ nhà Chu khởi nghiệp ở đất phía Tây là nơi có rất nhiều quặng kim loại nên nhiều chỗ bị nhiễm phèn, vừa để đánh dấu làm trung tâm cho việc phân chia đất đai,... Cái việc đào giếng thời ấy tuy gắn liền với bói toán nhưng kỳ thực là một phương pháp khảo sát chất lượng đất rất khoa học của người xưa để phục vụ mục đích nông nghiệp và sinh sống). Sau này, nhà Chu theo phép ấy, đặt ra lệ Tỉnh Điền, lấy chữ Tỉnh 井 để chia đất ra làm 9 phần gồm 1 "công" và 8 "tư"
phần công điền ở ô chính giữa (9) có cái Giếng đất xung quanh trồng trọt để nộp phần lợi tức của triều đình, phần đất tư điền (1 -> 8) ở các ô xung quanh chia cho dân làm. Đây chính là phương thức cải cách ruộng đất khiến cho trình độ nông nghiệp của nhà Chu cao hơn hẳn nhà Thương, khiến cho nhà Chu ngày càng cường thịnh hơn so với Ân Thương.
Lời quẻ: Tỉnh. Cải ấp bất cải tỉnh. Vô táng vô đắc. Vãng lai tỉnh. Tỉnh ngật, chí diệc vị duật tỉnh. Luy kỳ bình, hung.
dịch : Giếng. Đổi chỗ ấp được chứ giếng không đổi chỗ được. Không cạn kiệt, không đầy tràn .(Mọi người) lui tới giếng (múc nước). Giếng khô chẳng lấy được nước nữa. (Hay) gàu bị bể.Đóng.
Cách ngắt và lời dịch tôi theo Đặng Cầu Bá, học giả này căn cứ vào Thuyết văn giải tự ( của Hứa Thận đời Hán) mà giảng ngật là khô cạn, duật là múc nước.
Nếu giữ nguyên cách ngắt câu như cũ thì chúng ta sẽ có cách hiểu sau:
Tỉnh. Cải ấp bất cải tỉnh. Vô táng vô đắc. Vãng lai tỉnh tỉnh. Ngật chí, diệc vị duật tỉnh. Luy kỳ bình. Hung.
=
Giếng (làng nước). Đổi ấp đến nơi khác chứ giếng thì không đổi chỗ được. Chưa bỏ đi thì chưa đạt được. Dời qua lại từ giếng này đến giếng khác. Chưa tới nơi, cũng chưa có dây gàu múc nước giếng. Gàu bị bể vỡ. Đóng.
Tức là dời đổi làng nước, nơi làm ăn sinh sống cũ đến nơi khác thì được, chứ cái mạch nước nếu mà đã cạn hoặc đã hỏng (xem hào 1, 2) thì không cải tạo được (xem hào 3 - nạo vét), chỉ có thể phải dời đi nơi khác mà thôi. Nếu chưa bỏ cái giếng cũ đi thì tất nhiên sẽ chưa có được cái giếng (mạch nước, nơi cày cấy, sinh sống) mới được.
Hào 1 : Tỉnh nê, bất thực. Cựu tỉnh vô cầm.
dịch : Giếng đầy bùn, chẳng uống được. Giếng cũ chẳng một bóng chim.
Hào sơ đưa ra hình ảnh một cái giếng cũ hoang phế chỉ sự tàn lụi, vô tổ chức hay bất hợp tác.
Mạch nước khô cạn rồi, giếng đầy bùn, không ăn uống được, đất ruộng khô thì cũng chẳng cấy cày gì được nữa, chim chóc cũng chẳng ở đấy nữa.
Hào 2 : Tỉnh cốc xạ phụ. Ủng tệ lậu.
dịch : Ngòi nước trong hang róc rách bắn vào vài con cá giếc. Vò nước cũ đã rạn.
Đáy giếng có con ễnh ương nhảy nhót. Cái vò bị hỏng, thủng lỗ.
Nguồn nước chẳng ai dùng vì không có thiết lập.
Giếng cạn đến lộ đáy, thấy cả con ễnh ương nhảy nhót dưới đó, cái vò chứa nước cũng đã thủng lỗ rồi, không còn nước để dùng nữa. Thời điểm khó khăn, nguồn nước thì cạn, nơi chứa nước dự phòng cũng hỏng, thủng lỗ.
Hào 3 : Tỉnh điệp bất thực. Vị ngã tâm trắc. Khả dụng cấp. Vương minh tịnh Thụ kỳ phúc.
dịch : Giếng (đã) nạo vét mà chẳng ai dùng. Lòng ta đau buồn. Có thể dùng múc được. Một ông vua sáng suốt (biết ) kết hợp, mọi người chung hưởng phúc.
Giếng được nạo vét cải tạo nhưng vẫn không dùng ăn uống được. Lòng ta đau buồn. Có thể múc được. Vua sáng suốt thì dân chúng mới cùng được hưởng cái hồng phúc.
Tiếc chưa được dùng chỉ cần có vua / tổ chức thì sẽ đắc dụng.
Người xưa quan niệm rằng vua sáng suốt làm những việc đúng đắn, quyết những việc thuận lẽ trời, thì trời ứng điềm làm mưa thuận gió hòa. Bởi thế ơn vua ban cho còn được gọi là "ơn mưa móc". Vua sáng thì con dân được hưởng cái phúc, sẽ có mưa, rồi sau sẽ tìm được giếng có nước tốt mà dùng.
Hào 4 : Tỉnh trứu. Vô cữu.
dịch : Giếng được xây. Không lỗi.
Sửa sang cần thiết đã có. Sự tổ chức đang hình thành.
Đào giếng mới chính là quyết định sáng suốt.
Hào 5 : Tỉnh liệt hàn tuyền, thực.
dịch : Giếng trong nước mát , uống được.
Thiết chế đã lập , mọi việc đi vào quy trình , trôi chảy.
Hào 6 : Tỉnh thu vật mạc. Hữu phu, nguyên cát.
dịch : Giếng là để (mọi người ) dùng( chung ), chớ che lại. Lòng tin (đầy ắp) , tốt lớn từ đầu.
Giếng nước trở thành trung tâm đời sống cộng đồng , mọi người đều được lấy, nước không là của riêng ai .Giếng nước tạo ra hình ảnh của một xã hội lưu chuyển tốt dẹp, lặng lẽ mà công bằng (vô vi nhi vô bất vi Đạo Đức kinh).
Cặp 47/48 là một sự tương phản giữa hai thời thế : sự bế tắc của mỗi cá nhân và sự trôi chảy của một xã hội dựa vào công bằng và ích lợi chung.
Thanked by 10 Members:
|
|
#51
Gửi vào 08/06/2014 - 14:07
Cách là thay đổi, loại bỏ.Cách mệnh là đổi Mệnh Trời; đó là lý thuyết được nhà Chu đưa ra để biện hộ cho việc họ lật đổ nhà Ân là thuận theo lẽ Trời.Vì vậy cách mệnh chỉ có nghĩa là thay đổi toàn diện từ khi từ này được dùng để dịch từ revolution của Tây phương.Quẻ Cách chỉ được phê cát ở các vị chẵn cho thấy cách mệnh phải chờ đúng thời và phải được tiến hành một cách thận trọng.
Lời quẻ: Cách.Dĩ/ Tỵ nhật nãi phu.Nguyên hanh lợi trinh.Hối vong.
dịch : Thay đổi. Đến ngày Tỵ thì (mới được) tin tưởng.Từ đầu đã thông điềm nên chính bền.Lo hối tiêu tan.
Chữ dĩ có người dọc là tỵ (địa chi) ,là tự (cúng tế) , có người chép là kỷ (thiên can) .Javary cho là tỵ vì tỵ có biểu tượng là rắn mà rắn có đặc tính lột da để lớn ra , vậy dùng làm tượng cho cách mệnh.Xem Nguyên hanh lợi trinh ở phần dẫn nhập/ biểu tượng.Hối vong là không dùng dằng, nghi ngờ, tiếc nuối khi phải thay đổi.
Hào 1 : Củng.Dụng hoàng ngưu chi cách.
dịch : Giữ chặt.Dùng (dây) da bò vàng.
Thời này chưa nên vọng động., nên tiếp tục sửa soạn.
Hào 2 : Tỵ nhật nãi cách chi.Chinh cát, vô cữu.
dịch: Đến ngày Tỵ thời thay đổi.Đánh dẹp tốt.Không lỗi.
Hào 3 : Chinh hung.Trinh lệ.Cách ngôn tam tựu.Hữu phu.
dịch : Đánh dẹp đóng.Điềm nguy.Nói thay đổi ba lần mới thành.Được tin.
Không ra quân ngay được, phải thuyết phục nhiều lần mới được tin theo.
Hào 4 : Hối vong.Hữu phu.Cải Mệnh cát.
dịch : Hết hối tiếc.Được tin.Mệnh thời thay đổi, mở.
Thời đến, không còn dùng dằng.
Hào 5 : Đại nhân hổ biến.Vị chiêm hữu phu.
dịch : Người tài đức chuyển biến như con cọp.Không cần bói (cũng) đầy lòng tin.
Vị đương cao như đại nhân biết thời mà lãnh Mệnh Trời (sự chuyển biến mạnh mẽ , nhanh chóng, không cưỡng được được tượng trưng bởi con hổ).
Hào 6 : Quân tử báo biến.Tiểu nhân cách diện .Chinh hung.Cư trinh cát.
dịch : Người quân tử trí dũng chuyển biến như con báo.Kẻ nhỏ mọn ( chỉ )đổi mặt.Đánh dẹp đóng.Ở yên đoán tốt.
Quân tử thì biết thời mà theo , tiểu nhân chỉ làm được ngoài mặt.Khi lãnh Mệnh thì phải cẩn thận chớ hung hăng mà phải khoan hòa vì quần chúng không thể hiểu ngay được.
Thanked by 9 Members:
|
|
#52
Gửi vào 14/06/2014 - 03:10
Đỉnh là cái vạc để nấu đồ ăn .Thời nhà Thương đỉnh được đúc bằng đồng với nhiều trang trí hiện thực hay tỉ mỉ là đỉnh cao của nghệ thuật văn minh Thương - Chu. Đỉnh là 1 tượng trưng của uy quyền vua chúa (khi được phong đất, chức hay trong một dịp lớn đáng ghi nhớ nào đó các vua chúa cho đúc một đồ vật dùng trong việc nấu nướng, ăn uống nhưng bằng đồng rồi ghi khắc trên đó sự việc) nhưng cũng là dụng cụ dùng cho đời sống tâm linh : sự chế biến thức ăn uống được hiểu như cung cách để tiếp cận tổ tiên, quỉ thần với những nghi thức cúng tế . Vạc và những khí cụ khác trở thành hình tượng của diễn tiến biến hóa của đời sống hằng cửu.
Lời quẻ :Đỉnh .Nguyên cát, hưởng
dịch : Vạc.Tốt lớn từ đâu.Cúng tế .
Hào1 : Đỉnh điên chỉ . Lợi xuất bĩ .Đắc thiếp dĩ kỳ tử . Vô cữu .
dịch : (Nắm ) chân lật vac. Nên bỏ ra cặn dơ xấu . Được người thiếp và (nhờ vậy ) có con trại Không lỗi .
Để bắt đầu tiến trình thay đổi đầu tiên phải bỏ cái cũ đã hỏng .Tử là con trai nối dõi . Hào này có lẽ ám chỉ vợ cả Văn vương không có con trai (bị mất sớm) phải nhờ có vợ bé mới có con trai nối dõi .
Hào 2 :Đỉnh hữu thực .Ngã cừu hữu tật . Bất ngã năng tức .Cát .
dịch : Trong vạc có thức ăn.Người thù / đối tác mắc bệnh / nóng lòng . Người đến gần (khuyên bảo được ) chẳng thể là tạ Mở .
Javary hiểu là bây giờ có hiềm khích nhưng tiến trình sẽ làm thay đổi thành tốt . Có thức ăn nhưng chưa được nấu nướng nên chưa có sự thông hiểu nhau .
Hào 3 : Đỉnh nhĩ cách . Kỳ hành tắc .Trĩ cao bất thực Phương vũ khuy hối .Chung cát .
dịch : Tai vạc phải thay .Việc làm tắc nghẹt (như ) mỡ trĩ chẳng ăn được . Mưa ào tới làm giảm hối tiếc .Cuối cùng rồi sẽ mở .
Thông hiểu nghẽn tắc ngăn chặn mọi công việc . Cần phải thay đổi cách thức hay nhận thức . Cơn mưa như một sự thông hòa giữa Đất Trời làm dịu đi cơn nồng .
Hào 4 : Đỉnh chiết túc . Phúc công tốc .Kỳ hình ốc . Hung .
dịch : Vạc gãy chân . Món ăn của ông bị đổ ụp . Bị phạt ngay . Đóng .
Việc bị hỏng phải được sửa ngay không chậm trễ được . Kỳ hình ốc Javary cho là hình tượng mơ hồ , tôi theo cổ ( tuy nhiên có thuyết cho ốc là phạt bị giết ) . Ở đây sự việc phải biến đổi quyết liệt mới thoát được hung .
Hào 5 : Đỉnh hoàng nhĩ . Kim huyên .Lợi trinh .
dịch : Vạc có tai màu vàng , đòn gánh bằn đồng . Chính bền lợi .
Ở đây việc thay đổi đã xong/ thức ăn đã chín và ta có đòn gánh để mang vạc ra khỏi bếp lửa .
Hào 6 : Đỉnh ngọc huyên . Đại cát .Vô bất lợi .
dịch : Đòn gánh vạc bằng ngọc . Tốt lớn lắm . Chẳng gì không lợi .
Đòn gánh bằng ngọc thì chắc không phải là đồ dùng để nấu ăn thật mà là lễ khí . Nó tượng cho diễn tiến biến hóa của quẻ Đỉnh : nấu nướng được thăng hoa thành nghi lễ thờ cúng Thượng Đế ( Thiên, Trời ) , tiên hiền và tổ tiên .
Sửa bởi Ngu Yên: 19/06/2014 - 02:45
Thanked by 8 Members:
|
|
#53
Gửi vào 16/06/2014 - 12:44
Chấn là chấn động, lay chuyển, sự sợ hãi, giận dữ. Sấm là hình ảnh tượng trưng để chỉ sự chuyển động bất ngờ hay mạnh mẽ Có khi là cơ hôi.
Lời quẻ : Chấn, hượng Chấn lai hích hích . Tiếu ngôn há há . Chấn kinh bách lý . Bất táng chủy sưởng .
dịch : Đang tế tự thì sấm động . Sấm nổ ầm ầm .Cười nói há há . Sấm làm kinh sợ cả trăm dặm . Chẳng để rơi muỗng rượu lễ .
Hình ảnh đưa ra nói lên sự bất ngờ , kích phát gây hoảng hốt nhưng rồi khi đã nhận biết thì có hành động phản ứng , cuối cùng thì trấn tỉnh lấy lại sự cân bặng
Hào 1 : Chấn lai hích hích . Hậu tiếu ngôn há há . Cát .
dịch : Sấm nổ ầm ầm . Sau đó thì nói cười ha hả . Mở .
Lời hào sơ gần như lấy lại một phần lời quẻ . Chỉ sự chuyển động bất ngờ . Được phê tốt cho thấy đó là điều tốt có thể gây thức tỉnh người, việc . Học Năng ghi : biết sợ mà sợ thì sau mới có phép tắc .
Hào 2 : Chấn lai, lệ . Ức táng bối . Tê vu cửu lăng . Vật trục . Thất nhật đắc .
dịch : Sấm động , nguy . Đoán sẽ mất tài vật . Trèo lên lăng gò . Chớ đuổi . Bảy ngày có lại .
Sau cái hoảng hốt ở hào 1 thì đây là lúc lấy lại bình tĩnh dù có thiệt mất gì . Trèo lên chín lăng nghĩa là quay về cội nguồn , chờ đợi , sẽ có lúc thời thế thay đổi .
"Cửu lăng" còn có nghĩa là chỗ gò đất táng mộ tổ của vua chúa. Liệu chừng bị mất tiền nhưng mà đừng có truy đuổi mà nên nhờ phúc của tổ tiên thì bảy ngày sau sẽ có được lại. Ở hào 2 này "chấn" là chấn động, sợ hãi bất ngờ đến (lai) vì mất của, nhưng sau 7 ngày có được lại, ứng với hào 5 là chấn động đến rồi nó lại đi (chấn vãng lai), sự sợ hãi sẽ qua, chẳng mất cái gì cả.
hào 3 : Chấn tô tô . Chấn hành . Vô sảnh .
dịch : Sấm làm thức tỉnh .Sấm lay chuyển . Không phạm lỗi bất cẩn .
Javary ở đây hiểu theo nghĩa tốt khác mọi người . Sấm gây sợ nhưng giúp cho biết sợ mà tránh lỗi vô ý .
Hào 4 : Chấn tụy nê .
dịch : Sấm chạy trong bùn lầy .
Chấn động liền chìm lắng. (tức là sự chấn động bất ngờ giảm đi, trầm trệ xuống)
Javary giảng ở hào này sấm không còn thấy nhưng ảnh hưởng vẫn vang dội ( hào 4 cũng là hào dương như hào sơ ) . Hình ảnh bùn lầy có nghĩa là nơi sinh sôi phồn thực ; Ni ( Nê ) sơn là một thánh địa ở Sơn Đông _ ở đó có đỉnh núi đầy bùn lầy _ mẹ Khổng tử đã đến đấy cầu tự và khi có con thì đặt tên là Khâu ( gò đống ) tự Trọng Ni ( thằng bé núi Ni ) .
Ghi thêm : Trọng là con giữa , ý nói không phải là đứa bé đầu tiên hay cuối cùng mà thần núi cho người đời.
Bài thơ trong sách Học Năng :
Ngọc trong bụi, vàng trong bùn .
Lâu ngày tự sáng, đâu còn nhờ ai .
Hào 5 : Chấn vãng lai , lệ . Ức vô táng . Hữu sự .
dịch : Sấm đến sấm đi , nguy . Đoán không mất gì . Có việc (phải làm ) .
Tựa như hào 2 nhưng ở đây thời hành sự đã tới .
Hào 6 : Chấn sách sách . Thị quắc quắc . Chinh hung . Chấn bất vu kỳ cung , vu kỳ lân . Vô cữu . Hôn cấu hữu ngôn .
dịch : Sấm yếu dần . Vẻ nhìn nhớn nhác . Đánh dẹp đóng . Sấm không đến với ta mà đến với láng giềng . Không lỗi . Có lời bàn việc gã cưới .
Sức lay động của sấm giờ đã hết . sấm giờ đây mang cái hay của nó cho kẻ khác (chỉ Chu) . Sấm ở đây là chuyện chấn động thời đó : hôn phối của Tây bá Cơ Xương được Đế Ất mở lời cho cưới con gái thị tộc Thương .
Hào cuối cùng này vừa cho ta hiểu là một chuyện gây chấn động chưa chắc đã là xấu và là bằng chứng cho sự cần thiết đọc Chu Dịch trong bối cảnh lịch sử thì mới không giàng sai ý lời (mọi người, kể cả Javary , có lẽ vì lời phê chinh hung , đều hiểu là Chuyện cưới xin có điều tiếng ) .
Thanked by 8 Members:
|
|
#54
Gửi vào 20/06/2014 - 02:05
Cấn là ngừng, giữ , đậu lại ; là vững thân để tĩnh tâm. Hình ảnh trong quẻ là một phương pháp thiền định nhưng mục đích của nó cũng là biết hành động khi giao thiệp bên ngoài (lời quẻ mới đầu nói về ổn định xương sống nhưng sau chuyển sang hành động ở triều đình ) .
QNB :Cấn còn có nghĩa là tính chất cứng, kiên cố, xu hướng bền vững hóa, nghiêm trang hóa. Chúng ta có thể dùng nghĩa này để thấy một cách hiểu khác. Rất có khả năng quẻ này chép lại sự kiện dạy về nghi thức tác phong nghiêm trang trong triều đình, trong hoàng cung.
Lời quẻ : Cấn kỳ bối, bất hoạch kỳ thân. Hành kỳ đình, bất kiến kỳ nhân . Vô cữu .
dịch : Ổn định lưng mình, chẳng bấu ( quá ) chặt thân . Trước sân (vua ) mà ăn nói , chẳng để ( tâm dao động ) vì thấy người khác phản ứng. Không lỗi.
Giữ cái lưng ổn định ngay ngắn. Chẳng phải cái thân (phận) tôi tớ nô tỳ. Đi thẳng (cái người). Không thấy ai. Không lỗi.
Phép thiền định thân phải sao cho vững vàng nhưng không phải là giữ cho ngưng động bó cứng mà làm sao cho tâm tỉnh thức . Trước công chúng tư tưởng phải tập trung để bình tĩnh đưa ra ý kiến và đạt được mục đích chứ không để tình cảm hay bên ngoài chi phối.
Đối với tác phong nghiêm trang trong triều đình, trong hoàng cung thời xưa, cần phải tập để thể hiện đúng tác phong, phong cách, người khác nhìn vào là biết vai vế chủ tớ. Cần phải đi phải thẳng lưng, thẳng người để tạo thành phong thái ngiêm trang. Tôi tớ trước chủ thì khom lưng, chứ chủ trước tớ thì thẳng lưng, mặt (vênh) hướng lên cao như không thấy ai cả.
Hào 1 : Cấn kỳ chỉ, vô cữu. Lợi vĩnh trinh .
dịch : Ngừng bước, không lỗi. Nên (giữ) chính bền mãi mãi.
Ổn định nghiêm trang từng bước chân. Không lỗi. Nên (giữ) chính bền mãi mãi.
Muốn thiền định đầu tiên phải biết dừng. Căn bản xây dựng là từ đó .
Hào 2: Cấn kỳ phì. Bất giải kỳ tùy . Kỳ tâm bất khoái .
dịch: Giữ vững cái bắp chân. Không đưa lên một cách tùy tiện. Trong lòng không được vội vã hấp tấp.
Hào này tâm bất định , cứ thả lỏng tâm trí đi vu vơ . Phải sửa lại .
Hào 3 : Cấn kỳ hạn, liệt kỳ dần . Lệ . Huân tâm .
dịch : Giữ chặt hông, xương sống cứng ngắc . Nguy . Cháy cả ruột .
Giữ ổn định cái hông, ở chỗ ngang thắt lưng. Cái tâm giáo huấn nghiêm khắc, nghiêm trang.
Hào này thì cứng quá , kiềm chặt không biết để tâm thảnh thơi . Tâm là trái tim tương đương với lòng dạ trong tiếng Việt , cần phải khoan hòa lại . Lòng thôi thúc quá cần học buông.
Huấn còn có nghĩa là dạy dỗ, giáo huấn. Lệ còn mang nghĩa nghiêm khắc. Nên ta ngắt câu là "Lệ huấn tâm" thì được nghĩa lòng dạy dỗ nghiêm khắc, nghiêm túc.
Hào 4 : Cấn kỳ thân . Vô cữu .
dịch : Giữ được thân . Không sai.
Giữ nghiêm cái thân vững vàng ổn định. Không lỗi.
Đến đây thì thiền giả đã đạt được vững ngoài tĩnh trong .
Chữ Thân ở đây vừa mang nghĩa cái thân mình (cơ thể) vừa mang nghĩa thân phận (vai vế). Tác phong nghiêm trang từ cơ thể sẽ biểu thị được vai vế thân phận.
Hào 5 : Cấn kỳ phụ , ngôn hữu tự . Hối vong .
dịch : Miệng được giữ, nói năng có thứ tự. Hối tiếc không còn .
Giữ mồm giữ miệng, nói năng có thứ tự. Hối tiếc tan hết.
Người này có thể trình bày trước công chúng mà không sợ sai bậy .
Ngoài sự nghiêm trang trong hành động, tác phong về cơ thể, còn phải nghiêm trang trong ngôn ngữ, lời ăn tiếng nói.
Hào 6 : Đôn cấn , cát .
dịch : Vững vàng dày dặn , mở .
Hoàn toàn vững vàng, nghiêm túc. Mở
Hào trên cùng đã được trạng thái động tĩnh gì thì tâm cũng luôn thức tỉnh .
Chú ý là hào 4 chỉ đến mức làm lòng lắng đọng khi thiền định , còn hào 6 là người tĩnh động đều không mê ngủ . Ta thấy phương pháp thiền định không phải chỉ có từ khi đạo Phật truyền sang Á Đông .
Sửa bởi Ngu Yên: 24/06/2014 - 14:45
Thanked by 7 Members:
|
|
#55
Gửi vào 22/06/2014 - 12:50
Tiệm là tiến lên thong thả, tuần tự . Theo Javary và một số học giả thì hình ảnh được dùng trong quẻ này chính là vợ cả Văn vương ( tôi nghĩ là Thái tự trong Kinh Thi , vì Thái Tự nghĩa đen là nàng dâu lớn ) .Quẻ này đứng cặp với quẻ Qui muội (lễ cưới em gái ) và trong lời quẻ có câu nữ qui (con gái lấy chồng ) cho thấy cặp quẻ này lấy số mệnh của cô vợ cả và vợ thứ, là 2 chị em , và đám cưới của họ (xem thêm hào 5 quẻ 11 Thái ) để bàn về lẽ phúc họa khó lường , duy chỉ cư xử theo đức hạnh làm trọng .
Lời quẻ : Tiệm. Nữ qui, cát . Lợi trinh .
dịch : Tuần tự mà tiến (như ) con gái về nhà chồng , mở . Điềm lợi .
Sự tiến phải dần dần, chậm mà chắc , dù có những khó khăn làm thoái lùi , để cuối cùng cũng đạt được sự hòa hợp .
Hào 1 : Hồng tiệm vu can . Tiểu tử lệ . Hữu ngôn . Vô cữu .
dịch : Chim hồng bay dần đến bờ nước . Con nhỏ gặp nguy . Có điều tiếng . Không lỗi.
Thời mới đến , chưa yên vị . Có thể chỉ con trai của Thái Tự mất khi còn bé ( Bá ấp Khảo hay Hiếu ).
Hào 2 : Hồng tiệm vu bàn . Ẩm thực khản khản . Cát .
dịch : Chim hồng bay dần đến hòn đá lớn có mặt bằng phẳng . Ăn uống vui hòa . Mở.
Thời này đã yên chỉ cần hòa hợp với mọi người . Trong Kinh Thi Thái Tự được khen là " yều điệu thục nữ " .
Hào 3 : Hồng tiệm vu lục . Phu chinh bất phục . Phụ dựng bất dục . Hung . Lợi ngự khấu .
dịch : Chim hồng bay dần đến cao nguyên . Chồng đi chinh chiến chẳng về . Vợ có thai mà không nuôi được . Đóng . Nên đề phòng giặc cướp .
Cao nguyên chỉ địa vị tôn cao . Nhưng hào này toàn gặp việc trái lòng : chồng đi xa chưa về, mình thì xảy thai hay con trẻ mất sớm. Lại phải đề phòng kẻ cướp .
Hào 4 : Hồng tiệm vu mộc . Hoặc đắc kỳ dốc . Vô cữu .
dịch : Chim hồng bay dần đến ( đám ) cây . Có lẽ được cành bằng trên cao . Không lỗi .
Thời này vị càng cao nhưng chênh vênh . Tùy đức hạnh mà được hay không cành bằng (yên ổn ).
Hào 5 :Hồng tiệm vu lăng . Phụ tam tuế bất dựng . Chung mạc chi thắng , cát.
dịch : Chim hồng bay dần đến lăng gò . Vợ ba năm chẳng có mang . Cuối cùng chẳng gì ngăn được . Mở .
Thái Tự gặp bao nhiêu khó khăn cản trở nhưng đức hiền của nàng cuối cùng được công nhận và được đưa lên địa vị tôn cao nhất (dự cúng lễ ở tôn miếu ? ).
Hào 6 : Hồng tiệm vu lục . Kỳ vũ khả dụng vi nghi . Cát .
dịch : Chim Hồng bay dần đến cao nguyên . Lông của nó dùng được để chế thành đồ hành nghi . Mở.
Các bản kinh Dịch cũ ở VN theo Tống nho nên đều sửa theo Hồ An Định ( đời Tống ? ) , có sự đồng ý của Trình, Chu , lấy chữ quỳ (đường mây) thay cho chữ lục . Ý là cát thì phải lên cao hơn nữa . Không ngờ sai vì không biết chuyện là địa vị của người vợ cả lại đi xuống (hồng tiệm vu lục như hào 3 ) _ có lẽ sau khi chồng mất, vì bà được tôn lên cao ở hào 5 _ do không có con trai nối dõi ( xem hào 3) tuy bà vẫn được vua sau kính trọng vì đức cao (đồ hành nghi ) . Đồ hành nghi là cờ quạt , vũ y chỉ sự trang sức bên ngoài .
Thanked by 7 Members:
|
|
#56
Gửi vào 25/06/2014 - 12:26
Qui muội có nghĩa là gã em gái . Đây là một câu chuyện lịch sử thời Ân - Chu , để giải tỏa mối hận giết cha Cơ Xương vua Ân gã cháu gái cho Cơ Xương ( xem hào 5 quẻ 11 Thái ) . Nhưng theo tục lệ cổ trong giới vua chúa thì các cô phù dâu thường là em gái sẽ đi theo làm vợ bé , để trong trường hợp vợ cả mất sớm hay không con nối dõi thì em gái lên thay để tránh việc mất truyền tự.
Qui muội vì thế tượng trưng cho những tình huống bất như ý , thiệt thòi, nhầm lẫn mà vẫn phải chịu . Nhưng lẽ trời không sao biết trước , cô cả (xem quẻ Tiệm 53) chỉ có một con trai lại mất sớm , cô thứ có 8 người trong đó có Vũ vương, Chu công nên địa vị sau này khác cũ.
Điều khám phá này có một số học giả TQ đã nói tới từ thế kỷ XX.
Lời quẻ : Qui muội. Chinh hung. Vô du lợi.
dịch : Gã em gái. Đánh dẹp đóng. Chẳng lợi đâu .
Hào 1 : Qui muội dĩ đệ.Phả năng lý . Chinh cát .
dịch : Gã em gái về làm thiếp. Què vẫn đi được. Đánh dẹp ,mở.
Hào sơ bảo ngay nhờ lấy cô em làm thiếp mà có con nối dõi như kẻ què mà đi được , đánh dẹp tốt .
Ở đây tôi hiểu khác mọi người vì cho rằng chinh cát thì phải nói về Văn vương ( Cơ Xương ) chứ không chỉ nàng Muội .Tuy nhiên nếu ta cho rằng chinh cát là một lời phê không liên quan đến chuyện Qui muội và Văn vương lấy thiếp được con có thể đã được nhắc tới ở hào 1 quẻ Đỉnh thì ta nên hiểu như cổ điển .
Hào 2 : Miễu năng thị . Lợi u nhân chi trinh .
dịch : Chột vẫn thấy được. Điềm lợi cho kẻ cô độc .
Què và chột thường được dùng để tượng trưng cho sự thua thiệt. Bị lẻ loi nhưng sau này có lợi.
Hào 3 : Qui muội dĩ tu. Phản qui dĩ đệ.
dịch : Gã em gái mà phải chờ . Đổi sang gã làm đệ thiếp .
Đã định được gã nhưng có trục trặc . Cuối cùng đành chịu làm thiếp.
Hào 4 : Qui muội khiên kỳ. Trì qui hữu thì.
dịch : Gã em gái sai hẹn .Trễ cưới chờ thời.
Hào này sai hẹn chờ thời tốt hơn.
Hào 5 : Đế Ất qui muội .Kỳ quân chi duệ bất như kỳ đệ chi duệ lương. Nguyệt cơ vọng .Cát.
dịch : Đế Ất gã em( theo chị ). Hậu duệ của nàng cả không được tốt như của nàng thiếp . Trăng sắp rằm .Mở.
Câu truyện được ghi rõ.Đến hào này thì địa vị sắp đổi ( trăng là vị thứ nhưng đến rằm thì sáng láng ).Các vị hậu nho và nhiều học giả vẫn hiểu duệ theo nghĩa đen ( tay áo ) chỉ vì không biết phải dùng bối cảnh lịch sử mới hiểu được Chu Dịch .
Hào 6 : Nữ thừa khuông , vô thực. Sĩ khuê dương, vô huyết . Vô du lợi.
dịch : Con gái dâng giỏ mà lại không có thức ăn .Quan sĩ cắt tiết cừu mà không thấy máu chảy . Chẳng lợi đâu .
Hư danh, hư vị, giả dối . Hoặc vợ chồng không có con nối dõi thì hôn nhân này bị đánh giá là xấu .
Sửa bởi Ngu Yên: 27/06/2014 - 14:56
Thanked by 8 Members:
|
|
#57
Gửi vào 30/06/2014 - 01:50
Phong là phong phú, thịnh lớn , đầy nhiều . Quẻ này dùng hình ảnh thiên tượng diễn tả sự khó khăn để giữ tồn tại, tiếp tục thịnh vượng . Đặng Cầu Bá lại cho rằng Phong chỉ kinh đô nhà Chu . Có thể chúng ta cần nghĩ theo cả hai nghĩa bóng và đen cùng một lượt .Tôi cố gắng giảng dịch dung hòa ý kiến của nhiều người ở quẻ này .
Lời quẻ : Phong hưởng . Vương giả chi . Vật ưu . Nghi nhật trung .
dịch : Phong, cúng tế . Nhà vua đến cử hành lễ . Chớ lo nghĩ . Nên làm vào giữa trưa .
Giả là làm lễ với lòng thành, giả như có sự chứng giám . Chớ lo nghĩ nhiều vì việc thịnh vượng có giữ được lâu dài chăng . Nghi nhật trung thường được hiểu là nghi vệ, cư xử phải như mặt trời giữa trời . Tôi theo Dương Ngọc Dũng dịch theo nghĩa đen vì những hình ảnh thiên văn trong các lời hào .
Hào 1 : Ngộ kỳ phối chủ . Tuy tuần , vô cữu . Vãng hữu thượng .
dịch : Liên kết được với chúa xứ Phối .Tuy chỉ được một thời gian ngắn , không lỗi . Tiến lên ắt thành công .
Phối thường được giảng là người phối hợp hoặc là phối hợp (giao cấu ) với người chúa nữ . Tuần vốn có nghĩa là 10 ngày .
Hào 2 : Phong kỳ bộ , nhật trung kiến đẩu. Vãng đắc nghi tật . Hữu phu phát nhược . Cát .
dịch : Phong đô nhật thực , giữa ngày mà thấy sao Bắc Đẩu . Tiến thì bị ngờ, ghét . Có lòng thành tín (thì khai phá được )/ (tuân theo việc đang xảy ra ). Mở .
Hào 3 : Phong kỳ bái , nhật trung kiến muội . Chiết kỳ hữu quăng Vô cữu.
dịch : Phong đô tối sầm, giữa ngày mà như đêm không trăng. Bị gẫy cánh tay phải . Không lỗi.
Kiến muội là thấy những sao li - ti . Hào này ở thời bị che tối nhất quẻ mà cứ cố tiến thì gặp họa .
Hào 4 : Phong kỳ bộ, nhật trung kiến đẩu . Ngộ kỳ Di chủ . Cát .
dịch : Phong đô nhật thực, giữa ngày mà thấy sao Bắc Đẩu . Liên kết với chúa xứ người Di. Mở.
Nhiều việc rối rắm nhưng kiếm được đồng minh .
Hào 5 : Lai chương hữu khánh dự . Cát
dịch : Ánh sáng trở lại . Vui mừng chúc tụng (nhau). Mở .
Thời thịnh vượng trở lại .
Hào 6 : Phong kỳ ốc , bộ kỳ gia . Khuy kỳ hộ . Khuynh kỳ vô nhân . Tam tuế bất địch . Hung .
dịch : Xây dựng lâu đài cho nhiều và tráng lệ . Đóng kín cửa nhà . Liếc nhìn sang nhà hàng xóm : vắng tanh không người . Ba năm chẳng gặp ai . Đóng .
Câu này nên hiểu là một chỉ trích của nhà Chu đối với Đế Trụ : xa hoa, đóng cửa , không còn đồng minh . Tiếp tục như vậy thì thịnh vượng có còn ?
Thanked by 5 Members:
|
|
#58
Gửi vào 05/07/2014 - 02:41
Lữ là đi xa, ở đất khách, người hành lữ, một đội quân . Khi đi xa ở tạm đất khách ta gặp gỡ những điều mới lạ buộc ta phải biết thích ứng với. Đôi khi ở đất người gặp nhiều khó khăn nhưng cũng có lắm cơ hội . Thái độ âm nhu là cần thiết . Có người giảng là đạo quân đi đánh dẹp phương xa .
Lời quẻ : Lữ, tiểu hanh. Lữ trinh cát.
dịch : Hành lữ, cẩn trọng tư tiểu thì hanh thông. Đoán đi xa mở.
Hào 1 : Lữ tỏa tỏa .Tư kỳ sở thủ tai .
dịch : Lữ khách ti tiểu . Ấy là lãnh tai họa về mình .
Tỏa tỏa là chỉ bám vào những chuyện không đâu, phiếm diện . Khi ở xứ người ta mới đến nên không thông hiểu luật lệ thói quen tập quán của người nên dễ sa đà, làm sai .Một chuyện có vẻ nhỏ có thể biến thành tai họa .
Hào 2 : Lữ tức thứ .Hoài kỳ thư .Đắc đồng bộc trinh.
dịch : Lữ khách đến gần nhà trọ .Thủ chặt tiền bạc . Đoán mua được tớ trẻ.
Đến chỗ có thể tạm nghỉ.Cần cẩn thận .Có lẽ tìm được người giúp cho việc nhỏ.
Hào 3 Lữ phần kỳ thứ.táng kỳ đồng bộc.trinh lệ.
dịch : Lữ khách đốt cháy quán trọ. Mất thằng tớ trẻ.Điềm nguy.
Thay vì yên ổn làm ăn lữ khách phạm lỗi làm càn nên như tự đốt chỗ dừng chân , mọi người ghét bỏ .Phê nguy là nặng hơn hào 1.
Hào 4 : Lữ vu xử.Đắc kỳ tư phủ .Ngã tâm bất khoái.
dịch : Lữ khách tạm trú.Được tiền của , danh vị .Lòng ta chẳng vui.
Hào này người khách đã thích nghi nên buôn bán thành đạt lại còn có danh phận .Nhưng trong thâm tâm vẫn khắc khoải (vì nhớ nhà hoặc vì còn lo chưa có thực quyền ? ).
Hào 5 :Xạ trĩ, nhất thỉ vong . Chung dĩ dự mệnh .
dịch :(Nhắm ) bắn chim trĩ, (phải chịu ) mát mũi tên đầu .Sau được ban khen và chức quyền.
Thời lữ thì phải chịu thiệt lúc ban đầu thì sau mới được thành công, chim trĩ chỉ cao sang quyền quý.Ở đây là hào duy nhất không có chữ lữ cho thấy khách trú đã được thật sự chấp nhận : có mệnh (quyền chức) tức là được tin tưởng.
Hào 6 : Điểu phần kỳ sào .Lữ nhân tiên tiếu hậu hào đào .Táng ngưu vu Dị.Hung.
dịch : Chim tự đốt tổ mình . Lữ khách lúc đầu cười nói sau thì gào khóc. Mất bò ở Dị .Đóng.
Dựa thế lực đã có mà làm điều sai trái thì người ta chẳng thể dung cho .Xem chuyện Vương Hợi (hào 5 quẻ Đại Tráng 34).
Thanked by 8 Members:
|
|
#59
Gửi vào 14/07/2014 - 12:22
Tốn là nhu thuận, nhún nhường, phục tòng, uốn bẻ theo khuôn, chịu khuất tất, lẩn trốn, từ chối. Quẻ này nói về sự cuốn theo chiều gió, chịu khuất để tránh đổ vỡ , chấp nhận sự việc xảy ra không như ước muốn hay dự định. Nhưng mà là để dần dần hiểu rõ sự việc (hào 2) sau đó mới hành động tìm cách lật ngược thế cờ , thay đổi tình trạng qui khuất (hào 5 ). Chú ý hai hào trung ương riêng duy được phê cát.
Quẻ Tốn này gần tương tự như quẻ Khiêm (cặp Khiêm - Tốn) về cả hoàn cảnh và ý nghĩa của lời quẻ với lời hào. Quẻ Khiêm thì tính "minh" nên toàn quẻ cát và lợi, còn quẻ Tốn thì tính ám nên có hào 3 và hào 6 là bất lợi và hung.
Lời quẻ : Tốn. Tiểu hanh .Lợi hữu du vãng. Lợi kiến đại nhân .
dịch : Khuất tất . Nhu tế thì hanh thông. Nên có định hướng. Nên đi gặp người tài đức.
Nhún nhường. Nhỏ bé được hưởng, được hanh thông. Nên có định hướng. Nên đi gặp người tài đức.
Thời bị động thì không thể dương cương mà cần phải nhu thuận, kiên nhẫn để hóa giải. Nên có chỗ đi là chịu phục tòng mà không quên mục đích cuối cùng . Thời khó khăn cần phải thuyết phục được chính mình hay phải hóa giải khuất tất , trong cảnh cùng quẫn thì nên đi gặp người tài đức để có một cái nhìn khác , khách quan hơn, cao rộng hơn.
Trong hoàn cảnh nhún nhường thì sẽ phân chia ra 2 phe đối lập, phe chiếm ưu thế tạm gọi là "cửa trên" và phe lép vế hơn tạm coi là "cửa dưới". Cho nên chữ "Tiểu" ở đây ám chỉ về "cửa dưới" - phe lép vế, trong trường hợp này thì phe lép vế chịu nhún nhường sẽ được hưởng lợi, được hanh thông. Tức là biết mình biết người, lùi một bước để mọi sự thuận lợi mà tiến ba bước về sau. Cần có sự trợ giúp từ người tài đức.
Hào 1 : Tiến thoái. Lợi vũ nhân chi trinh.
dịch : ( Biết ) tiến lui. Nên chính bền như kẻ vũ sĩ.
Có tiến có lui. Điềm lợi cho người quân nhân võ sĩ.
Hào này phải biết dụng binh như tướng võ, tùy thời mà khi tiến khi lui. Chưa có chữ tốn nên chưa vào thời khuất tất.
Vũ nhân = những kẻ quân nhân võ sĩ, thường là những người thiếu mưu lược, ít nhẫn nhịn, khi đánh thắng thì ham tấn công mà khó dừng, khi đánh thua thì không chịu được nhục. Cho nên biết tiến biết thoái, điều hòa nhịp nhàng là điềm có lợi cho người quân nhân võ sĩ.
Hào 2 : Tốn tại sàng hạ. Dụng sử vu phân nhược. Cát, vô cữu.
dịch : Nằm mọp trên giường. Dùng quan sử, thầy vu lễ bái, lên đồng. Mở, không lỗi.
Phủ phục ở dưới giường. Nhờ bọn quan sử quan coi bói (mà được lợi), Mở, không lỗi.
Hào này bệnh nặng, dùng quan sử nghĩa là soát lại việc xưa, thầy vu là tìm hiểu tương lai , phân là trạng thái rối ren , mê nhập , nhược nghĩa cổ là thuận theo ( tức là thần linh đã nhập cốt) . Tóm lại thế nguy nhưng biết đi tìm hiểu đầu mối sự việc và đi tìm phương cách giải quyết căn cơ thì từ từ sự việc (có thể ) mở.
QNB cho rằng hình ảnh nằm mọp dưới giường là sự chịu nhún nhường, chịu lép vế hoàn toàn, để thông qua đám quan ghi chép sự kiện bói toán mà được lợi.
Hào 3 : Tần tốn, lận .
dịch : Nhiều lần chịu khuất/ chịu nhục , lận đận .
Liên tục nhún nhường, lận đận.
Tần có nghĩa nhiều lần hoặc phải mau lẹ. Lận có thể hiểu là buồn hối, tôi thường dịch là lận đận vì đã có lời phê khác là hối chỉ sự hối tiếc rồi.
Liên tục phải chịu lép vế thì đó chính là hoàn cảnh lận đận, vất vả.
Hào 4 : Hối vong . Điền hoạch tam phẩm.
dịch : Hối tiếc chấm dứt. Đi săn được ba loại thú.
Ở đây không còn chữ hối, thoát được khuất tất . Điều kiện cần là loại bỏ những gì ngăn chặn thay đổi ( có thể tồn tại ngay trong nội tâm).
Hào 5 : Trinh cát. Hối vong .Vô bất lợi. Vô sơ hữu chung. Tiên canh tam nhật, hậu canh tam nhật . Cát.
dịch : Đoán mở. Hối hận đã hết . Chẳng gì không lợi. Không có đầu nhưng cuối cùng tốt. Trước ngày Canh 3 ngày, sau ngày Canh 3 ngày .Mở.
Thời điểm này thuận lợi nhất cho việc hóa giải đè nén , nhưng còn phải làm ( vế đầu chỉ đoán mở, sau khi làm, cuối lời mới phê mở). Việc phải làm là quét sạch , tảo trừ cái cũ ( Canh là đầu mùa Thu, mùa thu gặt và quét dọn ).
Quẻ Tốn theo Bát quái là đầu hè , ở đây Canh là mùa Thu , có lẽ lại là một bằng chứng cho thấy Chu Dịch ban sơ chưa có Bát quái . Bát quái là học thuyết của phương Nam được thêm vào sau này .
Hào 6 :Tốn tại sàng hạ. Táng kỳ tư phủ. Trinh hung.
dịch : Nằm mọp trên giường. Mất hết của cải danh vọng. Đoán đóng.
Hào này cuối thời Tốn rồi mà vẫn còn loay hoay chưa tìm ra lối thoát. Quá nhu nhược.
Sau khi đã hết hối tiếc lận đận mà vẫn cứ phủ phục, chịu lép vế, thì quả là quá nhu nhược chứ không còn là sự biết tiến biết thoái, biết mềm mỏng nhũn nhặn khi cần nữa rồi. Cho nên bị mất của cải tiền đồ.
Tóm lại Tốn không phải là chịu lép mãi mà dùng thời gian để sửa đổi các hư xấu gốc rễ. Như vậy mới có cơ sau này trỗi dậy .
Thanked by 8 Members:
|
|
#60
Gửi vào 18/07/2014 - 16:32
Đoái 兌 có nghĩa là trao đổi, xưa giảng là đoài nghĩa là đẹp lòng - nhưng Đoài 悅 (còn đọc là Duyệt) vốn là Đoái 兌 nhưng thêm bộ Tâm - chỉ là một trạng thái hạn hẹp của sự trao đổi. Vấn đề thật ra là biết trao đổi: nói ra ý của mình nhưng cũng biết lắng nghe ý của người. Quẻ nàyé được phân thành ba phần : 2 hào dưới nói đến tính trao đổi của con người được phê cát, 2 hào giữa bàn đến những khúc mắc, 2 hào trên sự trao đổi đã bị biến tính.
Lời quẻ: Đoái hanh. Lợi trinh.
dịch : Trao đổi thì hanh thông . Đoán lợi.
Trong quan hệ giữa con người thì giao dịch là tự nhiên và cần thiết.
Hào 1 : Hòa đoái, cát.
dịch : Hòa vui trao đổi, mở.
Buổi đầu nói chuyện với nhau tự nhiên , không vướng bận gì thì đơn giản và vui vẻ.
Hào 2 : Phu đoái , cát.Hối vong .
dịch : Trao đổi thành tín, mở.Không hối gì.
Thông hiểu nhau thì có tin tưởng.
Hào 3 : Lai đoái, hung.
dịch : Bên ngoài đến giao dịch .Đóng.
Có kẻ đến cố thuyết phục ta hoặc người ta đến giao dịch nhưng ta thì không muốn nghe / biết nghe.
Hào 4 : Thương đoái.Vị ninh. Giới tật hữu hỷ.
dịch : Thương lượng.Chưa yên lòng.Bỏ hiềm khích/ nghi ngờ thì có mứng.
Nho gia thường giảng giới tật là bỏ hào 3 tiểu nhân để theo hào 5 dương quân tử.Nhưng đọc lời hào 5 thì thấy giảng như vậy vô lý.
Hào 5 : Phu vu bác.Hữu lệ.
dịch : Lòng tin mỏi mòn. Nguy .
Hào này riêng không có chữ đoái , cho nên làm sao thông hiểu nhau nữa.Chữ hữu nhấn mạnh chắc chắn sẽ có nguy.Javary cho rằng ở hào 5 , địa vị vua chúa nên không có trao đổi bình đẳng mà chỉ có ra lệnh, quan hệ chủ tớ.Hoặc giả là lời nói quá nhiều , ta nói nhiều hay phải nghe nhiều quá thì đều bị mệt mỏi, không lắng nghe nữa (bác ) .Giả thuyết sau cũng là của bài thơ trong sách Học Năng :
Trong cỏ ễnh ương kêu ộp ộp
Đêm nhà ba chó cắn oang oang
Hào 6 : Dẫn đoái.
dịch : (Cố) mang tới sự trao đổi.
Hào này ở cuối thời giao dịch cho nên dù cố sức cũng không đi đến đâu .Vì hào này không có lời phê nên kẻ giảng tốt, người cho là xấu , thực ra nếu chú ý thì hào này với hào 3 là một cặp tuy không ứng nhau.
Thanked by 4 Members:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối |
---|
1 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |