Jump to content

Advertisements




TÌM HIỂU VỀ HOẠT PHẬT ALEXANDRA DAVID NÉEL


37 replies to this topic

#16 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/01/2014 - 03:05

Vài ngày sau, tôi thấy cậu bé được đám đông rước về tu viện. Cậu ta mặc chiếc áo brocart màu vàng và cưỡi con ngựa ô nhỏ rất đẹp, vị Tăng trị sự nắm cương dắt ngựa.

Khi đám rước về đến cổng nhà, cậu bé lên tiếng hỏi:

- Sao chúng ta lại đi bên trái để vào sân giữa? Cánh cửa ở bên phải cơ mà!

Sau khi vị Lạt ma viên tịch, vì một vài lý do nào đó, người ta bít cánh cửa cũ ở bên phải, và trổ một cánh cửa khác.

Các tu sĩ hân hoan vì bằng chứng mới này, vì điều đó càng xác nhận cậu bé đúng là vị sư phụ cũ của họ. Cậu bé được đưa vào phòng riêng để dùng trà.
Cậu bé ngồi tựa vào đống gối chăn cao nghệu, đưa mắt nhìn cái bát ngọc thạch trên cái đĩa hồng ngọc với nắp đậy bằng ngọc lam được bày ra trước mặt cậu.

- Hãy đưa cho ta cái bát sứ - cậu ta ra lệnh, rồi mô tả tỉ mỉ cái bát sứ Trung Quốc với những hoa văn trên đó.

Không một ai thấy cái bát đó bao giờ. Vị Tăng trị sự và các tu sĩ khác trịnh trọng thuyết phục vị Lạt ma trẻ kia là không hề có cái bát như thế trong ngôi nhà này.

Đúng vào lúc đó, tôi được vị Tăng trị sự cho phép bước vào phòng. Tôi biết câu chuyện cái tẩu thuốc và tò mò muốn nhìn kỹ cậu bé hàng xóm của mình.



#17 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/01/2014 - 03:08

Theo tục lệ Tây Tạng, tôi tặng cậu ta một tấm lụa và một vài món quà. Cậu ta tươi cười đón nhận rất lịch sự, nhưng vẻ mặt vẫn đăm chiêu, vì còn mải nghĩ đến cái bát sứ kia.

- Các ông tìm kỹ lại đi, thế nào cũng tìm thấy mà - cậu bé khẳng định.

Thình lình, như có một tia chớp lóe qua trí nhớ, cậu ta mô tả cụ thể cái tủ màu gì, đặt ở góc nào trong một căn phòng chỉ chứa những đồ vật rất ít khi dùng tới.

Các tu sĩ nói qua loa cho tôi nghe mọi việc vừa diễn ra, và tôi có mặt ở phòng vị tulkou vì muốn biết câu chuyện sẽ đi đến đâu.

Không đầy ba mươi phút sau, cái bát sứ với đĩa và nắp đậy đã được tìm thấy trong cái hộp nằm ở đáy rương, giống như cái bát mà cậu bé mô tả.

Sau này, vị Tăng trị sự khẳng định với tôi:

- Tôi đã quên bẵng cái bát đó. Vị bổn sư tulkou của tôi có lẽ đã đặt trong nó trong cái rương không chứa đồ dùng quý giá, và nhiều năm rồi chẳng ai mở cái rương đó ra.




#18 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/01/2014 - 03:09

Tôi cũng chứng kiến cảnh tìm được tulkou trong một trường hợp còn hấp dẫn hơn câu chuyện trên đây nhiều. Sự việc xảy ra trong một quán trọ nghèo ở một ngôi làng nhỏ không xa vùng Ansi (trong sa mạc Gobi).

Ở vùng này, những con đường mòn dẫn từ Mông Cổ đến Tây Tạng, băng qua một con đường rất dài từ Bắc Kinh đến Nga, gần như xuyên suốt cả lục địa. Do vậy, tôi chẳng ngạc nhiên gì khi đến một quán trọ vào lúc hoàng hôn, lại thấy quán đông nghịt những người của một đoàn lữ hành Mông Cổ.

Các du khách đều lộ vẻ rất kích động, tựa hồ như có một điều kỳ lạ gì đấy vừa mới xảy ra. Lúc nào cũng vậy, với tính lịch sự quen thuộc, một phần cũng nhờ bộ pháp phục mà tôi và Yongden đang mặc trên người, đám người Mông Cổ nhường cho đoàn chúng tôi một phòng và cho ngựa của chúng tôi vào chuồng.

Trong khi tôi và con trai đang thong thả ngắm những con lạc đà ngủ ngoài sân, thì một cánh cửa phòng hé mở và một thanh niên to lớn dáng vẻ khả ái, ăn mặc tuềnh toàng bước vào. Anh ta đứng nơi bậc cửa, hỏi chúng tôi có phải là người Tây Tạng không. Chúng tôi trả lời với giọng quả quyết.

Một vị Lạt ma già, mà chúng tôi đoán là trưởng đoàn, lập tức xuất hiện sau lưng anh ta và nói chuyện với chúng tôi bằng tiếng Tây Tạng.

Như thường lệ, trong những buổi gặp gỡ như thế này, chúng tôi trao đổi với nhau những câu nói mang tính xã giao, cho biết mình từ đâu tới và định đi đâu.



#19 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/01/2014 - 03:10

Vị Lạt ma cho chúng tôi biết ông định đi Lhassa qua lối Soutchou, nhưng chuyến đi đã trở nên vô ích nên ông ta sẽ quay về Mông Cổ. Những người tùy tòng ngồi ngoài sân tán đồng lời này bằng cách gục đầu với vẻ chăm chú lắng nghe.

Tôi tự hỏi điều gì có thể khiến cho vị Lạt ma thay đổi ý định, song ông ta đã lui về phòng. Tôi thấy năn nỉ ông ta giải thích là điều mất lịch sự nên thôi.

Tuy nhiên, đến chiều tối, khi những người Mông Cổ tìm hiểu chúng tôi qua những người trong đoàn, thì họ mời chúng tôi đến uống trà và tôi được nghe đầu đuôi câu chuyện.

Chàng trai trẻ kia quê ở Ngari, một tỉnh cách đây rất xa, ở mạn Đông nam Tây Tạng. Anh ta dường như có khả năng ngoại cảm. Nếu ở phương Tây thì người ta có thể mô tả điều này, nhưng chúng tôi đang ở châu Á.

Ngay từ thời thơ ấu, Migyur - tên chàng trai nọ - luôn bị ám ảnh bởi ý tưởng kỳ quặc rằng quê anh ta không phải ở nơi mà lẽ ra anh ta phải ở. Anh ta cảm thấy mình là kẻ xa lạ ngay trong quê hương làng mạc của mình, trong gia đình mình. Trong giấc mơ, anh thấy những xứ sở không có ở Ngari: những vùng hoang mạc, những túp lều tròn bằng dạ, ngôi chùa nhỏ trên đồi.

Ngay cả khi tỉnh giấc, những hình ảnh đó vẫn xuất hiện trong anh, tạo ấn tượng lên những sự vật chung quanh, che phủ lên chúng và thường xuyên tạo ra chung quanh anh ta một ảo ảnh.

Khi chưa đầy mười bốn tuổi, anh ta bỏ nhà trốn đi, vì không thể cưỡng lại niềm khao khát muốn tìm đến được vùng đất xuất hiện trong mơ. Kể từ đó, anh ta đi lông bông khắp đó đây, làm việc buổi đực buổi cái để sống qua ngày, chủ yếu là ăn xin, không ở nơi nào cố định. Lúc này, anh ta lang thang đến đây từ vùng Aric, ở phương Bắc với những thảo nguyên bao la.


#20 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/01/2014 - 03:12

Theo thói quen, anh ta cứ bước đi không mục đích, cho đến khi anh ta tới trước quán trọ nơi đoàn người Mông Cổ cắm trại, trước khi chúng tôi đến độ vài giờ. Thoạt trông thấy những con lạc đà ngoài sân, không hiểu sao anh ta liền lao qua cổng, đến đứng trước mặt vị Lạt ma. Rồi như một tia chớp, những sự kiện trong quá khứ lóe lên trong trí nhớ anh.

Anh ta nhớ lại đã sống với vị Lạt ma kia khi còn trai trẻ, là môn đồ của anh ta, còn bản thân anh ta là một Lạt ma già nua. Cả hai đều rong ruổi trên cùng một con đường, trở về từ một chuyến hành hương dài giữa miền đất Tây Tạng linh thánh và quay về lại ngôi chùa trên ngọn đồi ở chốn quê nhà.

Anh ta nhắc lại cho vị Lạt ma trưởng đoàn nhớ tất cả những điều này với những chi tiết rất nhỏ về đời sống của họ trong một ngôi chùa xa xôi, và thêm biết bao điều riêng tư khác.

Chắc chắn, mục đích của những người Mông Cổ trong chuyến đi này là cầu xin Đức Đạt lai Lạt ma bày cho họ cách tìm lại tulkou của vị Lạt ma trụ trì ngôi chùa, mà vị trí vẫn còn để trống gần hai mươi năm, vì bao năm qua họ đã nỗ lực tìm kiếm hóa thân của ông nhưng vẫn hoài công vô ích.

Những con người mê tín này gần như tin rằng, bằng quyền lực toàn năng, Đức Đạt lai Lạt ma đã biết được ý định của họ, bằng tấm lòng đại bi, ngài đã khiến cho họ gặp được hóa thân của vị thầy quá cố.

Kẻ lang thang xứ Ngari ngay lập tức phải trải qua cuộc kiểm tra như thường lệ, và từ cái tay nãi, trong đó để lẫn lộn nhiều thứ, anh ta không ngần ngại rút ra ngay những đồ dùng của vị Lạt ma quá cố một cách chính xác.

Đoàn người Mông Cổ không còn nghi ngờ gì nữa về tính xác thực của vị tulkou mà họ vừa tìm thấy.

Sáng hôm sau, tôi nhìn theo đoàn lữ hành đi xa dần với những bước chân lạc đà chậm chạp, và khuất dạng cuối chân trời giữa sa mạc Gobi. Vị tulkou mới đã đi theo số phận kỳ lạ của mình.

Huỳnh Ngọc Chiến



#21 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 14/01/2014 - 04:02

TÌM HIỂU PHIÊU NHIÊN CÔNG CUẢ NGƯỜI TÂY TẠNG

Loung-gom (phiêu nhiên công) là một danh từ chung được người Tây Tạng dùng để chỉ nhiều môn luyện tập khác nhau, nhắm vào nhiều mục đích khác nhau, có môn thuần về rèn luyện tinh thần, có môn thuần rèn luyện thân thể, tất cả đều kết hợp sự tập trung tinh thần với phương pháp hô hấp.

Nhưng đặc biệt từ loung-gom dùng để chỉ một phương pháp tập luyện kết hợp tâm thân, nhằm giúp con người trở nên nhẹ nhàng, linh hoạt một cách siêu phàm. Các hành giả phiêu nhiên công (loung-gom-pa) là những người có khả năng chạy qua những đường xa rất xa, với tốc độ phi thường mà không cần dừng lại để nghỉ ngơi.

Người Tây Tạng nói về rất nhiều hành giả phiêu nhiên công, và người ta thường nhắc đến nhiều mẩu chuyện trong truyền thống xa xưa, về những người chạy bộ lạ thường đó với thái độ vô cùng ngưỡng mộ.

Đọc tiểu sử Thánh tăng Milaréspa, chúng ta thấy tại nhà vị Lạt-ma đã dạy huyền thuật cho ông, có một môn đồ chạy còn nhanh hơn cả ngựa.

Sau khi học tập công phu này, Milaréspa đã khoe chỉ cần vài ngày là ông có thể vượt một đoạn đường dài, mà trước kia cần hơn một tháng. Điều khiển chân khí một cách khéo léo, là chìa khóa cho khả năng đặc biệt này.




#22 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 14/01/2014 - 04:04

Cần nhớ rằng những thành tựu của các hành giả phiêu nhiên công, luôn luôn gắn liền với công phu khổ luyện phi thường, chứ không phải là tốc độ trong một phút chốc.

Họ không cần phải chạy hết tốc lực trong quãng đường mười hai hay mười lăm cây số, như các vận động viên trong kỳ thi đấu thể thao của chúng ta, mà chạy đều đặn - theo như lời kể - hàng trăm cây số, và luôn giữ một nhịp độ cực kỳ linh hoạt.

Không chỉ đi sưu tầm những thông tin liên quan đến công phu tập luyện, để đạt được mục đích này, tôi còn có dịp chứng kiến một vài hành giả phiêu nhiên công đang chạy. Mặc dù có nhiều tu sĩ luyện tập môn phiêu nhiên công, nhưng rất ít người thành tựu, cho nên số loung-gom-pa thực sự vẫn rất hiếm.

Cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với một hành giả phiêu nhiên công, xảy ra trên thảo nguyên phía Bắc Tây Tạng.

Vào khoảng chiều, trong khi chúng tôi cưỡi ngựa dạo chơi băng qua một thảo nguyên rộng mênh mông, thì đột nhiên tôi thấy một chấm đen nhỏ đang di dộng ở phía trái. Tôi dùng ống nhòm quan sát thì thấy tựa hồ như một người đàn ông.

Tôi vô cùng sửng sốt. Những cuộc gặp gỡ thế này rất hiếm xảy ra nơi đây, vì đã hơn mười ngày rồi tôi chưa hề trông thấy một bóng người. Hơn thế nữa, một người đi bộ một mình giữa chốn hoang vu bát ngát này, là điều không thể xảy ra. Khách lữ hành kia là ai vậy?

Một người tùy tùng của tôi cho rằng đó là người trong một thương đoàn nào đó, bị cướp tấn công nên đi lạc. Có lẽ anh ta lo chạy thoát thân, nên giờ đây bị lạc giữa vùng hoang nguyên.


#23 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 14/01/2014 - 04:06

Điều này rất có thể xảy ra, nếu đúng vậy thì tôi sẽ đưa kẻ đào thoát kia về lều trại của những mục tử chăn bò (dokpa), hoặc đưa đi theo chúng tôi, cho đến khi nào anh ta tìm được đường về.

Trong khi tiếp tục dùng ống nhòm quan sát, tôi thấy bước chân người kia di chuyển đều đặn với tốc độ phi thường. Mặc dù những người tùy tùng quan sát bằng mắt thường thì chỉ phân biệt được một chấm đen di động, song họ vẫn nhận ra ngay là chấm đen đó đang dịch chuyển mau lẹ siêu phàm.

Tôi đưa ống nhòm cho bọn họ thì có người quan sát trong mấy phút rồi lẩm bẩm: “Lama loung-gom-pa tchig da” (đó là một vị Lạt-ma hành giả phiêu nhiên công).

Từ loung-gom-pa lập tức khiến tôi lưu ý. Tôi vẫn chưa có dịp thấy được một hành giả phiêu nhiên công lão luyện, như những truyền thuyết đồn đãi về họ ở xứ Tây Tạng này. Làm sao tôi có thể bỏ lỡ cơ hội này được.

Người kia càng tiến tới gần và dáng điệu của ông ta dần hiện rõ. Nếu quả đó đúng là hành giả phiêu nhiên công thì tôi phải làm gì đây? Tôi muốn trò chuyện với ông ta, muốn hỏi ông vài câu, thậm chí muốn chụp hình nữa…, nói chung là tôi muốn làm nhiều thứ.

Thế nhưng tôi vừa mở miệng nói điều này, thì một người tùy tùng đầu tiên nhận ra đó là loung-gom-pa liền la lên:

- Thưa bà, bà đừng có chặn ông ta lại, cũng đừng có hỏi chi hết. Bà làm thế ông ta sẽ chết liền. Trong khi di chuyển, các vị Lạt-ma không ngừng niệm mật chú. Nếu dừng lại không đúng lúc, thần tính sẽ thoát ra khỏi người ông ta và gây chấn động dữ dội khiến ông ta chết ngay lập tức.

Lời cảnh báo đầy ấn tượng này nghe rất phi lý, nhưng cũng không thể hoàn toàn gác ngoài tai. Theo những gì tôi nghiên cứu thì hành giả phiêu nhiên công di chuyển trong trạng thái xuất thần. Do đó, nếu làm thế mà giả sử ông ta không chết thì cũng chịu một cơn chấn động thần kinh dữ dội, khi bị lôi ra khỏi trạng thái đó một cách đột ngột.

Cơn chấn động thần kinh này nguy hiểm đến độ nào thì tôi không biết, và cũng không muốn đem vị Lạt-ma kia ra thử nghiệm, vì điều đó rất tàn ác và gây hậu quả khôn lường. Còn một lý do khác nữa ngăn không cho tôi thỏa mãn tính tò mò.

Sửa bởi hiendde: 14/01/2014 - 04:25


#24 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 14/01/2014 - 04:26

Người Tây Tạng đã chấp nhận tôi là một gomptchénma (nữ tu sĩ Lạt-ma). Họ biết tôi là một Phật tử, nhưng không thể đoán được rằng trong quan niệm của tôi có sự phân biệt giữa Phật giáo thuần túy với Phật giáo Lạt-ma. Do đó, để xứng đáng với lòng tin và kính trọng mà bộ pháp phục đem lại cho mình, tôi buộc phải quan sát tập quán người Tây Tạng, nhất là tập quán về tôn giáo.

Sự kiềm chế này đã tạo nên trở ngại nghiêm trọng xét từ những quan sát mang tính khoa học mà tôi đã thực hiện, song đó lại là cái giá bắt buộc phải trả, để tôi được chấp nhận cư trú trên một mảnh đất vẫn còn đầy sự nghi kỵ và ngờ vực như Tây Tạng.

Một lần nữa, tôi buộc lòng phải từ bỏ lòng khao khát tìm hiểu, mà chỉ biết tự an ủi bằng cách đứng nhìn vị du khách lạ thường kia.

Khi ông ta đến gần, tôi quan sát thấy rõ gương mặt ông ta bình thản như vô cảm, còn đôi mắt thì mở lớn, tựa hồ như đang nhìn đăm đăm vào một điểm nào ở trên trời. Vị Lạt-ma không chạy, mà dường như chỉ búng chân để cả người nẩy cao lên như một trái banh đàn hồi. Ông ta mặc một bộ pháp phục thông thường đã cũ mèm.

Bàn tay trái của ông giữ nếp gấp của tấm áo choàng, bị vải che một nửa. Bàn tay phải ông nắm con dao pourba. Khi di chuyển, ông đong đưa nhè nhẹ tay phải theo nhịp chân, tựa hồ như dùng con dao để làm điểm tựa như một cây gậy, dù mũi dao cách xa mặt đất.

Cả đoàn tùy tùng của tôi đều xuống ngựa, quỳ lạy, đầu cúi rạp sát đất khi vị Lạt-ma chạy ngang qua trước mặt, nhưng dường như ông không nhận ra sự hiện diện của chúng tôi.

Tôi nghĩ mình đã biểu lộ đầy đủ sự tôn trọng đối với xứ sở này khi bỏ ý định chặn vị Lạt-ma lại, bây giờ tôi đâm ra hối tiếc vì sự cẩn trọng của mình, và tiếp tục đăm đăm quan sát hành giả phiêu nhiên công kia thật lâu.

Khi ông ta đã cách khá xa, tôi vội vã ra lệnh cho người những tùy tùng lên ngựa đuổi theo. Dù không cách nào đuổi kịp, nhưng chúng tôi vẫn cố giữ không để khoảng cách giữa chúng tôi tăng thêm. Nhờ có ống nhòm, nên tôi và con trai tôi vẫn theo dõi được ông ta.

Do khoảng cách quá xa, tôi và người con trai chỉ nhìn thấy được hình dạng của ông, nhưng chúng tôi vẫn thấy được những bước chân đàn hồi cứ nẩy bổng lên một cách đáng kinh ngạc, đều đặn như quả lắc đồng hồ.

Chúng tôi theo dõi được trong quãng đường độ ba cây số thì hành giả phiêu nhiên công kia bỏ con đường chính để chuyển lên một sơn đạo và mất dạng sau những rặng núi bao bọc chập chùng. Đám người cưỡi ngựa chúng tôi không thể đuổi theo ông trên sườn núi được nên đành quay về, tiếp tục lên đường.



#25 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 14/01/2014 - 04:28

Tôi tự hỏi liệu vị Lạt-ma kia có biết chúng tôi theo dõi ông ta không. Cho dù chúng tôi cách ông khá xa, nhưng bất kỳ người nào ở trạng thái bình thường cũng phải nghe tiếng vó ngựa đuổi theo sau.

Còn vị Lạt-ma đó dường như ở trong trạng thái xuất thần, nên tôi không sao đoán được có phải ông ta vờ không trông thấy chúng tôi, rồi rẽ lên đường núi để tránh những cặp mắt tò mò theo dõi; hay là ông ta không hề biết mình bị theo dõi, và việc ông ta chuyển sang đường núi chỉ vì đó là con đường ông ta phải đi.

Bốn ngày sau, vào một sáng sớm. chúng tôi đến vùng Thébgyai. Nơi đây rải rác lều trại của đám mục tử (dokpa) vùng thảo nguyên. Tôi không quên kể cho họ nghe chuyện trên đường đi đến đây, chúng tôi tình cờ gặp một vị loung-gom-pa. Một số người trong bọn họ, khi đang dồn đàn gia súc về chuồng, cũng đã gặp hành giả phiêu nhiên công đó vào buổi chiều trước ngày chúng tôi gặp ông ta.

Tôi thầm tính nhẩm để thử so sánh với khoảng thời gian chúng tôi di chuyển đều đặn trên ngựa, trừ những lúc hạ trại nghỉ ngơi, nếu vị Lạt-ma đó muốn di chuyển từ chỗ những mục tử này đến nơi chúng tôi gặp ông hôm trước, thì ông ta phải chạy suốt đêm cho đến hôm sau không ngừng nghỉ, với vận tốc xấp xỉ vận tốc mà chúng tôi đã thấy.

Giữ được tốc độ đó liên tục là một phép lạ, bởi vì ngay cả chuyện đi bộ suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ cũng là điều chưa hề được nghe nói đến trong đám sơn dân Tây Tạng.




#26 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 14/01/2014 - 04:30

Lạt-ma Yongden và tôi cũng đã từng chịu cảnh di chuyển suốt tám chín tiếng đồng hồ mà không hề dừng lại để nghỉ ngơi, ăn uống, trong cuộc hành trình từ Trung Quốc đến Lhassa. Có lần chúng tôi phải băng ngọn đèo Deo cao vút, tuyết ngập đến đầu gối. Thế nhưng những lần đi đó so ra chẳng ăn nhằm gì với cuộc hành trình của vị Lạt-ma có cánh này.

Chắc chắn vị hành giả phiêu nhiên công kia không thể khởi hành từ Thébgyai. Vậy thì ông ta từ đâu tới, khi những mục tử này bắt gặp ông ta? Và ông ta đã đi qua những chặng đường nào cho đến khi gặp chúng tôi và mất hút trong sơn đạo?

Tôi không thể phỏng đoán được chuyện này. Các mục tử này tin rằng ông từ Tsang đến, vì những tu viện ở đó suốt bao thế kỷ đã nổi tiếng là các trung tâm đào tạo loung-gom-pa. Có rất nhiều giao lộ ở vùng Thébgyai, và các mục tử này không trò chuyện được với ông ta cho nên, cũng như tôi, họ chỉ đoán mò.

Tiến hành nghiên cứu hiện tượng phiêu nhiên công theo phương pháp khoa học là điều bất khả thi giữa vùng hoang nguyên này. Điều đó phải kéo dài hàng mấy tháng mà chưa hẳn đã đem lại kết quả như mong đợi, nên tôi không nghĩ đến nữa.

Ở trên tôi đã nói những tu viện ở Tsang suốt bao thế kỷ đã nổi tiếng là các trung tâm đào tạo loung-gom-pa, thiết tưởng cần phải nói đôi chút về khởi nguyên của môn này theo truyền thống.

Hai người hùng trong truyền thuyết là hai vị Lạt-ma lỗi lạc: Youngtön Dordji Pal và nhà sử học Boutön.


#27 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 14/01/2014 - 04:32

Lạt-ma Youngtön Dordji Pal sinh khoảng năm 1284, được xem là hóa thân thứ chín của Trưởng lão Tu Bồ Đề (Soubhouti), cao đồ của Đức Phật lịch sử. Chuyện “tái sinh” này về sau được truyền thừa bởi các Ban Thiền Lạt-ma, và vị Ban Thiền Lạt-ma hiện nay được xem là lần “tái sinh” thứ mười sáu của Trưởng lão Tu Bồ Đề, đồng thời là hóa thân của Đức Phật A Di Đà.

Lạt-ma Youngtön Dordji Pal nổi tiếng là một pháp sư cao tay ấn có tài hàng ma phục quỷ. Người ta cho rằng sư phụ của ông là vị Lạt-ma huyền thoại tên Tzurwang Sengé, mà cuộc đời và hành trạng chỉ được đồn đãi qua những truyền thuyết hoang đường. Youngtön Dordji Pal có một thời gian phục vụ cho hoàng đế Trung Quốc, và ông mất năm 92 tuổi.

Boutön sinh năm 1288 tại Tjo Phoug, gần Jigatzé. Ông là tác giả của nhiều tác phẩm sử học quan trọng, và đã phân loại sắp xếp nhiều bộ kinh luận Phật giáo - được dịch từ Phạn văn sang Tạng văn - để làm thành bộ tuyển tập khổng lồ tên là Khagyour.

Một ngày nọ, Youngtön quyết định dựng một đàn tràng trang trọng để hàng phục quỷ vương Chindjé, chúa tể cõi chết. Nghi lễ này được tiến hành cứ mười hai năm một lần. Người ta kể rằng, nếu quên tế lễ thì Chindjé sẽ ăn thịt mỗi ngày một người.

Mục đích của đàn tràng này là bắt Chindjé phải khuất phục dưới pháp lực của vị Lạt-ma, và buộc ác thần phải thề không được giết người ăn thịt nữa. Phẩm vật sẽ được hiến tế cho y trong buổi lễ, và sau đó được hiến tế hàng ngày để thay thế cho món thịt người.

Boutön nghe được tin này, và vì tò mò muốn biết bạn mình pháp lực có đủ cao cường để hàng phục quỷ vương hay không, nên ông thân hành đến đó cùng với ba người bạn là những Lạt-ma uyên thâm thông thái.

Khi họ đến nơi thì Chindjé đã xuất hiện theo lời hiệu triệu của Lạt-ma Youngtön. Truyền thuyết kể lại rằng hình dạng Chindjé trông rất khủng khiếp, vì y “to bằng cả bầu trời”.

Lạt-ma Youngtön tuyên bố với các vị khách rằng họ đến rất đúng lúc để biểu hiện lòng từ bi của mình. Ông cho biết đã khuất phục được quỷ vương vì lợi ích của chúng sinh, và dùng phẩm vật hiến tế để xoa dịu y, nhưng Chindjé đề nghị phải để y ăn thịt một trong vị Lạt-ma uyên bác đó. Ba vị Lạt-ma đồng hành của Boutön liền lấy đủ cớ để thoái thác lời đề nghị đó, rồi vội vã chuồn mất.

Còn lại một mình với người bạn Youngtön, Lạt-ma Boutön liền tuyên bố nếu nghi lễ này thực sự cần phải hy sinh một mạng người mới đạt kết quả, thì ông rất sẵn lòng bước vào miệng quỷ vương đang há rộng.



#28 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 14/01/2014 - 04:33

Trước lời đề nghị đầy lòng từ bi đó, nhà huyền thuật Youngtön liền đáp, ông đã nghĩ ra một cách vẫn đảm bảo được kết quả tế lễ, mà không cần Boutön phải hy sinh mạng sống. Ông chỉ cần ủy thác cho Lạt-ma Boutön và các pháp tự đời sau phải tiến hành lễ cúng này cứ mười hai năm một lần. Lạt-ma Boutön hăng hái nhận lời. Youngtön liền dùng huyền thuật tạo ra vô số con bồ câu ảo (tulpa) để ném vào miệng Chindjé.

Kể từ đó, tất cả các Lạt-ma nào được xem là hóa thân của Boutön đều tiến hành lập đàn tràng này tại tu viện Chalu nhằm chúc phúc cho quỷ vương. Dường như số lượng các vị Lạt-ma tế lễ cứ tăng dần lên theo thời gian thay vì chỉ có một người như ban đầu, vì hiện nay các Lạt-ma ở Chalu thường nói “có rất nhiều quỷ vương” được cúng trong dịp này.

Do đó, để mời được tất cả những quỷ vương ở nhiều vùng cách rất xa nhau, cần phải gởi một điệp sứ đi mời, gọi là mahékétang. Mahékétang có nghĩa là “con trâu điệp sứ”, vì con trâu là vật cưỡi của Chindjé. Con vật này nổi tiếng vì tính gan dạ, và dám đi mời ác quỷ ma vương. Ít ra thì đây là cách giải thích phổ biến tại Chalu.

Vị điệp sứ này được tuyển chọn luân phiên trong các tu sĩ ở tu viện Nyang töd kyid và Samding.

Vị tu sĩ nào được chọn vào vai trò này phải trải qua một kỳ tập huấn tại một trong các tu viện trên. Quy trình tập huấn bao gồm các bài tập về hô hấp và những thao tác đặc biệt, được tiến hành trong một mật thất (tshams khang) tối đen như mực, suốt một khoảng thời gian là ba năm, ba tháng, ba tuần và ba ngày.




#29 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 14/01/2014 - 04:33

Trong số các bài tập đó, có một bài tập rất ưa thích trong giới những người tạm được xem là pháp sư có kiến thức ở mức trung bình. Không chỉ giới tu sĩ, mà ngay cả các thiện nam tín nữ, cũng lui về “chốn ẩn cư” để miệt mài luyện tập. Nội dung bài tập đó như vầy:

Hành giả ngồi tréo chân trên tấm bồ đoàn dày và lớn. Anh ta hít hơi thật chậm và thật sâu tựa hồ để người căng phồng lên. Sau đó, anh ta kìm hơi thở lại rồi nhảy lên, vẫn giữ hai chân bắt tréo và không dùng tay làm điểm tựa, rồi lại rơi xuống mà không thay đổi tư thế ngồi. Có một số Lạt-ma sau một thời gian luyện tập đã nhảy lên rất cao.

Theo người Tây Tạng, người nào kiên trì khổ luyện như thế suốt nhiều năm sẽ có khả năng: “ngồi trên mũi kiếm mà không làm oằn thân kiếm, hoặc đi trên một đống lúa mà không làm xê dịch hạt nào”. Trên thực tế, mục đích của công phu luyện tập này là phép cất người trên không, tức là cách đưa người bổng lên khỏi mặt đất.

Người ta đã nghĩ ra một phương pháp thử nghiệm kỳ lạ. Người nào luyện thành công môn này thì được xem có thể thực hiện được các kỹ năng dưới dây, hoặc ít ra là cũng gần đạt đến những kỹ năng đó. Để thử nghiệm, người ta cho đào một cái hố có chiều cao bằng với chiều cao của thí sinh. Trên miệng hố người ta cho xây một mái vòm có độ cao tương đương độ sâu của hố.

Trên đỉnh mái vòm có khoét một lỗ nhỏ. Ví dụ thí sinh cao 1,7 mét thì chiều cao từ đáy hố đến mái vòm là 3,4 mét. Thí sinh ngồi xếp bằng dưới đáy hố phải tung người một cái sao cho cả thân mình lọt qua lỗ nhỏ trên mái vòm để ra ngoài, vẫn trong tư thế hai chân bắt chéo nhau.

Tôi đã nghe rất nhiều người Tây Tạng kể rằng chính họ đã tận mắt chứng kiến điều này ở xử sở họ, nhưng bản thân tôi thì chưa hề được thấy một kỳ công nào như thế.

Riêng đối với những “con trâu điệp sứ”, thì phương pháp mà tôi ghi nhận được tại nơi họ được sát hạch lần cuối lại thể hiện một cách khác hẳn.


#30 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 14/01/2014 - 04:36

Sau thời gian ba năm giam mình trong phòng tối, các tu sĩ được đề cử phải tập trung về Chalu để tham dự kỳ thi tuyển. Ở đó họ cũng bị nhốt trong một căn phòng kín, tối om như một nấm mồ mà tôi sẽ mô tả sau đây.

Điểm khác biệt ở đây là lỗ trống để thoát ra được trổ trên tường chứ không phải trên nóc. Tu sĩ dự thi không cần phải tung người nhảy ra khỏi nấm mồ của mình. Nhờ vào một cái ghế đẩu người ta để lại, người đó có thể nhô người ra khỏi cái hố - nơi anh ta phải ngồi suốt bảy ngày.

Sau đó, tu sĩ dự thi phải thoát ra ngoài thông qua cái lỗ vuông với kích thước mỗi cạnh bằng một gang tay của mình, mà anh ta tự phải mở rộng ra thêm khoảng hai tấc mỗi chiều. Tu sĩ nào vượt qua đợt thử thách này thì xem như đủ tiêu chuẩn để trở thành “con trâu điệp sứ” mahékétang.

Người ta thấy thật khó hiểu vì sao phương pháp luyện tập bắt một người giam mình bất động trong bóng tối suốt bao năm dài lại có thể giúp người đó đạt đến khả năng di chuyển nhẹ nhàng linh hoạt phi thường như vậy, nhưng cần nhớ rằng phương pháp tập luyện đó không hề liên quan đến vấn đề phát triển thể lực.

Dĩ nhiên theo quan điểm của chúng ta, trong những phương pháp rèn luyện cách bước sải chân, vẫn luôn còn nhiều phương pháp khác nữa, gồm những bài tập rèn luyện hợp lý hơn. Hành giả phiêu nhiên công thứ hai mà tôi gặp cũng không cho tôi cơ hội quan sát khi ông ta đang di chuyển.







Similar Topics Collapse

2 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 2 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |  
Vượng
Thịnh
Khang
An