

TUYẾT HƯ LÃO NHÂN TỊNH ÐỘ TUYỂN TẬP
Viết bởi hiendde, 03/09/13 22:01
48 replies to this topic
#31
Gửi vào 07/09/2013 - 06:05
Tiếp đây, tôi dùng một bài kệ để kết thúc:
a. “Tịnh Ðộ nan tín khước dị hành” (Tịnh Ðộ khó tin, nhưng dễ hành):
Chỉ mỗi mình Ðức Phật là có thể giảng minh bạch Tịnh Ðộ Tông, ngoại trừ Ðức Phật không còn một ai khác có thể giảng minh bạch được. Vì thế, Tịnh Ðộ “nan tín”. Học Phật nhiều năm, kinh sách mười phần coi hết chín, vẫn chẳng tin nổi Tịnh Tông. Vì thế bảo là pháp Nan Tín. Nhưng đối với ai tu được pháp này thì nó rất đơn giản. Những lời tôi nói đây đều là lời của Tổ Sư, của Phật giảng, chứ chẳng phải là lời tôi giảng. Tôi chỉ là cái máy cassette phát lại cho quý vị nghe mà thôi. Pháp tu dễ dàng nhưng phải có rèn luyện lâu dài, chứ chẳng phải là vừa tu là thành tựu được ngay, vừa tu là chứng ngay. Ðó là câu kệ thứ nhất.
b. “Toàn do nhị lực chánh trợ công” (hoàn toàn do hai lực và Chánh Công Phu, Trợ Công Phu):
Nhị lực tức là công phu của chính mình (tự lực). Mình không dụng công không xong. Ngoài ra còn có Phật lực, Phật đến tiếp dẫn mình. Quý vị xem, phần nhiều tượng Phật A Di Ðà là tượng đứng, là dạng tiếp dẫn. Thật ra, vị Phật nào cũng đều có Tịnh Ðộ riêng, nhưng các Ðức Phật khác chẳng đến tiếp dẫn mình. Chỉ mình Ðức Phật A Di Ðà đến tiếp dẫn ta. Quý vị không biết đường cũng chẳng sao, A Di Ðà Phật cầm hoa sen đến đón quý vị, cứ ngự lên hoa sen, cứ ngự lên hoa sen! Ngài đưa quý vị đi! Nếu sanh về cõi khác sẽ chẳng có phương tiện này đâu, quý vị phải tự nhận biết đường.
c. “Tất đắc Nhất Tâm phương hữu hiệu” (phải đạt được Nhất Tâm thì mới hữu hiệu):
Quý vị phải niệm đến Nhất Tâm mới hữu hiệu. Niệm không Nhất Tâm thì vô dụng. Ðiều này ai nấy hãy nghe cho rõ. Thế nào là Nhất Tâm? Ðoạn Hoặc là Nhất Tâm thuần túy. Chế ngự Hoặc cũng là Nhất Tâm, cũng được vãng sanh.
d. “Phương tiện phục Hoặc tức cảm thông” (dùng phương tiện chế ngự Hoặc liền cảm thông):
Ðoạn Hoặc chẳng dễ. Thành A La Hán là pháp Tiểu Thừa, đoạn sạch Kiến Hoặc rồi còn phải sanh vào nhân gian hay cõi trời bảy lần, tu tập cả vạn năm mới thành tựu, mới đoạn sạch Tư Hoặc. Quý vị niệm A Di Ðà Phật bảy ngày thành công, thật là thuận tiện quá. Quý vị chẳng dùng công phu trên đây không thể đoạn Hoặc, làm thế nào đây? Thì lại có pháp phương tiện là chế phục Hoặc. Còn đối với các tông khác thì sao? Trong các tông khác, chế phục Hoặc là điều hoàn toàn vô dụng. Tu các tông khác thì dù có chế phục Hoặc vẫn còn trong luân hồi, hoàn toàn vô dụng. Chế phục Hoặc chỉ hữu dụng đối với Tịnh Ðộ Tông, trong các tông khác chẳng thể áp dụng cách này được.
Do chế phục Hoặc, quý vị được sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới thì sẽ đoạn Hoặc ở nơi đó, tự nhiên A Di Ðà Phật sẽ giúp quý vị đoạn Hoặc. Cốt sao cảm ứng thì quang minh dung thông lẫn nhau mới có thể thành công.
Nói tóm lại, đến ngày thứ tư tôi sẽ giảng nữa. Nay giảng đôi điều về công phu, mọi người nên nhớ kỹ. Hôm nay là ngày đầu, từ đây đến suốt bảy ngày sau quý vị cứ thực hành theo đó, tận dụng thời gian này khẩn thiết niệm Phật. Xin lão sư sắp sẵn kiền chùy, ai nấy buông xuống vạn duyên, cứ một câu A Di Ðà mà niệm mãi.
a. “Tịnh Ðộ nan tín khước dị hành” (Tịnh Ðộ khó tin, nhưng dễ hành):
Chỉ mỗi mình Ðức Phật là có thể giảng minh bạch Tịnh Ðộ Tông, ngoại trừ Ðức Phật không còn một ai khác có thể giảng minh bạch được. Vì thế, Tịnh Ðộ “nan tín”. Học Phật nhiều năm, kinh sách mười phần coi hết chín, vẫn chẳng tin nổi Tịnh Tông. Vì thế bảo là pháp Nan Tín. Nhưng đối với ai tu được pháp này thì nó rất đơn giản. Những lời tôi nói đây đều là lời của Tổ Sư, của Phật giảng, chứ chẳng phải là lời tôi giảng. Tôi chỉ là cái máy cassette phát lại cho quý vị nghe mà thôi. Pháp tu dễ dàng nhưng phải có rèn luyện lâu dài, chứ chẳng phải là vừa tu là thành tựu được ngay, vừa tu là chứng ngay. Ðó là câu kệ thứ nhất.
b. “Toàn do nhị lực chánh trợ công” (hoàn toàn do hai lực và Chánh Công Phu, Trợ Công Phu):
Nhị lực tức là công phu của chính mình (tự lực). Mình không dụng công không xong. Ngoài ra còn có Phật lực, Phật đến tiếp dẫn mình. Quý vị xem, phần nhiều tượng Phật A Di Ðà là tượng đứng, là dạng tiếp dẫn. Thật ra, vị Phật nào cũng đều có Tịnh Ðộ riêng, nhưng các Ðức Phật khác chẳng đến tiếp dẫn mình. Chỉ mình Ðức Phật A Di Ðà đến tiếp dẫn ta. Quý vị không biết đường cũng chẳng sao, A Di Ðà Phật cầm hoa sen đến đón quý vị, cứ ngự lên hoa sen, cứ ngự lên hoa sen! Ngài đưa quý vị đi! Nếu sanh về cõi khác sẽ chẳng có phương tiện này đâu, quý vị phải tự nhận biết đường.
c. “Tất đắc Nhất Tâm phương hữu hiệu” (phải đạt được Nhất Tâm thì mới hữu hiệu):
Quý vị phải niệm đến Nhất Tâm mới hữu hiệu. Niệm không Nhất Tâm thì vô dụng. Ðiều này ai nấy hãy nghe cho rõ. Thế nào là Nhất Tâm? Ðoạn Hoặc là Nhất Tâm thuần túy. Chế ngự Hoặc cũng là Nhất Tâm, cũng được vãng sanh.
d. “Phương tiện phục Hoặc tức cảm thông” (dùng phương tiện chế ngự Hoặc liền cảm thông):
Ðoạn Hoặc chẳng dễ. Thành A La Hán là pháp Tiểu Thừa, đoạn sạch Kiến Hoặc rồi còn phải sanh vào nhân gian hay cõi trời bảy lần, tu tập cả vạn năm mới thành tựu, mới đoạn sạch Tư Hoặc. Quý vị niệm A Di Ðà Phật bảy ngày thành công, thật là thuận tiện quá. Quý vị chẳng dùng công phu trên đây không thể đoạn Hoặc, làm thế nào đây? Thì lại có pháp phương tiện là chế phục Hoặc. Còn đối với các tông khác thì sao? Trong các tông khác, chế phục Hoặc là điều hoàn toàn vô dụng. Tu các tông khác thì dù có chế phục Hoặc vẫn còn trong luân hồi, hoàn toàn vô dụng. Chế phục Hoặc chỉ hữu dụng đối với Tịnh Ðộ Tông, trong các tông khác chẳng thể áp dụng cách này được.
Do chế phục Hoặc, quý vị được sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới thì sẽ đoạn Hoặc ở nơi đó, tự nhiên A Di Ðà Phật sẽ giúp quý vị đoạn Hoặc. Cốt sao cảm ứng thì quang minh dung thông lẫn nhau mới có thể thành công.
Nói tóm lại, đến ngày thứ tư tôi sẽ giảng nữa. Nay giảng đôi điều về công phu, mọi người nên nhớ kỹ. Hôm nay là ngày đầu, từ đây đến suốt bảy ngày sau quý vị cứ thực hành theo đó, tận dụng thời gian này khẩn thiết niệm Phật. Xin lão sư sắp sẵn kiền chùy, ai nấy buông xuống vạn duyên, cứ một câu A Di Ðà mà niệm mãi.
#32
Gửi vào 07/09/2013 - 06:09
VI. KHAI THỊ PHẬT THẤT TẠI CHÙA LINH SƠN NĂM MẬU NGỌ (lần thứ hai)
(Tư Thục Ðiền Kế Nghiêm kính ghi, đệ tử Ngô Bích Hà giảo đính)
Tạp niệm giai thị bình tố tội,
Nhược bất tạo nghiệp niệm bất sanh,
Tùng kim thiết mạc tái tạo nghiệp
Nhất Tâm Bất Loạn tự nhiên thành
Tạp niệm là tội ngày thường
Nghiệp như chẳng tạo, niệm đường nào sanh,
Từ nay chẳng tạo nghiệp trần
Nhất Tâm Bất Loạn quả thành tự nhiên
Phật thất đã đến ngày thứ năm, tôi đã nói chỉ cần chiếu theo phương pháp đã giảng trong ngày thứ nhất mà tu tập, nhìn chung ít nhiều có tiến bộ dần dần. Tính từ hôm nay chỉ còn có hai ngày nữa thôi, chúng ta chỉ cầu Nhất Tâm, không cầu gì khác.
Ða số mọi người chẳng hiểu Tâm là cái gì, học Phật chỉ cần hiểu được chữ Tâm này thì công phu mới chẳng uổng lầm. Có thể nói là mọi người tu hành nhiều năm nhưng vẫn chưa hiểu rõ chữ Tâm này, nên hôm nay tôi nói cho quý vị nghe ý nghĩa của chữ Tâm để quý vị dụng công nơi Tâm.
Tâm ở đây hoàn toàn chẳng phải là “nhục đoàn tâm” (quả tim thịt), chẳng phải là vật gì, chẳng phải là trái tim thuộc trong ngũ tạng, lục phủ. Như vậy, nói tới cùng, Tâm là gì? Từ xưa đến nay ai cũng chẳng thấy, ai cũng chẳng tìm được nó. Chỉ người chứng quả mới hiểu rõ mà thôi, hễ hiểu được Tâm thì chứng quả. Người đến giảng khai thị hôm nay cũng chỉ nói những điều tạm diễn tả Tâm để mọi người tự suy nghĩ lấy. Một khi tôi đã nói ra, mọi người nên tin tưởng. Nếu chẳng tin thì đành chẳng có cách nào. Những điều tôi sắp nói rất bình thường, nhưng rất khó thực hiện bởi nó là pháp khó tin dễ hành vậy.
Tâm chính là ý niệm của mỗi người tự phát khởi. Tâm nghĩ đến điều gì thì liền khởi ý niệm về điều đó. Nếu bảo kẻ này tâm tốt, kẻ kia tâm xấu thì cũng là nói về ý niệm của người đó. Ý niệm đó gọi là Tâm. Câu nói này, đối với người đã học Phật mấy năm thì khó mà nói là chẳng hiểu được! Tâm ấy chẳng thấy được, chẳng sờ được, nhưng tự mình chẳng lẽ không hay biết hay sao? Bởi thế, người ta tu hành chính là tu ngay nơi ý niệm này. Quý vị nên nhớ kỹ. Làm thế nào để tu nơi ý niệm?
(Tư Thục Ðiền Kế Nghiêm kính ghi, đệ tử Ngô Bích Hà giảo đính)
Tạp niệm giai thị bình tố tội,
Nhược bất tạo nghiệp niệm bất sanh,
Tùng kim thiết mạc tái tạo nghiệp
Nhất Tâm Bất Loạn tự nhiên thành
Tạp niệm là tội ngày thường
Nghiệp như chẳng tạo, niệm đường nào sanh,
Từ nay chẳng tạo nghiệp trần
Nhất Tâm Bất Loạn quả thành tự nhiên
Phật thất đã đến ngày thứ năm, tôi đã nói chỉ cần chiếu theo phương pháp đã giảng trong ngày thứ nhất mà tu tập, nhìn chung ít nhiều có tiến bộ dần dần. Tính từ hôm nay chỉ còn có hai ngày nữa thôi, chúng ta chỉ cầu Nhất Tâm, không cầu gì khác.
Ða số mọi người chẳng hiểu Tâm là cái gì, học Phật chỉ cần hiểu được chữ Tâm này thì công phu mới chẳng uổng lầm. Có thể nói là mọi người tu hành nhiều năm nhưng vẫn chưa hiểu rõ chữ Tâm này, nên hôm nay tôi nói cho quý vị nghe ý nghĩa của chữ Tâm để quý vị dụng công nơi Tâm.
Tâm ở đây hoàn toàn chẳng phải là “nhục đoàn tâm” (quả tim thịt), chẳng phải là vật gì, chẳng phải là trái tim thuộc trong ngũ tạng, lục phủ. Như vậy, nói tới cùng, Tâm là gì? Từ xưa đến nay ai cũng chẳng thấy, ai cũng chẳng tìm được nó. Chỉ người chứng quả mới hiểu rõ mà thôi, hễ hiểu được Tâm thì chứng quả. Người đến giảng khai thị hôm nay cũng chỉ nói những điều tạm diễn tả Tâm để mọi người tự suy nghĩ lấy. Một khi tôi đã nói ra, mọi người nên tin tưởng. Nếu chẳng tin thì đành chẳng có cách nào. Những điều tôi sắp nói rất bình thường, nhưng rất khó thực hiện bởi nó là pháp khó tin dễ hành vậy.
Tâm chính là ý niệm của mỗi người tự phát khởi. Tâm nghĩ đến điều gì thì liền khởi ý niệm về điều đó. Nếu bảo kẻ này tâm tốt, kẻ kia tâm xấu thì cũng là nói về ý niệm của người đó. Ý niệm đó gọi là Tâm. Câu nói này, đối với người đã học Phật mấy năm thì khó mà nói là chẳng hiểu được! Tâm ấy chẳng thấy được, chẳng sờ được, nhưng tự mình chẳng lẽ không hay biết hay sao? Bởi thế, người ta tu hành chính là tu ngay nơi ý niệm này. Quý vị nên nhớ kỹ. Làm thế nào để tu nơi ý niệm?
#33
Gửi vào 07/09/2013 - 06:10
Muốn hiểu rõ cách tu thì trước hết phải hiểu rõ ý niệm đã. Trong những ý niệm của con người, không có được một ý niệm tốt mà toàn là vọng niệm, tạp niệm. Vọng niệm không có gì là chân thực, đều là giả dối cả. Tạp niệm là ý niệm chẳng sạch sẽ, tịnh rồi lại tạp ư? Nói khái quát, ý niệm của chúng ta toàn là tạp loạn, hư vọng, toàn là chẳng đúng. Quý vị có biết trong một ngày chúng ta khởi bao nhiêu ý niệm không? Xin nói cho quý vị hay: Quý vị xem đây (cụ Lý búng ngón tay), trong khoảng thời gian búng ngón tay thật ngắn ngủi này đây, nói không sai cho lắm là quý vị có gần cả trăm mấy mươi ý niệm, nhanh như vậy đó! Mà một ngày từ sáng đến tối chẳng ngừng, nói cho quý vị hay là quý vị chẳng có ý niệm nào cầu thành Phật cả.
Quý vị nghe vậy tin hay chẳng tin? Có vị nghe tôi nói lời này liền tin ngay, ai chẳng tin lời tôi, người đó chẳng tin Phật pháp. Vì sao vậy? Lời tôi vừa nói đó đâu phải do tôi đặt ra, mà đều là những điều được nói trong kinh. Ai không tin Phật pháp thì học Phật cách nào? Làm sao thành tựu được? Học Phật phải thờ ai làm thầy? Phật chính là thầy. Làm theo đúng lời Phật dạy ắt sẽ thành công; chẳng tuân theo thì chẳng cách nào thành công được.
Từ sáng đến tối ý niệm phát khởi chẳng ngừng, nhiều như thế đó, chẳng ai nắm giữ được những ý niệm này, mà những ý niệm được phát khởi đó đều là những ý niệm xấu xa cả. Dù có ý niệm xấu như vậy nhưng có thể là chúng ta chẳng nói lời xấu, cũng như không làm điều gì xấu. Hừm! Rõ ràng trong tâm nổi lên chủ ý xấu, chẳng nói lời xấu, chẳng làm điều gì, nhưng chủ ý xấu vẫn có ảnh hưởng, nhà Phật gọi là “chủng tử”. Ðây là cách nói thí dụ, chứ chẳng phải thực sự là gieo hạt giống xuống.
Một khi ý niệm khởi lên, nó sẽ in bóng vào tâm. Hình bóng của ý niệm được in vào tâm đó gọi là “chủng tử”. Quý vị nghĩ xem, có những sự việc đã lâu năm, chợt nghĩ đến thì những điều mình nghĩ đến đó liền tái hiện. Những điều mình nghĩ đến đó chẳng hề giảm mất, chúng đều được chứa trọn trong tám thức điền, cả vạn vạn năm chẳng bị tiêu diệt mất. Dù cho mình có bận tâm hoặc chẳng quan tâm gì đến chúng, hình ảnh của chúng vẫn tồn tại trong tâm mình. Những gì mình mơ thấy trong giấc ngủ chính là những hình ảnh này. Ðến lúc chúng ta lâm chung, những hình ảnh trong tâm sẽ hiện ra ngoài, tạo thành ý niệm. Khi lâm chung vào lúc tối hậu, khi ý tưởng mình chấp vào đâu, nó sẽ dẫn mình theo đi đầu thai nơi đó, lại trở vào trong lục đạo luân hồi.
Nói là lục đạo luân hồi, nhưng thật ra chỉ có ba đường dưới. Chúng ta khởi tâm, tâm người không có, tâm trời cũng không thì đương nhiên là khởi tâm tam đồ. Tâm này phát khởi ra sao? Chúng tôi chẳng đề cập đến chuyện từng làm điều xấu, mà chỉ luận về tâm. Dạy mọi người giữ giới, mọi người không giữ, hoặc giữ giới nhưng toàn phát khởi ý niệm phạm giới. Do phạm giới, tâm này phải đọa trong tam đồ: súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ. Nếu tạo thành hành động (tạo nghiệp) thì thời gian thọ khổ dài thêm một phần, tội lớn thêm một phần. Chẳng tạo thành hành động (chỉ khởi vọng niệm, còn chưa tạo nghiệp) thì tội ít hơn một phần, thời gian thọ khổ ngắn hơn một phần. Trước hết, phải phân biệt hiểu rõ điểm này.
Học Phật tu hành, tu hành những gì? Tu hành chính là tu ý niệm này. Có người nói tôi chẳng khởi ý niệm lớn, chẳng nói gì, còn chẳng thấy mình đang giác ngộ những ý niệm của chính mình khởi lên thì còn cái gì để tu nữa đây?
Chẳng có một ai không hề khởi lên một ý niệm nào cả! Ðến ngay bậc Ðẳng Giác Bồ Tát vẫn còn khởi niệm nữa kia! “Vô niệm” chính là không vọng niệm, không tà niệm, chứ hoàn toàn chẳng phải là không có ý niệm nào! Ðiều này vị nào xem kinh nhiều cũng đã thấy rõ rồi. Nếu không có ý niệm thì trở thành gỗ, đá. Quý vị tu thành gỗ, đá để làm gì?
Quý vị nghe vậy tin hay chẳng tin? Có vị nghe tôi nói lời này liền tin ngay, ai chẳng tin lời tôi, người đó chẳng tin Phật pháp. Vì sao vậy? Lời tôi vừa nói đó đâu phải do tôi đặt ra, mà đều là những điều được nói trong kinh. Ai không tin Phật pháp thì học Phật cách nào? Làm sao thành tựu được? Học Phật phải thờ ai làm thầy? Phật chính là thầy. Làm theo đúng lời Phật dạy ắt sẽ thành công; chẳng tuân theo thì chẳng cách nào thành công được.
Từ sáng đến tối ý niệm phát khởi chẳng ngừng, nhiều như thế đó, chẳng ai nắm giữ được những ý niệm này, mà những ý niệm được phát khởi đó đều là những ý niệm xấu xa cả. Dù có ý niệm xấu như vậy nhưng có thể là chúng ta chẳng nói lời xấu, cũng như không làm điều gì xấu. Hừm! Rõ ràng trong tâm nổi lên chủ ý xấu, chẳng nói lời xấu, chẳng làm điều gì, nhưng chủ ý xấu vẫn có ảnh hưởng, nhà Phật gọi là “chủng tử”. Ðây là cách nói thí dụ, chứ chẳng phải thực sự là gieo hạt giống xuống.
Một khi ý niệm khởi lên, nó sẽ in bóng vào tâm. Hình bóng của ý niệm được in vào tâm đó gọi là “chủng tử”. Quý vị nghĩ xem, có những sự việc đã lâu năm, chợt nghĩ đến thì những điều mình nghĩ đến đó liền tái hiện. Những điều mình nghĩ đến đó chẳng hề giảm mất, chúng đều được chứa trọn trong tám thức điền, cả vạn vạn năm chẳng bị tiêu diệt mất. Dù cho mình có bận tâm hoặc chẳng quan tâm gì đến chúng, hình ảnh của chúng vẫn tồn tại trong tâm mình. Những gì mình mơ thấy trong giấc ngủ chính là những hình ảnh này. Ðến lúc chúng ta lâm chung, những hình ảnh trong tâm sẽ hiện ra ngoài, tạo thành ý niệm. Khi lâm chung vào lúc tối hậu, khi ý tưởng mình chấp vào đâu, nó sẽ dẫn mình theo đi đầu thai nơi đó, lại trở vào trong lục đạo luân hồi.
Nói là lục đạo luân hồi, nhưng thật ra chỉ có ba đường dưới. Chúng ta khởi tâm, tâm người không có, tâm trời cũng không thì đương nhiên là khởi tâm tam đồ. Tâm này phát khởi ra sao? Chúng tôi chẳng đề cập đến chuyện từng làm điều xấu, mà chỉ luận về tâm. Dạy mọi người giữ giới, mọi người không giữ, hoặc giữ giới nhưng toàn phát khởi ý niệm phạm giới. Do phạm giới, tâm này phải đọa trong tam đồ: súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ. Nếu tạo thành hành động (tạo nghiệp) thì thời gian thọ khổ dài thêm một phần, tội lớn thêm một phần. Chẳng tạo thành hành động (chỉ khởi vọng niệm, còn chưa tạo nghiệp) thì tội ít hơn một phần, thời gian thọ khổ ngắn hơn một phần. Trước hết, phải phân biệt hiểu rõ điểm này.
Học Phật tu hành, tu hành những gì? Tu hành chính là tu ý niệm này. Có người nói tôi chẳng khởi ý niệm lớn, chẳng nói gì, còn chẳng thấy mình đang giác ngộ những ý niệm của chính mình khởi lên thì còn cái gì để tu nữa đây?
Chẳng có một ai không hề khởi lên một ý niệm nào cả! Ðến ngay bậc Ðẳng Giác Bồ Tát vẫn còn khởi niệm nữa kia! “Vô niệm” chính là không vọng niệm, không tà niệm, chứ hoàn toàn chẳng phải là không có ý niệm nào! Ðiều này vị nào xem kinh nhiều cũng đã thấy rõ rồi. Nếu không có ý niệm thì trở thành gỗ, đá. Quý vị tu thành gỗ, đá để làm gì?
#34
Gửi vào 07/09/2013 - 06:12
Chẳng qua (tu học) là để biến đổi ý niệm. Biến đổi như thế nào? “Chẳng khiến người khác khởi vọng niệm, chẳng khiến người khác tạp loạn”. Chẳng khiến người khác khởi vọng niệm nghĩa là chỉ có ý niệm thanh tịnh, trong sạch. Ðiều này trong kinh có nói đến. Ai đọc chương Ðại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông (trong kinh Lăng Nghiêm) ắt sẽ hiểu câu “tịnh niệm tiếp nối” nghĩa là khiến cho ý niệm thanh tịnh được liên tục chẳng gián đoạn. Người khác “loạn niệm tiếp nối”, mình tu hành sao cho “tịnh niệm tiếp nối”.
Thế nào là “tịnh”? Tịnh là thuần một ý niệm, không tạp loạn, chẳng có bảy thứ tình cảm: mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, sợ, chẳng có giết, dâm, trộm, chẳng có tham, sân, si. Chẳng có những điều ấy thì ý niệm thanh tịnh. Quý vị thử nghĩ xem, nếu ý niệm chẳng tạp loạn thì chẳng phải là thanh tịnh hay sao? Không kể bọn mình ra, ngay cả hàng Ðịa Thượng Bồ Tát còn chưa đạt được ý niệm thanh tịnh, nói chi là bọn mình! Chúng ta không có ý niệm thanh tịnh thì phải làm thế nào đây?
Ai có thể triệt để thực hiện được điều này? Chỉ có mình Ðức Phật! Ý niệm của Ðức Phật hoàn toàn thanh tịnh. Chỗ nào mà mọi bất tịnh đã hoàn toàn trừ khử thì chỗ đó chính là thế giới trang nghiêm của Phật, tức là Tịnh Ðộ. Kinh Nhân Vương Hộ Quốc chép: “Tam Hiền, Thập Thánh còn trụ trong quả báo, chỉ mình đức Phật ngự trong Tịnh Ðộ”. Tam Hiền, Thập Thánh ý niệm còn chưa thuần thanh tịnh. Quý vị cứ lấy kinh Hộ Quốc Nhân Vương dò kỹ từng dòng sẽ thấy chỉ mình Ðức Phật thanh tịnh ý niệm triệt để. Chúng ta chưa thành Phật, ngay cả La Hán còn chưa chứng, chưa đoạn được bất cứ thứ Hoặc nào, thì làm thế nào để tịnh ý niệm đây?
Trước hết, hãy hỏi quý vị một câu: Lúc quý vị ở đây niệm Phật thì chuyện niệm đó cũng là khởi ý niệm, vậy thì niệm đó là Phật hay không phải là Phật? Là Phật. Ðúng như vậy! Phật là thanh tịnh nhất, ngoại trừ Phật ra, tất cả đều chẳng thanh tịnh, đều hư giả. Niệm đó chính là A Di Ðà Phật. Phật A Di Ðà là bậc nhất trong các Ðức Phật. Niệm nằm trong tâm quý vị, tâm chính là A Di Ðà Phật. A Di Ðà Phật chính là tâm niệm của quý vị. Trừ điều này ra không còn gì khác nữa, ắt sẽ thành công.
Ngoài phương pháp này, không có phương pháp nào đơn giản hơn nữa. Bởi thế, chẳng cần vận dụng đến phương tiện nào khác nữa mà tâm tự khai ngộ. Ở đây niệm chú này, nơi kia niệm chú kia đều uổng công. Dù có nhiều phương tiện, nhưng chẳng cần phải tu phương tiện nào khác. Chẳng cần vận dụng phương tiện mà tâm tự khai ngộ chính là điều tối khẩn yếu. Quý vị tu hành như thế đó, biến ý niệm của chính mình thành Phật A Di Ðà, ngoài đức A Di Ðà Phật không còn có tâm nào khác nữa, thì gọi là Nhất Tâm.
Ðiều vừa bàn trên chẳng phải chỉ dùng mấy câu là có thể giảng minh bạch được, mà nó cũng rất khó giảng. Tôi chỉ nói điều khẩn yếu nhưng vẫn e mọi người dù nghe rồi vẫn chưa hiểu rõ. Tôi nói câu sau đây nhiều lần: “Từ sáng đến tối, trong tâm chẳng khởi vọng tưởng, chẳng khởi tạp niệm”, làm thế nào để đạt được như vậy mới khỏi uổng công nói như thế! Trong hàng Bồ Tát chưa chứng được Thất Ðịa còn nhiều vị chưa làm được điều này.
Nếu quý vị lại hỏi người khai thị làm được điều này chăng? Tôi cũng chưa làm được! Quý vị không làm được lại bảo tôi làm, có hợp lý không? Chẳng hợp lý! Tôi có phương pháp: vọng niệm khởi thì tạp niệm cũng khởi. Khởi rồi thì làm sao? Kinh dạy: “Ðừng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Vọng niệm khởi quý vị mặc kệ, chẳng thèm biết đến là không được; vì là bị ma dựa, là chứa chấp giặc mà mình vẫn không hay thì chúng sẽ làm loạn trong tâm liền. Quý vị biết là có ma, có giặc thì phải phòng bị. Ðó là điều nên làm vậy!
Khi khởi ý niệm xấu, quý vị bèn không tu Tịnh Ðộ nữa hay sao? Quý vị tu Tịnh Ðộ nhưng không dùng phương pháp của Tịnh Ðộ, lại dùng phương pháp khác, há chẳng phải là phiền toái sao? Quý vị dùng ngay bốn chữ A Di Ðà Phật, vọng niệm vừa khởi, chẳng lý gì đến hết thảy, cứ A Di Ðà Phật, A Di Ðà Phật.... Vọng niệm vừa khởi liền niệm mấy mươi câu A Di Ðà Phật đè nó xuống. Ðây gọi là Chế Phục Hoặc. Ðè nén được nó thì ma đó, giặc đó chẳng nổi dậy được, Ðè nén phía dưới, những thứ bất tịnh chất chứa cũng bị đè xuống dưới thì trên mặt sẽ thanh tịnh, giống như một chén nước, nếu cát bụi bị lắng xuống dưới, phần nước bên trên sẽ trong veo. Ðấy chính là Chế Phục Hoặc!
Thế nào là “tịnh”? Tịnh là thuần một ý niệm, không tạp loạn, chẳng có bảy thứ tình cảm: mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, sợ, chẳng có giết, dâm, trộm, chẳng có tham, sân, si. Chẳng có những điều ấy thì ý niệm thanh tịnh. Quý vị thử nghĩ xem, nếu ý niệm chẳng tạp loạn thì chẳng phải là thanh tịnh hay sao? Không kể bọn mình ra, ngay cả hàng Ðịa Thượng Bồ Tát còn chưa đạt được ý niệm thanh tịnh, nói chi là bọn mình! Chúng ta không có ý niệm thanh tịnh thì phải làm thế nào đây?
Ai có thể triệt để thực hiện được điều này? Chỉ có mình Ðức Phật! Ý niệm của Ðức Phật hoàn toàn thanh tịnh. Chỗ nào mà mọi bất tịnh đã hoàn toàn trừ khử thì chỗ đó chính là thế giới trang nghiêm của Phật, tức là Tịnh Ðộ. Kinh Nhân Vương Hộ Quốc chép: “Tam Hiền, Thập Thánh còn trụ trong quả báo, chỉ mình đức Phật ngự trong Tịnh Ðộ”. Tam Hiền, Thập Thánh ý niệm còn chưa thuần thanh tịnh. Quý vị cứ lấy kinh Hộ Quốc Nhân Vương dò kỹ từng dòng sẽ thấy chỉ mình Ðức Phật thanh tịnh ý niệm triệt để. Chúng ta chưa thành Phật, ngay cả La Hán còn chưa chứng, chưa đoạn được bất cứ thứ Hoặc nào, thì làm thế nào để tịnh ý niệm đây?
Trước hết, hãy hỏi quý vị một câu: Lúc quý vị ở đây niệm Phật thì chuyện niệm đó cũng là khởi ý niệm, vậy thì niệm đó là Phật hay không phải là Phật? Là Phật. Ðúng như vậy! Phật là thanh tịnh nhất, ngoại trừ Phật ra, tất cả đều chẳng thanh tịnh, đều hư giả. Niệm đó chính là A Di Ðà Phật. Phật A Di Ðà là bậc nhất trong các Ðức Phật. Niệm nằm trong tâm quý vị, tâm chính là A Di Ðà Phật. A Di Ðà Phật chính là tâm niệm của quý vị. Trừ điều này ra không còn gì khác nữa, ắt sẽ thành công.
Ngoài phương pháp này, không có phương pháp nào đơn giản hơn nữa. Bởi thế, chẳng cần vận dụng đến phương tiện nào khác nữa mà tâm tự khai ngộ. Ở đây niệm chú này, nơi kia niệm chú kia đều uổng công. Dù có nhiều phương tiện, nhưng chẳng cần phải tu phương tiện nào khác. Chẳng cần vận dụng phương tiện mà tâm tự khai ngộ chính là điều tối khẩn yếu. Quý vị tu hành như thế đó, biến ý niệm của chính mình thành Phật A Di Ðà, ngoài đức A Di Ðà Phật không còn có tâm nào khác nữa, thì gọi là Nhất Tâm.
Ðiều vừa bàn trên chẳng phải chỉ dùng mấy câu là có thể giảng minh bạch được, mà nó cũng rất khó giảng. Tôi chỉ nói điều khẩn yếu nhưng vẫn e mọi người dù nghe rồi vẫn chưa hiểu rõ. Tôi nói câu sau đây nhiều lần: “Từ sáng đến tối, trong tâm chẳng khởi vọng tưởng, chẳng khởi tạp niệm”, làm thế nào để đạt được như vậy mới khỏi uổng công nói như thế! Trong hàng Bồ Tát chưa chứng được Thất Ðịa còn nhiều vị chưa làm được điều này.
Nếu quý vị lại hỏi người khai thị làm được điều này chăng? Tôi cũng chưa làm được! Quý vị không làm được lại bảo tôi làm, có hợp lý không? Chẳng hợp lý! Tôi có phương pháp: vọng niệm khởi thì tạp niệm cũng khởi. Khởi rồi thì làm sao? Kinh dạy: “Ðừng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Vọng niệm khởi quý vị mặc kệ, chẳng thèm biết đến là không được; vì là bị ma dựa, là chứa chấp giặc mà mình vẫn không hay thì chúng sẽ làm loạn trong tâm liền. Quý vị biết là có ma, có giặc thì phải phòng bị. Ðó là điều nên làm vậy!
Khi khởi ý niệm xấu, quý vị bèn không tu Tịnh Ðộ nữa hay sao? Quý vị tu Tịnh Ðộ nhưng không dùng phương pháp của Tịnh Ðộ, lại dùng phương pháp khác, há chẳng phải là phiền toái sao? Quý vị dùng ngay bốn chữ A Di Ðà Phật, vọng niệm vừa khởi, chẳng lý gì đến hết thảy, cứ A Di Ðà Phật, A Di Ðà Phật.... Vọng niệm vừa khởi liền niệm mấy mươi câu A Di Ðà Phật đè nó xuống. Ðây gọi là Chế Phục Hoặc. Ðè nén được nó thì ma đó, giặc đó chẳng nổi dậy được, Ðè nén phía dưới, những thứ bất tịnh chất chứa cũng bị đè xuống dưới thì trên mặt sẽ thanh tịnh, giống như một chén nước, nếu cát bụi bị lắng xuống dưới, phần nước bên trên sẽ trong veo. Ðấy chính là Chế Phục Hoặc!
#35
Gửi vào 07/09/2013 - 06:13
Giống như vậy, khi lâm chung, mới vừa giao cảm thì phần trên sẽ xuất hiện trước, phần dưới chẳng xuất hiện. Phần trên là A Di Ðà Phật nên bèn được A Di Ðà Phật tiếp dẫn đi. Còn nếu như phần dưới hiện ra thì không vãng sanh được, Phật A Di Ðà cũng chẳng biết làm sao. Trên đây là nói về phương pháp “chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm” vậy.
Chúng ta không phải là người xuất gia. Người xuất gia sống trong chùa nên không bị xã hội tạp loạn gây chướng ngại. Vì họ ít việc nên chẳng khởi tạp loạn. Chúng ta tại gia rất khó làm được vậy, toàn là lo những việc thế tục. Chẳng hạn như nói đến những vật thường thấy thuộc về thất tình: ai nấy đều tính toán tiền bạc. Hễ tính toán tiền bạc thì nghĩ: ai phải đưa cho mình chừng đó tiền, mình trao cho ai chừng đó tiền, như vậy được mấy phân lời.
Do mấy phân lời bèn suy tính cái này, hoạch định cái kia. Ðấy là tâm tham! Vậy phải làm sao? Hãy nghe tôi nói mấy câu: Lúc tính tiền, đừng khởi chủ ý xấu, đừng toan nghĩ cách làm thiệt hại đến người khác. Mình phải đưa tiền cho ai thì cứ đếm một, hai, ba, bốn tờ... bao nhiêu đó, đếm xong đừng chấp vào đó. Một, hai, ba, bốn chỉ là những con số để tính đếm, chẳng thiện, chẳng ác. Tính đếm xong thì thôi, buông hết xuống, xong việc rồi thôi, buông bỏ, tâm không nghĩ đến nó nữa. “Buông bỏ” rất khẩn yếu, ở đây tôi chỉ lấy việc tính tiền làm thí dụ.
Lại như tại gia tu hành, mình tu hành, người nhà không tu, ra chợ mua thịt về kêu mình thái thịt hoặc sát hại con gì đó thì mình làm sao? Lúc đó cũng đừng có khẩn trương. Nếu không bảo kẻ kia làm được thì mình đành phải làm; nhưng lúc đang làm, muôn phần chớ quên niệm A Di Ðà Phật. Thịt đó, do chúng nó không học Phật nên tạo ác nghiệp, mới bị biến thành heo, thành dê, thành thịt, bị người khác ngàn cắt, vạn xẻ. Lúc quý vị cắt xẻ, cứ mỗi nhát dao là một câu A Di Ðà Phật thì con dao ấy sẽ thành A Di Ðà Phật tiêu tội cho quý vị. Dùng cách quán tưởng ấy để biến cải tâm mình là được.
Thậm chí ở nơi nhà xí, chỗ bất tịnh, dù miệng chẳng niệm Phật nhưng tâm tưởng: “Tây phương Cực Lạc thế giới không có việc này, không có đại tiểu tiện. Thế giới Sa Bà bẩn thỉu như vậy, chúng ta tạo các thứ tội nghiệp mới phải sinh vào đây, tâm chẳng thanh tịnh mới sống nơi chẳng sạch sẽ”. Lúc đó, giữ tấm lòng sám hối, trong lòng cầu A Di Ðà Phật sớm cho mình được ôm chân Ngài. Dù làm bất cứ việc gì cũng chẳng được quên A Di Ðà Phật, chẳng cần phải niệm ra tiếng. Trong tâm tưởng Phật để hoán chuyển cảnh giới. Ðấy chính là “ức Phật”.
Quý vị tập sao cho trong tâm chẳng hề quên Phật là được, dù gặp phải tình huống thế nào, cứ đơn giản làm theo biện pháp ấy. Tôi nói đi nói lại: Quý vị lấy trộm tiền của người khác thì là ăn cắp vặt; vừa niệm Phật vừa trộm lấy thì không còn cách nào để giảng cho quý vị được nữa. Quý vị chớ có thiếu khai ngộ như thế.
Nói tóm lại là phải giữ gìn giới luật. Phật tại thế thờ Phật làm thầy, Phật chẳng tại thế lấy Giới làm thầy. Học Phật thì chẳng được phạm giới luật. Ðã nói là chẳng được phạm giới mà còn trộm cắp vặt ư? Chẳng giữ giới luật làm sao học Phật được?
Hôm nay tôi chỉ nói như vậy, chẳng thể nói nhiều. Hoàn toàn là thường ngày trong lúc ăn uống, đứng ngồi phải luôn luyện tập, lâu ngày chầy tháng quý vị thường luôn luyện tập thì tự nhiên tạo thành thói quen nên sẽ thành công. Thời gian kết Phật thất này chính là lúc để kiểm nghiệm công phu ở nhà của quý vị như thế nào. Ðến đây thí nghiệm xem quý vị có đắc Nhất Tâm trong vòng bảy ngày này hay không? Nếu ở nhà đã chẳng hề luyện tập thì đến đây làm sao đắc Nhất Tâm được? Làm gì dễ dàng như thế được? Quý vị phải nhớ đây là chuyện thực tế.
Thường ngày luyện tập sẽ tập thành thói quen tự nhiên. (Khi đó) chẳng cần đến chùa Linh Sơn dự Phật thất, ở ngay ngoài đường cũng là đạo tràng vì đã quen rồi! Dù cho đến đây dự Phật thất chẳng đạt Nhất Tâm thì cũng có được tăng thượng duyên hỗ trợ cho mình. Dù công phu của mình tệ bạc đến đâu, đến đây thấy ai nấy đều niệm Phật, dù một mình ta không niệm, nhưng lắng tai nghe thì cũng có hình bóng đức Phật in vô tâm mình. Công đức ấy chẳng phải nhỏ. Chúng ta chưa nhận thức được rằng: Dù chỉ là tăng thượng duyên cũng có đại lợi ích vậy.
Nói tóm lại, công phu hoàn toàn cậy vào sự luyện tập thường ngày, tập quen sẽ tự nhiên thành tựu, tự nhiên làm được thôi! Trong kinh Di Ðà nói các loài chim thuyết pháp, quý vị vẫn chưa thấu hiểu sao? Cho đến khi nghe gió thổi qua những cây báu cũng tự nhiên sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, đấy đều là tự nhiên cả. Ðã quy về tự nhiên thì tự nhiên chẳng sợ gì hết, làm bất cứ điều gì cũng là để lợi ích chúng sanh. Tâm trên vì Phật pháp, dưới vì chúng sanh thì là đã thành công rồi. Một mảy riêng tư trong tâm cũng không có. Hãy nhớ kỹ điều này!
Hơn nữa, từ ngày hôm nay trở đi, bao nhiêu tội nghiệp trước kia hãy để cho chúng bị tiêu hóa hết trong tâm đi. Làm thế nào để tiêu hóa? Chẳng tạo vạ mới nữa. Chẳng tạo vạ mới tức là chẳng vun bồi những chủng tử cũ. Những chủng tử ấy chẳng được tăng trưởng ra ngoài thì lâu ngày chúng sẽ tự nhiên diệt đi. “Tùy duyên tiêu cựu nghiệp” nghĩa là gặp phải sự việc bất hảo liền gắng thay đổi hoàn cảnh.
Như phần trên đã nói, quý vị bắt buộc phải sát sanh không còn cách nào khác, thì quý vị nên niệm Phật thay cho chúng nó. Tâm quý vị chẳng có những việc xấu ấy, tùy theo những sự việc xấu ấy mà biến cải tâm lý. “Tùy duyên tiêu cựu nghiệp, cánh bất tạo tân ương” (tùy duyên tiêu nghiệp, chẳng tạo thêm vạ mới) như vậy thì sẽ thành công.
Tiếp đây, tôi sẽ đọc qua bài kệ một lượt cho quý vị nghe. Ai thấy được thì nhìn, không thấy thì nghe cũng vậy thôi.
“Tạp niệm giai thị bình tố tội”: Tạp niệm chính là vọng niệm khởi động. Chẳng phải là quý vị muốn như vậy, nhưng vọng niệm chính là chủng tử của tội nghiệp hiển hiện. Khi vọng niệm khuấy động bên trong thì gọi là Ma. Thường ngày, khi nào quý vị gây tạo tội nghiệp thì khi ấy vọng niệm phát khởi .
“Nhược bất tạo nghiệp niệm bất sanh”: Quý vị chẳng tạo tội nghiệp thì vọng niệm chẳng sanh. Vọng niệm chẳng sanh thì ý niệm nào khởi lên cũng là tịnh niệm, “tịnh niệm tiếp nối”.
“Tùng kim mạc thiết tái tạo nghiệp”: Từ nay, lúc nào cũng là lúc mình niệm Phật. Từ nay về sau đã chẳng tạo hết thảy nghiệp thì tại sao còn nhiều phen tổn hại chúng sanh? Ðộ chúng sanh chẳng phải là tổn hại chúng sanh. Mình tổn hại chúng sanh trong xã hội thì còn học Phật cái nỗi gì? Tạo nghiệp đều là làm hại người khác, ta chẳng nên tạo nghiệp.
“Nhất Tâm Bất Loạn tự nhiên thành”: Có vậy thì mới đắc Nhất Tâm Bất Loạn, tự nhiên thành công. Nếu còn tạo nghiệp thì đạt Nhất Tâm sao nổi!
Nói đã nhiều rồi, mỗi câu đều có đạo lý sâu xa. Trong thời gian này, mọi người nên gắng đạt Nhất Tâm Bất Loạn. Niệm Phật cầu Nhất Tâm Bất Loạn rất khẩn yếu. Tính đến mai vẫn còn hai ngày, mọi người hãy suy nghĩ những điều đó, về đến nhà cũng vẫn thực hành theo đó. Chư vị đồng tu hãy buông xuống vạn duyên, niệm mỗi một câu A Di Ðà Phật!
#36
Gửi vào 11/09/2013 - 05:12
VII. KHAI THỊ TRONG PHẬT THẤT NĂM TÂN DẬU
(đệ tử Liên Thục Mỹ kính ghi)
Tính đến nay đã là ba mươi năm mở Phật thất ở đây, mỗi lần đều phải có người giảng nói. Theo quy củ, phải thỉnh thiện tri thức trong Tịnh Ðộ Tông đến khai thị. Khai thị chẳng phải là giảng kinh, thuyết pháp, mà là nói về những điểm thật trọng yếu, phải thuyết minh điều quan trọng là làm thế nào để đạt Nhất Tâm. Chẳng đạt được Nhất Tâm thì dù có niệm Phật vạn năm cũng chẳng thành công.
Nay tôi chỉ là một gã bạch y, công phu cũng chẳng giỏi, tuy từng gặp được các bậc đại đức trong Tịnh Tông, gặp minh sư chỉ điểm, nhưng vì ngu độn, chỉ có thể dựa theo lời tổ sư giảng, dựa dẫm các ngài để giảng giải, chẳng dám xưng là giảng khai thị.
Ba mươi năm qua, ai giảng trong mỗi kỳ Phật thất? Toàn là tôi giảng. Mỗi năm, đồng tu tham gia cũ mới đều có, lời giảng cũng khác. Trong số đó, có người đã từng nghe giảng suốt ba mươi năm qua, nay lại giảng cái gì đây? Giảng nữa cũng vẫn là những lời đó. Nghe qua rồi, bạn đồng tu chẳng muốn nghe lại vì đều đã hiểu cả rồi. Thử hỏi có ai làm được chưa? Nếu chưa làm được thì có giảng vẫn là vô dụng.
Nay tôi dựa theo khai thị của tổ sư để giảng. Tổ sư dựa theo kinh điển mà kinh là từ miệng Phật nói, pháp môn đều do Phật truyền, điều gì kinh không nói thì tổ sư cũng chẳng dám tùy tiện đặt ra. Nhưng Tam Tạng kinh điển quá nhiều, phàm phu chẳng tiếp nhận hết nổi, chỉ có thể chuyên tu theo một pháp môn. Chúng ta đều tu Tịnh Ðộ nên tôi dựa theo pháp môn Tịnh Ðộ mà nói.
Có lẽ quý vị nghi hoặc sao tôi không nói thẳng vào phương pháp chứng đắc Nhất Tâm? Ðó là vì hiện tại mọi việc đều chẳng bình thường, chẳng đúng lẽ, đều suy thoái cả. Có người bảo bây giờ náo nhiệt hơn trước, sao lại bảo là suy thoái? Nói đến Nhiệt thì toàn thân mướt mồ hôi, lòng đầy phiền muộn, Náo là lộn xộn bảy tám tầng. Nói đến tu Tịnh Ðộ thì phải đắc Nhất Tâm Bất Loạn mới có thể vãng sanh, nếu náo nhiệt thì làm sao đạt Nhất Tâm được? Vì vậy mới bảo là suy thoái.
Mọi người là bạn già của tôi, đã niệm Phật ba mươi năm rồi, sau này nếu như mọi người chẳng đạt được kết quả tốt là tôi có lỗi đối với mọi người. Cổ nhân nói: “Thiên nhân ngật phạn, nhất nhân hoàn tiền” (ngàn người ăn cơm, một người trả tiền). Kết thất niệm Phật, đông người tham gia, phí tổn cũng nhiều. Nếu như chẳng có kết quả gì lại là tạo tội nghiệp, hết thảy tội lỗi người giảng khai thị phải gánh. Nếu như trong đây có một ai phát chân tâm, đạt được Nhất Tâm, sau này vãng sanh thì coi như là người ấy đã bồi hoàn phí tổn cho đạo tràng này rồi. Ngày hôm nay khác với năm ngoái, xin quý vị phải chú ý tột bực, nghĩ đến vãng sanh thì ắt sẽ niệm đến mức Nhất Tâm, đừng có ồn náo vô ích.
(đệ tử Liên Thục Mỹ kính ghi)
Tính đến nay đã là ba mươi năm mở Phật thất ở đây, mỗi lần đều phải có người giảng nói. Theo quy củ, phải thỉnh thiện tri thức trong Tịnh Ðộ Tông đến khai thị. Khai thị chẳng phải là giảng kinh, thuyết pháp, mà là nói về những điểm thật trọng yếu, phải thuyết minh điều quan trọng là làm thế nào để đạt Nhất Tâm. Chẳng đạt được Nhất Tâm thì dù có niệm Phật vạn năm cũng chẳng thành công.
Nay tôi chỉ là một gã bạch y, công phu cũng chẳng giỏi, tuy từng gặp được các bậc đại đức trong Tịnh Tông, gặp minh sư chỉ điểm, nhưng vì ngu độn, chỉ có thể dựa theo lời tổ sư giảng, dựa dẫm các ngài để giảng giải, chẳng dám xưng là giảng khai thị.
Ba mươi năm qua, ai giảng trong mỗi kỳ Phật thất? Toàn là tôi giảng. Mỗi năm, đồng tu tham gia cũ mới đều có, lời giảng cũng khác. Trong số đó, có người đã từng nghe giảng suốt ba mươi năm qua, nay lại giảng cái gì đây? Giảng nữa cũng vẫn là những lời đó. Nghe qua rồi, bạn đồng tu chẳng muốn nghe lại vì đều đã hiểu cả rồi. Thử hỏi có ai làm được chưa? Nếu chưa làm được thì có giảng vẫn là vô dụng.
Nay tôi dựa theo khai thị của tổ sư để giảng. Tổ sư dựa theo kinh điển mà kinh là từ miệng Phật nói, pháp môn đều do Phật truyền, điều gì kinh không nói thì tổ sư cũng chẳng dám tùy tiện đặt ra. Nhưng Tam Tạng kinh điển quá nhiều, phàm phu chẳng tiếp nhận hết nổi, chỉ có thể chuyên tu theo một pháp môn. Chúng ta đều tu Tịnh Ðộ nên tôi dựa theo pháp môn Tịnh Ðộ mà nói.
Có lẽ quý vị nghi hoặc sao tôi không nói thẳng vào phương pháp chứng đắc Nhất Tâm? Ðó là vì hiện tại mọi việc đều chẳng bình thường, chẳng đúng lẽ, đều suy thoái cả. Có người bảo bây giờ náo nhiệt hơn trước, sao lại bảo là suy thoái? Nói đến Nhiệt thì toàn thân mướt mồ hôi, lòng đầy phiền muộn, Náo là lộn xộn bảy tám tầng. Nói đến tu Tịnh Ðộ thì phải đắc Nhất Tâm Bất Loạn mới có thể vãng sanh, nếu náo nhiệt thì làm sao đạt Nhất Tâm được? Vì vậy mới bảo là suy thoái.
Mọi người là bạn già của tôi, đã niệm Phật ba mươi năm rồi, sau này nếu như mọi người chẳng đạt được kết quả tốt là tôi có lỗi đối với mọi người. Cổ nhân nói: “Thiên nhân ngật phạn, nhất nhân hoàn tiền” (ngàn người ăn cơm, một người trả tiền). Kết thất niệm Phật, đông người tham gia, phí tổn cũng nhiều. Nếu như chẳng có kết quả gì lại là tạo tội nghiệp, hết thảy tội lỗi người giảng khai thị phải gánh. Nếu như trong đây có một ai phát chân tâm, đạt được Nhất Tâm, sau này vãng sanh thì coi như là người ấy đã bồi hoàn phí tổn cho đạo tràng này rồi. Ngày hôm nay khác với năm ngoái, xin quý vị phải chú ý tột bực, nghĩ đến vãng sanh thì ắt sẽ niệm đến mức Nhất Tâm, đừng có ồn náo vô ích.
#37
Gửi vào 11/09/2013 - 05:12
Chư vị tu hành hơn ba mươi năm. Cổ nhân nói: “Thuyết đắc nhất trượng, bất như hành nhất xích” (nói một trượng không bằng làm được một thước). Nói nhiều vô dụng, cần phải thật tu mới nên. Kinh điển rất nhiều, nhưng hiểu được vạn pháp chẳng bằng hiểu kỹ một pháp, bởi lẽ bất luận như thế nào cũng đều phải y theo một môn tu hành mới hòng thành công được. Dùng bất cứ câu nào trong kinh cũng đều chứng quả được, nhưng vạn câu kinh chẳng bằng một câu Phật!
Có lẽ mọi người không tin điều này, vì thường có bạn đồng tu đến hỏi tôi cần phải niệm thêm bộ kinh nào? Bộ kinh nào cũng tốt vì đều là lời Phật dạy cả. Nếu như khóa sáng mỗi ngày tụng hết cả Tam Tạng mười hai bộ kinh thì công đức rất lớn, nhưng xưa nay, ngay cả các vị tổ sư cũng chưa ai có thể niệm hết trong một buổi sáng được. Sáu chữ trong một câu Phật hiệu, tôi chỉ hiểu nổi ba chữ, hiểu biết mới được một nửa như vậy mà đã có thể giảng suốt ba mươi năm. Quý vị lợi căn nếu hiểu được bốn chữ thì ắt sẽ thành tựu.
Vì sao một câu Phật hiệu lại có hiệu quả lớn đến thế? Vì kinh do Phật nói ra, Tăng do dựa vào kinh mà có. Ðã vãng sanh rồi vẫn phải niệm Tam Bảo. Phật đứng đầu Tam Bảo. Vì vậy, hiểu được một câu Phật hiệu là thành công. Kinh Di Ðà dạy: “Chẳng thể dùng chút thiện căn, phước đức nhân duyên để được sanh về cõi kia”. Niệm Phật là trồng thiện căn. Cây có gốc mới có thể sanh trưởng; có thiện căn thì mới có thể khai hoa, kết quả. Những điều này trước đây tôi đã giảng qua, nhưng chỉ là diễn giảng cách khác.
Ai cũng niệm kinh Di Ðà, nhưng vẫn không hiểu. Vì lẽ gì không hiểu? Là vì chưa có duyên khai ngộ. Trong Tịnh Tông cũng cần phải khai ngộ. Không khai ngộ thì là mê hoặc, điên đảo, nhưng muốn khai ngộ phải là người có phước khí. Vì thế kinh Di Ðà nói: “Chẳng thể dùng chút thiện căn, phước đức nhân duyên”. Muốn khai ngộ thì phải tu phước.
Phước đức là gì? Kinh Di Ðà nêu ra ba mươi bảy Trợ Ðạo Phẩm, điều này khá rắc rối, không phải ai cũng làm được. Sau này, các tổ sư nói gọn lại là mười thiện nghiệp, nhưng mọi người vẫn không hiểu, nên lại phải nói pháp phương tiện là “tin sâu nhân quả”; cốt yếu là “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện”. Thiện ác chủng loại rất nhiều. Nếu như giữ được năm giới cấm căn bản, khởi tâm làm điều gì thì hết thảy đều là vì công (chẳng tư tâm), đó là Thiện. Tâm riêng tư cuồn cuộn thì là Ác. Trừ khử ba sự ác căn bản là Tham, Sân, Si, làm gì cũng vì mọi người thì là có phước đức.
Có phước sẽ khai ngộ. Cổ nhân nói: “Phước chí tâm linh”, nghĩa là: Phước đến, tự nhiên tâm nhanh nhạy, vừa nói hiểu liền, giảng một câu hiểu đến tám, mười câu. Vô phước thì tâm chẳng linh lợi, giảng cả trăm câu còn chưa nghe hiểu được nổi một câu. Học Phật cầu cảm ứng đạo giao, cảm ứng được Phật thì gọi là “linh cảm”. Tâm hôn mê, trầm trệ làm sao cảm ứng được Phật? Dù Phật có đến tiếp dẫn vẫn chẳng chịu đi. Công phu phải tu tập hằng ngày. Tu hành chẳng trở ngại đến nghề nghiệp dù là nông, công, thương, công chức, y sĩ. Chỉ cốt sao dùng tâm Bồ Ðề làm việc thì là Thiện, phước chí tâm linh tự nhiên khai ngộ.
Ngày hôm nay kết thất là đi dự thi, lúc bình thường khéo công phu thì lúc kết thất khả dĩ đắc Nhất Tâm, chứ chẳng phải là cứ rêu rao rằng bảy ngày liền được Nhất Tâm, liễu sanh tử. Trong vòng trời đất làm gì có chuyện thuận tiện đến thế? Uống cạn một hơi chén trà còn chẳng dễ, huống là đại sự liễu sanh tử! Hoàn toàn là do thường ngày luyện tập. Tâm, Phật và chúng sanh là cùng một sự. Trọn tấm lòng đều nghĩ đến mọi người, khởi ý niệm nào cũng đều là Phật thì tâm chính là Phật. Tâm chẳng niệm Phật, tơ tưởng toàn là những điều xấu xa tạp nhạp, lộn xộn trong thế gian thì tâm là phàm phu. Thành Phật hoặc làm phàm phu đều là do tâm tạo. Tiếp theo đây, tôi sẽ giảng một bài kệ để kết thúc:
“Phật tại tâm trung mạc ngoại cầu” (Phật ở trong tâm chớ ngoại cầu): Phật ở ngay trong tâm quý vị, thành Phật hay thành chúng sanh đều là do chính quý vị mà thôi. Tìm cầu đức Phật bên ngoài là lầm lẫn. Câu này nói về thiện căn, câu tiếp theo nói về phước đức.
“Tham sân phóng hạ thị chân tu” (tham, sân buông bỏ ấy chân tu): Tham, Sân, Si là ba phiền não căn bản. Chẳng buông bỏ được chúng để tu hành đúng như lời dạy thì chính là nói dối người. Nếu như buông bỏ được chúng thì mới là chân chánh tu hành.
“Niên quang tam thập nãi như cựu” (Ba mươi năm rồi vẫn như cũ): Phật thất tổ chức ở đây đã ba mươi năm rồi, tôi cũng đã đến giảng cả ba mươi năm. Mười năm đầu, người thành tựu chẳng ít. Mười năm kế giảm bớt. Mười năm sau chẳng được như trước. Năm nay tuy có ba người hiện tướng lành vãng sanh, nhưng nói chung là mỗi năm lại kém hơn năm trước, vẫn là y như cũ chẳng tiến bộ gì. Sau này ai lại đến giảng trong ba mươi năm nữa đây?
“Thế Chí, Quán Âm đại phát sầu” (Thế Chí, Quan Âm cũng phát rầu): Chúng ta niệm Phật tệ hại như vậy, chẳng phải chỉ mình Phật A Di Ðà không cao hứng mà cả Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí cũng phải buồn giùm quý vị. Mỗi cá nhân quý vị tu tập sao đây? Nếu chẳng khéo tu tập thì thuyền từ phổ độ của Quán Âm Bồ Tát cũng chẳng độ được quý vị. Thế Chí Bồ Tát dạy quý vị nhớ Phật, niệm Phật, tịnh niệm tiếp nối, quý vị cũng chẳng nghe. Hai vị Bồ Tát phải buồn thay cho quý vị. Các Ngài buồn chuyện gì? Các Ngài thấy mình có lỗi đối với Phật A Di Ðà, dạy học sinh thế nào mà chẳng thành công chi hết? Hôm nay là thánh đản đức A Di Ðà, các Ngài không có cách nào bái thọ Phật A Di Ðà được hoàn toàn là do lỗi của bọn ta.
Có lẽ mọi người không tin điều này, vì thường có bạn đồng tu đến hỏi tôi cần phải niệm thêm bộ kinh nào? Bộ kinh nào cũng tốt vì đều là lời Phật dạy cả. Nếu như khóa sáng mỗi ngày tụng hết cả Tam Tạng mười hai bộ kinh thì công đức rất lớn, nhưng xưa nay, ngay cả các vị tổ sư cũng chưa ai có thể niệm hết trong một buổi sáng được. Sáu chữ trong một câu Phật hiệu, tôi chỉ hiểu nổi ba chữ, hiểu biết mới được một nửa như vậy mà đã có thể giảng suốt ba mươi năm. Quý vị lợi căn nếu hiểu được bốn chữ thì ắt sẽ thành tựu.
Vì sao một câu Phật hiệu lại có hiệu quả lớn đến thế? Vì kinh do Phật nói ra, Tăng do dựa vào kinh mà có. Ðã vãng sanh rồi vẫn phải niệm Tam Bảo. Phật đứng đầu Tam Bảo. Vì vậy, hiểu được một câu Phật hiệu là thành công. Kinh Di Ðà dạy: “Chẳng thể dùng chút thiện căn, phước đức nhân duyên để được sanh về cõi kia”. Niệm Phật là trồng thiện căn. Cây có gốc mới có thể sanh trưởng; có thiện căn thì mới có thể khai hoa, kết quả. Những điều này trước đây tôi đã giảng qua, nhưng chỉ là diễn giảng cách khác.
Ai cũng niệm kinh Di Ðà, nhưng vẫn không hiểu. Vì lẽ gì không hiểu? Là vì chưa có duyên khai ngộ. Trong Tịnh Tông cũng cần phải khai ngộ. Không khai ngộ thì là mê hoặc, điên đảo, nhưng muốn khai ngộ phải là người có phước khí. Vì thế kinh Di Ðà nói: “Chẳng thể dùng chút thiện căn, phước đức nhân duyên”. Muốn khai ngộ thì phải tu phước.
Phước đức là gì? Kinh Di Ðà nêu ra ba mươi bảy Trợ Ðạo Phẩm, điều này khá rắc rối, không phải ai cũng làm được. Sau này, các tổ sư nói gọn lại là mười thiện nghiệp, nhưng mọi người vẫn không hiểu, nên lại phải nói pháp phương tiện là “tin sâu nhân quả”; cốt yếu là “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện”. Thiện ác chủng loại rất nhiều. Nếu như giữ được năm giới cấm căn bản, khởi tâm làm điều gì thì hết thảy đều là vì công (chẳng tư tâm), đó là Thiện. Tâm riêng tư cuồn cuộn thì là Ác. Trừ khử ba sự ác căn bản là Tham, Sân, Si, làm gì cũng vì mọi người thì là có phước đức.
Có phước sẽ khai ngộ. Cổ nhân nói: “Phước chí tâm linh”, nghĩa là: Phước đến, tự nhiên tâm nhanh nhạy, vừa nói hiểu liền, giảng một câu hiểu đến tám, mười câu. Vô phước thì tâm chẳng linh lợi, giảng cả trăm câu còn chưa nghe hiểu được nổi một câu. Học Phật cầu cảm ứng đạo giao, cảm ứng được Phật thì gọi là “linh cảm”. Tâm hôn mê, trầm trệ làm sao cảm ứng được Phật? Dù Phật có đến tiếp dẫn vẫn chẳng chịu đi. Công phu phải tu tập hằng ngày. Tu hành chẳng trở ngại đến nghề nghiệp dù là nông, công, thương, công chức, y sĩ. Chỉ cốt sao dùng tâm Bồ Ðề làm việc thì là Thiện, phước chí tâm linh tự nhiên khai ngộ.
Ngày hôm nay kết thất là đi dự thi, lúc bình thường khéo công phu thì lúc kết thất khả dĩ đắc Nhất Tâm, chứ chẳng phải là cứ rêu rao rằng bảy ngày liền được Nhất Tâm, liễu sanh tử. Trong vòng trời đất làm gì có chuyện thuận tiện đến thế? Uống cạn một hơi chén trà còn chẳng dễ, huống là đại sự liễu sanh tử! Hoàn toàn là do thường ngày luyện tập. Tâm, Phật và chúng sanh là cùng một sự. Trọn tấm lòng đều nghĩ đến mọi người, khởi ý niệm nào cũng đều là Phật thì tâm chính là Phật. Tâm chẳng niệm Phật, tơ tưởng toàn là những điều xấu xa tạp nhạp, lộn xộn trong thế gian thì tâm là phàm phu. Thành Phật hoặc làm phàm phu đều là do tâm tạo. Tiếp theo đây, tôi sẽ giảng một bài kệ để kết thúc:
“Phật tại tâm trung mạc ngoại cầu” (Phật ở trong tâm chớ ngoại cầu): Phật ở ngay trong tâm quý vị, thành Phật hay thành chúng sanh đều là do chính quý vị mà thôi. Tìm cầu đức Phật bên ngoài là lầm lẫn. Câu này nói về thiện căn, câu tiếp theo nói về phước đức.
“Tham sân phóng hạ thị chân tu” (tham, sân buông bỏ ấy chân tu): Tham, Sân, Si là ba phiền não căn bản. Chẳng buông bỏ được chúng để tu hành đúng như lời dạy thì chính là nói dối người. Nếu như buông bỏ được chúng thì mới là chân chánh tu hành.
“Niên quang tam thập nãi như cựu” (Ba mươi năm rồi vẫn như cũ): Phật thất tổ chức ở đây đã ba mươi năm rồi, tôi cũng đã đến giảng cả ba mươi năm. Mười năm đầu, người thành tựu chẳng ít. Mười năm kế giảm bớt. Mười năm sau chẳng được như trước. Năm nay tuy có ba người hiện tướng lành vãng sanh, nhưng nói chung là mỗi năm lại kém hơn năm trước, vẫn là y như cũ chẳng tiến bộ gì. Sau này ai lại đến giảng trong ba mươi năm nữa đây?
“Thế Chí, Quán Âm đại phát sầu” (Thế Chí, Quan Âm cũng phát rầu): Chúng ta niệm Phật tệ hại như vậy, chẳng phải chỉ mình Phật A Di Ðà không cao hứng mà cả Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí cũng phải buồn giùm quý vị. Mỗi cá nhân quý vị tu tập sao đây? Nếu chẳng khéo tu tập thì thuyền từ phổ độ của Quán Âm Bồ Tát cũng chẳng độ được quý vị. Thế Chí Bồ Tát dạy quý vị nhớ Phật, niệm Phật, tịnh niệm tiếp nối, quý vị cũng chẳng nghe. Hai vị Bồ Tát phải buồn thay cho quý vị. Các Ngài buồn chuyện gì? Các Ngài thấy mình có lỗi đối với Phật A Di Ðà, dạy học sinh thế nào mà chẳng thành công chi hết? Hôm nay là thánh đản đức A Di Ðà, các Ngài không có cách nào bái thọ Phật A Di Ðà được hoàn toàn là do lỗi của bọn ta.
#38
Gửi vào 11/09/2013 - 05:14
XIII. LỜI TRẦN TÌNH CỦA CỤ TUYẾT TĂNG
NHÂN DỊP PHẬT THẤT NĂM NHÂM TUẤT
Kết Phật thất tại đây đã hơn ba mươi năm. Mỗi lần kết thất, học nhân đều đến đây giảng. Thoạt đầu, mỗi ngày giảng một lượt, đem những sở học về phương pháp Niệm Phật của chính mình cống hiến cho mọi người, còn hai chữ “khai thị” chẳng đảm đương nổi. Ba mươi năm qua, tôi đã nói rất nhiều về pháp môn này cũng như cách niệm Phật, đều là bàn về những kinh nghiệm của cổ nhân, chỉ cần chọn lấy một điều để thực hành thì sẽ có thể thành công.
Hiện tại chính là thời kỳ Mạt Pháp. Tu các pháp môn khác đều phải cậy vào tự lực để đoạn Hoặc, chứng chân. Muốn đắc tiểu quả A La Hán cũng phải cả ngàn năm, vạn năm, thật chẳng dễ thực hiện được. Chỉ có mỗi Tịnh Ðộ là pháp môn Nhị Lực, tự lực chẳng đủ thì Phật lực đến gia bị. Ðiểm đặc biệt nhất là chẳng cần đoạn Hoặc, vẫn có thể cảm ứng đạo giao, lúc lâm chung Phật liền đến tiếp dẫn, được vãng sanh là thành tựu. Pháp môn này thành tựu ngay trong đời này, nhưng điều khẩn yếu là “cảm ứng đạo giao”.
Nếu chẳng cảm ứng đạo thì chẳng thể thành tựu. Vì sao chẳng cảm ứng? A Di Ðà như vầng trăng rạng ngời trên không, tâm người niệm Phật giống như nước. Nước phải trong lặng thì vầng nguyệt mới soi bóng được. Ðấy là cảm ứng; có vậy thì mới có thể tiếp dẫn vãng sanh. Nếu tâm chẳng thanh tịnh giống như nước đục ngầu, vầng trăng chẳng hiện bóng được. Ðấy chính là chẳng cảm ứng, dù A Di Ðà Phật ở ngay trước mắt cũng chẳng vãng sanh được.
Làm thế nào để cảm ứng? Ðấy chính là điểm khác nhau giữa kết thất niệm Phật và niệm Phật ở nhà. Ðến đây rồi thì tâm gì cũng buông xuống hết, một lòng niệm Phật, ở nhà đâu có làm như vậy được. Kinh Di Ðà chuyên giảng về chấp trì danh hiệu, sáu chữ hay bốn chữ Phật hiệu, một ngày, hai ngày hoặc là bảy ngày, chỉ mong sao có ngày niệm đến Nhất Tâm, tâm thủy lặng trong, cùng Phật cảm ứng, đấy mới kể là thành tựu, lúc lâm chung mới bảo đảm. Nếu chẳng làm được như vậy thì kết thất cũng uổng công, khác gì niệm Phật tại nhà đâu.
Nói đến Nhất Tâm thì trong ngàn vạn người khó có được một ai hiểu rõ. Chẳng hiểu thì sao mà làm được? Dù có làm được cũng sợ là chẳng biết [mình có thể làm được]. Vậy thì làm sao đây? Ðạo lý này, tôi là kẻ phàm phu hoàn toàn chẳng biết gì. Tuy nhiên, trong Phật thất chẳng thể giảng kinh nên tôi chỉ dựa theo nghĩa kinh và lời giảng giải của chư tổ sư để trình bày cùng quý vị.
Kinh Di Ðà nói: “Nhất Tâm Bất Loạn”, thế nào là Nhất Tâm? Lời tục nói: “Tâm vô nhị dụng”. Dụng tâm là khởi ý niệm tính làm chuyện gì đó. “Vô nhị” nghĩa là khi ý niệm phát ra ngoài thì giống như vết kim đâm rất nhỏ, chỉ có thể lọt qua một sự, chứ hai sự chẳng lọt được. Khi ý niệm đi vào trong tâm cũng giống hệt vậy. Chỉ có một ý niệm lọt vào được nhưng rất nhanh, rất nhỏ. Trong khoảng khảy ngón tay, có sáu mươi sát na. Mỗi sát na có 110 ý niệm, toàn là do nơi mình giác ngộ. Hễ giác ngộ thì sẽ khéo làm được. Các tông khác chẳng cho phép khởi ý niệm, mà phải đạt đến vô niệm, rất là khó. Tịnh tông chẳng sợ khởi niệm, chỉ sợ hay biết chậm. Càng khởi càng niệm. Niệm gì? Niệm A Di Ðà Phật. A Di Ðà mà ngừng một chút thì ý niệm xấu bèn hiện lên ngay. Nếu “tâm vô nhị dụng” (tâm không khởi lên ý niệm nào khác) thì mỗi niệm khởi lên đều là A Di Ðà Phật, cũng không niệm điều gì khác. Ðó chính là Nhất Tâm.
NHÂN DỊP PHẬT THẤT NĂM NHÂM TUẤT
Kết Phật thất tại đây đã hơn ba mươi năm. Mỗi lần kết thất, học nhân đều đến đây giảng. Thoạt đầu, mỗi ngày giảng một lượt, đem những sở học về phương pháp Niệm Phật của chính mình cống hiến cho mọi người, còn hai chữ “khai thị” chẳng đảm đương nổi. Ba mươi năm qua, tôi đã nói rất nhiều về pháp môn này cũng như cách niệm Phật, đều là bàn về những kinh nghiệm của cổ nhân, chỉ cần chọn lấy một điều để thực hành thì sẽ có thể thành công.
Hiện tại chính là thời kỳ Mạt Pháp. Tu các pháp môn khác đều phải cậy vào tự lực để đoạn Hoặc, chứng chân. Muốn đắc tiểu quả A La Hán cũng phải cả ngàn năm, vạn năm, thật chẳng dễ thực hiện được. Chỉ có mỗi Tịnh Ðộ là pháp môn Nhị Lực, tự lực chẳng đủ thì Phật lực đến gia bị. Ðiểm đặc biệt nhất là chẳng cần đoạn Hoặc, vẫn có thể cảm ứng đạo giao, lúc lâm chung Phật liền đến tiếp dẫn, được vãng sanh là thành tựu. Pháp môn này thành tựu ngay trong đời này, nhưng điều khẩn yếu là “cảm ứng đạo giao”.
Nếu chẳng cảm ứng đạo thì chẳng thể thành tựu. Vì sao chẳng cảm ứng? A Di Ðà như vầng trăng rạng ngời trên không, tâm người niệm Phật giống như nước. Nước phải trong lặng thì vầng nguyệt mới soi bóng được. Ðấy là cảm ứng; có vậy thì mới có thể tiếp dẫn vãng sanh. Nếu tâm chẳng thanh tịnh giống như nước đục ngầu, vầng trăng chẳng hiện bóng được. Ðấy chính là chẳng cảm ứng, dù A Di Ðà Phật ở ngay trước mắt cũng chẳng vãng sanh được.
Làm thế nào để cảm ứng? Ðấy chính là điểm khác nhau giữa kết thất niệm Phật và niệm Phật ở nhà. Ðến đây rồi thì tâm gì cũng buông xuống hết, một lòng niệm Phật, ở nhà đâu có làm như vậy được. Kinh Di Ðà chuyên giảng về chấp trì danh hiệu, sáu chữ hay bốn chữ Phật hiệu, một ngày, hai ngày hoặc là bảy ngày, chỉ mong sao có ngày niệm đến Nhất Tâm, tâm thủy lặng trong, cùng Phật cảm ứng, đấy mới kể là thành tựu, lúc lâm chung mới bảo đảm. Nếu chẳng làm được như vậy thì kết thất cũng uổng công, khác gì niệm Phật tại nhà đâu.
Nói đến Nhất Tâm thì trong ngàn vạn người khó có được một ai hiểu rõ. Chẳng hiểu thì sao mà làm được? Dù có làm được cũng sợ là chẳng biết [mình có thể làm được]. Vậy thì làm sao đây? Ðạo lý này, tôi là kẻ phàm phu hoàn toàn chẳng biết gì. Tuy nhiên, trong Phật thất chẳng thể giảng kinh nên tôi chỉ dựa theo nghĩa kinh và lời giảng giải của chư tổ sư để trình bày cùng quý vị.
Kinh Di Ðà nói: “Nhất Tâm Bất Loạn”, thế nào là Nhất Tâm? Lời tục nói: “Tâm vô nhị dụng”. Dụng tâm là khởi ý niệm tính làm chuyện gì đó. “Vô nhị” nghĩa là khi ý niệm phát ra ngoài thì giống như vết kim đâm rất nhỏ, chỉ có thể lọt qua một sự, chứ hai sự chẳng lọt được. Khi ý niệm đi vào trong tâm cũng giống hệt vậy. Chỉ có một ý niệm lọt vào được nhưng rất nhanh, rất nhỏ. Trong khoảng khảy ngón tay, có sáu mươi sát na. Mỗi sát na có 110 ý niệm, toàn là do nơi mình giác ngộ. Hễ giác ngộ thì sẽ khéo làm được. Các tông khác chẳng cho phép khởi ý niệm, mà phải đạt đến vô niệm, rất là khó. Tịnh tông chẳng sợ khởi niệm, chỉ sợ hay biết chậm. Càng khởi càng niệm. Niệm gì? Niệm A Di Ðà Phật. A Di Ðà mà ngừng một chút thì ý niệm xấu bèn hiện lên ngay. Nếu “tâm vô nhị dụng” (tâm không khởi lên ý niệm nào khác) thì mỗi niệm khởi lên đều là A Di Ðà Phật, cũng không niệm điều gì khác. Ðó chính là Nhất Tâm.
#39
Gửi vào 11/09/2013 - 05:15
Lâm chung Phật đến tiếp dẫn. Tiếp dẫn cái gì? Chẳng phải tiếp dẫn cái túi da thối tha này, cũng chẳng tiếp dẫn vọng niệm, mà là tiếp dẫn cái tâm niệm Phật. Vừa mới khởi vọng niệm liền tạo thành chướng ngại, dù Phật ở ngay trước mắt cũng vẫn có chướng ngại. Tâm mình cùng Phật quang chẳng chiếu rọi lẫn nhau được nên chẳng thể cảm ứng đạo giao, nên chẳng phát sanh hiệu lực. Vì vậy phải niệm cho đến Nhất Tâm. Lâm chung “tâm chẳng điên đảo” thì liền được vãng sanh thế giới Cực Lạc của Phật A Di Ðà.
Ðến đây kết thất niệm Phật mà chẳng hiểu rõ đạo lý này thì có khác gì niệm Phật ở nhà. Nếu như ở nơi đây, tuy miệng niệm Phật, nhưng tâm vẫn nghĩ đến chuyện khác thì hỏng rồi. Ngay trong lúc niệm Phật, tâm vừa nghĩ tưởng đến phú quý liền chẳng thể ra khỏi lục đạo, luân hồi, thân sau sẽ sanh lên trời. Hễ nghĩ đến gia đình thì gia đình chẳng phải là Tây Phương, tương lai sẽ lại làm người. Vừa nghĩ đến mình hay hơn người khác, ôm lòng ngã mạn, thân sau chỉ e vào trong đường Tu La. Nếu một mặt niệm Phật, một mặt vẫn sanh khởi ba độc Tham, Sân, Si thì tương lai sẽ đọa làm hung thần. Nếu lại tham đắm thức ăn thì thân sau đọa làm loài quỷ đa tài (4). Nếu lúc niệm hôn trầm mà chẳng hay biết thì tương lai sẽ đọa vào súc sanh. Nói chung đều là tương ứng với lục đạo, chẳng đến được Tây Phương.
Nhưng người niệm Phật do công đức niệm Phật chẳng đọa địa ngục, chẳng biến thành ngạ quỷ, chẳng làm thân súc sanh hạ đẳng. Dù sanh trong bất cứ loài nào cũng đều hưởng phước, nhưng đến đời thứ ba, do lúc chuyển thân, thần thức bị mê, công đức niệm Phật chẳng thể hiện hành, chỉ e lại bị đọa lạc rồi thọ tội.
Vì thế, ở nơi này niệm Phật, phải nên buông xuống hết thảy, khi niệm sáu chữ hoặc bốn chữ hồng danh phải từ trong tâm phát khởi, tai nghe cho rõ ràng, minh bạch, lại in vào trong tâm, đi ra, trở vào, niệm sao cho thành một mối, nhưng chỉ có loạn tâm là chưa buông xuống được. Ðến khi Phật thất kết thúc, chẳng phải là về đến nhà liền được vãng sanh đâu. Ở nhà lâu ngày, sáng tối niệm Phật chừng hai tiếng đồng hồ, loạn tâm lại xuất hiện thì cũng vô dụng. Vì thế phải gìn giữ “tịnh niệm tiếp nối”. Ở đây làm như thế nào thì về đến nhà cũng phải làm giống hệt vậy, tiếp tục chẳng gián đoạn thì mới thành công được.
Tôi chỉ giảng đến đây, phải nhớ kỹ mới bảo đảm được. Tiếp đây, tôi nói một bài kệ để kết thúc:
“Ưng tri tán loạn niệm Di Ðà”: Mọi người phải biết: Nếu tâm tán loạn chẳng làm gì được nổi, cứ niệm Phật như thế thì sẽ ra sao?
“Không phí công phu nan giải thoát”: Công phu uổng phí, chỉ được phước báo, chẳng thể vãng sanh, vẫn ở trong lục đạo luân hồi, rất khó giải thoát.
“Nhân sanh thọ mạng hô hấp gian”: A, cứ tà tà mà niệm thì sao? Tà tà không được. Kinh dạy: “Mạng người trong hơi thở”. Một hơi thở ra không trở lại thì liền thành đời sau, chớ tu hành lơ là.
“Nhất thất cơ duyên khổ vạn kiếp”: Hiện tại, cơ duyên rất hiếm. Hễ bỏ lỡ cơ hội, nhân duyên ắt sẽ thọ khổ. Thọ khổ như thế nào? Luân chuyển trong lục đạo, khó ra được nổi. Ngàn kiếp, vạn kiếp mới có lại được thân người. Tám ngàn năm sau là thời kỳ pháp diệt, chẳng còn có Phật pháp, khác nào Bắc Câu Lô Châu, khó được giải thoát. Tám ngàn năm là còn sớm đấy. Người thọ trăm tuổi, khi thọ báo hết chẳng vãng sanh Tây Phương, sẽ sanh về chỗ tốt đẹp trên trời. Tầng trời thứ nhất là Tứ Vương Thiên, thọ mạng năm trăm năm. Một ngày đêm trên trời đó bằng năm mươi năm dưới thế. Ở trên trời hưởng mấy vạn năm phước trời, khi đọa xuống nhằm thời kỳ Pháp Diệt, chẳng có Phật pháp, sống sống chết chết chẳng hề được nghe Phật Pháp, chẳng ra khỏi tam ác đạo nổi, thọ khổ vạn kiếp.
Ðến đây kết thất niệm Phật mà chẳng hiểu rõ đạo lý này thì có khác gì niệm Phật ở nhà. Nếu như ở nơi đây, tuy miệng niệm Phật, nhưng tâm vẫn nghĩ đến chuyện khác thì hỏng rồi. Ngay trong lúc niệm Phật, tâm vừa nghĩ tưởng đến phú quý liền chẳng thể ra khỏi lục đạo, luân hồi, thân sau sẽ sanh lên trời. Hễ nghĩ đến gia đình thì gia đình chẳng phải là Tây Phương, tương lai sẽ lại làm người. Vừa nghĩ đến mình hay hơn người khác, ôm lòng ngã mạn, thân sau chỉ e vào trong đường Tu La. Nếu một mặt niệm Phật, một mặt vẫn sanh khởi ba độc Tham, Sân, Si thì tương lai sẽ đọa làm hung thần. Nếu lại tham đắm thức ăn thì thân sau đọa làm loài quỷ đa tài (4). Nếu lúc niệm hôn trầm mà chẳng hay biết thì tương lai sẽ đọa vào súc sanh. Nói chung đều là tương ứng với lục đạo, chẳng đến được Tây Phương.
Nhưng người niệm Phật do công đức niệm Phật chẳng đọa địa ngục, chẳng biến thành ngạ quỷ, chẳng làm thân súc sanh hạ đẳng. Dù sanh trong bất cứ loài nào cũng đều hưởng phước, nhưng đến đời thứ ba, do lúc chuyển thân, thần thức bị mê, công đức niệm Phật chẳng thể hiện hành, chỉ e lại bị đọa lạc rồi thọ tội.
Vì thế, ở nơi này niệm Phật, phải nên buông xuống hết thảy, khi niệm sáu chữ hoặc bốn chữ hồng danh phải từ trong tâm phát khởi, tai nghe cho rõ ràng, minh bạch, lại in vào trong tâm, đi ra, trở vào, niệm sao cho thành một mối, nhưng chỉ có loạn tâm là chưa buông xuống được. Ðến khi Phật thất kết thúc, chẳng phải là về đến nhà liền được vãng sanh đâu. Ở nhà lâu ngày, sáng tối niệm Phật chừng hai tiếng đồng hồ, loạn tâm lại xuất hiện thì cũng vô dụng. Vì thế phải gìn giữ “tịnh niệm tiếp nối”. Ở đây làm như thế nào thì về đến nhà cũng phải làm giống hệt vậy, tiếp tục chẳng gián đoạn thì mới thành công được.
Tôi chỉ giảng đến đây, phải nhớ kỹ mới bảo đảm được. Tiếp đây, tôi nói một bài kệ để kết thúc:
“Ưng tri tán loạn niệm Di Ðà”: Mọi người phải biết: Nếu tâm tán loạn chẳng làm gì được nổi, cứ niệm Phật như thế thì sẽ ra sao?
“Không phí công phu nan giải thoát”: Công phu uổng phí, chỉ được phước báo, chẳng thể vãng sanh, vẫn ở trong lục đạo luân hồi, rất khó giải thoát.
“Nhân sanh thọ mạng hô hấp gian”: A, cứ tà tà mà niệm thì sao? Tà tà không được. Kinh dạy: “Mạng người trong hơi thở”. Một hơi thở ra không trở lại thì liền thành đời sau, chớ tu hành lơ là.
“Nhất thất cơ duyên khổ vạn kiếp”: Hiện tại, cơ duyên rất hiếm. Hễ bỏ lỡ cơ hội, nhân duyên ắt sẽ thọ khổ. Thọ khổ như thế nào? Luân chuyển trong lục đạo, khó ra được nổi. Ngàn kiếp, vạn kiếp mới có lại được thân người. Tám ngàn năm sau là thời kỳ pháp diệt, chẳng còn có Phật pháp, khác nào Bắc Câu Lô Châu, khó được giải thoát. Tám ngàn năm là còn sớm đấy. Người thọ trăm tuổi, khi thọ báo hết chẳng vãng sanh Tây Phương, sẽ sanh về chỗ tốt đẹp trên trời. Tầng trời thứ nhất là Tứ Vương Thiên, thọ mạng năm trăm năm. Một ngày đêm trên trời đó bằng năm mươi năm dưới thế. Ở trên trời hưởng mấy vạn năm phước trời, khi đọa xuống nhằm thời kỳ Pháp Diệt, chẳng có Phật pháp, sống sống chết chết chẳng hề được nghe Phật Pháp, chẳng ra khỏi tam ác đạo nổi, thọ khổ vạn kiếp.
#40
Gửi vào 11/09/2013 - 05:18
IX. DAO BÉN CẮT DỨT MỐI TƠ LOẠN
(Ðệ tử Hoàng Khiết Di kính ghi)
Người trong cõi đời, từ xưa không ai tránh khỏi một lần chết. Dù là bậc thế gian thánh nhân, đến lúc vẫn cứ phải chết như thế. Chỉ có bậc thánh nhân xuất ly thế gian mới giải quyết được vấn đề sanh tử. Nhưng Ðức Phật cũng chẳng thể ngay trong một đời liền thành Phật, mà phải do tu hành từng bước mới chứng được Phật Quả. Cho nên nói: “Ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, chẳng tu chẳng đắc”. Vì thế, quý vị phải tin là ai cũng phải chết, chỉ sợ “chết không được thôi!” vì sau khi chết đi, ắt sẽ luân hồi trong lục đạo, nhưng trong sáu đường, khó đạt được cõi trời, người, đọa lạc trong tam đồ thì khổ chẳng thể nói xiết.
Duy Thức Tông lập ra cái gọi là “Tam Lượng”. Chữ Lượng có nghĩa là “phân thốn” (phân, tấc, ý nói đo đạc), “đong” hoặc “cân”. Vật phẩm phải dùng cái cân để cân lường thì mới có tiêu chuẩn làm cơ sở để xác định. Còn như trong việc phân biện giữa các giáo thì lấy gì để chiết trung (chọn lọc lấy những điểm hay, đúng)? Phải dùng Thánh Ngôn Lượng, tức là phải dùng lời Phật dạy làm tiêu chuẩn để đo lường. Có đáp án chánh xác như thế thì tu hành mới có cơ sở để dựa vào. Bây giờ so sánh xem chuyện tu Tịnh Ðộ của mọi người là đúng pháp hay chẳng đúng pháp. Nếu tu đúng pháp thì là Tịnh Ðộ Tông, tu chẳng đúng pháp thì là “loạn ty vô đầu” (tơ rối tung không thấy đầu mối).
Chúng ta là đạo tràng Tịnh Ðộ, phải nghĩ kỹ đến tận cùng chữ Tịnh. Người tu hành chẳng đến đạo tràng để cầu náo nhiệt, mà là cầu công đức và thiện căn. Một câu A Di Ðà Phật là thiện căn lớn nhất. Chỉ cần quý vị niệm đến tâm tịnh thì là sống trong Tịnh Ðộ. Nếu trong tâm chẳng tịnh, loạn tạp lung tung thì chính là “loạn ty vô đầu” như trên đã nói. Tâm loạn như vậy thì lúc thế này, lúc thế khác, chẳng thể đạt được lợi ích chân thật.
Vì thế tham dự Phật thất cầu Nhất Tâm Bất Loạn thì phải niệm niệm đặt nơi Phật hiệu, có vậy mới có thể vãng sanh. Nếu không, suốt ngày niệm kinh này, niệm kinh kia, không có chút trình tự tu tập nào thì chính là “loạn ty vô đầu”. Nếu quý vị thật sự tin tưởng vào sáu chữ hồng danh thì mới chứng được quả vị. Chẳng tin thì dù có niệm rách họng cũng uổng công!
Cầu Nhất Tâm Bất Loạn chính là Thánh Ngôn Lượng từ kim khẩu của Phật, là điểm trọng yếu của Tịnh Tông, có vậy mới có thể đới nghiệp vãng sanh. Nghiệp là nghiệp lực, nghiệp do mình tạo thì thân mình phải mang lấy, đó chính là phiền não. Chỉ cần chế phục được phiền não thì sẽ được vãng sanh, đoạn sạch sanh tử thì mới gọi là Niết Bàn. Ðấy đều là những điều Phật dạy. Nếu hoài nghi lời Phật dạy, cho là sai lầm thì còn học Phật để làm gì?
Tiếp đây, tôi giảng một bài kệ để kết thúc:
Lục tự dĩ ngoại giai phi nhất,
Nan dữ Di Ðà cảm ứng thời
Thánh lượng thị Phật thân khẩu thuyết,
Nguyện nhữ khoái đao đoạn loạn ty!
Tạm dịch theo ý:
Mình danh hiệu Phật là thuần nhất,
Niệm Phật tán loạn khó cảm thông,
Thánh lượng chính miệng đức Phật dạy,
au dùng dao bén chặt tơ rối.
“Lục tự” là “Nam mô A Di Ðà Phật”. Ngoại trừ niệm sáu chữ này ra, tất cả những thứ khác đều chẳng thuần nhất. Nếu quý vị niệm Phật nhưng tâm mơ tưởng chuyện khác thì sao? Tâm chẳng trụ vào sáu chữ hồng danh sẽ khó cảm ứng Phật. Chữ “loạn ty vô đầu” là tiếng cổ, là Thánh Ngôn Lượng. Một cục tơ rối, không hề có đầu mối gì hết, gỡ bao giờ mới xong? Xin quý vị cầm con dao bén chặt ngay cho nó đứt đôi ra, tức là Nhất Tâm rồi, chẳng còn loạn nữa.
Kinh Di Ðà nói rõ thế giới Cực Lạc được trang nghiêm bởi vàng, bạc, lưu ly, xích châu, mã não... Ðấy đều là lời Phật nói. Nếu quý vị không tin, chỉ thích nói là đất phủ cỏ xanh thì cứ việc tùy tiện. Ðã tin vào Tịnh Ðộ Tông rồi thì phải biết điều tối khẩn yếu hoàn toàn là sáu chữ hồng danh. Ðừng có nói sáu chữ này nông cạn. Nếu thật sự là kẻ giải ngộ sâu xa thì thấy sáu chữ ấy sâu xa, giải ngộ nông cạn sẽ thấy là nông cạn, hoàn toàn tùy thuộc vào mỗi người thôi! Các đồng tu hãy mau cầu Nhất Tâm, dao bén chặt tơ rối, lời Phật chẳng dối đâu!
(Ðệ tử Hoàng Khiết Di kính ghi)
Người trong cõi đời, từ xưa không ai tránh khỏi một lần chết. Dù là bậc thế gian thánh nhân, đến lúc vẫn cứ phải chết như thế. Chỉ có bậc thánh nhân xuất ly thế gian mới giải quyết được vấn đề sanh tử. Nhưng Ðức Phật cũng chẳng thể ngay trong một đời liền thành Phật, mà phải do tu hành từng bước mới chứng được Phật Quả. Cho nên nói: “Ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, chẳng tu chẳng đắc”. Vì thế, quý vị phải tin là ai cũng phải chết, chỉ sợ “chết không được thôi!” vì sau khi chết đi, ắt sẽ luân hồi trong lục đạo, nhưng trong sáu đường, khó đạt được cõi trời, người, đọa lạc trong tam đồ thì khổ chẳng thể nói xiết.
Duy Thức Tông lập ra cái gọi là “Tam Lượng”. Chữ Lượng có nghĩa là “phân thốn” (phân, tấc, ý nói đo đạc), “đong” hoặc “cân”. Vật phẩm phải dùng cái cân để cân lường thì mới có tiêu chuẩn làm cơ sở để xác định. Còn như trong việc phân biện giữa các giáo thì lấy gì để chiết trung (chọn lọc lấy những điểm hay, đúng)? Phải dùng Thánh Ngôn Lượng, tức là phải dùng lời Phật dạy làm tiêu chuẩn để đo lường. Có đáp án chánh xác như thế thì tu hành mới có cơ sở để dựa vào. Bây giờ so sánh xem chuyện tu Tịnh Ðộ của mọi người là đúng pháp hay chẳng đúng pháp. Nếu tu đúng pháp thì là Tịnh Ðộ Tông, tu chẳng đúng pháp thì là “loạn ty vô đầu” (tơ rối tung không thấy đầu mối).
Chúng ta là đạo tràng Tịnh Ðộ, phải nghĩ kỹ đến tận cùng chữ Tịnh. Người tu hành chẳng đến đạo tràng để cầu náo nhiệt, mà là cầu công đức và thiện căn. Một câu A Di Ðà Phật là thiện căn lớn nhất. Chỉ cần quý vị niệm đến tâm tịnh thì là sống trong Tịnh Ðộ. Nếu trong tâm chẳng tịnh, loạn tạp lung tung thì chính là “loạn ty vô đầu” như trên đã nói. Tâm loạn như vậy thì lúc thế này, lúc thế khác, chẳng thể đạt được lợi ích chân thật.
Vì thế tham dự Phật thất cầu Nhất Tâm Bất Loạn thì phải niệm niệm đặt nơi Phật hiệu, có vậy mới có thể vãng sanh. Nếu không, suốt ngày niệm kinh này, niệm kinh kia, không có chút trình tự tu tập nào thì chính là “loạn ty vô đầu”. Nếu quý vị thật sự tin tưởng vào sáu chữ hồng danh thì mới chứng được quả vị. Chẳng tin thì dù có niệm rách họng cũng uổng công!
Cầu Nhất Tâm Bất Loạn chính là Thánh Ngôn Lượng từ kim khẩu của Phật, là điểm trọng yếu của Tịnh Tông, có vậy mới có thể đới nghiệp vãng sanh. Nghiệp là nghiệp lực, nghiệp do mình tạo thì thân mình phải mang lấy, đó chính là phiền não. Chỉ cần chế phục được phiền não thì sẽ được vãng sanh, đoạn sạch sanh tử thì mới gọi là Niết Bàn. Ðấy đều là những điều Phật dạy. Nếu hoài nghi lời Phật dạy, cho là sai lầm thì còn học Phật để làm gì?
Tiếp đây, tôi giảng một bài kệ để kết thúc:
Lục tự dĩ ngoại giai phi nhất,
Nan dữ Di Ðà cảm ứng thời
Thánh lượng thị Phật thân khẩu thuyết,
Nguyện nhữ khoái đao đoạn loạn ty!
Tạm dịch theo ý:
Mình danh hiệu Phật là thuần nhất,
Niệm Phật tán loạn khó cảm thông,
Thánh lượng chính miệng đức Phật dạy,
au dùng dao bén chặt tơ rối.
“Lục tự” là “Nam mô A Di Ðà Phật”. Ngoại trừ niệm sáu chữ này ra, tất cả những thứ khác đều chẳng thuần nhất. Nếu quý vị niệm Phật nhưng tâm mơ tưởng chuyện khác thì sao? Tâm chẳng trụ vào sáu chữ hồng danh sẽ khó cảm ứng Phật. Chữ “loạn ty vô đầu” là tiếng cổ, là Thánh Ngôn Lượng. Một cục tơ rối, không hề có đầu mối gì hết, gỡ bao giờ mới xong? Xin quý vị cầm con dao bén chặt ngay cho nó đứt đôi ra, tức là Nhất Tâm rồi, chẳng còn loạn nữa.
Kinh Di Ðà nói rõ thế giới Cực Lạc được trang nghiêm bởi vàng, bạc, lưu ly, xích châu, mã não... Ðấy đều là lời Phật nói. Nếu quý vị không tin, chỉ thích nói là đất phủ cỏ xanh thì cứ việc tùy tiện. Ðã tin vào Tịnh Ðộ Tông rồi thì phải biết điều tối khẩn yếu hoàn toàn là sáu chữ hồng danh. Ðừng có nói sáu chữ này nông cạn. Nếu thật sự là kẻ giải ngộ sâu xa thì thấy sáu chữ ấy sâu xa, giải ngộ nông cạn sẽ thấy là nông cạn, hoàn toàn tùy thuộc vào mỗi người thôi! Các đồng tu hãy mau cầu Nhất Tâm, dao bén chặt tơ rối, lời Phật chẳng dối đâu!
#41
Gửi vào 11/09/2013 - 05:19
X. KHAI THỊ TẠI PHẬT THẤT CHÙA LINH SƠN NĂM ẤT SỬU
(Ðệ tử Ngô Bích Hà kính ghi)
Dốc lòng trừ mạn chướng, thiết tha cầu Nhất Tâm
Thưa các vị lão sư, các vị đồng tu.
Hôm nay tôi đến đây giảng, trước hết thanh minh một điều: Tôi hoàn toàn không đến đây để giảng khai thị. Hai chữ “khai thị” tôi đảm đương chẳng nổi, tôi chỉ đem những kinh nghiệm của chính mình ra bàn bạc để người này, người kia tham khảo mà thôi.
Tiếp đến, thanh minh một câu nữa: trong lúc ngồi giảng ở đây, xin miễn hết thảy những khách sáo thế tục, chỉ nghiên cứu “Nhất Tâm Bất Loạn”. Người giảng, người nghe đều lấy “Nhất Tâm Bất Loạn” làm mục tiêu. Nếu không, bị phân tâm một phần thì chẳng phù hợp với Phật thất vậy. Xin quý vị nhiếp tâm, tâm không nghĩ gì khác lắng nghe!
Luận về “Nhất Tâm” thì đây là một đạo tràng đã lâu, hẳn quý vị hiểu rồi. Ðã hiểu rồi thì xin hỏi một câu: “Quý vị đạt được hay chưa?” Hơn ba mươi năm qua, có vị nào đạt được Nhất Tâm Bất Loạn chưa? Nếu như năm nào cũng dự Phật thất nhưng năm nào cũng tán loạn thì có phải là dự Phật thất trở thành chuyện phù phiếm hay sao? Thế nhưng, người học Phật làm gì cũng phải chân thật. Bài kệ khai kinh có câu: “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”. Việc hư dối thì có làm cũng vô ích. Ðã vậy thì quý vị ắt sẽ tự hỏi: “Niệm đến Nhất Tâm Bất Loạn trọn chẳng hề có ư?”
Tôi chẳng rõ là trong số quý vị, hoàn toàn không có một ai làm được chăng? Ngược lại, tự hỏi mình trước. Với tôi thì Nhất Tâm Bất Loạn có thời gian nhất định. Trong khoảng thời gian ngắn sẽ đạt Nhất Tâm Bất Loạn. Nói như vậy ít nhiều đã có “cống cao, ngã mạn”, tự mình khoa trương. Tiếp đây, chúng ta sẽ bàn về “cống cao, ngã mạn”. Trong ba mươi năm qua, tại nơi đây, dự Phật thất, tôi giảng qua vấn đề này chẳng biết là đã bao nhiêu lần, nhưng giảng rất nông cạn. Quý vị trong tâm ngầm coi thường, nghĩ rằng: “Ông không cần phải nói, những chuyện đó tôi từng nghe qua rồi!” Quý vị ơi! Khó biết được chuyện nào mình đã thật sự nghe qua lắm đấy! Nếu còn giữ tâm như vậy thì chẳng đắc Nhất Tâm, mà là được cống cao, ngã mạn, vẫn còn là phiền não. Nói như vậy nghĩa là sao?
Quý vị nghe kinh cũng nhiều, xem kinh chẳng ít, đáng coi là bậc đa văn, nhưng chỉ hiểu được về mặt văn tự, chứ xét về mặt công phu chân thực thì chẳng đáng bàn tới. Luận đến chân lý “tâm, Phật, chúng sanh bình đẳng bất nhị”, quý vị đã hiểu được đạo lý này hay chưa? Nói đến Phật thì chưa từng thấy qua. Nói đến chúng sanh thì mọi người đều nghĩ là mình đã từng thấy qua chỉ vì trong tâm nghĩ như thế này: “Người khác là chúng sanh, còn mình chẳng phải”. Ðấy là cống cao, ngã mạn. Học như vậy thì chỉ học được phiền não, làm sao chúng ta luôn thấy “Phật, tâm, chúng sanh là bình đẳng” cho được? Quý vị bề ngoài bình đẳng nhưng trong tâm đa số chẳng bình đẳng. Ðấy chính là đại phiền não!
(Ðệ tử Ngô Bích Hà kính ghi)
Dốc lòng trừ mạn chướng, thiết tha cầu Nhất Tâm
Thưa các vị lão sư, các vị đồng tu.
Hôm nay tôi đến đây giảng, trước hết thanh minh một điều: Tôi hoàn toàn không đến đây để giảng khai thị. Hai chữ “khai thị” tôi đảm đương chẳng nổi, tôi chỉ đem những kinh nghiệm của chính mình ra bàn bạc để người này, người kia tham khảo mà thôi.
Tiếp đến, thanh minh một câu nữa: trong lúc ngồi giảng ở đây, xin miễn hết thảy những khách sáo thế tục, chỉ nghiên cứu “Nhất Tâm Bất Loạn”. Người giảng, người nghe đều lấy “Nhất Tâm Bất Loạn” làm mục tiêu. Nếu không, bị phân tâm một phần thì chẳng phù hợp với Phật thất vậy. Xin quý vị nhiếp tâm, tâm không nghĩ gì khác lắng nghe!
Luận về “Nhất Tâm” thì đây là một đạo tràng đã lâu, hẳn quý vị hiểu rồi. Ðã hiểu rồi thì xin hỏi một câu: “Quý vị đạt được hay chưa?” Hơn ba mươi năm qua, có vị nào đạt được Nhất Tâm Bất Loạn chưa? Nếu như năm nào cũng dự Phật thất nhưng năm nào cũng tán loạn thì có phải là dự Phật thất trở thành chuyện phù phiếm hay sao? Thế nhưng, người học Phật làm gì cũng phải chân thật. Bài kệ khai kinh có câu: “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”. Việc hư dối thì có làm cũng vô ích. Ðã vậy thì quý vị ắt sẽ tự hỏi: “Niệm đến Nhất Tâm Bất Loạn trọn chẳng hề có ư?”
Tôi chẳng rõ là trong số quý vị, hoàn toàn không có một ai làm được chăng? Ngược lại, tự hỏi mình trước. Với tôi thì Nhất Tâm Bất Loạn có thời gian nhất định. Trong khoảng thời gian ngắn sẽ đạt Nhất Tâm Bất Loạn. Nói như vậy ít nhiều đã có “cống cao, ngã mạn”, tự mình khoa trương. Tiếp đây, chúng ta sẽ bàn về “cống cao, ngã mạn”. Trong ba mươi năm qua, tại nơi đây, dự Phật thất, tôi giảng qua vấn đề này chẳng biết là đã bao nhiêu lần, nhưng giảng rất nông cạn. Quý vị trong tâm ngầm coi thường, nghĩ rằng: “Ông không cần phải nói, những chuyện đó tôi từng nghe qua rồi!” Quý vị ơi! Khó biết được chuyện nào mình đã thật sự nghe qua lắm đấy! Nếu còn giữ tâm như vậy thì chẳng đắc Nhất Tâm, mà là được cống cao, ngã mạn, vẫn còn là phiền não. Nói như vậy nghĩa là sao?
Quý vị nghe kinh cũng nhiều, xem kinh chẳng ít, đáng coi là bậc đa văn, nhưng chỉ hiểu được về mặt văn tự, chứ xét về mặt công phu chân thực thì chẳng đáng bàn tới. Luận đến chân lý “tâm, Phật, chúng sanh bình đẳng bất nhị”, quý vị đã hiểu được đạo lý này hay chưa? Nói đến Phật thì chưa từng thấy qua. Nói đến chúng sanh thì mọi người đều nghĩ là mình đã từng thấy qua chỉ vì trong tâm nghĩ như thế này: “Người khác là chúng sanh, còn mình chẳng phải”. Ðấy là cống cao, ngã mạn. Học như vậy thì chỉ học được phiền não, làm sao chúng ta luôn thấy “Phật, tâm, chúng sanh là bình đẳng” cho được? Quý vị bề ngoài bình đẳng nhưng trong tâm đa số chẳng bình đẳng. Ðấy chính là đại phiền não!
#42
Gửi vào 11/09/2013 - 05:21
Bàn đến phiền não thì trong trăm pháp, Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Bất Chánh Kiến thuộc về căn bản phiền não. Ngoài ra còn có trần sa phiền não, căn bản vô minh. Ba loại này đều là bịnh ai nấy đều có, ai nấy chẳng tự hay. Càng học Phật, niệm kinh chẳng tự biết, phiền não càng nặng đều là do quan niệm “tôi xem sách hoặc nghiên cứu kinh chẳng ít”. Nhưng kinh giống như thuốc. Nếu như uống lầm thuốc chẳng đúng bệnh, rốt cuộc có lợi ích chi? Vì thế, chúng ta chẳng thể thành tựu chính là do cống cao, ngã mạn. Tôi chẳng nói đến những việc khác bởi chính cống cao, ngã mạn khiến cho mọi người sau này thoái chuyển, làm sao còn bàn đến chuyện đắc Nhất Tâm Bất Loạn được nữa?
Nói như vậy thì phải trừ khử cách nào mới nên? Phải “trong tâm thật sự trống không, một niệm chẳng khởi”. Ðấy là chân lý. Nguyên lai bổn tánh là bất động, hễ động thì gọi tên khác là Tâm. Chúng ta chẳng thường hay nói là “khởi tâm động niệm” đó sao? Khởi tâm chính là khởi lên ý niệm. Một ý niệm vừa khởi lên bèn có mục tiêu nên sẽ tạo nghiệp. Tạo nghiệp sẽ phải lãnh quả báo. Thiện nghiệp thì thiện báo, ác nghiệp thì ác báo. Các báo thiện, ác lại chẳng thể triệt tiêu lẫn nhau, làm gì phải chịu báo nấy. Giống như nay chúng ta được báo ứng, so với ba ác đạo thì vẫn còn khá hơn. Tuy vậy, chúng sanh gồm có cửu giới (5), nhân loại chỉ là một trong chín giới đó, vẫn chỉ là tạm thời ngoi đầu lên trên biển khổ mà thôi. Vẫn là nhiều đời, nhiều kiếp đến nay, chẳng biết mấy khi làm lành, tạm hưởng được thiện báo.
Nói đến thiện báo thì phải có được thân người thì mới có thể giải thoát. Nếu chẳng được thân người thì đừng nói chi đến chuyện hiểu Phật pháp, ngay cả chuyện hiểu thông suốt những ngôn ngữ bình thường đã khó khăn rồi: chim có tiếng chim, thú có tiếng thú. Nói đến thiện báo được làm thân người thì xét đến cùng là do tạo nghiệp nào mà được, chỉ sợ chúng ta đều chẳng tự biết vậy.
Nói chung, từ vô thỉ kiếp cho đến hiện tại, chúng ta tạo nghiệp, lãnh báo, một bề biến hóa không ngừng, vậy thì hiện tại chúng ta phải nên làm gì? Trước khi xét đoán phương pháp, chúng tôi xin minh định trước: Hễ có thân là phải có khổ. Nếu không có cái thân tứ đại giả hợp này thì không có chỗ nào để thọ khổ cả. Muốn tiêu tội nghiệp thì phải bắt đầu từ đầu nguồn. Ðầu nguồn chính là Tâm. Tâm không có hình dáng nhưng lại chính là nguyên động lực lôi kéo chúng ta luân lạc sanh tử. Chúng ta khởi tâm động niệm bèn tạo nghiệp, nhiều đời nhiều kiếp chồng chất chẳng biết là bao nhiêu.
Trong kinh dạy: “Nếu như ác nghiệp có thể tướng thì trọn cõi hư không chẳng thể chứa đựng nổi”. Nghiệp nhiều như thế đấy. Chẳng cần nói đến kẻ không siêng niệm Phật; đối với người khéo niệm Phật, có phải là sẽ tiêu sạch được ác nghiệp từ trần sa kiếp chăng? Chỉ e rằng chẳng đơn giản như vậy. Ví như vầng Thái Dương chiếu xuống tuyết, tuyết tan thành nước. Thế sao tuyết đọng trên Tuyết Sơn suốt năm chẳng tan? Nào có phải là mặt trời chẳng rọi xuống Tuyết Sơn đâu! Lời tục nói: “Băng đóng ba thước, chẳng phải là trời lạnh một ngày”. Chỉ đơn độc cậy vào sức mình, làm sao đạt được “tâm không?” Làm sao tiêu trừ tội nghiệp được? Nói như thế thì nhất định phải nhờ cậy (sức Phật). Ðấy chính là Nhị Lực.
Ðiều thứ hai là chữ Nhị Lực chẳng phải chỉ nói về hai lực ấy, mà còn hàm chỉ nhiều thứ. Chẳng hạn như trong đạo tràng này có rất nhiều người, nhưng ta cũng có thể nói là có hai loại người. Một là giảng, hai là nghe. Vì thế chỉ nói “hai” nhưng đã bao gồm người giảng, người phiên dịch, người nghe, người lo liệu công việc... biết bao là thứ. Vì thế chữ “Nhị” còn hàm ý “rất nhiều”.
Trong kinh A Di Ðà, mười phương chư Phật đều nói: “Chúng sanh các người đều nên tin vào kinh Khen Ngợi Công Ðức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Ðược Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”. Phật nói với Bồ Tát, Bồ Tát lại đem lời ấy tuyên thuyết, lần lượt lan truyền rộng rãi như thế trùng trùng vô tận, rốt ráo chẳng hề có kết thúc. Quý vị nghĩ xem, nghĩ đến cùng là nhiều hay không nhiều vậy? Vì thế, sức của ác nghiệp cố nhiên là to, nhưng sức của mười phương chư Phật cũng rất to. Do mười phương Phật đến giúp ta tiêu nghiệp thì sợ gì chẳng thành tựu cơ chứ?
Kinh A Di Ðà dạy: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe kinh này mà thọ trì và nghe danh hiệu chư Phật thì các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đều được hết thảy chư Phật hộ niệm”. “Niệm” có nghĩa là trong tâm Phật có mình. Tâm Ngài đã có mình thì nếu mình có chuyện gì, các Ngài sẽ đến giúp cho. Ðấy là “Hộ”. Nói như vậy có phải là chúng ta cứ ngồi chờ Phật đến rước chăng?
Phật giáo Nhật Bản có một tông phái mệnh danh là Chân Tông chuyên giảng về nguyện thứ 18 trong 48 nguyện của Phật A Di Ðà, cho rằng chỉ cần tin vào Phật thì Phật sẽ đến tiếp dẫn vãng sanh. Thật ra làm gì tiện lợi như vậy! Cầu Phật đến tiếp dẫn phải có đủ Tín - Nguyện - Hạnh mới cảm ứng được!
Thế nào là Cảm Ứng? Giống như quý vị niệm Phật ở nơi đây (không phải là xướng Phật) thì Niệm chính là Tâm của quý vị, tâm quý vị khởi niệm nơi Phật thì Phật hộ niệm quý vị. Hai bên hòa hợp, đó là Cảm Ứng. Nhưng niệm Ðức Phật nào? Niệm A Di Ðà Phật. Nếu một mặt vừa niệm Phật A Di Ðà, một mặt lại niệm Phật Dược Sư, tự cho rằng “đằng nào cũng là niệm Phật” thì lại là lầm mất rồi, sẽ chẳng được cảm ứng.
Nói như vậy thì phải trừ khử cách nào mới nên? Phải “trong tâm thật sự trống không, một niệm chẳng khởi”. Ðấy là chân lý. Nguyên lai bổn tánh là bất động, hễ động thì gọi tên khác là Tâm. Chúng ta chẳng thường hay nói là “khởi tâm động niệm” đó sao? Khởi tâm chính là khởi lên ý niệm. Một ý niệm vừa khởi lên bèn có mục tiêu nên sẽ tạo nghiệp. Tạo nghiệp sẽ phải lãnh quả báo. Thiện nghiệp thì thiện báo, ác nghiệp thì ác báo. Các báo thiện, ác lại chẳng thể triệt tiêu lẫn nhau, làm gì phải chịu báo nấy. Giống như nay chúng ta được báo ứng, so với ba ác đạo thì vẫn còn khá hơn. Tuy vậy, chúng sanh gồm có cửu giới (5), nhân loại chỉ là một trong chín giới đó, vẫn chỉ là tạm thời ngoi đầu lên trên biển khổ mà thôi. Vẫn là nhiều đời, nhiều kiếp đến nay, chẳng biết mấy khi làm lành, tạm hưởng được thiện báo.
Nói đến thiện báo thì phải có được thân người thì mới có thể giải thoát. Nếu chẳng được thân người thì đừng nói chi đến chuyện hiểu Phật pháp, ngay cả chuyện hiểu thông suốt những ngôn ngữ bình thường đã khó khăn rồi: chim có tiếng chim, thú có tiếng thú. Nói đến thiện báo được làm thân người thì xét đến cùng là do tạo nghiệp nào mà được, chỉ sợ chúng ta đều chẳng tự biết vậy.
Nói chung, từ vô thỉ kiếp cho đến hiện tại, chúng ta tạo nghiệp, lãnh báo, một bề biến hóa không ngừng, vậy thì hiện tại chúng ta phải nên làm gì? Trước khi xét đoán phương pháp, chúng tôi xin minh định trước: Hễ có thân là phải có khổ. Nếu không có cái thân tứ đại giả hợp này thì không có chỗ nào để thọ khổ cả. Muốn tiêu tội nghiệp thì phải bắt đầu từ đầu nguồn. Ðầu nguồn chính là Tâm. Tâm không có hình dáng nhưng lại chính là nguyên động lực lôi kéo chúng ta luân lạc sanh tử. Chúng ta khởi tâm động niệm bèn tạo nghiệp, nhiều đời nhiều kiếp chồng chất chẳng biết là bao nhiêu.
Trong kinh dạy: “Nếu như ác nghiệp có thể tướng thì trọn cõi hư không chẳng thể chứa đựng nổi”. Nghiệp nhiều như thế đấy. Chẳng cần nói đến kẻ không siêng niệm Phật; đối với người khéo niệm Phật, có phải là sẽ tiêu sạch được ác nghiệp từ trần sa kiếp chăng? Chỉ e rằng chẳng đơn giản như vậy. Ví như vầng Thái Dương chiếu xuống tuyết, tuyết tan thành nước. Thế sao tuyết đọng trên Tuyết Sơn suốt năm chẳng tan? Nào có phải là mặt trời chẳng rọi xuống Tuyết Sơn đâu! Lời tục nói: “Băng đóng ba thước, chẳng phải là trời lạnh một ngày”. Chỉ đơn độc cậy vào sức mình, làm sao đạt được “tâm không?” Làm sao tiêu trừ tội nghiệp được? Nói như thế thì nhất định phải nhờ cậy (sức Phật). Ðấy chính là Nhị Lực.
Ðiều thứ hai là chữ Nhị Lực chẳng phải chỉ nói về hai lực ấy, mà còn hàm chỉ nhiều thứ. Chẳng hạn như trong đạo tràng này có rất nhiều người, nhưng ta cũng có thể nói là có hai loại người. Một là giảng, hai là nghe. Vì thế chỉ nói “hai” nhưng đã bao gồm người giảng, người phiên dịch, người nghe, người lo liệu công việc... biết bao là thứ. Vì thế chữ “Nhị” còn hàm ý “rất nhiều”.
Trong kinh A Di Ðà, mười phương chư Phật đều nói: “Chúng sanh các người đều nên tin vào kinh Khen Ngợi Công Ðức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Ðược Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”. Phật nói với Bồ Tát, Bồ Tát lại đem lời ấy tuyên thuyết, lần lượt lan truyền rộng rãi như thế trùng trùng vô tận, rốt ráo chẳng hề có kết thúc. Quý vị nghĩ xem, nghĩ đến cùng là nhiều hay không nhiều vậy? Vì thế, sức của ác nghiệp cố nhiên là to, nhưng sức của mười phương chư Phật cũng rất to. Do mười phương Phật đến giúp ta tiêu nghiệp thì sợ gì chẳng thành tựu cơ chứ?
Kinh A Di Ðà dạy: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe kinh này mà thọ trì và nghe danh hiệu chư Phật thì các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đều được hết thảy chư Phật hộ niệm”. “Niệm” có nghĩa là trong tâm Phật có mình. Tâm Ngài đã có mình thì nếu mình có chuyện gì, các Ngài sẽ đến giúp cho. Ðấy là “Hộ”. Nói như vậy có phải là chúng ta cứ ngồi chờ Phật đến rước chăng?
Phật giáo Nhật Bản có một tông phái mệnh danh là Chân Tông chuyên giảng về nguyện thứ 18 trong 48 nguyện của Phật A Di Ðà, cho rằng chỉ cần tin vào Phật thì Phật sẽ đến tiếp dẫn vãng sanh. Thật ra làm gì tiện lợi như vậy! Cầu Phật đến tiếp dẫn phải có đủ Tín - Nguyện - Hạnh mới cảm ứng được!
Thế nào là Cảm Ứng? Giống như quý vị niệm Phật ở nơi đây (không phải là xướng Phật) thì Niệm chính là Tâm của quý vị, tâm quý vị khởi niệm nơi Phật thì Phật hộ niệm quý vị. Hai bên hòa hợp, đó là Cảm Ứng. Nhưng niệm Ðức Phật nào? Niệm A Di Ðà Phật. Nếu một mặt vừa niệm Phật A Di Ðà, một mặt lại niệm Phật Dược Sư, tự cho rằng “đằng nào cũng là niệm Phật” thì lại là lầm mất rồi, sẽ chẳng được cảm ứng.
#43
Gửi vào 11/09/2013 - 05:23
Quý vị xem đây: hai bàn tay tôi vỗ vào nhau phát ra tiếng. Ðấy là một loại âm thanh. Dùng tay vỗ lên bàn thì lại là một loại âm thanh khác. Hai loại khác nhau. Vì thế, đức Thích Ca Mâu Ni Phật dạy quý vị niệm A Di Ðà Phật thì quý vị niệm A Di Ðà Phật, chỉ nên tuân theo Thánh lượng thì mới được lợi ích!
Tiếp đây, tôi đem các phương pháp dạy niệm Phật của chư Tổ Sư tặng cho quý vị. Nếu thật có thể hành đúng như pháp thì sẽ có thể chế phục Hoặc, đạt được Giả Nhất Tâm (Nhất Tâm có hai loại: Lý Nhất Tâm là chân lý, Sự Nhất Tâm thuộc về tướng trạng bên ngoài, là phương tiện. Vì thế, Sự Nhất Tâm còn được gọi là Giả Nhất Tâm), sau rồi sẽ được vãng sanh.
“Niệm Phật bất tất cầu đa niệm”: Niệm Phật chẳng cần phải niệm cho thật nhiều.
“Ðản niệm bát bách tâm bất loạn”: Niệm một xâu chuỗi 108 tiếng sao cho dù một chữ cũng chẳng loạn.
“Kỳ trung trước hữu nhất niệm sai”: Trong 108 câu niệm ấy, nếu như có một câu niệm lầm lẫn.
“Trạo chuyển châu đầu đô bất toán”: Những câu niệm từ đầu xâu chuỗi tính đến câu sai ấy đều không tính nữa. Câu này rất khẩn thiết. Có một điểm cần phải chú ý là: “Tự niệm, tự nghe”. Lúc niệm phải niệm sao cho rõ ràng, tách bạch. Lúc nghe cũng phải nghe sao cho phân minh, rành rẽ. Hễ niệm sai một câu thì phải niệm lại từ đầu. Lúc quý vị thực hành công khóa chánh, nên làm theo đúng phương pháp đã dạy trong bài kệ này để hòng cầu được “Nhất Tâm Bất Loạn”. Còn như lúc tán niệm (niệm Phật ngoài thời công khóa chánh) thì có thể tùy duyên.
Hiểu rõ những điều trên đây rồi thì không cần phải mất công nói nhiều nữa, cứ chiếu theo đó mà làm là được. Tiếp đây, tôi dùng một bài kệ để tổng kết lại:
“Vạn pháp tinh hoa lục tự bao,
Thánh ngôn chân lượng bạt tâm mao,
Trì danh dung dị nan trừ mạn,
Vô giá bảo châu tùng thử phao”
“Vạn pháp tinh hoa lục tự bao”: Phật pháp vô biên, Trung Quốc gọi là Tam Tạng (nhưng thật ra còn rất nhiều kinh chưa được phiên dịch [sang tiếng Hán]), gọi chung là “vạn pháp”. Chữ “tinh hoa” chỉ tinh thần chân chánh (của vạn pháp), cũng có nghĩa là những lời trọng yếu. Chỉ niệm sáu chữ là đã bao quát cả Tam Tạng 12 bộ kinh, cũng có thể nói là đã hiểu được Tam Tạng mười hai bộ kinh rồi thì mới hiểu được sáu chữ “Nam mô A Di Ðà Phật”. Nếu chẳng thể niệm hết toàn bộ kinh tạng thì niệm sáu chữ cũng giống như niệm hết toàn bộ kinh tạng vậy.
“Thánh ngôn chân lượng bạt tâm mao”: Vì sao nói là sáu chữ bao gồm trọn vẹn Tam Tạng? Quý vị phải chân chánh dốc lòng niệm sáu chữ này, tâm chẳng chạy theo bên ngoài thì sẽ mau chóng được khai ngộ. Thế nhưng, quý vị đã khai ngộ chưa? Chưa. Vì sao chưa? Là vì tâm nhãn quý vị bị cỏ tranh (mao thảo) che lấp cho nên chẳng thể mở ra được. Hiện tại, ta tuân theo Thánh Ngôn niệm sáu chữ này chính là nhổ bật cỏ tranh che lấp để tâm nhãn được rộng mở.
“Trì danh dung dị, nan trừ mạn”: Chữ “danh” chỉ danh hiệu A Di Ðà Phật. “Trì” là nắm giữ, chẳng buông bỏ, mà cũng là niệm. So với niệm kinh, trì danh dễ dàng hơn, nhưng vẫn có chỗ khó khăn. Tức là còn cống cao, ngã mạn, tự cho rằng: “Tôi làm rồi, tôi hiểu rồi”. Hễ có cái căn bản phiền não này thì sẽ chẳng thành tựu. Học Phật thì bước thứ nhất là Vô Ngã. Có Ngã thì cũng vãng sanh, nhưng tiếc là vãng sanh trong lục đạo, vĩnh viễn chẳng giải thoát. Vì thế, muốn được giải thoát thì trước hết phải trừ Ngã Mạn. Trừ bằng cách nào? Nhà Phật có nói đến Lục Hòa Hợp, hết thảy đều bình đẳng. Nhưng Ngã Mạn rất khó trừ.
“Vô giá bảo châu tùng thử phao”: Nếu chẳng trừ Ngã Mạn thì khác nào xem thường ném bảo châu vô giá Tam Bảo đi.
Ở nơi này, chư vị hãy thử thí nghiệm phương pháp vừa nói trên đây, hết thảy đều buông xuống hết, chỉ cầu Nhất Tâm thôi!
Tiếp đây, tôi đem các phương pháp dạy niệm Phật của chư Tổ Sư tặng cho quý vị. Nếu thật có thể hành đúng như pháp thì sẽ có thể chế phục Hoặc, đạt được Giả Nhất Tâm (Nhất Tâm có hai loại: Lý Nhất Tâm là chân lý, Sự Nhất Tâm thuộc về tướng trạng bên ngoài, là phương tiện. Vì thế, Sự Nhất Tâm còn được gọi là Giả Nhất Tâm), sau rồi sẽ được vãng sanh.
“Niệm Phật bất tất cầu đa niệm”: Niệm Phật chẳng cần phải niệm cho thật nhiều.
“Ðản niệm bát bách tâm bất loạn”: Niệm một xâu chuỗi 108 tiếng sao cho dù một chữ cũng chẳng loạn.
“Kỳ trung trước hữu nhất niệm sai”: Trong 108 câu niệm ấy, nếu như có một câu niệm lầm lẫn.
“Trạo chuyển châu đầu đô bất toán”: Những câu niệm từ đầu xâu chuỗi tính đến câu sai ấy đều không tính nữa. Câu này rất khẩn thiết. Có một điểm cần phải chú ý là: “Tự niệm, tự nghe”. Lúc niệm phải niệm sao cho rõ ràng, tách bạch. Lúc nghe cũng phải nghe sao cho phân minh, rành rẽ. Hễ niệm sai một câu thì phải niệm lại từ đầu. Lúc quý vị thực hành công khóa chánh, nên làm theo đúng phương pháp đã dạy trong bài kệ này để hòng cầu được “Nhất Tâm Bất Loạn”. Còn như lúc tán niệm (niệm Phật ngoài thời công khóa chánh) thì có thể tùy duyên.
Hiểu rõ những điều trên đây rồi thì không cần phải mất công nói nhiều nữa, cứ chiếu theo đó mà làm là được. Tiếp đây, tôi dùng một bài kệ để tổng kết lại:
“Vạn pháp tinh hoa lục tự bao,
Thánh ngôn chân lượng bạt tâm mao,
Trì danh dung dị nan trừ mạn,
Vô giá bảo châu tùng thử phao”
“Vạn pháp tinh hoa lục tự bao”: Phật pháp vô biên, Trung Quốc gọi là Tam Tạng (nhưng thật ra còn rất nhiều kinh chưa được phiên dịch [sang tiếng Hán]), gọi chung là “vạn pháp”. Chữ “tinh hoa” chỉ tinh thần chân chánh (của vạn pháp), cũng có nghĩa là những lời trọng yếu. Chỉ niệm sáu chữ là đã bao quát cả Tam Tạng 12 bộ kinh, cũng có thể nói là đã hiểu được Tam Tạng mười hai bộ kinh rồi thì mới hiểu được sáu chữ “Nam mô A Di Ðà Phật”. Nếu chẳng thể niệm hết toàn bộ kinh tạng thì niệm sáu chữ cũng giống như niệm hết toàn bộ kinh tạng vậy.
“Thánh ngôn chân lượng bạt tâm mao”: Vì sao nói là sáu chữ bao gồm trọn vẹn Tam Tạng? Quý vị phải chân chánh dốc lòng niệm sáu chữ này, tâm chẳng chạy theo bên ngoài thì sẽ mau chóng được khai ngộ. Thế nhưng, quý vị đã khai ngộ chưa? Chưa. Vì sao chưa? Là vì tâm nhãn quý vị bị cỏ tranh (mao thảo) che lấp cho nên chẳng thể mở ra được. Hiện tại, ta tuân theo Thánh Ngôn niệm sáu chữ này chính là nhổ bật cỏ tranh che lấp để tâm nhãn được rộng mở.
“Trì danh dung dị, nan trừ mạn”: Chữ “danh” chỉ danh hiệu A Di Ðà Phật. “Trì” là nắm giữ, chẳng buông bỏ, mà cũng là niệm. So với niệm kinh, trì danh dễ dàng hơn, nhưng vẫn có chỗ khó khăn. Tức là còn cống cao, ngã mạn, tự cho rằng: “Tôi làm rồi, tôi hiểu rồi”. Hễ có cái căn bản phiền não này thì sẽ chẳng thành tựu. Học Phật thì bước thứ nhất là Vô Ngã. Có Ngã thì cũng vãng sanh, nhưng tiếc là vãng sanh trong lục đạo, vĩnh viễn chẳng giải thoát. Vì thế, muốn được giải thoát thì trước hết phải trừ Ngã Mạn. Trừ bằng cách nào? Nhà Phật có nói đến Lục Hòa Hợp, hết thảy đều bình đẳng. Nhưng Ngã Mạn rất khó trừ.
“Vô giá bảo châu tùng thử phao”: Nếu chẳng trừ Ngã Mạn thì khác nào xem thường ném bảo châu vô giá Tam Bảo đi.
Ở nơi này, chư vị hãy thử thí nghiệm phương pháp vừa nói trên đây, hết thảy đều buông xuống hết, chỉ cầu Nhất Tâm thôi!
#44
Gửi vào 11/09/2013 - 05:24
XI. KHAI THỊ PHẬT THẤT NĂM CANH THÂN TẠI CHÙA LINH SƠN
(Ðệ tử Hoàng Vịnh kính ghi)
Thưa chư vị lão sư, chư vị đồng tu.
Phật thất chùa Linh Sơn đã được duy trì hơn ba mươi năm, mỗi năm tôi đều tham gia. Trước kia, lúc Chính Phủ chưa đến Ðài Loan, Phật giáo tỉnh này vẫn còn chưa phát triển. Dù có chùa, miếu, nhưng đại đa số chỉ để tự tu, chẳng chú ý mấy đến việc hoằng pháp lợi sanh. Những việc hoằng pháp lợi sanh như Phật thất v.v... thực sự do chùa này khởi xướng. Lần Phật thất này, những bạn đồng tu mới nhiều hơn cựu đồng tu. Lời giảng của tôi khó thể thích hợp với các loại căn cơ. Vì thế lần giảng này dựa trên nguyên tắc cốt sao cho các bạn tân đồng tu hiểu được, mong các cựu đồng tu từ bi tùy duyên nghe giảng.
Phật thất ở nơi này là Phật thất của Tịnh Ðộ Tông. Nói đến Tịnh Ðộ tông thì ai ai cũng biết cả vì nó quá phổ biến, nhưng thực sự thì rất ít người hiểu rõ nội dung Tịnh Ðộ tông. Chẳng phải chỉ người ngoài không biết, ngay cả trong cửa Phật, những người hiểu rõ Tịnh Ðộ tông cũng chẳng nhiều. Thậm chí người đang tu Tịnh Ðộ tông cũng chẳng hiểu rõ lắm! Ở đây, tôi phải thanh minh trước: hôm nay, tôi không đến đây để khai thị mà chỉ đến trò chuyện. Vì người hiểu đúng Tịnh Ðộ tông quá ít, nên tôi chỉ tường trình lại theo đúng kinh điển, lời giảng của chư Tổ mà thôi.
Tại gia tu hành công phu chẳng thể rốt ráo hoàn toàn, người xuất gia khéo tu tập có thể chứng được Tứ Quả A La Hán. Ở đây, tôi chẳng bàn đến người tại gia. Muốn chứng Tứ Quả A La Hán phải trải qua một thời gian lâu chừng mấy ngàn năm. Luận về người đời sau sẽ chứng được Sơ Quả thì trong mười vạn người chẳng dễ tìm được một người. Dù có chứng quả A La Hán đi nữa thì cũng chỉ hiểu được phương pháp để chứng quả La Hán, chứ đối với pháp môn Tịnh Ðộ cũng chẳng thể hiểu được dễ dàng. Ðấy chính là điều được nói trong kinh, chứ chẳng phải chính tôi bịa ra. Nếu kinh Phật không chép thì dù một câu tôi cũng chẳng dám nói.
Ai hiểu được pháp môn Tịnh Ðộ? Quả vị Bồ Tát có năm mươi hai địa vị. Hàng Bồ Tát trước khi chứng quả trong Thập Ðịa, còn thuộc vào Hiền Vị, vẫn chưa hiểu được. Những vị nào đã chứng quả trong Thập Ðịa thì gọi là Thánh Vị, cũng chỉ hiểu được một nửa. Phải là thành Phật rồi mới có thể hiểu triệt để pháp môn Tịnh Ðộ. Chỉ có Phật với Phật mới hiểu thấu cùng tận. Mọi người nghe đến đây phải đặc biệt chú ý: Quý vị được nghe danh hiệu Phật, tu được pháp môn Tịnh Ðộ thì ắt là trong ngàn đời, vạn kiếp đã trồng đại thiện căn, làm đại thiện sự thì mới đạt được như vậy. Nhưng nếu đã biết pháp môn Tịnh Ðộ thù thắng thì phải dụng công tu trì, có tu mới thành công, không tu không thành công.
Có người chưa nghe nói đến Tịnh Ðộ, cũng chẳng hiểu Tịnh Ðộ là cái gì, tự mình chẳng biết, nếu miệng chẳng khích bác thì không tạo tội. Nhưng nếu chẳng hiểu Tịnh Ðộ là pháp khó tin, lại tự lầm tưởng mình là thông minh, hủy báng pháp môn Tịnh Ðộ thì là không được. Bởi lẽ, hủy báng Phật pháp chính là gây tội tam đồ, thế nhưng hủy báng pháp môn Tịnh Ðộ lại chính là tội Vô Gián địa ngục! Quý vị phải nên đặc biệt chú ý cẩn thận. Tịnh Ðộ Tông là pháp khó tin, rất sâu xa, chỉ mình đức Phật mới có thể hiểu triệt để. Ngoài ra, phải là hạng đã chứng Bát Ðịa Bồ Tát mới hoàn toàn tin nhận được thôi. Chúng ta chẳng hiểu, chẳng tin thì càng phải đặc biệt lưu ý, ngàn muôn phần chớ tạo tội nghiệp.
(Ðệ tử Hoàng Vịnh kính ghi)
Thưa chư vị lão sư, chư vị đồng tu.
Phật thất chùa Linh Sơn đã được duy trì hơn ba mươi năm, mỗi năm tôi đều tham gia. Trước kia, lúc Chính Phủ chưa đến Ðài Loan, Phật giáo tỉnh này vẫn còn chưa phát triển. Dù có chùa, miếu, nhưng đại đa số chỉ để tự tu, chẳng chú ý mấy đến việc hoằng pháp lợi sanh. Những việc hoằng pháp lợi sanh như Phật thất v.v... thực sự do chùa này khởi xướng. Lần Phật thất này, những bạn đồng tu mới nhiều hơn cựu đồng tu. Lời giảng của tôi khó thể thích hợp với các loại căn cơ. Vì thế lần giảng này dựa trên nguyên tắc cốt sao cho các bạn tân đồng tu hiểu được, mong các cựu đồng tu từ bi tùy duyên nghe giảng.
Phật thất ở nơi này là Phật thất của Tịnh Ðộ Tông. Nói đến Tịnh Ðộ tông thì ai ai cũng biết cả vì nó quá phổ biến, nhưng thực sự thì rất ít người hiểu rõ nội dung Tịnh Ðộ tông. Chẳng phải chỉ người ngoài không biết, ngay cả trong cửa Phật, những người hiểu rõ Tịnh Ðộ tông cũng chẳng nhiều. Thậm chí người đang tu Tịnh Ðộ tông cũng chẳng hiểu rõ lắm! Ở đây, tôi phải thanh minh trước: hôm nay, tôi không đến đây để khai thị mà chỉ đến trò chuyện. Vì người hiểu đúng Tịnh Ðộ tông quá ít, nên tôi chỉ tường trình lại theo đúng kinh điển, lời giảng của chư Tổ mà thôi.
Tại gia tu hành công phu chẳng thể rốt ráo hoàn toàn, người xuất gia khéo tu tập có thể chứng được Tứ Quả A La Hán. Ở đây, tôi chẳng bàn đến người tại gia. Muốn chứng Tứ Quả A La Hán phải trải qua một thời gian lâu chừng mấy ngàn năm. Luận về người đời sau sẽ chứng được Sơ Quả thì trong mười vạn người chẳng dễ tìm được một người. Dù có chứng quả A La Hán đi nữa thì cũng chỉ hiểu được phương pháp để chứng quả La Hán, chứ đối với pháp môn Tịnh Ðộ cũng chẳng thể hiểu được dễ dàng. Ðấy chính là điều được nói trong kinh, chứ chẳng phải chính tôi bịa ra. Nếu kinh Phật không chép thì dù một câu tôi cũng chẳng dám nói.
Ai hiểu được pháp môn Tịnh Ðộ? Quả vị Bồ Tát có năm mươi hai địa vị. Hàng Bồ Tát trước khi chứng quả trong Thập Ðịa, còn thuộc vào Hiền Vị, vẫn chưa hiểu được. Những vị nào đã chứng quả trong Thập Ðịa thì gọi là Thánh Vị, cũng chỉ hiểu được một nửa. Phải là thành Phật rồi mới có thể hiểu triệt để pháp môn Tịnh Ðộ. Chỉ có Phật với Phật mới hiểu thấu cùng tận. Mọi người nghe đến đây phải đặc biệt chú ý: Quý vị được nghe danh hiệu Phật, tu được pháp môn Tịnh Ðộ thì ắt là trong ngàn đời, vạn kiếp đã trồng đại thiện căn, làm đại thiện sự thì mới đạt được như vậy. Nhưng nếu đã biết pháp môn Tịnh Ðộ thù thắng thì phải dụng công tu trì, có tu mới thành công, không tu không thành công.
Có người chưa nghe nói đến Tịnh Ðộ, cũng chẳng hiểu Tịnh Ðộ là cái gì, tự mình chẳng biết, nếu miệng chẳng khích bác thì không tạo tội. Nhưng nếu chẳng hiểu Tịnh Ðộ là pháp khó tin, lại tự lầm tưởng mình là thông minh, hủy báng pháp môn Tịnh Ðộ thì là không được. Bởi lẽ, hủy báng Phật pháp chính là gây tội tam đồ, thế nhưng hủy báng pháp môn Tịnh Ðộ lại chính là tội Vô Gián địa ngục! Quý vị phải nên đặc biệt chú ý cẩn thận. Tịnh Ðộ Tông là pháp khó tin, rất sâu xa, chỉ mình đức Phật mới có thể hiểu triệt để. Ngoài ra, phải là hạng đã chứng Bát Ðịa Bồ Tát mới hoàn toàn tin nhận được thôi. Chúng ta chẳng hiểu, chẳng tin thì càng phải đặc biệt lưu ý, ngàn muôn phần chớ tạo tội nghiệp.
#45
Gửi vào 11/09/2013 - 05:26
Nếu pháp môn Tịnh Ðộ chỉ riêng Phật với Phật mới có thể hiểu thấu tột cùng thì sao Ðức Phật lại đem pháp khó tin, khó hiểu này phổ biến, dạy chúng sanh tu trì? Tôi cũng chẳng đáp thông được, chỉ dẫn lời Phật để đáp. Hết thảy các pháp môn khác chung cục đều nhằm để thấu triệt bất sanh, bất diệt, liễu sanh thoát tử. Các tôn giáo trên toàn cầu tu đến mức cao nhất thì chỉ sanh lên trên trời, chỉ riêng mình Phật giáo có thể liễu sanh thoát tử. Nhưng nói chung tu các pháp môn trong nhà Phật đều phải chịu khổ lớn như thường nói: “Chẳng mắc ma nạn thì chẳng thành Phật”. Ða số người tu hành chẳng chịu nổi đại khổ, đấy là một điều khó khăn.
Hơn nữa, thời gian tu tập rất dài, chứng quả La Hán đã phải mất mấy ngàn năm. Phàm phu thọ mạng hữu hạn, trong mấy mươi năm làm sao chứng quả được? Lại phải tu tập từng bước, thành công thật chẳng dễ dàng gì.
Tịnh Ðộ tông tuy người người chẳng hiểu, nhưng có điều cực thuận tiện là vì: A Di Ðà Phật chính là vị Phật tiếp dẫn, thế giới Cực Lạc tuy cách xa mười vạn ức cõi Phật, A Di Ðà Phật phát nguyện đích thân đến tiếp dẫn. Trong mười phương tuy đều có Tịnh Ðộ, đều có Phật và Bồ Tát, nhưng chưa từng phát nguyện đến tiếp dẫn, mình có năng lực tu đạt đến đó thì tự mình đi về đó nên chẳng dễ thành tựu. Vãng sanh Cực Lạc thế giới thì có thể thành tựu ngay trong đời này. Ðời người ngắn ngủi mấy mươi năm, đầy đủ tư lương Tín Nguyện Hạnh, lâm chung chánh niệm phân minh, Phật liền cầm hoa sen đến tiếp dẫn. Ta liền ngồi lên hoa sen sanh về Cực Lạc thế giới, dứt sạch sanh tử, thật là thuận tiện quá sức. Ðiều này trong Tam Tạng kinh điển đã nói tường tận, tu pháp môn Tịnh Ðộ thù thắng là ở chỗ này.
Tu các pháp môn khác thì cần phải “Tín, Giải, Hạnh, Chứng”, hoàn toàn cậy vào tự lực, tu hành trong một thời gian dài. Tu pháp môn Tịnh Ðộ dù đạo lý chẳng dễ hiểu, nhưng chỉ cần Tín - Nguyện - Hạnh là có thể thành tựu. Nếu không thì đừng nói là tu hai, ba mươi năm chẳng hiểu được lý Tịnh Ðộ, dù có tu năm trăm năm cũng chưa chứng được quả La Hán, cũng vẫn chẳng hiểu được lý Tịnh Ðộ.
Kinh Hoa Nghiêm nói Bồ Tát phải tu hành qua các địa vị Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng. Ðạt đến Thập Hồi Hướng mới hiểu được Phật lý, mới hành bố thí triệt để được. Nhưng tu đến Thập Hồi Hướng phải mất hai đại A Tăng Kỳ kiếp, thực chẳng dễ chi! Nay tôi đối trước Ðức Phật thuyết pháp, nếu nói nhầm một câu thì chính là hủy báng Phật pháp, người thuyết pháp phải đọa địa ngục. Tôi đã hơn chín mươi sáu tuổi, còn đến đây tạo tội địa ngục làm gì? Tôi khùng như thế chăng? Nói tóm lại, Tịnh Ðộ Tông thật chẳng dễ giải thích, chẳng dễ hiểu gì.
Hơn nữa, thời gian tu tập rất dài, chứng quả La Hán đã phải mất mấy ngàn năm. Phàm phu thọ mạng hữu hạn, trong mấy mươi năm làm sao chứng quả được? Lại phải tu tập từng bước, thành công thật chẳng dễ dàng gì.
Tịnh Ðộ tông tuy người người chẳng hiểu, nhưng có điều cực thuận tiện là vì: A Di Ðà Phật chính là vị Phật tiếp dẫn, thế giới Cực Lạc tuy cách xa mười vạn ức cõi Phật, A Di Ðà Phật phát nguyện đích thân đến tiếp dẫn. Trong mười phương tuy đều có Tịnh Ðộ, đều có Phật và Bồ Tát, nhưng chưa từng phát nguyện đến tiếp dẫn, mình có năng lực tu đạt đến đó thì tự mình đi về đó nên chẳng dễ thành tựu. Vãng sanh Cực Lạc thế giới thì có thể thành tựu ngay trong đời này. Ðời người ngắn ngủi mấy mươi năm, đầy đủ tư lương Tín Nguyện Hạnh, lâm chung chánh niệm phân minh, Phật liền cầm hoa sen đến tiếp dẫn. Ta liền ngồi lên hoa sen sanh về Cực Lạc thế giới, dứt sạch sanh tử, thật là thuận tiện quá sức. Ðiều này trong Tam Tạng kinh điển đã nói tường tận, tu pháp môn Tịnh Ðộ thù thắng là ở chỗ này.
Tu các pháp môn khác thì cần phải “Tín, Giải, Hạnh, Chứng”, hoàn toàn cậy vào tự lực, tu hành trong một thời gian dài. Tu pháp môn Tịnh Ðộ dù đạo lý chẳng dễ hiểu, nhưng chỉ cần Tín - Nguyện - Hạnh là có thể thành tựu. Nếu không thì đừng nói là tu hai, ba mươi năm chẳng hiểu được lý Tịnh Ðộ, dù có tu năm trăm năm cũng chưa chứng được quả La Hán, cũng vẫn chẳng hiểu được lý Tịnh Ðộ.
Kinh Hoa Nghiêm nói Bồ Tát phải tu hành qua các địa vị Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng. Ðạt đến Thập Hồi Hướng mới hiểu được Phật lý, mới hành bố thí triệt để được. Nhưng tu đến Thập Hồi Hướng phải mất hai đại A Tăng Kỳ kiếp, thực chẳng dễ chi! Nay tôi đối trước Ðức Phật thuyết pháp, nếu nói nhầm một câu thì chính là hủy báng Phật pháp, người thuyết pháp phải đọa địa ngục. Tôi đã hơn chín mươi sáu tuổi, còn đến đây tạo tội địa ngục làm gì? Tôi khùng như thế chăng? Nói tóm lại, Tịnh Ðộ Tông thật chẳng dễ giải thích, chẳng dễ hiểu gì.
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
![]() TUYỂN TẬP SÁCH HUYỀN HỌC![]() |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | babylon |
|
![]() |
|
![]() Ngày mai: 47 sẽ đầu hàng và tuyên bố chiến thắng cuộc chiến thuế quan |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
![]() |
|
![]() Bí Quyết Tăng Vị Umami Từ 5 Đầu Bếp Chay Tuyệt Vời |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
![]() |
|
![]() 20 ngày ở Mariupol (phim tài liệu đầy đủ) | Phim đoạt giải Oscar® | TIỀN TUYẾN + |
Nguồn Sống Tươi Đẹp | FM_daubac |
|
![]() |
|
![]() Cách Tuyệt Xứ Phùng Sinh ??? |
Tử Vi | Trungk |
|
![]() |
|
![]() Tuyển trạch cầu chân![]() |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | babylon |
|
![]() |
2 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 2 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:
An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |
Quỷ Cốc Toán Mệnh |
Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |
Quẻ Mai Hoa Dịch Số |
Bát Tự Hà Lạc |
Thái Ât Thần Số |
Căn Duyên Tiền Định |
Cao Ly Đầu Hình |
Âm Lịch |
Xem Ngày |
Lịch Vạn Niên |
So Tuổi Vợ Chồng |
Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:












