Jump to content

Advertisements




NHỮNG CÂU CHUYỆN THƯỜNG NGÀY


256 replies to this topic

#121 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 20/07/2014 - 01:51

VẠCH RÕ MƯU ĐỒ BÁ CHỦ THẾ GIỚI CỦA TRUNG CỘNG





Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


VỚI MƯU ĐỒ BÁ CHỦ THẾ GIỚI, TRUNG QUỐC ĐANG ÂM MƯU BIẾN BIỂN ĐÔNG– THÁI BÌNH DƯƠNG THÀNH AO NHÀ
Phần 1

TS. NGUYỄN HOÀNG ĐIỆP


A. SỢI CHỈ ĐỎ XUYÊN SUỐT LỊCH SỬ HƠN 4000 NĂM: BÁ QUYỀN NƯỚC LỚN, HIẾP ĐÁP NƯỚC NHỎ, THÔN TÍNH VÀ MỞ RỘNG BIÊN CƯƠNG.

Sau gần 40 năm nghiên cứu lịch sử, văn hóa, phong tục – tập quán, con người Trung Quốc và đặc biệt là tư tưởng của những vị Hoàng đế cũng như các vị lãnh đạo đương thời của Trung Hoa nên tôi càng thấm đậm bản chất, âm mưu và dã tâm của họ. Để giúp độc giả Việt Nam hiểu rõ hơn về Trung Quốc, trong vài chục năm gần đây, chúng tôi đã cho biên soạn, dịch một số bộ sách lớn như:

- Lịch sử Văn hóa Trung Hoa (2 tập) 5000 năm
- Những anh hùng hào kiệt trong thời loạn
- Tổng tập lược truyện các Tể tướng trong Lịch sử Trung Quốc (2 tập)

Ngoài ra, còn xuất bản hàng chục tên sách khác nói về con người cũng như âm mưu, thủ đoạn của các tập đoàn phong kiến và chính quyền đương đại đã thôn tính lẫn nhau và xâm lược các nước láng giềng như thế nào?

Đặc biệt, sắp tới, chúng tôi sẽ cho ra đời bộ sách nhiều tập: Các Hoàng đế Trung Hoa (trong đó có cả “Hoàng đế” của thời hiện đại). Cũng từ 15 năm nay, chúng tôi đã tập hợp, ấp ủ muốn cho ra mắt độc giả cuốn sách: Lịch sử biên giới Việt – Trung từ năm 1885 đến năm 2000. Song do điều kiện về kinh phí và lịch sử nên lực bất tòng tâm. Đây là tập bản thảo tập hợp khá đây đủ những tư liệu lịch sử bằng văn bản: Hiệp ước, Công ước, Thỏa ước, Công hàm, thư từ qua lại (bằng tiếng Trung và tiếng Pháp) giữa triều đình Mãn Thanh và thực dân Pháp (ở Đông Dương). Chúng đã trao đổi, cắt đất, nhượng địa, buôn bán lãnh thổ Việt Nam như thế nào? Đồng thời cung cấp nguồn tư liệu lịch sử về các cột mốc biên giới, bản đồ đường giáp ranh được ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc đến năm 2000.

Để làm vừa lòng “con sư tử phương Đông chia mồi”, phía Việt Nam đã nhượng bộ một số cột mốc như cột mốc số 53 ở đỉnh Thác Bản Giốc (Cao Bằng), Làng Trình Tường (Quảng Ninh) trước thuộc Việt Nam, nay đã bị Trung Quốc nuốt chửng

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Họ lấn vào biên giới Việt Nam dài 6km và sâu 1300m. Cửa Ải Hữu Nghị Quan (xưa gọi là Mục Nam Quan), những dấu ấn bút tích của nhiều nhà Nho khi đi sứ Trung Hoa đề thơ, nay đâu còn nữa mà chỉ còn dấu tích của ngôi nhà mái vòm được xây dựng vào thời Mao Trạch Đông; dấu cột mốc đã lấn sâu vào lãnh thổ nước ta từ 1500 m đến 2000 m. Khu vực Nhà ga Bằng Tường giáp với Trung Quốc, thời kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước, với danh nghĩa “Bạn xây nhà ga trên đất nước ta để tiện tiếp tế vận chuyển”. Nay “bạn” cũng “cãi chày cãi cối” và chiếm luôn. Khi phân định biên giới nơi gặp các con sông, dòng suối, phía Trung Quốc đề nghị lấy tâm các dòng sông, suối làm điểm phân chia ranh giới. Phía Việt Nam là những con người trung thực, hiền lành, tin “bạn”, đã đồng ý với quan điểm phân chia ấy. Nhưng đằng sau đó đã “ẩn náu một dã tâm hiểm độc muốn lấn chiếm nước người”. Ta biết rằng, tại địa điểm các dòng sông, con suối chảy qua, phần Việt Nam luôn luôn là dải đất thấp hơn, khi vào mùa gió Đông Bắc thổi, nước phá lở bờ phía Nam và tâm dòng sông, suối cũng thay đổi, tiến về phía Việt Nam. Đây chỉ là một ví dụ nhỏ trong vô vàn cách phân chia biên giới của“người bạn” nước láng giềng khổng lồ là như thế đấy! Tại các vùng biên giới, nơi giáp ranh, phía Trung Quốc thường cho gieo một loại hạt giống như cây muồng, cây gặp mưa nảy mầm và lớn rất nhanh. Khi cây lớn ra hạt, gặp gió Đông Bắc, hạt bay sang đất Việt Nam mọc thành lũy. Cứ thế, “người bạn láng giềng” phát cây lấn sang đất nước ta.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ải Nam Quan (ảnh thời Pháp thuộc) nay đã thuộc về Trung Cộng
Trung Quốc còn một kế sách “đồng hóa” thời hiện đại để chiếm đất. Dọc biên giới Việt – Trung, hơn 750 km, nhiều thanh niên nam người Hoa sang lấy con gái Việt và ở rể bên đất Việt. Được một thời gian, cả một cụm bản làng đều theo về Trung Quốc với danh nghĩa con gái lấy chồng phải theo về nhà chồng. Đây là chính sách đã có từ thời Mã Viện (được phong là Phục Ba tướng quân, đời Hán).

Qua nghiên cứu, theo dõi, tổng kết một chẳng đường dài lịch sử của các vương triều như Tần, Sở, Hán, Lương, Tùy, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh cho tới Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (ra đời năm 1949) đến nay nó đã lộ rõ: Một sợi chỉ đỏ xuyên suốt bề dày lịch sử trên 4000 năm ấy với bản chất không thay đổi (có chăng nó chỉ biến tướng, trá hình) là:

Chủ nghĩa Đại Hán, bá quyền nước lớn, lúc nào cũng thủ sẵn mưu đồ thôn tính các nước láng giềng và mở rộng lãnh thổ biên giới.

Để thực hiện mục đích trên, họ đã tiến hành âm mưu thầm lặng ấy bằng mọi thủ đoạn ngoại giao xảo quyệt, lừa dối qua giao hảo lúc cương, lúc nhu, có lúc dùng quân sự, có lúc mua chuộc bằng tiền bạc, có lúc dựng lên một bọn “phát xít thời hiện đại” để tiêu diệt cả một dân tộc mà trên 3 triệu sinh mạng con người phải trả giá; hoặc có lúc dọa nạt, răn đe bằng những phương thức bỉ ổi: Dọa tung dư luận nói xấu, bôi nhọ danh dự, hoặc đe dọa tiêm chích thuốc làm hại tính mạng những vị nguyên thủ đứng đầu Nhà nước một số Quốc gia khi sang thăm nước họ... Gần đây nhất, với danh nghĩa viện trợ và giúp đỡ các nước thứ ba phát triển, nhất là một số nước Châu Phi, Châu Á, Trung Quốc đã đổ vào các nước này hàng nghìn tỷ đô la. Vậy đằng sau tất cả việc làm ấy là gì?

Đó là chiến lược bá quyền Thế giới, mua chuộc và dụ dỗ, tiến tới thống trị, chi phối về kinh tế, nhằm tạo ra một loạt các nước chư hầu của Thế kỷ XXI theo phe phái (ăn theo và nói leo). Đây cũng là mưu đồ lâu dài của Trung Quốc muốn bá chủ Thế giới và độc quyền chiếm Biển Đông, tiến tới thao túng Thái Bình Dương. Chỉ có tạo ra một thế lực vây cánh, Trung Quốc mới có điều kiện dùng bộ máy thông tin khổng lồ để vu cáo, thay trắng, đổi đen lịch sử, nhằm dễ bề ăn hiếp các nước trong khu vực Biển Đông như đã và đang ứng xử với Việt Nam, Phillipines, Indonesia... và tranh chấp Quần đảo Điếu Ngư/ Senkaku của Nhật Bản.

Tư tưởng và hành động xuyên suốt mấy nghìn năm của lịch sử Trung Quốc là họ luôn gây hấn, rồi tạo ra sự cố lấy “thịt đè người” để xâm lấn các Quốc gia láng giềng. Ta hãy điểm qua các sự kiện lịch sử của chặng đường dài ấy về những cuộc tranh chấp, xung đột và xâm chiếm lãnh thổ nước khác của Trung Quốc:

- Thời Hán, Lương, Tùy, Đường: Đã tiến hành nhiều cuộc xâm lược nước ta. Tổ tiên ta đã bị phong kiến Hán, Lương, Tùy, Đường thống trị ngót 1117 năm Bắc Thuộc (179 TCN – 938).

- Thời nhà Tống, chúng đã hai lần mang quân xâm lược Nhà nước Đại Cồ Việt (thời Tiền Lê) và Nhà nước Đại Việt (thời Lý) vào các năm 981 và 1075 – 1077. Nhưng cả hai lần, chúng đều bị đại bại và phải ký hòa ước.

- Thời nhà Nguyên: Một đế quốc hung hãn, hùng mạnh nhất thời đó. Chúng đã chiếm gần hết Châu Á - Âu và “làm cỏ” nhiều Quốc gia. Nhà Nguyên đã tổ chức liên tiếp 3 cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt vào các năm 1258, 1285, 1288. Song cả 3 lần, chúng đều bị quân dân nhà Trần, dưới sự lãnh đạo của vị tướng thiên tài Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đánh cho thất bại thảm hại.

- Thời nhà Minh mở cuộc xâm lăng nước Đại Ngu (thời Hồ) năm 1407. Phải sau đó 20 năm (1427), cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi thành công, vây hãm tướng giặc Vương Thông ở Đông Đô (tức Kinh thành Thăng Long), nhân dân ta mới giành được toàn thắng, thoát khỏi sự đô hộ của nhà Minh. Sau đó, Lê Thái Tổ đã mở đường hiếu sinh, “lấy đại nghĩa để thắng hung tàn” mà tha cho tướng giặc Vương Thông và hàng vạn binh sĩ nhà Minh được cấp ngựa, xe, thuyền và lương thực về nước.

- Thời nhà Thanh, chúng đã huy động tới 29 vạn quân dưới sự thống lĩnh của Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sỹ Nghị sang xâm chiếm Đại Việt. Nhưng chỉ một trận quyết chiến thần tốc của Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ từ Phú Xuân kéo quân ra Thăng Long đã tiêu diệt gọn cả bọn cướp nước và bán nước vào mùa Xuân năm Kỷ Dậu 1789.

Cũng vào thời nhà Thanh, dưới đời Vua Càn Long đã tổ chức bốn lần liên tiếp cử đại quân đi xâm lược Miến Điện (Myanmar) (từ năm 1765 đến năm 1769). Nhưng cả 4 lần quân Thanh đều thất bại nặng nề. Hơn 7 vạn sinh linh bỏ xác nơi chiến trường, 4 viên tướng chỉ huy danh tiếng của Mãn Thanh vĩnh viễn ngàn thu không bao giờ nhìn thấy ánh Mặt trời. Triều đình nhà Thanh phải ký nghị hòa với Miến Điện vào tháng 12 năm 1769.

Đối với các triều đại phong kiến Trung Hoa từ thời Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, ngoài các cuộc xâm lăng Đại Việt, họ còn ra sức mở rộng bờ cõi về phía Tây (vùng Tây Vực). Nhà Đường mở cuộc chinh Tây tiêu diệt người Đột Quyết. Hoàng đế Đường Thái Tông Lý Thế Dân sau khi chinh phạt người Đột Quyết thành công, đã được người Đột Quyết tôn phong là Thiên Khả hãn.

Nhà Tống chinh phạt người Nhung, Địch, Thổ Phồn, Liêu; tấn công nhiều nước Bách Việt ở vùng Vân Nam bấy giờ.

Nhà Nguyên diệt Nam Tống xong thì cũng hoàn toàn xóa xổ nước Kim trên bản đồ. Người Kim sau này đổi về tộc Nữ Chân và quay lại thống trị Trung Nguyên, lập ra Nhà nước Mãn Thanh.

Vào giai đoạn lịch sử Cổ đại và Trung đại ở vùng Tân Cương, Tây Tạng còn tồn tại hàng trăm Quốc gia và vùng phía Vân Nam, Tây Nam bên dưới Sông Dương Tử (Trường Giang) cũng có tới hàng trăm Quốc gia Cổ đại có đế hiệu riêng biệt mà lịch sử gọi chung là nhóm Bách Việt với một nền văn hóa phát triển hết sức huy hoàng, rực rỡ. Thời kỳ này, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng: Kinh Dịch và một số phát minh của nhân loại trong đó có Người chỉ phương Nam (La Bàn) ra đời từ các Quốc gia cổ này. Sau đó, họ đã bị xâm lược, lần lượt bị thôn tính và hủy diệt bởi các vương triều Tần, Hán, Lương, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh; để rồi một đế chế Trung Hoa rộng lớn với diện tích 9,6 triệu km2 ra đời.

Trong suốt chiều dài lịch sử đau thương đó, dân tộc Việt Nam, tổ tiên ta phải hứng chịu biết bao đau thương gian khổ ngấm đầy máu và nước mắt, bị các tập đoàn phong kiến phương Bắc hủy diệt. Nhưng chưa hết, tới năm 1945, miền Bắc Việt Nam một lần nữa lại hứng chịu sự cướp bóc, chà đạp của đội quân Tàu Ô - Tưởng Giới Thạch được lệnh của phe Đồng Minh tiến vào giải giáp phát xít Nhật ở Đông Dương. Lợi dụng cơ hội này, chúng ra sức cướp phá, vơ vét của cải, hãm hiếp phụ nữ. Ngân khố Đông Dương bị chúng cướp sạch sành sanh trước khi cút về nước. Song khi đi rồi, chúng đã để lại di hại bệnh tật sốt rét, ngã nước, gan siêu vi trùng khiến cho đồng bào ta bị ảnh hưởng nặng nề.

Đến khi Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1949, người ta tưởng rằng từ đây sẽ chấm dứt những cuộc chiến tranh với các nước láng giềng. Nhưng điều kỳ vọng đó chỉ là ảo tưởng vì nó đã ăn sâu trong máu thịt truyền kiếp của các nhà thống trị Trung Hoa: Là tư tưởng bành trướng, hiếp đáp nước nhỏ.

Ngày nay, một số nhà lãnh đạo Trung Quốc đang nấp sau vỏ bọc ngụy trang, dưới chiêu bài Cộng sản Mácxít mà tư tưởng thì lại sô vanh, bá quyền nước lớn, mang nặng chủ nghĩa dân tộc ích kỷ, luôn luôn muốn mở mang bờ cõi bằng cách đi xâm lấn nước người.

Từ những thập kỷ 60 của Thế kỷ XX tới nay, họ đã liên tiếp gây ra các sự kiện tranh chấp biên giới đất liền, biển, hải đảo và lập ra bản đồ cái gọi là “9 đường lưỡi bò” ở Biển Đông để xâm chiếm lãnh hải của các nước láng giềng có chủ quyền về biển, đảo, quyền tài phán, đặc quyền kinh tế ở Biển Đông theo Luật pháp Quốc tế - Công ước Biển năm 1982.

Trung Quốc có 22.000 km đường biên giới với 14 Quốc gia, bao gồm Triều Tiên, Nga, Mông Cổ, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Afghanistan, Pakistan, Ấn Độ, Nepal, Bhutan, Myanmar, Lào và Việt Nam.

Láng giềng duy nhất không có tranh chấp với Trung Quốc là Pakistan vì giữa 2 nước là quan hệ đồng minh. Hai nước ký thỏa thuận biên giới năm 1963, trong đó Trung Quốc nhượng 1.942 km2 đất cho Pakistan, đổi lại Pakistan công nhận nhiều khu vực ở Bắc Kashimir và Ladakh của Ấn Độ thuộc về Trung Quốc.

Từ ngày 10 – 10 đến ngày 21 – 11 năm 1962, Trung Quốc đã gây ra cuộc xung đột biên giới với Ấn Độ. Điểm nóng tranh chấp lãnh thổ giữa 2 nước là Aksai Chin và Arunachal Pradesh. Với Aksai Chin, Trung Quốc xem đây là một phần của Thị trấn Hòa Đoàn thuộc Khu tự trị Tân Cương, còn Ấn Độ xem là vùng đất của Quận Ladakh thuộc Bang Jammu và Kashmir. Trung Quốc đang chiếm đóng trái phép 38.000 km2 tại đây. Aksai Chin không có người ở lẫn tài nguyên nhưng lại có vị trí chiến lược bởi nó nối Tây Tạng với Tân Cương. Với Arunachal Pradesh, Trung Quốc chiếm giữ 90.000 km2, được gọi là vùng “Nam Tây Tạng” của mình.

Vào năm 1969, cuối thập niên 1960, Trung Quốc đã đụng độ, xảy ra xung đột với Liên Xô. Lý do là việc tranh chấp một hòn đảo vốn thuộc về Nga nằm trên Sông Usuri (Trung Quốc gọi là Đảo Trân Bảo, còn Nga gọi là Đảo Damasky) và một số đảo khác trên Sông Amur và Argun. Trung Quốc muốn chiếm vùng đất này nhưng bị rơi vào tay Nga bởi những Hiệp ước thiếu công bằng do nhà Thanh và Sa Hoàng ký vào Thế kỷ XIX. Hai nước từng đụng độ biên giới trong vòng 7 tháng vào năm 1969. Sau đó, cùng năm, Trung Quốc gây chiến tranh tiếp với Tajikistan vì tranh chấp Núi Pamir (giáp Tân Cương), khiến cho quan hệ giữa Trung Quốc và Liên Xô rạn nứt. Đến năm 2005, tranh chấp biên giới Nga – Trung tạm ổn định sau khi Nga lần lượt ký các thỏa thuận nhượng lại các khu vực trên cho Trung Quốc. Tuy nhiên, gần đây, nhiều nhà nghiên cứu đã cảnh báo về nguy cơ mất vùng Viễn Đông của Nga khi người Trung Quốc đang có âm mưu di dân, tràn qua đây quá đông.

Trong bối cảnh khủng hoảng ở Đông Âu nói riêng và phe Xã hội chủ nghĩa nói chung vào những thập niên cuối của Thế kỷ XX, Trung Quốc đã tận dụng cơ hội này để tranh chấp và chiếm đoạt nhiều vùng lãnh thổ của các Quốc gia thuộc Khu vực Trung Á.

- Kazakhstan có đường biên giới dài 1.700 km đã bị Trung Quốc tranh chấp từ thời Liên Xô, liên quan đến khu vực rộng 680 km2 gần Đèo Baimurz và một diện tích 280 km2 gần Sông Sary-Charndy. Hiệp ước ký năm 1998, đem lại cho Trung Quốc 20% diện tích này, đổi lại là một gói hỗ trợ kinh tế bao gồm: Đầu tư vào một trong những mỏ dầu lớn nhất của Kazakhstan kèm theo hệ thống đường ống dẫn 3.000 km trải khắp nước và chương trình hợp tác kinh tế trong 15 năm. Kazakhstan là khu vực địa lý ngày càng quan trọng với Trung Quốc bởi vị trí kề sát Tân Cương.

- Trung Quốc đòi chủ quyền phần lớn lãnh thổ của Kyrgyzstan với những lý lẽ phi lịch sử. Đây là vùng đất đã bị nhượng lại cho Nga vào Thế kỷ XIX, theo những Hiệp ước mà Trung Quốc cho rằng thiếu công bằng. Theo Hiệp ước 2 nước ký năm 1999, Kyrgyzstan nhận 70% diện tích tranh chấp, còn Trung Quốc lấy 9 km2 thuộc vùng Núi Uzengi-Kush nằm ở phía Nam Khu vực Issyk Kul.

- Sau khi đạt được thỏa thuận với Kyryzstan và Kazakhstan, cuộc đàm phán biên giới giữa Trung Quốc và Tajikistan bị đình lại do nội chiến ở Tajikistan. Hiệp ước ký năm 1999, đem lại cho Trung Quốc một khu vực rộng 1.000 km2 ở Núi Pamir. Diện tích này chỉ xấp xỉ 5,5% so với sự đòi hỏi trước đó – dựa vào “chứng cứ lịch sử” từ thời nhà Thanh – của Trung Quốc. Cũng như với Kazakhstan, Trung Quốc ký Hiệp ước với Tajikistan vì trông chờ các nước Trung Á trấn áp các tổ chức Hồi giáo và chủ nghĩa ly khai của người Duy Ngô Nhĩ tại Tân Cương.

- Ngoài những nước kể trên, bất chấp Hiệp ước song phương năm 1963, Trung Quốc vẫn xâm lấn Afghanistan và đang chiếm Tỉnh Bahdakhshan. Khu vực này từng là nơi Trung Quốc cùng với đế quốc Nga và Tiểu vương quốc Afghanistan tuyên bố chủ quyền. Thế lực cai trị Trung Quốc lúc bấy giờ là nhà Thanh đã tuyên bố kiểm soát toàn bộ dãy Núi Pamir, song quân Thanh chỉ kiểm soát được các đèo ở ngay phía Đông của Trấn Tashkurgan. Trong thập niên 1890, các cấp chính quyền nhà Thanh, Nga Sa hoàng và Afghanistan đã ký một loạt các thỏa thuận mà trong đó đã phân chia Badakhshan, song, về phía Trung Quốc vẫn tiếp tục tranh cãi về vấn đề biên giới. Đây là tỉnh có tổng diện tích 44.059 km2 , một điểm dừng chân trên con đường tơ lụa cổ xưa, và Trung Quốc đã thể hiện mối quan tâm lớn trên địa bàn tỉnh này sau khi sự sụp đổ của Taliban, giúp đỡ để xây dựng lại đường xá và cơ sở hạ tầng của tỉnh với ý đồ thôn tính hoặc nô dịch lệ thuộc.

- Bên cạnh đó, Trung Quốc từng có tranh chấp với Bhutan và Nepal trong quá khứ với lý lẽ 2 nước này thuộc về Tây Tạng nên cũng thuộc về Trung Quốc. Giữa Nepal và Trung Quốc từng xảy ra chiến tranh vào năm 1788-1792. Đối với Bhutan, vốn là Đồng minh truyền thống của Ấn Độ và không thiết lập quan hệ chính thức với Trung Quốc. Giữa 2 nước có đường biên giới chung gần 470 km với vùng tranh chấp vào khoảng 495 km2.

Ngoài ra, Trung Quốc cũng có tranh chấp với Myanmar, Lào và cả Campuchia dựa trên những “bằng chứng lịch sử” theo lý lẽ như trên. Tuy nhiên, tình hình hiện nay tạm thời “lắng xuống” do Trung Quốc đang giở trò mưu ma, chước quỷ bằng các gói viện trợ béo bở.

- Bên cạnh những đụng độ trên bộ, tranh chấp trên biển mới là “chiến trường” chính mà Trung Quốc đẩy mạnh các năm gần đây. Không tính đến căng thẳng quanh Eo biển Đài Loan, Trung Quốc đang đẩy mạnh tranh giành chủ quyền trên 2 vùng Biển Đông và Hoa Đông. Ở Biển Hoa Đông, Trung Quốc liên tục quấy nhiễu Quần đảo Senkaku (Trung Quốc gọi là Điếu Ngư) do Nhật Bản quản lý. Với Hàn Quốc, tranh chấp quanh Bãi đá Ieodo/Tô Nham Tiêu tuy không căng thẳng bằng việc Seoul đã phản ứng kiên quyết với vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) mà Bắc Kinh lập trên Biển Hoa Đông vì chồng lấn không phận của nước này.



Còn trên Biển Đông, Trung Quốc dùng “đường lưỡi bò 9 khúc” liếm gần như hầu hết vùng biển chiến lược này, có tranh chấp với các nước Đông Nam Á gồm Việt Nam, Philippines, Brunei, Indonesia, Malaysia.

Đối với Việt Nam, từ năm 1956, Trung Quốc đã chiếm 2 hòn đảo thuộc phía Đông của Quần đảo Hoàng Sa (nhóm Vĩnh An) là Đảo Phú Lâm và Đảo Linh Côn. Cũng vào năm 1956, vì tin “tình bạn hữu hảo”, Việt Nam có nhờ Trung Quốc in bản đồ. Lợi dụng lòng tin này, thừa cơ Trung Quốc cũng đã cho sửa một số cột mốc biên giới để chiếm đất. Ngoài ra, Trung Quốc còn dùng nhiều thủ đoạn bỉ ổi như:

a. – Từ xâm canh, xâm cư đến chiếm đất

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.

b. – Lợi dụng việc xây các công trình hữu nghị để đẩy lùi biên giới sâu vào lãnh thổ Việt Nam.
c. – Đơn phương xây dựng các công trình ở biên giới lấn sang Việt Nam.
d. – Từ mượn đất của Việt Nam đến biến thành lãnh thổ của Trung Quốc.
đ. – Xê dịch và xuyên tạc pháp lý các mốc giới để sửa đổi đường biên giới.
e. – Làm đường biên giới lấn sang Việt Nam.
f. – Như đã nói ở trên: Lợi dụng vẽ bản đồ giúp Việt Nam để chuyển dịch đường biên giới.

g. – Dùng lực lượng quân sự và trang bị vũ khí để uy hiếp, đóng chốt và chiếm đất.

Tới năm 1974, Trung Quốc lại dùng lực lượng hải quân một lần nữa chiếm nốt phần phía Tây của Quần đảo Hoàng Sa. Đây là hành vi xâm lược, chiếm đóng trái phép, vì lúc này, Quần đảo Hoàng Sa là do Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa quản lý. Theo Hiệp định Genève (1954), nước ta tạm thời chia cắt làm 2 miền, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời. Quần đảo Hoàng Sa nằm dưới vĩ tuyến 17 do chính quyền Việt Nam Cộng hòa quản lý. Bản Hiệp định này chính Trung Quốc đã thừa nhận và là một trong những Quốc gia đã ký kết Hiệp định. Nhưng rồi Trung Quốc đã “phản bội” chính chữ ký của mình.

Năm 1979, do không chịu nổi sức ép “dạy bảo làm chư hầu” của Trung Quốc, vì Đảng và Nhà nước ta có đường lối độc lập, tự chủ riêng và mặt khác họ đã nhiều lần “bội tín” với đất nước Việt Nam yêu dấu của chúng ta. Họ đem Việt Nam mặc cả, trao đổi và bán rẻ cho một cường quốc lớn để đổi lấy lợi ích của họ. Sau đó, lấy cớ và vu vạ Việt Nam “ăn cháo đá bát”, ông Đặng Tiểu Bình đã sinh sự, phát đi một mệnh lệnh “phải dạy cho Việt Nam một bài học”. Thế là trên toàn biên giới Việt – Trung, hơn 60 vạn quân Trung Quốc cùng với 400 xe tăng, hàng chục vạn dân công hỗ trợ dưới sự chỉ huy của hai viên tướng Dương Đắc Chí, Hứa Thế Hữu đã ào ạt nổ súng tấn công nước ta. Trong đó, có nhiều tốp tiền tiêu ăn mặc giả làm bộ đội biên phòng Việt Nam để đánh úp các đơn vị Việt Nam. Họ dùng chiến thuật biển người, tân công như ăn cướp vào 6 tỉnh biên giới. Họ tàn sát, đốt phá 6 tỉnh tơi tả, tan nát, chỉ còn là đống gạch vụn, tro tàn. Có nhiều pháo thủ của họ bị xích chân bên cạnh khẩu pháo, buộc họ phải chiến đấu đến phút cuối cùng. Mặt khác, do lo sợ các “chiến sỹ Hồng quân” ở biên giới Việt – Trung có quan hệ họ mạc “dây mơ, rễ má” nên ông Đặng Tiểu Bình cho điều về biên giới các quân đoàn Sơn Đông vừa to con, vừa tàn bạo. Đi đến đâu là họ đốt phá, chém giết, hãm hiếp phụ nữ, không khác gì đoàn quân Tàu Ô của Tưởng Giới Thạch năm 1945. Có lẽ trên Thế giới vào Thế kỷ XX, chỉ có quân đội của Hitler là tàn bạo chưa từng có. Nhưng ở đây, đội quân này cũng chẳng hề thua kém. Ghê tởm hơn là đi đến đâu, chúng cũng đốt sạch, giết sạch, phá sạch, cướp sạch; cái gì lấy được là họ vơ vét hết từ “chổi cùn đến rế rách”, không từ bất kể thứ gì mà họ không lấy đi. Dã man hơn, để triệt đường sống của dân bản, họ đã ném các xác chết xuống nguồn nước ăn, giếng đào của đồng bào. Nhiều người dân Việt chết không phải vì bom đạn, súng ống mà chết vì khát nước.

Tóm lại: Lịch sử hơn 4000 năm của nước Trung Hoa là lịch sử chiến tranh liên miên, thôn tính và hiếp đáp các nước láng giềng. Nhiều nhà lịch sử, địa lý Thế giới thống kê cho rằng: Trung Quốc hiện nay không còn là diện tích 9,6 triệu km2 nữa mà đã tăng lên tới 9,8 – 9,9 triệu km2, thậm chí tới 10 triệu km2.

Đất thì không bao giờ đẻ ra. Vậy Trung Quốc tăng thêm diện tích lấy từ đâu? Trong số gần 10 triệu km2 kia, Việt Nam (tính từ năm 1885 đến năm 2000) đã bị Trung Quốc “xơi tái” 750 km2 đất liền vùng biên giới; chưa kể vùng biển Vịnh Bắc Bộ là 1100 km2.

Còn tiếp
Nguyễn Hoàng Điệp


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Có bài viết, tư liệu cụ thể về Làng Trình Tường. – TG.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Những thủ đoạn, âm mưu xâm chiếm biên giới của Trung Quốc, tác giả sẽ có bài viết riêng để chứng minh cụ thể. – TG.

Sửa bởi pth77: 20/07/2014 - 01:54


Thanked by 3 Members:

#122 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 20/07/2014 - 02:21

60 NĂM HIỆP ĐỊNH GENÈVE LƯỢC QUA 70 NĂM SỬ VIỆT


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Sau cái gọi là "thắng lợi" tại Hiệp Định Paris ngày 27/01/1973, thì, ngày 19 Tháng 11 năm 1973, Mao Trạch Đông đã tiếp Chủ tịch Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam Nguyễn Hữu Thọ và bà Nguyễn Thị Bình Bộ trưởng ngoại giao của Mặt Trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam tại Văn phòng Trung ương đảng cộng sản Trung Cộng, để ăn mừng việc tay sai của Mao đã hoàn thành nhiệm vụ được giao! (Hình của Science Human)

Bài đọc liên quan:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Còn một ngày nữa là kỷ niệm 60 năm Hiệp Định Genève lịch sử - 20/7/1954 - 20/7/2014 - cũng cần lược qua một số điểm lịch sử thực cho thế hệ trẻ tương lai có cái nhìn chân thực. Lược sử lại để hiểu vì sao hôm nay đất nước chúng ta đang trong cái thế, như thế Tề Thiên Đại Thánh, tài giỏi, đau thương, nhục nhằn, bi kịch vì mắc phải cái vòng kim cô tròng vào đầu, nên đành chịu thế nhược tiểu. Lược lại sử thật để rút ra bài học xương máu cho hiện tại và tương lai.

Nhưng nếu ngắt lịch sử chỉ 60 năm từ 1954 đến 2014, mà không lùi thêm 10 năm, từ 1944 đến 2014, thì sẽ không có cái nhìn có đầu, có đủa, khách quan, trung thực, và cũng không nhìn được hết thiên thời, địa lợi, và nhân hòa của dân tộc Việt, để có hôm nay, Trung Cộng thực hiện

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.

Không hiểu và yêu đúng lịch sử thật, ắt sẽ không có lòng yêu nước đúng đắn. Vì thế bài viết này phải có cái tựa 70 năm lược sử Việt là vậy.

Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân với nhiệm vụ chính trị hơn là quân sự


Ngày 22 Tháng 12 Năm 1944

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

, và giao cho cụ Võ Nguyên Giáp phụ trách, nhờ vào sự tài trợ của Hoa Kỳ với đội tình báo SS, tiền thân của CIA ngày nay cùng 200 ngàn đô la Mỹ. Cũng trong ngày ấy, tại khu rừng thuộc huyện Nguyên Bình (Cao Bằng), Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã chính thức làm lễ thành lập gồm 3 tiểu đội, với 34 chiến sĩ được chọn lọc từ những chiến sĩ du kích Cao - Bắc - Lạng do Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy. Đây là đơn vị chủ lực đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng và là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Nhưng đến ngày 02/9/1945, chỉ 8 tháng 10 ngày sau khi thành lập, thì cụ Hồ tổ chức cướp chính quyền của vua Bảo Đại, với chính phủ Ông Trần Trọng Kim để tuyên bố độc lập, chỉ bằng cuộc nổi dậy của nông dân, mà hoàn toàn không có đủ lực lượng quân đội, nên không có chuyện đổ máu, mà chỉ bắt đầu bằng việc phá kho thóc, và cướp diễn đàn của chính phủ Trần Trọng Kim tại Hà Nội.

Đứng về mặt thiên thời, thì lúc này chiến tranh thế giới II kết thúc, phe Phát Xít Đức, Ý, Nhật thất bại. Nhật đang hất cẳng Pháp ở Đông Dương, nhưng bị thua trận. Pháp suy sụp sau chiến tranh thế giới II. Thời cơ đến. Lòng dân một hướng dưới sự kêu gọi của cụ Hồ, lại thêm một trận chết đói 3 triệu dân, nên nhân hòa không lúc nào bằng. Địa lợi là, lúc này bên Trung Hoa, cuộc cách mạng xã hội do Tôn Trung Sơn phát động xóa bỏ nền quân chủ phong kiến, lập nên nền Cộng Hòa cũng đang trên con đường thành công.

Hòa hợp hòa giả dân tộc chỉ là mưu lược để làm nhiệm vụ Quốc tế Cộng sản giao phó


Nhưng, sau khi cướp chính quyền, phe đồng minh thân Hoa Kỳ đã phát hiện ra cụ Hồ là người của Quốc Tế 3 cộng sản, chỉ làm nhiệm vụ cho Quốc tế cộng sản qua lời tự thuật của Linh mục Cao Văn Luận -

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Nên, ngày 11/11/1945, cụ Hồ lập tức

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

, nhưng thực tế là, rút lui vào hoạt động bí mật. Sau đó, tương kế tựu kế với cái gọi là hòa hợp hòa giải dân tộc, đa nguyên, đa đảng giả hiệu, kêu gọi thành lập chính phủ liên hiệp đa đảng phái với những Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Dân Đảng, v.v... đi đến tổng tuyển cử vào ngày 06/01/1946, và thành lập quốc hội, để ngày 02/3/1946 họp, và đề cử cụ Hồ làm chú tịch nước Việt nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Cho đến nay, nước Việt trong 70 năm qua đã có 5 lần hiến pháp - 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013 - nhưng càng về sau hiến pháp nước Việt càng làm mất quyền công dân, và quyền hành của đảng cộng sản cầm quyền ăn chia càng to lớn. Hiến pháp 1946 ra đời phục vụ tốt nhất cho vì dân, do dân, và của dân. Nhưng hiến pháp 1946 chưa bao giờ được tôn trọng. Người ta nói, hiến pháp 1946 đã chết, và vô giá trị ngay khi Cải cách ruộng đất, Đấu tố tư bản tư doanh, và Nhân văn Giai Phẩm ở miền Bắc từ 1953 đến 1957. Nhưng thực chất, hiến pháp này đã chết ngay năm 1946, sau khi cụ Hồ ký Hiệp định Sơ bộ ngày 06/3/1946, rồi

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

vào ngày 31/5/1946, là ngày mà hiến pháp 1946 bị tử hình! Vì sau khi cụ Hồ sang Pháp, ở nhà, bộ nội vụ dưới sự chỉ đạo của cụ Võ Nguyên Giáp đã làm nên

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

tiêu diệt hầu hết các thành viên đảng phái ngoài đảng cộng sản trong quốc hội 1946. Và khi cụ Hồ quay về, và bắt đầu kêu gọi toàn quốc kháng chiến - do Pháp chỉ muốn chiến - vào 03/11/1946, thì quốc hội của nước VNDCCH chỉ còn các thành viên của đảng cộng sản nắm quyền hành.


Loạt phim giả sử vụ án Phố Ôn Như hầu năm 1946 đo đài truyền hình công an Việt nam làm lại

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Qua đó, chúng ta thấy về bản lĩnh, và thủ đoạn chính trị thời loạn, những ngày đầu, tay không tất sắt, cụ Hồ đã tỏ ra ra một chính khách tài năng, và sắp đặt mọi việc quá kỳ tài, không ai có thể chối cãi được.

Nhưng cũng vì thế mà, sau khi tuyên bố toàn quốc kháng chiến, buộc lòng cụ Hồ phải rút lui lên rừng để làm cuộc trường kỳ kháng chiến, chờ thời cơ chín muồi trở lại, chứ không thể nắm được giang sơn. Vì người Pháp đã trở lại dưới sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, và Hoa Kỳ đã nhìn thấy cụ Hồ là người của cộng sản làm nhiệm vụ bành trướng bản đồ chủ nghĩa cộng sản xuống Đông Nam Á, và cả Úc Châu. Nên Hoa Kỳ cắt viện trợ cho cụ Hồ, nhảy vào Đông Dương, hỗ trợ và chuẩn bị thay chân Pháp, nhằm chặn đứng làn sóng cộng sản tràn ngập Đông nam Á.

Cụ Hồ phải rút lên rừng để bảo tồn lực lượng, chờ thời cơ, và gầy dựng lực lượng vì quân đội của VNDCCH hoàn toàn chưa có. Nên cụ Hồ đang chờ đợi từ sự giúp đỡ của Liên Xô. Nhưng, lúc này, con đường viện trợ của Liên Xô phải đi ngang qua Trung Hoa, vì thế, từ cuối năm 1946 đến cuối năm 1949, hầu như là thời gian khó khăn nhất của đảng cộng sản do cụ Hồ lãnh đạo. Những tưởng, rừng núi phía Bắc sẽ là nơi cụ Hồ sống những ngày còn lại khi tuổi đã lục tuần - 1890 - 1949. Vì với chiến dịch

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

, cụ Hồ hiểu mình không đủ sức đương đầu với Pháp.

Thời cơ và thành công của đảng cộng sản ở Việt nam


Nhưng trời bất dung nước Việt, ngày 01/10/1949, Mao Trạch Đông hốt trọn cơ đồ của Tưởng Giới Thạch, và tuyên bố, thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Sự kiện này như cơ hội hùm thêm cánh cho cụ Hồ. Với quá khứ là thiếu tá Bác Lộ Quân với cái tên Hồ Quang của đội quân của Mao, cụ Hồ trở thành một nhà ngoại giao đại tài để có sức người, sức của, quân trang, quân dụng viện trợ từ Trung Cộng của Mao để làm nên cuộc thử lửa,

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

vào Ngày 07 Tháng 7 Năm 1950.

Thắng lợi của Chiến dịch Biên Giới, cụ Hồ hiểu rằng, thời cơ đã tới, và cuộc chiến Điện Biên Phủ kháng Pháp bắt đầu từ thời điểm này, dưới sự hỗ trợ của Trung Cộng, và cả Liên Xô, nhờ vào thời kỳ 1928 - 1933 cụ đã từng là thành viên của Quốc tế Cộng sản tại đây, cụ đã được đào tạo tại trường Chính trị Phương Đông.

Nhân hòa đã có, vì không chết bom đạn thì cũng chết đói đối với người nghèo. Còn đối với trí thức và nhà giàu, đang hừng hực khí thế thoát vòng nô lệ giặc Pháp 100 năm đô hộ. Cùng sự ủng hộ tuyệt đối của Trung Cộng và Liên Xô, địa lợi hơn hẵn Hoa Kỳ và Pháp. Thiên thời Trung Hoa của Tôn Dật Tiên trở thành Trung Cộng của Mao, là đồng minh cộng sản, thì còn gì hơn. Và cái gì đến đã đến, thắng lợi tại Điện Biên Phủ vào ngày 07/5/1954, thì 75 ngày sau, Hiệp Định Genève được ký kết, dưới sự ủng hộ của Mao, và Liên Xô, một nửa giang sơn nước Việt về tay cộng sản, nếu chưa nói là lệ thuộc Trung Cộng để tiếp tục làm nhiệm vụ quốc tế cộng sản bằng xương máu dân tộc Việt qua lời của

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

: "Chúng ta đánh Mỹ là đánh cho cả Liên Xô và Trung Quốc!".

Phần lịch sử từ 1954 đến 1975 là 20 năm nồi da nấu thịt của người Việt, mà miền Nam Việt nam chỉ lo phòng thủ và xây dựng kinh tế. Miền Bắc cộng sản đã cài cắm người vào tận nách của Việt nam Cộng Hòa với những Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân Ẩn, Nguyễn Thành Trung, v.v... không sao kể hết. Nhưng chúng ta hãy điểm qua một số vấn đề sau để thấy vì sao hôm nay đất nước ta phải chịu khiếp nhược trước Trung Cộng, và chính quyền cộng sản không nương tay với đồng bào, xem đồng bào là kẻ thù địch, như báo chí, truyền thông vẫn ra rả suốt ngày trong 70 năm qua.

Những lý do miền Bắc thành công trong việc xâm lược miền Nam, và Việt nam vào thời kỳ Bắc thuộc mới



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Chúa vào Nam, con cũng vào Nam. Một dấu hỏi lớn là, ai đã tạo ra phong trào này, tới nay lịch sử chưa làm rõ.


Thứ nhất là, khi Hiệp định Gioneve ký kết, Bắc Việt đã cài cắm người ở lại miền Nam tự do, dân chủ. Đồng thời, với phong trào "Chúa vào Nam, con chiên cũng vào Nam" - mà cho đến nay lịch sử chưa xác minh được bên nào đã đưa ra, Bắc cộng hay Việt Nam cộng hòa? Miền bắc đã cài cắm những người theo Thiên Chúa giáo nhưng là người cộng sản đã di cư từ Bắc vào nam trong phong trào "Chúa vào Nam..." này, vào đến Dinh Tổng Thống của Việt Nam Cộng hòa. Nên mọi đường lối, bí mật của VNCH hầu như được bày ra cho miền Bắc rõ, như rõ con bài tẩy của ván bài xì tố. Và chính Bắc Việt đã phá vỡ Hiệp Định Genève để xâm lược miền Nam theo lệnh của Quốc tế cộng sản giao phó.

Trong khi đó, ngoài cụ Diệm ra, hầu hết các tướng lĩnh VNCH đều xuất thân từ phong trào Việt Minh của cụ Hồ, họ bỏ hàng ngũ của cụ Hồ đi theo Chính nghĩa Quốc gia - kể cả cụ Thiệu! Và trong số đó, không thiếu những thành phần làm gián điệp cho Bắc Việt.

Thứ hai là, khi nhìn thấy việc Mỹ sẽ vào miền Nam, và lật đổ cụ Diệm - một chí sĩ yêu nước đúng nghĩa với việc xây dựng một nước Việt tự lực, tự cường - thì cụ Hồ cho thành lập một chi nhánh của đảng cộng sản ở miền nam vào năm 1960: Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam - MTGPMNVN. Nhiệm vụ của MTGPMNVN là 3 mũi giáp công, tuyên truyền dân vận, địch vận, khủng bố, và chiến tranh du kích bám thắt lưng địch mà đánh, vừa đánh vừa đàm phán.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Cái bắt tay chiến thắng của Bắc Việt và Hoa Kỳ thông qua 2 ông cùng chia đôi giải Nobel Hòa Bình năm 1973 - Lê Đức Thọ và Henry Kissinger - nhưng là cái kết thúc của tổ chức MTGPMNVN và VNCH, và là lúc dân tộc Việt bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 18!


Phải nói thành công của Bắc Việt vào ngày Hiệp định Paris - 27/01/1973 - ký kết và xâm lược miền nam thì công lớn hơn 50% là do MTGPMNVN làm tốt nhiệm vụ của mình khi miền Bắc giao phó. MTGPMNVN vừa như một chính phủ thứ 3, nhưng đứng về phía Bắc Việt trong cuộc đấu thầu với VNCH ở miền Nam trong gói thầu ở

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Ai cũng rõ, hai đánh một, không chột cũng què.

MTGPMNVN còn phá nát đạo Phật dưới một chiến lược vô đạo của Bắc Việt, bằng những thầy tu giả danh để hoạt động. Nền văn hóa Việt hôm nay vô đạo và phi nhân tính, một phần rất lớn là "công lao" của tổ chức này.

MTGPMNVN xúi giục, dụ dỗ con nít sinh viên, thầy tu miền Nam Việt Nam xuống đường chống chính quyền, gây chia rẽ sự đoàn kết chính quyền VNCH, và gây Quỹ về nhân lực, vật lực cho đội quân chủ lực miền Bắc vào Nam.

MTGPMNVN còn làm một nhiệm vụ rất hiệu quả là, các nhóm biệt động thành như những bậc thầy của Hồi giáo cực đoan bây giờ, như phong trào Hamas, al Qedea, Taliban đang hoành hành khắp mới trên thấ giới. Họ đánh bom khách sạn, vũ trường, rạp cinema khi có những lãnh đạo trung cao của VNCH đi xem, hoặc ủy lạo. Họ khủng bố những thương gia VNCH phải đóng góp cho cách mạng, nếu không đóng góp sẽ bị bỏ bao bố thả sông hao85c bắt đi biệt tích...

Trong khi đó, ở miền Bắc, Liên Xô và Trung Cộng tài trợ cà người lẫn của, nhưng cả thế giới không hay biết, nhờ vào một chế độ bao cấp tem phiếu về kinh tế, hộ khẩu về chính trị. nên cả thế giới đã hiểu nhầm miền bắc là chính nghĩa, miền nam là phi nghĩa, vì Mỹ đả công khai nhảy vào miền Nam. Thậm chí đến cô đào Jane Fonda và anh chàng tự thiêu bên dòng Potomat cũng chỉ vì ngây thơ chính trị, và nghe lời nói láo của cộng sản, để phản đối Mỹ làm đồng minh của VNCH.

Trên đây là yếu tố bên trong nước Việt của 20 năm nồi da nấu thịt, nhưng điều quan trọng nhất là, yếu tố bên ngoài - khách quan - là Hoa Kỳ không muốn thắng trong cuộc chiến để mất một thị trường to lớn là Trung Cộng. Hơn nữa, Hoa Kỳ đã tương kế tựu kế tiêu diệt đối thủ chính là Liên Xô, nên phải lôi kéo Trung Cộng về mình chống lại Liên Xô, để rảnh nợ Thái Bình Dương, sang cứu đồng minh không thể bỏ ở Trung Đông - Israel - đang ngụp lặn với Hồi giáo cực đoan, luôn tiện chiếm giếng dầu thế giới.

Kết


Cái gì đến đã đến. VNCH thua trận, và Việt Nam sa vào vòng tay tên sở khanh Trung Cộng. "Công lao" ấy thuộc về ai, để hôm nay, chiếc vòng kim cô bị tròng vào đầu từ sau ngày 01/10/1949 đến nay, cộng sản ở Việt nam đã thực thi lệnhh của phương Bắc ngày càng siết hệp dần chiếc vòng kim cô ấy trên đầu mình, và dân tộc. Dân tộc Việt đầu nhức như búa bổ, nhưng không làm gì được, nếu không có những phong trào tự lực, tự cường cho dài hạn như

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

?

Thế kỷ XX, Việt Nam xuất hiện một cụ Hồ xuất chúng trong chính trường, nhưng để lại cái vòng kim cô cho dân tộc với Bắc phương. Liệu thế kỷ XXI, ai sẽ là người xuất hiện để lèo lái con thuyền Việt Nam qua sóng gió của hơn ngàn năm Bắc thuộc? Việc nay, không dễ đến trong tương lai gần, nếu dân khí, và tầm nhìn của người Việt như hôm nay.

Hồ Hải - Tư Gia, 0h35' ngày thứ Bảy, 19/7/2014

Thanked by 2 Members:

#123 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 23/07/2014 - 04:11

Vũ Trụ Trong Mắt Ai, Bất Định, Bất Toàn, Tin Cậy và Tình Yêu


Có phải chăng, phải bước qua Hệ quy chiếu Einstein, phải bước qua Hệ quy chiếu về các Chiều Không gian con bị xoắn, phải bước qua Hệ quy chiếu về Không Thời gian Đa chiều;… Phải bước qua Khoa học; phải phải bước sang Tôn giáo; phải bước vào Hệ quy chiếu Tâm Linh, Con người có thể tới gần được Chân lý?
1.“Thượng đế không thể chơi trò xúc sắc”.
Đó là câu nói bực tức của người khổng lồ Einstein. Ông đã nói vậy. Ông đã nói vậy, sau khi đã công bố nhiều thí nghiệm tưởng tượng. Ông đã nói vậy, sau nhiều cuộc khẩu chiến ồn ào. Ông đã nói vậy, khi ông không thể chiến thắng. Không chiến thắng, không chỉ vì đối thủ của ông, Niels Bohr, cũng là một người khổng lồ và rất kiên định. Mà không chiến thắng, vì: Nguyên lý Bất định, nó có sức mạnh của nó. Sức mạnh của nó không thua kém gì sức mạnh của Thuyết Tương đối, học thuyết của ông.
Thuyết Tương đối của Einstein là một đỉnh núi Sáng tạo. Khi xuất hiện, nó đã triệt tiêu khái niệm Không Thời gian là tuyệt đối, một khái niệm đã thống lĩnh suốt ba trăm năm. Khi nó xuất hiện, nó tạo ra một làn sóng mới cho Khoa học, đặc biệt Vật lý nghiên cứu về Vũ trụ. Cho đến nay, nó vẫn đang tồn tại và đang tỏa sáng. Cho đến nay nó vẫn sừng sững như khi nó xuất hiện. Nhưng đã có một đỉnh núi sáng tạo khác, không kém hùng vĩ hơn, xuất hiện. Nguyên lý Bất định của Werner Heisenberg. Người ủng hộ nó nhiều nhất là Niels Bohr, một người gần như sáng lập nên Cơ học Lượng tử. Kể từ năm 1927, sự xuất hiện của Nguyên lý này đã làm cho Cơ học Lượng tử, ngành khoa học nghiên cứu về vi mô, có tầm vóc mới. Thực sự, sự xuất hiện này như một cuộc cách mạng, một sự bùng nổ.

“Thượng đế không thể chơi trò xúc sắc”.
Cuộc cách mạng này, sự bùng nổ này không chỉ xảy ra trong Cơ học Lượng tử, trong Vật lý mà nó đã ảnh hưởng tới mọi ngành Khoa học và tới cả Triết học. Thượng đế đã tham gia vào trò chơi may rủi?

Trước Einstein, Pierre Simon de Laplace, một Nhà Khoa học quý tộc, đã đưa ra một học thuyết có tên là Chủ nghĩa Tất định. Nếu biết trước trật tự của Vũ trụ tại một thời điểm nhất định, khoa học có thể tiên đoán được một cách chính xác trật tự của Vũ Trụ tại bất kỳ một thời điểm xác định khác. Học thuyết này, đương nhiên dựa trên các định luật của Cơ học Newton; đồng thời dựa trên giả thiết cơ bản: Vũ trụ là bất biến, Vũ trụ bị ràng buộc bởi những định luật xác định. Chủ nghĩa Tất định Laplace là sự phát triển tư tưởng, xác định khoa học có thể vươn tới những đỉnh cao. Thuyết Tương đối của Einstein, vứt bỏ khái niệm tuyệt đối của Không Thời gian, một khái niệm Tĩnh. Ý nghĩa Tương đối của nó không nằm trong việc phủ định sự Tất định của Vũ trụ. Thuyết Tương đối của Einstein, là tuyệt đối thừa nhận sự Tất định của Tự nhiên; là một lý thuyết xác định cho phép tiên đoán một cách chính xác các hiện tượng thiên văn, vũ trụ. Trong thực tế, sự chính xác trong các tiên đoán đã đạt tới mức kinh ngạc. Điển hình là tiên đoán vị trí của các ngôi sao ở gần Mặt trời trên bản đồ thiên văn trong các kỳ nhật thực, để từ đó xác định được chính xác độ lệch của tia sáng khi nó đi ngang qua gần Mặt Trời. Đương nhiên đó là Tất định. Einstein thừa nhận Laplace.

Nguyên lý Bất định, hay còn gọi là Ngẫu nhiên, được phát biểu sau thí nghiệm điển hình bắn các chùm hạt electron qua hai khe hở, để tìm thấy sự Giao thoa. Nguyên lý khẳng định không thể xác định cùng lúc chính xác cả vị trí và tốc độ của các hạt thí nghiệm. Vị trí và tốc độ là hai yếu tố cơ bản nhất. Chỉ cần xác định hai yếu tố này là biết được về hạt đó. Nếu biết được hai yếu tố này, tại một thời đỉểm bất kỳ, là có thể xác định được vị trí và vận tốc, cho bất kỳ một thời điểm nào khác. Nhưng không thể xác định được hai yếu tố này! Không xác định được, không phải vì những phương trình toán học quá phức tạp, chưa có lời giải. Không xác định được, vì không thể mô tả được trạng thái của chúng. Trong thực nghiêm không xác định được, không phải vì trình độ công nghệ. Để đưa một chút ánh sáng, để làm rõ hơn vị trí và tốc độ của hạt electron, thì chính các hạt photon lại tác động vào vị trí và vận tốc của hạt electron. Đó là nghịch lý. Hai yếu tố này là không thể xác định được! Hai yếu tố này là Bất định, không thể là Tất định. Ngẫu nhiên đã được đưa vào trong Cơ học Lượng tử!

Lâu đài Tất định xụp đổ. Laplace thoái vi. Những tiên đoán thiên tài của Einstein dù đã rất đúng, nhưng đã trở thành không phổ quát. Khoa học được xác định lại, có Tất định và có Bất định, có Tiền định và có Ngẫu nhiên.

Ngọn núi sáng tạo thứ hai, Nguyên lý Bất định đang thể cùng tồn tại với Ngọn núi Sáng tạo thứ nhất Thuyết Tương đối. Nhưng cũng đã có khi, người ta tưởng rằng Einstein đã luôn đúng, Bohr và Heisenberg sai. Đó là vào năm 1998, khi Gerhard Rempe và các cộng sự tại Đại học Konstanz ở Đức đã báo cáo về thực hiện thí nghiệm nổi tiếng, thí nghiệm bắn hạt qua hai khe hở, bằng kỹ thuật laser. Bài báo đã viết: “Kết quả (của họ) chứng tỏ rằng lập luận của Bohr dựa trên một sự nhầm lẫn”. Bài báo cho biết là trong nhiều năm qua, các nhà vật lý đã không hề hay biết rằng có một lý thuyết quan trọng, đó là Thuyết Rối lượng tử (quantum entanglement). Hiện tượng không thấy dấu vết giao thoa thực ra là quy luật Rối lượng tử, một đặc trưng của thế giới lượng tử, chứ không phải là yếu tố Bất định. Nhưng rồi cho đến nay, đã không có những hoài nghi tiếp theo. Nguyên lý Bất định đã được kiểm nghiệm trong thực nghiệm, thực tế và trong lý thuyết tính toán một cách quá rõ ràng.

Mới đây, trong Toán học có một khám phá mới về số Omega, đã tạo ra một cú sốc lớn. Nó cho thấy toán học không phải là một hệ thống xác định như người ta vẫn tưởng, mà hoá ra cũng chứa đựng tính ngẫu nhiên giống như trong Cơ học Lượng tử. Omega, là một con số do Gregory Chaitin tìm ra cách đây không lâu, dựa trên việc phát triển bài toán Sự cố Dừng (The Halting Problem) của Alan Turing. Sự Cố dừng được phát biểu như sau: “Không thể đoán trước được một chương trình computer liệu có thể bị dừng hoặc chạy vòng quanh mãi mãi hay không.”
Từ bài toán của Turing, Chaitin đã đặt vấn đề: “Hãy tính xác suất để một chương trình computer được chọn ngẫu nhiên trong số những chương trình có thể có sẽ bị dừng là bao nhiêu?”

Chaitin gọi xác suất đó là Omega. Omega tồn tại, bởi vì trong thực tế, một chương trình có khả năng sẽ bị dừng, hoặc không. Theo Lý thuyết Xác suất, Omega là một số thực biến thiên trong khoảng giữa 0 và 1: 0 < Omega < 1. Nó không thể có giá trị khác, nó chỉ có thể từ 0 tới 1. Nhưng điều đáng buồn, là chúng ta sẽ không bao giờ biết Omega bằng bao nhiêu, vì theo Sự cố Dừng Máy tính của Turing, không thể đoán trước được.
Đây là một hiện tượng chưa từng xẩy ra trong Toán học. Một số vô tỷ như số Pi (3,1416…) chẳng hạn; là một số thập phân vô hạn không tuần hoàn. Số Pi, sẽ có các chữ số xuất hiện không theo một quy luật nào cả, và dài vô hạn; nhưng vẫn là một số xác định. Bởi vì chúng ta có thể xác định được (tính được) bất kỳ số chữ số nào của nó, miễn là thời gian và sức lực cho phép. Nhưng Omega là một con số hoàn toàn khác: nó là một con số bất định, các chữ số của nó xuất hiện một cách ngẫu nhiên.
Omega thực sự là một cú sốc. Omega là một số thực, mà số thực là nền tảng của Số học, Số học là nền tảng của Toán học; như vậy Tính Ngẫu nhiên (randomness) nằm trong nền tảng của Toán học. Suy rộng ra, Toán học là nền tảng của Khoa học, do đó Tính Ngẫu nhiên nằm trong nền tảng của toàn bộ Khoa học. Cho nên, không thể tồn tại một lý thuyết mang tính xác định của toàn Vũ trụ được, bởi vì Vũ trụ mang tính ngẫu nhiên hơn là xác định!

2
Thực sự, thì bài toán Sự cố Dừng của Turing và Số Thực Omega của Chaitin nó là một biểu hiện cụ thể của một đỉnh núi khác, nhiều hơn, so với đỉnh núi sáng tạo Nguyên lý Bất định. Với Nguyên lý Bất định nó chỉ liên quan đến tính Ngẫu nhiên. Sự cố Dừng và Số Thực Omega thể hiện nhiều hơn nữa, nhiều khía cạnh, nhiều chiều kích hơn nữa. Không thể xác định được. Đây là điều vô cùng quan trọng. Nó chứng tỏ rằng trong Toán học tồn tại những con số không thể tính được, không thể biết được; và như vậy Toán học không thể là một Hệ hoàn chỉnh. Đó là điều mà Đỉnh núi Sáng tạo: Định lý Bất toàn của Kurt Gödel đã nói đến.

Trong thế kỷ hai mươi, Khoa học có ba Đỉnh núi Sáng tạo. Đỉnh thứ nhất chính là Thuyết Tương đối của Einstein, nó đẹp một cách t*o nhã. Nó cho một cái nhìn sống động hơn, lộng lẫy hơn về Không Thời gian, về Vũ trụ. Đỉnh núi thứ hai là Nguyên lý Bất định của Werner Heisenberg, nó đẹp một cách Lãng mạn. Nó tạo nên những cảm xúc Bất ngờ khi tìm hiểu về Tự nhiên, khi tìm hiểu về Vũ trụ. Làm sao mà lãng mạn được, khi mọi thứ là Tiền định. Làm sao mà lãng mạn được, khi biết trước được điều sẽ xảy ra. Lòng kiêu hãnh có thể sáng lên, khi mới tìm ra; nhưng khi nó đã xảy ra, thì có gì còn hấp dẫn, còn lãng mạn nữa, khi biết nó thuộc về Tất định. Đỉnh núi thứ ba đẹp một cách hoàn toàn khác. Nó đẹp Mạnh mẽ. Đó là Định lý Bất toàn của Kurt Gödel.

Không như Thuyết Tương đối, dù chưa bao giờ được trao Giải Nobel nhưng nó nhanh chóng chiếm được niềm tin của giới Vật lý, đưa tên tuổi Einstein lên hàng đầu. Không như Nguyên lý Bất định, dù bị Einstein chống đối đến cùng, nhưng được Niels Bohr và rất nhiều Nhà Vật lý hàng đầu ủng hộ, đã nhanh chóng tạo nên những ảnh huởng lớn lao trong Cơ học Luợng tử và Vật lý nói chung. Trong khi đó, Định lý Bất toàn và bản thân Gödel chủ yếu chỉ được giới học thuật gần gũi biết đến. Trong một thời gian rất dài, Định lý không được phổ biến rộng rãi. Một vài nhân vật xuất chúng biết nó, nhận thấy tầm quan trọng của nó. Phần lớn các nhà toán học khác vẫn nuối tiếc lý tưởng của Chủ nghĩa Hình thức.

Cũng giống như trong Vật lý, giống như Chủ nghĩa Tất định của Laplace, Chủ nghĩa Hình thức trong Toán học được David Hilbert chủ xướng; với tinh thần: “Chúng ta phải biết, chúng ta sẽ biết”. Lấy công cụ là Logic và Lý thuyết Tập hợp, một Chương trình Hilbert đã được dựng lên, với dự định xây dựng một Hệ thống Siêu Toán học. Họ đã tưởng tượng ra rằng Hệ thống Siêu Toán học, là một hệ thống toán học tuyệt đối siêu hình, tuyệt đối thoát ly khỏi thế giới hiện thực, cho phép xác định tính đúng/sai của bất kỳ một mệnh đề Toán học nào và chứng minh tính phi mâu thuẫn của toàn bộ Toán học. Chủ nghĩa Hình thức đã gần như thống trị Toán học. Chủ nghĩa Hình thức đã khuynh đảo tư tưởng Toán học. Thói tự phụ thật là rất to, sức ỳ thật là rất lớn. Trong Khoa học đôi khi, tính Bảo thủ lớn hơn rất nhiều so với những gì người ta vẫn kỳ vọng vào tính Khách quan! Chính điều đó, đã làm cho Định lý Bất toàn của Gödel bị rất nhiều nhà toán học tảng lờ và ngấm ngầm chống đối.

Nhưng cái gì phải đến, thì nó sẽ đến. Chủ nghĩa Hình thức đã dẫn đến nhận thức về bản chất của Toán học bị méo mó. Toán học bị đồng nhất với Logic hình thức, Logic thuần tuý suy diễn bằng ký hiệu, đã bất chấp ý nghĩa thực tế của các đối tượng toán học. Đồng thời hạ thấp vai trò thực dụng của toán học, dồn mọi nỗ lực vào việc tìm kiếm hệ thống Siêu Toán học hình thức. Toán học như bị mất đi sức mạnh của chính nó.

Năm 1931, Định lý Bất toàn ra đời trong hoàn cảnh như vậy. Nó đã đạp đổ Chủ thuyết: “Chúng ta phải biết, chúng ta sẽ biết”. Nhưng thực sự, tại thời điểm đó và nhiều năm sau nó đã không gây sốc. Chỉ mới đây, Trong dịp lễ chào mừng thiên niên kỷ mới, tạp chí Time đã công bố danh sách 100 nhân vật vĩ đại nhất của thế kỷ 20. Kurt Gödel được đưa vào danh sách đó như là Nhà Toán học vĩ đại nhất. Năm 1965, trong thư gửi ngài bộ trưởng ngoại giao Áo Bruno Kreysky (sau này làm thủ tướng), nhà kinh tế học người Áo Oskar Morgenstern viết: “Chẳng còn gì để nghi ngờ rằng Gödel là nhà logic vĩ đại nhất đang còn sống, thật vậy, những nhà tư tưởng xuất chúng như Hermann Weyl và John Von Neumann đều đã tuyên bố Gödel rứt khoát phải là nhà logic vĩ đại nhất kể từ Leibniz, hoặc thậm chí kể từ Aristotle. Nhưng dường như trong toàn bộ lịch sử của Đại học Vienna, không có tên tuổi của một gương mặt nào từng giảng dạy ở đó lại bị che khuất như tên tuổi của Gödel… Có lần Einstein nói với tôi rằng công trình nghiên cứu riêng của ông không còn có ý nghĩa nhiều đối với ông nữa, và rằng ông đến Viện nghiên cứu đơn giản chỉ để có đặc ân được đi bộ về nhà cùng với Gödel mà thôi”.

Để cho mọi người có thể chiêm ngưỡng đỉnh núi sáng tạo thứ ba này, cũng cần phải nhắc đến công sức của những nhân vật lỗi lạc mà chủ yếu đều hoạt động trong lĩnh vực khoa học computer. Đầu tiên phải nhắc đến John von Newman, một nhà khoa học phi thường, một trong những ông tổ của khoa học computer tại Mỹ. Vốn là một cộng sự đắc lực trong Chương Trình Hilbert, khi biết Định Lý Gödel, Newman đã lập tức huỷ bỏ các bài giảng theo Chủ nghĩa Hình thức để thay thế bằng Định Lý Gödel. Cùng với những công trình của Alan Turing và Alonso Church, và sau này của Gregory Chaitin, giới khoa học computer càng ngày càng nhận thấy Định Lý Gödel có ý nghĩa lớn hơn rất nhiều so với trước đây người ta tưởng. Ý nghĩa ấy vượt ra khỏi phạm vi toán học, bao trùm lên hàng loạt ngành khoa học mũi nhọn trong xã hội hiện đại, đặc biệt là khoa học computer, và cuối cùng là ý nghĩa sâu xa về triết học nhận thức.

Mọi ca tụng không mang đến sự hùng vĩ của một ngọn núi. Ngọn núi hùng vĩ là bởi tầm cao của nó. Sức mạnh và sự hùng vĩ của Đỉnh núi sáng tạo thứ ba, Định lý Bất toàn là ở bản thân Nội dung của Định lý!
Định lý Bất toàn của Gödel được phát biểu bằng ngôn ngữ logic hình thức. Một ngôn ngữ rất khó hiểu đối với những người không chuyên ngành. Nó bao gồm hai Định lý. Cả hai đều chỉ ra rằng toán học về bản chất là bất toàn, là không đầy đủ; và nó luôn chứa đựng những mệnh đề không quyết định được (undecidable), tức những mệnh đề không thể chứng minh và cũng không thể bác bỏ.

Định lý 1: Nếu một lý thuyết dựa trên một hệ tiên đề phi mâu thuẫn thì trong lý thuyết ấy luôn luôn tồn tại những mệnh đề không thể chứng minh cũng không thể bác bỏ.
Định lý 2: Không tồn tại bất cứ một quy trình suy diễn nào cho phép chứng minh tính phi mâu thuẫn của một hệ tiên đề.

Thật không dễ hiểu. Có phải vì vậy mà nó đã không gây sốc.
Hãy xét mệnh đề sau, mệnh đề tự quy chiếu, mệnh đề nói về chính nó: “Mệnh đề này không có bất cứ một chứng minh nào!” Nếu mệnh đề này sai, suy ra phủ định của nó đúng, tức là nó có thể chứng minh được, nhưng kết luận này trái với nội dung của chính nó. Vậy buộc nó phải đúng, tức là không thể chứng minh được.
Thực ra, vào khoảng 600 năm trước Công nguyên, Nhà thơ kiêm triết gia cổ Hy Lạp là Epimenides ở xứ Cretan cũng đã nêu lên một mệnh đề tương tự. Mệnh đề về một kẻ tự nói về mình: “Ta là kẻ nói dối!”. Mệnh đề khuyến cáo các nhà thông thái về cái vòng logic luẩn quẩn của những mệnh đề tự nói về mình. Mệnh đề này đã đi vào lịch sử triết học, ngôn ngữ học, logic học với tên gọi “Nghịch lý Cretan” hay “Nghịch lý Epimenides”.

Toán học là hệ thống tự quy chiếu. Toán học đã dùng thuật toán để phán xét chính bản thân toán học! Hãy cảnh giác với điều này. Định lý 2 có thể nói rõ hơn như sau: Không thể kiểm tra tính Phi mâu thuẫn của một hệ thống A, nếu chỉ sử dụng những tiên đề của nó (hệ A). Bởi vì trong hệ A luôn tồn tại những mệnh đề không quyết định được. Muốn kiểm tra tính phi mâu thuẫn của hệ A, buộc phải đi ra ngoài hệ A để bổ sung thêm những tiên đề mới cho A. Khi đó ta có một hệ thống mới, gọi là hệ B. Trong hệ B, lại xuất hiện những mệnh đề mới không quyết định được. Quy trình đó cứ tiếp diễn mãi và rốt cuộc là chẳng bao giờ đi tới đích cuối cùng. Nó sẽ dẫn tới hệ C, hệ D,…

Ý nghĩa Triết học của Định lý còn đẹp Mạnh mẽ hơn rất nhiều. Nhà khoa học quý tộc Lapalace đã thật quá lãng mạn để nghĩ rằng Vũ trụ là Tất định. Nhưng ở buổi bình minh của Khoa học, sau hàng trăm năm u tối của thời Trung cổ, với những Thánh chiến đẫm máu, với những dàn hỏa thiêu bạo tàn,… những Nicolas Copernic, những Galilei Galileo đã dũng cảm để nói rằng Trái đất vẫn quay, Vũ trụ không phải do Chúa tạo nên. Để đi đến nhận thức: Con người có thể nhận biết được sự Tất định của Vũ trụ. Thì đó đã là cả một bước dài của Sáng tạo, và thực sự là vô cùng Lãng mạn. (Không lãng mạn làm sao bước được qua Thời Trung cổ? Lãng mại để vượt lên, lãng mạn để thủ tiêu bảo thủ và tiêu cực. Vào thời điểm đó Chủ nghĩa Lãng mạn còn bành trướng cả trong lĩnh vực Văn chương và Hội họa,…) Nhưng rồi để nhận thức rằng: “Chúng ta phải biết, chúng ta sẽ biết.” Như Hilbert, thì sự Lãng mạn đã chuyển sang Hình thức. Phải xây dựng lên một hệ thống Siêu Toán học, một hệ thống Toán học tuyệt đối siêu hình. Sự Hình thức đã quá đà, chuyển sang màu sắc Cực đoan. Làm sao có thể chứng minh được rằng: Vũ trụ này, Thế giới nhận thức này không chỉ Tất định mà còn nằm gọn trong các mệnh đề logic. Cực đoan và Ngớ ngẩn. Thế giới Nhận thức của Nhân loại, qua hàng ngàn năm, đã bao biến đổi và tiến hoá. Từ Cơ học của Newton, tới cơ học của Einstein, tới Cơ học Lượng tử, tới Lý thuyết Siêu Chuỗi,… Làm sao có thể khẳng định được Lý thuyết Siêu Chuỗi là lý thuyết của mọi lý thuyết. Làm sao có thể khẳng định Nhận thức của Nhân loại hôm nay là trọn vẹn rồi. Nếu Nhận thức của Nhân loại không tiến hoá nữa, thì đó là ngày của Nhân loại Tận thế.

Thế giới chân lý có thể chứng minh được quá nhỏ so với thế giới chân lý có thể nhận thức được. Nhưng thế giới chân lý nhận thức được lại quá nhỏ bé so với thế giới hiện thực. Phải chăng sẽ luôn vậy? Đây chính là vẻ đẹp Mạnh mẽ của Đỉnh núi sáng tạo thứ ba: Định lý Bất toàn.

Cái mạnh mẽ này, giống như câu chuyện về gót chân Achilles. Achilles con của Thetis, nữ thần biển, với vua Hy Lạp Peleus. Thetis là thần, nên bất tử. Vua Peleus là người trần nên cuộc sẽ kết thúc bằng một cái chết. Achilles cũng sẽ phải chết, không thể bất tử. Thetis không muốn điều đó. Khi sinh con, Thetis đã dốc ngược người cậu bé, hai ngón tay nắm giữ gót chân, rồi nhúng cả người cậu vào nước sông Styx. Achilles có mức mạnh vô song, cả người Achilles là mình đồng da sắt. Gươm, dáo và cung tên không thể làm gì được. Nhưng có một chỗ, một chỗ không phải là đồng, không phải là sắt, nơi gót chân. Đó là chỗ yếu nhất, vì tại đấy không được nhúng nước sông Styx. Achilles là chiến binh vĩ đại nhất của Hy Lạp trong trận chiến. Nhưng do mâu thuẫn với Agamemnon quanh việc giành một nữ tù binh, Achilles rời bỏ cuộc chiến. Khi quân Troia sắp đánh đuổi được quân Hi Lạp về nước, thì bạn thân của Achilles là Patroclus bị Hector giết chết. Achilles tức giận quay lại trận chiến trả thù cho Hector. Thành Troia thất thủ. Sau đó Achilles tiếp tục lập nhiều chiến công cho quân Hy Lạp. Achilles giết 7 người con của vua Priam, giết nữ hoàng Amazon Penthesilea. Nhưng cuối cùng do thái độ nhục mạ thần Apollo nên bị thần hướng mũi tên của Paris vào gót chân, nơi duy nhất trên cơ thể Achilles có thể bị tổn thương. Achilles gục xuống chết. Dù mình đồng da sắt, dù đã bất bại trong tất cả các cuộc chiến trước đó. Achilles đã chết bởi mũi tên của Paris. Achilles đã chết vì gót chân của mình. Achilles biết được điểm yếu gót chân của mình, Achilles sẽ mạnh hơn rất nhiều. Nhưng sẽ chỉ là mạnh nhất, khi biết rằng gót chân của mình, điểm yếu đó là đương nhiên tồn tại. Không thể nào, và không bao giờ có thể khắc phục được. Chỉ khi đó mới là mạnh mẽ nhất.
Và chính Gödel đã nói: “Ý nghĩa của cuộc sống là ở chỗ biết phân biệt ước muốn với hiện thực”! Gödel đã nói về cái đẹp Mạnh mẽ (nhất).

3
Sự mạnh mẽ không bao giờ thủ tiêu sự lãng mạn. Không bao giờ là như vậy. Có mạnh mẽ, lãng mạn sẽ lớn hơn, cao hơn, sâu sắc hơn. Vũ trụ không Tất định, Vũ trụ có những điều không thể Hiểu. Nhận thức đó là mạnh mẽ. Nhận thức đó làm cho Vũ trụ đẹp hơn, hấp dẫn hơn và lãng mạn hơn. Đòi hỏi con đường Nhận thức đi tìm Chân lý phải có những cuộc cách mạng, phải có những bước nhảy. Phía trước có nhiều những dòng sông cần phải bước qua. Bước qua, phải bước qua những dòng sông, Thế giới Nhận thức có một tầm vóc mới, Thế giới Hiện thực và Chân lý có những tín hiệu mới. Bước qua, chuyển sang một hệ thống khác, đứng trên một hệ quy chiếu khác, thì có thể gần tới được những điều cần Hiểu, những điều cần Biết, có thể gần tới được Chân lý.

Có phải chăng, phải bước qua Hệ quy chiếu Einstein, phải bước qua Hệ quy chiếu về các Chiều Không gian con bị xoắn, phải bước qua Hệ quy chiếu về Không Thời gian Đa chiều;… Phải bước qua Khoa học; phải phải bước sang Tôn giáo; phải bước vào Hệ quy chiếu Tâm Linh, Con người có thể tới gần được Chân lý?
Tôi nhận thức được vẻ đẹp lãng mạn của Nguyên lý Bất định, tôi nhận thức được sức mạnh đẹp đẽ của Định lý Bất toàn là ở đây, là chính ở lằn ranh này!

4
Giống như một đồng tiền, cuộc sống của Nhân loại có hai mặt. Một mặt là Khoa học và Triết học. Một mặt là Tôn giáo. Hai mặt này không đối lập, không chống đối, nhưng không thể là như nhau. Cùng phục vụ Con người, những chúng rất khác nhau.

Khoa học và Triết học là thế giới của Trí thức và Trí tuệ. Khoa học và Triết học nghiên cứu cái bên ngoài của Con người, là Vạn vật, là Vũ trụ, là quy luật Tự nhiên, là các quy luật Xã hội, là các quy luật Kinh tế,… Nó nghiên cứu chuyển động các vì sao, chuyển động các giải Ngân hà, tương tác giữa chúng,… Nó nghiên cứu về cấu tạo cơ bản của Vật chất, về nguyên tử, về các hạt, về các Lực trong Tự nhiên… Nó nghiên cứu về Con người, về Tâm lý, về Cơ chế hoạt động của các hệ thống trong cơ thể, về sự hoạt động của Não bộ, về cấu trúc của gen… Nó nghiên cứu về các mô hình tập thể: Chính phủ, Thể chế xã hội. Nó nghiên cứu về các quy luật phát triển Xã hội, các quy luật phát triển Kinh tế của Tập đoàn, của Quốc gia, của Khu vực, của toàn Thế giới,… Triết học cũng vậy, ngay cả Triết học Hiện sinh, một bước nhảy vĩ đại của lịch sử Triết học Thế giới: lấy Con người là Trung tâm của Vũ trụ, Con người là Chủ thể. Con người Chủ thể đó, cũng là sự phóng chiếu của Thực tại Vũ trụ vào Con người mà thôi. Tất cả, tất cả các ngành Khoa học và Triết học là tập trung nghiên cứu cái bên ngoài của Con người. Tôn giáo ngược lại. Tôn giáo thuộc về Tâm linh. Tông giáo không chỉ quan tâm cái bên ngoài. Tôn giáo là đi sâu vào cái bên trong. Tôn giáo đưa con người vào cái Tĩnh lặng sâu thẳm. Tôn giáo đưa con người tới sự Phúc lạc toàn phần và Vĩnh viễn. Đó chỉ có thể là con đường đi vào bên trong.

Khoa học và Triết học là thế giới của Trí thức và Trí tuệ. Khoa học là logic, là phân tích, là lý luận, là chứng cứ. Cả Khoa học và Triết học đều dùng chung một phương pháp đó là Logic. Không logic Khoa học không thừa nhận. Logic là cơ sở của mọi Lý thuyết; có logic các phương trình mới xác định được nghiệm, ngay cả khi xác định Vô nghiệm. Không logic Triết học không thừa nhận. Phép Biện chứng được Georg Wilheim Friedrich Hegel tìm ra, như một bước nhảy vĩ đại trong lịch sử của Triết học. Không có phép Biện chứng, Triết học không có sức sống, không có màu sắc. Karl Marx lấy cái Biện chứng của Hegel ghép vào trong Duy vật. Khoa học và Triết học phải là logic. Tôn giáo thuộc về Tâm linh. Tôn giáo là chủ quan. Sự Chứng ngộ không thể nào khái quát được bằng công thức, bằng phương trinh, ngay cả bằng ngôn ngữ. Không thể, không bao giờ có thể giải thích và chứng minh được. Khoa học và Triết học vận hành bởi cái Đầu, bằng Bộ óc. Tôn giáo vận hành bởi Trái Tim, bằng Tình yêu. Trái tim và Tình yêu luôn có bước nhảy, nó không bao giờ tuần tự, nó luôn là nghịc lý, nó là Phi logic. Tôn giáo là Phi logic.

Khoa học và Triết học là thế giới của Trí thức và Trí tuệ. Lý thuyết, mệnh đề, phương trình, toán tử, tích phân, đạo hàm, xấp xỉ, gần đúng,… có nghiệm hay vô nghiệm,… tất cả những điều này là quan trọng. Nhưng nó không phải là cuối cùng. Không phải là cuối cùng, dù đã rất logic. Điều cuối cùng phải là Thực nghiệm, phải là Thực tế. Phải có Thực nghiệm, phải có Thực tế kiểm tra Khoa học mới công nhận. Triết học là đi tìm Chân lý của thực tại, bằng con đường khách quan. Khoa học và Triết học là khách quan. Tôn giáo là chủ quan. Nó hoàn toàn là kinh nghiệm cá nhân, là chủ quan, là duy nhất theo một cách nào đó. Phật Gautama đạt Chứng ngộ không chỉ vì Ngài từ bỏ ngài vàng, quyền lực, giàu sang, cung tần mỹ nữ… Phật Gautama Chứng ngộ chỉ khi Ngài có sự từ bỏ lớn lao: từ bỏ tìm kiếm. Jesus Christ Chứng ngộ bằng Tình yêu vĩ đại. Tôn giáo là như vậy. Tôn giáo là Chủ quan. Mỗi một Con người đi tới Chân lý bằng con đường của mình.

Khoa học và Triết học là trò chơi của Trí tuệ, nó đi tìm Chân lý để HIỂU. Tôn giáo không phải là như vậy. Tôn giáo đi sâu và bên trong của Con người. Tôn giáo hoà nhập cái bản thể của Con người vào cái Toàn thể của Vũ trụ. Tôn giáo là đi tìm Chân lý để BIẾT. Cái không biết, thì đi tìm để hiểu. Con người thông thuờng chỉ đi tìm để hiểu những điều không biết. Con người không thể trải nghiệm được chuyển động của các hạt cơ bản trong thế giới Hạ nguyên tử. Cũng như con người không thể trải nghiệm được chuyển động của các vì sao trong giải Ngân hà. Nhưng tất cả những điều đó, con người có thể hiểu qua Thuyết Tương đối, qua việc bắn các chùm hạt, qua việc giải các phương trình trong Lý thuyết Chuỗi… Cái đã biết thì không cần hiểu nữa. Trải nghiệm rồi, biết được mọi góc cạnh, biết được mọi chiều kích, biết được mọi cung bậc, biết được mọi màu sắc, biết được mọi hương vị,… biết Tất cả, không còn phân biệt, vậy thì đầu cần gì phải hiểu nữa! Hiểu và Biết khác nhau như vậy.

Đó là sự khác nhau giữa Khoa học, Triết học với Tôn giáo. Không thể so sánh Khoa học, Triết học với Tôn giáo. Nó là hai cấp độ khác nhau. Có thể so sánh những Galileo Galilie, Isaac Newton, Alber Einstein, Ernest Rutherford, Niels Bohr, James Chadwick, Werner Heisenberg, Kurt Gödel và Stephen Hawking,… Với những Aristote, Descartes, Kant, Hegel, Jean-Paul Sartre và Albert Camus,… Có thể so sánh họ với nhau. Nhưng không thể so sánh từng người họ, không thể so sánh toàn thể họ với Phật Gautama, với Jesus Christ,… Những Nhà Khoa học, những Nhà Triết học với Phật Gautama và Jusus Christ là hai cấp độ khác nhau. Không thể so sánh họ với Phật Gautama và Jusus Christ được. Không thể được.

Không thể lấy ngôn ngữ của Khoa học, Triết học đi phân tích, đi chứng minh, đi giải thích,… Tôn giáo. Không nên, vì đó là không thể. Ngôn ngữ, mệnh đề, công thức, toán tử và phương trình làm sao có thể giải thích được cái Tĩnh lặng tuyệt đối? Làm sao có thể phân tích được sự Chứng ngộ Linh thiêng? Phật Gautama đã nhiều lần im lặng. Ngài đã im lặng và không nói câu trả lời. Ngôn từ của Con người và những công cụ của Trí tuệ, những phương trình, những toán tử, những đạo hàm và những tích phân,… làm sao, làm sao có thể diễn tả được cái vô cùng của Vũ trụ. Làm sao có thể diễn tả được cấu trúc của Linh hồn… Phật Gautama đã im lặng. Xin đừng dùng logic, xin đừng dùng Lý thuyết Tập hợp, xin đừng dùng khái niệm Tập Mờ,… để giải thích. Mọi lý thuyết đều màu xám! David Hilbert, Pierre Simon de Laplace đã thực sự thoái vị rồi.

Không Chứng minh được, nhưng có thể tìm thấy sự tương đồng giữa Khoa học, Triết học với Tôn giáo. Có thể ở những chiều kích khác nhau, có thể ở những tầng không gian khác nhau, nhưng Khoa học, Triết học và Tôn giáo đang thể cùng tồn tại trong Vũ trụ. Sẽ có những tương đồng, sẽ cùng được chi phối bởi một số những quy luật chung. Đó là điều có thể.

5
Phải bước qua, phải bước qua Khoa học, phải bước sang Tôn giáo bằng Tình yêu và Sự Tin cậy.
Phải có Tình yêu, phải có Tình yêu con người mới có thể Biết được Chân lý bằng con đường Tôn giáo. Đó là điều kiện cần. Tin cậy là điều kiện đủ.
Hãy bắt đầu với Tình yêu bằng sự ngợi ca của Johann Wolfgang von Goethe qua vần Thơ nổi tiếng:
“Mọi lý thuyết đều màu xám,
Chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi”
Thực ra trước đó, hơn một ngàn năm trước, khi có người hỏi: “Ngài có thể cho tôi một lời nói, mà nó bao hàm toàn bộ những luật lệ?” Thánh Aurieliu Augustine, nhà triết học và thần học đầu tiên của Thiên chúa giáo, đã trả lời:
“Tình yêu, nếu bạn đã Yêu thì bất kỹ điều gì bạn làm sẽ đúng hết!”
Luật là sơ bộ, là nguyên thuỷ. Tình yêu là đỉnh cao tột đỉnh của mọi luật lệ và lề thói.
Christ không phải tên của con người cụ thể nào cả, nó biểu tượng cho trạng thái tối thượng của tâm thức. Christ không phải là tiếng Do Thái hoặc Xiri, nó xuất phát từ tiếng Sanskrit. Jesus chỉ là người của những Christ. Christ là người thức tỉnh, nó tương đương với Phật. Prem Christ sẽ có nghĩa là tình yêu tối thượng, trạng thái tối thượng của Tâm thức. Đó chính là đóng góp to lớn của Jesus Christ cho tâm thức của loài người. Con người có thể tự do khỏi mọi phép tắc và luật lệ, và chỉ một phép tắc là đủ: Tình yêu. Jesus nói: “Thượng đế là Tình yêu“.

Các nhà nghiên cứu về Tôn giáo nói rằng có ba con đường dẫn tới Chân lý, đưa tới sự Chứng Ngộ. Đó là con đường Chứng kiến, con đường Phi lựa chọn và con đường của Tình yêu. Con đường Phi lựa chọn là con đường của Lão Tử. Hãy không có bất kỳ lựa chọn nào. Hãy bình thản chấp nhận mọi thứ, khi chúng đến cũng như khi chúng đi. Hãy không có bất kỳ nỗ lực nào, cho bất cứ một mục tiêu nào. Không có quá khứ. Không có tương lai. Ngay Bây giờ và ngay tại đây. Tận hưởng từng khoảng khắc với Tự nhiên. Phi lựa chọn, để hoà vào Tự nhiên, để đồng nhất với Vũ trụ. Đó là con đường của Lão tử. Con đường Chứng kiến là con đường của Phật Gautama. Từ bi, Từ bi và Từ bi để Vô ngã. Vô ngã, Vô ngã và Vô ngã để Chứng kiến. Chứng kiến thân vật lý, Chứng kiến Tâm trí và Chứng kiến Tối thượng. Chứng kiến Tối thượng là Nhận biết Tâm thức. Khi Nhận biết được Tâm thức, con người trở thành Người Tỉnh thức, trở thành Vị Phật. Cả hai con đường này, càng lên cao Tình yêu càng tràn đầy. Tình yêu không tràn đầy, là sao mà vô vi được, làm sao mà Phi lựa chọn được. Tình yêu không tràn đầy, làm sao mà Từ bi được, làm sao mà Vô ngã được, làm sao mà Chứng kiến được. Tại đỉnh cao nhất, con người hoà vào Tự nhiên, đồng nhất với Vũ trụ. Tại đỉnh cao nhất, không còn phân chia, không còn tách biệt, tất cả là thuần khiết. Tình yêu thuần khiết. Tình yêu thuần khiết tràn đầy, Hoa Từ bi bừng nở và tỏa hương. Con người bước vào Niết bàn, con người thành Phật, con người thành Thượng đế.

Vâng tất cả là Tình yêu.

6
Điều thứ hai: Tin cậy. Đó là điều kiện đủ. Tình yêu là điều kiện cần, Tin cậy là điều kiện đủ, để con người có thể biết được Chân lý bằng con đường Tôn giáo.

Cần lưu ý rằng Tin cậy rất khác, khác nhiều so với Tin tưởng, Đức tin và Sùng kính.

Nhiều Phật tử Tin tưởng rằng có Niết bàn, vì đó là lời của Phật, lời của các bậc thầy. Có Niết bàn là điều đương nhiên, vì Phật nói có, vì Kinh sách nói có. Đó là điều không thể không có được, vì các Chư Phật đang trên đó. Đó chính là Tin tưởng. Có một chút mù quáng. Vì có một chút mù quáng nên đằng sau nó sẽ là Hoài nghi. Tin tưởng và Hoài nghi là cặp đối ngẫu nhị nguyên của nhau, luôn không tách rời. Trong Tin tưởng luôn có Hoài nghi, nó nằm ở bên trong sự Tin tưởng. Với Đức tin; một tin đồ không cần biết có Niết bàn hay không, Thiên đường hay không, bởi lẽ người đó luôn có Đức tin vào vị Giáo chủ của mình. Điều Giáo chủ nói là Chân lý. Giáo chủ nói có Niết bàn, Niết bàn đương nhiên có, không thể thay đổi. Trong Đức tin đó, có Tình yêu đấy, nhưng mù quáng ngập tràn. Đấy là sự khác nhau giữa Tin cậy với Tin tưởng và Đức tin. Với Sùng kính, kính trọng có đấy, nhưng sùng bái có đấy. Người Trung Hoa rất sùng kính. Thời cổ đại, thời cận đại và thời hiện đại họ sùng kính các lãnh tụ của mình. Họ sùng kính Khổng tử, bậc thày của họ, dạy họ cách để thành công, dạy họ “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Khổng tử đã dạy họ không phải vào trong mà đi ra ngoài. Đi ra ngoài để trị quốc, đi ra ngoài để bình thiên hạ. Đi ra ngoài để được lợi, được danh. Thế kỷ thứ hai mốt, trong phim ảnh của lục địa, của Hongkong, của Taiwan, đệ tử của Khổng giáo thuờng nói câu: “Cung kính không bằng tuân lệnh”. Nó đã tồn tại ở cả ngoài phim ảnh, trong xã hội, như một tiểu tư tưởng. Đó chính là một kiểu của sùng kính. Tin cậy không phải là như vậy. Kinh sách viết, Phật dạy Niết bàn là nơi Con người đã buông bỏ được hết những vướng mắc cuộc đời; được hưởng hoàn toàn Phúc lạc. Người Phật tử Tin cậy vào điều đó. Họ tin vào điều đó. Khi nói với người khác, họ nói rằng: có lẽ Niết bàn là…, phải chăng Niết bàn là… Đó không phải là Hoài nghi. Họ không bao giờ khẳng định Niết bàn như thế nào, vì một điều đơn giản, họ chưa biết, họ chưa tới; nên họ nói vậy. Nhưng họ luôn tin về sự tồn tại. Đó là thái độ khách quan, đó là thái độ nghiêm túc, thái độ tự chủ. Nhưng họ có niềm tin về sự tồn tại. Đó là Tin cậy.

Tin cậy là mãi mãi. Sự Tin cậy là luôn không tăng, luôn không giảm. Niết bàn không tới trong cuộc đời này, sự Tin cậy cũng không suy giảm; có một tia sáng loé lên, tưởng như Niết bàn ở trước mặt, sự Tin cật cũng không gia tăng. Trong quá khứ họ đã Tin cậy, nhưng điều đó không xảy ra, trong hiện tại họ vẫn Tin cậy, trong tương lai điều đó vẫn không xảy ra, không hề gì, không có suy giảm niềm tin, họ vẫn luôn Tin cật. Họ luôn Tin cậy là có sự tồn tại và nó đã chưa tới. Họ luôn sống khách quan, nghiêm túc và tự chủ; nên trong cuộc sống Tâm linh của họ Hoan hỷ và Phúc lạc đã nhiều lần đến với họ. Nên Niết bàn chưa tới là không sao. Niết bàn tới là một điều đẹp đẽ và linh thiêng; hoan hỷ đón chào. Khi Tin cậy Niết bàn tồn tại, họ đã có Niết bàn ở trong Trái tim rồi. Đó là phẩm chất của Tin cậy. Nhưng với người Tin tưởng thì khác đấy, lâu quá, phức tạp quá, gian khổ quá,… niềm hy vọng không thấy đâu, Niết bàn xa xôi qua, chắc chắn Hoài nghi sẽ tới. Người Đức tin, thì không chỉ Hoài nghi tới, mà thất vọng sẽ tới, và sẽ tới tràn trề. Người Sùng kính không thể là mãi mãi, vì họ đã đánh mất sự khách quan và tự chủ của bản thân mình. Niềm tin của người Sùng kính theo niềm tin của người được Sùng kính.

Trong Tin cậy luôn có Tình yêu bền vững. Trong Đức tin có nhiều Tình yêu, vì quá Yêu, quá mê say mà tạo nên Đức tin. Nên trong Đức tin có Tình yêu đấy, nhưng cũng tràn đầy mù quáng. Đổ vỡ Thần tượng, đổ vỡ Đức tin là điều thường xảy ra. Khi đổ vỡ thì Tình yêu cũng hết, Tình yêu ra đi thì Thù hận kéo tới. Người Sùng kính có Tình yêu đấy, họ yêu niềm tin, họ yêu đối tượng, nhưng họ thiếu Yêu bản thể của mình. Cái gốc của tình yêu không có. Yêu bản thể mình, mới là cái gốc của mọi tình yêu. Sùng kính quá, họ quên mất yêu bản thân mình. Trong Tin tưởng rất thiếu Tình yêu, vì người ta Tin tưởng bằng cái đầu chứ người ta không Tin tưởng bằng Trái tim. Cái đầu, tư duy logic ra quyết định. Bởi vì lý do thế này, bởi vì các bậc thày đã chứng nghiệm điều đó, bởi vì lý do đưa tới thế kia,… Họ đã kiểm nghiệm nhiều thông tin, nhiều chứng cứ nên họ Tin tưởng. Dù chả có chứng cứ nào là của họ, nhưng họ vẫn Tin tưởng. Đó là điều thứ nhất, họ đã mất khách quan, mất tự chủ và họ đã thiếu nghiêm túc với Bản thân mình, họ đã chạy theo những lý lẽ, những biện luận. Điều thứ hai, to lớn hơn rất nhiều họ đã thiếu Tình yêu trong sự Tin tưởng đó; vì đơn giản nó bắt đầu đến từ cái đầu, chứ không phải đã đến từ Trái tim. Người Tin cậy họ khách quan, nghiêm túc và họ tự chủ; nhưng họ còn có Tình yêu vào niềm tin đó. Họ không đắm say, họ không si mê. Nhưng họ đã Yêu, yêu như tất cả những điều thân thiết và quen thuộc, dường như đã thường xuyên ở bên họ. Họ đã yêu như yêu dòng sông của tuổi thơ, như yêu ánh Bình minh phía chân trời của buổi sớm mai thuở cắp sách tới trường, như yêu về Tình bạn bè của mái trường xưa,… Và trên hết cả, họ đã yêu chính bản thể của họ nhiều nhất. Tình yêu bản thể tràn đầy, đã lan toả sang các đối tượng yêu khác. Đó là cách họ Yêu Chân lý. Biết nó chưa tới, sống với sự Tin cậy nó sẽ tới và Yêu cả khi nó chưa tới như sự thiếu vắng ngọt ngào. Họ Tin cậy vào Chân lý và họ Yêu Chân lý theo cách như vậy.
Xin hãy luôn Tin cậy và Tinh yêu thuần khiết tràn đầy, để cùng nhau đi sâu vào bên trong bản thân mình, để bước trên con đường tới Chân lý.

Xin bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả những Tác giả và Dịch giả của các bài viết, bài nói mà chúng tôi đã sử dụng để làm tư liệu và cảm xúc để viết bài này; xin chân thành hồi hướng công đức nhỏ bé của mình tới Quý vi. Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam mô Chứng minh sư Bồ Tát Ma ha tát.

Salisbury, ngày 9/7/2012

Cư sĩ Minh Đạt


Sửa bởi pth77: 23/07/2014 - 04:14


Thanked by 2 Members:

#124 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 24/07/2014 - 03:48

Quá trình chiếm hữu và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa - Thực tế, không gián đoạn, hòa bình và minh bạch

05-06-2014

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Hồ Sĩ Quý*

I. Ít nhất, từ thế kỷ XVII, Hoàng Sa không phải là lãnh thổ vô chủ (Terra Nullius)

Sử sách Trung Hoa suốt từ các đời Tần, Hán đến tận sau Thế chiến thứ II, không có tài liệu nào xác nhận, Biển Đông với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc (Biển Đông được người Trung Quốc và giới hàng hải gọi là中国南海 Trung Quốc Nam Hải, 花南Hoa Nam, South China Sea, người Philippines từ 2012 gọi là biển Tây Philippines, West Philippine Sea; quần đảo Hoàng Sa được người Trung Quốc gọi là西沙Tây Sa, tiếng Anh: Paracels và Trường Sa người Trung Quốc được gọi là 南沙 Nam Sa, tiếng Anh: Spratlys). Trong khi đó, không ít thư tịch cổ Trung Hoa, do chính người Trung Hoa viết lại đã thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Na

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.


Phía Trung Quốc thường tuyên truyền chủ quyền của họ đối với Biển Đông có từ hơn 2000 năm trước. Nhưng những chứng cứ chủ yếu lại chỉ là những ghi chép của người đương thời và người đời sau về các con đường hàng hải từ Trung Quốc ra nước ngoài, các hoạt động thám hiểm, buôn bán, đánh cá... và qua đó có ghi chép về địa lý, lịch sử, phong tục… ở các vùng mà những người chứng kiến đã đi qua. Cũng có tài liệu nói người đánh cá Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam và các nước khác khi buôn bán, đánh cá hoặc gặp thiên tai trên biển… đã từng sống trên các đảo tuỳ theo mùa vụ, nhưng cụ thể từ khi nào và mùa vụ là bao nhiêu lâu thì chưa thấy tài liệu nào ghi chép thật rõ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

, và chỉ riêng điều đó thì cũng không có ý nghĩa về mặt chủ quyền. Ở đây các nhà nghiên cứu đôi khi thường bắt gặp có sự nhầm lẫn hoặc cố tình nhầm lẫn của những người làm sử thiếu khách quan. Theo luật pháp quốc tế, việc thực thi chủ quyền và quyền chủ quyền trên các vùng biển đảo, ngày nay, không phụ thuộc vào việc phát hiện, thám hiểm hay thực thi buôn bán, làm ăn trên biển. Cũng không phụ thuộc vào sự hiểu biết của người quan sát về biển đảo. Từ thế kỷ thứ VIII, người Bắc Âu, Hà Lan, Tây Ban Nha, Anh… đã có tiếng là những Viking

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

gồm những nhà thám hiểm, nhà buôn, chiến binh, và cả những hải tặc đã tung hoành trên nhiều vùng biển của địa cầu. Những ghi chép của người Anglo-Saxon về hải dương từ lâu đã là nguồn tra cứu phong phú và quý giá của nhân loại. Tiếp theo là những người Ấn Độ, Trung Quốc, Philippines, Việt Nam… cũng có mặt ở nhiều vùng trên Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Phương Đông không có các Viking, ít các nhà thám hiểm nên người phương Đông có mặt trên biển chủ yếu là buôn bán, làm ăn, đánh cá...


Gần đây, phía Trung Quốc còn đưa thêm nhà thám hiểm người Hồi là Trịnh Hòa vào hồ sơ tranh chấp biển đảo. Nhưng thực ra Trịnh Hòa chỉ đi ngang qua Biển Đông và các ghi chép về 7 chuyến đi của ông cũng không thấy nói gì đến Hoàng Sa, Trường Sa: Từ năm 1405-1433, Minh Thành Tổ cử Đô đốc Thái giám Trịnh Hòa chỉ huy đoàn thám hiểm “hạ Tây dương” 7 lần đến Ấn Độ Dương và Biển Ả Rập nhằm thiết lập bang giao với trên 30 quốc gia duyên hải, triển khai Con đường Tơ lụa trên biển tại Ấn Độ, Phi Châu và Trung Đông. Những chuyến hải hành của Trịnh Hòa trên thực tế không hề dừng ở Biển Đông. Trạm trú chân duy nhất của đoàn trong khu vực này là Đồ Bàn (Chaban) thủ phủ Chiêm Thành bấy giờ. Sau khi Minh Thành Tổ mất, triều Minh đã phê phán những cuộc hải trình này chỉ là phô diễn và làm suy yếu kinh tế quốc gia.

Trên thực tế, từ nhiều thế kỷ nay, nguyên tắc “quyền phát hiện” và nguyên tắc “chủ quyền lịch sử” đã không còn phù hợp và đã bị thay thế. Nghĩa là, nếu giả sử luật pháp quốc tế vẫn còn căn cứ vào luận thuyết chủ quyền lịch sử hay sự phát hiện biển đảo để xác định chủ quyền thì quyền chiếm hữu và sở hữu các châu lục ngày nay hầu hết đã thuộc về các Viking, các nhà thám hiểm hoặc các tay cướp biển Tây Âu.

Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được các triều đại phong kiến Việt Nam thực thi từ rất sớm. Có tài liệu nói từ thế kỷ XV. Nhưng rõ nhất là từ đầu thế kỷ XVII đến tận năm 1932, khi Pháp chính thức tuyên bố kế thừa và tiếp tục chủ quyền tại hai quần đảo này, các triều đại phong kiến Việt Nam đều đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền thực tế đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Quá trình này diễn ra một cách liên tục, với những hoạt động kinh tế - xã hội rất hòa bình và lúc đó cũng chưa hề có tranh chấp

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Về mặt pháp lý, ít nhất từ thế kỷ XVII, Hoàng Sa đã không còn là lãnh thổ vô chủ nữa (Terra Nullius).


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Năm 1698, Hoàng Sa trở nên nổi tiếng trong các biên niên sử hàng hải với vụ đắm tàu Amphitrite dưới thời vua Louis XIV khi đi từ Pháp sang Trung Quốc.

Năm 1753, 10 người lính của Đội Bắc Hải đã có mặt ở quần đảo Hoàng Sa. 8 người lên đảo, còn 2 người ở lại canh thuyền. Một cơn bão ập tới và thuyền bị trôi dạt đến tận cảng Thanh Lan của Trung Quốc. Chính quyền Trung Hoa lúc đó cho điều tra, và khi biết các sự kiện, đã trả 2 người lính về Việt Nam. Lê Quý Đôn viết: “Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan chính đường huyện Văn Xương Quỳnh Châu gửi cho Thuận Hóa nói rằng, năm Càn Long thứ 18 (1753), có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh tổng Cát Liềm huyện Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam, một ngày tháng 7 đến Trường Sa tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để 2 tên giữ thuyền, bị gió đứt dây thuyền, giạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đấy xét thực, đưa trả về nguyên quán...”

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Sự kiện này cũng là một dấu hiệu về việc người Trung Quốc không coi Hoàng Sa là của mình.


Năm 1816, vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo Hoàng Sa, ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thuỷ trình. Khâm sứ Pháp tại Đông Dương Jules Brevie đã ra lệnh thành lập cơ quan hành chính quản lý quần đảo Hoàng Sa và cho dựng trên quần đảo một tấm bia có dòng chữ “Cộng hòa Pháp - Vương quốc An Nam - quần đảo Hoàng Sa, 1816”

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.


Năm 1835, vua Minh Mạng cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc và trồng cây. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được trao nhiệm vụ khai thác, tuần tiễu, thu thuế trên đảo, và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ hai quần đảo. Hai đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi người Pháp vào Đông Dương. Từ đó đến năm 1847-1848, việc quản lý hành chính các đảo này được triều Nguyễn duy trì nhằm giúp đỡ các cuộc hải trình và cũng để thu thuế ngư dân trong vùng

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.


II. Nước Pháp công nhận việc thực thi chủ quyền của các triều đại phong kiến Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và chịu trách nhiệm kế thừa

Năm 1884, Hiệp ước Huế áp đặt chế độ thuộc địa. Ngày 9/6/1885: Hiệp ước Pháp – Thanh tại Thiên Tân chấm dứt xung đột giữa Pháp Thanh; Việt Nam vĩnh viễn thoát khỏi chế độ phên thuộc. Ngày 26/6/1887, Hiệp ước Pháp – Thanh ấn định biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa. Nghĩa là từ đây, mọi tuyên bố hay hành vi của Pháp về Hoàng Sa, Trường Sa, được hiểu là và trên thực tế là, đại diện cho Việt Nam, của Việt Nam.

Năm 1895 con tàu La Bellona và năm 1896 con tàu Imeji Maru bị đắm gần Hoàng Sa. Những người đánh cá ở Hải Nam đến thu lượm đồng từ hai chiếc tàu đắm này. Các công ty bảo hiểm của hai con tàu này phản đối chính quyền Trung Hoa. Chính quyền Trung Hoa trả lời là không chịu trách nhiệm, lấy lý do là Hoàng Sa không phải là lãnh thổ của Trung Hoa, cũng không phải là lãnh thổ Việt Nam.

Năm 1899, Toàn quyền Paul Doumer đề nghị chính phủ Pháp xây ngọn hải đăng nhưng việc này không thành vì lý do tài chính.

Vào năm 1909, Tổng đốc Lưỡng Quảng ra lệnh cho đô đốc Lý Chuẩn đổ bộ lên quần đảo Hoàng Sa. Cuộc đổ bộ khoảng không quá 24 giờ. Họ kéo cờ và bắn súng để biểu thị chủ quyền của Trung Quốc. Sự kiện này không gây ra phản ứng gì của các nước, kể cả nước Pháp đại diện cho An Nam vì cho rằng đó chỉ là một nghi thức hải quân nhân chuyến thám sát đảo xa. Sự kiện này cũng làm lộ ra mâu thuẫn trong lập luận của Trung Quốc. Nếu quần đảo Hoàng Sa đã được Trung Quốc chiếm cứ thực sự từ lâu, thì tại sao Lý Chuẩn lại không biết điều này và hành xử với tư cách là người lần đầu tiên phát hiện ra quần đảo.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Năm 1920, một công ty Nhật Bản là Mitsui Busan Kaisha xin phép Pháp khai thác quần đảo Hoàng Sa, Pháp từ chối. Cũng bắt đầu năm 1920, Pháp kiểm soát quan thuế và tuần tiễu trên đảo.

Ngày 8/3/1921, Toàn quyền Đông Dương tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Pháp. Nhưng ngày 30/3/1921, Tổng đốc Lưỡng Quảng tuyên bố sát nhập Hoàng Sa với Hải Nam, Pháp lại không phản đối. Ngay sau đó các nhà nghiên cứu và hoạt động xã hội người Pháp ở Hà Nội đã chỉ trích Toàn quyền Đông dương về thái độ này. Công đầu trong việc này là tờ tuần báo “Thức tỉnh kinh tế Đông Dương” (L’Éveil Économique de l’Indochine).


Tuần báo L’Éveil Économique de l’Indochine ra số đầu tiên vào thứ bảy, ngày 16/6/1917 và số cuối cùng vào năm 1934. Người sáng lập, là Chủ bút và cũng là tác giả của nhiều bài viết trong tuần báo này là Henri Cucheroussset (1879 – 1934, ông qua đời tại Hà Nội và cũng là người đặc biệt yêu mến Hoàng Sa, chiến đấu không mệt mỏi cho chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa). Trong 835 số tuần báo, Chính phủ Pháp và An Nam đã triệt để giải quyết tranh chấp Hoàng Sa với chính quyền Quảng Đông (lúc đó ly khai khỏi Trung Quốc và cũng không được Trung Quốc và các nước khác thừa nhận). Ông Henri Cucheroussset đã đưa vấn đề ra Thượng viện và Hạ viện Pháp, vì lý do Toàn quyền Đông dương ở Hà Nội không đủ nỗ lực quan tâm đến vấn đề. Trên tờ tạp chí này, các sự kiện sau đây đã được phản ánh:
  • Các đề nghị đối với chính quyền bảo hộ: Đặt trạm hải đăng, trạm khí tượng, trạm phát sóng cực ngắn, các phao đèn và cọc tiêu, vẽ các bản đồ quần đảo Hoàng Sa: tỷ lệ 1:200.000, & 1 : 25.000; Xây dựng cảng cá và tổ chức nơi trú ẩn cho ngư dân, phát triển công nghiệp cá, phát triển các tầu đánh cá có thể đánh bắt xa bờ từ 2 đến 300 km; Thiết lập hệ thống hành chính trên hai quần đảo và cần thiết có quân đội thường trú bảo vệ và tuần tra khu vực

    Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

    .

  • Trách nhiệm của nước Pháp và các quan chức Pháp tại Đông Dương: Tác giả trách cứ một số quan chức Đông Dương vô trách nhiệm đối với chủ quyền quần đảo Hoàng Sa như Ông Monguillot (Thống sứ Bắc Kỳ, có lúc được cử làm quyền Toàn quyền Đông Dương), Trung tá Rémy hạm trưởng Hải quân Pháp tại Sài Gòn và đặc biệt là ông Toàn quyền Pière Pasquier. Và nhờ đó, các chính khách đã quan tâm đến vấn đề quần đảo Hoàng Sa như Thượng nghị sĩ Albert Sarraut, Nghị sĩ Ernest Outrey, Thượng nghị sĩ Bergeon … và đề nghị tổ chức một hội nghị về quần đảo này tại Luxembourg (Thượng nghị viện Pháp) và lâu đài Bourbon (Hạ nghị viện Pháp).
  • Vỉa phốt phát có diện tích khoảng 4 triệu m2 có độ dầy trung bình 2m, tức 8 triệu m3 và với có thể thu được 2 tấn / m3 phốt phát tức 16 triệu tấn phốt phát ở Hoàng Sa. Tuy nhiên, chính quyền quản lý lơ là để Nhật Bản và Trung Quốc khai thác bất hợp pháp, không mang lại đồng nào cho Annam.
  • Bằng con tàu Malicieuse, ngày 13/4/1930, nước Pháp đã chính thức đặt chủ quyền của An Nam dưới sự bảo hộ của Pháp đối với quần đảo Trường Sa

    Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

    .

  • Chính quyền Pháp và An Nam đã dựng bia chủ quyền cho quần đảo Hoàng Sa trên đảo Pattle (đảo Hoàng Sa) với dòng chữ: République française - Royaume d'Annam - Archipel des Paracels 1816 - île Pattle – 1938 (Cộng hòa Pháp – Vương quốc An Nam – Quần đảo Paracels 1816 – đảo Pattle 1938). Chính quyền Pháp đã lần lượt đặt hai trạm khí tượng trên đảo Boisée (Phú Lâm) và trên đảo Pattle (Hoàng Sa). Trước đó, vào năm 1933, Quần đảo Trường Sa đã được sáp nhập với tỉnh Bà Rịa.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn






Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Bắt đầu từ năm 1925, Viện Hải dương học Nha Trang tiến hành những thí nghiệm khoa học trên đảo Hoàng Sa do tiến sĩ Krempt tổ chức.

Năm 1927, Tàu De Lanessan viếng thăm quần đảo Trường Sa.

Năm 1930: Ba tàu Pháp La Malicieuse, L’Alerte và L’Astrobale chiếm quần đảo Trường Sa và cắm cờ Pháp và tuyên bố thực thi chủ quyền trên quần đảo này.

Năm 1931, Trung Hoa ra lệnh khai thác phân chim tại quần đảo Hoàng Sa, ban quyền khai thác cho Công ty Anglo-Chinese Development. Pháp phản đối.

Năm 1932, Pháp chính thức tuyên bố An Nam có chủ quyền lịch sử trên quần đảo Hoàng Sa, sát nhập quần đảo Hoàng Sa với tỉnh Thừa Thiên. Nghĩa là Pháp công nhận và chịu trách nhiệm kế thừa chủ quyền của Việt Nam từ trước đó, tiếp tục thực thi chủ quyền tại hai quần đảo này.


Năm 1933, Quần đảo Trường Sa được sáp nhập với tỉnh Bà Rịa. Pháp cũng đề nghị với Trung Hoa đưa vấn đề ra Toà án Quốc tế nhưng Trung Hoa từ chối.

III. Việt Nam “xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa” trước cộng đồng quốc tế tại San Francisco 1951

Năm 1937, bất chấp sự phản đối của Pháp, Nhật chiếm các đảo “nằm ngoài khơi Đông Dương”, đổi tên thành Shinnan Gunto (Tân Nam Quần Đảo) và đặt dưới quyền tài phán của Cao Hùng (Đài Loan). Trong suốt thời gian Thế chiến II, các quần đảo bị Nhật chiếm đóng.

Năm 1938, Pháp cho đặt bia đá, xây hải đăng, đài khí tượng và đưa đội biên phòng người Việt ra để bảo vệ đảo Pattle (đảo Hoàng Sa) của quần đảo Hoàng Sa.

Năm 1945, Nhật Bản thua trận rút khỏi Đông Dương. Pháp khôi phục lại sự có mặt của mình tại Hoàng Sa vào tháng 6/1946. Pháp trở lại đảo An Vĩnh, nhưng phải rút vì lý do chi viện cho chiến cuộc đang căng thẳng ở Bắc Việt Nam.

Suốt chiều dài lịch sử cho đến tận năm 1945, ngoài nỗ lực thị uy của chính quyền Quảng Đông năm 1909, Trung Quốc không hề có sự chiếm cứ thực sự, liên tục hay sự quản lý hành chính thực tế nào trên các đảo ở biển Đông.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Cuối năm 1946, Trung Hoa Dân Quốc đưa quân chiếm đóng đảo Ba Bình (quần đảo Trường Sa), sau khi Pháp đặt bia chủ quyền ở đó.

Tháng 1/1947, Trung Quốc (lúc đó là quân của Tưởng Giới Thạch) đổ bộ lên đảo Woody (Phú Lâm) của quần đảo Hoàng Sa. Pháp lập tức phản đối việc chiếm hữu trái phép này của Trung Quốc và cử một phân đội ra quần đảo Hoàng Sa, lập đồn binh và xây trạm khí tượng. Các trạm khí tượng này hoạt động trong suốt 26 năm với những nhân viên Việt Nam cần mẫn cho đến khi Trung Hoa đại lục cưỡng chiếm bằng quân sự vào năm 1974. Ngày nay thông tin về khí tượng thủy văn phát đi từ Hoàng Sa vẫn được toàn thế giới biết đến với danh nghĩa một trạm khí tượng của một hòn đảo nhiệt đới Việt Nam. Hai bên đàm phán tại Paris. Cũng năm 1947, Pháp đề nghị đưa vấn đề tranh chấp ra Trọng tài quốc tế nhưng Trung Hoa từ chối. Năm 1950, sau khi chính phủ phải chạy ra đảo Đài Loan, quân của Tưởng Giới Thạch rút khỏi đảo Phú Lâm.

Tháng 10/1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời. Tháng 5/1950, Quân đội Quốc dân Đảng phải rời khỏi các đảo Phú Lâm (quần đảo Hoàng Sa) và Ba Bình (quần đảo Trường Sa). Các trại đồn trú của Pháp vẫn được tiếp tục duy trì ở Hoàng Sa. Ngày 14/10/1950, Chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho Chính phủ Bảo Đại quyền quản lý quần đảo này. Thủ hiến Trung phần Việt Nam lúc bấy giờ là Phan Văn Giáo đã chủ tọa việc chuyển giao quyền hành quản lý quần đảo Hoàng Sa. Thời điểm này diễn ra một sự kiện quan trọng, đó là hội nghị được tổ chức tại San Francisco, California (Mỹ) giữa lực lượng Đồng minh và Nhật Bản.

Hội nghị San Fransisco diễn ra từ ngày 5/9 đến 8/9/1951, có phái đoàn của 51 quốc gia tham dự để thảo luận về vấn đề chấm dứt chiến tranh tại châu Á - Thái Bình Dương và mở ra quan hệ với Nhật Bản thời hậu chiến. Trong hội nghị này, Trung Hoa Đại lục và Trung Hoa Dân quốc không được mời tham dự do giữa Mỹ và Liên Xô không thống nhất được ai là người đại diện chính thức cho quyền lợi của Trung Hoa.

Ngày 5/9/1951, Ngoại trưởng Liên Xô Gromyko đã đề nghị 13 khoản tu chính. Trong đó, có khoản tu chính liên quan đến việc Nhật Bản nhìn nhận chủ quyền của Trung Hoa đại lục đối với đảo Hoàng Sa. Hội nghị bác bỏ với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận. Danh nghĩa chủ quyền Trung Quốc đối với các quần đảo ngoài khơi Biển Đông đã bị cộng đồng quốc tế bác bỏ rõ ràng trong khuôn khổ của một hội nghị quốc tế.

Ngày 7/9/1951, cũng tại hội nghị, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu của Chính phủ Bảo Đại đã long trọng tuyên bố, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam: “Cần phải thành thật lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt các mầm mốmg tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Kết thúc hội nghị là việc ký kết Hòa ước với Nhật ngày 8/9/1951. Trong hòa ước này, ở Điều 2, đoạn 7, ghi rõ: “Nhật Bản khước từ mọi chủ quyền và đòi hỏi đối với tất cả các lãnh thổ mà họ chiếm bằng vũ lực trong đệ nhị thế chiến, trong số đó có các đảo Trường Sa và Hoàng Sa”. 50 phái đoàn yên lặng nghe lời tuyên bố của phái đoàn Việt Nam, không quốc gia nào phản đối

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Trung Quốc đại lục sau đó đã phản ứng bằng cách tuyên bố bảo lưu yêu sách của họ đối với các quần đảo qua tuyên bố của bộ trưởng ngoại giao Chu Ân Lai ngày 15/8/1951. Nhưng chính quyền Tưởng Giới Thạch thì không phản ứng gì. Lúc đó, đa số các nước vẫn công nhận chính phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch là đại diện chính thức cho Trung Quốc.



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Sau Hội nghị San Francisco, 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vẫn do chính quyền Bảo Đại quản lý. Đến năm 1954, 2 quần đảo này được đặt dưới sự quản lý của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

Tháng 4/1956, quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, đội tuần tra của Pháp trên đảo Hoàng Sa được thay thế bởi đội tuần tra của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Nhưng khi đó chính quyền Trung Quốc đại lục đã bí mật cho quân đổ bộ chiếm phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa (cụm An Vĩnh, tiếng Anh: Amphitrite Group, tiếng Hoa: 宣德群岛, Tuyên Đức quần đảo). Trong khi phía Tây, nhóm Lưỡi Liềm, còn gọi là Nguyệt Thiềm (tiếng Anh: Crescent Group, tiếng Hoa: 永乐群岛, Vĩnh Lạc quần đảo) vẫn do quân đội Việt Nam đóng trên đảo Pattle nắm giữ. Ngày 1/6/1956, ngoại trưởng Việt Nam Cộng hoà Vũ Văn Mẫu xác nhận lại chủ quyền của Việt Nam trên cả hai quần đảo. Ngày 22/8/1956, Một đơn vị hải quân của Việt Nam Cộng hoà cắm cờ trên quần đảo Trường Sa và dựng bia đá.

IV. Việc Trung Quốc sử dụng vũ lực cưỡng chiếm toàn bộ Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa là trắng trợn vi phạm tuyên ngôn 1970 của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc

Ngày 4/9/1958, Trung Quốc ra tuyên bố về hải phận 12 hải lý, áp dụng cho cả các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Năm 1961, quần đảo Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của tỉnh Quảng Nam. Năm 1973, thuộc tỉnh Phước Tuy.

Tháng 1/1974, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm các đảo do quân đội Việt Nam Cộng hoà đóng, 75 sĩ quan và binh sĩ Sài Gòn hy sinh, Trung Quốc chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Nghĩa là kể từ 1974, trong vấn đề chủ quyền Hoàng Sa, Việt Nam đã bị tước mất yếu tố vật chất (Corpus), nhưng chủ quyền của Việt Nam vẫn không bị gián đoạn do được đảm bảo bằng yếu tố tinh thần (Animus). Tháng 12/1982, huyện Hoàng Sa trực thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng được thành lập. Nhưng điều quan trọng hơn, theo luật quốc tế, từ đầu thế kỷ XX việc dùng vũ lực để chinh phục một lãnh thổ đã bị lên án và không được chấp nhận. Nghị quyết của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc ngày 24/10/1970 ghi rõ: “Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm đóng quân sự, kết quả của việc sử dụng vũ lực trái với các điều khoản của Hiến chương Liên hợp quốc. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là một đối tượng thụ đắc bởi một quốc gia khác do đe doạ sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lưc. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào bằng sự đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực đều là bất hợp pháp”

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Do đó, các hành động dùng vũ lực trái ngược với luật quốc tế của Trung Quốc không thể mang lại danh nghĩa pháp lý cho nước này đối với quần đảo Hoàng Sa.


Đối với quần đảo Trường Sa, theo Jan Rowiński, cho đến thời điểm tháng 1/1974 “Trung Quốc không có khả năng gây ảnh hưởng đối với khu vực quần đảo Trường Sa, chứ chưa nói gì đến chuyện kiểm soát nó”

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Tháng 2.1988, Trung Quốc đưa quân đội đến chiếm một số đảo trên quần đảo Trường Sa.


Năm 1975, Việt Nam thống nhất, quân đội Nhân dân Việt Nam thay thế quân đội Việt Nam Cộng hoà tại quần đảo Trường Sa. Năm 1977, Việt Nam ra tuyên bố lãnh hải đất nước, kể cả lãnh hải của các đảo. Trong thời gian này, nhiều quốc gia khác cũng đã chiếm một số đảo của quần đảo Trường Sa.

Tháng 3/1988, lần đầu tiên Trung Quốc có mặt trên quần đảo Trường Sa bằng cách đưa quân tới xâm lược bãi đá Cô Lin, Len Đao và Gạc Ma, do ba bãi đá này không có quân đội đồn trú nên Hải quân Việt Nam phải đưa quân ra bảo vệ. Ngày 11/3/1988, tàu HQ 604 (Lữ đoàn 125) của thuyền trưởng Vũ Phi Trừ xuất phát từ Cam Ranh với 70 bộ đội công binh của Trung đoàn 83 và 22 bộ đội của Lữ đoàn 146 ra xây dựng cụm đảo Gạc Ma. Khi đang chuyển vật liệu lên đảo thì ba tàu chiến Trung Quốc áp sát, giật cờ, nã súng xâm chiếm đảo Gạc Ma trái phép. Sau đó, tàu Trung Quốc tiếp tục tấn công tàu HQ 605 đang bảo vệ và xây dựng đảo Len Đao và tàu HQ 505 canh giữ Cô Lin. Trận xung đột đã làm hai tàu của Việt Nam bị chìm, một tàu hỏng, 64 sĩ quan và chiến sĩ hy sinh, 9 người bị phía Trung Quốc bắt làm tù binh. Trung Quốc còn chặn không cho tàu mang cờ Chữ Thập Đỏ ra cứu hộ. Trung Quốc bị hư hại tàu chiến, thương vong 24 thủy binh. Kể từ đó Trung Quốc chiếm đóng Gạc Ma.

Tháng 4/1988, Trung Quốc thành lập tỉnh thứ 33 bao gồm đảo Hải Nam và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Tháng 5/1989, Trung Quốc chiếm thêm một đảo nhỏ trên quần đảo Trường Sa.

Năm 1990, Trung Quốc đề nghị khai thác chung quần đảo Trường Sa.

Năm 1992, Trung Quốc chiếm thêm một số đảo nữa.

Năm 1994, Đụng độ giữa Việt Nam và một chiếc tàu Trung Quốc nghiên cứu cho Công ty Crestone.

Tháng 2/1995, Trung Quốc chiếm đá Vành Khăn, một đảo đá nhỏ do Philippines quản lý trên quần đảo Trường Sa.

Hiện nay Trung Quốc kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Còn quần đảo Trường Sa thì do sáu quốc gia và vùng lãnh thổ chiếm giữ là Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia và Brunei.

***
Những sự kiện vừa dẫn ra ở trên cho thấy ý đồ và bước đi của nhà cầm quyền Trung Quốc trong nhiều thế kỷ qua đã diễn ra theo một logic đáng ngại cho hòa bình và công pháp quốc tế. Nhưng không dừng ở đó, tháng 5/2014, Trung Quốc đã đưa giàn khoan khổng lồ Haiyang Shiyou 981 cùng với hàng chục máy bay chiến đấu, hàng trăm tàu bán quân sự và quân sự vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Thực chất đây là một cuộc xâm lăng với tất cả các dấu hiệu vừa “cổ điển” vừa chưa có tiền lệ của nó. Cổ điển vì đã vượt biên giới, có vũ khí, hành động đơn phương với mưu đồ cưỡng chiếm lãnh thổ và thôn tính dài lâu. Nhưng lại chưa có tiền lệ vì sử dụng “lãnh thổ di động”, chưa nổ súng và có thể không nổ súng nhưng vẫn có khả năng biến lãnh thổ quốc gia khác thành vùng tranh chấp rồi mới cưỡng đoạt. Giấc mộng Trung Hoa trên thực tế đã dần trút bỏ “lá nho che đậy không kém phần trơ trẽn” của nó

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.


“Những gì mà Trung Quốc đang làm khác rất xa những gì mà Trung Quốc nói”, đây là nhận định của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại cuộc họp báo ngày 22/5/2014 tại Manila, nhân chuyến viếng thăm cấp quốc gia của Ông tại Philippines. Tại cuộc họp báo này, người đứng đầu Chính phủ Việt Nam đã nói rõ: “Chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển. Nhất định Việt Nam không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó”

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.


Điều Thủ tướng nói chính là điều thuộc về ý nguyện của nhân dân.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.


H.S.Q

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

GS.TS., Viện Thông tin Khoa học xã hội.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Xem: Lưu Văn Lợi (1995). Cuộc tranh chấp Việt-Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nxb. Công an nhân dân. // Trần Xuân Hiến (2014). Tư liệu Hoàng Sa Trường Sa trong thư tịch cổ Trung Quốc (TL Viện Thông tin KHXH). // Thư tịch cổ Trung Hoa thừa nhận Hoàng Sa Trường Sa thuộc Việt Nam.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Về tên gọi Hoàng Sa: Năm 1838 nhà truyền giáo người Pháp Joan-Luis-Taberu đã xuất bản cuốn "Dictionarium Latino-Annamiticum completum et novo ordine dispositum (“Từ điển Việt-Latin”). Trong đó quần đảo Hoàng Sa được định nghĩa là “Paracel seu Cát vàng”. Tiếp sau đó, nhà địa lý Hà Lan Villem Blau chính thức đặt tên cho đảo này bằng tiếng châu Âu là "Pracel". Về sau do sự mai một của thời gian và các nhà đi biển người Pháp truyền khẩu không chính xác nên “Pracel” đã bị gọi chệch đi thành “Le Paracel.” (Xem: Вьетнамцы никогда не смирятся. газета.ru 1/6/2014.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.).


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Xem: Keith Johnson (2014). Lord of the Sea, Foreign Policy, 2014, May 16.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

//
Phạm Hoàng Quân (2013). Về địa danh và vị trí vạn lý trường sa, vạn lý thạch đường trên địa đồ hàng hải thời Minh ở Thư viện Đại học Oxford.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

//
Phạm Hoàng Quân (2013). Phân tích tổng quan nguồn sử liệu Trung Hoa liên quan đến biển Đông Việt Nam.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Viking: thuật ngữ chỉ những nhà thám hiểm tài ba, phiêu lưu trên biển.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Nhiều tài liệu đã mô tả kỹ quá trình này. Mới đây, TS. Trần Công Trục một lần nữa mô tả chi tiết lịch sử chiếm hữu và khẳng định, Nhà nước phong kiến Việt Nam suốt từ thời chúa Nguyễn, qua thời Tây Sơn đến thời các triều Nguyễn, với 3 triều đại khác nhau, đều đã thực hiện sứ mệnh thiêng liêng với tư cách Nhà nước Đại Việt, tiến hành chiếm hữu và thực thi chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Xem: Trần Công Trục (2014). Hoàng Sa, Trường Sa chưa từng thuộc về Trung Quốc.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Về điều này, sách trắng của Việt Nam công bố 1988 “Các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và luật pháp quốc tế” cũng đã dẫn các nguồn tài liệu có giá trị như Đại Nam thực lục tiền biên (1600-1775), Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (1630-1653), Phủ biên tạp lục (1776), Đại Nam thực lục chính biên (1848), Đại Nam Nhất Thống Chí (bộ sách địa lý lịch sử chung của Đại Nam 1865-1882), Lịch triều hiến chương loại chí (1821), Hoàng Việt địa dư chí (1833), Việt sử cương giám khảo lược (1876), các châu bản triều Nguyễn về các bản tấu, phúc tấu, các dụ của các vua, và hàng loạt bản đồ, tài liệu… của nước ngoài.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Trích theo: Thái Văn (2014). Hoàng Sa, chủ quyền Việt Nam không thể tranh cãi. (Trường Sa ở đây là một hòn đảo thuộc Hoàng Sa).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Вьетнамцы никогда не смирятся. газета.ru 1/6/2014.http://www.gazeta.ru/science/2014/06/01_a_6054413.shtml.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Xem: Lưu Văn Lợi (1995). Cuộc tranh chấp Việt-Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nxb. Công an nhân dân.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. L’Éveil économique de l’Indochine số 394, 398, 491, 602, 627, 644 …


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. L’Éveil économique de l’Indochine. 4/5/1930. - No 672, tr. 18…


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Les États Associés à la conference de San Francisco. les 6 et 7 Septembre 1951: Viet-nam Declaration du Président Trần Văn Hữu. // France-Asie – Saigon, 1951, 6o année, tome VII, 66-67 (Déc. 1951), pp. 502-505.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Phạm Ngọc Bảo Liêm (2010). Hội nghị San Francisco với vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tạp chí Xưa và Nay, Số 360, 7/2010.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Declaration on Princ Ples of International Law Concerning Friendly Relations and Co-operation among States in Accordance with the Charter of The United Nations. United Nations General Assembly Resolution 2625 (XXV), 24 October 1970.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Rowiński Jan (1990). Biển Đông, khu vực tiềm tàng tranh chấp ở châu Á, Warszawa. (Trích theo: Nguyễn Thái Linh (2014). Tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa và luật pháp quốc tế.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

).


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.同主题阅读:[ZGPT]未来50年中国的六场战争:将彻底打破世界格局

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(Website Chinanew nói về 6 cuộc chiến tranh mà Trung Quốc sẽ tiến hành để thực hiện Giấc mộng Trung Hoa trong 50 năm tới: 1/ Đài Loan 2020-2025; 2/ Biển Đông 2025-2030; 3/ Tây tạng 2035-2040; 4/ Điếu Ngư-Lưu Cầu 2040-2045; 5/ Ngoại Mông 2045-2050; Nga 2055-2060. Từ năm 2011 đến nay, 6/2014, bài viết này đã bị phản đối gay gắt trên khắp thế giới. Nhưng Trung Quốc vẫn không chịu gỡ bỏ).


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Thủ tướng: Không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Các tư liệu ảnh trong bài lưu giữ tại Viện Thông tin Khoa học xã hội (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam).

Sửa bởi pth77: 24/07/2014 - 03:52


#125 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 25/07/2014 - 01:35

100 NĂM LỊCH SỬ CHỢ BẾN THÀNH

Chợ Bến Thành có thể được xem là một trong những biểu tượng quan trọng nhất của thành phố Sài Gòn xưa. Trong tác phẩm Nam kỳ Phong tục Nhơn vật Diễn ca xuất bản năm 1909, tác giả Nguyễn Liên Phong đã dành hơn 50 câu thơ để chỉ nói riêng về ngôi chợ này:
…Bến Thành chợ rộng tứ vi,
Mấy cửa hàng xén ở thì luôn năm,
Chỗ ăn, chỗ bán chỗ nằm,
Ba tăng tiền thuế bạc trăm không cầu.
Tuy nhiên tác phẩm trên của Nguyễn Liên Phong viết về ngôi chợ Bến Thành cũ, phải sau 5 năm thì chợ Bến Thành mới như chúng ta thấy hiện nay mới hình thành, đến nay là đúng 100 năm (1914-2014)

************
Không như một số người tưởng nhầm là cái tên chợ Bến Thành có từ thời Pháp thuộc, thật ra, nó đã có từ thời Nguyễn, ít nhất là dưới triều Gia Long-Minh Mạng. Trong tác phẩm Gia định Thành thông chí soạn vào khoảng thập niên 1810-1820, danh sĩ Trịnh Hoài Đức đã viết: “Chợ Bến Thành – Phố, chợ, nhà cửa trù mật, ở dọc theo bến sông. Chỗ đầu bến này có lệ đến đầu mùa xuân gặp ngày tế mạ có thao diễn thủy binh, nơi bến có đò ngang đón chở khách buôn ngoài biển lên bờ. Đầu phía bắc là ngòi Sa ngư, có gác cầu ván ngang qua, 2 bên nách cầu có dãy phố ngói, tụ tập trăm thức hàng hóa, dọc bến sông ghe buôn lớn nhỏ đến đậu nối liền…” (Sđd - Tập Hạ - Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa –Sài Gòn 1972, trang 90). Theo sách của Trịnh Hoài Đức và một số tài liệu khác, chợ Bến Thành xưa nằm dọc theo rạch Bến Nghé (sông Sài Gòn), từ cột cờ Thủ ngữ đến ngòi Sa ngư, tức con kênh lớn chạy từ sông vào trong đất liền, nơi sau này kênh bị lấp để trở thành đại lộ Charner (nay là đường Nguyễn Huệ). Về hai từ Bến Thành, tác giả Pháp Jean Bouchot, trong “La naissance et les premières années de Saigon, ville française” (Sự ra đời và những năm đầu tiên của Sài Gòn, thành phố thuộc Pháp) đã giải thích là “la citadelle du rach Ben-nghe”: Thành nằm gần rạch Bến nghé.Tháng 2.1859, khi quân Pháp đánh chiếm Sài Gòn thì chợ Bến Thành bị đốt cháy, chung số phận với nhiều kiến trúc khác. Vì thế khoảng năm 1860-1861, Pháp xây một chợ khác xa bờ sông hơn, nằm cạnh con rạch mà Trịnh Hoài Đức gọi là ngòi Sa Ngư, chạy từ rạch Bến Nghé đến địa điểm nay là ngả tư Nguyễn Huệ - Lê Lợi, trước mặt Xã Tây (nay là UBND Thành phố H-C-M). Ngôi chợ này có 5 gian, được xây dựng chủ yếu bằng gỗ và mái lợp tranh. Năm 1870, một trận hỏa hoạn bùng phát đã thiêu rụi một gian trong ngôi chợ và vụ việc được đưa ra các phiên họp của Hội đồng Thành phố Sài Gòn để quyết định. Trên tinh thần các nghị định của Thống đốc Nam kỳ cấm chỉ việc lợp tranh các kiến trúc xây trong nội thành Sài Gòn vì lý do an ninh công cộng, Hội đồng thành phố quyết định dành một ngân khoản 70 ngàn quan Pháp (franc) để xây dựng lại ngôi chợ Bến Thành tại vị trí gần ngòi Sa Ngư, với kiến trúc làm bằng những cột gạch để chống đỡ, sườn bằng gỗ, lợp ngói, trừ một gian lợp tôn dợn sóng. Ngày 30.11.1870, công trình được giao cho nhà thầu Albert Mayer và việc khởi công diễn ra vào ngày 27.12.1870. Sau khi hoàn thành, ngôi chợ này cũng có 5 gian xây theo kiểu lán hàng (hangar), được chia ra: gian thứ nhất dành cho thực phẩm khô, gian thứ hai bán cá, gian thứ ba bán thịt, gian thứ tư bán thức ăn và gian thứ năm bán đồ tạp hóa. Về mái lợp, bốn gian được lợp ngói, chỉ có gian bán thịt được lợp tôn dợn sóng. Nền chợ được lát đá granit. Sinh hoạt chợ Bến Thành lúc bấy giờ khá sầm uất, ghe thuyền các địa phương miền Tây đổ về tấp nập, từ rạch Bến Nghé chạy vào ngòi Sa Ngư ngay trước mặt chợ, việc giao nhận hàng khá thuận tiện. Sinh hoạt chợ vào thời điểm này được Nguyễn Liên Phong miêu tả:
Bánh trái biết mấy chục hàng,
Bò heo thớt thịt nhảy tràn dọc ngang,
Để đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng, chính quyền thuộc địa lúc bấy giờ tổ chức cả những toán tuần tra để kiểm soát chất lượng hàng hóa buôn bán trong chợ:
Thường khi chợ sớm không sai,
Lính tuần đi xét các loài cá ương (sic)
(Nam kỳ Phong tục Nhơn vật Diễn ca)
Năm 1887, chính quyền thành phố Sài Gòn cho lấp ngòi Sa Ngư, đã quen được gọi là Kênh lớn, để làm thành con đường Charner rộng lớn (nay là đường Nguyễn Huệ). Từ đó trong cửa miệng người dân Sài Gòn, con đường này được gọi một cách hình tượng là đường Kinh Lấp. Nhờ có chợ Bến Thành nên hai bên đường, nhà cửa của người Việt, người Hoa, người Campuchia, người Ấn Độ …được xây dựng san sát nhau, các sinh hoạt mua bán diễn ra thật sầm uất. Song đến năm 1894, sau hơn 20 năm, ngôi chợ đã có những dấu hiệu xuống cấp, không đáp ứng được yêu cầu vệ sinh, vì thế trong các phiên họp của Hội đồng Thành phố, các nghị viên đã bàn đến việc xây dựng lại chợ cùng với việc xây mới một nhà hát và tòa thị chính (Xã Tây). Kinh phí để xây dựng nhà hát là 800 ngàn franc, cho tòa thị chính là 600 ngàn franc, và cho chợ mới là 400 ngàn franc. Tuy nhiên do nhiều trở ngại về việc chọn địa điểm, chủ yếu do nhiều khu đất thấp, và nhất là việc thiếu kinh phí, việc xây dựng ba công trình này kéo dài, hoàn thành sớm nhất là Nhà hát, vào ngày đầu tiên của thế kỷ 20 (1.1.1900), sau đó là Xã Tây (nay là UBND TPHCM) vào năm 1909. Về chợ Bến Thành, sau nhiều cuộc thảo luận, trong phiên họp ngày 12.9.1907, Hội đồng Thành phố Sài Gòn quyết định tìm một vị trí để xây ngôi chợ mới cho xứng đáng với tầm cỡ một thành phố lớn. Cuối cùng, trong phiên họp ngày 21.5.1908, Hội đồng quyết định chọn khu đất nằm giữa 4 con đường: Némésis (nay là Phó Đức Chính), Roland Garros (nay là Thủ Khoa Huân), Espagne (nay là Lê Thánh Tôn) và Amiral Courbet (nay là Nguyễn An Ninh). Đây là một khu đất trũng có tên là Marais de Boresse (Đầm Boresse) nên việc thi công đòi hỏi nhiều đất để lấp đầy. Sau khi đã quyết định xây dựng chợ Bến Thành mới tại đây (vị trí chúng ta thấy ngày nay), chính quyền Pháp cho đập phá phần lớn ngôi chợ cũ (nơi đây về sau trở thành Tổng Nha Ngân khố, nhìn ra đường Nguyễn Huệ), chỉ giữ lại gian hàng bán thịt lợp bằng tôn dợn sóng. Gian chợ đó tồn tại đến ngày nay dưới cái tên Chợ Cũ. Riêng chợ Bến Thành mới mãi đến ngày 28.3.1914 mới được khánh thành, trở thành bộ mặt tiêu biểu của một thành phố từng được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông, và nay vẫn còn là một trong hai thành phố lớn nhất của cả nước.

Lê Nguyễn – 20.7.2014

ps: 1cmt
Nhân chữ “lính mã tà” LK nhắc, xin ghi lại chút hồi ức về một thời kỳ mà Ông Bà của chúng ta đã trải qua dưới thời Pháp thuộc.
Thời đó, tại VN có một đạo quân gọi là “lính lê-dương”, gồm người của nhiều thuộc địa của Pháp được đưa sang Đông Dương làm lính. Lúc đó, tại VN, lính lê- dương gồm người đến từ châu Phi như Sénégal, Maroc…, châu Á như Mã Lai (Malaysia), Nam Dương (Indonesia), Phi Luật Tân (Philippines)… Vì chuyện này mà trong kho ngôn từ Việt xuất hiện thêm nhiều từ mới do cách đọc trại các từ nước ngoài. Xin đơn cử một số trường hợp:
- Lính lê-dương, xuất phát từ từ Légionnaire, hiểu đơn thuần là “lính đánh thuê”
- Lính mã-tà là những người Mã Lai làm cảnh sát cho Pháp tại VN, xuất phát từ cụm từ mata-mata của tiếng Mã Lai.
- Người xà-ích, là người đánh xe ngựa, đọc trại theo chữ sais của tiếng Mã Lai
- Hồi tôi còn rất nhỏ, vẫn cùng chúng bạn hô hào 2 câu thơ vui:
Chà-và, Ma-ní tí te,
Cái bụng thè lè, con mắt ốc bươu,
trong đó, từ Chà-và xuất phát từ Java, một hòn đảo của Indonesia. Về sau, từ này bị biến nghĩa, ông bà ta dùng nó để chỉ người Ấn Độ, chứ không phải người Java nữa. Cón Ma-ní là Manille (theo tiếng Pháp) hay Manila (tiếng Anh), thủ đô của Philippines.
- Trong đạo quân lê-dương thời đó, ở nhiều người lính Nam Dương, ngay gần cái xoáy trên đầu họ luôn có một chõm tóc chỉa thẳng lên mà không nằm ép xuống, nên ông bà ta gọi họ là bọn “chà chóp”.
- Lính lê-dương châu Phi, phần lớn là người Maroc và người Sénégal, trên gò má đen bóng của họ thường có hai vết sẹo dài (họ tự tạo ra, theo một tập quán gì đó không rõ) nên ông bà ta vẫn gọi họ là “lính mặt gạch”. Phụ nữ Việt lúc đó rất sợ bọn “lính mặt gạch”, vì chúng thường hãm hiếp phụ nữ khi đi ruồng bố.
Những từ này gắn liền với một thời kỳ đầy gian khó của Ông Bà, Cha Mẹ chúng ta, xin kể lại cho con cháu nghe để chúng không bị mai một, cũng là một cách tưởng nhớ đến các Người.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tranh vẽ một góc chợ Bến Thành (cũ) năm 1872

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Chợ Bến Thành cũ đầu thập niên 1880, nhìn ra con kênh Sa Ngư chưa được lấp (nay là đường Nguyễn Huệ), thuyền bè còn tới đậu trước mặt chợ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Đường Adran năm 1910, gần chợ Bến Thành cũ (Chợ Cũ), nay là đường Hồ Tùng Mậu

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Chợ Bến Thành mới vào thập niên 1920

#126 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 26/07/2014 - 03:23

Sự tha thứ
Nguyễn Ngọc Bích
Tạp chí Phụ nữ
06:00' PM - Thứ tư, 23/07/2014

Sự tha thứ là điều người ta bàn bạc khi nói về đạo đức như là một phạm trù đạo đức liên quan tới con tim chứ không phải lý trí của con người. Về mặt tâm lý, tha thứ có hai mức độ. Thứ nhất là khi nhớ đến ai đã làm một điều gì sai phạm với mình thì ta không nghĩ đến việc trả đũa lại. Thứ hai, cũng trường hợp như vậy nhưng người sai phạm lại còn đến nhờ mình giúp họ một việc gì đó. Khi ấy mình chăng những phải quên việc sai trái, mà lại còn phải làm như đã được nhờ.
Rõ ràng, sức mạnh, hay cường độ, tha thứ ở trường hợp sau cao hơn trường hợp trước. Và trong cả hai trường hợp, nói như văn hào Charles Dicken là: "Anh sẽ tha thứ cho em, mỗi lần anh nghĩ đến em". Tha thứ buộc phải cố gắng vượt qua chính mình, dùng nghị lực để đè nén lòng mình lại, tức là sự tức bực hay ý muốn trả đũa. Cho nên, nói như A.Pope, sai lầm là của con người, tha thứ là của thần thánh.
Người ngoài khi thấy một người hay tha thứ thì bảo rằng đó là người độ lượng. Người tha thứ không biết mình độ lượng, cũng không hề bảo mình phải như thế để tha thứ. Họ thông cảm với người mắc sai phạm hay không chấp nói như kiểu của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn “thôi kệ”.
Đào sâu về mặt tâm lý, tha thứ không hề tạo nên sự hèn kém, hiểu theo nghĩa là vì thua kém mặt này mặt nọ nên phải tha thứ. Trái lại, sự tha thứ làm cho mình "lớn hơn" người khác. Đây là bằng chứng đứa cháu bé làm rách một tờ giấy trong trang sách của mình, bạn có thé tha thứ vì nghĩ nó còn nhỏ. Nó nhỏ là vì mình "lớn". Thế nhưng đứa bạn học mình làm như vậy bạn sẽ không tha, lý do bạn thấy người kia đã lớn mà còn phạm, nghĩa là anh ta cũng bằng bạn và phải bị phạt. Vậy tức là bạn đã ngang bằng với người ấy! Nếu bạn đã tha thứ hay không chấp thì bạn đã "lớn" hơn.
Tha thứ cũng là sự... trả thù hiệu nghiệm nhất. Trong cuộc tình mà bạn bị phản bội, nếu bạn không có phản ứng gì thì người tình sau này nghĩ lại sẽ thấy lòng họ bị xâu xé. Bạn đang trả thù đấy nhưng qua tay... tạo hóa! Đảo ngược lại, khi càng chấp nhất, thì tâm hồn càng "nhỏ bé". Bây giờ ta đi sang mặt khác của sự tha thứ.
Điều kiện đế được tha thứ là thành thật. Khi người có lỗi tự nguyện nói lên, khai ra sự sai phạm của mình, lý do thì đa phần họ sẽ được tha thứ. Điều này thường thấy ở Tòa án, hay khi một người bị trừng phạt, bị tra khảo và ngay cả ở chính bạn. Khi đánh con vì nó làm gì sai, bạn cũng hay nói: “Nếu nói thật thì mẹ sẽ tha". Kết hợp hai chiều lại với nhau ta thấy: “Sự tha thứ khuyến dụ những tâm hồn ngoan cố, nó làm dịu những di hận và những cơn phẫn nộ, nó bảo tồn sự đoàn kết và sự an vui trong phố phường và trong gia đình, nó tạo cái hứng thú lớn lao nhất trong đời sống dân dã hàng ngày” (cầu của Vauvenargues).
Đối nghịch với sự tha thứ là oán giận, ở mức thấp và căm hờn ở mức cao. Nếu sự tha thứ buộc người ta phải nghĩ đến người khác (thôi thông cảm, không chấp nhất làm gì) thì sự căm thù thúc đẩy người ta chỉ nghĩ đến mình (phải trả nỗi hận này). Sự oán giận làm cho cuộc sống trở nên chật hẹp đi và tình người độc ác hơn. Vì “ác giả ác báo” và oán giận này sẽ dẫn đến một oán giận khác. Oán giận như đức Phật bảo nó chập chùng.
Tết nhất mà nói các chuyện tha với giận là vì trong năm qua có một sư kiện đã cuốn hút dư luận ấy là quyển tự truyện của Lê Vân - "Yêu và Sống". Gọi Lê Vân trống không như vậy vì chị là người của công chúng và để mọi người, không kể tuổi tác hay giới tính, có thể đến gần với chị, hay ngược lại, thì tất cả các tính từ hay trạng từ đi theo tên của chị bị... bỏ đi! Đó cũng là một phần của cái giá phải trả cho sự nổi tiếng! Tôi nêu quyển sách của Lê Vân ở đây để nói sâu hơn về sự tha thứ và điều kiện để được tha thứ và chỉ có thế.
Lê Vân bảo rằng chị bộc lộ như vậy trọng quyển sách là để sám hối. Sám hối tức là xin tha thứ và để được tha thứ thì điều kiện bắt buộc là phải nói thật. Vậy Lê Vân có kể thật chuyện của mình không? Tôi bảo là có. Điều này dựa trên kinh nghiệm bản thân tôi đã trải qua lúc phải "xét mình" khi không còn nhìn thấy tương lai đâu nữa, giống như hai ông cảnh sát Mỹ bị bệ tông đè trong phim Cận kề cái chết (World Trade Center) mới chiếu gần đây.
Thật vậy, Lê Vân đã kể từng chi tiết rất nhỏ, thí dụ, cho ta thấy một người con gái so đo như thế nào khi chọn lựa giữa hai người yêu. Các bà mẹ thường bảo con trai "con gái nó hay so đo lắm". Có thể các cụ nói kinh nghiệm của chính mình, nhưng không biết diễn tả ra sao. Lê Vân may hơn nhờ có người bạn trong "linh cảm" là Bùi Mai Hạnh!
Vì sự thật mà Lê Vân bị buộc phải theo đuổi khi muốn sám hối nên có những điều mà về mặt hiếu thảo không nênnói ra nếu không muốn bị chê trách. Tuy nhiên, sự sám hối thúc đẩy phải nói sự thật, nói cho hết, nói để cho lòng mình thanh thản, giống như khi hối hận thì không muốn đi tìm ngay người mình đã sai phạm để xin lỗi vậy.
Sám hối là một tình cảm. Giống như một khi người ta bị say rượu, sự thôi thúc của lòng sám hối che mờ lý trí của người ta, khiến họ không còn biết nên nói gì. Còn biết thì không còn là sám hối nữa. Khi ấy lý trí đã can thiệp và nó sẽ chỉ cho người ta mưu chước để trốn tránh hay để đổ tội.
Lý trí giống như cái thang tre, nó có từng bậc và giúp cho người ta suy tính từng bước. Tình cảm giống như một tia nước, không có khấc hay một mức nào cả. Đụng đến là trào dâng, cơn ghen là bằng chứng. Sự thôi thúc phải nói thật đã được Lê Vân kể lại rằng:"Ngay cả điều khủng khiếp nhất là tôi gục ngã trong cảm giác bị trừng phạt thì cũng không kinh sợ bằng việc tội dung túng cho sự dối trá".
Muốn sám hối thì phải xét lại mình, mình đã làm gì, đã không làm gì và đối với những ai. Khi nói lên những điều ấy với một người khác như ở Tòa án, hay như người Công giáo ở Tòa giải tội, thì đó là xưng tội. Còn nói với chính mình thì ấy là phán xét. Khi bị phán xét thì một mình ta đứng trước lương tâm của mình và nó đặt ra những câu hỏi.
Ở vào hoàn cảnh ấy, người ta không thể trốn tránh vào đâu, không thể viên lý này, nêu lẽ nọ để trả lời về một việc nào đó đã diễn ra trong đời mình. Trong những giây phút ấy, sự thật là trên hết. Nó là đòi hỏi cao nhất khiến cho lòng hiếu thảo, tình chị em, sự phật lòng người khác không còn ý nghĩa gì. Tuy nhiên, khi bị lương tâm phán xét thì vẫn có những quy luật được lương tâm áp dụng, nghĩa là nếu mình lâm vào các trường hợp như vậy thì lương tâm sẽ không trách móc và mình không thấy áy náy.
Quy luật thứ nhất là "đong đấu nào đã đấu nấy" , hay biết đến đâu thì bị thưởng hay phạt đến đó. Nếu Lê Vân có nhắc việc này, bỏ việc khác không phải vì chị nói dối mà vì những gì chị đã được dạy dỗ, hay hiểu biết đến mức nào để coi cái này là trọng, cái kia là không khi bị phán xét. Quy luật này thì tòa án cũng áp dụng. Thí dụ, người làm công ăn cắp của chủ thì bị phạt nặng hơn người thường ăn cắp.
Quy luật thứ hai là “ta bị thưởng, phạt tùy theo ý định ta đã có, nhiều hơn là sự thực hiện ta đã hoàn thành”. Quy luật này là một sự cảm nghiệm. Thí dụ bạn đã định bụng đến thăm một người ốm nặng, vừa sửa soạn đi thì trời mưa to, không đi được nữa. Ngày hôm sau người kia mất, bạn chỉ tiếc là mình không đi được, chứ không bị sự hối hận dày vò.
Thật ra, tội lỗi hay hình phạt là một tác động hòan toàn mang tính cá nhân, cảm thấy hay không thỉ chỉ một mình biết và chịu. Biết những đặc điểm ấy của tâm lý, chúng ta dễ dàng tha thứ để cho nơi ta sống đẹp hơn lên, chỗ ta làm ấm cúng hơn. Hơn nữa “khi tha người khác mình cũng sẽ được tha ”.
Nguồn: Tạp chí Phụ nữ

Sửa bởi pth77: 26/07/2014 - 03:26


Thanked by 1 Member:

#127 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 26/07/2014 - 11:03

CHỨNG CỨ LỊCH SỬ VÀ KHÍA CẠNH LUẬT PHÁP VỀ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA, TRƯỜNG SA VÀ QUYỀN CHỦ QUYỀN Ở VÙNG BIỂN CHUNG QUANH. TRIỂN VỌNG GIẢI QUYẾT HÒA BÌNH CÁC TRANH CHẤP ĐÃ VÀ CÓ THỂ XẢY RA VỚI CÁC QUỐC GIA KHÁC BẰNG THƯƠNG NGHỊ, HÒA GIẢI HAY TÀI PHÁN

GS Tạ Văn Tài
18-07-2014

Chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam tại phần lớn hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (không phải là trên tất cả các đá, bãi ngầm – phải nói thế mới đúng về mặt sự kiện thực tại và về mặt pháp luật và mới tôn trọng các quốc gia khác trong vùng) và các quyền chủ quyền (sovereign rights, về tài nguyên) đi liền với các vùng biển chung quanh chúng, mà luật dành cho Việt Nam, thì có căn bản chắc chắn trong các chứng cớ sự kiện lịch sử và trong quốc tế công pháp truyền thống và luật quốc tế mới của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (United Nations Convention on the Law of the Sea,UNCLOS).
Ở đây, chúng tôi chỉ có thể trình bày những điểm chính trong một bài viết ngắn, vì trình bày chi tiết sẽ cần một bài dài hơn. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ cố gắng đề ra các căn bản vững chắc cho việc xác lập chủ quyền Việt Nam và do đó sẽ tỏ rõ thiện chí của lập trường Việt Nam khi nói đến các đường lối thương nghị, hòa giải và tài phán về chủ quyền quốc gia và khai thác chung quốc tế.

1. Căn bản về sự kiện lịch sử và pháp lý của chủ quyền Việt Nam trên các quần đảo và của các quyền chủ quyền trong các vùng biển bao quanh chúng

1.1. Sự xác lập chủ quyền lãnh thổ trên từng mẩu đất, đá trong các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Sự xác lập này phải dựa vào quy tắc thủ đắc chủ quyền lãnh thổ của luật quốc tế truyền thống hay thông lệ của 4 thế kỷ qua: một chính quyền của một quốc gia muốn xác lập chủ quyền trên một vùng đất đai thì phải tuyên bố ý định đó, sau khi khám phá hay chiếm hữu đất đai đó, và liên tục quản lý trong hòa bình, và nếu bị một chính quyền khác dùng võ lực chiếm mất, thì phải phản đối để không cho quyền lực mới đó thủ đắc chủ quyền bằng thời hạn tiêu diệt, nghĩa là có một thời gian mà chủ thể quyền lực mới thi hành chủ quyền liên tục mà không ai phản đối.
Mỗi một quốc gia yêu sách chủ quyền đối với một mẩu đất trong hai quần đảo nói ở đây (xin lưu ý chúng tôi dùng chữ “mẩu đất” vì hầu hết, nếu không phải tất cả, các mẩu đất chỉ là đá (reef, rock), chứ không phải là đảo (island), theo định nghĩa của UNCLOS), thì phải trưng ra chứng cứ đã khám phá và chiếm ngụ mẩu đất đó hợp pháp, trong hòa bình. (Vì thế mà Hoa Kỳ luôn nói, rất hữu lý, là không thiên về bên nào trong tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, và chỉ khuyến cáo tranh chấp phải giải quyết trong hòa bình, theo luật quốc tế).
Ở Trường Sa, các mẩu đất đã được khám phá, chiếm ngụ và quản lý trong hòa bình bởi các quốc gia Đông Nam Á, và giữa họ không có tranh chấp lớn gì, và thực ra chỉ có tranh chấp khi một thế lực bên ngoài là Trung Quốc, chiếm đoạt bằng võ lực đá Gạc Ma từ tay Việt Nam vào năm 1988, giết 64 chiến sĩ hải quân Việt Nam, và gần đây lấn chiếm đá ngầm Scarborough của Philippines, đuổi dân chài và tàu chiến của Philippines ra xa. Nhưng chiếu luật quốc tế, các vụ xâm chiếm bằng võ lực này không biện minh được cho chủ quyền của Trung Quốc, vì UNCLOS chỉ dành quyền xây đảo nhân tạo trên đá ngầm cho các nước cận duyên, và nhất là cả Việt Nam và Philippines liên tục phản đối để tránh cho sự thủ đắc bằng thời hiệu khỏi xảy ra.
Riêng trường hợp Việt Nam, thì đã có các bằng chứng lịch sử ghi rõ chính quyền Việt Nam thời xưa đã ra lệnh các hải đội quốc gia làm các cuộc hải trình hàng năm của nhà nước ra Hoàng Sa trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch (tháng 4 đến 9 Tây lịch). Hải trình này thực hiện bởi Đội Hoàng Sa (lập vào thời chúa Nguyễn Phúc Lan, 1635 – 1648). Và cũng đi ra Trường Sa, Côn Sơn và Hà Tiên – hải trình này thực hiện bởi Đội Bắc Hải, lập năm 1776. Đó là những chứng tích lịch sử được ghi nhận trong Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (1686) của Đỗ Bá hay trong Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quí Đôn. Ngoài ra, còn có cả chứng cứ trong các tài liệu Trung Quốc, như Hải ngoại kỷ sự (1696) của Thích Đại Sán. Đến thế kỷ XIX, tài liệu lịch sử thời Nguyễn cho thấy các cuộc hải trình do nhà nước tổ chức vẫn tiếp tục từ năm 1803 đến khi người Pháp đô hộ Việt Nam (từ năm 1884), với những chỉ dụ chi tiết cho các đơn vị hải quân và các viên chức hành chánh địa phương. Thời thuộc địa, nhà cầm quyền Pháp nói tới ít ra là 6 đá hay mỏm đất trong vùng Trường Sa. Từ 1945, Việt Nam là quốc gia chiếm nhiều đá nhất với 29 đảo, đá (hay ít hơn, nếu trừ đi số đá bị Trung Quốc chiếm năm 1988 và các năm sau). So sánh với nước khác thì Trung Quốc mới chỉ bắt đầu để ý đến Trường Sa vào năm 1947 qua việc ông Bai Meichu, một nhân viên cấp thấp, vẽ bản đồ “đường 9 đoạn” thâu tóm 80% Biển Đông, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đối với Trường Sa, Trung Quốc hành động trên thực tại lần đầu tiên là khi Trung Hoa Dân quốc (THDQ) chiếm đảo Itu-Aba (đảo Ba Bình) năm 1956 mà không cần dùng võ lực, và lần thứ hai là khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (gọi tắt là Trung Quốc) tấn công lực lượng hải quân Việt Nam năm 1988 tại đảo Gạc Ma. Trong khi Trung Quốc dùng võ lực lấn chiếm một số đá ở Trường Sa, thì Việt Nam tôn trọng luật quốc tế và quyền lợi các nước Đông Nam Á, vì Luật Biển Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 1.1.2013, ghi nhận là danh sách các đảo, đá thuộc Việt Nam sẽ công bố sau – chắc là muốn định mức độ chủ quyền phải chăng, sau khi bàn với các nước Đông Nam Á khác.
Trong vùng quần đảo Hoàng Sa, tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên các đảo/đá chỉ xảy ra giữa Trung Quốc và Việt Nam. Trong biến cố làm cho tranh chấp sôi nổi mạnh mẽ là việc Trung Quốc, vào tháng 5.2014, đặt giàn khoan dầu khí HD-981 ở vùng biển giữa Hoàng Sa và miền Trung Việt Nam, ngay cạnh hai lô thăm dò dầu khí 142 và 143 của Việt Nam, thì Trung Quốc tuyên bố một câu là vị trí đặt giàn khoan “là hoàn toàn trong vùng biển của Hoàng Sa thuộc Trung Quốc”, hàm ý là ở trong vùng đặc quyền kinh tế của họ, tính từ Hoàng Sa, nơi họ đã chiếm bằng quân sự, gần đây nhất là cuộc hải chiến năm 1974 với Việt Nam Cộng hòa. Vậy ta phải bàn về điểm pháp lý là quốc gia nào có chủ quyền chính đáng trên Hoàng Sa, vì việc tranh chấp chủ quyền nơi đây dã kéo ra một thời gian dài, cuộc khủng hoảng gây ra do giàn khoan HD-981 chỉ là biến cố gần đây nhất.
Những sự kiện lịch sử về việc Việt Nam khám phá và chiếm cứ Hoàng Sa (cũng như một số đá trong Trường Sa, như nói trên) thì có thể truy tầm trong các sử liệu Việt Nam đã có nhiều thế kỷ, thí dụ Phủ biên tạp lục nói ở trên, trong khi đó thì sử liệu Trung Quốc không đả động gì tới Hoàng Sa, Trường Sa, và nói đảo Hải Nam là biên giới cực nam của nước Tàu; trong các sử liệu Tàu đó, phải kể bản đồ chi tiết, năm 1717, thời vua Khang Hi nhà Thanh, do các nhà truyền giáo Dòng Tên nước Pháp soạn, mà một bản sao của J.B. Bourguignon mới được Thủ tướng Đức Angela Merkel tặng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Sử liệu Việt Nam thời các vua chúa và thời Pháp thuộc cho thấy nhiều lần nhà nước tuyên bố chủ quyền và xác lập quản lý cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa. Nhật ký của các nhà truyền gíao và du ký của các du khách Tây phuơng cũng nhắc lại như vậy.
Có hai nhóm đảo/đá trong Hoàng Sa. Nhóm phía tây, có tên là Crescent (nhóm Nguyệt Thiềm hay nhóm Lưỡi Liềm), trong đó có Hoàng Sa (Pattle), theo luật quốc tế phải coi là thuộc Việt Nam dù hiện do Trung Quốc chiếm, vì Trung Quốc đoạt bằng võ lực năm 1974 nơi tay Việt Nam Cộng hòa (VNCH) trong sự chống cự của hải quân VNCH thì cũng không tạo ra chủ quyền hợp pháp của họ, và cũng không tước mất đi quyền thừa kế quốc gia về mặt chủ quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCN Việt Nam), mà chính quyền này liên tục phản đối sự chiếm cứ của người Tàu từ bao năm nay.
Về nhóm các hòn đảo, đá phía đông của Hoàng Sa, gọi là nhóm Amphitrite, trong đó có Phú Lâm (tiếng Anh gọi là Woody, tiếng Pháp gọi là Boisée), thì do người Pháp lơ là, nên vào năm 1909, Tổng đốc Quảng Đông tự cho mình quyền cho người Nhật khai thác phosphate ở đó, và do đó có người cho là sự xác lập chủ quyền Việt Nam không vững lắm. Nhưng lập trường giải thích ngược lại cũng có lý: nhiều sử liệu cho thấy công ty người Nhật Mitsui Bussan Kaisha tôn vinh thẩm quyền nhà cai trị Pháp, người Pháp vào năm 1920 gửi một phái đoàn khoa học tới Amphitrite, kể cả ở Phú Lâm, rồi vào năm 1938 lập đài khí tượng ở đây, vào năm 1946 phản đối quân đội THDQ chiếm đóng, và sau cùng năm 1950 trao quyền cho chính phủ Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại khi quân đội Trung Hoa rút lui. Tại Hội nghị San Francisco năm 1951 về hậu chiến, Liên Xô đưa ra đề nghị để Trung Quốc cai quản hai quần đảo, nhưng Hội nghị không ủng hộ, nhưng rồi sau đó Thủ tướng Trần Văn Hữu của chính phủ Quốc gia Việt Nam ra tuyên bố xác nhận chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa thì không nước nào phản đối. Sau khi Ngô Đình Diệm trở thành nguyên thủ quốc gia tại VNCH (Miền Nam Việt Nam sau Hiệp định Geneva 1954), thì ngoại trưởng của ông xác lập chủ quyền Việt Nam lần nữa, khi Trung Quốc chiếm Phú Lâm bằng võ lực năm 1956, do đó tránh hậu quả thời tiêu chủ quyền Việt Nam trên Hoàng Sa.

Bây giờ ta cần giải quyết một sự kiện: cái công thư (hay công hàm) ngoại giao ngày 14.9.1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH ở Miền Bắc Việt Nam) gửi Tổng lý (Thủ tướng) Chu Ân Lai nhân dịp Trung Quốc tuyên bố lãnh hải 12 hải lý. Sau nhiều lần viện dẫn công thư Phạm Văn Đồng, coi đó là lời nhượng lãnh thổ Hoàng Sa – Trường Sa của Việt Nam, thì vào tháng 6.2014, Trung Quốc lại dùng nó nhân dịp đặt giàn khoan HD-981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Do đó, ta phải bàn luận cứ pháp lý trong chi tiết. Nội dung văn thư đại khái như sau: Sau khi Chu Ân Lai tuyên bố lãnh hải Trung Quốc là 12 hải lý tính từ lãnh thổ Trung Quốc, gồm lục địa và các đảo ở đại dương, như Đài Loan và các đảo quanh đó, Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa, Nam Sa và các đảo khác, thì ông Phạm Văn Đồng viết cho ông Chu Ân Lai như sau: “Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý (Chu Ân Lai) rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4.9.1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc”.

Công thư không nói gì đến vấn đề chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa. Trước hết, Hiệp định Geneva năm 1954 chia đôi Việt Nam đã trao quyền quản lý Hoàng Sa và Trường Sa, ở phía nam vĩ tuyến 17 (lằn ranh chia cắt) cho VNCH ở phía nam vĩ tuyến đó. Do đó, nhiệm vụ xác lập và hành xử chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc thẩm quyền VNCH. Chính quyền này, và hải quân của họ, đã mạnh mẽ xác định chủ quyền trong và sau trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974 giữa hải quân VNCH – lúc đó đang chiếm ngụ và quản lý các quần đảo – và hải quân Trung Quốc xông tới tấn công. Thủ tướng Phạm Văn Đồng của VNDCCH không có thẩm quyền, hay ý định, ra một tuyên bố chủ quyền về các quần đảo lúc đó đang thuộc VNCH. Ông chỉ tuyên bố công nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc mà Thủ tướng Chu Ân Lai đã tuyên bố trước đó.
Sự hiện hữu của một quốc gia là một vấn đề sự kiện thực tại (question of fact) theo luật quốc tế. Cho nên dù rằng nguyện vọng trong khẩu hiệu “Dân tộc Việt Nam là một, nước Việt Nam là một” biểu lộ một lý tưởng của nhiều người Việt, kể cả H-C-M, thì từ năm 1954 đến năm 1975, sự hiện hữu của hai nước Việt Nam, tức VNDCCH và VNCH, là đúng với luật quốc tế, và theo đó VNCH là quốc gia hành xử chủ quyền tại các quần đảo trong thời gian đó.

CHXHCN Việt Nam là quốc gia kế quyền lãnh việc thừa kế vai trò chủ quản các quần đảo. Việc thừa kế chủ quyền này được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói tới trong một bài diễn văn tại Quốc hội ngày 25.11.2011. Ông nói rằng vào năm 1974, Trung Quốc dùng võ lực chiếm nốt Hoàng Sa “đang dưới quyền quản lý thực tại của chính phủ Sai Gòn, chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa lên tiếng phản đối cuộc tấn công và đề nghị Liên Hiệp Quốc can thiệp. Năm 1975..Hải quân chúng ta đã tiếp quản 5 hòn đảo tại quần đảo Trường Sa,….năm đảo này do chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đang quản lý, chúng ta tiếp quản. Sau đó với chủ quyền của chúng ta, chúng ta mở rộng thêm lên 21 đảo”.
Chiếu điều khoản quy định về sự hiện hữu của một .quốc gia trong Công ước Montevideo năm 1933 đúc kết luật pháp quốc tế truyền thống hay thông lệ đã có nhiều thế kỷ, thì VNCH là một chủ thể hội đủ 4 điều kiện pháp lý của một quốc gia: (a) một dân số ổn định, (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

một lãnh thổ rõ ràng, © một chính quyền, và (d) khả năng lập bang giao với các quốc gia khác. Khi các quốc gia nhìn nhận một quốc gia hội đủ 4 điệu kiện pháp lý này và lập bang giao với nó, thì sự nhìn nhận này là một quyết định chính trị thêm vào 4 tiêu chuẩn pháp lý. Do đó, dù một quốc gia không ưa và không nhìn nhận một quốc gia khác, nó cũng không thể triệt tiêu tư cách quốc gia của nước đó. Thí dụ Cuba bị Mỹ ghét và không nhìn nhận, thì Mỹ cũng không thể xóa bỏ tư cách quốc gia của Cuba. Trong thập niên 1920, Mỹ không nhìn nhận Liên Xô do người Bolsheviks cai trị, nhưng các tòa án Mỹ cũng phải công nhận quốc gia đó và do đó công nhận quốc gia đó có đặc quyền miễn trừ ngoại giao, không thể bị kiện để bị đòi bồi thường về chuyện quốc hữu hóa các tài khoản ký thác trong các ngân hàng ở Liên Xô. Thế mà VNCH đã được mấy chục nước nhìn nhận. Ngay Liên Xô cũng có lúc đề nghị thu nhận hai nước Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc. Việc nhận vào Liên Hiệp Quốc chỉ là một vấn đề chính trị và không phải là một tiêu chuẩn pháp lý quyết định sự ra đời của một quốc gia. Hiệp định Geneva quy định là Việt Nam tạm thời chia làm hai miền cho đến khi tổng tuyển cử thống nhất. Sự quy định đó cũng không phải là tiêu chuẩn để nói rằng chỉ có một Việt Nam sau đó, và VNCH “không có dưới ánh mặt trời”. Nói như vậy là không hiểu luật quốc tế trong nhiều thế kỷ đã quy định các tiêu chuẩn của sự hiện hữu của một quốc gia, là lẫn lộn các tiêu chuẩn của luật quốc tế với sự sắp xếp chính trị tạm thời do một số cường quốc đưa ra trong Hiệp định Geneva mà chỉ có một số quốc gia tham gia ký, là quên cả cái thực tại chính trị là vài chục quốc gia đã nhìn nhận VNCH, mà một số nhỏ các quốc gia ký Hiệp định không thể truất quyền của vài chục quốc gia đó.


Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói, và có thể nói trong quá khứ, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã mặc nhiên ám chỉ (mơ hồ trong trường hợp này là một nghệ thuật ngoại giao và chính trị) là có hai nước Việt Nam thời gian 1954 trở đi, và ông chỉ nói tới tuyên nhận 12 hải lý lãnh hải của ông Chu Ân Lai mà không nói đến các vùng đất mà ông Chu liệt kê. Vì rằng làm sao mà ông Phạm Văn Đồng có quyền ban bố cho Trung Quốc chủ quyền đối với các vùng đất, đá cai quản bởi Đài Loan và các nước Đông Nam Á, kể cả VNCH? Nói có hai nước Việt Nam trong thời gian 20 năm đó cũng không làm giảm thành tích thống nhất đất nước sau này, sau năm 1975, vì trong lịch sử thế giới, nhiều quốc gia bị chia cắt rồi lại thống nhất, hay ngược lại. Tan hợp, hợp tan là lẽ thường trên trái đất.

Điểm thứ hai là công thư 1958 của ông Phạm Văn Đồng chỉ là một tuyên bố đơn phương không có giá trị nhượng đất, chiếu theo luật quốc tế. Cái lý thuyết Estoppel trong luật quốc nội một số nước, theo đó “điều nói ra thì không thể rút lại”, không thể áp dụng dễ dàng trong bang giao quốc tế, vì có điều kiện áp dụng khó hơn, như vụ giữa Đức với Đan Mạch và Hà Lan về tranh chấp thềm lục địa đã xử. Ngoài ra, Tòa án Công lý Quốc tế, trong vụ “Nuclear Tests Case, Australia & New Zealand versus France” năm 1974 (I.C.J.253), xét về ý nghĩa lời tuyên bố đơn phương (unilateral declaration), đã xử rằng khi xét ý nghĩa lời tuyên bố đơn phương, tòa án quốc tế phải giải thích chặt chẽ “ý định” của ngưòi tuyên bố: “Khi các quốc gia đưa ra tuyên bố có thể hạn chế bớt tự do hành động của mình, thì cần giải thích chặt chẽ… Chỉ cần xét văn từ trong lời tuyên bố có tỏ rõ một ý định rõ ràng hay không… Tòa án phải có quan điểm riêng về ý định của tác giả về ý nghĩa và phạm vi của lời tuyên bố đơn phương… Và không có thể theo quan điểm của một quốc gia khác không phải là một tham dự viên của lời tuyên bố đó”. Theo tiêu chuẩn của quy tắc luật trong bản án đó, ý định của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong công thư năm 1958 phải được thẩm định theo văn từ hiển hiện trong văn bản (nói theo danh từ các luật sư hay dùng, là “within the four corners of the page”–trong bốn góc của trang giấy), thì công thư trên chỉ nói đến hải phận 12 hải lý mà không nói đến các lãnh thổ thuộc quyền các nước khác. Ngoài ra, công thư cũng nên được chiếu rọi thêm ánh sáng bằng cách đặt công thư đó trong khuôn khổ Hiến pháp 1946 của nước VNDCCH. Theo đó, vai trò Thủ tướng là một nhân viên của nội các, dưới quyền Chủ tịch nước, phó Chủ tịch nước (điều 44); và quyết định quan trọng như nhượng chủ quyền lãnh thổ, thì Chủ tịch nước phải ký một hiệp ước (điều 49, khoản a và h), rồi lại phải có Quốc hội, cơ quan quyền lực tối cao, phê chuẩn (điều 22 và 23). Theo học lý “ultra vires” (vượt quyền), ông Phạm Văn Đồng không thể hành xử quyền qua mặt Chủ tịch nước và Quốc hội được. Nghĩa là công thư 1958 của ông Phạm Văn Đồng chỉ là lời tuyên bố ủng hộ ngoại giao hải phận 12 hải lý mà Trung Quốc nóng lòng tuyên bố, vì lúc đó mối đe dọa của Hoa Kỳ đang tiến sát tới lục địa Trung Quốc, với sự hiện diện của quân đội Đài Loan có Hoa Kỳ hỗ trợ với tàu chiến và pháo hạm tại 2 đảo Kim Môn và Mã Tổ, chỉ cách Trung Quốc đại lục vài cây số, và với Hạm đội 7 mạnh mẽ gấp bội tại eo biển Đài Loan.
Tóm lại một tòa án quốc tế không cần để ý đến cách giải thích công thư của ông Phạm Văn Đồng năm 1958 một cách chủ quan, như Trung Quốc đã làm, để thủ lợi cho mình.

Còn vài luận cứ khác của Trung Quốc cũng nên bàn để bác bỏ:
Trung Quốc viện dẫn hai bài báo trong Nhân Dân nhật báo, số ngày 6.8.1958 đăng bản tuyên bố của Chu Ân Lai mà có cả đoạn ghi hai chữ Xisha (Tây Sa) và Nansha (Nam Sa) và số báo ra ngày 9.5.1965 phản đối Mỹ vi phạm hải phận Trung Quốc tại Tây Sa và Nam Sa. Trung Quốc cũng nhắc lại lời thứ trưởng ngọai giao VNDCCH Ung Văn Khiêm về sự kiện này, rồi nói VNDCCH đã im lặng nhiều năm, không phản đối Trung Quốc khi Trung Quốc chiếm đảo Phú Lâm thuộc nhóm Amphitrite ở phía đông quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956, và khi Trung Quốc chiếm đảo Hoàng Sa thuộc nhóm Cresent phía tây vào năm 1974. Sau hết, Việt Nam đã in bản đồ có ghi tên Tây Sa (Trung Quốc), Nam Sa (Trung Quốc) cùng với cuốn sách giáo khoa lớp 9, có một dòng như sau: “Chuỗi đảo từ Nam Sa và Tây Sa, tới Hải Nam, Đài Loan, Bành Hồ và Châu Sơn, có hình như cái cung và tạo thành bức trường thành bảo vệ lục địa Trung Quốc”.
Việt Nam có thể phản biện là ngay công thư Phạm Văn Đồng cũng không tạo ra văn kiện nhượng đất, thì có ăn thua gì mấy bài báo của phóng viên hay lời nói của ông Ung Văn Khiêm, chỉ nhắc lại nguyên văn những lời của Trung Quốc để “nịnh” Trung Quốc ở thời điểm Việt Nam tùy thuộc viện trợ Trung Quốc. Những lời này không có giá trị nhượng đất, vì theo luật, văn thư nhượng đất phải xuất phát từ các cơ quan có thẩm quyền. Về sự im lặng của VNDCCH khi mất các hòn đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa trước 1975, thì lý do là vào thời gian đó, nhiệm vụ phản đối là ở trong tay VNCH, đang có chủ quyền và đang quản lý các quần đảo. Và VNCH đã phản đối mạnh mẽ, bằng lời và bằng trận hải chiến anh dũng năm 1974. Sau đó, khi sắp thống nhất đất nước và sau khi thống nhất, hải quân của VNDCCH nhanh chóng chiếm Trường Sa, và sau đó, từ 1976, chính phủ nước Việt Nam thống nhất liên tục lên tiếng phản đối Trung Quốc để bảo lưu chủ quyền trên các đảo, đá, đã bị Trung Quốc chiếm. Việt Nam in bản đồ ghi chú như đã nói là chiều theo cách tuyên truyền của Trung Quốc (mà Trung Quốc có cử cố vấn làm việc trong cục bản đồ của Việt Nam), mà không có giá trị của lời minh thị nhượng đất của một cơ quan có thẩm quyền như Quốc trưởng trong một văn bản, và cũng vô giá trị về xác lập chủ quyền như việc Trung Quốc in hình “đường 9 đoạn” vào hộ chiếu do Trung Quốc cấp cho công dân của họ, thì cũng chẳng tạo ra chủ quyền của Trung Quốc đòi chiếm trên 80% Biển Đông. Câu văn trong sách giáo khoa lớp 9 chỉ là một khẩu hiệu tuyên truyền, một hoa ngữ, để ủng hộ Trung Quốc vào lúc mà họ đang lo lời tuyên bố trước đó của Tổng thống Mỹ Johnson ấn định vùng đó là vùng chiến tranh, chứ không phải là văn kiện nhượng đất. Mà làm sao Việt Nam có thể nhượng Đài Loan hay các hòn đảo của các nước Đông Nam Á cho Trung Quốc chỉ bằng việc in một câu trong sách giáo khoa?

Sau khi giải quyết khúc mắc chính là công thư Phạm Văn Đồng năm 1958, thì nếu nhìn toàn cục diện thời gian hơn 20 năm, 1954 – 1975, trong đó có hai nước Việt Nam, ai cũng thấy vai trò xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa và quản lý chúng, là ở trong tay VNCH, do Hiệp định Geneva 1954 trao phó. Hiệp định này có một số cường quốc ký, cả Trung Quốc và VNDCCH cũng ký (do ông Phạm Văn Đồng đại diện). Hành xử chủ quyền do quốc tế giao, Tổng thống Ngô Đình Diệm của VNCH ký hai sắc lệnh sát nhập Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa và Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Nam, gửi hải quân đến các quần đảo này, và cho phép một kỹ nghệ gia khai thác phosphate. Việc xác lập chủ quyền của VNCH đối với quần đảo Hoàng Sa được bày tỏ rõ rệt, mạnh mẽ nhất với cuộc hải chiến ngày 19.1.1974 của hải quân VNCH chống lại hải quân Trung Quốc tới xâm chiếm Hoàng Sa, sau khi Trung Quốc thông báo chủ quyền (với hòn đảo này) vào ngày 12.1.1974 thì VNCH đã phản đối vào ngày 16.1.1974 với lời yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc can thiệp. Sau trận hải chiến, ngày 20.1.1974, VNCH lại yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc họp khẩn để can thiệp. Lần chót VNCH nêu vấn đề chủ quyền và phản đối Trung Quốc là tại Hội nghị Luật Biển của Liên Hiệp Quốc vào ngày 28.6.1974 ở Caracas (Venezuela).
Sau khi thống nhất đất nước, CHXHCN Việt Nam, kế quyền về các quần đảo, đã nhiều lần phản đối sự xâm chiếm của Trung Quốc. Ngày 24.9.1975, khi gặp phái đòan Việt Nam sang thăm, Phó Thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình nhìn nhận có tranh chấp về các quần đảo giữa Trung Quốc và Việt Nam, và gợi ý đàm phán để giải quyết. Liên tục nhiều năm, Việt Nam đã phản đối và đưa ra các chứng cứ lịch sử về chủ quyền, trong lời tuyên bố hay các bạch thư (sách trắng) vào các năm: 1978, 1979, 1980, 1981, 1982, 1984, 1988 (phản đối Trung Quốc tuyên bố sát nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào đảo Hải Nam), 1990, 1991, 1994 (phản đối Trung Quốc ký hợp đồng với hãng Crestone cho phép thăm dò trong thềm lục địa và vùng kinh tế đặc quyền của Việt Nam), 2012 (phản đối Trung Quốc đưa ra chương trình quản lý các đảo, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa). Việt Nam cũng phải đổ máu bảo vệ chủ quyền ở Gạc Ma năm 1988 khi đem đồ tiếp tế đến cho các chiến sĩ bảo vệ hòn đá đó, mà Trung Quốc tàn sát 64 chiến sĩ hải quân khi họ đang lội nước ngang lưng. Trong vụ giàn khoan HD-981 từ tháng 5.2014 đến nay, Việt Nam đã đưa tàu kiểm ngư và tàu cảnh sát biển tới vùng biển nơi HD-981 đang hoạt động trái phép để bảo vệ chủ quyền và yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan. Ngư dân Việt Nam vẫn tiếp tục đánh cá ở gần đó, mặc dùng bị các tàu Trung Quốc bao vây nhưng họ vẫn giữ một khoảng cách an toàn, hầu tránh xung đột võ trang, vừa để mưu sinh, vừa để bảo vệ chủ quyền với sự tự kiềm chế, mặc dù Trung Quốc rất hung hãn, dùng võ lực, đâm tàu Việt Nam và dùng súng nước tấn công tàu Việt Nam. Các lời phản đối và hành động bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với vùng biển Hoàng Sa trong vụ giàn khoan HD-981 càng cho thấy chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và vùng biển chung quanh luôn được duy trì, không hề bị xói mòn.

1.2. Quyền lợi Việt Nam trong vùng biển, tức vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Vùng biển quanh các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong Biển Đông là nơi Trung Quốc gây ra tranh chấp vì Trung Quốc vẽ ra “đường 9 đọan”, còn gọi là “đường lưỡi bò”, để mạo nhận chủ quyền trong khu vực rộng tới 80% Biển Đông. Nhưng Trung Quốc không đưa ra được căn bản luật quốc tế nào cho sự nhận vơ này, mà còn mơ hồ hay mâu thuẫn trong lúc biện giải tại các hội nghị quốc tế, khi thì nói đến “vòng cung lịch sử” (historical circumference), khi thì nói đến các “vùng biển lân cận” (adjacent waters) tính từ các đảo/đá của Hoàng Sa và Trường Sa mà họ cũng đã nhận vơ như đã nói ở trên.
Nhưng các yêu sách quá đáng và vô căn cứ này trái với UNCLOS, vì các điều 56, 57, 76, 77 qui định là các quốc gia cận duyên (quanh Biển Đông) có chủ quyềnquyền chủ quyền (sovereign rights) về tài nguyên trong vùng lãnh hải (territorial sea) 12 hải lý tính từ đường cơ sở (base line), tức lằn mức thủy triều thấp, và trong vùng đặc quyền kinh tế (Exclusive Economic Zone, EEZ) rộng 200 hải lý, tính từ đường cơ sở, cũng như ở thềm lục địa (Continental Shelf, CS) tính từ đường cơ sở ra thềm lục địa hay 200 hải lý. Các quyền chủ quyền về tài nguyên, tài nguyên sinh vật như cá sống trong vùng nước 200 hải lý đó, cũng như tài nguyên vô sinh như dầu khí và khoáng chất dưới đáy biển, là các quyền chuyên độc hay dành riêng (exclusive rights) của các quốc gia cận duyên, mà họ được hưởng mà không cần ra tuyên bố xác lập. Các quốc gia cận duyên có quyền xây các kiến trúc nhân tạo trên các đá, dù nhô trên mặt nước biển hay ngầm, thành các đảo nhân tạo, thi hành nghiên cứu biển, qui định việc bảo vệ môi sinh, miễn là họ tôn trọng các quốc gia khác khi họ sử dụng quyền tự do lưu thông hải hành (freedom of navigation) hay đặt các ống dẫn dầu và cáp ngầm. Các quốc gia khác đó không có quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia cận duyên, nếu không có sự ưng thuận minh thị của các nước cận duyên. Thực là UNCLOS dành các quyền chuyên độc cho các nước cận duyên một cách chắc chắn như “đinh đóng cột”.
Về cái quyền của tất cả các quốc gia, cận duyên hay không cận duyên, được tự do lưu thông trên biển, tại vùng đặc quyền kinh tế hay vùng biển cả (high sea) ở ngoài xa hơn, thì nó bị vướng mắc vào yêu sách “đường 9 đoạn” vô căn cứ của Trung Quốc (tại Hội nghị phân chia biên giới biển ở Houston, Hoa Kỳ năm 2010, đại điện Trung Quốc đã mở miệng nói một câu rất xúc phạm các nước khác là “vào trong vùng ‘đường 9 đoạn’, quí vị phải tuân theo luật Trung Quốc”). Đường “đường 9 đoạn” này hoàn toàn trái với UNCLOS (điều 89 của UNCLOS nói yêu sách chủ quyền trên biển cả là vô giá trị) và trái với luật quốc tế cổ truyền, hay ngay cả luật tương đối mới là Hội nghị Luật Biển năm 1958 (chỉ công nhận vùng lãnh hải 3 hải lý thôi).
Được vẽ ra bởi một nhân viên cấp thấp từ thời Trung Hoa Dân quốc năm 1947, “đường 9 đoạn” bị lãng quên cho đến năm 2009, khi triển vọng dầu khí ngày càng cao ở Biển Đông, thì Trung Quốc mới đưa “đường 9 đoạn” này vào hồ sơ xin nới rộng thềm lục địa gửi Ủy ban của Liên Hiệp Quốc về Ấn định biên giới thềm lục địa (UN Commission on the Limit of the Continental Shelf). Lập tức, nó bị Việt Nam, Philippines và Indonesia phản đối. Những bằng chứng lịch sử Trung Quốc đưa ra để biện minh cho “đường 9 đoạn” xâm phạm vào quyền của mọi quốc gia, đặc biệt là các nước Đông Nam Á, như bằng chứng về các cuộc hải trình của Đô đốc Trịnh Hòa vào thế kỷ XV, thì không thể thắng được các bằng chứng cả 4 ngàn năm sinh họat nghề cá, du lịch và thương mại hàng hải, của các dân tộc Malaysia, Indonesia (họ đến tận Madagascar, để lại ngôn ngữ và 50% gene), Philippines, Việt Nam và Đế chế Khmer – Phù Nam thời trung đại – có trình bày trong hồ sơ Philippines nộp cho Tòa án Trọng tài về Luật Biển.
Các viên chức và học gỉa Trung Quốc đã không trả lời nổi các câu chất vấn về yêu sách chủ quyền ở đại dương trong “đường 9 đoạn” tại các hội nghị quốc tế.

2. Dù có căn bản vững chắc về sự kiện và về pháp lý cho chủ quyền của mình, người Việt nên chủ trương giải quyết hòa bình các tranh chấp chủ quyền đã hay sẽ xảy ra qua thủ tục thương nghị, hòa giải (trong đó có giải pháp khai thác chung) hay tài phán.

Tranh chấp ở Biển Đông trở nên gay gắt khi Trung Quốc vào ngày 2.5.2014 đã kéo giàn khoan dầu khí HD-981 vào đặt trong vùng biển gần đảo Tri Tôn thuộc Hoàng Sa, cách bờ biển miền Trung Việt Nam chưa tới 120 hải lý để khoan thăm dò dầu khí. Trong khi Trung Quốc nói vị trí đặt giàn khoan này nằm ở trong vùng biển của Tri Tôn, gần đảo Hải Nam của Trung Quốc thì Việt Nam nói là nó đặt trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Sau hơn 70 ngày tranh luận gay go khắp nơi và gây nhiều va chạm trên biển, và sự cô lập của Trung quốc trước phản ứng mạnh bất lợi cho Trung quốc trên trường ngoại giao quốc tế, từ Việt Nam đến các cường quốc Âu, Mý,Úc,Nhật,Ấn v.v.thì đến ngày 15.7.2014,Trung Quốc đã rút giàn khoan này, nhưng nói là vì để tránh bão và có thì giờ nghiên cứu các mẫu dầu khí thu được, nghĩa là giành quyền quay lại ở Biển Đông. Như vậy tranh chấp lại có thể tái phát và những bàn luận sau đây, tức sự phân tích toàn cục các vấn đề tranh chấp biển đảo và đề nghị các sách lược hay thủ tục giải quyết tranh chấp, vẫn là cần thiết cho tương lai. cho các học gỉa cùng các nhà làm chính sách.
Trước tiên, phải liệt kê các vấn đề tranh chấp trước khi suy ra các cơ quan, định chế và thủ tục giải quyết tranh chấp.

2.1. Việc Trung Quốc đặt giàn khoan vào vùng biển của Việt Nam, kèm theo các biện pháp võ lực, dẫn tới các vi phạm chủ quyền lãnh lãnh thổ của Việt Nam về đảo/đá, do luật quốc tế truyền thống cũ quy định và các vi phạm quyền chủ quyền của Việt Nam về tài nguyên trong các vùng biển dưới mặt nước, và quyền tự do lưu thông của mọi quốc gia, do luật mới của UNCLOS 1982 dành cho các quốc gia, nhất là các quốc gia cận duyên quanh Biển Đông.

Bộ Ngọai giao Trung Quốc biện minh cho việc đặt giàn khoan vào vị trí đã nói bằng một câu ngắn gọn rất nham hiểm, vì họ tránh viện dẫn “đường 9 đoạn” đã bị các nước chất vấn, rằng giàn khoan “đặt hoàn toàn trong vùng nước của Hoàng Sa của Trung Quốc” (placed completely within the water of China’s Paracels). Như vậy là họ nói hai vế trong câu này, mà Việt Nam phải cố bác bỏ với các luận cứ có nội dung vững chắc như nói trên:

- Vế (i): Hoàng Sa thuộc chủ quyền của họ từ lâu (sau này họ đưa thêm vào hồ sơ nộp cho Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Kimon sau khi Việt Nam phản đối mạnh mẽ, có sự ủng hộ của nhiều nước, để nói là công thư 1958 của ông Phạm Văn Đồng xác nhận lại cái chủ quyền này mà họ đã có từ lâu). Việt Nam sẽ phải cãi lại về điểm chủ quyền lãnh thổ này, theo như đã nói ở trên khi bàn về chứng cứ lịch sử, công thư ông Phạm Văn Đồng và các biến cố xác lập chủ quyền, kể cả trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974, và vấn đề này, phải kiện trước Tòa án Công lý Quốc tế (International Court of Justice, ICJ) ở The Hague, Hà Lan. Tuy nhiên, kiện đòi chủ quyền lãnh thổ tại ICJ, phải vượt trở ngại là làm sao cho Trung Quốc chấp nhận ra tòa với việc ký nhận điều khoản nhiệm ý (optional clause) công nhận thẩm quyền của ICJ.

- Vế (ii): vị trí giàn khoan ở trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ Hoàng Sa đang thuộc quyền Trung Quốc. Việt Nam cũng sẽ phải cãi về điểm này là vẫn liên tục phản đối sự chiếm đóng sau khi Trung Quốc dùng võ lực tấn công quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956 và năm 1974, rồi chiếm đóng từ đó đến nay; khẳng định rằng Trung Quốc không có quyền về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ Hoàng Sa như họ tuyên bố. Một luận cứ khác để bác cái vế (ii) này là nói rằng, cho dù giả thiết – giả thiết mà thôi – là Trung Quốc có chủ quyền trên Hoàng Sa, để bàn cho hết lý lẽ, thì Việt Nam có thể xin Tòa án Trọng tài Luật Biển – đây là vụ kiện thứ 2 của Việt Nam – theo thẩm quyền bắt buộc về giải thích và áp dụng UNCLOS, phải ra một bản án tuyên nhận rằng tất cả các hòn như Tri Tôn hay ngay cả Phú Lâm tại Hoàng Sa, đều không hội đủ điều kiện để là đảo theo định nghĩa của Điều 121 của UNCLOS. Đó phải là nơi có đủ điều kiện hỗ trợ cho đời sống con người và một nền kinh tế tự túc, lúc còn trong tình trạng thiên nhiên sơ khai (như có nước ngọt, thực phẩm nuôi và trồng tại chỗ – nếu chỉ có cocacola thay nước như một học giả Malaysia nói đùa, thì không phải là đảo); không đủ điều kiện là đảo thì chỉ có thể là đá (reef, rock) theo khoản 3 của Điều 121. Và nếu là đá thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ở chung quanh, mà chỉ có lãnh hải 12 hải lý (theo khoản 3, Điều 121). Còn nếu là đảo thì có các vùng nước chung quanh như lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải (Contiguous Zone), vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giống như lục địa vậy. Trước Tòa án Trọng tài Luật Biển, Việt Nam có thể theo thủ tục bắt buộc (compulsory procedure) để kéo Trung Quốc ra tòa, mà yêu cầu tòa dùng thẩm quyền giải thích và áp dụng UNCLOS (Điều 286 và Điều 288), để Việt Nam trình bày được chứng cứ lịch sử của nhiều thế kỷ về hoạt động của đội Hoàng Sa trước đây hàng năm đi ra quần đảo đều phải mang nước ngọt và thực phẩm đi theo, rồi không sống quanh năm trong một nền kinh tế tự túc được, và do đó, ngay bây giờ Trung Quốc cũng không đòi quy chế đảo cho Hoàng Sa được, và cũng không đòi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý cho Hoàng Sa được. Và do đó, giàn khoan HD-981 đã xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Mở rộng chiến thuật phản biện này sang các đá ở Trường Sa, mà minh chứng tất cả các hòn ở đó đều là đá trong trạng thái thiên nhiên trước khi xây các kiến trúc nhân tạo, thì có thể giảm thiểu nhiều sự tranh giành chủ quyền của Trung Quốc trong vùng biển Trường Sa, vì dù Trung Quốc có chiếm vài đá và đá ngầm, họ cũng không thể đòi gì rộng hơn 12 hải lý lãnh hải quanh các đá đó (đá ngầm cũng không tạo ra lãnh hải, có xây trên đó cũng không tạo thành đảo, và chỉ quốc gia cận duyên mới có quyền xây trên đá ngầm – điều 60 UNCLOS), không thể đòi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa xuất phát từ các hòn đá; và “đường 9 đoạn” càng mất cơ sở là có hòn đất nào đó để bám vào, làm cứ điểm xuất phát.
Nhưng Trung Quốc còn có thể dùng luận cứ khác, không dựa vào Hoàng Sa, mà dựa vào bờ biển Hải Nam làm đường cơ sở, từ đó tính ra vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ là 200 hải lý, và đo đó giàn khoan nằm trong khoảng 180 hải lý của các vùng biển đó của Trung Quốc, và dù giàn khoan cách đảo Lý Sơn của Việt Nam 120 hải lý, thì kết quả sau cùng cũng là sự chồng lấn giữa hai vùng biển của hai quốc gia cận duyên đối diện nhau mà ta thấy đã xảy ra nhiều nơi trên thế giới. Chiếu theo UNCLOS, thì bổn phận pháp lý của hai quốc gia đó là thương lượng để tìm một giải pháp công bình (equitable solution) trước khi khởi kiện đem nhau ra tòa, thí dụ giải pháp dùng “đường trung tuyến” (median line) chẳng hạn. Điều này có nghĩa là vụ Việt Nam kiện Trung Quốc thì sẽ có khó khăn hơn vụ Philippines kiện Trung Quốc (dù Philippines kiên nhẫn thương nghị với Trung Quốc suốt 17 năm, Philippines cũng không có bổn phận pháp lý phải thương nghị, vì Trung Quốc dùng võ lực chiếm đá ngầm Scarborough cách Trung Quốc hơn ngàn hải lý, ở trong thềm lục địa của Philippines, chứ không có vùng chồng lấn nào cả, rồi xây thêm kiến trúc nhân tạo, cho nên nó không tạo ra quyền nào về vùng biển đó, hay đảo nhân tạo đó). Nhưng dù nội dung thương lượng sẽ khó, nhưng Việt Nam đã nỗ lực thương lượng, 30 lần cố liên lạc ở nhiều cấp, cao và thấp, với Trung Quốc mà không được trả lời, thì Trung Quốc đã vi phạm UNCLOS như đề cập dưới đây.

Điểm thứ 2 để Việt Nam kiện trước Tòa án Trọng tài Luật Biển là Trung Quốc đã vi phạm Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS là từ chối đáp lại 30 lần Việt Nam đưa lời mời thương lượng, tức là đã không tỏ ra có tinh thần hiểu biết và hợp tác (understanding and cooperation) mà lại còn dùng các biện pháp võ lực như bắn súng nước hay đâm vào tàu Việt Nam để gây thiệt hại về vật chất hay thân thể cho phía Việt Nam, thay vì có các đề nghị về các biện pháp tạm thời, theo các điều khoản trên.

Điểm thứ 3 Việt Nam có thể kiện là Trung Quốc, đó là Trung Quốc với tư cách là một quốc gia cận duyên, đã làm cản trở tự do lưu thông trên biển – vi phạm khoản 1a Điều 297 của UNCLOS – bằng cách gửi một số lớn tàu hải giám, hải cảnh, ngư chính, cả tàu quân sự và máy bay quấy rối ở vùng biển quanh vị trí họ đặt trái phép giàn khoan, không cho các tàu của các nước khác tới gần, không cho tàu cảnh sát biển và tàu kiểm ngư Việt Nam thực thi pháp luật hay thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam hoạt động mưu sinh theo truyền thống.

Điểm thứ 4 Việt Nam có thể kiện Trung Quốc là hành động do họ gây ra đã vi phạm nhân quyền của dân chài Việt Nam, tức là họ đã dùng bạo lực đâm chìm tàu của ngư dân Việt Nam (vụ Trung Quốc đâm chìm tàu cá ĐNa 90152 ngày 26.5.2014 chẳng hạn), ngăn cản họ đánh cá trong các vùng ngư trường truyền thống của họ, chiếm đoạt ngư cụ và cá, bắt chuộc tầu cá. Như vậy là tước đi quyền kiếm sống của ngư dân Việt Nam. Vi phạm này, nếu xảy ra trong vịnh Bắc Bộ thì Việt Nam có thể viện dẫn Hiệp định Trung – Việt về Nghề Cá ở vịnh Bắc Bộ, buộc hai bên phải giải quyết hòa bình. Nếu vi phạm xảy ra ở ngoài vùng vịnh Bắc Bộ, thì Chính phủ có thể kiện Trung Quốc hay ủy quyền cho dân chài kiện Trung Quốc, trước Tòa án Trọng tài Luật Biển theo quy định của UNCLOS, hay có thể nêu vấn đề Trung Quốc vi phạm nhân quyền hàng loạt này trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.
Trong tương lai, các điểm vi phạm của Trung Quốc nói trên vẫn có thể dùng bởi các nhà làm chính sách hay bởi các chuyên gia pháp luật để làm điểm kiện (counts) trong một hoàn cảnh khác sau vụ giàn khoan, trong đó Trung Quốc tuy tuyên bố “trỗi dậy trong hòa bình” nhưng kỳ thực vẫn hung hãn vi phạm luật quốc tế và quyền lợi quốc gia Việt Nam

2.2. Các cơ quan, định chế và thủ tục gỉai quyết tranh chấp.

Một nguyên tắc căn bản phải theo trong các tranh chấp từ khi có Liên Hiệp Quốc là bổn phận pháp lý của mọi quốc gia phải dùng phương pháp giải quyết hòa bình các tranh chấp, chiếu theo Điều 2 và điều 33 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, và chỉ được dùng võ lực khi tự vệ chính đáng, vì rằng từ nay chỉ có Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc mới được giao phó việc dùng võ lực, để giữ hòa bình.
Có 3 thủ tục chính: (i) các thủ tục phi tài phán như thương lượng, hòa giải; (ii) thủ tục tài phán trước Tòa án Công lý Quốc tế hay Tòa án Trọng tài Luật Biển; và (iii) trình ra các cơ quan chính trị quốc tế như Đại hội đồng hay Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc hay các tổ chức khu vực như ASEAN.

(i). Trước hết là thủ tục thương lượng và hòa giải
Về tranh chấp phân chia ranh giới vùng biển, như trường hợp chồng lấn giữa hai vùng đặc quyền kinh tế hay hai thềm lục địa của hai nước, thì khoản a Điều 298, cũng như Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS đòi hỏi các quốc gia có bờ biển gần nhau phải dùng tới các thủ tục đó, để nỗ lực đạt tới những giải pháp công bình (equitable solutions). Việt Nam theo đúng UNCLOS, đã kêu gọi thương lượng, tới chừng 30 lần, kể cả việc Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam liên lạc với lãnh đạo Trung Quốc mà Trung Quốc không hồi đáp. Việt Nam được công luận thế giới ủng hộ vì hành xử bình tĩnh hơn Trung Quốc, mang tiếng là “anh khổng lồ bắt nạt”. Vô hình trung, Việt Nam áp dụng ngọai giao mềm dẻo như ngọai trưởng Talleyrand của Napoleon đã khuyên trong câu: “trong ngọai giao, không nên hăm hở quá”, hay như vua Quang Trung làm lành xin cưới công chúa nhà Thanh sau khi đại thắng quân Thanh. Việt Nam nhấn mạnh đến nhu cầu thương lượng thân thiện giữa các nước bình đẳng theo đúng tinh thần Hiến chương Liên Hiệp Quốc, UNCLOS và các thỏa ước trong vùng như Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) giữa ASEAN với Trung Quốc. Rõ ràng là sau khi nhận thấy các quốc gia Á châu lo ngại sự hung hãn của Trung Quốc qua những gì họ đã làm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào tháng 5 và 6.2014, sẽ khiến các nước này ngã theo Mỹ, Nhật, châu Âu, Ấn Độ, Úc, thì Trung Quốc mới dịu giọng mà gửi cho Văn phòng Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc một tờ trình, gợi ý là có lẽ hai nước Trung Quốc và Việt Nam chưa có thương lượng về ranh giới biển, cho nên hai bên nên có dịp trình các yêu sách theo thủ tục UNCLOS. Và vào ngày 16.7.2014 thì Trung Quốc rút giàn khoan.
Ngoài thương lượng song phương, các quốc gia nhỏ tại Đông Nam Á phải cùng nhau, và cùng các cường quốc khi thích hợp, sử dụng ngọai giao đa phương để nói chuyện với Trung Quốc về vấn đề tự do lưu thông trên biển và khai thác tài nguyên trong vùng biển cả ngoài các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Phải có mặt trận thống nhất kiểu này mới làm chùn bước Trung Quốc khi vi phạm nền pháp trị quốc tế, vì Trung Quốc sẽ ngại bị cô lập hóa. Đặc biệt, Việt Nam nên sử dụng ngoại giao đa phương vì tuy là quốc gia mạnh nhất Đông Nam Á về quân sự, nhưng Việt Nam là ở tuyến đầu mà Trung Quốc nghĩ là có thể bắt nạt, để làm gương cho các nước nhỏ. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận rõ điểm này khi ông tuyên bố là Việt Nam muốn làm việc với ASEAN trước tiên về Quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông (Code of Conduct, COC) trước khi bàn với Trung Quốc, hay khi ông kêu gọi tại Diễn đàn Shangri-La là cần tạo “niềm tin chiến lược” (strategic trust).
Có nên dùng thương nghị để đạt các thỏa ước phát triển chung (joint development) hay không? Ông Đặng Tiểu Bình đề nghị 3 khẩu hiệu cho 3 thành tố của giải pháp của Trung Quốc cho các tranh chấp về đảo/đá và vùng biển ở Biển Đông: “zhu quan zai wo, ge zhi zheng yi, gong tong kaifa” (chủ quyền ở ta, gạt bỏ tranh chấp, hợp tác khai thác). Khẩu hiệu 2 chính là ước muốn của các nước Đông Nam Á, vì ta thấy nỗ lực vẫn tiếp tục cho việc triển khai DOC, vốn chỉ là khuyến cáo, thành COC có giá trị ràng buộc pháp lý, để giảm tranh chấp. Khẩu hiệu 3 chỉ là danh từ khác cho đường lối phát triển tài nguyên thiên nhiên trong thế giới ngày nay, tức liên doanh giữa một quốc gia với các xí nghiệp của quốc gia khác, thí dụ liên doanh khai thác dầu khí giữa hãng Mỹ và Việt Nam trong vùng biển Việt Nam, trong đó hợp đồng chia sản phẩm là một thành tố; không ai cần lo lắng về các liên doanh này. Chỉ có khẩu hiệu 1 của ông Đặng về chủ quyền là có thể gây lo ngại cho các nước nhỏ ở Đông Nam Á, vì có vẻ như Trung Quốc giống như con hổ nằm rình mồi sẽ xông ra nuốt chửng các nước yếu khi thâu tóm chủ quyền trên Biển Đông. Chúng tôi đề nghị giải tỏa nỗi lo sợ này bằng cách giảm hành vi đe dọa, bá quyền, lấn lướt của Trung Quốc với sự chất vấn liên tục trong thương lượng và có thể cả trong các vụ kiện trong các tòa án quốc tế, buộc Trung Quốc phải định nghĩa rõ, theo luật quốc tế, các yêu sách chủ quyền của họ và giới hạn của yêu sách ấy, trên đảo đá, trong các vùng biển. Cũng như trong tòa án quốc nội, cần có sự chất vấn (cross-examination) giữa các bên đương tụng thì chân lý mới sáng tỏ. Và trong tòa án quốc nội hay quốc tế, lập trường các bên sẽ ôn hòa hơn, phải chăng hơn, tránh được xung đột. Khi Trung Quốc phải trình ra các lý lẽ làm nền tảng cho các yêu sách của họ, theo tiêu chuẩn của luật quốc tế, họ sẽ bớt ngang ngược hơn, và sẽ tỉnh thức mà thấy là một đại cường muốn được kính trọng và có uy tín, tức là những thành tố của vai trò và ảnh hưởng của cường quốc, thì họ phải cư xử có trách nhiệm, có tốt lành, tôn trọng nền pháp trị, chứ không như kẻ côn đồ ngoài vòng pháp luật. Đức Đạt Lai Lạt Ma có nói rằng: “Đương đầu với Trung Quốc cần phải cương quyết giữ vững lập trường, không sợ hãi, mà cũng không tỏ sự tức giận”.

(ii) Kiện Trung Quốc ra Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) và Tòa án Trọng tài Luật Biển (ATLS)
a. Kiện Trung Quốc ra Tòa án Công lý Quốc tế về chủ quyền lãnh thổ trên quần đảo Hoàng Sa – mà Trung Quốc đang xâm chiếm của Việt Nam từ năm 1974, thì phải vượt qua được sự từ chối trình diện tòa của Trung Quốc vì họ sẽ không ký điều khoản nhiệm ý (optional clause) để nhận thẩm quyền của Tòa, do đó tòa sẽ có thể không thụ lý vụ kiện.
Nhưng thiết nghĩ có hai cách vượt trở ngại này.
- Trước hết, trong vụ Case Concerning United States Diplomatic and Consular Staff in Teheran II (US v. Iran) (ICJ 1980), khi một quốc gia từ chối trình tòa để phản đối thẩm quyền tòa, Tòa vẫn tuyên án được theo quy tắc sau: Nếu Tòa án Công lý Quốc tế thấy quốc gia vắng mặt trước đó, trong một văn kiện, như Hiệp ước thân hữu chẳng hạn, đã có ưng thuận nào đó về thẩm quyến tòa và hơn nữa quốc gia nguyên đơn có trình hồ sơ đầy đủ và có tính thuyết phục cao, Tòa có thể tuyên án dù quốc gia kia vắng mặt. Vậy Việt Nam mà trình bày đủ chứng cứ lịch sử và luận cứ pháp lý vững chắc về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, thì có thể xin một bản án có lợi, nếu có thể tìm ra sự ưng thuận ra tòa có trong Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam với Trung Quốc vào năm 2000. Hoặc có thể bắt chước Trung Quốc trong vụ kiện của Philippines không ra tòa án trọng tài nhưng xuất bản mấy ngàn trang sách về nội dung lập trường của mình, như một biện pháp vận dụng dư luận quốc tế; Việt Nam có thể chuẩn bị kỹ hồ sơ chủ quyền lãnh thổ trên Hoàng Sa mà đem nạp trong đơn kiện ở Tòa án Công lý Quốc tế, kèm lời mời Trung Quốc chấp nhận thẩm quyền của tòa để làm sáng tỏ vấn đề. Giáo sư Jerome A. Cohen trong Hội thảo quốc tế Hoàng Sa, Trường Sa – Sự thật lịch sử, tổ chức ở Đà Nẵng ngày 20.6.2014 mong đợi các quốc gia nhỏ ở Đông Nam Á cứ đến gõ cửa Tòa án Công lý Quốc tế rồi mời Trung Quốc (nếu họ tin là lẽ phải về phần mình), thì ra tòa mà bàn luận. Dù Việt Nam có nạp hồ sơ và bị từ chối xét xử vì Trung Quốc không chịu trình tòa, thì cũng như đã “treo” được hồ sơ trước cửa Tòa cho thiên hạ đọc, và đạt được thắng lợi tuyên truyền trước công luận quốc tế.
- Thứ hai, Việt Nam hay một nước bạn của Việt Nam có ảnh hưởng mạnh, có thể yêu cầu Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc hay một cơ quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc xin một bản án cho ý kiến (advisory opinion)về bằng chứng chủ quyền Hoàng Sa thì Tòa án Công lý Quốc tế cũng có thể cho. Thí dụ như trong án Advisory Opinion on the Western Sahara (ICJ 1975), do Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc yêu cầu xin một bản án ý kiến về một yêu sách lãnh thổ, thì Tòa án Công lý Quốc tế đưa ra quy tắc là Tòa không cần sự ưng thuận của một quốc gia liên hệ mà vẫn cho một bản án ý kiến về một tranh chấp lãnh thổ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Kiện Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài Luật Biển. Một quốc gia có thể dùng thủ tục bắt buộc (compulsory procedure) quy định trong các Điều 286 và 288 của UNCLOS để yêu cầu tòa giải thích và áp dụng các điều khoản của UNCLOS. Ngay trong tranh chấp về các vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn mà một quốc gia, khi gia nhập UNCLOS, đã làm bảo lưu gạt bỏ ra khỏi sự ưng thuận ra tòa của họ, thì quốc gia khác, dựa vào khoản 4 Điều 298, cũng có thể đưa tranh chấp với quốc gia đã làm bảo lưu ra tòa theo thủ tục bắt buộc.

Như đã nói ở trên về các vi phạm của Trung Quốc mà Việt Nam có thể liệt kê như các điểm khiếu tố ra tòa (counts), Việt Nam có thể viện dẫn trong thủ tục bắt buộc trước Tòa án Trọng tài Luật Biển các vi phạm hay các điểm khiếu tố sau:
- Trung Quốc, trong các hành vi quanh giàn khoan HD-981 vừa qua, đã vi phạm khoản 1a Điều 297, vì đã ngăn cản, với tư cách quốc gia cận duyên, sự tự do lưu thông hàng hải và hoạt động khác như đặt cáp ngầm của quốc gia cận duyên khác.
- Trung Quốc có hành vi hung hãn bá quyền, không chịu thương lượng trong tinh thần hiểu biết và cộng tác, hay áp dụng các biện pháp tạm thời, dù Việt Nam đề nghị cả 30 lần.
- Trung Quốc có thể bị dân chài Viêt Nam kiện vi phạm nhân quyền của họ, trong một vụ họ kiện riêng, với sự ủy quyền của nhà nước Việt Nam, theo đúng tinh thần của UNCLOS.

(iii). Sự can thiệp chính trị của các tổ chức quốc tế
- ASEAN, với Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông luôn luôn có ích, và nên nỗ lực đạt tới Quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông.
- Can thiệp của Tổng Thư ký hay Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc có thể làm hạ nhiệt sự hung hãn của Trung Quốc, nhất là có kèm theo các lời phê bình của các đại cường, như lời Thủ tuớng Nhật Bản Shinzo Abe hay lời Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Hagel phát biểu tại Đối thoại Shangri-La 2014. Sau khi Đại sứ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, trong tháng 5.2014, yêu cầu Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon can thiệp, và viết công hàm ngọai giao và ra thông cáo báo chí, than phiền là giàn khoan vi phạm luật quôc tế, đồng thời nhấn mạnh Việt Nam, nếu cần, sẽ dùng biện pháp tự vệ, thì Trung Quốc gợi ý nên có thương lượng giữa hai nước, nhất là về việc định ranh giới biển công bình, mà hai bên chưa làm. Trung Quốc cũng tuyên bố không dùng tàu chiến bảo vệ giàn khoan. Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và Văn phòng Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc tỏ ra lạc quan. Và quả nhiên, nay thì giàn khoan rút đi.

Kết luận

Dư luận quốc tế, nhất là các nước phương Tây và Nhật Bản, Ấn Độ đã bênh vực cho lẽ phải của Việt Nam. Philippines thì mong Việt Nam khởi kiện sớm. Nay Việt Nam đã lỡ dịp kiện do giàn khoan đã rút đi, thì trong tương lai, phải chuẩn bị sớm và kỹ để lập tức kiện khi Trung Quốc gây sự lần nữa, ngõ hầu có dịp xác lập chủ quyền, chứ nếu không lại lỡ dịp nhờ pháp luật quốc tế để đẩy mạnh quyền lợi quốc gia của mình.
18.7.2014
———
Tác giả: GS Tạ Văn Tài là Tiến sĩ, Luật sư, cộng tác viên và cựu giảng viên Đại học Luật Harvard, Hoa Kỳ

Sửa bởi pth77: 26/07/2014 - 11:10


#128 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 29/07/2014 - 02:55

Hà thành ốc học


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

: Tuy ốc có quanh năm, nhưng ăn ngon nhất phải tầm tháng bảy đến tháng 9 âm lịch, ốc béo nhất! Ốc có mấy loại thôi: ốc mút nay đã “thất truyền”, chứ hồi bé mình hay ăn, lấy đồng xu có lỗ bẻ “cắc” một cái là mút thôi, cũng ngon! Ốc vặn hay ốc đá bây giờ thành loại nhỏ nhất, nhưng loại ngon nhất là loại vỏ nhẵn thín cơ, nếu đi mua hay đi ăn mà thấy loại ấy thì phải chọn ngay! Ốc mít thì ngon rồi, loại nhỡ nhỡ, ăn vã cũng ngon mà nấu bún ốc cũng được. Ốc nhồi là ốc to nhất, cẩn thận hay bị trộn cả ốc bưou vàng vào, ăn cứng quèo,...


Nửa đêm, hai đứa Hà Nội lại vật vờ chờ xem bán kết WC ở nhà một đứa Hà Nội thứ ba, nhưng tại Sài Gòn. Mấy chai bia Peroni chỉ làm thêm buồn ngủ, thôi đành lấy câu chuyện ra để giết thời gian, hóa ra mới xa Hà Nội có hơn một ngày mà cả bọn đã nhớ thế? Tôi khích bác ông em chuyên gia làm giám đốc các dự án tin học, đầu đã hoa râm: “anh em mình chịu khó ăn chơi quần quật, quá nửa đời người rồi, chú có cao kiến gì để khi ra Hà Nội anh em mình làm cùng tí cho vui, chú trẻ hơn có bộ môn nào uyên thâm không?” thì ông em trầm ngâm giây lát rồi trả lời một câu làm tôi té ghế, tỉnh cả ngủ:
- Em là một trong rất ít nhà “Hà thành ốc học”-tức là ăn ốc giỏi như em hiếm có lắm!
Mịa, nó đánh vào chỗ yếu của mình rồi, nhưng ai lại chịu thua ngay, tôi mới kể ngày trước nhà có cây chanh, mỗi lần nhà luộc ốc là bà bắt ra hái lá chanh và nhất là gai chanh để nhể ốc ăn. Hắn công nhận với tôi là ăn ốc bằng gai chanh là một lạc thú, chứ ăn bằng ghim băng thì ghê ghê, ăn bằng cái sắt nhọn hoắt như bây giờ cũng mất một phần sung sướng, có tăm nhọn ăn còn tàm tạm. Thế tôi hỏi nó “chú giỏi thì kể xem!”, nó bắt đầu:
- Anh có ở Hà Nội bao lâu, mà không ở phố cổ, thì cũng chả biết ăn ốc kiểu Hà thành. Mà anh ở Nhà Hát Lớn thì mới gần phố cổ, có chịu khó lượn lờ cũng không thể cảm nhận được như dân phố cổ. Em chẳng tin có thằng nước ngoài nào, Bobby Chinn hay ai đi nữa, mà đòi nấu món VN bằng được người mình. Đến cả các tỉnh khác, ốc thì đủ loại, mà có ăn tinh như người Hà Nội đâu, nhất là những món như ốc, mà ốc anh nhớ có 2 món chính: ốc luộc và bún ốc, anh thích nghe gì nào?

- Thì chú cứ bắt đầu từ ốc luộc anh nghe xem sao?
- Ốc luộc hay bún ốc thì bắt đầu đều từ ốc. Mà tuy ốc có quanh năm, nhưng ăn ngon nhất phải tầm tháng bảy đến tháng 9 âm lịch, ốc béo nhất! Ốc có mấy loại thôi: ốc mút nay đã “thất truyền”, chứ hồi bé mình hay ăn, lấy đồng xu có lỗ bẻ “cắc” một cái là mút thôi, cũng ngon! Ốc vặn hay ốc đá bây giờ thành loại nhỏ nhất, nhưng loại ngon nhất là loại vỏ nhẵn thín cơ, nếu đi mua hay đi ăn mà thấy loại ấy thì phải chọn ngay! Ốc mít thì ngon rồi, loại nhỡ nhỡ, ăn vã cũng ngon mà nấu bún ốc cũng được. Ốc nhồi là ốc to nhất, cẩn thận hay bị trộn cả ốc bưou vàng vào, ăn cứng quèo, ai chứ em thì nhất quyết không ăn con bươu vàng nào cả! Những người theo môn “ốc học” bọn em không tính đến các loại ốc vòi voi, ốc hương...những thứ đắt tiền mà không cần tinh tế! Ốc đâu chả có, nhưng ngon nhất là vùng có núi đá vôi, lại có suối nhiều, đầu bảng phải là ốc vùng chùa Hương! Rồi đến Ninh Bình, Thanh Hóa cũng được đấy. Ngày trước ngâm ốc phải ít nhất một ngày, mà bằng nước gạo nó mới nhả hết chất nhớt ra, ăn mới sạch; bây giờ “công nghiệp hóa” rồi, người ta cho ớt cay vào trong nước muối để ngâm, chỉ một buổi là hết nhớt, nhưng cũng ảnh hưởng đến chất lượng con ốc rồi...
- Thôi chú vào mục ốc luộc sớm đi, đằng nào anh cũng chỉ ăn, có mua có về nhà nấu đâu!
- Ốc luộc thì dễ nhất mà cũng khó nhất đấy bác, vì ngon nhất không phải là ở con ốc (hàng nào tử tế thì cũng mua được ốc theo mùa ngon lành như nhau thôi), mà bí quyết là ở cái NƯỚC CHẤM! Tất nhiên mỗi hàng pha mỗi khác nhau, mà cũng không thể chiều “gu” được hết các khách hàng, nhưng đấy mới là bí quyết giữ khách đấy! Cũng chỉ có nước mắm pha với nước ốc, thêm tí gừng sả, ớt thì tùy người, nhưng mà “đẳng cấp” là đây đấy! Trừ mấy hàng có “thương hiệu” ra, thì bọn em có đi ăn quán khác thôi chịu khó tự pha chứ không ăn được nước mắm của chủ hàng đưa đâu! Người ta nói “nhạt như nước ốc” nhưng nhạt thế nào, quan trọng lắm! Mà ăn ốc xong cứ uống nước ốc nóng và cay, cũng có tác dụng sẽ không bị đau bụng đâu...
- Thế chú cho anh biết hàng ốc luộc nào “top ten” để cho vào bộ nhớ nào, môn này hơi hiếm đây?
- Đứng đầu là một hàng ốc trong ngõ nhỏ ở phố Hàm Long, đối diện nhà thờ, đến tối mới được ra vỉa hè mặt phố. Ốc nồi nào luộc nồi nấy, luộc bằng chính nước từ con ốc ra thôi, không cho thêm nước vào, nước chấm thì tất nhiên là “thôi rồi”! Không hề xô bồ, không quá đông. Ốc cũng “tuyển” đấy nên ngon lắm, khó tả bằng lời...Thứ hai là một quán ốc ở trong ngõ Quốc Tử Giám, gần như không kém gì Hàm Long cả! Ở đây có cái đặc biệt, là đã có nước chấm pha sẵn rồi, nhưng lại khuyến khích người ăn tự pha chế lại cho mình. Có một khay có sẵn các gia vị, thực khách cứ tự gia giảm vào bát nước chấm của mình! Tuổi thơ em hay ăn quán ốc gần trường “Thanh Quan” cũng ngon, bây giờ chả để ý còn không nữa. Trong cái làng Khương Thượng, toàn chim với chả nhái ấy cũng có quán ốc được lắm, nhưng thường chỉ sinh viên biết thôi. Thụy Khuê có một quán ốc trước kia khá lắm, nhưng từ khi đông khách, và nhất là bán thêm nhiều món khác, thế là hỏng rồi. À Lê Văn Hưu có món ốc luộc đi với rượu ốc nữa, cũng không tồi. Rồi đến Đinh Liệt, Cửa Bắc, chợ Đuổi, ốc Đức Mười ở Liễu Giai...
Em vẫn tiếc quán ốc của bà cụ già bán ở Lương Văn Can, nước mắm tuyệt ngon, em cứ ăn mãi để học bà cụ cách pha, bây giờ chắc cụ già quá, thấy cửa hàng chuyển sang bán đồ chơi Tàu rồi...Hàng Lược ốc ngon nước chấm ngon, nhưng bây giờ bán hải sản, ốc chỉ là một món câu khách thôi. Quanh Hồ Tây đúng là nhiều quán ốc thật (đừng nghĩ là ốc Hồ Tây nhé, làm gì có) nhưng xô bồ lắm, cứ lấy thằng Phương Nguyên ra làm ví dụ, ngày bán cả vài tạ ốc, chất lượng chỉ trung bình khá thôi. Mà đấy là đang nói ốc luộc, chứ ốc hấp thuốc bắc với ốc xào cay thì chả nói làm gì, mút mát cái vỏ ốc không cũng được, chả cần ăn ốc...Hà Nội bây giờ tràn ngập các quán ốc vỉa hè, bán thêm cả trứng chim cút lộn với nem chua rán, ngao hấp... khách chủ yếu là sinh viên học sinh, nhưng nói chung không ăn được, ai đời trứng chim cút cũng chấm nước chấm ốc, hỏng hết mô hình đã du nhập từ Sài Gòn. Nhân tiện em nói luôn, trong Nam nhiều thứ ốc ngon lắm, nhưng làm búa xua không như ngoài mình, phí thế không biết! Em đi ăn hết rồi, từ vùng Kỳ Đồng đến chân cầu...vẫn thua Hà Nội anh ạ, nên sau này vào đây em không ăn ốc nữa...
- Người ta bảo “ăn ốc nói mò” mà chú ăn ốc nói như đinh đóng cột thế, được! Thôi chuyển qua môn bún ốc đi, anh là một cổ động viên có hạng cho môn này đấy-tôi khoe khéo, vì đúng là tôi cũng thích bún ốc thật! Cách đây hai chục năm, hay ăn ở Mai Hắc Đế mà thấy chật chội nóng bức quá, chính anh đưa ra sáng kiến sang bên cafe đối diện ngồi, rồi bảo quán bún ốc bê sang, sau này nhiều người bắt chước quá nên quán cafe chuyển sang chỉ phục vụ cho khách quán ốc, hai bên cùng có lợi đấy!
- Biết ngay là mấy ông đi xa về bày đặt mà, làm hỏng hết tinh thần của việc ăn bún ốc!-cậu em giãy nảy-rảnh rỗi sinh nông nổi là thế! Phải biết lịch sử người Hà thành là chuyên ăn quà vặt, đấy là nét đẹp của sinh hoạt dân Thủ đô xưa, sau này chỉ có sống ở phố cổ mới duy trì được phần nào. Ăn quà ở đây phải hiểu là ăn nhẹ, ăn điểm tâm, lấy ngon, lấy sướng là chính, chứ có ăn cho no đâu! Ví dụ bún ốc người ta ăn như quà sáng, tức là trước bữa ăn trưa, chứ không phải ăn bát ô tô tú ụ để no cả buổi mà đi cày! (Buổi chiều ăn quà thì người Hà thành hay dùng bánh, bánh đúc, bánh giò...cũng ăn thanh cảnh thôi). Thế nên nếu anh ăn bún ốc chơi cả bát tô to tú ụ, ngồi trong quán cafe mát rượi, xem mấy cái DVD hải ngoại...thì đúng là bức tranh của những năm 90 rồi, sau này còn tệ nữa, khách sạn 5 sao buffet cũng bún ốc, nguội tanh, mất hết cả chất! Rồi bây giờ đến mấy cô người mẫu cũng mở quán ốc, menu thập cẩm chi thiên, “sang chảnh” quá!
- Thôi được rồi, sorry vụ phá hoại “thuần phong mỹ tục”, thế chú ăn bún ốc ở đâu?

<a href="http://1.bp.blogspot.com/-_bXON3cm74Q/U9W4if82f_I/AAAAAAAADcQ/6-lm8t4NEeA/s1600/bun+oc.jpg" style="clear: right; float: right; margin-bottom: 1em; margin-left: 1.5em;">

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

- Từ từ anh, cũng như phở có nhiều loại thì bún ốc có 2 loại chính, là bún chan thẳng nước dùng và bún chấm. Bún chấm thì bún lạnh sẽ cho cảm giác nguội. Tất nhiên ốc quan trọng, ốc càng đều, càng béo càng tốt thôi. Nhưng nước dùng quan trọng lắm nhé, đời trước toàn dùng dấm bỗng, bây giờ “công nghiệp” hơn thì dùng nước me-đấy cái bún Mai Hắc Đế anh khen, ốc thì to, được đấy, nhưng nước dùng chua loét, không sửa được! Rau cũng đơn giản thôi, nhiều rau chuối thì tốt, rồi là tía tô, rau thơm...Ớt chưng phải cẩn thận. Bún thì phải thửa loại tử tế chứ không búa xua...Ăn bún xưa kia hay dùng bát chiết yêu, để ở dưới cầm không nóng, miệng loe ra dễ ăn, nhanh nguội, mà ăn thế thôi chứ bây giờ chơi cả bát ô tô với nửa cân bún, sợ quá! Bún vắt to thì cắt làm đôi, không thì dùng bún rối...
- Thôi chú làm anh khô hết cả nước dãi, cho cái “top ten” xem nào!
- Đây: đầu bảng phải là bún ốc Hàng Chai, hay lắm nên em phải miêu tả kỹ cho anh hiểu. Quán bé thôi, chỉ bán tầm sáng, ai gọi mới nhể ốc cho vào bát nấy, mỗi người một bát một cái ghế con, một ít rau sống, một nắm giấy ăn để lót tay cho đỡ nóng. Nước dùng ớt chưng để cay sâu, nhiều cà chua, nóng giãy tay, xì xụp thế thôi, mà ngon nhất Hà Nội! Mà văn hóa ăn quà ở đây cũng rất “Hà Nội gốc” nhé: khách hàng tự phân định, ai đến trước được phục vụ trước, nếu có tranh cãi mời cả hai ra ngoài phân xử xong thì vào, nhà quán sẽ phục vụ sau-thế nhưng quán có quyền ưu tiên bán cho khách quen trước, cấm cãi! Tất nhiên em là khách hàng nhiều năm, cũng nghiễm nhiên trong diện không xếp hàng rồi! Mà ai thích ăn thêm thịt bò với bún ốc thì cứ việc mag thịt bò theo (“mốt” bún ốc thịt bò trước kia có mỗi hàng bún ốc ở chợ Hòe Nhai duy trì), quán sẽ chần thịt hộ cho, tất nhiên là chần riêng ra chứ không làm ảnh hưởng đến nồi nước dùng dấm bỗng...
Thứ nhì (nhưng có vẻ nhiều người đã nghe qua hơn): bún chấm ở Ô Quan Chưởng-Hàng Chiếu! Bún thửa tròn như viên bi ve thôi, mỗi vắt bún vừa đúng một gắp. Nước ốc nóng để riêng, ngày trước để trong ống tre, gắp bún lạnh mà chấm vào, sau này cũng thay hết thành bát cho dễ dọn rửa rồi. Hà Nội trước 1954 toàn ăn bún lạnh chấm ốc nóng thế đấy! (Ngày trước Nguyễn Trường Tộ cũng có một quán, cũng trong ngõ, giống như ở đây, nhưng dạo này mất chất rồi, em tránh!) Hiện còn quán ốc Tuyết ở Hàng Chĩnh, bún lạnh ngang ngửa với Ô Quan Chưởng đấy, tóm lại 2 quán bún lạnh này đều xuất sắc!
Thứ ba đến các quán ở trong chợ Đồng Xuân, phục vụ cả bún chan lẫn bún chấm, rồi phố Đào Duy Từ cũng được. Rồi đến mấy quán Mai Hắc Đế, Phù Đổng Thiên Vương (bây giờ bán cả chả ốc thì phải)...lâu năm đấy, nhưng chất lượng có vẻ đi xuống dần, nhất là nếu bán thêm mấy món khác nữa. Trong phủ Tây Hồ cũng có mấy quán bún ốc được, hợp khẩu vị chị em đi lễ bái đấy, vì ở đấy người ta dùng nước dùng chế bằng khế!
- Thế theo chú thì ốc nấu ở nhà với ngoài hàng, hơn kém nhau cái gì?
- Ở nhà luộc ốc có thể không thua ngoài hàng đâu, pha nước chấm thì tự nếm theo sở thích cũng tạm ổn. Theo em bún ốc phải ra hàng ăn mới ngon, chứ ở nhà chỉ được cái cho thêm nhiều ốc vào bát, chứ khó có được cảm giác nước dùng chua cay xé lưỡi, con ốc béo ngậy...như ngoài hàng. Mà nhất là rau chuối nhiều khi chả mua được. Mấy món ốc xào, ốc chuối đậu...nấu ở đâu chả được như nhau. Ở nhà em chỉ thấy có một món ngon hơn ngoài hàng, đó là ốc nhồi thịt. Thời bao cấp các mẹ phải giữ những cái vỏ ốc to, đẹp, không sứt mẻ...từ đợt này qua đợt khác, năm này qua năm khác, để có cái làm món này. Thịt và ốc băm kỹ, phải hấp lên thế nào cho thật dậy mùi thơm, nhớ đến lại thèm, nhưng ngày trước chỉ khi nào nhà có khách quý thì mới được ăn món này để đãi khách, có cái trước khi vào ăn mẹ đã dặn con cái mỗi đứa chỉ được mấy con ốc, chứ không tranh hết phần thì khách nhịn...Bây giờ ốc, thịt, mộc nhĩ đầy ra nhưng sao cảm giác ngon không được như xưa nữa!
- Chú cứ hoài cổ thế, thế không có món ốc nào mới mà chấp nhận được à?
- Có chứ anh, miễn là ngon, không được bảo thủ! Ví dụ về nguyên liệu, em khoái thêm ốc biển luộc với món ốc đá Vân Đồn, cái này cũng hiếm hàng lắm! Con ốc mồm cong hẳn lên như cái nắp, bé hơn ốc mít, ăn ngon! Còn cách nấu mới, như em chỉ chấp nhận thêm một món “tân thời”, đó là lẩu ốc. Lẩu chua cay ngọt na ná súp "Tôm Jăm Kung" Thái Lan, ốc luộc sơ để có thể nhể sẵn ra rồi, lúc ăn lẩu thì nhúng vào là lấy ra luôn, cũng ăn với bún, có món này đả rượu đã đời lắm! Em hay ăn ở quán “1946” trong ngõ phố Cửa Bắc...
- Thế sao chú nghiên cứu “ốc học” đến tầm ấy rồi, mà không áp dụng, kinh doanh?
- Em cũng có ý định đấy, anh có tham gia không? Làm cho vui, lại bảo vệ truyền thống ẩm thực. Làm quán ốc trông vậy, tưởng tính lãi gấp đôi là ít, nhưng công tác chuẩn bị cực kỳ công phu, mất công lắm đấy! Mà ốc bây giờ hay bị dính vụ phun thuốc sâu...
Trái bóng đã lăn, thôi đành gác chuyện ốc học nhiều kỳ này lại, để hôm tới về Hà Nội khai thác tiếp. Mình định dấu dốt, sẽ không hỏi ông em này phố Hàng Chai ở đâu đâu, hỏi bác Gúc Gồ thôi, rồi lén đi ăn xong rồi có bàn gì thì bàn tiếp. Hay là đi Hàm Long trước...

----------------------------------------------------
Nhận xét của nhà báo Nguyễn Lưu (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

)


Nhà “Ốc học” đây rồi!

Sáng nay mất điện, mãi mới lò dò vào FB và đọc được bài viết của nhà “Ốc học” Nam Nguyễn. Quả là một tay sành, tôi ghi nhận đây chinh là một gương mặt cừ khôi trong nhát cắt thời gian đương đại, tất nhiên là về cái món ốc.
Tôi người nệ cổ, biết ốc có vị trí xứng đáng trong những cái tên: giải, hãi, hào, hà, hàm, lị, cáp, phục ngư, ngõa ốc tử…nên khi đọc phóng sự này thấy sướng. Xin kể một chi tiết về cách thưởng thức bún ốc của dân Hà Nội gốc. Ấy là gia đình cụ Phán Côn, một danh gia Hà thành, vao khoảng năm 60 TK 20, Cụ ưa xơi món bún ốc lạnh, do cô bán bún gánh hay đến nhà mỗi chủ nhật. Bún ốc lạnh cay cực, thế mới ngon, và hôm ấy lai có cu Ca, gọi Cụ Phán bằng cụ, mới 6 tuổi, xinh xắn lắm và cứ đòi ăn bún dù Cụ nói là cay. Và thế là Cụ đã gọi cho cu Ca một suất, để trong cái mẹt, gồm có 1 đĩa bún con và bát nước bên trong có ốc. Cu bé thích chi lắm, nhưng mới ăn được nửa suất thì cay sè rồi cất tiếng khóc ré lên va Cụ Phán đã cười yêu “Thế cho mà biết” rồi cho 1 quả chuối, và từ hôm ấy hễ thoáng thấy bóng cô bán bún gánh, Ca ta im thít mà chẳng dám đòi.
Con gái Cụ Phán, sau này là người nấu ăn có tiếng nhất nhì nước Nam. Bà đã từng tham khảo cuốn “Tản Đà thực phẩm” và trong sách ấy có một chi tiết về ốc. Đó là việc Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu tự trồng rau để ăn bún riêu, bún ốc. Nhà thơ ay có một mảnh đất chỉ bằng cái chiếu đơn, cụ làm đất thật kĩ trước khi trồng luống rau muống đều tăm tắp. Cụ Tản Đà lai có mấy chục cái vỏ ốc nhồi, được làm thật sạch sẽ, thậm chí dùng que bông lau tận bên trong cái vỏ ốc y như người ta ngoáy tai vậy. Khi rau muống đã mọc dài chừng mươi phân, Cụ Tản Đà ngắt ngọn cho sát gốc rồi đem những cái vỏ ốc kia úp hết lên từng gốc rau muống. Chỉ một tuần, do được tưới tắm đầy đủ, cac ngọn rau đã mọc lên và chui hết vào bên trong vỏ ốc, khi bứt gốc rồi rút từ vỏ ốc ra, sẽ thu được những búi nhỏ xoắn đều, màu trắng xanh và cực giòn, mỗi búi ấy rất vừa một gắp cùng lá kinh giới và mùi khi xơi món bún ốc hay bún riêu, thật tuyệt đỉnh khó bút nào tả xiết! Cứ sau một lần thu hoạch, lại úp vỏ vào gốc muống và tiếp tục lứa sau...
Bạn còn nhở tác phẩm sân khấu: NGHÊU-SÒ-ỐC-HẾN chứ? Tôi khoái nhất là câu này, khi sắp bị lộ tẩy mọi chuyện, chàng Nghêu thì thầm vào tai Ốc: "Tình hình gay đấy anh Ốc ạ!". Câu nói tếu ấy đã được vận dụng rất vui...
Câu chuyện về Ốc, tưởng như còn nhiều lý thú, nhưng hết giờ giải lao rồi, hẹn gặp lại.

Thanked by 1 Member:

#129 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 30/07/2014 - 18:25

Nhận thức lại bản chất của ý thức và tâm linh
Hồ Bá Thâm
08:18' AM - Thứ tư, 30/07/2014


Vấn đề đặt ra
Trước sự tác động của khoa học hiện đại cũng như các hiện tượng tâm linh đang tạo ra những nhận thức về ý thức, về bản chất của ý thức và tâm linh, thậm chí có thể dẫn tới thay đổi nhận thức khá quan trọng, có tính cơ bản về vấn đề này. Nhiều câu hỏi đặt ra, nhưng có bốn loại vần đề chính:1) Ý thức có tính vật chất không? có phải là một dạng tồn tại khác đặc biết của vật chất không? 2) Ý thức có phải không đơn thuần là sản phẩm của bộ não người? 3) linh hồn, hiện tượng chủ yếu về tâm linh có hay không, nó ở dạng gì, và có như ý thức người đang sống không? 4) Có hiện tượng đầu thai, luân hồi hay không?
Phải chăng kiên thức cũ về các vấn đề này không lỗi thời? Qủa thật đó là những vấn đề hóc búa nhất của khoa học và triết học xưa và nhất là ngày nay.
Sau đây tác giả bài viết xin trao đổi một số khiá cạnh của vấn đề vừa cơ bản vừa nóng này.
Đúng là, ở Việt Nam có công trình của triết gia Trần Đức Thảo đánh giá cao bằng giải thưởng H-C-M. Tuy nhiên bản chất của ý thức là gì thì đến nay vẫn còn là vấn đề tồn tại cần được làm sáng tỏ (HBT nhấn mạnh). Phải chăng tùy theo cách nhận thức vấn đề này mà các triết gia xếp thành hai chiến tuyến đối lập - duy tâm và duy vật?Tuy nhiên từ lâu, dù thuộc ý thức hệ nào người ta cũng sẵn sàng tin rằng ý thức, cảm xúc có sức mạnh vật chất to lớn. Sự khác nhau còn lại phải chăng là ở chỗ có người coi ý thức là phi vật chất, họ vạch đường ranh mơ hồ nhưng dứt khoát giữa hai thế giới vật chất và tinh thần? Có lẽ vấn đề nan giải này chưa thể làm sáng tỏ chừng nào khoa học chưa có khả năng khám phá đến cùng cấu trúc của vật chất[1].
Ngày nay dưới ánh sáng khoa học hiện đại về trường vật lý hạ nguyên tử, trường sinh học, trường tâm thần và thông tin cũng như lĩnh vực tâm linh học…, chúng ta thử đặt vấn đề nghiên cứu lại bản chất của ý thức, xem ở đây có gì phải đổi mới tư duy, làm rõ hơn hay không? Tiêu chuẩn xem xét là thực tiễn và hiện thực từ phát hiện mới về khoa học chứ trước hết chưa phải là các luận đề triết học có sẵn. Cần nêu ra giả thuyết. Nếu giả thuyết được chứng minh bằng thực tế và khoa học hiện đại, và giải thích được đa số các hiện tượng khó hiểu, bí hiểm thì nó sẽ có khả là đúng[2].
Theo các nhà khoa học thì từ nửa đầu thế kỷ XX đến nay đã xảy ra những cuộc cách mạng vĩ đại trong các ngành khoa học cơ bản như Vật lý học, Sinh học và các ngành khoa học khác như Vật lý lượng tử, Cận tâm lý học, Tin học, Vi điện tử, Công nghệ sinh học cao... Trên cơ sở khoa học kỹ thuật phát triển ấy đã đến lúc có thể đặt ra tham vọng tìm hiểu bản chất và vai trò của những cấu trúc vô hình và khung năng lượng của cơ thể con người. Cùng với cơ thể vật lý chúng tạo nên ý thức, tính cách, các khả năng đặc biệt của con người ở trình độ tiến hóa ngày nay.
Ngành Sinh - Y học quan niệm rằng, ý thức là sản phẩm của não bộ, nói chi tiết hơn, ý thức là sản phẩm “cơ - hóa - điện” của “thân thể + não + hệ thần kinh” (Body + Brain + Nervous system, gọi tắt là BBNS). Nhưng chắc chắn không phải theo kiểu mật là sản phẩm của túi mật, tinh trùng là sản phẩm của tinh hoàn, khi người chết thì mật và tinh trùng đầu chết, BBNS chết thì ý thức cũng chết. Các công trình nghiên cứu khoa học Cận tâm lý đã chứng minh bằng thực chứng rằng sau khi thể xác chết phần ý thức - tinh thần vẫn tồn tại ở một dạng khác, ở một nơi khác[3]. Tuy nhiên, vẫn có những nhà khoa học (chẳng hạn TS. Đỗ Kiên Cường) phản đối điều này! Đây là điều rất phức tạp, hóc búa và khó khăn, nhưng không nên đứng ngoài cuộc, bó tay.com.

I- Ý THỨC LÀ KHÔNG PHẢI VẬT CHẤT, KHÔNG CÓ TÍNH VẤT CHẤT?

1- Quan niệm chính thống hiện nay cho rằng ý thức là không phải vật chất, không có tính vật chất. Rằng:“Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ quan, là thực tại chủ quan. Ý thức không có tính vật chất (HBT nhấn mạnh), nó chỉ là hình ảnh tinh thần, gắn liền với hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa, có định hướng, có lựa chọn. ý thức à sự phản ánh thế giới bởi bộ não con người” (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

). “Ý thức là một thuộc tính của vật chất, nhưng không phải của mọi dạng vật chất, mà chỉ là “thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người.[4]?
Vậy có mâu thuẫn lôgích chi nói ý thức, một hình thức cao nhất của phản ánh, là một đặc tính của dạng vật chất là óc người?
Phải chăng ý thức (“hình ảnh” chủ quan của thế giới khách quan) thực ra là “một dạng vật chất đặc biệt được sản sinh ra” trong thực tiễn. “Ý thức là dạng vật chất đặc biệt - cơ năng của não người”[5]. Ý thức là một dạng vật chất vô hình, “vật chất ảo”, hay nói chính xác hơn là một đặc tính vật chất đặc biệt, hay một dạng tồn tại khác của vật chất gắn liền với quá trình phản ánh mang tính sinh lý hóa, năng lượng và thông tin vật lý - sinh học, dù rằng nội dung, hình ảnh phản ánh[6]là cái có sau khách thể phản ánh thông qua thực tiễn - lịch sử xã hội.
Phải chăng “Lênin đã sai lầm khi ông tách rời vật chất và ý thức ngay trong giới hạn vẻn vẹn của nhận thức luận”(NHC)?. Không phải, Lênin đã cho răng ngoài sự đối lập vật chất và ý thức thì sự phân biệt giữa chúng chỉ có tính tương đối, nghĩa là thừa nhận sự đồng nhất giũa chúng. Nhưng hầu như sự đồng nhát này chỉ giới hạn ở nội dung, chứ chưa làm rõ tính vật chất giữa chúng. Việc chống chủ nghĩa duy tâm đã làm cho việc quá đề cao, quá nhấn mạnh sự khác biệt, đối lập mà làm mờ sự đồng nhất dẫn đến sự giáo điều về sau này.
Đúng là ngay trong giới hạn nhận thức luận, “vật chất vừa đối lập, vừa đồng nhất với ý thức” hay ý thức vừa đối lập, vừa đồng nhất với vật chất là đúng. Ý thức phải vừa khác biệt với vật chất (hình ảnh, ảo, so với thật), vừa mang tính vật chất (vừa ảo vừa thực - ở chiều sâu mang tính lượng tử). Khái niệm ý thức là vật chất ảo - “một dạng vật chất đặc biệt” là đúng chứ không phải “sai lầm”.
Muốn bàn lại ý thức, thì không thể không làm lại khái niệm vật chất. Vật chất dưới hai dạng: hữu hình và vô hình, cả hai đều khách quan với chủ thể phản ánh. Hình ảnh là dạng ảo. Như vậy có dạng vật chất thật và vật chất ảo. Khi xuất hiện ý thức - vật chát ảo này có tính chủ quan so với cái nó phản ánh. Nhưng từ chiều sâu lượng tử tạo hình ảnh lại là thật và khách quan, như một dạng vật chất dặc biệt. Như vậy ý thức vừa có tính chủ quan vừa có tính khách quan không chỉ xét về nội dung như thường thấy mà cả ở khía cạnh tồn tại. Như vậy, là đã đặt vật chất trong cấu trúc của Tồn tại thực của nó, chứ sao không?
Đó là góc nhìn bản thể luận giữa vật chất và ý thức bị bỏ quên khi một chiều luận về nhận thức luận, mà hiện nay cần phải làm sáng tỏ
Dù khái niệm[7], hình ảnh (A) về miếng thị bò không thể nhậu được, ăn được như miếng thịt bò thật, vì nó chỉ là hình ảnh như hình ảnh trên truyền hình vậy, nhưng khái niệm thịt bò, hình ảnh thịt bò trên ti vi hay trong não người (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

là một tồn tại dưới hình thức một dạng vật chất ảo, là sự kiến tạo bằng năng lượng - thông tin lượng tử (ánh sáng sinh học) gắn liền với quá trình sinh lý hóa. Hình ảnh thịt bò được mã hóa trong não bằng năng lượng - thông tin sao đó để sau đó tiếp tục nhận diện được màu, mùi, chất thịt bò…
Mác nói, “ý thức chẳng qua là vật chất được di chuyển vào óc người và được cải biến trong đó”. Sự di chuyển ấy là có tính năng lượng - thông tin vật lý thành năng lượng thông tin sinh học- ý thức, tuệ thức. Hình ảnh vật chất như vậy là vô hình, ảo, không có khối lượng, trọng lượng… Thật ra ở thế giới hạ nguyên tử khác với thế giới nguyên tử hạ trên nguyên tử (hữu hình), ở đây hạt – sóng là không có khối lượng, trọng lượng, phi thời gian, không gian.
Chúng ta mới chỉ thấy, hình ảnh ở mặt A, hình ảnh - ảo - nó là cảm giác - “ý thức”, khác với vật chất thực, nó có sau, và bị quyết định bởi cái vật chất thực. Thậm chí có khi chỉ dừng lại cái vật chất hữu hình, mà không thật sự chú ý mặt hình ảnh B và cũng bị hình ảnh A ám ảnh, “phi vật chất” mà không thấy hình ảnh mặt B là “có tính vật chất”, một dạng vật chất ảo (hình ảnh) với chính mình (năng lượng- thông tin) và lại diễn ra, không tách rời, thậm chí đồng nhất với vật chất thật - năng lượng - thông tin lượng tử, chứ không phải chỉ là cơ sở của ý thức, nhận thức như có người quan niệm[8].”Ý thức có bản chất vật lý là năng lượng sống[9] (Ý thức = A.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Vật chất, do vậy không phải chỉ là nguồn gốc của ý thức mà còn là bản chất sâu xa của ý thức. Ý thức có nguồn gốc vật chất mà nói ý thức không có tính vật chất là phi lôgích, không biện chứng, phản duy vật.
Bởi vì thế giới vật chất là duy nhất, ngoài ra không có gì khác, ý thức là hình ảnh của nó, một tồn tại khác của vật chất, nên ý thức cũng thống nhất với thế giới, thống nhất ở tính vật chất của nó. Không thể bỏ qua mặt này của bản thể luận.
Nhà khoa học Toshiko Izutsu (Nhật) thì thừa nhận trong chiều sâu của ý thức, ở phía bên kia của sự vật, tồn tại một cơ sở căn bản phi hiện tượng, siêu hình... (xem SK&ĐS, Xuân Ất Dậu, tr.60). Chung quy sự sống được hiểu là sự tích lũy không ngừng các thông tin, mà nguồn tạo ra thông tin chính là ý thức. Thông tin được chuyển tải bằng năng lượng. Theo Viện nghiên cứu cơ khí chính xác quốc gia Nga ở St.Peterburg cơ sở của thông tin là “trường xoắn” (Torsional field). Bằng những công cụ tân kỳ các nhà khoa học Nga đã đo lường được “trường xoắn”, cũng như chứng minh được vai trò quyết định của nó trong khả năng ngoại cảm của con người. Các tính năng quan trọng của “trường xoắn” là tác động xa, với tốc độ lớn hơn tốc độ ánh sáng. Như vậy, “thông tin - ý thức”, “năng lượng - vật chất”, là những hòn đá tảng xây nên vũ trụ và đồng thời là những biểu hiện cơ bản của các tính năng của tạo hóa[10].

2- Nếu cứ nói chung chung ý thức không có tính vật chất sao nó có thể ảnh hưởng (hiệu ứng sinh học và hiệu ứng tâm linh[11]) đến các dạng vật chất khác. Chẳng hạn, điếu khiển vi tính bằng suy nghĩ của con người. Dùng suy nghĩ để điều khiển máy tính (xác định bằng thí nghiệm); dùng ý thức điều khiển năng lượng sống để bẻ cong cái thìa cầm trên tay; chữa bệnh từ xa[12]; … Hoặc tiếp nhận năng lượng vũ trụ và các tác nhân vũ trụ như năng lượng sóng hấp dẫn lại tác động đến suy nghĩ, sự thông minh, sáng suốt của con người. Nếu ý thức hoàn toàn phi vật chất (theo nghĩa vật thể thì đúng) sẽ rơi vào một thực tế không lý giải được ý thức xuất phát từ đâu và nó tác động đến hình thái vật chất khác như thế nào? Và như thế sẽ rơi vào nhị nguyên luận chứ không phải nhất nguyên luận duy vật.
Khi ta suy nghĩ (cải biến, chế biến hình ành, liên kết nó, ký hiệu hóa nó, chuyển hóa hinh ảnh, khái niệm) là khi hoạt động của hệ thần kinh TW, là quá trình sinh lý hóa và chuyển hóa năng lượng, truyền tin tác động đến cơ thể. “Hoạt động của ý thức là quá trình du nhập và phát xuất của hệ thần kinh[13]. Đó là quá trình có tính vật chất. Khi ta vui, khi ta buồn thì cơ thể thế ra sinh ra những chất buồn vui, khoái cảm tương ứng. Hình ảnh, khái niệm không có tính vật chất thì không thể lan truyền, nảy sinh các hiện tượng ấy. Hoặc các trường vũ trụ tác động đến óc người, nên trong tuần các ngày thông minh và kém văn minh hơn, hay bị kích động, hưng phấn ít hay nhiều.

3- Đúng là chúng ta chỉ phân biệt vật chất và ý thức trong nhận thức luận và có tính tương đối (A). Còn giữa vật chất và ý thức có sự đồng nhất nào đó từ chiều sâu bản thể vũ trụ, khi xem xét ở khía cạnh, góc nhìn khác (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Cố nhiên, không thể nói chung chung rằng, ý thức là vật chất. Vì như thế sẽ sai về lôgích và xóa nhòa ranh giới đối lập vật chất - ý thức, xóa nhòa về mặt thế giới quan[14]. Có thể cho rằng, ý thức là hình ảnh chủ quan của chủ thể phản ánh khách thể. Nhưng người ta hay quên rằng, “ý thức chẳng qua là vật chất được di chuyển vào óc người và được cải biến trong đó”. Ý thức là một dạng vật chất vô hình, vật chất ảo được kiến tạo trong óc người. Ảo đối với vật chất bên ngoài nó mà nó phản ánh (được liên kết, ký hiệu hóa, mô hình hóa), nhưng với bản thân nó, với bộ óc thì là vật chất thật (và vật chất thật hóa)[15]. Thế giới khó có gì ngoài vật chất cả, không có gì là phi vật chất, kẻ cả hình ảnh - vật chất ảo (theo nghĩa triết học) cả (chỉ có phi vật thể, thì đã rõ). Luận điểm ấy triết học duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác cũng đã xác nhận. Do vậy, thì với quan niệm mới nói trên chỉ có thể làm rõ hơn vấn đề mà hiện tại chúng ta còn lúng túng thôi.

II- PHẢI CHĂNG CÓ “TRÍ TUỆ VŨ TRỤ” VÀ, LINH HỒN- TÂM LINH

4- Có thể nói gì về quan niệm, “trí tuệ vũ trụ”? Ngày nay ta biết rằng thế giới vô hình sinh ra thế giới hữu hình và các dạng hay đặc tính vật chất chiều sâu (vật chất tối, mịn, dạng dây, bọng sóng, sóng - hạt…, các thông tin di truyền, thần giao cách cảm, năng lượng - thông tin tâm linh…). Các qui luật khách quan điều khiển vũ trụ vật chất. Và thế giới vừa có trật tự và phi trật tự (hỗn độn). thế giới, sự vật, hiện tưởng như có bàn tay vô hình chung điều khiển, bộ óc siêu nhân chỉ huy. “Chúa Trời”, “Đáng Tạo hóa” chăng?[16] Hay trí tuệ vũ trụ? Khi nghiên cứu thế giới lượng tử, gen di truyền, các dạng thông tin, mà thông tin thường gắn với năng lượng, thông tin là đặc tính hay cũng là một dạng vật chất vô hình, nhờ nó “vũ trụ”(Tạo hóa) được điều khiển, tức như có “trí tuệ vũ trụ “vậy[17], nhất là thế giới sự sống. Thực ra trí tuệ (duy lý, lý trí) chỉ gắn với bộ óc con người mà thôi. Nhưng ở con người còn có vô thức, ý thức khác, ở không gian khác, mà sau thời hậu Ánh sáng của Lý trí, thì càng hiểu rõ hơn thế giới vô thức (vô thức vật lý, vô thức sinh học, vô thức tinh thần của cá nhân, cộng đồng…, tức tâm linh nói chung), và siêu thức thì càng thấy ý niệm trí tuệ vũ trụ còn là theo nghĩa ấy nữa.
Ngay “Ý niệm tuyệt đối” của Hêghen, hiểu theo ý nghĩa hình ảnh ảo, “tinh thần vũ trụ” có trước sinh ra thế giới thật, thì ông duy tâm (khách quan) là đúng, nhưng nếu hiểu, nó là thế giới vô hình[18], tâm linh và hạ nguyên tử thì có mặt hợp lý của nó. Từ đó phải chăng ý thức không chỉ là sản phẩm của bộ não con người? Ý thức là sản phẩm của não bộ. Điều đó giờ đây có thể không còn chính xác nữa? Chúng ta sẽ theo dõi tiếp ở các phân tích sau.

5- Ta biết rằng, thế giới mà con người cảm giác, nhận thức được, nó sẽ hiện ra theo cảm quan đó, dù là có sau, ảo ảnh. Ngày nay khoa học vật lý hiện đại cho biết ánh sáng, sóng hay hạt ở cấp hạ nguyên tử ấy là gì là do chủ thể quan sát muốn nó thế (thế giới sóng - hạt là gì còn phụ thuộc vào quan sát của chủ thể). Còn ở cấp độ bình thường thì ý thức là hình chủ quan của thế giới khách quan, tức là hình ảnh do chủ thể tạo ra có thể đúng hay sai ít nhiều với thực tế (phụ thuộc vào nhiều yếu tố, điều kiện). Cho nên nói thế giới, “tồn tại là do cảm biết” (duy tâm chủ quan) là đúng ở giới hạn ấy, còn nếu đẩy tới, ý thức (hình ảnh, bóng, ảo) có trước quyết định cái vật chất thật sẽ như thế (hình ảnh chủ quan) thì sai và rơi vào duy tâm chủ quan là đúng.
Còn triết lý Phật giáo thế giới và vạn vật là “duy tâm biến hiện”. Duy tâm biến hiện theo hàm nghĩa nào? Nếu Tâm là hình ảnh tinh thần (hình ảnh - ảo, không thật) sinh ra thế giới vạn vật thật thì là chủ nghĩa duy tâm triết học. Nhưng nêu Tâm là Không (sóng - hạt, vi tế) sinh Sắc, sinh thế giới, vạn vật thì là chủ nghĩa duy vật triết học. Theo ý nghĩa này thì triết lý Phật giáo phù hợp với khoa học vật lý hiện đại và ngược lại khoa học vật lý hiện đại phù hợp với triết lý ấy của Phật giáo[19]. Chính Ensten đã nhận ra điều này mà ngày nay thì khá rõ khi nhà khoa học bàn về vật lý học và đạo học.

6- Quan điểm nhị nguyên luận triết học là bản chất thế giới là do hai loại vật chất và ý thức, có bản chất độc lập với nhau, không cái nào quyết định cái nào tạo nên thế giới. Đó là sai. Vì ý thức chỉ là hình ảnh của cái vật chất, và nó cũng chỉ là một dạng vật chật ảo. Nên nhất nguyên luận duy vật là đúng. Nếu nói ý thức chung chung rằng, là phi vật chất, không có tính vật chất, nhất là khi xem xét mặt B, nói trên, và cả mặt A nữa, thì sẽ dẫn đến lôgích trong thế giới này có “cái phi vật chất”, sẽ là sai lầm lôgích, mập mờ về mặt thế giới quan. Xét đến cùng không có cái vật chất sinh là “cái phi vật chất” và ngược lại.
Cần chú ý là trong văn minh phương Đông, thì du có nói tới hồn - xác, tâm - thể, nhưng triết lỳ chung, cơ bản, bao trùm, xuyên suốt là “vạn vật đồng nhất thể”, “thiên địa nhân hợp nhất”, “con người là tiểu vũ trụ…”[20]. Điều đó phù hợp với khoa học hiện đại.
Hơn nữa, khoa học hiện đại ngày nay cho rằng, vũ trụ dù siêu vĩ mô hay siêu vi mô là thống nhất, hữu cơ như “cơ thể sống”. Con người là một phần vũ trụ toàn đồ, một phần của “trí tuệ vũ trụ” - thông tin vũ trụ, có tính liên thông.

III- PHẢI CHĂNG Ý THỨC CHỈ LÀ SẢN PHẨM CỦA NÃO BỘ? Ý THỨC LÀ MỘT PHA VẬN ĐỘNG CỦA VẬT CHẤT? SỐNG - CHẾT VÀ LUÂN HỒI?

7- “Con người là một thành phần của vũ trụ và mang tính toàn đồ vũ trụ. Bất cứ sinh vật nào cũng được hợp thành từ 2 loại vật chất: năng lượng và thông tin. Bản thân con người gồm 2 cơ thể: thân thể (tế bào, mô, cơ quan) và cơ thể năng lượng bao quanh thân thể. Không phải ai cũng nhìn thấy được vầng hào quang trên một số vĩ nhân hoặc thánh nhân, nhưng bản thân nó vẫn tồn tại”.[21]
Về vấn đề “linh hồn” cũng là ý thức và “phi vật chất” cần lý giải thế nào? Các tế bào sống (ví như cái đài, ti vi sinh học, các trạm thu hát hiện đại…) có thể thu phát thông tin. Nhưng có thông tin vật lý và thông tin sinh học - tâm linh[22].
Ta biết rằng, nếu “linh hồn”[23] lìa khỏi xác khi chết và còn suy nghĩ, điều khiển thông tin, nhận biết được, như khi con người còn sống, mà theo cách giải thích triết học hiện nay thì không thể có. Không có ý thức (sống) như thế khi không gắn liền với não người sống. Năng lượng sống phải tồn tại trong môi trường - cơ thể sống.
Nhưng nếu linh hồn cũng là ý thức và có tính vật chất đặc biệt, như nói ở trên, thì linh hồn như một dạng năng lượng – trường- thông tin thoát khỏi cơ thể khi người ta chết. Linh hồn này, nó có thể xâm nhập, tác động vào não người sống (nhà ngoại cảm[24], …), thì có thể họ đọc được và phát thông tin ấy (nửa vô thức nửa ý thức), nên cảm thấy linh hồn còn “suy nghĩ” và nói về tương lai? Hiện tượng gọi là nhập hồn – “ma nhập”- “lên đồng” thì người bị nhập phát ngôn như (của) “hồn ma” (có thể là môt loại ảo ảnh ở chiều sâu vô thức của não - kiểu tưởng tri). Hoặc “linh hồn” ấy ở ngoài não người có thể phát thông tin, nhưng chỉ thông tin mặc định quá khứ - năng lượng - thông tin tàn dư chỉ mang tính vật lý[25] (và cũng phải được đọc bằng não nhà ngoại cảm - nhà ngoại cảm thật, chứ không phải giả danh)[26]. Hình ảnh truyền thanh, truyền hình là sự truyền âm thanh, hình ảnh, điệu bộ, màu sắc (thậm chí cả mùi vị) như thật nhưng đã mặc định, không thể diễn ra khác được, nhưng trong não người sống thì có sự biến hóa vô cùng[27].
Còn thần giao cách cảm là giao lưu thông tin vô thức giữa người thân với nhau khi có cùng tần số cảm ứng. Ngay các động vật nó cũng báo tin với nhau (cấp cứu hay cùng chia vui) và cảm ứng với nhau (thông tin vật lý - sinh học).
Bản chất hiện tượng đầu thai là gì?Chúng ta biết việc chia sẻ dữ liệu, chia sẻ chương trình(mà chương trình đó có khả năng tự cài đặt) giữa hai máy tính thông qua mạng không dây như thế nào? Nhưng quá trình đó đi kèm với quá trình sóng điện từ và năng lượng điện từ. Về phương diện vật lý hiện tượng đầu thai cũng tương tự như thế, đó là kết quả chia sẻ dữ liệu và chương trình tự cài đặt của một người chết đi và một người sắp được sinh ra. Quá trình này đi kèm theo quá trình sóng sự sống và năng lượng sống. Khi con người hay sinh vật chết đi sóng thông tin sự sống sẽ phát ra môi trường xung quanh, đi cùng với nó là quá trình năng lượng, gặp được nguồn thu thích hợp toàn bộ năng lượng này sẽ tập trung vào đó, quá trình này xảy ra rất nhanh[28]. Đây là một cách giải thích phù hợp với bản chất ý thức - tâm linh đã nói trên. Nhưng cần chú ý đây là năng lượng – thông tin vật lý. Do vậy, chúng tôi cho rằng, cần phân biệt trường vật lý - sinh thái (có sẵn trong vũ trụ, là trường cơ sở) này và trường ký ức (trường phái sinh) do hoạt động của con người làm nảy sinh và não bộ ghi nhận lại và “linh hồn” là sự kết hợp hai loại (mặt) trường này [29].
Linh hồn” thực ra còn là sự “nhân cách hóa” trong ký ức ở chiều sâu của não người mang tính vô thức sống động (kể cả khi não thu được năng lượng - thông tin từ người đã chết), như biểu hiện của những giấc mơ, chẳng hạn mà phần nào ta đã rõ. Còn năng lượng - thông tin “tàn dư” của người đã chết thì tự nó không có sự nhân cách hóa đó, nếu không qua óc người sống, nên không có linh hồn, như cơ thể sống, có buôn vui, suy nghĩ, phán đoán bất tử, ngoài cơ thể con người người[30]. Không thể cho rằng vong, linh hồn là “một vật” , hay “một vật sống”, tức có tính hữu hình (và còn suy nghĩ, cảm giác sai khiến, mách bảo), như có người lý giải. Chỉ có người sống mới đọc được thông tin của linh hồn chứ không phải ngược lại.

8- Thế giới nội tâm của con người là thế giới ký ức do vô thức và ý thức các loại tạo nên. Ký ức này tạo nên giấc mơ. Khi suy nghĩ, hoặc khi mơ là hoạt động mang tính sinh - lý - hóa[31], năng lượng và thông tin, phi thời gian và không gian, nó diễn ra tùy theo trạng thái sức khỏe và ký ức đã có, và cả thông tin vũ trụ tác động thế nào đó mang tính vô thức. Lý trí không điều khiển giấc mơ. Khi não có vấn đề thì sinh bệnh thì sinh sự huyên thiên của người điên, tâm thần, và bệnh hoang tưởng, chẳng hạn. Mơ không phài là linh hồn lìa khỏi xác. Mơ là ký ức sống dậy theo qui luật vô thức bản năng - tâm linh. Nhưng giấc mơ thường là một cơ sở mà người đời suy luận ra “linh hồn” (Ăngghen cũng có lý giải này).
Còn khi người chết thì năng lượng sống (sinh học- tâm linh) tắt, có thể chuyển về năng lượng vật lý thoát khỉ cơ thể ở mức nào?[32] (mồ mả người mới chết thường tiếp tục thoát ra năng lượng, “hồn ma” còn theo nghĩa đó). Giấc mơ, hay năng lực ngoại cảm có thể là năng lực “tưởng thức” (theo ông thượng tọa Thích Thông Lạc)[33]. Do vậy, theo quan niệm này là không có linh hồn, vong, thoát khỏi cơ thể tồn tại hoạt động như trong óc người sống[34], chứ không phải không có linh hồn (thông tin đã mặc định). “Là một nhà tu tập thiền định theo Phật giáo, tự bản thân chúng tôi đã trực tiếp truy tìm thế giới siêu hình[35] để thấy, nghe, hiểu biết, thì chúng tôi biết nó từ đâu xuất hiện những hiện tượng đó. Vì thế chúng tôi xác định quả quyết: “Thế giới siêu hình không có, chỉ là năng lực tưởng thức của mỗi con người còn đang sống tạo ra, chứ người chết rồi thì không còn lưu lại một vật gì cả”. Xưa, thái tử Sĩ Đạt Ta khi tu thành Phật, Ngài cũng xác định: “Thế giới siêu hình là thế giới của tưởng tri”.”Linh hồn là do tưởng tri của con người còn sống” (Thích Thông Lạc)[36]. Còn “Tâm linh chỉ được coi là một hiện tượng giống như hiện tượng điện trường, từ trường... chứ không được coi là thế giới. Hiện tượng tâm linh cũng phải tuân theo quy luật nguyên nhân có trước kết quả có sau không ai biết trước được tương lai xa”.[37] Quan niệm như vậy và câu nói rằng “Thế giới siêu hình không có, chỉ là năng lực tưởng thức của mỗi con người còn đang sống tạo ra, chứ người chết rồi thì không còn lưu lại một vật gì cả”, thì có lẽ chỉ đúng một nửa, vì người ta chết đi về thể xác nhưng vẫn còn lưu giữ “trường ký ức” kết hợp với “trường sinh thái”- trường lượng tử, như nói ở trên, chỉ có điều nó không giống như khi ở trong não người đang sống.
Pim van Lommel, bác sĩ chuyên khoa tim người Đan Mạch cũng đồng ý với quan điểm của Greyson. Lommel cho rằng con người không chỉ có một ý thức, trong khi họ đang ở trong tình trạng hấp hối thì những ý thức khác hoạt động và mở rộng phạm vi của nó nhiều hơn so với bất cứ thời điểm nào trước đó. Lúc đó họ có thể hồi tưởng lại những khoảng thời gian xa xôi nhất trong quá khứ và cảm nhận được một cách rõ ràng hơn bình thường sự vật và con người xung quanh. Trong khi đó, thần kinh trung ương của họ vẫn đang ngừng hoạt động. Những giả thiết trên đã đặt ra một sự nghi ngờ đối với kiến thức mà chúng ta đã biết và thừa nhận từ lâu: Ý thức là sản phẩm của não bộ. Điều đó giờ đây có thể không còn chính xác nữa. Bởi vì nếu như vậy, ý thức sẽ không thể tồn tại nếu não bộ ngừng hoạt động. Nhưng các thí nghiệm ở trên thì đều chứng minh cho điều ngược lại (HBT nhấn mạnh). Còn hai học giả của trường Oxford là Stuart Hameroff và Roger Penrose lại giải thích sự tồn tại của linh hồn bằng quá trình lượng tử (HBT nhấn mạnh). Theo hai ông, não bộ con người được chia ra làm hàng tỉ ô siêu nhỏ, các ô này liên kết với nhau thông qua một quá trình di chuyển của các lượng tử. Khi cơ thể một người ngừng hoạt động, máu sẽ không được chuyển đến các ô này, và chúng cũng ngừng hoạt động. Nhưng sự di chuyển của các lượng tử thì không mất đi. Chúng sẽ thoát ra bên ngoài não bộ và ghi nhận những gì tồn tại ở không gian xung quanh (HBT nhấn mạnh). Nếu người đó tỉnh lại, các lượng tử sẽ quay trở lại não và hoạt động với chức năng thông thường của chúng. Những gì chúng ghi lại được khi thoát ra bên ngoài cũng được não bộ tiếp nhận. Và đó là lý do tại sao một người hấp hối nhưng sau đó được cứu sống lại có thể biết được những sự kiện mà anh ta không hề tận mắt chứng kiến hoặc được nghe kể lại. Vậy nếu người đó không tỉnh lại được nữa thì các chuỗi lượng tử đó sẽ di chuyển đi đâu? Tiếp tục mở rộng giả thuyết của Hameroff và Penrose, bác sĩ Ian Stevenson đã nghiên cứu về khả năng các chuỗi lượng tử đó sẽ được tiếp nhận trong bộ não của trẻ sơ sinh, hay nói cách khác đó chính là sự tái sinh! Sau khi Ian Stevenson mất, con trai ông là Tucker tiếp tục theo đuổi giả thuyết này. Tucker tiến hành phỏng vấn rất nhiều trẻ em, trong số đó ông đã tập hợp được 1.400 em có khả năng biết được những sự kiện xảy ra trước khi chúng sinh. Thậm chí một vài em còn có thể kể rất rõ những sự kiện trong cả các giai đoạn phát triển rất sớm của lịch sử loài người (Bí mật của linh hồn)[38]

9-Từ phân tích nói trên, có thể thấy, ý thức hay tâm linh, linh hồn là một dạng/ pha tồn tại khác của vật chất, một dạng/ pha hoạt động khác của vật chất trong dòng chảy vật - năng lượng - thông tin - ý thức. Những hình thức hay hình thái vật - năng lượng - thông tin - ý thức, cả bốn hình thức/ dạng/ pha vận động này cũng có thể chuyển hóa lẫn nhau trong những điểm nút/giới hạn nhất định.
Về các phân chia dạng tồn tại và hình thức vận động của vật chất, ta thường cho rằng có 5 hình thức vận động của vật chất: vận động cơ học (thay đổi vị trí), vận động vật lý (chuyển hóa vật chất- năng lượng), vận động sinh học (phân chia tế bào và trao đổi chất với môi trường), vận động xã hội (thay đổi hình thái kinh tế - xã hội). Nhưng tại sao lại không cho rằng, thông tin - ý thức cũng là một dạng thức. pha tồn tại, vận động nữa, tức thứ 6, của vật chất, dù rằng các hình thức/ pha vận độn cũng có thể bao hàm lẫn nhau? Thậm chí tách ý thức ra như một hình thức/ pha vận động riêng (hình thức/ pha vận động thứ 7 vì ý thức vận động có tính sáng tạo cao mà thông tin hay tiền ý thức (như trí khôn động vật - sinh thức) khó có được). Và ngày nay chúng ta cũng biết ý thức không chỉ do 5 giác quan (của cơ thể hữu hình) mang lại mà là đa giác quan, trong đó có giác quan của cơ thể vô hình - cơ thể năng lượng, điều này phù hợp với 9 thức của đạo Phật.
Theo chúng tôi, nếu dừng lại cách phân chia 5 hình thức vận động sẽ nghèo nàn và khó thấy được tính phong phú đa dạng - đa pha - đa hệ - đa chiều - đa cấp độ - đa nhịp độ - đa sắc màu…, nhất là ở chiều sâu của các dạng/ pha của vật chất, hơn nữa sẽ khó giải thích được sự huyền diệu, bí ẩn… của chúng.
Những cũng có thể có cách phân chia khác, do cách nhìn và tiêu chí khác, như vật chất vô hình và hữu hình, hạt và sóng, vật chất vĩ mô và vất chất vi mô, vật chất thô và vật chất tinh (vi tế), vật chất sống và vật chất không sống, vật chất tối và vật chất sáng, vật chất thật và vật chất ảo, tâm và vật, “vật chất” và quan hệ, “vật chất”- “ý thức” và tâm linh, hoặc vật - năng lượng và thông tin - ý thức, nhưng nhìn chung là “vạn vật đồng nhất thể”, hay “thế giới với các dạng/ pha… nói trên đều “thống nhất ở tính vật chất của nó”. Ta cũng thấy trong tương tác, tương khắc, tương đồng giữa con người và vũ trụ mà tương sinh, tương thành thì vật/ vật chất chuyển hóa thành năng lượng, năng lượng chuyển hóa thành thông tin và thông tin chuyển hóa thành ý thức, hoặc tâm linh - ý thức (ý thức-tâm linh). Mà ý thức cũng có nhiều dạng/ pha/ trình độ: sinh thức, vô thức, tâm thức, tuệ thức, siêu thức…

Theo chúng tôi, ý thức có thể nhìn từ hai cấp độ (nếu nhìn chỉ một cấp độ là thiếu sót lớn):(1) ý thức (vật chất ảo) có sau vật chất thật và do vật chất (thật) quyết định (hình ảnh được phản ánh thì có sau cái phản ánh, bị quyết định từ nó); (2) là hình thức tồn tại đồng thời giữa vật chất và ý thức - năng lượng và thông tin (vật - tâm, tâm - vật, như quan niệm Đạo Phật, hay vật - năng lượng và thông tin, như quan niệm vật lý học hiện đại gồm cả vật lý học sự sống[39]). Chính V.I.Lênin cho rằng ngoài sự đối lập giữa vật chất và ý thức (1), thì sự phân biệt giữa chúng (2), nhất là khi xem nó ở chiều sâu, bản chất là rất tương đối đó sao?
Khi con người chết đi thể xác biến thành tro đất, nhưng năng lượng - thông tin - ý thức lại biến thành cái mà ta gọi là “hồn” hay tâm linh (nghĩa hẹp). Còn khi sinh ra không chỉ là từ vật chất sống(tinh trùng) mà còn là từ năng lượng - thông tin (tức ý thức nguyên thủy- sinh thức) không chỉ từ cha mẹ mà còn từ môi trường vũ trụ - thiên địa. Nhận xét của nhà khoa học thực nghiệmn, như đã dẫn, cho thấy: “Khi cơ thể một người ngừng hoạt động, máu sẽ không được chuyển đến các ô này, và chúng cũng ngừng hoạt động. Nhưng sự di chuyển của các lượng tử thì không mất đi. Chúng sẽ thoát ra bên ngoài não bộ và ghi nhận những gì tồn tại ở không gian xung quanh”
Đúng là “Chung quy sự sống được hiểu là sự tích lũy không ngừng các thông tin, mà nguồn tạo ra thông tin chính là ý thức. Thông tin được chuyển tải bằng năng lượng”.”Linh hồn cũng là một loại từ trường, nhưng lại là một loại từ trường có ký ức, nó mang theo tất cả thông tin khi Thể Xác còn sống. Nói cách khác: Linh Hồn là một phức hợp của một loại Trường Sinh Thái + Trường Thông Tin”.

Ở đây vẫn có quy luật bảo tồn vật chất- năng lượng - thông tin - ý thức. Ý thức như là hình thức cao nhất của thông tin, nó là sự phức hợp thông tin sinh thái và thông tin ký ức và thông tun sáng tạo. Phản ánh là ghi chép lại. Thông tin là di chuyển, kiến tạo, tạo hệ hình, và chuyển hóa. Thông tin là kết quả của phản ánh và hình thức cao của phản ánh. Có người, GS Phạm Ngọc Quang (xem Tạp chí nghiên cứu tôn giáo) quan niệm rằng, với sự kiện trao đổi giữa “nhà ngoại cảm và người âm”… thì hình như lý thuyết phản ánh đã bất lực. Rõ ràng là cần cả lý thuyết thông tin, lý thuyết lượng từ, lý thuyết bản chất sự sống…mới làm rõ được hiện tượng tâm linh nói cung và “linh hồn” nói riêng, như chúng tôi đã phân tích nói trên (từ Vật lý học, Sinh học và các ngành khoa học khác như Vật lý lượng tử, Cận tâm lý học, Tin học, Vi điện tử, Công nghệ sinh học cao...)!

Tóm lại, ý thức hay vô thức - tâm linh cũng chỉ là hiện tưởng của thế giới vật chất duy nhất, xét đến cùng có bản chất vật chất[40]. Ngày nay, việc nghiên cứu tâm linh – trường sống đang làm rõ hơn vấn đề này. Triết học Mác ngày nay không thể đứng ngoài cuộc, để khắc phục, vượt qua những nhận thức có thể không còn đúng nữa, nếu không sẽ trở nên giản đơn, lạc hậu, giáo điều.
Với phát hiện vấn đề thực tiễn trong đời sống xã hội và nhận thức luận, triết học Mác đã hình thành nên chủ nghĩa duy vật thực tiễn (cũng có khi gọi là chủ nghĩa duy vật lịch sử). Nhưng với gian, chúng ta ít chú ý (thậm chí có mặt còn bài xích) chiều sâu của lý thuyết vật lý hạ nguyên tử với đạo học, nhất là lý thuyết sinh học, gen di truyền, coi thường góc độ năng lượng sự sống - tâm linh[41]. Nhưng hiện nay đang thay đổi tư duy và chú ý nghiên cứu các hiện tượng khó khăn này. Ngày nay, trên ý nghĩa đó, theo tôi, có thể nói đang hình thành “chủ nghĩa duy vật tâm linh”[42]! Đây phải là một phương diện mới của triết học Mác hiện đại, hoặc là một lý thuyết triết học mới cần xây dựng, giải thích các hiện tượng “tâm linh” nếu các nhà triết học và nhà khoa học hiện nay làm rỏ những điều này (mà ý kiến đang đối lập nhau). Bởi vì, với phát hiện mới, có ý nghĩa khoa học rất cơ bản, và có ý nghĩa thời đại thì chủ nghĩa duy vật phải thay đổi hình thái của mình.
Trên đây, là một số vấn đề tôi muốn nêu lên, thử gợi mở để thảo luận (chưa hoàn chỉnh) góp phần vào kích thích suy nghĩ, đổi mới tư duy và phát triển triết học hiện nay. Có như thế chúng ta mới chống được sự giáo điều và lạc hậu về lý luận, trước hết là về mặt triết học. Sai lầm, hay chưa chuẩn xác có thể có, nhưng không có sai thì không có đúng, vậy mong các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu triết học chỉ ra và làm rõ hơn./.
[1] Theo: GS. Đoàn Xuân Mượu

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


[2] Sự trình bày sau đây, là tiếp tục công việc thu hoạch, đọc, nghiên cứu và tìm hiểu về vấn đề này hơn 30 năm nay. Nhưng dù sao cũng chỉ mang tính giả thuyết.
[3] Theo: GS. Đoàn Xuân Mượuhttp://nangluongcuocsong.com.vn/ReadMessage.php?news=140&boy=15&it8x=27&title=Tim-hieu-ban-chat-cua-y-thuc.html#.U5jyGXY0-zo
[4] (Giáo trình triết học Mác – Lênin. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn Mác – Lênin, tư tưởng H-C-M. Giáo trình Triết học Mác – Lênin. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999. tr.344). Dừng lại cách lý giải còn đơn giản, có mặt lỗi thời này sẽ không thấy nghĩa được nhiều hiện tượng phức tạp của ý thức và tâm linh, như thực tế đã biết.
[5] Xem thêm Các nguyên lý triết học Mác (của tác giả Trung Quốc, Nxb CTQG ấn hành, 2006, tr.150, 151- 152.Tất nhiên, ở đây, không phải như cách hiểu biệt xưa “gan tiết ra mật”, hay là một dạng hạt.
[6] Có người cho rằng, hiện tượng tâm linh, vong đã vượt ra khỉ lý thuyết phản ánh của Lênin. Thực ra, nếu hiểu theo nghĩa rộng, gồm cả lý thuyết thông tin, năng lượng sống thì về cơ bản vẫn là phản ánh-thông tin, kiến tạo, sáng tạo hiện thực, tuy nhiên nếu chỉ là cấp độ vật lý thì không đủ… Nhưng, theo chúng tôi, HBT, vấn đế là ở chổ, phải hiểu rõ thuyết năng lượng sống – vật lý sự sống mới hiểu được bản chất chiều sâu của ý thức.
[7] Các khái niệm triết học hiện nay rất mù mờ, vì vậy một khái niệm được giải thích rất dài dòng, và để hiểu được các giải thích này được cặn kẽ lại phải phân tích giải thích sâu hơn nữa. Hiểu được cặn kẽ các khái niệm là điều không thể. Để bàn được với nhau, chúng ta đành phải đồng thuận với nhau một cách hết sức tương đối ở một mức độ nào đó (Đạo Trường, 00:25 Ngày 11 tháng 05 năm 2014).
[8] Nếu chúng ta quan niệm tri thức và ý thức như hiện tượng tinh thần không tồn tại lơ lửng ở bên ngoài và tách rời khỏi mọi dạng bất kỳ của vật chất, thì chúng ta buộc phải thừa nhận bộ óc người đang sống chỉ là một dạng và, phải chăng, chỉ là một dạng thô trong số các dạng tồn tại khác nhau của vật chất thực hiện chức năng làm tiền đề tự nhiên cho sự tồn tại và hoạt động của ý thức.
(

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

).
[9]

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sự tương quan của Linh Hồn và Thể Xác cũng như sự tương quan của làn sóng điện từ và chiếc máy radio. Linh hồn cũng là một loại từ trường, nhưng lại là một loại từ trường có ký ức, nó mang theo tất cả thông tin khi Thể Xác còn sống. Nói cách khác: Linh Hồn là một phức hợp của một loại Trường Sinh Thái + Trường Thông Tin …Thế giới là do vật chất tạo thành, trong đó bao gồm nhiều chiều không gian trong đó, và linh hồn; mà ma quỷ, linh hồn và không gian nhiều chiều cũng là một loại vật chất mà con người không thể trông thấy được; trong tương lai khi khoa học đã nhận biết và sử dụng được trường tổng hợp đặc biệt của linh hồn này, thì ngày đó lịch sử của thế giới nhân loại sẽ có một cuộc thay đổi cải cách to lớn .....(

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

)
[10]

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


[11] Và cũng có tác giả VN luận giải và đặt ra câu hỏi nghi ngờ này dưới góc nhìn khoa học hiện đại và triết học Phật giáo.
[12] Một số rất ít người trên thế giới có thể dùng ý thức điều khiển năng lượng sống để bẻ cong cái thìa cầm trên tay. Điều này có thể hiểu thông qua tính chất chuyển đổi năng lượng sống thành năng lượng cơ dưới sự điều khiển của ý thức.Một số nhà ngoại cảm có thể chữa bệnh cho người khác từ xa mà không cần thuốc. Giải thích điều này nhà ngoại cảm dùng sóng sự sống xác định tọa độ người bệnh sau đó là quá trình thu phát năng lượng sống giữa hai vật thể. Người tập yoga ít ăn, ít thở vì họ có khả năng hấp thụ trực tiếp năng lượng sống từ vũ trụ (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

).
[13] Các nguyên lý triết học Mác (của tác giả Trung Quốc, Nxb CTQG ấn hành, 2006, , tr. 151-152
[14] Có người cho rằng, “Các triết gia của mọi thời đại do bi hạn chế về lập trường nên đã chia rẽ thành 02 trường phái DUY TÂM & DUY VẬT, nhưng tất cả đã quên 01 điều "sự thống nhất giữa các mặt đối lập ". Tất cả các nhận định cua triết gia về thế giới đều đúng nhưng vì chúng ta chưa có cái nhin tổng thể nên ngộ nhận chúng mâu thuẫn với nhau. Thật ra chúng là 02 mặt đối lập trong 01 thể thống nhất " SIÊU DUY THỰC ".Vật chất và Ý thức cùng xuất hiện 01 lúc , không hề có cái này xuất hiện trước cái kia”(/nd/con-nguoi-1/tim_hieu_ban_chat_cua_y_thuc/default.aspx). Nói thư thế, rằng “Vật chất và Ý thức cùng xuất hiện 01 lúc , không hề có cái này xuất hiện trước cái kia”, theo chúng tôi chỉ đúng ở góc độ năng lượng- thông tin, năng lực phản ánh nói chung= “ý thức” (tự nhiên) thì cùng với vật chất là đồng thời, cấp 1, nền tảng. còn ý thức cấp độ 2 ở “hình ảnh” thì nó là cái có sau cái nó phản ánh. Ở ý thức con người có cả hai loại ý thức đó, mới đúng. (HBT)
[15] Theo triết Phật, đời không có gì thoát ra ngoài vật chất. Không có chuyện Phi vật chất, vì suy cho cùng Phi vật chất cũng chính là vật chất. Cũng không có gì thoát ra ngoài tinh thần, suy cho cùng phi tinh thần chính là tinh thần. Vật chất là vô cùng, nên bản chất của mọi sự vật hiện tượng đối với con người là vô định (không thể xác định, bản chất là Không). Bản chất Không của vật chất thể hiện (nói cách khác, vật chất tự thể hiện mình) trong ý thức người qua những tính chất .Có hai tính chất cơ bản: lọai tính chất con người có thể cảm nhận được, nhận thức được (tính chất Có - nói gọn là Tánh Có). Lọai tính chất mà con người Không thể cảm nhận được (Tánh Không)….Có lọai vật chất có tính chất con người không cảm nhận được hoàn toàn, đối với con người bình thường cái đó không tồn tại trong vũ trụ này, Với nhà triết học cái đó vẫn tồn tại và họ vẫn luôn bàn về cái đó. Lưu ý rằng ngay từ khái niệm cơ bản nhất của đức Phật về bản chất thế giới, đã có sự can dự của khái niệm về cảm nhận của ý thức trong đó. Tồn tại Ý thức và tồn tại ngoài ý thức (Vật chất- khái niệm mọi người hay sử dung) là hai tính chất như hình với bóng, không thể tách rời . Không có ý thức mọi chuyện đều vô nghĩa. Chúng ta tồn tại với tư cách là một người, chúng ta bàn luận với nhau..tất tần tật mọi chuyện đều có sự can dự của ý thức. Không có ý thức, không có các khái niệm bản chất, hình thức, sự vật hiện tượng không có ý nghĩa, sự vật hiện tượng có mà như không tồn tại. Nguồn gốc của ý thức trong đầu một người là tồn tại vật chất ngọai cảnh. Nhưng cấu tạo và diễn biến của ý thức trong đầu thì không phải là vật chất ngoại cảnh đó mà là vật chất khác. (Đạo Trường)
[16] Ngày nay vẫn có người, viết sách và xuất bản cho rằng, thế giới, vũ trụ bị điều khiển bới “Đấng Tạo hóa” (Chúa Trời), và 5 nền văn minh (4 nền văn minh đã bị hủy diệt) trong lịch sử trái đất và loài người là do “Đấng Tạo hóa”thí nghiệm, tạo ra.
[17] Đoàn Tuấn (sau khi đọc sách “Con người thoát thai từ đâu”) đã cảm nhận về các dòng thông tin như sau: Tôi rất thích giả thuyết "con người xuất hiện nhờ sự cô đặc của các dòng sóng mang thông tin, có năng lượng tâm linh" (“Con người thoát thai từ đâu”). Điều này kích thích cảm giác về sự tồn tại của nhiều kênh truyền tin khác nhau hay là các dạng thể hiện khác nhau của cùng một môi trường thông tin duy nhất. Lịch sử đã ghi nhận sự khám phá của nhân loại về các kênh truyền tin khác nhau. Trong số đó có những kênh truyền tin ứng dụng trong lĩnh vực viễn thông được chúng ta khai thác thông qua các thiết bị viễn thông; có những kênh truyền tin được sử dụng trong lĩnh vực tâm linh mà chỉ một số nhà tâm linh có khả năng đặc biệt mới khai thác được. Tuy vậy, tôi chưa thể cảm nhận được mối liên hệ giữa "năng lượng tâm linh được sinh ra từ mạch ngầm" với năng lượng sinh học được chuyển hoá trong quá trình sinh trưởng của sinh vật hay tất cả được sinh ra từ một nguồn duy nhất. (Đoàn Tuấn).http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/chung_ta_thoat_thai_tu_dau/default.aspx
[18] Nhà vật lý vũ trụ nổi tiếng, chuyên viên khoa học thuộc Cơ quan hàng không vũ trụ NASA Hoa Kỳ, Tiến sĩ Trịnh Xuân Thuận cùng tiến sĩ Monmerle khi nghiên cứu độc sáng của các vì sao đã chứng minh rằng: với độ ánh sáng như thế thì lượng vật chất vũ trụ phải gấp 10 lần vật chất biết được. Như vậy, còn một lượng vật chất chưa biết nhiều gấp chin lần vật chất đã phát hiện. Họ đi đến kết luận : sự tìm hiểu bản chất của loại vật chất vô hình này là một thách đố khủng kiếp đối với trí tưởng tượng của chúng ta…Nhà vật lý thiên tài Einstein đã tiên đoán về sự tương đương giữa vật chất và năng lượng. vật chất là năng lượng cô đọng lại, còn năng lượng là vật chất bị phân tán ra. Khi nghiên cứu sự sống, chúng ta thấy rằng mọi cơ thể sống đều được cấu tạo bởi thành phần : năng lượng và thông tin. Trong khi đó vật chất vô sinh chỉ có năng lượng mà thôi.
(

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

).
[19] Biết được cấu tạo và cơ chế vận hành ý thức người ta có thể làm cho mình thấy được cụ thể một tồn tại không có thật trong tự nhiên, hoặc biến một tồn tại thành một ra một tồn tại khác. Phật nói muôn sự tại tâm một phần cũng là vì vậy. Sự thật chúng minh điều đó. Mấy đứa bị ngáo đá, không hiểu chất ma túy vào trong đầu người ta làm biến đổi môi trường ý thức như thế nào mà làm con người thấy được nhiều tồn tại không có trong thực tế (y khoa gọi là ảo giác, dị cảm). Có đứa chợt thấy người yêu của mình là con thú nguy hiểm, là kẻ thù, là quỷ liền rat ay sát hại. Nhiều thuốc trị bệnh gây ảo giác, uống vào tự nhiên làm người bệnh thấy đủ thứ quái lạ: cá giãy đành đạch trên vai mình, vàng miếng đầy trên sàn nhà, bản nhạc thân quen trỗi dậy, mùi này mùi kia, cảm giác ăn cả vốc ớt….vv, rất nhiều , và rất thực. Trong lúc ảo giác, ở mọi chuyện khác ý thức người ta vẫn hòan toàn bình thường và minh mẫn. Rõ ràng là khi ta tiếp xúc với ngọai cảnh, ngọai cảnh tác động làm biến đổi môi trường ý thức trong ta, định khuôn môi trường ý thức ở một dạng tương xứng đặc hiệu nào đó dẫn đến kết quả là ta thấy được, nhận thức được ngọai cảnh đó. Bây giờ các nhà khoa học muốn làm ngược lại: biến đổi môi trường ý thức để cho con người thấy được một cách sống động rất thực cái mà ngọai cảnh không có.Ta có thể thấy được mẹ mình hiện ra trước mắt, nói chuyện với mẹ mình một cách sống động dù rằng bà đã mất từ lâu. Đó cũng là lý do các nhà khoa học đang tìm tòi cách chế ra những viên thuốc ngôn ngữ, uống vào là khỏi cần học mà vẫn có thể nói lưu lóat một ngọai ngữ mình cần. .. Những câu chuyện Phật giáo kể về các nhà sư có thể chui vào đầu người khác xem họ suy nghĩ gì giống như đám hacker chui vào máy vi tính người khác, ngày xưa coi là chuyện hoang đường. Nhưng ngày nay thì không là hoang đường nữa. Các nhà khoa học chế ra những máy móc điều khiển bằng suy nghĩ. Như vậy các máy móc đó đã đọc được suy nghĩ của con người. Một người đương nhiên là cao cấp hơn các máy đó, con người có khả năng đọc được ý nghĩ người khác. Mỗi người đều sáng tạo ra một thế giới riêng của mình, chân lý này bị che lấp bởi cái chung có vẻ tương đối giống nhau. Vì cái chung chung đó người ta mới lầm tưởng có tồn tại khách quan ngoài ý thức (Đạo Trường).
[20] Tôi đã viết một số bài về chủ đề này, trong đó có bài “Con người tiểu vũ trụ - con người sinh thái, con người tâm linh” (xem Hồ Bá Thâm, Phương pháp luận duy vật nhân văn- nhận biết và ứng dụng, Nxb Văn hóa – Thông tn, 2005)…Hoặc xem

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


[21]

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


[22] Hiểu rõ về ý thức, chúng ta sẽ hiểu rõ hiện tượng “ngọai cảm” đang rầm rộ ở Việt nam. Vì cơ thể con người cấu tạo bởi phần vật chất tánh có và phần vật chất tánh không. Khi chấm dứt tồn tại một kiếp người, phần tánh có phân rã chúng ta nhận thức được bằng các giác quan thông thường, cho đến khi chúng chuyển sang miền tánh không. Còn phần tánh không sẵn có từ lúc sinh ra thì không thể cảm nhận. Nhà ngọai cảm thật sự là người có thể có thêm một giác quan nào đó, cảm nhận được một phần vật chất tánh không nào đó. Dưới tác động của vật chất miền tánh không, môi trường ý thức bị biến đổi, bộ phận tưởng thức họat động làm ra những hình ảnh, những bộ phim như thật mà thực tế hòan toàn không phải vậy. Tức là hình ảnh thế giới linh hồn mà Phan Thị Bích Hằng kể ra là sản phẩm mà tưởng thức đã tưởng tượng, chế tác từ những thông tin tánh không đã nhận được phối hợp với kiến thức kinh nghiệm của bản thân lưu trữ trong miền nhớ. Tất cả chỉ là mộng tưởng và ảo tưởng. Hiện tượng lên đồng cũng vậy. Do đó có những điểm giống thật, nhưng phân tích kỹ thì đầy những sai lầm và mâu thuẫn. Cần phải phân định rạch ròi rằng có thể có ngọai cảm, có thêm giác quan ngoài ngũ quan thông thường nhưng không có thế giới linh hồn. Vấn đề này thì ngay cả đức Dạtlai latma cũng đã sai lầm, rất dễ phản bác. Nhiều người thấy đức Datlai Latma có khả năng chủ động luân hồi nên coi ông ấy như thánh như thần lại cũng sai nốt. Mục đích của Phật học không phải là luân hồi, đối với tôi tu học để có khả năng tự luân hồi là việc làm ít ý nghiã tốn thời gian, tôi không quan tâm (Đạo Trường).
[23] Về Hồn, không rõ các cụ ta xưa kia xác định ba hồn là những hồn nào? quỷ thần hai vai và trên đầu? Thuật ngữ ngày nay ta biết thì đó là Sinh hồn, Giác hồn, và Linh hồn. Có thể xem Sinh hồn tương ứng với phần nhỏ và thô nào đó của hệ thần kinh thực vật, Giác hồn với hệ thần kinh động vật, còn Linh hồn là nguyên lý tồn tại và động lực học của cả hai (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

).
[24] Ngoại cảm, tâm linh là gì?Theo quan niệm chính thức trong lĩnh vực dị thường học, ngoại cảm ESP (Extra-Sensory Perception) là sự cảm nhận không dùng năm giác quan quen thuộc. Nói cách khác, đó là giác quan thứ sáu. Ngoại cảm được chia thành bốn phạm trù: Thần giao cách cảm, thấu thị (hoặc thấu thính), tiên tri và hậu tri. Thần giao cách cảm (telepathy) là khả năng đọc ý nghĩ của người khác. Thấu thị hoặc thấu thính (clairvoyance hoặc clairaudience) là khả năng nhìn xuyên tường hoặc nghe được những âm thanh mà tai không nghe được. Tiên tri (precognition) là khả năng thấy một sự việc trước khi nó xẩy ra. Còn hậu tri (retrocognition) là khả năng giải đoán quá khứ, chẳng hạn biết “kiếp trước” của một người nào đó. Thuật ngữ tâm linh trong lĩnh vực dị thường học được chia thành ba nhóm chính: Ngoại cảm (như trên); viễn di tâm học (psychokinesis), tức sức mạnh tâm trí trên vật chất, như bẻ cong thìa bằng ý nghĩ; và liên lạc với người chết. Theo tâm linh luận, một quan điểm tôn giáo - triết học về sự tồn tại sau cái chết, giới đồng cốt là những người có thể liên lạc với cõi âm. Chính vì vậy “ngoại cảm tìm mộ” là cách nói sai. Khi tìm mộ, Phan Thị Bích Hằng và các “nhà ngoại cảm” khác dùng mọi giác quan để tìm hiểu thông tin, nên đó không phải là ngoại cảm (giác quan thứ sáu). Chính xác hơn, họ là cô đồng hoặc cậu đồng, tức người có thể “gọi hồn” hoặc “áp vong”. Có thể làm sang cho họ bằng cách gọi là “nhà tâm linh”, chứ cách gọi “nhà ngoại cảm” thì hoàn toàn sai lạc so với bản chất của vấn đề. (theo Đỗ Kiên Cường,http://thethaovanhoa.vn/xa-hoi/ts-do-kien-cuong-tat-ca-ngoai-cam-tim-mo-deu-la-lua-dao-n20131030105442933.htm)
[25] Về hiện tượng xem bói của các nhà ngoại cảm chẳng hạn. Tạm giả thiết rằng những gì con người đã trải qua thông tin về nó sẽ được lưu giữ ở đâu đó trên bộ phận của con người (cơ chế phát thông tin và lưu trữ thông tin ở đâu hiện nay khoa học chưa chỉ rõ được) gặp những người có khả năng đặc biệt gọi là các nhà ngoại cảm người ta có thể đọc lại được thông tin trong quá khứ đó.Vì họ biết những vấn đề trong quá khứ, nhà ngoại cảm nói một số chuyện trong tương là người dân cũng tin vì người ta nghĩ rằng quá khứ mà đúng thì tương lai sẽ đúng. Nhưng thực tế là người ta không thể nói đúng được ngày mai bạn nhất định sẽ làm gì? Nếu họ bảo ngày mai nhất định bạn đi chợ thì bạn chỉ cần cố tình không đi chợ là lời nói của nhà ngoại cảm đó sẽ sai. Có nghĩa là sự thể hiện của con người như thế nào trong tương lai các nhà ngoại cảm cũng không thể biết được (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

).
[26] Khi người đó chết thì ý thức vẫn còn (ý thức được tạo ra từ khi còn sống nhưng không phát triển thêm), và sóng sinh học vẫn còn vẫn lưu trữ trong xương cốt (hay đâu đó). Trong sự so sánh trên thì sinh lực ví như củi; mạng sống ví như lửa; ý thức ví như hơi ấm, sóng sinh học ví như tia hồng ngoại. Để lâu hơi ấm bị mất do đó để lâu thì những cơ quan bộ phận lưu trữ thông tin dưới dạng sóng sinh học cũng sẽ mất đi. Trong khi tìm hiểu về sóng vô tuyến ta biết nguồn thu bắt sóng được nguồn phát khi hai nguồn phải cùng tần số. Ta giả thiết trong việc cảm nhận sóng sinh học cũng có một số điều kiện nhất định…. Hiện nay khoa học trên lĩnh vực này chưa phát triển để có khả năng thu nhận và xử lý thông tin sự sống, thông tin ý thức. Cái thế giới gọi là thế giới tâm linh không phải là thế giới của ma quỷ thần linh, thế giới đó chỉ là bộ phận của thế giới vật chất mà chúng ta đang sống, nói đúng hơn nó chỉ là hiện tượng vật chất phát ra từ vật chất sống. Tổng quát mà nói mọi thế giới đều là một thế giới, chỉ có một thế giới vật chất mà chúng ta đang sống. Các hiện tượng bí ẩn không phải là hiện tượng ma quỷ, thần linh mà chỉ là hiện tượng vật chất. Kết luận của chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn giữ nguyên giá trị: Không có lực lượng siêu nhiên nào tác động ảnh hưởng hay quyết định đến thế giới của chúng ta. Thế giới tâm linh chỉ là một hiện tượng vật chất do những vật thể có sự sống phát ra.(

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

).
[27] Hiểu rõ về ý thức, chúng ta sẽ hiểu rõ hiện tượng “ngọai cảm” đang rầm rộ ở Việt nam. Vì cơ thể con người cấu tạo bởi phần vật chất tánh có và phần vật chất tánh không. Khi chấm dứt tồn tại một kiếp người, phần tánh có phân rã chúng ta nhận thức được bằng các giác quan thông thường, cho đến khi chúng chuyển sang miền tánh không. Còn phần tánh không sẵn có từ lúc sinh ra thì không thể cảm nhận. Nhà ngọai cảm thật sự là người có thể có thêm một giác quan nào đó, cảm nhận được một phần vật chất tánh không nào đó. Dưới tác động của vật chất miền tánh không, môi trường ý thức bị biến đổi, bộ phận tưởng thức họat động làm ra những hình ảnh, những bộ phim như thật mà thực tế hòan tòan không phải vậy. Tức là hình ảnh thế giới linh hồn mà Phan Thị Bích Hằng kể ra là sản phẩm mà tưởng thức đã tưởng tượng, chế tác từ những thông tin tánh không đã nhận được phối hợp với kiến thức kinh nghiệm của bản thân lưu trữ trong miền nhớ. Tất cả chỉ là mộng tưởng và ảo tưởng. Hiện tượng lên đồng cũng vậy. Do đó có những điểm giống thật, nhưng phân tích kỹ thì đầy những sai lầm và mâu thuẫn. Cần phải phân định rạch ròi rằng có thể có ngọai cảm, có thêm giác quan ngòai ngũ quan thông thường nhưng không có thế giới linh hồn. Vấn đề này thì ngay cả đức Dạtlai latma cũng đã sai lầm, rất dễ phản bác. Nhiều người thấy đức Datlai Latma có khả năng chủ động luân hồi nên coi ông ấy như thánh như thần lại cũng sai nốt. Mục đích của Phật học không phải là luân hồi, đối với tôi tu học để có khả năng tự luân hồi là việc làm ít ý nghiã tốn thời gian, tôi không quan tâm (Đạo Trường).
[28]

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


[29] Linh Hồn không phải hoàn toàn dựa vào đại não để tồn tại, mà nó có một phương thức tồn tại độc lập riêng biệt của nó như hình thức của một trường sinh thái ký ức riêng…Ðối với tất cả các loại động vật sau khi chết đi, thì linh hồn của nó đều tồn tại, tức là những sinh vật có sự hoạt động của Ðiện Ly Tử bên…
Khi thân thể đứa bé dần dần trưởng thành, thì Linh hồn và Thể Xác được kết hợp lại một cách chặt chẽ; tất cả ký ức của con người là do Linh Hồn cất giữ, mà não bộ của con người chỉ đóng vai trò môi giới và nó bắt đầu có sự tác dụng, tương tự như bột từ trường của phần cứng (hard drive) của máy vi tính và những dữ liệu của thông tin (data) vậy; nhưng chúng hoàn toàn không giống nhau; trong thân thể, thì đều hình thành những dòng điện lưu trong đó, mà khi có những dòng điện chạy như thế trong thân thể của nó, thì sẽ có từ trường sản sinh ra…
Linh Hồn có sự hoạt động của nó; khi cơ thể của chúng ta nghỉ ngơi, thì linh hồn không có nghỉ ngơi, nó bay đi khắp nơi mà không cần sự giúp đỡ của thể xác, nhưng những sự kiện du hành này không được đại não của con người ghi nhận và lưu giữ một cách rõ ràng, nên nhiều khi con người đi đến một nơi nào đó, thì cảm thấy, hình như nơi này mình đã có đến qua rồi vậy .(

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

). Hoặc cũng có thể vô thức nắm bắt được (nhiễm, nhập) các thông ttn trong vũ trụ, nên nó có thông tin mà không qua con đường lý trí, học tập mà có.
[30] Câu trả lời chính thức của khoa học là không có linh hồn như một tồn tại sau cái chết. Cặp phạm trù cấu trúc - chức năng trong sinh học khẳng định, một chức năng sống chỉ có thể do một cấu trúc sinh học đảm nhiệm. Chỉ tim mới bơm được máu đi nuôi cơ thể; chỉ não mới biết nhận thức, cảm xúc và chỉ đạo hành vi. Mọi đặc trưng tinh thần (cái mà dân gian gọi là hồn) chỉ có thể được thực thiện trong một bộ não đang sống. Khi chết, các quá trình sinh học trong não chấm dứt, và các đặc trưng tinh thần (hồn) cũng chấm dứt theo; giống như máy tính khi mất điện vậy (Đỗ Kiên Cường,

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

). Có lẽ quan niệm này, không sai, nhưng cũng mới thấy một mặt của vấn đề (HBT).
[31] Suy nghĩ thực sự chỉ là những phản ứng điện - hoá học - nhưng số lượng và sự phức tạp của những phản ứng này khiến chúng ta rất khó hiểu đầy đủ về suy nghĩ…. Bộ não của con người có khoảng 100 tỷ tế bào thần kinh (neuron), liên kết với nhau bởi hàng nghìn tỷ kết nối, gọi là các khớp thần kinh (synapse). Tính trung bình, mỗi một kết nối truyền tải khoảng một tín hiệu trong một giây. Một số kết nối chuyên hoá còn gửi đi tới 1.000 tín hiệu mỗi giây. "Và bằng cách nào đó… những kết nối này sản sinh ra suy nghĩ", (Charles Jennings, giám đốc khoa học thần kinh của Viện Nghiên cứu Bộ não Mc Govern, thuộc Viện Công nghệ Massachusetts (MIT),. Những gì đang diễn ra trong đầu thực sự rất phức tạp, vì thế không dễ dàng gì để theo dõi được từ đầu đến cuối một ý nghĩ. "Điều đó cũng hơi giống như câu hỏi rừng bắt đầu từ đâu. Có phải nó bắt đầu từ chiếc lá đầu tiên, hay từ chiếc rễ cây đầu tiên?", (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

)
[32] Linh hồn sau khi rời khỏi thể xác nó vẫn tiếp tục tồn tại độc lập dưới một dạng năng lượng vi tế tổng hợp vô hình của trường sinh thái và trường mật mã thông tin ký ức cá thể của người đó trong không gian hay chiều không gian nào đó, và nếu khi một người nào có những cấu trúc cơ thể và đại não giống với cấu trúc thân thể và đại não của người đã chết trước đó, (hay gọi là hợp băng tần) thì người này sẽ bị nhiễm trường năng lượng tổng hợp đó, hay nói cách khác là trường năng lượng tổng hợp đó sẽ bị thân thể và đại não của người này hút vào; mà hiện tượng này người ta cho là người đó bị ma nhập; do đó những người bị ma nhập thường biết rất rõ ràng những bí mật của người đã bị chết trước đó, do ký ức của người này được linh hồn của họ lưu giữ, nay có dịp hiển hiện ra ở môi giới của cơ thể của người bị linh hồn này nhập vào.(

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

). Nhưng không có sự hồn nhập toàn bộ mà chỉ trên những dòng thông tin nhất định và khi bị kích hoạt nó mới thể hiện ra như thế nào đó, hoạt động (hiện tượng thần đồng, nói được ngoại ngữ mà không cần học, rèn luyện). Linh hiồn, ý thức, trí tuệ, cảm xúc trẻ thê lớn lên theo thời gian qua giao tiếp học tập, rèn luyện mà có… không phải có sẵn hay nhờ đầu thai mà có. Còn xét về mặt gen di truyền (sinh học) thì “đầu thai” chinh là di truyền gen, lặn/ trội qua các thế hệ mà sinh ra thế hệ mới (đã sai lệch ít nhiều). Linh hồn hay trường ký ức cũng sẽ mất mát theo thời gian và sai lệch đi ít nhiều, nên không có sự lặp lại nguyên vẹn hay tuyệt đối ở cơ thể hay linh hồn sau (HBT).
[33] Một hiện tượng gần với tưởng thức (nhở lại ở chiều vô thức- HBT), như sau. “Cần phải phân tích cân nhắc nghiên cứu kỹ về các hình ảnh mà những con người vừa đặt chân vào bên kia thế giới trở về kể lại. Trường hợp của những người bị đánh thuốc mê giải phẫu thì phần lớn các hình ảnh họ thấy thường là khoảng không gian tối đen rồi xen lẫn những lóe sáng lạ lùng. Theo các nhà sinh tâm lý học thì có sự tác động của bộ não, nơi tầng sâu kín nhất tạo nên những hình ảnh kỳ lạ này. Ðiều cần lưu ý là lúc gây mê nhịp tim vẫn còn đập, khác với những người được xem như chết hẳn. Tuy nhiên, nhiều bác sĩ nghiên cứu về vấn đề này vẫn cảm thấy có bất ổn trong việc nhận định như trên vì có thể các hình ảnh về đường hầm tối đen kia chính là biên giới, là con đường vào cõi chết và khi ánh sáng lóe tỏa ra chính là lúc người chết bắt đầu bước vào ven bìa của cõi chết hay thế giới bên kia. Nhưng sở dĩ người ấy chỉ thấy được chừng đó thôi là bởi nguyên nhân họ chưa thật sự chết hẳn. Bác sĩ chuyên về khoa tâm sinh lý học Patri Dewarin đã nghiên cứu rất nhiều trường hợp như đã kể trên và ông đã nêu ra một nghi vấn khá lạ lùng, lý thú đó là sự lập lại của chu kỳ của mỗi đời người. Lúc đứa bé lọt lòng mẹ, hình ảnh của nó là trôi qua một khoảng tối om, qua một đường hầm sâu thẳm để rồi khi hoàn toàn đã lọt lòng mẹ, bé lại cảm thấy như rơi vào một đường hầm tối đen khác để rồi lại thấy ánh sáng chan hòa, vậy có thể đây là một thế giới mới. Ðiều này đã khiến cho một số nhà nghiên cứu nghĩ đến vấn đề hậu kiếp, vấn đề đầu thai ở một kiếp khác v.v... (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

). Hay đó la sự nhở lại ở chiều vô thức,sinh thức!? Tưc quá trình sinh từ bào thai dến khi sinh hạ thì đều được ghi lại trong trí nhớ đứa bé ở dạng vô thức bản năng, sinh thức.. mà sau này khi chết lâm sáng nó mở lại qua trình ấy khi bị kích hoạt?!
[34] Nếu quan niệm thế giới khác là thế giới ảo trong tâm trí của chúng ta, nơi sản sinh ra tôn giáo, thiên đường và địa ngục, thần thánh và ma quỷ… thì câu trả lời là có. Nếu quan niệm thế giới khác là thế giới người âm, nơi linh hồn người chết cư ngụ, thì câu trả lời là không. Trên quan điểm khoa học, không có linh hồn bất tử". TS Đỗ Kiên Cường còn khẳng định, Phật giáo cũng cùng quan niệm như vậy (/vi-VN/DF813127C0CC44E8808B1137C152BEE4/View/Tu-lieu-Tra-cuu/Ngoai-cam-va-nhung-dau-hoi-lon/Print.aspx)
[35] Ở đây thế giới “siêu hình” theo nghĩa thế giới linh hồn, tâm linh, chứ phải theo nghĩa lượng tử, hạ nguyên tử.
[36] /vi-VN/DF813127C0CC44E8808B1137C152BEE4/View/Tu-lieu-Tra-cuu/Giai_thich_ve_cac_nha_ngoai_cam/Print.aspx
[37] Chỉ có một thế giới, các hiện tượng bí ẩn không phải là hiện tượng ma quỷ, thần linh mà chỉ là hiện tượng vật chất. Chúng ta nên gọi là hiện tượng tâm linh chứ không nên gọi là thế giới tâm linh, để tránh hiểu nhầm cho người dân (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Xem: www.khoahoc.com.vn).
[38] (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

).
[39] Tôi có thể gọi có cả hính thức vật lý học - ý thức - tâm linh, mặc dù nó, ý thức tâm linh, là bản chát của sự sống… Trần Đức Thảo và các nhà khoa học còn dùng cả khái niệm năng lượng tinh thần hay tâm thần có lẽ cũng là với ý nghĩa ấy.
[40] Thế giới tâm linh không phải là thế giới của ma quỷ thần linh, thế giới đó chỉ là bộ phận của thế giới vật chất mà chúng ta đang sống, nói đúng hơn nó chỉ là hiện tượng vật chất phát ra từ vật chất sống (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

).
[41] Hãy nhớ lại câu nói: "Khoa học của thế kỷ XXI phải là khoa học tâm linh, nếu không sẽ không làm gì còn khoa học nữa" (André Malraux).
[42]Điều này cũng như việc hình thành triết học sinh thái (chủ nghĩa duy vật sinh thái), hay triết học nhân văn mới (chủ nghĩa duy vật nhân văn). Hơn nữa chúng gần nhau và bao hàm lẫn nhau.
Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi pth77: 30/07/2014 - 18:29


Thanked by 1 Member:

#130 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 30/07/2014 - 18:48

Cô đơn của những ai dám chấp nhận nó

Phạm Tấn Xuân Cao
Thứ tư, 30 Tháng 7 2014

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




“Chính là bằng phương tiện phản thân sự quay ngược lại của kinh nghiệm cá thể trên bản thân anh ta mà tổng thể quá trình xã hội do vậy được đem vào kinh nghiệm của các cá thể liên quan với nó; chính là bằng các phương tiện đó, cho phép cá thể có thái độ của người khác đối với bản thân anh ta, tức cá thể có thể điều chỉnh một cách có ý thức bản thân đối với quá trình đó, bổ sung vào bất cứ hành động xã hội nào được đưa ra trong phạm vi của sự điều chỉnh của anh ta với nó”[Dẫn theo 7, 229]

George Herbert Mead



Cô đơn không phải là hành động thu mình của kẻ nhụt chí mà là hành động của kẻ dám đương đầu với những thử thách lớn hơn. Cô đơn trong chính những gì mà mình mò mẫm tự bước đi trên con đường tràn đầy những thử thách. Ở đó, chỉ riêng ta đối diện với cá nhân ta theo kiểu khai mở chính mình. Cô đơn cũng có thể như khi mà mọi thứ đều trở nên sa sút về niềm tin hay phai nhạt gì đó mà nó luôn tỏ ra xa lạ với cuộc sống.

Xã hội cứ tuân theo những gì mà nó vốn sẵn như thế nên cũng có thể nói cô đơn không phải là vì mặc cảm gì mà ta lại xa lánh với xã hội cả. Không thể nói rằng, điều gì có trong khi cô đơn cũng là động lực để ta sống như ta muốn vươn tới những chặng đường huy hoàng của một nỗi niềm khát khao đầy kiêu hãnh. Nhưng khi mà cô đơn, ta cảm thấy choáng ngợp trong ta trước khoảnh khắc giao hòa tất cả những chỉ dẫn về lối đi, về đường đi nước bước của ý chí muốn sống. Để rồi ta lầm lũi như một kẻ hành khất xa xứ, tha hương trên chính mảnh đất vốn quá đỗi thân quen và gần gũi này. Cô đơn không chồng chất thêm những túng bấn như bao nhiêu người vẫn thường nghĩ về nó. “Hạnh phúc mà kẻ vong thân hưởng thụ ở ý tưởng cố định, cứng nhắc muôn năm không chứng tỏ cái hiểu biết đích thực của ý tưởng đó. Một lòng tin mãnh liệt chỉ biểu lộ được sức mạnh của nó, không biểu lộ được chân lý của điều ta tin.”[Xem 1,83]. Lúc cô đơn ai cũng có thể thu gom tất cả những động lực tiềm tàng từ ý chí muốn sống để rồi từ đó khẳng định bản thân hắn theo cách riêng không giống ai.

Kẻ dám chấp nhận cô đơn mới là những kẻ can đảm. Cô đơn không như bao người cứ ngỡ đó là trì trệ mà chính thức trên dòng suy tư này để ta có về nó sẽ trở thành một khía cạnh mang dáng dấp của sự đầy đặn bất kì điều gì quá đỗi tối cần thiết cho một sự sinh hoạt bình thường. Mọi diễn biến sống đều ẩn tàng những bất an. Bởi bất an đó luôn được gia tăng hơn nữa khi con người đối diện với cái chết nên vì chết mà con người tỏ ra sợ hãi. Đó là bình thường như bao điều hiện sinh vẫn hay nhắc đến. Ở đây, cô đơn khoác vào đời người luôn được thấy dưới cái nhìn hãnh diện cho kẻ cùng chấp nhận những đổ bể và lay lắt trong xã hội này tức là những gì trưng ra trước mắt đó mà nó ngán ngẩm đến tận mạt.

Cô đơn của kẻ muốn trở thành xa lạ, ghê tởm và khinh ghét chính cuộc sống khác xa với cô đơn của những kẻ có ý chí muốn sống một cách oai hùng luôn dám tỏ ra tự mình định đoạt con đường tiến lên của bản thân mà không đụng chạm hay liên quan đến bất kì một ai/người nào khác. “Ý chí tôi là một sức mạnh siêu cơ thể tương thích với một sức kháng sống động (force hyperorganique en rapport avec une résistance vivante)”[Xin xem 6, 297]. Cô đơn nuôi nấng cho linh hồn ta được nhẹ nhàng hơn. Những trầm uất sẽ dần dần vơi đi vì ta biết quá rõ tại sao nó lại đến với ta. Tất cả chỉ là những thứ gì đó cứ quấn bện chặt vào nhau từng ngày qua ngày mà đến lúc nhận ra sự rối rắm của nó ta khó lòng thoát ra được. Nuôi nấng đó đối với ta một cách ân cần và cô đơn còn thúc đẩy ý chí vươn lên của ta nhằm thăng hoa đến tận đỉnh điểm của niềm vui tự mình sống với chính mình. “Con người phát biểu ý chí hùng cường theo nhiều cách khác nhau. Mỗi kẻ điểm xuyết cho cuộc đời mình theo cách thế riêng của mình, họ lựa chọn một tăng trưởng sức hùng cường nhanh hay chậm, chắc chắn hay nguy nan, rõ ràng hay bí mật. Nhưng dù dưới hình thức này hay hình thức khác, mọi sự kiện của đời sống nhân loại đều khai mở cho ý chí hùng tráng”[Xem 1, 133]. Không khi nào cô đơn cũng như những dòng chảy giữa xã hội này trở nên mâu thuẫn hay đối kháng nhau. Vì tham dự là điều tất yếu của một con người trong chính xã hội mà hắn ta đang sống. Cô đơn làm ta lâng lâng khó tả trong khi im lặng lại cứ thế tràn qua và bản thân ta chính thức chìm vào tận cùng của niềm vui muốn sống một mình. “Ý niệm về ý chí là ý niệm duy nhất không có căn nguyên trong hiện tượng hay trong biểu tượng trực giác thô sơ, mà lại xuất phát từ tận đáy sâu tiềm thức của cá thể, nghĩa là cá thể tự ý thức lấy mình một cách trực tiếp, không dưới một hình thức nào, ngay cả hình thức chủ thể khách thể, bởi vì ở đây năng tri và sở tri là một…”[Xin xem 6, 296]. Dĩ nhiên cái cách muốn sống đó không phải lấy nguyên nhân từ việc ta đây không có những người ta tin tưởng để chia sẻ/tâm sự. Mà ta đây cô đơn là chính ta tự ta muốn chọn lấy cô đơn cho chính mình.

Cô đơn xao xuyến trước thân phận này lại là một động lực nung nấu cho cá nhân ta càng phải tỏ ra mình là một con người cô đơn hơn. “Trong tính chất vô định này của “thiên hạ” chúng ta thực hiện một sự chạy trốn trước cái chết”[Xin xem 5, 335]. Cách thức mà cô đơn khi trở thành nguyên nhân cho những động lực để tạo nên ý chí muốn sống của cá nhân luôn trọn vẹn ý nghĩa trước một lý tưởng nào đó bất kì. Cô đơn gieo rắc trong thâm tâm ta những nỗi ám ảnh chẳng bao giờ quang minh của cuộc sống. Cuộc sống cứ thế hiện lên những thước phim, những câu chuyện, những gì dường như là khi mà con người trong sự xuất hiện của mình đã luôn muốn chứng tỏ mình là trung tâm của thế giới bị cự tuyệt trước thế giới. Qua công cuộc tham dự vào hay nói cách khác là nhập cuộc, bản chất con người vì thế mà có dịp được bộc lộ. Khía cạnh con người đặt sự cảm nhận của mình ra bên ngoài luôn chứa đựng những biểu hiện mang tính khai mở chính nó. Từ việc xác lập vị trí của mình trong thế giới con người cất tiếng xưng hô đây là tôi. Cá nhân tôi tham gia vào để trong cuộc hội ngộ với thế giới, ý chí bản thân sẽ từ đó mà bước từng bước trong tính cách tạo lập chính nó, trên lộ trình khẳng định tự mình (nó).

Vì nhập cuộc nên bất an là đương nhiên có. Chính cái đương nhiên ấy đã làm nên hay nói rõ ra là vạch/chỉ đường cho ý hướng nhìn về những biểu hiện đang diễn ra xung quanh nơi chính bản thân ta đang sống. “Sự chuyển biến riêng tư gây sức ép lên tâm lí cũng như sự biến đổi xã hội và một biến đổi như thế, đi từ đầu đến cuối, có thể đang tiềm tàng một sự mở rộng qua các thể chế khác, có tính công cộng hơn - Giddens”[Dẫn theo 7, 319]. Việc những thứ quấn bện chặt vào bản thân nó khiến nó không sao đạt được trạng thái như nó hằng mong muốn cả. Tất cả đều đang giày xéo, xé nát mọi thứ. Tội lỗi mơ hồ đi khi những lời xoa dịu cứ trưng ra như là bịp bợm trong lúc mà chính mọi cung cách biểu hiện lại khó che dấu đi được hẳn là điều đương nhiên đáng bị chỉ trích. “Sự gia tăng nhanh chóng của tính ù lì, sự bùng nổ bên trong của ý nghĩa trong truyền thông, sự bùng nổ bên trong của xã hội trong quần chúng trong một lỗ đen của chủ nghĩa hư vô và có tính vô nghĩa - Kellner”[Dẫn theo 7, 373].

Quên lãng nhưng không như vậy cô đơn níu ta về lại với cuộc sống này để ta luôn hiểu những gì mà ta đã từng trải qua rồi từ đó tỏ ra chấp nhận nó như một cách tự nguyện hằng mong muốn. Và như thế, khi tiến đến mức độ thái quá tận cùng của sự hiểu biết xã hội cũng không tỏ rõ cho được cô đơn đích thực cô đơn như ý chí muốn sống và dấu hiệu của những ý tưởng thăng hoa trên chốn chặng của sự dám chấp nhận nhìn về phía nó (tức xã hội). “Cái tính toán được từ những gì người ta nói không nhiều bằng cái họ có thể suy nghĩ hay mức độ mà những điều này thể hiện các ý nghĩ của họ, vì mức độ đó hệ thống hóa chúng từ đầu, do vậy làm cho chúng sau đó có thể đi vào các phát biểu mới một cách liên miên vô tận và mở ra cho công việc chuyển hóa chúng - Michel Foucalt”[Dẫn theo 7, 354]. Cô đơn không thể dành cho những trò chơi rẻ tiền muốn thử cảm giác của nó như thế nào mà nó luôn luôn là cách thức biểu hiện của ý chí muốn sống ở những cá nhân biết chắc rằng mình không bao giờ bị loại bỏ ra khỏi thế giới này. Mà hơn hết họ ý thức được những gì họ làm là sẽ được đồng cảm không như ít nhất theo cách nói là như vậy. Mọi cung cách biểu hiện của cô đơn không thẩm thấu đến những giới hạn cùng cực của mọi sự dự tính có khoảng cách hay giới hạn tận cùng của sự rẻ mạt theo kiểu con buôn.

Cô đơn luôn dõi theo từng bước đi của đứa con mà nó luôn ngày nào cũng chăm sóc. Cô đơn không mang vác bất cứ một trông chờ nào mà nó cảm thấy như thế là không chính đáng. Mọi nhịp điệu tiến hành khi cô đơn có trong mỗi cá nhân cũng là lúc mà tất cả trở nên lạ lẫm ngay lúc đầu. Khi thực sự sung mãn và vượt qua được giai đoạn thử thách ấy các cá nhân sẽ sẵn sàng chấp nhận nó vì như một thói quen hay một tập quán không thể dỡ bỏ đi được. “Đó là sự thâm nhập của các khả năng lựa chọn phản ứng tương lai vào sự quyết định hành động ở hiện tại trong bất cứ hoàn cảnh môi trường nào được đưa ra, và sự vận hành của chúng, thông qua các cơ cấu của hệ thần kinh trung ương, như một bộ phận của các nhân tố hay điều kiện quyết định hành vi hiện tại, đối lập một cách dứt khoát giữa hành động tri thức – hành vi với hành động có tính phản ánh, bản năng, tập tính, hay, giữa phản ứng trì hoãn hành vi với phản ứng ngay lập tức – George Herbert Mead”[Dẫn theo 7, 226]. Cũng giống như những dòng chảy sinh hoạt giữa đời thường với biết bao điều muốn nói ở đây cứ bện chặt vào nhau và trở nên trì trệ không lối thoát. Nặng nề là vậy cho nên cô đơn hay dù chỉ một cảm giác mà ta đây thấy như thế cũng là lúc kiểu như ta đang tiếp xúc với chính những gì sâu thẳm bên trong cá nhân ta. Những kẻ cô đơn không phải là những kẻ nhụt chí mà cô đơn là cách thức của những kẻ có ý chí lao vọt về phía trước một cách mạnh mẽ và sung mãn tràn trề sức sống.

Cô đơn mà ta đây đang có thì cũng như một dấu chỉ của sự dự phóng về phía trước để thỏa mãn kiềm kiêu hãnh trong cô đơn của riêng mình. Cô đơn đáng được kể ra bằng sự xóa nhòa những lằn ranh giới hạn cho bất cứ ai có sức vóc mang đầy dị biệt mà những đòi hỏi về điều gì là hoàn thiện sẽ từ đó được sức nó chiếm lấy. Không thể trách cứ cho được bằng bất kể điều gì mà có đó của sự đón lấy niềm tin nhưng như thế không được hiểu là kiêu mạn hay tự phụ cả. Kẻ vô đạo thì đầy rẫy và hành động lên án theo kiểu chập chờn tập tững là một trò hề đáng nguyền rủa. “Sự tàn phá nghiền nát những ai chống lại nó, và trong lúc thỉnh thoảng nó dường như có một đường đi đều đặn, có những lúc nó đổi hướng một cách thất thường, theo những chiều hướng mà chúng ta không thể nào đoán trước - Giddens”[Dẫn theo 7, 312]. Cô đơn móc nối nó với chính sâu thẳm như khi mà đón lấy nó ta cảm nhận được ta đây là ta theo ý chỉ mà ta đã từng cất tiếng xưng hô đây là tôi khi ta bước vào thế giới. Mọi sự đồng điệu trong cô đơn diễn ra như một vết cắt của sự dự phòng những đổ bộ thui chột từ bên ngoài vào nó.

Bằng tất cả mọi chỉ dẫn của những gì mang vác sự chú ý vào cô đơn mà không chấp nhận nó sẽ chẳng bao giờ đáp ứng được điều gì cần thiết cho nhu cầu muốn có được những hiểu biết trong cô đơn. Mà ngược lại đó phải là khách quan và luôn khi nào cũng phải được xem là như thế khi chấp nhận một cách thẳng thắn và cương quyết. Khó có thể truy vấn về một điều gì nói như nó là tối cần thiết bằng cách người tiếp nhận có thể tự mình thực hiện hành động thế chỗ cho những gì mà ta mong muốn chuyển tải đến. Cô đơn trao trả xứng đáng và công bẳng cho tất cả mọi nỗ lực của kẻ dám chấp nhận nó. Vì nó biết tự nó là đầy đủ cho những hành động sẵn sàng đón lấy bằng tất cả sự trân trọng bền vững tuyệt đối từ việc lựa chọn ấy.

Cô đơn biểu hiện trong từng cách thế của nó mà mọi sự chỉ dẫn cho hành động lãnh nhận cũng luôn khi nào là đều được thay thế bằng điều gì đó đáng được đáp ứng. Khó có thể dõi theo một điều kiện mà tự trong cô đơn cho ra được những khả thi lúc nhìn nhận về cô đơn như tự tạo trong nó mọi vẻ đẹp của tinh thần chở che mọi vật mang nó. “Tâm hồn cố gắng tìm kiếm sự an toàn và sự chắc chắn ở mối quan hệ để cuối cùng vẫn không tìm được sự an toàn ở đó, sau đó nó đặt ra một ảo tưởng và bám chặt vào nó. Khi ảo tưởng đó bị lung lay, tâm hồn chúng ta vứt bỏ nó và tìm đến một ảo tưởng khác. Tâm hồn chúng ta bắt đầu gắn bó lưu luyến với vật chất, với con người và với cả những ý tưởng”[Xem 2, 109]. Cái chứa đựng đặc biệt thì cũng sẽ được đảm nhận những điều không sao mà tầm thường cho được theo cách hiểu như vậy. Không có như những gì mà cô đơn thôi thúc và ủng hộ mọi biểu hiện tự bên trong nó vẽ ra thế tính chung quanh đảm bảo cho đối tượng khoác lấy nó, mang những tiềm năng không hề dễ dàng để bị mất mát hay tuột mất tầm tay họ. Mọi thứ đều được an bài và trong hành động xâm lấn hoàn toàn trơ trẽn đồng thời bịp bợm thì đúng là điều rất xứng đáng để trù ẻo đi.

Không như những gì đó đảm bảo một cách tạm thời không an toàn mà cô đơn lại hùa theo những nhịp bước lênh đênh có khi cùng cực như thế. Để đảm bảo mọi thứ thu gom vào các đảm bảo cho cô đơn trừu xuất nên những tính chất chủ xướng đối với mọi phong trào hợp lưu thì nó cũng sẽ mang vác hay chứa đựng về bất kể điều gì tự nó cưu mang tất cả mọi thứ cho những ý đồ sáng tạo được quang minh xán lạn hơn. “Thế giới tinh thần vượt ra khỏi phạm vi của thế giới hiện thực để đến với lịch sử siêu việt, chỉ có trong sự siêu việt, mỗi cá nhân mới có thể có được sự tồn tại có ý nghĩa nhân cách và trở thành chủ thể của lịch sử”[Xem 3, 130].

Không ngừng dự phòng trước mọi sự thui chột từ môi trường coi như trong hệ quy chiếu với nó là bên ngoài, cô đơn không bài bác một cách cực đoan như bao nhiêu hành động gớm ghiếc vẫn đang có đó. Cô đơn không dũng mãnh như những chiến binh hay con người ở đó không hùng vĩ như những tượng đài đồ sộ đến thiêng liêng bất khả xâm phạm như thế. Cô đơn chỉ lặng lẽ đi về trên con đường mà ở đó sự hằng sống luôn nung nấu trong nó đem hòa tan vào mọi ngóc ngách khó cường điệu lên như những gì vẫn bêu ra đến oái oăm như thế.

Mọi dị biệt nào rồi cũng sẽ thúc đẩy cho ra đời những hệ quả không giống nhau. Cô đơn chất chứa trong nó mọi khả năng mà tự những điều kiện đó đảm bảo cho sức hằng sống có thêm được những tin tưởng thống thiết. Cô đơn trở nên thiêng liêng hơn khi kề vai sát cánh bên nó là đôi cánh của sự im lặng cho những triền miên khỏa lấp mọi thứ mà đáng ra là không có gì phải tôn sùng như cái cách mà sự chen chúc chồng chất lên nhau vậy. Có khi nào cô đơn tự bản thân ta cũng như thế khi ta cô đơn hay cô đơn là có ở trong so với ta ở đây là bằng lòng một cách mãn nguyện tất cả. Không thể nghĩ như những gì mà cô đơn không sao giấu kín mọi thứ mà ta đây lại nỡ nào quên bẵng đi được. Mọi cách chỉ dẫn nào cũng đều gián tiếp gieo rắc sự trầm thống của nỗi điêu đứng nảy sinh mọi dị tật. Cũng có thể như khi mà các điều kiện đảm bảo sự chín chắn của những điều kiện dựng xây trở thành nguyên tắc từ việc chấp nhận cô đơn, con người ta không những thoát ly một phần mà còn vươn tới những đích đến hay ngưỡng cửa đầy sự nhiệt thành một cách hoàn toàn tinh tế. “Truyền thống, ngay cả truyền thống đích thực và khả kính nhất không chỉ được hoàn thành một cách tự nhiên do sức mạnh kiên trì của cái gì hiện hữu: nhưng nó đòi hỏi được khẳng định, lãnh hội và duy trì. Cốt yếu nó là sự bảo tồn”[Xem 4, 284]. Tất cả những gì mà cô đơn có thể nói là cô đơn sẽ chẳng bao giờ cho ra được gì như khi nói như thế này không là cái cách chơi chữ quái đảng kì cục như vậy. Bằng lòng tất cả mọi sự chấp nhận đón lấy cô đơn bản thân mỗi một sự gom vào trong nó cũng đều luôn trào dâng sự sống cho những gì đáng được chấp nhận một cách đầy ý nghĩa.

Cô đơn là cung cách của rất riêng hay nói cách khác là chỉ ít con người…thụ hưởng cô đơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • Felicien Challaye, Nietzsche – Cuộc đời và triết lý, Mạnh Tường dịch, NXB Văn Nghệ, 2007.
  • Krishnamurti, Đối mặt với thế giới hoảng loạn, Lê Tuyên biên dịch, NXB Văn hóa Dân tộc, 2008.
  • Lưu Phóng Đồng, Triết học phương Tây hiện đại, Tập 3, Phạm Đình Cầu dịch, NXB Chính trị Quốc gia, 1994.
  • Remo Bodei, Triết học thế kỷ XX, Phan Quang Định biên dịch, NXB Thời Đại, 2011.
  • Viện Đại Học Vạn Hạnh, Diễn đàn Vạn Hạnh, Ban Tu Thư Viện ĐH Vạn Hạnh, 1967. (Đề tài diễn thuyết của Tiến sĩ Hubert Hohl tại ĐH Vạn Hạnh ngày 14.5.1967 - Heidegger và sự khủng hoảng của siêu hình học. Bản dịch của Ban Chủ biên Tòa soạn Tư tưởng Viện ĐH Vạn Hạnh.)
  • Viện Đại Học Vạn Hạnh, Tạp chí Tư tưởng số 2&3, Ban Tu Thư Viện ĐH Vạn Hạnh, 1968. (Bài viết của Huyền Trang Tâm – Schopenhauer hay con người vô duy).
  • Vũ Quang Hà, Xã hội học đại cương, NXB Thống Kê Hà Nội, 2002.
Nguồn:vanhoanghean.com.vn

Thanked by 1 Member:

#131 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 30/07/2014 - 20:37

Người Pháp lưu giữ ảnh độc về 'Hùm thiêng Yên Thế'
15:11 ngày 30/07/2014

Chân dung cha con Hoàng Hoa Thám, nghĩa quân Yên Thế tập luyện... là những hình ảnh độc đáo, quý hiếm nằm trong bộ sưu tập bưu ảnh Đông Dương của một doanh nhân người Pháp.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Doanh nhân người Pháp, Guy Lacombe đã sống và làm việc ở TP.H.C.M hơn 14 năm. Ông say mê văn hoá Việt Nam và sưu tầm được nhiều cổ vật giá trị. Trong ba năm, ông miệt mài sưu tầm bưu ảnh Đông Dương bằng cách mua bán và trao đổi trên mạng và đã có khoảng 3.000 bức từ năm 1896 đến 1945 .

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Bưu ảnh của Lacombe độc đáo và quý hiếm, phân loại theo từng chủ đề khác nhau. Một trong số đó là bộ bưu ảnh về 'Nghĩa quân Yên Thế của Hoàng Hoa Thám' cùng bộ bưu ảnh chính quyền thực dân - phong kiến xử tử những người yêu nước sau khi cuộc khởi nghĩa của Đề Thám thất bại.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Bức bưu ảnh thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Hoa Thám cùng các cháu tại Yên Thế. Ông sinh năm 1846, mất 1913. Cuộc đời người anh hùng rừng núi gắn với các cuộc khởi nghĩa, trong đó ngót 30 năm ông lãnh đạo Khởi nghĩa Yên Thế (1884-1913) - cuộc đối đầu vũ trang giữa những người nông dân ly tán tại vùng Yên Thế Thượng và sau đó là Thái Nguyên.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Nhóm nghĩa quân người Mán dưới quyền thủ lĩnh Phạm Quế Thắng ở Vũ Nhai.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Nghĩa quân Yên Thế trong cuộc Khởi nghĩa Yên Thế.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Bức ảnh hiếm về hai người con nuôi của Hoàng Hoa Thám, Cả Rinh và Cả Huỳnh.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Đội trưởng nghĩa quân và những người lính luyện tập bắn súng. Trong gần 30 năm lãnh đạo, Đề Thám đã tổ chức đánh nhiều trận, tiêu biểu là Luộc Hạ, Cao Thượng (tháng 10/1890), thung lũng Hố Chuối (tháng 12/1890) và Đồng Hom (tháng 2/1892), trực tiếp đương đầu với các tướng lĩnh danh tiếng của quân đội Pháp.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ảnh người đứng đầu nghĩa quân người Mường ở Yên Bái.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Hoàng Hoa Thám, người được mệnh danh là "Hùm thiêng Yên Thế", nỗi khiếp đảm cho chính quyền thực dân, phong kiến. Đề Thám người tầm thước, vai rộng, ngực nở, tóc thường cắt ngắn hoặc cạo trọc, mắt một mí, dáng đi chậm, nói năng từ tốn, nhỏ nhẹ. Ông được mô tả là người có năng lực chiến đấu ít ai sánh kịp. Trong nhiều năm, quân Pháp đã tập trung lực lượng để đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên Thế và sử dụng nhiều thủ đoạn, từ phủ dụ đến bao vây tàn sát. Tuy nhiên, với tài lãnh đạo, Đề Thám nhiều lần buộc quân Pháp phải nhượng bộ. Ông gây dựng được lực lượng lớn mạnh trong giai đoạn hòa hoãn hơn 10 năm. Một trong những sự kiện chấn động là vụ "Hà thành đầu độc" ngày 27/6/1908 trong trại lính pháo thủ tại Hà Nội. Đây là vụ mưu sát và binh biến trong hàng ngũ bồi bếp và binh lính người Việt Nam phục vụ cho quân Pháp nhằm đầu độc quân Pháp để chiếm Hà Nội. Binh biến thất bại, 24 người tham gia bị Pháp xử tử, 70 người bị xử tù chung thân.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Trong giai đoạn lớn mạnh nhất, Hoàng Hoa Thám còn xúc tiến xây dựng căn cứ kháng chiến, bí mật liên hệ với lực lượng yêu nước ở bên ngoài. Nhiều sĩ phu như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... đã gặp gỡ Hoàng Hoa Thám và bàn kế hoạch phối hợp hành động, mở rộng hoạt động xuống đồng bằng. Sang năm 1909, cuộc khởi nghĩa suy yếu sau khi thực dân Pháp tung 15.000 quân chính quy tổng tấn công vào căn cứ Yên Thế. Trong ảnh là Quan Hầu, nghĩa quân lớn tuổi nhất cùng con rể của Đề Thám, Cả Huỳnh ra hàng.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Bức ảnh mô tả cảnh xử chém những người theo nghĩa quân Yên Thế tại Quảng Yên (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) năm 1905. Khởi nghĩa Yên Thế chấm dứt vào năm 1913. Hoàng Hoa Thám được cho là mất cùng năm, song đến nay, nhiều giả thiết vẫn còn đặt ra quanh cái chết của ông. Phần mộ của ông cũng chưa được xác định.
Trần Ngọc Linh
(Chụp lại từ bưu ảnh)

Sửa bởi pth77: 30/07/2014 - 20:38


Thanked by 1 Member:

#132 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 01/08/2014 - 04:31

Nếu bạn muốn thay đổi thế giới



William H. McRaven, Thanh Xuân lược dịch
05:06' PM - Thứ tư, 30/07/2014


Trong diễn văn lễ tốt nghiệp 2014 ở Đại học Texas, đô đốc William H. McRaven, Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Đặc nhiệm Mỹ (Commander of United States Special Operations Command – USSOCOM), chia sẻ những trải nghiệm của bản thân ông qua khóa huấn luyện đặc nhiệm hải quân (Navy Seal) – một trong những khóa huấn luyện khắc nghiệt nhất trong quân đội Mỹ - với 10 bài học mà ông tin rằng có ích cho những sinh viên vừa tốt nghiệp trên suốt đường đời.

Đã gần 37 năm kể từ ngày tôi tốt nghiệp từ Đại học Texas, cũng là ngày tôi chính thức được chuyển vào hàng ngũ sỹ quan Hải quân. Khẩu hiệu của trường ta là “những điều khởi đầu từ đây sẽ thay đổi thế giới”. Tôi phải thừa nhận mình khá tâm đắc với khẩu hiệu này.
Tối nay gần 8000 sinh viên sẽ tốt nghiệp từ Đại học Texas. Theo con số thống kê chi tiết của trang điện tử Ask.Com, trung bình mỗi người Mỹ gặp gỡ 10.000 người trong cuộc đời mình. Nhưng trong số những người bạn gặp gỡ trong cuộc đời, chỉ cần bạn thay đổi cuộc sống của mười người – rồi mỗi người trong số đó chỉ cần tiếp tục làm thay đổi cuộc sống của mười người khác – chỉ cần mười thôi – thì sau năm thế hệ - 125 năm – lứa tốt nghiệp năm 2014 sẽ làm thay đổi cuộc sống của 800 triệu người. Thử nghĩ xem, 800 triệu người tức là nhiều hơn gấp đôi dân số nước Mỹ. Và chỉ cần thêm một thế hệ nữa các bạn sẽ làm thay đổi cuộc sống của toàn bộ dân số thế giới – 8 tỷ người.
Nhưng nếu bạn nghĩ rằng rất khó để làm thay đổi cuộc sống của mười người – thay đổi một cách vĩnh viễn – thì bạn đã lầm. Tôi đã được thấy chúng ta làm thay đổi cuộc sống của nhau mỗi ngày ở Iraq và Afghanistan. Một sỹ quan Lục quân đưa ra quyết định rẽ trái thay vì rẽ phải tại một con đường ở Baghdad, nhờ thế mười binh sỹ của anh ta tránh được một cuộc mai phục. Ở tỉnh Kandahar, Afghanistan, một sỹ quan chưa chính thức trong Đội Nữ Xung kích (Female Engagement Team) cảm thấy có gì đó không đúng và chỉ đạo một trung đội bộ binh thoát khỏi một quả bom tự chế loại 500 pound, cứu mạng sống của vài chục người. Không chỉ những binh sỹ đó được cứu sống bởi các quyết định đưa ra bởi một cá nhân, mà cả con cái sau này của họ, những đứa trẻ chưa ra đời, nhờ thế mà tồn tại. Và cả cháu chắt của họ nữa. Chỉ một quyết định đúng của một người có thể cứu vài thế hệ.
Thay đổi thế giới là điều có thể xảy ra bất cứ nơi đâu và bất kỳ ai cũng có thể làm. Nhưng câu hỏi đặt ra là thế giới sẽ ra sao sau khi ta thay đổi nó?
Tôi có lòng tin rằng nó sẽ tốt đẹp hơn. Nếu các bạn cho phép, gã thủy thủ già này xin chia sẻ một vài gợi ý có thể hữu ích cho bạn trên hành trình đến một thế giới tốt hơn. Mặc dù đây là những bài học tôi có được từ cuộc đời binh nghiệp, tôi đảm bảo rằng chúng có thể hữu ích cho tất cả mọi người, mọi giới tính, sắc tộc, tôn giáo, thiên hướng tình dục, hay địa vị xã hội. Bởi vì mọi gian nan trên thế giới này đều có những đặc điểm chung và những bài học giúp ta vượt qua chúng để tiến lên phía trước – để thay đổi bản thân mình và thế giới xung quanh – hoàn toàn có thể ứng dụng cho tất cả mọi người một cách bình đẳng.
Tôi là một người lính đặc nhiệm hải quân (Navy SEAL) trong suốt 36 năm qua. Tất cả bắt đầu khi tôi rời Đại học Texas để bước vào khóa huấn luyện cơ bản dành cho người dự tuyển vào đặc nhiệm hải quân ở Coronado, California. Khóa huấn luyện này kéo dài sáu tháng, với những cuộc chạy bộ tra tấn thể lực trên nền cát mềm, bơi giữa đêm trong nước biển lạnh ngoài khơi San Diego, những bài vượt chướng ngại vật và luyện dẻo kéo dài vô tận, những ngày liên tục không ngủ, chìm trong cái lạnh, ướt át, cực nhọc.
Sáu tháng thường xuyên bị hành hạ bởi những huấn luyện viên chuyên nghiệp, những người tìm mọi cách để tìm ra điểm yếu trong tinh thần, thể chất của học viên và loại bỏ chúng trước khi học viên được chính thức trở thành đặc nhiệm hải quân. Nhưng cũng qua những thử thách đó mà người ta tìm ra được những học viên đủ khả năng tự giúp mình vượt qua môi trường thường trực sự căng thẳng, hỗn loạn, sai lầm, và khổ ải.
Với tôi, khóa huấn luyện cơ bản dành cho đặc nhiệm hải quân là tất cả những thách thức của cuộc đời được dồn ép vào trong sáu tháng. Tôi rút ra từ khóa huấn luyện đó mười bài học, và hi vọng rằng chúng sẽ có giá trị cho bạn trong cuộc đời sau này.

1. Mỗi buổi sáng trong thời gian khóa huấn luyện, các huấn luyện viên, những người từng tham chiến ở Việt Nam, đều đặn xuất hiện tại phòng của chúng tôi, và điều đầu tiên họ kiểm tra là giường nằm. Nếu gấp dọn đúng, mọi góc chăn mền đều phải vuông góc, ga phủ giường được kéo căng chặt, gối đặt ngay ngắn chính giữa đầu giường, chăn gấp gọn gàng ở cuối giường.
Nhiệm vụ này thật đơn giản và tầm thường, nhưng mọi buổi sáng chúng tôi đều bắt buộc phải làm cho giường của mình thật hoàn hảo. Khi đó đây có vẻ là chuyện nực cười, đặc biệt đối với những người được rèn luyện để trở thành các chiến binh gan góc trên chiến trường. Nhưng trải qua thời gian, tôi ngày càng cảm nhận rõ ý nghĩa của nhiệm vụ đơn giản này.
Nếu chúng ta gấp dọn giường gọn gàng mỗi buổi sáng thì tức là ta đã hoàn thành nhiệm vụ đầu tiên của ngày. Điều ấy mang đến một cảm giác kiêu hãnh nho nhỏ, và nó khuyến khích chúng ta tiếp tục hoàn thành một nhiệm vụ khác, rồi lại một nhiệm vụ khác nữa. Đến cuối ngày, cái nhiệm vụ được hoàn thành đầu tiên đó sẽ chuyển thành nhiều nhiệm vụ được hoàn thành khác. Gấp dọn giường nhắc nhở chúng ta một thực tế là những điều tưởng chừng như nhỏ nhặt trong cuộc sống thực ra đều có ý nghĩa. Khóa huấn luyện cơ bản dành cho đặc nhiệm hải quân là tất cả những thách thức của cuộc đời được dồn ép vào trong sáu tháng.
Nếu ta không làm đúng được việc nhỏ, ta sẽ chẳng bao giờ làm đúng được việc lớn.
Và nếu lỡ chẳng may chúng ta có một ngày tồi tệ, ta sẽ trở về bên chiếc giường gọn gẽ do chính tay mình thu xếp ban đầu – chiếc giường sẽ động viên ta, rằng ngày mai sẽ tốt đẹp hơn.
Vì vậy, bài học đầu tiên là nếu bạn muốn thay đổi thế giới, hãy bắt đầu bằng việc gấp dọn giường của mình.

2. Trong suốt khóa huấn luyện, các học viên được chia thành nhiều tổ đua thuyền, mỗi tổ có bảy người – mỗi mạn thuyền ba người, một người cầm lái ở đuôi thuyền. Mỗi ngày các tổ đua thuyền tập hợp ở bãi biển rồi chèo thuyền vượt qua những con sóng lớn trước khi chèo vài dặm men dọc theo bờ biển. Vào mùa đông, mỗi con sóng có thể cao từ 8 tới 10 feet (2,4 – 3 m), rất khó để chèo vượt qua nếu mọi người không cùng nỗ lực chung sức. Mọi tay chèo đều phải nhịp nhàng theo nhịp đếm của người cầm lái. Tất cả đều phải tác động một lực bằng nhau, nếu không thuyền sẽ xoay ngang và bị sóng quăng ngược về phía bờ.
Muốn thuyền đến đích, ai cũng phải chèo. Chúng ta không thể thay đổi thế giới một cách đơn độc – chúng ta cần người giúp đỡ - và để thực sự đến đích ai cũng cần có bạn bè, đồng nghiệp, sự hào phóng của những người ta không quen biết, và một người cầm lái vững chắc để định hướng đi đúng.
Vì vậy, nếu bạn muốn thay đổi thế giới, hãy tìm ai đó cùng mình chèo thuyền.

3. Sau vài tuần rèn luyện khó khăn, lớp đặc nhiệm hải quân của chúng tôi từ 150 người tụt xuống chỉ còn 35. Vậy là còn lại năm tổ đua thuyền, mỗi tổ bảy người. Tổ của tôi gồm toàn những anh cao lớn.
Nhưng tổ đua thuyền xuất sắc nhất lại gồm toàn những anh thấp bé từ 5 ft 5 (1,65 m) trở xuống – chúng tôi gọi họ là các anh lùn – gồm một người Mỹ da đỏ, một người Mỹ gốc Phi, một người Mỹ gốc Ba Lan, một người Mỹ gốc Hy Lạp, một người Mỹ gốc Ý, và hai chàng rắn rỏi khác đến từ miền Trung Tây. Họ chèo thuyền, chạy, bơi, cái gì cũng nhanh hơn tất cả những tổ khác.
Mấy anh cao lớn từ các tổ khác vẫn thường trêu chọc những chân nhái bé nhỏ mà các anh lùn đeo vào trước khi bơi, nhưng rồi các chàng lùn, những người đến từ mọi miền đất nước, có xuất xứ từ khắp nơi trên thế giới, rút cục luôn là những người cười sau cùng – họ bơi nhanh hơn và đến đích trước tất cả những người khác.
Yếu tố quyết định làm nên chiến thắng không phải là màu da, sắc tộc, trình độ giáo dục, địa vị xã hội, mà chính là ý chí.
Vì vậy, nếu bạn muốn thay đổi thế giới thì đừng nhìn vào kích thước của chân nhái, hãy nhìn vào kích thước của trái tim.

4. Cứ vài lần trong tuần, các huấn luyện viên lại bắt cả lớp đứng xếp hàng để kiểm tra quân phục thật kỹ lưỡng. Mũ phải được đánh hồ hoàn hảo, quần áo được là không tì vết, thắt lưng bóng loáng không một gợn bẩn.
Dù chúng tôi cố gắng đến đâu thì luôn có người không đạt yêu cầu. Những người huấn luyện luôn tìm ra điều gì đó chưa tốt. Hình phạt cho học viên không đạt yêu cầu là chạy bộ, mặc đầy đủ quân phục lao xuống biển, ướt từ đầu tới chân, rồi lăn tròn trên bãi cho tới khi khắp người dính đầy cát. Người ta gọi đó là bánh quy bọc đường. Bạn sẽ phải mặc bộ quân phục đó suốt cả ngày – lạnh, ướt, và đầy cát.
Rất nhiều học viên không thể chấp nhận được thực tế rằng mọi nỗ lực cố gắng đều vô ích, dù cố chỉnh trang quân phục của mình đến đâu thì vẫn không được cấp trên công nhận. Đó là những học viên không thể trụ lại sau khóa huấn luyện. Họ không hiểu được mục đích thực sự của việc tra tấn này. Đó là không bao giờ có một bộ quân phục hoàn hảo. Nhiều khi dù cố làm tốt đến đâu bạn vẫn bị biến thành bánh quy bọc đường. Cuộc sống nhiều khi là như vậy.
Nếu bạn muốn thay đổi thế giới, đừng nản lòng vì bị người ta biến mình thành bánh quy bọc đường, hãy tiếp tục tiến bước.
Yếu tố quyết định làm nên chiến thắng không phải là màu da, sắc tộc, trình độ giáo dục, địa vị xã hội, mà chính là ý chí.
5. Liên tục mỗi ngày trong suốt khóa huấn luyện chúng tôi đối diện với nhiều bài tập thể lực – chạy việt dã, bơi việt dã, vượt chướng ngại vật, các bài luyện độ dẻo trong nhiều giờ - đồng thời cũng nhằm thử thách ý chí. Mỗi bài tập đều có những tiêu chuẩn – như thời gian hoàn thành – mà nếu không đạt thì đến cuối ngày bạn sẽ bị đưa vào một danh sách được gọi là “gánh xiếc”.
Vào gánh xiếc nghĩa là phải thực hiện bài luyện dẻo thêm hai giờ đồng hồ. Mục đích của bài tập là khiến bạn kiệt sức, mất tinh thần, và cuối cùng xin đầu hàng, rút lui khỏi khóa huấn luyện. Tất cả mọi học viên đặc nhiệm hải quân trong khóa huấn luyện đều từng bị rơi vào gánh xiếc, dù không ai muốn vì vào đó nghĩa là bạn sẽ càng đuối sức và trở nên trì trệ hơn trong ngày hôm sau, để rồi càng dễ rơi vào những gánh xiếc kế tiếp.
Tuy nhiên, điều thú vị là những người thường xuyên rơi vào gánh xiếc cứ đều đặn phải tập thêm hai giờ luyện dẻo, trải qua một thời gian bỗng trở nên mạnh mẽ hơn. Những khổ ải trong rạp xiếc khiến sức mạnh bên trong họ thêm bền bỉ.
Trong cuộc sống, ở đâu cũng có những gánh xiếc. Bạn sẽ không tránh khỏi sa chân vào chúng. Nhiều khả năng chuyện ấy sẽ xảy ra thường xuyên. Sẽ rất mệt mỏi. Bạn sẽ mất tinh thần. Sẽ có lúc bạn cảm thấy không chịu được nữa.
Nhưng nếu bạn muốn thay đổi thế giới thì đừng sợ hãi những gánh xiếc.

6. Ít nhất hai lần trong tuần, các huấn luyện viên yêu cầu chúng tôi luyện bài chạy vượt chướng ngại vật, với 25 chướng ngại vật khác nhau như tường cao 10 ft (3 m), rào lưới cao 30 ft (9,1 m), rào dây thép gai, v.v.
Nhưng chướng ngại thử thách nhất được gọi là đường trượt cuộc đời. Ở một đầu là tòa tháp ba tầng cao 30 ft, đầu bên kia là một tòa tháp khác cao một tầng, hai tháp được nối bởi sợi dây dài 200 ft (61 m). Bạn phải trèo lên tòa tháp cao ba tầng, khi tới đỉnh thì nắm lấy sợi dây, đung đưa người xuống dưới, rồi di chuyển bằng tay nhích đi từng chút một.
Khi chúng tôi bước vào khóa huấn luyện năm 1977, thời gian kỷ lục của thử thách này đã được giữ vững trong nhiều năm trước đó. Dường như không ai đủ sức phá kỷ lục này, cho tới một ngày, một học viên quyết định vượt qua đường trượt cuộc đời theo cách không ai dám làm. Thay vì đung đưa người xuống bên dưới sợi dây, anh ta dũng cảm nằm bên trên, đầu lao về phía trước. Điều đó quả là nguy hiểm, thậm chí ngu ngốc, chỉ sơ sểnh một chút anh ta sẽ ngã, bị thương và bị loại khỏi khóa huấn luyện.
Nhưng không ngần ngại, người học viên cứ thế trườn về phía trước với một tốc độ nguy hiểm, thay vì mất vài phút như những người khác, anh ta chỉ mất đúng nửa phút, hoàn toàn phá kỷ lục.
Nếu bạn muốn thay đổi thế giới, đôi khi phải lao đầu về phía trước bất chấp rủi ro.

7. Trong giai đoạn rèn luyện chiến trận, các học viên được đưa đến đảo San Clemente nằm ngoài khơi San Diego. Vùng biển này chính là nơi giao phối của cá mập trắng. Để vượt qua khóa huấn luyện, học viên bắt buộc phải trải qua một loạt các cuộc bơi việt dã, một trong số đó diễn ra trong đêm. Bằng cách truyền niềm hi vọng cho những người khác, một người cũng có thể thay đổi thế giới.
Trước khi bơi, các huấn luyện viên hào hứng giới thiệu sơ lược về tất cả các loài cá mập sinh sống quanh đảo San Clemente. Tuy nhiên, họ trấn an chúng tôi rằng chưa từng có học viên nào bị cá mập ăn thịt. Họ cũng dạy cách xử lý khi bị cá mập bơi lượn vòng quanh, đó là hãy ở nguyên tại chỗ, không được phép bơi đi chỗ khác, và không được tỏ ra sợ hãi. Trong trường hợp gặp phải cá mập hung dữ vì quá đói mà lao tới, bạn phải dồn hết sức bình sinh nện vào mõm nó, nó sẽ đổi hướng bỏ đi nơi khác.
Trong thế giới của chúng ta có rất nhiều cá mập. Nếu bạn muốn hoàn thành nhiệm vụ thì phải chấp nhận đương đầu với chúng.
Vì vậy, nếu muốn thay đổi thế giới, đừng lùi bước trước tụi cá mập.

8. Là lính đặc nhiệm hải quân, một trong các nhiệm vụ của chúng tôi là tấn công tàu địch từ dưới nước. Chúng tôi phải tập luyện kỹ thuật này rất nhiều lần trong khóa huấn luyện.
Khi thực hiện nhiệm vụ tấn công tàu địch từ dưới nước, hai người lính đặc nhiệm được thả xuống gần cảng của đối phương, sau đó họ phải bơi lặn hơn 2 dặm (hơn 3,2 km) trong nước, với công cụ hỗ trợ duy nhất là chiếc thước đo độ sâu và la bàn định hướng để định vị mục tiêu.
Trong phần lớn thời gian chặng bơi, dù ở dưới nước ta vẫn có thể nhìn thấy ánh sáng từ bên trên. Nhưng khi tới gần tàu đối phương, ánh sáng sẽ mất dần cho tới khi hoàn toàn bị con tàu che khuất. Học viên phải bơi xuống đáy tàu, tìm đến sống tàu, là nơi sâu nhất và tối nhất, tới mức không thể nhìn thấy bàn tay ngay trước mặt mình, tiếng động cơ con tàu khiến tai hầu như ù đặc, cũng là lúc dễ mất phương hướng và thất bại. Đó chính là lúc ta phải bình tĩnh, vận dụng tất cả kỹ năng, chiến thuật, sức mạnh thể chất cũng như tinh thần.
Nếu muốn thay đổi thế giới, ta phải phát huy được bản thân mình một cách tốt nhất giữa khoảnh khắc tối tăm nhất.

9. Tuần lễ thứ chín của khóa đào tạo được gọi là “Tuần Địa ngục”, với sáu ngày liền không ngủ, thường xuyên bị tra tấn về thể chất và tinh thần, trong đó đặc biệt nhất là ngày thứ Tư ở Mud Flats, một đầm lầy nằm giữa San Diego và Tijuana. Các học viên chèo thuyền tới đầm lầy và dành 15 tiếng liên tục cố gắng sống sót trong cái lạnh cóng của gió rét và bùn lầy, với áp lực thường trực từ các huấn luyện viên thúc giục mọi người bỏ cuộc đầu hàng.
Khi mặt trời vừa nhô lên vào buổi sáng thứ Tư đó, chúng tôi được lệnh lao xuống đầm lầy. Ai cũng ngập trong bùn đến tận cổ. Các huấn luyện viên bảo rằng chúng tôi phải ở nguyên trong bùn tới khi có đủ năm người bỏ cuộc.
Sau 8 tiếng đã có thể thấy một số học viên rõ ràng muốn bỏ cuộc. Vẫn còn gần 8 tiếng nữa phải chịu đựng chờ mặt trời mọc giữa bùn lầy lạnh tới tận xương. Tiếng răng va lập cập và rên rỉ của các học viên khiến tai chúng tôi hầu như không nghe được âm thanh nào khác. Nhưng bỗng nhiên có tiếng ai đó hát vang lên trong đêm. Một tiếng hát dở tệ, sai nhạc hoàn toàn, nhưng tràn đầy sự hứng khởi.
Một tiếng hát trở thành hai, hai thành ba, và không lâu sau tất cả mọi người cùng hát. Chúng tôi biết rằng nếu một người có thể vượt qua sự khốn khổ thì những người khác nhất định cũng có thể.
Các huấn luyện viên đe dọa rằng nếu chúng tôi cứ tiếp tục hát thì sẽ phải ở trong bùn lâu hơn – nhưng tiếng hát vẫn tiếp tục. Thế rồi không hiểu sao bùn lầy trở nên ấm hơn một chút, gió cũng dịu hơn, và bình minh không còn quá xa nữa.
Sau này khi đã được đi nhiều nơi trên thế giới, tôi nhận ra điều giá trị nhất chính là sức mạnh của niềm hi vọng. Sức mạnh đó bắt đầu từ một con người - Washington, Lincoln, King, Mandela, hay thậm chí một cô bé từ Pakistan - Malala–bằng cách truyền niềm hi vọng cho những người khác, một người cũng có thể thay đổi thế giới.
Vậy nên, nếu muốn thay đổi thế giới, hãy hát lên khi cổ bạn ngập trong bùn.

10. Ở mọi khóa huấn luyện đặc nhiệm hải quân đều có một chiếc chuông đồng, treo ngay chính giữa doanh trại để học viên nào cũng có thể thấy. Khi muốn bỏ cuộc, học viên chỉ việc đến rung chuông. Rung chiếc chuông và bạn sẽ không còn phải dậy từ 5 giờ sáng. Rung chuông và bạn không còn phải bơi trong nước lạnh cóng. Rung chuông và bạn không còn phải chạy việt dã, vượt chướng ngại vật, những bài tra tấn thể lực, không còn những khổ ải. Đơn giản là chỉ cần rung chuông đầu hàng.
Nếu bạn muốn thay đổi thế giới, đừng bao giờ rung chuông.

Các bạn khóa tốt nghiệp 2014, chỉ giây lát nữa thôi các bạn sẽ ra trường, bắt đầu hành trình vào cuộc sống. Chỉ giây lát nữa thôi, các bạn sẽ bắt đầu thay đổi thế giới – làm cho nó tốt lên.
Việc ấy không dễ. Nhưng các bạn là khóa 2014, những người sẽ thay đổi cuộc sống của 800 triệu người trong vòng thế kỷ tới. Hãy bắt đầu mỗi ngày bằng việc hoàn thành một nhiệm vụ đầu tiên. Tìm ai đó giúp đỡ mình, cùng đồng hành trong cuộc sống. Hãy tôn trọng mọi người. Dù biết rằng cuộc đời có lúc không công bằng, rằng mình sẽ có nhiều lúc thất bại, nhưng nếu bạn chấp nhận rủi ro, tiến lên phía trước vào những thời khắc khó khăn nhất, đối diện với những kẻ áp bức, nâng đỡ người bị áp bức, và không bao giờ bỏ cuộc – nếu bạn làm được như vậy thì thế hệ tới đây và những thế hệ tiếp theo chắc chắn sẽ được sống trong một thế giới tốt đẹp hơn thế giới chúng ta đang sống hôm nay rất nhiều – những gì khởi đầu nơi đây sẽ thực sự thay đổi thế giới và làm nó tốt lên.

(Nguồn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

)

Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:

#133 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 01/08/2014 - 19:12

Giấc Mơ Khởi Nghiệp

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Theo:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tôi mất hơn 5 tiếng đề nghĩ và viết cái note này, vì thế bạn đừng tiếc 5 phút ngồi đọc vì biết đâu 1 ngày nào đó bạn cũng sẽ mở công ty. Chắc chắn note này sẽ giúp bạn rất nhiều đấy.
Những gì tôi sắp viết bạn sẽ không thấy trong sách nào hay báo chí nào, mong rằng sau bài này sẽ có nhiều người cân nhắc cơ hội nghiệp của mình là khởi nghiệp. Vì những người viết báo khởi nghiệp không phải là những người khởi nghiệp, có phỏng vấn đại gia thì người ta cũng sẽ trả lời kiểu trả lời báo chí và những đại gia thường bận quá chẳng chịu viết. Nếu họ có viết sách thì khi đó họ đã quá thành công và không còn nhớ cái tâm trạng và hiểu biết của họ thời chập chững như nào nữa. Tôi nghĩ rằng bài này rất hợp với nhiều người vì tôi đang ở trong đúng cái chân núi đó, tiền không nhiều, mắc sai sót hàng ngày nhưng cũng có trải nghiệm và thành tựu nhất định.
Tại sao tôi lại ủng hộ bạn khởi nghiệp?
Vì 1 nền kinh tế luôn cần có những người giải quyết những vấn đề ngổn ngang, luôn cần những sản phẩm dịch vụ mới. Khởi nghiệp thì tất cả thời gian là của bạn, thích làm lúc nào thì làm, bạn sẽ giàu, rất giàu, siêu siêu giàu nếu thành công. Nhưng chuyện không dễ như thế, bạn sẽ có thể mất nhiều tiền, tuyệt vọng, gia đình mắng chửi…
Tôi biết rất nhiều người khởi nghiệp nhưng không như ý và mất mát rất nhiều, nhưng qua đó họ đều trưởng thành hơn, không có gì là thất bại nếu như mình học được từ nó. Không có thất bại, tất cả chỉ là thử thách – tên 1 quyển sách rất nổi tiếng của chủ tịch HuynDai. Bạn chỉ cần đúng 1 tố chất là có thể trở thành doanh nhân được, đó là yêu thích giải quyết vấn đề, còn lại mọi thứ khác đều học và luyện tập được bằng ý chí và quyết tâm.
Có thể bạn không biết chứ 1 người làm chủ như xôi Yến (1 cửa hàng xôi gần hồ Gươm, trên đường Nguyễn Hữu Huân) 1 tháng cũg phải bỏ túi 4-500 triệu đồng tiền lãi. Hoặc 1 chị học FTU chỉ mới K44-1987 mà đã tự mua được 1 cái nhà trên Kim Mã 5 Tỉ nhờ mở Take One. Anh Điệp -CEO Vật Giá sinh năm 1979-FTU K36- tài sản giờ cũng tầm vài trăm tỉ và còn rất nhiều thành phần đại gia âm thầm khiác…
Thế giới của những người khởi nghiệp thường không được nhiều người biết đến vì không có trường nào dạy, cũng không bao giờ được in trong quyển Những Điều Cần Biết về Tuyển Sinh. Đại học là dạy nghề để làm thuê. Các phụ huynh thì luôn muốn con mình “ổn định”, nhưng sự thật là nghèo ổn định, biết bao giờ mới mua được cái nhà cái xế hộp ở Hà Nội chật chội này đây.
Doanh nhân khởi nghiệp (entrepreneur) là như thế nào?
Để làm 1 cái gì đó thành công thì mình phải thật rõ cái hình ảnh mà mình muốn trở thành. Doanh nhân không phải là người có nhiều tiền, được gọi là doanh nhân có từ “nhân” đằng sau thì họ phải theo 1 cái gì đó lớn hơn chính sự thoả mãn giàu sang của bản thân. Khởi nghiệp là để thoả mãn ước mơ, đam mê và vì những gì xung quanh xã hội mình đang sống. Cái tên của họ vẫn còn mãi sau khi họ chết đi, điều đó mới thực sự đáng mơ ước. Họ luôn cân nhắc môi trường và lợi ích của người tiêu dùng với từng sản phẩm và dịch vụ của họ. Làm ra tiền bằng mọi cách chính đáng chứ không phải bằng mọi giá.
Cần chuẩn bị gì để khởi nghiệp?
Vượt qua rào cản tâm lý để bắt đầu:
Người Việt Nam không có thói quen chào đón với thất bại, họ không muốn con mình làm 1 cái gì đó mạo hiểm và họ sẽ bằng mọi cách ngăn cản. Gia đình thường muốn con mình “tập trung học” mà không biết rằng trường đại học cũng chẳng dạy gì giúp cho nghề nghiệp nhiều. Bạn phải “tập” cho bố mẹ quen với việc không thể can thiệp được tương lai con mình nữa, xác định cho gia đình biết trước là khởi nghiệp sẽ có thể mất tiền và mất nhiều thứ vì thế không nên dầy vò con khi ngã và hãy để cho con ngã vài lần con sẽ tự đứng lên đi tiếp (Cách tốt hơn là đừng cho bố mẹ biết).
Rào cản tiếp theo là giới hạn của chính bản thân các bạn. Bạn có 1 ý tưởng bạn cho là siêu phàm, bạn dành vài tháng để nghĩ về nó nhưng cũng chẳng dám làm gì với nó vì “ngại”, bạn quá thoải mái với vòng an toàn của mình, và bạn tự thuyết phục bản thân mình rằng là mình chưa đủ chín để thực thi ý tưỏng này. Để vượt được rào cản này thì bạn phải tập được cho mình thói quen luôn và ngay, nói theo ngôn ngữ trẻ hiện nay là “thích thì nhích”. Bằng mọi giá từ bỏ thói quen trì hoãn, nếu để tới mai thì sẽ còn ngày kia và tuần sau, tháng sau và không bao giờ nữa.
Còn về việc thiếu nguồn lực thì bạn nên biết rằng khởi nghiệp là lúc nào bạn cũng thiếu thốn nguồn lực, làm ít thiếu ít làm nhiều thiếu nhiều. Thời điểm tốt nhất là hôm nay chứ không phải ngày mai. Hành trình vạn dặm bắt đầu từ chỉ 1 bước đầu tiên, muốn tắm nước lạnh thì phải dội nước vào chân mình trước đã. Đúng là nếu muốn vấp ngã thì chỉ nên chọn lúc mình đang còn trẻ và sung sức để đứng dậy được, chẳng có thời gian nào tốt hơn thời gian sinh viên này đâu. Nghĩ nhiều mà không làm thì cũng giống như người làm mà không nghĩ.
Học gì trước tiên: Giao tiếp và bán hàng.
Bài học đầu tiên là phải biết quí trọng đồng tiền để thấy bố mẹ làm ra tiền vất vả như thế nào. Giao tiếp là kĩ năng sống còn để thành công, còn bán hàng là kĩ năng sống còn của doanh nhân. Hãy tham gia 1 công việc bán hàng nào đó mà cần mình phải vượt qua ngại ngùng nói trước đám đông và biết chấp nhận sự từ chối của người khác 1 cách vui vẻ, học được cái tinh thần không bỏ cuộc là cực kì quan trọng. Khi khởi nghiệp thì đích thân chủ cũng là người bán hàng, kế toán, quét dọn, sản xuất …
Bán hàng là 1 nghề vinh quang vì họ nuôi sống cả tổ chức, hãy luôn coi mỗi lần bán hàng là 1 thử thách mình cần chinh phục. Tập bán thật nhiều các loại hàng hoá có thể vào để hiểu được cách tiếp cận với khách hàng cá nhân và khách hàng tổ chức khác nhau như nào. Tôi còn nhớ có lần xách rượu cần tới từng phòng kí túc xá Xây Dựng hỏi bán hồi gần tết, phòng nào cũng thích lắm nhưng toàn đứa hết tiền chẳng thèm mua. )). Nghĩ lại hồi ấy thì cũng ngại ngùng thật. Bất kể việc bạn làm nó “chuối củ” đến đâu thì sau này vẫn luôn là 1 kỉ niệm đẹp, vì thế đừng ngại làm những thứ mình chưa bao giờ làm.
Học kinh doanh nhỏ:
Khi đã “mặt dầy” thì hãy bắt đầu làm những việc mà cần mình phải bắt đầu làm 1 việc nào đó mà mình phải đứng mũi chịu sào lo toan toàn bộ. Nhớ câu thần chú “start small, really small”. Một số người thích kinh doanh và có 1 ý tưởng hay thường có 1 kiểu khởi nghiệp hài hước là dồn toàn bộ tiền của mình vào khởi nghiệp và làm cho nó thật hoành tráng tử tế. Họ đâu biết rằng 99,99% phi vụ kinh doanh đầu tay là sẽ thất bại. Không phải vì ý tưỏng tồi mà do khả năng thực thi của họ không tốt. Làm 1 vài phi vụ kinh doanh nhỏ sẽ dạy cho bạn những bài học rất ngấm về tiếp thị, vận chuyển hậu cần (logistic), chọn địa điểm (location), trang trí, bán hàng, đàm phán, mua hàng, chuẩn bị và lập kế hoạch, giữ được tinh thần chiến đấu không bỏ cuộc…
Học bơi thì phải uống chục lít nước trong bể mới thành được, chỉ đọc sách không làm bạn trở thành doanh nhân, phải đích thân xông pha. Street-smart là cực kì quan trọng, cũng quan trọng như book-smart vậy (xin lỗi vì phải dùng thuật ngữ tiếng Anh vì tiếng Việt diễn giải rất dài).
Nhiều giảng viên môn kinh doanh của đại học Việt Nam tệ là vì họ không gần doanh nghiệp, những gì họ dạy thường từ sách, và số ít họ là kinh doanh 1 cái gì đó thực sự nên đừng trông chờ gì từ nên giáo dục đại học mà khởi nghiệp. Bạn học về “chiến lược”, “thương hiệu”… toàn là thứ dùng cho doanh nghiệp lớn. Doanh nghiệp khởi sự thì cái cần dùng khác sách giáo trình rất rất nhiều. Bạn có thể bắt đầu nhỏ như bán hoa 8/3, to hơn có thể mua quần áo về bán online…và nên bắt đầu bằng 1 nhóm vài người chứ không nên làm 1 mình để học cách làm việc nhóm nữa.
Một phần rất quan trọng là phải bắt đầu xây cho mình 1 hệ sinh thái khởi nghiệp. Không nên nghe lời, không nên ở gần những người có tư tưởng ổn định và an nhàn, họ sẽ cố dìm bạn xuống cho “ổn định” được như họ, họ sẽ nói cả ngàn lí do rằng bạn sẽ không thành công và ý tưởng của bạn không đáng giá. Tìm những người bạn muốn khởi nghiệp và những anh chị đã khởi nghiệp để học hỏi. Chỉ có những người khởi nghiệp mới nâng đỡ và mang lại niềm vui cho nhau lúc trái gió giở trời.
Bên cạnh họ bạn sẽ thấy khó khăn nhẹ đi và thử thách sẽ trở nên thú vị hơn. Có những bài học không cần phải trả giá vẫn học được. Và không có người hướng dẫn thì bạn sẽ đi rất chậm. Đợi khi ra trường có công việc “ổn định” và thu nhập mới khởi nghiệp? Không. Bạn chẳng cần kinh nghiệm từ các tập đoàn bằng khả năng xoay sở của bạn kià.
Đọc sách, đọc nhiều sách về kinh doanh và khởi nghiệp. Tôi đọc và nghe audiobook cũng phải 3-400 quyển. Gần như tất cả những gì tôi làm và định làm là sách đã mang cho tôi ý tưởng hết cả rồi. Các doanh nhân tỉ đô cũng đọc cực kì nhiều sách. Sinh viên chỉ hay chăm đọc k14, những từ mà người ta đọc nhiều nhất chắc là “lộ hàng”, “hiếp dâm”, “chân dài”… 1 tháng hãy đọc lấy 1 quyển sách, giảm thời gian đọc những thứ giải trí và chỉ thoả mãn trí tò mò.
Kinh doanh thật sự:
Thời điểm bạn đã có 1 ý tưởng tiềm năng đã đến và bạn muốn bắt tay vào làm cho nó thành 1 gia tài . Lúc này là tiền thật và người thật, không còn mang tính lướt sóng như trước nữa. Vì không biết được những điều sắp tới này nên rất nhiều bạn trẻ đã phá sản trong tức tưởi và tiếc nuối. Hãy tự viết nó lên tường và nhắc mình không được quên.
Oh yeah! Ý tưởng của mình trị giá cả triệu đô ấy chứ!
Luôn bắt đầu kinh doanh bằng việc thử nghiệm sức sống của ý tưởng trước. Bắt buộc. Bạn có ý tưởng làm đồ ăn chay giao tận nhà thì đừng vội mua đồ đạc bàn ghế đầu tư website vội. Hãy thử xem thị trường của bạn rộng đến mức nào và khả năng cung ứng của bạn đến mức nào. Làm thử 1 cái blog, quảng cáo quanh khu văn phòng mình, tự nấu nướng tại nhà và giao đi. Từ ý tưởng đến thực tế là 1 câu chuyện hoàn toàn khác, thị trường có thể không lớn như bạn nghĩ đâu. Chưa gì đã mua rất nhiều đồ đạc, thuê nhà cửa thì bạn sẽ có thể lãng phí rất nhiều.
Khởi nghiệp là để xây dựng gia tài, chứ không phải là để chứng tỏ bạn thông minh nhường nào. Lập kế hoạch và luôn tính toán từ trước. Rủi ro là đương nhiên nhưng tính sao cho bạn không quá đau thương khi vấp ngã, vẫn còn chí hướng để làm tiếp. Nhiều người ngã quá đau nên cứ nghĩ lại là thấy sợ.
Nên nhớ rằng ý tưởng rất rẻ, quan trọng là thực thi. Nokia ngày xưa là công ty làm bột gỗ, Deawoo là 1 xưởng dệt may… Ý tưởng gì không quan trọng bằng khả năng thực thi của bạn lớn như nào. Có 1 công ty ở Mỹ trị giá tới 6 tỉ đô chỉ đơn giản là làm gấu bông theo đơn đặt hàng, khách hàng được tự tay khâu gấu. Theo 1 lời khuyên của 1 lão làng là chỉ nên khởi nghiệp với 1 ý tưởng cũ và mình làm tốt hơn, mình là có thể có lãi, mình đáp ứng 1 loại khách hàng tốt hơn sẽ đảm bảo khả năng thành công cao hơn nhiều. Đừng “quyết chiến” với 1 ý tưởng mà chưa từng tồn tại trên thế giới bao giờ, khả năng thất bại sẽ rất cao.
Tiền.
Máu của doanh nghiệp, và thường là doanh nghiệp chết vì hết tiền. Do đó khi bắt đầu bạn phải tìm mọi cách và mọi giá để tiết kiệm tiền đầu tư vào doanh nghiệp. Thường chi phí sẽ bị đội lên gấp 3-4 lần so với cái bản nháp 1 trang “kế hoạch kinh doanh” của bạn. Phải chi li và tính sao cho mình đủ tiền 1 năm, đừng trông chờ là làm 3-4 tháng có doanh thu sẽ bù để làm tiếp. Mua sắm đồ cũ, tăng xin, dùng phần mềm nguồn mở, web tự đi nhờ viết, logo search google rồi tùy biến chẳng hạn .
Đồ cũ mình mua mà bán lại thì cũng được gần như giá trị lúc mua về nên bạn sẽ vẫn giữ được rất nhiều tiền còn lại, còn tiền là còn bày keo khác được. Hết tiền là bạn sẽ rất khó xin hoặc vay ai khác nữa lắm. Có 1 điều lầm tưởng là khởi nghiệp cần phải rất nhiều tiền nhưng thực tế là cần khả năng xoay tiền của bạn hơn. Dù thế nào thì bạn cũng chẳng bao giờ đủ tiền để làm doanh nghiệp đầu tay đâu, càng làm càng thiếu. Và khởi nghiệp nên dùng tiền của chính mình chứ không phải tiền bố mẹ cho để đảm bảo từng quyết định dùng người, từng quyết định mua sắm của mình là chính xác.
Người:
Chỉ nên khởi nghiệp với đội ngũ sáng lập không quá 2 người làm điều hành. Người thứ 3 thể nào làm cho mâu thuẫn. Các bạn thử điểm các công ty lớn mà thành công chúng ta biết đều 2 người hoặc 1 người. Google là Sergey Brin và Larry Page, Apple là 2 bác Steve, Microsoft là Bill Gate và Paul Allen (Steve Balmer là vào để điều hành giúp thôi chứ không phải cùng khởi sự). Sai sót về tuyển người có thể kết liễu doanh nghiệp của bạn, hãy chọn cho team mình những người nào họ không làm việc vì tiền mà làm vì yêu ý tưởng.
Chọn những người mình yêu quí được và chơi được để khó khăn còn thông cảm được cho nhau. Chỉ chọn những người nào có tiềm năng gắn bó lâu dài với doanh nghiệp của mình. Hãy đối xử với nhân viên thật tốt như anh em, vì họ là những người mình gặp nhiều, quyết định chất lượng cuộc sống của mình mà. Chỉ có những người như thế mới làm cho lúc khó khăn và nản trở nên dễ dàng hơn. Khởi nghiệp sẽ hứa hẹn rất nhiều sóng gió và khó khăn đấy.
Nuôi doanh nghiệp khởi sự cũng giống như nuôi 1 đứa trẻ sơ sinh, nó chỉ có mục tiêu là sống, có cái ăn và không mắc bệnh tật gì. Đừng cho nó ăn quá nhiều để cố gắng làm nó lớn thật nhanh. Tìm hiểu và áp dụng Lean StartUp (khởi nghiệp tinh gọn?). Tức là khách hàng cũng chính là 1 phần trong chu trình sản xuất và xây dựng sản phẩm. Như google docs là vừa làm vừa sửa liên tục theo yêu cầu khách hàng, còn Microsoft Word là 2 năm mới ra 1 lần thì lỗi phát hiện cũng không kịp sửa.
Nếu bạn đọc được đến tận dòng cuối cùng này mà vẫn thấy hấp dẫn thì có lẽ bạn có thể trở thành doanh nhân khởi nghiệp đấy. Với công sức tôi bỏ ra, tôi muốn giúp được nhiều người nhất có thể. Để công bằng, bạn like thì phải share lại cho càng nhiều người càng tốt nhé, lan toả tri thức nào.

Thanked by 2 Members:

#134 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 03/08/2014 - 04:39

VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH
Nguyễn Du


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng...

Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp đường lê lác đác mưa sa
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.

Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh...
Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người

Hương lửa đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa bấy niên...
Còn chi ai khá, ai hèn
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu!

Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ độ về tây phương.

Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh
Chí những lăm cất gánh non sông
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất, vận cùng mà đau!

Bỗng phút đâu mưa sa, ngói lở
Khôn đem mình làm đứa thất phu
Giàu sang càng nặng oán thù
Máu tươi lai láng, xương khô rụng rời

Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan.

Cũng có kẻ màn lan trướng huệ
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?

Trên lầu cao dưới dòng nước chảy
Phận đã đành trâm gãy, bình rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.

Đau đớn nhẽ không hương không khói
Hồn ngẩn ngơ dòng suối, rừng sim.
Thương thay chân yếu, tay mềm
Càng lăm càng héo một đêm, một dài.

Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay
Kinh luân găm một túi đầy
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.

Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh
Ngàn vàn khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát tan tành còn đâu?

Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô hồn thất thểu dọc ngang
Nặng oan khôn nhỏ tìm đường hóa sinh?

Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đổi mình vào cướp ấn nguyên nhung
Gió mưa sấm sét đùng đùng
Phơi thây trăm họ nên công một người.

Khi thất thế tên rơi đạn lạc
Bãi sa trường thịt nát máu rơi
Mênh mông góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào?

Trời thăm thẳm mưa gào gió thét
Khí âm huyền mờ mịt trước sau
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?

Cũng có kẻ tính đường trí phú
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?

Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
Của phù vân dẫu có như không
Sống thời tiền chảy bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi.

Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm
Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu?

Cũng có kẻ rắp cầu chữ qúy
Dẫn mình vào thành thị lân la
Mấy thu lìa cửa lìa nhà
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.

Dọc hàng quán gặp tuần mưa nắng
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng

Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô hồn nhờ gửi tha phương
Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng.

Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng
Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê.

Cũng có kẻ đi về buôn bán
Đòn gánh tre chín dạn hai vai
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?

Cũng có kẻ mắc vào khóa lính
Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan
Nước khe cơm vắt gian nan
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời

Buổi chiến trận mạng người như rác
Phận đã đành đạn lạc tên rơi
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!

Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá biết là cậy ai?

Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan.

Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi?

Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.

Kìa những kẻ chìm sông lạc suối
Cũng có người sẩy cối sa cây
Có người leo giếng đứt dây
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.

Người thì mắc sơn tinh thủy quái
Người thì sa nanh sói ngà voi
Có người hay đẻ không nuôi
Có người sa sẩy có người khốn thương.

Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?

Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối chân mây
Hoặc là điếm cỏ bóng cây
Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ

Hoặc là nương thần từ Phật tự
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không
Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre

Sống đã chịu một bề thảm thiết
Ruột héo khô dạ rét căm căm
Dãi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương

Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.

Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền trút sạch oán thù rửa không.

Nhờ đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.

Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.

Kiếp phù sinh như hình như ảnh
Có chữ rằng:"Vạn cảnh giai không"
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.

Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có khi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.

Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêụ
Phép thiên biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh.

Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô chư Phật, Pháp, Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.

Sửa bởi pth77: 03/08/2014 - 04:45


Thanked by 1 Member:

#135 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 04/08/2014 - 11:47

Lực Chuyển 4: Gia Công Trong Sản Xuất Công Nghiệp
(Lợi Thế Cạnh Tranh Về Nhân Công Rẻ Của Các Quốc Gia Mới Nổi Sẽ Biến Dạng)
Alan Phan

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



(Bài 5 trong loạt bài Những Lực Chuyển Của Hai Thập Kỷ Tới ). Link:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


1 August 2014

Bắt đầu vào giữa thập niên 80’s, tiền FDI bắt đầu dồn dập đổ vào Trung Quốc với 2 mục tiêu chính: lợi dụng phí sản xuất thấp của Trung Quốc để tạo lợi thế giá rẻ cho sản phẩm (outsourcing) và chiếm giữ vị thế khởi đầu cho một thị trường lớn với 1.3 tỷ dân số (market position). Kết hợp với bản chất doanh thương truyền thống của người dân Trung Quốc, dòng tiền FDI này là hai lý do chính đã tạo một sóng thần kỳ diệu và chỉ 25 năm sau, thế giới bắt đầu nói về một siêu cường kinh tế có thể đuổi kịp Âu Mỹ trong vòng 2 thập kỷ tới.
Công thức chiến lược của Trung Quốc cũng không mới mẻ gì. Bắt đầu là Nhật rồi Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore…các nền kinh tế này đã hoá rồng một cách khá đơn giản: lợi dụng đầu tư, công nghệ và thị trường xuất khẩu từ Âu Mỹ, cộng hưởng với nhân công rẻ, đất đai, thuế vụ…khuyến mãi từ các chánh phủ địa phương; sản xuất hàng loạt theo gia công, hàng chất lượng rẻ như quần áo, đồ gia dụng…, để tạo thị phần rồi gia tăng hiệu năng để tiến lên những sản phẩm giá trị cao hơn. Với bản tính cần cù và văn hoá chắt chiu, Nhật, Hàn, Đài Loan…bắt đầu cạnh tranh trực tiếp với những đại gia Âu Mỹ trên sân quốc tế trong những công nghiệp vốn là đặc quyền của Âu Mỹ như ô tô, điện tử, thiết bị công nghệ…
Sự thành công của Trung Quốc trong giai đoạn đầu ấn tượng hơn nhờ số lượng nhân công và tiến trình toàn cầu hoá của nền kinh tế tài chánh. Một ngôn từ bắt đầu thông dụng khi mô tả Trung Quốc như là “cơ xưởng của thế giới”. Nhiều quốc gia mới nổi khác cũng bắt chước và sao y chiến lược gia công này gồm Việt Nam, Indonesia, Bangladesh, Ấn Độ…

Vấn nạn của chiến lược gia công
Tuy nhiên, công thức phát triển này đang gặp 2 vấn nạn quan trọng: sự yếu kém về sáng tạo và kiến thức trong những chế độ còn bị gọng kềm độc tài và tư bản hoang dã kiềm chế; và một lực chuyển đang thay đổi ngành sản xuất công nghiệp vì “nhân công rẻ” không còn là một lợi thế cạnh tranh hữu hiệu nữa.
Một tín hiệu khá rõ ràng trên thị trường là khi Walmart, chuỗi bán lẻ chuyên vào người thu nhập thấp tại Mỹ, bắt đầu ào ạt quảng bá khẩu hiệu “Buy American” (người Mỹ mua hàng Mỹ). Nhưng phải đợi đến khi Boston Consulting Group (BSG) làm một khảo sát với đầy đủ số liệu thống kê vào 2013, các chuyên gia mới được thuyết phục hoàn toàn. Trong cuộc khảo sát này, Mexico có chi phí sản xuất công nghiệp rẻ nhất và Mỹ đứng hàng thứ 7 sau Trung Quốc. Một báo cáo của Standard Chartered Bank (China) xác nhận thực tại này và cho biết hiện nay, chi phí sản xuất của Trung Quốc chỉ rẻ hơn Mỹ có 5%. Theo đà tiến của hiện trạng, giá sản xuất của hai nước vào 2016 sẽ coi như bằng nhau.
Ngoài chi phí sản xuất, những khoản tốn kém “mềm” khác làm chi phí thực sự tại Trung Quốc có thể cao hơn nhiều. Đó là nạn ăn cắp bản quyền trí tuệ, cỗ máy hành chánh nặng nề, pháp luật rừng rú, những bất ngờ về “phí bôi trơn”. Nhìn thấy vấn đề cả 5, 7 năm về trước, các nhà đầu tư FDI lớn từ Mỹ, Nhật, Hàn…bắt đầu ngưng những dự án outsourcing mới ở Trung Quốc và quay đầu về quê hương hay tìm những điểm đến thuận lợi hơn.
Dĩ nhiên, những nhà máy chuyên sản xuất cho thị trường nội địa hay các hàng hoá rẻ tiền không xứng đáng với những đầu tư lớn sẽ vẫn được duy trì và phát triển. Các loại xưởng mà nhân công rẻ vẫn là yếu tố quan trọng như áo quần, giầy dép, đồ tiêu dùng, gia công điện tử dây chuyền, hay gây ô nhiễm nặng, hay dùng công nghệ xưa cũ…dời đến Việt Nam, Bangladesh, Campuchia…Những sản phẩm trí tuệ có một mức lợi nhuận cao và đòi hỏi một chất lượng tối ưu thì không còn nhu cầu về giá cả từ “nhân công rẻ”.

Những thay đổi khiến giá nhân công rẻ không còn quan trọng
Có nhiều lý do khiến chi phí sản xuất tại Mỹ bắt đầu rẻ như Trung Quốc; mặc dù chi phí nhân viên của Mỹ vẫn tiếp tục leo thang trong thập kỷ vừa qua.
Trước hết phải nói đến sự tiến bộ gia tốc của công nghệ cao. Ngành IT và sinh học mới bắt đầu khai triển sâu rộng artificial intelligence (AI- sự thông minh giả định?) tạo nên những thế hệ mới về robots rất đa năng. Ngày xưa, các robots tại xưởng máy thường chỉ biết hàn hay vận chuyển vật liệu lắp ráp. Ngày nay, robots đã điều khiển được cả một dây chuyền sản xuất và biết start hay stop khi có sự cố hay cần thay đổi quy trình.
Tôi đã sửng sốt khi nhìn một video về một kho hàng lý tưởng đang thử nghiệm và lên kế hoạch của Amazon rộng gấp 3 lần một sân vận động, chứa đến gần 1 triệu mặt hàng (SKU). Nơi đây, một đội ngũ khoảng 5 ngàn robots không người lái, tự động chạy đi lấy từng món hàng theo đơn đặt hàng gởi đến từ máy kiểm soát trung ương. Mỗi ngày (24/7) 5 ngàn cỗ robots này hoàn tất khoảng 600 ngàn đơn hàng. Toàn kho, chỉ có 12 nhân viên IT lo việc điều hành và bảo trì.
Khi đối diện với thử thách về lương nhân viên cùng với các yếu tố lao động chính trị tại Thẩm Quyến, hãng Foxconn chuyên ráp IPhone cho Apple doạ sẽ đầu tư mua 1 triệu robots trong 5 năm tới. Không chỉ doạ xuông, Foxconn đã vận hành 50,000 robots mới trong năm 2013 và 30,000 nhân viên của xưởng bắt đầu giảm nhiều yêu sách.
Thêm vào việc sử dụng đại trà robots trong cơ xưởng, vận hành của công nghiệp sản xuất sẽ phải thay đổi theo thị hiếu người tiêu dùng. Trước đây, những hàng giá rẻ sản xuất hàng loạt với số lượng khủng để giảm giá bán không còn hấp dẫn với tầng lớp có tiền khắp thế giới, muốn mua hàng thật đặc thù để tạo phong cách. Sự phát sinh những thị trường ngách với những sản phẩm đắt tiền, thiết kế tân tiến, thay đổi thường xuyên… (như hàng hiệu) được ưa chuộng hơn.
Thay vì những dây chuyền quy mô, cơ xưởng trong tương lai sẽ nhỏ hơn, điều khiển bằng hệ thống AI tạo ra nhiều mẫu mả với số lượng nhỏ hơn. Đây là một quy trình mà việc đầu tư lớn vào công nghệ 3D printing hay Internet of things quan trọng hơn là diện tích đất đai hay số nhân công cho cơ xưởng.
Sau phí lương nhân viên mà công nghệ robotics đang hoá giải, giá năng lượng là một thành tố quan yếu trong chi phí sản xuất. Với những tiến bộ bất ngờ trong việc tìm kiếm dầu hoả và khí đốt qua địa phiến shale, International Energy Agency tiên đoán là Mỹ sẽ thành một quốc gia sản xuất năng lượng lớn nhất thế giới vào năm 2020. Cộng thêm lợi thế vận chuyển trong nội địa, hiện nay giá năng lượng tại Mỹ rẻ hơn Trung Quốc trung bình khoảng 12%.
Ngoài dầu khí, Mỹ còn giữ lợi thế lớn về thuỷ lợi. Mỹ có dung lượng nước cao hơn Trung Quốc gấp 4.6 lần với giá cho công nghiệp rẻ hơn 8%. Trước đây, các nhà đầu tư FDI tại Trung Quốc thường được khuyến mãi đất bãi cho cơ xưởng với giá gần như cho không trong vài chục năm. Vì sự khiếu kiện của quá nhiều nông dân bị cướp đất, các nhà dầu tư FDI bây giờ phải mua đất gần bằng giá thị trường. Mỹ giữ lợi thế rất lớn trong lĩnh vực này vì đất sử dụng được của Mỹ lớn gấp 5.3 lần Trung Quốc.
Vào thập niên 70’s, Mỹ bị cú “shock” lớn từ Nhật khi giá và chất lượng sản xuất ô tô cùng điện tử bị Nhật qua mặt. Các con khủng long Mỹ tỉnh thức và GM, Ford, GE, Dow, IBM…khởi động một chương trình tái cấu trúc để gia tăng hiệu năng cho nhân viên không ngừng nghỉ. Sau 30 năm, họ đã thành công ấn tượng. Ngày nay, hiệu năng nhân công Mỹ được xếp vào hàng thứ 7 trên thế giới, trong khi Trung Quốc đứng hạng 29. (Cho những ai tò mò, Việt Nam nằm ở hạng 75 – Xem:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

)
Nhờ hiệu năng nhân viên và công nghệ kết nối các mạng lưới phân phối, chi phí để điều hành hệ thống logistics cũng rẻ hơn Trung Quốc khoảng 6% và chí phí vận chuyển rẻ hơn 4%.
Sau cùng, nhờ dòng tiền đầu tư quay đầu về Âu Mỹ tìm chỗ an toàn (kể cả capital flight từ Trung Quốc), và chánh sách giữ lãi suất thấp của cơ quan Fed (US Federal Reserve), các doanh nghiệp Mỹ đang hưởng những khoản vay dài và ngắn hạn vô cùng thuận lợi. Nhìn vào thị trường tài chánh của Mỹ, công cụ mà những CFO nắm trong tay nhiều vô số kể, do đó, đòn bẫy tài chánh của các doanh nghiệp Mỹ đã được vận hành tối đa, tạo nên một lợi thế cạnh tranh lớn với các thị trường mới nổi, kể cả Trung Quốc. Ngoài sự thông dụng của cổ phiếu và trái phiếu, công ty Mỹ dễ dàng tiếp cận ngân hàng về tín dụng cho dòng tiền lưu chuyển hay quỹ công và tư cho những dự án đầu tư mới. IPO và M&A là 2 lĩnh vực khá “hot” hiện nay.

Thử thách của lực chuyển này
Tóm lại, theo đà chuyển hiện nay thì những lợi thế về giá cả trong công nghiệp sản xuất của các quốc gia mới nổi sẽ biến mất.
Tuy vậy, không có nghĩa là những nhà máy gia công củ kỹ hiện tại sẽ phải dẹp tiệm. Những đầu tư cho nhà máy hiện đại với công nghệ cao rất tốn kém và tại các quốc gia nghèo, mới nổi; dòng tư bản nội địa không đủ sức để vượt qua rào cản này. Vả lại, nhu cầu của đa số người tiêu dùng tại đây vẫn còn yếu kém và đơn giản, cần giá rẻ hơn là phong cách. Một yếu tố khác là càng ngày chi phí bảo vệ môi trường tại các quốc gia phát triển càng lên cao. Cho nên, những dự án gây nhiều ô nhiễm vẫn được các nhà tư bản đẩy đến những quốc gia sẵn sàng mở cửa (hay mở phong bì) để đón chào các loại đầu tư này.

& & & &

Tất cả những phân tích về trào lưu trên dẫn đến một kết luận: nếu bạn đang kinh doanh trong công nghiệp sản xuất mà chính yếu là gia công tại các quốc gia mới nổi; bạn sẽ thấy những cuộc cạnh tranh khốc liệt trong thập kỷ tới vì hiện nay nguồn cung đang vượt khá xa nguồn cầu. Muốn cạnh tranh hữu hiệu trên biển lớn, bạn phải đầu tư vào công nghệ cao hiện đại. Hai yếu tố cốt lõi: sự sáng tạo và tiền vốn ban đầu. Nếu không đủ năng lực cạnh tranh, có lẽ bạn phải suy nghĩ về những ngành nghề như IT, nông nghiệp cao trong các thị trường ngách, dịch vụ du lịch, tài chánh hay an sinh (y tế, giáo dục, an ninh…).
Các đại gia đa quốc đang bắt đầu làn sóng đầu tư mới vào công nghiệp sản xuất. Dow Chemicals, Caterpillar, GE, Ford, Tesla…hay BMW, Nestle, Sony, Panasonic…đều chọn Mỹ cho phần lớn những cơ xưởng mới. Apple cũng đang lên kế hoạch để đem dòng sản phẩm về Mỹ sau khi Google vừa thông báo là toàn bộ Nexus Q sẽ “made in America”.

Don’t Cry For Me, Argentina
Có nhiều bạn đọc muốn biết suy nghĩ của cá nhân tôi về chương trình biến Việt Nam thành một quốc gia công nghiệp vào năm 2020. Theo phân tích, công thức chiến lược này đã được copy từ Trung Quốc và đem ra áp dụng cho Việt Nam đã hơn 10 năm qua. Cho đến nay, chắc ai cũng có thể nhận ra kết quả.
Từ 5 năm nay, Trung Quốc đang loay hoay tháo gỡ những vướng mắc gây ra bởi mô hình phát triển này (ô nhiễm môi trường trầm trọng, tạo ra cách biệt giàu nghèo nhiều bất ổn, suy sụp văn hoá an sinh truyền thống, kiểm soát bởi nhóm tư bản đỏ, đe doạ bởi đủ loại bong bóng tài sản và nợ xấu, không tạo được sự sáng tạo và kiến thức cần cho nền kinh tế mới…và nhiều nữa). Họ đã không thành công và mọi chuyên gia đang tiên đoán về một suy thoái luỹ tiến.
Có thể lãnh đạo Việt Nam khôn ngoan hơn các bậc thầy, tôi không biết. Nhưng nếu không có thay đổi cốt lõi cơ chế bằng hành động, tôi không muốn nấn ná ở lại quê hương nhìn kết quả sau cùng của trận đấu. Tôi sẽ đợi các bạn bên bờ kia bờ Thái Bình Dương, cùng làm ly cà phê để suy ngẫm về định mệnh và có lẽ sẽ cùng nhau hát bài .… Hận Đồ Bàn?
Alan Phan

Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

3 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 3 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |