9
Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư - lược dịch
Viết bởi Quách Ngọc Bội, 12/08/13 10:16
TVDSTT La Hồng Tiên Toàn Thư
137 replies to this topic
#106
Gửi vào 11/09/2013 - 14:05
44.8 Nô Bộc cung
* Có Tử Vi thì nô bộc có năng lực và đắc lực khiến cho chủ được vượng mà sinh tài. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì kém lực. Cùng với Phá Quân thì trước không có trợ thủ, nhưng sau lại chiêu nạp được. Cùng với Thiên Tướng thì thêm đắc lực. Thêm Không Kiếp thì chiêu oán hận mà người bỏ ta ra đi.
* Thiên Cơ nhập miếu chủ nô bộc đắc lực, nếu hãm địa hoặc lạc Không Vong thì nô bộc oán chủ. Cùng với Thiên Lương thì về cuối cũng chiêu nạp được. Cùng với Thái Âm thì nô bộc kém lực. Cùng với Cự Môn thêm cát tinh thì có nô tỳ, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì hoàn toàn khó mà có được.
* Thái Dương nhập miếu vượng thì nhờ nô bộc mà chủ được vượng phát, nếu Thái Dương hãm thì không có duyên phận lại còn bị nô oán chủ, gặp rồi lại bỏ đi. Cùng với Thái Âm thì chiêu được nhiều nô bộc. Cùng với Cự Môn thì có nhiều nhưng bị oán cũng nhiều. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì có nô tài phản chủ.
* Vũ Khúc ở vượng cung thì nô bộc không ít, hô 1 tiếng tức thì có trăm tiếng dạ ran. Cùng Thiên Phủ đồng cung thì đa nô đa tỳ. Cùng Phá Quân đồng cung thì dễ chiêu oán thán, gặp rồi bỏ đi, cuối đời mới chiêu nạp được. Cùng Thiên Tướng thì nô bộc đắc lực. Cùng Thất Sát thì nô dễ phản chủ. Cùng với Tham Lang thì nô bộc kém lực.
* Thiên Đồng chủ có nô đắc lực khiến chủ được vượng. Cùng với Cự Môn thì trước khó mà sau dễ chiêu nạp. Cùng với Thái Âm thì nô đắc lực. Cùng với Thiên Lương thì nô trợ giúp cho chủ. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì có nô phản chủ, nếu thấy Không Kiếp thì oán chủ gặp rồi bỏ đi.
* Liêm Trinh hãm địa có nô phản chủ, về già cũng chiêu nạp được nô đắc lực. Nhập miếu thì hô 1 tiếng là trăm lời dạ ran. Cùng với Tham Lang thì nô kém lực. Cùng với Thất Sát thì nô phản chủ. Cùng với Thiên Đồng thì lắm nô nhiều tỳ. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì không vượng, gặp rồi lại bỏ đi.
* Thiên Phủ ở Nô cung là có nô đắc lực, nhất hô bách nặc. Cùng với Tử Vi thì nô trợ giúp chủ cực kỳ đắc lực. Cùng với Vũ Khúc thì có nô bộc. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì nô phản chủ trốn đi.
* Thái Âm miếu thì có nô đắc lực có nhiều năng lực. Cùng với Thái Dương thì đa nô đa tỳ. Cùng với Thiên Cơ thì kém lực. Cùng với Thiên Đồng thì có nô vượng chủ. Thêm Kình Đà Không Kiếp Hỏa Linh tuy có nhưng cũng bỏ đi. Hãm địa thì hoàn toàn không có.
* Tham Lang lúc đầu khó chiêu nạp, dễ có nô khiến cho chủ bị bại. Hãm địa thì hoàn toàn không có nô bộc. Cùng với Liêm Trinh cũng ít nô bộc. Cùng với Tử Vi là có nô tỳ. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không thì tuy có nhưng mà khó dạy.
* Cự Môn nhập miếu thì nô tài mới ban đầu đã không đắc lực, dễ chiêu chuốc thị phi, không ở được lâu dài. Cùng với Thái Dương thì có nô giúp chủ bảo vệ gia đình gia tài. Cùng với Thiên Đồng thì có nô một lòng một dạ nhưng phải lúc cao tuổi mới chiêu nạp được.
* Thiên Tướng thì cuối cùng cũng chiêu nạp được nô bộc đắc lực. Cùng với Tử Vi là lắm nô nhiều tỳ. Cùng với Vũ Khúc có sát tinh thì nô oán chủ. Cùng với Liêm Trinh thì cuối đời có thể chiêu nạp được. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì nô bộc kém lực, bỏ trốn.
* Thiên Lương có nhiều nô bộc vượng chủ, cùng với Thiên Đồng thì có nô bảo vệ nhà cửa đắc lực. Cùng với Thiên Cơ thì nô chủ chẳng đồng lòng.
* Thất Sát là có nô bộc khinh chủ, lại cương mãnh khó dạy, hay trộm cắp gia tài. Cùng với Vũ Khúc thì có nô phản chủ. Cùng với Liêm Trinh thì nô kém lực. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì khó mà chiêu nạp được nô bộc.
* Phá Quân nhập miếu có nô đắc lực, hãm cung thì chiêu oán và phản chủ. Cùng Vũ Khúc đồng cung thì phản chủ. Cùng Tử Vi đồng cung thì có nô đắc lực. Cùng Liêm Trinh đồng cung thì nô bộc kém lực. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì khó mà chiêu nạp được nô bộc.
* Văn Xương nhập miếu độc thủ thì có nô đắc lực trợ giúp cho chủ, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì tuy có nhưng sẽ phản chủ.
* Văn Khúc nhập miếu có nô đắc lực, hãm cung thì chẳng có phận, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì nô oán chủ rồi đào tẩu.
* Tả Phụ độc thủ thì có nô vượng chủ, nhất hô bách nặc, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp Hao Kị thì phản chủ và khó chiêu nạp.
* Hữu Bật độc thủ thì có nô đắc lực có năng lực, thêm Kình Đà Linh Hỏa Hao Kị thì nô bộc kém lực.
* Kình Dương độc thủ thì có nô phản chủ, chiêu oán hận, không đắc lực, có mà không ở được lâu. Nếu nhập miếu thì cuối đời có thể chiêu nạp được.
* Đà La chủ nô bộc kém lực và oán chủ, nhập miếu có thêm cát tinh thì có nô bộc đắc lực.
* Hỏa Tinh độc thủ chủ nó oán giận chủ nhân, không đắc lực. Nếu có thêm cát tinh và nhập miếu thì có thể có 1, 2 nô bộc hữu dụng.
* Linh Tinh độc thủ thì nô không đắc lực, hận chủ, hội cát tinh và nhập miếu thì có nô trợ chủ giữ nhà. Thêm Không Kiếp Hao Kị thì kém lực.
* Đẩu Quân đi qua cung Nô gặp cát tinh thì nô bộc quy thuận. gặp hung kị hao sát tinh thì nô hận chủ mà bỏ đi, hoặc hung thì nô bộc chiêu chuốc thị phi.
* Có Tử Vi thì nô bộc có năng lực và đắc lực khiến cho chủ được vượng mà sinh tài. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì kém lực. Cùng với Phá Quân thì trước không có trợ thủ, nhưng sau lại chiêu nạp được. Cùng với Thiên Tướng thì thêm đắc lực. Thêm Không Kiếp thì chiêu oán hận mà người bỏ ta ra đi.
* Thiên Cơ nhập miếu chủ nô bộc đắc lực, nếu hãm địa hoặc lạc Không Vong thì nô bộc oán chủ. Cùng với Thiên Lương thì về cuối cũng chiêu nạp được. Cùng với Thái Âm thì nô bộc kém lực. Cùng với Cự Môn thêm cát tinh thì có nô tỳ, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì hoàn toàn khó mà có được.
* Thái Dương nhập miếu vượng thì nhờ nô bộc mà chủ được vượng phát, nếu Thái Dương hãm thì không có duyên phận lại còn bị nô oán chủ, gặp rồi lại bỏ đi. Cùng với Thái Âm thì chiêu được nhiều nô bộc. Cùng với Cự Môn thì có nhiều nhưng bị oán cũng nhiều. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì có nô tài phản chủ.
* Vũ Khúc ở vượng cung thì nô bộc không ít, hô 1 tiếng tức thì có trăm tiếng dạ ran. Cùng Thiên Phủ đồng cung thì đa nô đa tỳ. Cùng Phá Quân đồng cung thì dễ chiêu oán thán, gặp rồi bỏ đi, cuối đời mới chiêu nạp được. Cùng Thiên Tướng thì nô bộc đắc lực. Cùng Thất Sát thì nô dễ phản chủ. Cùng với Tham Lang thì nô bộc kém lực.
* Thiên Đồng chủ có nô đắc lực khiến chủ được vượng. Cùng với Cự Môn thì trước khó mà sau dễ chiêu nạp. Cùng với Thái Âm thì nô đắc lực. Cùng với Thiên Lương thì nô trợ giúp cho chủ. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì có nô phản chủ, nếu thấy Không Kiếp thì oán chủ gặp rồi bỏ đi.
* Liêm Trinh hãm địa có nô phản chủ, về già cũng chiêu nạp được nô đắc lực. Nhập miếu thì hô 1 tiếng là trăm lời dạ ran. Cùng với Tham Lang thì nô kém lực. Cùng với Thất Sát thì nô phản chủ. Cùng với Thiên Đồng thì lắm nô nhiều tỳ. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì không vượng, gặp rồi lại bỏ đi.
* Thiên Phủ ở Nô cung là có nô đắc lực, nhất hô bách nặc. Cùng với Tử Vi thì nô trợ giúp chủ cực kỳ đắc lực. Cùng với Vũ Khúc thì có nô bộc. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì nô phản chủ trốn đi.
* Thái Âm miếu thì có nô đắc lực có nhiều năng lực. Cùng với Thái Dương thì đa nô đa tỳ. Cùng với Thiên Cơ thì kém lực. Cùng với Thiên Đồng thì có nô vượng chủ. Thêm Kình Đà Không Kiếp Hỏa Linh tuy có nhưng cũng bỏ đi. Hãm địa thì hoàn toàn không có.
* Tham Lang lúc đầu khó chiêu nạp, dễ có nô khiến cho chủ bị bại. Hãm địa thì hoàn toàn không có nô bộc. Cùng với Liêm Trinh cũng ít nô bộc. Cùng với Tử Vi là có nô tỳ. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không thì tuy có nhưng mà khó dạy.
* Cự Môn nhập miếu thì nô tài mới ban đầu đã không đắc lực, dễ chiêu chuốc thị phi, không ở được lâu dài. Cùng với Thái Dương thì có nô giúp chủ bảo vệ gia đình gia tài. Cùng với Thiên Đồng thì có nô một lòng một dạ nhưng phải lúc cao tuổi mới chiêu nạp được.
* Thiên Tướng thì cuối cùng cũng chiêu nạp được nô bộc đắc lực. Cùng với Tử Vi là lắm nô nhiều tỳ. Cùng với Vũ Khúc có sát tinh thì nô oán chủ. Cùng với Liêm Trinh thì cuối đời có thể chiêu nạp được. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì nô bộc kém lực, bỏ trốn.
* Thiên Lương có nhiều nô bộc vượng chủ, cùng với Thiên Đồng thì có nô bảo vệ nhà cửa đắc lực. Cùng với Thiên Cơ thì nô chủ chẳng đồng lòng.
* Thất Sát là có nô bộc khinh chủ, lại cương mãnh khó dạy, hay trộm cắp gia tài. Cùng với Vũ Khúc thì có nô phản chủ. Cùng với Liêm Trinh thì nô kém lực. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì khó mà chiêu nạp được nô bộc.
* Phá Quân nhập miếu có nô đắc lực, hãm cung thì chiêu oán và phản chủ. Cùng Vũ Khúc đồng cung thì phản chủ. Cùng Tử Vi đồng cung thì có nô đắc lực. Cùng Liêm Trinh đồng cung thì nô bộc kém lực. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì khó mà chiêu nạp được nô bộc.
* Văn Xương nhập miếu độc thủ thì có nô đắc lực trợ giúp cho chủ, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì tuy có nhưng sẽ phản chủ.
* Văn Khúc nhập miếu có nô đắc lực, hãm cung thì chẳng có phận, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì nô oán chủ rồi đào tẩu.
* Tả Phụ độc thủ thì có nô vượng chủ, nhất hô bách nặc, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp Hao Kị thì phản chủ và khó chiêu nạp.
* Hữu Bật độc thủ thì có nô đắc lực có năng lực, thêm Kình Đà Linh Hỏa Hao Kị thì nô bộc kém lực.
* Kình Dương độc thủ thì có nô phản chủ, chiêu oán hận, không đắc lực, có mà không ở được lâu. Nếu nhập miếu thì cuối đời có thể chiêu nạp được.
* Đà La chủ nô bộc kém lực và oán chủ, nhập miếu có thêm cát tinh thì có nô bộc đắc lực.
* Hỏa Tinh độc thủ chủ nó oán giận chủ nhân, không đắc lực. Nếu có thêm cát tinh và nhập miếu thì có thể có 1, 2 nô bộc hữu dụng.
* Linh Tinh độc thủ thì nô không đắc lực, hận chủ, hội cát tinh và nhập miếu thì có nô trợ chủ giữ nhà. Thêm Không Kiếp Hao Kị thì kém lực.
* Đẩu Quân đi qua cung Nô gặp cát tinh thì nô bộc quy thuận. gặp hung kị hao sát tinh thì nô hận chủ mà bỏ đi, hoặc hung thì nô bộc chiêu chuốc thị phi.
Thanked by 13 Members:
|
|
#107
Gửi vào 11/09/2013 - 16:42
44.9 Quan Lộc cung
* Tử Vi miếu vượng gặp Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt thì tước vị được phong hầu phong bá. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì bình thường. Cùng với Thiên Phủ thì quyền quý danh lợi được song toàn. Thêm Thiên Tướng thì trong ngoài đều có quyền quý rõ ràng. Cùng với Phá Quân thì bận rộn náo nhiệt mà an thân.
* Thiên Cơ nhập miếu thì có quyền quý, hội Văn Khúc là người hết mực hiền lành, không thấy Kình Đà Linh Hỏa thì cát. Cùng Thiên Lương thì văn võ toàn tài. Cùng Thái Âm miếu vượng thì danh chấn động biên thùy. Hãm cung thì bị mất chức, thoái quan, làm viên tiểu lại.
* Thái Dương nhập miếu thì văn võ đều tốt đẹp, không thấy Kình Đà Linh Hỏa thì tốt. Cùng với Thái Âm thì quý hiển. Cùng Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt thêm Khoa Quyền Lộc thì định là quý đến nhất phẩm.
* Vũ Khúc nhập miếu cùng Xương Khúc Tả Hữu thì theo võ sẽ có chức cao chót vót, người thường cũng được phát phúc. Hội Khoa Quyền Lộc là làm quan chủ quản tài lộc. Cùng với Tham Lang thì dễ làm quan tham ô. Cùng với Phá Quân thì xuất thân ở trong quân ngũ. Ở cung an Thân (Thân cư Quan) mà có Thất Sát cùng thì thế nào cũng có lúc bộc phát lập công danh. Hãm cung cùng với Đà Linh Kiếp Kị thì chẳng có duyên phận về công danh.
* Thiên Đồng nhập miếu thì văn võ đều hợp, không có Kình Đà Linh Hỏa thì cát. Cùng Cự Môn thì trước chức vị bé sau thì lại lớn. Cùng với Thiên Lương Xương Khúc Khoa Quyền Lộc thì tốt đẹp vô cùng. Cùng với Thái Âm cũng được quyền quý. Hãm cung luận là làm tư lại, thường phải thuyên chuyển.
* Liêm Trinh nhập miếu vào võ chức được quyền quý nhưng khôgn bền. Cùng với Tử Vi hội ở tam phương thì làm văn chức. Cùng với Thất Sát thì xuất thân nơi quân ngũ. Cùng với Thiên Tướng Thiên Phủ thì được áo gấm vinh hoa phú quý.
* Thiên Phủ nhập miếu thì theo văn võ đều được cát lợi, không thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Hao thì là toàn mỹ. Cùng với Tử Vi thì theo văn võ đều có thanh danh. Cùng Liêm Trinh Vũ Khúc thì quyền quý. Thấy Không Kiếp thì bình thường.
* Thái Âm nhập miếu được nhiều phú quý, hãm địa thì khí chất cao ngạo, hoạnh phá, khó mà hiển đạt. Hội Thái Dương Xương Khúc Tả Hữu thì quan chức cỡ tam phẩm. Cùng với Thiên Đồng thì vào văn võ đều hợp. Cùng với Thiên Cơ thì bon chen tiến thân làm viên tư lại mà lập chỗ đứng.
* Tham Lang gặp Hỏa Linh vào võ chức thì chấp chưởng đại quyền. Cùng Tử Vi Văn Khúc thì vào võ chức cũng có binh quyền không hề nhỏ. Hãm cung là bọn tham quan ô lại. Thêm Kình Đà Không Kiếp thì tầm thường.
* Cự Môn nhập miếu có võ chức quyền quý, vào văn nhân thì không được bền. Cùng với Thái Dương thì có tiến có thoái, nhập miếu thì vững bền mãi. Cùng Thiên Cơ tại Mão cung thì tốt đẹp phú quý, tại Dậu cung thì thuy đẹp nhưng có thủy mà vô chung. Hãm cung thì gặp hối hận, không lành. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp càng thêm không đẹp, bị biếm giáng chức.
* Thiên Tướng nhập miếu thì văn võ đều hợp, được hưởng lộc ăn ngàn chung. Hãm địa thì có thành có bại. Cùng Tử Vi thì quyền quý, cùng Tả Hữu Xương Khúc thì quyền lực càng thêm quý tột bực. Cũng Vũ Khúc thì nhậm chức ở biên thùy. Cùng với Liêm Trinh thì quyền quý cao chót vót. Thêm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì sẽ bị biếm chức giáng cấp.
* Thiên Lương miếu Ngọ hội Tả Hữu Khôi Việt, văn võ đều tài. Cùng với Thiên Đồng thì quyền quý cũng không hề nhỏ. Cùng với Thiên Cơ thì hiển quý cao chót vót. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì bình thường.
* Thất Sát miếu vượng thì vào võ sẽ có chức cao chót vót, quyền quý không nhỏ, không hợp với văn nhân. Cùng với Vũ Khúc là được quyền quý. Cùng với Liêm Trinh thì công danh hiển đạt.
* Phá Quân miếu vượng vào võ thì được thăng lên chức cao. Cùng Vũ Khúc thêm Quyền Lộc Văn Xương Văn Khúc thì hiển đạt, còn thêm Kình Đà thì tầm thường. Cùng Tử Vi thì có tên tuổi oai phong. Cùng Liêm Trinh thì làm văn nhân không bền, làm tư lại thôi thì lại rất đẹp.
* Văn Xương nhập miếu có Thái Dương với Khoa Quyền Lộc, thì văn võ toàn tài. Cùng với Thiên Phủ Văn Khúc thì phú quý song toàn.
* Văn Khúc miếu vượng thì theo văn võ đều hợp, hãm cung cùng Thiên Cơ Thái Âm thì làm tư lại thôi. Hội Tử Phủ Tả Hữu thì kề cận quân vương mà chấp chính. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì bình thường.
* Tả Phụ nhập miếu văn võ toàn tài, vào võ chức cực vượng, không lợi văn nhân, hội cát tinh thì là người thanh cao, thấy Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì thanh danh lên xuống.
* Hữu Bật hợp vào võ chức, không hợp văn nhân, cùng Tử Phủ Xương Khúc thì tài quan song mỹ, hãm cung thì có thành có bại có bị truất giáng, thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì cũng bị truất giáng.
* Lộc Tồn hội cát thì văn võ đều tốt lánh, tài quan song mỹ, con cháu cũng có tước lộc phẩm trật, khắp các cung đều đẹp.
* Kình Dương nhập miếu tối lợi võ chức, cùng cát tinh thì quyền quý, hãm địa thì bình thường, chỉ có hư danh.
* Đà La độc thủ thì bình thường, dẫu có thêm cát tinh cũng chỉ hư danh.
* Hỏa Tinh thì đến cuối đời công danh được toại ý, thiếu niên thì thành bại thất thường. Hội Tử Vi Tham Lang thì cát, hãm địa thì chẳng đẹp.
* Linh Tinh độc thủ vượng cung thì cát lợi, hãm địa chẳng đẹp, thêm các cát tinh thì quyền quý.
* Đẩu Quân gặp cát thì năm tháng ấy tài quan được vượng, gặp hung sát thì e tài quan không hiển đạt, lại còn có lao khổ bôn ba.
* Định Công hầu khanh tướng:
Phụ Bật tinh triền Đế tọa trung,
Cao quan tam phẩm nhập triều trung,
Không vong ác diệu tam phương kiến,
Chỉ thị hư danh thụ ấm phong.
(Phụ Bật cùng nơi gặp Đế tinh
Quan cao tam phẩm nhập triều đình
Không Vong ác diệu tam phương thấy
Lại hóa hư danh thụ ấm bình).
* Định lưỡng quan phủ
Xương Khúc nhị diệu tối nan phùng,
Kiến tiết phong hầu tiếu ngữ trung,
Nhược nhiên hung sát lai lâm phá,
Tu nhiên hảo xử dã thành hung.
(Xương Khúc cát tinh khó gặp thay
Phong hầu tiết việt ắt phen này
Nếu mà hung sát cùng vây chiếu
Đúng là đất tốt mà chẳng may).
* Định văn quan
Văn quan Xương Khúc quải triều y,
Quan lộc chi trung hỉ hữu chi,
Tử Tướng cánh kiêm Quyền Lộc chí,
Định cư phong hiến túc triều nghi.
(Văn quan Xương Khúc ở triều trung
Kẻ trong quan chức hỉ tương phùng
Tử Tướng hội thêm Quyền Lộc nữa
Định là phong hiến thật đáng mừng).
* Định võ quan
Tướng quân Vũ diệu tối vi lương,
Đế tọa quyền hành tại lộc hương,
Phụ Bật nhị tinh kiêm củng chiếu,
Kim chương ngọc đới tá hoàng vương.
(Tướng Quân Vũ Khúc rất tốt lành
Tử Vi lộc xứ có quyền hành
Phụ Bật nhị tinh đồng thời chiếu
Kim bài đai ngọc giúp quân vương).
* Định tào lại (quan nha có phận chức chuyên trách, hoặc quan lại cấp thấp)
Thái Dương hóa quan tại dương cung,
Cánh hữu quang huy sử bất hung,
Nhược phùng Tử Phủ kiêm Tả Hữu,
Nhất sinh tào lại sính anh hùng.
(Thái Dương hóa quan tại dương cung
Thêm có quang huy chẳng gặp hung
Nếu thêm Tử Phủ cùng Tả Hữu
Một đời tào lại tỏ anh hùng).
* Tử Vi miếu vượng gặp Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt thì tước vị được phong hầu phong bá. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì bình thường. Cùng với Thiên Phủ thì quyền quý danh lợi được song toàn. Thêm Thiên Tướng thì trong ngoài đều có quyền quý rõ ràng. Cùng với Phá Quân thì bận rộn náo nhiệt mà an thân.
* Thiên Cơ nhập miếu thì có quyền quý, hội Văn Khúc là người hết mực hiền lành, không thấy Kình Đà Linh Hỏa thì cát. Cùng Thiên Lương thì văn võ toàn tài. Cùng Thái Âm miếu vượng thì danh chấn động biên thùy. Hãm cung thì bị mất chức, thoái quan, làm viên tiểu lại.
* Thái Dương nhập miếu thì văn võ đều tốt đẹp, không thấy Kình Đà Linh Hỏa thì tốt. Cùng với Thái Âm thì quý hiển. Cùng Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt thêm Khoa Quyền Lộc thì định là quý đến nhất phẩm.
* Vũ Khúc nhập miếu cùng Xương Khúc Tả Hữu thì theo võ sẽ có chức cao chót vót, người thường cũng được phát phúc. Hội Khoa Quyền Lộc là làm quan chủ quản tài lộc. Cùng với Tham Lang thì dễ làm quan tham ô. Cùng với Phá Quân thì xuất thân ở trong quân ngũ. Ở cung an Thân (Thân cư Quan) mà có Thất Sát cùng thì thế nào cũng có lúc bộc phát lập công danh. Hãm cung cùng với Đà Linh Kiếp Kị thì chẳng có duyên phận về công danh.
* Thiên Đồng nhập miếu thì văn võ đều hợp, không có Kình Đà Linh Hỏa thì cát. Cùng Cự Môn thì trước chức vị bé sau thì lại lớn. Cùng với Thiên Lương Xương Khúc Khoa Quyền Lộc thì tốt đẹp vô cùng. Cùng với Thái Âm cũng được quyền quý. Hãm cung luận là làm tư lại, thường phải thuyên chuyển.
* Liêm Trinh nhập miếu vào võ chức được quyền quý nhưng khôgn bền. Cùng với Tử Vi hội ở tam phương thì làm văn chức. Cùng với Thất Sát thì xuất thân nơi quân ngũ. Cùng với Thiên Tướng Thiên Phủ thì được áo gấm vinh hoa phú quý.
* Thiên Phủ nhập miếu thì theo văn võ đều được cát lợi, không thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Hao thì là toàn mỹ. Cùng với Tử Vi thì theo văn võ đều có thanh danh. Cùng Liêm Trinh Vũ Khúc thì quyền quý. Thấy Không Kiếp thì bình thường.
* Thái Âm nhập miếu được nhiều phú quý, hãm địa thì khí chất cao ngạo, hoạnh phá, khó mà hiển đạt. Hội Thái Dương Xương Khúc Tả Hữu thì quan chức cỡ tam phẩm. Cùng với Thiên Đồng thì vào văn võ đều hợp. Cùng với Thiên Cơ thì bon chen tiến thân làm viên tư lại mà lập chỗ đứng.
* Tham Lang gặp Hỏa Linh vào võ chức thì chấp chưởng đại quyền. Cùng Tử Vi Văn Khúc thì vào võ chức cũng có binh quyền không hề nhỏ. Hãm cung là bọn tham quan ô lại. Thêm Kình Đà Không Kiếp thì tầm thường.
* Cự Môn nhập miếu có võ chức quyền quý, vào văn nhân thì không được bền. Cùng với Thái Dương thì có tiến có thoái, nhập miếu thì vững bền mãi. Cùng Thiên Cơ tại Mão cung thì tốt đẹp phú quý, tại Dậu cung thì thuy đẹp nhưng có thủy mà vô chung. Hãm cung thì gặp hối hận, không lành. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp càng thêm không đẹp, bị biếm giáng chức.
* Thiên Tướng nhập miếu thì văn võ đều hợp, được hưởng lộc ăn ngàn chung. Hãm địa thì có thành có bại. Cùng Tử Vi thì quyền quý, cùng Tả Hữu Xương Khúc thì quyền lực càng thêm quý tột bực. Cũng Vũ Khúc thì nhậm chức ở biên thùy. Cùng với Liêm Trinh thì quyền quý cao chót vót. Thêm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì sẽ bị biếm chức giáng cấp.
* Thiên Lương miếu Ngọ hội Tả Hữu Khôi Việt, văn võ đều tài. Cùng với Thiên Đồng thì quyền quý cũng không hề nhỏ. Cùng với Thiên Cơ thì hiển quý cao chót vót. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì bình thường.
* Thất Sát miếu vượng thì vào võ sẽ có chức cao chót vót, quyền quý không nhỏ, không hợp với văn nhân. Cùng với Vũ Khúc là được quyền quý. Cùng với Liêm Trinh thì công danh hiển đạt.
* Phá Quân miếu vượng vào võ thì được thăng lên chức cao. Cùng Vũ Khúc thêm Quyền Lộc Văn Xương Văn Khúc thì hiển đạt, còn thêm Kình Đà thì tầm thường. Cùng Tử Vi thì có tên tuổi oai phong. Cùng Liêm Trinh thì làm văn nhân không bền, làm tư lại thôi thì lại rất đẹp.
* Văn Xương nhập miếu có Thái Dương với Khoa Quyền Lộc, thì văn võ toàn tài. Cùng với Thiên Phủ Văn Khúc thì phú quý song toàn.
* Văn Khúc miếu vượng thì theo văn võ đều hợp, hãm cung cùng Thiên Cơ Thái Âm thì làm tư lại thôi. Hội Tử Phủ Tả Hữu thì kề cận quân vương mà chấp chính. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì bình thường.
* Tả Phụ nhập miếu văn võ toàn tài, vào võ chức cực vượng, không lợi văn nhân, hội cát tinh thì là người thanh cao, thấy Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì thanh danh lên xuống.
* Hữu Bật hợp vào võ chức, không hợp văn nhân, cùng Tử Phủ Xương Khúc thì tài quan song mỹ, hãm cung thì có thành có bại có bị truất giáng, thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì cũng bị truất giáng.
* Lộc Tồn hội cát thì văn võ đều tốt lánh, tài quan song mỹ, con cháu cũng có tước lộc phẩm trật, khắp các cung đều đẹp.
* Kình Dương nhập miếu tối lợi võ chức, cùng cát tinh thì quyền quý, hãm địa thì bình thường, chỉ có hư danh.
* Đà La độc thủ thì bình thường, dẫu có thêm cát tinh cũng chỉ hư danh.
* Hỏa Tinh thì đến cuối đời công danh được toại ý, thiếu niên thì thành bại thất thường. Hội Tử Vi Tham Lang thì cát, hãm địa thì chẳng đẹp.
* Linh Tinh độc thủ vượng cung thì cát lợi, hãm địa chẳng đẹp, thêm các cát tinh thì quyền quý.
* Đẩu Quân gặp cát thì năm tháng ấy tài quan được vượng, gặp hung sát thì e tài quan không hiển đạt, lại còn có lao khổ bôn ba.
* Định Công hầu khanh tướng:
Phụ Bật tinh triền Đế tọa trung,
Cao quan tam phẩm nhập triều trung,
Không vong ác diệu tam phương kiến,
Chỉ thị hư danh thụ ấm phong.
(Phụ Bật cùng nơi gặp Đế tinh
Quan cao tam phẩm nhập triều đình
Không Vong ác diệu tam phương thấy
Lại hóa hư danh thụ ấm bình).
* Định lưỡng quan phủ
Xương Khúc nhị diệu tối nan phùng,
Kiến tiết phong hầu tiếu ngữ trung,
Nhược nhiên hung sát lai lâm phá,
Tu nhiên hảo xử dã thành hung.
(Xương Khúc cát tinh khó gặp thay
Phong hầu tiết việt ắt phen này
Nếu mà hung sát cùng vây chiếu
Đúng là đất tốt mà chẳng may).
* Định văn quan
Văn quan Xương Khúc quải triều y,
Quan lộc chi trung hỉ hữu chi,
Tử Tướng cánh kiêm Quyền Lộc chí,
Định cư phong hiến túc triều nghi.
(Văn quan Xương Khúc ở triều trung
Kẻ trong quan chức hỉ tương phùng
Tử Tướng hội thêm Quyền Lộc nữa
Định là phong hiến thật đáng mừng).
* Định võ quan
Tướng quân Vũ diệu tối vi lương,
Đế tọa quyền hành tại lộc hương,
Phụ Bật nhị tinh kiêm củng chiếu,
Kim chương ngọc đới tá hoàng vương.
(Tướng Quân Vũ Khúc rất tốt lành
Tử Vi lộc xứ có quyền hành
Phụ Bật nhị tinh đồng thời chiếu
Kim bài đai ngọc giúp quân vương).
* Định tào lại (quan nha có phận chức chuyên trách, hoặc quan lại cấp thấp)
Thái Dương hóa quan tại dương cung,
Cánh hữu quang huy sử bất hung,
Nhược phùng Tử Phủ kiêm Tả Hữu,
Nhất sinh tào lại sính anh hùng.
(Thái Dương hóa quan tại dương cung
Thêm có quang huy chẳng gặp hung
Nếu thêm Tử Phủ cùng Tả Hữu
Một đời tào lại tỏ anh hùng).
Thanked by 17 Members:
|
|
#108
Gửi vào 12/09/2013 - 07:55
44.10 Điền Trạch cung
* Tử Vi chủ điền trạch được thịnh vượng tươi tốt tự tay gây dựng được thêm nhiều đất đai vườn tược, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì gây dựng được rồi lại mất. Cùng với Phá Quân là làm suy thoái tổ nghiệp hoặc không thừa hưởng tổ nghiệp. Cùng với Thiên Tướng thì lập thành gia nghiệp, đắc Tả Hữu Xương Khúc thì gia nghiệp càng lớn.
* Thiên Cơ chủ không thừa hưởng tổ nghiệp hoặc làm suy tổ nghiệp rồi gây dựng nên gia nghiệp mới. Cùng với Cự Môn tại Mão thì có điền trang, tại Dậu thì không giữ được tổ nghiệp, trước nhiều sau ít. Cùng với Thiên Lương thì gây dựng được cơ nghiệp, về già giàu có. Cùng với Thái Âm thì cũng tự gây dựng được cơ nghiệp thịnh vượng.
* Thái Dương nhập miếu được hưởng tổ nghiệp, nếu sơ vượng thì trung bình thôi. Cùng với Thái Âm thêm cát tinh thì nhiều nhà đất. Cùng với Cự Môn tại Dần thì đát cát thịnh vượng, tại Thân cung thì không hưởng tổ nghiệp hoặc làm suy thoái, nhưng không phải là không có điền sản. Hãm địa gặp Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì hoàn toàn chẳng có gì.
* Vũ Khúc đơn thủ cư vượng địa thì được hưởng gia sản đất đai rất to lớn của tổ phụ để lại, hãm địa thì ko hưởng hoặc làm suy thoái, sau này lại gây dựng lại thành công. Cùng với Phá Quân Đại Hao thì phá đãng gia sản, có của cũng chẳng bền. Cùng với Thiên Tướng thì trước sẽ phá sau sẽ có điền sản. Cùng Thất Sát thì lòng chẳng ham muốn điền sản. Cùng Thiên Phủ thì dựng thành gia nghiệp. Cùng với Tham Lang thì về già mới có điền sản thấy Linh Hỏa thì cực kỳ tốt đẹp, điền sản được thịnh vượng vô cùng. Cùng với Không Kiếp thì có lên có xuống.
* Thiên Đồng chủ trước ít sau nhiều, tự thân gây dựng được rất vượng. Cùng với Cự Môn thì ít điển sản. Cùng với Thái Âm nhập miếu thì đại phú. Cùng với Thiên Lương thì trước thoái sau sẽ tăng tiến. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp Kị thì hoàn toàn không có điền sản.
* Liêm Trinh chủ phá tổ nghiệp. Cùng Tham lang thì có được hưởng tổ nghiệp nhưung không bền. Cùng Thất Sát thì tự gây dựng được gia nghiệp. Cùng Thiên Phủ thì gây dựng được gia nghiệp lớn. Cùng Thiên Tướng thì trước không có, sau này sẽ có.
* Thiên Phủ chủ ruộng vườn nhà cửa thịnh vượng, giữ tổ nghiệp mà phát triển thêm vượng. Cùng với Tử Vi thì đại phú. Cùng với Liêm Trinh Vũ Khúc thì giữ được tổ nghiệp tươi tốt hưng thịnh. Thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì ít điền sản, có thành có bại.
* Thái Âm nhập miếu thì nhiều điền sản, hãm địa lại gặp Kị với Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì hoàn toàn vô sản. Cùng với Thiên Cơ là tự gây dựng được gia nghiệp. Cùng với Thiên Đồng thì tay trắng dựng nghiệp. Cùng Tả Hữu Quyền Lộc và Lộc Tồn thì chủ lắm ruộng vườn đất đai nhà cửa.
* Tham Lang hãm cung không được hưởng hoặc làm suy thoái tổ nghiệp, cả đời ít điền sản, nếu miếu vượng thì được hưởng tổ nghiệp tuy nhiên bị suy rồi tới trung vận sẽ tự gây dựng lại được. Cùng với Liêm Trinh thì chẳng có phần. Cùng với Tử Vi thì có tổ nghiệp. Cùng với Vũ Khúc thì về già sẽ gây dựng được, thấy Hỏa Linh thì giữ được tổ nghiệp lại tự khai sáng thêm, nhưng e rằng sẽ có phen bị cháy nhà.
* Cự Môn miếu vượng thì hoạnh phát gây dựng được gia nghiệp, hãm địa thì không có phận, còn vì điền sản mà chiêu chuốc lấy thị phi. Cùng với Thái Dương thì trước không có sau này sẽ có. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì hoàn toàn chẳng có điền sản.
* Thiên Tướng miếu vượng là có phần hưởng điền sản tổ nghiệp. Cùng Tử Vi là tự gây dựng được gia nghiệp. Cùng Vũ Khúc thì chẳng có phần. Cùng với Liêm Trinh thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp là phá tổ nghiệp điêu linh.
* Thiên Lương nhập miếu vượng có tổ nghiệp để lại. Cùng với Thiên Đồng thì trước khó khăn sau này sẽ dễ dàng dựng gia nghiệp. Cùng Thiên Cơ mà không thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì cuối đời cũng có điền trạch.
* Phá Quân tại Tý Ngọ thì giữ được tổ nghiệp hưng thịnh tươi tốt, nhưng mà có lên có xuống, thêm Kình Đà Linh Hỏa thì làm suy thoái hoặc không được hưởng tổ nghiệp, điền trạch cũng ít. Cùng với Tử Vi thì lập thành gia nghiệp. Cùng với Liêm Trinh thì thì trước phá tán sau này gây dựng lại được, có thêm Hao Kị thì hoàn toàn không có điền sản.
* Văn Xương hội các cát tinh thì gây dựng được nhà cửa ruộng vườn to lớn, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì làm suy bại tổ nghiệp.
* Văn Khúc vượng địa thì có phần và giữ được tổ nghiệp, thêm cát tinh thì tự gây dựng thêm được, cùng với Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì có lên có xuống.
* Tả Phụ Hữu bật được hưởng tổ nghiệp, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì làm suy thoái hoặc không được hưởng tổ nghiệp, đất đai ít, nếu hội với các cát tinh thì lại có nhiều điền sản.
* Lộc Tồn chủ điền viên được vượng lại tự gây dựng nên, hội cát tinh thì thừa hưởng tổ nghiệp mà phát triển hưng thịnh tươi tốt, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì ít điền trạch.
* Kình Dương nhập miếu thì trước phá tán sau gây dựng thành công, thêm Không Kiếp thì làm suy thoái hoặc không được thừa hưởng tổ nghiệp.
* Đà La chủ làm suy thoái hoặc không được thừa hưởng tổ nghiệp, nếu chăm chỉ qua ngày lại có thêm cát tinh thì trước không có nhưng sau này sẽ có, thêm Không Kiếp thì hoàn toàn không có.
* Hỏa Tinh độc thủ dễ suy thoái hoặc không được hưởng tổ nghiệp, hội cát tinh thì trước không có nhưng sau sẽ có, thêm Không Kiếp thì hoàn toàn không.
* Linh Tinh chủ làm suy thoái tổ nghiệp hoặc không được thừa hưởng, nhập miếu mà thêm cát tinh thì tự tay gây dựng lại được, thấy không Kiếp thì hoàn toàn không có.
* Đẩu Quân đi qua cung Điền mà gặp cát tinh thì năm đó điền sản tăng tiến gấp bội, nếu gặp hung sát Kị Hao thì suy thoái thất bại.
* Tử Vi chủ điền trạch được thịnh vượng tươi tốt tự tay gây dựng được thêm nhiều đất đai vườn tược, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì gây dựng được rồi lại mất. Cùng với Phá Quân là làm suy thoái tổ nghiệp hoặc không thừa hưởng tổ nghiệp. Cùng với Thiên Tướng thì lập thành gia nghiệp, đắc Tả Hữu Xương Khúc thì gia nghiệp càng lớn.
* Thiên Cơ chủ không thừa hưởng tổ nghiệp hoặc làm suy tổ nghiệp rồi gây dựng nên gia nghiệp mới. Cùng với Cự Môn tại Mão thì có điền trang, tại Dậu thì không giữ được tổ nghiệp, trước nhiều sau ít. Cùng với Thiên Lương thì gây dựng được cơ nghiệp, về già giàu có. Cùng với Thái Âm thì cũng tự gây dựng được cơ nghiệp thịnh vượng.
* Thái Dương nhập miếu được hưởng tổ nghiệp, nếu sơ vượng thì trung bình thôi. Cùng với Thái Âm thêm cát tinh thì nhiều nhà đất. Cùng với Cự Môn tại Dần thì đát cát thịnh vượng, tại Thân cung thì không hưởng tổ nghiệp hoặc làm suy thoái, nhưng không phải là không có điền sản. Hãm địa gặp Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì hoàn toàn chẳng có gì.
* Vũ Khúc đơn thủ cư vượng địa thì được hưởng gia sản đất đai rất to lớn của tổ phụ để lại, hãm địa thì ko hưởng hoặc làm suy thoái, sau này lại gây dựng lại thành công. Cùng với Phá Quân Đại Hao thì phá đãng gia sản, có của cũng chẳng bền. Cùng với Thiên Tướng thì trước sẽ phá sau sẽ có điền sản. Cùng Thất Sát thì lòng chẳng ham muốn điền sản. Cùng Thiên Phủ thì dựng thành gia nghiệp. Cùng với Tham Lang thì về già mới có điền sản thấy Linh Hỏa thì cực kỳ tốt đẹp, điền sản được thịnh vượng vô cùng. Cùng với Không Kiếp thì có lên có xuống.
* Thiên Đồng chủ trước ít sau nhiều, tự thân gây dựng được rất vượng. Cùng với Cự Môn thì ít điển sản. Cùng với Thái Âm nhập miếu thì đại phú. Cùng với Thiên Lương thì trước thoái sau sẽ tăng tiến. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp Kị thì hoàn toàn không có điền sản.
* Liêm Trinh chủ phá tổ nghiệp. Cùng Tham lang thì có được hưởng tổ nghiệp nhưung không bền. Cùng Thất Sát thì tự gây dựng được gia nghiệp. Cùng Thiên Phủ thì gây dựng được gia nghiệp lớn. Cùng Thiên Tướng thì trước không có, sau này sẽ có.
* Thiên Phủ chủ ruộng vườn nhà cửa thịnh vượng, giữ tổ nghiệp mà phát triển thêm vượng. Cùng với Tử Vi thì đại phú. Cùng với Liêm Trinh Vũ Khúc thì giữ được tổ nghiệp tươi tốt hưng thịnh. Thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì ít điền sản, có thành có bại.
* Thái Âm nhập miếu thì nhiều điền sản, hãm địa lại gặp Kị với Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì hoàn toàn vô sản. Cùng với Thiên Cơ là tự gây dựng được gia nghiệp. Cùng với Thiên Đồng thì tay trắng dựng nghiệp. Cùng Tả Hữu Quyền Lộc và Lộc Tồn thì chủ lắm ruộng vườn đất đai nhà cửa.
* Tham Lang hãm cung không được hưởng hoặc làm suy thoái tổ nghiệp, cả đời ít điền sản, nếu miếu vượng thì được hưởng tổ nghiệp tuy nhiên bị suy rồi tới trung vận sẽ tự gây dựng lại được. Cùng với Liêm Trinh thì chẳng có phần. Cùng với Tử Vi thì có tổ nghiệp. Cùng với Vũ Khúc thì về già sẽ gây dựng được, thấy Hỏa Linh thì giữ được tổ nghiệp lại tự khai sáng thêm, nhưng e rằng sẽ có phen bị cháy nhà.
* Cự Môn miếu vượng thì hoạnh phát gây dựng được gia nghiệp, hãm địa thì không có phận, còn vì điền sản mà chiêu chuốc lấy thị phi. Cùng với Thái Dương thì trước không có sau này sẽ có. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì hoàn toàn chẳng có điền sản.
* Thiên Tướng miếu vượng là có phần hưởng điền sản tổ nghiệp. Cùng Tử Vi là tự gây dựng được gia nghiệp. Cùng Vũ Khúc thì chẳng có phần. Cùng với Liêm Trinh thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp là phá tổ nghiệp điêu linh.
* Thiên Lương nhập miếu vượng có tổ nghiệp để lại. Cùng với Thiên Đồng thì trước khó khăn sau này sẽ dễ dàng dựng gia nghiệp. Cùng Thiên Cơ mà không thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì cuối đời cũng có điền trạch.
* Phá Quân tại Tý Ngọ thì giữ được tổ nghiệp hưng thịnh tươi tốt, nhưng mà có lên có xuống, thêm Kình Đà Linh Hỏa thì làm suy thoái hoặc không được hưởng tổ nghiệp, điền trạch cũng ít. Cùng với Tử Vi thì lập thành gia nghiệp. Cùng với Liêm Trinh thì thì trước phá tán sau này gây dựng lại được, có thêm Hao Kị thì hoàn toàn không có điền sản.
* Văn Xương hội các cát tinh thì gây dựng được nhà cửa ruộng vườn to lớn, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì làm suy bại tổ nghiệp.
* Văn Khúc vượng địa thì có phần và giữ được tổ nghiệp, thêm cát tinh thì tự gây dựng thêm được, cùng với Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì có lên có xuống.
* Tả Phụ Hữu bật được hưởng tổ nghiệp, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì làm suy thoái hoặc không được hưởng tổ nghiệp, đất đai ít, nếu hội với các cát tinh thì lại có nhiều điền sản.
* Lộc Tồn chủ điền viên được vượng lại tự gây dựng nên, hội cát tinh thì thừa hưởng tổ nghiệp mà phát triển hưng thịnh tươi tốt, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì ít điền trạch.
* Kình Dương nhập miếu thì trước phá tán sau gây dựng thành công, thêm Không Kiếp thì làm suy thoái hoặc không được thừa hưởng tổ nghiệp.
* Đà La chủ làm suy thoái hoặc không được thừa hưởng tổ nghiệp, nếu chăm chỉ qua ngày lại có thêm cát tinh thì trước không có nhưng sau này sẽ có, thêm Không Kiếp thì hoàn toàn không có.
* Hỏa Tinh độc thủ dễ suy thoái hoặc không được hưởng tổ nghiệp, hội cát tinh thì trước không có nhưng sau sẽ có, thêm Không Kiếp thì hoàn toàn không.
* Linh Tinh chủ làm suy thoái tổ nghiệp hoặc không được thừa hưởng, nhập miếu mà thêm cát tinh thì tự tay gây dựng lại được, thấy không Kiếp thì hoàn toàn không có.
* Đẩu Quân đi qua cung Điền mà gặp cát tinh thì năm đó điền sản tăng tiến gấp bội, nếu gặp hung sát Kị Hao thì suy thoái thất bại.
Thanked by 12 Members:
|
|
#109
Gửi vào 12/09/2013 - 10:37
44.11 Phúc Đức cung
* Tử Vi được an vui hưởng phúc dày. Cùng với Thiên Phủ thì cả đời được cát tường. Cùng với Phá Quân thì lao khổ tâm trí sức lực, chẳng được an bình. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì bạc phúc.
* Thiên Cơ thì trước nhọc nhằn nhưng sau này được nhàn hạ. Cùng Cự Môn thì vất vả mà ít được an nhàn. Cùng với Thiên Lương thì được hưởng phúc. Cùng với Thái Âm thì chủ vui sướng. Thêm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì chẳng được yên ổn, nhàn nhã.
* Thái Dương bận rộn đến trung vận thì phát phúc. Cùng với Thái Âm thì hưởng vui sướng, nữ nhân mà hội cát tinh thì lấy được chồng là người hiền minh, được hưởng phúc. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp Kị Hao thì luận là cả đời chẳng được tươi đẹp.
* Vũ Khúc chủ nhọc tâm phí sức, nhập miếu thì lại an nhiên mà hưởng phúc. Cùng với Phá Quân thì xuôi ngược đông tây, chẳng được yên tĩnh nhàn nhã. Cùng với Thiên Tướng thì cảnh già được an khang. Cùng với Thất Sát thì kém an khang. Cùng với Tham Lang thì đến cuối đời được hưởng phúc, thấy Hỏa Linh thì an nhàn. Thêm Kình Đà thì lao tâm khổ trí nhưng mà có lợi ích.
* Thiên Đồng chủ vui sướng có nhiều phúc nhiều thọ. Cùng với Cự Môn thì lắm ưu phiền mà ít vui mừng. Cùng với Thái Âm thì được hưởng phúc. Cùng với Thiên Lương thì được thanh nhàn vui sướng.
* Liêm Trinh độc thủ bận rộn đến trung niên thì sinh phúc. Cùng với Thiên Tướng thì có phúc có thọ. Cùng với Thiên Phủ thì được an nhàn chẳng phải ưu lo. Cùng với Phá Quân thì chẳng bao giờ được ở yên một chỗ, luôn lao tâm phí sức. Lại thêm Kình Đà Linh Hỏa thì lao khổ suốt đời, đến tận cuối đời mới có thể được như ý.
* Thiên Phủ chủ bình an nhàn nhã mà hưởng phủ. Cùng với Tử Vi thì vui sướng. Cùng với Liêm Trinh thì thân an nhàn nhưng tâm lại bận rộn. Cùng với Vũ Khúc thì thuở bé đắng cay nhưng trung niên và vãn niên thì an nhàn vui vẻ mà hưởng phúc. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp Hao Kị thì vất vả cực nhọc mà qua ngày.
* Thái Âm nhập miếu chủ hưởng phúc vui sướng. Cùng với Thái Dương thì cực đẹp, tăng đạo cũng thanh khiết hưởng phúc. Cùng với Thiên Cơ thì tâm bận rộn. Cùng với Thiên Đồng thì an tĩnh vô ưu lo. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì có vui có buồn, chẳng được an tĩnh.
* Tham Lang chủ lao tâm khổ tứ chẳng được an nhàn. Cùng với Liêm Trinh thì chủ phúc bạc. Cùng với Tử Vi thì đến cuối đời mới được vui sướng.
* Cự Môn thì lao lực chẳng được an nhàn. Cùng với Thái Dương thì có vui có buồn. Cùng với Thiên Đồng thì tâm bận rộn chẳng được an. Cùng với Thiên Đồng thì được hưởng phúc. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì bình sinh vẫn thường lắm ưu phiền.
* Thiên Tướng chủ an nhàn hưởng phúc hưởng thọ. Cùng với Tử Vi thì được vui sướng... (QNB chú: mất 1 đoạn của phần Thiên Tướng cho đến mấy câu đầu của Thiên Lương)
* .... Cùng với Thiên Cơ thì bận rộn đến trung niên thì được hưởng cát tường. Cùng với Thái Dương thì được phúc thọ song toàn. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì chẳng được an nhàn thân tâm.
* Thất Sát nhập miếu chủ hưởng phúc, hãm địa thêm Kình Đà Hỏa Linh thì lao tâm phí sức. Cùng với Vũ Khúc thì kém được an nhàn. Cùng với Liêm Trinh thì vất vả. Cùng với Tử Vi thì trước vất vả nhưng sau được an nhàn, cuối đời được xứng ý toại tâm. Nữ nhân mà Thất Sát đơn thủ Phúc Đức cung thì tất sẽ làm tỳ thiếp kỹ xướng.
* Phá Quân chủ lao tâm phí sức. Cùng với Vũ Khúc thì ít được an nhàn. Cùng với Liêm Trinh thì vất vả. Cùng với Tử Vi thì được an nhàn vui vẻ. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì lao tâm khổ trí, chẳng được an tĩnh.
* Văn Xương thêm cát tinh nhập miếu chủ hưởng vui sướng, hãm địa gặp Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì thâm tâm chẳng được an tĩnh.
* Tả Phụ thêm cát tinh chủ hưởng phúc, cuối đời được an nhàn, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì vất vả.
* Hữu Bật chủ bình sinh được phúc lộc toàn mỹ, thêm cát tinh thì cả đời ít ưu phiền, thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì lao tâm khổ tứ, ít được an nhàn.
* Lộc Tồn chủ chung thân hưởng phúc hậu, an tĩnh mà đối nhân xử thế, thêm cát tinh thì có vui có phúc, thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì thân tâm chẳng được an tĩnh.
* Khôi Việt chủ có quý nhân giúp đỡ bầu bạn mà hưởng phúc, vui sướng.
* Kình Dương nhập miếu thì xuôi ngược đến trung niên có phúc lộc, hãm địa thì lao tâm khổ tứ, có cát tinh thì giảm ưu phiền, độc thủ thì thân tâm chẳng an nhàn.
* Đà La độc thủ chủ vất vả, nhập miếu có phúc lộc, hãm địa vất vả, có cát tinh thì cuối đời được phúc.
* Hỏa Tinh chủ kém được an nhàn, thường lao lực vất vả, thêm cát tinh thì đến cuối đời mới được toại chí.
* Linh Tinh chủ lao khổ, thêm cát tinh thì bình hòa, độc thủ thì vất vả.
* Tuế Quân đại tiểu hạn tới cung Phúc Đức, gặp cát tất sẽ hưởng phúc, gặp hung tất sẽ lao lực vất vả.
* Tử Vi được an vui hưởng phúc dày. Cùng với Thiên Phủ thì cả đời được cát tường. Cùng với Phá Quân thì lao khổ tâm trí sức lực, chẳng được an bình. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì bạc phúc.
* Thiên Cơ thì trước nhọc nhằn nhưng sau này được nhàn hạ. Cùng Cự Môn thì vất vả mà ít được an nhàn. Cùng với Thiên Lương thì được hưởng phúc. Cùng với Thái Âm thì chủ vui sướng. Thêm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì chẳng được yên ổn, nhàn nhã.
* Thái Dương bận rộn đến trung vận thì phát phúc. Cùng với Thái Âm thì hưởng vui sướng, nữ nhân mà hội cát tinh thì lấy được chồng là người hiền minh, được hưởng phúc. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp Kị Hao thì luận là cả đời chẳng được tươi đẹp.
* Vũ Khúc chủ nhọc tâm phí sức, nhập miếu thì lại an nhiên mà hưởng phúc. Cùng với Phá Quân thì xuôi ngược đông tây, chẳng được yên tĩnh nhàn nhã. Cùng với Thiên Tướng thì cảnh già được an khang. Cùng với Thất Sát thì kém an khang. Cùng với Tham Lang thì đến cuối đời được hưởng phúc, thấy Hỏa Linh thì an nhàn. Thêm Kình Đà thì lao tâm khổ trí nhưng mà có lợi ích.
* Thiên Đồng chủ vui sướng có nhiều phúc nhiều thọ. Cùng với Cự Môn thì lắm ưu phiền mà ít vui mừng. Cùng với Thái Âm thì được hưởng phúc. Cùng với Thiên Lương thì được thanh nhàn vui sướng.
* Liêm Trinh độc thủ bận rộn đến trung niên thì sinh phúc. Cùng với Thiên Tướng thì có phúc có thọ. Cùng với Thiên Phủ thì được an nhàn chẳng phải ưu lo. Cùng với Phá Quân thì chẳng bao giờ được ở yên một chỗ, luôn lao tâm phí sức. Lại thêm Kình Đà Linh Hỏa thì lao khổ suốt đời, đến tận cuối đời mới có thể được như ý.
* Thiên Phủ chủ bình an nhàn nhã mà hưởng phủ. Cùng với Tử Vi thì vui sướng. Cùng với Liêm Trinh thì thân an nhàn nhưng tâm lại bận rộn. Cùng với Vũ Khúc thì thuở bé đắng cay nhưng trung niên và vãn niên thì an nhàn vui vẻ mà hưởng phúc. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp Hao Kị thì vất vả cực nhọc mà qua ngày.
* Thái Âm nhập miếu chủ hưởng phúc vui sướng. Cùng với Thái Dương thì cực đẹp, tăng đạo cũng thanh khiết hưởng phúc. Cùng với Thiên Cơ thì tâm bận rộn. Cùng với Thiên Đồng thì an tĩnh vô ưu lo. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì có vui có buồn, chẳng được an tĩnh.
* Tham Lang chủ lao tâm khổ tứ chẳng được an nhàn. Cùng với Liêm Trinh thì chủ phúc bạc. Cùng với Tử Vi thì đến cuối đời mới được vui sướng.
* Cự Môn thì lao lực chẳng được an nhàn. Cùng với Thái Dương thì có vui có buồn. Cùng với Thiên Đồng thì tâm bận rộn chẳng được an. Cùng với Thiên Đồng thì được hưởng phúc. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì bình sinh vẫn thường lắm ưu phiền.
* Thiên Tướng chủ an nhàn hưởng phúc hưởng thọ. Cùng với Tử Vi thì được vui sướng... (QNB chú: mất 1 đoạn của phần Thiên Tướng cho đến mấy câu đầu của Thiên Lương)
* .... Cùng với Thiên Cơ thì bận rộn đến trung niên thì được hưởng cát tường. Cùng với Thái Dương thì được phúc thọ song toàn. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì chẳng được an nhàn thân tâm.
* Thất Sát nhập miếu chủ hưởng phúc, hãm địa thêm Kình Đà Hỏa Linh thì lao tâm phí sức. Cùng với Vũ Khúc thì kém được an nhàn. Cùng với Liêm Trinh thì vất vả. Cùng với Tử Vi thì trước vất vả nhưng sau được an nhàn, cuối đời được xứng ý toại tâm. Nữ nhân mà Thất Sát đơn thủ Phúc Đức cung thì tất sẽ làm tỳ thiếp kỹ xướng.
* Phá Quân chủ lao tâm phí sức. Cùng với Vũ Khúc thì ít được an nhàn. Cùng với Liêm Trinh thì vất vả. Cùng với Tử Vi thì được an nhàn vui vẻ. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì lao tâm khổ trí, chẳng được an tĩnh.
* Văn Xương thêm cát tinh nhập miếu chủ hưởng vui sướng, hãm địa gặp Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì thâm tâm chẳng được an tĩnh.
* Tả Phụ thêm cát tinh chủ hưởng phúc, cuối đời được an nhàn, thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì vất vả.
* Hữu Bật chủ bình sinh được phúc lộc toàn mỹ, thêm cát tinh thì cả đời ít ưu phiền, thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì lao tâm khổ tứ, ít được an nhàn.
* Lộc Tồn chủ chung thân hưởng phúc hậu, an tĩnh mà đối nhân xử thế, thêm cát tinh thì có vui có phúc, thấy Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì thân tâm chẳng được an tĩnh.
* Khôi Việt chủ có quý nhân giúp đỡ bầu bạn mà hưởng phúc, vui sướng.
* Kình Dương nhập miếu thì xuôi ngược đến trung niên có phúc lộc, hãm địa thì lao tâm khổ tứ, có cát tinh thì giảm ưu phiền, độc thủ thì thân tâm chẳng an nhàn.
* Đà La độc thủ chủ vất vả, nhập miếu có phúc lộc, hãm địa vất vả, có cát tinh thì cuối đời được phúc.
* Hỏa Tinh chủ kém được an nhàn, thường lao lực vất vả, thêm cát tinh thì đến cuối đời mới được toại chí.
* Linh Tinh chủ lao khổ, thêm cát tinh thì bình hòa, độc thủ thì vất vả.
* Tuế Quân đại tiểu hạn tới cung Phúc Đức, gặp cát tất sẽ hưởng phúc, gặp hung tất sẽ lao lực vất vả.
Thanked by 12 Members:
|
|
#110
Gửi vào 12/09/2013 - 10:39
44.12 Phụ Mẫu cung
Phàm khán Phụ Mẫu thì lấy Thái Dương làm cha, lấy Thái Âm làm mẹ. Thái Dương tại hãm cung thì chủ khắc cha trước, Thái Âm tại hãm cung thì chủ khắc mẹ trước. Như cả hai đều tại hãm địa thì xem đến giờ sinh, nếu sinh vào ban ngày thì chủ cha còn, nếu sinh vào ban đêm thì chủ mẹ còn. Ngoài ra học giả phân định cẩn thận. Trước xem sao nào chủ hình khắc, nếu mà thêm ác sát tinh thì dĩ nhiên hình khắc mà đoán, cứ theo lý mà đoán cho tường tận, để mà tự ngộ ra vậy.
* Tử Vi chủ không khắc cha mẹ. Cùng Thiên Phủ thì cũng không hình. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì khắc. Cùng với Thiên Tướng cũng không hình. Cùng với Tham Lang mà không có sát tinh thì không hình. Cùng với Phá Quân thì sớm khắc cha mẹ.
* Thiên Cơ miếu vượng thì không hình, hãm địa lại gặp Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì dễ mang hai họ, nhận người khác làm cha mẹ, hoặc là đi ở rể. Cùng với Thái Âm thì miễn hình. Cùng với Thiên Lương cũng không hình. Nhưng đều phải là không thấy sát tinh, nếu thêm sát tinh thì không miễn được hình hại, tổn thương. Cùng với Cự Môn thì sớm hình khắc cha mẹ.
* Thái Dương nhập miếu không khắc, hãm địa thì khắc cha, thêm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì sớm khắc cha mẹ. Cùng với Thái Âm thì xem có Kình Đà không, nếu có thì hình cả song thân. Cùng với Cự Môn lại có thêm tứ sát Không Kiếp thì sớm khắc. Cùng với Thiên Lương thì không hình.
* Vũ Khúc chủ sớm khắc, nếu không hưởng hoặc làm suy tổ nghiệp thì không hình. Cùng với Tham lang thì hình khắc. Cùng với Thất Sát thì hình. Cùng với Thiên Tướng có Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì hình hại tổn thương.
* Thiên Đồng độc thủ miếu vượng thì không hình, thêm tứ sát thì bái người khác làm phụ mẫu. Cùng với Cự Môn thì kém hòa thuận. Cùng với Thái Âm miếu vượng thì phụ mẫu song toàn. Cùng với Thiên Lương thì không hình hoặc thoái tổ nghiệp. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì Phụ Mẫu chẳng được vẹn toàn.
* Liêm Trinh chủ nạn cho phụ mẫu, bái người khác làm cha mẹ. Cùng với Tham lang thì sớm hình. Cùng với Thất Sát thì cô khắc. Cùng với Thiên Phủ thì miễn hình. Cùng với Phá Quân thì sớm hình. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì phụ mẫu không được vẹn toàn.
* Thiên Phủ chủ phụ mẫu song toàn. cùng với Tử Vi cũng không hình. Cùng với Liêm Trinh Vũ Khúc tại miếu vượng thì không hình. thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì chủ tổn hại.
* Thái Âm nhập miếu thì không khắc, thêm Kình Đà Linh Hỏa thì khắc mẹ, không thì sẽ bỏ nhà xa tổ. Cùng với Thái Dương mà không thấy tứ sát thì phụ mẫu song toàn. Cùng với Thiên Cơ thì không hình. Cùng với Thiên Đồng thì cực đẹp.
* Tham lang hãm địa sớm phải lìa nhà xa tổ, hoặc làm con người khác hoặc đi ở rể. Cùng với Liêm Trinh thì sớm hình mà cô đơn. Cùng với Tử Vi không có sát tinh thì phụ mẫu song toàn.
* Cự Môn hãm địa khắc hại mẹ cha, lìa nhà xa tổ, làm con người khác. Cùng với Thái Dương thì kém hòa thuận. Cùng với Thiên Cơ thì dễ làm con nhà khác. Cùng với Thiên Đồng thì có thể làm suy tổ nghiệp sẽ không hình. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì phụ mẫu chẳng được chu toàn.
* Thiên Tướng miếu vượng thì không hình. Cùng với Tử Vi thì không hình khắc. Cùng với Liêm Trinh cũng không hình. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì sớm hình khắc.
* Thiên Lương hãm địa thêm Kình Đà Hỏa Linh thì cô khắc, lìa nhà xa tổ, ở rể, thay họ đổi tên ở nhờ nhà khác, có bảo dưỡng thì miễn hình. Cùng với Thiên Đồng thêm tứ sát thì hình, vô sát thì không hình. Cùng với Thiên Cơ thì không hình. Cùng với Thái Dương thì muộn sẽ khắc. Thêm Tứ Sát Kiếp Không thì sớm khắc.
* Thất Sát chủ sớm lìa nhà xa tổ, xa cốt nhục lục thân mà cô độc. Cùng với Vũ Khúc cũng hình. Cùng với Liêm Trinh thì sớm hình. Cùng với Tử Vi có cát tinh thì không hình. thêm Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì sớm khắc.
* Phá Quân chủ khắc, sớm lìa nhà xa tổ, đổi danh ký dưỡng thì miễn hình. Cùng với Vũ Khúc thì sớm khắc. Cùng với Liêm Trinh cũng sớm khắc. Cùng với Tử Vi thì không hình.
* Văn Xương thêm cát tinh nhập miếu thì không hình, thêm Kình Đà Hỏa Linh thì hình, hoặc là thoái tổ mà mang 2 họ.
* Văn Khúc độc thủ nhập miếu thì không hình, thêm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì phụ mẫu chẳng được chu toàn.
* Tả Phụ độc thủ không hình. Cùng Liêm Trinh thì sớm hình. Thêm văn Xương tương sinh thì không hình. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì hình hại tổn thương, thoái tổ, mang hai họ.
* Hữu bật độc thủ thì không hình, thêm cát tinh đắc đị thì phụ mẫu che chở để lại phúc ấm, thấy Kình Đà Linh Hỏa thì lìa nhà xa tổ, mang hai họ mà an cư.
* Lộc Tồn không khắc, thêm Không Kiếp Kình Đà Hỏa Linh thì nhỏ tuổi đã phá tài sản của cha ông lại hình hại tổn thương, tới trung niên chẳng thành được nghiệp.
* Kình Dương thì hình khắc sớm, hội Nhật Nguyệt thì trùng trùng thoái tổ, thêm cát tinh nhiều thì miễn bị hình.
* Đà La thì thuở thơ ấu đã hình hại tổn thương, hội Nhật Nguyệt thì trùng trùng thoái tổ, mang hai họ mà an cư, nếu thêm cát tinh thì ở rể nhà người ta hoặc là bái người khác làm phụ mẫu mà mang hai họ mới được.
* Hỏa Tinh độc thủ cô khắc, mang hai họ, thêm cát tinh thì bình hòa.
* Linh Tinh hình khắc cô đơn, mang hai họ mà an cư, bái người khác làm cha mẹ, hoặc đi ở rể.
* Khôi Việt chủ phụ mẫu hiển vinh sang quý, có cát tinh thì được song toàn.
* Đẩu Quân đi qua cung Phụ Mẫu gặp cát tinh thì cát lợi chẳng có tai nạn tổn thương, được bình an đôi bên nội ngoại. Gặp hung thì phụ mẫu chắc chắn bất lợi.
QNB chú: Hết quyển nhị bộ TVDSTT. Tiếp theo sẽ là quyển tam của bộ này, nội dung là các phương pháp và luận điểm trên lá số tử vi.
Phàm khán Phụ Mẫu thì lấy Thái Dương làm cha, lấy Thái Âm làm mẹ. Thái Dương tại hãm cung thì chủ khắc cha trước, Thái Âm tại hãm cung thì chủ khắc mẹ trước. Như cả hai đều tại hãm địa thì xem đến giờ sinh, nếu sinh vào ban ngày thì chủ cha còn, nếu sinh vào ban đêm thì chủ mẹ còn. Ngoài ra học giả phân định cẩn thận. Trước xem sao nào chủ hình khắc, nếu mà thêm ác sát tinh thì dĩ nhiên hình khắc mà đoán, cứ theo lý mà đoán cho tường tận, để mà tự ngộ ra vậy.
* Tử Vi chủ không khắc cha mẹ. Cùng Thiên Phủ thì cũng không hình. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì khắc. Cùng với Thiên Tướng cũng không hình. Cùng với Tham Lang mà không có sát tinh thì không hình. Cùng với Phá Quân thì sớm khắc cha mẹ.
* Thiên Cơ miếu vượng thì không hình, hãm địa lại gặp Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì dễ mang hai họ, nhận người khác làm cha mẹ, hoặc là đi ở rể. Cùng với Thái Âm thì miễn hình. Cùng với Thiên Lương cũng không hình. Nhưng đều phải là không thấy sát tinh, nếu thêm sát tinh thì không miễn được hình hại, tổn thương. Cùng với Cự Môn thì sớm hình khắc cha mẹ.
* Thái Dương nhập miếu không khắc, hãm địa thì khắc cha, thêm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì sớm khắc cha mẹ. Cùng với Thái Âm thì xem có Kình Đà không, nếu có thì hình cả song thân. Cùng với Cự Môn lại có thêm tứ sát Không Kiếp thì sớm khắc. Cùng với Thiên Lương thì không hình.
* Vũ Khúc chủ sớm khắc, nếu không hưởng hoặc làm suy tổ nghiệp thì không hình. Cùng với Tham lang thì hình khắc. Cùng với Thất Sát thì hình. Cùng với Thiên Tướng có Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì hình hại tổn thương.
* Thiên Đồng độc thủ miếu vượng thì không hình, thêm tứ sát thì bái người khác làm phụ mẫu. Cùng với Cự Môn thì kém hòa thuận. Cùng với Thái Âm miếu vượng thì phụ mẫu song toàn. Cùng với Thiên Lương thì không hình hoặc thoái tổ nghiệp. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì Phụ Mẫu chẳng được vẹn toàn.
* Liêm Trinh chủ nạn cho phụ mẫu, bái người khác làm cha mẹ. Cùng với Tham lang thì sớm hình. Cùng với Thất Sát thì cô khắc. Cùng với Thiên Phủ thì miễn hình. Cùng với Phá Quân thì sớm hình. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì phụ mẫu không được vẹn toàn.
* Thiên Phủ chủ phụ mẫu song toàn. cùng với Tử Vi cũng không hình. Cùng với Liêm Trinh Vũ Khúc tại miếu vượng thì không hình. thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì chủ tổn hại.
* Thái Âm nhập miếu thì không khắc, thêm Kình Đà Linh Hỏa thì khắc mẹ, không thì sẽ bỏ nhà xa tổ. Cùng với Thái Dương mà không thấy tứ sát thì phụ mẫu song toàn. Cùng với Thiên Cơ thì không hình. Cùng với Thiên Đồng thì cực đẹp.
* Tham lang hãm địa sớm phải lìa nhà xa tổ, hoặc làm con người khác hoặc đi ở rể. Cùng với Liêm Trinh thì sớm hình mà cô đơn. Cùng với Tử Vi không có sát tinh thì phụ mẫu song toàn.
* Cự Môn hãm địa khắc hại mẹ cha, lìa nhà xa tổ, làm con người khác. Cùng với Thái Dương thì kém hòa thuận. Cùng với Thiên Cơ thì dễ làm con nhà khác. Cùng với Thiên Đồng thì có thể làm suy tổ nghiệp sẽ không hình. Thêm Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp thì phụ mẫu chẳng được chu toàn.
* Thiên Tướng miếu vượng thì không hình. Cùng với Tử Vi thì không hình khắc. Cùng với Liêm Trinh cũng không hình. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì sớm hình khắc.
* Thiên Lương hãm địa thêm Kình Đà Hỏa Linh thì cô khắc, lìa nhà xa tổ, ở rể, thay họ đổi tên ở nhờ nhà khác, có bảo dưỡng thì miễn hình. Cùng với Thiên Đồng thêm tứ sát thì hình, vô sát thì không hình. Cùng với Thiên Cơ thì không hình. Cùng với Thái Dương thì muộn sẽ khắc. Thêm Tứ Sát Kiếp Không thì sớm khắc.
* Thất Sát chủ sớm lìa nhà xa tổ, xa cốt nhục lục thân mà cô độc. Cùng với Vũ Khúc cũng hình. Cùng với Liêm Trinh thì sớm hình. Cùng với Tử Vi có cát tinh thì không hình. thêm Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không thì sớm khắc.
* Phá Quân chủ khắc, sớm lìa nhà xa tổ, đổi danh ký dưỡng thì miễn hình. Cùng với Vũ Khúc thì sớm khắc. Cùng với Liêm Trinh cũng sớm khắc. Cùng với Tử Vi thì không hình.
* Văn Xương thêm cát tinh nhập miếu thì không hình, thêm Kình Đà Hỏa Linh thì hình, hoặc là thoái tổ mà mang 2 họ.
* Văn Khúc độc thủ nhập miếu thì không hình, thêm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì phụ mẫu chẳng được chu toàn.
* Tả Phụ độc thủ không hình. Cùng Liêm Trinh thì sớm hình. Thêm văn Xương tương sinh thì không hình. Thêm Kình Đà Linh Hỏa thì hình hại tổn thương, thoái tổ, mang hai họ.
* Hữu bật độc thủ thì không hình, thêm cát tinh đắc đị thì phụ mẫu che chở để lại phúc ấm, thấy Kình Đà Linh Hỏa thì lìa nhà xa tổ, mang hai họ mà an cư.
* Lộc Tồn không khắc, thêm Không Kiếp Kình Đà Hỏa Linh thì nhỏ tuổi đã phá tài sản của cha ông lại hình hại tổn thương, tới trung niên chẳng thành được nghiệp.
* Kình Dương thì hình khắc sớm, hội Nhật Nguyệt thì trùng trùng thoái tổ, thêm cát tinh nhiều thì miễn bị hình.
* Đà La thì thuở thơ ấu đã hình hại tổn thương, hội Nhật Nguyệt thì trùng trùng thoái tổ, mang hai họ mà an cư, nếu thêm cát tinh thì ở rể nhà người ta hoặc là bái người khác làm phụ mẫu mà mang hai họ mới được.
* Hỏa Tinh độc thủ cô khắc, mang hai họ, thêm cát tinh thì bình hòa.
* Linh Tinh hình khắc cô đơn, mang hai họ mà an cư, bái người khác làm cha mẹ, hoặc đi ở rể.
* Khôi Việt chủ phụ mẫu hiển vinh sang quý, có cát tinh thì được song toàn.
* Đẩu Quân đi qua cung Phụ Mẫu gặp cát tinh thì cát lợi chẳng có tai nạn tổn thương, được bình an đôi bên nội ngoại. Gặp hung thì phụ mẫu chắc chắn bất lợi.
QNB chú: Hết quyển nhị bộ TVDSTT. Tiếp theo sẽ là quyển tam của bộ này, nội dung là các phương pháp và luận điểm trên lá số tử vi.
Thanked by 14 Members:
|
|
#111
Gửi vào 12/09/2013 - 14:11
TỬ VI ĐẨU SỐ TOÀN THƯ - quyển tam
1. Đàm tinh yếu luận
Khán Thân an Mệnh, Lộc Mã không lạc vào Không Vong, trong đó Thiên Không và Triệt Không là tối khẩn còn Tuần Không thì là thứ thôi.
Thứ nhất khán Mệnh cung cát hung, miếu vượng, có hóa cát hay hóa Kị, sinh khắc như thế nào. Sau đó khán Thân chủ cát hung sinh khắc ra sao. Thứ ba khán tới Thiên Di, Tài Bạch, Quan Lộc cung xem các sao hình xung khắc phá thế nào. Thứ tư xem Phúc Đức có Quyền Lộc, Không Kiếp miếu hãm ra sao, bởi vì Phúc Đức cung đối cung với Tài Bạch cung vậy.
Sáu cung Thân, Mệnh, Thiên Di, Tài Bạch, Quan Lộc, Phúc Đức, danh viết "Bát tọa", đều có và được chiếu bởi cát tinh, hóa cát, thì sẽ được giàu có quyền quý và thọ cao.
Sáu cung đều hãm, tụ hung tinh, hóa Kị, thì cô quả và thọ mạng tính từng ngày.
Nếu sinh vào giờ Mão Dậu thì tốt nhất là nên ra bên ngoài.
Sau sáu cung kể trên thì xét đến Điền Trạch và Tật Ách. Rồi lại xem ba cung Phụ Mẫu, Phu Thê, Tử Tức, nếu đều có Kiếp Không Sát Kị thì đó là mệnh của giới tăng đạo, nếu không thì là kẻ cô độc, bần cùng.
Nếu Mệnh vô chính diệu, mà hai cung Tài Quan có cát tinh củng chiếu thì vẫn được phú quý toàn mỹ, có thể do vợ lẽ sinh ra.
Nếu tam phương có ác tinh xung chiếu, thì hoặc là mang hai họ sẽ có thể thêm thọ hoặc là lìa nhà xa tổ thì có thể đảm bảo thành danh.
Như Mệnh cung có chính diệu, cát tinh, miếu vượng, hóa cát, tam phương lại có cát tinh hội hợp, thì đó là thượng thượng chi mệnh.
Như Mệnh vô chính diệu, có cát tinh, tam phương có cát tinh, hóa cát thì đó là thượng thứ chi mệnh.
Như Mệnh cung mà các sao chẳng cát chẳng hung, hoặc là cát hung tương bán, mà tam phương cũng có các trung cát tinh thì đó là trung cách.
Và Mệnh cung mà các sao miếu vượng, tam phương có ác sát tinh thủ chiếu thì đó là phá cách.
Và Mệnh cung có sao hãm địa phản bối, thêm Kình Đà Hóa Kị, nhưng được thập thiên can hóa Lộc thì cũng coi là trung đẳng chi mệnh.
Nếu không có cát tinh, ngược lại có hung sát tinh, hóa Kị, không có Lộc, lại lạc hãm thì đó là hạ cách chi mệnh.
Tam phương có cát tinh, cũng có thể là trung đẳng, trước nhỏ sau to lớn, không được bền, cuối cùng thì luận là có thành có bại hoặc yểu chiết.
Nếu an Mệnh ở triền thứ (tức là cung độ) mà sao hãm địa, lại thêm hung sát tinh, hóa Kị. Tam phương hội Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì là bần tiện là hạ cách chi mệnh, mang hai họ thì có thể thêm thọ, nhưng là mệnh của hạng nô bộc, dẫu chẳng yểu thì cũng là mệnh của hạng lục súc.
2. Luận nhân Mệnh nhập cách
Như Mệnh nhập cách, miếu vượng lại tụ hóa cát Khoa Quyền Lộc, là thượng thượng chi mệnh.
Không nhập miếu nhưng có cát hóa Khoa Quyền Lộc, là thượng thứ chi mệnh.
Không nhập miếu cũng không có cát tinh cát hóa thì là bình thường chi mệnh.
Nhập miếu mà không có cát tinh cát hóa thì cũng thuộc cấp bình thường.
Nếu hãm địa lại thêm sát tinh, hóa Kị, là hạ cách chi mệnh, không dùng nhập cách mà luận vậy.
Lại như nhập cách không có hóa cát mà lại hóa hung, thì chỉ lấy bản mệnh có cát hung nhiều hay ít mà đoán.
3. Luận cách tinh số cao thấp
Tử Phủ với số tương hợp như thế nào, Tử Vi là chủ Nam Bắc đẩu trung thiên Đế tinh, Thiên Phủ là Nam đẩu chủ.
Lại khán Âm Dương tương bán ra sao, nhận thấy Âm Dương không tương bán lại có số không tương sinh thì là hạ cách. Âm Dương thuần bác là trung cách.
Còn tam phương tứ chính toàn là cát tinh thì là thượng cách. Cát hung tương bán thủ chiếu thì là trung cách. (Toàn) Hung tinh ác sát thì là hạ cách, luận là hung đồ.
Phàm sao đắc thượng cách mà số đắc thượng cách là đệ nhất, tước vị quý đến cực phẩm.
Phàm sao đắc thượng cách mà số đắc trung cách là đệ nhị, tước vị tới tam công.
Phàm sao đắc thượng cách mà số đắc hạ cách là đệ tam, tước vị đến lục khanh.
Đó đều là thượng cách, là người được thượng thọ.
Sao đắc trung cách mà số đắc thượng cách là đệ tứ, tước vị đến giám ti.
Sao đắc trung cách mà số đắc trung cách là đệ ngũ, tước vị đến huyện lệnh.
Sao đắc trung cách mà số đắc hạ cách là đệ lục, tiền đồ theo đường quái lạ mà quý hiển.
Đó đều là trung đẳng, là người được hưởng phúc.
Sao đắc hạ cách mà số đắc thượng cách là đệ thất, y lộc được đầy đủ, giàu như họ Đào họ Chu, con cháu phồn thịnh, hưởng thọ trường, bởi vì sao tuy hung mà mệnh nhập cách hợp cục cho nên vậy, không phải là hạng hư danh hư lợi.
Sao đắc hạ cách mà số đắc trung cách là đệ bát, áo cơm không thiếu thốn.
sao đắc hạ cách mà số đắc hạ cách là đệ cửu, cay đắng bôn ba, bần cùng chết yểu.
Ba đẳng cấp thượng trung hạ, y theo lý lẽ mà đoán, tất sẽ trên thì có thể biết được nguồn gốc của tổ tông và dưới thì có thể biết được thịnh suy của đời con cháu.
Thanked by 10 Members:
|
|
#112
Gửi vào 13/09/2013 - 07:41
4. Luận mệnh nam nữ giống nhau, khác nhau
Nam nữ mệnh không như nhau, các sao đều khác biệt.
Nam mệnh thì trước xem Thân Mệnh, sau xem Tài Bạch Quan Lộc Thiên Di, nếu đều miếu vượng thì là cát mà lạc hãm tụ hung thì là hung. Thứ ba xem Phúc Đức, có Quyền Lộc Kiếp Không miếu hãm cát kị như thế nào. Lại xem ba cung Phụ Mẫu, Phu Thê, Tử Tức có Kiếp Không Sát Kị ra sao, nếu có thì là số mệnh của tăng đạo, bằng không thì là số của kẻ bần cùng cô độc. Phải xem xét cho cẩn thận kỹ lưỡng, mới có thể đoán họa phúc vinh nhục của người ta được.
Nữ mệnh thì trước xem Thân Mệnh cát hung ra sao, như Tham Lang Thất Sát Kình Dương tất sẽ là không đẹp. Thứ khán Phúc Đức cung cát hung thế nào, nếu Thất Sát đơn thủ Phúc Đức thì tất sẽ là tỳ thiếp kỹ xướng. Thứ ba là xem đến Phu cung, thứ tư xem Tử Tức Tài Bạch Điền Trạch. Nếu Đào Hoa Hình Sát Bại Tuyệt Không Vong là hung, nếu các cát tinh miếu vượng thì là tốt đẹp, dẫu cho có khó khăn gian khổ nghèo khốn thì cũng không là hạ tiện yểu chiết được. Nữ nhân mà cung Phu quý thì mới quý, chứ nữ mà cung Mệnh có quý cách cũng vô dụng, bởi vì các cung Phu, Phúc Đức, Tử Tức mới là chính cường cung. Các cung Điền Trạch Tài Bạch là thứ cường cung. Các cung Quan Lộc Thiên Di có Thất Sát là hãm.
5. Luận mệnh tiểu nhi
Tiểu nhi có Bác Sĩ, Lực Sĩ thì phần trên ngắn mà phần dưới dài. Có Thanh Long, Tướng Quân thì má và hàm nhỏ mà đầu thì tròn. Có Đại Hao thì mũi hếch môi co. Có Tử Phù, Bệnh Phù thì tiếng cao tính mạnh mẽ. Có Quan Phủ, Tấu thư gặp ác diệu thì lúc chào đời không có khóc (vô thanh). Có Bạch Hổ, Thái Tuế gặp Thất Sát thì lúc thơ ấu ốm yếu bị tổn thưởng.
Nên phân sinh khắc chế hóa của các cung phận, thêm khán giờ sinh, lộc ở suy bại địa, sau mới xem Quan Sát mới biết cùng thông của thọ yểu được.
Tiểu nhi sơ sinh, trong Mệnh có các sao miếu vượng, đại tiểu nhị hạn đi đến Mùi, đoán là nó ít tai nạn, dễ nuôi, không khắc phụ mẫu. Nếu Mệnh tọa cùng ác sát và cung hãm nhược, đại tiểu nhị hạn đến Mùi, đoán là nó lắm tai nhiều nạn, khó nuôi, hình khắc cha mẹ.
* Định giờ sinh của tiểu nhi
Tý Ngọ Mão Dậu đơn đính môn,
Hoặc thiên tả biên nhị tam phân,
Dần Thân Tị Hợi diệc đơn đính,
Thiên cư hữu khứ thủy vi chân,
Thìn Tuất Sửu Mùi thị song đính,
Bào thai thụ định chính thì thần.
(Tý Ngọ Mão Dậu một xoáy đầu
Có thể lệch trái hai ba phần
Dần Thân Tị Hợi cũng một xoáy
Lệch về bên phải chẳng thể lầm
Thìn Tuất Sửu Mùi hai xoáy rõ
Nhớ để mà so định thời thần).
Lại viết:
Tý Ngọ Mão Dậu diện hướng thiên,
Dần Thân Tị Hợi trắc thân miên,
Thìn Tuất Sửu Mùi kiểm phục địa,
Lâm bồn đương thí dụng tâm kiên.
(Tý Ngọ Mão Dậu mặt hướng lên
Dần Thân Tị Hợi nghiêng một bên
Thìn Tuất Sửu Mùi trông xuống dưới
Tư thế sinh theo các giờ trên).
7. Luận giờ sinh an Mệnh cát hung
Phàm nam nữ sinh tại Dần Ngọ Tuất Thân Tý Thìn là sáu giờ dương, an Mệnh tại các cung dương ấy thì được cát lợi. Nếu sinh vào Hợi Mão Mùi Tị Dậu Sửu là sáu giờ âm, an Mệnh tại sáu cung âm ấy thì được cát lợi. Ngược lại thì kém được toại ý.
8. Luận suy xét giờ sinh chính xác.
Như người sinh vào hai giờ Hợi Tý là rất khó xác định, muốn chuẩn xác phải xem kỹ càng xét tường tận. Như giờ Tý có 10 khắc, thì 5 khắc đầu thuộc giờ Hợi của đêm hôm qua, 5 khắc sau thuộc giờ Tý của ngày hôm nay (QNB chú: tức sách muốn nói chia giờ Tý ra làm 2 phần gồm Sơ Tý ứng với lúc 23h00'-23h59' của hiện đại thì lập số theo giờ Hợi của ngày hôm qua, và Chính Tý là ứng với lúc 0h00'-1h59' thì lập số theo giờ Tý của ngày hôm nay). Nếu như vào ngày âm u mưa gió dầm dề, cần phải lấy La Kinh dùng để xác định thời gian chính xác. Nếu giờ mà sai ngoa thì mệnh không chuẩn vậy.
9. Luận tiểu nhi khắc người thân
Như người tuổi Dần Ngọ Tị Dậu mà sinh vào các giờ Thìn Tuất Sửu Mùi thì tối độc, còn người tuổi Tý Thân Hợi Mão thì đỡ hơn.
Nếu người tuổi Dần Hợi Tị mà sinh vào các giờ Ngọ Thân Dậu Hợi thì chủ khắc cha trước, quá 16 tuổi thì không còn đáng ngại nữa.
Nếu người tuổi Thìn Tị Sửu Mùi mà sinh vào các giờ Tý Ngọ Mão Dậu Tị Hợi Thân thì chủ khắc mẹ trước.
Nam nữ mệnh không như nhau, các sao đều khác biệt.
Nam mệnh thì trước xem Thân Mệnh, sau xem Tài Bạch Quan Lộc Thiên Di, nếu đều miếu vượng thì là cát mà lạc hãm tụ hung thì là hung. Thứ ba xem Phúc Đức, có Quyền Lộc Kiếp Không miếu hãm cát kị như thế nào. Lại xem ba cung Phụ Mẫu, Phu Thê, Tử Tức có Kiếp Không Sát Kị ra sao, nếu có thì là số mệnh của tăng đạo, bằng không thì là số của kẻ bần cùng cô độc. Phải xem xét cho cẩn thận kỹ lưỡng, mới có thể đoán họa phúc vinh nhục của người ta được.
Nữ mệnh thì trước xem Thân Mệnh cát hung ra sao, như Tham Lang Thất Sát Kình Dương tất sẽ là không đẹp. Thứ khán Phúc Đức cung cát hung thế nào, nếu Thất Sát đơn thủ Phúc Đức thì tất sẽ là tỳ thiếp kỹ xướng. Thứ ba là xem đến Phu cung, thứ tư xem Tử Tức Tài Bạch Điền Trạch. Nếu Đào Hoa Hình Sát Bại Tuyệt Không Vong là hung, nếu các cát tinh miếu vượng thì là tốt đẹp, dẫu cho có khó khăn gian khổ nghèo khốn thì cũng không là hạ tiện yểu chiết được. Nữ nhân mà cung Phu quý thì mới quý, chứ nữ mà cung Mệnh có quý cách cũng vô dụng, bởi vì các cung Phu, Phúc Đức, Tử Tức mới là chính cường cung. Các cung Điền Trạch Tài Bạch là thứ cường cung. Các cung Quan Lộc Thiên Di có Thất Sát là hãm.
5. Luận mệnh tiểu nhi
Tiểu nhi có Bác Sĩ, Lực Sĩ thì phần trên ngắn mà phần dưới dài. Có Thanh Long, Tướng Quân thì má và hàm nhỏ mà đầu thì tròn. Có Đại Hao thì mũi hếch môi co. Có Tử Phù, Bệnh Phù thì tiếng cao tính mạnh mẽ. Có Quan Phủ, Tấu thư gặp ác diệu thì lúc chào đời không có khóc (vô thanh). Có Bạch Hổ, Thái Tuế gặp Thất Sát thì lúc thơ ấu ốm yếu bị tổn thưởng.
Nên phân sinh khắc chế hóa của các cung phận, thêm khán giờ sinh, lộc ở suy bại địa, sau mới xem Quan Sát mới biết cùng thông của thọ yểu được.
Tiểu nhi sơ sinh, trong Mệnh có các sao miếu vượng, đại tiểu nhị hạn đi đến Mùi, đoán là nó ít tai nạn, dễ nuôi, không khắc phụ mẫu. Nếu Mệnh tọa cùng ác sát và cung hãm nhược, đại tiểu nhị hạn đến Mùi, đoán là nó lắm tai nhiều nạn, khó nuôi, hình khắc cha mẹ.
* Định giờ sinh của tiểu nhi
Tý Ngọ Mão Dậu đơn đính môn,
Hoặc thiên tả biên nhị tam phân,
Dần Thân Tị Hợi diệc đơn đính,
Thiên cư hữu khứ thủy vi chân,
Thìn Tuất Sửu Mùi thị song đính,
Bào thai thụ định chính thì thần.
(Tý Ngọ Mão Dậu một xoáy đầu
Có thể lệch trái hai ba phần
Dần Thân Tị Hợi cũng một xoáy
Lệch về bên phải chẳng thể lầm
Thìn Tuất Sửu Mùi hai xoáy rõ
Nhớ để mà so định thời thần).
Lại viết:
Tý Ngọ Mão Dậu diện hướng thiên,
Dần Thân Tị Hợi trắc thân miên,
Thìn Tuất Sửu Mùi kiểm phục địa,
Lâm bồn đương thí dụng tâm kiên.
(Tý Ngọ Mão Dậu mặt hướng lên
Dần Thân Tị Hợi nghiêng một bên
Thìn Tuất Sửu Mùi trông xuống dưới
Tư thế sinh theo các giờ trên).
7. Luận giờ sinh an Mệnh cát hung
Phàm nam nữ sinh tại Dần Ngọ Tuất Thân Tý Thìn là sáu giờ dương, an Mệnh tại các cung dương ấy thì được cát lợi. Nếu sinh vào Hợi Mão Mùi Tị Dậu Sửu là sáu giờ âm, an Mệnh tại sáu cung âm ấy thì được cát lợi. Ngược lại thì kém được toại ý.
8. Luận suy xét giờ sinh chính xác.
Như người sinh vào hai giờ Hợi Tý là rất khó xác định, muốn chuẩn xác phải xem kỹ càng xét tường tận. Như giờ Tý có 10 khắc, thì 5 khắc đầu thuộc giờ Hợi của đêm hôm qua, 5 khắc sau thuộc giờ Tý của ngày hôm nay (QNB chú: tức sách muốn nói chia giờ Tý ra làm 2 phần gồm Sơ Tý ứng với lúc 23h00'-23h59' của hiện đại thì lập số theo giờ Hợi của ngày hôm qua, và Chính Tý là ứng với lúc 0h00'-1h59' thì lập số theo giờ Tý của ngày hôm nay). Nếu như vào ngày âm u mưa gió dầm dề, cần phải lấy La Kinh dùng để xác định thời gian chính xác. Nếu giờ mà sai ngoa thì mệnh không chuẩn vậy.
9. Luận tiểu nhi khắc người thân
Như người tuổi Dần Ngọ Tị Dậu mà sinh vào các giờ Thìn Tuất Sửu Mùi thì tối độc, còn người tuổi Tý Thân Hợi Mão thì đỡ hơn.
Nếu người tuổi Dần Hợi Tị mà sinh vào các giờ Ngọ Thân Dậu Hợi thì chủ khắc cha trước, quá 16 tuổi thì không còn đáng ngại nữa.
Nếu người tuổi Thìn Tị Sửu Mùi mà sinh vào các giờ Tý Ngọ Mão Dậu Tị Hợi Thân thì chủ khắc mẹ trước.
Thanked by 8 Members:
|
|
#113
Gửi vào 13/09/2013 - 09:50
10. Luận mệnh trước sau giàu nghèo
Người sinh ra ở trong nhà giàu có, cả đời vui sướng hưởng phúc, tài quan hiển đạt, vợ sang con quý, nô bộc thành hàng, thanh danh được hiển hiện. Giữa lúc đó bỗng bị hại, người ly biệt, tiền tài tiêu tán, cháy nhà, quan tụng thị phi, thân mang tang chế, những mệnh kiểu ấy là mệnh hỏng vậy. Đều là hạn bộ gặp phải đại tiểu hạn nhị hạn và thái tuế tương xung chiếu tọa thủ có nhiều sát hung tinh, cho nên bị phá bại, chẳng nghèo túng thì tổn thọ vậy. Ấy được gọi là "tiên thành hậu bại, tiên đại hậu tiểu" vậy.
Lại có nhân mệnh xuất thân hèn kém, thường thay đổi nhiều nghề di chuyển nơi ở để mà kiếm sống, làm kỹ công, cửu lưu, y thuật, lại vừa làm ruộng vườn... lúc đầu trải qua gian khổ mà qua ngày. Tới trung niên và cuối đời thì đường đời bằng phẳng được thăng tiến, phát tài mà khiến cho cả làng cả nước phải nể sợ. Nguyên nhân do tại cục thuộc trung và hậu vận có được hạn bộ tương phù, các sao gặp cát diệu lại đồng thời miếu vượng, theo đó mà đột nhiên phát đạt tăng tiến tài lộc. Ấy được gọi là "Tiền bần hậu phúc, tiền tiểu hậu đại" vậy.
11. Luận mười năm đại hạn họa phúc như thế nào
Như cung phận, tinh triền mà có toàn cát tinh miếu vượng đắc địa, không có Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp, thì chủ 10 năm được an tĩnh, người và tài sản được toàn mỹ. Nếu trong hạn có Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không hóa Kị đi cùng thì thành bại thất thường.
Nếu như cung phận, tinh triền mà hãm địa, gặp Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không Kị, lại có thêm lưu niên ác sát tụ tập hội hợp, và tiểu hạn gặp hung sát thì tất có quan tai, tử vong lập tức đến.
Đại hạn tương xuất mà có các cát tinh thì không có tai vạ, có ít cát tinh thì lắm tai vạ mà tổn người phá tài bất lợi.
Phàm hành hạn tới Dần Thân Tị Hợi Tý Ngọ cung mà gặp Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Đồng, Thái Dương, Thái Âm, Xương Khúc, Lộc Tồn Lộc chủ, cát tinh... thì chủ có thêm người và tiền tài tăng tiến hưng vượng, gia cảnh vui mừng. Hành hạn tới Thìn Tuất Sửu Mùi Mão Dậu mà gặp ác sát, Liêm Trinh, Thiên Sứ, Kình Đà, Hỏa Linh, Không Kiếp, Kị, thì chủ nhân đắm chìm tửu sắc, phá tài nghèo khổ, mệt nhọc, thừa sống thiếu chết. Hành hạn mà gặp Tả Hữu, Xương Khúc, thì kẻ quan thuyên chuyển thêm chức, học trò dân thường được phát tài, nữ nhân có hỉ sự, tăng đạo cũng được lợi, kẻ buôn bán thì trúng mánh.
Phàm đại tiểu nhị hạn và Thái Tuế, rất e ngại đi tới chỗ giáp với Thiên Thương Thiên Sứ, sợ gặp phải chỗ của Thiên Không Địa Kiếp, sợ đi vào đất của Kình Dương Đà La hay có Kình Đà xung chiếu... e rằng khó mà thoát được hung hạn. Rủi như gặp phải hung hạn lại sợ gặp Thương Sứ Kiếp Không Kình Đà giáp với tuế hạn. Như Thiên Thương tại Tý và Thiên Sứ tại Dần, tuế hạn ở Sửu cung, đó chính là giáp vậy.
(Tại sao) Kình Đà thủ ngay tại Mệnh còn vô dụng huống hồ là giáp hạn, vẫn vượt qua được hạn đó. Ấy là cần phải xem các Thọ tinh như Tử Vi, Thiên Đồng, Thiên Lương, Tham Lang (mieus vượng, không có sát tinh cùng) tọa ở Mệnh thì có thể giải được vậy.
Nên xem thêm Nguyệt gặp ác sát, Nhật gặp ác sát (QNB chú: có lẽ muốn nói đến Nguyệt hạn và Nhật hạn gặp phải ác sát tinh như thế nào) thì hội họp thêm Đại Tiểu hạn, Tuế hạn, Nguyệt hạn, Nhật hạn, Thời hạn, năm yếu tố để tham khảo cho tường tận cát hung mà suy đoán.
Thái Tuế đi tới chỗ Tấu Thư, Tướng Quân, Trực Phù (QNB chú: độc giả lưu ý nhớ lại rằng theo sách này có 2 bộ Tấu-Tướng-Phù, một là an theo Thiên Can thuộc vòng Bác Sĩ, còn một là an theo Địa Chi mà họ gọi là "phi thiên tam sát"), Thiên Sứ, Thiên Thương, Kình Đà Linh Hỏa, Kiếp Không, Hóa Kị, chỉ cần gặp 1, 2 vị thôi cũng đủ khiến cho người ly tài tán, dấu hiệu của bệnh tật khóc lóc buồn đau. Nếu tuế hạn phạm trùng nhật hạn nguyệt hạn có 1, 2 vị lại gặp Hóa Kị hội hợp thì kẻ quan lại bị khiển trách truất giáng, người thường gặp sự ngang trái hung bạo bất ngờ, đàn bà tổn thất thai nhi, kẻ đang bệnh sẽ chết. Nếu sát tinh ở tại chỗ không đắc địa thì càng thêm cuồng bạo như gió bão. Nếu tuế hạn lâm vào chỗ không có cát tinh, ở trong cung Mệnh không có cứu giải thì chắc chắn năm ấy khó mà qua được, tất sẽ tử vong.
Người sinh ra ở trong nhà giàu có, cả đời vui sướng hưởng phúc, tài quan hiển đạt, vợ sang con quý, nô bộc thành hàng, thanh danh được hiển hiện. Giữa lúc đó bỗng bị hại, người ly biệt, tiền tài tiêu tán, cháy nhà, quan tụng thị phi, thân mang tang chế, những mệnh kiểu ấy là mệnh hỏng vậy. Đều là hạn bộ gặp phải đại tiểu hạn nhị hạn và thái tuế tương xung chiếu tọa thủ có nhiều sát hung tinh, cho nên bị phá bại, chẳng nghèo túng thì tổn thọ vậy. Ấy được gọi là "tiên thành hậu bại, tiên đại hậu tiểu" vậy.
Lại có nhân mệnh xuất thân hèn kém, thường thay đổi nhiều nghề di chuyển nơi ở để mà kiếm sống, làm kỹ công, cửu lưu, y thuật, lại vừa làm ruộng vườn... lúc đầu trải qua gian khổ mà qua ngày. Tới trung niên và cuối đời thì đường đời bằng phẳng được thăng tiến, phát tài mà khiến cho cả làng cả nước phải nể sợ. Nguyên nhân do tại cục thuộc trung và hậu vận có được hạn bộ tương phù, các sao gặp cát diệu lại đồng thời miếu vượng, theo đó mà đột nhiên phát đạt tăng tiến tài lộc. Ấy được gọi là "Tiền bần hậu phúc, tiền tiểu hậu đại" vậy.
11. Luận mười năm đại hạn họa phúc như thế nào
Như cung phận, tinh triền mà có toàn cát tinh miếu vượng đắc địa, không có Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp, thì chủ 10 năm được an tĩnh, người và tài sản được toàn mỹ. Nếu trong hạn có Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không hóa Kị đi cùng thì thành bại thất thường.
Nếu như cung phận, tinh triền mà hãm địa, gặp Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không Kị, lại có thêm lưu niên ác sát tụ tập hội hợp, và tiểu hạn gặp hung sát thì tất có quan tai, tử vong lập tức đến.
Đại hạn tương xuất mà có các cát tinh thì không có tai vạ, có ít cát tinh thì lắm tai vạ mà tổn người phá tài bất lợi.
Phàm hành hạn tới Dần Thân Tị Hợi Tý Ngọ cung mà gặp Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Đồng, Thái Dương, Thái Âm, Xương Khúc, Lộc Tồn Lộc chủ, cát tinh... thì chủ có thêm người và tiền tài tăng tiến hưng vượng, gia cảnh vui mừng. Hành hạn tới Thìn Tuất Sửu Mùi Mão Dậu mà gặp ác sát, Liêm Trinh, Thiên Sứ, Kình Đà, Hỏa Linh, Không Kiếp, Kị, thì chủ nhân đắm chìm tửu sắc, phá tài nghèo khổ, mệt nhọc, thừa sống thiếu chết. Hành hạn mà gặp Tả Hữu, Xương Khúc, thì kẻ quan thuyên chuyển thêm chức, học trò dân thường được phát tài, nữ nhân có hỉ sự, tăng đạo cũng được lợi, kẻ buôn bán thì trúng mánh.
Phàm đại tiểu nhị hạn và Thái Tuế, rất e ngại đi tới chỗ giáp với Thiên Thương Thiên Sứ, sợ gặp phải chỗ của Thiên Không Địa Kiếp, sợ đi vào đất của Kình Dương Đà La hay có Kình Đà xung chiếu... e rằng khó mà thoát được hung hạn. Rủi như gặp phải hung hạn lại sợ gặp Thương Sứ Kiếp Không Kình Đà giáp với tuế hạn. Như Thiên Thương tại Tý và Thiên Sứ tại Dần, tuế hạn ở Sửu cung, đó chính là giáp vậy.
(Tại sao) Kình Đà thủ ngay tại Mệnh còn vô dụng huống hồ là giáp hạn, vẫn vượt qua được hạn đó. Ấy là cần phải xem các Thọ tinh như Tử Vi, Thiên Đồng, Thiên Lương, Tham Lang (mieus vượng, không có sát tinh cùng) tọa ở Mệnh thì có thể giải được vậy.
Nên xem thêm Nguyệt gặp ác sát, Nhật gặp ác sát (QNB chú: có lẽ muốn nói đến Nguyệt hạn và Nhật hạn gặp phải ác sát tinh như thế nào) thì hội họp thêm Đại Tiểu hạn, Tuế hạn, Nguyệt hạn, Nhật hạn, Thời hạn, năm yếu tố để tham khảo cho tường tận cát hung mà suy đoán.
Thái Tuế đi tới chỗ Tấu Thư, Tướng Quân, Trực Phù (QNB chú: độc giả lưu ý nhớ lại rằng theo sách này có 2 bộ Tấu-Tướng-Phù, một là an theo Thiên Can thuộc vòng Bác Sĩ, còn một là an theo Địa Chi mà họ gọi là "phi thiên tam sát"), Thiên Sứ, Thiên Thương, Kình Đà Linh Hỏa, Kiếp Không, Hóa Kị, chỉ cần gặp 1, 2 vị thôi cũng đủ khiến cho người ly tài tán, dấu hiệu của bệnh tật khóc lóc buồn đau. Nếu tuế hạn phạm trùng nhật hạn nguyệt hạn có 1, 2 vị lại gặp Hóa Kị hội hợp thì kẻ quan lại bị khiển trách truất giáng, người thường gặp sự ngang trái hung bạo bất ngờ, đàn bà tổn thất thai nhi, kẻ đang bệnh sẽ chết. Nếu sát tinh ở tại chỗ không đắc địa thì càng thêm cuồng bạo như gió bão. Nếu tuế hạn lâm vào chỗ không có cát tinh, ở trong cung Mệnh không có cứu giải thì chắc chắn năm ấy khó mà qua được, tất sẽ tử vong.
Thanked by 11 Members:
|
|
#114
Gửi vào 13/09/2013 - 14:21
12. Luận nhị hạn thái tuế cát hung
Nên xem cho tường tận đại hạn độc thủ cát hung như thế nào, tiểu hạn độc thủ cát hung ra làm sao, thái tuế độc thủ cát cung thế nào. Nếu như tuế hạn đều hung thì chắc chắn hung.
Lại khán đại hạn tương phùng tiểu hạn gặp phải cát hung như thế nào, đại hạn phùng thái tuế cát hung ra làm sao, tiểu hạn gặp thái tuế cát hung như thế nào, rồi mới định ra họa phúc được.
Rồi lại khán thái tuế xung với đại hạn tiểu hạn, thái tuế xung Kình Đà Thất Sát, như thế mới đoán ra cát hung.
13. Luận hành hạn phân Nam Bắc đẩu
Dương nam Âm nữ, thì Nam đẩu là phúc.
Âm nam Dương nữ, thì Bắc đẩu là phúc.
Các sao Bắc đẩu cát hung thế nào, vào đại hạn thì đoán rằng ứng kỳ ở 5 năm cuối, vào tiểu hạn đoán ứng kỳ là nửa cuối năm.
14. Luận lưu niên thái tuế cát hung
Phàm Thái Tuế thì khán tam phương cùng đối chiếu cung xem tinh thần cát hung như thế nào mà định họa phúc. Thái Tuế đi đến tại Mệnh cung thì họa phúc càng thêm khẩn trương. Như an Mệnh tại cung Tý mà Thái Tuế đến Tý lại là người tuổi Quý thì gặp cát sẽ cát mà gặp hung sẽ hung.
15. Luận âm chất duyên thọ
Âm đức duyên thọ ngầm định sinh mọi phúc phần, dẫu cho gặp "đảo hạn" (tạm hiểu là hạn xấu, hạn sụp đổ, thất bại... xin xem thêm câu "Lộc đảo, Mã đảo...") vẫn không gặp tổn thương hay bị hại. Giả như, có người đại tiểu hạn và thái tuế đến chỗ hung hãm địa, nhưng có duyên thọ vượt quá số tuổi ở hạn ấy thì không thể chết được, đó chính là "nhân tằng hành âm đằng" (tằng tổ - người cụ đã khuất - làm âm đức bốc lên, tạo phúc cho đương số), ngày thường làm việc cứu tế cho người khác, tu thân tích đức, để làm thiện giáng phúc, nên tuy gặp hung nhưng không bại được vậy.
Giống như Tống Giao bện cái cầu cói để cứu độ đàn kiến vậy.
(QNB chú: trong sách Âm Chất - một quyển sách khuyến thiện của Đạo giáo, nguyên có tên là Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn, có chép rằng "Tống Giao có lần thấy đàn kiến bị nước dâng lên rất nguy cấp bèn bện dây cói lại làm cầu để cứu đàn kiến thoát khỏi cảnh bị nước cuốn trôi. Đến kỳ lên kinh ứng thí, giữa đường 2 anh em Tống Giao gặp thầy tướng số, ông này nói Số của Tống Giao không thể đỗ cao hơn người em mà Tướng của chàng lại biểu thị đỗ tới Trạng Nguyên thì quả là sự kỳ diệu lạ thường, có lẽ chàng đã cứu vớt hàng ngàn sinh linh mới được như vậy. Quả nhiên lúc chấm thi thì Tống Giao đỗ thứ 10 còn em là Tống Kỳ lại đỗ Trạng Nguyên. Trình lên Vua xem thì nói Tống Kỳ quá trẻ có tài năng, đỗ cao hơn, xếp trên cả anh thì e rằng sau này sinh kiêu ngạo mà không phải đạo, nay chấm cho Tống Giao đỗ đầu, chấm Tống Kỳ đứng thứ 10).
Lại như Gia Cát Lượng hỏa thiêu đạo quân giáp mây, ấy là hại người độc ác mà giảm thọ 10 năm vậy (QNB chú: Xin xem thêm Tam Quốc Chí, hồi 90, Khổng Minh đánh Mạnh Hoạch và Ngột Đột Cốt, thiêu chết 3 vạn mạng ở hang Xà Bàn).
Nên xem cho tường tận đại hạn độc thủ cát hung như thế nào, tiểu hạn độc thủ cát hung ra làm sao, thái tuế độc thủ cát cung thế nào. Nếu như tuế hạn đều hung thì chắc chắn hung.
Lại khán đại hạn tương phùng tiểu hạn gặp phải cát hung như thế nào, đại hạn phùng thái tuế cát hung ra làm sao, tiểu hạn gặp thái tuế cát hung như thế nào, rồi mới định ra họa phúc được.
Rồi lại khán thái tuế xung với đại hạn tiểu hạn, thái tuế xung Kình Đà Thất Sát, như thế mới đoán ra cát hung.
13. Luận hành hạn phân Nam Bắc đẩu
Dương nam Âm nữ, thì Nam đẩu là phúc.
Âm nam Dương nữ, thì Bắc đẩu là phúc.
Các sao Bắc đẩu cát hung thế nào, vào đại hạn thì đoán rằng ứng kỳ ở 5 năm cuối, vào tiểu hạn đoán ứng kỳ là nửa cuối năm.
14. Luận lưu niên thái tuế cát hung
Phàm Thái Tuế thì khán tam phương cùng đối chiếu cung xem tinh thần cát hung như thế nào mà định họa phúc. Thái Tuế đi đến tại Mệnh cung thì họa phúc càng thêm khẩn trương. Như an Mệnh tại cung Tý mà Thái Tuế đến Tý lại là người tuổi Quý thì gặp cát sẽ cát mà gặp hung sẽ hung.
15. Luận âm chất duyên thọ
Âm đức duyên thọ ngầm định sinh mọi phúc phần, dẫu cho gặp "đảo hạn" (tạm hiểu là hạn xấu, hạn sụp đổ, thất bại... xin xem thêm câu "Lộc đảo, Mã đảo...") vẫn không gặp tổn thương hay bị hại. Giả như, có người đại tiểu hạn và thái tuế đến chỗ hung hãm địa, nhưng có duyên thọ vượt quá số tuổi ở hạn ấy thì không thể chết được, đó chính là "nhân tằng hành âm đằng" (tằng tổ - người cụ đã khuất - làm âm đức bốc lên, tạo phúc cho đương số), ngày thường làm việc cứu tế cho người khác, tu thân tích đức, để làm thiện giáng phúc, nên tuy gặp hung nhưng không bại được vậy.
Giống như Tống Giao bện cái cầu cói để cứu độ đàn kiến vậy.
(QNB chú: trong sách Âm Chất - một quyển sách khuyến thiện của Đạo giáo, nguyên có tên là Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn, có chép rằng "Tống Giao có lần thấy đàn kiến bị nước dâng lên rất nguy cấp bèn bện dây cói lại làm cầu để cứu đàn kiến thoát khỏi cảnh bị nước cuốn trôi. Đến kỳ lên kinh ứng thí, giữa đường 2 anh em Tống Giao gặp thầy tướng số, ông này nói Số của Tống Giao không thể đỗ cao hơn người em mà Tướng của chàng lại biểu thị đỗ tới Trạng Nguyên thì quả là sự kỳ diệu lạ thường, có lẽ chàng đã cứu vớt hàng ngàn sinh linh mới được như vậy. Quả nhiên lúc chấm thi thì Tống Giao đỗ thứ 10 còn em là Tống Kỳ lại đỗ Trạng Nguyên. Trình lên Vua xem thì nói Tống Kỳ quá trẻ có tài năng, đỗ cao hơn, xếp trên cả anh thì e rằng sau này sinh kiêu ngạo mà không phải đạo, nay chấm cho Tống Giao đỗ đầu, chấm Tống Kỳ đứng thứ 10).
Lại như Gia Cát Lượng hỏa thiêu đạo quân giáp mây, ấy là hại người độc ác mà giảm thọ 10 năm vậy (QNB chú: Xin xem thêm Tam Quốc Chí, hồi 90, Khổng Minh đánh Mạnh Hoạch và Ngột Đột Cốt, thiêu chết 3 vạn mạng ở hang Xà Bàn).
Thanked by 12 Members:
|
|
#115
Gửi vào 13/09/2013 - 16:36
16. Luận Kình Đà trùng điệp
Như người sinh năm Canh, cung Mệnh an tại Mão, cung Thiên Di tại Dậu, là Mệnh gặp cả Kình Đà xung, chiếu. Lại như hạn lưu niên cũng là năm Canh, (lưu) Lộc Tồn ở cung Thân (khỉ), lưu Kình tại Dậu, lưu Đà tại Mùi. Như vậy, Mệnh tại Mão cung vốn bị Kình Dương xung hợp, lưu niên lại thêm lưu Kình, lưu Đà, ấy gọi là "Dương Đà điệt tinh" (Kình Đà trùng điệp).
17. Luận Thất Sát trùng phùng
Như trong tam hợp Mệnh vốn có Thất Sát thủ chiếu, mà lưu niên lại gặp lưu Kình lưu Đà xung chiếu thì hung lắm, Thất Sát trùng phùng hai vị ấy là họa tối độc, nếu nhập miếu thì tai họa giảm nhẹ, còn nếu như hãm địa gặp Kị và lại là ở Mão Dậu gặp Kình Dương, thì người tuổi Ngọ vô cùng bất lợi vậy.
Song, Thất Sát gặp nhiều cát diệu cũng chuyển hung hóa cát, không thể nhất định cứ luận là hung được. Kình Đà Thất Sát gặp Tử Vi Phủ Tướng Lộc Tồn ở tam phương tứ chính củng chiếu thì có thể giải được.
Thơ viết:
Dương Đà điệt tinh mệnh nan đào,
Thất Sát trùng phùng họa tất tao,
Thái tuế nhị hạn lâm thử địa,
Thập sinh cửu tử bất kiên lao.
(Kình Đà trùng điệp khó thoát thay
Thất Sát trùng phùng họa nạn bày
Thái tuế nhị hạn vào chỗ ấy
Thập tử nhất sinh, nguy khốn ngay).
Như người sinh năm Canh, cung Mệnh an tại Mão, cung Thiên Di tại Dậu, là Mệnh gặp cả Kình Đà xung, chiếu. Lại như hạn lưu niên cũng là năm Canh, (lưu) Lộc Tồn ở cung Thân (khỉ), lưu Kình tại Dậu, lưu Đà tại Mùi. Như vậy, Mệnh tại Mão cung vốn bị Kình Dương xung hợp, lưu niên lại thêm lưu Kình, lưu Đà, ấy gọi là "Dương Đà điệt tinh" (Kình Đà trùng điệp).
17. Luận Thất Sát trùng phùng
Như trong tam hợp Mệnh vốn có Thất Sát thủ chiếu, mà lưu niên lại gặp lưu Kình lưu Đà xung chiếu thì hung lắm, Thất Sát trùng phùng hai vị ấy là họa tối độc, nếu nhập miếu thì tai họa giảm nhẹ, còn nếu như hãm địa gặp Kị và lại là ở Mão Dậu gặp Kình Dương, thì người tuổi Ngọ vô cùng bất lợi vậy.
Song, Thất Sát gặp nhiều cát diệu cũng chuyển hung hóa cát, không thể nhất định cứ luận là hung được. Kình Đà Thất Sát gặp Tử Vi Phủ Tướng Lộc Tồn ở tam phương tứ chính củng chiếu thì có thể giải được.
Thơ viết:
Dương Đà điệt tinh mệnh nan đào,
Thất Sát trùng phùng họa tất tao,
Thái tuế nhị hạn lâm thử địa,
Thập sinh cửu tử bất kiên lao.
(Kình Đà trùng điệp khó thoát thay
Thất Sát trùng phùng họa nạn bày
Thái tuế nhị hạn vào chỗ ấy
Thập tử nhất sinh, nguy khốn ngay).
Thanked by 9 Members:
|
|
#116
Gửi vào 13/09/2013 - 16:37
18. Luận đại tiểu hạn tinh thần qua 12 cung gặp 12 Chi sở kị
Nhân sinh Tý mệnh kị Dần Thân
Sửu Ngọ sinh nhân Sửu Ngọ sân
Dần Mão chi nhân phòng Tị Hợi
Long Xà thiết kị bản thân lâm
Thân nhân Linh Hỏa tai ương trọng
Mùi ngộ Trư Kê mộ hoạn ân
Tuất Hợi Dương Đà tu tị kị
Dậu nhân Đà Nhận diệc phi thân
(Người sinh năm Tý kị Dần Thân
Sửu Ngọ sợ qua Sửu Ngọ phần
Dần Mão đề phòng nơi Tị Hợi
Cả Thìn lẫn Tị hãi bản thân
Tuổi Thân chỉ sợ phùng Linh Hỏa
Mùi gặp tai ương Dậu Hợi lâm
Tuất Hợi, Kình Đà nên tránh né
Dậu kia Đà Nhận chẳng nên gần).
Giả như người sinh năm Tý phải kiêng nhất tuế hạn Dần Thân, tai họa rất nặng, và kiêng cả tuế hạn Tý Ngọ trùng xung.
Giả như người sinh năm Sửu năm Ngọ thì phải kiêng kị tuế hạn Sửu Ngọ và kị Thất Sát tinh, tai họa rất nặng.
Giả như người sinh năm Dần Mão thì kiêng kị tuế hạn Tị Hợi, và Mão Dậu Dần Thân tương xung.
Giả như người sinh năm Tị thì kị gặp năm Tị và kị hạn đi đến cung Tị. Người sinh năm Thìn thì kị gặp năm Thìn lại kị hạn đi đến cung Thìn là Thiên La, cũng lại kị cả hạn đến cung Tuất là Địa Võng. Hạn gặp nhủ thế thì tai họa, tật ách hung hiểm, quan tụng thị phi, phá tán tài sản, ưu phiền tang chế liên miên.
Giả như người tuổi Thân thì kiêng kị gặp 2 sao Hỏa Linh, tất sẽ chủ tai họa rất nặng và cũng kị năm Dần tương xung.
Giả như người tuổi Mùi thì kiêng kị gặp tuế hạn Dậu Hợi, lại kị gặp Kình Dương tại tứ Mộ cung.
Giả như người tuổi Tuất Hợi thì kiêng kị gặp Kình Đà vì dễ có tai họa lớn. Người tuổi Tuất lại hành hạn đến tuế hạn cũng như Tuất cung là Địa Võng, đến tuế hạn cũng như Thìn cung là Thiên La, đều là chỗ kị cả, ấy là Thìn Tuất tương xung bất mỹ.
Giả như người sinh năm Dậu cũng kị gặp tuế hạn có Kình Đà và kị hạn đi đến cung Mão, lại kị cả năm Mão có Tuế Quân tương xung.
Ngoài ra:
Trư Khuyển sinh nhân mạc ngộ Xà
Thìn Tuất thiết kị đáo Võng La
Dự tiên chỉnh đốn y quan mộc
Vị miễn sinh nhân xướng vãn ca
(Tuất Hợi chớ có gặp Xà
Tuất Thìn kiêng kị Võng La thiên bàn
Bằng không hãy sắm áo quan
Viết bài tang điếu người than khóc cùng).
19. Luận lập Mệnh hành hạn cung ca
Kim nhân ngộ Khảm mệnh tu thương,
Mộc mệnh lạc Ly hữu họa ương,
Thủy ngộ Cấn cung ứng kiển trệ,
Hỏa lai Đoài thượng họa nạn tàng,
Thổ đáo Đông Nam phùng Chấn Tốn,
Tu phòng nùng huyết cập kinh hoàng,
Túng nhiên cát diệu tương phùng chiếu,
Vị miễn quan tai nháo nhất tràng.
(Kẻ Kim gặp Khảm họa tai vương
Người Mộc lạc Ly có tổn thương
Thủy gặp Cấn cung thì bế tắc
Hỏa vào Đoài xứ chẳng bình thường
Đông Nam Chấn Tốn nguy cho Thổ
Phòng nạn kinh hoàng đổ máu xương
Cát diệu chẳng phùng mà cứu giải
Thị phi quan tụng loạn công đường).
Nhân sinh Tý mệnh kị Dần Thân
Sửu Ngọ sinh nhân Sửu Ngọ sân
Dần Mão chi nhân phòng Tị Hợi
Long Xà thiết kị bản thân lâm
Thân nhân Linh Hỏa tai ương trọng
Mùi ngộ Trư Kê mộ hoạn ân
Tuất Hợi Dương Đà tu tị kị
Dậu nhân Đà Nhận diệc phi thân
(Người sinh năm Tý kị Dần Thân
Sửu Ngọ sợ qua Sửu Ngọ phần
Dần Mão đề phòng nơi Tị Hợi
Cả Thìn lẫn Tị hãi bản thân
Tuổi Thân chỉ sợ phùng Linh Hỏa
Mùi gặp tai ương Dậu Hợi lâm
Tuất Hợi, Kình Đà nên tránh né
Dậu kia Đà Nhận chẳng nên gần).
Giả như người sinh năm Tý phải kiêng nhất tuế hạn Dần Thân, tai họa rất nặng, và kiêng cả tuế hạn Tý Ngọ trùng xung.
Giả như người sinh năm Sửu năm Ngọ thì phải kiêng kị tuế hạn Sửu Ngọ và kị Thất Sát tinh, tai họa rất nặng.
Giả như người sinh năm Dần Mão thì kiêng kị tuế hạn Tị Hợi, và Mão Dậu Dần Thân tương xung.
Giả như người sinh năm Tị thì kị gặp năm Tị và kị hạn đi đến cung Tị. Người sinh năm Thìn thì kị gặp năm Thìn lại kị hạn đi đến cung Thìn là Thiên La, cũng lại kị cả hạn đến cung Tuất là Địa Võng. Hạn gặp nhủ thế thì tai họa, tật ách hung hiểm, quan tụng thị phi, phá tán tài sản, ưu phiền tang chế liên miên.
Giả như người tuổi Thân thì kiêng kị gặp 2 sao Hỏa Linh, tất sẽ chủ tai họa rất nặng và cũng kị năm Dần tương xung.
Giả như người tuổi Mùi thì kiêng kị gặp tuế hạn Dậu Hợi, lại kị gặp Kình Dương tại tứ Mộ cung.
Giả như người tuổi Tuất Hợi thì kiêng kị gặp Kình Đà vì dễ có tai họa lớn. Người tuổi Tuất lại hành hạn đến tuế hạn cũng như Tuất cung là Địa Võng, đến tuế hạn cũng như Thìn cung là Thiên La, đều là chỗ kị cả, ấy là Thìn Tuất tương xung bất mỹ.
Giả như người sinh năm Dậu cũng kị gặp tuế hạn có Kình Đà và kị hạn đi đến cung Mão, lại kị cả năm Mão có Tuế Quân tương xung.
Ngoài ra:
Trư Khuyển sinh nhân mạc ngộ Xà
Thìn Tuất thiết kị đáo Võng La
Dự tiên chỉnh đốn y quan mộc
Vị miễn sinh nhân xướng vãn ca
(Tuất Hợi chớ có gặp Xà
Tuất Thìn kiêng kị Võng La thiên bàn
Bằng không hãy sắm áo quan
Viết bài tang điếu người than khóc cùng).
19. Luận lập Mệnh hành hạn cung ca
Kim nhân ngộ Khảm mệnh tu thương,
Mộc mệnh lạc Ly hữu họa ương,
Thủy ngộ Cấn cung ứng kiển trệ,
Hỏa lai Đoài thượng họa nạn tàng,
Thổ đáo Đông Nam phùng Chấn Tốn,
Tu phòng nùng huyết cập kinh hoàng,
Túng nhiên cát diệu tương phùng chiếu,
Vị miễn quan tai nháo nhất tràng.
(Kẻ Kim gặp Khảm họa tai vương
Người Mộc lạc Ly có tổn thương
Thủy gặp Cấn cung thì bế tắc
Hỏa vào Đoài xứ chẳng bình thường
Đông Nam Chấn Tốn nguy cho Thổ
Phòng nạn kinh hoàng đổ máu xương
Cát diệu chẳng phùng mà cứu giải
Thị phi quan tụng loạn công đường).
Thanked by 13 Members:
|
|
#117
Gửi vào 15/09/2013 - 07:34
20. Luận thái tuế tiểu hạn tinh thần miếu hãm gặp cát hung trong 12 cung
Dựa vào cái này để phán đoán các năm hành hạn của người ta tai nạn ra sao ứng như thần.
*
Năm Tý, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Tý cung, nhập miếu hóa cát:
Có Thất Sát Phá Quân tại Tý cung thủ tuế hạn thì người tuổi Quý Canh Kỷ được phát phúc. Cự Môn Thiên Cơ (ở đó) thì người tuổi Ất Quý được phát phúc. Có Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, thì người tuổi Đinh Kỷ Canh được vượng tiền tài và xứng ý toại lòng. Còn có Thiên Đồng thì người tuổi Bính Đinh được tài quan song mỹ.
Năm Tý, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Tý cung, không nhập miếu hóa hung:
Có Tử Vi tại Tý cung thủ mệnh, đến tuế hạn thì người tuổi Bính Mậu không được tốt lành, có phá tài, tai ương.
Năm Tý, Thái Tuế gặp các cát hung tinh:
Có Lộc Tồn, Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thái Âm, Xương Khúc, Phụ Bật, Phá Quân, Thiên Tướng, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Thiên Phủ, Cự Môn, Thất Sát, thì có thể đoán năm ấy người và tài lộc đều được lưỡng toàn song mỹ, vạn sự xứng ý toại lòng.
Nếu gặp Tham Lang, Tử Vi, Thiên Lương, Hóa Kị, Thái Dương, Kình Dương, thì liền đoán người hao tài tán, tang chế hiếu phục, bản thân xui xẻo chẳng được an lành, luận là mất đi một nửa (những gì đang có???).
*
Năm Sửu, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Sửu cung nhập miếu hóa cát:
Có Thiên Cơ tại Sửu thủ mệnh thì người tuổi Bính Tân được phát vượng. Thiên Tướng (tại Sửu) thì người tuổi Mậu phát vượng. Thái Âm, Vũ Khúc (tại Sửu năm Sửu) thì người Bính Mậu được phát vượng. Thiên Phủ, Liêm Trinh (ở đó) thì người tuổi Mậu phát vượng. Thiên Lương thì người tuổi Mậu Tân được phát vượng.
Năm Sửu, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Sửu cung không nhập miếu hóa hung:
Có Thái Âm tại Sửu cung thủ Mệnh thì người tuổi Mậu "hối lận" (tức là: xui xẻo không gặp lành. Sau đây chỉ dùng từ "hối lận" cho đúng thuật ngữ huyền học). Thái Dương (tại Sửu) thì người tuổi Giáp Ất hối lận. Thiên Cơ thì người tuổi Bính Tân Quý hối lận. Thiên Đồng, Liêm Trinh thì người tuổi Đinh Canh chiêu chuốc quan tụng thị phi.
Năm Sửu, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Tử Vi, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thái Âm, Thiên Phủ, Lộc Tồn, Liêm Trinh, Phá Quân, Xương Khúc, Thiên Ki, Phụ Bật, thì có thể đoán là năm ấy mọi sự đều xứng ý toại lòng.
Nếu gặp Thiên Đồng, Cự Môn, Vũ Khúc, Tham Lang, Hóa Kị, Thái Dương, Kình Dương, bèn đoán là năm ấy người tán tài hao, quan tai, khẩu thiệt, có tang chế, bản thân gặp phải hối lận, luận là mất đi một nửa (những gì đang có???).
*
Năm Dần, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Dần cung nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Lương, Thất Sát, thì người tuổi Giáp Canh Đinh Kỷ được tài quan song mỹ.
Năm Dần, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Dần cung không nhập miếu hóa hung:
Có Liêm Trinh, Phá Quân, Tham Lang tại Dần thì người tuổi Bính Mậu chiêu chuốc quan tụng thị phi. Người tuổi Giáp tuổi Tý đều kị tuế hạn đến Dần Thân.
Năm Dần, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Cơ, Thái Âm, Vũ Khúc, Thất Sát, Thiên Đồng, Thiên Tướng, Thái Dương, Cự Môn, Thiên Lương, bèn đoán là năm ấy người và tiền tài đều tăng tiến, lợi ích, vào việc gì cũng xứng ý toại lòng.
Nếu gặp Tham Lang, Đà La, Hóa Kị, bèn đoán năm ấy người ly tài tán, quan tụng, thị phi, bản thân thấy tai vạ, luận là mất đi một nửa (những gì đang có???).
*
Năm Mão, Thái Tuế cùng Tiểu hạn đến Mão cung nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Thiên Tướng, Thiên Phủ, Thiên Đồng, Vũ khúc tại Mệnh thì người tuổi Ất Tân được phát vượng.
Năm Mão, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Mão cung khồng nhập miếu hóa hung:
Có Liêm Trinh thì người tuổi Giáp Bình vụt chốc phá tài. Thái Âm thì người tuổi Giáp Ất bị người ly tài tán, tai bệnh, người tuổi Canh cũng chẳng hợp nên chủ tai họa bệnh tật.
Năm Mão, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Thái Âm, Thiên Lương, Tử Vi, Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Phủ, Tham Lang, Cự Môn, Thất Sát, thì đoán là năm ấy người và tiền tài đều được hưng vượng, hôn nhân hỉ sự trùng trùng, mọi việc đều được xứng ý toại lòng.
Nếu gặp Liêm Trinh, Phá Quân, Thái Âm, Thiên Tướng, Kình Dương, Hóa Kị, thì đoán năm ấy phá tài, bị quan tai khẩu thiệt, bản thân thấy hối lận, luận là mất đi một nửa (những gì đang có???).
*
Năm Thìn, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Thìn cung nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Tham Lang, Thất Sát tại thìn cung thủ mệnh hạn thì người tuổi Quý Giáp được tài quan lộc đều vượng. Thiên cơ, Thái Dương thì người tuổi Đinh, Canh, Quý được tài quan lộc vượng. Thiên Đồng thì người tuổi Mậu Canh Quý được thuận lợi toại ý. Cự Môn thì người tuổi Bính Tân được toại ý.
Năm Thìn, Thái Tuế cùng Tiểu hạn đến cung Thìn không nhập miếu hóa hung:
Có Tham Lang, Vũ Khúc tại Thìn cung thì người tuổi Nhâm Quý có tai nạn, hối lận. Thiên Đồng, Cự Môn thì người tuổi Đinh Canh có tai vạ, hối lận. Liêm Trinh thì người tuổi Nhâm Quý có tai hối rất nặng. Thái Âm, Thái Dương, Thiên Cơ thì người tuổi Giáp Ất Mậu Kỷ có tai vạ, hối lận.
Năm Thìn, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Thái Dương, Thiên Cơ, Thiên Lương, Thất Sát, Tham Lang, Văn Xương, Tả Phụ, Hữu Hật, bèn đoán là năm ấy có nhiều tài lộc tăng tiến, gia đạo thêm hưng thịnh, thêm người tăng khẩu, hôn nhân hỉ sự trùng trùng.
Nếu gặp Tử Vi, Thiên Đồng, Liêm Trinh, Thiên Phủ, Thái Âm, Cự Môn, Thiên Tướng, Phá Quân, Hóa Kị, bèn đoán năm ấy phá tài, có tang chế, bị quan tai khẩu thiệt.
*
Năm Tị, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Tị cung nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Đồng, Cự Môn Thiên Tướng, Thiên Lương, Phá Quân, thì người tuổi Bính Mậu Tân được phát phúc. Thái Âm, Thiên Cơ, thì người tuổi Đinh, Nhâm, Tân, Bính bị phá tài. Tham Lang thì người tuổi Giáp Mậu được không đáng kể.
Năm Tị, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến cung Tị không nhập miếu hóa hung:
Có Cự Môn, Tham Lang thì người tuổi Quý Bính sẽ gặp khẩu thiệt, tai vạ, hối lận. Thái Âm, Phá Quân cũng chủ tai vạ, hối lận, đa đoan.
Năm Tị, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Tử Vi, Thái Dương, Thiên Đồng, Thiên Phủ, Thiên Lương, Lộc Tồn, bèn đoán năm ấy người và tiền tài đều được xứng ý, hỉ sự trùng trùng.
Nếu gặp Vũ Khúc, Liêm Trinh, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Phá Quân, Hóa Kị, thì bèn đoán năm đấy người mất tài tan, quan tai khẩu thiệt, bản thân bệnh hoạn, luận là mất đi một nửa (những gì đang có???).
*
Năm Ngọ, Thái Tuế cùng Tiểu hạn đến cung Ngọ nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Thiên Lương, Liêm Trinh, Thất Sát, Phá Quân, thì người tuổi Đinh Kỷ Giáp Quý được tiền tài tăng tiến, xứng ý toại tâm.
Năm Ngọ, Thái Tuế cùng Tiểu hạn đến cung Ngọ không nhập miếu hóa hung:
Có Tham Lang tại Bính Ngọ thì người tuổi Nhâm Quý bị phá tán tiền tài, quan tai khẩu thiệt.
Năm Ngọ, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Liêm Trinh, Thiên Tướng, Cự Môn, Thiên Lương, Phá Quân, Lộc Tồn, liền đoán là năm ấy người và tiền tài đều được hưng vượng, hôn nhân hỉ sự trùng trùng.
Nếu gặpThái Âm, Thiên Đồng, Tham Lang, Kình, Đà, Hóa Kị, thì liền đoán năm ấy người và tiền tài phá bại, quan tai khẩu thiệt, có tang chế, bản thân có tai ách thì có thể tránh được.
*
Năm Mùi, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Mùi cung nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Thiên Cơ, Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương thì người tuổi Nhâm Ất được phát phúc, người tuổi Canh Nhâm được phát phúc sinh tiền tài.
Năm Mùi, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Mùi cung không nhập miếu hóa hung:
Có Thái Dương thì người tuổi Giáp Ất lắm tai vạ, hối lận. Thiên Đồng thì người tuổi Đinh, Canh lắm tai nạn. Vũ Khcus thì người tuổi Nhâm Quý gặp tai vạ, chiêu chuốc quan tụng thị phi, hoạnh họa.
Năm Mùi, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Tử Vi, Thiên Phủ, Liêm Trinh, Thiên Cơ, Phá Quân, Thiên Tướng, liền đoán năm ấy người tăng tài lợi, vào việc đều được như ý, hôn nhân hỉ sự được vui mừng.
Nếu gặp Thái Âm, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Tham Lang, Cự Môn, Kình Đà, Hóa Kị thì liền đoán năm ấy người hao tài tán, quan tai tang chế, tỳ thiếp kẻ nhỏ trong nhà không được bình an, bản thân khó miễn được tai ách.
*
Năm Thân, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến cung Thân nhập miếu hóa cát:
Có Liêm Trinh, Phá Quân, Tử Vi, thì người tuổi Giáp Canh Quý được phát phúc. Cự Môn thì người tuổi Giáp canh Quý được phát phúc. Thiên cơ thì người tuổi Đinh Giáp Quý được phát phúc, người tuổi Canh cũng phát phúc và phát tài.
Năm Thân, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến cung Thân không nhập miếu hóa hung:
Có Thiên Cơ thì người tuổi Ất Mậu gặp tai vạ, hối lận. Cự Môn thì người tuổi Đinh không hợp. Liêm Trinh thì người tuổi Bính Nhâm có tai vạ. Thiên Đồng thì người tuổi Giáp Canh có tai họa. Tham lang thì người tuổi Quý Bính có tai họa.
Năm Thân, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Tử Vi, Thái Dương, Liêm Trinh, Thiên Phủ, Cự Môn, Thất Sát, Văn Xương, Vũ Khúc, Lộc Tồn, thì liền đoán năm ấy người và tiền tài đều có cát lợi, hỉ sự trùng trùng.
Nếu gặp Thiên cơ, Thiên Đồng, Thiên Lương, Thiên Tướng, Thái Âm, Phá Quân, Hóa Kị, thì liền đoán năm đó người mất tài tan, quan tụng thị phi, tang chế, bản thân có tai bệnh.
*
Năm Dậu, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn tới cung Dậu nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Thiên cơ, Thái Âm tại Dậu cung thủ mệnh thì người tuổi Bính Mậu Ất Tân được tiến tài tăng lộc, cát lợi.
Năm Dậu, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn tới cung Dậu không nhập miếu hóa hung:
Có Thái Dương Thiên Đồng thì người tuổi Giáp Ất không hợp. Vũ Khúc thì người tuổi Canh Nhâm không hợp. Thiên Tướng thì người tuổi Giáp Canh không hợp. Liêm Trinh thì người tuổi Giáp Canh Bính Tân không hợp. Thiên Phủ thì người tuổi Giáp Canh Nhâm không hợp.
Năm Dậu, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Lộc Tồn, Thái Âm, Tử Vi, Thiên Phủ, Xương Khúc, Tả Hữu, thì liền đoán năm ấy người và tiền tài được hưng vượng, vào việc được xứng ý toại lòng.
Nếu như gặp Thiên Cơ, Cự Môn, Vũ Khúc, Liêm Trinh, Kình Dương, Đà La, Hóa Kị thì liền đoán năm đó người ly tài tán, khẩu thiệt quan tụng thị phi.
*
Năm Tuất, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến cung Tuất nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi thì người tuổi Nhâm Giáp Đinh Kỷ được tiến tài tăng lộc. Thái Âm thì người tuổi Đinh Kỷ được vui mừng tốt đẹp. Vũ Khúc thì người tuổi Đinh Kỷ Giáp Canh được vui mừng tốt đẹp. Thiên Cơ thì người tuổi Giáp Ất Đinh Kỷ phát phúc. Cự Môn thì người tuổi Kỷ Tân Quý được phát phúc. Thiên Đồng, Liêm Trinh, Thất Sát, Phá Quân thì người tuổi Đinh Kỷ Giáp được phát tài.
Năm Tuất, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến cung Tuất không nhập miếu hóa hung:
Có Tham Lang thì người tuổi Quý không hợp. Thiên Đồng thì người tuổi Canh không hợp. Thiên Cơ thì người tuổi Mậu không hợp. Cự Môn thì người tuổi Đinh không hợp. Thái Dương thì người tuổi Giáp không hợp. Liêm Trinh thì người tuổi Bính không hợp. Vũ Khúc thì người tuổi Nhâm không hợp.
Năm Tuất, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Lương, Thiên Phủ, Vũ Khúc, Thất Sát, Tham Lang, Tả, Hữu, Thiên Đồng, thì liền đoán năm ấy người và tiền tài đều được lợi ích, vào việc được xứng ý toại lòng, gia đạo hưng long.
Nếu như gặp Cự Môn, Thái Dương, Phá Quân, Tử Vi, Thiên Tướng, Hóa Kị, thì liền đoán năm ấy người suy tiền tài mất, có tang gia, quan tai, bản thân cũng có bệnh tật.
*
Năm Hợi, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến cung Hợi nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Thiên Đồng, Cự Môn, Thiên Lương, thì người tuổi Nhâm Quý được tốt đẹp vui mừng. Thiên Cơ thì người tuổi Nhâm được tốt lành đẹp đẽ. Thiên Tướng thì người tuổi Đinh Kỷ và Mậu Bính được phát phúc. Thái Âm thì người tuổi Mậu Kỷ được tài quan song mỹ.
Năm Hợi, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến cung Hợi không nhập miếu hóa hung:
Có Liêm Trinh thì người tuổi Bính Nhâm Quý không hợp. Vũ Khúc thì người tuổi Nhâm Bính không hợp. Thái Dương thì người tuổi Giáp không hợp.
Năm Hợi, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Thiên Đồng, Thái Âm, Thiên Lương, Tử Vi, Thiên Phủ, Xương Khúc, Lộc Tồn, liền đoán năm ấy người và tiền tài đều được tăng tiến, hỉ khí trùng trùng, mưu sự được xứng ý toại lòng.
Nếu gặp Liêm Trinh, Phá Quân, Thất Sát, liền đoán năm ấy người hao tài tán, tỳ thiếp và kẻ nhỏ trong nhà tử vong, bản thân tai nạn, hối lận.
Dựa vào cái này để phán đoán các năm hành hạn của người ta tai nạn ra sao ứng như thần.
*
Năm Tý, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Tý cung, nhập miếu hóa cát:
Có Thất Sát Phá Quân tại Tý cung thủ tuế hạn thì người tuổi Quý Canh Kỷ được phát phúc. Cự Môn Thiên Cơ (ở đó) thì người tuổi Ất Quý được phát phúc. Có Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, thì người tuổi Đinh Kỷ Canh được vượng tiền tài và xứng ý toại lòng. Còn có Thiên Đồng thì người tuổi Bính Đinh được tài quan song mỹ.
Năm Tý, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Tý cung, không nhập miếu hóa hung:
Có Tử Vi tại Tý cung thủ mệnh, đến tuế hạn thì người tuổi Bính Mậu không được tốt lành, có phá tài, tai ương.
Năm Tý, Thái Tuế gặp các cát hung tinh:
Có Lộc Tồn, Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thái Âm, Xương Khúc, Phụ Bật, Phá Quân, Thiên Tướng, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Thiên Phủ, Cự Môn, Thất Sát, thì có thể đoán năm ấy người và tài lộc đều được lưỡng toàn song mỹ, vạn sự xứng ý toại lòng.
Nếu gặp Tham Lang, Tử Vi, Thiên Lương, Hóa Kị, Thái Dương, Kình Dương, thì liền đoán người hao tài tán, tang chế hiếu phục, bản thân xui xẻo chẳng được an lành, luận là mất đi một nửa (những gì đang có???).
*
Năm Sửu, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Sửu cung nhập miếu hóa cát:
Có Thiên Cơ tại Sửu thủ mệnh thì người tuổi Bính Tân được phát vượng. Thiên Tướng (tại Sửu) thì người tuổi Mậu phát vượng. Thái Âm, Vũ Khúc (tại Sửu năm Sửu) thì người Bính Mậu được phát vượng. Thiên Phủ, Liêm Trinh (ở đó) thì người tuổi Mậu phát vượng. Thiên Lương thì người tuổi Mậu Tân được phát vượng.
Năm Sửu, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Sửu cung không nhập miếu hóa hung:
Có Thái Âm tại Sửu cung thủ Mệnh thì người tuổi Mậu "hối lận" (tức là: xui xẻo không gặp lành. Sau đây chỉ dùng từ "hối lận" cho đúng thuật ngữ huyền học). Thái Dương (tại Sửu) thì người tuổi Giáp Ất hối lận. Thiên Cơ thì người tuổi Bính Tân Quý hối lận. Thiên Đồng, Liêm Trinh thì người tuổi Đinh Canh chiêu chuốc quan tụng thị phi.
Năm Sửu, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Tử Vi, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thái Âm, Thiên Phủ, Lộc Tồn, Liêm Trinh, Phá Quân, Xương Khúc, Thiên Ki, Phụ Bật, thì có thể đoán là năm ấy mọi sự đều xứng ý toại lòng.
Nếu gặp Thiên Đồng, Cự Môn, Vũ Khúc, Tham Lang, Hóa Kị, Thái Dương, Kình Dương, bèn đoán là năm ấy người tán tài hao, quan tai, khẩu thiệt, có tang chế, bản thân gặp phải hối lận, luận là mất đi một nửa (những gì đang có???).
*
Năm Dần, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Dần cung nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Lương, Thất Sát, thì người tuổi Giáp Canh Đinh Kỷ được tài quan song mỹ.
Năm Dần, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Dần cung không nhập miếu hóa hung:
Có Liêm Trinh, Phá Quân, Tham Lang tại Dần thì người tuổi Bính Mậu chiêu chuốc quan tụng thị phi. Người tuổi Giáp tuổi Tý đều kị tuế hạn đến Dần Thân.
Năm Dần, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Cơ, Thái Âm, Vũ Khúc, Thất Sát, Thiên Đồng, Thiên Tướng, Thái Dương, Cự Môn, Thiên Lương, bèn đoán là năm ấy người và tiền tài đều tăng tiến, lợi ích, vào việc gì cũng xứng ý toại lòng.
Nếu gặp Tham Lang, Đà La, Hóa Kị, bèn đoán năm ấy người ly tài tán, quan tụng, thị phi, bản thân thấy tai vạ, luận là mất đi một nửa (những gì đang có???).
*
Năm Mão, Thái Tuế cùng Tiểu hạn đến Mão cung nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Thiên Tướng, Thiên Phủ, Thiên Đồng, Vũ khúc tại Mệnh thì người tuổi Ất Tân được phát vượng.
Năm Mão, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Mão cung khồng nhập miếu hóa hung:
Có Liêm Trinh thì người tuổi Giáp Bình vụt chốc phá tài. Thái Âm thì người tuổi Giáp Ất bị người ly tài tán, tai bệnh, người tuổi Canh cũng chẳng hợp nên chủ tai họa bệnh tật.
Năm Mão, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Thái Âm, Thiên Lương, Tử Vi, Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Phủ, Tham Lang, Cự Môn, Thất Sát, thì đoán là năm ấy người và tiền tài đều được hưng vượng, hôn nhân hỉ sự trùng trùng, mọi việc đều được xứng ý toại lòng.
Nếu gặp Liêm Trinh, Phá Quân, Thái Âm, Thiên Tướng, Kình Dương, Hóa Kị, thì đoán năm ấy phá tài, bị quan tai khẩu thiệt, bản thân thấy hối lận, luận là mất đi một nửa (những gì đang có???).
*
Năm Thìn, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Thìn cung nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Tham Lang, Thất Sát tại thìn cung thủ mệnh hạn thì người tuổi Quý Giáp được tài quan lộc đều vượng. Thiên cơ, Thái Dương thì người tuổi Đinh, Canh, Quý được tài quan lộc vượng. Thiên Đồng thì người tuổi Mậu Canh Quý được thuận lợi toại ý. Cự Môn thì người tuổi Bính Tân được toại ý.
Năm Thìn, Thái Tuế cùng Tiểu hạn đến cung Thìn không nhập miếu hóa hung:
Có Tham Lang, Vũ Khúc tại Thìn cung thì người tuổi Nhâm Quý có tai nạn, hối lận. Thiên Đồng, Cự Môn thì người tuổi Đinh Canh có tai vạ, hối lận. Liêm Trinh thì người tuổi Nhâm Quý có tai hối rất nặng. Thái Âm, Thái Dương, Thiên Cơ thì người tuổi Giáp Ất Mậu Kỷ có tai vạ, hối lận.
Năm Thìn, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Thái Dương, Thiên Cơ, Thiên Lương, Thất Sát, Tham Lang, Văn Xương, Tả Phụ, Hữu Hật, bèn đoán là năm ấy có nhiều tài lộc tăng tiến, gia đạo thêm hưng thịnh, thêm người tăng khẩu, hôn nhân hỉ sự trùng trùng.
Nếu gặp Tử Vi, Thiên Đồng, Liêm Trinh, Thiên Phủ, Thái Âm, Cự Môn, Thiên Tướng, Phá Quân, Hóa Kị, bèn đoán năm ấy phá tài, có tang chế, bị quan tai khẩu thiệt.
*
Năm Tị, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Tị cung nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Đồng, Cự Môn Thiên Tướng, Thiên Lương, Phá Quân, thì người tuổi Bính Mậu Tân được phát phúc. Thái Âm, Thiên Cơ, thì người tuổi Đinh, Nhâm, Tân, Bính bị phá tài. Tham Lang thì người tuổi Giáp Mậu được không đáng kể.
Năm Tị, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến cung Tị không nhập miếu hóa hung:
Có Cự Môn, Tham Lang thì người tuổi Quý Bính sẽ gặp khẩu thiệt, tai vạ, hối lận. Thái Âm, Phá Quân cũng chủ tai vạ, hối lận, đa đoan.
Năm Tị, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Tử Vi, Thái Dương, Thiên Đồng, Thiên Phủ, Thiên Lương, Lộc Tồn, bèn đoán năm ấy người và tiền tài đều được xứng ý, hỉ sự trùng trùng.
Nếu gặp Vũ Khúc, Liêm Trinh, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Phá Quân, Hóa Kị, thì bèn đoán năm đấy người mất tài tan, quan tai khẩu thiệt, bản thân bệnh hoạn, luận là mất đi một nửa (những gì đang có???).
*
Năm Ngọ, Thái Tuế cùng Tiểu hạn đến cung Ngọ nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Thiên Lương, Liêm Trinh, Thất Sát, Phá Quân, thì người tuổi Đinh Kỷ Giáp Quý được tiền tài tăng tiến, xứng ý toại tâm.
Năm Ngọ, Thái Tuế cùng Tiểu hạn đến cung Ngọ không nhập miếu hóa hung:
Có Tham Lang tại Bính Ngọ thì người tuổi Nhâm Quý bị phá tán tiền tài, quan tai khẩu thiệt.
Năm Ngọ, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Liêm Trinh, Thiên Tướng, Cự Môn, Thiên Lương, Phá Quân, Lộc Tồn, liền đoán là năm ấy người và tiền tài đều được hưng vượng, hôn nhân hỉ sự trùng trùng.
Nếu gặpThái Âm, Thiên Đồng, Tham Lang, Kình, Đà, Hóa Kị, thì liền đoán năm ấy người và tiền tài phá bại, quan tai khẩu thiệt, có tang chế, bản thân có tai ách thì có thể tránh được.
*
Năm Mùi, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Mùi cung nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Thiên Cơ, Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương thì người tuổi Nhâm Ất được phát phúc, người tuổi Canh Nhâm được phát phúc sinh tiền tài.
Năm Mùi, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến Mùi cung không nhập miếu hóa hung:
Có Thái Dương thì người tuổi Giáp Ất lắm tai vạ, hối lận. Thiên Đồng thì người tuổi Đinh, Canh lắm tai nạn. Vũ Khcus thì người tuổi Nhâm Quý gặp tai vạ, chiêu chuốc quan tụng thị phi, hoạnh họa.
Năm Mùi, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Tử Vi, Thiên Phủ, Liêm Trinh, Thiên Cơ, Phá Quân, Thiên Tướng, liền đoán năm ấy người tăng tài lợi, vào việc đều được như ý, hôn nhân hỉ sự được vui mừng.
Nếu gặp Thái Âm, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Tham Lang, Cự Môn, Kình Đà, Hóa Kị thì liền đoán năm ấy người hao tài tán, quan tai tang chế, tỳ thiếp kẻ nhỏ trong nhà không được bình an, bản thân khó miễn được tai ách.
*
Năm Thân, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến cung Thân nhập miếu hóa cát:
Có Liêm Trinh, Phá Quân, Tử Vi, thì người tuổi Giáp Canh Quý được phát phúc. Cự Môn thì người tuổi Giáp canh Quý được phát phúc. Thiên cơ thì người tuổi Đinh Giáp Quý được phát phúc, người tuổi Canh cũng phát phúc và phát tài.
Năm Thân, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến cung Thân không nhập miếu hóa hung:
Có Thiên Cơ thì người tuổi Ất Mậu gặp tai vạ, hối lận. Cự Môn thì người tuổi Đinh không hợp. Liêm Trinh thì người tuổi Bính Nhâm có tai vạ. Thiên Đồng thì người tuổi Giáp Canh có tai họa. Tham lang thì người tuổi Quý Bính có tai họa.
Năm Thân, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Tử Vi, Thái Dương, Liêm Trinh, Thiên Phủ, Cự Môn, Thất Sát, Văn Xương, Vũ Khúc, Lộc Tồn, thì liền đoán năm ấy người và tiền tài đều có cát lợi, hỉ sự trùng trùng.
Nếu gặp Thiên cơ, Thiên Đồng, Thiên Lương, Thiên Tướng, Thái Âm, Phá Quân, Hóa Kị, thì liền đoán năm đó người mất tài tan, quan tụng thị phi, tang chế, bản thân có tai bệnh.
*
Năm Dậu, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn tới cung Dậu nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Thiên cơ, Thái Âm tại Dậu cung thủ mệnh thì người tuổi Bính Mậu Ất Tân được tiến tài tăng lộc, cát lợi.
Năm Dậu, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn tới cung Dậu không nhập miếu hóa hung:
Có Thái Dương Thiên Đồng thì người tuổi Giáp Ất không hợp. Vũ Khúc thì người tuổi Canh Nhâm không hợp. Thiên Tướng thì người tuổi Giáp Canh không hợp. Liêm Trinh thì người tuổi Giáp Canh Bính Tân không hợp. Thiên Phủ thì người tuổi Giáp Canh Nhâm không hợp.
Năm Dậu, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Lộc Tồn, Thái Âm, Tử Vi, Thiên Phủ, Xương Khúc, Tả Hữu, thì liền đoán năm ấy người và tiền tài được hưng vượng, vào việc được xứng ý toại lòng.
Nếu như gặp Thiên Cơ, Cự Môn, Vũ Khúc, Liêm Trinh, Kình Dương, Đà La, Hóa Kị thì liền đoán năm đó người ly tài tán, khẩu thiệt quan tụng thị phi.
*
Năm Tuất, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến cung Tuất nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi thì người tuổi Nhâm Giáp Đinh Kỷ được tiến tài tăng lộc. Thái Âm thì người tuổi Đinh Kỷ được vui mừng tốt đẹp. Vũ Khúc thì người tuổi Đinh Kỷ Giáp Canh được vui mừng tốt đẹp. Thiên Cơ thì người tuổi Giáp Ất Đinh Kỷ phát phúc. Cự Môn thì người tuổi Kỷ Tân Quý được phát phúc. Thiên Đồng, Liêm Trinh, Thất Sát, Phá Quân thì người tuổi Đinh Kỷ Giáp được phát tài.
Năm Tuất, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến cung Tuất không nhập miếu hóa hung:
Có Tham Lang thì người tuổi Quý không hợp. Thiên Đồng thì người tuổi Canh không hợp. Thiên Cơ thì người tuổi Mậu không hợp. Cự Môn thì người tuổi Đinh không hợp. Thái Dương thì người tuổi Giáp không hợp. Liêm Trinh thì người tuổi Bính không hợp. Vũ Khúc thì người tuổi Nhâm không hợp.
Năm Tuất, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Có Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Lương, Thiên Phủ, Vũ Khúc, Thất Sát, Tham Lang, Tả, Hữu, Thiên Đồng, thì liền đoán năm ấy người và tiền tài đều được lợi ích, vào việc được xứng ý toại lòng, gia đạo hưng long.
Nếu như gặp Cự Môn, Thái Dương, Phá Quân, Tử Vi, Thiên Tướng, Hóa Kị, thì liền đoán năm ấy người suy tiền tài mất, có tang gia, quan tai, bản thân cũng có bệnh tật.
*
Năm Hợi, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến cung Hợi nhập miếu hóa cát:
Có Tử Vi, Thiên Đồng, Cự Môn, Thiên Lương, thì người tuổi Nhâm Quý được tốt đẹp vui mừng. Thiên Cơ thì người tuổi Nhâm được tốt lành đẹp đẽ. Thiên Tướng thì người tuổi Đinh Kỷ và Mậu Bính được phát phúc. Thái Âm thì người tuổi Mậu Kỷ được tài quan song mỹ.
Năm Hợi, Thái Tuế cùng Tiểu Hạn đến cung Hợi không nhập miếu hóa hung:
Có Liêm Trinh thì người tuổi Bính Nhâm Quý không hợp. Vũ Khúc thì người tuổi Nhâm Bính không hợp. Thái Dương thì người tuổi Giáp không hợp.
Năm Hợi, Thái Tuế gặp cát hung tinh:
Thiên Đồng, Thái Âm, Thiên Lương, Tử Vi, Thiên Phủ, Xương Khúc, Lộc Tồn, liền đoán năm ấy người và tiền tài đều được tăng tiến, hỉ khí trùng trùng, mưu sự được xứng ý toại lòng.
Nếu gặp Liêm Trinh, Phá Quân, Thất Sát, liền đoán năm ấy người hao tài tán, tỳ thiếp và kẻ nhỏ trong nhà tử vong, bản thân tai nạn, hối lận.
Thanked by 12 Members:
|
|
#118
Gửi vào 18/09/2013 - 08:49
21. Luận các sao ở các cung các ti sở mà phân biệt phú quý thọ yểu bần tiện
*
Tử Vi
Miếu: Sửu Mùi Ngọ
Vượng: Dần Thân Mão Dậu Tị Hợi
Bình: Tý
Không hãm
- Tử Vi cư Ngọ vô Hình Kị Giáp Đinh Kỷ mệnh chí công khanh.
(Tử Vi ở Ngọ cung, không gặp phải "Hình", "Kị" thì người các tuổi Giáp Đinh Kỷ có số làm đến công hầu khanh tướng)
Thêm "Hình", "Kị" thì bình thường. Hình ở đây là Kình Dương vậy.
(QNB chú: dấu "" là do QNB thêm vào, và theo bình chú của sách này "Hình" là Kình Dương thì QNB cho rằng ta có quyền nghĩ ngay đến "Kị" chính là muốn nói đến Đà La với căn cứ là câu "Kình hóa khí là Hình, Đà hóa khí là Kị").
- Tử Vi cư Tý Ngọ Khoa Quyền Lộc chiếu tối vi kỳ.
(Tử Vi ở Tý Ngọ có Khoa Quyền Lộc chiếu thì rất là đặc sắc)
Khoa Quyền Lộc tam phương chiếu ấy gọi là "ngưỡng diện triều đẩu" cách.
- Tử Vi nam Hợi nữ Dần cung Nhâm Giáp sinh nhân phú quý đồng.
(Tử Vi ở Hợi đối với Nam, ở Dần đối với Nữ, người tuổi Nhâm Giáp được phú quý như nhau)
Nam Nữ cũng giống như nhau vậy.
- Tử Vi Mão Dậu Kiếp Không tứ sát đa vi thoát tục chi tăng.
(Tử Vi ở Mão Dậu gặp Kiếp Không và Tứ sát thì quả thật là thoát tục đi tu)
Tứ sát ở đây là Kình Đà Hỏa Linh vậy.
- Tử Vi Thiên Phủ toàn ỷ Phụ Bật chi công.
(Tử Vi Thiên Phủ đều phải dựa vào công lao, trợ giúp của Tả Phụ, Hữu Bật)
Tử Phủ đắc Phụ Bật đồng cung, và tam phương củng chiếu gia hội, cả đời phú quý.
- Tử Vi đồng cung vô sát thấu Giáp nhân hưởng phúc chung thân.
(Tử Vi đồng cung và không có sát tinh tụ tập thủ chiếu thì người tuổi Giáp cả đời được hưởng phúc)
Tử Phủ cùng tại Dần Thân cung thủ mệnh, lục Giáp được phú quý.
(QNB chú: Dịch nguyên văn, nhưng tôi cho rằng cụm từ "Tử Vi đồng cung" đã có sự thất bản nào đó, vì nói "đồng cung" thì phải bảo đồng cung với cái gì chứ, hoặc giả là nhầm chữ "Phủ" hoặc chữ "Lộc (Tồn)" thành chữ "Vi",... nhưng sao câu bình chú bên dưới thì sách chỉ đề cập tới tuổi Giáp mà không nói đến tuổi Canh??? Xin độc giả lưu ý).
- Tử Phủ triều viên hoạt Lộc phùng chung thân phúc hậu chí tam công.
(Tử Phủ chầu về cung Mệnh và gặp được "hoạt Lộc" thì cả đời được hưởng phúc dày, tước vị tới cỡ Tam Công)
Mệnh tọa Dần Thân lại thêm các cát tinh hóa diệu.
- Tử Phủ Nhật Nguyệt cư vượng địa tất định xuất giai công khanh khí.
(Tử Phủ Nhật Nguyệt ở chỗ vượng địa thì thế nào cũng làm công hầu khanh tướng)
Tử Ngọ Phủ Sửu không thêm sát tinh, lại có hóa Lộc thì là vậy.
- Tử Phủ Vũ Khúc lâm Tài Trạch canh kiêm Quyền Lộc phú xa ông
(Tử Phủ Vũ Khúc lâm vào Tài Trạch có thêm Quyền Lộc thì giàu có vô cùng)
Đắc Tả Hữu Lộc Tồn cũng giống thế.
(QNB chú: Tài Trạch = Tài Bạch, Điền Trạch cung???).
- Tử Vi Phụ Bật đồng cung nhất hô bách nặc cư thượng phẩm.
(Tử Vi và Phụ, Bật đồng cung thì hô 1 tiếng có trăm kẻ dạ ran, chức tới thượng phẩm)
Có thể lấy tam phương làm thứ cát, tại Tài Bạch cung thì là tài phú chi quan.
- Tử Phủ Kình Dương tại cự thương.
(Tử Phủ gặp Kình Dương thì là người buôn bán cực lớn)
Có Vũ Khúc cư Thiên Di cũng tốt lành vậy.
- Tử Lộc đồng cung Nhật Nguyệt chiếu quý bất khả ngôn.
(Tử Vi với Lộc đồng cung, Nhật Nguyệt chiếu thì quý khó mà nói hết)
- Tử Vi Thất Sát hóa quyền phản tác trinh tử.
(Tử Vi Thất Sát hóa Quyền thì phản chuyển thành trụ cột (của quốc gia))
- Tử Vi Phá Quân vô Tả Hữu vô cát diệu hung ác tư lại chi đồ.
(Tử Vi Phá Quân mà không có Tả Hữu, không có cát tinh thì chỉ làm kẻ quan lại nhỏ mà còn hung ác)
- Tử Vi Quyền Lộc ngộ Dương Đà tuy hoạch cát nhi vô đạo.
(Tử Vi có hóa Quyền Lộc lại gặp Kình Đà thì tuy là có may mắn thuận lợi nhưng thuộc loại vô đạo).
Là người có tâm thuật bất chính.
- Tử Phá mệnh lâm ư Thìn Tuất Sửu Mùi tái gia cát diệu phú quý kham kỳ.
(Tử Phá ở Mệnh nơi Thìn Tuất Sửu Mùi, nếu có thêm cát diệu thì mới có thể trông đợi vào giàu sang, quyền quý được).
- Tử Phá Tham Lang vi chí dâm nam nữ tà dâm.
(Tử Phá Tham Lang là rất dâm, nam nữ đều tà dâm).
- Tử Phủ đồng lâm Tị Hợi nhất triêu phú quý song toàn.
(Tử Phủ cùng đến chỗ Tị Hợi thì mai này sẽ được song toàn phú quý)
- Tử Phủ giáp mệnh vi quý cách
(Tử Phủ giáp Mệnh cung là quý cách).
- Tử Vi Xương Khúc phú quý khả kỳ.
(Tử Vi Xương Khúc thì có thể trông đợi phú quý)
- Tử Vi Thái Âm sát diệu phùng nhất sinh tào lại sính anh hùng.
(Tử Vi Thái Âm gặp sát tinh thì cả đời làm quan lại (nhỏ) mà trổ tài năng anh hùng).
- Tử Vi Vũ Khúc Phá Quân hội Dương Đà khi công họa loạn.
(Tử Vi Vũ Khúc Phá Quân mà hội Kình Đà thì dễ ức hiếp công chính dẫn đến họa loạn).
Chỉ hợp với kinh doanh buôn bán.
- Tử Phá Thìn Tuất quân thần bất nghĩa.
(Tử Phá ở Thìn Tuất như tượng vua với bề tôi bất nghĩa)
Mệnh của An Lạc Sơn và Triệu Cao chính là như vậy.
- Nữ mệnh Tử Vi Thái Dương tinh tảo ngộ hiền phu tín khả bằng.
(Nữ mệnh có Tử Vi, Thái Dương thì sớm gặp được chồng là người hiền tài mà có thể tin tưởng làm nơi nương tựa).
Nữ mệnh Tử Vi tại Dần Ngọ Thân cung là tốt lành, vừa quý vừa đẹp lại vượng phu ích tử. Hãm địa bình thường, duy chỉ có ở Tý Dậu Tị Hợi có tứ sát, là "mỹ ngọc hà điểm" về sau không đẹp.
*
Tử Vi
Miếu: Sửu Mùi Ngọ
Vượng: Dần Thân Mão Dậu Tị Hợi
Bình: Tý
Không hãm
- Tử Vi cư Ngọ vô Hình Kị Giáp Đinh Kỷ mệnh chí công khanh.
(Tử Vi ở Ngọ cung, không gặp phải "Hình", "Kị" thì người các tuổi Giáp Đinh Kỷ có số làm đến công hầu khanh tướng)
Thêm "Hình", "Kị" thì bình thường. Hình ở đây là Kình Dương vậy.
(QNB chú: dấu "" là do QNB thêm vào, và theo bình chú của sách này "Hình" là Kình Dương thì QNB cho rằng ta có quyền nghĩ ngay đến "Kị" chính là muốn nói đến Đà La với căn cứ là câu "Kình hóa khí là Hình, Đà hóa khí là Kị").
- Tử Vi cư Tý Ngọ Khoa Quyền Lộc chiếu tối vi kỳ.
(Tử Vi ở Tý Ngọ có Khoa Quyền Lộc chiếu thì rất là đặc sắc)
Khoa Quyền Lộc tam phương chiếu ấy gọi là "ngưỡng diện triều đẩu" cách.
- Tử Vi nam Hợi nữ Dần cung Nhâm Giáp sinh nhân phú quý đồng.
(Tử Vi ở Hợi đối với Nam, ở Dần đối với Nữ, người tuổi Nhâm Giáp được phú quý như nhau)
Nam Nữ cũng giống như nhau vậy.
- Tử Vi Mão Dậu Kiếp Không tứ sát đa vi thoát tục chi tăng.
(Tử Vi ở Mão Dậu gặp Kiếp Không và Tứ sát thì quả thật là thoát tục đi tu)
Tứ sát ở đây là Kình Đà Hỏa Linh vậy.
- Tử Vi Thiên Phủ toàn ỷ Phụ Bật chi công.
(Tử Vi Thiên Phủ đều phải dựa vào công lao, trợ giúp của Tả Phụ, Hữu Bật)
Tử Phủ đắc Phụ Bật đồng cung, và tam phương củng chiếu gia hội, cả đời phú quý.
- Tử Vi đồng cung vô sát thấu Giáp nhân hưởng phúc chung thân.
(Tử Vi đồng cung và không có sát tinh tụ tập thủ chiếu thì người tuổi Giáp cả đời được hưởng phúc)
Tử Phủ cùng tại Dần Thân cung thủ mệnh, lục Giáp được phú quý.
(QNB chú: Dịch nguyên văn, nhưng tôi cho rằng cụm từ "Tử Vi đồng cung" đã có sự thất bản nào đó, vì nói "đồng cung" thì phải bảo đồng cung với cái gì chứ, hoặc giả là nhầm chữ "Phủ" hoặc chữ "Lộc (Tồn)" thành chữ "Vi",... nhưng sao câu bình chú bên dưới thì sách chỉ đề cập tới tuổi Giáp mà không nói đến tuổi Canh??? Xin độc giả lưu ý).
- Tử Phủ triều viên hoạt Lộc phùng chung thân phúc hậu chí tam công.
(Tử Phủ chầu về cung Mệnh và gặp được "hoạt Lộc" thì cả đời được hưởng phúc dày, tước vị tới cỡ Tam Công)
Mệnh tọa Dần Thân lại thêm các cát tinh hóa diệu.
- Tử Phủ Nhật Nguyệt cư vượng địa tất định xuất giai công khanh khí.
(Tử Phủ Nhật Nguyệt ở chỗ vượng địa thì thế nào cũng làm công hầu khanh tướng)
Tử Ngọ Phủ Sửu không thêm sát tinh, lại có hóa Lộc thì là vậy.
- Tử Phủ Vũ Khúc lâm Tài Trạch canh kiêm Quyền Lộc phú xa ông
(Tử Phủ Vũ Khúc lâm vào Tài Trạch có thêm Quyền Lộc thì giàu có vô cùng)
Đắc Tả Hữu Lộc Tồn cũng giống thế.
(QNB chú: Tài Trạch = Tài Bạch, Điền Trạch cung???).
- Tử Vi Phụ Bật đồng cung nhất hô bách nặc cư thượng phẩm.
(Tử Vi và Phụ, Bật đồng cung thì hô 1 tiếng có trăm kẻ dạ ran, chức tới thượng phẩm)
Có thể lấy tam phương làm thứ cát, tại Tài Bạch cung thì là tài phú chi quan.
- Tử Phủ Kình Dương tại cự thương.
(Tử Phủ gặp Kình Dương thì là người buôn bán cực lớn)
Có Vũ Khúc cư Thiên Di cũng tốt lành vậy.
- Tử Lộc đồng cung Nhật Nguyệt chiếu quý bất khả ngôn.
(Tử Vi với Lộc đồng cung, Nhật Nguyệt chiếu thì quý khó mà nói hết)
- Tử Vi Thất Sát hóa quyền phản tác trinh tử.
(Tử Vi Thất Sát hóa Quyền thì phản chuyển thành trụ cột (của quốc gia))
- Tử Vi Phá Quân vô Tả Hữu vô cát diệu hung ác tư lại chi đồ.
(Tử Vi Phá Quân mà không có Tả Hữu, không có cát tinh thì chỉ làm kẻ quan lại nhỏ mà còn hung ác)
- Tử Vi Quyền Lộc ngộ Dương Đà tuy hoạch cát nhi vô đạo.
(Tử Vi có hóa Quyền Lộc lại gặp Kình Đà thì tuy là có may mắn thuận lợi nhưng thuộc loại vô đạo).
Là người có tâm thuật bất chính.
- Tử Phá mệnh lâm ư Thìn Tuất Sửu Mùi tái gia cát diệu phú quý kham kỳ.
(Tử Phá ở Mệnh nơi Thìn Tuất Sửu Mùi, nếu có thêm cát diệu thì mới có thể trông đợi vào giàu sang, quyền quý được).
- Tử Phá Tham Lang vi chí dâm nam nữ tà dâm.
(Tử Phá Tham Lang là rất dâm, nam nữ đều tà dâm).
- Tử Phủ đồng lâm Tị Hợi nhất triêu phú quý song toàn.
(Tử Phủ cùng đến chỗ Tị Hợi thì mai này sẽ được song toàn phú quý)
- Tử Phủ giáp mệnh vi quý cách
(Tử Phủ giáp Mệnh cung là quý cách).
- Tử Vi Xương Khúc phú quý khả kỳ.
(Tử Vi Xương Khúc thì có thể trông đợi phú quý)
- Tử Vi Thái Âm sát diệu phùng nhất sinh tào lại sính anh hùng.
(Tử Vi Thái Âm gặp sát tinh thì cả đời làm quan lại (nhỏ) mà trổ tài năng anh hùng).
- Tử Vi Vũ Khúc Phá Quân hội Dương Đà khi công họa loạn.
(Tử Vi Vũ Khúc Phá Quân mà hội Kình Đà thì dễ ức hiếp công chính dẫn đến họa loạn).
Chỉ hợp với kinh doanh buôn bán.
- Tử Phá Thìn Tuất quân thần bất nghĩa.
(Tử Phá ở Thìn Tuất như tượng vua với bề tôi bất nghĩa)
Mệnh của An Lạc Sơn và Triệu Cao chính là như vậy.
- Nữ mệnh Tử Vi Thái Dương tinh tảo ngộ hiền phu tín khả bằng.
(Nữ mệnh có Tử Vi, Thái Dương thì sớm gặp được chồng là người hiền tài mà có thể tin tưởng làm nơi nương tựa).
Nữ mệnh Tử Vi tại Dần Ngọ Thân cung là tốt lành, vừa quý vừa đẹp lại vượng phu ích tử. Hãm địa bình thường, duy chỉ có ở Tý Dậu Tị Hợi có tứ sát, là "mỹ ngọc hà điểm" về sau không đẹp.
Thanked by 10 Members:
|
|
#119
Gửi vào 18/09/2013 - 09:18
*
Thiên Phủ
Miếu: Tý Sửu Mùi Dần Thìn Tuất
Vượng: Ngọ Dậu
Đắc: Mão Tị Thân Hợi
Không hãm
- Thiên Phủ Tuất cung vô sát thấu Giáp Kỷ nhân yêu kim hựu thả phú.
(Thiên Phủ ở Tuất mà không bị sát tinh tụ tập thì người tuổi Giáp Kỷ vừa giàu có lại được lưng đeo đai vàng, tức là chức vị rất lớn)
- Thiên Phủ cư Ngọ Tuất Thiên Tướng lai triều Giáp nhân nhất phẩm chi quý
(Thiên Phủ ở Ngọ Tuất có Thiên Tướng chầu đến thì người tuổi Giáp được quyền quý tới nhất phẩm).
- Phủ Tướng triều viên thiên chung thực lộc.
(Phủ Tướng chầu về Mệnh viên thì được lộc hàng ngàn chung)
- Thiên Phủ Xương Khúc Tả Hữu cao đệ ân vinh
(Thiên Phủ Xương Khúc Tả Hữu thì có đỗ đạt rất cao, phủ đệ rất to đẹp)
- Thiên Phủ Thiên Tướng Thiên Lương đồng quân thần khánh hội
(Thiên Phủ Thiên Tướng Thiên Lương ở cùng với nhau cũng được coi là vua tôi mừng hội ngộ)
- Thiên Phủ Lộc Tồn Xương Khúc cự vạn chi tư
(Thiên Phủ Lộc Tồn Xương Khúc tụ hội thì giàu có vô cùng)
- Thiên Phủ Vũ Khúc cư Tài Trạch canh kiêm Quyền Lộc phú xa ông
(Thiên Phủ Vũ Khúc ở Tài Trạch có thêm các hóa Quyền Lộc thì giàu có xa hoa).
Có Tả Hữu, Lộc Tồn cũng đẹp tuyệt vời.
*
Thiên Tướng
Miếu: Tý Ngọ Sửu Dần Thân
Đắc: Thần Tuất Tị Hợi Mùi
Hãm: Mão Dậu
- Thiên Tướng Liêm Trinh Kình Dương lai đa chiêu hình trượng nan đào.
(Thiên Tướng, Liêm Trinh mà có Kình Dương tới thì quả thật là chiêu chuốc lấy & khó thoát được đòn roi và hình phạt của pháp luật).
- Thiên Tướng chi tinh nữ mệnh triền tất đương tử quý cập phu hiền.
(Nữ nhân có Thiên Tướng ở tại triền thứ của cung Mệnh thì tất sẽ có quý tử và có chồng là hiền nhân quân tử).
- Hữu Bật Thiên Tướng phúc lai lâm.
(Hữu Bật đi với Thiên Tướng là phúc đến)
Nữ mệnh Thiên Tướng, Hữu Bật, ở các cung đều cát. Tý cung thì người tuổi Quý, Dần cung người tuổi Quý Kỷ, Thân cung người tuổi Giáp Canh, đều là quý cách. Còn Sửu với Hợi cung không quý.
Thiên Phủ
Miếu: Tý Sửu Mùi Dần Thìn Tuất
Vượng: Ngọ Dậu
Đắc: Mão Tị Thân Hợi
Không hãm
- Thiên Phủ Tuất cung vô sát thấu Giáp Kỷ nhân yêu kim hựu thả phú.
(Thiên Phủ ở Tuất mà không bị sát tinh tụ tập thì người tuổi Giáp Kỷ vừa giàu có lại được lưng đeo đai vàng, tức là chức vị rất lớn)
- Thiên Phủ cư Ngọ Tuất Thiên Tướng lai triều Giáp nhân nhất phẩm chi quý
(Thiên Phủ ở Ngọ Tuất có Thiên Tướng chầu đến thì người tuổi Giáp được quyền quý tới nhất phẩm).
- Phủ Tướng triều viên thiên chung thực lộc.
(Phủ Tướng chầu về Mệnh viên thì được lộc hàng ngàn chung)
- Thiên Phủ Xương Khúc Tả Hữu cao đệ ân vinh
(Thiên Phủ Xương Khúc Tả Hữu thì có đỗ đạt rất cao, phủ đệ rất to đẹp)
- Thiên Phủ Thiên Tướng Thiên Lương đồng quân thần khánh hội
(Thiên Phủ Thiên Tướng Thiên Lương ở cùng với nhau cũng được coi là vua tôi mừng hội ngộ)
- Thiên Phủ Lộc Tồn Xương Khúc cự vạn chi tư
(Thiên Phủ Lộc Tồn Xương Khúc tụ hội thì giàu có vô cùng)
- Thiên Phủ Vũ Khúc cư Tài Trạch canh kiêm Quyền Lộc phú xa ông
(Thiên Phủ Vũ Khúc ở Tài Trạch có thêm các hóa Quyền Lộc thì giàu có xa hoa).
Có Tả Hữu, Lộc Tồn cũng đẹp tuyệt vời.
*
Thiên Tướng
Miếu: Tý Ngọ Sửu Dần Thân
Đắc: Thần Tuất Tị Hợi Mùi
Hãm: Mão Dậu
- Thiên Tướng Liêm Trinh Kình Dương lai đa chiêu hình trượng nan đào.
(Thiên Tướng, Liêm Trinh mà có Kình Dương tới thì quả thật là chiêu chuốc lấy & khó thoát được đòn roi và hình phạt của pháp luật).
- Thiên Tướng chi tinh nữ mệnh triền tất đương tử quý cập phu hiền.
(Nữ nhân có Thiên Tướng ở tại triền thứ của cung Mệnh thì tất sẽ có quý tử và có chồng là hiền nhân quân tử).
- Hữu Bật Thiên Tướng phúc lai lâm.
(Hữu Bật đi với Thiên Tướng là phúc đến)
Nữ mệnh Thiên Tướng, Hữu Bật, ở các cung đều cát. Tý cung thì người tuổi Quý, Dần cung người tuổi Quý Kỷ, Thân cung người tuổi Giáp Canh, đều là quý cách. Còn Sửu với Hợi cung không quý.
Thanked by 9 Members:
|
|
#120
Gửi vào 18/09/2013 - 11:30
*
Thiên Lương
Miếu: Tý Ngọ Dần Mão Thìn Tuất
Vượng: Sửu Mùi
Đắc Địa: Dậu
Hãm: Thân Tị Hợi
- Thiên Lương Nguyệt diệu nữ dâm bần
(Nữ mà Mệnh Thân có Thiên Lương Thái Âm hãm thì nghèo và dâm)
Lương ở Tị Hợi Dần Thân thì chủ dâm dật, ở chỗ không hãm thì áo cơm toại ý dư giả nhưng hãm thì hạ tiện.
- Thiên Lương cư Ngọ vị quan tư thanh hiển triều đường.
(Thiên Lương cư Ngọ thì được vinh hiển quan chức ở triều đình)
Người tuổi Đinh Kỷ Quý là hợp cách.
- Lương Đồng Tị Hợi nam đa lãng đãng nữ đa dâm
(Lương Đồng ở Tị Hợi thì nam phiêu đãng, nữ lại đa dâm)
Thêm Hình Kị và các sát tinh tấu hợp thì toàn là hạ tiện.
- Thiên Lương Văn Xương cư miếu vượng vị chí đài cương
(Thiên Lương Văn Xương ở nơi miếu địa thì tước vị cao tột bực)
- Thiên Lương thủ chiếu cát tương phùng bình sinh phúc thọ
(Thiên Lương thủ chiếu gặp các cát tinh thì bình sinh thường được hưởng phúc và thọ)
Tại Ngọ là cực đẹp.
- Lương Đồng Cơ Nguyệt Dần Thân vị nhất sinh lợi nghiệp thông minh
(Lương Đồng Cơ Nguyệt ở Dần Thân thì một đời thông minh, sự nghiệp thuận lợi)
- Thiên Lương Thái Dương Xương Lộc hội lư truyện đệ nhất danh
(có cách Dương Lương Xương Lộc là được loa xướng tên đệ nhất, tức là đỗ đầu bảng vàng)
- Lương Vũ Âm Linh nghĩ tác đống lương chi khách
(Lương Vũ Âm Linh thì suy nghĩ và hành động như bậc trụ cột, gánh vác công việc)
- Lương tú Thái Âm khước tác phiêu bồng chi khách
(Mệnh Thân mà có Thiên Lương Thái Âm ở chỗ hãm thì là khách giang hồ phiêu lãng)
Lương cư Dậu, Âm cư Tị chính là vậy.
- Thiên Lương Thiên Mã vi nhân phiêu đãng phong lưu
(Thiên Lương và Thiên Mã (đồng cung Tị Hợi) thì là người phiêu đãng, phong lưu).
- Thiên Lương gia cát tọa Thiên Di thần thương cao cổ
(Thiên Lương có cát tinh cùng ở Thiên Di thì làm người buôn bán lớn)
Thêm Hình Kị thì bình thường.
*
Thiên Đồng
Miếu: Tị Hợi
Vượng: Tý Thân
Hãm: Ngọ
- Thiên Đồng hội cát thọ nguyên trường
(Thiên Đồng hội cát tinh thì tuổi thọ rất dài)
- Thiên Đồng Tham Dương Đà cư Ngọ vị Bính Tuất trấn ngữ biên cương
(Thiên Đồng Tham Lang Kình Đà cư Ngọ thì người tuổi Bính Tuất trấn ngự nơi biên cương)
Cũng gọi là "mã đầu đới tiễn" vừa phú vừa quý.
- Đồng Nguyệt hãm cung gia sát trọng kỹ nghệ luy hoàng
(Thiên Đồng Thái Âm ở hãm cung có thêm nhiều sát tinh hạng nặng thì làm kỹ nghệ và gầy yếu)
- Thiên Đồng Tuất cung vi phản bối Đinh nhân mệnh ngộ phản vi giai
(Thiên Đồng ở cung Tuất là hãm địa nhưng người tuổi Đinh gặp lại phản chuyển thành tốt đẹp)
- Nữ mệnh Thiên Đồng tất thị hiền
(Nữ nhân có Thiên Đồng đắc miếu ở Mệnh thì hiền thục)
Người tuổi tý mệnh tọa Dần, người tuổi Tân mệnh tọa Mão, người tuổi Đinh mệnh ở Tuất, là nhập cách. Người tuổi Bính Tân thì trung cát. Người tuổi Kỷ (mà ở) Hợi gặp nó tuy đẹp nhưng mà dâm.
Thiên Lương
Miếu: Tý Ngọ Dần Mão Thìn Tuất
Vượng: Sửu Mùi
Đắc Địa: Dậu
Hãm: Thân Tị Hợi
- Thiên Lương Nguyệt diệu nữ dâm bần
(Nữ mà Mệnh Thân có Thiên Lương Thái Âm hãm thì nghèo và dâm)
Lương ở Tị Hợi Dần Thân thì chủ dâm dật, ở chỗ không hãm thì áo cơm toại ý dư giả nhưng hãm thì hạ tiện.
- Thiên Lương cư Ngọ vị quan tư thanh hiển triều đường.
(Thiên Lương cư Ngọ thì được vinh hiển quan chức ở triều đình)
Người tuổi Đinh Kỷ Quý là hợp cách.
- Lương Đồng Tị Hợi nam đa lãng đãng nữ đa dâm
(Lương Đồng ở Tị Hợi thì nam phiêu đãng, nữ lại đa dâm)
Thêm Hình Kị và các sát tinh tấu hợp thì toàn là hạ tiện.
- Thiên Lương Văn Xương cư miếu vượng vị chí đài cương
(Thiên Lương Văn Xương ở nơi miếu địa thì tước vị cao tột bực)
- Thiên Lương thủ chiếu cát tương phùng bình sinh phúc thọ
(Thiên Lương thủ chiếu gặp các cát tinh thì bình sinh thường được hưởng phúc và thọ)
Tại Ngọ là cực đẹp.
- Lương Đồng Cơ Nguyệt Dần Thân vị nhất sinh lợi nghiệp thông minh
(Lương Đồng Cơ Nguyệt ở Dần Thân thì một đời thông minh, sự nghiệp thuận lợi)
- Thiên Lương Thái Dương Xương Lộc hội lư truyện đệ nhất danh
(có cách Dương Lương Xương Lộc là được loa xướng tên đệ nhất, tức là đỗ đầu bảng vàng)
- Lương Vũ Âm Linh nghĩ tác đống lương chi khách
(Lương Vũ Âm Linh thì suy nghĩ và hành động như bậc trụ cột, gánh vác công việc)
- Lương tú Thái Âm khước tác phiêu bồng chi khách
(Mệnh Thân mà có Thiên Lương Thái Âm ở chỗ hãm thì là khách giang hồ phiêu lãng)
Lương cư Dậu, Âm cư Tị chính là vậy.
- Thiên Lương Thiên Mã vi nhân phiêu đãng phong lưu
(Thiên Lương và Thiên Mã (đồng cung Tị Hợi) thì là người phiêu đãng, phong lưu).
- Thiên Lương gia cát tọa Thiên Di thần thương cao cổ
(Thiên Lương có cát tinh cùng ở Thiên Di thì làm người buôn bán lớn)
Thêm Hình Kị thì bình thường.
*
Thiên Đồng
Miếu: Tị Hợi
Vượng: Tý Thân
Hãm: Ngọ
- Thiên Đồng hội cát thọ nguyên trường
(Thiên Đồng hội cát tinh thì tuổi thọ rất dài)
- Thiên Đồng Tham Dương Đà cư Ngọ vị Bính Tuất trấn ngữ biên cương
(Thiên Đồng Tham Lang Kình Đà cư Ngọ thì người tuổi Bính Tuất trấn ngự nơi biên cương)
Cũng gọi là "mã đầu đới tiễn" vừa phú vừa quý.
- Đồng Nguyệt hãm cung gia sát trọng kỹ nghệ luy hoàng
(Thiên Đồng Thái Âm ở hãm cung có thêm nhiều sát tinh hạng nặng thì làm kỹ nghệ và gầy yếu)
- Thiên Đồng Tuất cung vi phản bối Đinh nhân mệnh ngộ phản vi giai
(Thiên Đồng ở cung Tuất là hãm địa nhưng người tuổi Đinh gặp lại phản chuyển thành tốt đẹp)
- Nữ mệnh Thiên Đồng tất thị hiền
(Nữ nhân có Thiên Đồng đắc miếu ở Mệnh thì hiền thục)
Người tuổi tý mệnh tọa Dần, người tuổi Tân mệnh tọa Mão, người tuổi Đinh mệnh ở Tuất, là nhập cách. Người tuổi Bính Tân thì trung cát. Người tuổi Kỷ (mà ở) Hợi gặp nó tuy đẹp nhưng mà dâm.
Thanked by 13 Members:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối |
---|
21 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 21 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |