

PHẬT GIÁO
Viết bởi tigerstock68, 31/07/13 11:10
215 replies to this topic
#106
Gửi vào 09/08/2013 - 10:15
PHÁ HOẠI PHÁP HÀNH CỦA NGỪƠI KHÁC !
“Pháp hành”, đây chính là nói chúng ta tu hành, học Phật. Sự việc này chúng ta nhìn thấy rất nhiều. Có một số người tu rất tốt, cũng đã học Phật rất nhiều năm, gặp được một vị tri thức khuyên là “còn có pháp môn khác thù thắng hơn so với pháp môn này”. Vừa nghe vậy thì tâm của họ dao động rồi, vứt bỏ ngay để đi học với người khác. Đây chính là phá hoại pháp hành của họ, đây là việc ác. Trong xã hội hiện nay, sự việc này rất nhiều, đúng như trong kinh Lăng Nghiêm đã nói: “Thời kỳ mạt pháp, tà sư thuyết pháp như Hằng hà sa”.
Có không ít đồng tu đến nói với tôi, các đạo hữu đồng tu của họ trước đây đều niệm kinh Vô Lượng Thọ, đều niệm A Di Đà Phật, đã tu rất nhiều năm, tu rất khá, nhưng bây giờ thì đi với người khác rồi, không tin kinh Vô Lượng Thọ nữa, cũng không niệm A Di Đà Phật nữa. Họ buồn rầu không tả nổi. Tôi bảo: “Không nên buồn, đây là nhân duyên của mỗi người, phải hiểu đạo lý này”. Mỗi người đều có nghiệp nhân, nghiệp duyên riêng của họ. Phật cũng không làm gì được thì chúng ta có năng lực gì? Chúng ta khuyên bảo họ là làm tròn trách nhiệm của một người bạn, họ có tin hay không là việc của họ, chúng ta không thể can thiệp. Can thiệp là làm nhiễu loạn đạo tâm của mình rồi. Tuy họ đi với người khác, đã từ bỏ pháp môn Tịnh Độ, nhưng cũng có thể qua vài năm sau họ lại quay lại, điều này rất khó nói. Bản thân chúng ta phải tu thật tốt để làm tấm gương. Qua mấy năm thử so sánh lại, họ cảm thấy bạn tu rất tốt, “tôi không bằng anh”, thì rất có thể họ sẽ quay trở lại. Đến lúc này ta dùng lời lẽ khuyên họ thì hiệu quả không gì sánh bằng. Chúng ta nhất định phải dùng sự hành trì chân chánh, thời gian dài để cảm hóa, vậy mới có thể có tác dụng. Nhất định phải hiểu đạo lý này.
“Pháp hành”, đây chính là nói chúng ta tu hành, học Phật. Sự việc này chúng ta nhìn thấy rất nhiều. Có một số người tu rất tốt, cũng đã học Phật rất nhiều năm, gặp được một vị tri thức khuyên là “còn có pháp môn khác thù thắng hơn so với pháp môn này”. Vừa nghe vậy thì tâm của họ dao động rồi, vứt bỏ ngay để đi học với người khác. Đây chính là phá hoại pháp hành của họ, đây là việc ác. Trong xã hội hiện nay, sự việc này rất nhiều, đúng như trong kinh Lăng Nghiêm đã nói: “Thời kỳ mạt pháp, tà sư thuyết pháp như Hằng hà sa”.
Có không ít đồng tu đến nói với tôi, các đạo hữu đồng tu của họ trước đây đều niệm kinh Vô Lượng Thọ, đều niệm A Di Đà Phật, đã tu rất nhiều năm, tu rất khá, nhưng bây giờ thì đi với người khác rồi, không tin kinh Vô Lượng Thọ nữa, cũng không niệm A Di Đà Phật nữa. Họ buồn rầu không tả nổi. Tôi bảo: “Không nên buồn, đây là nhân duyên của mỗi người, phải hiểu đạo lý này”. Mỗi người đều có nghiệp nhân, nghiệp duyên riêng của họ. Phật cũng không làm gì được thì chúng ta có năng lực gì? Chúng ta khuyên bảo họ là làm tròn trách nhiệm của một người bạn, họ có tin hay không là việc của họ, chúng ta không thể can thiệp. Can thiệp là làm nhiễu loạn đạo tâm của mình rồi. Tuy họ đi với người khác, đã từ bỏ pháp môn Tịnh Độ, nhưng cũng có thể qua vài năm sau họ lại quay lại, điều này rất khó nói. Bản thân chúng ta phải tu thật tốt để làm tấm gương. Qua mấy năm thử so sánh lại, họ cảm thấy bạn tu rất tốt, “tôi không bằng anh”, thì rất có thể họ sẽ quay trở lại. Đến lúc này ta dùng lời lẽ khuyên họ thì hiệu quả không gì sánh bằng. Chúng ta nhất định phải dùng sự hành trì chân chánh, thời gian dài để cảm hóa, vậy mới có thể có tác dụng. Nhất định phải hiểu đạo lý này.
Thanked by 1 Member:
|
|
#107
Gửi vào 09/08/2013 - 13:06
Tâm của chúng ta tán loạn rồi, từ sáng đến tối nghĩ ngợi lung tung. Nguyên nhân gì vậy? Không biết dừng. Tâm thánh nhân là định. Tại sao vậy? Họ biết dừng. Họ dừng ở đâu vậy? Dừng ở chí thiện. Hay nói cách khác, đời người của họ, họ có phương hướng, họ có mục tiêu, họ không loạn tí nào cả. Chúng ta hiện nay giống như đi thuyền trên biển lớn, không có phương hướng, không có mục tiêu, không biết đi về đâu, cho nên tâm của chúng ta không định. Nhà Nho trước đây, tâm họ cũng là tâm định, cho nên có thể thành tựu đức lớn, năng lực lớn, thành tựu vô lượng công đức, nó có đạo lý. (Trích Thập Thiện Nghiệp Đạo kinh đĩa 62)
Thanked by 1 Member:
|
|
#108
Gửi vào 09/08/2013 - 17:11
Trong thập thiện, tâm sân hận là khó đoạn nhất. Gặp phải việc không vừa lòng, bất như ý thì ý nghĩ sân hận tự nhiên liền sanh khởi, hơn nữa sanh vô cùng nhanh. Đây chứng tỏ từ vô thủy kiếp đến nay, tập khí ác của chúng ta thật sâu nặng. Ở trong phiền não thì phiền não này là nghiêm trọng nhất. Phật nói với chúng ta quả báo của nó ở địa ngục. Tam độc là nhân tố chủ yếu của ba đường ác. Tham dục là cõi ngạ quỷ, sân hận là cõi địa ngục, ngu si là cõi súc sanh. Phật ở trong tất cả kinh luận Đại-Tiểu thừa không biết đã nói bao nhiêu lần về sự việc này, từng giây từng phút luôn nhắc nhở chúng ta, nhất định không được tạo nghiệp nhân tam độc. Tạo nghiệp nhân tam độc là chắc chắn đọa ba đường ác. (Trích Thập Thiện Nghiệp Đạo kinh đĩa 44)
Thanked by 1 Member:
|
|
#109
Gửi vào 09/08/2013 - 17:12
Tâm phẫn nộ phải làm sao hàng phục đây? Đây là tri thức lớn, đây là công phu chân thật. Người biết dụng công, người có tính cảnh giác cao, khi ý niệm sân hận vừa khởi lên liền niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, dùng một câu Phật hiệu này đè cái ý niệm này xuống, đây là người biết niệm Phật. Ý niệm vừa khởi, ý niệm thứ nhất là tâm phẫn nộ thì ý niệm thứ hai là A Di Đà Phật, từng giây từng phút phải dùng cái công phu này. Sau đó bạn mới biết được sự thù thắng của pháp môn niệm Phật. Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, thì pháp môn này tiện lợi, có thể dùng mọi lúc mọi nơi, hơn nữa dùng vô cùng hiệu quả. Cổ đức thường nói: “Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Niệm chính là ý niệm tham sân si, ý niệm tự tư tự lợi, ý niệm tùy thuận tập khí phiền não, những ý niệm này chắc chắn sẽ khởi, do vô thủy kiếp đến nay huân tập thành. Bạn là phàm phu, đâu có lý nào không khởi phiền não được? Niệm thứ nhất khởi lên rồi, niệm thứ hai liền cảnh giác ngay, một câu Phật hiệu liền đem nó dàn xếp ổn thỏa, liền đè nó xuống rồi. Cái công phu này dùng lâu rồi, thành thật mà nói, nếu như bạn thật sự chịu dụng công, thông thường nói ba năm đến năm năm chắc chắn thành công. Mấu chốt chính là tính cảnh giác cao, ý niệm vừa khởi thì Phật hiệu lập tức liền đề khởi lên, đây là chỗ thù thắng vô song của Tịnh Độ. Phàm phu thật đáng thương, khi phiền não khởi lên, ý niệm thứ hai lại tiếp tục khởi, thế là phiền não niệm niệm tăng trưởng, cứ như vậy mới khiến mình ở ngay trong đời này dù cho gặp được pháp duyên thù thắng cũng không thể thành tựu, đạo lý là ở chỗ này. Chúng ta ngày nay biết sự việc này rồi, hiểu rõ đạo lý này thì phải nghiêm túc cố gắng mà học tập. Niệm Phật như thế nào? Chính là cách niệm này, phải dùng cho thuần thục, mọi lúc mọi nơi đều có thể đề khởi lên được, như vậy thì bạn hoàn toàn khống chế được phiền não của bạn. Thế là cảnh giới này liền chuyển trở lại ngay, bạn tự mình biết rất rõ ràng, rất sáng tỏ, phiền não nhẹ, trí tuệ tăng, công phu sẽ thấy hiệu quả. (Trích Thập Thiện Nghiệp Đạo kinh đĩa 44)
Thanked by 1 Member:
|
|
#110
Gửi vào 10/08/2013 - 09:45
Thập thiện nghiệp đạo là môn học cơ bản của nhà Phật, bất kể bạn tu tông phái nào, bất kể bạn tu pháp môn nào, Đại thừa cũng tốt, Tiểu thừa cũng tốt, Hiển giáo, Mật giáo, Tông môn, Giáo hạ, đây vẫn là môn học chung, thảy đều phải tu. Có học môn học chung này thì người này mới là đệ tử Phật, người hiện nay nói là Phật giáo đồ. Không có cái cơ sở này, đại sư Thiên Thai gọi là: “Danh tự đệ tử”, chính bản thân Ngài nói là “lục tức Phật”, “danh tự tức Phật”. Lục tức dùng vào trong thân chúng ta, đó chính là “Danh tự Phật giáo đồ”, là hữu danh vô thực. “Làm thật” là thật làm vào quán hạnh vị, đó là đệ tử Phật quán hạnh vị. Làm đến thật sự có thành tựu xuất hiện rồi, đây chính là đệ tử Phật tương tự vị. Những ai là tương tự vị vậy? A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ-tát quyền giáo, Phật tạng giáo, Phật thông giáo là đệ tử Phật tương tự. Đến khi phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân thì bạn là đệ tử Phật đích thực.
Đệ tử Phật thật đều bắt rễ từ trên thập thiện nghiệp đạo. Chúng ta vứt bỏ thập thiện thì trên đường Bồ-đề một bước cũng không thể tiến tới được. Đây là lời chân thật, tại sao vậy? Không có thập thiện nghiệp đạo thì bạn không có tiến bộ, trên đường Bồ-đề một bước bạn cũng không bước vào được. Thế là chúng ta mới hiểu rằng, người học Phật có biết bao người ở ngoài cửa Phật, chưa bước vào ngưỡng cửa. Bạn phải tu đầy đủ thập thiện nghiệp đạo mới bước vào ngưỡng cửa, sau đó bạn từng bước tiến lên phía trước, như vậy bạn đã bước vào cửa lớn của nhà Phật.(trích Thập Thiện Nghiệp Đạo kinh đĩa 44)
Đệ tử Phật thật đều bắt rễ từ trên thập thiện nghiệp đạo. Chúng ta vứt bỏ thập thiện thì trên đường Bồ-đề một bước cũng không thể tiến tới được. Đây là lời chân thật, tại sao vậy? Không có thập thiện nghiệp đạo thì bạn không có tiến bộ, trên đường Bồ-đề một bước bạn cũng không bước vào được. Thế là chúng ta mới hiểu rằng, người học Phật có biết bao người ở ngoài cửa Phật, chưa bước vào ngưỡng cửa. Bạn phải tu đầy đủ thập thiện nghiệp đạo mới bước vào ngưỡng cửa, sau đó bạn từng bước tiến lên phía trước, như vậy bạn đã bước vào cửa lớn của nhà Phật.(trích Thập Thiện Nghiệp Đạo kinh đĩa 44)
Thanked by 1 Member:
|
|
#111
Gửi vào 11/08/2013 - 08:50
QUẢ BÁO HIỆN HÀNH HỐI KHÔNG KỊP
Chúng ta lựa chọn ngành nghề mưu sinh, phải có lợi ích đối với xã hội, chúng sanh, đây là chánh mạng. Nhất định không được tổn hại xã hội, tổn hại chúng sanh. Từ đó cho thấy, sát sanh cái ngành nghề này không phải chánh mạng, đây là tà mạng, quả báo rất đáng sợ. Khi bạn đang tạo tác thì không biết, quả báo hiện tiền hối hận không kịp. Chúng ta chỉ cần bình tĩnh mà quan sát, nghề đồ tể, giết heo cái ngành nghề này, đến khi họ già, bạn thấy cái hình thái của họ là giống như heo vậy. Khi chết rất giống với tình trạng của heo bị giết chết. Họ đi về đâu vậy? Cả đời tâm cũng tốt, làm người cũng tốt. Nhưng mà họ làm cái ngành nghề này, họ đến cõi súc sanh đọa vào thai heo rồi, đọa thai heo để trả nợ. Bạn trước đây giết bao nhiêu heo, thì bạn cũng phải bị người khác giết bao nhiêu lần, đây là tà mạng. Hiện nay ở nước ngoài, người nước ngoài thích ăn gà, ưa thích ăn thịt bò, thịt dê. Chúng ta thử xem chiên gà, người làm cái ngành nghề này, những đứa con mà họ nuôi là giống như gà vậy. Bạn xem thật kỹ, rất đáng sợ. Nhân quả nói thực ra là ngay nhãn tiền, nhưng vì sơ suất qua loa mà không phát giác. Nếu như thật bình tĩnh mà quan sát bạn lập tức sẽ phát hiện, quả báo hóa ra là ngay trước mắt, cứ dần dần đang hình thành, bạn nói đáng sợ biết bao.
Chúng ta lựa chọn ngành nghề mưu sinh, phải có lợi ích đối với xã hội, chúng sanh, đây là chánh mạng. Nhất định không được tổn hại xã hội, tổn hại chúng sanh. Từ đó cho thấy, sát sanh cái ngành nghề này không phải chánh mạng, đây là tà mạng, quả báo rất đáng sợ. Khi bạn đang tạo tác thì không biết, quả báo hiện tiền hối hận không kịp. Chúng ta chỉ cần bình tĩnh mà quan sát, nghề đồ tể, giết heo cái ngành nghề này, đến khi họ già, bạn thấy cái hình thái của họ là giống như heo vậy. Khi chết rất giống với tình trạng của heo bị giết chết. Họ đi về đâu vậy? Cả đời tâm cũng tốt, làm người cũng tốt. Nhưng mà họ làm cái ngành nghề này, họ đến cõi súc sanh đọa vào thai heo rồi, đọa thai heo để trả nợ. Bạn trước đây giết bao nhiêu heo, thì bạn cũng phải bị người khác giết bao nhiêu lần, đây là tà mạng. Hiện nay ở nước ngoài, người nước ngoài thích ăn gà, ưa thích ăn thịt bò, thịt dê. Chúng ta thử xem chiên gà, người làm cái ngành nghề này, những đứa con mà họ nuôi là giống như gà vậy. Bạn xem thật kỹ, rất đáng sợ. Nhân quả nói thực ra là ngay nhãn tiền, nhưng vì sơ suất qua loa mà không phát giác. Nếu như thật bình tĩnh mà quan sát bạn lập tức sẽ phát hiện, quả báo hóa ra là ngay trước mắt, cứ dần dần đang hình thành, bạn nói đáng sợ biết bao.
Thanked by 1 Member:
|
|
#112
Gửi vào 11/08/2013 - 08:50
TRONG TÂM LUÔN KHÔNG OÁN HẬN NGƯỜI
Mỗi ngày tâm không bình, tâm oán hận, thì chẳng những không đạt được gì, mà mạng càng ngày càng bị tổn hại. Sau khi chúng tôi từ Nhật Bản trở về, nghĩ đến câu nói của Lão tử: phải “hóa giải lòng xung đột sâu nặng”, là yếu tố mỗi người chúng ta đều phải nên làm. Gia đình xung đột, vợ chồng xung đột, rộng hơn nữa là xã hội, quốc gia, chủng tộc, tôn giáo xung đột, nên hóa giải xung đột là vô cùng cần thiết. Không hóa giải thì phiền phức, đời đời kiếp kiếp oan gia đối đầu, không hề ngừng dứt, đôi bên đều thống khổ. Trong tâm thanh tịnh của chúng ta không có xung đột, nên chỉ cần xuất hiện xung đột nhỏ thì liền chướng ngại việc vãng sinh. Khi sắp vãng sinh, oan gia trái chủ tìm đến bên thân chúng ta để báo thù, không để chúng ta vãng sinh, đó cũng chính là ma chướng mà chúng ta thường nói đến.
Mỗi ngày tâm không bình, tâm oán hận, thì chẳng những không đạt được gì, mà mạng càng ngày càng bị tổn hại. Sau khi chúng tôi từ Nhật Bản trở về, nghĩ đến câu nói của Lão tử: phải “hóa giải lòng xung đột sâu nặng”, là yếu tố mỗi người chúng ta đều phải nên làm. Gia đình xung đột, vợ chồng xung đột, rộng hơn nữa là xã hội, quốc gia, chủng tộc, tôn giáo xung đột, nên hóa giải xung đột là vô cùng cần thiết. Không hóa giải thì phiền phức, đời đời kiếp kiếp oan gia đối đầu, không hề ngừng dứt, đôi bên đều thống khổ. Trong tâm thanh tịnh của chúng ta không có xung đột, nên chỉ cần xuất hiện xung đột nhỏ thì liền chướng ngại việc vãng sinh. Khi sắp vãng sinh, oan gia trái chủ tìm đến bên thân chúng ta để báo thù, không để chúng ta vãng sinh, đó cũng chính là ma chướng mà chúng ta thường nói đến.
Thanked by 1 Member:
|
|
#113
Gửi vào 11/08/2013 - 08:55
CHUYỂN HÓA DUNG MẠO VÀ SỰ GIA TRÌ ?
Người chân thật học Phật thì thể chất nhất định có thể thay đổi. Thay đổi tâm lý, thay đổi dung mạo, người học Phật gọi là đắc pháp. Công phu đắc lực tất nhiên có hiện tượng này, cũng chính là nói thân thể của bạn càng ngày càng tốt hơn, dung nhan của bạn cũng là tỏa sáng. Đây không phải do Phật Bồ Tát bảo hộ, cho rằng Phật Bồ Tát bảo hộ, Phật Bồ Tát gia trì là ngộ nhận. Từ đâu mà được vậy? Tâm của bạn càng ngày càng thanh tịnh, càng ngày càng chân thành, càng ngày càng từ bi, tướng tùy tâm chuyển. Tâm thay đổi thì tướng mạo sẽ thay đổi thôi, đạo lý chỉ là như vậy. Đây là Phật dạy cho chúng ta. Chúng ta hiểu rõ đạo lý này thì sẽ biết được cách làm, đương nhiên đạt được hiệu quả. Đây là ân đức lão sư dạy cho chúng ta, chúng ta mỗi niệm không quên cảm ân đối với lão sư là cái ý này. Cho rằng Phật gia trì, Bồ Tát bảo hộ đều gọi là mê tín. Người mê tín quá nhiều! Hôm nào tôi đi đến đâu người ta cũng quỳ lạy trước mặt tôi nói: “Pháp sư, xin ngài xoa đầu gia trì”. Sờ đầu nhiều thì tay không còn sạch sẽ, dễ dàng truyền sang bệnh truyền nhiễm, việc này cũng được gọi là gia trì sao? Việc này là mê tín, mê đến trình độ như vậy! Việc gì gọi là gia trì? Giảng đạo lý cho bạn nghe, truyền đạt cho bạn phương pháp, đây còn gọi là gia trì, không phải là xoa xoa đầu như vậy mà gọi là gia trì, đó là mê hoặc điên đảo, hiểu sai ý Phật. Thực tế việc này rất là phổ biến.
Người chân thật học Phật thì thể chất nhất định có thể thay đổi. Thay đổi tâm lý, thay đổi dung mạo, người học Phật gọi là đắc pháp. Công phu đắc lực tất nhiên có hiện tượng này, cũng chính là nói thân thể của bạn càng ngày càng tốt hơn, dung nhan của bạn cũng là tỏa sáng. Đây không phải do Phật Bồ Tát bảo hộ, cho rằng Phật Bồ Tát bảo hộ, Phật Bồ Tát gia trì là ngộ nhận. Từ đâu mà được vậy? Tâm của bạn càng ngày càng thanh tịnh, càng ngày càng chân thành, càng ngày càng từ bi, tướng tùy tâm chuyển. Tâm thay đổi thì tướng mạo sẽ thay đổi thôi, đạo lý chỉ là như vậy. Đây là Phật dạy cho chúng ta. Chúng ta hiểu rõ đạo lý này thì sẽ biết được cách làm, đương nhiên đạt được hiệu quả. Đây là ân đức lão sư dạy cho chúng ta, chúng ta mỗi niệm không quên cảm ân đối với lão sư là cái ý này. Cho rằng Phật gia trì, Bồ Tát bảo hộ đều gọi là mê tín. Người mê tín quá nhiều! Hôm nào tôi đi đến đâu người ta cũng quỳ lạy trước mặt tôi nói: “Pháp sư, xin ngài xoa đầu gia trì”. Sờ đầu nhiều thì tay không còn sạch sẽ, dễ dàng truyền sang bệnh truyền nhiễm, việc này cũng được gọi là gia trì sao? Việc này là mê tín, mê đến trình độ như vậy! Việc gì gọi là gia trì? Giảng đạo lý cho bạn nghe, truyền đạt cho bạn phương pháp, đây còn gọi là gia trì, không phải là xoa xoa đầu như vậy mà gọi là gia trì, đó là mê hoặc điên đảo, hiểu sai ý Phật. Thực tế việc này rất là phổ biến.
Thanked by 1 Member:
|
|
#114
Gửi vào 12/08/2013 - 09:22
Động một ý niệm oán trời trách người là chúng ta lại tạo nghiệp bất thiện rồi, chiêu đến bất như ý cho đời sau. Đây là chân tướng sự thật. (Trích Thập Thiện Nghiệp Đạo đĩa 45)
#115
Gửi vào 12/08/2013 - 09:23
“Nhẫn nhục” là việc rất khó làm, đặc biệt là bị lăng nhục. Ở trong Phật pháp Đại thừa, sáu Ba-la-mật, Phật chỉ nói một chữ “Nhẫn” chứ hoàn toàn không phải nói nhẫn nhục. Sau khi Phật pháp truyền vào Trung Quốc, pháp sư dịch kinh đem điều này đặc biệt thêm vào chữ “Nhục”. Nguyên nhân là gì vậy? Trung Quốc cổ đại, người có học chúng ta gọi là giai cấp sĩ đại phu, dùng cách nói hiện đại thì chính là phần tử trí thức. Người Trung Quốc vô cùng tôn kính phần tử trí thức. Có thể nói Trung Quốc lập quốc 5000 năm nay, phần tử trí thức giữ địa vị vô cùng quan trọng, bất luận là thay đổi triều đại như thế nào, không ai không tôn trọng phần tử trí thức, cho nên có câu nói “chọn người hiền tài”. Trước đây giai cấp sĩ đại phu có câu: “Sĩ khả sát, bất khả nhục”. Ở Trung Quốc, người có học xem việc bị lăng nhục là vô cùng nghiêm trọng, đây là điều không thể chịu đựng được, chém đầu cũng chẳng sao cả, còn có thể chịu được, chứ bị lăng nhục là không thể chịu được. Pháp sư dịch kinh nhìn thấy giai cấp sĩ đại phu có sự chấp trước nghiêm trọng như vậy, cho nên thêm chữ “nhục” vào phía sau chữ “nhẫn”. Nếu như nhục cũng có thể nhẫn thì đương nhiên không có gì là không thể nhẫn được, mọi cái đều có thể nhẫn được, cho nên đặc biệt dùng chữ “nhẫn nhục”. Chúng ta phải hiểu danh từ này.(Trích Thập Thiện Nghiệp Đạo đĩa 45)
Thanked by 2 Members:
|
|
#116
Gửi vào 12/08/2013 - 15:16
THIÊN CHÚA GIÁO VÀ PHẬT GIÁO ?
Học Phật không nên xảy ra xung đột với tín ngưỡng tôn giáo. Lời nói này có lẽ là vào 30 năm, 40 năm trước, tôi đã nói tại Đại học Bổ Nhân. Tôi còn nhớ, khi tôi nói chuyện tại Đại học Bổ Nhân, người ngồi ở hai hàng ghế phía trước là các cha xứ và sơ, ngồi phía sau là sinh viên của trường họ. Tôi nhìn thấy nhiều cha xứ như vậy thì rất hoan hỷ. Tôi nói với họ: “Các bạn với Thượng đế là quan hệ cha con, các bạn đến học Phật thì các bạn với Phật Thích Ca Mâu Ni là quan hệ thầy trò, không hề có xung đột. Ở nhà có cha mẹ, đến trường thì có thầy, đâu có gì là xung đột?”. Tôi cũng đặc biệt khuyên họ, nhất định phải cố gắng học theo Phật Thích Ca Mâu Ni, nếu không thì Thượng đế sẽ rất cảm thán: “Con cái của ta được lắm, rất tốt, nhưng đáng tiếc là không được đi học”, thì Thượng đế cũng rất xấu hổ. “Nếu như bạn học Phật, thì Thượng đế sẽ cảm thấy rất vinh dự, con cái của Ngài là học trò của Phật Thích Ca Mâu Ni - người có trí tuệ nhất, Ngài cũng thấy vẻ vang”. Tôi nói xong, mọi người trong giảng đường đều cười vang. Hôm đó các đồng tu nói với tôi, những cha nhà thờ này yêu cầu tôi ở lại thêm nửa giờ, họ muốn hỏi một số vấn đề. Sau khi tôi giảng xong thì không còn vấn đề nào nữa. Cho nên, Phật giáo là nền giáo dục cứu cách viên mãn. Bất kỳ tín đồ tôn giáo nào cũng cần phải nên học Phật, đây là nền giáo dục trí tuệ, không có trí tuệ không thể giải quyết vấn đề.
Thật sự Thượng đế không phản đối học Phật. Chúng ta thấy trong kinh điển, Thượng đế thường hay mời Phật, Bồ-tát đến thiên cung để giảng kinh thuyết pháp. Cho nên tôi nói, hiện nay bạn không học Phật cũng không sao cả. Bạn cố gắng tu cho tốt pháp môn của bạn đi, tương lai bạn thật sự đến thiên đường rồi thì thượng đế của bạn mời Phật Bồ-tát giảng kinh, bạn đến nghe cũng vậy thôi, cũng tốt thôi.
Học Phật không nên xảy ra xung đột với tín ngưỡng tôn giáo. Lời nói này có lẽ là vào 30 năm, 40 năm trước, tôi đã nói tại Đại học Bổ Nhân. Tôi còn nhớ, khi tôi nói chuyện tại Đại học Bổ Nhân, người ngồi ở hai hàng ghế phía trước là các cha xứ và sơ, ngồi phía sau là sinh viên của trường họ. Tôi nhìn thấy nhiều cha xứ như vậy thì rất hoan hỷ. Tôi nói với họ: “Các bạn với Thượng đế là quan hệ cha con, các bạn đến học Phật thì các bạn với Phật Thích Ca Mâu Ni là quan hệ thầy trò, không hề có xung đột. Ở nhà có cha mẹ, đến trường thì có thầy, đâu có gì là xung đột?”. Tôi cũng đặc biệt khuyên họ, nhất định phải cố gắng học theo Phật Thích Ca Mâu Ni, nếu không thì Thượng đế sẽ rất cảm thán: “Con cái của ta được lắm, rất tốt, nhưng đáng tiếc là không được đi học”, thì Thượng đế cũng rất xấu hổ. “Nếu như bạn học Phật, thì Thượng đế sẽ cảm thấy rất vinh dự, con cái của Ngài là học trò của Phật Thích Ca Mâu Ni - người có trí tuệ nhất, Ngài cũng thấy vẻ vang”. Tôi nói xong, mọi người trong giảng đường đều cười vang. Hôm đó các đồng tu nói với tôi, những cha nhà thờ này yêu cầu tôi ở lại thêm nửa giờ, họ muốn hỏi một số vấn đề. Sau khi tôi giảng xong thì không còn vấn đề nào nữa. Cho nên, Phật giáo là nền giáo dục cứu cách viên mãn. Bất kỳ tín đồ tôn giáo nào cũng cần phải nên học Phật, đây là nền giáo dục trí tuệ, không có trí tuệ không thể giải quyết vấn đề.
Thật sự Thượng đế không phản đối học Phật. Chúng ta thấy trong kinh điển, Thượng đế thường hay mời Phật, Bồ-tát đến thiên cung để giảng kinh thuyết pháp. Cho nên tôi nói, hiện nay bạn không học Phật cũng không sao cả. Bạn cố gắng tu cho tốt pháp môn của bạn đi, tương lai bạn thật sự đến thiên đường rồi thì thượng đế của bạn mời Phật Bồ-tát giảng kinh, bạn đến nghe cũng vậy thôi, cũng tốt thôi.
Thanked by 1 Member:
|
|
#117
Gửi vào 12/08/2013 - 15:18
NIỆM PHẬT LÀM SAO ĐỂ CÓ LỰC ?
Vẫn là thành kính, nhân từ, bác ái. Buông xả tự tư tự lợi, buông xả danh vọng lợi dưỡng, buông xả ngũ dục lục trần, buông xả tham sân si mạn, nhất tâm chuyên niệm chắc chắn vãng sanh. Bồ-tát Giác Minh Diệu Hạnh ở trong Tây Phương Xác Chỉ nói cho chúng ta biết, niệm Phật, điều sợ nhất là xen tạp. Cho nên Ngài dạy chúng ta: “Không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn” thì nhất định thành tựu. Ba câu này của Ngài trên thực tế là học được từ chỗ Đại Thế Chí Bồ-tát. Đại Thế Chí Bồ-tát dạy người: “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương tục”. Đây là phương pháp niệm Phật. “Đô nhiếp lục căn” chính là những điều tôi vừa mới nói, buông xả tự tư tự lợi, buông xả danh vọng lợi dưỡng, buông xả ngũ dục lục trần, buông xả tham sân si mạn thì lục căn thảy đều trở về, đây là đô nhiếp lục căn. Tịnh niệm tương tục là dùng tâm thanh tịnh niệm Phật (tâm chân thành chính là tâm thanh tịnh), đây là “Tịnh niệm”. Trong tịnh niệm đầy đủ không hoài nghi, không xen tạp mới là tịnh niệm. Nếu xen tạp là không thanh tịnh, hoài nghi cũng là không thanh tịnh. “Tương tục” là không gián đoạn. Câu cửa miệng của cổ đức thường nói: “Chân thành niệm Phật”. Niệm như vậy mới gọi là chân thành; có nghi hoặc, có xen tạp là không chân thành rồi. Trong đời sống thường ngày, người không Chân Thành sẽ không có thanh tựu lớn nào, dù có thiện căn phước đức, nhưng họ không chân thành thì cũng bị tiêu hao rất nhanh. Chỉ có người thật sự Chân Thành mới có thể tích lũy công đức. Hy vọng các đồng tu thật sự muốn cầu vãng sanh thì nhất định phải buông xả vạn duyên. Vạn duyên, nói một cách cụ thể chính là tự tư tự lợi. Nhất định phải buông xả tự tư tự lợi, buông xả danh vọng lợi dưỡng, buông xả ngũ dục lục trần, buông xả tham sân si mạn, buông xả vạn duyên. Vào lúc này, bạn có được thành kính, nhân từ, bác ái thì niệm Phật nhất định vãng sanh. Hơn nữa vãng sanh phẩm vị rất cao.
Vẫn là thành kính, nhân từ, bác ái. Buông xả tự tư tự lợi, buông xả danh vọng lợi dưỡng, buông xả ngũ dục lục trần, buông xả tham sân si mạn, nhất tâm chuyên niệm chắc chắn vãng sanh. Bồ-tát Giác Minh Diệu Hạnh ở trong Tây Phương Xác Chỉ nói cho chúng ta biết, niệm Phật, điều sợ nhất là xen tạp. Cho nên Ngài dạy chúng ta: “Không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn” thì nhất định thành tựu. Ba câu này của Ngài trên thực tế là học được từ chỗ Đại Thế Chí Bồ-tát. Đại Thế Chí Bồ-tát dạy người: “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương tục”. Đây là phương pháp niệm Phật. “Đô nhiếp lục căn” chính là những điều tôi vừa mới nói, buông xả tự tư tự lợi, buông xả danh vọng lợi dưỡng, buông xả ngũ dục lục trần, buông xả tham sân si mạn thì lục căn thảy đều trở về, đây là đô nhiếp lục căn. Tịnh niệm tương tục là dùng tâm thanh tịnh niệm Phật (tâm chân thành chính là tâm thanh tịnh), đây là “Tịnh niệm”. Trong tịnh niệm đầy đủ không hoài nghi, không xen tạp mới là tịnh niệm. Nếu xen tạp là không thanh tịnh, hoài nghi cũng là không thanh tịnh. “Tương tục” là không gián đoạn. Câu cửa miệng của cổ đức thường nói: “Chân thành niệm Phật”. Niệm như vậy mới gọi là chân thành; có nghi hoặc, có xen tạp là không chân thành rồi. Trong đời sống thường ngày, người không Chân Thành sẽ không có thanh tựu lớn nào, dù có thiện căn phước đức, nhưng họ không chân thành thì cũng bị tiêu hao rất nhanh. Chỉ có người thật sự Chân Thành mới có thể tích lũy công đức. Hy vọng các đồng tu thật sự muốn cầu vãng sanh thì nhất định phải buông xả vạn duyên. Vạn duyên, nói một cách cụ thể chính là tự tư tự lợi. Nhất định phải buông xả tự tư tự lợi, buông xả danh vọng lợi dưỡng, buông xả ngũ dục lục trần, buông xả tham sân si mạn, buông xả vạn duyên. Vào lúc này, bạn có được thành kính, nhân từ, bác ái thì niệm Phật nhất định vãng sanh. Hơn nữa vãng sanh phẩm vị rất cao.
Thanked by 1 Member:
|
|
#118
Gửi vào 12/08/2013 - 15:20
TÍCH LŨY CÔNG ĐỨC TỪ TRONG ĐỐI NHÂN XỬ THẾ TIẾP VẬT !
Chúng ta phải làm thế nào tu đức, tích lũy công đức? Đây là điều mà Phật Bồ-tát trong kinh luận thường hay dặn dò chỉ dạy chúng ta. Chư Phật Bồ-tát làm nên tấm gương cho chúng ta thấy. Nhu hòa ái ngữ. Tôi trước đây gần gũi Chương Gia đại sư, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, chúng tôi đứng ở bên cạnh quan sát các Ngài tiếp đãi khách, tiếp đãi người đến học, chúng tôi thấy rồi cảm động rất sâu, học tập ngay chỗ này. Sự gần gũi của thầy đối với học trò thì không giống với đại chúng. Đối với học trò thường xuyên dạy dỗ nghiêm khắc, nhưng đối với đại chúng thì không. Thầy có trách nhiệm giúp đỡ, thành tựu học trò, nhìn thấy họ có lỗi nhất định phải nói. Cho nên trước đây, thầy nói với chúng tôi: “Nói người lỗi lầm, chứ ai muốn nói lỗi lầm của người? Ai muốn gây oan gia đối đầu với người?”. Người thông minh, có học vấn chắc chắn không làm việc này. Chỉ kết thiện duyên với người, dứt khoát không kết ác duyên với người. Bạn có lỗi lầm, người khác sẽ không nói. Chỉ có hai loại người nói lỗi lầm của bạn là cha mẹ bạn và thầy của bạn. Bạn bè đồng học nói lỗi lầm cũng chỉ một lần, nhiều nhất là hai lần và sẽ không nói lần thứ ba nữa. Nói hai lần mà bạn không chịu sửa thì lần thứ ba sẽ không nói nữa, tại sao vậy? Nói nữa sẽ trở thành oan gia đối đầu rồi.
Chúng ta phải làm thế nào tu đức, tích lũy công đức? Đây là điều mà Phật Bồ-tát trong kinh luận thường hay dặn dò chỉ dạy chúng ta. Chư Phật Bồ-tát làm nên tấm gương cho chúng ta thấy. Nhu hòa ái ngữ. Tôi trước đây gần gũi Chương Gia đại sư, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, chúng tôi đứng ở bên cạnh quan sát các Ngài tiếp đãi khách, tiếp đãi người đến học, chúng tôi thấy rồi cảm động rất sâu, học tập ngay chỗ này. Sự gần gũi của thầy đối với học trò thì không giống với đại chúng. Đối với học trò thường xuyên dạy dỗ nghiêm khắc, nhưng đối với đại chúng thì không. Thầy có trách nhiệm giúp đỡ, thành tựu học trò, nhìn thấy họ có lỗi nhất định phải nói. Cho nên trước đây, thầy nói với chúng tôi: “Nói người lỗi lầm, chứ ai muốn nói lỗi lầm của người? Ai muốn gây oan gia đối đầu với người?”. Người thông minh, có học vấn chắc chắn không làm việc này. Chỉ kết thiện duyên với người, dứt khoát không kết ác duyên với người. Bạn có lỗi lầm, người khác sẽ không nói. Chỉ có hai loại người nói lỗi lầm của bạn là cha mẹ bạn và thầy của bạn. Bạn bè đồng học nói lỗi lầm cũng chỉ một lần, nhiều nhất là hai lần và sẽ không nói lần thứ ba nữa. Nói hai lần mà bạn không chịu sửa thì lần thứ ba sẽ không nói nữa, tại sao vậy? Nói nữa sẽ trở thành oan gia đối đầu rồi.
Thanked by 1 Member:
|
|
#119
Gửi vào 13/08/2013 - 10:18
ĐỨC PHẬT KHÔNG TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI SIÊU HÌNH.
Thích Thiện Chánh _
( Nguồn: Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo ).
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc hoặc thiếu thực tế. Đức Phật thấy rõ, những người đặt các câu hỏi như thế thì hoặc chính bản thân họ không hiểu, hoặc họ chỉ nhằm khoe khoang kiến thức qua những tưởng tượng hay ước đoán; và nếu có trả lời thì tính hạn chế của ngôn ngữ cũng khiến mọi giải thích không thể diễn tả rốt ráo mọi điều thấy biết của Đức Phật. Vì thế mà Đức Phật chỉ im lặng.
Kinh dạy rằng, một hôm có một du sĩ ngoại đạo Vacchagotta đến chỗ Đức Phật, bạch rằng: “Thưa Tôn giả Gotama, thần ngã có không?” Đức Phật im lặng, không trả lời. “Như vậy, thưa Tôn Giả Gotama, thần ngã không có chăng ?”. Đức Phật vẫn giữ im lặng. Ở thời Đức Phật, những du sĩ ngoại đạo giống như Vacchagotta không phải là ít, lúc họ cùng nhau bàn luận thường đưa ra những vấn đề huyền hoặc để tranh luận. Những vấn đề tranh luận thường xoay quanh mười chủ đề sau:
Liên quan đến vũ trụ:
1- Vũ trụ vĩnh hằng ?
2- Vũ trụ không vĩnh hằng ?
3- Vũ trụ hữu hạn ?
4- Vũ trụ vô hạn ?
Liên quan đến vấn đề tâm lý học:
5 – Thân và tâm là một vật đồng nhất ?
6- Thân là một vật và tâm là một vật ?
Liên quan đến vấn đề cảnh giới chứng ngộ của Đức Phật:
7- Sau khi chết Đức Phật tồn tại ?
8- Sau khi chết Đức Phật không tồn tại ?
9- Sau khi chết Đức Phật vừa tồn tại vừa không tồn tại ?
10- Sau khi chết Đức Phật vừa không tồn tại vừa không không tồn tại ?
Đức Phật đã dạy rằng những câu hỏi như thế chỉ hoàn toàn dựa vào những lý do trừu tượng chung ( huyền hoặc ) nên không có câu trả lời. Ngài bảo chúng bị che đậy bởi tính không có ý nghĩa hoặc rối rắm không đầu không cuối của chúng. Tại sao Đức phật không trả lời những câu hỏi huyền hoặc ở trên ? Trước hết, vì những vấn đề này không liên quan đến những lời dạy của Đức Phật. Phật giáo thời kỳ đầu, Đức Phật thường nhấn mạnh vào việc tu trì giới định huệ và nhấn mạnh giáo lý khổ, vô thường, vô ngã. Những pháp này có mục đích giúp mọi người hiểu được cái khổ và phương pháp diệt khổ, nhiệm vụ bức thiết nhất của chúng ta là diệt trừ khổ não, vì vậy Đức Phật giải thích những pháp này là để lợi lạc trong việc tu tập, làm cho mọi người yếm ly, trừ chấp ngã, an tịnh, chứng đắc giải thoát giác ngộ. Còn những vấn đề huyền hoặc trên, trong đó có bốn vấn đề liên quan đến vũ trụ, cho dù hữu hạn hay vô hạn, vĩnh hằng hay không vĩnh hằng, chúng đều không có ích lợi gì cho việc giải thoát khổ đau của nhân loại. Đức Phật đã dạy rằng:
“Này Vaccha, nghĩ rằng thế giới là vô thường… thế giới là thường… thế giới vô biên… thế giới là hữu biên… sinh mạng và thân thể là một… sinh mạng và thân thể là khác… Như Lai có tồn tại sau khi chết… Như Lai không tồn tại sau khi chết… Này Vaccha, nghĩ rằng Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết, như vậy là tà kiến, kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hý luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược, đi đôi với khổ, với tàn hại, với não hại, với nhiệt não, không hướng đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết- bàn. Này Vaccha, Ta thấy có sự nguy hại này mà ta không chấp nhận hoàn toàn những tri kiến như vậy.”
Còn hai vấn đề tiếp theo về thân thể vật lý và tâm lý của con người, cho dù có đồng nhất hay không thì cũng chịu sự chi phối của vô thường, tan rã, khổ đau, sanh tử luân hồi, theo đức Phật thì hết thảy pháp đều vô ngã, giáo pháp vô ngã của Đức Phật thật siêu tuyệt, cho dù vấn đề thân và tâm của ngoại đạo có đặt ra đồng nhất hay khác nhau cũng không thể nào ăn nhập với giáo lý năm uẩn vô ngã của Đức Phật. Những vấn đề trên đều triền miên không nói hết tận nguồn gốc của chúng. Tiếp đến là những vấn đề liên quan đến cảnh giới chứng đắc của Đức Phật, Ngài đã chứng ngộ thành Phật, cảnh giới chứng đắc của Ngài là Phật cảnh, nhờ vào việc tu hành mà chứng ngộ. Cảnh giới này đối với hạng người phàm phu thì không thể hiểu hết, cho dù Đức Phật có dùng bất kỳ ngôn ngữ hay cách diễn đạt như thế nào cũng không giúp người nghe hiểu hết được. Vì vậy, những vấn đề huyền hoặc ở trên đều không liên quan đến những lời dạy của Đức Phật, không liên quan đến những tu hành phạm hạnh, chúng không có ích lợi cho việc tu tập thân tâm đạt đến cảnh giới giác ngộ như Đức Phật. Do đó, khi có người hỏi về những vấn đề liên quan đến những tình huống như trên Đức Phật đều im lặng.
Thứ hai, những vấn đề huyền hoặc sẽ đưa chúng ta đi vào mê trận, làm cho chúng ta mất phương hướng. Đối với Đức Phật, mọi tranh luận không mang lại lợi ích cho việc tu học và làm rõ chánh kiến đều là hý luận vô bổ, huống hồ là tranh luận mang đến phiền não, không thỏa mãn với câu hỏi đã đề ra và càng làm cho con người trở nên rối rắm.
Thời Đức Phật còn tại thế, có một Tỳ-kheo tên là Man Đồng Tử ( Malunkya ), một hôm lúc ban trưa ngồi thiền quán bổng nhiên đứng dậy di về phía hương thất của Đức Phật, sau khi đảnh lễ Đức Phật, rồi ngồi qua một bên, thưa rằng:
“Bạch Đức Thế Tôn, con đang ngồi thiền một mình, bỗng nhiên khởi lên một niệm, có mười vấn đề mà bấy lâu nay Ngài chưa giải thích rõ với chúng con. Mỗi khi chúng con hỏi Ngài về những vấn đề này thì Ngài đều im lặng. Con cảm thấy không vui khi Ngài làm như thế. Bạch Đức Thế Tôn, hôm nay nếu Ngài giải thích rõ mười vấn đề trên thì con tiếp tục sống đời sống xuất gia tu hành phạm hạnh; nếu Ngài vẫn giữ im lặng thì con mất hết tín tâm không tiếp tục tu hành nữa. Nếu Thế Tôn biết thế giới này là vĩnh hằng, thì xin Ngài nói cho con được rõ. Nếu thế gian này không vĩnh hằng, thì lý do tại làm sao? Nếu Ngài đối với những vấn đề này mà không biết thì trực tiếp nói là không biết.”
Đức Phật dạy:
“Con thật mê muội ! Buổi ban đầu có phải là không hiểu những vấn đề huyền hoặc này mà con đi xuất gia không ? Lúc con đi theo ta tu hành phạm hạnh ta có hứa sẽ nói cho con biết những vấn đề này không ?”. Man Đồng Tử trả lời: “Bạch Đức Thế Tôn, không”. Đức Phật dạy: “ Như vậy con chưa được Như Lai trả lời thì con đã chết rồi. Này Man Đồng Tử, giả như có người bị trúng tên độc bị thương, người thân của người này muốn nhổ mũi tên ra và đưa đến bác sĩ, nhưng người kia không muốn cho người nhà nhổ mũi tên ra trừ phi biết ai đã bắn tên này. Người bắn mũi tên thuộc dòng họ Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Phệ-xá, hay Thủ-đà-la. Hắn cao, thấp, hay vừa, da của hắn nâu, trắng đen hay vàng; hắn ở thành xóm ấp làng nào ? Tôi không muốn nhổ mũi tên ra trừ phi tôi biết tôi bị loại cung tên nào bắn trúng, dây cung làm bằng gì, loại tên hình như thế nào, làm bằng chất liệu gì…Này Man Đồng Tử, người kia chưa kịp biết rõ đáp án thì đã chết rồi, cũng như người muốn biết vũ trụ có vĩnh hằng hay không vĩnh hằng và những vấn đề liên quan nó, người kia chưa kịp được Như Lai trả lời thì đã chết rồi. Cũng như vậy, nếu có người hỏi, tôi không theo Đức Thế Tôn tu hành phạm hạnh nữa trừ phi Ngài trả lời cho tôi về những điều vũ trụ có vĩnh hằng hay không, người kia chưa được Như Lai trả lời thì đã chết rồi”. Vì đời người ngắn ngủi, nếu ai bị những vấn đề huyền hoặc này mà suốt ngày phiền não, cố chấp không xả, muốn tìm cho đến ngọn nguồn, thì càng ngày càng vào mê lộ, cuối cùng không đi ra được.
Một ý nghĩa giáo dục ở đây là những đòi hỏi không cần thiết thì có thể chứng minh điều đó là có hại đến tinh thần. Đối với những vấn đề huyền luận như trên Đức Phật hoàn toàn không để ý.
Hơn nữa, do ngôn từ có tính hạn chế, người phàm phu không thể thông qua ngôn ngữ để hiểu được hay diễn đạt được hết những vấn đề huyền hoặc. Ngôn ngữ do con người sáng tạo dùng để biểu đạt những cảm nhận, kinh nghiệm và tư tưởng mà mình thể nghiệm qua các hiện tượng và sự vật. Ngôn ngữ là tín hiệu để diễn đạt nhận thức về sự vật và ý niệm của chúng ta, nó là phương tiện để thuyết minh sự hiểu biết của chúng ta nhưng cũng không vượt ra khỏi hạn cục của thời gian, không gian. Hay nói cách khác con người chỉ biểu đạt được sự việc và ý niệm trong phạm vi thời gian và không gian cho phép; thậm chí ngôn ngữ của con người có khi không đủ để diễn tả sự việc hiện thực trong đời sống thường ngày. Có lẽ mọi người đều từng có kinh nghiệm về những cảm giác diễn ra trong tư duy của mình mà không thể tìm được ngôn ngữ để diễn tả. Do đó, có thể thấy được ngôn ngữ của con người không phải là phương tiện diễn tả tuyệt đối, nó có tính hữu hạn của nó, không thể diễn đạt nhận thức một chân lý, không những thế hoàn toàn có thể diễn đạt sai lệch với chân lý qua nhận thức. Vì chân lý tuyệt đối ( chẳng hạn như Niết-bàn ) siêu xuất thời gian, không gian và cả định luật hạn chế của hữu vi; con người chỉ có tu tập để đạt đến chứng đắc mới thể nghiệm được, chứ không thể dùng ngôn ngữ để miêu tả hoặc không thể dùng tri kiến bình thường để suy diễn được. Đến đây ngôn ngữ nhà Thiền gọi là ngôn ngữ đạo đoạn. Trên thực tế, những vấn đề như vậy vĩnh viễn không thể thông qua ngôn ngữ văn tự để trả lời đầy đủ như ước muốn, mà cũng không có loại ngôn từ nào để diễn đạt loại kinh nghiệm như thế. Như câu chuyện Rùa và Cá trong truyện cổ Phật giáo, Rùa kể cho Cá nghe thế giới trên cạn, cứng, không thể bơi, chỉ có thể bước đi. Nhưng Cá không thể nào hiểu nổi, cứ khăng khăng cho môi trường trên cạn tương tự như môi trường nước, có thể bơi nhảy, lặn lội. Cũng giống như ngôn ngữ bình thường của chúng ta không thể nào đem ra diễn tả trạng thái của Niết - bàn. Cho dù có dùng bút mực cao cấp, ngôn từ diễm lệ, lời lẽ cao huyền cũng phí công vô ích, không thể tìm thấy những ngôn từ thích hợp để diễn giảng cảnh giới của Niết Bàn. Cho nên người câu nệ vào văn tự thì bị ràng buộc. Cũng như kinh Lăng Già đã dạy người ngu chấp vào văn tự như voi bị sa lầy không thoát ra được.
Cuối cùng, Đức Phật tùy cơ thuyết pháp, Ngài không dùng những gì mang tính huyền hoặc để thuyết giảng, cũng không trả lời bằng cách phô trương kiến thức, mà với lòng từ bi và trí tuệ, Ngài chú ý vào thực tiễn để giáo hóa chúng sanh, đưa họ ra khỏi mê hoặc cố chấp, giúp người vấn nạn đi vào con đường chánh đạo. Lúc thuyết pháp, Đức Phật tùy cơ hóa độ, quán xét trình độ, căn cơ, tính cách và khả năng nhận thức của đối tượng nghe pháp để dẫn dắt chỉ dạy.
Qua những tình huống trả lời những câu hỏi mà người khác đặt ra với Đức Phật, chúng ta thấy Đức Phật đã dùng bốn hình thức như sau để trả lời:
- Thứ nhất là Thế giới tất đàn: là các tiêu chuẩn căn cứ trên những nhận thức phù hợp với cuộc sống của con người ở thế giới này để nói mặc dù không phải là tuyệt đối.
- Thứ hai là Vị nhân tất đàn: là do con người mà nói như vậy, phù hợp với lề lối, suy nghĩ, nhận thức và văn hóa của con người như vậy nên tùy thuận để nói Pháp.
- Thứ ba là Đối trị tất đàn: tùy theo hoàn cảnh nhận thức của chúng sinh mà Đức Phật đặc biệt nói cho họ nghe pháp để làm cho họ phản tỉnh.
- Thứ tư là Đệ nhất nghĩa tất đàn: là nói tiêu chuẩn tuyệt đối về chân đế, sự thật, dù người không hiểu có phản đối cũng không sao.
Ngoài ra, trước mọi điều huyền hoặc, Đức Phật luôn giữ im lặng hơn cả mọi hùng biện. Với từ bi và trí tuệ, Đức Phật giữ im lặng nhưng vẫn quan tâm đến người gặp nạn, cứu họ thoát khỏi khốn cảnh khi thấy đủ duyên.
Có nhiều sách vở học giả Phật giáo về sau cố giải thích những điều mà Đức Phật đã im lặng, cố gắng đặt vấn đề phải chăng Đức Phật có giải thích những vấn đề huyền hoặc này ? Chúng ta cũng không cần có một kết luận nào, nhưng chúng ta có một điều có thể khẳng định rằng pháp mà Đức Phật biết thì nhiều hơn pháp mà Đức Phật đã nói. Trong kinh điển còn ghi lại, một hôm Đức Phật nắm một nắm lá trong tay và hỏi các đệ tử rằng:
“ Này các Tỳ-kheo, trong tay Ta nhiều lá hay trong rừng nhiều lá ?”. Các Tỳ-kheo trả lời: “ Bạch Đức Thế Tôn, lá trong tay Thế Tôn rất ít so với lá trong rừng”. Đức Phật dạy: “ Cũng như vậy, những pháp mà Như Lai chứng biết như lá trong rừng, còn những pháp mà Như Lai nói cho các vị như lá trong nắm tay này, chỉ có một ít, những pháp mà Như Lai nói rất hữu hạn. Nhưng tại sao Như Lai không nói hết ? Vì chúng không có ích, không hướng dẫn mọi người chứng đắc Niết-bàn. Đó là nguyên nhân mà Như Lai không nói hết những pháp đó ”.
Như vậy những điều này không phải Đức Phật không biết, mà vì Đức Phật quán thấy sự hạn chế của ngôn ngữ, không thể dùng ngôn ngữ bình thường để diễn đạt một cảnh giới siêu việt.
Đại Trí Độ luận và Câu Xá luận có nói đến 14 trường hợp tương tự với những vấn đề siêu hình ở trên Đức Phật đều không trả lời. Nguyên nhân là:
1 – Những vấn đề này đều hư vọng không thật.
2 – Các pháp vốn không “thường” cũng không “đoạn diệt”.
3 – Những câu hỏi này chỉ dẫn đến tranh luận, hý luận vô bổ, không có ích cho việc tu hành cầu tiến. Do đó, Đức Phật không trả lời.
Tóm lại, Đức Phật luôn giữ im lặng đối với những vấn đề siêu hình hay huyền hoặc mà luôn luôn đề cao tinh thần thực tiễn. Cho nên trong Phật giáo đối với những vấn đề siêu hình không phải là không thể nghiên cứu. Nhưng quá thiên trọng về huyền hoặc thì sẽ thêm nhiều phiền não và dẫn đến không lối thoát vì tính rối rắm của chúng. Do đó trong quá trình nghiên cứu Phật pháp hoặc giải thích cho người khác hiểu Phật giáo chúng ta nên học theo Đức Phật, kết hợp nhiều yếu tố hiện thực và nhu cầu của xã hội hiện đại để giải thích làm sao cho dễ hiểu, ứng dụng Phật pháp vào đời sống sinh hoạt hằng ngày, hạn chế tranh luận về những vấn đề siêu hình để phô trương kiến thức mà không đem lại một kết quả nào. Làm khác đi, chúng ta chỉ lãng phí thời gian tranh luận từ ngày này qua ngày khác.
_()_ Namo Amitabha Buddha _()_
Thích Thiện Chánh _
( Nguồn: Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo ).
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc hoặc thiếu thực tế. Đức Phật thấy rõ, những người đặt các câu hỏi như thế thì hoặc chính bản thân họ không hiểu, hoặc họ chỉ nhằm khoe khoang kiến thức qua những tưởng tượng hay ước đoán; và nếu có trả lời thì tính hạn chế của ngôn ngữ cũng khiến mọi giải thích không thể diễn tả rốt ráo mọi điều thấy biết của Đức Phật. Vì thế mà Đức Phật chỉ im lặng.
Kinh dạy rằng, một hôm có một du sĩ ngoại đạo Vacchagotta đến chỗ Đức Phật, bạch rằng: “Thưa Tôn giả Gotama, thần ngã có không?” Đức Phật im lặng, không trả lời. “Như vậy, thưa Tôn Giả Gotama, thần ngã không có chăng ?”. Đức Phật vẫn giữ im lặng. Ở thời Đức Phật, những du sĩ ngoại đạo giống như Vacchagotta không phải là ít, lúc họ cùng nhau bàn luận thường đưa ra những vấn đề huyền hoặc để tranh luận. Những vấn đề tranh luận thường xoay quanh mười chủ đề sau:
Liên quan đến vũ trụ:
1- Vũ trụ vĩnh hằng ?
2- Vũ trụ không vĩnh hằng ?
3- Vũ trụ hữu hạn ?
4- Vũ trụ vô hạn ?
Liên quan đến vấn đề tâm lý học:
5 – Thân và tâm là một vật đồng nhất ?
6- Thân là một vật và tâm là một vật ?
Liên quan đến vấn đề cảnh giới chứng ngộ của Đức Phật:
7- Sau khi chết Đức Phật tồn tại ?
8- Sau khi chết Đức Phật không tồn tại ?
9- Sau khi chết Đức Phật vừa tồn tại vừa không tồn tại ?
10- Sau khi chết Đức Phật vừa không tồn tại vừa không không tồn tại ?
Đức Phật đã dạy rằng những câu hỏi như thế chỉ hoàn toàn dựa vào những lý do trừu tượng chung ( huyền hoặc ) nên không có câu trả lời. Ngài bảo chúng bị che đậy bởi tính không có ý nghĩa hoặc rối rắm không đầu không cuối của chúng. Tại sao Đức phật không trả lời những câu hỏi huyền hoặc ở trên ? Trước hết, vì những vấn đề này không liên quan đến những lời dạy của Đức Phật. Phật giáo thời kỳ đầu, Đức Phật thường nhấn mạnh vào việc tu trì giới định huệ và nhấn mạnh giáo lý khổ, vô thường, vô ngã. Những pháp này có mục đích giúp mọi người hiểu được cái khổ và phương pháp diệt khổ, nhiệm vụ bức thiết nhất của chúng ta là diệt trừ khổ não, vì vậy Đức Phật giải thích những pháp này là để lợi lạc trong việc tu tập, làm cho mọi người yếm ly, trừ chấp ngã, an tịnh, chứng đắc giải thoát giác ngộ. Còn những vấn đề huyền hoặc trên, trong đó có bốn vấn đề liên quan đến vũ trụ, cho dù hữu hạn hay vô hạn, vĩnh hằng hay không vĩnh hằng, chúng đều không có ích lợi gì cho việc giải thoát khổ đau của nhân loại. Đức Phật đã dạy rằng:
“Này Vaccha, nghĩ rằng thế giới là vô thường… thế giới là thường… thế giới vô biên… thế giới là hữu biên… sinh mạng và thân thể là một… sinh mạng và thân thể là khác… Như Lai có tồn tại sau khi chết… Như Lai không tồn tại sau khi chết… Này Vaccha, nghĩ rằng Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết, như vậy là tà kiến, kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hý luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược, đi đôi với khổ, với tàn hại, với não hại, với nhiệt não, không hướng đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết- bàn. Này Vaccha, Ta thấy có sự nguy hại này mà ta không chấp nhận hoàn toàn những tri kiến như vậy.”
Còn hai vấn đề tiếp theo về thân thể vật lý và tâm lý của con người, cho dù có đồng nhất hay không thì cũng chịu sự chi phối của vô thường, tan rã, khổ đau, sanh tử luân hồi, theo đức Phật thì hết thảy pháp đều vô ngã, giáo pháp vô ngã của Đức Phật thật siêu tuyệt, cho dù vấn đề thân và tâm của ngoại đạo có đặt ra đồng nhất hay khác nhau cũng không thể nào ăn nhập với giáo lý năm uẩn vô ngã của Đức Phật. Những vấn đề trên đều triền miên không nói hết tận nguồn gốc của chúng. Tiếp đến là những vấn đề liên quan đến cảnh giới chứng đắc của Đức Phật, Ngài đã chứng ngộ thành Phật, cảnh giới chứng đắc của Ngài là Phật cảnh, nhờ vào việc tu hành mà chứng ngộ. Cảnh giới này đối với hạng người phàm phu thì không thể hiểu hết, cho dù Đức Phật có dùng bất kỳ ngôn ngữ hay cách diễn đạt như thế nào cũng không giúp người nghe hiểu hết được. Vì vậy, những vấn đề huyền hoặc ở trên đều không liên quan đến những lời dạy của Đức Phật, không liên quan đến những tu hành phạm hạnh, chúng không có ích lợi cho việc tu tập thân tâm đạt đến cảnh giới giác ngộ như Đức Phật. Do đó, khi có người hỏi về những vấn đề liên quan đến những tình huống như trên Đức Phật đều im lặng.
Thứ hai, những vấn đề huyền hoặc sẽ đưa chúng ta đi vào mê trận, làm cho chúng ta mất phương hướng. Đối với Đức Phật, mọi tranh luận không mang lại lợi ích cho việc tu học và làm rõ chánh kiến đều là hý luận vô bổ, huống hồ là tranh luận mang đến phiền não, không thỏa mãn với câu hỏi đã đề ra và càng làm cho con người trở nên rối rắm.
Thời Đức Phật còn tại thế, có một Tỳ-kheo tên là Man Đồng Tử ( Malunkya ), một hôm lúc ban trưa ngồi thiền quán bổng nhiên đứng dậy di về phía hương thất của Đức Phật, sau khi đảnh lễ Đức Phật, rồi ngồi qua một bên, thưa rằng:
“Bạch Đức Thế Tôn, con đang ngồi thiền một mình, bỗng nhiên khởi lên một niệm, có mười vấn đề mà bấy lâu nay Ngài chưa giải thích rõ với chúng con. Mỗi khi chúng con hỏi Ngài về những vấn đề này thì Ngài đều im lặng. Con cảm thấy không vui khi Ngài làm như thế. Bạch Đức Thế Tôn, hôm nay nếu Ngài giải thích rõ mười vấn đề trên thì con tiếp tục sống đời sống xuất gia tu hành phạm hạnh; nếu Ngài vẫn giữ im lặng thì con mất hết tín tâm không tiếp tục tu hành nữa. Nếu Thế Tôn biết thế giới này là vĩnh hằng, thì xin Ngài nói cho con được rõ. Nếu thế gian này không vĩnh hằng, thì lý do tại làm sao? Nếu Ngài đối với những vấn đề này mà không biết thì trực tiếp nói là không biết.”
Đức Phật dạy:
“Con thật mê muội ! Buổi ban đầu có phải là không hiểu những vấn đề huyền hoặc này mà con đi xuất gia không ? Lúc con đi theo ta tu hành phạm hạnh ta có hứa sẽ nói cho con biết những vấn đề này không ?”. Man Đồng Tử trả lời: “Bạch Đức Thế Tôn, không”. Đức Phật dạy: “ Như vậy con chưa được Như Lai trả lời thì con đã chết rồi. Này Man Đồng Tử, giả như có người bị trúng tên độc bị thương, người thân của người này muốn nhổ mũi tên ra và đưa đến bác sĩ, nhưng người kia không muốn cho người nhà nhổ mũi tên ra trừ phi biết ai đã bắn tên này. Người bắn mũi tên thuộc dòng họ Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Phệ-xá, hay Thủ-đà-la. Hắn cao, thấp, hay vừa, da của hắn nâu, trắng đen hay vàng; hắn ở thành xóm ấp làng nào ? Tôi không muốn nhổ mũi tên ra trừ phi tôi biết tôi bị loại cung tên nào bắn trúng, dây cung làm bằng gì, loại tên hình như thế nào, làm bằng chất liệu gì…Này Man Đồng Tử, người kia chưa kịp biết rõ đáp án thì đã chết rồi, cũng như người muốn biết vũ trụ có vĩnh hằng hay không vĩnh hằng và những vấn đề liên quan nó, người kia chưa kịp được Như Lai trả lời thì đã chết rồi. Cũng như vậy, nếu có người hỏi, tôi không theo Đức Thế Tôn tu hành phạm hạnh nữa trừ phi Ngài trả lời cho tôi về những điều vũ trụ có vĩnh hằng hay không, người kia chưa được Như Lai trả lời thì đã chết rồi”. Vì đời người ngắn ngủi, nếu ai bị những vấn đề huyền hoặc này mà suốt ngày phiền não, cố chấp không xả, muốn tìm cho đến ngọn nguồn, thì càng ngày càng vào mê lộ, cuối cùng không đi ra được.
Một ý nghĩa giáo dục ở đây là những đòi hỏi không cần thiết thì có thể chứng minh điều đó là có hại đến tinh thần. Đối với những vấn đề huyền luận như trên Đức Phật hoàn toàn không để ý.
Hơn nữa, do ngôn từ có tính hạn chế, người phàm phu không thể thông qua ngôn ngữ để hiểu được hay diễn đạt được hết những vấn đề huyền hoặc. Ngôn ngữ do con người sáng tạo dùng để biểu đạt những cảm nhận, kinh nghiệm và tư tưởng mà mình thể nghiệm qua các hiện tượng và sự vật. Ngôn ngữ là tín hiệu để diễn đạt nhận thức về sự vật và ý niệm của chúng ta, nó là phương tiện để thuyết minh sự hiểu biết của chúng ta nhưng cũng không vượt ra khỏi hạn cục của thời gian, không gian. Hay nói cách khác con người chỉ biểu đạt được sự việc và ý niệm trong phạm vi thời gian và không gian cho phép; thậm chí ngôn ngữ của con người có khi không đủ để diễn tả sự việc hiện thực trong đời sống thường ngày. Có lẽ mọi người đều từng có kinh nghiệm về những cảm giác diễn ra trong tư duy của mình mà không thể tìm được ngôn ngữ để diễn tả. Do đó, có thể thấy được ngôn ngữ của con người không phải là phương tiện diễn tả tuyệt đối, nó có tính hữu hạn của nó, không thể diễn đạt nhận thức một chân lý, không những thế hoàn toàn có thể diễn đạt sai lệch với chân lý qua nhận thức. Vì chân lý tuyệt đối ( chẳng hạn như Niết-bàn ) siêu xuất thời gian, không gian và cả định luật hạn chế của hữu vi; con người chỉ có tu tập để đạt đến chứng đắc mới thể nghiệm được, chứ không thể dùng ngôn ngữ để miêu tả hoặc không thể dùng tri kiến bình thường để suy diễn được. Đến đây ngôn ngữ nhà Thiền gọi là ngôn ngữ đạo đoạn. Trên thực tế, những vấn đề như vậy vĩnh viễn không thể thông qua ngôn ngữ văn tự để trả lời đầy đủ như ước muốn, mà cũng không có loại ngôn từ nào để diễn đạt loại kinh nghiệm như thế. Như câu chuyện Rùa và Cá trong truyện cổ Phật giáo, Rùa kể cho Cá nghe thế giới trên cạn, cứng, không thể bơi, chỉ có thể bước đi. Nhưng Cá không thể nào hiểu nổi, cứ khăng khăng cho môi trường trên cạn tương tự như môi trường nước, có thể bơi nhảy, lặn lội. Cũng giống như ngôn ngữ bình thường của chúng ta không thể nào đem ra diễn tả trạng thái của Niết - bàn. Cho dù có dùng bút mực cao cấp, ngôn từ diễm lệ, lời lẽ cao huyền cũng phí công vô ích, không thể tìm thấy những ngôn từ thích hợp để diễn giảng cảnh giới của Niết Bàn. Cho nên người câu nệ vào văn tự thì bị ràng buộc. Cũng như kinh Lăng Già đã dạy người ngu chấp vào văn tự như voi bị sa lầy không thoát ra được.
Cuối cùng, Đức Phật tùy cơ thuyết pháp, Ngài không dùng những gì mang tính huyền hoặc để thuyết giảng, cũng không trả lời bằng cách phô trương kiến thức, mà với lòng từ bi và trí tuệ, Ngài chú ý vào thực tiễn để giáo hóa chúng sanh, đưa họ ra khỏi mê hoặc cố chấp, giúp người vấn nạn đi vào con đường chánh đạo. Lúc thuyết pháp, Đức Phật tùy cơ hóa độ, quán xét trình độ, căn cơ, tính cách và khả năng nhận thức của đối tượng nghe pháp để dẫn dắt chỉ dạy.
Qua những tình huống trả lời những câu hỏi mà người khác đặt ra với Đức Phật, chúng ta thấy Đức Phật đã dùng bốn hình thức như sau để trả lời:
- Thứ nhất là Thế giới tất đàn: là các tiêu chuẩn căn cứ trên những nhận thức phù hợp với cuộc sống của con người ở thế giới này để nói mặc dù không phải là tuyệt đối.
- Thứ hai là Vị nhân tất đàn: là do con người mà nói như vậy, phù hợp với lề lối, suy nghĩ, nhận thức và văn hóa của con người như vậy nên tùy thuận để nói Pháp.
- Thứ ba là Đối trị tất đàn: tùy theo hoàn cảnh nhận thức của chúng sinh mà Đức Phật đặc biệt nói cho họ nghe pháp để làm cho họ phản tỉnh.
- Thứ tư là Đệ nhất nghĩa tất đàn: là nói tiêu chuẩn tuyệt đối về chân đế, sự thật, dù người không hiểu có phản đối cũng không sao.
Ngoài ra, trước mọi điều huyền hoặc, Đức Phật luôn giữ im lặng hơn cả mọi hùng biện. Với từ bi và trí tuệ, Đức Phật giữ im lặng nhưng vẫn quan tâm đến người gặp nạn, cứu họ thoát khỏi khốn cảnh khi thấy đủ duyên.
Có nhiều sách vở học giả Phật giáo về sau cố giải thích những điều mà Đức Phật đã im lặng, cố gắng đặt vấn đề phải chăng Đức Phật có giải thích những vấn đề huyền hoặc này ? Chúng ta cũng không cần có một kết luận nào, nhưng chúng ta có một điều có thể khẳng định rằng pháp mà Đức Phật biết thì nhiều hơn pháp mà Đức Phật đã nói. Trong kinh điển còn ghi lại, một hôm Đức Phật nắm một nắm lá trong tay và hỏi các đệ tử rằng:
“ Này các Tỳ-kheo, trong tay Ta nhiều lá hay trong rừng nhiều lá ?”. Các Tỳ-kheo trả lời: “ Bạch Đức Thế Tôn, lá trong tay Thế Tôn rất ít so với lá trong rừng”. Đức Phật dạy: “ Cũng như vậy, những pháp mà Như Lai chứng biết như lá trong rừng, còn những pháp mà Như Lai nói cho các vị như lá trong nắm tay này, chỉ có một ít, những pháp mà Như Lai nói rất hữu hạn. Nhưng tại sao Như Lai không nói hết ? Vì chúng không có ích, không hướng dẫn mọi người chứng đắc Niết-bàn. Đó là nguyên nhân mà Như Lai không nói hết những pháp đó ”.
Như vậy những điều này không phải Đức Phật không biết, mà vì Đức Phật quán thấy sự hạn chế của ngôn ngữ, không thể dùng ngôn ngữ bình thường để diễn đạt một cảnh giới siêu việt.
Đại Trí Độ luận và Câu Xá luận có nói đến 14 trường hợp tương tự với những vấn đề siêu hình ở trên Đức Phật đều không trả lời. Nguyên nhân là:
1 – Những vấn đề này đều hư vọng không thật.
2 – Các pháp vốn không “thường” cũng không “đoạn diệt”.
3 – Những câu hỏi này chỉ dẫn đến tranh luận, hý luận vô bổ, không có ích cho việc tu hành cầu tiến. Do đó, Đức Phật không trả lời.
Tóm lại, Đức Phật luôn giữ im lặng đối với những vấn đề siêu hình hay huyền hoặc mà luôn luôn đề cao tinh thần thực tiễn. Cho nên trong Phật giáo đối với những vấn đề siêu hình không phải là không thể nghiên cứu. Nhưng quá thiên trọng về huyền hoặc thì sẽ thêm nhiều phiền não và dẫn đến không lối thoát vì tính rối rắm của chúng. Do đó trong quá trình nghiên cứu Phật pháp hoặc giải thích cho người khác hiểu Phật giáo chúng ta nên học theo Đức Phật, kết hợp nhiều yếu tố hiện thực và nhu cầu của xã hội hiện đại để giải thích làm sao cho dễ hiểu, ứng dụng Phật pháp vào đời sống sinh hoạt hằng ngày, hạn chế tranh luận về những vấn đề siêu hình để phô trương kiến thức mà không đem lại một kết quả nào. Làm khác đi, chúng ta chỉ lãng phí thời gian tranh luận từ ngày này qua ngày khác.
_()_ Namo Amitabha Buddha _()_
Sửa bởi tigerstock68: 13/08/2013 - 10:20
#120
Gửi vào 13/08/2013 - 10:40
Sức chịu đựng của con người là có hạn hay vô hạn? Câu trả lời tùy thuộc vào cách nhìn của mỗi người trong từng hoàn cảnh riêng biệt. Chúng ta đã từng nghe, từng chứng kiến những con người có sức chịu đựng phi thường để vượt qua và chiến thắng nghịch cảnh của số phận, nhưng ta cũng tah61y những người không thể chịu đựng được dù chỉ một câu nói hay một ánh nhìn mỉa mai.
Vậy thật sự thế nào là chịu đựng? Hãy tưởng tượng nếu bạn nghe bác sĩ báo tin mình đã bị ung thư, hay nhiễm HIV hay có chứng bệnh nan y nào khác, có thể bạn sẽ hoảng hốt và suy sụp tinh thần ngay lúc ấy, có thể bạn kiên cường và không biểu hiện gì cả. Rồi theo thời gian, bạn sẽ thấy mọi thứ cũng bình thường trở lại, và bạn chấp nhận “sống chung” với căn bệnh ấy. Khi bạn biết chấp nhận những sự thật về bản thân mình, cũng là lúc bạn biết chịu đựng những gì bản thân bạn gây ra cho chính mình. Mọi thứ bệnh tật, tai ương không phải tự dưng mà có, nhiều khi do chính chúng ta chủ quan xem nhẹ sức khỏe, coi thường bản thân để chạy theo những thú vui phù phiếm hay những tham vọng đời thường, tới khi sức khỏe đội nón ra đi lại nằm đó than thân trách phận.
Sống là phải biết chịu đựng. Ta chịu đựng những sức nặng của trách nhiệm, của những vai trò ta phải đóng trong cuộc sống hàng ngày. Ta chịu đựng số phận đã an bài cho ta như thế và không than trách ông trời. Ta chịu đựng những người, những gì theo duyên số mà gắn kết hay tới bên ta, thậm chí bỏ ta đi hay gây tổn thương đau đớn cho ta. Ta chịu đựng sự thất thường của thời tiết, cơn thịnh nộ của thiên nhiên, sức ép bon chen của đời sống nơi ta đang ở v.v…
Nhưng chịu đựng chứ không phải là cam chịu một cách nhẫn nhục. Ta chấp nhận những gì ta có và chịu trách nhiệm về những gì mình làm, không có nghĩa là ta để mặc mọi sự buông trôi. Ta biết mình có số phận an bài, nhưng ta cũng biết làm sao để sống an vui và hạnh phúc trong số phận ấy. Ta chịu đựng tất cả những gì xung quanh ta, nhưng không để chúng điều khiển ta, mà luôn làm hài hòa mọi thứ để ta nuôi dưỡng và phát triển tình thương, giúp cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn. Ta chịu đựng sức ép muôn mặt của cuộc sống, nhưng ta cứ làm tốt nhất những gì mình có thể làm, cần phải làm, ta sẽ thấy mình thoải mái trong chính những sức ép ấy.
Khả năng chịu đựng, hay chấp nhận, cũng đòi hỏi sự rèn luyện kiên trì. Trong cuộc sống có những điều ta tưởng như không bao giờ chấp nhận được, nhưng khi nó xảy ra ta lại thấy cũng khá dễ dàng để đón nhận. Ngược lại, có những thứ ta từng chấp nhận nhưng tới một khi nào đó ta lại rất khó chịu với nó. Và ta cho rằng do những thứ ấy thay đổi. Kỳ thực là do chính ta thay đổi nhận thức và suy nghĩ hướng về nó. Trái tim ta xét về mặt cơ học thì vô cũng bé nhỏ, nhưng dưới góc độ tâm lý thì vô cùng to lớn. Nếu ta cho một lạng muối vào bát nước thì sẽ rất mặn để không uống được, nhưng cho lạng muối ấy vào dòng sông thì chẳng hề hấn gì. Ta muốn trái tim ta nhỏ như bát nước hay rộng dài như sông là tùy tâm ta để đón nhận những muộn phiền và bất ưng của cuộc sống.
Chịu là chấp nhận. đựng là dung chứa. Nếu ta thật rộng lượng và từ tâm thì tâm hồn và trái tim ta có thể chấp nhận được nhiều thứ và dung chứa tới vô cùng. Vạn vật trong vũ trụ đều sống trong vòng tuần hoàn theo các quy luât của thiên nhiên muôn đời, và ta cũng là một sinh linh nhỏ bé trong vũ trụ bao la ấy, nên ta cần hòa mình vào trong vòng quay ấy bằng cách giản đơn là biết chấp nhận và dung chứa những gì tới bên ta, ở cạnh ta, không đòi hỏi gì nhiều, bởi lẽ đó là cái duyên của ta và vạn vật.
Trước hết, ta cần chấp nhận chính bản thân mình như vốn có, đừng bao giờ ước ao “ Giá mà mình cao hơn, xinh đẹp hơn, thông minh hơn, giàu có hơn v.v…”. Chấp nhận bản thân để biết chỗ nào mình cần khắc phục để tốt hơn, chỗ nào cần phát huy để hướng thiện. Tiếp đó, ta hãy thôi oán trách các bậc sinh thành tại sao sinh ta ra, tại sao không cho ta cuộc sống như con nhà giàu sang khác v.v… Bởi họ chẳng chọn ta và ta cũng chẳng chọn họ, duyên nghiệp khiến ta và họ thành ruột thịt. Mở rộng hơn, ta biết cách chấp nhận tất cả những người xung quanh như họ vốn có, với tất cả những sực khác biệt với mình. Chính các khác biệt ấy mới làm cuộc sống của ta thêm phong phú, cho ta thêm trải nghiệm và trưởng thành. Cuối cùng, hãy biết chấp nhận tất cả những thành công hay thất bại trên đường đời. Thành công, cũng chỉ là khởi đầu cho nhưng thử thách mới. Thất bại, cũng chỉ là giúp ta tìm ra con đường mới. Thành không kiêu, bại không nản mới là chí khí của anh hùng. Nói là vậy, nhưng làm được vậy đòi hỏi chúng ta tập luyện rất nhiều cả thân và ý. Thân ta không run rẩy sợ hãi trước thất bại, ý ta không lung lay trước khó khăn thì mới không thấy thất bại là cay đắng mà là cơ hội cho sự khám phá mới. Thân ta không lâng lâng vì thành quả, ý ta không xôn xao vì những tụng ca, thì ta sẽ thấy thành công ấy chỉ là cho ta thêm những nấc thang mới phải vượt qua.
Chịu đựng là việc cần tập luyện hàng ngày, như tập thiền hay yoga vậy. Ta phải tập kìm chế cảm xúc trước mọi sự vật hiện tượng, bình tĩnh suy xét trước khi có phản ứng. Ta cần tập cách tận dụng phương thuốc nhiệm màu là thời gian để tất cả sẽ trở thành “có thể chấp nhận được”. Mỗi khi vượt qua được sự cám dỗ của việc đánh giá vội vàng, dẫn tới những cảm xúc lo âu, hoảng hốt, sơ hãi hay tức giận… thì ta đã từng bước đạt tới ngưỡng cao hơn của sự chấp nhận.
(Thích Trúc Thái Phước)
Vậy thật sự thế nào là chịu đựng? Hãy tưởng tượng nếu bạn nghe bác sĩ báo tin mình đã bị ung thư, hay nhiễm HIV hay có chứng bệnh nan y nào khác, có thể bạn sẽ hoảng hốt và suy sụp tinh thần ngay lúc ấy, có thể bạn kiên cường và không biểu hiện gì cả. Rồi theo thời gian, bạn sẽ thấy mọi thứ cũng bình thường trở lại, và bạn chấp nhận “sống chung” với căn bệnh ấy. Khi bạn biết chấp nhận những sự thật về bản thân mình, cũng là lúc bạn biết chịu đựng những gì bản thân bạn gây ra cho chính mình. Mọi thứ bệnh tật, tai ương không phải tự dưng mà có, nhiều khi do chính chúng ta chủ quan xem nhẹ sức khỏe, coi thường bản thân để chạy theo những thú vui phù phiếm hay những tham vọng đời thường, tới khi sức khỏe đội nón ra đi lại nằm đó than thân trách phận.
Sống là phải biết chịu đựng. Ta chịu đựng những sức nặng của trách nhiệm, của những vai trò ta phải đóng trong cuộc sống hàng ngày. Ta chịu đựng số phận đã an bài cho ta như thế và không than trách ông trời. Ta chịu đựng những người, những gì theo duyên số mà gắn kết hay tới bên ta, thậm chí bỏ ta đi hay gây tổn thương đau đớn cho ta. Ta chịu đựng sự thất thường của thời tiết, cơn thịnh nộ của thiên nhiên, sức ép bon chen của đời sống nơi ta đang ở v.v…
Nhưng chịu đựng chứ không phải là cam chịu một cách nhẫn nhục. Ta chấp nhận những gì ta có và chịu trách nhiệm về những gì mình làm, không có nghĩa là ta để mặc mọi sự buông trôi. Ta biết mình có số phận an bài, nhưng ta cũng biết làm sao để sống an vui và hạnh phúc trong số phận ấy. Ta chịu đựng tất cả những gì xung quanh ta, nhưng không để chúng điều khiển ta, mà luôn làm hài hòa mọi thứ để ta nuôi dưỡng và phát triển tình thương, giúp cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn. Ta chịu đựng sức ép muôn mặt của cuộc sống, nhưng ta cứ làm tốt nhất những gì mình có thể làm, cần phải làm, ta sẽ thấy mình thoải mái trong chính những sức ép ấy.
Khả năng chịu đựng, hay chấp nhận, cũng đòi hỏi sự rèn luyện kiên trì. Trong cuộc sống có những điều ta tưởng như không bao giờ chấp nhận được, nhưng khi nó xảy ra ta lại thấy cũng khá dễ dàng để đón nhận. Ngược lại, có những thứ ta từng chấp nhận nhưng tới một khi nào đó ta lại rất khó chịu với nó. Và ta cho rằng do những thứ ấy thay đổi. Kỳ thực là do chính ta thay đổi nhận thức và suy nghĩ hướng về nó. Trái tim ta xét về mặt cơ học thì vô cũng bé nhỏ, nhưng dưới góc độ tâm lý thì vô cùng to lớn. Nếu ta cho một lạng muối vào bát nước thì sẽ rất mặn để không uống được, nhưng cho lạng muối ấy vào dòng sông thì chẳng hề hấn gì. Ta muốn trái tim ta nhỏ như bát nước hay rộng dài như sông là tùy tâm ta để đón nhận những muộn phiền và bất ưng của cuộc sống.
Chịu là chấp nhận. đựng là dung chứa. Nếu ta thật rộng lượng và từ tâm thì tâm hồn và trái tim ta có thể chấp nhận được nhiều thứ và dung chứa tới vô cùng. Vạn vật trong vũ trụ đều sống trong vòng tuần hoàn theo các quy luât của thiên nhiên muôn đời, và ta cũng là một sinh linh nhỏ bé trong vũ trụ bao la ấy, nên ta cần hòa mình vào trong vòng quay ấy bằng cách giản đơn là biết chấp nhận và dung chứa những gì tới bên ta, ở cạnh ta, không đòi hỏi gì nhiều, bởi lẽ đó là cái duyên của ta và vạn vật.
Trước hết, ta cần chấp nhận chính bản thân mình như vốn có, đừng bao giờ ước ao “ Giá mà mình cao hơn, xinh đẹp hơn, thông minh hơn, giàu có hơn v.v…”. Chấp nhận bản thân để biết chỗ nào mình cần khắc phục để tốt hơn, chỗ nào cần phát huy để hướng thiện. Tiếp đó, ta hãy thôi oán trách các bậc sinh thành tại sao sinh ta ra, tại sao không cho ta cuộc sống như con nhà giàu sang khác v.v… Bởi họ chẳng chọn ta và ta cũng chẳng chọn họ, duyên nghiệp khiến ta và họ thành ruột thịt. Mở rộng hơn, ta biết cách chấp nhận tất cả những người xung quanh như họ vốn có, với tất cả những sực khác biệt với mình. Chính các khác biệt ấy mới làm cuộc sống của ta thêm phong phú, cho ta thêm trải nghiệm và trưởng thành. Cuối cùng, hãy biết chấp nhận tất cả những thành công hay thất bại trên đường đời. Thành công, cũng chỉ là khởi đầu cho nhưng thử thách mới. Thất bại, cũng chỉ là giúp ta tìm ra con đường mới. Thành không kiêu, bại không nản mới là chí khí của anh hùng. Nói là vậy, nhưng làm được vậy đòi hỏi chúng ta tập luyện rất nhiều cả thân và ý. Thân ta không run rẩy sợ hãi trước thất bại, ý ta không lung lay trước khó khăn thì mới không thấy thất bại là cay đắng mà là cơ hội cho sự khám phá mới. Thân ta không lâng lâng vì thành quả, ý ta không xôn xao vì những tụng ca, thì ta sẽ thấy thành công ấy chỉ là cho ta thêm những nấc thang mới phải vượt qua.
Chịu đựng là việc cần tập luyện hàng ngày, như tập thiền hay yoga vậy. Ta phải tập kìm chế cảm xúc trước mọi sự vật hiện tượng, bình tĩnh suy xét trước khi có phản ứng. Ta cần tập cách tận dụng phương thuốc nhiệm màu là thời gian để tất cả sẽ trở thành “có thể chấp nhận được”. Mỗi khi vượt qua được sự cám dỗ của việc đánh giá vội vàng, dẫn tới những cảm xúc lo âu, hoảng hốt, sơ hãi hay tức giận… thì ta đã từng bước đạt tới ngưỡng cao hơn của sự chấp nhận.
(Thích Trúc Thái Phước)
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối |
---|
1 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:
An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |
Quỷ Cốc Toán Mệnh |
Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |
Quẻ Mai Hoa Dịch Số |
Bát Tự Hà Lạc |
Thái Ât Thần Số |
Căn Duyên Tiền Định |
Cao Ly Đầu Hình |
Âm Lịch |
Xem Ngày |
Lịch Vạn Niên |
So Tuổi Vợ Chồng |
Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:












