Jump to content

Advertisements




Truyện tâm linh - hiendde



831 replies to this topic

#436 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 18/08/2011 - 18:41

ĐƯỜNG MÂY TRONG CÕI MỘNG

Bài 24 - KHAI THỊ CHO THIỀN SƯ NHƯ LANG.

Phật dạy:

- Cạo bỏ râu tóc, mà làm Sa Môn. Rời tham dục được tịch tĩnh, là điều quan trọng nhất.

Thế nên, biết rõ tham dục vốn là sanh tử, cũng là lộ đường đại sự quan trọng nhất. Vì vậy, phải nên tha thiết trì giới. Rời xa tham dục, bèn được an ổn tịch lạc. Sở dĩ chúng sanh trầm luân trong biển khổ, không thể mau lên bờ giác ngộ, đơn độc chỉ vì tham dục quá lắm.

Phật dạy:

- Trong các khổ đau, tham dục làm gốc. Nếu diệt tham dục thì các khổ đau không còn nơi nương tựa. Chỗ nương y nhà cửa của mọi chúng sanh trong ba cõi, đều lấy tham dục làm nền tảng. Trần lao đau khổ, đều do tham dục làm điên đảo. Hôm nay, vừa bỏ tham dục, thì gọi là phá ba độc, xuất ra ba cõi, chặt lưới ma cả.

Khi ấy, đức Như Lai rất hoan hỷ. Cho nên biết rõ, không rời năm dục, thì ba cõi khó phá, và muốn cầu tịch tĩnh giải thoát cũng khó thành, khiến Như Lai phải bi sầu. Như Lang thiếu niên xuất gia, tham phương hành cước. Nay gặp lão nhân, phát tâm Bồ Đề thọ giới Sa Di, chí tu hạnh ly dục. Đây chính là diệu hạnh phát nguyện xuất ly sanh tử bậc nhất, chỉ sợ chí không kiên cố, hành không đắc lực thôi. Phật dạy rằng cần cù nhẫn thọ các sự khổ nhọc lâu dài, thì mới có thể thành tựu đạo quả. Kế tiếp là phải có ý chí quyết định, tu thẳng đến khi thành Phật mới thôi. Đó chính là ý chí rời tham dục chân thật.

Thanked by 1 Member:

#437 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 18/08/2011 - 18:44

ĐƯỜNG MÂY TRONG CÕI MỘNG

Bài 25 - KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN THẠCH NGỌC.

Học nhân đời mạt pháp, đa số hướng về những sự tu tập thô phù, mà không đi thẳng đến chỗ chân thật. Vì vậy, ngay nơi những lời dạy của đức Phật, chỉ chấp trên danh tự ngôn ngữ, mà không đạt được tông chỉ cứu cánh, khiến tăng thêm tri kiến, sanh đại ngã mạn. Đây là dùng Phật Pháp mà kết thêm cội gốc sanh tử, cũng không biết sanh tử là vật chi, cứ bảo rằng chẳng có can hệ gì.

Mê mờ đi trong đêm tối, nên không thể thấy được chánh lộ tu hành. Ngôn từ của Phật dạy, đều là pháp xuất ly sanh tử, sao người đời nay ngược lại bị đoạ? Việc này chẳng phải lỗi của Phật, mà lỗi tại học nhân không có chánh tri chánh kiến, cùng chưa từng thân cận và được thiện tri thức chỉ điểm thuyết phá trừ căn mê lầm. Học nhân Thạch Ngọc với lòng chân thật và nghiệp trong sạch, xưa đã từng tham kiến lão nhân tại ngoài miền Lãnh Nam, Lão nhân đi về miền đông, sang Ngô Việt, khắc tân sớ sao Lăng Nghiêm Pháp Hoa.

Thạch Ngọc xem lại, tham cứu tinh tường rồi châm chước, nên đắc được yếu chỉ bên ngoài lời nói của lão nhân. Nay lão nhân trở về Khuông Sơn dưỡng già. Ngày nay, Thạch Ngọc có khả năng làm bạn trong không gian u tịch, để tham cứu việc hướng thượng, mà không bị tập khí văn tự làm sở tri chướng. Thật hay lắm thay!

Thanked by 1 Member:

#438 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 18/08/2011 - 18:48

ĐƯỜNG MÂY TRONG CÕI MỘNG

Bài 26 - KHAI THỊ CHO THIỀN SƯ NHƯ THƯỜNG.

Phật dạy:

- Từ bỏ cha mẹ, xuất gia tu đạo; liễu ngộ chân tâm, đạt đến bổn tánh, giải pháp vô vi, gọi là Sa Môn, thường hành hai trăm năm mươi giới.

Lại bảo:

- Đoạn tham dục tẩy trừ ái chấp, nhận thức nguồn tự tâm; đạt được lý thâm sâu của Phật, mà ngộ pháp vô vi.

Lại bảo:

- Cạo bỏ râu tóc, mà làm Sa Môn, lãnh thọ Phật Pháp; bỏ tiền tài riêng tư ở thế gian, chỉ cầu biết đủ; ngày ăn một buổi, mỗi đêm ngủ dưới một gốc cây; cẩn thận chớ xoay trở lại. Khiến người bị ngu si che mờ, đều do ái dục. Những pháp như thế, Phật dặn dò rõ ràng; chẳng ngoài việc nhắc nhở chư Sa Môn, lúc vừa xuất gia, hạnh đầu tiên phải hành là xa rời dục lạc.

Hậu thế tử tôn, thân tuy xuất gia, mà tâm lại say sưa nơi năm món dục; không biết sao phải hành pháp viễn ly, và đạo nào là đạo xuất khổ não, chỉ miên man hôn mê, mà không tự giác; lại giả bộ phục sức oai nghi, dối trá hiện tướng oai đức; ngoài dối người, trong khi tâm mình; che đậy lỗi lầm mà chẳng biết tự giác. Người muốn cầu chân tâm chánh niệm, thật hiếm có. Kinh Tịnh Danh nói rằng trực tâm là đạo tràng.

Như Thường có chí cầu pháp xuất ly, phải lấy trực tâm làm đệ nhất nghĩa. Trân trọng

Thanked by 1 Member:

#439 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 18/08/2011 - 18:51

ĐƯỜNG MÂY TRONG CÕI MỘNG

Bài 28 - KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN VÔ SANH.

Cổ nhân vừa mới phát tâm, chân chánh vì đại sự sanh tử, quyết chí xuất ly, nên cắt ái từ thân, tham phương tầm cầu thiện tri thức; trải qua bao gian nan khổ cực, tâm tâm niệm niệm, chỉ vì nhắm thẳng vào việc chưa sáng; ưu bi thống thiết, như khóc mẹ đã già chết. Gặp được thiện tri thức như con thấy mẹ. Được nghe một lời hay nửa câu, liền khai mở tâm địa, như bệnh được thuốc. Một niệm tương ưng, liễu ngộ nơi tâm, như kẻ nghèo được châu báu. Quăng thân bỏ mạng, nổi trôi bị bao khinh rẻ, mà chưa từng than van nản lòng.

Nhị tổ Huệ Khả vì muốn an tâm mà chặt cánh tay. Lục tổ Huệ Năng đeo đá giã gạo. Bá Trượng làm chấp sự bao lao nhọc. Dương Kỳ làm công quả cúng dường đại chúng. Phàm danh tiết được truyền đăng chiếu soi thiên cổ, chẳng ngoài sự khắc khổ mà nên. Chư Phật trong đời quá khứ, cầu vô thượng Bồ Đề, xả thân mạng như số cát vi trần; không loài nào mà chẳng thọ thân; không thân nào mà chẳng tu khổ hạnh. Trăm kiếp tu nhân, nên cảm thiên thượng nhơn gian cúng dường vô lượng.

Mạt pháp tử tôn, vì lãng phí thọ dụng nên mất phần công đức bất tận. Sao lại có trời sanh Di Lặc, và có tự nhiên Thích Ca! Đau đớn thay! Đời mạt pháp, đã xa quá thời thánh giáo; phép tắc pháp môn để dùng quét đất. Hậu bối xuất gia, không biết vì việc gì. Sanh ra chỉ biết sợ đói lạnh, nên mãi lo việc ấm no.

Vừa bước vào cửa không, bèn trở lại theo tập quán thế tục; đàm luận suông cả ngày, phủng phệ túng tình, để sáu căn chạy rong; chuẩn bị tạo các việc ác; không làm lụng cực nhọc mà hưởng thức ăn ngon; không chăn tằm mà mặc y đẹp; hư tiêu của tín thí, lãng phí thời giờ; chẳng biết sanh từ đâu đến, chết sẽ đi về đâu! Sao lại không biết nhân quả khó trốn thoát, và tội phước không sai chạy! Đại hạn lâm chung đến, như đá chìm thẳng xuống nước; ba đường ác khổ cùng cực; một quả báo phải chịu cả năm ngàn năm, biết ngày nào mới được thoát khỏi!

Nhắc những lời này, lão nhân đau xót chua cay! Mục kích thời lưu hiện tại, đều buông lung như thế. Hy vọng người tu phải như đãi cát lấy vàng, chẳng nên bảo là không có, vì vàng vẫn còn nguyên. Lao tù ba cõi, gông cùng trong bốn loài, lửa lớn cháy phừng phựt, nhà sanh tử hiểm hoạ, làm thế nào để dũng mãnh thoát các khổ, đến nơi vô uý?

Chẳng phải là đấng trượng phu đầy đủ linh căn, hàm chứa bao cốt cách, thì không thể phấn tấn dũng mãnh, vừa siêu vượt liền nhập vào. Các thầy sanh ra may mắn được gặp Phật Pháp; sáu căn đầy đủ, hình vóc nương nhờ y ca sa, sớm gặp minh sư. Nếu không thống niệm vô thường, nghĩ ngợi thâm sâu về đại sự, tư duy khổ nơi địa ngục, mà phát tâm Bồ Đề, sửa đổi tâm tánh, để ngày đêm tinh cần, sớm cầu xuất ly, mà cứ dần dà sống qua ngày, phóng túng thân tâm, thì lúc đại hạn đến, hối hận sao kịp! Hãy nên cố gắng mà hành. Nếu quên lời khuyên răn nhắc nhở của tôi thì phụ lòng tôi và cũng chính là tự phụ mình!

Thanked by 1 Member:

#440 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 18/08/2011 - 18:54

ĐƯỜNG MÂY TRONG CÕI MỘNG

Bài 29 - KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN TỰ TÔNG.

Phật dạy đệ tử tu pháp xuất thế, chỉ có hai loại diệu hạnh là tự lợi và lợi tha. Lợi tha gọi là tu phước. Tự lợi gọi là tu huệ. Bồ Tát phát tâm, cần cầu đạo Bồ Đề vô thượng. Bồ Tát tuy biết pháp tánh là lặng lẽ không tịch, mà chẳng xả bỏ các hạnh hữu vi. Biết các pháp vốn không tịch tức là tự lợi. Không xả bỏ các hạnh hữu vi gọi là lợi tha. Từ trên chư Phật Tổ, chưa có ai chẳng từ hai hạnh này mà được xuất ra khỏi sanh tử.

Đức Thế Tôn muôn kiếp tinh cần tu bao khổ hạnh khó hành. Chúng ta từ bao kiếp dài lâu, lặn hụp trong biển sanh tử, đầu xuất đầu mất, xả thân thọ thân, không thể nghĩ bàn, đều là sống hư chết phí, thì làm sao có một chút gì là hạnh môn chân thật ! Nếu có hạnh chân thật thì quyết sẽ không như mặt mũi đời nay. Sao không thống niệm, mà hồi quang phản chiếu, dũng mãnh tự suy gẫm!

Đời nay thiền nhân do túc duyên may mắn, sớm đã thoát tục, mãi rời biển khổ, lại được an cư tại danh sơn, nơi đạo tràng thù thắng vi diệu mà chư tổ thường thuyết pháp. Đây là duyên lành muôn kiếp khó gặp. Chính là đói gặp tiệc vua. Bệnh được gặp vương. Tự phải biết mình may mắn vô ngần, rồi tận suốt cả đời, xả bỏ thân mạng, làm các việc công đức, thì vượt trội trăm kiếp ngàn đời thường sống vô tích sự.

Thiền nhân hãy tin lời của lão nhân; từ rày về sau, phát tâm kiên cố bất thối, trì chí dũng mãnh can cường, tận hết sức lực, lượng hết tài năng, biện một mảnh tâm khăng khít, nhậm duyên tuỳ nguyện, nhịn tâm nhịn phiền, nhẫn khổ nhẫn lao, thì sẽ có một ngày thành tựu công đức, tức sống đời hữu ích. Thiền nhân tự bảo thân yếu thần suy, không thể lãnh nhận công tác.

Cổ nhân quý tại tâm lực cường, nguyện lực lớn, chứ không kể tại sắc thân khoẻ hay không khoẻ. Nay tuy có ít bệnh, không quá khổ đau. Nếu tạo nghiệp ác, đoạ nơi ba đường dữ, thì có cầu như hôm nay bịnh ít, thân tâm phiền não ít, hay muốn gieo lợi ích trong ruộng phước, cũng chẳng được.

Phật bảo chúng sanh, phải nhớ các nỗi khổ nơi địa ngục, mà phát tâm Bồ Đề, tức là bây giờ phải nên tự thúc đẩy, phát khởi tinh tấn. Cổ đức bảo rằng thà chết mà có pháp, còn hơn sống mà chẳng có pháp. Xả bỏ thân mạng này, làm những diệu hạnh đó; ví như chiếc thuyền Bát Nhã, có thể đạt đến bờ giác. Câu nệ chi mà không cố gắng cưỡng ý chí, để phụ bạc bỏ phí cuộc đời này! Đã đến núi báu, lại trở về tay không. Sao không tiếc thay!

Nếu thường an tâm nơi vô sự, tức là tâm không. Tâm không tức thần chẳng suy. Thần chẳng suy tức thần không lao nhọc. Đó là diệu hạnh vô tác. Gặp duyên tức là tông thú tu hành; quyết không để công việc thường ngày xoay chuyển. Nơi nơi đều thành tựu môn đại giải thoát. Xin hãy suy gẫm cho kỹ!

Thanked by 1 Member:

#441 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 18/08/2011 - 18:57

ĐƯỜNG MÂY TRONG CÕI MỘNG

Bài 30 - KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN TỰ GIÁC.

Phật bảo chư tỳ kheo rằng mỗi sáng sớm phải tự lấy tay xoa đầu. Lời này thật thâm thuý. Lão nhân mỗi mỗi suy gẫm, đức Phật từ bi thống thiết triệt xương tủy. Ngài hằng bảo rằng mạt pháp tỳ kheo, đa số thường thích thọ dụng, an nhiên hưởng thụ tứ sự cúng dường. Mỗi mỗi tự bảo đó là điều ưng phải được, mà không xét coi mình là người gì, cùng vật cúng dường từ đâu đến, và làm thế nào mà thọ nhận!

Người biết ân thì hiếm, và người báo ân thì ít, chỉ vì chưa chịu rờ đầu. Nếu chịu xoay lại rờ đầu, thì bất giác tự hoảng sợ, thốt lời rằng tại sao mình cắt bỏ râu tóc, không mặc y phục người thế tục! Biết hình dạng khác tục, nên không dám cư trú gần người thế tục; thân không dám vào chốn thế tục; tâm không dám niệm nhớ thế tục. Như thế tức là an lạc nơi hạnh viễn ly. Không đợi thiện tri thức dạy bảo, mà tự phát tâm dõng mãnh; vào núi chỉ sợ núi không sâu.

Song, có những hạng thầy tu lại an nhiên trú ngụ trong phồn hoa đô thị hỗn tạp; phóng túng thân tâm, để làm người vô loại, và hành bao hạnh vô ích. Thiền nhân Tự Giác vốn trụ ở nhân gian, nay đến Khuông Sơn lễ bái lão nhân, nguyện khô tâm trụ núi, tu hạnh xuất thế. Lão nhân vì đó chỉ dạy hạnh phước huệ song tu. Tu hụê tức tại quán tâm. Tu phước tức hành nơi vạn hạnh. Quán tâm dùng niệm Phật làm phương pháp tối thắng. Vạn hạnh dùng sự cúng dường làm đầu. Hai việc này, chính là hạnh tổng trì.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta khởi tâm động niệm, đều là vọng tưởng, (tức cội gốc của sanh tử), nên phải chiêu lấy quả khổ. Ngày nay dùng tâm vọng tưởng đó, chuyển làm tâm niệm Phật, tức niệm niệm thành nhân Tịnh Độ, đó là quả an lạc. Nếu niệm Phật mà tâm tâm không gián đoạn, thì vọng tưởng sẽ tự tiêu diệt. Ánh sáng của tự tâm phát lộ, và trí huệ hiện tiền, tức trở thành pháp thân Phật. Chúng sanh bần cùng không phước huệ, do sanh sanh thế thế, chưa từng có một niệm cúng dường Tam Bảo, để cầu phước đức. Sanh tử làm khổ thân; niệm niệm tham cầu sự vui của năm món dục lạc, mà đó chính là tư lương của gốc khổ.

Bây giờ, dùng tâm tham cầu, chuyển thành tâm cúng dường Tam Bảo. Đem thân mạng hữu hạn, tuỳ tâm lượng lực, mà cúng dường mười phương. Dùng một cây hương, một nhánh hoa, một hạt gạo, một cọng rau, để cúng dường Tam Bảo như nhỏ một giọt nước vào biển cả, và như một hạt bụi vi trần rơi xuống đất. Biển có lúc khô, và đất có lúc cùng tận, mà phước báo kia chẳng cùng tận, nên cảm Phật quả, trang nghiêm cõi Hoa Tạng, để làm nơi tự thọ dụng trong tương lai. Bỏ hạnh này thì không có diệu hạnh thành Phật khác.

Thiền nhân nếu sanh mỏi mệt chán chường, hãy lấy tay xoa đầu, tức sẽ tự phát tâm dũng mãnh vô lượng.

Thanked by 1 Member:

#442 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 18/08/2011 - 19:02

ĐƯỜNG MÂY TRONG CÕI MỘNG

Bài 31 - KHAI THỊ ĐẠI CHÚNG.

Gần đây các thiếu niên ở khắp nơi, thường tự bảo có chí tham thiền. Song lúc tương kiến đối đầu, tôi nhận thấy họ đều là những kẻ điên đảo. Họ gìn giữ vọng tưởng làm thệ nguyện, dùng sự làm biếng giải đãi làm công phu khổ nhọc, dùng phô trương ngã mạn làm hạnh cao, dùng môi lưỡi giỡn chơi làm cơ phong, dùng chấp ngu si làm sự hướng thượng, dùng việc phản bội Phật Tổ làm tự thị, dùng trí huệ ranh manh làm diệu ngộ.

Thế nên, mỗi khi vào tùng lâm, thân nghiệp không thể nhập vào đại chúng, và miệng ý không thể hoà với mọi người. Buông lung tình ý, chẳng tu ba nghiệp, mà cho lễ bái tụng niệm là hạ liệt, cho hạnh môn (công việc trong chùa) là thấp kém, cho Phật Pháp là oan gia, cho văn lượm lặt làm tri kiến của mình. Tuy họ có khả năng khởi công phu khán thoại đầu, nhưng lại đem tâm tầm cầu giác ngộ. Ngồi trên tấm bồ đoàn chưa vững, ngủ gật chưa tỉnh, mộng cũng chưa thấy chính mình, mà cống cao tự phụ, rồi viếng thăm chư thiện tri thức, thuyết huyền thuyết diệu, trình ngộ trình giải, và đưa câu cú chưa hạ lạc (liễu ngộ), hàm đồ cầu chứng.

Nếu có phước duyên, gặp minh nhãn thiện tri thức, được đập vỡ khuôn sáo sai lầm, thì đó là điều may mắn. Nếu không may mắn, chỉ gặp những kẻ với tay khua đàn, tu thiền mù, thường dùng ấn giả đóng dấu, rồi bị ném xuống hang hố ngoại đạo, khiến bị đoạ lạc trăm ngàn muôn kiếp, không có cơ may ngoi đầu lên được. Chẳng đáng thương lắm sao! Những kẻ hậu bối ngu si này, tự làm mất chánh nhân, vì gặp nạn tà độc.

Nếu gặp được Lâm Tế hay Đức Sơn, chắc cũng không thể cứu giải mê chấp cho họ. Thật đáng thương thay! Bệnh trạng của thiền môn là tại chỗ này. Xin hãy xem rõ, từ xưa cổ nhân quyết không phải như thế. Tổ Bá Trượng hầu Mã Tổ, và thường ra đồng làm ruộng, cùng hành công án “chạm vào cái xuổng” và “vịt trời” để nghiệm công phu chân thật.

Thế nên, tổ Bá Trượng mới để lại lời răn nhắc:

- Một ngày không làm là một ngày không ăn. Lại nữa, thầy Dương Kỳ là tri sự cho ngài Từ Minh; hơn hai mươi năm hành môn chấp sự tháo vát, chịu trăm ngàn khổ cực, mà chưa từng nản lòng hay than phiền vì lao nhọc, nên đắc được tạng quang minh rộng lớn, soi sáng cổ kim. Ngài Lại Dung lưng vác gạo, và tổ Hoàng Mai xay gạo; xem qua cổ nhân, không ai chẳng trải qua bao khổ nhọc mới đạt thành tựu.

Làm thế nào mà những kẻ thiếu niên, vừa vào tùng lâm, liền muốn lấy việc tham thiền làm hướng thượng, chỉ vẽ toà ngồi, cho là nơi thọ dụng, chứ không lay động tay áo, chẳng nhặt một cọng cỏ nhánh cây. Những người bạc phước, tuyệt không có tâm xấu hổ. Dẫu có diệu ngộ, mà chỉ biến thành những điều trơ trẽn, nên không được trời người cúng dường. Huống là không chân thật dụng công tu hành, chỉ làm hư tiêu của tín thí, cam đoạ trầm luân!

Nếu người vì sự sanh tử, phải quán xem đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, nơi ba ngàn đại thiên thế giới, không có một hạt cải vi trần nào mà chẳng phải là nơi xả bỏ đầu mắt tuỷ não để cầu Bồ Đề. Phải phát tâm dõng mãnh như thế. Phải xả bỏ tận cùng tánh mạng. Bố thí bộ xương thúi cho mười phương, và cúng dường thân sắc cho đại chúng. Nơi tất cả hạnh môn, chuyên cần khổ nhọc tháo vát mà hành. Làm những việc khó làm. Nhẫn những việc khó nhẫn. Trong những hoạt động hằng ngày, nơi cửa ngõ của sáu căn, nhìn xuyên và thấu suốt, thì đắc được pháp giải thoát.

Cổ nhân bảo:

- Thuận theo nhân duyên mà nhập vào, liền được tương ưng. Dụng tâm như thế, trong ba mươi năm không thay đổi, nếu chưa ngộ đạo, quyết sẽ là người đầu đội trời chân đạp đất.

Quý vị! Lão nhân nay yết cáo với chư đồng tham học!

Thanked by 1 Member:

#443 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 18/08/2011 - 19:06

ĐƯỜNG MÂY TRONG CÕI MỘNG

Bài 32 - KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN BẢO QUÝ BỔN TỊNH

Thiền nhân Bảo Quý, tự dụng tâm thủ hộ Phật Pháp. Lúc trẻ viết kinh Pháp Hoa và các bộ kinh khác. Mộ tiền tạo hai thánh tượng Thích Ca và Di Đà bằng chiên đàn, để nơi Đỉnh Hồ ở Đoan Châu. Lúc qua lại Ngũ Dương, nghiêng đầu thỉnh vấn. Tôi bảo rằng Phật dạy các pháp từ duyên sanh, các pháp từ duyên diệt; duyên hội mà sanh, tức là duyên chưa sanh thì không có; duyên chưa có, tức là tuy có mà tánh thường tự không. Tánh không tức là chư pháp vốn chẳng có tự tánh. Vì vậy bảo rằng biết pháp thường vô tánh. Hạt giống Phật từ duyên khởi. Người năng đạt duyên khởi vô tánh, tức là hạt giống chân chánh thành Phật.

Thiện tai Phật tử! Thầy đã viết các quyển kinh pháp, cùng tạo các thánh tượng Như Lai bằng gỗ chiên đàn. Dùng tín lực làm nhân, và mượn các việc huyễn hoá làm duyên; đó là Phật từ duyên khởi, mà pháp cũng từ duyên sanh. Nơi trong pháp tánh, pháp tức là Phật, và Phật cũng là pháp.

Song, nếu không xem xét kỹ rằng pháp tánh là không, thì tánh chẳng không. Nếu bảo tánh không, tức nay thấy tướng hảo trang nghiêm của Phật, quang minh sáng chói, hừng thạnh như núi báu, mà tám mươi quyển kinh linh văn Hoa Nghiêm, thứ lớp ba mươi chín phẩm, năm vòng nhân quả hạnh bố, bốn mươi hai quả vị sâm nghiêm, không thiếu một chữ. Ba lần thọ ký trong kinh Pháp Hoa, cùng lễ lạy chư Phật trong hồng danh sám pháp, không thiếu một người.

Hình thể sáng soi, rực rỡ đầy khắp, có thể bảo là tánh không vô vật chăng? Nếu bảo tánh này chẳng phải là không, thì lúc duyên hội tụ, giấy vẫn là giấy, mực vẫn là mực, vàng tự là vàng, hương tự là hương. Giấy mực như thế, đều vì thế đế mà lưu bố. Vàng hương như thế đều vì ác nghiệp mà trang nghiêm. Danh từ Phật Pháp từ đâu mà có! Cầu kia vốn không, tức tánh tự không. Nay do duyên tụ hội, tức dùng vàng hương của thế đế mà cho là tượng Phật, và dùng giấy mực của thế đế mà cho là kinh.

Hiện thời, tướng giấy mực không khác, và xưa kia thể không tăng. Danh từ Phật Pháp đã rõ rệt; người thành thục bèn khởi tâm cung kính hay ngạo mạn khiến cách ngăn, mà cơ thiện ác thấu suốt trời xanh. Do đó, quán xét tất cả pháp, vốn không tự tánh, rõ ràng chỉ từ duyên khởi mà sanh. Năng liễu đạt Phật Pháp vốn không có tự tánh, đấy chính là hạt giống chân chánh thành Phật.

Song, tuy tạo bao nghiệp lành thù thắng, mà không thẩm xét liễu đạt vô tánh mà làm, thì do làm nên sau này sẽ liễu đạt được vô tánh. Nếu liễu đạt vô tánh mà làm, tức Phật Pháp ngay nơi mình mà không ở nơi vật. Nếu không liễu đạt mà làm, thì Phật Pháp ngay nơi vật chứ không ở trong tâm mình. Nếu do làm mà sau này được liễu đạt, thì mình và vật đồng vô tánh. Đạt được vô tánh, tức là không có người năng tác. Đạt được pháp vô tánh, tức là không có pháp để làm. Người và pháp đều không, thì thị phi đều tiêu mất; mình và vật đều không còn dấu tích, sao còn phân biệt chỗ nào!

Nếu đạt được như thế thì công đức không thể nghĩ bàn. Đạo Bồ Đề cũng không thể nghĩ bàn. Chư Phật tử! Hiểu biết như thế, chính là hiểu biết chân chánh. Hành được như thế, thì chính là diệu hạnh. Sao dùng tâm suy nghĩ mà làm những việc Phật sự khó suy tư! Ví như tay cầm lửa đom đóm mà muốn đốt núi Tu Di, thì chỉ tự mệt nhọc chứ có ích lợi gì, và cứu cánh ở chỗ nào!

Lành thay chư Phật tử! Hãy quán xem pháp vương pháp. Pháp vương pháp là như thế; phải nên biết mà hành và trì theo đó, mới gọi là vượt trên hết các loài hữu tình!

Thanked by 1 Member:

#444 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 18/08/2011 - 19:12

ĐƯỜNG MÂY TRONG CÕI MỘNG

Bài 33 - KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN CHÂN NGỘ.

Thiền nhân Chân Ngộ sanh trưởng tại Lô Lăng, chán vợ con mà xuất gia; thích hạnh viễn ly, chí hướng danh sơn, tham tầm tri thức. Huyễn nhân dùng nghiệp huyễn, chọn đến Lãnh Hải. Vừa đến tham tầm, thiền nhân lại từ biệt qua Phổ Đà lễ thầy Quán Âm, thọ kệ chúc phó của Phật Tỳ Xá Phù, rồi lại đến Ngũ Dương. Huyễn nhân nơi đạo tràng huyễn hoá, làm Phật sự như huyễn, khai thị chư huyễn chúng, thuyết pháp môn như huyễn. Thiền nhân lễ bái cầu pháp. Huyễn nhân lại y tam muội như huyễn, mà thuyết tất cả chư pháp như cảnh giới mộng huyễn, bảo:

- Lành thay Phật tử! Hãy suy nghĩ chính chắn! Tất cả chư Phật y huyễn lực mà thị hiện. Tất cả Bồ Tát y huyễn lực mà tu trì. Tất cả nhị thừa y huyễn lực mà trầm không thủ tịch. Tất cả ngoại đạo y huyễn lực mà hôn mê. Tất cả chúng sanh y huyễn lực mà sanh rồi tử. Thiên cung tịnh độ y huyễn lực mà kiến lập. Quỳnh lâm bảo thọ y huyễn lực mà bày biện. Giường thiếc trụ đồng y huyễn lực mà thi thiết. Vạc nóng lò than y huyễn lực mà xông lên. Chim chóc rùa cá y huyễn lực mà bay ẩn. Sâu bọ nhện gián y huyễn lực mà sống còn.

Chỗ chứng đắc của ba đời chư Phật, và sự truyền thừa của sáu đời tổ sư, cũng hoàn toàn không vượt ngoài lưỡi huyễn. Tam muội thiền nhân vừa được mà lại bỏ mất. Hãy thử suy nghĩ cho kỹ, vì sao bị đoạ lạc vào vòng sanh tử, vì sao nhập vào thai mẹ, vì sao chìm trong ái tình triền phược, vì sao nguyện xuất trầm luân, vì sao khởi bước du phương, vì sao tầm cầu thiện tri thức, vì sao lê giày đến danh sơn leo lên vùng đất phước? Xuyên tùng lâm vào hệ xã, rồi nay đến Nam Hải, năm kế tới Ngũ Đài, năm kế nữa đến Nga Mi, cứ đi khắp hoàn vũ, trải qua bao trần kiếp, cùng tận mười phương quốc độ nhiều như số vi trần, thừa sự mười phương chư đại thiện tri thức, mà chẳng thoát khỏi vòng huyễn hoá, vì không phải là nơi cứu cánh chân thật.

Lúc mê lầm cho bóng là đầu, không do dẫm được đường về nhà, mà có thể đạp một cú đứt đoạn được lưới huyễn kết tụ, thì vô biên lưới huyễn nhất thời đều đứt đoạn. Bao bờ bể huyễn hải, nhất thời đều khô cạn. Vô lượng huyễn nghiệp, nhất thời đốn tiêu. Vô biên huyễn hạnh, nhất thời bèn đắc được. Vô lượng chúng sanh huyễn hoá, nhất thời bèn độ tận. Đây tức là dùng huyễn để tu huyễn.

Vì vậy bảo rằng tâm huyễn hoá của chúng sanh lại phải y huyễn mà diệt. Nếu chưa được như thế, thì phải trải qua ba lần sanh sáu mươi kiếp, tôn Văn Thù làm cha, kính Quán Âm làm mẹ, thờ Phổ Hiền làm thầy, để nương nhờ thân cận những vị này, cầu mong xuất sanh tử. Hãy suy nghĩ cho kỹ! Đây chẳng phải bảo rằng Ta vi người huyễn hoá, và lời nói cũng không chân thật. Tham khán! Tham khán!

Thanked by 1 Member:

#445 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 18/08/2011 - 19:17

ĐƯỜNG MÂY TRONG CÕI MỘNG

Bài 34 - KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN PHÁP CẨM.

Pháp Cẩm tự bảo tánh nhiều sân hận. Lão nhân vì thế mà chỉ dạy phương tiện để điều phục, tức là pháp môn nhẫn nhục.

Đại sư Vĩnh Gia có dạy:

- Thầy của Ta được thấy Phật Nhiên Đăng nhiều kiếp, do vì làm tiên nhẫn nhục. Do đó, biết rõ nhẫn nhục là diệu hạnh thành Phật bậc nhất. Vì thế, thầy của Ta, tức Phật Thích Ca, sanh sanh thế thế, bị Đề Bà Đạt Đa phỉ báng hãm hại, cho đến đời nay cũng dùng bao cách phá hoại Phật Pháp, chẳng có việc gì mà không dám làm. Đề Bà Đạt Đa đã giết hại thân mạng tiền thân của Phật chẳng phải là một. Song, trong pháp hội giảng kinh Pháp Hoa, đức Phật lại thọ ký cho ông ta:

- Ta được ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, công đức thù thắng vi diệu, đều nhờ thiện tri thức Đề Bà Đạt Đa hỗ trợ mà thành tựu. Đây chẳng phải do yếu hạnh nhẫn nhục sao!

Phật lại bảo:

- Xưa kia, lúc bị vua Ca Lợi cắt đứt thân thể, Ta không thấy có tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Nếu còn có tướng ngã, chúng sanh, thọ giả thì chắc có lẽ Phật Nhiên Đăng sẽ không thọ ký cho Ta.

Do đó, quán xem tất cả chúng sanh, sanh tử khổ não tràn đầy, đều do có bản ngã. Thành tựu đạo Bồ Đề vô thượng, trang nghiêm phước huệ, đều do vô ngã mà đạt được. Do ngã địch đối với vật nên sanh thị phi. Thị phi sanh khởi tức thương ghét lập ra. Thương ghét lập rồi thì thêm nhiều vui buồn giận tức. Tự tánh vẫn đục thì tâm địa hôn mê. Tâm địa hôn mê thì các việc ác sanh trưởng. Các việc ác sanh trưởng thì các khổ hội tập. Các khổ hội tập thì sanh tử dài lâu. Tất cả đều do chấp ngã mà ra. Cái ngã này thật rất lợi hại, giống như quân binh giữ thành trì nghiêm ngặt, không thể phá dễ dàng.

Lão Tử có bảo:

- Đem nhu thắng cương. Lấy yếu thắng cường bạo. Đây là chỗ hành sơ khởi nhất của hạnh nhẫn nhục.

Chúng sanh nương nhờ vào cái ngã kiến kiên cố khó phá này. Vì vậy, một lời nào trái tai thì không thể nhẫn thọ được; một việc trái ý thì không thể an nhẫn. Một lạnh một đói cũng không thể chịu nổi. Một niệm dục không thể tẩy tịnh. Tất cả đều không biết phương dược của nhẫn nhục, cứ mãi tăng thêm kiến chấp về bản ngã. Vì vậy, Phật dạy chư đệ tử phải nên tu hạnh hoà hợp. Lại bảo:

- Khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí.

Lại bảo:

- Vô sanh pháp nhẫn. Bồ Tát bát địa mới đắc được.

Vì vậy, biết rõ sanh khởi pháp nhẫn, nhẫn đến vô sanh, tức là thành tựu diệu hạnh viên giác Phật quả. Hạnh nhẫn nhục, há thô thiển sao!

Thế nên bảo rằng làm tất cả mọi việc, đều phải dùng sức nhẫn nhục; nghĩa là nơi cử tâm động niệm đều là chỗ thử thách tâm nhẫn nhục. Nơi cử chân động bước, phải lấy hạnh nhẫn nhục làm đầu. Nơi xoay sở động tịnh, phải trì nhẫn nhục. Nơi buồn vui giận tức, phải dùng nhẫn để thử nghiệm. Hành được như thế, thì tâm không tán loạn vọng động. Thân không tán loạn vọng tác. Sự không tán loạn vọng hành. Tình không tán loạn vọng phát.

Thế nên Lão Thị bảo:

- Bất tán loạn là hạnh đầu tiên của thiên hạ. Bất tán loạn tức là tên khác của nhẫn, và là hạnh đầu tiên của thiên hạ. Vì thế, nhẫn là hạnh thành Phật bậc nhất. Hành được thì nhẫn nhục thêm lớn và bản ngã lại nhỏ đi. Nhẫn có khả năng che khuất bản ngã và sự vật. Đức tự lợi lợi tha, không ngoài hạnh nhẫn nhục. Y phục nhu hoà nhẫn nhục là như thế đó.

Thiền nhân cầu pháp ngữ, nên tôi đề viết: “Hãy lấy nhẫn nhục làm y giáp”.

Thiền nhân nên gắng sức mà hành. Đây chẳng phải là lời lẽ trên đầu môi chót lưỡi, cũng chẳng phải là bày biện tiệc cơm.

Thanked by 1 Member:

#446 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 18/08/2011 - 19:25

ĐƯỜNG MÂY TRONG CÕI MỘNG

Bài 35 - KHẮC BÀI TỰA VỀ PHẬT SỰ DU GIÀ.

Đức Phật thiết giáo, chú trọng về lý dứt sanh tử, thông tới cõi u minh, đạt đến tình thức loài quỷ thần, độ tận tất cả chúng sanh, dẹp trừ tất cả khổ não. Vì vậy bảo rằng từ bi làm duyên. Gieo duyên với chúng sanh khổ não. Nếu chúng sanh không bị khổ não kịch liệt, thì không thể thấy lòng từ bi quảng đại. Do đó mà xuất ra giáo lý Du Già.

Tiếng Phạn chữ Du Già, nơi đây gọi là Tương Ưng, tức bảo rằng tâm và cảnh hoà hợp như một. Song, giáo có hiển và mật. Hiển tức là chỉ thẳng bản nguyên tâm thể của chúng sanh, khiến họ liễu ngộ, để thoát khỏi sự ràng buộc ràng rịt của sanh tử. Lại nữa, chư Phật ấn tâm là dùng thần chú để gia trì, khiến chúng sanh mau thoát các khổ não kịch liệt. Do đó mới thiết lập quy thức độ sanh.

Chân ngôn vốn từ bộ Quán Đảnh, để phá trừ u minh, và cứu vớt vong hồn lưu lạc. Khởi đầu do tôn giả A Nan, vào một buổi tối nọ, đang ngồi thiền trong rừng, thì thấy quỷ vương hiện ra trước mặt, cầu khai mở pháp thí thực, cùng chú nguyện thức ăn nước uống, để tế độ hà sa chúng sanh. Nhân duyên này xuất phát từ thần tăng Tây Vực, rồi lưu truyền qua cõi Chấn Đán. Từ đó, ngài tam tạng Bất Không tuyên dương mật ngôn.

Dần dần đến đời vua Lương Võ Đế; nhân hoàng hậu Hy Thị bị đoạ làm thân rắn mãng xà, hiện hình cầu cứu độ, nên nhà vua thỉnh hoà thượng Chí Công, vân tập chư đại đức sa môn, soạn ra văn nghĩa đàn tràng Thuỷ-Lục, u hiển linh kỳ, tức thông ba cõi, thấu tới loài tình thức. Từ đó đến nay, tăng đồ nương theo nhân này, làm Phật sự Du Già.

Đến đời vua Hồng Võ (Chu Nguyên Chương), ông lập quy chế, dùng ba khoa thiền, giảng, Du Già để độ tăng; dùng ba bộ kinh Lăng Nghiêm, Lăng Già, Kim Cang của Phật Tổ để khảo hạch chư tăng giảng pháp và hành thiền; dùng diệm khẩu thí thực, văn sao tân tế để khảo hạch chư tăng hành pháp Du Già. Nếu đậu một trong những điều kiện thi đó, thì mới được làm tăng.

Ngày nay ở vùng nam bộ, chùa Thiên Giới theo thiền, chùa Báo Ân theo giảng pháp, chùa Năng Nhân theo Du Già. Nơi nơi đều tôn thủ chế độ của quốc gia. Song, kể từ đó, pháp này dần dần theo thế tục mà sinh lắm điều tệ hại. Họ dám phá luật nghi, xem như trò chơi, làm mất đi bổn hoài độ sanh của Như Lai.

Biết chư hiếu tử thương mến thân bằng quyến thuộc, nên ngài thuyết ra chân ngôn mật chú, để diễn bày tâm ấn của Như Lai; thuyết một bài kệ bèn biến địa ngục thành tịnh độ; tuyên một lời, khiến vạc dầu trở thành ao sen; pháp âm vang khắp chốn, khiến tội đều tiêu diệt; nghe tiếng chuông bèn trở về quê quán, thì sao lại cho là việc nhỏ! Bỏ mất ý chỉ đó, mà làm những việc vô ích, khiến tự tổn hại, cứ vẫn chưa tỉnh!

Sở tăng nọ vì muốn học Du Già, nên theo Tuyết Lãng cùng chư đại đức, nghe giảng kinh luận, bèn hiểu ý chỉ độ sanh của Như Lai, cùng nơi quy hướng. Bùi ngùi vì pháp môn này ngày càng lưu hành thậm tệ, nên lấy quyển văn nghi thức Thuỷ-Lục mà soạn lại khoa nghi, và tuỳ thời mà sửa đổi; phân điều chiết lý, chương chương rành rẽ, khiến cho những ai cầu nguyện, vì thân bằng quyến thuộc, tận khởi tâm thành, thì được cảm ứng.

Ngoài ra, sa môn Thích tử cũng triển chuyển được tam bi, và khởi lòng chí thành, để làm lợi ích cho chúng sanh, hầu mong không quên mất bổn ý của Như Lai. Soạn tập xong, thì Thầy tịch mất. Môn nhân chúng ta, phải nên kế thừa chí nguyện của Thầy, mà khắc bản này để lưu truyền, giúp người làm Phật sự, tránh khỏi sai lầm, phiền hà về những thuật thần bí.

Những ai có ý chí khẩn thiết tinh thành, và hiếu tử vì từ thân trong đời hiện tại, mỗi mỗi phải tận tâm cầu đạt thần minh cảm ứng, thì công đức này không phải là ít oi. Hôm nay do lời thỉnh cầu, tôi vì diệu hạnh, và vì những vị có tâm làm lợi ích cho quần sanh, mà viết lời tựa cho pháp Du Già, hầu mong người người đều biết bổn hoài ý chỉ của Phật để lại.


TÁC GIẢ: ĐẠI SƯ HÁM SƠN
DỊCH GIẢ: TT.Thích Hằng Đạt
DỊCH GIẢ: Nguyên Phong



Thanked by 1 Member:

#447 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 22/08/2011 - 05:16

TÂY PHƯƠNG DU KÝ



Ngày 25-10-1967 âm lịch, Ngài Ðại Pháp Sư KHOAN TỊNH ngồi thiền trong động Di Lặc, núi Cưu Tiên, dãy Quế Lạc, Công Xã Thượng Dõng, Huyện Đức Hóa, Tỉnh Phước Kiến, đột nhiên được Bồ Tát Quan Thế Âm tiếp dẫn đi khiến mất cả tông tích. Lúc ấy, Pháp Sư được dẫn đến Thế Giới Tây Phương Cực Lạc, tham quan các cảnh giới chín phẩm hoa sen. Thời gian dường như chừng một ngày một đêm, nhưng khi về đến nhân gian đã là ngày mùng 8-4-1973 âm lịch, tính ra đã trên sáu năm, năm tháng trôi qua.

Thoạt nghe thì như là vượt ra tri thức thường tình, khó mà lý giải được. Có câu nói: "Trên trời một ngày, dưới này vài năm" là vậy, cũng bởi không gian của vũ trụ không giống, khái niệm thời gian cũng có khác, người có chút ít hiểu biết về Phật học, tất lý nhận ra được. Thế gian lúc ấy không thấy dấu tích Pháp Sư đâu, đổ xô đi tìm, tăng lục cả Chùa, tìm khắp cả núi, hằng trăm cái động, lớn có nhỏ có, vẫn không thấy tông tích của Pháp Sư, thậm chí huy động cả các đội trục vớt, đội cứu nạn bãi biển, cứu nạn thác ghềnh vẫn không thấy. Một số thiện tín nhiệt thành, còn tuôn ra các huyện thành, các chợ Tuyền Châu, chợ Hạ Môn, chợ Phước Châu, chợ Nam Bình kiếm tìm, còn gởi thơ nhờ các tỉnh huyện lân cận như huyện Vĩnh Thái, Huyện Vĩnh Xuân, Đức Hóa, Phước Thanh, lăng xăng cả mấy năm dài mà vẫn không tin tức gì cả.

Thế rồi, mọi người đều nghĩ Pháp Sư đã viên tịch trong lòng thương tiếc vô cùng. Thật ra từ đầu đến cuối, Pháp sư chưa hề rời khỏi động Di Lạc nữa bước. Do được Phật hộ, nhục thể để trong động những sáu bảy năm mà không bị phát hiện, không bị mục hư, cũng không rõ là được dấu ở đâu (rất có thể dấu ở một dạng không gia khác), về điểm nầy có các cư sĩ ở đây xác minh được, như cư sĩ Trịnh Tú Kiên chẳng hạn. Suốt quá trình dấn bước đến đất Phật Tây Phương Cực Lạc nầy, không thể sánh với bất kỳ một cảnh giới nào trong mộng được. Ngài là một vị tăng đắc đạo, không hề nói chuyện thêu đặt, vọng ngữ, mà cũng chẳng cần vọng ngữ làm gì. Hơn nữa, cảnh giới mà Pháp Sư thấy được không hề giống cảnh giới nào của thiền định thấy, mà cả cảnh giới mà thiền định thấy, cũng chẳng nên đem ra tiết lộ, nếu không tam bộ Thiên Long, mà cả Thiên Ma nữa cũng có thể đến quấy nhiễu được.

Đằng nầy Pháp Sư đã nhận chỉ thị của đức Phật A Di Đà và Bồ Tát Quan Thế Âm nên mới công khai đem chuyện mắt thấy tai nghe trong các cảnh giới của chính phẩm hoa sen nơi Thế Giới Tây Phương Cực Lạc mà chi tiết trình bày ra đây. Phàm những người học Phật đều biết, tội đại vọng ngữ phải xuống ngục Vô Gián, khó có ngày ra, vì thế mà những gì Pháp Sư diễn thuật về Thế Giới Cực Lạc mà Ngài thân hành bước tới là chuyện xác thực ngày vạn lần, có tam giới thần tiên, tám bộ Thiên Long làm chứng. Ngoài cái thế giới ta đang sống, có một thế giới Cực Lạc mà đức Phật nói trong kinh A Di Đà, đều là thực có, Khoan Tịnh Đại Pháp Sư làm một nhân chứng sống về việc ấy. Bút giả cư sĩ Lưu Thế Hoa căn cứ lời kể mà ghi lại.

Thanked by 1 Member:

#448 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 22/08/2011 - 05:20

TÂY PHƯƠNG DU KÝ

Lược Sử Khoan Tịnh Đại Pháp Sư

Khoan Tịnh Đại Pháp Sư ra đời lúc 10 giờ mùng 7 tháng 7 năm giáp Tý 1924. Ngài ra đời trong căn nhà số 140 đại lộ Thành Quan Trấn Đông thuộc huyện Bồ Điền Tỉnh Phước Kiến. Là một hộ cư sĩ Phật giáo họ Phan. Cái đêm Ngài sinh ấy, chân trời đông tây hai hướng ánh vàng óng ánh chớp liên hồi khiến cả cõi đất nơi ấy như vàng óng ánh, vinh diệu, nên lấy đó đặt tên ngài là Phan Kim Vinh. Lúc nhỏ không học, nhưng tư chất thông minh vượt thường, bảy tuổi đã rời nhà tu tập Chùa Giáo Trung, Phước Kiến; mười lăm tuổi chính thức phủi tóc quy y với thầy Hư Vân lão Hoà Thượng tại chùa Tô, hiệu chùa Nam Hoa, Quảng Đông.

Lại thọ chánh nhãn tạng với thầy Hư Vân lão Hoà Thượng tại núi Vân Cư, Giang Tây, là người truyền đăng, đời thứ bốn mươi tám của Tông Động Vân, từng làm trục trì một số chùa ở Phước Kiến như chùa Đế Bình, chùa Thủy Liên, chùa Tiên Phật, chùa Năng Nhân, chùa Khai Bình, chùa Mạch Tà, chùa Tam Hội. Lúc trụ trì chùa Tam Hội thuộc huyện Tiên Du, Phước Kiến năm 1980, Ngài bắt đầu tọa thiền từ ngày 23-12 ngồi riết đến ngày 29-12 mới xá, cộng lại cả sáu ngày rưỡi thiền, đã chấn động cả huyện Tiên Du, lúc ấy thiện tín đến quy y với Ngài có hơn ba ngàn. Năm 1982, đến New York làm hành cước tăng, tuyên Hội Phật Pháp, đã từng lưu trú lại, làm việc tại Giáo Hội Phật Giáo Bắc Mỹ và được mời làm Hội Trưởng danh dự Giáo Hội Phật Giáo San Phan, Mỹ Châu. Chùa Nhã Na, Chùa Quán Thế Âm..Đúng là một vị nho tăng đắc đạo.

Đại Pháp Sư Khoan Tịnh thuyết giảng tại núi Nam Hải Phổ Đà, Tân Gia Ba, vào tháng 4 năm 1987.

Chư vị Pháp Sư, Chư vị Đại Đức, chư vị Cư Sĩ.

Kính chào tất cả chư vị,

Hôm nay chúng ta có đủ Phật duyên cùng hội tụ một chỗ tại đây, cũng là nhân duyên kiếp rồi và quá khứ vô số kiếp về trước. Đó là nhân duyên kiếp rồi và quá khứ nhiều kiếp tập đặng, do đó hôm nay mới có thể gặp mặt nhau tại nơi nầy. Câu chuyện mà tôi sắp nói đây là quá trình bản thân tôi hành dấn bước đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Tôi sẽ trình bày cặn kẽ những cảnh giới, tình hình được thấy được nghe trong thế giới Cực Lạc cùng chư vi. Tôi sẽ nói thành năm phần như sau:

1. Tôi đến thế giới Cực Lạc bằng cách nào? Với nhân duyên gì có thể đến nơi ấy được? Thật ra thì tôi viếng Thế Giới Cực Lạc trước sau vỏn vẹn chừng hai mươi tiếng đồng hồ trong ý nghĩ tôi ước đoán, thế mà, về tới thế gian này so lại, đã trôi qua hơn sáu năm, năm tháng dài.

2. Trên lộ trình tôi đến thế giới Cực Lạc tuần tự ghé qua địa phương nào, kể thì có đông La Hán, trời Đao Lợi, trời Đâu Suất, rồi đến ba địa điểm chính của thế giới Cực Lạc, Hạ phẩm Liên Hoa, Trung phẩm Liên Hoa. Ghi nhận rằng mỗi phẩm Liên Hoa lại chia làm ba bậc: Thượng, Trung, Hạ, cho nên hợp thành cửu phẩm Liên Hoa. Tôi sẽ nói cùng chư vị thật cặn kẽ cảnh giới của ba địa điểm chính ấy như thế nào.

3. Tôi sẽ nói về tình hình vãng sanh vào chín phẩm Liên Hoa như thế nào, nói cách khác, nghĩa là tôi sẽ nói cách tu trì như thế nào, để được công quả như thế nào của chúng sanh trong thế giới ta bà này, mà định đoạt sẽ được vãnh sanh vào phẩm nào trong chín phẩm Liên Hoa ấy. Và tình hình sinh hoạt thực tế của chúng sanh trong mỗi phẩm Liên Hoa như thế nào. Thí dụ: đặc trưng thân hình, màu sắc, y phục, ăn uống nghỉ ngơi và độ cao, độ lớn của chúng sanh trong từng phẩm Liên Hoa trên ấy như thế nào.

4. Tôi sẽ nói về phương pháp tu trì của chúng sanh trong nước Cực Lạc như thế nào, nói dễ hiểu hơn: Tức là nói chúng sanh của từng phẩm một, tu trì như thế nào để được lên từng phẩm, từ dưới lên trên, lên mãi đến thành Phật đạo.

5. Sẽ trình bày lại lời của chư vị ở trên ấy, mà trước này tôi biết được; nhắn nhủ tôi khi trở lại ta bà nầy dặn dò tôi chuyển lời lại chư vị ở ta bà như thế nào.

Thanked by 1 Member:

#449 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 22/08/2011 - 05:25

TÂY PHƯƠNG DU KÝ

Trên Đường Gặp Kỳ Duyên, Bồ Tát Quan Âm Dẫn Vào Cảnh Thánh. Ấy là câu chuyện ngày 25 tháng 10 năm 1967.

Hôm ấy tôi đang ngồi thiền trong chùa Mạch Tà Nham (ghi chú: Pháp Sư là trụ trì của chùa này). Đột nhiên dường như có tiếng ai gọi tên tôi, còn xô tôi về phía trước, lúc ấy tôi có hơi giống người ngà ngà say, lâng lâng làm sao ấy cũng chẳng hỏi nguyên do, cứ thế mà bước ra khỏi chùa. Trong ký thức tôi nghĩ: giờ đây phải qua núi Cửu Tiên ở huyện Đức Hoà, tỉnh Phước Kiến dạo chơi (từ chùa Mạch Tà Nham đến núi Cửu Tiên ước chừng hai trăm cây số) cứ thế tôi bước đi, suốt dọc đường không hề cảm thấy mệt nhọc, cũng không thấy đói bụng, miệng khát thì nốc vài ngụm nước suối, cũng chẳng biết được bao lâu rồi, hầu như không hề ngủ nghỉ qua, chỉ biết rằng lúc ấy đang tạnh ráo không mưa.

Đúng vào lúc đang dấy lên đại cách mạng văn hóa bên Trung Quốc.

Khi tôi đến nơi cách núi Cửu Tiên, huyện Đức Hóa không bao xa, đột nhiên, thần trí tôi tỉnh trở lại, lúc ấy tôi nghe tiếng nói chuyện của nhóm người đi đường, biết được nay là ngày 25 tháng 10 thời kỳ cách mạng văn hóa, nơi nơi loạn lạc dân chúng đợi ban đêm mới ra đường, tôi suy như vậy cũng không khác thường. Lúc ấy cũng ba giờ khuya, trên đường tôi gặp một sư già, cách phục sức y áo giống như tôi vậy, chúng tôi vốn chưa quen biết, giữa đường gặp người đồng đạo, tự nhiên không hẹn mà chắp tay xá nhau thi lễ. Chúng tôi trao đổi nhau danh tự, vị sư bảo:

- Tôi pháp hiệu Viên Quang, hôm nay chúng ta có duyên hội ngộ, chi bằng cùng đến núi Cửu Tiên dạo chơi được chứ!

Do đi cùng hướng, tôi đồng ý ngay. Thế là vừa đi vừa trò chuyện, suốt câu chuyện dường như vị sư ấy thấu rõ rất nhiều chuyện quá khứ thầm kín của tôi, nói rất nhiều chuyện nhân quả, cũng y như chuyện thần thoại, câu chuyện dẫn hết trong đời này qua đến nguyên nhân tạo tác của đời trước, rồi đời trước nữa. Rằng kiếp ấy tôi sanh ở đâu? Ở những nơi nào? Lúc nào? Làm những việc gì, nghe say mê quá, đến nay từng câu từng chữ một, tôi vẫn còn nhớ vanh vách. (Sau này tra cứu lại niên đại ấy, người tên họ ấy, cả nghề nghiệp ấy, phần mộ ấy, nhóm con cái ấy đều đúng cả). Chân bước theo câu chuyện, bất giác tới chân núi Cửu Tiên không hay, đỉnh núi này có một động lớn, thờ tượng Di Lạc nên gọi là động Di Lạc là nơi chúng tôi nhắm đến; tôi nghe rất quen thuộc và rành đường lối đến động này.

Nhưng mà khi lên đến nửa đường núi, hiện ra trước mắt tôi những cảnh tượng thật khác lạ, con đường đang đi đã này không phải là con đường núi Cửu Tiên trước đây, đằng nầy, đường lối được xây bằng những tảng đá lớn, lấp lánh ánh hào quang, thật lạ, đi đến cuối nhìn lại, đã không còn là động Di Lạc nữa, mà là một vùng trời đất khác rồi. Trước mắt tôi hiện ra ngôi chùa lớn trước nay chưa từng thấy, vô cùng tráng lệ, so với cung điện ở Bắc Kinh, còn hùng vĩ hơn nhiều. Hai bên ngôi chùa có hai tòa bảo tháp, đi một lúc chúng tôi đã đến cổng lớn, cổng xây bằng toàn là đá trắng, cửa cổng có tấm hoành phi to, trên ấy có viết mấy chữ, tôi nhìn không biết nghĩa. Trước cổng có bốn vị Hòa Thượng, mình mặc aó tràng đỏ, lưng đeo đai vàng óng, tướng trang nghiêm, thấy hai chúng tôi đến, cùng quỳ xuống đảnh lễ nghênh tiếp, tôi vội vàng đáp lễ lại, tôi lấy làm lạ, cách phục sức của Hòa Thượng nơi đây tôi chưa từng thấy. Có hơi giống các vị Lạc Ma tăng, các vị ấy cũng mỉm cười lên tiếng:

- Thế là đến rồi, hoan nghênh, hoan nghênh.

Rồi mời hai tôi vào trong. Vào cổng, qua mấy cung điện, lạ thật, nhà cửa ở đây đều ánh ra tia sáng, đẹp quá, hùng vĩ quá. Bên trong có một dãy hành lang, hai bên trồng đủ loại kỳ hoa dị thảo, màu sắc khác nhau, đi một lúc đến một tòa đại điện, trên điện có bốn chữ vàng lớn, lấp lánh tia sáng, không phải hoa văn, cũng không phải Anh Văn. Tôi nhìn không hiểu mới hỏi Sư Viên Quang về nghĩa bốn chữ ấy, Sư bảo là "Trung Thiên La Hán" tôi thầm nghĩ, đã gọi là Hán, đây chắc phải là cảnh giới đạt được của những vị La Hán. Bước đến nơi đây tôi rờn rợn cảm giác rằng vùng đất này hẳn không còn là thế giới ta bà chúng ta rồi. Đến nay tôi còn nhớ được một chữ, còn ba chữ kia không nhớ ra. Lúc tôi gặp Sư Viên Quang là ba giờ khuya, nay đã hừng sáng rồi, bên trong và ngoài điện có vô số người ra vào, với các loại màu da vàng, trắng, đỏ, đen, đều có đó, da vàng chiếm đa số, già, trẻ, trai gái đều có.

Quần áo rất lạ, thẩy đều có phát hào quang tụ năm tụ ba, có nhóm tập võ nghệ, có nhóm ca sang múa vũ, có nhóm đánh cờ, có nhóm ngồi thiền dưỡng thân, tất cả dù bận việc gì cũng ánh lên nét vui mừng; thấy chúng tôi đến, đều lộ vẻ thắm thiết, mĩm cười gật đầu, nhưng vẫn không nói lời nào. Vào trong Đại Điện, tôi lại thấy bốn chữ lớn khác, Sư Viên Quan cho biết: đó là bốn chữ "ĐẠI HÙNG BỬU ĐIỆN", từ trong có hai vị Hòa Thượng già ra đón chúng tôi. Tôi thấy một vị có râu trắng rất dài, một vị khác cũng già nhưng không có râu. Vừa gặp Sư Viên Quang, vội quỳ xuống lạy, hành đại lễ, La Hán ở trung thiên đối với Sư Viên Quang mà kính trọng đến bậc ấy, thiết nghĩ, Ngài chắc là bậc phi phàm lắm vậy. Lúc họ tiến dẫn chúng tôi vào phòng khách, tôi để ý bốn bên điện, chỉ thấy khói hương lan tỏa, mùi thơm ngào ngạt, mặt đất đều trải bằng những phiến đá trắng bóng loáng. Đặt biệt hơn, trong điện thờ không có một tượng Phật nào, mà phẩm vật cúng dường thì rất nhiều.

Hoa tươi từng đóa lớn như quả banh, đều tròn ung ủng, các kiểu các dạng đèn treo, màu sắc sặc sỡ, lóng lánh hào quang, vào đến phòng khách cụ Hòa Thượng chuyển hai ly nước từ tay tiểu đồng để mời chúng tôi, người tiểu đồng ấy đầu thắt hai bím, thân mang áo lục, lưng thắt đai vàng óng, trang phục như đạo đồng, rất dễ thương. Nước trong ly trắng trong mát dịu, tôi uống nửa ly. Sư Viên Quang cũng nâng cốc, uống rồi tinh thần phấn phát, khỏe hẳn người ra, mất hết cái mệt nhọc trong ngày. Sư Viên Quang nói nhỏ bên tai cự Hòa Thượng cái gì đó, cụ bèn dặn tiểu đồng dẫn tôi đi tắm, tôi thấy một bồn nước bằng đồng trắng đựng đầy nước trong sửa soạn từ lúc nào, tôi rửa mặt và tắm gội, rồi lại được trao cho bộ áo Hòa Thượng màu lam xám, thanh khiết mới toanh.

Tắm xong tinh thần thư thái hẳn lên, tôi thầm nghĩ: hôm nay tôi nhất định đã vào cảnh Thánh rồi, lòng mừng khẩp khởi khó mà thí dụ cho được. Về lại phòng khách, tôi vội đến trước Hòa Thượng quỳ lạy ba lạy, xin được chỉ dạy, tôi hỏi về tương lai của Phật Giáo Trung Quốc ra sao? Vị Hoà Thượng này không nói một tiếng, chỉ thấy nhấc cây bút chấm mực viết trên giấy tám chữ: "PHẬT TỰ TÂM TÁC, GIÁO DO MA CHỦ". Hòa Thượng trao giấy cho tôi, hai tay tôi tiếp nhận, nhưng chẳng hiểu gì về ngụ ý của tám chữ này, vị Hòa Thượng khác giải thích cho tôi biết, với tám chữ này để ngang đứng, đứng ngang, trái phải, phải trái, trên dưới, dưới trên, chữ cuối lại tách ra, đọc thành ba mươi sáu câu, sẽ hiểu được tình hình Phật Giáo từ nay đến trăm năm sau.

Nếu mà lại đem ba mươi sáu câu ấy diễn dịch thành tám trăm bốn mươi câu, có thể thấu được tiến trình Phật Giáo thế giới từ nay cho đến khi Phật Giáo diệt độ mới thôi. Sư Viên Quang cho biết tám trăm bốn mươi câu nầy, cần thời cơ chín mùi đã mới công bố được, nay chỉ nên tuyên bố ngầm như vậy, tám chữ nầy hóa ra tám trăm bốn câu, mỗi câu đều khác, giải thích tình huống Phật Giáo Trung Quốc sau nầy.

Tôi loay hoay sắp:

- Phật tự tâm tác, giáo do ma chủ

- Phật giáo tự chủ, ma tâm do tác

- Tác tâm tự Phật, chủ do ma giáo...

Nhiều lắm nhưng tôi vẫn không hiểu và chưa chắc chắn cách sắp này là đúng, thiện trí thức nào biết, cứ sắp thử, sắp một hồi, vị Hòa Thượng bảo tôi nên vô phòng nghỉ ít lâu, tiểu đồng dẫn tôi vào phòng, chẳng thấy giường đệm đâu cả, chỉ có hai cái ghế dựa trên trải nhiễu. Rồi tôi ngồi lên ghế tĩnh tọa, thoáng cái, cả người tôi bỗng thấy thoải mái, thư thái vô cùng, tôi không còn biết tôi đang ở đâu nữa. Thế rồi nghe tiếng Sư Viên Quang gọi tôi, tôi vội vã đi xuống, chạy ra khỏi phòng.

Sư Viên Quang nói với tôi:

- Bây giờ tôi đưa ông đến Trời Đâu Xuất, đảnh lễ Bồ Tát Di Lặc, và Sư Phụ của ông là Hư Vân Lão Hòa Thượng nhá!

Tôi mừng quýnh:

- A Di Đà Phật hay quá, cám ơn Ngài.

Rời đại điện tôi định giã từ hai vị Hòa Thượng nơi đây, nhưng Sư Viên Quang ngăn lại:

- Không cần, không cần, thì giờ không có bao nhiêu.

Thế là lần nầy tôi đến cung trời Đâu Xuất.

Thanked by 1 Member:

#450 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 22/08/2011 - 05:28

TÂY PHƯƠNG DU KÝ

TRÊN TRỜI ĐÂU XUẤT GẶP HƯ VÂN LÃO HÒA THƯỢNG

Trên đường đi, tôi gặp rất nhiều điện vàng, bảo tháp, nguy nga tráng lệ, tất cả đều phát sáng, khiến tôi nhìn không chớp mắt nhưng Sư Viên Quang thôi thúc nói thời giờ eo hẹp, đi cho nhanh lên. Mãi sau này tôi mới biết, thời gian trên Thượng giới khác với thời gian chúng ta sống, không nên để luống qua, nếu không về tới ta bà đây chắc cũng lướt qua vài trăm năm, có khi cả ngàn năm không chừng. Hầu hết những con đường đều xây bằng đá tảng lớn trắng, và ẩn hiện ánh hào quang, trên núi hoa thơm cỏ lạ muôn vàn, nương gió hắt lại những mùi thơm ngát trời. Quanh quanh mấy cái eo triền núi, đến một cái vực rất sâu cả mấy chục ngàn thước ẩn hiện phía trước một cây cầu để bước qua bên kia vực, nhưng không thấy đầu cầu và cuối cầu, mây từng cụm là là che phủ, chỉ thấy một đoạn vòng lên cao ở giữa cầu. Tôi thầm nhủ:

- Cái cầu như vậy làm sao qua được đây?

Ngay lúc ấy Sư Viên Quang hỏi tôi:

- Hằng ngày ông thường trì chú gì? Kinh gì?

Tôi trả lời:

- Tôi hay trì chú Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa.

Sư bảo:

- Tốt, thế giờ ông trì chú đi!

Tôi bắt đầu trì chú. Chú Lăng Nghiêm có hơn ba ngàn chữ, mới trì có hai ba trăm chữ, cảnh đằng trước tôi hóa ra khác rồi, cây cầu lúc ấy hiện rõ hai đầu cầu nối lại với lại bờ đất, cầu tỏa sắc óng ánh vàng, lóng lánh chói lọi, cả cầu được dựng bằng bảy báu vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ... Trông như cầu vồng treo giữa lưng trời vậy, đẹp mắt vô cùng, thành cầu có nhiều cột đèn, đèn bằng hạt châu sáng và thật to, đầu cầu có dựng cổng trên có khắc năm chữ lớn, như bốn chữ ở đại điện đã thấy, nên tôi đoán năm chữ ấy là "TRUNG THIÊN LA HÁN KIỀU", qua khỏi cầu, nghỉ lại đôi chút tôi vội hỏi Sư Viên Quang:

- Bạch Sư, tại sao khi chưa niệm chú tôi chẳng thấy hai đầu cầu, niệm rồi lại rõ ra như vậy?

Sư rằng:

- Khi chưa niệm chú, bản tánh của ông tức Bản Lai Diện Mục của ông bị nghiệp chướng của tự thân trùng trùng vây chặt, siêu thắt mình lại, áng cả tầm nhìn, không thể thấy tánh cảnh được đâu, sau khi niệm chú do oai lực của chú, nghiệp chướng tức thì tiêu tan nên chẳng bị che khuất, tự tánh thanh tịnh, hiện ra cảnh giới thật của nó, từ mê chuyển tỉnh, nên nói muôn dặm không thấy muôn dặm trời là vậy đó.

Chúng tôi lại bắt đầu đi, vừa đi vừa trì chú, tự nhiên phía trước bước chân hiện ra những hoa sen to, từng cánh sen chiếu ánh sáng xanh lóng lánh như thủy tinh vậy, bước lên hoa sen nâng lốc tôi lên lưng trời giống như cỡi mây lướt gió vậy, chỉ nghe tiếng rít bên tai mà không cảm thấy gió to gì cả, tốc độ bay sánh với máy bay siêu tốc, chỉ thấy cảnh vật chung quanh cứ vùn vụt mà ném lại đằng sau. Không bao lâu thân tôi nóng dần lên, lúc ấy tôi thấy có một cái cổng to, nếu sánh với Thiên An Môn ở Bắc Kinh thì cổng này hùng vĩ hơn nhiều, những cột to có dáng rồng phượng lóng lánh hào quang, trên chóp mái dạng như cung vua vậy, nhưng toàn một màu bạc óng, toàn cảnh như một cổng thành bằng bạc khối chiếu sáng vô cùng hùng tráng.

Bảng cổng có ghi bằng năm loại văn tự, về Hán văn thì đọc được là "NAM THIÊN MÔN", Nam Thiên Môn là trụ xứ của Tứ Đại Thiên Vương. Trong Nam Thiên Môn có rất nhiều người trời đứng thành hai hàng, văn võ hai bên, nhóm văn võ đều mặc trang phục như tướng trong cung vua vậy, nhưng đều tỏa chiếu hào quang, vô cùng oai võ, tất cả đều chắp tay mỉm cười làm lễ nghênh tiếp hai chúng tôi, nhưng chẳng nói một lời. Vào trong thấy một tấm gương lớn, nghe đâu gương này soi thấy nguyên thần, biết được giả thật. Suốt đường vào trong, thấy rất nhiều cảnh lạ, như ráng trời, cụm mây, bông hoa sấm chớp, cứ vùn vụt lướt qua lại, lăng xăng liên tục, bên ngoài các từng mây, thấp thoáng những đình đài, lầu các mũi tháp chập chùng, Sư Viên Quang bảo tôi:

- Đây là từng trên của trụ xứ Tứ Đại Thiên Vương, từng thứ hai của trời Dục Giới, gọi là trời Đao Lợi, là nơi ngự của Ngọc Hoàng Đại Đế, cai quản ba mươi hai cung trời bốn phương. Tôi không được nhìn ngắm lâu, cứ thế lướt qua mấy từng trời.

Sư Viên Quang nói tiếp:

- Đây rồi, nơi nầy là trời Đâu Xuất, từng thứ tư trời Dục Giới.

Thoáng chốc, đã đến trước một cửa cổng điện các lớn. Ra đón chúng tôi có hơn hai mươi người, trong đó có một người không xa lạ gì, đó là ân sư truyền giới cho tôi, Hư Vân Lão Hòa Thượng, là một trong ba cao tăng Trung Quốc thời cận đại. Còn hai người nữa, mà tôi biết được là Hòa Thượng Diệu Liên và Đại Sư Phước Vinh, họ đều khoác y đỏ, rất hoa lê.. Gặp ân sư tôi vội quỳ xuống đảnh lễ, suýt chút nữa là tôi bật tiếng khóc vì xúc động. Ân Sư hỏi tôi:

- Lúc này con làm sao, trong lòng thanh tịnh không, có còn gì buồn vui xúc động không? Con có biết vị đưa con đến đây là ai không?

Tôi trả lời:

- Bạch Thầy vị ấy là Sư Viên Quang Lão Pháp Sư.

Lúc ấy ân sư thổ lộ cho tôi biết: Vị ấy là vị mà hằng ngày con vẫn niệm Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT. Nghe qua tôi hết hồn, vội quỳ xuống đãnh lễ Sư Viên Quang (Hóa thân của mẹ Quan Âm) thật là có mắt mà chẳng thấy núi Thái Sơn. Trước Bồ Tát Quan Âm, trong khoảnh khắc ấy, không biết nói làm sao cho phải. Người ở trời Đâu Xuất chẳng giống người ở ta bà mình, thân cao hơn ta những năm hoặc sáu lần, nhưng mà Bồ Tát Quan Âm đành rằng đã đưa tôi đến đây, khiến cho tôi hóa ra lớn bằng tầm cỡ trên này. Ân Sư dặn dò tôi:

- Ở thế gian phải cần khổ công tu luyện, nghiệp chướng cần thông qua thử thách mới có thể lần hồi giải trừ được..giải trừ được.

Ân sư còn dặn tôi phải xây chùa chiền... Ở trên này tôi có gặp một số người nữa, trai gái trẻ già đều có, trang phục của họ hao hao giống triều đại nhà Minh.

Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |