Jump to content






Advertisements




Truyện tâm linh - hiendde



831 replies to this topic

#286

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 16/07/2011 - 02:27

KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC GÌ

CHƯƠNG MƯỜI MỘT

TÌM HIỂU VẤN ÐỀ LUÂN HỒI TÁI SINH TỪ CON TRẺ

Trong vòng mấy mươi năm qua, vấn đề con trẻ nhớ lại những gì gọi là tiền kiếp đã được xem như là vấn đề có cơ sở khoa học, chớ không còn là chuyện mê tín huyền hoặc nữa.

Tuy nhiên có lẽ vấn đề khó giải thích và khó chứng minh nên chưa có ai, nhất là giới khoa học đứng ra nghiên cứu và cổ xướng. Mãi về sau mới có một vài nhân vật nổi danh như bác sĩ Melvin Morse, nữ giáo sư Diane Komp và đáng lưu ý hơn cả là giáo sư, bác sĩ lan Stevenson thuộc đại học Virginia (Hoa kỳ), là người đã bỏ ra một thời gian dài để nghiên cứu về các trường hợp thuộc hiện tượng luân hồi tái sinh, (Reincarnation) từ các con trẻ.

Có hơn 2500 trẻ con đã nhớ lại những gì của thời quá vãng, cái thời mà với lứa tuổi hiện tại của chúng (có trẻ chỉ mới 4, 5 tuổi) người ta không thể cho là ở trước đó một vài năm mà rất xa, có nghĩa rằng phải dùng tới chữ Kiếp Trước của chúng.

Hơn nữa những gì mà các em bé này nhớ, kể lại, mô tả lại hoàn toàn không ăn nhập gì với hoàn cảnh và thời gian mà chúng đang sống ở hiện tại. Theo bác sĩ Stevenson thì các em này thường mở đầu bằng hai chữ “lúc đó”, hồi đó".

Đặc biệt là bác sĩ Stevenson đã luôn luôn để ý cân nhắc, gạt bỏ những gì có tính cách không đúng đắn, với sự mô tả hoặc có sự liên hệ chỉ bảo của người lớn.

Theo bác sĩ Stevenson thì nghiên cứu ở con trẻ có được lợi điểm hơn ở người lớn, vì chúng có nhiều dữ kiện còn tồn tại trong lúc đang sống và thường dễ tìm kiếm, kiểm tra được những sự việc hay gia đình nào đó có liên hệ với vấn đề.

Thường thì trong các báo cáo hoặc khi tiếp xúc với gia đình có hiện tượng nhớ lại tiền kiếp mà cháu bé là vai chính, bác sĩ Stevenson ghi nhận rằng: thường thì cháu bé nói với người mẹ ruột rằng: "Mẹ không phải là mẹ của con. Con muốn đến nhà mẹ ruột của con...".

Và sau sự kinh ngạc của gia đình vấn đề cứ tiếp diễn mãi, để rồi gia đình người mẹ có đứa con thường phát biểu khó hiểu ấy phải tìm cho ra sự thật, và sự thật lại rất phù hợp với những gì mà cháu bé đã mô tả.

Có lần bác sĩ Stevenson nghe một người đàn bà kể chuyện về người con của bà ta mới lên năm tuổi. Một hôm bà chuẩn bị đi chợ (chợ đi rất xa) thì cháu bé nói một cách tự nhiên: "Ồ! Mẹ phải lấy xe đi chớ! Con có xe mà. Mẹ không cần phải đi bộ tới chợ xa xôi. Chỗ con ở có xe, tài xế sẽ chở mẹ tới chợ...".

Cũng theo bác. sĩ Stevenson thì đôi khi những con trẻ này lại có những thái độ, cử chỉ, lời nói hay sự lo lắng rất đặc biệt. Sự kiện này có liên quan đến người đã được nhắc đến ở quá khứ hay tiền kiếp.

Người ấy không ai khác hơn là cháu bé hiện tại. Nếu người ấy đã chết vì tai nạn sông nước hay những gì liên quan tới nước, cháu bé này sẽ rất sợ nước. Nếu người đó bị bắn chết thì cháu bé rất sợ tiếng súng nổ hay trông thấy súng là hoảng sợ.

Nếu người ấy trước đây chết vì bị rắn cắn thì hiện tại cháu bé lại sợ rắn, vì bị ám ảnh về những gì đầy ghê sợ từ tiền kiếp do rắn gây ra. Đôi khi đứa bé lại rất ham thích một loại thức ăn đặc biệt nào đó, hoặc màu sắc nào đó hay loại quần áo nào đó. Một trường hợp điển hình đã xảy ra tại Miến Điện.

Một em bé đã kể lại tiền kiếp của mình. Lúc đó chỉ là một quân nhân Nhật Bản và đã bị giết trong trận thế chiến thứ hai. Điều kỳ lạ là em rất thích uống trà đậm và ăn thức ăn có nhiều cá, rau và rong biển, đấy là những thức uống và thức ăn thường ngày của người Nhật, mặc dầu lúc này em là người Miến Điện mà người Miến thì lại thích nước trà loãng.

Theo sự nghiên cứu và phân tích tỉ mỉ của bác sĩ Stevenson, thì có nhiều bé gái nhớ lại tiền kiếp của mình là trai và cũng có trường hợp có nhiều bé trai nhớ lại tiền kiếp của mình là gái, và cũng từ đó mà chúng thích ăn mặc cũng như có cử chỉ dáng điệu phù hợp với phái tính trước đó.

Trở lại vấn đề con trẻ có khả năng nhớ lại tiền kiếp, thì bác sĩ Stcvenson đã nêu ra trường hợp các trẻ con khi có khả năng ấy, thường hay mô tả rõ ràng chi tiết về cái chết của chính mình ở kiếp trước.

Sự kiện này thường xảy ra nhiều và có từ 60 đến 70 phần trăm trường hợp như vậy. Đặc biệt nếu cái chết xảy ra quá khủng khiếp hay do tự sát thì lại càng dễ đem lại sự hồi tưởng về cái chết và cách chết ở kiếp sau nơi đứa trẻ hơn.

Khi đứa trẻ tái sinh thì lần này những ký ức khổ đau rùng rợn ấy sẽ làm nhớ lại và thôi thúc chúng tìm đến cội nguồn của kiếp trước và dường như muốn thấy lại những gì mà chúng đã làm hay đã trải qua.

Khi nghiên cứu các hiện tượng luân hồi tái sinh qua con trẻ, các nhà nghiên cứu còn lưu ý đến một hiện tượng đặc biệt có liên quan đến vấn đề trên, đó là những dấu vết bẩm sinh.

Người phát hiện và quan tâm nhất chính là tiến sĩ lan Stevenson. Theo ông, các dấu vết bẩm sinh có thể xem như là những bằng chứng về luân hồi Và ông đã thu thập được gần 11.000 trường hợp.

Trong khoảng 11.000 trường hợp về dấu vết bẩm sinh, có khoảng 5OO trường hợp đặc biệt nhất có thể dùng để kiểm nghiệm, xác định qua những dấu vết bẩm sinh trên cơ thể. Nhờ những dấu vết đó mà việc xác định những gì mà đứa bé đã mô tả sẽ rất thuận lợi.

Bác sĩ Duncan Mac Dougal, tiến sĩ Robert Crookall, Geddes Mac Gregor, giáo sư Carol Zaleski, bác sĩ Raymond Moody, nữ giáo sư bác sĩ Diane Komp, tiến sĩ vật lý Patrick Drouot, bác sĩ Edith Fiore, tiến sĩ Robert Almeder, bác sĩ George Ritchie, bác sĩ Donald G. Francy... đều là những người quan tâm đến dấu vết luân hồi.

Từ lâu, không riêng gì các nhà khoa học, những nhà nghiên cứu có tính cách tài tử, nghiệp dư và ngay cả những người bình dân cũng đều có một lý luận khá giống nhau, đó là: Nếu luân hồi tái sinh có thật thì ít ra trên những chặng đường chuyển hoá từ kiếp này đến kiếp khác, cũng sẽ có những gì gọi là bằng chứng, những gì còn rơi rớt lại hay còn sót lại không nhiều thì ít.

Cũng giống như trong lịch trình tiến hoá của sinh vật nói chung và con người nói riêng, có nhiều dấu tích còn lại trên cơ thể và nhờ sự kiện ấy mà các nhà sinh vật học, nhất là các nhà Cổ Sinh Vật học (paleontology) đã suy đoán được những gì đã xảy ra trong quá khứ xa xăm...

Theo tiến sĩ Stevenson thì dấu tích luân hồi hay tái sanh là những gì khả dĩ giúp chứng minh sự kiện luân hồi, nhân quả là có thật hay ít ra cũng là hình ảnh, dấu ấn của một thời quá vãng nào đó ở con người.

Những dấu tích ấy thể hiện qua những vết chàm, vết bớt trên da trẻ sơ sinh, ngoài vết bớt là những dấu vết thường đem lại nhiều khám phá lý thú lạ kỳ về hiện tượng tái sinh, còn có các dấu tích khác đặc biệt hơn như hài nhi có đuôi, có sừng, có gạc, người có nhiều vú, người có lông phủ đầy cơ thể hay mặt mũi...

Qua các dấu tích nêu trên, con người từ cổ đại đến nay đã đưa ra nhiều nghi vấn: chắc chắn phải có nguyên nhân nào đó làm phát sinh những dạng thể kỳ lạ bẩm sinh ấy. Các nhà khoa học bảo rằng tất cả đều do những xáo trộn trong sự chuyển biến của cơ thể lúc còn là bào thai, hay do sự lệch lạc vì cấu tạo, thành lập của tế bào và nhiễm thể.

Họ chỉ đưa ra thường thì các nguyên nhân hoặc là do bệnh lý, do cha hay mẹ, do hiện tượng di truyền, do tác dụng của thuốc men hay do các chất hoá học nào đó... Tuy nhiên thắc mắc vẫn duy trì rằng do đâu mà cơ thể người này bị tác động ảnh hưởng, còn người khác lại không?

Đôi khi cha mẹ vẫn lành lặn, nhiễm thể các tế bào không có lệch lạc nhưng dị tật bẩm sinh vẫn xuất hiện. Điều đó đã khiến nhiều người nghĩ đến những nguyên nhân nào đó còn sâu xa và dĩ nhiên trong đó có một số lý luận cho rằng có thể do kiếp trước...

Bà Alexandra một nhà nghiên cứu về các hiện tượng huyền bí ở Tây Tạng, có lần hỏi vị Sư trưởng của một thiền viện về vấn đề liên quan đến dấu tích luân hồi, thì được vị này trả lời như sau:

"Đôi khi trong sự luân hồi chuyển kiếp vẫn còn có sự liên hệ gần gũi nào đó rất chặt chẽ, vì thế có nhiều sự kiện ở kiếp này sẽ lưu lại và tiếp nối ở kiếp kế tiếp bằng hình ảnh, dấu vết không những qua những vật sờ nắm được mà đôi khi còn bằng dáng dấp, cử chỉ, bệnh tật nhất là bệnh nan y.

Ngoài ra dấu tích luân hồi còn biểu hiện qua cá tánh, năng khiếu. Cá tánh mỗi người tốt hay xấu cũng do một phần ảnh hưởng về cuộc sống, về bệnh lý nhưng cũng còn do nguyên nhân sâu xa hơn là từ tiền kiếp.

Tài năng và bệnh lý cũng vậy. Nhiều cháu bé có những khả năng lạ lùng như làm thơ rất cao siêu, tính toán rất nhanh hay giỏi âm nhạc vượt bực, đến độ các nhà tâm sinh lý học không thể giải thích được nguyên nhân.

Điều này đã khiến các nhà nghiên cứu hiện tượng siêu hình nghĩ đến nguyên nhân sâu xa về tài năng mà con trẻ có được, ấy là từ ở kiếp trước chớ không thể nào với tuổi nhỏ mà chúng lại có thể có khả năng vượt bực về những lãnh vực, mà ngay cả người lớn cũng phải mất nhiều năm để trau dồi học tập, huấn luyện.

Đối với người lớn thì theo tiến sĩ Stevenson, vấn đề nhớ lại tiền kiếp thường ít hơn con trẻ. Nguyên nhân về sinh lý học cơ thể thì do trí nhớ được giữ lại trong các phân tử protein của tế bào não, Tế bào não sẽ tùy theo tuổi tác càng ngày càng có sự suy thoái, hay biến chuyển về thành phần cấu trúc các phân tử, do đó mà ký ức không còn được rõ nét nữa.

Tuy nhiên đối với người lớn, có thể khêu gợi lại ký ức xa xăm ấy bằng nhiều phương cách. Nhưng hiện nay phương cách hay nhất là dùng phương pháp thôi miên. Người ta nhận thấy rằng người lớn có tâm tư vững mạnh thì tiềm thức sẽ như nhường bước để tâm trí hoạt động linh hoạt.

Chỉ khi nào tâm trí con người suy yếu đi thì tiềm thức mới có cơ phát triển trở lại, nghĩa là được sống dậy mạnh mẽ mà không còn tiềm tàng ẩn kín nữa. Như vậy khi một người bị thôi miên thì tâm trí người bị thôi miên sẽ suy giảm và tiềm thức sẽ được dẫn dụ, sai khiến hoạt động bằng cách làm lộ rõ những ký ức mấy lâu như bị chôn vùi... Nhờ đó mà người bị thôi miên dần đần sẽ kể lại những gì đã xảy ra trong thời dĩ vãng xa xăm của giai đoạn nào đó ở tiền kiếp.


TRƯỜNG HỢP CẬU BÉ GEORGE FILD


George Fild là một cậu bé Hoa Kỳ. Năm 15 tuổi, Fild bắt đầu có những cảm giác và hình ảnh lạ lùng chợt ẩn chợt hiện trong trí và luôn luôn cậu tỏ ra áy náy, thắc mắc, băn khoăn về những gì giống như mình đang rơi vào mộng ảo.

Lúc bấy giờ có nhà thôi miên nổi danh tên là Williams. Ông này yêu cầu được giúp George Fild khơi dậy các hình ảnh từ tiền kiếp. Qua giấc ngủ thôi miên, George Fild đã kể lại rất rành rọt những gì của tiền kiếp mình như sau:

- Lúc bấy giờ tôi là một người dân vùng Bắc Carolina, tôi là một nhà nông bận rộn đủ thứ việc đồng áng. Tên tôi lúc đó là Jonathan Powell. cuộc sống thật buồn bã vô vị.

Tôi sống lẻ loi cô độc như kẻ lạc vào chốn hoang vu. Tôi nhớ rõ mình sinh vào năm 1832 tại thị trấn Jefferson và 31 năm sau tức là vào năm 1863 trong cuộc nội chiến, tôi vào quân ngủ và bị giết chết khi một đám lính nổi loạn, tôi nhớ mãi những nơi tôi đã đi qua và nhất là vùng đồng cỏ ở Bắc Carolina hiu quạnh.

Nhà thôi miên Williams đã kiểm tra lại các tài liệu, hồ sơ, giấy tờ ở các thư viện, các văn khố, các vùng liên quan đến Jonathan Powell và biết được rằng những gì cậu bé mô tả đều đúng cả.

Để kiểm chứng lại rõ hơn, nhà thôi miên đã cùng George Fild đến ngay thị trấn Jefferson tại đây, trước sự hiện diện của nhà Địa phương chí trong thị trấn, cậu bé George Fild lại được nhà thôi miên đưa vào giấc ngủ thôi miên lần nữa và lần này cậu còn nêu tên cả những địa danh trong thị trấn, cùng những người có tiếng ở đó đặc biệt, cậu bé còn mô tả quang cảnh và nhà cửa đường sá của thị trấn rất rõ ràng.


TRƯỜNG HỢP CỦA BÉ GÁI JIMMY Ở CANADA


Jimmy là cháu của bà Emma Michell 82 tuổi sống ở British Columbia. Bà này đã kể lại cho nhà nghiên cứu về sự chết là Jeffrey Iverson câu chuyện dị kỳ có thật sau đây: Một hôm, Jimmy đang ngồi chơi trong nhà thì bỗng nhiên nghe tiếng chuông nhà thờ rung.

Bé hỏi bà rằng:

- Tại sao không có gì mà tự nhiên chuông nhà thờ đổ.

Thì bà cho biết:

- Hôm nay có đám ma của một người địa phương đã qua đời.

Bé Jimmy bỗng đứng dậy nhìn qua cửa sổ và nói:

- Bà biết không? chính người chết ấy đã thuê người đánh đập con và liệng xác con xuống sông đó?

Bà Emma ngạc nhiên về câu nói của đứa cháu gái, nên hỏi:

- Tại sao con lại thốt lên những lời kỳ dị ấy?

Bé Jimmy ngồi lên ghế rồi nói như phân trần:

- Để con kể cho bà nghe về chuyện một người cậu, ông cậu này là người đã bị người ta đánh đập dữ dội đến chết và thân xác ông đã được tìm thấy ở sông Bulkeley. Khi người này bị đánh chết và bị liệng xuống sông thì lúc đó con chưa ra đời. Nhưng giờ đây con biết được mọi chuyện là do bởi con chính là người cậu ấy.

Bà Emma nghe Jimmy nói thì vô cùng kinh ngạc và run sợ vì bà nghĩ là cháu bà bị ma nhập. Hơn nữa, quả thật trong gia đình bà có người đã bị kẻ lạ mặt nào đó đánh chết liệng xác xuống sông và lúc đó đúng như lời cháu bà nói thì Jimmy chưa chào đời.


TRƯỜNG HỢP CỦA BÉ GÁI MANJU SHARMA


Đây là một trường hợp tái sinh khá lạ lùng. Câu chuyện có thật này do bác sĩ Pasricha thuật lại như sau:

Manju Shanna là một cô gái Ấn Độ, sinh ra và lớn lên tại thành phố của Brindevan (phía Bắc Ấn Độ). Manju thường nhớ lại quá khứ. Nhưng ở đây, Manju không phải nhớ lại quá khứ của đời mình mà là những gì đã xảy ra ở kiếp trước Manju kể như sau:

"Tôi cứ nhớ hoài hình ảnh mình bị rơi xuống giếng nước tại làng Chaumula. Lúc tôi vừa đúng 10 tuổi hồi đó tôi tên là Krishna chớ không phải là Manju Shamla như bây giờ. Tôi đã tái sinh trở lại.

Tôi đã gặp chú tôi, người chú của tiền kiếp tên là Tanji. Tôi nhận ra người chú ấy ngay và đã nói chuyện rất lâu với chú ấy mặc dầu chú Tanji không nhận ra tôi là cháu của chú trước đây. Khi tôi nhắc đến Krishna thì chú nhớ và tỏ dấu tiếc thương vô cùng.

Tuy không tin chuyện tôi là Krishna tái sinh nhưng chú tôi đã đồng ý để người mẹ tiền kiếp của tôi đến gặp tôi. Bà ta đến, tôi ngồi bên bà và kể lại những nổi bất hạnh đã đến trong đời tôi cho bà nghe.

Bà xoa đầu tôi và tỏ vẻ thương yêu tôi nhiều khi nghe tôi nhắc đến tên Krishna. Tôi ngỏ ý muốn theo bà, người mà tôi khẳng định là mẹ tiền kiếp của tôi. Ý muốn của tôi được thỏa mãn và tôi đã trải qua 10 năm sống với ba má tiền kiếp tôi. Về phần ông bà thì sẵn lòng đón tôi về sống chung vì hai người luôn luôn nhìn tôi qua hình ảnh của đứa con thân yêu bị chết sớm.

Bác sĩ Pasricha và một số nhà khoa học Ấn đã đến gặp Manju lúc đó Manju đã là một người đàn bà có chồng và đã có 2 con. Khi hỏi người cha tiền kiếp về cảm tưởng của ông đối với Manju ra sao, thì ông này cho biết như sau:

- Chúng tôi gọi Manju là Krishna Devi. Chúng tôi tin tưởng rằng đó là con gái của chúng tôi. Các con của Manju gọi tôi là ông ngoại và vợ tôi là bà ngoại. Chúng tôi sống với nhau rất hòa thuận.

Theo bác sĩ Pasricha thì Manju là con gái trong một gia đình người Bà La Môn (Brahmin) là một đẳng cấp rất cao đối với người Hindu. Đây là một tập cấp ở Ấn Độ đã một thời vượt lên trên các tập cấp khác (theo Will Durant) trong xã hội Ấn.

Nhưng Manju lại chịu đến sống với gia đình thuộc đẳng cấp thấp hơn rất nhiều. Như vậy không thể nào nghĩ rằng trường hợp Manju là trường hợp tạo dựng ra sự kiện luân hồi tái sinh để mưu cầu lợi nhuận hay sung sướng cho đời mình được.


NGHIỆP QUẢ ĐÃ TẠO THÀNH NHỮNG PHẢN NGHIỆP

HAY CÓ THỂ PHÁT SINH NHANH HAY CHẬM


Nếu phát sinh nhanh thì đó là quả báo nhãn tiền. Trong đời sống hàng ngày ai trong chúng ta cũng đều đã hơn một lần chứng kiến rõ ràng sự kiện này. Vô số thí dụ có thật đã xảy ra chứng minh điều đó. Năm 1964, báo SàiGòn có đăng tin vặt về một em bé bị điện giật chết. Nguyên nhân xảy ra tai nạn chết người này như sau:

Vườn nhà của gia đình em này có một cây ổi xá lỵ rất nhiều trái nhưng thường bị trẻ em lối xóm hằng đêm đến hái ăn. Người cha trong gia đình thấy vậy đã giăng ngầm dây điện cao thế vào cây ổi quyết trừng trị các trẻ em trong xóm ban đêm đột nhập vào hái trái: Nhưng rủi thay, một hôm trong nhà quên rút dây điện khỏi ổ cắm điện.

Câu chuyện có thật trên nếu được liệt vào trường hợp quả báo tức thì là nhờ có hoàn cảnh, điều kiện thuận tiện để quả báo phát sinh. Nhưng đôi khi nghiệp quả đã tạo xong mà điều kiện chưa có thì vẩn chưa xuất hiện quả báo được.

Điều này giải thích vì sao có những người làm ác nhưng vẫn không bị quả báo nào cả. Có khi phải đợi một thời gian rất lâu đương sự mới bị hậu quả của những gì đã làm trước đó trong dân gian có câu "trời có mắt" hay "thiên bất dung gian".

Hoặc "ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình" hoặc "ác giả ác báo"...đều ám chỉ về quả báo nhãn tiền thấy ngay trước mắt. Còn quả báo chờ đợi mà thời gian rất lâu có khi hết một đời người, qua kiếp khác mới trả hay có khi phải qua nhiều kiếp.

Lấy thí dụ bạo chúa nào đó. Tại sao người ấy lại được làm vua? Phải chăng nếu xét về mặt lý thuyết luân hồi tái sinh nghiệp quả là do tiền kiếp người ấy đã tạo được nghiệp lành, đã có vô số hành động tốt lành và nhờ đó mà y thừa hưởng được ân huệ tối cao là làm vua?

Nhưng trong thời gian làm vua, thụ hưởng được mọi lạc thú trong cuộc sống, thay vì y tạo thêm nhân đức, tạo nghiệp lành tiếp tục thì y lại có những hành động tàn ác của kẻ có quyền uy. Tuy nhiên hoàn cảnh, điều kiện và thời gian để y bị quả báo chưa đến.

Luật luân hồi nghiệp quả vô cùng công bằng và chi li, có thể thời hạn được hưởng nghiệp quả tốt lành của y chưa hết hạn kỳ nên y vẫn còn tại vị. Ở đây, có thể trong lúc tại vị y cũng đồng thời bị một nghiệp quả xấu tức thì song song.

Tuy nhiên đó là trường hợp tội ác hiện tại mà y gây ra không lớn thì sự kiện có thể xảy ra, nhưng ở đây vì trong kiếp hiện tại y tạo nghiệp ác quá lớn như trường hợp bạo chúa Tần Thủy Hoàng đốt sách, chôn học trò, đày đọa hàng vạn người xây Vạn Lý Trường Thành.

Hoặc trường hợp Hitler một quỷ vương Đức Quốc Xã đã tiêu diệt mấy triệu người vô tội... vì thế có thể chưa có những cơ hội tương xứng với những tội lỗi tầy trời của chúng và hơn nữa nghiệp lành từ kiếp trước của chúng vẫn còn nhiều.

Có thể sau khi những kẻ ác này chết đi, kiếp sau khi đầu thai trở lại chúng vẫn còn hưởng tiếp tục nghiệp lành từ những kiếp trước đó nữa. Lại có những kẻ mà lúc còn sống chúng hành động rất tàn ác, dã man và khi chết đi hoặc do bị xử tội hay chết sớm, chúng vẫn nuôi trong tâm thức sự tiếc nuối căm hờn không nguôi về những gì chúng đã làm chưa trọn vẹn và chúng thề nguyền với lòng là sẽ tiếp tục những hành động dã man tàn ác ở kiếp lai sinh.

Cái nghiệp thức và nghiệp lực ấy là động cơ khiến chúng tha hồ làm điều tàn nhẫn không gớm tay khi được tái sinh trở lại. Nhà triết học Schopen hauer đã có lần ghi lại một sự kiện tương tự, ở đây là ý chí phục thù và ý chí phục thù ấy sẽ thể hiện ở kiếp sau khi ông kể rằng, trong một bài báo Anh (báo The Times) phát hành ngày 29 tháng giêng năm 1841 mô tả một cuộc xử bắn hai người đàn ông úc Châu về tội giết người:

"Hai kẻ sát nhân một già một trẻ, mỗi người một phong cách và ý chí biểu lộ trên nét mặt và cử chỉ. Tên sát nhân trẻ tuổi với gương mặt lầm lì, mắt trắng dã với những đường gân thớ thịt hằn lên ở mang tai, răng nghiến lại. Cứ nhìn nét mặt hắn bộc lộ lúc đó (bài báo viết) thì "người ta sẽ thấy rõ rằng hắn sẽ tái sinh trở lại là một thanh niên da trắng và điều đó làm nó cương quyết. Cái cương quyết sẽ thành kẻ sát nhân man dã hơn nữa ở kiếp sắp tới..."

Cách đây hơn năm thế kỷ một ác quỷ đã xuất hiện giữa thế gian ngay tại nước Pháp. Tên của hắn là Gilles de Rais với chức vụ Thống chế. Hắn giết người không gớm tay, giết người với hăng say thích thú cùng với sự thèm khát lạ lùng khi trông thấy máu và nhúng tay vào máu. Lúc bị đưa lên giàn hỏa "con quỷ dữ" đã gào lên khủng khiếp cùng với lời nguyền: "Ta sẽ trở lại thế gian này 500 năm sau..."

#287

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 16/07/2011 - 02:39

KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC GÌ

CHƯƠNG MƯỜI HAI

THEO CHÂN NHỮNG VỊ ÐẠI SƯ

Một buổi Sáng trên đường phố Hoa Kỳ bỗng nhiên xuất hiện hai nhà sư trẻ người Âu Mỹ mặc áo vàng bước đi chậm rãi, hai tay chắp trước ngực. Hai nhà sư cứ đi đúng ba nước thì lại quỳ lạy, khiến người đi bộ và người lái xe qua lại đều ngỡ ngàng nhìn với vẻ ngạc nhiên...

Tính ra hai nhà sư trẻ này đã đi như vậy trong suốt hai năm chín tháng. Nhưng khi tới gần chùa Vạn Phật, Hòa thượng Tuyên Hóa ra tận cổng Tam quan để đón hai đệ tử, thì hai người này lại phát nguyện xin tiếp tục đi bộ quanh chùa theo cách đi ba bước lại quỳ lễ Phật, để có dịp tiếp xúc và giảng giải giáo lý đạo Phật cho dân chúng, vì hai nhà sư đi tới đâu thì người hiếu kỳ kéo tới đông đến đó.

Kết quả sau cùng là sau ba năm chín tháng, hai nhà sư trẻ đã đi qua một đoạn đường rất dài theo cách ba bước lại quỳ lạy. Trên đoạn đường dài đó, họ đã giúp cho vô số người dân tại tiểu bang California biết rõ hơn về giáo lý của Đạo Phật, một tôn giáo mà đối với người dân Mỹ đôi khi còn mơ hồ, xa lạ.

Hai nhà sư trẻ đó là Christopher (sinh viên Đại Học, cầu thủ nổi danh về Dã cầu, đệ tử của Hòa thượng Tuyên Hoá tại Kim Sơn tự San Francisco) và bạn của Christopher. Vì say mê giáo lý Đạo Phật và muốn được làm đệ tử nên Christopher đã quyết tâm thực hiện một thử thách mà Hòa Thượng Tuyên Hóa đã đưa ra.

Christopher là tên của một thanh niên sinh năm 1949 tại Toledo (thuộc tiểu bang Ohio). Tuy sinh trưởng trong một gia đình Thiên Chúa giáo nhưng Christopher lại thích nghiên cứu tìm hiểu về Phật giáo. Khi vào Đại học, anh theo ngành ngôn ngữ học và Văn minh Trung Hoa.

Câu chuyện có thật sau đây về Christopher đã được bác sĩ Nguyễn Thanh Giảng ghi lại trong một bài viết nhan đề: Công nghiệp của hai thầy Thích Hằng Thiệt và Thích Hằng Triều. Xin được tóm tắt các ý chính của sự kiện như sau:

Người mà Christopher gặp đầu tiên khi bắt đầu nghiên cứu và tìm hiểu về Phật giáo là Hoà thượng Tuyên Hóa (người Trung Hoa) ở Kim Sơn tự, tại San Francisco. Cuộc gặp gỡ như là một duyên hạnh ngộ, Christopher bắt đầu say mê về giáo lý Phật giáo và đã ngỏ lời xin được làm đệ tử.

Hoà thượng Tuyên Hóa tỏ ra ngần ngại vì Christopher là một sinh viên tài giỏi không những về văn hóa mà còn là thể thao (cầu thủ nổi danh về Dã Cầu Baseball) danh vọng ngày càng tràn ngập người thanh niên này, khó mà thực hành trọn vẹn được điều mà anh ta vừa nêu ra, mà có thể đó chỉ là một phút hăng hái nhất thời mà thôi.

Tuy nhiên sự quyết tâm của Christopher rất mãnh liệt, bộc lộ rõ nét ngay trong ánh mắt và lời nói đã khiến sư phân vân: Cuối cùng Hoà thượng Tuyên Hóa phải đưa ra một thử thách để có một quyết định dứt khoát.

Thử thách đó là: sau khi thọ giới tỳ kheo xong, Christopher phải tự mình thực hiện một cuộc hành trình dài khoảng 1200 cây số từ nơi mình cư trú Thành Phố Pasadena, Nam Califomia tới chùa. Tên Thousand Budhas Chùa Vạn Phật ở thị trấn Ubah. Bắc Califomia bằng đi bộ. Khi đi đúng ba bước phải lễ Phật một lần (tam bộ nhất bái) để cầu nguyện cho hòa bình thế giới.

Christopher đã hân hoan nhận thực hiện thử thách mà Hòa thượng Tuyên Hóa đã đưa ra. Khi đó một người bạn của Christopher (người Mỹ gốc Âu rất am tường về Phật pháp) cũng xin được cùng đi trong cuộc hành trình đó. Hoà thượng liền đặt cho Christopher pháp danh là là Heng Sure - Thích Hằng Thiệt. Và người bạn kia la Heng Chau – Thích Hằng Triết.

Thế là trên đường phố Hoa Kỳ, xuất hiện hai nhà sư trẻ người âu Mỹ mặc áo vàng bước đi chậm rãi, hai tay chắp trước ngực. Cứ đúng 3 bước lại quỳ lạy khiến người đi bộ và lái xe qua lại đều ngỡ ngàng nhìn hai người này với vẻ ngạc nhiên. Nhiều người tò mò đến hỏi han về nhiều vấn đề và đã được nhà sư trẻ giải đáp rõ ràng qua giáo lý nhà Phật.

Hòa thượng Tuyên Hoá là đệ tử của cố Đại sư Hư Vân. Ngài là vị chân tu nổi tiếng tại chùa Vạn Phật San Francisco Hoa Kỳ, nơi mà nhiều người Âu Mỹ thường lui tới chiêm ngưởng và tìm hiểu Phật pháp. Ngài Tuyên Hóa là người đã thực hành việc tu tập đúng theo phương thức tu hành mà Đại sư Hư Vân đã trải qua.

Có lẽ nhờ vậy mà ngài có khả năng thông linh bén nhạy, thấy trước, biết trước những tình huống của tương lai sắp tới và đã cho mọi người biết qua những buổi thuyết giảng.

Ví dụ như ngài đã báo trước tình trạng sẽ xảy ra không riêng gì tại San Francisco, tại Mỹ mà sẽ lan tràn khắp thế giới về hiện tượng Đồng tính luyến ái và cả dịch bệnh khủng khiếp... báo hiệu trước những tình huống suy đồi, âm nhu, sai lạc của nhân loại vào thời hạ nguyên nhất là từ năm 2004 trở đi. Trong một bài giảng tại Vạn Phật thành ngày 14 tháng 8 năm 1992, ngài nói:

".. Điều kinh khiếp nhất trong thế giới loài người hiện nay là tính Đồng tính luyến ái là một hành vi nghịch lại sinh lý của Trời Đất, đi ngược lại sự tạo hóa của âm Dương và vi phạm quốc pháp. Hành vi này làm cho vong quốc, diệt chủng. Nếu quốc gia tiêu vong thì không còn là quốc gia nữa và nhân loại cũng từ đó mà đoạn diệt.

Cho nên hạt giống của nhân loại sẽ mất đi. Muốn trồng bắp thì phải có hột bắp. Muốn trồng dưa thì phải có hột giống dưa. Muốn trồng đậu thì phải có hột giống đậu. Chẳng những bắp và đậu có hạt giống. Loài người cũng có hạt giống người. Nếu "hạt giống người" bị tiêu hoại thì nhân loại sẽ diệt mất... “

Điều này Hòa thượng Tuyên Hóa giảng năm 1992 tại San Francisco và 12 năm sau (năm 2004) cũng tại nơi đây, phong trào Đồng tính luyến ái bùng lên và những cuộc kết hôn cùng phái tính làn tỏa ra các tiểu bang khác. Tiếp đó là những cuộc biểu tình đòi tự do phá thai với số lượng người tham gia gần nửa triệu tại Washington... Hòa thượng Tuyên Hóa còn báo trước cho mọi người biết về những thứ bệnh lạ sẽ xuất hiện và gây chết chóc đau thương khủng khiếp cho loài người như sau:

“... Hiện nay vẫn có người nghiên cứu Aids và cố tìm phương thức chửa bệnh này. Ô hô! Thật giống như biết rằng không thể làm mà vẫn cố làm. Họ cưỡng chữa bệnh này, chẳng những đã thất bại, lại còn tạo ra một thứ Aids khác, đó là BỆNH VIÊM PHỔI. Bệnh viêm phổi này lại còn ghê gớm hơn bệnh Aids nữa. Loại bệnh này còn nguy hại hơn cả bom nguyên tử hay cả bom khinh khí

Không phải tôi cố ý nói điều này để hù họa quý vị. Đã đến lúc tôi không thể không lên tiếng: thời đại này không phải là thời đại hòa bình, đây là thời đại vô cùng nguy ngập. Tôi không thể không thống thiết lớn tiếng với các vị rằng: sáng dậy không chắc gì ta yên đặng tới tối; vì rằng tai họa này đến trong khoảnh khắc, không ai có thể ngờ.. "

Qua nội dung bài thuyết giảng lúc bấy giờ nhiều người vẫn tưởng ngài nói tới bệnh Aids chớ không ai biết là sẽ có thêm bệnh lạ giết hàng loạt người qua sự lây lan nhanh khủng khiếp là bệnh Sars, loại bệnh mà ngài đã biết trước 11 năm (bệnh Sars xuất hiện lan tràn mạnh mẽ nhất là vào năm 2004).

Theo nhà sư trẻ Christopher thì năng lực của con người là vô biên và năng lực ấy phát triển mạnh mẽ qua niềm tin và ý chí của mình. Năng lực ấy đã từng thể hiện rõ ràng qua cuộc đời của những vị Đại sư lừng danh thế giới.


HÒA THƯỢNG HƯ VÂN VỚI NHỮNG BƯỚC VÂN DU KỲ DIỆU


Hòa Thượng Hư Vân thuộc dòng dõi vua Lương Võ Đế (Trung Hoa) từ nhỏ đã có tâm tu, năm 13 tuổi đã tìm thầy tu học và từ đó đi qua nhiều nơi bất kể đường sá xa xôi nguy hiểm mong gặp được chân sư...

Năm 43 tuổi, từ am Pháp Hoa, Hòa thượng bắt đầu thực hiện điều mình phát nguyện: đó là cuộc hành trình Tam bộ Nhất bái (đi 3 bước lạy một lạy) đến Ngũ Đài sơn. Cuộc hành trình đầy gian khổ kéo dài trong nhiều năm qua các vùng lam sơn chướng khí, gió mưa sương tuyết lạnh lùng.

Ngày đi đêm nghĩ đói khát, mệt nhọc đau ốm không có cơm ăn thuốc uống nhưng với quyết tâm và ý chí sắt đá, luôn luôn nhất tâm chánh niệm nên Hòa thượng đã vượt qua được trở ngại. Sau chuyến hành trình dài dằng đặc, ngài nhận được rằng hễ gặp gian khổ bao nhiêu thì tâm càng an lạc bấy nhiêu và càng dễ chứng bồ đề. Hơn nữa, người xưa đã nói: đọc xong mười ngàn cuốn sách, phải đi mười ngàn dặm.

Năm 1900 mặc dầu đã 61 tuổi nhưng Hòa thượng vẫn muốn thực hiện những cuộc vân du hoá đạo. Lúc đầu ngài tới núi Chung Nam lập am tu hành. Tại đây Hòa thượng đổi tên hiệu là Hư Vân rồi sau đó cất bước hành đạo, hầu như khắp cả Trung Hoa, ngài qua.. Nam Dương, Miến Điện, Thái Lan, Mã Lai... Tới bất cứ nơi đâu, Hòa thượng cũng đều rao giảng đạo pháp kinh điển Phật giáo cho vô số cư dân nơi đó.

Nhiều nơi vua chúa và các đại quan nghe tiếng ngài đều đến lễ bái và chiêm ngưởng. Vua Xiêm đích thân mời hòa thượng về Hoàng cung để nhà vua xin quy y tam bảo. Năm Dân quốc thứ 40, hòa thượng lúc bấy giờ đã 112 tuổi nhưng tướng mạo vẫn bình thường như người còn trẻ.

Ngài tổ chức một buổi lễ truyền giới lớn tại Vân Môn. Trong khi hành lễ, ngài bị quân đội chánh quyền bắt giam và lục soát chùa vì nghi là chùa có tàn trữ vũ khí, vàng bạc.

Ngài bị tra tấn đánh đập dã man nhưng ngài vẫn một mực cho họ biết là chùa không làn trữ những thứ như đã bị nghi ngờ. Ngài bị đánh đập liên tục trong suốt mười ngày và nằm rũ như một cây khô.

Mọi người đều nghĩ là hòa thượng đã qua đời. Không ai có thể tưởng tượng được rằng một người tu hành với tuổi 112 lại bị tra tấn đánh đập dã man trong suốt 10 ngày bởi hàng chục người to lớn mạnh khỏe mà lại vẫn sống.

Khi thấy hòa thượng thì thào nói được vài ba tiếng thì những kẻ tra tấn ngài đều kinh hải. Bị áp lực từ nhiều phía thúc hối nên chánh phủ trung ương ra lệnh điều tra để bắt, trị tội những kẻ đã đánh đập ngài. Vậy mà khi những kẻ hung bạo đã từng tra tấn ngài bị dẫn tới trước mặt để ngài nhận diện thì ngài đều yên lặng không khai báo ai cả.

Sư Hư Vân viên tịch lúc ngài vừa 120 tuổi. Trong tro cốt của ngài có đến 100 hạt xá Lợi.

Việt Nam không hiếm những vị chân tu với cuộc đời đạo hạnh tu trì kỳ diệu cao siêu từ lúc sống cũng như khi qua đời. Ngày nay các nước Âu Mỹ khi đến Việt Nam đã không ích khỏi ngạc nhiên khi đứng trước những bức tượng của những nhà tu hành đã viên tịch từ lâu đời.

Những bức tượng ấy có khi chính là nhục thân của chính những nhà tu chớ không phải bằng đá hay bằng gỗ như những pho tượng thông thường xưa nay.

Các nhà khoa học Nga có lần không tin đó là cơ thể thật sự của nhà tu hành nhưng khi chiếu quang tuyến họ mới thấy rõ bộ xương người. Ví dụ điển hình ở ngôi chùa Đậu tại Hà Tây phía nam Hà nội) thuộc huyện Thường Tín là một ngôi chùa rất cổ xưa, nơi đây là chổ tu hành của những nhà tu nổi tiếng.

Cách đây hơn ba trăm năm, tại ngôi chùa này có hai Thiền sư đã đắc đạo một cách kỳ diệu. Đó là sư Đạo Chân Vũ Khắc Minh và sư Đạo Tâm Vũ Khắc Trường. Hai sư đều biết trước ngày giờ mình sẽ lìa trần nên dặn các đệ tử trong chùa khi thấy họ ngồi Thiền lâu hơn thường lệ thì cứ giữ yên tư thế, không vọng động hốt hoảng và không đem chôn cất hay thiêu xác mà cử để như vậy.

Quả nhiên khi các sư mất, tình trạng các sư đều ở tư thế đang tọa Thiền, thân xác vẫn được để yên từ đó tới nay, chỉ có phủ bên ngoài một lớp sơn mỏng của vùng địa phương mà thôi. Trải qua mấy trăm năm mà thân xác hai Thiền sư vẫn không hề hư thối tan rã...


ÐẠI SƯ HUYỀN TRANG


Trần Huyền Trang sinh năm 596 sau Công nguyên (Trung Hoa). Mới 8 tuổi đã ham đọc sách. Năm 17 tuổi đã là nhà sư nổi tiếng thông suốt Kinh điển. Khoảng năm 33 tuổi, sư quyết tâm vượt đường xa đến Ấn Độ để mong học hỏi nhiều hơn về kinh Phật giáo.

Từ Trung khoa đến Ấn Độ đường xa vạn dặm nhưng với quyết tâm và ý chí vững mạnh, sư Huyền Trang đã không lùi bước trước bao hiểm nguy trên bước đường học đạo: nắng mưa, bão tố, rét buốt hay sa mạc nóng cháy, khô cằn, một mình một ngựa với chút lương khô, trèo đèo vượt suối, nhấm hướng Ấn Độ mà tiến.

Trên đường tới Ấn sư đã vượt qua rất nhiều xứ và nhờ đó đã học hỏi thêm nhiều về Phật pháp. Đến Ấn sư Huyền Trang được vua quan và các bậc chân tu xứ này tiếp đón. Sư lưu lại đây 13 năm, chu du nhiều tiểu quốc ở Ấn, dịch kinh sách, giảng giáo lý Đại thừa.

Năm 643 sau Công nguyên, sư Huyền Trang lên đường về nước mang theo 657 bộ Kinh và những tư liệu, bảo vật quý giá. Năm đó sư đã 48 tuổi. Tính ra từ ngày sư Huyền Trang lên đường Tây Du sư đã vượt hơn 50.000 dặm đường dài đầy gian khổ trong suốt 17 năm trường và ngài đã đi qua 228 quốc gia.

Khi về Trung Hoa, sư Huyền Trang bắt đầu tổ chức nhóm phiên dịch Kinh sách mới mang về nước. Công việc đầy trách nhiệm. Mỗi ngày sư chỉ ngủ được vài ba tiếng. Quá lao tâm lao lực nên sư Huyền Trang qua đời vào nắm 69 tuổi. Trong gần 50 năm, ngài đã phiên dịch khoảng 1335 cuốn Kinh.

Có một sự kiện mà hình như ít người biết tới đó là khoảng 500 năm trước, khi ngài Huyền Trang được vua nhà Đường phái qua Thiên Trúc thỉnh kinh thì cũng đã có một sự kiện tương tự: đó là Hán Minh Đế Lưu Trang một hôm nằm mộng thấy một pho tượng Kim Thần phát hào quang trên đầu bay lượn trong cung.

Khi thức dậy, nhà vua hỏi vị đại thần Truyền Nghị, người có tài đoán mộng vê giấc mộng lạ của mình thì vị đại thần này tâu rằng: Muôn tâu bệ hạ, giấc mộng ấy chính là chiếu ứng của bậc Đại Thánh nhân sinh ra ở Tây Trúc có tôn hiệu là Phật để cứu độ chúng sanh.

Giấc mộng ấy là điềm triệu báo trước Phật pháp sẽ truyền vào Trung nguyên. "Hán Minh Đế liền ra lệnh cử mười hai người có tâm hạnh tốt mà trưởng đoàn là Tần Cảnh và Thái Bội thực hiện một chuyến đi qua vùng Đại Nguyệt Thị (nay chính là vùng Afghanistan). Tại đây họ gặp hai nhà sư Tây Trúc (Sư Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan) đang thuyết giảng về giáo lý Đạo Phật.

Phái đoàn liền tìm cách yêu cầu hai vị sư này hãy đến truyền bá Phật pháp tại Trung quốc là nơi đất rộng người đông. Hai vị sư nghe lời mời đầy khẩn thiết nên đã đồng ý. Thế là phái đoàn cùng hai nhà sư lên đường sau khi đã tìm mua một con ngựa trắng rất mạnh khỏe để chở một số lớn kinh sách, tranh và tượng Phật về Lạc Dương (l).

Hán Minh Đế được tin rất đổi vui mừng. Nhà vua đã dành nhiều sự tôn trọng, ưu đãi thuận lợi cho hai nhà sư nước ngoài này trong việc nghiên cứu, biên dịch kinh sách và thuyết giảng về đạo Phật đồng thời ra lệnh xây cất một ngôi chùa tháp đặt tên là Bạch Mã Tự để kỷ niệm công lao mà con ngựa trắng đã nhọc công sức chuyên chở những sách vở giáo lý của Phật từ Tây Trúc về Trung quốc để truyền bá. Chùa này được xem là nơi phát nguồn việc truyền bá Đạo Phật đầu tiên tại Trung quốc.

Hai nhà sư Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đã sống suốt đời tại ngôi chùa này để truyền đạo và viết Kinh. Những kinh sách do hai vị soạn và dịch đều rất có giá trị được vua Minh Đế cho lưu trữ tại Lan Đài Thạch thất là thư viện của vua. Cũng chính nhờ hai vị sư này mà sự giao lưu văn hóa giữa Ấn Độ và Trung quốc được phát triển: Ngôi chùa tháp cổ xưa mà hai vị sư tu hành trong đó vẫn còn tồn tại tới ngày nay cùng với tượng, bia của hai vị.

Một phần bên ngoài ngôi chùa được những rừng Bách già che chở. Ngày nay du khách khắp năm châu bốn biển tới tham quan chùa thường mong ở lại một đêm để đợi tới lúc canh khuya thanh vắng lắng nghe những tiếng mỏ và cả tiếng tụng kinh của hai nhà sư Trúc Pháp Lan và Nhiếp Ma Đằng mà lời đồn đại là có thật. Tài liệu này được tóm lược lại trong cuốn: Bí mật Phong thủy của các Hoàng cung Trung quốc. Trần Thanh biên dịch.

(I) Ghi chú về Lạc Dương. Trung quốc có cái hãnh diện lớn về một vùng đất, một cố đô kỳ cựu có chiều dài lịch sử hơn 3000 năm. Lạc Dương chính là lịch sử phát triển của Trung quốc qua nhiều thời đại: từ đời Hạ, Thương, Đông Chu, Đông Hán, Tào ngụy, Bắc ngụy, Đường... là kinh đô của 9 triều đại. Lạc Dương là nơi đã từng chứng kiến sự thịnh suy, thanh bình, máu lửa của bao thời đại.

Lạc Dương còn là Kinh đô của Phật giáo. Theo tạp chí du lịch Hồng Kông thì Lạc Dương là vùng đất trù phú nổi tiếng của Trung quốc từ cổ đại tới nay. Lạc Dương là vùng đất Phật. Chính nơi đây, đạo Phật xâm nhập đầu tiên. Tới đời Hiếu Văn Đế thứ 18 (năm 495 trước Công nguyên) triều Bắc Ngụy đến nay, qua bao đổi thay của cuộc thế, Lạc Dương vẫn còn 2.100 hang động với đền thờ, tượng phật bên trong. Nhiều tượng Phật cao 17 mét. Những phật động nổi tiếng nhất là Phật động Long môn, Phụng Thiên, động Thiên vương.

Nhân nói về những động đá có khắc tượng phật tưởng cũng nên nói qua về những hang động, những tượng Phật bằng đá lại Afghanistan tức là A Phú Hãn. Theo các tài liệu lịch sử thì khoảng đầu thế kỷ 12, 13, các đoàn lữ hành, những thương nhân băng qua những quảng đường dài từ Âu sang á hay ngược lại thường ngang qua một thị trấn của xứ Afghanistan mà thời ấy gọi là Xứ phật. Đó là Bamiyan.

Sử liệu cho hay nơi đây là địa điểm mà ngày xưa nhiều sắc dân qua lại, vì nó là vị trí liên hệ tới con đường Tơ Lụa nổi tiếng. Chính tại nơi đây thời đó khách qua lại đều thấy các nhà tu sinh sống và tu tập trong các động đá, vô số đền thờ chùa và tượng Phật lớn nhỏ lộ thiên hay trong các hang động. Đặc biệt nhất là hai tượng Phật khổng lồ cao 55 thước và 38 thước tạc trong hốc đá cao sừng sửng.

Thời đó và trước đó nữa, nơi đây là giao hội của nhiều màu sắc tôn giáo muôn phương, nhưng chỉ có Phật giáo là phát triền mạnh nhất mà thôi. Vào thế kỷ thứ 7 quân Hồi giáo như thác lũ tràn quân tới Trung đông và Âu châu, chính con đường Tơ Lụa là nơi quân Hồi giáo tiến qua.

Khi vào Afghanistan, quân Hồi ra tay tàn sát và phá hủy mọi thứ. Chỉ có hai pho tượng Phật lớn bằng đá là họ không thể phá hủy được nhưng bị sức vở hư hại một vài nơi. Về sau quân Taliban ở Kabul tiếp tục tàn phá các di tích Phật giáo tại đây, họ dùng chất nổ phá hoại quyết phải triệt hạ cho bằng được hai pho tượng.

Cả thế giới lên án và yêu cầu họ đừng làm như thế để bảo tồn các di tích lịch sử. Ngay cả Liên Hiệp Quốc cũng can ngăn, có quốc gia còn ngỏ ý muốn mua lại hai pho tượng. Nhưng người Taliban thuộc nhóm Sunni quyết phá hủy tượng Phật. Hiện nay các chuyên gia về trùng tu, tái thiết cũng như các nghệ nhân nổi tiếng thế giới hy vọng rằng trong tương lai họ có thể tái tạo lại hai pho tượng Phật khổng lồ ấy.

Mới đây nhiều phát hiện cho biết có ít nhất là một pho tượng Phật khổng lồ đang bị chôn vùi dưới đất mà quân Taliban không biết. Tài liệu cổ xưa cho hay chính nhà sư Huyền Trang khi qua Tây Trúc thỉnh kinh đã thấy nơi đây có 3 pho tượng Phật bằng đá khổng lồ. Chính sư Huyền Trang đã ghi lại điều đó trong tập bút ký của mình.

Tài liệu của nhà khảo cổ Mohammed Rasuli lại cho hay rằng chính quyền Taliban có biết là có một pho tượng Phật thứ ba dưới đất, nhưng vì chính quyền Taliban thiếu hụt tiền bạc nên họ không thể tiến hành việc khai quật nếu không họ cũng phá hủy pho tượng này rồi

#288

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 16/07/2011 - 03:17

KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC GÌ

CHƯƠNG MƯỜI BA

ÐIỀM TRIỆU TRONG DÂN GIAN

HÌNH TƯ TƯỞNG ÐIỀM TRIỆU LÀ GÌ?

Điềm là gì? Theo các từ điển Việt Nam thì Điềm là dấu hiệu báo trước việc bất thường sẽ xảy ra. Triệu là cái điềm lộ ra trước, dấu hiệu lộ ra trước. Trong dần gian từ cổ đại tới nay rất nhiều người thường tin rằng có những dấu hiệu báo trước những sự kiện xấu tốt sẽ xảy ra.

Nhiều người cho rằng Điềm hay Triệu là cái rất tự nhiên và rất khoa học như trời mưa hay bão tố thường được báo trước bằng mây đen u ám, sấm giật, gió mạnh, người sắp bị bệnh cũng thường phát lộ ra trước tiên bằng những dấu hiệu nào đó từ gương mặt, tiếng nói..

Từ ngàn xưa cố nhân Đông phương đã nhắc tới một loại hình ảnh đặc biệt gọi là hình tư tưởng. Trong lý thuyết của khoa Phong thủy xuất hiện cách đây khoảng 3000 năm gồm có hai pháp môn chính là Lý pháp môn và Hình pháp môn. Hình dạng địa thế của căn nhà, đất đai khu vườn cũng có tác động ảnh hưởng rất quan trọng.

Ngày nay khoa nghiên cứu Thần giao cách cảm đã chú trọng tới các hình tượng và các dấu hiệu. Từ biểu tượng, thông qua bộ não, dễ chuyển thành hình ảnh phát sinh trong tư tưởng. Như vậy thường thì hình ảnh phát sinh từ tư tưởng khi gặp biểu tượng.

Trong thực tế, các nhà làm quảng cáo đã tận dụng tính chất thâm sâu vi diệu của hình tư tưởng để tác động lên tư tưởng người thấy qua các hình ảnh mà họ dùng làm quảng cáo. Biểu tượng thường tác động vào trí óc.

Những năng lực phát sinh từ biểu tượng, từ hình tư tưởng, tuy liềm ẩn nhưng lâu dài thì sẽ trở thành mạnh mẽ và tác động ngay trên những gì mà chúng trực chiếu hay ảnh hưởng vào.

Trong dân gian đôi khi những hình ảnh cấu trúc nào đó cũng thường ảnh hưởng tới tư tưởng của người trông thấy như trong Phong thủy cái nóc nhà hay cái đòn dông bên kia đường chĩa thông qua nhà đối diện là hình ảnh của sự xung sát, xung chiếu.

Người xưa tin những hình ảnh biểu tượng xuất hiện một cách tự nhiên bất ngờ luôn luôn có ý nghĩa thâm sâu tàng ẩn bên trong. Vì thế đôi khi một hình ảnh, cấu trúc nào đó được dùng để xây dựng, trang trí cho một nơi nào đó có thể là dấu chỉ về sự cố sẽ xảy ra ở tương lai. Sự kiện vừa nêu đã thấy tác động ảnh hưởng lên niềm tin của con người không những ở Đông phương mà còn thấy ở Tây phương.


NHỮNG THÍ DỤ THỰC TẾ TRONG DÂN GIAN VIỆT NAM


Ngày xưa trong các trại quân, khi cây cờ lệnh bị gảy là điềm báo có thể bị địch đột kích, đánh úp bất ngờ. Cờ gảy còn là điềm báo nguy cho quốc gia, cho đơn vị hay sinh mệnh tướng quân lâm nguy.

Ngay cả thú vật xuất hiện vào lúc nào đó người xưa cũng quan tâm và đôi khi quy vào điềm, triệu, ba chữ Triệu Bất Tường nói lên hình ảnh báo trước sự kiện không may, thất bại, ngăn cản sẽ xảy ra.

Thí dụ người sống gần biển, đi đánh cá hay khai trương việc gì mà gặp con Kỳ Đà nằm trước mặt tức là Bị Cản Mũi Kỳ Đà rồi khó mà thành công. Kinh nghiệm người xưa không thích Mèo vô nhà nhưng lại muốn Chó tới nhà.

Trong đời sống thường ngày ta hay gặp những sự kiện lạ lùng mà đôi khi rất khó giải đoán. Ví dụ có người đang ngồi trong nhà tự nhiên có con chim bay vào trong nhà rồi lại bay vụt ra cửa mấy ngày sau có người thân từ xa tìm tới thăm. Cũng sự kiện con chim bay vô nhà nọ, bị tông vào cửa kính rơi xuống chết, mấy hôm sau nhà ấy nhận được tin người thân mất.

Trong dân gian Việt Nam ta cũng thường nghe thấy những từ như điềm, triệu... Ví dụ điềm xấu, điềm gỡ, điềm lành, triệu bất tường... như khi bắt đầu một việc làm quan trọng tư nhiên bị té ngả hay đánh vỡ cái ly thì đó là điềm không hay, khó thành công.

Ví dụ như năm 2002, trong chuyến công du của Tổng Thống Mỹ thăm Trung Quốc, một điều khó có thể xảy ra nhưng đã xảy ra đó là xe đặc biệt đưa rước Tổng Thống Bush được mang từ Mỹ qua bỗng nhiên bị nổ bánh xe.

Dưới mắt nhà khoa học thì đó là sự tình cờ ngẫu nhiên mà thôi; nhưng đối với một số lớn người Đông phương tin vào cái gọi là "Điềm" thì đó không phải là điều tốt. Người dân Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản còn tin vào hình tư tưởng phát sinh từ thiên nhiên mà họ thường gọi là Điềm Trời. Tại Việt Nam từ ngày đầu Xuân đã thấy xuất hiện nhiều điềm lạ.

Ví dụ trong mấy ngày Xuân năm Nhâm Ngọ 2002, tự nhiên có một đàn Sếu Đầu Đỏ xuất hiện ở ấp Kiên Bình tỉnh Kiên Giang. Đàn Sếu này xuất phát từ vùng Bảy Núi (An Giang) vùng mà từ lâu dân miền Nam cho là vùng Địa linh. Dân chúng cho đó là Điềm báo: “Xuất Thánh Linh”.

Cũng trong tháng giêng năm 2002, tại Hà Tĩnh vào ngày 25 từ lòng đất của huyện Kỳ Anh và Cẩm Xuyên tự nhiên có tiếng nổ lớn rồi đất đai, nhà của rung chuyển.

Những kỳ lão trong vùng cho hay là chưa bao giờ nơi đây có tiếng động lạ dưới lòng đất như vậy còn dân chúng thì cho đó là điềm đất gầm báo điều không hay.

Trong khi đó tại Hồ Gươm bỗng nhiên nổi lên một con rùa có tuổi thọ cả trăm năm, đây là rùa hiếm nhất thế giới có đốm sáng trắng trên đầu. Dân Hà Nội tin là rùa thiêng nổi lên ở Hồ gươm là sắp có sự cố xảy ra trong nước.

Cách đó mấy chục năm, dân chúng Sài Gòn còn nhớ, trước năm 1975, ngay trước tòa nhà Quốc hội tự nhiên chính quyền cho xây tượng đài hai người lính đang chĩa súng ngay vào tòa nhà quốc hội.

Hình tượng lạ lùng đó đã báo trước sự suy sụp của chính quyền miền Nam và miền Nam sẽ bị tấn công. Có một thời tại Phan Rang tự nhiên có đàn sâu di chuyển về hướng biển. Phải chăng đó là hình ảnh, là điềm báo trước về cuộc di tản đại quy mô của dân chúng vượt biển?

Một hình ảnh khác mà người dân miền Nam đã từng bàn tán xôn xao đó là đồng xu dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm một mặt có khắc hình Tổng Thống còn mặt kia là bụi Trúc. Dân chúng miền Nam thời đó cho hình ảnh ấy là triệu bất tường là điềm báo chính phủ của Tổng Thống họ Ngô sẽ bị đổ.

Lý do là khi lật phía hình Tổng Thống qua mặt sau của đồng xu thì bụi trúc nằm ngược. Đó là hình tư tưởng không hay, là hình ảnh của sự lật đổ Ngay chữ Trúc hiểu theo tiếng Việt là rơi, đổ nhào xuống.

Khoảng thập niên 60 tại Nam Việt Nam, có phong trào các cô gái đều mang trên đầu một giải băng vải gọi là Bandeau. Các cụ thời đó đã lo sợ bảo rằng: đó là điềm xấu báo trước những tai ương, chết chóc tang thương sẽ đến.

Không biết nhận định đó đúng hay sai nhưng quả thật mấy năm sau đó, chiến tranh ngày càng khốc liệt, biết bao người trai trẻ gục ngả trên chiến trường và biết bao quả phụ mang khăn tang trên đầu.

Rồi, sau năm 1975, hầu như mỗi người dân nam cũng như nữ đi đâu cũng có bên mình một cái túi xách, cái bao hay cái bị. Thời đó, trong dân gian truyền miệng nhau là điềm báo đói khát sẽ đến, quả nhiên dân chúng từ Bắc chí Nam trong thập niên 80 phần lớn đều thiếu ăn, ngay cả nhà nước nhiều tỉnh cũng thiếu hụt lương thực trầm trọng. Mới đây, báo chí tại Việt Nam toàn tin: nước Hồ Hoàn Kiếm ngày càng cạn dần.

Theo tính toán thì cứ một tháng nước hồ bị cạn mất 1 tấc. Ngay cả con Rùa sống lâu năm dưới hồ mỗi khi di chuyển người đứng trên bờ cũng đều thấy rõ.

Một hiện tượng lạ khác tại một ngôi làng ở miền Trung tự nhiên con đường chính trong làng bị nước lũ tràn ngập biến thành một con sông rộng, dân chúng đi lại trên đường nay phải dùng bè. Đó phải chăng là điềm triệu báo sự đổi thay, tang điền thương hải?


ÐIỀM BÁO TRƯỚC CỦA HAI CHAI NƯỚC NGỌT TẠI BA ÐÌNH


Năm 1994, người dân khi đi ngang qua quảng trường Ba Đình ở Hà nội thấy giăng một biểu ngữ quảng cáo về Coca Cola và 2 chai Coca Cola lớn, cao 9 thước dựng ở đây thì họ chỉ ngạc nhiên khi thấy sản phẩm của Tư bản xuất hiện mà thôi.

Nhưng có người lại thấy đó là một điềm báo về một sự đổi mới. "Hai chai nước” được hiểu qua trí óc đầy tưởng tượng và suy diễn là "hai đất nước", hai quốc gia chớ không phải hiểu là 2 chai nước ngọt bình thường.

Nước trong chai là ngọt chớ không đắng, như vậy là sự ngọt ngào của 2 nước sẽ dẫn đến sự tương hợp. Dân Hà Nội thời đó kháo nhau là Việt Nam và Mỹ sẽ hòa với nhau nay mai. Lúc đó là năm 1994.

Gần 10 năm sau, sự kiện đó đã thành sự thật. Tuy nhiên, đối với những người nghiên cứu về Kinh Dịch âm Dương đắp đổi thì lại cẩn thận gieo quẻ từ hình tượng hiếm có này để suy đoán tương lai đất nước ra sao. Theo họ thì con số ở hình tượng này rất quan trọng. Số 2 (hai chai nước ngọt) ứng với quẻ Đoài (Trạch). Còn số 3 (Ba đình) ứng với quẻ Ly-Hỏa.

Như vậy sẽ tạo nên một quẻ kép gọi là quẻ Trạch Hỏa Cách, ý nghĩa của quẻ Cách là sự thay đổi lớn lao, Việt Nam sẽ có thay đổi rất lớn về nhiều mặt. Sự đổi thay còn thấy rất rõ qua những điềm triệu báo trước ngay ở thủ đô Hà Nội, đó là nước Hồ Gươm ngày càng cạn như đã trình bày ở trên.


HAI BÊN, TRÀ NƯỚC QUA LẠI


Trong thập niên 80, ai đã từng sống vào giai đoạn này thường nghe một số người dân Hà Nội cũng như Sài Gòn trong những lúc trà dư tửu hậu, ngồi tán dốc với nhau nơi vỉa hè đã xì xào trao đổi những “điểm báo trước” rất lý thú.

Họ không phải là những học giả, những bậc trí thức đại tài, cũng không phải là nhà bói toán chiêm tinh nhưng với đầu óc bình dị họ có những suy nghĩ tưởng tượng rất ư là bình dân.

Đó là chuyện xưa nay tại nước mình, người ta làm quen, làm lành, làm thân với nhau thường khởi đầu bằng "Trà Nước” trước cái đã rồi sau đó mới tâm đầu ý hợp. Việt Nam và Mỹ đã và đang Trà Nước qua lại với nhau, thì chắc chắn tương lai tình hữu nghị sẽ thắm đượm vô cùng.

Sự kiện đã rõ ràng năm 1994 Mỹ mang Nước Ngọt (Coca Cola) qua Việt Nam và 9 năm sau (năm 2003 Tướng Trà Việt Nam) qua thăm nước Mỹ. Trà Nước đã trao qua đổi lại rồi. Nay chỉ còn là thời gian chờ đợi sự thuận thảo hòa hợp Việt Mỹ mà thôi.


MA QUỶ MỶ QUA - MÃ QUY MỸ QUA


Người dân Việt Nam cũng thường hay "nói lái" là cách nói đổi ngược. Ví dụ Cá Đối là Cối đá. Điềm Triệu hiện ra đôi khi rất chi li bí hiểm khó lý giải. Cách đây khoảng trên 20 năm, sau khi miền Nam Việt Nam bị sụp đổ, hai chữ Ma quỷ được gán cho Mỹ. Nhưng rồi lịch sử lại sang trang, tháng 11 năm 2003 chiến hạm USS Vandegrift của Hải quân Mỹ ghé bến Sài Gòn.

Rồi những chàng Hải quân Mỹ hào hoa đi lại trên đường phố, trong các hộp đêm lấp lành ánh đèn lôi kéo thời gian và kỷ niệm về với bao người dân Sài gòn. Trên đường phố nhiều người thì thầm ...'Mỹ qua Mỹ qua".

Vậy Mỹ qua phải chăng là đảo ngược của hai chữ Ma quỷ? Trước đó khoảng một tuần, chính tướng Phạm văn Trà đã qua thăm nước Mỹ, dân chúng Việt Nam nghe tin này đều tin chắc là Việt Nam đã bước vào vận hội mới, có bạn mới và thế trận mới.

Nước Mỹ sẽ đóng vai trò quan trọng tại Thái Bình Dương, thật ra chuyện "Mỹ qua" đã được dân chúng Việt Nam đồn đãi nhiều nhất từ năm 2002 là năm Mậu Ngọ. Dân trong Nam, nhất là dân Chợ Lớn kháo nhau rằng: Năm Ngọ lại về, tức là Mã Quy (Mã là ngựa, quy là về) mà Mã Quy tức là Mỹ Qua...

Tại Texas người ta phát giác có tờ 1 đồng Đô la có những dấu hiệu rất kỳ lạ trùng hợp với sự kiện Tổng Thống Kennedy bị ám sát chết cũng tại Texas. Điềm triệu nổi bậc trên tờ giấy bạc là hình ảnh chữ K nằm ngay trong cái vòng tròn.

Suy ra là chữ Kennedy nằm ngay trong họng súng. Tờ bạc có chữ K đầu và chữ A cuối. Phải chăng chữ K là Kennedy và chữ A là chữ ám sát. Số 11 trên tờ giấy bạc và serie 1963 thì rõ ràng là dấu hiệu báo trước Tổng Thống Kennedy sẽ bi ám sát chết vào tháng 11 năm 1963?.

Cách đây khoảng 30 năm, một nhà Phong Thủy Hồng Kông chuyên về trường phái màu sắc và hình tượng đã cho rằng Toà Bạch Ốc (white House) tức Tòa Nhà Trắng tại thủ đô nước Mỹ sơn mầu trắng toát là biểu tượng không hay, là điềm chẳng lành vì người Đông phương xem màu trắng là màu tang tóc.

Chắc chắn một số Tổng Thống Mỹ sẽ gặp nhiều tai họa nếu sinh sống ngay trong toà nhà màu trắng đó. Tin hay không là tuỳ mỗi người nhưng sự thật rõ ràng là tính từ năm 1841 đến nay đã có 7 vị Tổng Thống Mỹ bị chết bất ngờ khi sống trong ngôi nhà sơn màu trắng toát.

Vấn đề điềm triệu báo trước cũng được chứng minh qua sự kiện lịch sử Pháp khi Vua Louis thứ 14 của nước Pháp một hôm tới xem một cái đồng hồ quả lắc chạm trổ tuyệt trần từ tay một nhà điêu khắc lừng danh là Christiana Huygens.

Khi vua ra về thì tối hôm sau tự nhiên đồng hồ ngưng chạy. Khi đó kim đồng hồ đứng tại vị trí 7giờ 45phút, lại là giờ báo trước cái chết sau đó của vua Louis 14 cũng đúng vào 7 giờ 45 phút tối.

Lịch sự thế giới có nhắc tới vấn đề vua Charles luôn luôn nấm trong tay cây gậy biểu tượng của quyền uy, năng lực của mình. Nhưng một hôm, cây gậy nhà vua đang cầm ở tay bỗng rơi xuống đất - Sau đó ông bị phe nhóm của Nghị viện chống đối và bị chém đầu.

Điềm triệu sau đây lịch sử thâm cung nước Pháp ghi lại còn ghê rợn hơn nữa. Đó là sự kiện Vua Louis 16, con người chuyên chế tàn ác đã tự tay phát họa vẽ kiểu lưỡi dao của máy chém dùng chém đầu các tội nhân.

Hôm xem lại mẫu vẽ, chính vua Louis 16 và cả Hoàng Hậu Marie Antoinette đều chăm chú xem và ngọn đèn hất bóng của nhà vua và Hoàng Hậu vào hình lưỡi dao của máy chém.

Một cận thần phải đốt thêm một ngọn đèn phía trước để được sáng hơn. Không ngờ hình ảnh hai cái bóng của vua và Hoàng hậu ngả vào lưỡi dao lại là điềm báo trước là chính cả vua và Hoàng hậu đều bị chém đầu trong cuộc cách mạnh Pháp năm 1789.

Sự kiện được xem là Điềm triệu cũng xảy ra ở nước Đức. Nhà sưu tầm nghiên cứu chuyện lạ thế giới là Robert Ripley kể rằng: tại thành phố Munich của nước Đức có một cái dụng cụ khổng lồ để tính giờ bằng cách đo bóng mặt trời. Nhưng bao giờ nó cũng chỉ con số tương ứng 2 giờ 30 phút.

Theo một nhà sử học Đức thì đó là dấu hiệu báo trước giờ Hitler chết. Quả nhiên, nhà độc tài Đức quốc Xã đã tự sát đúng vào 2 giờ 30 phút chiều. Phải chăng cái Nhật Khuê đã đưa ra Điềm triệu báo trước về giờ chết của nhà độc tài sắt máu Hitler cho người dân Đức biết mà không ai hiểu?

Người Philippine thường tin vào cái mà họ gọi là Unlucky Symbols (những Điềm gở) Ngay cả Tổng Thống Phi Fidel Ramos cũng vậy, năm 1993, báo Reuters cho hay là Tổng Thống không muốn 3 cây cổ thụ quá lớn án ngữ ngay trước dinh Tổng Thống vì đó là hình ảnh xấu về sự che khuất.

làm lu mờ người lãnh đạo. Do đó ông đã ra lệnh đốn bỏ. Ngay cả quốc huy có hình biểu tượng không trong sáng nhất là những ngôi sao màu xám đầy vẻ lu mờ là điềm xấu báo trước.

Đồng thời tờ giấy bạc 500 nếu quan sát 2 mặt sẽ thấy các biểu hiệu đều quy vào số 13 như những dãy 13 ngôi sao, hình ảnh 13 người (2 mặt) con số 500 có tất cả 13 lần.. Những biểu hiệu xấu đó báo trước Philippine sẽ gặp nhiều rắc rối xáo trộn trong tương lai.

Quả nhiên từ năm 1996 tới nay, Philippine đã trãi qua biết bao sóng gió và trong những năm 1999 đến 2002, đất nước này còn phải đương đầu với quân khủng bố ly khai trong nước.

Ngân hàng nổi tiếng á Châu có cấu trúc các cửa sổ trông giống những quan tài, ai cũng ái ngại. Quả nhiên sau đó, ông giám đốc Ngân hàng chết cùng với một số nhân viên phi hành vì phi cơ bị rớt... Tại thành phố Cao Hùng có một công trình xây cất nhà máy rất lớn. Dân chúng ở đây rất lo lắng vì họ nghe loan truyền về một điềm gỡ:

Đó là một cột ống khói to lớn vươn lên giữa thành phố trông xa giống một bó đuốc dẫn đường trong đám ma. Nổi lo sợ đó quả đã xảy ra: năm 1985, trong vừng xảy ra một cuộc thảm sát hết sức rùng rợn khiến máy chục người bị thương và nhiều trẻ con bị giết. Sau đó thành phố chứng kiến một đám ma khổng lồ với hàng ngàn người tiễn đưa.

Tại Hoa Kỳ, khi một cây xanh mọc trước tòa đại sứ Đài Loan bị đốn ngả, một số viên chức Đài Loan không biết để kịp ngăn cản việc đốn cây ấy và họ rất lo sợ vì đó là biểu tượng bất lợi.

Theo người Đài Loan thì cây bị đốn ngả trước tòa đại sứ của họ như thế là điềm gở. Quả nhiên không lâu sau đó, Hoa Kỳ đã thỏa thuận theo đề nghị của Trung Quốc là chỉ công nhận một nước Trung quốc mà thôi.

Một hình tư tưởng khác mà tác giả biên soạn sách này đã được biết và thấy khi xem Phong thủy cho một cơ sở bỏ trống ở bên xa lộ 101. Ngay bên kia xa lộ đối diện với cơ sở này có một công trình quảng cáo đồ sộ về đàn Piano. Đó là hình ảnh một cái hộp chữ nhật to lớn phủ vải đen và trên đó có vẽ chữ piano màu trắng. Đứng bên cơ sở này trông sang giống như một cái quan tài lớn.

Khi chúng tôi tới quan sát cơ sở để trống này, quan sát cảnh quan chung quanh và cả hình ảnh quảng cáo vừa nói cùng nêu thắc mắc tại sao cơ sở này bỏ trống thì người muốn thuê lại cơ sở này cho biết: sở dĩ cơ sở bỏ trống là vì cách đó một năm, người chủ cũ cùng với một số nhân viên của cơ sở này đi công tác trên một chuyến máy bay thì máy bay bị rơi khiến tất cả đều chết.

Câu chuyện có thật đã rõ ràng chứng minh cho vấn đề đã nêu về hình tư tưởng đáng sợ như thế nào cái quan tài to lớn đồ sộ phủ vải đen ngay trước cơ sở ấy phải chăng là hình tư tưởng, là điềm gở, là triệu bất tường khủng khiếp báo trước cho cơ sở đó mà không ai hay biết?

Chúng tôi còn nhớ vào năm 1999 anh V và chị N.H có mướn một cơ sở còn bỏ trống để làm tòa soạn. Từ phía trước mặt cơ sở, chúng tôi thấy ngay bên kia đường có một bảng quảng cáo rất lớn, trên đó là hình ảnh một cô gái hai mắt bịt kín bởi một băng vải, lúc đó chúng tôi không để ý là người ta muốn quảng cáo vấn đề gì.

Tuy nhiên điều quan trọng là hình tư tưởng đang ở ngay trước mặt cơ sở mà anh chị N.H dự định thuê mướn làm tòa soạn. Nếu làm báo viết báo mà người ta bịt mắt lại thì làm sao xem báo, đọc báo? Quả nhiên chỉ một thời gian ngắn anh chị N.H. rời bỏ cơ sở này để chuyển tới một nơi khác.

Hình tư tưởng hiện hữu khắp nơi và tác động ảnh hưởng của nó rất lạ lùng. Trong cuộc sống mỗi người chúng ta cũng đôi khi bắt gặp những hình tư tưởng báo trước sự cố hay báo trước kết quả nhưng chúng ta hoặc không để ý hay không tin.

Những nhà nghiên cứu về các biểu tượng, hình tư tưởng còn cho rằng: ngay trong chữ ký của mỗi người cũng có ẩn tàng các biểu tượng về tương lai cuộc đời. Như trường hợp chữ ký của người vũ nữ lừng danh Mata-Hary có những đường nét lạ kỳ.

Theo Bory, nhà nghiên cứu về chữ ký thì khoảng hở trong chữ ký của người vũ nữ này là giai đoạn đứt gánh nửa chừng của đời nàng và 2 nét ngang phía trên là dấu hiệu của tai bay vạ gió hiểm nguy. Quả nhiên Mata-Hary bị bắt vì bị chính phủ Pháp tố cáo là điệp viên và bị xử tử. Hai viên đạn ghim vào tim phải chăng là dấu hiệu rõ nét trong chữ ký của nàng.

Tại Trung quốc, sau cái chết của Ðặng tiểu Bình dân chúng đã truyền tai nhau câu chuyện liên quan về Điềm triệu, đó là: sau vụ đàn áp cuộc nổi đậy đòi Dân chủ của sinh viên Trung quốc tại quảng trường Thiên An Môn, không hiểu nhờ ai bày vẻ mà sinh viên Đại học Bắc Kinh đi lùng mua những bình sành và đợi ngày kỷ niệm vụ nổi dậy, họ đồng loạt đưa bình ra cửa sổ cư xá sinh viên và đập vở bình.

Hành động lạ lùng này xảy ra nhanh chóng và được báo cáo ngay đến Đặng tiểu Bình. Sự kiện xem ra không có gì quan trọng nhưng đối với họ Đặng thì đầy là điều rất đáng sợ.

Lý do là lúc mới sinh ra, cha mẹ ông muốn con về sau được bình an nên mới đặt tên ông là Đặng tiểu Bình. Ngày nay Bình đã vỡ, đó là điềm báo trước đời ông sắp tàn. Quả nhiên Đặng tiểu Bình qua đời năm sau đó.

#289

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 16/07/2011 - 03:32

KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC GÌ

CHƯƠNG MƯỜI BỐN

CỬU TINH LIÊN CHÂU VÀ CÁC THẢM HỌA

Theo Huyền Không Phong Thủy, cứ 500 năm là một Đại nguyên, 180 năm là một Chính nguyên, 180 năm là chu kỳ hội họp của chín hành tinh...Đặc biệt nhất vào giai đoạn này các hành tinh tự nhiên sắp xếp thành đường thẳng hàng.

Đó là hiện tượng mà cổ nhân gọi là Chu kỳ Cửu tinh liên châu nếu phân 180 năm này ra làm ba thì mỗi 60 năm là một Nguyên. Ba Nguyên ấy là Thượng Nguyên, Trung Nguyên và Hạ Nguyên. Mỗi Nguyên gồm có ba thời kỳ, mỗi thời kỳ gọi là một Vận.

Như thế 180 năm có chín Vận tất cả. Hiện nay chúng ta đang sống trong vận 8 Hạ nguyên và cũng chính vào giai đoạn thời gian này, các hành tinh trong Thái dương hệ của quả đất chúng ta sẽ trở thành Cửu tinh liên châu như đã nói trên.

Hiện tượng các hành tinh sắp xếp cùng trên một đường thẳng rất quan trọng, đó là một báo động lớn cho nhân loại kể từ năm 2004. Cổ nhân Đông phương qua bao kinh nghiệm từ hàng nghìn năm trước đã cho biết trước rằng:

Một khi loài người bước vào giai đoạn Hạ nguyên thì sự nguy hiểm, khổ đau, tai họa sẽ phát sinh rất nhiều. Chính vì lẽ đó mà ta thường nghe nói đến thời mạt pháp, suy đồi hay có khi còn dùng hai chữ rất đáng sợ là thời tận thế, tận diệt, mạt thế, mạt pháp, Kinh Thánh bảo: đó là thời đại Phán xét...

Xét về mặt khoa học tự nhiên thì vào thời Hạ nguyên, các hành tinh xếp theo cùng một đường thẳng sẽ tạo ra một sức hút rất mãnh liệt tác động ảnh hưởng ngay trên quả đất mà con người đang sinh sống.

Dĩ nhiên sự tác động lớn lao khủng khiếp này sẽ gây nên những rung động, xuyên phá ghê gớm mà ảnh hưởng dữ đội nhất là làm cho những đường nứt có sẵn từ địa cầu sẽ làm bùng nổ ra những trận động đất, những cuộc phun lửa của Hỏa sơn, những sóng Thần hung hãn, gây nên những tai họa khủng khiếp...

Thuyết Cửu tinh liên châu lúc đầu các nhà khoa học đã đánh giá là quan niệm cổ xưa thiếu tính cách khoa học vì được nêu ra từ mấy nghìn năm trước tại Trung Hoa. Nhưng ngày nay, chính các nhà thiên văn nổi tiếng của Hoa Kỳ, Đức, Anh, Pháp, Ấn đều công nhận là vô cùng chính xác và hoàn toàn khoa học.

Theo thuyết Tam nguyên vận Khí thì vào năm 2004 là năm khởi đầu của giai đoạn Hạ nguyên, vận tám, sẽ là giai đoạn của hiện tượng chín hành tinh sắp xếp theo một đường thẳng. Điều này đã trùng khớp với khám phá của các nhà Thiên văn học lừng đanh thế giới về sự kiện các hành tinh nằm thẳng hàng với nhau.

Báo chí Âu Mỹ trong tháng tư năm 2004 đều đăng tải những hàng tít lớn nói lên hiện tượng đáng sợ này. Theo giáo sư Tiến sĩ khoa học môi sinh Lisa Grant thuộc Đại học UC Irvine và tuyển sinh Tiến sĩ Eldon Gath thì có nguy cơ sẽ xẩy ra một trận động đất lớn có số đo tới 6,7 độ tại Northridge nơi mà năm 1994 đã xảy ra trận động đất ở quận Los Angeles.

Cũng theo hai nhà khoa học này thì qua hơn mười năm, nhiều lằn nứt tương tự như thế đã xuất hiện ở quận Cam Orange County. Hai nhà khoa học đã mong chính phủ lưu tâm đến sự kiện này hầu giảm bớt phần nào nguy cơ bị thiệt hại khi sự kiện xảy ra, mà vấn đề thời gian quả là khẩn cấp vì theo nghiên cứu của các nhà khoa học, thì họ khẳng định là sẽ xảy ra vào ngày 5 tháng 9 năm nay tức năm 2004.

Nặng nề nhất là tại sa mạc nam California. Các nghiên cứu và khảo sát của các nhà Địa chất này đã đưa vào việc khảo sát vùng đồi quận Cam. Puente Hills, San ta Ana mountains và cả San Joaquin Hills nữa.

Báo Desert Sun đăng tải tiên đoán về một trận địa chấn lớn sẽ xảy ra trong một vùng rộng tới 12.000 dặm vuông ở Nam Cali. Nhà tiên đoán là Khoa học gia Nga Vladimir Keilis thuộc Đại học UCLA. Nhà khoa học này đã dùng toán học và dựa vào các dữ kiện từ những trận địa chấn trong quá khứ để từ đó phát hiện ra trận động đất sẽ xảy ra ở khoảng 6.4 độ.

Một nhà khoa học khác, giáo sư Tiến Sĩ thuộc Đại học Oregon là Ray Weldon (người đã từng theo dõi các biến chuyển hoạt động về đường nứt San Andreas trong suốt 18 năm qua) cùng với cộng sự cho hay rằng Nam Cali là nơi cần lưu ý vì đường nứt San Andreas (nằm đọc nam Cali, kéo dài từ Palmdale tới tận Salton Sea) này đang ở vào giai đoạn chấn động thường xuyên.

Nay thì sức ép và đường nứt sắp đi tới giai đoạn chấn động mạnh để gây trận động đất lớn tại vùng này. Vì các nghiên cứu được đưa ra từ những nhà khoa học nổi tiếng đã từng đoán đúng các trận động đất trong quá khứ nên đã không khỏi lo lắng.

Tuy nhiên không phải chỉ riêng tại Hoa Kỳ hay cục bộ tại Nam Cali mà nhiều nơi có thể có những chấn động của quả đất gây ra hỏa sơn, sóng thần, động đất. Lý do là khi các hành tinh sắp theo một đường thẳng thì sức tác động lên quả đất của chúng ta sẽ rất lớn lao khủng khiếp.

#290

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 16/07/2011 - 03:35

KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC GÌ

CHƯƠNG MƯỜI LĂM

NHÀ TU TRẺ TUỔI NHẤT TẠI SINGAPORE

Đó là Sa Di Tan Wei Wen tám tuổi người Singapore, đã thọ giới Sa di cùng với người anh ruột. Cả hai học rất giỏi và thích tu hành. Bước đầu họ vào trung tâm Phật giáo tại Singapore để được thử thách, vì tu không phải là trò đùa mà toàn là khó nhọc, nếu người không có ý chí và quyết tâm thì sẽ rất dễ bỏ cuộc nửa chừng.


NHỮNG CHU KỲ TRÊN QUẢ ÐẤT

ẢNH HƯỞNG TỚI CON NGƯỜI NHƯ THẾ NÀO?


Cổ nhân Đông phương coi trọng tới các chu kỳ, thời gian vận hành, đắp đổi. Lý do là các chu kỳ thời gian đã luôn luôn ảnh hưởng tới quả đất và đời sống của nhân loại. Theo họ thì quả đất cũng có thời kỳ phát sinh phát triển suy vong, hủy diệt.

Đời mỗi người cũng có những lúc vui lúc buồn, lúc vinh, lúc nhục, lúc giàu, lúc nghèo. Mỗi năm cũng có chu kỳ khí hậu đổi thay. Tuy nhiên điều mà cổ nhân Đông phương lưu ý nhất là chu kỳ 60 năm mà họ thường gọi là Lục thập hoa giáp.

Năm 2004 chính là năm khởi đầu cho một chu kỳ 60 năm mới, đó là một khởi đầu của một lục thập hoa giáp lịch sử thường chứng minh rất rõ ràng về chu kỳ 60 năm. Theo kinh nghiệm của người xưa thì cứ 60 năm trên thế giới sẽ có những đổi thay to lớn lạ lùng xảy ra ở nhiều nơi, nhiều quốc gia.

Các sự kiện lớn lao xảy ra tại mỗi quốc gia hay chung cho cả thế giới đã tạo thành lịch sử của mỗi dân tộc hoặc rộng lớn hơn là lịch sử thế giới. Có điều cần biết thêm là những sự cố trọng đại xảy ra thường là những sự lập lại theo một chu kỳ thời gian.

Mặc dầu chưa ai có thể giải thích rõ ràng nguyên nhân phát sinh những sự cố theo đúng chu kỳ như đã thấy nhưng sự kiện vẫn đều đặn xảy ra. Lần qua các trang sử thế giới cũng như lịch sử mỗi quốc gia từ cổ đại tới nay, ta thấy sự lập lại các biến cố theo chu kỳ thời gian như là một nhịp điệu sinh học rất lạ lùng.

Trong Khoa bói toán cổ xưa của Trung Hoa có nói tới chu kỳ thời gian này. Chu kỳ vận hành thấy rõ nhất của sự lập lại những biến cố như đã từng xảy ra trong quá khứ thường phải trải qua 60 năm, thường gọi là 60 năm Giáp Tý.

Ðối với khoa Phong Thủy thì lời giải thích chu kỳ 60 năm này phát sinh chính là thời gian để 3 hành tinh Mộc tinh, Thổ tinh và Thủy tinh hội tụ lại trên một đường thẳng. Khi 3 hành tinh cùng nằm thành một hàng như thế thì lực hấp dẫn của chúng gia tăng ảnh hưởng tới quả đất mà con người đang sinh sống. Khi đó trên quả đất sẽ có thiên tai, dịch họa, chiến tranh xảy ra.

Nhà Phong Thủy nổi danh của Trung quốc hiện nay là Trương Huệ Dân khi nghiên cứu vấn đề này đã ghi nhận rằng chu kỳ lập lại những biến cố xảy ra trên quả đất đúng 60 năm thấy rõ nhất là các thiên tai. Ví dụ như năm 1906 ở Tân Cương (Trung Hoa xảy ra trận động đất dữ dội làm nhà cửa sụp đổ, nhiều người chết.

Rồi 60 năm sau tức là vào năm 1966 tại Hà Bắc cũng xảy ra một trận động đất lớn không thua gì trận địa chấn 60 năm trước đó. Xem tài liệu ghi trong lịch sử địa chấn thấy năm 1917 tại Cát Lâm xảy ra trận động đất mạnh gần cấp 8. Đến 60 năm sau, tức là vào năm 1976 ở Đường sơn Hà Bắc lại xảy ra một trận động đất rất dữ dội.

Nếu khảo sát rộng hơn, nghĩa là quan sát toàn khắp thế giới thì ta cũng thấy biến cố xảy ra... nếu xét theo các chu kỳ thời gian ta cũng thấy chu kỳ thời gian 60 năm là rất quan trọng, chu kỳ ấy như là một giai đoạn của sự đổi thay lớn lao, một sự biến đổi giống như thuyết âm Dương biến đổi trong Kinh Dịch vậy.

Ðể dễ thấy, dễ hiểu, không gì hơn là ta thử xem qua đất nước Liên Sô trải qua 60 năm dài vững mạnh của một chế độ Cộng Sản chuyên chính tưởng không có thế lực nào có thể thay đổi được. Ấý vậy mà qua chu kỳ sáu mươi năm, đất nước này tự biến chuyển một cách lạ lùng về chính sách và chính thể không ai có thể ngờ được.

Năm 2001, một biến cố khủng khiếp đã xảy ra trên đất Mỹ kéo theo những hệ lụy lớn lao nếu không khéo sẽ nổ ra những trận chiến tranh lan rộng khắp thế giới. Biến cố ấy chính là cuộc đại khủng bố xảy ra ngày 11-9-2001 tại New York và Washington D.C như mọi người đã biết.

Điều lạ lùng là nếu trở lại 60 năm trước đây tức là vào năm 1941, xét về những biến cố trọng đại đã xảy ra trên thế giới thì ta cũng thấy sự kiện y hệt đã diễn ra tại nước Mỹ.

Qua tài liệu ghi chép những biến cố xảy ra theo thời gian từ cổ đại tới nay trong cuốn The Timetables of history do Bernard Giun biên soạn thì vào năm 1941, nghĩa là trước khi xảy ra sự kiện kiện khủng bố 11 tháng 9 năm 2001 đúng 60 năm.

Nước Mỹ cũng bị máy bay tấn công bất ngờ như vụ tấn công vào New-york và Ngũ Giác Đài Vụ tấn công chớp nhoáng này do phi đội cảm tử Nhật thực hiện tấn công bất ngờ vào Trân Châu cảng.

Hai cuộc tấn công ở 2 thời điểm cách nhau đến 60 năm nhưng lại giống nhau về ýđồ về vũ khí sử dụng. Hai cuộc tấn công đều sử dụng máy bay bằng máy bay và kẻ lái máy bay một lòng quyết tử.

Ngoài ra tài liệu này còn cho biết là năm 1941, FBI Mỹ cũng bắt được những kẻ khủng bố đột nhập vào New-york và Florida tương tự như trường hợp FBI bắt một số kẻ khủng bố như vậy trên đất Mỹ vào năm 2001. Có một điều hơi lạ lùng trùng hợp về danh từ nổi bậc của 2 cuộc tấn công cách nhau tới 60 năm, đó là cuộc tấn công Trân Châu Cảng của quân Nhật được mang tên là Tora Tora.

Sáu mươi năm sau, khi quân Mỹ tấn công vào Afghanistan, trận đánh được xem là cuối cùng và dữ dội nhất nhắm vào mục tiêu quan trọng có tên là Tora Bora, hai danh từ này chỉ khác nhau có một chữ mà thôi, đó là Tora thành Bora.

Tại ấn Độ, một nhân vật danh hiệu Prakblat Ranjon được các tín đồ Hindu xem là bậc Thánh nhân xuất thế. Ông này đã cho rằng: "Sự sinh, diệt, sống chết, chiến tranh, hòa bình... đều tuân theo quy luật chu kỳ xoay chuyển của vũ trụ.

Chu kỳ ấy vận chuyển và biến đổi trong khoảng 60 năm. Ngay cả lãnh vực kinh tế cũng tuân theo luật chuyển vận chu kỳ. ông cho rằng kinh tế thế giới phát triển hay suy thoái tùy theo chu kỳ thời gian.


SỰ CHUYỂN ÐỔI ÐẠI TRƯỜNG KHÍ VŨ TRỤ

ÐÃ ẢNH HƯỞNG NHƯ THẾ NÀO TỚI VẬN MỆNH THẾ GIỚI


Hiện nay chúng ta đang sống trong giai đoạn của Hạ Nguyên vận 8: bắt đầu từ năm 2004 đến năm 2023, trường Khí tốt là Đông Bắc. Lúc này Nhật là nước trỗi dậy mạnh nhất, kế đến là các nước như Trung quốc, Bắc Hàn, Nam Hàn, Đài Loan.

Lý do là các quốc gia này định vị ở vùng Đông Bắc địa cầu. Khi vũ trụ hình thành, một sự bùng nổ như hiện tượng Big Bang, mà giới khoa học ngày nay công nhận, đã phát sinh ra một năng lượng cực kỳ lớn trong vũ trụ mà cổ nhân Đông phương gọi là Đại trường Khí.

Loại Khí mang lại những năng lực sinh động, Khí của sự sống hay còn gọi là Sinh Khí. Khí này luân lưu vận hành, trong vũ trụ và thường chuyển đổi hướng từ năm 2004, đất nước nào định vị ở vùng Đông Bắc thì đất nước đó hưởng được trường Khí tốt, nghĩa là phương Đông Bắc Khí mạnh, Khí ở Đông Bắc lúc đó là tốt.

Quý vị độc giả có thể xem qua bản đồ thế giới sẽ thấy rõ ràng là Bắc Hàn, Nam Hàn, Nhật Bản, Trung quốc, Đài Loan định vị ở hướng Đông Bắc... cho nên nếu theo thuyết Tam Nguyên Vận Khí vừa kể trên thì từ năm Giáp Thân 2004 này.

Thế giới sẽ thấy rõ sự bùng phát mạnh mẽ của những quốc gia vừa kể trên về nhiều lãnh vực nhất là lãnh vực Kinh tế và Quân sự. Chính những sự lớn mạnh của các nước ấy mà thế giới sẽ có những biến chuyển quan trọng, nói khác đi là ảnh hưởng tới Vận mệnh của thế giới.

Các nước vừa nêu trên nhờ có thêm lợi thế là được biển cả, đại dương bao bọc hay kề cận nên được hưởng nhiều Khí tốt, vì theo Phong thủy thì: Có nước tức có Khí. Chỉ có điều là được Khí Đông Bắc tốt lành vào vận tám, nhưng vì trường khí hướng Đông Nam không thuộc Hạ nguyên đương Vận thì lẽ dĩ nhiên Khí chưa tốt mà phía này lại thấp nên bị Khí bất lợi tràn tới.

Chính vì lẽ đó thay vì những quốc gia này phát triển về những mặt hòa bình, công ích cho cả thế giới, xã hội thì lại hăng hái phô trương hung hãn trong vấn đề chế tạo, sản xuất, mua thêm vũ khí, gia tăng quân số tạo nên hiềm khích hay tái võ trang... khiến trong vùng trở nên bất ổn.

#291

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 16/07/2011 - 03:41

KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC GÌ

CHƯƠNG MƯỜI SÁU

NHẬT BẢN VÀO NĂM 2004

Từ lý luận Vận Khí Phong Thủy, các nhà nghiên cứu vấn đề này đều quả quyết rằng từ năm 2004, Nhật Bản chắc chắn, thật sự bắt tay vào việc tái Võ trang vì Khí hướng Đông Bắc đã chuyển tới nước Nhật một cách thuận lợi nên năng lực của trường Khí ấy đã kích động chính phủ và toàn dân Nhật trở nên hăng hái mạnh mẽ quyết tâm phát triển quân sự, phô trương lực lượng, mà không một lực nào trên thế giới có thể cản nổi.

Tuy nhiên về mặt kinh tế thì: theo tài liệu suy đoán của Huyền không học thì nước Nhật bước vào năm 2004 là năm Giáp Thân tức là bắt đầu đi vào Vận tám, thì kinh tế lúc đầu tưởng là tấn phát, nhưng không ngờ lại yếu. Lý do là thủ đô Tokyo bị vận Sát Khí. Cũng chính vì tình hình đó mà Nhật gia tăng, phát triển quốc phòng mạnh mẽ.

Nếu chính phủ Nhật Bản quyết định chuyển kinh đô thì mới mong tránh được sự sút giảm về kinh tế. Về mặt Địa lý Phong Thủy thì Nhật Bản là vùng đất tụ Ngũ Hành nhờ có năm đảo lớn và bốn nghìn đảo nhỏ. Hình dáng nước Nhật là vùng đất chuyển từ Đông Bắc xuống Tây Nam giống con rồng đang quẩy mình trên biển, mà phần cơ thể ở Đông Bắc tràn đầy trường Khí tốt.


BẮC VÀ NAM HÀN VÀO NĂM 2004


Ðối với Bắc Hàn thì từ năm 2004, khi đại trường Khí vũ trụ chuyển vào Đông Bắc thì nước này như được thêm sức. Tuy nhiên vì những đất đai núi đồi của Nhật Bản án ngữ phần Đông Bắc nên trường Khí vào được Bắc Hàn bị hạn chế. Nếu không nước này sẽ gia tăng sự hăng hái cuồng say khiến phát sinh những hành động cực kỳ nguy hiểm, như phát động cuộc chiến tranh nguyên tử chẳng hạn.

Phải chăng đó là điều may mắn. Trong khi đó Nam Hàn là vùng đất gắn liền Bắc Hàn nhưng lại ở phía dưới được giáp ba mặt biển dương nên nhận trường Khi tốt nhiều hơn, trở nên sáng suốt, tự chế hơn và sức mạnh quân sự cũng như kinh tế gia tăng. Do đó Bắc Hàn bị kẹp giữa ba thế lực: Trung quốc, Nhật Bản, Nam Hàn, cả ba thế lực này đều nhận đủ trường Khí tốt của Đông Bắc nên chung cuộc vấn đề Bắc Hàn sẽ được giải quyết.

Mặc dầu Bắc Hàn luôn luôn tỏ ra hung hãn, sẵn sàng tuyên chiến với cả nước Mỹ nhưng Mỹ yên lặng, không trả đũa, không động binh ào ạt, tại sao? Tại Đại trường Khí đang chuyển về Đông Bắc. Phải chăng Mỹ cũng có quân sư tiết lộ vận Khí đầy năng lực này?

Đọc tới đây nhiều độc giả sẽ mỉm cười vì là chuyện giả tưởng khó tin. Nhưng nếu chịu khó lục tài liệu thì sẽ thấy trong Vận một, Khí của phương Tây rất mạnh, hậu quả là Liên Sô tan rã, điều làm thế giới bàng hoàng, rồi cuộc chiến vùng vịnh nổ ra, Mỹ vào Iraq như thế chẻ tre vậy mà tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp quốc, Trung quốc không bỏ phiếu phản đối mà chỉ bỏ phiếu trắng.

Tại sao? Theo nhà nghiên cứu Trường Khí xoáy Trương Huệ Dân (người Trung quốc) thì Chính quyền Trung quốc trong phiên họp mặt với các quân sư lỗi lạc đã chịu lắng nghe và đã hiểu rõ luật Vũ trụ khó xoay chuyển nên đã có quyết định ấy.

Cũng vậy, Trung quốc phải đợi tới gần cuối năm 2003, lúc trường Khí vũ trụ chuyển dần về Đông Bắc, Trung quốc mới quyết định phóng tàu vũ trụ có người điều khiển bay vòng quanh trái đất và đã thành công.

Chúng ta thử nhớ lại: vào năm 2008 sẽ là năm Trung Quốc đứng ra Tổ chức Thế Vận Hội, tại sao Thế vận Hội trước đó không lọt vào tay Trung quốc mà phải 2008? Phải chăng là vì giai đoạn của Vận hai trường Khí có lợi ở Đông Bắc, nơi Trung quốc định vị?


TRUNG QUỐC VÀ ÐÀI LOAN


Trong Vận bảy, trường Khí vũ trụ từ hướng Tây nên các nước Tây Âu và Mỹ mới phát triển mọi mặt. Lúc đó Trung quốc vẫn còn yếu kém. Lý do là phía hướng Tây của Trung quốc quá nhiều núi non án ngữ khiến cản trở trường Khí tốt ấy không vào được Trung quốc. Nhưng khi vào Vận tám, trường Khí chuyển vào Đông Bắc thì Trung quốc hầu như nhận được toàn bộ trường Khí này.

Vì thế mà Trung quốc phát triển vượt bực không những về Kinh tế, quân sự, ngoại giao mà cả về mặt nghiên cứu vũ trụ Không gian để trở thành siêu cường sánh vai với Nga, Mỹ...

Với sự thành công ấy kết hợp với trường Khí tốt kéo dài trong 20 năm từ 2003 đến 2023, nếu Trung quốc phát triển theo chiều hướng hòa bình, chú trọng về kinh tế hơn là tăng cường quân sự thì đất nước Trung quốc càng phát triển mạnh mẽ không thể tưởng tượng.

Tuy nhiên vì trường Khí mạnh lại thêm quá tự cao, tự mãn đã hun đúc quốc gia này trở nên một mối nguy đối với các nước quanh vùng và cũng là cái đích mà Mỹ phải lưu tâm. Nhất là khi T.T. Ôn Gia Bảo tuyên bố thẳng thừng với báo Washington Post rằng: Trung quốc có dân số 1,3 tỷ sẽ đè bẹp tất cả và đủ sức kết thúc vấn đề lớn. Lời tuyên bố đầy thách thức đã làm thế giới kinh ngạc và lo sợ không ít.

Đó chính là mầm mống của sự sinh sát, thù địch nảy sinh hai đối thủ mạnh trên thế giới sẽ quyết tâm triệt hạ nhau. Năm 2004 là năm khởi đầu của những sự cố sẽ xảy ra cho các năm kế tiếp.

Chính năm này, trường Khí Đông Bắc theo Sơ Đồ Bác quái chính là cung hướng của Kiến thức của sự hiểu biết, học vấn, tư duy... nên từ năm này Trung quốc sẽ nâng cao đổi mới về giáo dục từ hình thức lẫn nội dung.

Cũng từ đó mà dân trí ngày càng nâng cao, người dân nhận thức được thế giới bên ngoài rất rõ tầm phát huy tinh thần dân chủ, tự do dẫn tới những đòi hỏi về nhân quyền, dân sinh khắp cả nước. Biến cố này sẽ làm thay hẳn bộ mặt Trung quốc nhất là về thể chế chính trị một cách kỳ diệu lạ lùng chớ không đẫm máu như sự kiện Thiên An Môn.

Ngoài ra cần phải nói thêm về một vùng đất phát vượng, đó là Hồng Kông vùng đất này phát về Kinh tế, chỉ chao đảo vào năm 2003 thuộc vận bảy vì chưa có Khí Đông Bắc. lúc đó phát sinh dịch bệnh Sars rất tai hại cho Kinh tế Hồng Kông.

Nhưng từ năm 2004 trở đi, Hồng Kông sẽ nhờ trường Khí tốt của Vận tám Hạ nguyên mà phát triển hưng vượng vượt mức không những về kinh tế mà còn về vấn đề thể chế chính trị. Trung quốc kiểm soát Hồng Kông nhưng rất khó điều khiển, ép buộc Hồng Kông theo đúng thể chế của Trung quốc được...

Riêng với đảo quốc Đài Loan, hòn đảo này có đủ núi non thuận hợp lại thêm Tứ Thủy triều quy. Nước chầu hầu bốn mặt lại thêm trường Khí tốt đang chuyển về hướng Đông Bắc nên không lạ gì khi thấy dân chúng lẫn chính quyền nơi đây năng động, phấn chấn, hăng say, sôi nổi trong vấn đề muốn vùng đất mình trở thành một quốc gia riêng biệt.

Tuy vậy, vị trí của Đài Loan so với các nước vừa kể thì hơi xa dần hướng Đông Bắc, lại nữa, trường Khí chuyển từ Đông Bắc tới Đài Loan lại bị ngăn cản bởi Nam Hàn, Nhật Bản nên sự tiếp thu Khí tốt không hoàn toàn. Do đó chung cuộc Đài Loan vẫn không thể trở thành một quốc gia riêng biệt vì áp lực của Trung quốc và kể luôn cả Hoa Kỳ quá mạnh.


VIỆT NAM RA SAO Ở THỜI HẠ NGUYÊN?


Ðối với đất nước việt Nam thì vì định vị ở miền Đông Nam châu á, với một dãi đất đài hình cong chữ S như cái bao lơn quay mặt ra biển đông nên tuy không phải ở ngay vùng Đông Bắc nhưng lại dễ dàng nhận cát Khí từ Đông Bắc tới dù không trực diện.

Vì thế mà khởi từ năm 2003, Việt Nam đã dần dần phát triển về nhiều mặt nhất là Kinh tế. Qua năm 2004 (bắt đầu vô Vận tám) là năm Giáp Thân hành Thủy luân lưu, chuyển động nên Việt Nam càng tiến nhanh hơn không những về mặt giao hảo với các nước, phát triển giao thương kinh tế và phát triển rộng lớn về hàng không Về mặt chính trị, xã hội sẽ thay đổi, cởi mở tự do hơn.

Đặc biệt về mặt trao đổi E-mail, internet và truyền thông báo chí cũng mở rộng cửa hơn. Tiếc rằng sự thay đổi có hơi muộn màng, nếu Việt Nam ở vào tọa độ cao hơn, ngang tầm với Đài Loan hay giữa Đài Loan và Nhật Bản nhận hoàn toàn trường Khí Đông Bắc thì sự đổi mới của Việt Nam sẽ hoàn toàn vào giữa năm 2003 chớ không phải chậm chạp như hiện nay.

Ngoài ra nếu Việt Nam không bị dãy trường sơn che chắn ở hướng Tây thì Việt Nam đã hoàn toàn đổi mới vào những năm của Vận bảy Hạ nguyên tức là từ năm 1984–2003, thời gian đó trường khí tốt vận hành từ hướng Tây.

Nay từ năm Giáp Thân (2004) thế giới đi vào vận tám, Việt Nam nhờ vùng đến nhô ra biển Đông (từ Thừa Thiên Huế tới Khánh Hòa, Nha trang) đã phần nào nhận được trường Khí từ Đông Bắc tới nên chính những vùng đất này sẽ đẩy nhanh tiến trình đổi mới nhanh chóng đến độ ít ai ngờ.

Chúng ta cũng đừng quên là chính Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm, nhà tiên tri lỗi lạc của Việt Nam đã từng tiên đoán sự kiện này cách đây 500 năm qua câu Sấm: Thân Dậu niên lai kiến thái bình

#292

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 16/07/2011 - 03:43

KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC GÌ

CHƯƠNG MƯỜI BẢY

TRƯỜNG KHÍ TỐT CỦA VŨ TRỤ SẼ TỚI TỪ ÐÔNG BẮC

Nếu xét về thời gian thì rõ ràng vào năm 2004 là năm khởi đầu của vận II (từ 2004 đến 2023) Theo trên thì trong Vận I (từ năm 1984 đến 2003) Đại trường Khí của vũ trụ ở hướng Tây. Nhưng qua Vận II thì Khí ấy đổi hướng chuyển về Đông Bắc. Như thế quốc gia nào nằm ở hướng Đông Bắc sẽ được thuận lợi phát triển.

Từ gần cuối năm 2003, khí vận này đã chuyển dần về Ðông Bắc nên chúng ta không lạ khi thấy Bắc Hàn, Trung quốc, Nhật bản... những quốc gia nằm ở hướng Ðông Bắc tự nhiên hùng mạnh như Bắc Hàn tuy nghèo đói vẫn tự mãn, tự cường thách thức cả thế giới và cho biết mình sở hữu vũ khí nguyên tử.

Nam Hàn gia tăng, phát triển về mặt quân sự. Trung quốc thì thành công về cả Kinh tế lẫn chinh phục vũ trụ không gian. Ðài Loan thì thay vì chịu nhún nhường, lệ thuộc Trung quốc thì lại quyết tâm biến thành một nước Cộng Hòa độc lập Tự chủ.

Còn Nhật bản thì quyết tâm đòi tái võ trang... Những sức mạnh ý chí, hành động bộc lộ mạnh mẽ như thế là do Ðại trường Khí vũ trụ đã và đang chuyển vào làm gia tăng năng lực.

Do đó, từ năm 2004, thế giới sẽ thấy sự vùng lên của những quốc gia nằm ở hướng Ðông Bắc. Ngoài ra theo các nhà Phong thuỷ thì cơ sở làm ăn hay nhà nào quay cửa chánh về hướng Ðông Bắc thì từ năm 2004-2023 sẽ được phát đạt thuận lợi.

Chu kỳ những năm từ Mão tới Dậu mà năm Thân nằm trong đó thì thế giới luôn luôn có xáo trộn và dễ bùng nổ chiến tranh. Những năm này thiên tai dịch bệnh gia tăng dữ dội. Ðặc biệt hơn cả là chu kỳ từ năm 1999 (Kỷ Mão) năm giáp cuối của thế kỷ thứ 20 qua tới năm 2001 là năm khởi đầu của thiên niên kỷ mới.

Năm mà từ thời đại xa xưa nhân loại hồi hộp trông chờ vì là năm được xem là Tận thế. Giai đoạn này được mở đầu bằng cuộc Ðại khủng bố 9-11 từ đó cho tới năm 2003 nổ ra cuộc chiến tranh phía Hồi giáo quá khích phát động cuộc chiến khủng bố chống lại các nhóm phương Tây, nhất là Hoa Kỳ. Theo các tiên tri thì phải tới sau năm 2005 tình hình thế giới mới có hy vọng ổn định, an bình trở lại.

Quân khủng bố Al Qaeda trở nên mạnh mẽ sau những năm tạm ẩn mình hầu chấn chỉnh nội bộ và kết hợp thêm nhân sự. Khi Irag bị sụp đổ thì Al Qaeda lại càng được bổ sung thêm thành viên do những kẻ đào thoát từ Irag qua.

Từ giữa năm 2003 cho tới năm 2004, quân Khủng bố sẽ ra tay tấn công nhiều quốc gia Tây phương lẫn á châu, nhất là những nơi có người Âu mỹ đi lại hay trú ngụ. Khủng bố tấn công luôn cả Ai Cập, Jordan, Saudi Arabia và nhất là tại Hoa Kỳ tạo ra mối kinh hoàng về khủng bố không nguôi và lịch sử thế giới sau này sẽ gọi thời kỳ này là thời kỳ củqa khủng bố.

Nhiều báo cáo cho hay quân số Al Qaeda nay lên tới 18.000 và sẽ gia tăng gấp bội. Ðáng sợ nhất là số người đông đảo này lại là những người sẵn sàng ôm bom chịu chết.

Từ gần cuối năm 2003 trở đi đến 2004 sẽ có nguy cơ quân khủng bố quay lại tấn công hoàng gia Ả rập Saudi Arabia và gây cuộc đảo chánh bất thành. Kết cuộc Saudi Arabia hoàn toàn ngả về phe Hoa Kỳ và tạo một nước ả Rập cởi mở.

Hoa Kỳ sẽ chịu nhiều cuộc khủng bố xảy ra. New York rất dễ bị khủng bố tấn công một lần nữa sau biến cố 9-11 của năm 2001. Riêng Âu châu cũng bị khủng bố tấn công và nhất là Anh quốc vào các năm 2003, 2004.

Ờ vùng Đông Nam á vào năm 2004 sẽ có ít nhất là 2 quốc gia bị nạn khủng bố hăm dọa nặng nề. Iran sẽ có thay đổi lớn như một cuộc cách mạng mặc dầu trước đó đã quyết tâm không liên kết với Mỹ.

Bắc Hàn dần dần đi vào quỹ đạo của thế giới tư bản, tự do sau một số thất bại của Kim Chánh Nhất. Một cuộc đảo chánh hay nổi loạn ngay tại Bắc Hàn là điều khó xảy ra. Ngoại trừ trường hợp Bắc Hàn bị đói trầm trọng. Nếu Bắc Hàn không được các nước viện trợ thực phẩm thì một trận chết đói sẽ xảy ra chưa từng thấy tại đây.

Điều đó dễ dẫn tới sự "một hành động liều mạng" khó lường nếu Kim chánh Nhất còn cầm quyền. Trong Sấm Ký Nostradamus có hai câu thơ mà cho tới nay các nhà suy đoán tương lai còn phân vân chưa biết nhà tiên từ mô tả hình ảnh sẽ xảy ra tại đất nước nào Nếu là tại Bắc Hàn thì quả thật rất nguy hiểm:

Sự trả thù tức khắc phát sinh,

Từ hàng trăm bàn tay,

Lúc ấy sao chổi vút qua,

Kéo theo đói và khát...

Hình ảnh sao chổi vút qua phải chăng là loại Hỏa tiễn có đầu đạn nguyên tử của Bắc Hàn? Nếu Bắc Hàn hành động liều lĩnh thì hậu quả sẽ rất khủng khiếp: Nostradamus đã cất tiếng than qua đoạn sấm ký:

Hận thù kéo theo hận thù.

Bởi sự hận thù dâng cao.

Làm tiêu diệt kẻ hận thù

và người bị hận thù...

Có lẽ vì điều đó mà thế giới không muốn Bắc Hàn bị đói đó là điều kỳ diệu. Tại sao Bắc Hàn là một xứ nghèo đói mà lại hùng hổ dương cao sức mạnh? Chỉ có vấn đề Bắc Hàn định vị ở Đông Bắc, nơi thuộc Đại trường Khí Vũ trụ hiện diện từ năm 2004 mới giải thích tại sao một nơi đầy hung hãn, bất trị như thế mà vẫn tồn tại và được cung cấp viện trợ mà thôi.

Từ cuối năm 2003 tới năm 2004, Đài Loan luôn luôn quyết tâm muốn trở thành một Nước Cộng hòa khác với Nước Trung quốc. Tổng Thống Trần Thủy Biển sẽ là một cha già của dân tộc Đài Loan vào năm 2004.

Nhưng cuối cùng thì không phải vậy. Chỉ ngoại trừ có một biến động nào đó do quyền lợi tối thượng mà ông bị ám sát hay bị lật đổ hạ bệ vì một cuộc đảo chánh do bàn tay của một thế lực siêu cường.

Còn không, ông sẽ là một ngôi sao sáng tại Đài Loan. Vào năm đầy biến động 2004 nơi xứ sở nhỏ bé này. Cần lưu ý rằng Đài Loan cũng định vị ở trục, hướng Đông Bắc nơi Đại Trường Khí Vũ trụ chuyển tới khởi từ năm 2004.

#293

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 16/07/2011 - 03:45

KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC GÌ

CHƯƠNG MƯỜI TÁM

TRUNG QUỐC SẼ CÓ NHỮNG THAY ÐỔI LỚN LAO

Đối với Trung Quốc thì quốc gia khổng lồ này sau trận dịch Sars, lan tràn gần như toàn bộ những thành phố lớn của Trung quốc và ngay cả Hồng Kông vào năm 2003 đã là một trong những mũi nhọn kích thích sự đổi mới.

Trận dịch quái ác đã làm phe bảo thủ tại Trung quốc ngỡ ngàng, nếu không nói là bỉ mặt về sự trì trệ quan liêu bá quyền và cổ hủ về chính sách điều hành, cai trị.

Nền kinh tế Trung quốc mặc dầu phát triển vào năm 2003 nhưng là "phát triển trong cái yếu kém". Những hình ảnh của cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và Iraq đã làm Trung quốc thức tỉnh. Năm 2004 sẽ là năm mà khách hàng mua sắm vũ khí hiện đại cao cấp sẽ nườm nượp ra vào nước Mỹ và nước Mỹ sẽ lời to từ cuộc chiến tranh Iraq.

Điều mà giới tài phiệt đều biết rõ. Cũng nhờ đó mà Phe đổi mới tại Trung quốc ngày càng mạnh. Năm 2004 sẽ đánh dấu một khúc quanh lịch sử về kinh tế, chính trị và quân sự tại Trung quốc, nhất là sau khi Trung quốc thành công trong vấn đề Tàu Vũ trụ có người lái của họ bay vòng quanh trái đất 64 lần.

Trung quốc như con tằm lột xác, như người ngủ mê bừng tỉnh dậy vươn vai rồi làm việc hết mình và sửa chữa những sai lầm cả về ý thức hệ lẫn chính sách và hành động sai lạc từ hằng chục năm qua để biến Trung quốc thành một siêu cường thực sự.

Trung quốc từ năm 2004 nhất là khi Đại trường Khí vũ trụ chuyển đến Đông Bắc, nơi Trung quốc định vị sẽ là quốc gia quyết tâm hiện đại hóa quân lực mãnh mẽ nhất và là quốc gia mua nhiều vũ khí và nhấm vào những kỷ thuật cao của Mỹ nhất.

Cũng từ đó, Trung quốc sẽ có những bước nhảy vọt về tự do dân chủ nhất là lãnh vực kinh tế, truyền thông và giáo dục. Năm 2004 là năm mở đầu cho những cải cách này vì đây là năm Giáp Thân, biểu tượng bởi con Khỉ tinh Khôn, khác xa con Dê đầy mơ mộng, ảo tưởng của năm 2003 Quý Mùi.


MỘT VÀI TIÊN TRI CỦA CHIÊM TINH GIA J.M. Lal MAHADJAN


Thế giới trong thế kỷ thứ 20 phân ra Tư bản và CS. Nhưng qua thế kỷ 21, thế giới còn phân ra nhiều mặt như Hồi giáo đối nghịch với Tây phương, Hoa kỳ đối nghịch với các nước Đức, Pháp, Trung quốc và Nga. Tuy nhiên Nga lại nhiều khi đứng giữa.

Tiên tri của chiêm tinh gia Ấn Độ J.M.Lal Mahadjan cho hay rằng trong tương lai không xa, Nga sẽ xích gần lại với Hoa Kỳ tạo liên minh nên Hoa Kỳ sẽ không lo sợ Nga chống đối - Sở dĩ như vậy là nhờ 2 quốc gia này cùng chung ảnh hưởng tác động của hành tinh Mercury (Thủy Tinh).

Về mặt khoa học thì theo kết quả khám phá trong năm 2003 của các nhà thiên văn học thì Thủy tinh Mercury, hành tinh gần mặt trời nhất trong hệ thống Thái Dương của chúng ta đang tiến dần vào vùng giữa mặt trời và quả đất trong tháng 5 Dương lịch của năm 2003.

Sự vận hành này rất hiếm khi xảy ra. Theo nhà tiên tri Ấn thì đây là giai đoạn hi hữu hổ trợ năng lực cho 2 quốc gia Nga và Mỹ liên kết giúp đỡ nhau - Nếu có xảy ra những bất đồng thì đó cũng chỉ là vì một số chính sách ngoại giao quốc tế thông thường mà thôi, nhưng trong bề sâu của quyền lợi 2 nước thì lại khác và họ sẽ hổ trợ nhau nhất là khi nước Nga đang còn yếu kém thua Mỹ về nhiều mặt.

Đối với các nước Âu châu thì năm 2004, thế giới sẽ có một liên minh mới mà một số lớn chư hầu của Nga Sô trước đây như Tiệp khắc, Ba Lan, Hung Gia Lợi, Georgia, Ukraine... đều theo Mỹ nên quân Mỹ trong tương lai gần sẽ trải rộng khắp thế giới hơn cả ngày nay.

Trong khi đó một số nước có vai vế ở Âu Châu như Pháp Đức kéo theo Bỉ và một vài nước khác tạo thành một liên minh quân sự không chịu sự ảnh hưởng của Anh và Mỹ hay nói khác đi là muốn loại Mỹ ra khỏi Âu Châu. ương lai thế giới lại có cơ xảy ra những hục hặc lớn từ các nước mà trước đây là đồng minh với nhau.

#294

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 16/07/2011 - 03:47

KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC GÌ

CHƯƠNG MƯỜI CHÍN

VẤN ÐỀ DẦU HỎA TRÊN THẾ GIỚI

Từ năm 2004 trở đi vấn đề tiêu thụ và tích trữ để dành dầu hỏa trên thế giới lại càng gia tăng khủng khiếp, nhất là Hoa Kỳ và các quốc gia như Nga, Pháp, Đức và cả Trung quốc.

Chỉ xét riêng nước Mỹ không thì mỗi ngày đã phải dùng tới trên một tỷ lít dầu lửa chỉ riêng cho xe cộ chạy mà thôi thì cũng biết là chi phí về dầu lửa lớn như thế nào. Nhưng cũng chính dầu lửa sẽ gây chia rẽ giữa Hoa Kỳ và các nước thuộc khối NATO. Cũng từ vấn đề dầu lửa và Việt Nam được Hoa Kỳ để ý và "ưu ái” không rời.


ÐỨC QUỐC VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA Ở ÐÔNG NAM Á


Đức sẽ là quốc gia hùng mạnh kể từ năm 2009 bỏ xa Pháp, vượt cả Nga để chuẩn bị trở lại thời bá chu của thập niên 39, 40..Về phần Đông Nam á châu thì Nhật Bản sẽ tái võ trang và tiếp tục liên minh với Mỹ.

Từ năm 2004 trở đi tới năm 2008 Nhật Bản trở lại vị thế siêu cường về cả kinh tế lẫn quân sự. Nhật Bản sẽ trở thành lá chắn quan trọng ngăn cản Trung quốc lẫn Bắc Hàn...

Indonesia dần dần hòa nhập với thế giới phương Tây và từ 2004 bắt đã đi vào quỹ đạo của Mỹ. Phi luật Tân trở thành Đồng Minh của Mỹ chặt chẻ còn hơn trước năm 1975.

Mã Lai á chống Mỹ mạnh mẽ nhưng một cuộc đảo chánh làm thay đổi cục diện chính sách. Lào sẽ trở thành tư bản và nhất là Cambodia lại đi với Mỹ rõ ràng nhất. Riêng Việt Nam thì năm 2004 mạnh dạn đổi mới để sau năm 2005 thì chính sách xem như hoàn toàn khác hẳn thời xưa cũ.

Hướng qua đảo quốc Cuba thì nơi đây chính quyền Castro cố sức vượt qua nạn thiếu thốn thực phẩm, nhưng càng ngày đất nước này càng suy sụp, dân chúng đói khổ lầm than nhất là khi Hoa Kỳ gần cuối năm 2003 đẩy mạnh vấn đề trừng phạt kinh tế đối với đất nước bé nhỏ này

Năm 2004, Cuba bắt đầu lung lay! Dân chúng giảm niềm tin rất lớn vào chính quyền. Chủ tịch Fidel Castro sẽ qua đời hay thất sủng từ năm 2006-2007.

Tổng Thống Mỹ George W. Bush rất dễ bị ám sát, nhất là vào năm 2003 là năm mà Tử vi Đông phương cho rằng ông bị sao Thái Bạch tác động và lại gặp hạn Toán tận rất nguy hiểm tính mệnh.

Qua năm 2004 lại gặp nạn Thiên La coi chừng đau bệnh, bị hại ngầm, bị hệ pháp luật, tranh chấp, chống đối, nhưng may mắn có sao Thái Dương chiếu nên nếu tranh cử nhiệm kỳ hai thì dù cho bị đủ thứ diềm pha, trở ngại, khó khăn nhưng chung cuộc trong 10 phần thì thắng 6 đến 7 phần. Tuy nhiên năm nay Âm dễ thắng Dương nên nếu có một nhân vật Nữ ra tranh cử Tổng Thống thì đó là địch thủ đáng gờm nhất đối với ông Bush.

#295

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 16/07/2011 - 03:50

KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC GÌ

CHƯƠNG HAI MƯƠI

ÐỨC GIÁO HOÀNG JOHN PAUL II

Năm 2004 sẽ có thế lực đằng sau muốn thay thế Giáo Hoàng. Nhưng dù đau yếu, ngài vẫn can đảm, kiên trì. Đối với ngài thì còn nhiều việc mà ngài chưa hoàn tất. Năm này (2004) sức khỏe của Đức Giáo Hoàng suy yếu, bệnh ảnh hưởng tới máu huyết nhiều hơn. Trong khi đó thì Sấm ký Nostradamus lại có khổ thơ về ngài như sau:

Ngài được bầu lên làm Giáo Hoàng,

Nhưng có nhiều thế lực ganh ghét Ngài.

Con người Thánh thiện và quả cảm ấy,

Bị chết bất ngờ trong đêm!


VIỆT NAM TỪ NĂM 2004 VÀ NHỮNG NĂM 3 THÁNG ÐỦ LIỀN


Năm 2004 là năm sẽ xảy ra nhiều biến cố về chống đối, phản kháng cũng như trấn áp. Tuy nhiên chính năm này cũng sẽ khởi đầu những thay đổi nhảy vọt, lớn lao về kinh tế, chính trị và quân sự. Về truyền thông sẽ có nhiều thông tin có tính cách tự do không bưng bít, đó là giai đoạn khởi sự cho trào lưu tư tưởng tự do.

Những năm kế tiếp nhất là những năm có ba tháng đủ liền như năm 2007, 2015, 2017, 2020, 2025, 2026, 2028 thì ngay tại Việt Nam sẽ có những sự cố lớn lao liên quan tới thiên tai (bão tố, lụt lội, động đất...), dịch bệnh hay chiến tranh.

Nhưng đồng thời từ năm 2006 tới 2007, Việt Nam sẽ có Thánh nhân (nhân vật tài ba lỗi lạc, hiền lương..) xuất hiện đồng thời khi đó Việt Nam sẽ bang giao kết hợp rộng rãi với nhiều quốc gia trên thế giới và nhất là với các nước Âu Mỹ, phát triển mạnh về giáo dục kinh tế hơn cả Đài Loan Trung quốc, riêng trong năm 2003, 2004 sẽ có sự thay thế nhân sự trong nội bộ Đảng.

Nhiều cải cách sẽ diễn ra nhất là sau chuyến công du nước Mỹ của tướng Phạm văn Trà. Phe bảo thủ ngày càng yếu trong khi phe cải cách, nhìn xa thấy rộng nguy cơ tương lai rất dễ bị khống chế toàn bộ bởi Trung quốc nếu không tìm một cường quốc mạnh để đi dây hay nương tựa.

Nước Mỹ chính là cường quốc số một mà sức mạnh đã được “quảng cáo” rất rõ ràng qua truyền hình trong hai trận chiến với Iraq. Chuyến đi Mỹ của Tướng Trà tuy không quảng bá rầm rộ trên ti vi và báo chí thế giới nhưng lại là chuyến đi quan trọng, chuyến đi của sự bàn thảo sự đối mới, và nhất là để chuẩn bị cho việc hiện đại hóa vũ khí và quân đội, vì sức mạnh quân sự của Trung quốc gia tăng quá mãnh liệt.

Ngay cả những quốc gia trước đây run sợ trước Việt Nam như Mã lai, Phi luật Tân, Tân gia Ba, Thái Lan mà nay quân đội của họ phát triển gia tốc tới độ nếu có đụng độ giữa họ và Việt Nam thì Việt Nam được ví như trứng chọi đá, quả thật là quá nguy hiểm. Chuyến đi của tướng Trà còn khởi đầu cho tiến trình kế tiếp bàn về khai thác dầu và các mỏ quý hiếm tại Việt Nam.

Từ năm 2004, Hoa Kỳ sẽ bắt đầu tính tới vấn đề dầu lửa tại Việt Nam. Các đại công ty dầu khí và các mạch mỏ của Hoa Kỳ cho đến nay vẫn là những công ty đứng đầu thế giới về khả năng khai thác tài nguyên, dầu khí đang nhắm và chờ đợi Hoa Kỳ bật đèn xanh là đổ máy móc chuyên viên vào Việt Nam khai thác dầu khí ở vùng biển Việt Nam.

Vùng biển Côn Sơn và cả ở vịnh Thái Lan, qua các tài liệu về tài nguyên địa chất thế giới thì trữ lượng dầu khí, các mạch mỏ dưới lòng đất vùng biển tại Việt Nam được xem là lớn nhất vùng Đông Nam á châu.

Suốt mấy chục năm qua, sau khi Mỹ rút khỏi Việt Nam, máy móc dụng cụ điện toán siêu đẳng của các vệ tinh Mỹ vẫn không ngừng theo dõi và khám phá đất đai biển cả Việt Nam, do đó những gì nằm khuất lấp dưới các tầng lớp địa tằng dưới núi non của dãy trường sơn đều hiện rõ.

Và ngày nay các chuyên gia Mỹ đã biết chắc những nơi thâm sâu ấy tích chứa vô số các quặng mỏ quý hiếm nên đối với Mỹ, Việt Nam vẫn là nước không thể rời. Còn về phía Việt Nam thì nay đã mở rộng tầm mắt và đã biết rõ là khó có ai khai thác tài nguyên cho mình thành công và có lợi một cách đàng hoàng bằng nước Mỹ cả.


Đoàn Văn Thông



#296

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 18/07/2011 - 20:50

DU HÀNH QUA CÁC VÙNG TÂM THỨC


Bác sĩ Brian L. Weiss tốt nghiệp thạc sĩ Y Khoa tại đại học Yale. Ông đã là bác sĩ nội trú tại Trung Tâm Y Khoa Bellevue của New York University, sau đó trở thành trưởng khoa nội trú của khoa Tâm Thần tại đại học Y Khoa, Yale. Ông đang phụ trách chức vụ chủ tịch danh dự ngành Tâm Thần học tại Trung Tâm Y khoa Mount Sinai ở Miami. Ông đã có nhiều tác phẩm nổi tiếng xuất bản. Ông thường tổ chức nhiều cuộc hội thảo và các chương trình đào tạo chuyên nghiệp khắp nơi trên thế giới. Bác sĩ Brian L. Weiss đang sống cùng gia đình tại Miami, Florida Hoa Kỳ.

Lời Tựa.

Một vị Tăng ở Tây tạng đã nói với tác giả rằng cuộc đời chỉ là một sân khấu. Diễn tại sân khấu này, con người đóng vai một kẻ nghèo khó, nhưng ở một sân khấu khác, người đó lại hóa thân thành vị công tử, có thể là do sự lựa chọn vai diễn của người đó.

Vậy thì để có một vai diễn tốt hơn trên sân khấu, một sự lựa chọn tốt hơn khi ta diễn ở một sân khấu khác, thì bạn phải làm gì? Từng trang trong sách này sẽ đưa ra những vấn đề mà từ đó bạn sẽ tự hiểu nên làm gì để được lựa chọn một vai diễn tốt, hay nói rõ hơn là bạn sẽ chọn cho mình một kiếp sống tốt đẹp hơn, và luôn luôn tìm thấy niềm thanh thản, hạnh phúc trong bất cứ kiếp sống nào trở về sau.

Tác giả cũng đả phân tích những tội lỗi trong kiếp trước sẽ chi phối đến kiếp hiện tại cho đến khi nào chúng ta hiểu ra và hưởng được sự tha thứ. Nếu chúng ta đã tạo nghiệp lành trong quá khứ thì hiện tại chúng ta đang nhận những điều tốt đẹp. Tội lỗi trong kiếp này sẽ bôi đen lên những kiếp sau, vậy thì nếu bây giờ chúng ta tạo phước lành thì kiếp sau chúng ta sẽ tự dẫn dắt mình đến gần với đấng Toàn Năng.

Với cái nhìn có chiều sâu của triết lý tôn giáo, và chiều rộng của cuộc đời, tác giả sẽ cho ta thấy rằng cuộc đời mãi mãi nối tiếp nhau, dù không gian, dù thời gian có đổi thay. Có thay đổi chăng chỉ là hình thức bên ngoài của một con người.

Tuy nhiên tâm tư, tình cảm vẫn của con người đó, vẫn tồn tại theo nhiều kiếp mà người đó đầu thai trở lại. Nếu ta đã biết trước được như vậy thì tại sao ta lại lãng phí thời gian chạy theo những ảo ảnh cuộc đời mà không nhìn vào thực chất cuộc đời là sự bất diệt. Những gì chúng ta làm hôm nay sẽ là phần thưởng hoặc sự trừng phạt của kiếp sau.

Vậy sao ta không cố gắng tạo ra những phần thưởng cho kiếp sau? Nếu biết rõ những việc làm hôm nay sẽ là hình phạt ở kiếp sau, sao ta lại cứ mãi chìm đắm vào những việc làm tội lỗi đó. Là người không ai không bị mắc phải sai lầm, nhưng nếu ta can đảm thẩm định lại mỗi việc ta đã làm đúng sai thế nào, chắc chắn việc làm xấu xa của ta mỗi ngày một giảm bớt, và mỗi ngày ta sẽ cố gắng tạo thêm phần thưởng cho kiếp sau.

Chúng ta không thể nào bù đắp hay chỉnh sửa những gì đã xảy ra trong quá khứ, nhưng với sự nhận thức rõ về sự bất diệt của con người, chúng ta hoàn toàn có khả năng tạo ra những kiếp sống tốt đẹp hơn ở tương lai. Cuộc sống vốn dĩ là những nghịch cảnh, và vì những nghịch cảnh, những cay đắng trong cuộc đời, con người lại càng muốn tìm hiểu nguyên nhân. Chính nơi quyển sách này, bạn đọc sẽ tìm được câu trã lời theo lời kể của bác sĩ Brian L. Weiss.

Một lần nữa, theo cách nhìn của nhà khoa học, và với một tấm lòng đầy trắc ẩn cho kiếp người, ông đã phân tích sâu sắc và trình bày những vấn đề, những câu chuyện mà chính ông đã hướng dẫn bệnh nhân mình tự dấn thân vào những chuyến du hành qua các vùng tâm thức.

Mùa Thu năm 2007, Công Ty Văn Hóa Phát Quang.

Kính Bút.

#297

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 18/07/2011 - 21:03

DU HÀNH QUA CÁC VÙNG TÂM THỨC

Lời dẫn

Gần đây tôi đi đến một nơi mà trước đó hầu như tôi chưa hề đến: Tương Lai.

Hai mươi bốn năm trước đây, khi Catherine còn là bệnh nhân tâm thần của tôi, cô đã gây ra những cơn sốc bởi những tình tiết chính xác mà cô nhớ lại. Những cuộc hành trình của cô trở về những kiếp quá khứ xa xưa vào thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên và giữa thế kỷ thứ hai mươi. Điều đó đã thay đổi cuộc đời tôi mãi mãi.

Đây là một phụ nữ kể lại những kinh nghiệm và những hình ảnh từ những thế kỷ xa xưa mà trong đời sống hiện tại cô chưa hề biết. Và tôi, một chuyên gia về tâm thần học ở Đại Học Yale Columbia, một nhà khoa học, và rất nhiều người đã đánh giá những sự kiện đó là đúng sự thật. Kiến thức khoa học của tôi không thể giải thích được những điều đó. Tôi chỉ biết rằng Catherine đã tường thuật những gì cô nhìn thấy và cảm thấy chính xác.

Ngay khi việc trị liệu cho Catherine tiến triển, cô đã mang về những bài học từ những vị thầy, người hướng dẫn vô hình hoặc là những linh hồn có trí tuệ siêu phàm. Những vị này đã ở chung quanh cô khi hồn cô lìa khỏi xác. Kể từ đó, trí tuệ siêu phàm này đã thấm nhuần vào tư tưởng tôi và chi phối cách cư xử của tôi.

Catherine có thể đi sâu về quá khứ, và với những kinh nghiệm vượt ngoài tầm hiểu biết đó, tôi lắng nghe và tôi có cảm giác thần kỳ, huyền bí, đây là những cảnh giới mà tôi không hề biết chúng đã tồn tại. Tôi hồ hởi, ngạc nhiên và..lo sợ. Người nào có thể tin tôi? Chính tôi tin tôi? Tôi có điên không? Tôi cảm thấy mình như một đứa bé có điều bí mật riêng.

Khi thổ lộ ra điều bí mật này liệu chúng ta có thể thay đổi lại cách nhìn về cuộc đời mãi mãi không? Tuy nhiên tôi có cảm giác không ai có thể chịu lắng nghe. Mãi bốn năm sau, tôi mới thu hết can đảm để viết về những cuộc hành trình của Catherine và tôi trong cuốn Tiền Kiếp và Luân Hồi có thật không?

Tôi lo ngại bị loại ra khỏi cộng đồng tâm thần học, nhưng tôi bắt đầu chắc chắn hơn vì những điều tôi viết đều là sự thật. Sự chắn chắn của tôi được củng cố theo những sự kiện xảy ra trong những năm tiếp nối. Nhiều bệnh nhân và nhà trị liệu đã công nhận sự thật này. Bây giờ tôi đã giúp hơn bốn ngàn bệnh nhân bằng cách đưa họ trở về quá khứ qua thuật thôi miên.

Vì vậy, cảm giác choáng váng về chuyện đầu thai, nếu không nói là sự mê hoặc bởi sự khám phá này, đã biến mất trong tôi. Nhưng bây giờ thì sự choáng váng đã trở lại, và tôi được cung cấp một cuộc sống mới bằng những ngụ ý. Tôi có thể đưa bệnh nhân đi đến tương lai và cùng họ nhìn thấy chúng.

Đã một lần tôi thử đưa Catherine đến tương lai, nhưng cô lại nói đến tương lai của tôi mà không phải của cô. Cô đả nhìn thấy rõ ràng cái chết của tôi. Quả là bối rối để nói rằng: “Khi nhiệm vụ của ông hoàn thành thì cuộc sống của ông sẽ chấm dứt” cô còn nói thêm: “Nhưng trước đó còn rất nhiều thời gian, rất nhiều thời gian”. Rồi cô chìm vào một cấp độ khác và tôi không thể tìm hiểu thêm nữa.

Vài tháng sau đó tôi lại hỏi cô: “Liệu cô và tôi có thể đi đến tương lai một lần nữa không?”. Tôi đã trực tiếp nói chuyện với các vị thầy cũng như nói chuyện với tiềm thức của cô, nhưng các vị thầy trả lời cho cô là chúng tôi không được phép. Có lẽ cô quá sợ hãi khi nhìn vào tương lai. Hoặc có lẽ thời gian không thích hợp. Lúc đó chúng tôi còn trẻ và không thể đương đầu nổi với sự nguy hiểm vô song có thể xảy ra trong tiến trình đi đến tương lai. Nhưng bây giờ tôi có thể xử lý tốt hơn.

Hơn nữa quá trình đi đến tương lai đối với nhà trị liệu thì khó hơn quá trình trở về quá khứ, bởi vì tương lai chưa xảy ra. Nếu bệnh nhân chỉ trải qua ảo tưởng chứ không phải là sự thật thì sao? Làm thế nào mà chúng ta có thể đánh giá được? Chúng ta không thể. Ta biết rằng khi trở về kiếp trước với những sự kiện xảy ra lúc đó, trong nhiều trường hợp, có thể chứng minh được.

Nhưng, ta hãy tin rằng một phụ nữ ở tuổi còn sinh nở đã nhìn thấy thế giới bị tàn phá trong hai mươi năm. Cô nghĩ: “Tôi sẽ không đem một đứa trẻ vào cái thế giới đó.” Cô nói thêm: “Nó sẽ chết quá sớm.” Ai sẽ đảm bảo cảnh tượng cô thấy là thật? Cái phán quyết của cô có lôgic? Cô phải đủ chính chắn để tìm hiểu những gì cô thấy có thể bị xuyên tạc, có thể chỉ là tưởng tượng, chỉ là phép ẩn dụ, chỉ là biểu tượng, hoặc có lẽ, một tương lai thật sự là tổng hợp của tất cả các biểu hiện trên. Và điều gì sẽ xảy ra, nếu một người nhìn thấy trước cái chết của mình do say rượu khi lái xe?

Anh ta có sợ hãi không? Anh ta sẽ không dám lái xe nữa? Cảnh tượng đó khiến chúng ta lo sợ? Tôi tự nhủ: “Đừng, đừng đi đến đó.” Tôi trở nên lo lắng đến việc tự thực hiện lời tiên đoán rồi đến một con người bị rối trí. Sự rủi ro trong hành động dựa trên ảo tưởng là quá cao. Hơn hai mươi bốn năm kể từ khi Catherine còn là bệnh nhân của tôi, đã có vài người tự ý đi đến tương lai, thường là đến cuối buổi trị liệu. Tôi cảm thấy tự tin khả năng thấu hiểu của họ về những gì họ đang chứng kiến có thể chỉ là một ảo giác, tôi đã khuyến khích họ tiếp tục.

Có thể tôi sẽ nói: “Điều này liên quan đến sự phát triển và kinh nghiệm sẽ giúp bạn ngay lập tức tạo ra một quyết định khôn ngoan và có lợi. Nhưng chúng ta sẽ tránh mọi ức niệm (vâng, ức niệm về tương lai!), cảnh tưởng, hoặc nhửng gì liên quan đến cảnh chết chóc hay là bệnh tật. Vấn đề này chỉ để học hỏi.”

Và tâm trí họ sẽ nghĩ như vậy. Việc chữa trị này có một giá trị thật đáng kể. Tôi cho rằng những người này đã có những quyết định và sự lựa chọn khôn ngoan. Họ có thể nhìn thấy tương lai gần nơi ngã ba đường và nói: “Nếu tôi chọn con đường này thì điều gì sẽ xảy ra? Có chắc là nó sẽ tốt hơn khi chọn con đường khác?”. Và rồi một lúc nào đó tương lai mà họ đã nhìn thấy sẽ xuất hiện. Nhiều người miêu tả cho tôi nghe những sự kiện mà họ biết trước khi nó xãy ra. Những nhà nghiên cứu viết về những giây phút gần kề cái chết; đó là khái niệm của thời đại trước khi Kinh Thánh xuất hiện. Tôi nhớ đến Cassandra, cô có thể nói chính xác về tương lai dù cô chưa bao giờ tin vào điều đó.

Một bệnh nhân của tôi đã có kinh nghiệm giải thích về năng lực và cả những hiểm họa của việc biết trước. Bà bắt đầu có những giấc mơ về tương lai, và thường thì những giấc mơ đó đều xảy ra. Giấc mơ về đứa con trai bà sẽ bị một tai nạn xe hơi khủng khiếp đã thúc giục bà tìm đến tôi. Bà nói: “Đó là sự thật”. Bà đã nhìn thấy điều đó rõ ràng và đau đớn vì con trai bà sẽ chết như vậy. Tuy nhiên trong mơ bà nhìn thấy tóc người đàn ông đã bạc, trong khi con trai bà là một thanh niên 25 tuổi và có mái tóc màu đen.

Tôi nói: “Hãy nghĩ xem”, cảm giác của tôi bổng nhiên bị thôi thúc, tôi nghĩ đến Catherine và chắc chắn rằng lời khuyên của tôi là đúng, “Tôi biết có nhiều giấc mơ của bà sẽ xảy đến, nhưng không chắc là giấc mơ này sẽ là sự thật. Còn nhiều linh hồn, bà có thể nghĩ đó là thiên thần, hay hộ mạng, hoặc là bậc thánh, tất cả họ đều có một sức mạnh và nhận thức phi phàm hiện hữu chung quanh chúng ta. Và họ có thể ngăn chặn không cho điều đó xãy đến với bà. Thuật ngữ tôn giáo gọi đó là ân huệ một sự can thiệp huyền diệu của thần thánh. Thắp đèn cầu nguyện hãy làm bất cứ điều gì mà bà có thể, theo cách của bà."

Bà làm đúng theo lời tôi, bà cầu nguyện, thiền định, van vái và mặc niệm. Mặc dù vậy tai nạn vẫn xảy ra. Nhưng đó không phải là một tai nạn chí tử. Không có gì quá đáng để bà phải hoảng sợ. Thật ra con trai bà bị thương ở đầu nhưng không nghiêm trọng lắm. Dù sao đó củng là một sự kiện đau buồn của anh ta. Khi bác sĩ tháo băng, họ nhìn thấy tóc của anh ta đã bị bạc trắng. Mãi cho đến cách đây vài tháng trong những trường hợp hiếm hoi khi tôi đưa bệnh nhân đi đến đời sống của riêng họ, và tôi chỉ cho tiến triển khi tôi biết rằng tâm lý bệnh nhân đã đủ sức điều khiển được chúng, thường thì tôi không chắc là họ quan tâm đến ý nghĩa của những cảnh tượng mà họ đem về.

Tuy nhiên, vào mùa xuân rồi trên một chuyến du lịch, tôi đã đưa ra hàng loạt các bài thuyết giảng. Trong những buổi nhóm họp như vậy tôi thường thôi miên tất cả các khán thính giả, rồi đưa họ về với kiếp trước và quay lại kiếp này. Vài người trở lại kịp lúc, vài người ngủ quên, nhiều người khác thì vẫn trong trạng thái bình thường, họ không bị thôi miên. Lúc đó Walter, một thính giả giàu có, một thiên tài trong việc kinh doanh phần mềm, đã đi đến kiếp sau. Và anh ta không trở về kiếp hiện tại mà nhảy bổ vào một thiên niên kỷ tới!

Anh ta đi xuyên qua cách đám mây đen rồi tìm thấy mình trong một thế giới khác. Những vùng cấm địa nào đó giống như Trung Đông hay Bắc Phi, gọi là cấm địa có lẽ vì sự hư hoại do chất phóng xạ, có lẽ vì bệnh dịch. Nhưng phần khác của thế giới quả thật rất đẹp. Hầu như rất ít người sống ở đó, vì thảm họa nguyên tử hoặc bệnh dịch hoặc bị giảm tỷ lệ sinh sản.

Anh ta vẫn còn tại vùng quê, vì vậy không thể kể về những thành phố. Nhưng dân quê rất vui vẻ, hạnh phúc, thậm chí rất sung sướng. Anh cho rằng không có từ nào để diễn tả đúng trạng thái của họ. Dù bất cứ điều gì làm cho dân số giảm đi hay xảy ra trước đó rất lâu, anh vẫn thấy khung cảnh thật thú vị. Anh không rõ về mốc thời gian, nhưng anh chắc chắn rằng đó là khoảng thời gian của ngàn năm sau.

Sự trải nghiệm làm anh xúc động. Sự giàu có của anh quá đủ để anh mơ tưởng tới sự thay đổi thế giới, nhưng bây giờ anh nhận ra rằng không ai có thể làm được việc đó. Anh nói rằng có quá nhiều nhà chính trị không sẵn sàng tiếp nhận khái niệm về việc từ thiện hoặc có trách nhiệm với thế giới.

Ý định để làm thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn là một vấn đề, riêng anh, anh có thể làm được cùng với những việc làm từ thiện. Khi anh trở về kiếp sống hiện tại, anh cảm thấy hơi buồn. Có thể vì anh không còn ở trong một kiếp sống tương lai đầy thú vị. Hoặc có lẽ anh đau buồn vì nghiệp báo sẽ đến trong kiếp sau. Hầu hết chúng ta ai cũng cảm thấy như vậy nếu biết những điều không thể tránh khỏi sẽ xảy ra.

Khi anh thức tỉnh, anh đã miêu tả lại những cảnh tượng sinh động có sức tác động mạnh mẽ, những cảm giác và những cảm nghĩ anh đã trải qua. Đây là lý do mà tôi không nghĩ là hình ảnh tưởng tượng. Tuy vậy sự kích động của anh không ảnh hưởng tôi, vì cuối cùng tôi thấy chỉ là một hàm ý. Tôi đã có kinh nghiệm rằng: thời quá khứ, hiện tại và tương lai là một. Những gì sẽ xảy đến trong tương lai là do ảnh hưởng của hiện tại, cũng như những việc ở quá khứ ảnh hưởng đến hiện tại.

Đêm đó tôi đã viết: “Ta có thể đi đến kiếp sau nếu ta khôn ngoan. Kiếp sau, gần hay xa, là do sự dẫn dắt của ta. Kiếp sau là sự phản hồi của kiếp này, ảnh hưởng chúng ta đến sự lựa chọn và quyết định tốt hơn. Ta có thể thay đổi việc làm của ta bây giờ dựa vào những phản hồi từ kiếp sau. Và điều đó thay đổi những kiếp sau theo hướng tích cực hơn." Thật là có ý nghĩa! Vì chúng ta đã không giới hạn được những kiếp trước nên chúng ta sẽ giới hạn những kiếp sau. Hãy dùng sự hiểu biết để thấy những gì đã đi qua và những gì sẽ đến, rồi ta có thể tạo ra được một tương lai cho thế giới và cho cả chúng ta.

Điều này phù hợp với khái niệm xa xưa của nghiệp báo: “Gieo gì gặt nấy, gieo gió gặt bão”. Nếu bạn gieo những hạt giống tốt, cây trái sẽ tốt tươi, và nếu bạn làm việc thiện, bạn sẽ được hưởng những điều tốt đẹp ở tương lai. Từ đó, tôi đã tiến hành cho nhiều người khác nữa. Vài người đi đến đời sống riêng của họ, vài người đi đến một tương lai toàn cầu. Khoa học viễn tưởng, hay trí tưởng tượng, hay thực hiện một điều mơ ước, hay trí tưởng tượng, tất cả những điều này có thể giải thích những gì mà họ đã thấy, và như vậy, khả năng chắc chắn là họ đã ở đó.

Có lẽ bài học cuối cùng mà tôi rút ra được từ kiếp sống hiện tại là điều mà kiếp sau nắm giữ và làm thế nào để tất cả chúng ta có thể ảnh hưởng đến nó. Ít nhiều gì thì bây giờ tôi cũng hiểu được rằng sự nhận thức sẽ ảnh hưởng cho những kiếp luân hồi của tôi và bạn trên chặng đường du hành của chúng ta đến sự bất diệt. Tương lai là sự tái sinh của quá khứ. Hầu hết các bệnh nhân của tôi đều đi ngược về quá khứ trước khi hành trình đến tương lai. Lộ trình này mở đường cho sự hiểu biết được tăng trưởng và cho phép chúng có sự lựa chọn khôn ngoan ngay kiếp hiện tại.

Tương lai mà chúng ta sẽ hiện diện đó thì rất linh động và là khái niệm sẽ được nói đến trong cuốn sách này. Từ tâm, đồng cảm, rất bạo động, kiên nhẫn và tâm linh là một bài học cuộc sống mà tất cả chúng ta đều cần phải học hỏi. Xuyên qua những ví dụ của vài bệnh nhân hết sức khác thường, cuốn sách này sẽ cho bạn thấy tại sao bài học đó lại quan trọng, và tôi sẽ đưa ra vài bài tập đơn giản để hướng dẫn bạn làm thế nào để đạt lấy những điều đó ngay kiếp sống hiện tại.

Vài người có thể thật sự đã trãi nghiệm chuyện quá khứ, nhưng không nên thất vọng nếu chúng không xảy ra. Nếu bạn thấu triệt được bài học, thì kiếp này hoặc những kiếp luân hồi sau, bạn sẽ được hạnh phúc hơn, bình yên hơn, giàu có và sung sướng hơn. Cái gì sẽ được nhiều hơn nữa nếu chúng ta thấu hiểu bài học đó. Ngay chính kiếp sau sẽ tích lũy nhiều điều tốt đẹp hơn cho chúng ta. Dù biết hay không, chúng ta cũng đang cố gắng để đạt được mục đích tối thượng: Đó là tình thương yêu.

#298

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 18/07/2011 - 21:29

DU HÀNH QUA CÁC VÙNG TÂM THỨC

Chương Một

Sự bất diệt. Mỗi người chúng ta đều bất diệt.

Tôi không giải thích đơn giản rằng con cái chúng ta thừa hưởng "gene" di truyền, niềm tin, kiểu cách hoặc lối sống của chúng ta. Tôi củng không cho rằng việc hoàn thành các tác phẩm, tạo mốt, tư tưởng cách mạng, phương pháp làm bánh bằng trái cây việt quất..theo đuổi chúng ta. Điều mà tôi muốn nói là hầu hết những phần quan trọng của chúng ta như là linh hồn sẽ tồn tại vĩnh viễn. Sigmund Freud đã miêu tả tâm trí có chức năng ở nhiều cấp độ khác nhau. Trong đó ông gọi là tiềm thức, điều này chúng ta không nhận thức được bằng định nghĩa. Nhưng nó chứa đựng tất cả những kinh nghiệm mà ta có, và đưa đến những hành động mà chúng ta làm, những tư tưởng mà chúng ta nghĩ, những giải đáp, những cảm giác mà chúng ta trải qua.

Chỉ bằng cách đi vào tiềm thức như ông đã nhìn thấy, chúng ta mới có thể biết được ta là ai, và với sự hiểu biết đó chúng ta mới có thể chữa trị được. Vài người đã viết về điều đó: Linh hồn là tiềm thức của Freud. Công việc của tôi là đưa con người trở về kiếp trước, rồi sau này thì đưa họ đến kiếp sau, để họ có thể tự chữa trị dễ dàng hơn. Điều này cho tôi thấy cách hoạt động của một linh hồn bất diệt.

Tôi tin rằng mỗi chúng ta đều sở hữu một linh hồn. Linh hồn đó vẫn tồn tại dù chúng ta đã chết đi. Nó sẽ trở lại nhiều lần trong nhiều thân thể khác nhau với một nỗ lực tiến bộ để đạt đến trình độ cao hơn. Một câu hỏi vẫn thường xuyên xuất hiện: “Những linh hồn này từ đâu tới? Bởi vì bây giờ thế giới có quá nhiều người hơn khi nó mới bắt đầu.” Tôi đặt câu hỏi này với nhiều bệnh nhân, và câu trả lời thì luôn luôn là giống nhau: Đây không phải là nơi duy nhất có nhiều linh hồn. Còn nhiều cảnh giới, nhiều cấp độ khác nhau cho linh hồn tồn tại. Tại sao chúng ta lại nghĩ rằng đây là nơi duy nhất? Không có một giới hạn nào cho năng lực.

Điều này là một trường phái trong nhiều trường phái. Ngoài ra, một vài bệnh nhân đã kể với tôi rằng linh hồn có thể rời bỏ và có nhiều kinh nghiệm cùng một lúc. Không có một chứng cứ thực nghiệm nào cho điều này; linh hồn thì không có DNA, ít ra không phải cái loại vật lý được miêu tả bởi hai nhà khoa học đoạt giải Nobel là James Watson và Francis Crick. Chứng cứ mang tính giai thoại thì tràn ngập, nhưng với tôi đó là bằng chứng không thể bác bỏ được. Tôi đã từng thấy nó hầu như mỗi ngày khi Catherine dẫn tôi trở về nhiều kiếp trước khác nhau của cô, như Ả Rập vào năm 1863 trước công nguyên hoặc Tây Ban Nha vào năm 1756 sau Công Nguyên.

Trong những cuốn sách xuất bản trước đây tôi đã viết về nhiều bệnh nhân. Linh hồn của họ hành trình về kiếp trước, rồi đưa một phần bất diệt của họ đến kiếp hiện tại. Trong số đó nhiều người có thể nói chuyện bằng ngoại ngữ, khi họ trở về kiếp trước mặc dù họ chưa hề học loại ngôn ngữ đó trong đời sống hiện tại. Một hiện tượng gọi là Xenoglossy và một chứng cứ đáng giá cho những điều mà họ kể lại là đúng sự thật. Khi họ nhớ lại chính bản thân họ trong nhiều kiếp khác nhau, sự chấn động đã đưa họ đến gặp tôi, để được giảm cơn đau và được chữa khỏi bệnh. Đó là một trong những mục đích chính của các linh hồn: được tiến bộ với việc điều trị.

Nếu điều này chỉ có mình tôi chứng kiến thì bạn có thể đúng khi cho rằng tôi đang tưởng tượng hoặc đang mất trí. Nhưng những người theo đạo Phật và đạo Hindu thì sao? Họ đã gom góp nhiều chuyện kiếp trước cả ngàn năm. Trong kinh Tân Ước đã viết nhiều câu chuyện đầu thai, đến thời đại của Constantine, người La Mã đã lược bỏ những câu chuyện đó. Bản thân Chúa Jesus cũng tin vào điều này. Ông đã hỏi các Thánh có nhận ra Thánh John Baptist là Thánh Elijah đầu thai trở lại không. Elijah sống trước John 900 năm. Đó là giáo lý căn bản trong thuyết huyền nhiệm của người Do Thái. Trước đầu thế kỷ 19, nhiều tông phái xem đó là triết lý chuẩn.

Hàng trăm nhà trị liệu khác đã thâu thập được hàng ngàn giai đoạn kiếp trước, và những trải nghiệm này của bệnh nhân đã được kiểm tra. Bản thân tôi cũng xem xét những sự kiện và những tình tiết cụ thể đã được ghi chép lại về hồi ức trong kiếp trước của Catherine và những bệnh nhân khác. Nhưng sự kiện và tình tiết này không thể gán cho là ký ức sai lệch hay trí tưởng tượng. Tôi không còn nghi ngờ về sự đầu thai nữa. Vì đó là chuyện có thật. Linh hồn của chúng ta đang sống và sẽ sống trong nhiều kiếp nữa. Đó là sự bất diệt của chúng ta.

Ngay khi ta vừa chết cái phần hồn của ta sẽ nhận thức được khi nào nó sẽ lìa khỏi xác, chỉ một thoáng ngừng nghỉ rồi nó sẽ bay đi. Trong tình trạng đó, nó có thể phân biệt được màu sắc, nghe được tiếng nói, nhận ra các sự vật và nhớ lại cuộc đời mà nó vừa rời bỏ. Hiện tượng này gọi là sự xuất hồn. Điều này đã được Elisabeth Kubler Ross và Raymond Moody chứng minh rất tuyệt vời bằng tài liệu cả hàng ngàn lần. Chúng ta ai cũng trả qua khi chết. Nhưng chỉ có vài người sống lại kể về sự kiện này.

Một bác sĩ chuyên khoa tim mạch ở Trung Tâm Y Khoa Mount Sinai tại Miami đã kể cho tôi nghe câu chuyện về bệnh nhân của ông. Ông là một nhà khoa học chỉ tin vào những gì có tính học thuật và có căn cứ. Một bệnh nhân đã lớn tuổi bị bệnh tháo đường được đưa vào viện để xét nghiệm. Trong khoảng thời gian nằm viện, có lần tim bà ngừng đập và bà bị hôn mê. Các bác sĩ không còn hy vọng. Tuy nhiên, họ vẫn làm hô hấp và gọi bác sĩ tim mạch đến. Ông vội vã lao vào phòng cấp cứu và vì vậy ông làm rớt cây bút đặc biệt bằng vàng, nó lăn khắp phòng rồi nằm dưới cửa sổ. Trong khoảng thời gian rất ngắn của quá trình hồi sức, ông đã tìm lại được cây viết.

Sau đó bà kể lại rằng trong lúc các bác sĩ đang làm hồi sức, hồn bà đã xuất ra, và từ trong một điểm trên xe đẩy gần cửa sổ, bà quan sát toàn bộ hoạt động. Bà quan sát hết sức chú tâm bởi vì các bác sĩ đang cố giúp bà. Bà ao ước được nói với họ, bảo đảm với họ rằng bà sẽ ổn thôi và họ không cần phải quá cực nhọc như vậy. Nhưng bà biết sẽ chẳng ai có thể nghe được bà nói. Khi bà cố gắng nắm vai của bác sĩ tim mạch để nói với ông là bà khỏe, nhưng ông hề có cảm giác gì khi tay bà chạm vào ông.

Bà đã nhìn thấy mọi diễn biến hô hấp trên thân thể bà và nghe rõ từng lời nói của các bác sĩ. Nhưng bà rất thất vọng vì không ai nghe được tiếng nói của bà. Sự nỗ lực cúa các bác sĩ rồi cũng thành công. Người phụ nữ đã sống lại. Bà nói với bác sĩ tim mạch:

- Tôi đã quan sát cả quá trình.

Ông lặng đi vì kinh ngạc:

- Bà không thể. Bà đã bất tỉnh. Bà đã hôn mê.

Bà nói:

- Cây bút của ông đã bị rớt. Nó rất đẹp và có lẽ rất đáng giá.

- Bà nhìn thấy?

- Tôi chỉ nói với ông là tôi đã nhìn thấy tất cả.

Bà nói và tiếp tục diễn tả cây bút, quần áo mà bác sĩ và y tá đã mặc. Sự tiếp nối của những người đi ra đi vào phòng cấp cứu. Và những việc làm mà chỉ có những người có mặt ở đó mới biết thôi. Vài ngày sau đó khi ông kể cho tôi nghe ông vẫn còn sửng sốt. Ông xác nhận những gì xảy ra mà người phụ nữ đó miêu tả đều đúng cả. Dù không bất tỉnh đi nữa thì bà cũng đả bị mù 5 năm rồi! Như vậy là linh hồn bà vẫn còn sáng suốt, vẫn trông thấy tất cả.

Từ đó, ông vẫn thường kể cho tôi nghe về các bệnh nhân sắp chết, họ thấy những người thân của họ đã chết từ lâu đang đứng chờ đưa họ đi theo. Có những bệnh nhân không được điều trị bằng thuốc vì họ vẫn còn tỉnh táo. Một người đã tả lại cảnh mà bà nội của anh vẫn kiên nhẩn ngồi trên ghế của bệnh viện để chờ anh đi theo. Người khác thì có con đã chết lúc còn nhỏ vào thăm. Bác sĩ tim mạch đó vẫn chú ý đến trong số bệnh nhân của ông, họ rất bình tĩnh và thản nhiên trước cái chết. Ông đã có kinh nghiệm để nói với họ:

- Tôi rất quan tâm đến những gì mà bạn cảm thấy và trải qua. Điều đó có lạ lùng hay bất bình thường thế nào đi chăng nữa cũng không sao, bạn không hề tổn thương khi kể với tôi về điều đó.

Lúc đó họ không còn sợ về cái chết nữa. Thường thì những bệnh nhân hồi tỉnh, hay kể về ánh sáng màu vàng mà họ nhìn thấy ở một khoảng cách xa cuối đường hầm. Andrea, một phóng viên của mạng lưới truyền hình quan trọng, cho phép tôi đưa cô trở về quá khứ, để chứng minh và tả lại đời sống của cô vào thế kỷ 19, là một phụ nữa nông thôn ở Great Plains. Vào giây phút cuối đời, hồn cô lìa khỏi xác và từ một khoảng xa cô ngắm nhìn cái xác. Rồi cô cảm thấy bị kéo vào một ánh sáng, trong trường hợp của cô thì ánh sáng đó màu xanh.

Khoảng cách bắt đầu xa hơn cái xác, rồi đi đến một đời sống mới nào đó không rõ ràng. Đây là một kinh nghiệm gần kề cái chết hầu như điển hình và phổ biến. Ngoại trừ Andrea đã diễn tả về sự trải nghiệm của bản thân trong kiếp trước, cách đây hàng trăm năm. Linh hồn đó đi về đâu khi lìa khỏi thể xác? Tôi không biết chắc; có lẽ không có từ ngữ để gọi. Tôi gọi đó là cảnh giới khác, một cấp độ cao hơn hoặc một tình trạng cao hơn của sự nhận thức. Linh hồn đó rõ ràng vẫn tồn tại ngoài cái thân thể vật chất.

Nó không chỉ tạo ra mối quan hệ với những đời sống khác của con người mà nó vừa rời bỏ mà còn với tất cả các linh hồn khác. Một cách vật lý, chúng ta chết đi, nhưng phần hồn chúng ta không thể bị hủy diệt mà còn bất diệt. Linh hồn thì vô tận, không hề bị ảnh hưởng bởi thời gian. Về cơ bản thì có lẽ có một linh hồn, một sinh lực, nhiều người gọi đó là đấng tối cao, người khác gọi đó là tình thương. Cái tên không có gì quan trọng.

Tôi nhìn linh hồn như thân thể của sinh lực hòa lẫn với năng lực vũ trụ, rồi một lần nữa tách rời, khi nó đầu thai vào một kiếp sống mới nó trở lại nguyên vẹn như cũ. Trước khi nó hòa hợp với đời sống mới, nó nhìn xuống thân xác mà nó vừa lìa bỏ và kiểm soát lại quãng đời nó vừa chia tay. Quãng đời này được đảm trách bởi lòng từ và yêu thương. Đó không dành cho hình phạt mà dành cho sự học hỏi. Linh hồn bạn ghi nhận những kinh nghiệm riêng. Nó cảm nhận được sự cảm kích và lòng biết ơn của bất cứ một người nào mà bạn đã giúp đỡ hoặc bạn yêu thương theo cách cao hơn vì nó đã rời bỏ thân xác.

Cũng giống như vậy, nó cảm nhận nỗi đau, sự giận dữ, niềm tuyệt vọng của mỗi người mà bạn làm tổn thương hay phụ bạc. Trong cách này linh hồn học hỏi để không gây ra những điều tổn hại, mà chỉ để yêu thương. Ngay khi ôn lại quãng đời đã qua, linh hồn dường như càng lúc càng xa thể xác hơn, thường thì nó tìm kiếm một ánh sáng tuyệt đẹp như cha ông của Andrea đã làm, mặc dù có thể điều này không xãy ra ngay lập tức. Không sao cả, ánh sáng vẫn luôn ở đó.

Thỉnh thoảng, có nhiều linh hồn ở chung quanh bạn, bạn có thể gọi đó là bậc thầy hoặc người hướng dẫn, những người này rất khôn ngoan và sẽ giúp linh hồn bạn trong kiếp luân hồi khác. Ở mức độ mà linh hồn bạn hòa hợp với ánh sáng, nó vẫn giữ lại sự nhận thức để nó có thể tiếp tục tìm hiểu, học hỏi ở một phương diện khác. Đó là sự hòa hợp cùng lúc với ánh sáng kỳ diệu hơn (ở cuối chặng đường bất diệt, sự hòa hợp sẽ hoàn thành). Sự nhận thức vẫn tồn tại riêng lẻ, vẫn có những bài học trên trái đất và ở một thế giới khác, với cảm giác vui sướng thỏa mãn không thể kể xiết.

Dần dần thời gian làm thay đổi, linh hồn có quyết định đầu thai trở lại trong một thể xác khác, cảm giác hòa hợp tan biến. Nhiều người tin rằng có một nỗi buồn sâu sắc lúc chia tay với niềm hân hoan này: Niềm vui sướng trong sự hòa lẫn giữa năng lực và ánh sáng. Và điều đó có lẽ là như vậy. Ngay kiếp hiện tại trên trái đất này, chúng ta là những cá nhân riêng lẻ, nhưng cá nhân hóa là một đặc tính ảo tưởng trên bình diện này, khía cạnh này, hành tinh này. Vâng, chúng ta tồn tại như vật chất hiện hữu giống như một cái ghế mà chúng ta đang ngồi đọc sách.

Nhưng các nhà khoa học biết cái ghế chỉ là những nguyên tố, những phân tử và năng lượng; nó là cái ghế và nó là năng lượng. Chúng ta là con người, bị giới hạn, và chúng ta bất diệt. Tôi cho rằng ở một mức độ cao nhất, những linh hồn sẽ nối kết với nhau. Đó là những ảo giác hoặc là chứng hoang tưởng cho rằng ta là cá nhân riêng lẻ, độc đáo. Ngay lúc đầu đó được nói đến ở đây, thì chúng ta đã nối kết với từng linh hồn khác; như vậy trong một phạm vi khác nhau, chúng ta là một.

Trên thế giới này, về mặt vật chất, thể xác chúng ta có tỷ trọng nặng nề; đau đớn vì bệnh tật. Nhưng ở cảnh giới cao hơn, tôi cho là bệnh tật không tồn tại. Vẫn ở cảnh giới cao đó vật chất không hiện hữu, chỉ duy nhất tâm thức hiện hữu. Ngoài cảnh giới đó chúng ta không thể nhận biết được linh hồn đang ở cõi nào, thậm chí cả thời gian không tồn tại. Điều này có nghĩa rằng kiếp trước, kiếp hiện tại và kiếp tương lai có thể xãy ra cùng một lúc.

Tôi là một bác sĩ nội khoa và là một chuyên gia về tâm thần học. Chửa bệnh là niềm đam mê của cuộc đời tôi. Tôi tin rằng mỗi chúng ta đều bị thôi thúc theo bản năng hướng đến việc điều trị bằng tâm linh và phát triển tâm linh, hướng đến niềm cảm thông và từ ái, hướng đến sự tiến hóa. Tôi tin rằng, về mặt tâm linh chúng ta sẽ tiến tới không thụt lùi. Sự vô ý thức (không phải là tiềm thức) đã xây dựng trong đó một cơ chế, đưa nó theo con đường tích cực của sự tiến hóa về tâm linh. Nói một cách khác, linh hồn luôn luôn tiến đến sự lành mạnh.

Ở mức độ cao hơn, thời gian được đo đếm trong những bài đã học, dù trên trái đất này đã nó đã được sắp xếp theo thứ tự. Chúng ta sống trong và ngoài thời gian. Kiếp sống quá khứ và tương lai hội tụ ngay ở kiếp sống hiện tại, nếu bây giờ chúng ta có thể xui khiến ta hướng đến việc chữa lành bệnh, để kiếp này chúng ta sống lành mạnh hơn và thỏa mãn về mặt tâm linh hơn, chúng ta sẽ tiếp tục phát triển. Vòng luân hồi vẫn tiếp tục. vẫn cố gắng giúp chúng ta cải thiện những kiếp tương lai tốt đẹp hơn, ngay lúc chúng ta vừa rời khỏi cuộc sống này. Tôi cho rằng nhiều người trong chúng ta, đã phí thời gian băn khoăn về một mức độ cao hơn, của sự hiểu biết là gì.

Vấn đề này rất hấp dẫn để suy gẫm. Nhưng mục đích của chúng ta bây giờ là chữa cho riêng bản thân khỏi bệnh, vì chúng ta đang sống trong một thế giới vật chất. Tôi đã thấy nhiều người, đặc biệt là những người theo tư tưởng mới, không có một chút hiểu biết căn bản nào về cuộc sống, ngay khi đang sống trong thế giới này. Phát triển lãnh vực niệm trì và thiền định là rất quan trọng, tuy nhiên những người dành cả cuộc đời sống ẩn dật nên hiểu rằng, chúng ta là một loại xã hội, và những người không từng trải qua những thú vui vật chất và cảm giác, thì họ không thể học hết được bài học mà cuộc đời này đã dạy.

Như tôi đã kể, mãi đến gần đây tôi mới đưa bệnh nhân trở về quá khứ, để họ nhìn thấy và hiểu được kiếp trước của họ. Bây giờ thì tôi bắt đầu đưa họ đến tương lai. Tuy nhiên, dù chúng ta chỉ nghiên cứu kiếp sống trước, chúng ta cũng có thể nhìn thấy chúng ta, đã được tiến hóa như thế nào vào những kiếp sống đó. Mỗi kiếp sống là một bài học kinh nghiệm cho chúng ta. Nếu chúng ta đạt được trí tuệ của kiếp sống trước, rồi thông qua ý thức thiện nguyện, sự thiện nguyện của linh hồn, chúng ta có thể làm ảnh hưởng đến kiếp sống hiện tại.

Linh hồn ta lựa chọn cha mẹ để thúc đẩy tiếp tục quá trình bài học, mà chúng ta có thể tiến hành việc chữa bệnh. Những gì chúng ta chọn để làm cho kiếp sống này đều có cùng một lý do. Chúng ta không chọn cha mẹ thô lỗ vì không ai muốn bị sỉ nhục. Tuy nhiên nhiều cha mẹ trở thành kẻ thô lỗ (đó là tự ý họ) và trong một kiếp sau, hoặc có lẽ trong kiếp này, họ sẽ học bài học về lòng từ ái, và từ bỏ hành động xấu xa đó.

Tôi đã đầu thai làm con của Alvin và Dorothy Weiss, và trở thành bác sĩ tâm thần. Vào kiếp trước tôi là một chiến sĩ, trong phong trào kháng chiến bí mật của Cộng Hòa Séc, bị giết vào năm 1942 hay 1943 gì đó. Có lẽ cái chết của tôi đã đưa tôi đến việc nghiên cứu sự bất diệt trong kiếp này. Có lẽ niềm ao ước được học và dạy đã bị hoãn lại, vì ở một kiếp trước nữa tôi là một thầy dòng của thành phố Babylon xa xưa. Dù cho bất cứ điều gì đi nữa, tôi đã lựa chọn đầu thai thành Brian Weiss, vì vậy, tôi có thể sử dụng tối đa sự học vấn của riêng tôi và chia sẻ nó với người khác bằng cách trở thành bác sĩ.

Tôi đã chọn cha mẹ cho tôi, bởi vì người đã tạo mọi điều kiện thuận tiện cho tôi ăn học. Cha tôi thay đổi học thuật và muốn tôi trở thành bác sĩ. Ông cũng rất thích tôn giáo và dạy tôi về đạo Do Thái, nhưng ông không bắt buộc. Do đó tôi đã trở thành giáo sĩ thế tục, một bác sĩ tâm thần. Mẹ tôi rất đáng yêu và không có tính xét nét. Bà tạo cho tôi cảm giác yên ổn, nên sau này tôi đã dám đánh liều sự nghiệp và bảo hiểm tài chính để xuất bản cuốn Tiền kiếp và Luân Hồi, có thật không? Cha mẹ tôi không hề có tư duy về xúc cảm của tư tưởng mới và họ không tin về luân hồi.

Có vẻ như tôi chọn họ vì họ đã bảo trợ và cho tôi tự do, để tôi tiếp tục con đường đời mà tôi đã lựa chọn cuối cùng. Tôi tự hỏi đã có ai dính líu với tôi trong quyết định đó? Những thần linh, người dẫn đường, thiên thần, có phải tất cả họ là phần của linh hồn? Tôi không biết. Sự thật là linh hồn nào đó đã chọn đầu thai thành Saddam Hussein, linh hồn khác thì thành Osama bin Laden. Tôi tin rằng họ đầu thai trở lại để sử dụng cơ hội học hỏi của họ, cũng như bạn và tôi.

Họ không muốn đầu thai lại để gây hại hay bạo động, đặt bom giết người hay trở thành tên khủng bố. Họ quay lại để kháng cự sự thôi thúc đó, có lẽ vì họ nhượng bộ nó trong nhiều kiếp trước. Họ trở lại cho một loại thực nghiệp trong môi trường chúng ta đang sống, nhưng họ đã thất bại thảm thương. Dĩ nhiên tất cả điều này chỉ là suy đoán. Nhưng tôi tin rằng linh hồn họ trở lại nơi cư trú, nơi họ trong một nổ lực tìm kiếm các giải pháp bạo lực, thành kiến và hận thù.(Linh hồn của cha mẹ thô lỗ quay lại cùng một lý do.) Họ tích lũy tiền bạc và quyền lực rồi đối mặt với sự lựa chọn giữa bạo động và lòng từ, định kiến và giáo dục, hận thù và yêu thương.

Vào lúc này chúng ta đã biết sự lựa chọn của họ. Họ phải trở lại lần nữa, để đối diện với kết quả cúa nghiệp báo mà họ đã tạo ra, một lần nữa, họ đối diện với sự lựa chọn cho đến khi họ có thể bước lên phía trước. Nhiều sinh viên hỏi tôi tại sao có người lại chọn đầu thai vào sống ở khu nhà ổ chuột tại Bogotá hay Harlen. Tôi đã từng gặp một vị tu sĩ Phật giáo, tùy tùng của Đức Dalai Lama, ông đã cười nhạo câu hỏi này. Với họ, cuộc đời chỉ là một màn biểu diễn trên sân khấu.

Người đàn ông sống trong khu ổ chuột chỉ là một vai diễn; vào kiếp sau, người diễn viên này sẽ xuất hiện như một vị hoàng tử. Tôi tin là chúng ta chọn đầu thai sống trong khu ổ chuột, bởi vì chúng ta phải hiểu được cái nghèo như thế nào; biết đâu trong một kiếp khác, chúng ta sẽ giàu có. Chúng ta phải là người giàu, người nghèo, đàn ông, đàn bà, khỏe mạnh, đau ốm, to lớn, nhỏ con, mạnh mẽ, hay yếu đuối. Nếu trong một kiếp nào đó tôi giàu có, nhưng người khác thì đang sống trong khu nhà ổ chuột như tôi đã từng sống, thì tôi sẽ muốn giúp lại họ, vì đó là một bước tiến trong sự phát triển của riêng tôi.

Có hai yếu tố quan trọng trong việc này. Thứ nhất, trong một kiếp chúng ta không thể học hỏi hết mọi thứ. Điều đó không là vấn đề gì cả, vì còn rất nhiều kiếp nữa. Thứ hai, mỗi lần chúng ta đầu thai trở lại để được chữa lành bệnh. Đời sống chúng ta là một chuỗi bước tiến của mức độ tiến hóa. Chúng ta sống ở đâu? Khi nào thì hoàn toàn được khỏe mạnh? Khi nào chúng ta đạt đến đỉnh cao nhất? Có lẽ ngay nơi mức độ tinh thần cao nhất có người cho đó là thiên đường, người khác gọi là Niết bàn.

Tôi cho rằng hành tinh này được tạo ra như một nơi để chúng ta trải nghiệm những cảm xúc, cảm giác, tình cảm và những mối quan hệ. Đây là nơi mà chúng ta có thể yêu thương và có những cảm giác lạc thú. Chúng ta thưởng thức hương hoa cỏ, chạm vào da thịt của bé con, ngắm nhìn sự lộng lẫy của cảnh vật, lắng nghe tiếng gió xào xạc. Quả là một chủ ý. Quả là một lớp học!

Nhiều năm sau sẽ có bài thi quan trọng, bất kể chúng ta muốn ca ngợi môi trường này hay phá hủy nó, khi mà công nghệ hiện đại đã giúp chúng ta có khả năng để làm việc đó. Tôi không chắc rằng chúng ta có quyền lựa chọn, mà có thể đó là số phận của chúng ta. Nếu đấng Tối Cao quyết định hành tinh này đáng để gìn giữ thì nó sẽ không bị phá hủy. Nếu nó không đáng và chúng ta tiêu hủy nó, thì linh hồn ta sẽ phải chịu đựng chúng sẽ tìm một môi trường khác. Nhưng có thể ở đó sẽ không đẹp như thế giới của chúng ta, có thể không như thế giới vật chất.

Tất cả mọi linh hồn đều bằng tuổi, không tuổi tác, nhưng có linh hồn này tiến bộ nhanh hơn linh hồn kia. Saddam Hussien có lẽ là một học sinh lớp ba, trong khi Đức Dalai Lama thì đã tốt nghiệp phổ thông. Cuối cùng thì tất cả chúng ta đều sẽ đạt đến giác ngộ, nhanh hay chậm là tùy vào sự tự nguyện của chúng ta. Sự tự nguyện được nói đến ở đây, không giống như khả năng của linh hồn mà chúng ta lựa chọn cha mẹ và những tình huống trong cuộc đời. Đúng hơn, đó là ý chí của con người, và chúng ta đang ở trong sự kiểm soát đó trên trái đất này. Do định mệnh tôi đã nhận ra điều đó. Định mệnh đưa ta đến với nhau, dù tốt hay xấu.

Chính sự tự nguyện để chúng ta lựa chọn thức ăn, xe cộ, quẩn áo, và những chuyến du lịch. Sự tự nguyện cũng cho phép ta chọn lựa cha mẹ, dù có thể chính định mệnh đã kéo ta đến với họ và kéo họ đến với ta. Tôi đã gặp vợ tôi, Carole, tại Catskill Mountains; tôi là người rửa chén tại nhà hàng trong khách sạn nàng nghỉ. Định mệnh. Trong mối quan hệ của chúng tôi, như hàng trăm hàng triệu mối quan hệ khác, đều lệ thuộc vào sự tự nguyện. Chúng tôi chọn ngày gi, và chúng tôi chọn cuộc hôn nhân này.

Tương tự như vậy, chúng ta có thể chọn lựa để tăng thêm khả năng yêu thương và lòng từ ái của chúng ta. Chúng ta có thể chọn lựa để làm những hành động nhỏ nhoi của lòng từ, điều này sẽ đem lại niềm hân hoan cho nội tâm ta. Chúng ta có thể chọn lòng vị tha hơn là ích kỷ, chọn sự kính trọng hơn là định kiến. Trong mỗi khía cạnh của cuộc đời, chúng ta có thể chọn để tạo ra một quyết định yêu thương và bằng những hành động đó, linh hồn chúng ta tiến bộ hơn.

Thạc sĩ John E.Mack, tác giả của giải thưởng Pulitzer, Giáo sư tâm thần học tại trường Y Khoa Harvard, chỉ ra rằng: “Giờ đây chúng ta đang chứng kiến một sự xuất hiện cùng lúc của khoa học, tâm lý, và tâm linh sau nhiều thế kỷ của giáo điều và kỷ luật chắp vá. Cả vật lý học tân tiến và tâm lý học sâu sắc đang hé mở một bầu trời, trong đó những gì chúng ta nhận thức được, đều có mối quan hệ qua lại (như âm thanh vang lại), vật chất và phi vật chất.

Điều này có thể tạo ra khả năng công bằng của vũ trụ, chân lý và thương yêu đúng hơn là ý nghĩa duy tâm không thực tế. Thế giới trần tục phương Tây gọi tâm điểm của khả năng này, là tình trạng “bất bình thường” của sự nhận thức. Nhưng trong truyền thống tôn giáo vĩ đại trên thế giới, thì gọi nhiều cách khác nhau. Cảm giác đầu tiên có tín ngưỡng, tính thống nhất huyền bí, mối liên hệ với sự tồn tại của trái đất, hoặc lòng yêu thương vạn vật...ngay trọng tâm của tình trạng nhận thức, hoặc tồn tại là sự mở mang tiềm ẩn của bản thân, vượt ngoài ranh giới thông thường.”

Tôi có thể dùng linh hồn thay thế bản thân và nói thêm là những ranh giới đó vượt quá vũ trụ rộng lớn. Tôi đã mất 24 năm mới đạt đến một chân lý đơn giản trong phần cốt lõi của cuốn sách này. Chúng ta bất diệt. Chúng ta vĩnh hằng. Linh hồn chúng ta tồn tại mãi mãi. Sự tồn tại này là như vậy, chúng ta nên bắt đầu hành động như thể chúng ta biết rằng sự bất diệt là một ân huệ cho chúng ta.

Hoặc là, đặt nó đơn giản hơn, chúng ta nên chuẩn bị cho sự bất diệt, ở đây, bây giờ, hôm nay, ngày mai và mỗi ngày của phần đời còn lại. Nếu chúng ta chuẩn bị, thần thức của chúng ta sẽ tiến lên đến mức độ tiến hóa, đến gần hơn với việc chữa trị bằng tâm linh, đến gần hơn tình trạng nhận thức cao. Nếu ta không chuẩn bị, ta sẽ tái sinh lại kiếp hiện tại, vẫn còn tác dụng, diễn biến thích hợp và làm cho kiếp sau bị ngưng trệ thông thạo bài học, mà kiếp này ta đã học.(Và trì hoãn việc thông thạo bài học cho kiếp sau mà ta đã học ở kiếp này).

Chúng ta sẽ chuẩn bị như thế nào đây? Người bất diệt phải hành động như thế nào đây? Ở kiếp này chúng ta chuẩn bị bằng cách học làm sao để có những mối quan hệ tốt hơn; làm sao để trải lòng yêu thương, tâm từ nhiều hơn; làm sao để khỏe mạnh hơn về thân thể, về tình cảm, về tinh thần. làm sao để giúp đở người khác; làm sao để hưởng thụ được thế giới này và còn tiến xa hơn đến sự tiến hóa của thế giới nữa, tiến xa đến việc chữa trị bằng tâm linh. Nhờ chuẩn bị cho sự bất diệt mà chúng ta làm lắng nỗi sợ hãi hiện tại, tự cảm thấy tốt hơn và phát triển hơn về mặt tâm linh. Và ngay giây phút chính xác, ta sẽ làm cho những kiếp sống sau này lành mạnh hơn.

Hiện nay, nhờ vào tiến trình liệu pháp mà bệnh nhân của tôi có được sự trải nghiệm và kể lại cho tôi nghe, chúng tôi có thể nhìn thấy kết quả trong cách cư xử hiện tại của chúng tôi, và như vậy chúng tôi hình thành kết quả đó cho tương lai. Nếu chúng ta có thể tăng tốc quá trình chữa trị bằng tâm linh, quá trình tiến hóa, đó là hành động liệu pháp tốt nhất mà ta có thể thực hiện, điều tốt nhất mà chúng ta có thể làm, không chỉ cho thần thức của ta mà còn cho mọi người trên thế giới này. Đó là những gì mà tôi đã học từ những bệnh nhân của tôi.

#299

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 18/07/2011 - 22:04

DU HÀNH QUA CÁC VÙNG TÂM THỨC

Chương Hai

George: Kiểm soát cơn giận..

Kiểm soát cơn giận là một trong nhiều kỹ năng, mà bây giờ chúng ta có thể học, để tránh lập lại sự bạo động trong những kiếp sau. Câu chuyện sau đây của một người đàn ông mà tôi đã điều trị, trước khi tôi tiến hành điều trị liệu pháp cho vài bệnh nhân. Những điều mà anh ta nhìn thấy đều nằm ở những năm sắp đến, việc điều trị cho anh ta có thể đi khá nhanh.

Geogre Skulnick đã làm hết sức mình để tự hủy hoại bản thân. Không màng đến bệnh sử là đau tim và cao máu, anh ta quá cân, nghiện thuốc, làm việc quá sức, từ bỏ những kỳ nghỉ ngay giây phút cuối, lạm dụng hơn thuốc bệnh tim bằng hai cách: Quên uống thuốc, hoặc để bù, lại uống quá liều. Anh ta bị đau đớn vì bệnh tim và một bệnh khác vừa bị chớm. Bác sĩ tim mạch của anh, Barbara Tracy, khuyên anh đến chổ tôi để giảm căn thẳng.

Barbara cảnh báo tôi:

- George là một trường hợp rất khó. Hãy thận trọng với những cơn giận dữ bất thường.

Và bây giờ, anh cùng vợ đang ở tại văn phòng tôi. Vợ anh, một người phụ nữ độ tuổi trung niên, đang nhìn tôi với đôi mắt van nài.

George nói:

- Betty sẽ ngồi ngoài phòng chờ, trong trường hợp ông cần cô ấy.

Quay lại nhìn bà ta, tôi nói nhẹ nhàng:

- Nếu bà không phiền.

- Ồ, không.

Bà ta nhìn tôi lần cuối với sự van nài rồi rời khỏi phòng, đóng sập cửa. George là người đàn ông béo lùn, chắc đậm có cái nhìn đầy quyền lực, với đôi cánh tay quá khổ, bao tử quá lớn, và đôi chân khẳng khiu đáng ngạc nhiên, một đứa trẻ bị bệnh đau không nhanh nhẹn. Khuôn mặt anh ta tròn trĩnh hồng hào; những tia máu như vỡ ra quanh mũi, dường như đang uống quá chén. Tôi đoán anh ta khoảng chừng gần 60 tuổi, dù anh ta mới chỉ 52.

- Ông là bác sĩ chuyên về việc đầu thai?

Thật ra anh ta nói chứ không phải là câu hỏi.

- Đúng vậy.

- Tôi không tin cái chuyện vớ vẩn đó.

- Nhiều người cũng không tin.

Nếu anh ta có ý làm tôi nản lòng, thì cũng vô ích thôi.

- Bác sĩ Tracy nói rằng ông làm gì đó gọi là trị liệu.

- Đúng vậy. Thường thì nó đưa bệnh nhân trở lại những kiếp quá khứ.

- Chuyện nhảm nhí.

Anh ta ngừng lại và giơ tay lên:

- Đừng đưa tôi đi lạc đó. Tôi sẽ mạo hiểm với bất cứ điều gì miễn là nó sẽ tránh được cơn đau khác.

Thật ra, George đã từng kể cho Barbara nghe về chuyện anh đã trải nghiệm đến gần kề cái chết. Trong lúc cơn đau tim bị bùng phát, anh có cảm giác bản thân mình rời khỏi thể xác hướng tới đám mây có màu xanh. Trong khi bay bổng, anh bắt đầu nhận ra ý niệm: mọi việc sẽ ổn thôi. Sự nhận thức này làm anh nhẹ nhàng, và anh muốn kể chuyện này với gia đình. Từ một điểm lợi thế anh có thể nhìn vợ con anh đang ở đâu. Họ đang rất lo lắng, anh muốn làm cho họ yên tâm, nhưng anh không thể. Anh lướt xa ra đến chổ thân thể mình, và khi anh nhìn lại anh thấy họ không quan tâm đến anh, như thể là anh đã chết nhiều năm. Sự kiện này đã thúc giục anh đến với tôi.

Tôi nói:

- Sau khi tôi tìm hiểu kỹ về anh rồi chúng ta hãy quyết định nên làm gì. Bác sĩ Tracy nói là anh đang bận với việc kinh doanh xây dựng.

- Công ty xây dựng Skulnick. Chúng tôi chuyên về xây dựng nhà máy, nhà kho và cao ốc văn phòng. Có lẽ ông đã nhìn thấy bảng hiệu của chúng tôi, nó tràn khắp Miami.

- Thật tình thì tôi không thấy.

Anh ta tiếp tục:

- Tôi bị nhức đầu kinh khủng, bị áp lực liên tục. Nếu mà tôi không tự mình kiểm tra, giám sát mọi vị trí chắc chắn người ta sẽ làm rối tinh lên.

- Chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ làm rối tinh lên.

Mắt anh ta lóe lên:

- Tôi sẽ nổi giận.

Barbara kể cho tôi biết cơn thịnh nộ là sự nguy hiểm nhất mà George đối phó, như một con dao ghim thẳng vào trái tim anh ta.

Tôi nói:

- Hãy kể cho tôi nghe về cơn giận của anh.

- Tôi mất tự chủ. Tôi nổi điên la hét. Mặt tôi đỏ lên và tôi cảm thấy trái tim tôi đang bị căng phồng và sắp nổ tung.

Hơi thở anh ta tăng nhanh ngay lúc kể chuyện:

- Tôi muốn chửi mắng hoặc đánh, hoặc giết một ai đó. Tôi nổi điên.

- Khi anh ở với gia đình thì sao?

- Cũng tệ như vậy có khi còn tệ hơn. Thỉnh thoảng tôi giận dữ với ai đó trong văn phòng, uống vài ly trên đường về nhà và bước vào nhà tìm kiếm cuộc cãi cọ. Bữa tối chưa sẵn sàng? Đập! Bài tập chưa làm xong? Đánh!

Anh ta cuối đầu xuống nhìn lòng bàn tay:

- Gia đình tôi rất sợ tôi. Dĩ nhiên tôi thật sự không muốn đánh họ. Nhưng có lẽ phút nóng giận lại xảy ra.

- Tôi hiểu. Có lẽ chúng ta nên tìm hiểu cơn thịnh nộ bắt đầu từ đâu.

Anh ta ngẩng đầu lên:

- Tôi cho là do cha tôi. Cha tôi là người hung hãn và nghiện rượu.

- Điều đó có thể giải thích được, nhưng có lẽ còn nhiều cái khác nữa.

- Điều gì đó đã xảy ra trong kiếp trước?

Tôi nhún vai:

- Có thể.

- Và bác sĩ nghĩ liệu pháp này sẽ giúp ích?

- Tôi tin là quan trọng với ông, mặc dù tôi có thể giúp ông bằng liệu pháp tâm lý truyền thống. Nhưng có thể giúp ông bằng liệu pháp tâm lý truyền thống. Nhưng có thể ông sẽ thích phương pháp trở về quá khứ này hơn. Ông đã từng trãi qua giai đoạn cận kề cái chết, và điều này làm tôi tin rằng ông dễ dàng đi ngược lại quá khứ. Nếu ông bị khó chịu hoặc đau đớn, hoặc quá căng thẳng, lập tức tôi sẽ biết và chúng ta sẽ ngừng lại.

Anh ta yên lặng giây lát rồi hỏi:

- Bác sĩ dùng thuật thôi miên, có đúng không?

- Đúng.

- Nếu tôi bị thôi miên, làm sao ông biết khi nào tôi muốn ngừng?

- Ông sẽ nói với tôi.

- Từ một kiếp sống khác?

- Chính xác.

Tôi có thể nghe anh ta trả lời “vâng, chắc chắn” từ trong trí óc của anh ta. Nhưng tất cả những gì anh ta nói là:

- Được rồi, hãy thử đi.

Trong cuốn Thruogh Time into healing tôi đã viết rằng:

“Thuật thôi miên là phương pháp chính mà tôi đã sử dụng để giúp bệnh nhân, thẩm định những hồi ức về kiếp trước. Mục đích của thuật thôi miên, cũng như thiền định, là thẩm định tiềm thức. Trong tiềm thức, những quy trình tinh thần xảy đến mà không hề có sự nhận thức sáng suốt. Chúng ta đã trải qua những giây phút của trực giác, trí tuệ, và sáng tạo khi những quy trình này lóe sáng trong sự nhận thức sáng suốt.

Tiềm thức không hề bị hạn chế bởi những ranh giới áp đặt của logic, không gian hoặc thời gian. Nó có thể nhớ tất cả mọi thứ bất kể thời gian. Nó có thể vượt qua điều thường tình để đạt đến một trí tuệ siêu việt. Thuật thôi miên thẩm định trí tuệ của tiềm thức bằng cách tập trung, để đạt được phương pháp điều trị. Chúng ta nằm trong trạng thái thôi miên, khi mối quan hệ bình thường giữa nhận thức và tiềm thức được định dạng lại, để tiềm thức đóng vai trò nổi bật hơn...

Khi bạn bị thôi miên, bạn không phải đang ngủ. Sự nhận thức của bạn luôn luôn biết rõ những gì bạn đang trải nghiệm, trong lúc bạn bị thôi miên. Mặc dù trong tiềm thức sâu thẳm kết nối, trí óc của bạn có thể nhận định, phê bình và xem xét. Bạn luôn kiểm soát được những điều bạn nói. Thuật thôi miên không phải là một liều thuốc miễn dịch. Bạn không bước vào cỗ máy thời gian và bỗng nhiên tìm thấy bản thân mình, chuyển sang một thời điểm khác, một nơi khác mà không hề nhận biết được hiện tại..

Điều này dường như cần có một kỹ năng xuất sắc, để đạt đến một mức độ sâu thẳm của thuật thôi miên. Tuy nhiên, mỗi người trong chúng ta đều có những phút thoải mái dễ chịu mỗi ngày, tựa như chúng ta vượt qua tình trạng giữa tỉnh thức và cơn mê ngủ, đó là trạng thái bị thôi miên...Lắng nghe một giọng nói hướng dẫn của ai đó để tập trung lại, và để giúp đỡ bệnh nhân đạt đến mức độ sâu hơn của tình trạng thôi miên và thư giản. Thôi miên không có gì nguy hiểm. Chưa có người nào bị kẹt trong tình trạng thôi miên cả.

Bạn có thể bị chìm vào trạng thái bị thôi miên bất cứ khi nào bạn muốn. Chưa ai từng xâm phạm đến nguyên tắc tôn giáo đạo đức của riêng họ. Chưa ai có hành động vô ý ngu xuẩn cả. Không ai có thể điều khiển được bạn. Bạn tự điều khiển mình. Trong trạng thái thôi miên, bạn luôn tỉnh thức và quan sát. Đây là lý do nhiều người bị thôi miên vẫn tham gia tích cực vào thời thơ ấu, hoặc những cảnh tượng của kiếp trước trong ký ức, họ có thể trả lời những câu hỏi của nhà trị liệu, nói bằng ngôn ngữ của đời sống hiện tại.

Biết nhiều vùng địa lý mà họ nhìn thấy và thậm chí họ còn biết năm nào, thường thì những chuyện này chỉ lóe lên trong mắt hoặc chợt hiện ra trong trí thôi. Khi bị thôi miên, tâm trí vẩn luôn giữ lại sự nhận thức và hiểu biết trong hiện tại, còn những ký ức thời thơ ấu hoặc kiếp trước là được đặt vào ngữ cảnh. Nếu năm 1900 lóe lên, và bạn tìm thấy mình đang xây kim tự tháp vào thời cổ đại, bạn “biết” đó là thời kỳ trước Công nguyên, ngay cả khi bạn không nhìn được những hàng chữ có thật đó.

Đây cũng là lý do mà một bệnh nhân được chữa trị bằng phương pháp thôi miên, có thể nhận ra những người sống ở kiếp trước, mà anh ta được biết trong kiếp này, ví dụ như khi anh ta tìm thấy bản thân trong cuộc nổi dậy của giai cấp nông dân, vào cuộc chiến tranh Châu Âu thời Trung cổ. Đây là lý do mà anh ta có thể nói tiếng Anh hiện đại, so sánh những vũ khí thô sơ của thời kỳ đó với thứ vũ khí trong thời kỳ này, mà anh đã từng nhìn thấy hoặc đã sử dụng, biết niên đại của nó..

Trí óc hiện tại của anh ta tỉnh thức, quan sát, nhận xét. Anh ta có thể luôn luôn so sánh những chi tiết và những sự kiện trong thời kỳ đó với đời sống hiện tại. Cùng một lúc, anh ta là một nhà quan sát và phê bình phim ảnh, và thường xuyên cùng một lúc là một ngôi sao màn bạc. Anh ta có thể giữ trạng thái vừa thư giãn vừa bị thôi miên. Với cách giúp cho bệnh nhân khẳng định tiềm thức, thuật thôi miên đưa bệnh nhân vào tình trạng, nắm được khả năng phi thường trong việc chữa trị. Nói theo cách ẩn dụ là thôi miên đưa bệnh nhân vào một khu rừng có phép thần thông, nơi có một loại cây thần dược.

Mà nếu thuật thôi miên tiết lộ cho bệnh nhân về xứ sỡ thần dược đó, thì quá trình thoái chuyển là cây thần dược có nhiều quả mọng thiêng liêng, mà họ phải ăn để trị bệnh. Phép trị liệu thoái chuyển là một hành động tâm linh, quay về thời quá khứ xa xưa nào đó, để tìm lại ký ức vẫn còn ảnh hưởng tiêu cực, vào kiếp sống hiện tại của bệnh nhân và có lẽ cũng là nguyên nhân, của những triệu chứng ăn bệnh của họ. Thuật thôi miên cho phép tâm trí bỏ qua những rào cản của ý thức, để khai thác thông tin này, kể cả những rào cản đó giúp bệnh nhân, tránh sự khẳng định có ý thức về kiếp trước của họ.

Tôi có thể hộ tống George đi vào khu rừng đó, giữ vai trò của nhà trị liệu, bằng cách không nỗ lực đề nghị hoặc tác động vào những quả mọng chín, mà anh ta có thể tìm thấy trên cây, bằng cách giữ giọng nói bình tĩnh và dịu dàng, để bảo đãm sự thoải mái và thư giản cho anh ta. Bằng cách chỉ hỏi những câu mà anh ta có thể diễn tả thêm nữa về những gì mà anh ta đang tìm thấy, bằng cách không ngạc nhiên, bằng cách không phán xét về mặt đạo đức, bằng cách không ngắt lời nhưng hướng dẫn anh ta lựa chọn thí dụ, ngắn gọn, bằng cách hành động như một người hướng dẫn.

Anh ta ngồi trên một cái ghế nhỏ, thoải mái. Tôi ngồi đối diện với anh ta. Tôi nói:

- Thư giản, nhắm mắt lại..

Và chúng tôi bắt đầu. Cả hai chúng tôi đều không biết anh ta sẽ tìm được gì. Anh ta nói:

- Tôi là chủ quán trọ người Đức. Tôi đang nằm trên một cái giường trong phòng trên lầu. Đó là vào thời Trung Cổ. Tôi đã già, hơn 70 tuổi, rất yếu, mặc dù gần đây tôi rất khỏe. Tôi có thể nhìn thấy bản thân mình rất rõ. Tôi có vẻ lôi thôi lếch thếch, quần áo bẩn thỉu. Tôi đang bị bệnh. Đôi cánh tay một thời khỏe mạnh, bây giờ đã gầy yếu. Cơ bắp chắc khỏe đã từng nhấc những hòn đá giờ đã teo đi. Tôi chỉ đủ sức để ngồi dậy.

Từ một khoảng cách của bảy thế kỷ, anh ta nhìn tôi và gục đầu:

- Tôi không có trái tim.

Gia đình đang đứng chung quanh anh ta.

- Tôi đối xử với họ rất tệ bạc. Bần tiện với vợ con. Tôi không quan tâm tới họ, rượu chè say sưa, quan hệ bừa bãi. Nhưng họ bị lệ thuộc vào tôi, thậm chí bị tôi đánh đập, họ cũng không thể bỏ tôi đi. Những trận đòn của tôi rất tàn ác. Họ rất sợ hãi tôi.

Gần đây anh bị đột quỵ và đau tim, bây giờ chính anh là người phải lệ thuộc vào họ. Tuy nhiên, dù anh bạc đãi họ, họ vẫn chăm sóc anh rất ân cần, thậm chí với lòng thương yêu. Người vợ hiện tại là con trai của anh trong kiếp trước, và người con gái bây giờ là vợ kiếp trước của anh. (Sự thay đổi như vậy là điều bình thường. Những người quan trọng trong hiện tại, là đã qua quan trọng trong những kiếp trước đối với chúng ta.)

Gia đình mệt mỏi nhìn anh nhưng không hề phàn nàn, vì anh quá yếu, không thể tự chăm sóc. Rốt cuộc, thể xác anh bị suy sụp do bởi những năm tháng rượu chè quá độ. Anh đang bay bổng trên đầu những người thân đang đau khổ, nhìn họ lòng tràn đầy hối lỗi vì đã cư xữ quá tồi tệ. Đó là khoảnh khắc của cái chết thể xác, khoảnh khắc dẩn ta đến sự hồi tưởng lại cuộc đời. Anh kể rằng tội lỗi là điều mà anh cảm thấy đau khổ nhất, tội lỗi cho một đời lãng phí.

Tôi bảo anh ta:

- Hãy bỏ đi những tội lỗi, điều đó không còn cần thiết nữa. Gia đình anh vẫn ổn cả, tội lỗi đang kéo anh trở lại.

Chúng tôi cùng khơi lại một kiếp của chủ nhà trọ. Anh sẽ rút ra được bài học gì từ đó? Anh vẫn còn trong trạng thái thôi miên, vẫn còn trong nhà trọ, vẫn nhận thức được khoảnh khắc chết đi. Anh diễn tả những suy nghĩ từng câu ngắt đoạn, nhưng cảm giác giấu sau đó thì rất rõ ràng, trong sáng.

Anh nói:

- Nguy hiểm và bạo động chứa đựng sự ngu xuẩn. Thể xác thì mong manh và nhất thời. Sự an ổn chỉ nằm trong tình yêu thương và lòng từ ái. Mọi gia đình đều cần nuôi dưỡng và chăm sóc. Tôi cần chăm sóc họ như họ đã chăm sóc tôi. Sức mạnh vĩ đại là sức mạnh của tình yêu.

Anh kể lại những điều này với một tác động của sự phát hiện, khi chấm dứt, anh dường như kiệt sức. Vì vậy, tôi nhẹ nhàng đưa anh trở lại. Chúng tôi có thể bàn bạc về những điều thầm kín của anh. Những điều mà anh tìm thấy khi anh quay về quá khứ. Anh cởi bỏ cái cảm giác bàng hoàng, sự thoái lui đầu tiên luôn luôn có tác động mạnh, và hứa sẽ quay lại vào tuần sau. Khi anh ta ra về, tôi tự ghi nhớ một điều: “Có thể nhìn thấy trước kiếp sau từ sự gieo hạt ở kiếp này. Bệnh tim được lập lại. Đánh đập gia đình tái hiện. Một khuôn mẫu như nhau. Một bài học xuất hiện.” Tôi mong chờ George trở lại.

Lần sau khi tôi đưa anh ta trở về quá khứ, thì anh là một người lính Pháp 17 tuổi, đang chiến đấu bảo vệ đất nước vào thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Trong một trận nổ bom, anh bị mất cánh tay trái. Khi trải qua điều này anh chộp lấy cánh tay và kêu lên đau đớn. Nhưng cơn đau biến mất vì anh nhận ra rằng anh đã chết bởi vết thương. Một lần nữa, ngay khoảnh khắc của cái chết, anh đã bay lơ lửng trên thể xác và có thể nhìn thấy bản thân mình, vào một thời điểm khác trong cùng một cuộc đời.

Anh không còn là người lính nữa mà là một người quan sát, rời khỏi những sự kiện mà anh đã miêu tả. Bây giờ anh là một đứa trẻ không hơn 10 tuổi, làm việc cật lực nhưng sống bình yên trong nông trại với cha mẹ rất đáng yêu và cô em gái luôn tôn sùng anh. Trong nông trại có nhiều ngựa, bò, gà. Đó không phải là cuộc đời đầy sự kiện đáng ghi nhớ, một cuộc đời trước chiến tranh. Tôi băn khoăn liệu cơn đau ở cánh tay trái có tương quan với cơn đau tim, mà anh đã trải qua cả hai thời kỳ xa xưa và gần đây không, nhưng tôi không chắc lắm. Nhiều khi rất đơn giản để ta nhìn thấy một mối liên hệ giữa quá khứ và hiện tại, nhưng trong trường hợp này tôi không triển khai tốt hơn được.

Tôi không có cơ hội để nghĩ về điều đó lâu hơn, vì bổng nhiên anh bắt đầu kích động mãnh liệt. Anh nối kết đời sống của người khác. (Điều này xảy ra không bình thường; thông thường việc thoái lui dẫn đến một thời kỳ, dù thường khi bệnh nhân che lấp thời gian và sự kiện khác nhau trong cùng một kiếp.) Giờ đây anh là một chiến binh Mông Cổ hay Tatar, đang sống ở Nga hay Mông Cổ gì đó anh cũng không chắc, cách đây khoảng 900 năm. Một chuyên gia huấn luyện ngựa dũng mãnh đi lang thang giết kẻ thù và tích lũy tài sản kếch sù.

Những người bị anh giết thường là những thanh niên vô tội, nhiều người trong số họ là nông dân bị ép buộc đi lính, giống như người lính Pháp trẻ cuối cùng anh đã đầu thai. Trong khoảng thời gian đó, anh đã giết hàng trăm người và chết già. Hai trăm năm sau khi anh trở thành chủ nhà trọ người Đức, anh ta không hề hối tiếc về những việc đã trải nghiệm. Bản thân anh ta không thấy chuyện này sẽ đến vào những kiếp sau nữa. Cuộc đời chủ nhà trọ dường như là cuộc đời đầu tiên được xem xét lại, mà anh cảm thấy ăn năn.

Kiếp làm người Mông Cổ của anh chỉ cho tôi điều gì đó, mà gần đây tôi đã hiểu ra: học hỏi về những kết quả của hành động, thì không cần thiết là việc tức thời. Anh có thể phải trải qua nhiều kiếp bạo động khác, trước khi cảm nhận được những gì mà anh đã gây ra. Tôi không chắc là sẽ trải qua bao nhiêu kiếp; tôi không thể đếm được con số mà anh đã kể. Có lẽ anh đã bị giết trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất, như một nghiệp báo cho kiếp làm chiến binh hung hãn. Có lẽ sự ăn năn của người chủ nhà trọ không đủ. Có lẽ nếu anh thay đổi trước những hành vi bạo động, anh đã không trở lại chết tại Pháp.

Có lẽ anh đã có cuộc sống lâu dài ở nông trại. Chúng tôi đã thảo luận tất cả những điều này khi tôi đưa anh ra khỏi sự thôi miên. Tôi nghĩ rằng anh đang tâm sự với tôi rằng, giá mà anh không quá hung dữ trong kiếp trước, thì có lẽ anh sẽ không quá hung dữ trong kiếp này. Anh đã trải qua kiếp của kẻ giết người máu lạnh, đến chủ nhà trọ thô lỗ, rồi người lính Pháp, bị giết trước khi anh có cơ hội cho một cuộc đời trọn vẹn, rồi đến một nhà kinh doanh thành công, vẫn giữ lòng tàn nhẫn, bị bệnh tim nguy kịch và bị cao máu.

Ngày hôm đó, tôi viết hai câu: “Giá trị của sự đồng cảm. Anh ta phải cảm nhận được những gì anh ta đã gây ra.” Và “trái tim luôn kết nối với nhiều kiếp sống”. Điều gì sẽ xảy ra tiếp? Lần này anh là một gã đàn ông Nhật đồng tính ở độ tuổi 30, gầy nhom, đang sống vào cuối thế kỷ 19. Gã đang có vấn đề về tình cảm; gã đang yêu một thanh niên trẻ. Gã cảm thấy không có cách nào khác, để chiếm được tình yêu của anh chàng này bằng cách dụ dỗ vì vậy gã bắt đầu tiến hành. Rượu là một cách.

Gã đưa chàng thanh niên đến phòng và chuốc rượu. Chàng trai trẻ chống đối yếu ớt và đêm đó họ trở thành đôi tình nhân. Chàng trai trẻ mắc cở bối rối và nhục nhã. Trong nền văn hóa của đất nước anh ta, bệnh đồng tính là hành động mất danh dự và bị cấm đoán; quá xấu hổ vì đã cho phép bản thân mình vướng vào điều đó, chàng trai nổi cơn thịnh nộ. Lần hẹn tới hắn cầm sẵn một con dao hay thanh kiếm gì đó và đâm thẳng vào ngực của tên đàn ông già hơn. Georgr quá gầy yếu nên không thể chống đỡ, và chết ngay tức khắc.

Điểm lại kiếp sống đó là đề tài của thù ghét, giận dữ, thịnh nộ và rượu chè, tất cả đều tái hiện trong kiếp này. George nhận ra một điều lẽ ra anh nên kiên nhẫn hơn. Anh không nên dụ dỗ chàng thanh niên đó mà phải chờ đợi lòng tự nguyện của bạn tình. Anh ta không phán xét sự đồng tính, mà tội lỗi của anh là sự quấy nhiễu lòng tự nguyện của người khác, bằng cách lôi kéo họ. Mối liên hệ tinh tế hơn được đặt lên bàn cân. George bị béo phì làm cho cơn đau tim nguy hiểm thêm. Đôi khi người ta làm tăng cân và giữ cân như một sự bảo vệ. Vấn đề này chung cho phụ nữ bị hành hung, đánh đập, và họ cố gắng tránh sự hành hung bị tái diễn.

Và đây là George, người hung hãn lại là nạn nhân của sự hành hung. Bệnh béo phì có vẻ như xuất phát từ kiếp sống đó và một kiếp khác, không phải kiếp này. Khi George hiểu ra điều này, ăn kiêng bắt đầu dễ dàng hơn. Tôi viết: “Vết sẹo trong kiếp trước, có lẽ do vết dao đâm, liên quan đến tình trạng tim mạch trong tương lai?” tôi không chắc lắm, nhưng thường xuyên chúng tôi quay lại với những vết thương hoặc sự yếu ớt ở phần nào đó trong cơ thể, phần của vết thương bất diệt hoặc sự hư hại trong kiếp sống trước.

Trong trường hợp của George mối liên quan này có vẻ như vậy. Lúc George có thể đi vào sâu hơn, dường như anh ta bị sốc vì những chuyện trải qua, và bị thôi thúc bởi những điều đó. Năm 1982, khi Catherine chìm sâu vào tình trạng bị thôi miên, cô nhớ những bài học có giá trị từ những kiếp trước, và cô mang về những lời nhắn nhủ của các vị thầy. Bây giờ tôi hỏi George, khi anh đang trong tình trạng sâu hơn, “Có gì nữa ở đó không? Có lời nhắn nào cho anh, bất cứ thông tin gì hoặc trí tuệ để anh nhận lại?” Tôi ghi tất cả những điều anh nói như thể tôi đang viết tốc ký:

“Đời sống là quà tặng. Đó là một ngôi trường để học cách yêu thương, hiện thân trong khía cạnh vật lý, nơi mà thể xác và tình cảm tồn tại. Nhưng ngôi trường này có quá nhiều sân chơi, và những sân đó cần được sử dụng. Đời sống vật lý có nghĩa là được hưởng thụ. Điều này là nguyên nhân bạn được ban tặng những cảm xúc. Hãy là người tốt. Tự bạn hãy vui vẻ và hưởng thụ. Hưởng thụ đơn giản nhưng tràn ngập niềm vui của cuộc đời, mà không hại người, hại vật.”

Khi anh ra về, tôi viết:

“Khi George thức tỉnh, anh ta biết lời nhắn nhủ này rất quan trọng, vì anh không hề có một niềm vui nào trong cuộc đời này, vì đây là điều đơn giản, vì sao chúng ta có mặt trên đời này. Cũng có rất nhiều sân chơi. Không phải chỉ có công việc là quan trọng. “Hãy là người tốt” có nghĩa là hãy từ ái và quan tâm chu đáo ở mọi cấp độ.”

Lần sau khi George đến, anh nói với tôi về một giấc mơ kỳ lạ. Những điều nghi ngờ về phép trị liệu trở về quá khứ đã biến mất. Anh phấn khởi đầy hứng thú. Những lời nhắn nhủ đã cho anh bài học về một con người, một sinh vật thiêng liêng đang chan hòa dưới ánh sáng màu xanh, mà anh đã thấy lúc đầu tiên của buổi trị liệu. Con người trong ánh sáng xanh đó đã nói với anh rằng, anh cần yêu bản thân mình hơn nữa và con người trên trái đất này cần chăm sóc lẫn nhau, đừng sát hại người khác.

Anh nhận lãnh sự hướng dẫn đó, kể lại cho tôi nghe, mặc dù không đầy đủ chi tiết. Anh biết lời hướng dẫn dành cho anh, nhưng có quan tâm đến nhân loại ở mọi cấp độ. Anh cần giao tiếp tốt hơn, cần biểu hiện tư tưởng và hành động hơn là đả kích kịch liệt. Tâm linh mách bảo anh hãy dịu hàng hơn. Đừng làm tồn thương người khác. George nói với tôi rằng, có một hệ thống thứ bậc của tâm linh và người đến trong giấc mơ của anh, không hẳn là ở một cấp độ cao nhất. Có nhiều nơi khác, nhiều cảnh giới khác thậm chí cao hơn mà không thuộc về trái đất.

Anh nói rằng chúng ta vẫn phải học những bài học của các bậc thầy, vì điều quan trọng là phải thực hiện. Mặc dù điều này không có sức thuyết phục, hoặc chứa đựng như những lời nhắn nhủ, mà Catherine mang lại, tôi vẫn cảm động không ít. Một lần nữa đó là trường hợp người bệnh ảnh hưởng đến bác sĩ. Trong lần điều trị sau của George, sự nối tiếp khác lại rõ nét thêm. Trong một kiếp sống khác vào đầu thế kỷ 18, anh là một phụ nữ nô lệ ở miền Nam.

George kết hôn với một người đàn ông rất vũ phu. Người đàn ông là chồng của George, trong kiếp đó bây giờ là cha của anh trong kiếp này. Vào kiếp làm phụ nữ nô lệ, George đã bị người chồng đánh tàn nhẫn đến độ bị gãy chân và bị liệt. Ở kiếp này, cha George là một nguồn sức mạnh dồi dào và là trụ cột chính cho George, đặc biệt trong thời kỳ thơ ấu của anh, bởi lúc đó chân anh bị viêm khớp. Tuy nhiên, cha George quả là một hình ảnh độc tài và hung hãn, những hành động tàn nhẫn giống như con người của ông ở kiếp trước.

George cũng lập lại những hành động đó sau này. Lúc nhỏ George đã nhanh chóng nhận ra điều đó và anh đã hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của cha, anh phải đứng lên bằng chính đôi chân mình, một mối tương quan rõ ràng với kiếp làm nô lệ. Sự độc lập và sức mạnh trở thành dấu hiệu của cuộc sống, đã có tiền căn đau tim của George, có lẽ anh cũng quá chú tâm mang nó bên mình, thậm chí sau khi rời khỏi bệnh viện. George cần một bài học cân bằng tại kiếp này. Anh phải kết hợp cái uy quyền và khả năng lắng nghe người khác, để nhận lời đề nghị cũng như ra lệnh.

Anh trở về một kiếp khác một cách ngắn ngủi, và chỉ nhìn lướt qua. Đó là thời kỳ đồ đá, anh là một người đàn ông mặc quần áo bằng da thú, chân tay đầy lông lá. Anh chết rất trẻ, chết vì đói. Đây là lời giải thích vì sao trong kiếp này anh lại bị béo phì. Con người suýt chết đói, nhưng những người chết trong cuộc tàn sát người Do Thái, khi đầu thai trở lại thường bị quá cân, bởi họ cần dư thừa ký như một sự bảo đảm để không bao giờ bị đói nữa.

Tôi sắp xếp những kiếp trước của George thứ tự theo niên đại như sau: một người ở thời kỳ đồ đá, một chiến binh Mông Cổ, chủ nhà trọ thời Trung cổ, phụ nữ nô lệ bị liệt chân, gã người nhật đồng tính bị sát hại, người lính Pháp hy sinh vì đất nước. Chắc chắn là còn rất nhiều kiếp sống khác nữa, nhưng anh ta không đi đến đó trong những đợt trị liệu, và có lẽ sẽ không bao giờ. Linh hồn màu xanh nói với anh rằng, những kiếp trước chúng tôi đã thấy là rất quan trọng trong kiếp này.

Bây giờ là người đã có kinh nghiệm, George nói với tôi:

- Học hỏi cũng là để giữ việc xảy ra ở một đời sống khác.

Tôi rất hài lòng với thái độ tích cực của anh.

- Anh phát triển những khả năng và làm việc rất lanh lợi. Điều này không dừng lại. Có nhiều chủ đề phù hợp trong những kiếp anh nhớ lại; bạo động và giận dữ, đau đớn thể xác, sự xúc phạm, cảnh chết chóc đe dọa thường xuyên. Những điều này đi song song với kiếp sống hiện tại của anh.

Khi George sắp xếp những kiếp quá khứ lại với nhau, anh thấy rõ ràng kiểu sống hiện nay của anh hết sức buồn thảm. Anh đã say sưa rượu chè. Huyết áp của anh cũng cần điều chỉnh lại. Có thể anh sẽ còn một cơn đau tim khác. Sự hung bạo làm anh có nguy cơ đột quỵ. Tất cả những điều này làm tốn thời gian gần hai năm với một liệu pháp khắc nghiệt (theo những giao đoạn định kỳ sau đó), khi anh nối kết những nhận thức và những dụng cụ điều trị mà tôi đã đưa, ví dụ như phần thư giãn trong đĩa CD, tôi rất hài lòng khi quan sát thấy anh bắt đầu có những chuyển biến tốt hơn.

Anh có thể thư giản mà không cần thực hành thiền định (thỉnh thoảng tôi đề nghị nhưng anh không tập). Anh thuật lại việc quan hệ tốt hơn với những người trong công ty, anh có thể lắng nghe và chấp nhận những trở ngại mà không nổi cáu, thậm chí cơn giận nổi lên cũng rất ngắn và không đáng sợ. Thỉnh thoảng anh có thể tự thư giản. Anh bắt đầu chơi gôn trở lại, và tham dự những trận bóng của đội Florida Marlins. Về mặt thể chất, George đã tốt hơn nhiều. Huyết áp của anh đã hạ, chức năng hoạt động của tim cũng hồi phục. Anh bắt đầu tập thể dục, giảm rượu, ăn kiêng theo chế độ dinh dưỡng với sự giúp đỡ của vợ mình.

Nhiều lần tôi cho cô ta có mặt trong những buổi trị liệu, cô đã thấy rõ những tiến bộ của chồng với lòng biết ơn chân thành, vì giờ đây chồng cô đã biết cảm thông. Đối với con cái anh đã trở nên một người cha tốt, một người bạn, một người hướng dẫn, không còn là tên độc tài nữa. Điều thay đổi này dẫn đến điều thay đổi kia, tiến trình của sự thay đổi đã đến sớm, cái mà chúng tôi gọi là vòng luân chuyển đầy năng lực. Thành công này tiếp nối thành công khác.

Anh kể với tôi:

- Tôi có một thoáng nhìn về đời sống khác. Tôi nhìn thấy kiếp sau tôi sẽ là một người thầy giáo đáng yêu với đám trẻ con. Đó là một đời sống rất hạnh phúc đầy mãn nguyện. Những kỹ năng tôi đã học là những gì tôi có thể mang lại cho kiếp sống hiện hữu này. Và tôi nhìn thấy một thế giới khác, chỉ một thoáng nhìn thôi. Những công trình, những ánh sáng trong suốt như pha lê và con người, ông biết không đầy hạnh phúc thư thái.

Tôi rất ngạc nhiên. Như tôi đã kể là từ trước tới giờ, tôi chưa hề có ý định đưa một người nào đi đến tương lai. Tôi cho là cảnh tượng anh ta thấy có thể là phép ẩn dụ, một biểu tượng mà tâm hồn anh đã ước ao trong những ngày gần đây. Hoặc có thể đó không khác gì hơn một giấc mơ bị ảnh hưởng, do chúng tôi hiểu biết về quá khứ của anh. Mặc dù vậy, có lẽ những gì anh ta thấy là đúng. Vào cuối buổi trị liệu sau cùng, tôi viết: “Anh ta đã chữa lành trái tim tinh thần lẫn thể chất”.

Bác sĩ Barbara Tracy, bác sĩ tim mạch của anh, khẳng định hoàn toàn phần thể chất. Tôi biết bây giờ George tràn đầy hy vọng. Cuộc sống bỗng nhiên quá quan trọng đối với anh. Tinh thần trở thành một phần của bản chất tâm lý. Gia đình quan trọng. Bạn bè quan trọng. Đồng nghiệp quan trọng. Niềm vui cũng quan trọng. Anh chuẩn bị cho một bước tiếp theo trong sự nghiệp tiến hóa của mình. Khi thể xác George mất đi, linh hồn của George sẵn sàng quay trở lại, tôi tin chắc rằng cấp độ trong đời sống mới của anh sẽ cao hơn; chắc hẳn nó sẽ hoàn toàn nhẹ nhàng, dịu dàng hơn những đời sống mà anh đã trải qua.

Anh cũng không quay lại và tìm hiểu những bài đã học từ những kiếp quá khứ. Điều đó sẽ làm mất thời gian hơn, để anh đạt đến một giai đoạn mà hiện nay anh đang có. Có lẽ anh phải dành nhiều kiếp nữa, cho một giai đoạn giận dữ, bạo động, trước khi anh rút ra bài học kinh nghiệm bản thân, về những chân lý mà anh đã nhìn thấy trong những lần trị liệu. Liệu pháp chữa trị cho anh đã hoàn thành, tôi không còn xem anh như bệnh nhân nữa. Anh cũng nghĩ như vậy. Tôi muốn có cơ hội đưa anh đi đến tương lai, không phải vì mục đích chữa bệnh, mà vì chúng tôi muốn nhìn thấy những kiếp sống bất bạo động của anh sau này như thế nào.

Cuộc sống hiện nay của George đã thay đổi do từ bỏ hung dữ và nóng giận, khuyết điểm lớn của anh. Những kiếp sống hiện tại và quá khứ của nhiều bệnh nhân khác, đã minh chứng khả năng thay đổi như thế nào, trong hàng tá khía cạnh khác nhau trong cuộc đời, và họ suy ra phải là hàng trăm. Hiếm khi có một người thông hiểu nhiều bài học trong một cuộc đời, mặc dù họ vẫn còn giữ sự chú ý lắng nghe người khác.

Vì nhiều mục đích trong cuốn sách này, tôi phân ra nhiều bài học trong những lĩnh vực riêng rẽ khác nhau, dù chúng có trùng lấp với nhau, và sự tiến hóa trong người này có thể dẫn dắt đến sự tiến hóa của người khác. Lịch sử cũng đưa ra nhiều ví dụ đáng kể của con người, tiến hóa đến những đời sống mới. Những đời sống này giúp họ phát triển hơn và dần dần họ sẻ phát triển đến độ cao nhất..

#300

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 18/07/2011 - 22:36

DU HÀNH QUA CÁC VÙNG TÂM THỨC

Chương Ba

Victoria, Evelyn và Michelle: Sức khỏe..

Là thầy thuốc và chuyên gia về tâm thần học, tôi có nhiệm vụ chữa trị những căn bệnh về cảm xúc lẫn thể chất. Đôi khi việc chữa trị chia ra riêng rẽ, nhưng thường thì cùng một lúc vì tinh thần và thể chất ảnh hưởng lẫn nhau. Tôi nhận thức về cái khái niệm “tinh thần khỏe mạnh”, nhưng với tôi linh hồn mới là cái luôn luôn khỏe mạnh. Linh hồn mới thật sự hoàn hảo. Khi người ta nói về việc chữa trị linh hồn tôi không hiểu họ muốn nói gì. Chính vì có một khoảng cách giữa chúng ta với lòng xúc cảm sâu sắc làm cho ta nghĩ đến linh hồn cần chữa trị.

Thường thì sức khỏe kém làm cho ta chỉ biết tự yêu thương bản thân mình quá mức. Và do tính ích kỷ này chúng ta không còn nhìn thấy lòng tự ái, sự cảm thông, bản năng kiềm chế tính nóng giận, sự kiên nhẫn. Khi chúng ta không hiểu tất cả những đức tính này, chúng ta sẽ tiến đến một cấp độ cao hơn của sự bất diệt. Khi yếu đau ta thường chỉ nghĩ đến bệnh tình của ta, vì vậy rất ít có cơ may tiến bộ. Do đó trong chương trình này tôi viết về bệnh thể xác và những căn bệnh của tinh thần, như là sự ám ảnh, nỗi sợ hãi, sự trầm cảm, lo lắng và làm thế nào để lắng dịu.

Những kiếp sống quá khứ có ảnh hưởng đến điều đó? Hoàn toàn có. Những đời sống sau này cũng sẽ bị ảnh hưởng? Nhiều hơn nữa, vì bằng chứng xác thực sẽ tiếp tục tích lũy. Tôi tin điều đó. Tôi sẽ giới thiệu đến các bạn 2 người rất đáng nể, Victoria và Evelyn. Người thứ nhất bị bệnh ung thư hành hạ mỗi ngày. Người thứ hai thì bị chứng lo lắng kinh niên, đến nỗi cuộc sống đầy thành công của cô gần như bị mất phương hướng. Tôi điều trị cho Victoria bằng cách đưa cô về quá khứ, còn Evelyn thì tôi dẫn cô đến kiếp sau.

Vào lúc này tôi đã thông thuộc với hành trình quay về quá khứ gây nhiều sững sờ, hay những việc phát hiện đầy kinh ngạc. Nhưng trường hợp của Victoria làm tôi tràn đầy cảm giác kỳ diệu. Cách đây 24 năm khi tôi điều trị cho Catherine thì tôi không có nhiều cảm giác như vậy. Victoria là nhà vật lý, cô sống tại Manhattan, cô là một thành viên danh tiếng của Viện Khoa học và Nghệ thuật. Tôi gặp cô tại buổi khai mạc khóa hội thảo 5 ngày ở Viện Omega, Trung Tâm Điều Trị và Thực Tập tại Rhinebeck, New York.

Cô nói với tôi rằng đã 16 năm qua cô phải chịu đau đớn ở lưng do bị ung thư. Cô đã mổ nhiều lần và ngay cả những lần hóa trị, xạ trị cũng không chữa khỏi. Cô cho tôi xem bệnh án ghi chi chít tình trạng bệnh của cô. Sự đau đớn không lúc nào ngơi, giống như cơn đau nhức nhối liên tục của bệnh viêm răng. Hằng đêm cô phải tiêm morphine với liều cao để bớt bị hành hạ bởi cơn đau. Nhưng ban ngày cô phải chịu đựng đau đớn về thể xác để tinh thần tỉnh táo làm việc. Cô chưa già lắm chỉ khoảng giữa tuổi 50, nhưng tóc cô đã bạc nhiều do đau bệnh. Cô không thích mái tóc bạc này nên đã nhuộm đi.

Victoria xác nhận đã ngưng thuốc vài ngày trước buổi hội thảo, vì vậy cô có thể tập trung nghe tôi thuyết trình. Nhưng bây giờ cô hỏi tôi:

- Làm sao tôi có thể chịu đựng trong 5 ngày mà không có thuốc? Chắc tôi phải về nhà bằng xe cứu thương.

Tôi nói:

- Cô phải hết sức cố gắng thôi. Nhưng không sao, tôi sẽ thông cảm nếu cô bỏ về.

Cô đã dự hết khóa hội thảo đó và lúc kết thúc cô đưa tôi bản cáo của cô. Tôi biết nó rất quan trọng và khuyên cô nên chia sẻ với nhóm. Trong tuần đó cô đã có vài lần du hành trở lại kiếp quá khứ, một kiếp sống bị vùi dập. Kiếp sống này xuất hiện vào thời kỳ của Chúa Jesus, gần thành Jerusalem. Lúc đó cô là một anh nông dân nghèo khổ, một người đàn ông lực lưỡng nhưng rất yêu thương chim muông và thú vật. Anh sống với vợ và con gái trong một căn nhà gỗ ven đường, không đụng chạm đến ai.

Victoria nhận ra cô con gái đó cũng chính là con gái của cô bây giờ. Ngày nọ, anh nông dân gặp một chú chim bồ câu bị thương, gãy cánh. Anh quỳ xuống chăm sóc cho nó. Anh đã chặn lối đi của một tên lính La Mã trong sắc phục của đoàn quân tinh nhuệ bảo vệ cung điện. Anh bị tên lính đánh đập dã man ở sau lưng, nhiều đốt xương sống bị gãy. Những tên lính khác đốt nhà và giết vợ con anh. Nỗi đau đớn và căm thù những tên lính La Mã rực cháy trong tim anh. Từ đó anh không còn tin tưởng ai. Sống lưng anh không bao giờ chữa khỏi.

Trong nỗi tuyệt vọng và đau đớn cả tinh thần lẫn thể xác, anh lê lết đến gần ngôi đến chính trong thành Jerusalem. Ở đó anh sống trong một cái mái che, tồn tại nhờ vào rau quả mà anh trồng được. Anh hết khả năng làm việc, chỉ quanh quẩn với con khỉ, con vật duy nhất, và đi lại bằng cái nạng. Mọi người nghĩ rằng anh là một ông lão, nhưng thực ra anh chỉ hơi già và bị tàn phế. Khi nghe tin đồn có một vị giáo sĩ Do Thái nổi tiếng là người thầy chữa bệnh giỏi, anh liền khăn gói vượt cuộc hành trình vạn dặm đến đó để nghe bài thuyết giáo của vị giáo sĩ này, đó là “Bài Thuyết Giáo Trên Núi” không có gì là chữa trị hoặc làm giảm đau, nhưng dù sao thì cũng khác lạ.

Tín đồ của ông nhìn thấy dáng dấp anh nông dân phát hoảng và đuổi anh đi. Anh trốn sau bụi cỏ và ở đó mắt anh đã chạm vào mắt của Yeshi. “Đó là cái nhìn sâu thẳm và tràn đầy lòng từ ái”. Victoria nói với tôi.

Yeshua nói với anh nông dân:

- Đừng đi quá xa.

Anh không biết gì ngoài vâng lời. Buổi gặp mặt chỉ mang lại cho anh niềm hy vọng chứ không hề chữa trị. Anh quay về chái nhà lòng đầy thôi thúc bởi lời giảng giải của vị giáo sĩ. Anh tìm thấy trong đó sự thật rõ ràng. Khi vị giáo sĩ trở lại thành Jerusalem, anh nông dân cảm thấy lo lắng. Anh biết Yeshua đang bị nguy hiểm, có nhiều tin đồn về kế hoạch hại ông của người La Mã. Anh đã cố hết sức để gặp và cảnh báo ông, nhưng quá muộn. Ngày hôm sau người ta kể chuyện ông bị đóng đinh trên cây tự ác. Anh nông dân biết ông hoàn toàn bị mất nước.

Can đảm đến kinh ngạc, ông đến chổ Yeshua mang theo khăn ướt và vắt nước vào miệng ông. Nhưng Yeshua đã qua đời. Anh nông dân cảm thấy trời đất sụp đổ, nhưng rồi Yeshua quay lại nhìn anh, một lần nữa, với ánh mắt từ ái vô tận, dù thân thể Người đang quằn quại, khô rát, mỏng manh. Mặc dù Yeshua không nói lời nào nhưng anh bắt đầu nhận thức được những lời nói của Người khắc sâu vào tâm trí: “Ổn rồi. Điều này có nghĩa là tồn tại”. Yeshua ra đi. Anh nông dân theo Người đến Calvary, đi đến cuộc hành trình.

Victoria nhớ lại vài phút sau khi Yeshua chết, anh nông dân khóc nức nở dưới cơn mua tầm tả. Từ khi anh mất gia đình, Yeshua là người duy nhất anh tin tưởng. Nhưng bây giờ vị giáo sĩ cũng ra đi. Bổng nhiên anh cảm thấy như có một dòng điện chạy trên đầu, nó di chuyển đột ngột và nhanh làm nhói buốt xương sống. Anh bắt đầu nhận ra mình đã đứng thẳng được, đã hết đau, hết tàn tật. Anh khỏe lai.

Victoria gào lên (trong hiện tại):

- Nhìn kìa, nhìn kìa.

Cô bắt đầu khiêu vũ, lắc mông, cơn đau hoàn toàn chấm dứt. Không có một nhân chứng lúc anh nông dân đứng thẳng lên được, câu chuyện xãy ra đã 2.000 năm, nhưng ở đây, tại buổi hội thảo này mọi người nhìn thấy Victoria nhảy múa, vài người gào thét theo. Mắt tôi ứa lệ. Đôi khi tôi ghi chép lại như để tường thuật lại một trường hợp, tôi bỏ quên cái cảm giác diệu kỳ, cái cảm giác về điều huyền bí, kính trọng và sợ hãi rất rõ ràng mà cuộc du hành này đã mang lại cho tôi.

Đây không hề có một chút gì trong tình trạng bị thôi miên. Cô bị đau cột sống nghiêm trọng và hư tổn sụn; bệnh tình và cách xét nghiệm của cô, được ghi chép đầy đủ trong hồ sơ bệnh án mà cô đã đưa tôi xem. Tôi nghĩ rằng “làm thế nào để một nhà vật lý, người đàn bà của khoa học này sẽ đưa vào cuộc đời mình những gì vừa xảy ra?”. Đó là một câu hỏi thuộc về trí tuệ và có lẽ sẽ có câu trả lời đúng lúc. Khoảng một lát sau, khi tôi quan sát cô, tôi có thể cảm nhận được niềm vui của cô.

Có điều gì đó rất lạ lùng đang xãy ra ở đây. Với tôi điều này không thể giải thích được. Nó vượt qua sức khỏe và sự điều trị này đã đến một cõi siêu việt. “Điều này có nghĩa là sự tồn tại”, Jesus, người chữa lành bệnh, đã nói với cô ta. Tôi nhận thức được lời nói quan trọng, nhưng tôi không biết làm sao để diễn đạt được. Khi khóa hội thảo kết thúc, cô điện thoại cho tôi vào một buổi tối, vẫn chưa hết bàng hoàng. Cả hai chúng tôi, hai nhà khoa học, nhận ra rằng cảnh tượng Chúa Jesus mà cô nhìn thấy có một giá trị vững chắc. Vì lý do nào đó mà chúng tôi không hiểu, nó đã vượt qua giới hạn khoa học để đến hai điểm nơi mà số phận đã an bài, để cô được chữa trị.

Tôi dặn cô giữ liên lạc với tôi, và chúng tôi nói chuyện với nhau đều đặn. Cô vẫn đi lại nhẹ nhàng, không còn đau đớn nữa, và có thể xoay hông qua lại, Khi cô trở lại tiệm làm tóc, người thợ làm đầu hết sức ngạc nhiên là tóc cô đang trở lại màu đen, màu tóc tự nhiên của cô. Cô kể rằng bác sỹ nội khoa lặng đi vì kinh ngạc, bởi bây giờ cô có thể nhảy múa, đi lại mà không còn đau đớn. Vào tháng Mười, dược sĩ của cô điện thoại đến hỏi thăm vì cô không còn mua thuốc trị bệnh nữa. Cô nói rằng:

- Tôi không còn cần thuốc nữa.

Ngạc nhiên vì tất cả những gì đã xảy ra, cô bật khóc:

- Vâng, tôi khỏe.

Công việc của Evelyn như một nhà môi giới, cô tạo điều kiện liên doanh giữa hai công ty, hoặc bán công ty nào cho công ty kia. Đến khi những công ty này lớn mạnh thu về hàng trăm triệu đô la, và chi phí thanh toán cho công ty cô đang làm thường lên đến 7 chử số. Lương và tiền thưởng của cô rất cao, thường thì gấp hai hoặc gấp ba lần, phần thưởng do cô mạng lại nhiều vụ kinh doanh mới. Cô ở độ tuổi 30, dáng người thanh mảnh hấp dẫn, với mái tóc đen cắt ngắn, mang phong cách sáo rỗng của hầu hết các nhà quản lý nữ trẻ.

Cách ăn diện phản ánh sự thành công của cô. Bộ trang phục và giỏ xách hiệu Chanel, khăn choàng hiệu Hermès, đôi giày Gucci, đồng hồ Rolex, và dây chuyền kim cương. Tuy nhiên khi nhìn vào mắt cô tôi thấy nỗi buồn sâu thẳm, cũng không dể gì vì đôi mắt cô quay ngoắt đi ngay lúc cô bắt đầu nhận ra cái nhìn của tôi. Cái ánh sáng lấp lánh của vòng kim cương quanh cổ chứ không phải là sự biểu hiện của cô.

Khi bắt tay tôi, cô nói ngay:

- Tôi cần ông giúp.

Trong lúc ngồi, tay cô bối rối xoắn qua xoắn lại trên đùi. Tôi nhanh chóng hiểu rằng cô được nghe những câu tuyên bố đơn giản với giọng la lớn không bình thường.

- Tôi không hạnh phúc.

Yên lặng. Tôi khuyến khích.

- Nói tiếp đi.

- Tôi mất hết tất cả niềm tin.

Câu nói có vẻ trang trọng và lạ lẫm. Rồi tôi chợt nhớ đó là một câu trích đoạn trong vở kịch Hamlet. Bệnh nhân thường dùng lời nói của ai đó để họ không phải nói lên lời lẽ riêng tư, đó là một sự bảo vệ, là cách họ che giấu cảm xúc. Tôi chờ đến một lát sau cô mới nói tiếp.

- Lúc trước tôi rất yêu thích công việc của mình, bây giờ thì tôi rất ghét nó. Tôi đã từng yêu thương chồng tôi rất nhiều, bây giờ thì tôi đã ly dị. Tôi không thể chịu đựng nỗi mỗi khi gặp anh ta.

Tôi hỏi:

- Cô thay đổi từ lúc nào?

- Nhiều lần đánh bom tự sát.

Một câu trả lời hoàn toàn không mong đợi làm tôi dừng lại giây lát. Nhiều khi tính khí thấy thường quay ngoắt từ vui vẻ sang thất vọng là do cái chết của người cha hay người mẹ (sau này tôi biết được là cha của Evelyn chết lúc cô còn nhỏ), hoặc là bị mất việc (đây không phải là trường hợp của Evelyn), hoặc do ảnh hưởng của một căn bệnh kéo dài (Evelyn rất khỏe mạnh). Nhiều lần đánh bom tự sát, trừ khi một người bị tấn công, ít nhất có thể cho rằng đây là sự thúc đẩy không bình thường.

Cô bật khóc:

- Tội nghiệp dân Do Thái. Tội nghiệp dân Do Thái.

Cô lấy hơi và ngưng khóc:

- Quỷ tha ma bắt những tên Ả Rập!

Từ chửi thề này hình như không giống tính cách cô, dấu hiệu của cơn thịnh nộ ẩn nấp bên dưới. Tôi hỏi cô:

- Cô là người Do Thái.

- Với cả trái tim và linh hồn.

- Cha mẹ cô có yêu nước như cô không?

- Không. Họ không có ý thức nhiều lắm. Tôi cũng vậy. Họ không quan tâm về Israel. Với tôi vấn đề quan trọng vì đó là một dân tộc, một đất nước. Người Ả Rập mong muốn tàn phá nó.

- Còn chồng cô thì sao?

- Anh ta tuyên bố là người Do Thái, nhưng anh ta cũng không quan tâm gì đến Israel. Đó là một trong những lý do mà tôi ghét anh ta.

Cô ta chằm chằm nhìn tôi phản kháng, có lẽ vì tôi vẫn giữ bình tĩnh trước cơn cuồng nộ của cô.

- Này nhé, tôi đã không còn thích ăn uống, hay tình yêu, hoặc kinh doanh nữa. Tôi nản chí, bất mãn, mất ngủ. Tôi biết tôi cần điều trị tâm lý. Ông là người nổi tiếng. Xin hãy giúp tôi.

- Vậy thì cô có thể tìm hiểu nguyên nhân của sự giận dữ và lo lắng?

Cô gục đầu xuống:

- Tôi muốn tìm lại hạnh phúc. Tôi đi xem phim, đi mua sắm, đi ngủ, lúc nào tôi cũng nghĩ làm sao mà tôi ghét dân Ả Rập đến như vậy. Tôi ghét Liên Hiệp Quốc. Tôi biết họ làm rất tốt, nhưng họ thống trị bằng cách chống người Xê mít. Mỗi lá phiếu đều chống lại Israel. Tôi biết là tôi đang phản ứng quá mức. Tôi biết tôi nên quan tâm đến chuyện khác. Nhưng quỷ tha ma bắt đám Ả Rập. Làm sao mà chúng có thể giết trẻ em Do Thái như vậy? Làm sao mà tôi có thể quan tâm đến chuyện khác được?

Chúng tôi cố gắng trị liệu tâm lý thông thường, khám phá tuổi thơ trong kiếp sống hiện tại, nhưng nguyên nhân của cơn giận dữ và lo lắng dường như không phải ở đó. Cô đồng ý một cuộc thoái chuyển trở về quá khứ.

- Hãy quay về đúng thời gian và không gian khi cơn giận dữ đầu tiên của cô bắt đầu.

Tôi chỉ dẫn khi cô đã đi sâu vào trạng thái bị thôi miên. Đây là điều tôi có thể đưa cô đi xa hơn. Cô có thể thu thập được bất cứ khi nào, bất cứ nơi nào đã xảy ra.

- Đây là thế chiến thứ hai.

Cô nói trong một giọng nam trầm, ngồi thẳng với sự biểu lộ thiếu tin tưởng.

- Tôi là sĩ quan Nazi, nhân viên mật vụ Đức Quốc Xã. Tôi có một công việc tốt. Đó là công việc giám sát lùa dân Do Thái lên xe chở gia súc về Dachau, nơi họ sẽ bị giết. Bất cứ người nào tìm cách trốn thoát đều bị tôi bắn. Tôi không muốn làm vậy, không phải tôi quan tâm về bọn vô lại chết, mà tôi không thích bị mất đạn. Đạn rất mắc. Chúng tôi được lệnh là phải tiết kiệm tối đa đạn dược.

Bài thuộc lòng có tính máu lạnh của cô đã gây ra một ấn tượng sai lầm bởi giọng đầy căm thù và run rẩy, điều này đã chi phối thân thể cô. Là người Đức có lẽ cô không cảm thấy hối tiếc về chuyện giết người; nhưng xin nhớ cô là Evelyn, vì vậy cô đau đớn cực độ. Tôi khám phá ra rằng cách chắc chắn nhất, để đầu thai vào một nhóm người đặc biệt được đinh rõ bởi tôn giáo, sắc tộc, hoặc văn hóa, sẽ ghét nhóm người nào đó trong kiếp sống hiện tại, họ sẽ có thành kiến hoặc kịch liệt chống đới lại nhóm đó.

Tôi không hề ngạc nhiên rằng Evelyn từng là người Nazi. Trong kiếp này cô mãnh liệt bảo vệ Israel là sự đền bù cho kiếp trước làm người Đức cô đã chống đối người Xê mít. Nhưng cô đã đền bù thái quá. Sự căm ghét dân Do Thái đã chuyển thành sự căm ghét ngang bằng đối với người Ả Rập. Không có gì ngạc nhiên khi cô cãm thấy lo lắng, sợ hãi và thất vọng. Cô không đi quá xa trên hành trình hướng đến sức khỏe.

Evelyn đi đến phần khác trong kiếp làm người Đức. Quân đội đồng minh đã đổ vào Ba Lan, cô bị giết ngay chiến tuyến trong trận giao tranh ác liệt. Khi xem xét lại cuộc đời sau cái chết trong kiếp đó, cô cảm thấy hối hận và đầy tội lỗi. Bây giờ cô cần quay lại để xác định rằng cô đã có một bài học, để đền bù cho những người cô đã làm tổn thương trong kiếp cô là người Đức. Chúng ta là những linh hồn, tất cả đều là một phần của đấng Toàn Năng, tất cả đều giống nhau, không kể người Đức hay Do Thái, người Cơ Đốc hay Ả Rập. Nhưng rõ ràng là Evelyn không hấp thu được bài học này, vì sự căm thù của cô không hề biến mất.

Sau khi đưa cô quay về hiện tại, tôi nói với cô:

- Tôi muốn thử nghiệm, liệu cô có muốn mạo hiểm không?

Cô hăm hở đồng ý. Cô đã cảm thấy dễ chịu, tay cô không còn cử chỉ bối rối. Cô nhìn tôi hy vọng. Tôi nói:

- Tôi tin rằng chúng ta có khả năng ảnh hưởng những kiếp sống ở tương lai, bằng những gì chúng ta làm trong kiếp sống này. Ngay bây giờ cô có thể ảnh hưởng đến kiếp sau của cô, do sự câm hờn người Ả Rập, cũng như cô bị ảnh hưởng kiếp sống khi cô ghét người Do Thái. Bây giờ tôi muốn đưa cô đi đến đời sống kế tiếp của cô, có thể xảy ra khi cô còn nán lại đến cuối cùng kiếp này, có hay không một Evelyn không thay đổi, một người đã nhờ tôi giúp đỡ.

Tôi đưa cô vào trạng thái bị thôi miên thật sâu và hướng cô đến một kiếp sống tương lai. Ở đó may ra có mối liên quan đến kiếp làm lính Đức và sự thành kiến chống khối Ả Rập hiện tại. Mắt cô nhắm nghiền, nhưng rõ ràng những gì cô nhìn thấy rất sinh động.

- Tôi là cô gái đạo Hồi. Một cô gái Ả Rập ở tuổi thanh thiếu niên. Tôi sống trong túp lều làm bằng thiếc, giống như túp lều của dân du cư Ả Rập thường sống ở sa mạc. Tôi đã sống ở đó cả đời.

Tôi hỏi:

- Túp lều đó ở đâu?

Cô cau mày:

- Ở lãnh thổ Palestine hay Jordan gì đó. Không rõ lắm, vùng biên giới đã thay đổi.

- Biên giới đã thay đổi lúc nào vậy?

- Chúng luôn luôn thay đổi. Nhưng mọi thứ đều vậy. Chiến tranh với người Do Thái tiếp tục. Bất cứ lúc nào có được thời kỳ hòa bình là đám người cấp tiến phá hủy ngay. Điều này có nghĩa là chúng tôi rất nghèo. Chúng tôi sẽ luôn luôn nghèo.

Giọng cô bắt đầu khó nghe:

- Đó là lỗi của người Do Thái. Họ rất giàu nhưng họ không giúp chúng tôi. Chúng tôi là những nạn nhân.

Tôi bảo cô đi xa hơn nữa, nhưng cô đã chết sớm vì một cơn bệnh và không thể biết gì thêm. Thay vào đó cô đã có một thoáng nhìn về một kiếp sống sau đó. Cô là một người đàn ông đạo Cơ đốc sống ở Đông Phi, giận dữ vì sự phát triển nhanh chóng của cộng đồng đạo Hindu trong một phần thế giới của anh ta. (Tôi nghĩ thật tức cười, thành kiến không bao giờ chấm dứt). Trong sự suy xét cuộc đời cô nhận ra “Đã có và luôn luôn có người để ghét”. Tuy nhiên giờ đây, ít ra, cũng có một buổi lễ Hiển linh?

Cô nói, giọng đầy thán phục:

- Lòng từ ái và tình yêu xóa tan sự căm hờn và vũ lực. Bạo lực chỉ kéo dài thêm đau khổ.

Khi tôi đưa cô về thực tại, chúng tôi đã thảo luận về những điều cô đã trải nghiệm. Cô biết cô phải sửa đổi những giả định về người khác và những nền văn hóa khác. Cô cần thay thế thù hận bằng lòng thương cảm. Những khái niệm này rất dễ hiểu nhưng rất khó thực hiện trong cách cư xử.

Tôi đã chỉ ra một điều:

- Cô đã thấy hai kiếp sống để mà nhận thức được vấn đề. Nhưng nếu bây giờ cô có thể thay đổi nhanh chóng, những gì cô đã hiểu về khái niệm ở hiện tại thì sao? Những kiếp sau của cô sẽ như thế nào?

Trong lần du hành kế tiếp tôi đưa Evelyn đến kiếp sau; một kiếp có liên quan đến kiếp làm lính Đức, và liên quan đến lòng căm giận của cô trong kiếp hiện tại.

- Lần này cô hãy bỏ hết tất cả thành kiến ở cuộc sống hiện tại. Cô sẽ thấy mọi linh hồn và con người ngang bằng, liên quan với nhau do sức mạnh tinh thần của tình yêu thương.

Một chút bình tĩnh bao trùm lên cô. Kiếp sau của cô hiển nhiên thay đổi. Cô không thấy mình sống ở Ả Rập hoặc Đông Phi, thay vào đó cô thấy rằng:

- Tôi làm quản lý khách sạn ở Hawaii. Ở đó cũng có suối nước khoáng. Khách sạn và suối nước khoáng rất đẹp. Hoa mọc khắp nơi. Du khách đến từ khắp thế giới, từ nhiều nước và nhiều nền văn hóa khác nhau. Họ đến tìm sự phục hồi nguồn năng lượng. Tất dễ thôi vì suối nước khoáng rất tốt và khung cảnh rất lộng lẫy.

Cô mỉm cười trong mộng:

- Tôi diễm phúc quá. Tôi tận hưởng cả năm quanh khách sạn.

Dĩ nhiên, thật là một ảo tưởng đáng yêu, khi bạn tưởng tượng bãn thân làm quản lý tại một suối nước khoáng tuyệt hảo, trong một khung cảnh tuyệt vời, chung quanh ngào ngạt hương hoa. Những gì mà Evelyn nhìn thấy trong cuộc du hành đến kiếp sống sau có lẽ thật sự là một ảo mộng, một dự đoán, hoặc là nỗi niềm ao ước. Khi tôi đưa ai đó thoái lui, đôi khi cũng khó phân biệt giữa hồi ức thật hay là một ẩn dụ, sự tưởng tượng, hoặc một biểu tượng.

Tuy nhiên trong những kiếp quá khứ mờ ảo, nếu một người đang nói bằng tiếng nước ngoài, mà chưa bao giờ học thì đó là dấu hiệu của tính xác thực, như là chi tiết lịch sử chính xác. Nếu hồi ức này nuôi dưỡng sự xúc động mãnh liệt đó cũng là một dấu hiệu. Nhưng thường sự xúc động mãnh liệt này đi đôi với quá trình tiến triển, thì việc đánh giá khó khăn hơn. Tôi mổ xẻ một giả thiết rằng, thậm chí như một quá trình tiến triển không thể kiểm tra thì nó vẫn là một công cụ siêu nhiên chữa bệnh.

Vâng, ẩn dụ và ảo mộng là có thể, nhưng chữa trị là phần quan trọng. Trong hành trình quay về kiếp trước hoặc đến kiếp sau thì những triệu chứng biến mất, bệnh tình đỡ hơn, thoát khỏi mọi lo lắng, thất vọng, sợ hãi. Không ai tìm được cách nào để xác định một tương lai tưởng tượng có xảy ra hay không. Những người tham gia với tôi trong lãnh vực này, chắc chắn phải đương đầu với sự mơ hồ. Nếu một bệnh nhân được đưa đến tương lai trong lúc đang sống ở hiện tại, thì bạn có thể xác định điều đó khi cảnh tượng xảy đến.

Nhưng rồi có khả năng người bệnh nhìn thấy tương lai của họ, để quay ngoắt cuộc đời họ theo hướng đó. Vì cảnh tượng đó chỉ là ảo mộng, không có nghĩa là bạn có thể biến nó thành sự thật. Mọi người ngồi trước mặt tôi đều nhắm mắt lại. Bất kể những gì xen vào tâm trí họ, một ẩn dụ, hình ảnh, biểu tượng, ảo mộng, hoặc là một hồi ức thật sự, tất cả đều có lợi cho việc chữa lành bệnh. Đây là nền tảng của phương pháp điều trị rối loạn tâm thần, và cũng là nền tảng của công việc tôi đang làm. Mặc dù phạm vi của công việc có rộng hơn, nó chiếm cả một đoạn đường dài từ quá khứ đến tương lai.

Từ những viễn cảnh của người lành bệnh, có thể cho rằng kiếp làm lính Đức của cô là thật, bởi vì những xúc động mãnh liệt cùng thể hiện ngay lúc đó, điều này không quan trọng là cảnh tượng Evelyn nhìn thấy ở quá khứ và cái sẽ xảy ra là đúng. Tôi biết rằng những cảnh tượng tương lai mà cô nhìn thấy đả ảnh hưởng cô theo cách đầy quyền lực, bởi vì họ nói với cô rằng, nếu cô không thay đổi cô sẽ lập lại cái vòng tổn thương nghiêm trọng của người hung hãn và nạn nhân.

Nhưng nếu cô thay đổi cô sẽ phá tan được cái vòng đó. Những cảnh tượng khác nhau của kiếp sau dạy cô biết rằng, cô phải có một ý chí để hình thành tương lai và thời gian để mà thực tập cái ý chí đó là ngay bây giờ. Evelyn quyết định không chờ đợi đến kiếp sau rồi mới đem lại sự phục hồi lành mạnh cho cô và người khác. Vài tháng sau buổi điều trị cuối cùng, cô rời bỏ công ty và mở một nhà trọ kèm điểm tâm tại Vermont. Cô tập Yoga và thiền định đều đặn.

Vẻ bề ngoài và trong tâm trí, một cách sâu sắc, cô đã bỏ hết lòng căm hờn và thành kiến. Cuộc du hành đã giúp cô đạt được hạnh phúc, cái mà cô đã đến gặp tôi để tìm kiếm. Trong cô, tôi tìm thấy một kiểu mẫu cho quyền lực của cuộc du hành và xa hơn nữa sự tự tin được dùng như một công cụ trị liệu. Có lẽ Victoria và Evelyn không có những chuyến du hành mà thiếu nhà trị liệu hướng dẫn. Thời gian thực hành một mình những chuyến đi ngược về quá khứ và đi đến tương lai là rất khó.

Trong những buổi hội thảo tôi dạy về bài tập điều trị có thể thực hành ở nhà, ngay cả khi không có nhà trị liệu bên cạnh. Tôi cũng đã làm nhiều đĩa CD có thể dùng thêm trong quá trình. Họ có thể dùng để làm dịu bớt nỗi đau của thể xác và tinh thần. Đễ đạt được kết quả tốt, bạn phải đi sâu vào trạng thái thư giản. Nhiều nhà trị liệu kể cho bạn nghe những cuốn sách của họ về cách để thư giản; bất cứ cái gì làm cho bạn đều tốt cả. Trong hình thức đơn giản tôi có thể chỉ cho bạn phương pháp như sau:

Tìm một nơi nào cho riêng bạn và không bị phá rối, phòng ngủ hay đại loại một phòng làm việc cũng được. Bạn hãy nhắm mắt. Hãy tập trung vào hơi thở, tưởng tượng rằng mỗi hơi thở bạn đang tống ra ngoài sự căng thẳng và rối loạn cơ thể, và mỗi lúc bạn hít vào bạn đang thở trong một năng lực tuyệt vời. Rồi bạn tập trung vào chỗ khác trên cơ thể. Thư giản cơ mặt, miệng, cổ, vai, lưng, bụng, dạ dày, và chân. Hơi thở đều đặn, hít vào năng lượng, thở ra sự căng thẳng. Tiếp theo, sau khi thư giản tất cả mọi cơ bắp, hãy hình dung một ánh sáng tuyệt đẹp trên đầu bạn, và một ánh sáng chữa bệnh bay lượn khắp cơ thể bạn, từ đầu đến chân, ấm dần lên, khỏe mạnh hơn ngay khi ánh sáng này dần dần hạ xuống. Khi tôi hướng dẫn bài tập, tôi đếm ngược từ 10 trở xuống 1, nhưng bạn không cần làm như vậy nếu bạn chỉ có một mình.

Điều trị song đôi: Phương pháp đo lường trạng thái tâm lý.

Trong những lần hội thảo và những buổi thảo luận tôi cho khán giả chia làm 2 nhóm, hoàn toàn xa lạ với nhau. Mỗi người được hỏi và thu nhặt một món đồ vật khống chế để trao cho đối tác của mình, vật nhỏ như xâu chìa khóa, vòng đeo tay, kính đeo mắt, dây chuyền hoặc là một chiếc nhẫn. Họ trao đổi đồ vật cho đối tác, sau đó tôi cho họ vào trạng thái thư giản chung trong tất cả các bài thực tập.

Tôi nói với họ:

- Các bạn sẽ nhận được một ấn tượng về người mà bạn đang giữ đồ vật của họ. Điều này có thể làm bạn suy nghĩ lạ lùng. Nó có vẻ như cái ấn tượng đó chẳng có nghĩa gì với người đàn ông hay đàn bà mà bạn sẽ đối diện. Nhưng dù ý nghĩ đó có ngớ ngẩn hay bất bình thường hay kỳ lạ, bạn nên nhớ rằng nó sẽ được chia sẽ với đối tác của bạn. Sau hết, cái gì mà bạn cho là kỳ quặc có thể rất có ý nghĩa với đối tác của bạn.

Chuyện này còn hơn trò bịp nguy hiểm dù có thể nó rất vui. Có một bộ phận chẩn đoán, khoảng một phần ba khán giả của tôi trong buổi hội thảo ở thành phố Mexico nhận được triệu chứng thể chất của đối tác. Những người tham dự có khả năng khám phá, thường thì quên lãng nhưng đặc biệt, những tình tiết trong thời thơ ấu của đối tác họ. Ví dụ như tại lớp học của tôi ở Đại Học Quốc gia Florida bang Miami, có một anh thanh niên chưa từng gặp nữ đối tác của anh cho đến giây phút đó, anh miêu tả hoàn toàn chính xác buổi tiệc sinh nhật năm lên mười của cô, lần đó cô bị người chị làm quê mặt.

Còn một anh chàng thanh niên khác thì bị bắn ở cẳng tay trái trong lúc anh cố thoát khỏi tên côn đồ đang toan cướp của anh. Anh mặc áo sơ mi dài tay cài khuy, vì vậy cô bạn đối tác không thể nhìn thấy vết sẹo của anh, cô cảm thấy một cơn đau buốt nơi cẳng tay trái của cô. Vài người miêu tả đời sống quá khứ của người khác; có người lại miêu tả ngôi nhà nơi mà đối tác của họ đã lớn lên. Ngay cuối buổi hội thảo Mexican, tôi bảo năm người cầm micro để chia sẻ với nhóm những điều họ đã trải qua.

Bốn người trong số họ đã có những cuộc trải nghiệm liên quan đến người chết. Họ nhận được những lời nhắn của người thân yêu đã chết của đối tác, họ đều nhận ra qua đối tác của họ, những người mà họ chưa từng gặp cho đến lúc đó. Có người đã miêu tả người chết như thế nào. Một người nói anh đã thấy cô bé sáu tuổi đi thụt lùi, điều mà anh muốn nói là cô bé đã chết. Cô bé nói rằng “con khỏe, con không sao. Mẹ đừng có đau buồn quá. Con yêu mẹ.” Đối tác của anh, một phụ nữ bật khóc. Cô vừa mất đứa con gái sáu tuổi cách đó vài tháng.

Bài thực hành này có thể tập ở nhà, nhưng sẽ đạt hiệu quả cao nhất nếu bạn tập cùng với vài người tình cờ quen hay chỉ vừa gặp gỡ. Trong lúc bạn chữa lành cho đối tác của mình bằng cách cung cấp một lời nhắn hay thu nhặt triệu chứng của thể chất hoặc xúc cảm: Lo lắng, thất vọng, buồn bã, một mối tương quan phi thường sẽ nhanh chóng phát triển. Sẽ có một ảnh hưởng phản hồi, đó là một năng lực cho bạn và cả đối tác của bạn.

Chặng đường dài chữa lành bệnh

Tôi đã từng nói rằng bài tập chữa lành bệnh đạt hiệu quả tốt nhất, nếu nó chữa trực tiếp căn bệnh cụ thể. Với Victoria là căn bệnh ung thư cột sống, với Evely là nỗi lo lắng suốt ngày lẫn đêm. Hầu hết con người đều có cơ quan dễ bị lây nhiễm, hoặc một phần nào đó của cơ thể dễ bị ảnh hưởng tình trạng căng thẳng, hoặc một căn bệnh vừa chớm. Có thể là cổ họng, đường hô hấp, lưng, da, tim..

Micelle, một phụ nữ rất đáng nể thì bị đau đầu gối. Cô nhớ lúc nhỏ cô lội dưới nước nơi bờ biển gần nhà, cô bị tảng đá ngầm xé rách đầu gối bên trái. Lớn lên, khi bị căng thẳng cô thường cảm thấy những cơn đau nhói chiếm ngự cả hai đầu gối, nhưng bên trái thì đau hơn. Cô nói với tôi:

- Lo lắng khiến tôi thiếu dũng cảm.

Thỉnh thoảng cô bị sưng phù, nhất là sau khi bị chấn thương trong môn điền kinh ở trường Đại Học, cô phải chịu một cuộc phẩu thuật nhỏ ở đầu gối trái; sau đó phải mổ khớp. Lúc tôi gặp cô, những xét nghiệm nội soi và chụp X quang cho thấy cô đã bị mất phần sụn. Cô không thể duỗi được chân trái vì tổn thương, và bây giờ cô đi đứng hơi khập khiễng. Tuy nhiên cô vẫn nhận thức được sự tổn hại về tinh thần lẫn thể xác, vì vậy cô đến tìm tôi.

Chuyến trở về đầu tiên ngắn ngủi đưa cô về lại vùng trung tâm Bắc Mỹ vào thế kỷ 19. Tên cô là Emma, vào độ tuổi trung niên cô bị một chiếc xe ngựa đè ngang. Tai nạn làm vỡ đầu gối và xương ống chân trái và đầu gối phải cũng hư hại trầm trọng. Sự nhiễm trùng sau đó khiến cô bị tàn tật suốt đời. Trong một cái thoáng nhìn vào một kiếp khác, Michelle thấy mình đang ở vào thời Trung Cổ tại Nhật Bản, lúc đó cô là một anh lính bị mũi tên đâm thủng đầu gối trái.

Cả hai chuyến trở về đã giải thích nguyên nhân của vấn đề đầu gối trong kiếp hiện tại của cô, nhưng không đi vào nguồn gốc của bài học nhân quả, vì vậy chúng tôi tiếp tục và nhanh chóng quay lại vùng Bắc Phi vào thời kỳ tiền La Mã. Michelle lại là một người đàn ông, lần này là một tên cai ngục tại một nhà tù man rợ, tên này rất thích hủy hoại chân của tù nhân để họ không thể trốn thoát. Thỉnh thoảng hắn cắt gân tù nhân bằng kiếm hoặc bằng dao; Có khi hắn đập đầu gối tù nhân bằng cây búa hoặc bằng hòn đá.

Hắn bẻ xương đùi, dùng đế giày có đinh đạp vào đầu gối, và cắt gân nối bắp chân với gót chân của tù nhân. Nhiều người chết vì nhiễm trùng vết thương, nhưng hắn thích thú với đau đớn của họ. Cấp trên của hắn cũng lấy làm vui lây khi gởi tù nhân cho hắn canh giữ. Hắn được tặng thưởng rất nhiều do những hành động tàn nhẫn, và vui sống trong xa hoa nhung lụa giữa tình trạng bẩn thỉu của nơi đó.

Michelle bị xao động bởi chuyến trở về này, và phải mất một đợt khác cô mới đạt được sự hợp nhất hoàn toàn và thông suốt. Dần dần cô nhận ra rằng con người thường đã trải qua những kiếp sống ác độc, và phần đời còn lại của chúng ta, như cô thấy rằng không nên bị mặc cảm vì đã tạo ra ác nghiệp trong kiếp quá khứ. Hành trình của chúng ta còn ở phía trước. Chúng ta đều phát triển tuần tự trải qua những kiếp bạo lực và tàn nhẫn. Kinh Cựu Ước nói rằng con cháu nhiều đời phải chịu sự trừng phạt vì tội lỗi của ông bà cha mẹ. Nhưng chính chúng ta là ông bà của chúng ta, và cũng như chính chúng ta sẽ là con cháu của chúng ta sau này.

Những tội lỗi trong kiếp trước sẽ ám ảnh đến kiếp hiện tại, cho đến khi nào chúng ta hiểu ra và hưởng được sự tha thứ. Tội lỗi trong kiếp này đã bôi đen lên những kiếp sau, nhưng nếu chúng ta đã tạo nghiệp lành trong quá khứ, thì hiện tại chúng ta đang nhận những điều tốt đẹp. Bây giờ nếu chúng ta tạo phước lành thì kiếp sau chúng ta sẽ tự dẫn dắt mình đến gần với đấng Giác Ngộ. Michelle đã hiểu được vì sao trong kiếp này đầu gối và chân cô bị đau đớn đến như vậy. Cô phải trả một cái giá quá nặng nề cho cách cư xử ở kiếp trước. Tuy nhiên giờ đây cô đã nhận ra cô có thể yên tâm, nhẹ nhàng.

Trong lúc đi sâu vào trạng thái hôn mê, cô quay trở lại kiếp sống ở Bắc Phi, nhưng lúc này thay vì gây ra những nổi đau, cô lại là người chịu sự đau đớn, xin được ban ân và lòng vị tha. Cô không thể thay đổi các sự kiện hoặc tình tiết trong kiếp sống đó, nhưng cô có thể sửa đổi những phản ứng, đối với những sự kiện trên một mức độ tâm linh. Tiến trình trở về lần này được gọi là tạo dựng lại. Dù không thay đổi được sự kiện, bạn cũng có thể thay đổi cách phản ứng như thế nào với các sự kiện xảy ra.

Michelle gởi những ý niệm tốt đẹp và chữa lành cho những người tù hoặc, tốt hơn, là cho những linh hồn của họ. Cô đã tự tha thứ cho mình. Cô nói trong làn nước mắt biết ơn:

- Tôi biết làm thế nào để phá bỏ vòng luân hồi oan trái, đó là nhờ vào tình yêu thương và lòng từ ái.

Cô dần dần khá hơn. Sự viêm nhiễm ở đầu gối tan dần. Cô phát triển hàng loạt những hoạt động của đôi chân, kiểm tra X quang cho thấy hai đầu gối hoàn toàn bình phục. Tình trạng căng thẳng liên quan đến yếu đuối đã mất hẳn. Cô thanh thản tìm hiểu tỉ mỉ và thấu triệt những bài học tinh tế của lòng từ ái và sự đồng cảm. Cô giúp đỡ những tổ chức ủng hộ việc phá hủy mình (thứ gây ra tàn tật), và những tổ chức đấu tranh chống lại sự đối xử tàn ác với thú vật. Cô đã nhận được ân huệ.

Michelle không muốn du hành vào kiếp tương lai, nhưng tôi biết điều gì sẽ xảy ra. Trong kiếp này cô cứ tiếp tục những việc làm nhân đạo, và với mỗi việc làm cô sẽ phát triển đến một trạng thái tốt hơn ở kiếp sau, và nhiều kiếp kế tiếp. Trong những kiếp sống đó cô sẽ thoát ra những vấn đề về thể chất của đôi chân, ác nghiệt cô gây ra từ kiếp sống tội lỗi ở Bắc Phi. Tôi không biết nghề nghiệp cô là gì hoặc những ai cô sẽ gặp và yêu thương, nhưng cô sẽ biểu lộ và yêu thương với tấm lòng từ ái và khoan dung..






Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |