Jump to content

Advertisements




Truyện tâm linh - hiendde



831 replies to this topic

#271 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 09/07/2011 - 10:43

NHỮNG CHUYỆN LUÂN HỒI HIỆN ĐẠI

TIẾN SĨ IAN STEVENSON


Tiến Sĩ Ian Stevenson sanh ngày 31 Tháng 10 Năm 1918 tại Montreal, Gia Nã Ðại. Cha ông là phóng viên của Tạp Chí Time, Luân Ðôn. Ian Stevenson học về y khoa và tâm lý tại Ðại Học Y Khoa Mac Gill, Montreal, Gia Nã Ðại và đậu Y Khoa Bác Sĩ năm 1943. Tiến Sĩ Ian Stevenson đã phục vụ tại Bệnh Viện Saint Joseph, Tiểu Bang Arizona, Hoa Kỳ, Viện Ðại Học Louisana, New Orleans từ Năm 1947 đến Năm 1957. Bắt đầu năm 1957 Tiến Sĩ điều khiển Ngành Tâm Trí và là Viện Trưởng Viện Tâm Trí tại Ðại Học Virginia, Charlotsville. Tiến Sĩ là tác giả của nhiều bài khảo luận về Bệnh Tâm Trí đăng trên các Tập San Y Học. Ngoài việc trị bệnh cho các bệnh nhân Tiến Sĩ còn phụ trách giảng dạy tại các Trường Ðại Học Hoa Kỳ.

Tiến Sĩ là một nhà phân tích về tâm trí có biệt tài và đến năm 48 tuổi Tiến Sĩ đã đạt đến nấc thang danh vọng cuối cùng; thế mà Tiến Sỉ bỏ nghề y khoa chuyên môn để bước sang một lĩnh vực khác, đó là công cuộc điều tra và nghiên cứu về Luân Hồi. Trong một cuộc phỏng vấn, Ký Giả Eugene Kinkaid của tờ New Yorker đã hỏi Tiến Sĩ lý do gÌ đã khiến Tiến Sĩ bỏ nghề y khoa chuyên môn để đi theo một nghề không chính thống. Tiến Sĩ đã trả lời: "Tôi không đồng ý các phương pháp áp dụng để chữa trị các bệnh nhân tinh thần. Lý thuyết của ngành tâm trí hiện nay cho rằng cá tính của một con người là do ảnh hưởng của tính chất di truyền hoặc là ảnh hưởng thời gian của người cha hay người mẹ trước và sau khi sanh, Song rất nhiều trường hợp tôi đã khám phá ra chúng ta không thể đồng ý với lý thuyết trên cả về tính cách di truyền lẫn ảnh hưởng thời gian."

Tiến Sĩ Ian Stevenson đã giải thích trong việc nghiên cứu về luân hồi Ông đã phải dùng đến nhiều phương pháp chuyên môn của một nhà sử học, một nhà luật học, một nhà tâm trí học và tìm các dữ kiện qua những chứng nhân, tài liệu như nhật ký, giấy khai sanh, báo cáo giảo nghiệm, hồ sơ bệnh lý, tin tức của các báo chí... Tập San về Bệnh Thần Kinh và Trí Não (The Journal of Nervous and Mental Desease) số 165 Tháng 9 Năm 1977 đã dành riêng nói về công cuộc nghiên cứu luân hồi, về có sự sống sau khi chết của Tiến Sĩ đã khiến cho các độc giả cùng các nhà khoa học gia rất chú ý đến những chứng minh của Tiến Sĩ. Cũng trong Tháng 5 Năm 1977 Tiến Sĩ đã đăng một bài khảo luận "The Explanatory Value of The Idea of Reincarnation" nêu vấn đề luân hồi trên tập san này.

Phản ứng của các độc giả ra sao? Tiến Sĩ Eugene Brody, nhà xuất bản tờ báo cũng là một nhà tâm trí học của Viện Ðại Học Y Khoa Maryland trong một cuộc phỏng vấn đã cho biết như sau: "Tôi đã nhận được lối 300 đến 400 lá thư của các Khoa Học Gia yêu cầu cho in lại số báo trên. Quả là đã có nhiều người chú trọng đến vấn đề này. "Tiến Sĩ Ian Stevenson đặc biệt khảo cứu các trẻ em trên thế giới cả Ðông lẫn Tây có ký ức về tiền kiếp. Ông đã xuất bản 5 cuốn sách về luân hồi, trong đó có cuốn "Children Who Remember Previous Life" (Những Thiếu Nhi Còn Nhớ Tiền Kiếp) do nhà Xuất Bản University Press of Virginia, Charlotsville phát hành năm 1987 mà chúng tôi xin trích dịch vài truyện trong tác phẩm này.


GOPAL GUPTA

Gopal Gupta sanh ngày 26 Tháng 8 Năm 1956 tại Dehli Ấn Ðộ. Cha mẹ của Gopal thuộc giai cấp trung lưu, học vấn không đáng kể. Từ lúc lọt lòng đến lúc 2 tuổi không có gì đặc biệt. Khi Gopal bắt đầu biết nói từ khoảng 2 đến 2 tuổi rưỡi, có một người khách đến thăm gia đình Gopal. Cha của Gopal sai Gopal đem cất cái ly người khách vừa uống xong. Gopal đã làm cho mọi người ngạc nhiên. Em nói rằng: "Con không thể làm việc đó vì con là một Sharma (thuộc Bà La Môn, một giai cấp thượng lưu của Ấn Ðộ). Trong cơn giận giữ, Gopal đã làm vỡ cái ly.

Cha của Gopal bắt Gopal giải thích lý do. Gopal liền kể lại vài chi tiết về tiền kiếp của em. Em cho biết trước kia em ở thành phố Mathura, cách xa Dehli 160 dậm về phía nam. Em là chủ nhân một hãng thuốc Sukh Shancharak, có một căn nhà rất lớn, có nhiều đầy tớ, có hai người anh và một người vợ. Em đã cãi nhau với một trong hai người anh và đã bị bắn chết. Gopal cho biết ở tiền kiếp em thuộc dòng dõi Bà La Môn nên từ chối không chịu cất ly vì người Bà La Môn thường không bao giờ cầm những vật dụng gì mà người giai cấp thấp hơn đã đụng tới. Gia đình của Gopal hiện tại thuộc dòng Bania, giai cấp thương mại.

Cha mẹ của Gopal không có liên hệ gì với Mathura, nên sự phát hiện của Gopal về tiền kiếp không gợi cho cha mẹ Gopal một ký ức nào cả. Mẹ của Gopal không thích và cũng chẳng bao giờ khuyến khích Gopal nói về tiền kiếp cả. Cha của Gopal thì lại càng lạnh nhạt với những câu chuyện về tiền kiếp khi Gopal kể. Tuy nhiên thỉnh thoảng cha của Gopal có kể lại cho vài người bạn nghe về chuyện tiền kiếp của Gopal. Một trong những người này cho biết hình như ông ta có nghe thấy một vụ giết người trùng hợp với câu chuyện trên ở Mathura, nhưng cha của Gopal chưa tin nên cũng chẳng mấy quan tâm để đi Mathura tìm hiểu sự việc có thật hay không.

Cho đến năm 1964, nhân cơ hội có một buổi đại hội về tôn giáo tổ chức tại Mathura, cha của Gopal trong lúc đi dự hội đã khám phá ra là tại Mathura có hãng thuốc Sukh Shancharak. Ông tìm đến Hãng thuốc và được gặp viên Quản Lý. Ông kể lại cho Viên Quản Lý nghe chuyện Gopal nói về tiền kiếp. Viên Quản Lý rất ngạc nhiên vì có một chủ nhân của hãng này đã bị người anh ruột bắn chết cách đây mấy năm. Người chủ này là Shaktipal Sharma chết ngày 27 Tháng 5 năm 1948, vài ngày sau khi bị bắn. Viên Quản Lý báo cho gia đình Sharma biết việc viếng thăm của cha Gopal. Vài người trong gia đình Sharma đã tới Dehli thăm gia đình Gopal và đã mời Gopal tới Mathura. Trong những cuộc gặp gỡ tại Mathura cũng như Dehli, Gopal đã nhận ra một số người và một số nơi mà trước kia Shaktipal đã quen biết và thêm vài tin tức đặc biệt về đời tư của Shaktipal Sharma.

Gia đình của Sharma rất ngạc nhiên vì Gopal đã cho biết trước đây Shaktipal Sharma dự định muốn mượn một số tiền của vợ và muốn lấy số tiền để cho anh mình vay hùn vốn vào công ty. Cuộc cãi vã đã xảy ra giữa hai anh em, Shaktipal muốn cho người anh nguôi giận đã tăng số tiền cho vay lên nhưng người vợ lại từ chối không cho. Do đó người anh đã cáu kỉnh và trong lúc nóng giận đã bắn Shaktipal Sharma. Chi tiết của tấn thảm kịch này đã được dấu kín không ai được biết ngoại trừ những người trong gia đình. Vụ người anh giết em này đã được đăng tải trên báo chí. Sự hiểu biết tường tận về nội vụ cùng với sự nhận dạng được một số người trước đây đã quen với Shaktipal khiến cho gia đình của Shaktipal Sharma phải công nhận Gopal chính là hiện thân của Shaktipal.

Song song với những lời tuyên bố về tiền kiếp, Gopal đã tỏ ra phong thái của một người Bà La Môn giàu có cho nên cá tính của em đã làm trở ngại không ít đến gia đình hiện tại của em. Em đã không ngần ngại nói rằng em thuộc giòng dõi cao quý hơn những người hiện tại của gia đình em. Em đã từ khước những công việc nội trợ cho rằng những công việc này chỉ đáng để cho những người đầy tớ làm mà thôi. Em không bao giờ uống sửa nếu sửa nếu được rót vào một cái ly đã có người khác sử dụng. Tiến Sĩ Jamua Prasad đã từng cộng tác với tôi (Ian Stevenson) nhiều năm trong nhiều trường hợp tại Ấn Ðộ, đã bắt tay điều tra vụ này năm 1965. Riêng tôi bắt đầu vào năm 1969 khi tôi đích thân phỏng vấn hai gia đình tại Dehli cũng như Mathura. Tôi vẫn còn liên lạc với họ cho đến năm 1974. Sau khi đi thăm Mathura vào năm 1965 thì Gopal không có ý định đến thăm nơi này nữa. Vài năm sau 1965 thỉnh thoảng Gopal có đến Dehli thăm hai người chị của Shaktipal. Nhưng sau đó thì sự liên lạc giữa hai gia đình đã không được duy trì nữa.

Gopal càng lớn lên thì cái phong thái Bà La Môn của tiền kiếp thể nhập nơi anh ngày dần biến mất và anh từ từ hòa mình với đời sống khiêm tốn của gia đình hiện tại. Anh cũng ít nói đến đời sống của Shaktipal Sharma, nhưng đến cuối năm 1974 cha của Gopal vẫn nghĩ rằng con của ông còn nhớ đến những ký ức của chuyện này. Ðối với tôi (Ian Stevenson) trường hợp luân hồi này rất đáng được kể đến vì sự trung thực, làm sao Gopal có thể biết rõ về lúc sống cũng như lúc chết của Shaktipal Sharma. Tuy Shaktipal Sharma thuộc một gia đình khá giả tại Mathura và việc anh bị thảm sát đã làm xôn xao dư luận nhưng hai gia đình Sharma và Gopal đã sống ở hai thành phố cách xa nhau và thuộc hai giai cấp khác hẳn nhau. Ðời sống xã hội của hai gia đình ở trong hai qóy đạo riêng biệt và chính tôi tin tưởng mãnh liệt là hai gia đình theo như lời họ thuật lại đã không bao giờ được biết nhau cho đến khi xảy ra sự việc trên.


CORLISS CHOTKIN JR.

Trường hợp này là lời nói trước của một người đánh cá lớn tuổi ở Tlingit, Alaska tên Victor Vincent. Ông cô cho người cháu gái Corliss Chotkin Sr biết là sau khi ông cô chết, ông cô sẽ đầu thai làm đứa con trai của cô ta. Ông cô chỉ cho cô ta thấy hai vết thẹo sau hai lần giảì phẫu, một trên sống mủi và một đằng sau lưng. Ông cô nói là đứa con cô ta (tức là ông cô tái sanh) sẽ mang 2 vết thẹo như trên. Victor Vincent chết vào mùa xuân năm 1946. Khoảng mười tám tháng sau, ngày 15 tháng 12 năm 1947, cháu gái của ông cô sanh một đứa con trai và được đặt tên là Corliss Chotkin Jr. Ðứa nhỏ mang hai vết thẹo y như hai vết thẹo của Victor Vincent trước kia.

Vào năm 1962, lần đầu tiên khi tôi (Ian Stevenson) xem xét hai vết thẹo tôi được Bà Chotkin cho biết hai vết thẹo có thay đổi theo thời gian nhưng hãy còn rất rõ ràng. Nhất là vết thẹo đằng sau lưng đã làm tôi kinh ngạc, nó rộng chừng 5 ly, dài chừng 3 phân, so với chỗ da khác thì vết thẹo này có mầu sậm hơn và hơi lồi, có nhiều chấm đen chung quanh tựa như vết thương được khâu nhiều mủi. Khi Corliss vừa được 13 tháng Bà Chotkin thường tập cho Corliss gọi tên của nó, thì Corliss thường nóng nảy nói rằng: "Mẹ không biết con là ai à? Con là Kahkody mà". Kahkody là cái tên do Bà lúc đặt cho Victor Vincent khi còn sống.

Bà Chotkin có kể lại cho một người cô thì bà này cho biết là sau khi Victor Vincent qua đời được ít lâu bà có nằm mơ thấy Victor Vincent trở về sống với gia đình Chotkin. Bà Chotkin chưa bao giờ cho bà cô ấy biết là chính Victor Vincent đã nói trước với bà là sẽ tái sanh làm con trai bà. Khi được chừng 2, 3 tuổi Corliss đã nhận ra nhiều người mà trước đây Victor Vincent đã từng quen biết trong đó có người vợ của Victor Vincent. Corliss còn kể 2 biến cố xảy ra trong cuộc đời của Vincent mà chỉ có mình Vincent biết được mà thôi. Thêm nữa còn có nhiều nét đặc biệt giống như Victor Vincent, chẳng hạn như cách chải đầu. Corliss đã chải kiểu tóc giống như Vincent trước đây.

Cả hai cùng nói lắp (cà lăm), cùng thích bơi lội và tầu bè, cùng thuận tay trái, cùng có chung khuynh hướng về tôn giáo. Cũng như Vincent, Corliss có khiếu về máy móc, có khả năng về sử dụng và sửa chữa. Mẹ của Corliss cho biết đã tự học một mình cách làm sao cho chiếc thuyền máy chạy được. Khác hẳn với cha là ông Chotkins, một người không mấy thích máy móc và càng không có năng khiếu về máy móc. Khi lên 9 tuổi, Corliss ít nói đến tiền kiếp của mình, cho đến năm 1962 thì hầu như Corliss không còn nhớ gì nữa. Tôi (Ian Stevenson) đã gặp Corliss và gia đình cả thảy 3 lần và đầu năm 1960 và 1 lần vào năm 1972. Lần gặp cuối cùng tôi thấy Corliss không còn nói lắp (cà lăm) như trước nữa, khuynh hướng về tôn giáo của anh cũng giảm đi song anh vẫn còn thích máy móc.

Trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam, Corliss đã được gửi sang chiến đấu trong đoàn Pháo Binh. Một trái đạn nổ gần bên đã làm Corliss bị điếc. Năm 1972 lần cuối cùng gặp lại Corliss, tôi thấy anh vẫn mạnh khoẻ và đang làm việc tại một nhà máy xay bột gần nhà của anh tại Sitka Alaska.


MA TIN AUNG MYO

Ma Tin Aung Myo sanh ngày 26 Tháng 12 năm 1953 tại làng Nathul miền thượng Miến Ðiện. Cha Cô là U Aye Maung và mẹ cô là Daw Aye Tin. Khi còn đang mang thai Ma Tin Aung Myo, 3 lần Bà mơ thấy một người lính Nhật cởi trần, mặc quần soọc đã theo bà và nói rằng ông ta sẽ đến ở với vợ chồng Bà. Khoảng 3, 4 tuổi, Myo đã có những hiện tượng nhớ đến tiền kiếp của mình. Mỗi lần thấy máy bay bay ngang làng Nathul, Myo đều sợ hãi và khóc. Tình trạng này kéo dài nhiều năm. Lúc lên 4 tuổi có lần Myo khóc sướt mướt; được hỏi lý do cô trả lời là cô khao khát được về nước Nhật. Rồi sau đó Myo kể là Myo là người lính Nhật đóng quân ở Nathul trong thời Ðệ Nhị Thế Chiến khi Quân Ðội Nhật Bản chiếm giữ Miến Ðiện.

Myo nói rằng cô là hỏa đầu quân và bị bắn chết trong một cuộc oanh tạc của máy bay Ðồng Minh. Myo cung cấp vài chi tiết khác về tiền kiếp mà cô còn nhớ. Trước kia Myo ở phía Bắc nước Nhật, đã lập gia đình và có một con. Trước khi nhập ngũ gia đình có một cửa hàng nhỏ. Trong lúc Quân Ðội Nhật rút lui khỏi Miến Ðiện, Cô bị máy bay bắn chết. (Có thể sự việc xảy ra vào năm 1945). Cô đã mô tả lối ăn mặc của người lính Nhật và cách thức ẩn tránh khi bị máy bay oanh tạc. Riêng cô bị kẹt ngoài bờ đê nên đã bị bắn chết. Myo không nhớ tên cũng như quê quán của người lính Nhật.

Tuy nhiên những gì Myo kể lại rất phù hợp với những biến chuyển trong thời gian Quân Ðội Nhật chiếm đóng Miền Thượng Miến Ðiện. Mẹ của Myo cho biết có quen thân với một người lính Nhật làm hỏa đầu quân khi quân đội Nhật Bản đóng tại nơi đây, nhưng không biết anh lính Nhật này chết tại đâu. Lối xử sự của Myo rất khác thường, giống như phong cách của một người lính Nhật. Myo không thích khí hậu nóng bức tại miền thượng Miến Ðiện và cũng không thích các món ăn nấu theo kiểu địa phương, Myo thích ăn đồ ăn có đường, cá sống. Myo thường tỏ vẻ mong đợi ngày trở về Nhật Bản và có nhiều khi nằm úp mặt khóc vì nhớ nhà. Myo cũng thường tức giận mỗi khi có ai nhắc tới người Anh hoặc người Mỹ trước mặt Myo.

Ðiều đặc biệt nhất là Myo thích làm con trai. Cô hay mặc quần áo đàn ông và thích cắt tóc kiểu con trai. Vì vậy khi đi học Myo bị nhà trường bắt buộc phải ăn mặc theo kiểu phụ nữ. Myo đã từ chối và năm lên 11 tuổi Myo đã bỏ học. Vì học vấn kém nên Myo đã phải làm nghề tầm thường. Năm 1974 khi tôi (Ian Stevenson) gặp Myo lần đầu tiên thì cô đang bán rong đồ ăn ở ga xe lửa. Thưở còn nhỏ, Myo thích chơi trò đóng vai người Lính. Myo đòi cha lần nào đi Mandalay cũng phải mua cho cô một cây súng giả. Ba người chị cũng như người em trai độc nhất của cô lại không thích trò này. Myo thích chơi đá banh và khúc côn cầu, hai môn thể thao chỉ dành cho con trai.

Cha mẹ Myo đã có 3 người con gái trước khi sanh Myo. Tuy cả hai ông bà đều muốn có một đứa con trai, nhưng điều đó không có nghĩa là hoan nghênh tinh thần thích làm con trai của cô. Người mẹ phản đối con kịch liệt còn người cha thì khoan dung hơn. Càng lớn, Myo càng có vẻ đàn ông, Myo thích ăn mặc theo kiểu con trai và không nghĩ đến việc lấy chồng. Ngược lại Myo nói rằng thích một người vợ. Myo coi mình như một nam nhi và không thích được đối xử như một phụ nữ. Khi U Win Maung, người phụ tá của tôi (Ian Stevenson) tại Miến Ðiện gọi Myo bằng "Ma", tiếng lịch sự để chỉ người phụ nữ Miến, thì cô yêu cầu được gọi cô là Maung, tiếng thông dụng để chỉ thanh niên Miến hoặc không dùng danh từ nào cả.

Trong một cuộc phỏng vấn, cô đã nói với tôi và U Win Maung rằng cô sẽ rất hài lòng nếu chúng tôi chọn bất cứ cách nào để giết cô miễn là bảo đảm cho cô khi được sanh trở lại cô sẽ là đàn ông. Gia đình Myo cho rằng sự luyến ái của Myo khác thường như vậy vì tiền kiếp Myo là đàn ông và cũng xác nhận cái tính khí y hệt thanh niên của cô là do tiền kiếp cô là người lính Nhật Bản. Tuy rằng chi tiết để xác minh người lính Nhật không được đầy đủ nhưng tất cả những hành động cũng như tính tình của Myo đã phản ảnh rõ ràng Myo đúng là hiện thân của một người Lính Nhật Bản. Tôi (Ian Stevenson) đã gặp lại Myo vào năm 1975 và sau đó thì không gặp nữa nhưng U Win Maung, người phụ tá của tôi tại Miến Ðiện đã gặp Myo vào năm 1970, sau này còn gặp lại cô 2 lần nữa vào năm 1977 và năm 1981.


MỐI TÌNH TUYỆT VỌNG

Ðây là một trường hợp Tiến Sĩ Ian Stevenson đăng trên tờ Journal of Nervous and Mental Disease (Tì Báo nói về Bệnh Thần Kinh và Tâm Trí) và năm 1983. Tại Rio Grand Do Sul, một Tiểu Bang cận nam của Ba Tây, một bé gái của một trại chủ giàu có tên là Senor C.J. De Oliveiro ra đời. Tên bé gái là Maria nhưng thường gọi là Sinha và thân mật hơn là Sinhazinha. Khi lớn lên Sinha rất yêu mến đời sống thôn dã nơi quê cha và thỉnh thoảng nàng thường đến chơi làng Dom Feliciano cách 12 dậm. Nơi đây Sinha quen với Ida Lorenz, vợ một giáo viên.

Rồi thì 2 lần tình yêu đến nhưng lần nào nàng cũng đều bị người cha nghiêm khắc bảo thủ ngăn cản và một trong 2 thanh niên đã tự tử vì tuyệt vọng. Sinha ngày càng héo hon sầu não. Lo lắng người cha đã thu xếp cho nàng đi du ngoạn Pelotes, một thị trấn ven biển trong mùa hội nhưng tình trạng của nàng cũng không khả quan hơn. Với mục đích hủy hoại thân mình nàng đã tự hành xác bằng cách dầm thân dưới trời giá lạnh cho đến khi kiệt sức. Nàng bị khan tiếng, nhiễm trùng cổ họng, sưng phổi rồi ho lao. Vài tháng sau nàng chết.

Trước khi chết nàng có tâm sự với người bạn thân Ida Lorenz rằng bệnh hoạn là tự nàng làm ra. Nàng còn căn dặn 2 điều:"Một, tôi sẽ tái sanh làm con gái của Ida và hai, khi biết nói tôi sẽ kể lại mọi điều về đời sống hiện tại của tôi lúc đó chị sẽ nhận ra". Ida có nói cho chồng biết và hai người cùng chờ xem sự việc xảy ra sao. Ngoài ra không một ai trong gia đình biết cả. Vài tháng sau khi Sinha chết, Ida sanh được một bộ gái đặt tên là Marta. Marta có những nét đặc biệt tương tự như Sinha. Khi Marta chưa đầy 1 tuổi, người cha của Sinha đến thăm gia đình Ida Lorenz, một gia đình khác ông Valentin cũng đến chơi cùng lúc ấy.

Ông Valentin có vẻ thương yêu chiều chuộng Marta, nhưng ngược lại Marta cứ đeo theo cha của Sinha mặc dầu ông này thường không thích trẻ nhỏ. Marta đã vuốt râu ông và nói: "Chào Ba". Lúc đó với ông lời chào ấy không có ý nghĩa gì nhưng rồi 11 năm sau ông mới công nhận là Sinha tái sanh thành Marta. Sau đây là lời của ông Ida Lorenz, người cha hiện tại của Marta kể lại do Tiến Sĩ Ian Stevenson, người điều tra vụ này chuyển dịch Người chị tên Lola của Marta đã thấy một chuyện sau:"Lúc Marta được 2 tuổi rưỡi, một hôm sau khi giặt xong quần áo ở một con suối gần nhà Marta và Lola trở về nhà.

Marta nói với chị: "Lola cõng em đi" Lola (cũng như tất cả trẻ con hàng xóm của chúng tôi) không biết gì về lời hứa sẽ tái sanh của Sinha nên trả lời: "Em đi được đâu cần chị cõng". Marta nói: "Dạo trước lúc em lớn và chị nhỏ em thường cõng chị đó". Lola vừa cười vừa vặn lại: "Em lớn lúc nào?" Marta trả lời: "Lúc em không ở đây, mà ở xa chỗ này, nơi có nhiều bò đực, bò sửa, có nhiều cây cam, và có nhiều con vật như dê, nhưng không phải các con dở này (nó muốn nói các con cừu mà nó chưa bao giờ thấy). Câu này mô tả cái nông trại của cha mẹ Sinha.

Rồi vừa đi vừa chuyện trò Marta và Lola về tới nhà. Lola kể cho chúng tôi những ý tưởng lạ lùng của Marta và tôi nói với Marta: "Này con gái nhỏ của Ba, Ba chưa bao giờ ở đấy sao con lại nói con ở đấy?" Marta trả lời: "Ðúng vậy, lúc đó con có cha mẹ khác". Một người chị khác của Marta trêu em: "Thế em cũng có một người đầy tớ da đen như bây giờ phải không?" (muốn nói đến đứa con gái da đen mồ côi mà chúng tôi đang nuôi). Marta trả lời ngay: "Không, lúc đó người đầy tớ da đen của chúng tôi đã lớn và biết cả nấu ăn, chúng tôi cũng có một em da đen nhỏ, và một hôm em nhỏ này quên không múc nước về nên bị cha tôi đánh".

Nghe vậy tôi liền nói: "Cha chưa bao giờ đánh một em nhỏ da đen nào cả con gái bộ nhỏ ạ" Marta nói: "Nhưng đó là người cha kia của con mà; bị đánh em nhỏ kêu khóc và cầu cứu con: Sinhazinha hãy cứu tôi! và con đã xin cha đừng đánh nó nữa và thằng nhỏ chạy ngay đi múc nước về". Tôi hỏi: "Vậy ai là Sinha hay Sinhazinha?". Marta trả lời: "Chính là con đấy, con còn có tên là Maria và một cái tên nữa mà con không nhớ". Tên đầy đủ của Sinha la Maria Januaria De Oliveiro. Ðể thử xem Marta nói có đúng không, Ida cũng hỏi một câu: "Mẹ thường đến nông trại thăm Sinha, vậy Sinha thường làm gì để đón tiếp mẹ?" Marta nói nó thường pha sẵn cà phê, vừa đứng chờ trước nhà vừa nghe máy hát để trên thềm đá.

Sau khi phỏng vấn người em gái của Sinha, Tiến Sĩ Ian Stevenson được biết quả đúng như vậy. Sinha thường làm thế để tiếp đón người bạn quý của mình tức người mẹ hiện tại. Ida hỏi Marta là Sinha đã nói thế nào khi Ida đến thăm Sinha lần cuối cùng trước khi Sinha chết. Marta đã diễn tả: "Nàng thều thào bên tai Ida, chỉ vào cuống họng mình rằng nàng không thể nói được vì đau cuống họng". Cảnh này chỉ một mình Ida biết mà thôi. Liên tiếp mấy năm sau, Marta kê khai 120 bản về đời sống của Sinha và về những người mà Sinha quen biết. Người cha hiện nay của nàng còn giữ tất cả những tài liệu này. Có nhiều điều ông ta, vợ ông ta và ngay cả đến những đứa trẻ khác trong gia đình hoàn toàn không biết nhưng sau khi phối kiểm thì thấy đều rất trung thực.

Bấy giờ Marta thường nhắc đến căn nhà của Sinha và mong ước được về thăm nhưng mãi đến năm 12 tuổi vào cái tuổi mà Marta ít nhắc đến tiền kiếp của mình thì Marta mới được mãn nguyện. Vừa đặt chân tới nhà có Marta đã nhận ra cái đồng hồ treo tường và nói là của mình. Nàng còn nói đằng sau cái đồng hồ có in tên nàng bằng chữ vàng. Người cha ở tiền kiếp nghe vậy bèn lấy cái đồng hồ xuống, quả nhiên đằng sau có in dòng chữ vàng: "Maria Januaria De Oliveiro". Cái đồng hồ do Sinha mua và tự mình lên dây. Ðó là đồ vật duy nhất mà Marta nhận được tại nông trại.

Sau chuyến viếng thăm của Marta, một người bà con của Sinha nghe nói Sinha tái sanh, đã không báo trước mà tìm đến nhà ông bà Lorenz và hỏi Marta như sau: "Nếu quả cô là Sinha, xin cho tôi biết quan hệ giữa chúng ta như thế nào?" Không chút ngặp ngừng Marta đã trả lời đúng: "Bà là chị họ và cũng là mẹ đỡ đầu". Người đàn bà này hoàn toàn chưa bao giờ biết làng Dom Feliciano, nơi mà gia đình và Marta đang sống. Một chuyện khác xảy ra khi Marta 19 tuổi và được một nông trại mời đến kèm trẻ. Gia đình này theo đạo Cơ Ðốc Giáo gốc nên không bao giờ Marta đề cập đến luân hồi. Một phụ nữ già da đen cũng làm tại nơi đây thấy Marta đã nói với mọi người: "Cô gái này giống hệt như Sinha ". Hóa ra người đàn bà da đen chính là người đầy tớ trước đây của nông trại Oliveiro mà lúc lên 2 tuổi rưỡi Marta đã có lần nhắc tới.

Sinha tìm cái chết bằng cách tự hủy hoại thân thể mình với bệnh lao phổi và thanh quản - nay hai bệnh nghiệp chướng trên đã trở lại với nàng - Marta rất dễ bị cảm lạnh và sưng phổi trong khi những đứa con khác của gia đình Lorenz không một ai bị bệnh này cả. Tiến Sĩ Ian Stevenson đã bình luận: "Bệnh đau về hệ thống hô hấp và yết hầu của Marta hiện nay đúng là bệnh tình trước đây của Sinha. Tôi tin rằng trong hiện tại Marta hay mắc chứng bệnh này là vì có sự liên quan đến tiền kiếp và cái chết của Sinha". Hậu quả thứ hai là hoàn cảnh trái ngang có thể đưa nàng đến ý định tự hủy hoại thân mình. Marta có xác nhận với Tiến Sĩ Ian Stevenson, mặc dù chưa bao giờ có ý định tự tử cả, xong có thể làm việc ấy nếu có sẵn một khẩu súng.

Trên bình diện xác thực và khích lệ, nàng đã vượt đến sự tốt đẹp của bản thân tiền kiếp. Nàng đã được nhiều người đặc biệt nhớ đến nàng vì tình thương yêu và lòng nhân ái đã được thể hiện trong cuộc sống hiện tại của nàng. Với kinh nghiệm tái sanh nàng đã tìm được cách hữu hiệu để làm giảm bớt sự đau khổ và ưu sầu của những người chung quanh. Tiến Sĩ Ian Stevenson đã viết trong báo cáo:"Một ngày nọ một thiếu phụ đến thăm gia đình Lorenz và ta thán về cái chết của người cha. Thiếu phụ này nói: "Ồ các bạn thân mến, người chết rồi không bao giờ trở lại được". Nghe vậy Marta đã lên tiếng: "Xin bà đừng nói thế, tôi cũng đã chết và bà có thấy không tôi đang sống lại đấy". Một bửa khác trong cơn mưa bão, một người chị của Marta đã lo lắng cho người em Emilia mới chết có thể bị ướt dưới mộ sâu. Marta đã nói: "Chị đừng nói vậy, Emilia đâu còn ở nghĩa địa, Emilia đã ở một nơi an toàn tốt đẹp hơn nơi của chúng ta hiện nay, linh hồn không bao giờ bị ướt cả".


SHAMLINIE PREMA

Shamlinie Prema sanh ngày 16 Tháng 10 năm 1962 tại Sri Lanka Colombo. Cha mẹ của Shamlinie sống ở Gonagela, cách Colombo 60 cây số về phía nam và lớn lên tại đó. Cha mẹ của Shamlinie nhận thấy ngay từ khi biết nói, Shamlinie đã rất sợ nước, thường dẫy dụa khóc thét lên mỗi khi có ai muốn đem em nhúng xuống nước. Em cũng sợ cả xe buýt và thường khóc lóc mỗi khi cha mẹ đem lên xe buýt hay nhìn thấy xe buýt từ đằng xa. Sự việc này làm cho cha mẹ em bối rối, ông bà cho rằng những biến cố ở kiếp trước đã ảnh hưởng tới đời sống hiện tại của em.

Ðến khi biết nói em đã liên tiếp kể chuyện tiền kiếp của em cho cha mẹ cũng như những người thân thuộc. Em cho biết ở tiền kiếp em sống tại làng Galtudawa cách xa Gonagela 2 cây số. Em nói rằng cha mẹ tiền kiếp của em còn đang sống tại Galtudawa và em thường nhắc đến bà mẹ Galtudawa. Em cũng nói tới mấy người chị và hai người bạn học cùng trường. Em tả căn nhà ở tiền kiếp mà em đã sống, địa thế cũng như đặc điểm khác hẳn cái nhà mà em đang sống. Em kể nguyên do cái chết của em xảy ra như thế nào. Một buổi sáng để điểm tâm trước giờ đi học em đi mua bánh mì trên con đường bị ngặp nước. Một chiếc xe buýt chạy ngang làm bắn tung nước và em bị hất xuống ruộng. Em chỉ còn biết dở tay vẫy gọi "Mẹ" và sau đó em cảm thấy như ngủ thiếp đi.

Ở Galtudawa có một cô gái tên là Hemaseelie Guneratne bị chết đuối ngày 8 tháng 5 năm 1961 trong hoàn cảnh tương tự. Hemaseelie đã lùi một bước để tránh xe buýt và cô bị rơi xuống ruộng lúa ngặp nước. Hemaseeli là một học sinh 11 tuổi. Cha mẹ Shamlinie không hề quen biết gia đình Hemaseelie và cũng chưa gặp Hemaseelie lần nào cả. Tuy nhiên cha mẹ Shamlinie có được nghe chuyện cô học sinh chết đuối, cũng cảm thấy buồn nhưng sau đó rồi ông bà cũng quên bẵng đi. Lần đầu tiên nghe em kể câu chuyện bị chết đuối cha mẹ em không nghĩ rằng em có liên quan đến cô bộ Hemaseelie bị chết đuối cả. Khi Shamlinie lên 3 tuổi em nhận ra một người anh em họ của Hemaseelie khi người này đang đi trên đường phố ở Gonagela.

Hơn một năm sau, Shamlinie lại nhận ra người chị của Hemaseelie cũng tại Gonagela. Ðồng thời Shamlinie đòi đi Galtudawa để thăm "Mẹ Galtudawa" và em cho rằng người mẹ hiện tại không sánh bằng "Mẹ Galtudawa" ở tiền kiếp. Cuối cùng cha mẹ của em đã đưa em đến nhà Hemaseelie Gueratne ở Galtudawa. Nhiều người tụ tập nơi đây vì họ nghe nói có một cô gái tái sanh trở về thăm làng có. Sự hiện diện của những người lạ mặt khiến Shamlinie thấy thiếu thoải mái. Tuy nhiên Shamlinie cũng nhận ra "bà mẹ của Hemaseelie tên là W.L. Podi Nona" trong khi đó gia đình Guneratnes vẫn còn hoài nghi.

Cuộc viếng thăm rất ích lợi vì đã xác minh được những việc mà Shamlinie đã từng tuyên bố. Hầu hết những chuyện Shamlinie kể về tiền kiếp đều trùng hợp với đời sống của Hemaseelie tại Galtudawa. Thêm vào đó, hai gia đình trong khi trao đổi tin tức đều nhận thấy Hemaseelie và Shamlinie đều có nhiều điểm giống nhau về cách thức ăn mặc cũng như sở thích ăn uống. Tôi (Ian Stevenson) bắt đầu điều tra vụ này và năm 1966, vài tuần lễ sau khi Shamlinie viếng thăm Galtudawa lần đầu tiên. Tôi đã phỏng vấn một số người còn nhớ rõ những điều Shamlinie đã kể và đã làm, về cả cuộc đời tiền kiếp của Hemaseelie.

Mấy năm sau tôi có đến thăm cả hai gia đình để có thể kiểm chứng và cũng để xem sự tiến triển của Shamlinie ra sao. Ngoại trừ một vài điều cách biệt nho nhỏ, còn tất cả những tin tức mà tôi thâu lượm được đều rất xác thực và các nguồn tin mới này vẫn rất phù hợp với những điều mà họ nói trước kia. Sau lần viếng thăm đầu tiên Galtudawa, Shamlinie trở lại thêm vài lần nữa thăm gia đình Guneratnes và sau đó các chuyến viếng thăm thưa dần ngày càng ít đi và Shamlinie càng lớn lên thì những ký ức về tiền kiếp của em mờ dần đi. Ðến năm 7 tuổi thì Shamlinie không còn kể về tiền kiếp của em nữa.

Khi lên 11 tuổi vào năm 1973, Shamlinie đã hoàn toàn quên hẳn ký ức về tiền kiếp ngay cả đến những việc trước đây em thường nhắc đến. Em cũng không còn sợ nước như hồi 4 tuổi nữa và khi em lên 8 tuổi thì em cũng không còn sợ hãi khi trông thấy xe buýt tuy nhiên vẫn còn một chút sợ sệt. Năm 1973 tôi có trở lại thăm Shamlinie và thấy em đã trở thành một cô gái Sinhalese bình thường. Trường hợp luân hồi của Shamlinie rất trung thực. Hai gia đình ở cách xa nhau 2 cây số và cũng không là thân thuộc mà Shamlinie lại hiểu biết đời sống của Hemaseelie với nhiều chi tiết rõ ràng. Theo sự xét đoán của tôi (Ian Stevenson) sự liên hệ của hai gia đình không có, nên không thể nào giải thích nổi tại sao Shamlinie lại có thể hiểu biết tường tận đời sống cũng như cá tính khác thường của Hemaseelie. Phải chăng Hemaseelie đã tái sanh thành Shamlinie?


ULEYMAN ANDARY

Suleyman sanh ngày 4 Tháng 3 Năm 1954 tại Falougha, Lebanon. Gia đình Suleyman thuộc dòng Druses, một tôn giáo bắt nguồn từ Islam (Hồi Giáo). Tuy nhiên tôn giáo này đã tách ra khỏi khối Hồi Giáo chính thống và những người theo đạo Druses cũng coi như không còn lệ thuộc vào khối Hồi Giáo. Luân Hồi là một giáo lý căn bản của Ðạo Druses. Khi còn thơ ấu Suleyman nhớ vài chi tiết về tiền kiếp của anh. Ðôi khi qua các giấc mộng, anh kể là anh đã có con ở tiền kiếp và còn nhớ cả tên của chúng nữa. Anh nhớ anh sống tại Gharife và là chủ của một hãng ép dầu. Không giống đa số các trường hợp luân hồi khi còn nhỏ tuổi nhớ kiếp trước nhiều hơn, càng lớn tuổi anh càng nhớ lại nhiều về tiền kiếp. Trong lúc ở với bà nội khi anh 11 tuổi, anh cảm thấy anh có nhiều ký ức về tiền kiếp. Một hôm bà ngoại anh đến nhà mượn một cuốn kinh về đạo Druses.

Suleyman đã từ chối không cho mượn còn lỗ mãng bắt lỗi bà ngoại không có cuốn kinh trong nhà. Bà nội anh bất mãn về thái độ cư xử của anh và yêu cầu anh giải thích. Bất ngờ anh nhớ lại ở tiền kiếp anh có rất nhiều kinh sách về Ðạo Druses và không bao giờ anh cho ai đem những cuốn kinh này ra khỏi nhà. Người Druses rất quý trọng các cuốn kinh và thường giữ gìn cẩn thận. Hành động của Suleyman nếu là một thiếu niên thì quả là vô lễ, nhưng với một người đã trưởng thành như Suleyman thì lại là một việc bình thường. Sau câu chuyện trên, Suleyman đã kể nhiều các chi tiết về đời sống tiền kiếp của anh. Anh nhớ anh là một tù trưởng ở Gharife và có tên là Abdallah Abu Hamdan. Anh còn kể thêm nhiều chi tiết cuộc đời của Hamdan. Lúc bấy giờ Suleyman rất sợ bị chế nhạo khi nhận là tù trưởng ở tiền kiếp.

Anh nghĩ là gia đình và bạn bè sẽ cho anh là ngạo mạn và sẽ châm biếm anh. Cho nên anh đã dấu kín trong lòng. Hai năm sau anh mới kể lại cho một số bạn bè trước cho một số người ít tuổi và về sau cho một số người lớn. Vài người thân đứng tuổi của gia đình Suleyman đề nghị đem Suleyman đi Gharife để phối kiểm các tin tức nói về tiền kiếp của Syleyman. Gharife cách xa Falougha chừng 30 cây số, thuộc một vùng khác phạm vi Lebanon. Muốn đi Falougha đến Gharife phải có lý do xác đáng. Gia đình của Suleyman không quen ai ở Gharife cả và cũng không có một liên hệ nào với Gharife cả. Có một người trong gia đình Suleyman làm việc tại Gharife trong một thời gian ngắn nhưng cũng không biết những lời kể của Suleyman đúng hay sai. Sau đó chính người này đến Gharife điều tra đã xác nhận những điều Suleyman kể lại đều rất đúng. Cùng lúc ấy có vài người khác công nhận tính cách trung thực của các sự việc trên.

Giống như trường hợp của Á Ðông, câu chuyện của Suleyman được nhiều người biết đến. Một người anh em họ của Suleyman đã gặp vài người Gharife ở Saudi Arabia và được biết những lời kể của Suleyman rất xác thực. Người tên là Abdallah Abu Hamdan mà Suleyman nhận là tiền kiếp của mình là chủ nhân một hãng dầu ép và làm tù trưởng nhiều năm trước khi chết vì bệnh tim năm 1942 lúc 65 tuổi. Những người Gharife đã mời Suleyman đến thăm Gharife. Lúc đầu anh từ chối nhưng đến năm 1967 anh đã đi Gharife 2 lần, vào mùa hạ và mùa thu. Khi tới Gharife anh cảm thấy thẹn thùng và bỡ ngỡ. Người vợ góa của Abdallah Abu Hamdan và 2 người con còn sống tại Gharife nhưng anh không nhận ra họ và cũng không nhận được những người thân quyến.

Anh nhận được 3 người khác và vài nơi tại Gharife. Có lẽ điều quan trọng nhất là anh đã chỉ một con đường có từ năm 1967 không còn sử dụng, con đường trước kia dẫn đến nhà Abdallah Abu Hamdan. Tuy nhiên tầm quan trọng của trường hợp Suleyman không nằm trong sự xác nhận của anh mà là những cá tính riêng biệt của anh phát sanh từ tiền kiếp. Trước khi Gharife, cũng như trong cuộc viếng thăm lần đầu, Suleyman đã 17 lần nói về tiền kiếp của anh. Những lời anh kể gồm có tên các con anh và các chi tiết khác về đời sống của anh. Những lời phát biểu của anh đều đúng ngoại trừ hai trường hợp: 1) Salim là em chứ không phải con anh, 2) Salim không bị mù mà Naseeb con anh mới bị mù.

Tôi (Ian Stevenson) bắt đầu điều tra vụ này vào tháng 3 năm 1968 và tiếp tục cho đến năm 1972. Tôi đã phỏng vấn nhiều người tại Falougha và Gharife. Sau này Suleyman di cư sang Saudi Arabia và từ năm 1972 tôi không còn gặp Suleyman nữa. Khi Suleyman còn nhỏ tuổi anh đã tỏ ra phong thái một người lớn. Anh thích giao du với người lớn hơn là người đồng lứa tuổi và ngay cả giữa đám người lớn anh cũng chọn chỗ ngồi dành riêng cho những vị có đặc quyền. Anh không thích bị ai la rầy và khi ấy anh thường nói: "Ðừng mắng tôi, tôi là người lớn mà". Suleyman thường sợ bị người khác chế nhạo nếu họ biết anh nhận là ông tù trưởng ở tiền kiếp.

Gia đình và bạn bè thường chế anh là "Ông Tù Trưởng". Ðiều này cũng không làm anh buồn mấy vì một số người trong gia đình đã tin anh và thân yêu gọi anh bằng cái tên này. Dĩ nhiên họ chỉ tin anh sau khi anh đã xác thực được những điều anh kể về tiền kiếp của Abdallah Abu Hamdan. Trong gia đình Suleyman cũng tỏ ra là người mộ đạo hơn những người khác giống hệt như Abdallah Abu Hamdan. Trước khi chết, Hamdan đã trở thành tộc trưởng, một chức vị cao cấp mà nhiều người mơ ước. Tôi thấy Suleyman không muốn đến thăm Gharife nên anh đã từ chối lần đầu. Gia đình của Suleyman hiểu rõ hơn cho rằng anh không thích đi Gharife vì anh không muốn nhìn lại những thảm kịch trong đời sống của Hamdan. Các con của Hamdan không mấy nên người, có nhiều thói hư tật xấu, một người thì di dân sang Hoa Kỳ, một người thì ăn ở với Hamdan không hiếu thuận.

Trong những ngày cuối cùng Hamdan gặp khó khăn. Vì muốn giúp đỡ một người bạn Hamdan đã ngụy tạo một tài liệu khiến chính phủ khám phá ra được và Hamdan bị cất chức. Cuối cùng Hamdan đã đầu tư vào việc ép dầu nhưng tình trạng tài chánh eo hẹp nên việc buôn bán không kết quả. Việc đầu tư thất bại làm Hamdan buồn phiền, nhuốm bệnh rồi qua đời. Hamdan chết năm 1942, 12 năm trước khi Suleyman sanh ra đời. Ðược hỏi về thời gian 12 năm chưa luân hồi thì Suleyman ở đâu, Suleyman trả lời không nhớ gì cả. Với ký ức của Suleyman về tiền kiếp là Abdallah Abu Hamdan, tôi (Ian Stevenson) không nghĩ rằng những tin tức do Suleyman thâu lượm được bằng cách thông thường vì hai làng cách xa nhau đến 30 cây số và hai gia đình cũng không có liên lạc gì với nhau cả.


TIỀN THÂN BONGKUCH PROMSIN

Bongkuch Promsin sanh ngày 12 Tháng 2 Năm 1962 tại làng Don Kha, Tỉnh Nakhon Sawan, Thái Lan. Ông Pamorn Promsin, cha Bongkuch là Hiệu Trưởng một trường Trung Học gần Don Kha. Tuy ông có kiến thức khá nhưng lương hàng tháng lại ít ỏi nên cuộc sống của gia đình rất đạm bạc. Ngay khi biết nói rành rẽ, Bongkuch đã hay kể chuyện về tiền kiếp của mình. Bongkuch tả cho gia đình nghe nhiều chi tiết về đời sống trước như em ở làng Hua Tanon cách Don Kha chừng 9 cây số, em có tên là Chamrat và còn nhớ tên cha mẹ của Chamrat. Em cũng kể ra các vật dụng mà em có như là con dao, chiếc xe đạp, và gia đình ở tiền kiếp có nuôi 2 con bà.

(Gia đình hiện tại của em không nuôi bà). Em cho biết một chi tiết đặc biệt là đã bị hai tên sát nhân giết chết ở Hua Tanon. Họ đã đâm em nhiều nhát để lấy chiếc đồng hồ đeo tay và sợi giây chuyền của em. Sau đó họ đã vất thây em xuống ruộng. (Khi kể chuyện này Bongkuch chừng 2 tuổi). Bongkuch cho biết sau khi chết em ở trên một ngọn cây gần nơi bị giết một thời gian là bảy năm. Một hôm trời mưa em trông thấy người cha hiện tại (Pamorn Promsin) đi ngang, em đã theo ông về nhà bằng xe buýt. Cha của Bongkuch xác nhận là trước khi vợ ông mang thai Bongkuch, ông có đi Hua Tanon để dự một phiên họp và hôm đó trời mưa.

Mẹ của Bongkuch cho biết có lần Bà đi tìm măng ở khu vực xảy ra án mạng trước khi mang thai Bongkuch nhưng không nhớ rõ thời gian nào. Bà nói rằng Bà không đến nơi gia đình Chamrat cư ngụ. Ông Pamorn Promsin vì nghề nghiệp có quen biết vài thầy giáo ở Hua Tanon nhưng không có bà con hoặc bạn bè ở đấy. Cả hai vợ chồng đều xác nhận với tôi (Ian Stevenson) là không biết gì về vụ Chamrat, một thiếu niên bị giết cả. Những tin tức giết người của một làng như Hua Tanon có được loan truyền đến các vùng lân cận như Don Kha nhưng những vụ án mạng thời ấy thường hay xảy ra nên người ta không mấy quan tâm đến và hầu như đã quên vụ án xảy ra. Hơn nữa vụ án xảy ra nay đã trên 10 năm thì tôi cho rằng dù cha mẹ Bongkuch có nghe kể vụ Chamrat bị giết cũng ít chú ý và gần như là quên ngay.

Chuyện Bongkuch kể về tiền kiếp của mình đã đến tai gia đình Chanrat và một vài người đã tới Don Kha thăm Bongkuch.(Lúc này Bongkuch chừng 2 tuổi rưỡi). Sau đó Bongkuch có theo gia đình đến Hua Tanon. Những chuyến viếng thăm này chỉ có mục đích là để kiểm chứng những điều Bongkuch nói về tiền kiếp. Chuyện về tiền kiếp của Bongkuch là có thực. Hai người dính líu trong vô giết Chamrat, một người đã tẩu thoát được, còn một người tuy bị bắt nhưng được tha vì thiếu chứng cớ. Tôi (Ian Stevenson) có thẩm vấn vài người cảnh sát hiện còn nhớ rõ vụ án, họ đã xác nhận những lời Bongkuch cho biết về vụ giết người rất là trung thực kể cả tên những người bị tình nghi.

Các báo cáo về trường hợp này đã được đăng trên báo chí Thái Lan vào tháng 3 năm 1965 và một thông tin viên đã gọi cho tôi. Bác Sĩ Sophon Nakphairaj (Giám Ðốc Bệnh Viện của Chánh Phò Tỉnh Nakhon Sawan) đã điều tra vụ này năm 1965. Còn tôi điều tra vụ này năm 1966. Tôi đã phỏng vấn cả hai gia đình tại Don Kha và Hua Tanon. Tôi vẫn tiếp tục điều tra vào những năm sau đó, và lần chót tôi gặp cha mẹ Bongkuch vào năm 1980. Tính tình khác thường của Bongkuch đã khiến cho gia đình em và sau ngay cả tôi cũng đều phải quan tâm đến em. Trong thời gian nói nhiều đến tiền kiếp gia đình thường thấy em có nhiều tật xấu, chẳng hạn như cách thức rửa tay và đôi khi em nói những tiếng mà gia đình không hiểu.

Sở thích về ăn uống của Bongkuch không giống như những người trong gia đình vì gia đình Chamrat là một gia đình Lào. (Người Thái cho rằng những món ăn của người Lào không tinh khiết bằng những món ăn của Thái và tiếng nói lạ lùng chính là tiếng Lào). Gia đình Bongkuch không có ai biết nói tiếng Lào ngay cả những người dân làng Don Kha. Bongkuch thích các món ăn Lào, chẳng hạn như món ăn cơm nếp mà người Lào ưa chuộng. Bongkuch thù ghét các người giết Chamrat và em hăm dọa là sẽ trả thù khi có dịp. Thỉnh thoảng em lấy một cây gậy nhỏ và đánh vào một cái trụ mà em tưởng tượng là kẻ thù đã giết Chamrat; em vừa đánh vừa gọi tên những kẻ sát nhân.

Có lúc em nghĩ rằng em là một người lớn bị tù túng trong một thân hình đứa nhỏ cho nên em có cử chỉ của một người lớn. Em đánh răng (Trẻ con Thái Lan thường không đánh răng). Ðặc biệt có lần em đã tới tiệm hớt tóc để xin cạo râu. Em không để ý đến những bộ gái cùng lứa tuổi mà chú ý đến các thiếu nữ. Một hôm có một thiếu nữ đến thăm gia đình em và dự định ở chơi ít bửa, nhưng vì thái độ mơn trớn ve vãn của em khiến thiếu nữ bực mình phải ra về sớm. Ngoài tính hơi phóng đãng, đôi khi anh lại muốn xuất gia đầu Phật. Hai bản chất trái ngược này của Bongkuch rất phù hợp với tính tình của Chamrat.

Trước khi chết, Chamrat có gắn bó với một người bạn gái, Chamrat cũng đặc biệt lưu ý đến tôn giáo và anh muốn trở thành một thầy tu. (Ðiều này không có gì là bất thường vì ở Thái Lan, rất nhiều thanh niên vào Chùa tu một thời gian và sau đó trở về đời sống cư sĩ và lập gia đình). Khi Bongkuch càng lớn lên thì trí nhớ về tiền kiếp càng mờ dần. Trong làng, các trẻ khác vẫn thường chế nhạo em là "đứa trẻ có hai đời sống", điều này làm em muốn quên ký ức. Ðến năm 10 tuổi thì em không còn kể chuyện với ai về tiền kiếp của mình nữa Ký ức mờ nhạt dần với thời gian, em đã trở lại hoàn toàn bình thường. Năm 1980, vào lần cuối cùng tôi (Ian Stevenson) gặp lại em, lúc này em đã 18 tuổi đang theo theo học ở một trường Tỉnh Nakhon Sawan. Một điều mà em không bỏ được là tính thích ăn cơm nếp như những người Lào.


TIỀN THÂN CỦA GILLIAN VÀ JENNIFER POLLOCK

Gillian và Jennifer Pollock, hai chị em sanh đôi, sanh ngày 4 tháng 10 năm 1958 tại Hexam Northumberland, Anh Quốc. Trong khoảng thời gian từ hai tuổi đến bốn tuổi, 2 em thường nhắc đến cuộc đời của 2 người chị có tên là Joanna và Jacqueline. Ngày 5 Tháng 5 Năm 1957, một người điên lái xe hơi đã đâm lên vỉa hỗ tông vào Joanna và Jacqueline đang đi bộ làm hai em chết ngay tại chổ. Lúc xảy ra tai nạn, Joanna được 11 tuổi và Jacqueline 6 tuổi. Thảm kịch làm cho ông bà Pollock đau đớn. Tuy nhiên Ông John Pollock vùng tin ở luân hồi nhưng vợ ông thì không. Vào đầu năm 1958 khi bà mang thai ông quả quyết rằng Joanna và Jacqueline đã đầu thai song sanh để trở lại với gia đình. Bất chấp hồ sơ y khoa đã ghi nhận Bà Florence Pollock chỉ sanh một người con, ông John Polloch vẫn tin là vợ ông sẽ sanh đôi.

Ðúng như sự dự đoán của ông, vợ ông đã sanh đôi. Ông bà Pollock nhận thấy em Jennifer có hai bớt cùng một cỡ và cùng một vị trí như 2 vết bớt trên người Jacqueline, một vết trên trán gần sống mủi Jacqueline. Jacqueline có vết thẹo này là vì bị té, còn vết kia là một mụn ruồi mầu nâu ở phía trái thắt lưng của Jennifer giống y như Jacqueline. Trong thời gian từ 2 đến 4 tuổi, hai chị em song sanh thường nói đến đời sống của 2 người chị đã chết. Hai em nhận ra vài món đồ chơi mà chị của chúng đã chơi trước kia và tỏ ra rất quen thuộc như đã từng có. Ông Bà Pollock xác nhận là ông bà cũng không bao giờ đề cập đến 2 đứa con đã chết với đôi trẻ song sanh và chúng cũng chưa bao giờ nhìn thấy các đồ chơi trước khi chúng nhắc đến hai người chị.

Jennifer thường ỷ lại vào chị là Gillian cũng như trước đây Jacqueline thường nương tựa vào Joanna. Khi hai em bắt đầu học viết thì Gillian, ngay từ buổi ban đầu đã biết cầm bút một cách rành rẽ giữa các ngón tay, còn ngược lại Jennifer thì cầm cây viết bằng cả nắm tay. Joanna lúc chết đã 11 tuổi nên đã biết viết còn Jacqueline chỉ mới 6 tuổi còn đang tập viết nên cầm cây viết bằng cả nắm tay. Tôi (Ian Stevenson) bắt đầu điều tra vụ này năm 1964 và thường xuyên liên lạc với gia đình Pollock cho đến năm 1985. Lòng nhiệt thành tin vào luân hồi của ông Pollock có thể làm cho trường hợp bị suy giảm và một số người không tin rằng hai ông bà hay những người khác trong gia đình đã không nói trước mặt 2 em về cái chết của 2 người chị.

Ðể trả lời việc nói rằng quan niệm quá tin tưởng về luân hồi của ông có thể làm thiệt hại cũng như sai lạc hẳn ý nghĩa của trường hợp, ông đã khôn khéo trả lời việc đó cũng có nhưng chỉ một phần nào thôi. Việc không dấu diếm về luân hồi khiến ông ghi nhớ các nhận xét và các tính tình của 2 đứa con song sanh giống như 2 đúa chị đã chết nhưng hầu hết các bậc cha mẹ người Âu Châu thường không tin mà còn nhạo báng. Năm 1978 tôi (Ian Stevenson) đã thử máu 2 chị em song sanh để xem chúng sanh ra từ một trứng hay hai trứng. Cuộc thử máu này cho thấy hai chị em do một trứng sanh ra, có nghĩa là cùng một chủng tử. Có những người cho rằng những vết bớt trên người Jennifer là do di truyền nhưng nếu như vậy thì Gillian cũng phải có các vết bớt đó; đằng này Gillian không có vết nào cả.

Những vết bớt trên Jennifer lại trùng hợp với những vết bớt trên người Jacqueline cả về kích thước lẫn vị trí. (Phải chăng Jennifer chính là hiện thân của Jacqueline nên đã có những vết này). Gillian và Jennifer đã lớn lên bình thường như mọi người và hầu như đã quên hẳn những chuyện khi còn thơ ấu thường hay kể ký ức về tiền kiếp. Lần tôi gặp hai cô vào năm 1985, hai cô không còn nhắc gì đến tiền kiếp của mình nữa tuy nhiên hai cô cũng không từ chối các bằng chứng trước đây mà ông bà Pollock đã nhận thấy khi hai cô còn thơ ấu.

SAMUEL HELANDER

Samuel Helander sanh ngày 15 tháng 4 năm 1976 tại Helsinki, Phần Lan, Âu Châu. Từ một đến hai tuổi em thường nói đến đời sống của người cậu (em trai mẹ) có tên là Pertti Haikio. Về sau càng lớn Samuel càng giống tính tình của cậu Pertti. Tôi điều tra vụ này vào năm 1978 và năm 1981. Những người cung cấp tin tức cho tôi gồm có mẹ Samuel, bà ngoại Samuel, người này cũng là mẹ của Pertti. Pertti Haikio sanh ngày 8 tháng 6 năm 1957 tại Helsinki, Phần Lan, chết vì bệnh tiểu đường ngày 10 tháng 6 năm 1975 khi vừa 18 tuổi. Vài tháng trước khi chết, Pertti mắc bệnh tiểu đường trầm trọng - đã uống thật nhiều nước mà gia đình không ai để ý đến việc này - Pertti đã bị bất tỉnh và chết.

Mẹ Pertti, Bà Anneli Lagerqvist (đã tái giá sau khi ly dị với cha Pertti) và người con gái là Marja Helander mẹ của Samuel) rất buồn thảm sau cái chết của Pertti. Lúc có mang Samuel được 10 tuần, Marja có ý định muốn phá thai. Trong một giấc mộng, Marja nằm mơ thấy Pertti căn dặn "đừng phá thai, hãy giữ đứa nhỏ". Khi Samuel được 1 tuổi rưỡi, được hỏi đến tên thì Samuel trả lời "Pelti". (Ở thời điểm này và sau một thời gian nữa Samuel không nói rõ được vần r trong chữ Pertti). Gia đình rất lấy làm lạ vì đã nhiều lần căn dặn tên là Samuel nhưng em cứ nhất định là Pelti (sau này thì Pertti).

Năm lên 6 tuổi Samuel vẫn cho mình là Pelti. Tuy nhiên em không từ chối lại gần mẹ mỗi lần bà gọi em là Samuel. Samuel đã nhớ một vài điều liên quan đến tiền kiếp chẳng hạn nhận ra vài người trong ảnh hay vài món đồ quen thuộc của Pertti. Những tấm hình chụp Pertti khi chưa tới 10 tuổi thường làm Samuel chú ý. Nhìn vào một bức hình Pertti lên ba, Samuel nói rằng lúc chụp tấm hình này Pertti bị chó cắn vào bắp chân trong khi Samuel chưa bao giờ bị chó cắn và nghe ai nói đến việc Pertti bị chó cắn. Bức hình cũng không có dấu vết gì cho biết Pertti bị chó cắn. Nhìn một bức hình Pertti mang nạng, Samuel nói đó là hình Samuel, em đã phải nằm nhà thương để băng bột đôi chân.

Khi tôi (Ian Stevenson) đến Helsinki để tìm hiểu, tôi có được xem tấm hình này. Tấm hình chụp Pertti mang nạng và người ta có thể đoán là Pertti bị thương đôi chân nhưng bực hình không có dấu vết gì cho biết đôi chân Pertti đã bị băng bột trước khi chụp hình. Vào khoảng 4 tuổi Pertti đã bị tai nạn gẫy 2 chân. Và lúc nói ra điều này thì Samuel cũng khoảng gần 4 tuổi. Mỗi dịp thấy hình của Pertti, Samuel đều nhận là hình của em. Nhìn tấm hình cha Pertti, Samuel nói "Ðây là hình cha tôi". Bà Marja vẫn dấu tấm hình này vì sợ người chồng sau ghen tuông nên quả quyết là Samuel chưa bao giờ nhìn thấy tấm hình đó cả.

Samuel cũng nhận được nhiều món đồ của Pertti: một cây đàn lục huyền cầm, một cái áo lạnh bằng nhung sọc và một chiếc đồng hồ có vứt trong một ngăn tủ, toàn đồ linh tinh bỏ đi. Khi thấy chiếc đồng hồ, Samuel vội chụp ngay, nói là của em và xin được giữ lại mặc dầu chiếc đồng hồ đã mất cả quai. Khi ngủ có lúc em để dưới gối, có lúc cất trong ngăn kéo giường. Hỏi về cái chết của Pertti thì Samuel nói rằng Pertti đã được quàng tại một nơi có nhiều quan tài, có vài chiếc được mở nắp. (Samuel chưa bao giờ được dẫn tới một nhà quàng nào cả). Xác của Pertti sau khi chết được mang tới một nhà quàng. Samuel còn cho biết mẹ Pertti (Bà Ngoại Samuel) đã khóc thảm thiết như thế nào. Khi được đưa tới nghĩa trang, Samuel đã chỉ vào ngôi mộ Pertti mà nói rằng "Ðây là mộ tôi".

Bà ngoại cũng như mẹ Samuel đều nhận thấy Samuel có cá tính giống Pertti. Khi Pertti còn nhỏ có lần bị uống nước trong bồn tắm nên đã sợ nước, sau đó khoảng 15, 16 tuổi Pertti lại bị ngã từ một cầu tầu xuống biển, suýt chết dưới nước sau tai nạn này, Pertti càng bị nước ám ảnh. Vì vậy Pertti không bao giờ bơi lội cả. Samuel cũng vậy, em rất sợ nước, tắm với Samuel là "một cực hình" - nên em luôn luôn phản đối mỗi lần phải tắm. Khi bắt đầu biết nói, Samuel gọi Bà Anneli Lingerqvist là "Mẹ" (Bà ngoại Samuel và là mẹ Pertti) còn mẹ ruột của em là Marja Helander thì em lại gọi bằng tên và nói "Bà không phải mẹ tôi đâu".

Samuel thường tỏ ra âu yếm và quyến luyến Anneli (Bà Ngoại) và thường đòi bú sửa của Bà. Mãi đến khi lên 5, Samuel mới thôi không gọi Bà Anneli là "Mẹ" nữa. Khi Pertti còn sống, cứ vào chiều ngày lễ Giáng Sinh, khi mọi người thân đã quây quần đầy đủ, Pertti có thói quen đi hôn từng người một. Trong gia đình chỉ có mình Pertti làm vậy. Vào Giáng Sinh năm 1978 khi được 2 tuổi rưỡi Samuel đi vòng quanh phòng và hôn từng người một y như Pertti đã làm ngày trước.

Samuel cũng có hai bộ điệu giống như Pertti, khi đứng thì chân trước chân sau và tay thì chống nạnh, khi đi thì hai tay chắp đằng sau lưng. Trong gia đình không một ai có cử chỉ như trên cả. Qua sự thực và những bằng chứng hiển nhiên đã được phối kiểm về trường hợp luân hồi này, Pertti chết năm 18 tuổi vào ngày 10 tháng 6 năm 1975 đã tái sanh ngày 15 tháng 4 năm 1976 làm con của chị ruột là Marja Helander và mang tên hiện nay la Samuel Helander.


ROBERTA MORGAN

Tôi được biết trường hợp luân hồi này vào tháng 2 năm 1971 khi Bà Shirley Morgan, mẹ của Roberta ở Minnesota điện thoại đến Ðại Học Ðường Virginia nói là từ mấy năm nay Roberta, con Bà cứ quả quyết là có "cha mẹ" khác. Em muốn đến thăm nhưng gần như tuyệt vọng. Em nói em đã hứa về thăm cha mẹ khác này và em muốn giữ đúng lời hứa. Roberta sanh ngày 28 tháng 8 năm 1961 và đến tháng 2 năm 1971 em được 9 tuổi rưỡi. Em bắt đầu nói về tiền kiếp từ khi em khoảng 2 tuổi đến 2 tuổi rưỡi (1). Bà Morgan cho biết trong khoảng thời gian này em nói nhiều đến tiền kiếp nhưng lúc này Bà chưa hiểu về luân hồi nên cho rằng Roberta nói vớ vẩn mà thôi. Về sau nhờ đọc sách và suy luận Bà mới thấy là Roberta quả đã nhớ được tiền kiếp của mình và sự việc Bà cấm đoán không cho Roberta nói về tiền kiếp là sai.

Nhưng đến năm 1971, em đã thôi nhắc tới, tôi sẽ nói rõ lý do sau. Ðến năm 1971, sau khi có ít khỏi niệm về luân hồi, Bà cảm thấy có trách nhiệm là phải tìm ra gia đình tiền kiếp của Roberta. Sau khi được điện thoại của Bà, tôi có liên lạc với Bà và yêu cầu Bà viết ra tất cả những gì mà Roberta nhớ được về tiền kiếp của em. Bà Morgan đã làm theo những lời tôi dặn và đã trả lời những câu hỏi của tôi trong những thư kế tiếp. Tháng 7 năm 1972 tôi đến Minnesota thăm Roberta và Bà Shirley Morgan (tôi không gặp cha Roberta) Roberta đã tỏ ra thân thiện với tôi nhưng vào lúc này em đã quên hẳn tiền kiếp của mình. Qua các cuộc đàm thoại và các tin tức Bà Morgan cung cấp cho tôi được biết câu chuyện như sau.

Trong thời kỳ em hay nhắc đến tiền kiếp thì em cư xử giống như một người con nuôi. Em nhớ rõ căn nhà của gia đình em. Nhà em trên một ngọn đồi không có nhà nào kế bên và phải đi qua một con đường đất dài mới tới. Gia đình em có một trang trại nuôi ngựa và chó. Có lần lúc 4 tuổi em được đưa tới chuồng ngựa, em đã đi thẳng lại những con ngựa và cho chúng ăn. Có người hỏi em: "Em có sợ ngựa không?" Em đã trả là i: "Không em đã cưỡi ngựa nhiều lần". Roberta cũng nói đến chiếc xe hơi của người cha. Em không nhớ rõ là xe chở khách hay xe chở hàng nhưng xe này thỉnh thoảng người cha của em vẫn chạy. Roberta nói rằng: "Cha và mẹ khác cũng sống ở thành phố này " (Thành phố này khác thành phố mà tôi đến thăm họ).

Có một lần cùng ngồi xe với mẹ, Roberta đã chỉ một con đường nói là em ở đó. Em cho biết con đường đất cũng dẫn đến xa lộ. Em muốn xuống xe đến thăm ngôi nhà xưa nhưng Bà Morgan ngăn cản vì lúc đó Bà chưa hiểu gì về luân hồi nên đâu có để ý đến lời nói của một đứa trẻ. Roberta đã cằn nhằn mẹ nhiều ngày vì Bà không dẫn em đến thăm cha mẹ ở tiền kiếp nhân dịp tốt này. Roberta đòi mẹ mua những đồ chơi giống như đồ chơi mà em thường có, khi nghe mẹ nói không biết đó là những đồ chơi nào thì Roberta bảo rằng là Bà kém thông minh. Và một lần khác em đã gắt gỏng vì Bà không nhớ đến tiền kiếp của em, theo em Bà Morgan phải biết đến tiền kiếp của em.

Quả là Roberta đã nhớ rất rõ tiền kiếp. Về người mẹ ở tiền kiếp Roberta nói với Bà Morgan: "Mẹ (hiện tại) cư xử giống hệt như người mẹ trước của con nhưng Bà ấy nhìn không giống mẹ". Roberta khen người mẹ trước nội trợ giỏi nhất là về nấu ăn. Khi Bà Shirley Morgan nấu vài món ăn mới cho bửa cơm chiều thì đôi khi Roberta lại nói là em đã ăn nhiều lần món ăn này. Một hôm Bà Morgan nấu món bắp nhồi sẽ để dành cho gia đình một ngạc nhiên. Khi Bà đặt món ăn lên bàn Roberta đã không ngạc nhiên chút nào còn nói: "Con đã ăn nhiều lần món này, mẹ không nhớ là mẹ trước của con thường nấu món này sao".

Em đã dùng một tên khác để gọi món ăn này nhưng Bà Morgan không còn nhớ. Bà Morgan hỏi Roberta cách nấu món ăn này của người mẹ trước, Roberta đã kiên nhẫn tả lại. Roberta cũng cho rằng mẹ hiện tại ngu xuẩn không biết chùi các cửa kiếng như người mẹ trước. Ngoài ra Roberta thường xen vào câu chuyện của cha mẹ và phát biểu nhiều ý kiến mà theo mẹ em em không thể nào biết như vậy. Roberta cho vài manh mối về thời đại em sống ở kiếp trước chẳng hạn như em không thích mặc quần áo kiểu cọ, gia đình có xe hơi, đa số các chủ trại đều có xe hơi. Roberta còn nhấn mạnh cha mẹ trước của em còn sống và cố gắng tìm thế nào cũng thấy.

Roberta có khuynh hướng mặc quần áo con trai. Em không muốn làm con gái. Em thích các đồ chơi dành cho con trai. Khi Bà Morgan hỏi thẳng rằng em chết như thế nào thì em trả lời "Con không chết, con chỉ xa cha mẹ một thời gian, con đã nói với họ là con sẽ trở về". Không bao giờ em nói là em yêu mến cha mẹ trước của em hơn nên Bà Morgan nghĩ rằng Bà là người được Roberta thương mến nhiều hơn. Vì em không nhớ tên cha mẹ nên Bà Morgan không thể nào kiếm ra được gia đình tiền kiếp của em.

Bà Shirley Morgan cùng chồng là người Cơ Ðốc Giáo - Bà là thành viên của Hội Cơ Ðốc nên không bao giờ được nghe về luân hồi cả. Vì không hiểu luân hồi nên thời gian Roberta nói về tiền kiếp Bà chẳng những đã không khuyến khích mà còn bực mình nữa. Lại nữa Roberta đã so sánh Bà với người mẹ ở tiền kiếp nên Bà không thích Roberta nói về tiền kiếp. Vì vậy cho nên mỗi lần nói đến tiền kiếp là Bà tức giận và đánh Roberta. Sợ bị trừng phạt nên Roberta đã phải ngừng không dám nói về tiền kiếp nữa. Dù vậy, đến năm 4 tuổi hỏi em, em cũng vẫn nói là em đã có nhiều lần cưỡi ngựa.

Sau này Bà Shirley Morgan cảm thấy hối hận và bị ám ảnh bởi những lời ghi nhận của Roberta và Bà đã đổi ý muốn đi tìm lại cha mẹ ở tiền kiếp cho Roberta. Bà đã rất ân hận vì đã đánh đập Roberta, cấm đoán em nói về tiền kiếp khiến em không dám nói về tiền kiếp nữa và cũng vì vậy việc tìm kiếm không thể thực hiện được. Nếu trong thời gian Roberta nói về tiền kiếp, Bà không đánh đập em, khuyến khích em, rất có thể em nhớ lại tên cha mẹ em ở tiền kiếp. Rất tiếc là khi Bà Shirley Morgan thay đổi thái độ thì Roberta đã 9 tuổi ruỡi rồi nên không còn nhớ gì về tiền kiếp cả. Sau khi thăm gia đình Roberta vào mùa hè năm 1972, tôi không còn liên lạc với gia đình này nên không còn biết gì hơn về trường hợp này nữa.


TIỀN THÂN CỦA SUSAN EASLAND

Lần đầu tiên tôi biết trường hợp này vào năm 1968 khi tôi nhận được thư của Bà Charlotte Eastland. Sau khi đọc các bài tham cứu của tôi trên các tạp chí, Bà đã viết thư cho tôi những gì mà con gái Bà là Susan nói về tiền kiếp. Susan có nhiều ký ức về người chị gái tên là Winnie đã chết. Tôi đã thư từ liên lạc với Bà Eastland trong năm 1968 và đầu năm 1969. Tới mùa thu năm 1969 tôi đến thăm Bà ở Idaho. Tại nhà Bà, tôi đã gặp Susan, nhân vật chính của câu chuyện và người con gái lớn của Bà là Sharon. Tôi rất tiếc không được gặp Ông Robert Eastland, người chồng sau này của Bà vì Ông Robert đã nhiều lần mục kích Susan nói về tiền kiếp.

Winnie là con của Bà Charlotte Eastland lên 6 tuổi rất dễ thương đã bị xe đụng chết vào năm 1961. Cái chết đột ngột của Winnie làm gia đình Bà Eastland rất đau buồn. Bà cầu mong Winnie được tái sanh trở lại với gia đình. Lúc này Bà chỉ có ý niệm mơ hồ về luân hồi. Bà kể cho tôi nghe là ở Ấn Ðộ người ta nói rằng con người có thể tái sanh làm con vật (theo Bà cũng không thể) chứ không nghe nói một người chết có thể tái sanh thành người khác được.

Sau khi Winnie chết được 6 tháng, người con gái lớn nhất trong gia đình là Sharon nằm mơ thấy Winnie trở về với gia đình. Rồi hai năm sau Bà Eastland mang thai Susan thì Sharon cũng lại nằm mơ thấy Winnie trở về. Năm 1964 Bà Eastland còn đang ở trong nhà Bảo Sanh chờ sanh Susan thì người chồng trước của Bà (cha của mấy đứa con Bà) có nghe thấy Winnie nói: "Thưa Ba con đang trở về". Hai năm trước gia đình đã mất đứa con gái là Winnie thì nay Susan ra đời, ai nấy đều thầm mong Susan chính là Winnie tái sanh.

Khi được hai tuổi, Susan bắt đầu nói ít nhiều đến đời sống của Winnie. Nếu có ai hỏi Susan năm nay bao nhiêu tuổi thì Susan trả lời là sáu tuổi (tuổi lúc Winnie bị chết). Khi lên năm tuổi, Susan có vẻ già dặn hơn tuổi, Susan cả quyết là lớn hơn người anh tên Richard đang 11 tuổi. Winnie lớn hơn Richard 3 tuổi, cho nên nếu là Winnie thì điều này rất đúng, còn là Susan thì sai hoàn toàn. Ðược xem hai tấm ảnh của Winnie, Susan nhất định "Ðó là hình tôi mà". Không những thế Susan còn đòi gĩù những tấm ảnh nữa. Một cái Susan treo chỗ giường ngủ, còn một cái thì mang theo người trong một thời gian.

Susan chưa bao giờ được gọi bằng tên Winnie, nhưng có một lần, Susan cầm lấy cây bút chờ viết nguệch ngoạc vào cánh cửa nhà bếp chữ "Winni". Em bỏ sót chữ e và viết chữ I nghiêng thay vì thẳng. Trong thời gian này, Susan thường nói câu: "Khi nào tôi đi học tôi sẽ chơi đu ở trong trường". Susan chưa đi học, em vẫn ngồi đu ở sân nhà. Winnie khi xưa lúc bắt đầu đi học trước khi bị chết thảm vẫn hay chơi đu ở trong trường.

Khi Winnie còn sống, Bà Eastland có một lọ bánh có hình con mèo. Mỗi khi đứa nào muốn ăn, Bà thường hỏi con mèo có thể cho con Bà mấy chiếc và Bà giả bộ nói giọng con mèo trả lời: "Meo, con có thể lấy một chiếc" (Số bánh thay đổi tùy theo đứa trẻ đòi nhiều hay ít). Khi Winnie chết Bà cất cái lọ đi và quên hẳn đã mấy năm. Lúc Susan lên 4, Bà Eastland lại mang cái lọ ra và bỏ vào đầy bánh. Susan đòi một chiếc, Bà vô tình hỏi Susan "Con mèo nói sao?", không suy nghĩ Susan trả lời: "Meo, con có thể lấy một chiếc". Bà Eastland không thể ngờ Susan có thể trả lời đúng ngay câu hỏi mà xưa kia Bà thường dùng khi kể tới chi tiết này.

Bà có nhận xét tinh tế là một đứa trẻ thông minh như Susan có thể trả lời được câu hỏi và tôi muốn thêm là có thể trả lời đúng bởi thần giao cách cảm, nhưng đúng từng chữ, từng câu là việc khó. Chỉ có thể nói rằng Susan chính là Winnie xưa kia mới lập lại được mà thôi. Susan sau đó kể thêm vài chuyện nữa khi Winnie còn sống. Susan đã kể lại một cuộc đi chơi bờ biển cùng gia đình em có bắt được một con cua và còn nói được tên những người tham dự cuộc đi chơi hôm đó. Bà Eastland nhớ là một năm trước khi Winnie chết gia đình Bà có đi chơi bờ bể của Tiểu Bang Washington.

Họ nhảy sóng, nghịch cát, nhặt vỏ sò và bắt hến. Tuy nhiên Bà không nhớ họ có bắt được con cua hay không. Susan kể chính xác tên 3 trong số 4 người tham dự, em đã quên người cha kế sau này. Em còn đính chính lại là có cả cha em (cha của Winnie) và cũng cho biết đã cùng với Sharon đi chơi đồng cá, Susan không biết sợ ngựa và đã có lần đi dạo dưới chân ngựa. Sự việc đúng như vậy, Winnie trước đây đã từng chơi với Sharon trên bãi cá, không sợ ngựa và cũng có lần đi dạo dưới chân ngựa.

Bà Eastland hỏi Susan có nhớ Cậu Bé Gregory ở trước nhà không thì Susan cho biết còn nhớ và còn cho biết là thường chơi với Greg (tên tắt của Gregory). Bà Eastland chưa bao giờ nói với Susan về Gregory cả, thế mà Susan vẫn biết được. Hỏi Susan còn nhớ Chú George ở phố trên không? Susan nói không còn nhớ căn nhà của Chú thế nào nhưng có nhớ Chú và còn thêm rằng: "Con có thói quen ngừng lại thăm Chú và chơi ở nhà Chú một lát trước khi tới trường".

Ngày Winnie bị xe đụng chính là ngày em ngừng lại để chơi với Chú George. Cậu Bé Gregory và Chú George cùng ở chung một thành phố với Winnie trước khi em chết, còn Susan thì được sanh và sống tại một thành phố khác nhỏ hơn ở Idaho. Quý Vị Ðộc Giả thấy ở đây mẹ của Susan thỉnh thoảng đã gợi lại trí nhớ tiền kiếp của Susan bằng cách hỏi em các sự việc trong đời Winnie tuy có thể biết được tiền thân của em nhưng mặt khác lại có thể đưa đến sự lầm lẫn, nhất là đối với một người thông minh và thận trọng như Bà Eastland.

Một lần khác Bà Eastland kể cho Susan rằng Winnie dã làm mất đôi giầy mới ngoài cánh đồng. Lần ấy Susan cười và nói rằng em không quan tâm đến việc mất đôi giầy. Em còn thêm: "Mẹ phải lên phố mua cho con đôi giầy mới nữa". Sự việc xảy ra đứng như vậy, Winnie chỉ mất một đôi giầy trên cánh đồng. Ðến cuối năm 1969, tôi vẫn theo dõi trường hợp luân hồi này. Cho đến năm 1977 khi tôi liên lạc với Bà Eastland để phối kiểm lại một số chi tiết thì có một sự việc khác Susan vừa nhớ được như sau:

Susan cho biết có lần em theo Bà Eastland đến một bãi chơi ném bóng, trong lúc mẹ em ném bóng, em (Winnie) đi mua kẹo ở một khu vực gần đấy. Một em trai ở đấy đang chạy quanh đến ôm và hôn em (Winnie). Bà Eastland nhớ rõ chuyện này khi Bà kể chuyện cho chồng Bà nghe, Ông rất giận dữ. Susan nhắc lại những ký ức về Winnie với vẻ tha thiết như nhắc lại những sự việc của chính mình đã xảy ra "từ lâu".

Trong một lá thư gửi cho tôi, Bà Eastland viết: "Susan học rất tấn tới, hình như nó biết và chỉ cần nhớ lại mà thôi. Bà nhận thấy tính nết cũng như hành động của Susan giống hệt như Winnie ngày trước. Cả hai đều tháo vát, lanh lợi và ngăn nắp khác hẳn người chị Sharon tính nết rụt rè nhút nhát. Tuy nhiên về hình dáng thì Susan không giống Winnie. Winnie có tóc đỏ và mắt nâu sậm còn Susan thì tóc vàng, mắt xanh. Nhưng cả hai cùng có lông mọc đằng sau lưng. Cha các em cũng vậy, mà mấy đứa khác lại không.

Susan cũng có một vết thẹo nhỏ bên hông trái đúng chỗ Winnie bị xe đụng gây ra vết thương trầm trọng khiến bị tử nạn. (Tôi có bản sao hồ sơ y khoa của bệnh viện nơi Winnie được mang tới sau tai nạn và chết ở đó). Qua những ký ức về tiền kiếp mà Susan nhớ lại, Winnie đứa con gái của Bà Eastland đã chết năm 1961, và tái sanh năm 1963 cũng tại gia đình Bà và mang tên mới là Susan. Trường hợp này xảy ra ở Hoa Kỳ, trong một gia đình theo đạo Cơ Ðốc không chấp nhận thuyết luân hồi.

Khi tôi đến thăm, Bà Eastland cho biết người ta có thể trục xuất Bà ra khỏi cộng đồng Cơ Ðốc nếu biết được Bà có niềm tin vào thuyết luân hồi. Bà đã khám phá ra tính cách hấp dẫn và lôi cuốn của thuyết này, dù rằng Bà vẫn luôn theo đúng tôn chỉ các Nhà Thờ Cơ Ðốc Giáo đề xướng ra. Bà quả quyết với tôi là cho tới khi tôi đến thăm Bà vào mùa hè năm 1969 Bà chưa hề kể cho các con Bà niềm tin tưởng của Bà là Susan chính là Winnie tái sanh. Tuy nhiên, sau lần ấy, Bà đã kể cho chúng để giải tỏa các thắc mắc của chúng về lý do thăm viếng của tôi.


TIỀN THÂN CỦA MICHAEL WRIGHT

Tôi bắt đầu điều tra vụ luân hồi này từ khi người mẹ của Michael là Bà Catherine Wright gọi điện thoại cho tôi. Người đồng sự của tôi nói chuyện với Bà Wright trước nhận thấy vẻ hốt hoảng khi Bà báo tin cho hay con trai Bà, Michael, nói đến tiền kiếp và nhận là người yêu có của Bà trước khi Bà lấy người chồng hiện tại. Người bạn này tên là Walter Miller đã bị chết trong một tai nạn khi xe của Walter đâm xuống ruộng.

Tuy không tin có luân hồi, nhưng Bà Wright lại rất tin tưởng vào những hiện tượng lạ kỳ. Vào tháng 9 năm 1978, Bà gọi điện thoại đến Ðại Học Ðường Virginia. Một tháng sau tôi mới đến Texas để phỏng vấn Bà. (Hầu hết các tin tức thâu lượm được trong nội vụ đều do cuộc phỏng vấn này và một cuộc phỏng vấn khác cách đó một năm do Emily William Cook, cộng sự viên của tôi phụ trách). Qua cuộc phỏng vấn, tôi nhận thấy Bà và Bà mẹ của Bà tin tưởng có luân hồi, ngược lại người chồng thì không. Nghĩ cho cùng thì chồng của Bà không đồng quan điểm cũng phải vì vui vẻ sao được khi người bạn trai của vợ mình đã chết lại tái sanh làm đứa con của gia đình. Sở dĩ Bà Wright lấy người chồng hiện tại vì người bạn trai Walter Miller đã chết; phải chăng Walter Miller chưa chết hẳn mà lại tái sanh để xâm nhập vào gia đình của ông?

Trong khoảng thời gian từ lúc gọi điện thoại cho tôi vào tháng 9 năm 1978 đến lần viếng thăm Bà vào cuối tháng 10, Bà Wright đã không quan tâm đến sự hờn giận của người chồng và kể hết những điều mà con Bà, Michael, đã nói về tiền kiếp. Bà cho biết chồng Bà cũng phỏng đoán Michael là hiện thân của Walter Miller, người bạn trai có của Bà. Trở lại người bạn trai của Bà, Walter Miller, chết vào mùa hè năm 1967 lúc chưa đầy 18 tuổi. Là một học sinh trung học phổ thông, có triển vọng về hội họa, Walter Miller dự tính vào đại học năm thứ nhất vào mùa thu năm đó. Walter và Catherine đã biết nhau 3 năm, đã hẹn hà nhiều lần và đã cùng nhau đính ước.

Một đêm Walter Miller cùng người bạn là Henry Sullivan đi dự khiêu vũ về, vì quá chén nên lúc về Walter ngủ gục trên tay lái khiến chiếc xe đâm xuống ruộng và Walter chết liền tại chỗ, còn người bạn thì không sao cả. Walter chết, Catherine đau xót, nhưng nàng cố đè nén cơn xúc động, Một năm sau, năm 1968, Catherine lấy Frederick Wright, người bạn trai khác. Họ có con gái đầu lòng rồi Michael ra đời. Trước khi chuyện này xảy ra, vào khoảng một năm sau cái chết của Walter, Catherine đã mơ thấy Walter tái sanh.

Walter nói rằng anh không chết, anh sẽ trở lại và tiếp tục vẽ chân dung cho Catherine. Catherine nghĩ rằng có thể Walter luân hồi, sẽ tái sanh vào một gia đình nào đó, có thể vào gia đình người chị của Walter là Carole Davis vì Carole có mang vào thời điểm này và không bao giờ có ý nghĩ là Walter sẽ đầu thai vào làm con mình. Michael sanh ra bình thường, thời thơ ấu có đôi khi khó thở. Năm lên ba, Michael bắt đầu nói về tiền kiếp, kể những sự việc xảy ra mà một đứa trẻ lên ba không thể nào có thể biết được. Có một ngày Michael đã làm cho Bà Wright sợ hãi vì em buột miệng gọi "Carole Miller". Sau khi Walter chết, Bà vẫn giữ liên lạc với Carole Miller nhưng Carole đã lập gia đình 10 năm về trước và Michael chỉ gặp có hai lần biết tên hiện tại là Carole Davis chứ không hề biết tên thật là Carole Miller.

Michael cũng kể với mẹ như sau: "Bạn tôi và tôi đi trên một chiếc xe, xe đâm xuống ruộng, lén đi lén lại nhiều vàng, cửa xe bị bật ra. Tôi bị văng ra ngoài và chết ngay tại chỗ". Michael sau đó còn cho biết thêm chi tiết như là kính xe bị vỡ, và sau tai nạn, anh được chở qua một cái cầu. Anh cũng nói anh và người bạn đã ngừng bên xa lộ để đi tiểu trước khi gặp tai nạn. Michael nói trúng cả tên thành phố có cuộc khiêu vũ và tên người bạn cùng đi xe chung.

Bà Catherine Wright xác nhận các chi tiết về tai nạn của Walter Miller đã được đăng trên các báo chí (có cả ảnh chiếc xe) rõ ràng và đúng như lời Michael thuật lại. Walter bị văng ra khỏi xe, gẫy cổ và chết ngay tại chỗ; xác anh được xe cứu thương chở qua một cái cầu gần chỗ xảy ra tai nạn. Michael cũng cho biết một vài chi tiết khác nhưng những chi tiết này chỉ mình Walter Miller biết được mà thôi, chẳng hạn như chi tiết về căn nhà của Walter, tên họ của Henry Sullivan (và chỉ nhầm chút xíu về biệt danh của Henry Sullivan).

Trong cuộc phỏng vấn Bà Catherine Wright với mẹ của Bà là Margaret Carpenter, cả hai đều xác nhận Michael đã nói về tai nạn xe cộ trước mặt họ và Michael đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Chúng tôi nhận thấy những chuyện Michael thổ lộ với mẹ là Catherine rất có thể làm cho Catherine lo lắng, bối rối nên chắc chắn Bà không khuyến khích Michael, con Bà nói chuyện về tiền kiếp. Việc Bà Catherine Wright gọi điện thoại cho tôi và cho tôi biết tự sự về việc này chứng tỏ Michael có thể là hiện thân của Walter Miller đã chết trong một tai nạn xe cộ vào mùa hè năm 1967.

#272 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 09/07/2011 - 23:06

NHỮNG CHUYỆN LUÂN HỒI HIỆN ĐẠI

GIÁO SƯ H.N. BANERJEE


Giáo Sư H.N. Banerjee là một Giáo Sư nổi tiếng Khoa Trưởng Khoa Tâm Linh của Ðại Học Ðường Rajasthan, Jaipur, Ấn Ðộ. Ông chuyên khảo cứu về các vụ luân hồi tại Âu cũng như Á. Hàng trăm chuyện luân hồi đã được giáo sư điều tra tại chỗ. Hồ sơ các vụ đó hiện còn đang lưu trữ tại Trường Ðại Học này. Sau đây là hai vụ điển hình: Chandgari và Necati trong cuốn Reincarnation East and West của tác giả do nhà Xuất Bản Double Day, New York, Garden City phát hành năm 1974.


CHANDGARI

Chandgari là một làng nhỏ có dân số hơn 1 ngàn người nằm trên Thượng Lưu Sông Hằng, Ấn Ðộ. Từ Ðại Lộ Chính đường dẫn vào làng là những con đường nhỏ, thế mà một câu chuyện luân hồi xảy ra đã khiến cái làng bộ nhỏ xa xôi này trở thành nổi tiếng trên thế giới làm cho tất cả các Trung Tâm Tâm Lý, Siêu Linh Học đều phải chú ý. Câu chuyện nghịch lý bằng sanh mà cũng là tử nữa. Câu chuyện không xảy ra chỉ riêng ở làng Chandgari mà cũng còn liên quan đến làng Itarni thuộc Quận Aligarth cách Chandgari chừng ít dậm. Vào đầu năm 1960, một thanh niên làng Itarni tên là Bhajan Singh, 21 tuổi bị chết sau một cơn sốt cấp tính.

Cũng khoảng thời gian trên một đứa bộ được sanh ra tại Chandgari và được cha mẹ đặt tên là Munesh. Từ khi chào đời đến lúc lên 3 tuổi mọi việc đều bình thường, không có gì đáng kể. Nhưng khi được 4 tuổi, trong lúc chơi với các bạn đồng trang lứa, em thường nhắc đến cái làng Atharni và nói rằng em đã từng ở nơi ấy. Các bạn em đều chế nhạo, cho rằng em nói đến một cái tên xa lạ không có trên thực tế. Một hôm người mẹ đang tắm cho em thì em la lối om sòm. Bà giận dữ tát em một bạt tai. Em hờn dỗi nói: "Mẹ à, nếu mẹ đánh con nữa, con sẽ đi khỏi nơi đây ". Bà thắc mắc hỏi em định đi đâu. Với một giọng tự nhiên em trả lời: "Con sẽ trở về làng con, làng Atharni mới thật sự là làng của con, con không phải người thuộc làng này ".

Người mẹ chưa bao giờ nghe thấy làng Atharni cả, nhưng sau vài phút nghĩ ngợi bà cho rằng có lẽ em muốn nói đến làng Itarni, một làng cách xa Chandgari vài dậm. Bà la rầy và cấm em không được nói đến chuyện ngớ ngẩn ấy nữa. Em cãi lại là chuyện này không ngớ ngẩn và còn cho biết tên em không phải là Munesh mà la Bhajan Singh, người làng Atharni chứ không phải làng này. Em còn nói em có một căn nhà, một cái giếng, một thửa vườn và một nông trại. Em nói thêm: "Con có một người vợ, một người anh, một người mẹ và một người con gái". Người mẹ mắng em và bảo em đừng bao giờ kể chuyện của đứa trẻ nít ban ngày mê ngủ, nhưng ngược lại em nói đó là sự thực. Giận quá, bà đánh em một trận nên thân và bắt em phải im ngay.

Khi bắt đầu đi học, Munesh kể cho bạn bè ở trường về gia đình em ở làng Atharni. Mọi người đều chế nhạo chê cười câu chuyện của em. Song không bao giờ Munesh thay đổi và cả quyết chính em là Bhajan Singh, em có thể nhớ lại tất cả những chuyện thật của em ở kiếp trước. Không một ai trong gia đình cũng như trong bạn bè của em tin tưởng vào câu chuyện. Tuy nhiên trong gia đình em có ông nội em là người thương em nhiều nhất. Ông cô quyết định điều tra vụ này xem thực hư ra sao. Ông cô nghỉ rằng sau khi tìm được sự thực, tất nhiên Munesh không còn nói bậy nữa. Ông cô có biết một người láng giềng quê ở Itarni, do đó ông cô đã tìm đến người này. Người láng giềng này đã có tuổi nên có nhiều ký ức về quá khứ.

Ông cô hỏi: "Có bao giờ ông nghe thấy ở Itarni có một người tên là Bhajan Singh không? Người này đã chết sau một cơn sốt, để lại một người vợ và một người con gái?" Sau một hồi suy nghĩ, người láng giềng cho biết: "Tôi có nhớ một người ở Itarni có cái tên như vậy, và người ấy đã chết rồi để lại một người vợ và một người con gái. Hiện nay người vợ và đứa con gái đang sống tại Itarni". Sau khi nghe được tin này, ông cô viết thơ cho gia đình Bhajan Singh và cho biết cháu nội ông tên Munesh ở Chandgari là hiện thân của Bhajan Singh. Ít ngày sau, người anh của Bhajan Singh và người em rể của Bhajan Singh đã đến Chandgari để tìm hiểu sự việc. Khi hai người đến thì Munesh còn đang đi học. Munesh được người nhà đón về.

Khi gặp hai người này thì Munesh nhận ra một trong hai người là anh của mình. (Từ lúc sanh ra đến nay, Munesh chưa bao giờ được gặp người này cả) Munesh nói: "Anh là anh tôi tên là Bhure Singh". Chắp hai tay như cầu nguyện với vẻ kính cẩn em lại trước người lạ và gọi người này là anh. Người này không phải là người nhẹ dạ chấp nhận ngay mà liên tiếp hỏi Munesh về nhà cửa, về gia đình tại Itarni và về vợ con ra sao. Munesh đã trả lời đúng những câu hỏi của người anh không chút ngập ngừng. Munesh còn cho ngừời anh biết ở tiền kiếp em có một người bạn thân ở gần nhà. Người anh hỏi tên người đó thì Munesh cho biết tên là Bhagwati. Ông Bhure Singh xác nhận "Ðúng như vậy, Bhajan Singh và Bhagwati trước đây cùng lứa tuổi và hai người rất thân với nhau. Chúng là đôi bạn thân cho đến ngày Bhajan Singh từ trần lúc 21 tuổi.

Khi người anh và người em rể lên đường về nhà thì Munesh hết sức buồn bã, cố giữ lấy người anh và năn nỉ người anh đừng về. Người anh đã phải dỗ dành Munesh như sau: "Em cứ an tâm, trong ít ngày nữa anh sẽ trở lại, khoảng một tuần thôi anh sẽ đến đây mang Munesh về thăm Itarni". Vài ngày sau có hai người đàn bà tới làng Chandgari. Một người là Ayodhya Devi, vợ của Bhajan Singh và người thứ hai là chị dâu của em. Ðể tìm hiểu sự thực cũng như bán tín bán nghi về tin tức một đứa trẻ tự nhận là chồng luân hồi trở về, nên người vợ đã cùng người chị dâu tìm đến làng Chandgari để gặp Munesh. Hai người đàn bà này vóc dáng hao hao giống nhau, cũng cao và mảnh khảnh; 2 người đều che mạng kín mặt. Nghe tin có 2 người đàn bà lạ tới làng để tìm Munesh, một số dân làng đã đổ xô đến nhà Munesh. Khi gặp Munesh và ông nội, hai người đàn bà này vẫn che mạng và không giới thiệu mình là ai.

Ông nội Munesh muốn thử cháu nên hỏi: "Này Munesh trong hai người đàn bà này, một người là mẹ con đấy, con có nhận được ai là mẹ con không?". Không chút ngập ngừng, Munesh trả lời không ai là mẹ của Munesh cả, chỉ có vợ và chị dâu. Ngay lập tức Munesh chạy lại cầm tay Ayodhya Devi và nói rằng: "Ðây là vợ tôi". Vừa sợ hãi vừa nghi ngờ có thể đây là một cái bẫy nên bà ta đã vội vàng rút tay ra khỏi bàn tay của Munesh. Tuy nhiên khóe mắt của bà ta và Munesh nhìn nhau chứa chan tình cảm. Người đàn bà dịu dàng nói với Munesh: "Lại đây tôi hỏi vài câu". Rồi người góa phụ hỏi Munesh nếu quả thật Munesh là hiện thân của người chồng có thì hãy cho biết những chuyện bí mật riêng tư giữa hai người mà người ngoài không ai biết được. Munesh trả lời: "Ðúng vậy tôi có đánh vợ tôi bằng hai cái cây dùng để xay bột. Sau khi dự cuộc thi ở Agra, tôi trở về Itarni thì gặp vợ tôi đang cãi nhau với mẹ tôi. Tôi đã đánh vợ tôi và làm cánh tay phải của vợ tôi bị chảy máu".

Người góa phụ vô cùng sửng sốt, và xác nhận việc bất hạnh đó quả có xảy ra. Rồi Munesh còn cho góa phụ biết thêm nhiều chi tiết về sự thân mật giữa hai vợ chồng mà chỉ có hai người biết được mà thôi. Lúc nói những điều bí mật này Munesh đã không cho mọi người nghe thấy. Góa phụ Ayodhya Devi xác nhận những gì Munesh nói đều đúng sự thực và xin phép cho Munesh cùng về Itarni. Bấy giờ gia đình Munesh mới tin đây không phải là một chuyện ngớ ngẩn mà là một chuyện có thực. Munesh cùng ông nội đi Itarni. Khi đến nơi thì một đám đông người đã chờ sẵn, trong đám đông này, Munesh đã nhận đươc Bhagwati Prasad, người bạn thân ở tiền kiếp. Bhagwati nhận rằng anh đã chơi rất thân với Bhajan Singh xưa kia, để thử thách Bhagwati có hỏi Munesh nhiều câu, Munesh trả lời rất chính xác, có những sự kiện mà chỉ hai người biết được với nhau mà thôi.

Tới Itarni Munesh không cần người hướng dẫn, tự mình tìm được nhà, và nhảy lên lòng mẹ Bhajan Singh. Munesh ôm chầm lấy bà, y như một đứa con mới tìm lại được mẹ sau nhiều năm xa cách. Mọi người chứng kiến nhìn thấy nước mắt đầm đìa trên gương mặt Munesh. Sau đó Munesh thăm nhà cửa chỉ cho biết những gì đã thay đổi so với hồi tiền kiếp. Qua những sự kiện trên, Munesh quả là hiện thân của Bhajan Singh, đã từ trần vào năm 1960, lúc 21 tuổi tại Itarni.


NECATI

Necati Unlustaskiran là một gia đình Ả Rập nghèo tại Thành Phố Adana, Thổ Nhĩ Kỳ. Khi mới chào đời em được đặt tên là Malik. Nhưng hai ngày sau, trong một cơn mộng, người mẹ đã thấy đứa con của mình yêu cầu được đổi tên là Necip. Vì trong gia đình đã có người mang tên Necip rồi, nên theo tục lệ không thể hai người cùng một giòng họ cùng mang một tên nên gia đình đã quyết định đổi Necip thành Necati. Khi bắt đầu biết nói, Necati thường kể những chuyện lạ lùng. Em nói những tên và những điều rất lạ mà gia đình em chưa hề thấy bao giờ cả. Em nói đến kiếp trước của em, em kể tên những người em quen biết và tên của những người em đã từng sống chung Em mô tả em lớn lên như thế nào, và ở tiền kiếp em đã bị một người bạn thân giết.

Em bảo ở tiền kiếp tên em là Necip Budak và em sống ở Mersin, Thổ Nhĩ Kỳ, vợ em tên là Zehara và có ba đứa con. Em nhớ lại là em rất sung sướng khi bồng bế đứa con trai tên Najak đi thăm người bạn thân Ahmed Renkli. Necip và Renkli là đôi bạn chí thiết. Một việc bất hạnh đã xảy ra với đôi bạn này. Một hôm Ahmed Renkli báo cho Necip biết là Renkli sẽ qua thăm Necip và mang biếu anh một ít trà, nhưng khi Renkli đến lại quên mất trà. Necip phàn nàn và hai người to tiếng cãi nhau, đi đến ẩu đả. Cuối cùng Renkli đã quá giận rút con dao nhíp sẵn có trong người và đâm túi bụi vào Necip. Necip đã chết thê thảm trên vũng máu. Những người ở trong thị trấn thấy Necati quả là hiện thân của Necip Budak bị giết trước đây nên đều gọi Necati bằng tên Necip.

Những dữ kiện sau đây do Necati cho biết đã được kiểm chứng và xác nhận:

1. Zehara, vợ của Necip còn đang sống, chồng của Zehara tức Necip bị thảm sát. Zehara cùng Necip có ba người con.

2. Khi mang Necati đến nhà người chồng đã chết, Necati đã nhận được ngay ra được người vợ Zehara, nói được cả tên những đứa con, ngoại trừ đứa con thứ ba sanh sau khi Necip chết.

3. Một sự việc Necati nói là trong một cuộc cãi vã Necip đã lấy dao đâm vào đùi vợ. Ðúng như Necati đã nói, khi khám nghiệm Zehara có thấy một vết sẹo khá lớn trên đùi Zehara do Necip đâm.

4. Adana là nơi sanh của Necati. Adana cách xa Mersin là nơi trú ngụ bị đâm chết khoảng chừng 75 cây số. Gia đình Necati hiện tại và Necip-Zehara đều không có liên hệ và không hề quen biết nhau. Phải chăng Necati chính là Necip Budak đã luân hồi nên mới có thể nhận được nào là vợ, nào là con và nhất là chỉ được vết thẹo trên đùi vợ mà chính Necip đã đâm trong khi nóng giận?

#273 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 09/07/2011 - 23:41

NHỮNG CHUYỆN LUÂN HỒI HIỆN ĐẠI

TIẾN SĨ ROBERT ALMEDER

Tiến Sĩ Robert Almeder, Giáo Sư Triết của Ðại Học Ðường Georgia, Giám Ðốc Trung Tâm Kỹ Thuật của Ðại Học này là tác giả của tác phẩm khảo luận về luân hồi "Evidence For Life After Death" "Bằng Chứng Về Ðời Sống Sau Khi Chết". Ông cũng là thành viên của Viện Khoa Học Quốc Gia, đã được thưởng hai giải thưởng xuất sắc về Giáo Dục (Outstanding Educator of America Award) năm 1984.

Từng viết trên 50 bài khảo luận về triết học đăng tải trên các báo như Philosophy of Science, Synthese, The American Philosophical Quarterly, Philosophia, Erkentnis và The History of Philisophy Quarterly. Ông đã xuất bản 8 tác phẩm, trong đó có tác phẩm The Philosophy of Charles Pierce, và A Critical Introduction. Ông đã dùng những chuyện có thật đã được phối kiểm để dẫn chứng trong cuốn "Evidence for Life After Death". Dưới đây là vài chuyện trong tác phẩm trên do nhà Xuất Bản Thomas Springsfield, Illinois phát hành năm 1987.


CÔ BÉ SWARNLATA (Tái sanh sau khi chết được 9 năm)

Năm 1951 trong một cuộc du ngoạn, một người Ấn Ðộ tên Mishra, cư ngụ tại thành phố Panna, thuộc Quận Madhya Pradesh mang theo đứa con gái 3 tuổi cùng vài người khác đến thành phố Jabalpur cùng Quận, cách Panna 70 dậm về phía Nam. Trên đường trở về khi đến địa phận thành phố Katni cách Jabalpur 57 dậm về phía Bắc, Swarnlata bất ngờ đề nghị người tài xế rẽ vào một con đường mà em nói là đường về nhà em nhưng người tài xế hoàn toàn không để ý đến lời yêu cầu này. Sau đó khi mọi người ngừng lại ở Katni để dùng trò giải khát, Swarnlata nói rằng mọi người sẽ được dùng trò ngon hơn nếu ghé vào nhà em gần đấy.

Lời nói của em làm Mishra nghĩ ngợi vì ông biết là gia đình ông, kể cả ông chưa có ai từng sống ở thành phố Katni cả. Ông càng ngạc nhiên hơn khi nghe con gái thường kể với bạn bè về tiền kiếp em thuộc gia đình Pathak tại Katni. Hai năm sau khi được 5 tuổi em thường múa các vũ điệu và hát các bản nhạc cho người mẹ xem và nghe (sau này cho nhiều người khác). Cha mẹ em đều xác nhận không có người nào dạy em vũ và hát cả.

Năm 1958 khi lên 7, tình cì em gặp một người phụ nữ từ Katni đến, em cho biết đó là người đàn bà em quen ở kiếp trước. Ðến lúc này thì Mishra mới chịu nhận là con gái ông biết nhiều dữ kiện của kiếp trước. Tháng 3 năm 1959, Giáo Sư Tâm Lý Học Banerjee của Ðại Học Rajasthan tại Jaipur bắt đầu điều tra. Sau khi tiếp xúc với Swarnlata tại Chhatarpur, Ông đi Katni làm quen với gia đình Pathak mà Swarnlata cho rằng em là một thân nhân của gia đình này.

Trước khi Giáo Sư Bernajee đi Katni, theo lời mô tả của Swarnlata ông đã ghi 9 điểm đặc biệt về nơi của gia đình Pathak. Những chi tiết này hoàn toàn đúng như Swarnlata nói trước khi tới gia đình Pathak. Chắc chắn là trước khi Giáo Sư Banerjee tới Katni, gia đình Mishra không hề biết gì về gia đình Pathak cả. Nhận thấy những điều Swarnlata cho biết về tiền kiếp trùng hợp với người con gái của gia đình Pathak có tên là Biya, vợ của Pandley, cư ngụ tại Maihar. Biya đã chết năm 1939 - tám năm trước khi Swarnlata ra đời.

Mùa hè năm 1959 vài người trong gia đình Pathak và gia đình Pandley cùng đến Chatarpur, nơi ông bà Misshra và Swarnlata cư ngô. Trước sự chứng kiến của một số điều tra viên, tuy không được giới thiệu nhưng Swarnlata đã nhận ra từng người trong hai gia đình và gọi đúng tên họ. Em đã kể lại những sự việc xảy ra khi Biya còn sống mà theo trong gia đình những sự việc này chỉ mình Biya biết được mà thôi. Chẳng hạn như em cho biết em có một cái cái răng cửa bịt vàng. Các người chị dâu của Biya xác nhận là đúng. Lẽ tự nhiên gia đình Pathak coi Swarnlata là hiện thân của Biya mặc dầu trước đây gia đình này không hề tin tưởng là có luân hồi.

Sau chuyến viếng thăm của gia đình Pathak và Pandley, cũng trong mùa hè năm 1959, Swarnlata và gia đình đến Katni và Maihar, nơi Biya đã lập gia đình và đã chết. Khi tới Maihar em đã nhận thêm một số người và cho biết những nơi có sự thay đổi so với lúc em còn sống. Những tiết lộ này đều được phối kiểm là đúng. Về sau em còn tiếp tục đến thăm gia đình em trai của Biya và biểu lộ một sự thương yêu nồng nàn.

Tuy nhiên có vấn đề là trước đây Biya chỉ nói được tiếng Hindu trong khi những bài hát và những điệu múa mà Swarnlata trình diễn lại bằng tiếng Bangali. Trong cuộc điều tra này, các điều tra viên nhiều lần đã có ý thử thách để làm cho em lầm lẫn nhưng cuối cùng cũng phải công nhận những điều em nói về tiền kiếp rất chính xác. Trường hợp trên đây đã được phối kiểm với những bằng chứng hiển nhiên, không ai có thể chối cãi sự luân hồi của Biya.


BÀ LYDIA JOHNSON

Năm 1973, Bà Lydia Johnson bằng lòng giúp chồng trong cuộc thí nghiệm thôi miên. Bà rất đắc lực vì dễ đi vào tình trạng hôn mê. Bác Sĩ Harold Johnson là một nhân vật nổi tiếng và trọng vọng tại Philadelphia. Năm 1971 ông đã dùng thuật thôi miên để chữa trị cho một số bệnh nhân. Khi các cuộc thí nghiệm với người vợ đã tiến hành tốt đẹp, ông quyết định thôi miên vợ để tìm hiểu đời sống tiền kiếp của Bà, nhưng đang nửa chừng thì bỗng nhiên bà co giật người như bị đánh và sợ hãi hét lên. Bà ôm chặt đầu. Ông phải chấm dứt ngay cuộc thí nghiệm. Hai lần thử lại kết quả vẫn thế.

Mỗi lần hồi tỉnh bà đều cho biết đã mục kích thấy cảnh tượng nhiều người già cả hình như bị bắt buộc nhảy xuống nước chết đuối. Chính Bà cũng cảm thấy như bị ai đẩy, rồi cú đánh rồi tiếng thét và cơn nhức đầu. Sau mấy lần thí nghiệm đều như trên, Bác Sĩ Harold Johnson đã mời Bác Sĩ John Brown đến thử lại cuộc thí nghiệm. Trước khi cơn đau tái diễn, B.S. John Brown nói với Bà: "Bà còn trẻ hơn họ đến 10 tuổi đấy." Và lần này không như lần trước Bà bắt đầu nói nhưng không phải những câu hay những tiếng nói vẫn dùng hàng ngày mà phần lớn là thứ ngôn ngữ lạ làm chẳng ai hiểu được.

Giọng nói của Bà y hệt giọng đàn ông. Rồi chính Bà, một phụ nữ 37 tuổi, thốt ra câu: "Tôi là đàn ông". Ðược hỏi tên Bà cho biết "Jensen Jacoby". Với ngôn ngữ ngoại quốc, xen lẫn vài tiến Anh ngặp ngừng, Bà tả lại cuộc đời tiền kiếp của Bà. Trong lần thí nghiệm này (và trong các lần sau đó), cũng với giọng đàn ông, Bà Lydia Johnson cho biết 3 thế kỷ trước Bà sống tại một làng nhỏ ở Thụy Ðiển. Những điều Bà nói trong lúc thôi miên đều được ghi âm và ghi chép kỹ lưỡng.

Nhiều nhà ngôn ngữ học Thụy Ðiển được mời lại để phiên dịch lời nói của Jensen Jacoby. Trong các cuộc thí nghiệm sau, Bà Lydia Johnson hoàn toàn chỉ nói tiếng Thụy Ðiển, một ngôn ngữ mà từ trước đến nay Bà chưa từng biết tới. Khi được hỏi: "Ông làm gì để sống?". Jensen Jacoby cho biết ông là một người làm nghề nông ở thế kỷ thứ 16 tại Thụy Ðiển. Ðược hỏi: "Ông sống ở đâu?", Jacoby trả lời "Sống ở trong nhà" và khi được hỏi nhà ở đâu, Jacoby trả lời: "Ở Hansen". Tất cả đều được hỏi bằng tiếng Thụy Ðiển. Jacoby đã tả lại anh ta có cá tính đơn giản phù hợp với một người làm nghề nông.

Tầm hiểu của anh chỉ hạn hẹp trong đời sống ở trong làng và một trung tâm thương mại mà anh được đến xem. Jensen Jacoby cho biết anh nuôi bà, ngựa, dở và gà. Anh thường ngày dùng bánh mờ, sóa, phó mát, cá hồi và bánh ngọt làm bằng hột cây anh túc do Latvia, vợ anh ta nấu nướng. Jacoby đã tự tay cất một căn nhà bằng đá để ở và vợ chồng anh không có con. Mẹ của Jacoby là người Na Uy và Jacoby là một trong ba người con trai của gia đình. Jacoby đã sống tự lập. Một vài vật dụng được mang đến trong khi Bà Lydya Johnson còn đang bị thôi miên. Bà được yêu cầu mở mắt ra để lựa chọn các vật dụng này.

Là hiện thân của Jensen Jacoby, Bà đã chọn một chiếc thuyền mẫu của Thụy Ðiển ở Thế Kỷ Thứ 17, một cái đấu bằng gỗ để dùng trong việc mua bán lựa mờ thời cổ, 1 cây cung và tên và những hột cây anh túc. Các dụng cụ tối tân chẳng hạn như cái kìm thì Bà từ chối vì không biết cách xử dụng. Kết quả thí nghiệm về thôi miên trên đây đã chứng minh được Bà Lydia Johnson đã là hiện thân của Jensen Jacoby, một nông dân ở Hansen, Thụy Ðiển chết cách đây ba Thế Kỷ.


CẬU BÉ BISHEN CHAND

Bishen Chand sanh năm 1921 trong một gia đình có tên là Ghulam ở Thị xã Bareilly, Ấn Ðộ. Khi được 1 tuổi rưỡi, Bishen Chand thường hay hỏi về Thị Xã Philbhit, một thành phố cách Bareilly 50 dậm. Không một ai trong gia đình Ghulam (Bishen Chand) quen biết người nào tại thành phố này cả. Bishen Chand đòi gia đình chở em đến thành phố này vì em tin chắc rằng kiếp trước em đã sống ở đó.

Thời gian trôi qua, Bishen Chand vẫn không ngưng nói chuyện về tiền kiếp của mình tại Thành Phố Philbhit. Gia đình em rất khó chịu phải nghe câu chuyện lập đi lập lại nhiều lần. Vào mùa hạ năm 1926, Bishen Chand được 5 tuổi, em nói là em nhớ lại rất rõ ràng tiền kiếp của mình: em là con một vị điền chủ giàu có tên là Laxmi Narain.

Em bảo rằng em còn nhớ có một người chú tên là Har Narain sau này trở thành Cha của Laxmi Narain. Em tả lại ngôi nhà mà em đã sống, có 1 phòng dùng làm nhà thì và nhiều phòng khác dành cho phụ nữ. Hằng ngày em thường hay ca hát và nhảy múa với các cô Nautch, những vũ nữ chuyên nghiệp. Em nhớ lại em thường đến dự tiệc tùng ở nhà người láng giềng có tên Sander Lal, căn nhà có "cái cổng màu xanh lá cây". Một hôm em khuyên cha nên lấy thêm một nàng hầu.

Cha Bishen là một thư kỷ của chính phủ nên rất nghèo. Trong khi nhớ về tiền kiếp với đời sống sung túc, giàu có, Bishen càng bực bội với cuộc sống hiện tại túng bấn nghèo nàn. Thỉnh thoảng em khước từ không dùng những món ăn mà theo em các người hầu hạ (trong tiền kiếp của em) cũng chẳng dùng. Bishen đòi ăn thịt cá trong khi nhà nghèo không có nên em thường sang hàng xóm để ăn. Những quần áo vải em bỏ một bên mà đòi quần áo lụa (em cho rằng quần áo vải cũng chẳng đáng cho các người hầu hạ của em mặc). Xin tiền cha, cha không cho, em khóc lóc.

Một hôm cha của Bishen nói rằng ông có ý định mua một chiếc đồng hồ và em bảo: "Cha à, đừng mua, khi nào về Philbhit con sẽ lấy cho cha 3 cái đồng hồ tốt của Hiệu Muslim mà con đã thành lập." Bishen còn cho biết thêm tên người chủ tiệm đồng hồ. Chị Bishen lớn hơn em 3 tuổi, một lần đã bắt gặp em lấy rượu mạnh uống (mặc dù rượu này cất trong tủ chỉ dùng để làm thuốc). Em nói với người chị là em có thói quen uống rượu mạnh, ở tiền kiếp em thường uống rượu mạnh. Về sau em còn cho biết là ở tiền kiếp em có một nàng hầu (em hiểu sự khác biệt nàng hầu và vợ) tên là Padma. Mặc dầu Padma là gái mại dâm nhưng em rất mực thương yêu. Em còn hãnh diện khoe là em đã giết một người đàn ông từ nhà Padma đi ra.

Trí nhớ về tiền kiếp của Bishen đã lọt đến tai Ông K.K.N. Sahay, một luật sư ở Bareilly. Ông đã đến nhà Bishen Chand và ghi chép tất cả những điều em nói. Sau đó ông đưa Bishen, người cha và người anh của em đi Philbhit. Luật Sư Sahay và gia đình Bishen đã tìm được đúng ngôi nhà của Laxmi Narain. Laxmi Narain, người mà Bishen nhận là tiền kiếp của mình đã chết được gần 8 năm. Một số đông đồng bào đã tụ tập tại đây khi nghe tin Luật Sư Sahay và gia đình Bishen tới Philbhit.

Hầu hết mọi người trong vùng đều nghe tiếng giàu có của gia đình Narain và tính tình phóng đãng của người con trai tên Laxmi. Laxmi Narain đã gian díu với Padma, cô gái mại dâm (hiện còn sống tại đó) và vì ghen tuông Laxmi đã bắn chết tình địch. Gia đình Narain giàu có thế lực, nên Laxmi Narain được trắng án. Tuy nhiên vài tháng sau Laxmi Narain đã chết vì bệnh lúc 32 tuổi. Khi đem em đến trường, Bishen đã chạy ngay vào phòng mà trước đây Laxmi Narain đã từng học. Một người đưa cho em tấm hình có chụp học sinh trong trường, Bishen đã nhận ra 1 người bạn có hiện diện giữa đám đông. - và khi người này hỏi về thầy giáo thì Bishen đã tả đúng là thầy giáo thì mập và có râu quai nón.

Tại đây Bishen đã nhận ra nhà của ông Sander Lal mà em đã tả lúc trước (trước khi đi Philbhit) có cổng xanh lá cây. Luật Sư Sahay khi đăng tải vụ này trên tờ báo quốc gia "The Leader" vào tháng 8 Năm 1926 là chính ông đã đến tận nơi và tận mắt thấy cái cổng của gia đình Sander Lal mầu xanh lá cây. Em cũng chỉ cho mọi người biết cái sàn mà Laxmi Narain đã cùng ca hát và nhảy múa với các cô gái Nautch. Các người bán hàng nơi đây cũng đều xác nhận.

Cũng trên tờ báo "The Leader" Luật Sư Sahay viết rằng tên cô gái điếm Padma mà Bishen đã nói là người tình mà em rất đỗi yêu thương cũng đã được đám đông hiện diện hôm ấy công nhận là đúng. Trong ngày hôm đó vì muốn thử Bishen, người ta đã đem đến truớc mặt em một căp trống Tabbas. Cha của Bishen cho biết là từ khi sanh ra cho đến bây giờ Bishen chưa bao giờ được nhìn thấy loại trống Tabbas này cả. Trước sự kinh ngạc của gia đình và của mọi người Bishen Chand đã chơi trống một cách thành thạo chẳng khác gì Laxmi Narain khi còn tại thế.

Khi mẹ của Laxmi Narain gặp Bishen thì quả là một cảm tình sâu đậm đã phát sanh gióa hai người. Bishen đã trả lời tất cả các câu hỏi của Bà Mẹ Laxmi Narain (chẳng hạn như có lần em đã ném các quả dưa muối). Bishen đã nói tên và tả người đầy tớ hầu mình thuở trước và còn cho biết giai cấp của người này. Sau này em cho biết em thương yêu Bà Mẹ Laxmi Narain hơn là người mẹ đã sanh ra em hiện nay. Cha của Laxmi Narain, trước khi chết, có chôn một số của cải nhưng mọi người trong gia đình không biết ở đâu. Khi được hỏi tới vụ này, em đã dẫn mọi người đến một căn phòng của gia đình. Tại đây người ta đã tìm được 1 kho toàn những đồng tiền vàng chứng tỏ quả là em đã sống tại nhà này ở tiến kiếp.

Khi nghiên cứu vụ này Stevenson (Tiến Sĩ Ian Stevenson, Chuyên Gia Khảo Cứu Luân Hồi) đã khẳng định đây là một trường hợp rất có ý nghĩa bởi vì hồ sơ còn được lưu giữ tại Văn Phòng một Luật Sư đáng tin cậy và nhiều nhân vật chính hiện còn sống và sự phối kiểm tin tức của Bishen có thể thực hiện được. Rất nhiều người biết Laxmi Narain hiện còn sống và biết rõ ràng khi Bishen nói về những ký ức của em. Hơn thế nữa theo Stevenson đây không phải là một vụ giả tạo vì gia đình Bishen Chand không có lợi lộc gì trong vô liên hệ với gia đình Laxmi Narain đã bị sa sút từ khi Laxmi Narain từ trần. Bishen Chand quả là tiền thân của Laxmi Narain.


SHANTA DEVI

Shanti Devi sanh năm 1926 tại thành phố có Dehli. Năm lên 3 tuổi em thường kể lại cho gia đình nghe về tiền kiếp của em. Shanti nói kiếp trước em lấy một người chồng tên là Kendarnarth sống ở gần Muttra. Em có hai con và em chết khi sanh đứa con thứ ba vào năm 1925. Shanti đã mô tả căn nhà trước đây em từng sống cùng chồng và các con tại Muttra. Shanti nói tên của em ở tiền kiếp là Ludgi. Em mô tả các người thân bên em cũng như bên chồng em ở tiền kiếp, cách sinh sống của họ như thế nào và bị chết ra sao. Việc Shanti Devi tái sanh xảy ra rất mau, một năm sau khi chết nên ký ức của em ở tiền kiếp còn rất rõ ràng, mới mẻ.

Vì thấy Shanti Devi cứ lập đi lập lại nhiều lần về tiền kiếp của mình nên Kishen Chand, người cậu của em đã gửi thư đi Muttra theo địa chỉ Shanti Devi cho biết để xem thực hư ra sao. Thư đến tay ông Kendarnarth, một người góa vợ và con đang sầu muộn vì người vợ tên Ludgi vừa chết trong khi sanh đứa con thứ ba năm 1925. Vốn là người theo Ấn Ðộ Giáo chính thống nên ông không chấp nhận vợ ông Ludgi đã luân hồi và trở thành Shanti Devi ở Dehli nhưng ông không khỏi hoài nghi vì có sự trùng hợp này.

Ðể tìm hiểu sự thực, ông Kendarnarth đã nhờ người em họ tên Lal (sống ở Dehli) đi điều tra và đã hỏi về cô bé Shanti Devi này. Lấy cớ đi buôn bán, ông Lal đã tìm được đến nhà Shanti Devi. Vừa trông thấy ông Lal, khi ra mở cửa, em đã òa khóc và ôm choàng lấy ông. Bà mẹ Shanti Devi cũng chạy vội ra, ông Lal chưa kịp mở miệng thì Shanti Devi (lúc này 9 tuổi) nói với mẹ: "Thưa mẹ đây là người em họ của chồng con. Hồi còn ở Muttra, chú ấy và chúng con không ở xa nhau lắm, nhưng nay chú ấy đã chuyển về Dehli. Con rất sung sướng gặp lại chú ấy. Chú ấy phải vào nhà. Con muốn biết tin tức của gia đình con."

Sau khi được em kể lại những chuyện thuộc tiền kiếp của em, Ông Lal xác nhận là đúng nên đã đề nghị ông Kendarnarth đem người con cưng đến Dehli để thăm Shanti Devi. Khi ông Kendarnarth cùng người con trai tới nhà Shanti Devi thì Shanti Devi đã ôm hôn họ và đã gọi họ bằng các tên thân yêu. Shanti Devi đã đối xử với ông Kendarnarth như một bà vợ hiền. Em đã mời ông dùng bánh bích quy với phó mát. Bị xúc động Ông Kendarnarth đã không ngăn được nước mắt. Shanti Devi đã đã dùng những câu nói mà trước đây Ludgi vẫn sử dụng hằng ngày để an ủi ông, vè về ông.

Câu chuyện đã làm cho báo chí và dư luận xôn xao. Các nhân viên điều tra đã đưa Shanti Devi đi Muttra và yêu cầu em dẫn họ về cái nhà mà em đã từng ở và đã chết tại đó ở tiền kiếp Khi xe lửa vừa tới Muttra, Shanti Devi sung sướng òa khóc và dở tay vẫy một vài người đứng trong sân ga. Em cho các điều tra viên biết một người là mẹ chồng và một người là anh chồng. Em đã nói đúng. Ðiều quan trọng hơn nữa là, vừa từ trên xe lửa bước xuống, thay vì dùng tiếng Ấn Ðộ Hindustrani như em đã được học tại Dehli thì Shanti Devi đã dùng tiếng địa phương Muttra mà em chưa từng bao giờ được dạy dỗ để nói chuyện với mọi người. Là hiện thân của Ludgi đã cư trú tại Muttra, nên em đã nói được tiếng địa phương này.

Sau đó Shanti Devi đã dẫn các điều tra viên về nhà Kendarnarth và còn cho biết thêm các chi tiết khác mà chỉ có mình Ludgi biết chẳng hạn khi ông Kendarnarth hỏi Shanti Devi trước khi chết Ludgi có dấu mấy cái nhẫn nơi nào. Shanti Devi cho biết những chiếc nhẫn đó được bỏ trong một cái bình và chôn dưới đất của căn nhà có. Các nhân viên điều tra đã tìm thấy những chiếc nhẫn đó. Trường hợp luân hồi này đã được trình bày trước dư luận báo chí thế giới và là một đề tài sôi nổi trong việc khảo cứu tại nhiều trường học.

#274 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 10/07/2011 - 00:35

NHỮNG CHUYỆN LUÂN HỒI HIỆN ĐẠI

TIẾN SĨ HANS HOLZER

Tiến Sĩ Hans Holzer là một trong những nhà tâm lý học nổi tiếng trên thế giới, chuyên khảo cứu và điều tra những vô siêu nhiên. Ông tốt nghiệp Ðại Học Ðường Columbia, Ðại Học Ðường Vienna, Ðại Học London College of Applied Science (Anh). Ông là giáo sư đã dạy tám năm tại Viện Kỹ Thuật Nữu Uớc. Ông đã được liệt kê trong cuốn "Who's Who In America". Ông đã hướng dẫn độc giả qua các tác phẩm của Ông bằng những tài liệu dẫn chứng xác thực cho rằng chết chưa phải là hết mà đời sống còn tiếp tục qua một hình thức khác, đó là luân hồi. Tiến Sĩ là tác giả của hơn 80 cuốn sách như Ghost Hunter, Where The Ghosts Are, Best True Stories, Life Beyong Life vân vân... Ông cũng thường xuyên viết các bài khảo luận đăng trên báo chí thế giới như National Examiner...Chúng tôi xin trích dịch một câu chuyện luân hồi trong cuốn Life After Life của Ông do nhà Xuất Bản Parker Publishing Co phát hành Năm 1985.


PAMELA WOLLENBERG

Sáng nay, một buổi sáng mát mẻ của Tháng 10 Năm 1967. trứêc đống thư mà độc giả trong và ngoài nước gửi tới đã mấy tuần qua (mỗi tuần tôi nhận 300 đến 400 bức) nhưng tôi chưa kịp đọc. Tôi cảm thấy cần giải quyết cho xong. Tôi cố lựa ra những thư nào khẩn cấp để trả lời ngay. Không biết sao tay tôi nhặt lá thư gửi từ Harvey Illinois. Lá thư này cũng giống như các lá thư khác không có gì đặc biệt nhưng tôi lại mở ra ngay đọc. Tôi đọc đến 3 lần rồi, tôi tự nhò mãnh lực nào đã thúc đẩy tôi bóc lá thư này trong khi hàng trăm thư khác còn nằm trên bàn giấy của tôi sáng hôm đó.

Lá thư như sau: "Kính gửi Ông Hans Holzer,

"Tôi viết cho Ông bức thư này về một kinh nghiệm bản thân của tôi, có thể kinh nghiệm này không có ý nghĩa gì. Tôi đã nhìn thấy cả thảy 3 lần một người con gái Tô Cách Lan đứng dưới chân giường tôi. Tôi không biết cô ta thực sự có nói chuyện với tôi không, nhưng sau khi nhìn cô tôi còn nhớ mọi những chữ sau "Castle", "Perch" hay "Purth", Ruthvin", "Gowrye", "Sixteen" và "Towers", và một tiếng gì nữa như "Burn Night. Tôi chưa kể chuyện này với ai cả vì có lẽ họ sẽ chẳng tin. Nếu ông tìm thấy điều gì qua sự việc trên, ông vui lòng cho tôi biết, tôi vô cùng cảm kích.

Chân Thành,
Pamela Wollenberg

Bức thư ngắn gọn trên đã làm cho tôi bối rối vì những chữ mà cô đề cập trong thư chẳng giúp tôi hiểu điều gì. Thư không giống như loại thư kể chuyện ma quỷ, tâm lý hay những chuyện lạ lùng xảy ra trong phòng ốc. Nó cũng chẳng giống một giấc mơ bình thường, Cô Wollenberg lại cũng không nói rõ những danh từ đó có phải là địa danh hay không. Bức thư quả đã gợi trí tò mò của tôi nên tôi viết thư trả lời cô ngay và đề nghị cô cho biết thêm chi tiết về cô gái, hoặc có ai là nhân chứng cho cái kinh nghiệm mà cô kể trong thư.

Cô trả lời tôi ngay như sau: "Tôi không có nhân chứng vì ngoài tôi không ai thấy cô gái Tô Cách Lan này. Cô gái có mái tóc mầu đỏ, ăn mặc sang trọng, choàng chiếc áo dài trắng viền vàng. Ðêm hôm nọ tôi lại thấy cô. Hình như cô nói với tôi chữ "Handsel". Cô có vẻ bị lạc đường, cô vẫn nó chữ "Ruthven", "Gowrie", Sixteen hundred", "Two towers". Cô cũng nói "Glamis-Angus". Cô còn nói "Tôi nhảy". Tôi không tin là tôi có liên quan đến Tô Cách Lan, nhưng cũng có thể vì phía bên mẹ tôi đều là người Anh cả, còn phía cha tôi là người Ðức. Tôi không biết tôi có thần giao cách cảm hay không nhưng hình như tôi nhìn thấy vài việc trong quá khứ. Tôi hy vọng thư này sẽ giúp được ông.

Chân Thành,
Pamela Wollenberg

Sau khi nhận được bức thư thứ hai, tôi quyết định đi Tô Cách Lan để tìm hiểu vụ này. Tôi có quen vài sử gia Anh Quốc, tôi nghĩ là họ có thể làm sáng tỏ được các chữ bí ẩn của hai lá thư trên. Sau lá thư thứ hai, tôi không còn liên lạc với cô cho đến khi tôi đến Tô Cách Lan vào mùa hè năm 1969. Tôi mang theo hai lá thư, mặc dù tôi không biết phải bắt đầu từ đâu. Một người bạn thân của tôi là nhà văn Elizabeth Byrd, tác giả cuốn Immortal Queen (Lịch Sử Hoàng Hậu Mary của Anh Quốc) đang cư ngụ tại Highlands.

Tôi hy vọng Bà Elizabeth Byrd có thể giúp tôi, nhưng sau khi xem xong hai lá thư, Bà đã không giúp được gì cho tôi cả, tuy nhiên Bà có hứa sẽ lưu ý đến việc này. Chúng tôi được mời đến nhà của ông bà Maurice Simpson để dùng bửa cơm trưa. Ðây là một tòa lâu đài ở phía đông bắc Tô Cách Lan gọi là Muchalls. Ông Bà Simpson mời chúng tôi tới lâu đài có mục đích cho tôi thăm một căn phòng có ma. Nhưng rút cục chẳng có phòng nào có ma tại lâu đài này cả. Tuy nhiên ông bà Simpson là người khả ái và hiếu khách nên chúng tôi rất vui thích.

Tình cờ tôi đưa Ông Bà xem hai lá thư của cô Pamela Wollenberg và hỏi họ xem có ý kiến gì về chuyện này không. Không ngờ ông Simpson tỏ vẻ chú ý đến câu chuyện và ông cho biết ông có được nghe một huyền thoại về "Cái Nhảy Của Một Trinh Nữ" xảy ra tại một lâu đài ở Tô Cách Lan. "Quả thật có chuyện này sao?". Tôi tự hỏi và càng quan tâm hơn nữa. Số phận đã đưa đẩy chúng tôi tới Muchalls chẳng phải vì căn phòng có ma mà vì ông bà Simpson là cây đuốc soi dẫn dắt chúng tôi tìm hiểu cái bí ẩn của hai lá thư từ Harvey Illinois.

Ông Simpson nói: "Tôi có cuốn sách nói về các toà lâu đài của Tô Cách Lan, để tôi đi tìm". Vài phút sau Ông hớn hở trở lại trong tay cầm cuốn sách nhỏ và mỏng. Cuốn sách có tựa đề "Huntingtower Castle" (Lâu Ðài Huntingtower do ông J.S. Richardson viết). Ông Richardson là một cựu thanh tra về các lâu đài cổ của Tô Cách Lan, Lâu Ðài Huntingtower lúc này được đặt dưới quyền giám sát của Bộ Công Chánh Xây Cất. Trong khi lật các trang của cuốn sách nhỏ này, tôi cảm thấy tôi có thể khám phá được giấc mộng kỳ lạ của cô Pamela Wollenberg.

Lâu đài Huntingtower chính là lâu đài Ruthven có, tên này được đặt từ đầu thế kỷ thứ 13. Nam Tước Ruthven III và IV đã dính líu vào vô ám sát Rizzio, một người được Hoàng Hậu Mary sủng ái. Sau đó, người cha là Nam Tước Ruthven III chết, còn người con là Nam Tước Ruthven IV bỏ trốn. Sau đó Hoàng Gia đã ân xá cho phép Nam Tước Ruthven IV được trở về. Nam Tước Ruthven IV tên là William được Vua James phong là Bá Tước Gowrie I vào năm 1581. Vì Vua James còn nhỏ nên các triều thần của Vua thực hiện việc phong tước.

Một năm sau đó vị Bá Tước mới này đã trả ơn bằng một lối đặc biệt. Ông đã cùng với mấy cộng sự viên bắt vị Vua trẻ, giam vào lâu đài Ruthven gần một năm. Lý do hoàn toàn có tính cách chính trị. Gowrie và các cộng sự của ông không đồng ý để Bá Tước Arran và Công Tước Lennox cầm đầu chính phủ ở Tô Cách Lan. Sau khi đã đoạt được uy quyền của hai nhà quý phái này, Bá Tước Gowrie cùng các cộng sự viên của ông đã uy hiếp vị Vua trẻ phải ký vào bản tuyên cáo kết tội chính phủ cũ. Nhưng vị Vua trẻ tuổi này phản kháng, Glamis, một trong những người giam bắt nhà Vua đã tuyên bố như sau: "Thà là để đứa trẻ khóc còn hơn là để người già phải khóc". Vua James không bao giờ quên được câu này.

Việc bắt giam Vua của Nam Tước Ruthven là một biến cố trọng đại trong lịch sử của Tô Cách Lan. Biến cố này rát là quan trọng đối với những nhà chuyên môn khảo sát về lịch sử Tô Cách Lan trong thời gian sôi động này. Khi được trả tự do, Vua James lại trở về chịu ảnh hưởng của Bá Tước Arran cho nên việc bắt giam nhà Vua tại Lâu Ðài Ruthven không thay đổi được Tô Cách Lan mà làm cho nhà Vua trở thành thù hận với người mà chính nhà Vua đã phong tước, đó là Bá Tước Gowrie I.

Ban đầu, nhà Vua đã tỏ ra một thái độ khoan dung, tha thứ cho tất cả những ai dã dính líu đến việc bắt giam nhà Vua và đã ra một tuyên cáo ân xá tất cả những người này. Nhưng hai năm sau, Bá Tước Gowrie được lệnh phải rời khỏi xứ. Trong khi nghỉ ngơi tại Dundee, Bá Tước Gowrie đã bị bắt bởi William Stewart, đầy ra đảo Leith rồi bị giam tại Biệt Ðiện Hoàng Gia tại Holyrood. Ở đây, Bá Tước Gowrie bị Tòa Án kết tội vì âm mưu chiếm lâu đài Stirling và bị chém đầu tại Stirling vào Ngày 4 Tháng 5 Năm 1585. Lâu đài của Bá Tước Gowrie bị Hoàng Gia tịch thu.

Một năm sau, lâu đài và chức tước của Bá Tước Gowrie I được trao lại cho người con là James; Bá Tước James chết ít lâu sau đó và người em tên John là người kế vị thứ Ba và cũng là người cuối cùng dòng dõi Bá Tước Gowrie. Những người thuộc dòng dõi Bá Tước Gowrie, trong lúc đương thời, được nổi tiếng về gọi hồn và ma thuật. Ðương nhiên Vua James đâu đã chịu ngưng báo thù, Bá Tước Gowrie cuối cùng, cùng với người em là Alexander Ruthven đã bị nhà Vua ra lệnh giết chết tại căn nhà của họ tại Thành Phố Perth vào năm 1600.

Lý do là họ có ý định tạo phản nhà Vua, nhưng thực ra vụ này không có bằng cớ. Không có chi tiết nào được nói đến trong vô "Bá Tước Gowrie Tạo Phản", tuy nhiên các báo cáo đương thời nói rằng trong giây lưng của viên Bá Tước, người ta tìm thấy có vài tờ giấy ghi những câu thần chú mà chỉ người tinh thông về ma thuật mới có thể đọc nổi. Xác chết của hai anh em dòng dõi Gowrie được mang về Edinburgh và bản cáo trạng về tội tạo phản đã được phổ biến trước công chúng.

Chưa hài lòng với cuộc hành hình hai người cuối cùng của giòng họ Ruthven, Vua còn ra lệnh đem hai xác chết ra treo trước công chúng, rồi đem dìm xuống nước, và đem phanh thây ra từng mảnh bỏ rải rác tại nhiều nơi. Theo tín ngưỡng thời bấy giờ hành hạ người chết như vậy là cốt để cho linh hồn tội nhân không được yên ổn. Ðầu thế kỷ thứ 17 là một giai đoạn khó khăn trong Lịch Sử Tô Cách Lan. Mọi người nghi kÿ lẫn nhau, tình hình chính trị thật sôi báng. Sự chia rẽ về tôn giáo không được giải quyết, Tô Cách Lan bị hai Giáo Phái Tin Lành và Cơ Ðốc xâu xé.

Nhà Vua vẫn còn bực bội vì hận thù. Nghị Viện năm 1600 đã hủy bỏ danh tánh Ruthven, lâu đài Gowrie đổi tên là Huntingtower và thuộc về Hoàng Gia Anh. Cuối cùng đến năm 1643, lâu đài Huntingtower được chuyển cho William Murray, từ đó người ta chỉ còn biết đến lâu đài Huntingtower mà thôi. Muốn hiểu rõ lâu đài Ruthven và mối tương quan của các danh tánh Ruthven, Gowrie, cần phải có một kiến thức sâu rộng, một khả năng đặc biệt của sử gia Tô Cách Lan. Thế nhưng một thiếu nữ chưa bao giờ rời khỏi Illinois (Hoa Kỳ) chỉ trong một thoáng đã có thể nói đến nào Ruthven, nào Gowrie, nào năm 1600 và nào hai tháp canh.

Cô còn nói đến Glamis (vị chủ mưu trong việc giam nhà Vua) và Angus không ngờ có mối quan hệ giữa Glamis ở quận Angus với gia đình Gowrie. Sao cô có thể biết thành phố Perth mà cô đề cập đến trong lá thư đầu chính là nơi Bá Tước Gowrie bị giết? Cô Pamela Wollenberg còn viết: "Tôi Nhảy". Cuốn lâu đài Huntingtower đã cho tôi hiểu được về câu nói bí mật này:

"Một ái nữ của Bá Tước Gowrie đang yêu một thanh niên thuộc giai cấp thấp hơn nên không đuọc gia đình chấp thuận. Khi thanh niên đến thăm cô, anh phải ở trong một tháp canh khác biệt lập hẳn với tháp canh của cô. Một đêm nọ cô lén sang thăm người yêu trước khi các cửa nẻo bị đóng. Một con hầu báo cho Bá Tước phu nhân biết chuyện này, nó thiển nghĩ nếu Bà đột nhập, bắt gặp sẽ làm họ kinh ngạc và cắt đứt mối tình ngang trái. Thiếu nữ rất thính tai, nghe bước chân Mẹ đã chạy lên bờ thành tháp canh, nhảy qua cái hào rộng 9 feet 4 inches (3 mét), sâu 60 feet (18 mét) và may mắn sang được tháp bên kia; cô lẻn lên giường nằm.

Thấy cô ở đó mẹ cô rất kinh ngạc, Bà xin lỗi đã ngờ vực cô. Cô con gái trinh trắng không tái diễn trò này nữa nhưng đêm hôm sau, cô trốn theo người yêu. Cái thành tích hiếm có này được gọi là "Cái Nhảy Của Người Trinh Nữ"; cô đã nhảy qua khoảng cách giữa hai tháp canh cách biệt hẳn nhau". Ðọc xong cuốn sách, chúng tôi đều im lặng, cảm thấy tin tức trong cuốn sách thật là quan trọng. Vấn đề còn lại là tìm hiểu âm mưu tạo phản của giòng họ Gowrie cũng như tên người con gái. Vậy cần phải có một cuộc điều tra mới.

Tôi nghĩ đến cô Pamela Wollenberg vì chính cô đã cho những bằng chứng cụ thể lúc sơ khởi và rất có thể qua cô tôi tìm được câu trả lời. Tôi quyết định không kể cho Pamela Wollenberg biết cuộc điều tra của tôi và tôi thu xếp gặp cô sớm để thực hiện cuộc thí nghiệm bằng thôi miên. Tôi không biết tí nào về Pamela Wollenberg, cô bao nhiêu tuổi và tình trạng gia đình ra sao nhưng tôi hy vọng cô không có lý do từ chối lời đề nghị của tôi. Tại Muchalls bửa cơm tối hôm ấy có sự hiện diện của Ông Bà Alastair Knight. Bà Alanna Knight là một nhà tâm linh học uyên bác. Bà đã viết nhiều truyện về lịch sử. Bà hứa sẽ giúp tôi tìm hiểu trường hợp khác thường này.

Thêm vào đó Bà Elizabeth Byrd còn giành được sự tình nguyện trợ giúp của Sử Gia Carson Ritchie. Sử Gia Ritchie cho biết muốn tìm tên những người con gái thời đó rất khó vì người ta không khai sanh cho con gái chỉ trừ có hoàng tộc mà thôi. Ðược sự giúp đỡ của cả một đội quân hùng hậu trên đây, tôi tin chắc có thể tìm ra bí mật về giấc mơ của cô Pamela Wollenberg. Ông Bà Knight quyết định sẽ đến lâu đài Gowrie. Còn 2 từ ngữ trong ảo mộng của Cô Pamela Wollenberg chưa cắt nghĩa được. Trước tiên là chữ "Burn night", chữ thứ hai là "Handsel"; từ ngữ này hoàn toàn xa lạ với tôi. Làm sao tôi có thể tìm được nghĩa của cái chữ lạ hoắc này?

Mấy năm trước đây Bà Elizabeth Byrd có giới thiệu tôi với Bà Margaret Widdemer. Bà này là người đọc rộng, có một tủ sách quý. Bà Elizabeth Byrd khuyên tôi nên hỏi ý kiến của Bà Widdemer. Bà Widemer viết cho tôi: "Theo tự điển Tô Cách Lan, tôi có thể giải nghĩa chữ "Handsel" có nghĩa là quà mừng nhân dịp khai trương, một tặng vật, ngày thứ hai, một đồng tiền để trong túi áo choàng mới hay Tương tự. "Handsel" có nghĩa là khánh thành, khai mạc, quà mừng. Tôi cảm thấy hân hoan khi hiểu nghĩa chữ "Handsel".

Theo Bà Widdemer: "Với tôi chữ này có nghĩa món tiền kiếm được hoặc một vật gì đó được ngã giá, tiền hay không phải tiền. Có thể cô gái tóc đỏ mà ông nói đó đã hứa theo người yêu nếu như cô nhảy thoát". Nghĩa chữ "Handsel" là như vậy. Mặc dầu tôi chưa gặp mặt Pamela Wollenberg nhưng các mảnh của trò chơi ghép hình đã được sắp đúng chỗ. Ông Bà Knight sắp sẵn đi thăm lâu đài Gowrie. Ông Knight là một nhà Ðịa Đồ Học. Ngày 6 tháng 8, họ bắt đầu lên đường xem chuyến đi như một công tác thường lệ của ông Knight. Ông Bà dự định đến thăm lâu đài Scone nhưng không tìm ra đường đành đi thăm một người bà con ở Dundee. Ông Bà tính đi đường tắt nhưng bị lạc.

Còn đang lúng túng thì Ông Bà nhìn thấy tấm bảng: "Lâu Ðài Huntingtower 2 dậm". Ông Bà Knight đã sẵn có ý định đến thăm lâu đài Gowrie nhân ngày kỷ niệm 2 vị Bá Tước cuối cùng của giòng họ Gowrie bị hành quyết. Mặc dầu tôi đã từng mục kích Bà Knight dùng giác quan thứ 6 có kết quả nhưng bây giờ Bà lại không cần đến khả năng siêu linh. Hình như Bà có thể nhìn thấu màn thời gian, làm sống lại các biến cố đã qua. Ðến lâu đài, Bà có cảm giác quen thuộc lạ thường. Vừa đặt chân vào lâu đài Huntingtower, Bà đã cam đoan là trước đây Bà đã từng ở. Chồng Bà xác nhận ông bà chưa bao giờ ở trong lâu đài này, thế mà Bà Knight biết được lối vào.

"Ðây là phòng ngủ, giường ngủ ở đằng kia". Bà vừa nói vừa chỉ. Bà đi hết phòng này sang phòng khác vừa đi vừa hát nho nhỏ. Cậu con trai Christopher hỏi Bà: "Mẹ đang hát bài gì vậy?" Bà không trả lời con nhưng bài đó có nhịp điệu giống bài ca do tôi sáng tác với nhan đề: "Nàng Trinh Nữ Trên Ðồng Cỏ". Bà chưa bao giờ được nghe hay thấy bản nhạc này. Bà chỉ biết là tôi có sáng tác bài hát liên quan đến Tô Cách Lan mà thôi. Lúc đi ngang qua người quản thủ lâu đài, Bà Knight đã hỏi ngay về cánh đồng Ruthven làm như có được ghi trên bản đồ.

Theo lời chỉ dẫn của người quản thủ, đi dọc theo vài con đường đẹp quanh co hình như rất quen thuộc với Bà, Bà đã tới bãi cỏ dễ dàng. Những cảm giác khi trước mờ ảo lúc này trở nên rõ ràng với Bà. Khi sắp sửa soạn rời khỏi lâu đài, ông Knight lo lắng sợ bị lạc nữa, nhưng Bà Knight đã khẳng định: "Ði thêm khoảng 20 thước, có cái cầu đá có ở bên phải dẫn đến con đường cái". Quả đúng như vậy, trên đường về Bà Knight không quên được những biến chuyển trong giờ phút cuối cùng.

Vừa tới lâu đài, Bà Knight vội vàng bà lên bờ thành dốc. Bà ngồi đó, trên bờ thành, cách mặt đất khoảng 60 feet (18 thước) Hai ngọn tháp cổ đã tùng cách biệt hẳn nhau ngày xưa thì bây giờ được nối với nhau bởi phần giữa. Ỏ đầu thế kỷ thứ 17, giữa hai tháp canh có một hào sâu 9 feet (3 mét). Muốn nhảy từ ngọn tháp bên phải cao hơn tháp bên trái một tầng, phải nhảy qua một cái hào. Thành tháp 2 bên đều có gì, có trụ nhô ra, gối lên nhau, nhảy qua không phải dễ dàng và có thể ngã xuống mái nhà. Quả là dóng cảm phi thường mới dám nhảy qua. Sau cùng Bà Alanna Knight rời tháp canh và trở vào bên trong lâu đài.

Trong phòng ngủ, Bà có cảm tưởng như nhìn thấy cô gái tóc đỏ vàng, da xanh xao hơn là ngăm ngăm và mặt lốm đốm tàn nhang. Nói theo lối mới, Bà Alanna Knight nhận xét - Cô có vẻ tinh nghịch, lém lỉnh hơn là hiền lành, "một loại con gái dám làm bất cứ chuyện gì". Bà cảm thấy cô là "người lãnh đạo đàn ông chứ không phải một nhi nữ tầm thường". Bà nói: "Tôi nghĩ cô là người vui vẻ, cười nhiều, bị chống đối bởi gia đình. Tôi cảm thấy thế kỷ thứ 16 không thích hợp với cô, cô đã sanh nhầm thế kỷ, cô sẽ hạnh phúc hơn ở thời đại này vì cô khao khát bình đẳng với nam giới, thèm muốn ra xã hội đấu tranh.

Có thể tên cô là Margaret hay Isabelle, hay cả hai đấy, những tên rất Tô Cách Lan. Sự thực cảm nghĩ này không lấy gì làm hứng thú lắm. Tôi hy vọng sẽ có ngày nào đó ông biết được câu trả lời". Tôi hỏi Bà Alanna Knight bài hát "Cô Trinh Nữ Trên Ðồng Cỏ" (The Maid Of The Meadow) mà Bà nhớ và cảm nghĩ đối với bản nhạc này. Bà cho biết Bà không phải là nhạc sĩ nên đã nhờ một người bạn tên Ann Brand ghi lại cho Bà. Tôi thích thú xem bản nhạc. Thật là lạ, có bốn nhịp giống như hệt trong bản trường canh do tôi sáng tác năm 1953 mà Bà Knight cũng như người bạn của Bà không biết. Chắc chắn đó không phải một bà hát toàn vẹn chỉ đơn thuần có một đoạn nhưng sự giống nhau thì nổi bật.

Bà Knight cho biết thêm "Tiến Sĩ Ritchie đã tìm được lai lịch của một cô gái dòng dõi Ruthven trong cuốn lịch sử Tô Cách Lan của Robertson xuất bản năm 1759. Theo ông Bá Tước Gowrie có người con gái tên là Beatrix. Lẽ dĩ nhiên Bá Tước có thể có nhiều chị hay con gái nhưng cuốn lịch sử chỉ ghi tên Beatrix mà thôi. Trong lúc này Bà Elizabeth Byrd cũng hứa cố gắng cho tôi biết tin tức thâu lượm được ở Edinburgh." Trong khi mọi hoạt động đang ráo riết sôi nổi bên kia bờ Ðại Dương thì tôi đi Chicago để gặp Pamela Wollenberg. Cô Pamela Wollenberg đồng ý đến khách sạn Knickerbocker gặp tôi và cũng bằng lòng cho tôi thực hiện thôi miên để thí nghiệm. Tôi cho cô biết tôi đã tìm thấy vài bằng chứng về giấc mộng của cô nhưng không nói gì thêm.

Ngày 17 Tháng 10 Năm 1969 Cô Pamela Wollenberg đến khách sạn. Cô vừa bước vào phòng, tôi có hơi ngạc nhiên vì cô không giống như tôi tưởng. Thay vì một người bất bình thường, lãng mạn, tuổi tác khó đoán, tôi thấy cô rất trẻ khoảng 20, 21, hoạt bát, thực tế có vẻ không thích khoa học huyền bí. Tôi muốn được phỏng vấn cô trước khi thôi miên. Cô đồng ý. Tôi tiến hành ngay. Tôi bắt đầu cuộc phỏng vấn:

"Pamela"

"Cô sanh tại đâu?"

"Tại Chicago Heights"

"Cha cô làm gì?"

"Cha tôi đã chết. Hồi còn sống ông làm trong xưởng chế tạo đầu máy xe lửa còn mẹ tôi là một công nhân trong bệnh viện kiểm soát sự dinh dưỡng".

"Gốc gác của cô thế nào?"

"Gia đình bên cha tôi là người Black Forest, Ðức Quốc, còn gia đình bên mẹ tôi là người Anh Quốc".

"Mẹ cô sanh tại đây phải không?"

"Phải".

"Tổ tiên cô có ai là người Tô Cách Lan không?"

"Theo tôi biết thì không".

"Cô có bao nhiêu anh chị em?"

"Tôi có hai chị và một người anh, những người này cùng mẹ khác cha".

"Gia đình cô theo đạo gì?"

"Cha tôi theo Lutheran, mẹ tôi theo Baptist".

"Còn cô?"

"Tôi theo đạo Mormon".

"Cô đã 21 tuổi, vậy cô đi làm chưa?"

"Tôi đã đi làm tại bệnh viện, đã đi học y tá, và bây giờ công việc của tôi là trông nom một người đàn bà; bà ta bị bệnh. Khi nào có đủ tiền tôi muốn đi học lại".

"Trường học của cô ra sao, cô học trường công?"

"Tôi học ở Glenwood, ngoại ô Chicago Heights còn sau thì ở Harvey, nơi tôi đang cư ngụ".

"Cô có bao giờ mường tượng đến hay có các ảo giác về những nơi cô bao giờ thăm viếng không?"

"Tôi đã nhìn thấy người, tôi thề là tôi đã nhìn thấy trước đây ở một nơi nào đó và không thể nào có chuyện đó dược".

"Cô có ở Âu Châu bao giờ chưa?"

"Chưa".

"Cô có bao giờ ao ước đi Âu Châu không?"

"Ồ, có tôi thích Âu Châu. Tôi muốn xem các lâu đài".

"Lần đầu tiên ý nghĩ này đến với cô vào lúc nào?"

"Khoảng 3 năm nay, lúc tôi 18 tuổi.."Tôi vẫn nhớ tôi có một lâu đài, lâu đài lớn sơn mầu trắng và có các tháp canh".

"Có bao nhiêu tháp canh?"

"Lối 2 hay 3 cái, giống như một tảng đá như quả núi hoặc cái gì đó".

"Cô thường đọc sách gì?"

"Tôi thích loại sách bí ẩn".

"Cô có đọc truyện về lịch sử không?"

"Sách về lịch sử tôi không thích mấy, chỉ có một lần, tôi đọc lịch sử Waterloo".

"Cô thích loại âm nhạc nào?"

"Nhạc cổ điển và dân ca, không phải những bản dân ca ông nghe bây giờ. Tôi muốn nói dân ca Âu Châu như Anh Quốc".

"Có bao giờ cô thấy bản nhạc đặc biệt trong trí nhớ của cô không?"

"Thỉnh thoảng tôi có nghe thấy tiếng kèn của mục sư Tô Cách lan ".

"Và lúc nào cô nghe thấy?"

"Thường thường vào ban đêm, khi tôi sắp sửa ngủ".

"Ðã bao lâu cô nghe tiếng kèn này?"

"Có thể nói là một năm rưỡi hay hai năm".

"Có bao giờ cô thấy lạ lắm ở chung quanh cô không?"

"Tôi có thể nói như vầy: Tôi nghĩ là tôi không thuộc về hiện tại, chung quanh đây".

"Cô có thể cho tôi biết cô cảm thấy như thế bắt đầu từ khi nào?"

"Chừng độ 3 năm vừa qua, thực sự tôi cảm thấy tôi không quen người nào ở đây mà hình như tôi quen một số người ở những nơi khác trên thế giới".

"Ở đâu?"

"Tôi nghĩ rằng quần đảo Anh Quốc quyến rũ tôi hơn là Âu Châu. Ðúng quần đảo Anh Quốc đã quyến rũ tôi".

"Có bao giờ cô cảm thấy có lẽ lúc cô bị mệt mỏi khi nhìn vào trong gương, hay khi đi tản bộ, cô tự nhận thấy cô khác với cô trong hiện tại, có cái gì đã làm thay đổi trong cô, thay đổi cá tính, tính nết hay bộ mặt?"

"Ðúng, có một lần tôi nhớ rất rõ ràng vì lần đó tôi đã giựt mình. Người con gái mà tôi nói trong giấc mơ với mái tóc đỏ, một hôm nhìn vào gương, tôi không hiểu tại sao như chính tôi là cô gái đó hay là tôi đã nhìn thấy cô ta ở đó".

"Cô thấy hồi nào?"

"Ðộ chín tháng nay".

"Chỉ có một lần duy nhất cô cảm thấy như thế à?"

"Tôi cảm thấy như có người nào đó ở trong tôi".

"Cô cảm thấy như vậy từ bao lâu?"

""Cách đây hai hay ba năm".

"Có cái gì làm cho cô sợ hãi không?"

"Không. Tôi không thấy thế".

"Nào bây giờ chúng ta nói chuyện về những giấc mơ nhé!"

"Giấc mơ đầu tiên tôi thấy cách đây hai năm. Những giấc mơ này thỉnh thoảng lại đến với tôi. Tôi nhìn thấy thiếu nữ với mái tóc đỏ. Cô mặc một cái áo choàng dài trắng, có viền vàng. Cô ta đang đi nhưng có vẻ rụt rè.

Cũng ở trong giấc mộng đó, tôi nhìn thấy hai tháp canh và tôi nghe thấy cô ta nói "Handsel", rồi Glamis, Angus, Ruthven, Gowrie và một lần cô nói "Tôi nhảy". Có lần trông cô rất bình thản, nhưng cũng có lần trông cô rất giận dữ".

"Cô thiếu nữ đó chúng bao nhiêu tuổi?"

"Chừng độ 20 tuổi".

"Thấp hay cao?"

"Thấp và hơi nhỏ".

"Ðẹp hay xấu, có gì đặc biệt không?"

"Không có gì đặc biệt cả, nhưng làn tóc đỏ của cô rất là đẹp".

"Tóc dài hay tóc ngắn?"

"Tóc dài, rất nhiều".

"Giấc mơ đến không chừng hay vào giờ nhất định?"

"Tôi có thể nói hầu hết đều cùng một giờ, ngoại trừ những lần cô ta giận dữ".

"Cô nằm mơ như vậy cả thảy bao nhiêu lần?"

"Năm hay sáu lần".

"Lần cuối cùng vào bao giờ?"

"Lần cuối cùng tôi nghĩ vào tháng 7".

"Năm nay?"

"Vâng".

"Lúc cô ta đang tức giận?"

"Rất tức giận".

"Những giấc mơ như vậy kéo dài suốt đêm, hay chỉ trong chốc lát?"

"Rất là nhanh, tôi muốn nói: khi tôi vừa thấy cô, cô muốn nói điều gì rồi đi ngay".

"Tại sao cô nhớ rõ ràng giấc mơ này như vậy, Cô nhớ được tất cả các giấc mộng này sao?"

"Về thiếu nữ đó tôi nhớ rất rõ ràng, ông có thể cho tôi là nằm mơ, nhưng thực ra tôi chưa ngủ".

"Việc xảy ra đầu hôm, giữa đêm hay cuối đêm?

"Lối chừng 11 giờ rưỡi, hoặc trước 2 hay 2 giờ rưỡi khuya".

"Ngoài các giấc mơ như vậy cô có cảm giác như có ai chung quanh cô không? Tôi muốn nói khi cô tỉnh dậy".

"Tôi không biết có phải thiếu nữ ấy không, nhưng tôi cảm thấy như có ai ở cạnh tôi khi có mình tôi ở nhà".

"Khi cô liên lạc với tôi, cô có nghĩ rằng đã có ai đó thúc đẩy cô làm chuyện này không?"

"Tôi cảm thấy tôi phải viết thư cho ông trong khi không có lý do".

"Ðối với riêng cô, việc này có ý nghĩa gì không?"

"Chỉ có một điều tôi hằng nghĩ đến là chữ "Handsel cho tôi". Tôi nghĩ rằng "cho tôi" phải có nghĩa là vật gì đó. Có thể "Handsel" nghĩa là đến với tôi nhưng sao cô ta lại muốn tôi đến với cô ấy?"

"Có gì đặc biệt, chẳng hạn như quần áo, vật dụng, âm nhạc, thói quen, câu nói, hay bất cứ thứ gì khác hẳn với bản tính của cô, nhất là từ khi cô 18 tuổi tới nay, cô hãy cho tôi biết?"

"Tôi thích nấu bất cứ món nào đến từ quần đảo Anh Quốc. Tôi có 3 cuốn sách dạy cách nấu những món ăn Anh. Còn về quần áo tôi thích mặc theo kiểu cổ hơn".

"Cô có bạn trai nào gốc Anh Cát Lợi hoặc Tô Cách Lan không? Tôi muốn nói quê hương của họ."

"Không".

"Có khi nào cô đọc sách nói về Anh Quốc trong phạm vi lịch sử, quá trình, hay địa dư không?"

"Có một lần tôi đọc sách nói đến tháp canh ở Luân Ðôn và nói về hoàng gia, chỉ có vậy thôi".

"Theo nhận xét của cô, cô có thấy những hiện tượng đã xảy ra trong đời cô có nghĩa lý gì không?"

"Tôi không rõ, trừ khi có người nào nói cho tôi biết. Tôi cảm thấy tôi quen thiếu nữ đó. Tôi không biết tại sao tôi lại quen cô ta nhưng tôi cảm thấy tôi quen cô ấy"

"Giấc mơ đầu chỉ là cảnh thoát khỏi sự buồn chán, không nói lên điều gì phải không?"

"Lần thứ nhất tôi không quan tâm mấy, cho là mộng mị, nhưng giấc mơ cứ tái diễn, và mỗi lần như vậy tôi cảm thấy thân thiết với cô ta hơn".

"Bây giờ cô đã sẵn sàng để tôi thôi miên chưa?"

"Tôi đã sẵn sàng".

Vài phút sau, Pamela đã ở trong tình trạng hôn mê thư giãn, và phục tùng mệnh lệnh của tôi.

"Cô hãy quay về 100 năm, 200 năm, 300 năm cho đến khi nào cô nhìn thấy cô gái có mái tóc đỏ".

Một lúc sau Pamela bắt đầu nói:

"Ruthven", giọng nói của cô thật bình thản.

Tôi bắt đầu hỏi:

"Cô sống trong đó phải không?"

"Tôi sống ở đó".

"Cha cô là ai?"

"Cha tôi không có ở đó".

"Có người nào ở đó với cô không?"

"Có mẹ tôi".

"Tên mẹ cô là gì?"

"Tôi không biết, tôi không nói".

"Tại sao?"

"Bởi vì họ đang âm mưu chống lại chúng tôi nên tôi không thể nói ra được."

"Cô đang ở năm nào?"

"Năm 1600"

"Năm 1600 nào?"

"Ðúng là năm 1600".

"Quê hương cô ở đâu?"

"Tô Cách Lan".

"Tại sao cô lại có vẻ lo sợ?"

"Chúng tôi sắp sửa phải rời nơi đây".

"Tại sao?"

"Họ sẽ giết chúng tôi nếu chúng tôi không đi khỏi chỗ này".

"Ai định giết cô?"

"Tôi không biết, cha tôi chỉ cho biết 'các người ấy'".

"Cô phải làm gì?"

"Tôi không biết, mẹ tôi đang sửa soạn hành lý".

"Cô đi đâu?"

"Ði Glamis".

"Tại sao lại đến đó?"

"Có Hoàng Gia ở đó".

"Họ sẽ giúp cô sao?"

"Tôi không biết".

"Cô hãy tả căn nhà của cô đi!".

"Nhà làm bằng đá".

"Gọi là gì?"

"Breasten".

"Nhà được kiến trúc như thế nào?"

"Có hai tháp canh, có vườn hoa".

"Cô có lên tháp canh chơi không?"

"Tôi thường chơi trên đó".

"Cô chơi gì?

"Tôi hay chơi với những chiếc chén kiểu nhỏ Trung Hoa".

"Lúc bấy giờ cô bao nhiêu tuổi?"

"Bốn hay năm tuổi".

"Bây giờ cô bao nhiêu tuổi?"

"Bây giờ tôi 22 tuổi".

"Cô còn độc thân hay đã lập gia đình?"

"Còn độc thân".

"Cô có quen biết người đàn ông nào mà cô định lấy làm chồng không?"

"Có".

"Tên anh ta là gì?"

"Tôi không nói".

"Tại sao?"

"Coi như tôi không gặp anh ta".

"Tại sao?"

"Gia đình tôi không cho phép".

"Tên anh ta là gì?"

"Mẹ tôi bảo nếu tôi nói, tôi sẽ bị trừng phạt"

"Vậy cô phải làm gì? Sau này cô có gặp anh ta không?"

"Có".

"Ở đâu?"

"Ở Loch Catherine".

"Có xa không?"

"Không xa lắm".

"Anh có khi nào đến lâu đài không?"

"Có".

"Ở đâu, chỗ nào của lâu đài?"

"Trong dẫy hành lang chính".

"Không bao giờ ở trên lầu?"

"Chỉ có một lần thôi, vì không được phép."

"Anh ta có lên tháp canh lần nào không?"

"Chỉ có một lần vì mẹ tôi không biết".

"Cô làm gì?"

"Chúng tôi nói chuyện".

"Sau đó cô lấy anh ta không?"

"Không thể"'

"Vì sao?"

"Vi gia đình cấm tôi lấy anh ta và bắt tôi phải lấy người khác''

"Tại sao gia đình lại muốn cô lấy người khác?"

"Vì ông này giàu có".

"Người yêu của cô không giàu có à?"

"Phải, không được giàu"

"Tại sao cô phải nói chuyện theo cách này? Cô có liên hệ thế nào với cô ta (Pamela)? Cô là cô ta, hay cô nói qua cô ta?"

"Tôi là cô ta."

"Vậy thì trong thời gian chưa phải là cô ta (Pamela), cô ở đâu? cô có là người nào khác không?

"Không, tôi bị gió cuốn".

"Cô chết ra làm sao?"

"Tôi nhảy từ tháp canh".

"Có phải cô bị chết trong khi nhảy?"

"Ðúng, tôi chết sau đó".

"Cô định nhảy đi đâu?"

"Tôi định nhảy qua một tháp canh khác".

"Có được không?"

"Không".

"Cô bị ngã xuống đâu?"

"Ngay trước cửa".

"Có phải đây là lần đầu cô nhảy từ tháp canh này qua tháp canh kia không?"

"Không".

"Cô đã có nhảy rồi à?"

"Phải".

"Thế cô nhảy được à?"

"Phải".

"Và lần này cô nhảy qua không được nên bị chết phải không? Cô bao nhiêu tuổi lúc ấy?"

"22 tuổi".

"Ðó là tai nạn hay là cô muốn nhảy?"

"Tôi muốn".

"Có phải cô không được vui không?"

"Ðúng".

"Khi cô chết sự việc tiếp diễn như thế nào?"

"Chẳng thấy gì cả".

"Sau khi cô ngã, chuyện gì xảy đến với cô? cô nhìn thấy gì?"

"Tôi ở trong gió".

"Cô tự nhìn thấy mình sao?"

"Phải".

"Rồi cô đi đâu?"

"Không đi đâu cả".

"Thế cô có nhìn thấy ai không?"

"Không".

"Thế cô ở ngoài hay cô trở vào lâu đài?"

"Tôi có trở về lâu đài một lần".

"Cô có nhìn thấy ai không?"

"Không".

"Rồi tiếp tục chuyện gì xảy ra cho cô? Cô sống ở đâu?"

"Tôi lại bị cuốn lần nữa".

"Sau đó rồi cô nhớ gì nữa?"

"Tôi nhìn thấy người".

"Các người nào?"

"Những người ngộ nghĩnh đang đi vòng quanh".

"Họ cũng chết rồi phải không?"

"Không".

"Rồi cô ở đâu?"

"Tôi ở trong một thành phố".

"Cô nhập vào một người nào khác phải không?"

"Không".

"Cô vẫn là cô à?"

"Phải".

"Cô nói thành phố nào?"

"Tôi không biết".

"Có phải những người đó ăn mặc giống như thời mà cô biết phải không?"

"Không".

"Còn cô, cô vẫn mặc theo thời của cô phải không?"

"Phải, tôi có thể nhìn thấy cái áo choàng của tôi".

"Những người nhìn tức cười đó có thấy cô không?"

"Không, họ đi bên cạnh tôi".

"Rồi tiếp tục cô nhớ những gì nữa?"

"Tôi muốn người nào đó đưa tôi trở về".

"Vè đâu?"

"Về Ruthven".

"Cô có tìm được ai không?"

"Có, Pamela".

"Làm sao Pamela có thể đem cô trở về được?"

"Cô ấy sẽ mang tôi trở về".

"Tại sao cô lại nhập vào Pamela, chính cô chọn Pamela à?"

"Vâng, dường như cô ấy có thể trở về".

"Ai là người nói với cô về Pamela, bằng cách nào cô đã tìm ra Pamela?"

"Tôi tìm thấy cô ta khi tôi vào nhà".

"Nhà nào?"

"Nhà của cô ấy".

"Ðiều gì khiến cho cô tin là Pamela có thể làm được?"

"Cô ta sẽ cảm thấy hối hận và đưa tôi trở về".

"Có phải cô đã ở trong cô ấy phải không? Ở trong thân hình cô ấy phải không?"

"Phải, tôi cùng cô ấy trở về".

"Ai gửi cô đến với cô ta?"

"Không có ai cả".

"Rồi tại sao cô tìm ra cô ta (Pamela)?"

"Tôi cũng không biết nữa".

"Cô có nói chuyện với người nào không? Và có nhờ người ta giúp đỡ không?"

"Không ai có thể nghe tôi được mặc dầu họ vẫn đi bên cạnh tôi".

"Có ai nói rằng: "Cô phải trở về dương thế " hay tương tự như vậy không?"

"Không".

"Cô có nhớ cô tái sanh như một đứa nhỏ không?"

"Không".

"Cô có thấy cô nghĩ gì sau khi cô thấy Pamela không?"

"Cô ta cũng giống như mọi người khác".

"Giống ai, giống cô phải không?"

"Không".

"Vậy thì thì theo cô, Pamela giống ai?"

"Cô ấy trông giống một người trong bọn Mc Gibbon"

"Giống ai trong bọn Mc Gibbon?"

"Cô ta giống Catherine".

"Catherine của bọn Mc Gibbon, vậy theo cô, Catherine là ai?"

"Tôi không biết rành về Catherine, tôi chỉ gặp Catherine ở Angus thôi".

"Tại sao cô đi Angus?"

"Vì chúng tôi phải đi Glamis".

"Cô có đi ngang Angus không?"

"Không vì Glamis nằm trong Angus".

"Catherine làm gì ở Glamis?"

"Cô ấy sống ở đó".

"Cô ấy làm gì ở đó?"

"Cô ấy là một tỳ nữ".

"Nữ tỳ của ai?"

"Nữ tỳ trong lâu đài của Hoàng Gia".

"Pamela gợi cho cô nhớ lại cô ấy phải không?"

"Ðúng".

"Có phải định mệnh đã trói buộc cô vào Pamela không?"

"Vâng, tôi phải trở về".

"Ðể làm gì?"

"Tôi cần kiếm một vật".

"Kiếm cái gì?"

"Cái nhẫn".

"Ai là người cho cô cái nhẫn?"

"Tôi không nói".

"Cái nhẫn đó thế nào?"

"Cái nhẫn đó tròn bằng cẩm thạch".

"Có khắc gì trên chiếc nhẫn đó không?"

"Không".

"Tại sao việc kiếm cái nhẫn lại quan trọng như thế?"

"Vì là cái nhẫn người đó cho tôi".

"Người đó là ai?"

"Tôi sẽ bị trừng phạt nếu tôi nói ra".

"Cô không bị trừng phạt đâu, tôi lấy danh dự mà nói như vậy, cho tôi biết tên người đó đi, rồi tôi sẽ giúp cô được".

"Tôi không thể tìm được người đó. Tôi chỉ muốn lấy lại cái nhẫn mà thôi".

"Cô hãy gọi tên anh ta đi, anh ta sẽ đến với cô".

"Tôi sẽ bị trừng phạt. Tôi sẽ ra đi"

"Cô đi đâu?"

"Ðến Loch Catherine, tôi cảm thấy hạnh phúc ở đó".

"Với ai?"

"Anh ấy muốn đưa tôi tới đó. Chúng tôi sẽ tính đến chuyện ra đi".

"Cô dự định đi đâu nếu có thể đi được?"

"Ði khỏi Perth".

"Ði khỏi Perth rồi về đâu?"

"Anh ấy thích đến Luân Ðôn".

"Anh ta làm nghề gì?'

"Anh muốn trở thành một kiến trúc sư".

"Anh ta có đi học chưa?"

"Có học sơ sơ thôi vì không được phép".

"Anh ta không thuộc dòng dõi quý tộc?"

"Anh cũng thuộc dòng dõi quý tộc nhưng cha anh không muốn anh làm nghề đó".

"Tại sao cô chỉ nhập vào Pamela lúc 18 tuổi, tại sao cô không nhập vào sớm hơn?"

"Vì ở tuổi này cô ấy mới trưởng thành và có thể ra đi".

"Cô có thể giúp cô ta tới đó không? Tại sao cô phải tìm đến tôi?"

"Vì có thể ông giúp cô ấy được".

"Cô muốn tôi phải làm gì?'

"Tôi muốn trở về".

"Nếu tôi hứa giúp cô trở về, cô sẽ cho tôi biết tên người bạn trai của cô nhé!"

"Tôi có thể trở về à?"

"Tôi sẽ cố gắng tìm cách để cô trở về, phải tôi đã có liên lạc với nơi đó và biết cô nói thật".

"Pamela sẽ đưa tôi về à?"

"Tôi sẽ cố gắng để Pamela đua cô trở về trong vòng một năm".

"Tôi phải đợi lâu quá".

"Cô đã đợi bao lâu rồi?"

"Cả hàng trăm năm rồi"

"Vậy cô cố gắng chờ thêm một năm nữa đi, thời gian đã trôi qua, có lẽ cái nhẫn cũng không còn ở chỗ có nữa rồi làm sao đây?"

"Tôi sẽ tìm và tìm cho bằng thấy".

""Bây giờ cô có sung sướng được nhập trong thể xác của Pamela không? Cô có được Pamela ưng thuận không? Cô có thích là cô ấy không?"

"Chỉ với mục đích được trở về mà thôi".

"Tôi hãy còn tò mò muốn biết tại sao lại như thế, và bằng cách nào cô đã tìm ra cô ấy (Pamela) ở đây. Cô có biết cô đang ở nuớc nào không?"

"Không".

"Cô nghĩ rằng cô đang ở đâu? Cô có biết tên của nước mà cô đang ở không? Không phải là Tô Cách Lan đâu".

"Tôi không phải ở trong quần đảo đâu".

"Không, cô có biết từ khi cô còn sống cho đến nay, một thời gian dài đã trôi qua, cô có bao nhiêu lâu rồi không?"

"Hàng trăm năm".

"Cô có thể cho tôi biết tên người trẻ tuổi ấy không?"

"Tôi không tìm thấy anh ấy, ông cũng không thể mang anh ấy trở lại đượcc".

"Cô hãy kể cho tôi biết cái âm mưu đã làm cô sợ hãi? Ai đã nhúng tay vào vụ này?"

"Cha tôi chỉ cho biết họ là những người chống lại cha tôi".

"Ai?"

"Tôi chỉ biết cha tôi là Gowrie thôi".

""Cha cô ở cấp bậc nào?"

"Tôi không rõ, khi họ đến tôi phải vào tháp canh".

"Và khi gọi cô, họ gọi thế nào?"

"Tôi muốn cha tôi trở lại".

"Tôi sẽ giúp cô. Cô có thể nói cho tôi biết tên cô được không, tên thật của cô đó?"

"Tôi phải tìm trong cuốn Thánh Kinh".

"Cô đi tìm trong cuốn Thánh Kinh đi và nói cho tôi biết Thánh Kinh viết gì?"

"Không, tôi phải đi gặp ông ta ".

"Cô sẽ gặp ông ta, nếu như ông ta bằng lòng để cô gặp ông ta"

"Không, tôi muốn gặp Peter".

"Peter, ông hãy đến với cô đi. Nếu ông đã tái sanh, nói cho cô ấy biết, hiện giờ ông ở đâu để rồi cô ấy có thể đến với ông được. Ông hãy nói như thế này: Tôi, nói tên ông, muốn gặp cô. Rồi ông đó sẽ đến với cô."

"Chúng tôi không thể nói cho ai biết được ".

"Chỉ có tôi và cô là hai người biết mà thôi".

"Không, khi chúng tôi rời lâu đài, mẹ tôi nói "không" ".

"Nói tên cô đi?"

"Không, tôi sẽ bị đánh".

"Những người hầu gọi tên cô thế nào?"

"Họ thường gọi tên tôi là Ruthven".

"Nhưng khi cô có mặt tại đây, họ gọi cô thế nào?"

"Họ thường chỉ gọi tôi bằng chữ 'Thưa Cô' ".

"Cô nào? Tên thánh của cô là gì?"

"Tôi không thể nói được".

"Nhưng cô biết phải không?"

"Phải".

"Chữ đầu tiên của tên cô là gì? Cô hãy đánh vần chữ đầu tiên tên cô đi?"

"Tôi sẽ bị trừng phạt".

"Cô đâu có bị trừng phạt khi nói tên của mình. "Cô muốn tìm cái nhẫn phải không? Còn tìm cái gì nữa không?"

"Không".

"Nếu tôi hỏi cô một câu, cô có hứa là trả lời tôi thành thực không?"

"Ðược".

"Cô có phải là Beatrix không?"

"Tôi không nói được".

"Cô phải nói phải hay không phải".

"Tôi sẽ bị trừng phạt".

"Cô sẽ không bị trừng phạt vì cô có nói tên cho tôi biết đâu? Cô chỉ trả lời đúng hay sai mà thôi. Nếu cô nói là đúng, đó là sự thật, mà nếu cô nói là sai thì cũng là sự thật vậy, còn như nếu cô không nói sự thực thì chính cô đã bội thệ và cô sẽ bị đọa xuống địa ngục. Cho nên tốt hơn là cô nên nói sự thực. Lần này là lần thứ ba cũng là lần cuối cùng tôi hỏi có phải cô là Beatrix không?"

"Phải".

"Bây giờ tôi để cô đi và tôi sẽ để ý đến chuyện đó càng sớm càng tốt để cô có thể trở về nhìn thấy nơi mà cô ưa thích"

"Vâng".

"Chúc cô lên đường bình an".

Sau khi Pamela tỉnh dậy, Pamela không nhớ một tý gì về cuộc thôi miên này. Tôi hỏi Pamela vì đâu mà lại đặt tên là Pamela.

"Mẹ tôi không muốn tôi có một tên trùng với bất cứ người nào trong gia đình. Mẹ tôi xem báo, thấy có một cô gái tên là Pamela sắp thành hôn, nên mẹ tôi đã lấy tên này để đặt cho tôi".

"Bây giờ tôi đọc vài cái tên phụ nữ, cái tên nào thấy quen quen hoặc cần chú ý, thì Pamela cho tôi biết".

""Dorothy hay Dorothea?"

""Bà ngoại của tôi tên là Dorothy".

"Cô có thích tên này không?"

"Cũng được".

"Thế nào về tên Barbara?"

"Không".

"Thế nào về Beatrix?"

"Tên này rất dẹp, tôi thích tên này".

"Cô thích tên này hơn tất cả tên khác phải không?"

"Phải, nếu mọi người tôi là Bea, tôi cũng không cần để ý đến cách gọi này."

Những gì tôi thâu lượm được qua cuộc thôi miên thật là kỳ thú. Bây giờ tôi hiểu chữ "Handsel" là cái nhẫn. Với thiếu nữ, cái nhẫn này rất quý vì là của người yêu tặng cho cô. Tôi biết rằng cô ta không chịu nói tên, nên cách tốt nhất là nêu một vài tên. Mặc dầu tôi không coi việc tìm tên như là kết quả của một bằng chứng, nhưng qua nội dung của cuộc điều tra, cô ấy đã tỏ ra phản ứng với cái tên Beatrix hơn là các tên khác trong khi tôi nói với cùng một âm điệu. Một lúc sau, Pamela ngồi dậy và cùng uống cà phê với tôi. Ðến đây tôi liền bóc cái thư mới nhất của Bà Elizabeth Byrd, nhận được ngày hôm qua ở Nữu Uớc. Kèm theo bản tin của nhà Quý Tộc Lyon Of Scotland chuyên phụ trách các đơn đòi tiền bồi hoàn các vũ khí của các gia đình quý tộc.

Bản tin như sau:"Người con gái có mệnh danh "Cái Nhảy Của Người Trinh Nù" tại Huntingtower tên là Dorothea. Cô này lấy ông John Vemyss ngày 8 tháng 6 năm 1609 tại Pittencrieff. Dorothea là người con thứ 13 song chưa phải là con Út, còn về tin tức của Barbara, người con thứ 14 là đứa con út trong gia đình có thể tìm thấy tại trang 266 và 267 trong cuốn "Four Of the Scots Peerage". Báo cáo của Nhà Quý Tộc Lyon of Scotland đương nhiên là không đầy đủ chi tiết về những cô con gái của Bá Tước Gowrie. Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu. Theo như "Cô" Gowrie nói đến cái nhảy của thiếu nữ có phải chính Pamela là thiếu nữ đã nhảy cái nhảy nổi tiếng đó không? Cũng có thể là một người con gái khác đã bị suy nhược và bị rớt trong khi đó có một thiếu nữ khác nữa đã nhảy thành công.

Sau khi kiểm soát lại các dữ kiện mà người con gái giòng họ Gowrie nói cho tôi tại Chicago thì là người đã bị ngã chết tại bờ thành lâu đài Gowrie không phải là cô gái đã nhảy thành công để đi tìm tình yêu, cho nên bằng chứng ở chỗ này có phần không rõ ràng. Trong cuốn The Fortified House In Scotland (Những Thành Quách của Tô Cách Lan) của Nigel Tranter có nói đến những bức tường thành, đến những lâu đài mà không nói đến huyền thoại về cái nhảy của một thiếu nữ; do đó tôi nghĩ rằng "Cái Nhảy của Người Trinh Nừ" đã không được mấy phổ thông. Trước khi chia tay Pamela, tôi nói cô hãy lưu ý đến tất cả các việc xảy ra sau cuộc thí nghiệm thôi miên và yêu cầu cô cố gắng ghi nhớ sau này sợ rằng có thể cuộc thôi miên có hậu quả làm trí nhớ bị kích động. Bốn ngày sau tôi có nhận được một lá thư của Pamela.

Bấy giờ tôi có nói cho cô biết là những ký ức của cô về Tô Cách Lan đã được các nhà chuyên viên xác nhận là đúng, và kiếp trước cô là một trong những người con gái của Bá Tước Gowrie. Vì vậy những sự cô đã biết không còn giá trị thực tiễn nữa. Thư của cô như sau:"Tôi không biết sự việc này có giá trị hay không, nhưng tôi cảm thấy cần phải cho ông biết. Vào khoảng 2 giờ 30 sáng, tôi tỉnh dậy vì một giấc mơ, giấc mơ như thật đối với tôi. Trong giấc mơ tôi thấy tôi đang cuỡi ngựa đi đến một nơi mà tôi không biết nhưng cảm thấy quen quen. Cho ngựa chạy chừng 40 dậm, tôi dừng lại buộc ngựa vào một cái cây. Tôi bắt đầu đi bộ, hình như đây là một thung lũng nhưng có nhiều cây. Tôi nhìn thấy núi bao quanh. Trong lúc tôi đi bộ, có nhiều gai hay cái gì đó nhọn đã đâm vào chân tôi. Tôi lại gần một con sông và bắt đầu chạy. Rồi tôi thấy tôi nằm trên giường. Ðiều làm tôi sợ là chân tôi hầu như bị báng rất đau đớn.

Sau đó tôi tỉnh dậy vì những tiếng kêu than khủng khiếp mà tôi nghĩ là các tiếng động này có thể làm cho cả lối xóm thức dậy. Có hai chữ đã in sâu vào tâm trí tôi. Một chữ là Dab hay là Daba. Tôi không biết chữ này từ đâu đến, nhưng hình như chữ này làm cho tôi khó chịu. Còn chữ thứ hai là "Beitris", chữ này tôi thấy rất rõ trên trần nhà đêm qua khi các đèn trong phòng đã tắt cả. Tôi không hiểu các việc trên có nghĩa gì không, song tôi cứ viết thư cho ông"Tôi cũng không hiểu những chữ trên đây nên tôi đã nhờ Bà Elizabeth Byrd tìm hộ trong cuốn tự điển Jamison's English-Scottish. Dadown có nghĩa là rơi xuống rất mạnh với tiếng dộng. Có thể là ám chỉ cái ngã tàn khốc của người con gái nhảy từ bờ tường lâu đài Gowrie nhưng cũng có chữ Dablet có nghĩa là con quỷ hay con yêu tinh nhỏ.

Không biết có phải là Bà Alanna Knight đã mô tả người thiếu nữ này khi Bà nhìn thấy trong ảo giác không? Ðầu tháng 11, Pamela lại thấy một giấc mơ khác nữa. Hình ảnh trong giấc mơ thấy hai lần đã in sâu vào trí nhớ của cô và cô hơi lo lắng về lời dặn dò như sau: "Ngươi sẽ bị chết bởi Newa Vleen", cô gái nói trong giấc mơ. Pamela tự hỏi ai sẽ chết, cô gái có mái tóc đỏ hay là chính cô và Newa Vleen có nghĩa gì? Ngày 30 Tháng 4 Năm 1972, tôi nhận được một lá thư của Bà A. McDougall, Bà này sống tại Perth, Tô Cách Lan đã soi sáng cho những lời khai của Pamela: "Người ái nữ đề cập chính là ái nữ của Bá Tước Ruthven IV được phong hiệu Bá Tước Gowrie sau khi ông cùng với Nam Tước Lindsay tháp tùng Hoàng Hậu Mary tới Loch Leven và đã lấy danh nghĩa của Hoàng Hậu thành lập một uỷ ban để lật đổ chính phủ. Người thiếu nữ trẻ tuổi đã làm bước nhảy nổi tiếng thời ấy, bỏ gia đình, đi theo người yêu là Ðịa Chủ James Vemyss tại Pittencrieff là nơi tiếp cận với Loch Katrine ở Trossachs.

Chữ Newavleen có nguồn gốc từ chữ Jacobite mà bây giờ gọi là Gaelic. Tôi đã tra cứu trong sách vở và đi đến kết luận là Tô Cách Lan không có địa danh Newav. Nieve rất có thể đọc là Newav ở Tô Cách Lan có nghĩa là nắm tay. Linn nghĩa là chỗ thắt lại của giòng nước lỡ hay một thác nước và được đọc là Leen. Ðó là nghĩa chữ Newavleen. Còn về câu trích dẫn "Thà là để trẻ khóc còn hơn là để người già phải khóc", đó là câu tuyên bố của một lãnh chúa ở Glamis trước mặt Vua James VI, câu này nổi tiếng trong Lịch Sử Tô Cách Lan vì Nam Tước Ruthven nổi lên tấn công bất ngờ. Bá Tước Gowrie cùng một số hầu tước đã sắp xếp một kế hoạch để giải thoát Vua James VI.

Khi nhà Vua còn nhỏ tuổi, ra khỏi đám cận thần vô dụng. Sau cuộc đi săn ở Athol trên đường về, nhà Vua bị bắt đưa về lâu đài Ruthven. Lúc sắp sửa khởi hành, nhà Vua bị những nhà Quý tộc chận đường trình lên một bản kiến nghị bầy tỏ lòng phẫn uất của họ. Nhà Vua đã cố tự mình giải thoát khỏi sự câu thúc của họ rồi bật khóc. Vị lãnh chúa Glamis (cầm đầu cuộc bắt giữ nhà Vua) đã nhận xét là "Thà để trẻ con khóc còn hơn là để người già phải khóc". Các nhà quý phái đã mang nhà Vua đi nhưng nhà Vua trốn thoát và lại tìm về với Bá Tước Arran.

Mặc dầu nhà Vua có thông qua một đạo luật ân xá cho những nhà quý phái dính líu đến việc bắt giam nhà Vua, nhưng sau đó trong một phiên tòa trá hình tại Stirling, Vua đã kết tội âm mưu làm phản, đã lên án tử hình Bá Tước Gowrie. Ngày 21 Tháng Ba Năm 1970, Pamela báo cáo một "bộc phát bất ngờ" về cô gái Tô Cách Lan.Cô thiếu nữ này lại nói nữa. Tôi muốn cho ông biết vài tên mà tôi không biết là chính cô thiếu nữ ấy nói ra hay tự tôi đã tưởng tượng. Những tên này là: Lord Patrick, Bá Tước William, Bá Tước Hom. Rồi Saint John's Stone và Black Pike có nghĩa gì không? Và thiếu nữ đó cũng nói về làm một cái gì vinh danh cho Hoàng Hậu.Với Pamela cho đến nay, tôi chưa hề cho cô biết về tiền thân của cô ngoại trừ các việc có liên quan đến Tô Cách Lan mà thôi, cho nên tôi rất thích thú với tin tức này. Tôi đã liên lạc với các bạn tôi ở Aberdeen để sưu tra.

Sử Gia C.I.A. Ritchie, trong một bức thư đề ngày 14 Tháng 4 năm 1970 đã báo cho Bà Elizabeth như sau: Bá Tước William có lẽ là Bá Tước William of Douglas bị Vua James giết chết. Bá Tước Hom là Bá Tước Hume hay Home. Bá Tước đầu tiên giòng họ Home 1566-1619. Nam Tước Patrick tức Nam Tước Gowrie III là phụ thân của Bá Tước Gowrie. Saint John's Stone tức St Johnstone, địa danh của Perth. Alanna Knight và chồng Bà đã khám phá ra tên Thị Xã của Perth là St John's Town, thị xã này cách xa Hintingtower 2 dậm. Qua Tiến Sĩ Margaret Steward, nhà khảo cổ sống tại Perth, Ông Bà Knight cũng khám phá ra chữ "Black Pike" có thể là chữ "Black Park", một miếng đất có tòa lâu đài cổ ở cách Huntingtower chừng 4 dậm về phía bắc.

Không phải để nhấn mạnh quan điểm của tôi, nhưng làm sao một người con gái 20 tuổi với trình độ học vấn trung học, một công nhân bệnh viện ở Illinois, Hoa Kỳ lại có thể biết được rõ ràng từng chi tiết của một nơi hẻo lánh nhỏ bé tại Tô Cách Lan trừ phi chính cô đã sống tại đó trước kia?

#275 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 10/07/2011 - 01:32

NHỮNG CHUYỆN LUÂN HỒI HIỆN ĐẠI

TIẾN SĨ RAYMOND A. MOODY


Ca Sĩ Elvis Presley, một nghệ sĩ siêu đẳng Hoa Kỳ chết ngày 16 Tháng 8 Năm 1977 tại nhà riêng ở Graceland, Memphis, Tennessee, Hoa Kỳ đã khiến hàng triệu người trên thế giới bàng hoàng xúc động. Ảnh hưởng tâm linh của Ca Sĩ Elvis Presley đối với quảng đại quần chúng Hoa Kỳ rất rộng lớn. Tiến Sĩ Raymond A. Moody đã bỏ ra trên 9 năm để sưu tầm, điều tra, nghiên cứu và viết cuốn sách "Elvis Presley After Death "(Elvis Presley Sau Khi Chết)

Tiến Sĩ Raymond A. Moody Jr. tốt nghiệp Ðại Học Ðường Virginia với văn bằng B.A., M.A., và Ph. D. (Tiến Sĩ). Sau khi dạy triết cho Ðại Học Ðường East Carolina, ông lại tốt nghiệp Y khoa Bác Sĩ Ðại Học Ðường Georgia vào năm 1976 và là Bác Sĩ Nội Trú của Y Khoa Ðại Học Ðường Virginia. Ông đã xuất bản những cuốn sách nổi tiếng như Life After Life, Reflections on Life After Life, có cả hàng triệu độc giả trên thế giới. Chúng tôi xin trích dịch một vài chuyện có thật trong cuốn Elvis Presley After Death do nhà Xuất Bản Peach Tree phát hành năm 1987.


JEREMY MORGAN, HIỆN THÂN CỦA CA SĨ ELVIS

Vào mùa đông năm 1985, tôi đến thăm Nancy Morgan và Jeremy, con trai nàng tại căn nhà nhỏ của nàng tại miền đồng quê Oregon Lúc đó nàng 33 tuổi và Jeremy thì 6 tuổi rưỡi. Hai tuần lễ trước đây, Nancy gọi điện thoại báo cho tôi biết nàng có nhiều chứng nghiệm bất thường với Elvis. Nàng không chịu tiết lộ bằng điện thoại và nghĩ là tôi nên đến gặp nàng thì thuận tiện hơn cho việc nghiên cứu của tôi. Nàng mời tôi đến nhà và tôi nhận lời.

Tôi tới nơi Nancy và Jeremy ra cửa chào tôi và dẫn tôi vào phòng khách. Tôi nhận thấy có mấy bức tranh của Elvis treo trên tường. Lò sưởi xây bằng loại gạch cổ khá đẹp với cái hầm đựng củi. Nancy, người dáng cao, tóc nâu duyên dáng, với cặp mắt xanh, tươi cười cho tôi biết nàng đã ly dị chồng từ khi Jeremy chưa sanh ra đời và chồng nàng là một dân chài. Nàng không nghe tin tức gì về người chồng từ khi ly dị và nàng nuôi Jeremy một mình. Nàng cho biết nàng là người ái mộ Elvis từ lâu. Nàng có rất nhiều dĩa nhạc của Elvis và xem tất cả các phim do Anh đóng.

Ðến đây nàng đi ngay vào vấn đề, nàng tuyên bố với một một luận điệu rất thành thực và cả quyết là Jeremy Morgan, con nàng là hiện thân của Elvis. Tôi đang ngồi tại ghế sô-pha và ngạc nhiên sao nàng có thể đi đến một kết luận lạ kỳ như vậy, nàng nói nhanh và mạnh dạn." Khi Elvis chết, tôi cảm thấy như mất đi một người bạn thân nhất. Tôi lấy Willie, chồng tôi ngay khi học hết trung học, ngoài việc Elvis chết, tôi chống đối chồng tôi suốt cả năm 1977. Khi Elvis chết tôi quá thất vọng và lâm bệnh. Tôi tưởng tôi sẽ chết.

Willie và tôi bắt đầu đến gặp vị mục sư của chúng tôi vào tháng 10 năm 1977. Chúng tôi đến gặp vị mục sư hai lần mỗi tuần để nói về chuyện hôn nhân của chúng tôi. Vào mùa Giáng Sinh năm đó, tôi có đi lại với chồng tôi và tôi mang thai. Tôi nới với Willie, chồng tôi, anh hết sức giận giữ. Anh la tôi và bảo tôi không cẩn thận và cho là lỗi tại tôi. Tuy nhiên anh cũng ở với tôi thêm vài tháng và sau đó anh bỏ đi và từ đó tôi không còn nghe tin gì về anh nữa. Người anh em họ của anh cho tôi biết anh đi biển làm nghề chài lưới.

Tôi nhớ thương Elvis hơn là tôi nhớ thương chồng tôi. Trong khi mang thai, nhiều đêm không ngủ tôi đã khóc vì nhớ thương Elvis. Tôi khóc lóc: "Elvis bây giờ Anh ở đâu, sao Anh nỡ bỏ mẹ con tôi?" Nhiều đêm tôi mơ thấy Anh. Một đêm tôi mơ thấy Anh, khi tỉnh dậy tôi tưởng Elvis vẫn ở trong phòng ngủ với tôi. Trong lúc mang thai Jeremy không có gì xảy ra để tôi tin đứa nhỏ trong bụng tôi là Elvis cả. Một lần tôi nghĩ là sau khi sanh, tôi sẽ đặt tên đứa nhỏ là Elvis, nhưng tôi lại nghĩ: "Không,tôi không tài nào chịu đúng được mỗi khi gọi con tôi lại nghĩ là Anh đã chết."

Tôi được biết là tôi sẽ sanh ngày 12 tháng Tám, nhưng tôi tưởng rằng tôi sẽ sanh vào ngày 16 tháng Tám tức đúng một năm sau khi Anh chết. Ðến ngày 12, tôi vẫn chưa sanh, tôi yên chí sẽ sanh vào ngày 16. Ngày 16, vẫn chưa sanh. Ðến ngày 18, tôi đau bụng, em tôi và chồng nó chở tôi đi bệnh viện đêm đó và tôi sanh lúc 7 giờ 30 chiều tức một năm 2 ngày sau khi Elvis chết.

Khi sanh Jeremy sanh tôi chưa bao giờ có ý nghĩ Jeremy là Elvis. Jeremy là một đứa trẻ ngoan thực sự tinh khôn. Nó ngủ nhiều. Không có vấn đề gì khó khăn với nó. Nó thích chơi với đồ chơi của nó trong nôi. Tôi thường nói chuyện với nó trong khi tôi ủi đồ. Tôi thường vặn nhạc Elvis cho nó nghe và nó thích lắm, thường nhảy cỡn lên, khi nghe nhạc và mỉm cười.

Giáo Phái Baptist (Tẩy-Lễ) của một nhà thì đã dậy dỗ tôi. Mẹ tôi nói nhiều về truyền thống và tôi được rửa tội thánh thần khi lên 14 tuổi. Luân hồi không bao giờ được dạy hay nói đến trong nhà thì và tôi cũng không bao giờ tin tưởng hãy nghĩ về luân hồi cả. Khi tôi biết Jeremy là hiện thân của Elvis là lúc Jeremy gần 18 tháng. Một hôm tôi đang chơi với nó, tôi nhìn thấy có cái gì trong cặp mắt nó. Ðúng là cặp mắt của Elvis.

Tôi nghĩ: "Phải chăng Jeremy là hiện thân của Elvis và Elvis đã trở lại?" Tôi bòng hoàng, và tôi không biết tại sao. Jeremy lúc nào cũng thích nhạc Elvis. Mắt nó giống như Elvis. Tôi nghĩ rất nhiều đến Elvis trong lúc mang thai và một đêm tôi có cảm giác Elvis ở trong phòng tôi. Rồi tôi nhìn thẳng vào mắt Jeremy và hỏi: "Jeremy, có phải con là Elvis không?" Nó cười, tôi chắc chắn nó hiểu tôi nói gì. Nó trả lời "Ờ hử" gật đầu.

Tôi xúc động những muốn kể cho mọi người cùng biết, song tôi bỏ ý định ấy vì nghĩ là khi tôi nói ra chắc mọi người cho tôi là mất trí. Tôi chỉ kể cho người duy nhất là em gái tôi nghe mà thôi. Tối hôm đó tôi với Jeremy đến nhà cô em gái. Chúng tôi ngồi trong nhà bếp. Tôi hỏi em tôi: "Ruth à, em có thấy Jeremy có gì đặc biệt không?" Em tôi trả lời: "Em không biết, nhưng đôi khi em thấy Jeremy giống như Elvis, có thể Elvis tái sanh thành Jeremy."

Tôi thở dài nhẹ nhỏm khi nghe em tôi nói. Em tôi cũng thấy giống như tôi. Em tôi còn cho biết có một tối em tôi và chồng nó giữ Jeremy giúp tôi vì tôi đi vắng, Jeremy nói: "Elvis thích đậu phọng và chuối." Chính chúng tôi đã không biết điều đó cho đến vài tháng sau chúng tôi mới khám phá ra sự thật này. Elvis thích đậu phọng và bánh kẹp chuối thực. Tôi đọc được tin này vài tháng sau buổi tối trong bếp nhà cô em gái tôi. Tại sao Jeremy lại biết về Elvis trong khi chúng tôi lại không biết?"

Từ đó về sau trong thâm tâm, tôi lúc nào cũng nghĩ Jeremy chính là Elvis. Tôi biết Jeremy cũng sẽ làm một cái gì nổi bật trong đời nó. Nó có thể không phải là một ca sĩ, nhưng sẽ được nổi tiếng và sẽ được người đời ngưỡng mộ. Chắc ông không tin, nhưng sự thật sẽ như vậy, rồi cả thế giới sẽ thấy điều đó.

Năm vừa qua tôi đến gặp một nhà siêu linh học. Bà này chưa hề biết gì về tôi mà tôi cũng không để lộ chút nào cho bà ta biết. Bà ta nắm tay tôi và nói nhiều điều mà chỉ mình tôi biết. Ðiều cuối cùng của bà ta nói ra là bảo tôi có một đứa con trai, đứa trẻ này thật đặc biệt, kiếp trước là một người nổi tiếng. Bà nói hàng triệu người đã yêu mến người này và thằng nhỏ này cũng sẽ trở nên lừng lẫy.

Tôi không nói cho bà ta biết nhưng tôi biết bà ta muốn nói về chuyện gì. Tôi không kể cho bà ta biết Jeremy chính là hiện thân của Elvis. Vì thế tôi cố gắng hết sức mình để cung cấp cho Jeremy những gì cần. Một ngày nào đó Jeremy sẽ trở nên một nhân vật quan trọng và được dân chúng mến mộ.

Khi Nancy chấm dứt câu chuyện của nàng, nàng đứng dậy và đi xuống bếp. Một lát sau nàng trở lại với một khay đầy bánh mì kẹp. Trong khi ba chúng tôi ăn, tôi nói chuyện với Jeremy. Tôi muốn biết phản ứng của em. Tôi hỏi: "Này Jeremy, em nghĩ thế nào về câu chuyện của mẹ em kể cho tôi nghe? Em có nghĩ em là Elvis không?" Tôi phải nhận là tôi thật kỳ cục khi đặt câu hỏi này cho một em nhỏ mới 6 tuổi.

Jeremy không chút ngặp ngừng trả lời: "Vâng", tôi chính là Elvis. Tôi chết rồi nhưng tôi đã trở lại.

Tôi hỏi: "Em tin tưởng điều này bao lâu rồi? Em nhớ lúc nào là lúc đầu tiên khi em nghĩ như vậy?"

"Lúc nào tôi cũng biết tôi là Elvis ngay từ khi mới sanh". Em bảo đảm với tôi không chớp mắt. "Tôi trở lại để được ở bên mẹ tôi. Mẹ tôi đau khổ vì tôi, cho nên tôi đã trở về sống với mẹ tôi."

Không thể nào nhầm lẫn, Jeremy đã nói bằng một giọng giống như giọng của Elvis. Cách phát âm, nhấn mạnh, chuyển giọng, tất cả đều như hệt Elvis kẻ cả cái giọng nhừa nhựa của vị danh ca này. Tôi suy gẫm không thể nghi ngờ gì, Mẹ em đã dạy con học được tất cả giọng nói của Elvis từ khi em còn đang nằm trong nôi. Tôi hỏi em rằng khi lớn lên em muốn làm gì?. Em trả lời: "Tôi chưa biết, cũng có thể là một nhạc sĩ, một diễn viên trên truyền hình, cũng có thể là một phi công."

Trong khi nói chuyện với em, dần dần tôi thấy hình như em đã có thể bình tĩnh giữ được sự cảm xúc của em. Em thông minh trên mức trung bình, em học khá. Không một người bạn hay một thầy giáo nào biết được sự bí mật lý lịch của em khi tôi hỏi em cho tôi biết. Mẹ em đã dặn dò em không nói cho ai hay.

Tôi nghĩ hẳn là Nancy đã dạy cho em thâm nhập và khuyến khích em với cách giáo dục em bằng nhạc, cá tính, đời sống của Elvis. Trong gia đình không có người cha, Nancy đã tạo ra "một người cha giả tưởng" cho con dưới hình thức một việc ngông cuồng hoàn chỉnh. Việc này đưa đến kết quả là cho cho Jeremy thấy hình ảnh một người đàn ông gương mẫu, người này chính là Elvis.

Khi tôi sửa soạn ra về, Nancy nói nàng muốn cho tôi xem một việc nữa. "Hãy xem đây!" Nàng vừa nói vừa ra hiệu cho Jeremy và ngay tức khắc Jeremy thi hành vai trò của mình. Tôi thích thú chăm chú theo dõi Jeremy; nó bắt đầu hát bản "Don't Be Cruel" (Xin Ðừng Ðộc Ác) bắt trước y hệt như Elvis từ giọng hát, điệu bộ, cách đi vòng trong một màn trình diễn gần như hoản hảo về động tác và kiểu mẫu của người mẹ anh.

Khi màn trình diễn chấm dứt, tôi cảm ơn hai mẹ con nàng về sự khả ái và lòng hiếu khách trong buổi tối không bao giờ quên được này. Tôi ra về, lòng bâng khuâng suy nghĩ không biết rồi đây họ sẽ ra sao?


JACK MATHEW GẬP THẦN HỒN CA SĨ ELVIS PRESLEY TRÊN ÐƯỜNG MEMPHIS

Ðầu tiên tôi được nghe Bill Grady, viên quản lý một cơ sở buôn bán phụ tùng xe hơi tại một thành phố nhỏ ở Alabama kể về cuộc gặp gỡ rất ngộ nghĩnh của Jack Matthew và Elvis Presley. Tôi đến đấy để thuyết giảng và tôi cũng có cho biết là tôi chú trọng đến vấn đề thời sự đó trong dịp này. Sau đó Bill Grady đến và sẵn sàng cho tôi biết một chuyện vô cùng lý thú. Bill nói có quen một tài xế lái xe vận tải cỡ lớn tên là Jack Mathew.

Jack nói là ông ta thấy Elvis Presley trên xa lộ sau khi Elvis đã chết và còn chở Ca Sĩ này nữa. Bill hỏi tôi có muốn nói chuyện với Jack không, Jack ở cách xa đây chừng khoảng 8 dậm tại một thành phố ở Alabama. Tôi trả lời tôi rất muốn gặp Jack, và Bill mời tôi ghé qua cửa hàng của anh sáng hôm sau để biết địa chỉ của Jack, cửa hàng của anh có hồ sơ ghi địa chỉ của Jack.

Tôi đến cửa tiệm Bill lối 9 giờ sáng. Bill nhìn tôi mỉm cười, anh đứng sau cái quầy hàng bằng gỗ cây sồi và đưa tôi một mảnh giấy có ghi địa chỉ và số điện thoại của Jack Matthew. Bill mời tôi ngồi nói chuyện chơi một lát và uống cà phê. Trong lúc chúng tôi uống cà phê và trò chuyện, Bill cho tôi biết không biết Jack Matthew có chịu tiếp tôi không vì Jack là một người sống cô đơn, thầm kín. Anh cũng cho tôi biết sức khoẻ của Jack không được tốt, Jack đau bao tử và phổi vì uống rượu và hút thuốc, biết rõ Jack qua Bill, tôi có thể nói chuyện với Jack dễ dàng hơn.

Khi trở về nhà, tôi liên lạc với Jack bằng điện thoại ngay. Bốn tuần qua dù cố gắng điện thoại gặp Jack nhưng vẫn thất vọng không thể nào gặp được Jack. Tôi có vài lần dặn dò bà mẹ của Jack nhưng vẫn không được hồi âm. Cuối cùng tôi đành bỏ qua chuyện Jack và cho là Jack không muốn tiếp chuyện tôi. Một buổi sáng vào khoảng 8 giờ, tôi đang ngồi tại văn phòng thì điện thoại reo. Một giọng nói khàn khàn như người ngái ngủ vang lên: "Bác Sĩ Moody phải không, tôi là Jack Matthew". Hết sức thích thú, tôi cho Jack biết là tôi là một bác sĩ tâm trí, tôi rất chú trọng đến câu chuyện lạ lùng của Jack và Elvis mà tôi đã được nghe qua do Bill Grady kể lại.

Tôi đề nghị được gặp Jack để tôi biết rõ ràng hơn. Jack hỏi tôi nghĩ sao về chuyện này, liệu tôi có gán cho Jack là một "Thằng Ðiên" hay "Thằng Sạo" chăng. Tôi trả lời là trong công cuộc khảo cứu của tôi tôi đã gặp rất nhiều người tâm lý bình thường cho tôi biết những chuyện thật khó tin về Elvis Presley và cảm nghĩ của tôi là tôi không có ý kiến "đúng hay sai" về những chuyện đó, nhưng tôi dám chắc họ là những người rất thành thực với tôi.

Jack tán thành và anh hẹn sẽ nói chuyện với tôi trong một ngày gần đây. Ba tuần lễ sau, tôi lại nhận được điện thoại của Jack. Anh báo cho tôi biết hai ngày nữa anh sẽ đến Tennessee. Anh muốn tôi đến gặp Anh tại một trạm xe vận tải gần thành phố. Anh sẽ đến đó vào khoảng 5 giờ chiều hoặc muộn hơn. Tôi nói tôi sẽ đến đó gặp anh và báo anh biết anh sẽ nhận ra tôi là tôi sẽ mặc một áo ấm mầu nâu và đeo một máy thâu băng.

Vào đúng ngày hẹn tôi đến trạm xe vận tải vào khoảng 4 giờ 15 chiều; 5 già, 6 giờ rồi 7 giờ cũng vẫn chưa thấy Jack đến. Tôi định ra về thì vào khoảng 8 giờ kém 20, tôi thấy một người tài xế xe vận tải, cao, gầy, tóc hoa râm, bước vào cửa chính và đang nhớn nhác nhìn quanh. Thấy tôi anh cúi đầu chào và bước tới. Anh mặc quần Jeans xanh, áo sơ mi Flannel sọc xanh, và đi đôi giầy òng cao bồi. Cánh tay phải vắt chiếc áo dạ ngắn sọc đỏ. Có lẽ đã hai ngày anh chưa cạo râu.

Khi tới gần bàn tôi ngồi. anh nói vời tôi: "Xin lỗi Bác Sĩ Moody, tôi đến trễ. Dọc đường cách dây độ 100 dậm, xe tôi bị hư, trời lại mưa to quá". Tôi nhìn qua cửa sổ, trời đang mưa như trút nước đã hơn một tiếng đồng hồ. Jack ngồi xuống và chúng tôi gọi cơm chiều. Chúng tôi vừa ăn vừa nói chuyện. Ðầu tiên Jack cho tôi biết là anh đã cai rượu và anh dã phải vào nhà thương cả thảy 3 lần. Hiện giờ anh đã bỏ được rượu khoảng gần một năm nay. Tôi thầm nghĩ, đôi mắt sâu thẵm và chan chứa tình cảm chứng tỏ anh là người ghiền rượu.

Sau khi dùng cơm xong, anh bật lửa châm thuốc hút. Tôi đề nghị anh nói chuyện về việc chứng nghiệm với Elvis Presley. "Trở lại vào Năm 1980, ngày đó là ngày 20 tháng Chạp, tôi nhớ rõ vì ngày đó là ngày tôi giao động mà còn vì ngày đó xảy ra trước hai ngày sinh nhật của mẹ tôi (Ngày 22 tháng Chạp là ngày sinh nhật của mẹ tôi).

Thật khẩn trương làm sao vì tôi phải trở về nhà tại Alabama cho kịp sinh nhật của mẹ tôi. Từ miền cực Tây tôi phải chuyên chở và giao hàng tại Memphis. Tôi lo sợ chẳng may dọc đường xe bị hư thì tôi không kịp về dự lễ sinh nhật của bà. Tôi dự định xuống hàng tại Memphis hôm 21 và trở về ngay đêm đó. Tất cả gia đình tôi đều về nhà dự lễ sinh nhật của bà và ở lại cho đến ngày Giáng Sinh.

Tôi rất lo lắng cho mẹ tôi vì bà bị bệnh tim vừa nằm 2 tháng bệnh viện để điều trị. Tôi sợ có thể đây là lần sinh nhật cuối cùng của bà. Tôi đang ở với bà. Tôi có lấy vợ được 5 năm và vợ tôi đã bỏ tôi vào năm 1978; từ đó tôi vẫn sống với bà. Ðêm ấy tôi lên đường. Trời tối đen như mực. Lúc đó vào khoảng 9 giờ 30, tôi đến cách Memphis chừng một trăm dậm về phía tây. Tôi biết rõ con đường này và dự trù đến Memphis vào đêm ấy.

Bấy giờ, có điều là lạ là tôi rất ít khi cho người đi đường quá giang. Cách nay khoảng sáu năm có lần tôi cho một gã quá giang ở Nevada, tự nhiên gã này nổi khùng chửi mắng tôi. Gã đâm tôi nhưng tôi đánh bật được con dao khỏi tay gã và xô gã xuống lề đường. Tôi là một tài xế xe vận tải độc lập nhưng kể từ dạo đó tôi không cho ai quá giang nữa. Thời buổi này, ông không thể ngừng xe dọc đường cho khách quá giang.

Nhưng đêm 20 tháng Chạp lại khác hẳn. Tôi dừng xe lại đổ thêm xăng. Tôi cảm thấy bồn chồn nên xuống xe và đi bộ vòng quanh để lấy lại sự thư thái. Tôi uống hết hai ly cà phê. Chung quanh trạm xăng đèn pha chiếu sáng rực, nhưng bên kia đường và phía cánh đồng thì tối om. Phía đường bên kia có nhiều bụi cây, một vùng toàn cây. Nhìn về phía ấy tôi thấy một ánh sáng. Không phải ánh sáng của một cây đèn bấm mà giống như một vầng ánh sáng phát ra từ những lùm cây. Tôi nghĩ ngợi. Lúc đầu tôi tưởng là đám mây sáng qua các cành cây, nhưng tôi quả không biết ánh sáng trên từ đâu phát ra.

Tôi đứng bên đường và đăm đăm nhìn chùm ánh sáng mờ mờ. Rồi bỗng nhiên tôi thấy một người đi đằng trước ánh sáng này. Anh ta đi dọc theo con đường về phía xa lộ. Anh ta mặc áo khoác, tay cặp một gói đồ. Tôi cho là Anh đang đi dọc con đường và bước qua vùng ánh sáng, nhưng ngay lúc ấy tôi thấy Anh ta đang đi trên đường. Có thể Anh từ rừng cây bước ra, Thực tôi không biết Anh từ đâu tới. Tôi vừa đoán có lẽ Anh đang đi dọc con đường trước khi tôi thấy Anh nhưng tôi không biết thật.

Thoạt đầu tiên tôi không nhìn thấy chân Anh. Anh đang đi đằng sau vài lùm cây thấp nên tôi chỉ trông thấy phần trên từ hỏng lên tới đầu mà thôi. Hình như Anh nhìn thấy tôi, tiến tới và băng qua đường. Giờ này không có xe cộ gì cả. Tôi đến ngay bên Anh và hỏi: "Anh đi đâu?". Trong lòng tôi cảm thấy thương hại Anh. Tại sao, tôi không biết. Anh có vẻ lo âu. Tôi nghĩ là Anh không nghe câu hỏi của tôi vì tôi nói hơi nhỏ nên Anh không trả lời. Tôi lại nói to hơn: "Anh đi đâu?"

Lần này Anh nhìn tôi và nói: "Memphis"

Tôi hỏi: "Ði nghỉ lễ ở Memphis à?"

Anh trả lời: "Vâng tôi đi về nhà thăm cha mẹ tôi".

Anh nói giọng Tennessee rất trầm. Tôi không thấy rõ mặt Anh vì Anh đội một cái mũ lớn, cũng có thể là loại mũ trùm đầu. Tôi không hiểu tại sao Anh lại ở trên con đường cách xa Memphis cả trăm dậm, nên tôi hỏi:

"Anh đi bằng gì?"

Anh trả lời: "Tôi ra xa lộ để xin quá giang."

Rồi Anh tiếp tục đi cho đến khi khuất dạng. Tôi trở về trạm xăng, lên xe quay trở về xa lộ. Từ trạm xăng ra xa lộ chừng nửa dậm, nhưng mới đi chừng khoảng một phần tư dậm, tôi đã thấy Anh đang đi bên lề đường bên trái, tay cắp gói đồ. Không suy nghĩ tôi ngừng xe ngay bên cạnh Anh. Tôi quay kính xe xuống, thò đầu ra ngoài nói với Anh: "Tôi đi Memphis đây, tôi cho Anh quá giang".

Anh cảm ơn tôi, băng qua đường và trèo lên xe. Tôi chạy ra xa lộ, thẳng đường đi Memphis. Nhìn Anh vừa lên xe, tôi có thể nói Anh là người lịch lãm. Anh gọi tôi là "Ngài", vậy "Thưa Ngài" hoặc "Thưa Ngài không". Tôi nghĩ Anh hẳn phải được giáo dục kỹ lưởng. Tôi thật là quá mệt trên suốt quãng đường còn lại đi Memphis nhưng nhờ có cà phê mà tôi còn tỉnh táo. Chúng tôi nói chuyện huyên thuyên, tôi không nhớ hết, nhưng tôi còn nhớ có nói đến âm nhạc mà cả Anh và tôi cùng thích.

Anh cho tôi biết Anh đang mong mỏi gặp cha mẹ Anh. Tôi nói là Anh nghĩ đến mẹ Anh cũng như tôi nghĩ đến mẹ tôi. Cha mẹ là những người gần gủi thực sự. Anh nói với tôi Anh có mấy món quà biếu cha mẹ Anh trong gới đồ Anh đang mang theo. Anh cũng kể với tôi có một thời gian Anh làm tài xế xe vận tải và Anh biết nhiều loại xe. Anh còn nói Anh có vài chiếc Cadillacs, nhưng tôi không tin. Tôi nghĩ Anh chỉ là một gã nghèo khổ, muốn làm cho ra vẻ, nhưng tôi không nói với Anh điều đó. Tôi nghĩ thật là chuyện khó tin, một người có mấy chiếc Cadillacs lại phải xin quá giang xe giữa đường như thế này.

Chúng tôi rất tương đắc. Tôi cho Anh biết là tôi ghiền rượu. Anh tỏ vẻ thông cảm và cho tôi biết Anh cũng nghiện ma túy, thuốc ngủ, nên rất hiểu tôi. Lúc này trong xe rất tối nên tôi không thấy rõ mặt Anh. Tôi không thể nói Anh bao nhiêu tuổi. Tôi nghĩ Anh chừng 30 hay 35, cũng có thể trẻ hơn. Còn chừng ít dậm nữa là tới Memphis, những ngọn đèn hai bên đường giúp tôi nhìn thấy Anh rõ hơn. Tôi trông Anh rất quen thuộc. Chắc chắn truớc đây tôi đã gặp Anh. Tôi hỏi Anh muốn xuống đâu.

Anh cho tôi địa chỉ, đó là Ðại Lộ Elvis Presley. Anh bảo Anh xuống gần đây cũng được. Vì muốn biết Anh là ai nên tôi tự giới thiệu:

"Tôi là Jack Matthew".

Tôi nhìn Anh khoảng một giây. Lúc tôi vừa nhìn Anh thì Anh quay lại nhìn thẳng vào mặt tôi và nói:

"Thưa Ngài tôi là Elvis Presley".

Tôi lạnh cóng và cứng đơ. Mồ hôi vã trên trán và lòng bàn tay... tôi không thể nói được. Tôi lắp bắp hình như câu:

"Anh nói chơi đó chứ!".

Còn độ một dậm nữa, tôi sợ quá và không nói nên lời. Tôi không biết sao tôi còn có thể lái xe được trong tình trạng này. Ðúng là Elvis Presley, hay hồn ma Anh. Trông Anh vẫn giống như xưa, như những ngày vui của Anh. Chân tôi run rẩy trong đôi giầy ống. Cuối cùng Anh nói Anh muốn xuống xe và tôi đã ngừng lại để Anh xuống. Tôi đã gặp hồn ma! Tim tôi đập thình thịch. Tôi chưa bao giờ đến Graceland cả nhưng hai tuần sau đó, tôi mạnh dạn trở lại Memphis và chạy qua Graceland. Thật là gần chỗ tôi đã ngừng xe để Anh xuống.

Ðó là câu chuyện của tôi. Tôi không uống rượu hôm xảy ra chuyện đó. Tôi đã bỏ được rượu khoảng một tuần trước khi chuyện đó xảy ra. Tôi thề tôi không uống một giọt rượu nào đêm đó cả. Tôi cũng không dùng một loại thuốc nào đêm đó." Sau khi Jack kể xong chuyện, tôi đã mất cả tiếng đồng hồ để cật vấn. Tôi muốn biết anh có phải là người ái mộ Elvis trước đêm 20 Tháng 12 Năm 1980 không. Anh trả lời Anh có ái mộ Elvis nhưng anh thích loại nhạc dân ca hơn là kích động nhạc. Những ca sĩ thần tượng của anh là Willie Nelson và Waylon Jennings.

Tôi nhận thấy Elvis và Jack có vài điểm tương đồng về cá tính trong đời sống. Thứ nhất là Elvis và Jack cũng gần gủi thương yêu mẹ. Cả hai dều lái xe vận tải và đều thích xe; cả hai cũng ly dị và vương mắc chất độc (rượu, ma túy). Một điểm nữa là Jack gặp sự xuất hiện của Elvis trên con đường hoang vắng, sự lo âu của Elvis cũng như sự băn khoăn lo lắng của Jack trước khi gặp, là làm sao về nhà kịp để đoàn tụ với gia đình.

Sau khi nghe tôi trình bầy, Jack rất ngạc nhiên về những sự trùng hợp và tương đồng tôi nêu lên mà anh không nghĩ tới. Anh hỏi tôi xem có phải vì nguyên do tâm lý hay bệnh hoạn mà chuyện xảy ra đêm đó. "Thú thật tôi không biết, Jack à. Nếu anh muốn biết tôi giải thích, tôi sẽ nói anh nghe. Như anh biết tôi đang thử không chấp nhận chứng nghiệm của anh, tôi chỉ nói sự giải thích có thể có được chứ không phải là đúng hẳn."

Anh giục tôi. "Cứ nói đi".

Ðầu óc tôi quay trở về lúc tôi học y khoa trong thời gian nội trú và thực hành về trường họp người nghiền rượu bất thình lình bỏ rượu như Jack nói với tôi anh đã chấm dứt không uống độ một tuần trước khi câu chuyện kỳ lạ xảy ra trên đường Memphis. Tôi bắt đầu chậm rãi nói với người tài xế xe vận tải đang ngồi trước mặt tôi.

"Jack, anh có bao giờ nghe thấy chứng bệnh mê sảng động kinh không?"

"Có, họ nói với tôi rằng mỗi lần tôi đi chữa bệnh ghiền rượu tại bệnh viện có thể nhìn thấy các con chuột mầu hồng sau khi bỏ được rượu. Riêng tôi chẳng bao giờ thấy, nhưng người bạn cùng chữa trị với tôi nói cho tôi biết là có thấy".

Tôi nói cho anh biết có trường hợp ít ngày sau khi ngừng rượu, người ghiền thấy những ảo ảnh linh hoạt. Người đó nhìn thấy những vật mà thật ra không có. Người đó đổ mồ hôi, giao động và run rẩy. Những người bị mê sảng động kinh thường mất ngủ, mệt mỏi và luôn luôn sợ hãi. Jack rất chú ý đến điều tôi nói. Tôi ngưng một chút nhìn anh, anh uống một ngụm cà phê và hít một hơi thuốc lá.

"Vài triệu chứng của bệnh mê sảng động kinh đã xảy ra với anh đêm đó". Tôi tiếp tục:

"Anh nói với tôi anh sợ sệt khi anh ngừng tại trạm xăng. Rõ ràng anh mệt mỏi và đi tản bộ chung quanh để chấn tĩnh. Sau này anh nói anh bị ra mồ hôi và lạnh cứng vì sợ hãi. Tất cả những việc đó xảy ra một tuần sau khi anh ngưng uống rượu".

Tôi ngừng lại và thấy anh trầm ngâm nhìn ra phía xa. Trông anh như mất trí. Chúng tôi im lặng ngồi bên nhau. Tôi bắt đầu suy nghĩ liệu một người bị mê sảng động kinh có thể lái được một xe vận tải lớn đi hàng trăm dậm mà không hề hấn gì như trường hợp của Jack không. Thật là ngoài tầm tay, tôi tự hỏi có thể như vậy được không và óc tôi liên tưởng đến một việc đã xảy ra cách đây mấy năm cho chính tôi. Một đêm tôi đang làm việc trong phòng cấp cứu thì có một người, cũng là tài xế xe vận tải, bị bệnh mê sảng động kinh trầm trọng đến.

Anh này là người ghiền rượu, anh nói với tôi anh lái xe xuyên bang, đột nhiên thấy nhiều ảo ảnh. Anh bắt đầu thấy các xác chết và những con vật kỳ quái to lớn nằm dài trên mặt đường. Tuy nhiên anh vẫn điều khiển được cái xe về nhà, vào bệnh viện thành phố sau một cuộc hành trình dài. Tôi đã tìm đuọc câu trả lời: "Có thể một người sau khi cai rượu bị ảo ảnh vẫn có thể lái một xe lớn trên xa lộ.

Jack làm tôi tỉnh mộng: những lời anh nói khiến tôi giựt mình trở về thực tại, tôi đang ở trong một quán ăn của một trạm xe vận tải miền đồng quê Tennessee.

"Bác Sĩ Moody, tất cả những gì ông nói đều đúng cả." Jack nói. "Thật đúng tôi hết sức bị giao động đêm đó. Tôi quên không nói cho ông biết. Bây giờ tôi mới nhớ lại, đêm đó, tôi mất bình tĩnh vô cùng."

"Tốt, sự kiện anh giao động hiển nhiên hơn là việc anh ngưng uống rượu. Có thể việc anh nhìn thấy Elvis là một ảo ảnh nếu anh bị chứng mê sảng động kinh."

"Vậy, có thể là tất cả chỉ trong tưởng tượng mà thôi." Jack hỏi.

"Ai biết được, có thể một phần là sự thật mà cũng có thể một phần là ảo ảnh. Có thể là có một người đã quá giang xe anh, đi xe cùng anh 100 dậm, và phần cuối anh đã ảo ảnh người này là Elvis Presley như trong giấc mơ". Tôi trả lời anh.

Trông anh do dự. "Tôi không biết Bác Sĩ à" anh nói.

"Tôi cũng không biết, Jack ạ"

Cả hai chung tôi đều cười. Lúc này trời đã khuya. Jack muốn lên đường đi một quãng rồi mới nghỉ. Trời mưa cũng đã tạnh. Tôi tiễn đưa anh ra xe của anh, chúng tôi bắt tay từ giã, anh leo lên xe. Anh quay kính xuống, nhìn tôi, miệng cười toe toét. Tiếng động cơ bắt đầu nổ và rú lên.

"Suy nghĩ, tất cả mọi thứ là do tôi uống rượu", Anh cao giọng nói để át tiếng nổ của động cơ.

"Vâng có thể là đúng, mà chuyện kia cũng có thể là đúng"

"Cái gì, Bác Sĩ Moody?" Anh hỏi lại.

"Có thể là anh đã thực sự nhìn thấy hồn ma của Elvis Presley" Tôi nói thật to cho anh nghe.

Cả hai chúng tôi đều cười rộ, và tôi đứng nhìn theo chiếc xe vận tải cồng kềnh của anh, với đèn nhấp nháy, kéo đi vào miền núi lạnh lẽo của Tennessee trong đêm khuya.


CHIẾC ÁO CHOÀNG BỊ ÁM ẢNH BỞI THẦN HỒN CA SĨ ELVIS

Vào Năm 1975 khi Elvis Presley cho cô chiếc áo choàng, Janice McMichael không bao giờ nghĩ nó sẽ là vật lưu niệm. Giờ đây chiếc áo hình như có một đời sống riêng tư, đôi khi cô lo lắng có nên giữ hay không. Tôi (Raymond A. Moody) nói chuyện với Janice tại Hoa Thịnh Ðốn vào mùa hè năm 1986. Lúc đó Cô 39 tuổi và là một thiếu phụ tóc vàng duyên dáng đang làm thư ký cho một trường đại học. Trước khi bắt đầu vào đời cô có biết Elvis.

"Tôi có đi theo Elvis trong những năm đầu của thập niên 70. Về phần Anh không có gì quan trọng, về phần tôi có những ngông cuồng cá nhân: Tôi đang thử làm thương mại trong thị trường ca nhạc thời gian này. Tôi là một diễn viên xinh đẹp, tài giỏi, nhưng tôi nhận thấy dù có tài năng cũng khó để có thể biểu diễn kiếm tiền. Tôi người Ohio bỏ nhà năm 21 tuổi đi California tìm việc với ước vọng trá thành một diễn viên. Thật may mắn nên tôi đã được tuyển chọn trong vài màn trình diễn. Tuy nhiên vẫn không đủ sống với nghề này.

Vào đầu năm 1970 một người bạn đã giới thiệu tôi với Elvis Presley Anh thật tử tế dễ mến. Khi tổ chức một bửa tiệc, Anh không yên lòng nếu chưa gặp mặt tất cả mọi người, Anh thường trò chuyện hỏi về quê quán và đời sống cuả từng người. Anh thật là dịu dàng. Tôi không biết phải nói gì thêm nữa về Anh. Tôi không nhớ rõ đã gặp anh bao nhiêu lần; có thể là 5 hay 6 lần. Tôi không bao giờ gặp Anh trong chương trình bình thường. Có thể nói rằng tôi là người tình đặc biệt của Anh, nhưng thực ra không phải thế.

Thời kỳ tôi biết Anh, Anh rất sợ chết. Anh có vẻ không được khoẻ. Nhưng cá tính hiền hòa của Anh vẫn chói sáng. Tôi và Anh nói nhiều đến sự chết chóc. Anh muốn biết ý tưởng của tôi về cái chết. Tôi nhớ đã nghĩ: "Anh là người giàu có trên thế giới nhưng muốn một thứ, mà tiền không thể mua được. Anh muốn biết về sự chết." Ðó cũng là điều tôi quan tâm, vì thế chúng tôi trò chuyện. Lần cuối cùng tôi gặp Anh khoảng vài năm trước khi Anh chết.

Tôi không nhớ rõ năm nào, tôi nghĩ là năm 1975. Sau khi gặp Anh tôi ra về. Trời lạnh và mưa. Tôi không mặc áo ấm vì tôi đến bằng máy bay từ miền Nam California ấm áp. Elvis choàng cho tôi chiếc áo khoác mầu nâu nhạt của Anh. Tôi nhận thấy việc tặng đồ đối với Anh gần như tự động. Hầu như Anh không bao giờ để ý đến. Trước khi quen Elvis tôi rất dè dặt. Khi gặp Anh, tôi nhận thấy nhược điểm này. Anh có lối cư xử làm người ta thấy dễ chịu. Cách ăn nói của Anh cũng vậy. Elvis làm tôi không còn dè dặt, chiếc áo là món quà đặc biệt với tôi, gợi cho tôi nhớ lại lời cổ nhân nói bè bạn có thể cởi áo cho nhau.

Tôi mua một cái túi nhựa để treo áo này trong tủ áo. Từ khi có chiếc áo tôi đã đổi chỗ ở ba lần và mỗi lần dãn nhà, chiếc áo đều được tôi đem theo về chỗ ở mới. Cái chết của Elvis như cả tấn gạch đè nặng lên tôi. Tôi được tin này sau hôm Anh chết. Tôi ở nhà cả ngày hôm đó viết thư và nghe nhạc của Anh. Buổi sáng khi đồng hồ báo thức vừa ngừng reo, tôi mới nghe tin loan báo Anh chết hôm qua.

Thật là kỳ dị, trước đây hai ba ngày tôi thoáng có ý nghĩ là tôi đến gặp Elvis. Tôi biết Anh không được khoẻ. Ý nghĩ thoáng qua trong đầu tôi Anh không sống mọi được và tôi nên lại thăm Anh. Ðúng là điều kỳ quặc tôi sợ Anh chết hai ngày trước khi Anh chết? Elvis chết làm tôi ngơ ngẩn. Tôi bị giao động. Thỉnh thoảng đôi tay tôi như run lên. Tôi lo lắng về sức khoẻ của tôi, tôi sợ hãi cái chết suốt trong sáu tháng trời. Elvis hình như bất tử. Anh là người chết đầu tiên mà tôi biết.

Bà nội, Bà ngoại tôi vẫn còn sống. Tôi không được biết ông ngoại ông nội tôi vì các cô mất trước khi tôi ra chào đời. Elvis là người thứ nhất tôi biết rõ là chết. Trong khoảng sáu tháng tôi sợ cái chết đến hết hồn. Trong thời gian này chiếc áo choàng ít được tôi dùng đến. Chỉ một tuần chiếc áo đã hai lần rơi xuống sàn tủ trong lúc tôi đi làm. Chưa bao giờ áo này rơi như vậy thế mà chiếc áo rơi hai lần trong một tuần. Tôi không thể biết rõ thời gian là bao lâu sau khi Elvis chết.

Có lẽ chừng một tháng nhưng chắc chắn không quá hai tháng. Lần đầu thấy chiếc áo rơi, tôi có cảm giác sợ sệt. Thành thật mà nói tôi đã tự hỏi có phải Elvis từ bên kia thế giới đang cố làm tôi chú ý đến không. Sau lần thứ hai tôi lấy túi nhựa ra và treo áo vào tủ. Tôi nhớ rõ là vào tháng 11, cái áo thực sự hoạt động. Áo rơi khỏi mắc 3 lần thượng tuần tháng 11, một lần tôi nhìn thấy áo đang rơi, lúc đó tôi đúng cách độ 5 feet. Lần này là ban ngày. Tôi không thể tưởng tượng nổi làm sao cái áo có thể rơi như thế. Thật là kỳ dị.

Không mấy người biết nguyên nhân nào tôi có cái áo kể cả mẹ tôi và em gái tôi. Tôi hiểu là nếu có người biết xuất xứ của chiếc áo thể nào họ cũng đánh cắp, tôi chắc chắn như vậy. Tôi biết có một người khoe trong quán rượu là ông ta có một tập dĩa gốc của Elvis với nhãn hiệu mặt trời. Không đầy một tuần lễ sau, nhà ông bị đột nhập và tập dĩa bị mất trộm. Bạn không thể để cho người ngoài biết bạn có những vật lưu niệm của Elvis, nếu bạn muốn giữ.

Trong túi bên phải của chiếc áo còn sót lại vài mảnh khăn giấy lau mặt và một đồng xu. Tôi bật cười - một đồng xu trong túi áo của một ông triệu phú! Khăn giấy và đồng xu vẫn còn nguyên trong túi. Tôi chưa bao giờ lấy ra. Tôi bị khủng hoảng tinh thần từ khi Elvis chết nên tôi đã tìm một người đến ở chung. Người này tên Mary, quê ở Oklahoma. Mary đến đây để làm việc cho chánh phủ. Tôi sợ hãi có người xâm nhập vào phòng tôi và thấy tôi có một mình nên tôi đã để Mary ở chung và chia bớt tiền nhà với tôi.

Ðây là lần duy nhất tôi cảm thấy sợ hãi sự cô đơn khoảng 6 tháng sau khi Elvis chết. Mary dời tới tháng Giêng. Tháng 11, chiếc áo như biết hoạt động, rơi 3 lần. Ngày 20 tháng 11 tôi tỉnh dậy giữa đêm khuya. Cái đèn ngủ ở ngoài hành lang phía ngoài phòng ngủ chiếu ánh sáng thẳng vào cái tủ đóng chìm trong tường để treo quần áo. Tủ này có hai cánh của kéo, một cánh thì được kéo hết về một phía, phía tủ mở là phía treo chiếc áo.

Tôi không biết sao tôi lại thức giấc giữa đêm khuya và nhìn về phía cái tủ. Tôi cố tập trung đôi mắt nhìn vào cái tủ vì tôi không tin cái gì mà tôi đang thấy. Cái tay áo của chiếc áo choàng chuyển động, tay áo co lên rồi duỗi xuống. Ðó là tay áo phải. Tôi biết rõ là tay phải theo cách treo của áo. Tôi hoảng vía. Tôi cố cử động mà không nổi. Tôi như bị tê liệt. Tôi không biết là bao lâu. Có thể 10 phút, cũng có thể 30 phút. Thỉnh thoảng cái tay áo co lên từ từ rồi lại buông xuống. Buổi sáng, thức dậy tôi thấy chiếc áo vẫn còn treo trên mắc. Lần này chiếc áo không rơi. Tôi chưa bao giờ thấy chiếc áo chuyển động như lần đó cả.

Tôi cũng chưa bao giờ kể cho Mary biết chuyện về chiếc áo. Vào tháng Hai một người đàn bà đến ở một căn phòng dưới hành lang của chung cư. Tôi có biết bà ta. Tên Bà là Alice. Bà là người rất chú trọng đến siêu linh. Bà ta đã đưa tôi đến dự một cuộc hội về siêu linh tại Hoa Thịnh Ðốn. Một hôm, ngồi uống trà với bà tại căn phòng của bà tôi đã kể câu chuyện chiếc áo cho bà nghe nhưng tôi chỉ nói áo này là do một người bạn có tặng tôi.

Tôi không nói áo này của ai cả. Bà lên căn phòng tôi và nhìn xung quanh. Bà bảo tôi bà có thể đoán về chiếc áo này. Bà nới áo này của một người đàn ông tinh thần rất cao nhưng chết yểu. Tôi rất ngạc nhiên và nói là bà đoán trúng. Bà nói bà nghe thấy nhạc rất hay chung quanh chiếc áo. Tôi thì không nghe thấy gì cả, chắc chắn như vậy, nhưng bà ta nói đúng là nhạc này của người đàn ông chết yểu.

Sau đó một chuyện kỳ lạ nữa lại xảy ra với chiếc áo. Vào cuối tháng Hai, tôi đẩy chiếc áo qua một bên để có thể mắc thêm quần áo. Khi tôi cầm nơi cổ áo tôi thấy cổ áo ướt, cổ áo bị ướt cả. Không có lý cái áo choàng này chung quanh lại bị ướt. Tôi lo sợ. Mary không thích Hoa Thịnh Ðốn nên dời đi vào đầu tháng Ba. Tôi lại sống một mình, lại càng thêm lo lắng, tôi sợ cái chết, tôi vẫn sợ chiếc áo.

Ngày 21 tháng Ba, một giấc mộng đến với tôi. Tôi mơ thấy tôi và Elvis đi qua những lùm cây. Ðây là đồng quê, một miền rất đẹp. Chung quanh là những dẫy núi cao xanh thẳm. Trời xanh trong tuyệt đẹp. Tôi có thể nhìn thấy các con chim đủ mầu sắc như mầu sắc của các cầu vồng bay lượn chung quanh. Chúng tôi tản bộ trên một con đường nhỏ. Chung quanh chúng tôi đủ mọi loại hoa đẹp muôn mầu sắc đang đua nở. Elvis cầm tay tôi và chúng tôi đi sát bên nhau. Giấc mơ này giống như thật.

Khi tôi tỉnh dậy tôi liền ghi lại tất cả. Chúng tôi đi qua một cái cầu đá bắc qua con suối nhỏ. Elvis nói chuyện với tôi. Tôi đã ghi lại tất cả những gì Anh nói. Chúng tôi ngồi trên cầu đá. Anh cầm tay tôi và siết chặt tôi vào lòng Anh. Anh nói: "Janice à, em có vẻ ngần ngại, phải không em? Em còn nhớ không chúng ta đã cùng nhau trò chuyện nhiều lần về cái chết. Chúng ta có muốn cùng nhau chung sống sau khi chết không. Anh cố gắng nói em biết qua chiếc áo choàng, em yêu dấu nhưng em quá sợ hãi. Việc không thành. Anh muốn nói cho em biết chúng ta sẽ sống cùng nhau sau khi chết. Thôi em đi và sống nhé."

Anh ôm tôi thật chặt và nói câu từ giã. Rồi Anh mỉm cười, nụ cười thật dịu dàng vốn dĩ của Anh và cởi chiếc áo choàng Anh đang mặc trong giấc mộng và đắp lên mình tôi. Cái áo này làm bằng một loại vải giống như lụa. Áo mầu vàng thật đẹp. Ðến đây giấc mộng chấm dứt. Tôi tỉnh dậy và lập tức viết ngay tất cả xuống giấy. Từ ngày 21 tháng Ba năm 1978, tôi không còn nghĩ đến cái chết nữa. Giấc mộng đã làm tôi khoẻ hơn. Chiếc áo choàng vẫn trong tủ áo. Tôi không còn sợ nó nữa. Tôi sẽ giữ nó mọi mọi. Elvis Presley lúc nào cũng ở trong thâm tâm tôi."

Vì tôi chỉ ở Hoa Thịnh Ðốn có hai ngày để dự một cuộc hội nghị về nghề nghiệp, tôi không có đủ thì giờ để đến phòng Janice xem chiếc áo. Tôi cảm ơn cô đã cho tôi chia sẻ chứng nghiệm riêng tư của cô. Tôi chưa bao giờ được nghe những chuyện như thế trước đây. Tôi cũng nói cho Janice biết chứng nghiệm mà cô nằm trên giường không cục cựa được trong khi nhìn thấy cái áo chuyển động gợi cho tôi trường hợp y khoa rất hiếm gọi là "tê liệt trong khi ngủ". Hiện tượng này rất là hiếm, người trong trường hợp này là người nhậy cảm đang trong tính trạng lo âu, đang bị đè nén đúng như tình trạng của Janice.

Những người bị bệnh này lúc thức dậy rất tỉnh táo; tuy nhiên vẫn thấy bắp thịt như tê liệt và cảm thấy lo âu và sợ sệt. Ðôi khi tình trạng này cũng liên hệ đến cái gọi là "thùy miên mộng ảo", những hình ảnh sống động hiện ra trên thế giới như thật. Có lẽ việc xảy ra cho cô đêm đó có thể là một giai đoạn của bệnh "tê liệt trong khi ngủ" với những hình ảnh sống động của chiếc áo hậu quả là một giấc mộng trong khi thức. Tôi không có luận giải về chiếc áo rơi, tuy nhiên tôi bình luận là rõ ràng giấc mộng đưa đến quyết định trong việc tiếc thương Elvis mà cô đang trải qua trong thời gian ấy.

Janice là một thiếu phụ trẻ, thông minh, và tự tin. Chứng nghiệm quả không còn nghi ngờ gì nữa đã khiến Janice thành một người hạnh phúc hơn. Nàng cả quyết là nàng hàm ơn nhiều tình bạn mà Elvis Presley đã dành cho nàng.


NHỜ CA SĨ ELVIS PRESLEY, TÌM THẤY ÐỨA CON BỎ NHÀ RA ÐI

Harold Welch là cảnh sát viên của một thành phố nhỏ tại Georgia có hơn 15 năm. Anh là người to lớn lực lưỡng có vẻ bướng bỉnh. Anh thường nói anh rất hãnh diện được là con trai của một công nhân hãng dệt. Anh là người lịch lãm, ăn nói mềm mỏng khó có thể hình dung nơi anh một chứng nghiệm kỳ lạ về siêu linh. Khi kể lại chuyện kỳ lạ của mình, anh rất trung thực, mô tả các biến chuyển chính xác, không thêm bớt mầu mè và rất ít giải thích. Anh nói chuyện với tôi trong một phòng khách nhỏ, không có cửa sổ của một tòa nhà gạch vừa dùng làm Tòa Thị Sảnh, vừa dùng làm Trạm Cảnh Sát.

"Chuyện xảy ra chắc chắn vào tháng Ba Năm 1982. Thằng con trai út tên Tony của tôi đã gây cho tôi ít nhiều rắc rối. Nó giao du với bọn côn đồ và cả bọn đã bị bắt trong một cửa tiệm dưới phố. Có người tin cho vợ chồng tôi biết nó hút cần sa. Tôi thì chưa bao giờ gặp. Trước mặt các con tôi đã thề là sẽ thẳng tay trừng trị nếu bắt gặp đứa nào phạm tội ma túy và tôi còn muốn pháp luật cứng rắn với nó như với bất cứ ai khác.

Tony là một đứa trẻ chưa bao giờ phạm lỗi lầm nào cả. Nó là một đứa bộ tốt nhưng lại giao du với bọn xấu. Ðôi khi nó không về nhà. Có một thời gian, chúng tôi không thể nào kiểm soát nổi nó. Tới đầu tháng Hai Năm 1982, chúng tôi thật sự phải đương đầu với nó. Nó đang học cấp II, Trung Học. Ðiểm học tập của nó xuống thấp dưới hẳn cái khả năng của nó. Năm đó vợ tôi giải phẫu lưng và nằm điều trị tại bệnh viện 1 tháng, sau đó phải tĩnh dưỡng ở nhà thêm một thời gian nữa. Cứ mỗi tuần trong nhà lại xảy ra một hai lần cãi vã đôi khi hòa lẫn nước mắt về điểm học tập, về sự say sưa và về đám bạn bè của nó.

Ngày 3 hay ngày 4 Tháng Hai, nó đi chơi đến 3 giờ sáng mới về và say rượu. Vợ chồng tôi lo sợ đi tìm nó khắp nơi, suốt hai tiếng đồng hồ mà không thấy nó. Khi nó về, tôi nổi nóng, chửi mắng nó thậm tệ, lẽ ra tôi không nên nặng lời như vậy. Bất cứ người cha nào cũng phải làm như tôi thôi. Bốn năm ngày sau, nó không nói với chúng tôi một lời. Hễ ở nhà là vào phòng riêng nghe nhạc. Tony rất thích Elvis Presley và các nhạc sĩ dân ca. Nó không thích loại kích động nhạc giật gân như phần đông thanh niên thời nay. Lúc nào nó cũng chỉ Elvis. Phòng nó treo đầy những bảng quảng cáo Elvis. Tôi cũng muốn như vậy; thà vậy còn hơn là nghe các băng nhạc cuồng tấu nặng mùi ma túy.

Tony biết tất cả về Elvis. Tôi thì không. Lần gần gủi nhất với Elvis là khi tôi được gọi đến để tăng cường an ninh cho cuộc trình diễn của Anh tại một thành phố gần đây. Tôi không bao giờ tìm cách đến gần Anh và cũng chưa gặp Anh bao giờ. Tony có ý định đến California để đóng phim. Nó đã dành dụm được số tiền trên hai nghìn đồng. Một tuần lễ sau ngày tôi nổi cơn thịnh né, Tony bỏ nhà ra đi không nói một lời. Nó đi biệt tăm.

Tôi đã ở trong nghề cảnh sát 20 năm. Tôi biết các bậc cha mẹ không thể làm gì hơn được gặp trường hợp như Tony của tôi. Vợ tôi đau buồn khóc suốt hai tuần lễ. Còn tôi thì hút thuốc hết điếu này đến điếu khác. Tôi nghiện thuốc lá từ năm 12 tuổi nhưng tôi đã bỏ vì tôi bị sưng phổi trầm trọng và khó thở. Khi Tony bỏ nhà đi, tôi hút trở lại 3 gói một ngày. Tôi chắc chắn Tony đi California. Tôi cũng biết những đứa trẻ lang thang nơi đó khó mà có cơ hội. Tôi hiểu rằng nếu nó ở đấy lâu, tiền sẽ hết, nó sẽ sa vào chỗ xấu xa. Ðứa con trai lớn của tôi tên Harold Jr làm ở Nha Cảnh Sát Atlanta, có nhiều kinh nghiệm tìm những trẻ mất tích. Tôi và Harold Jr quyết định đi Los Angeles để kiếm Tony.

Tony bỏ đi Ngày 11 Tháng Hai. Ngày 3 Tháng Ba tôi và Harold Jr đáp máy bay xuống Los Angeles. Trong thời gian này, Bác Sĩ cho vợ tôi uống thuốc ngủ vì vợ tôi quá lo lắng cho Tony mà mất ngủ. Cứ mỗi lần điện thoại reo là vợ tôi lại khổ sở. Cuối cùng tôi phải ngủ ngoài phòng khách và mang theo cái điện thoại để vợ tôi có thể ngủ. Tôi ngủ trên cái ghế sự pha để trả lời điện thoại cho dễ. Phần lớn là các điện thoại gọi đến cho các đứa khác đang còn ở chung với chúng tôi. Tôi rất mong Tony gọi về.

Vào đêm ngày 1 Tháng Ba, tôi đang ngủ trên sự pha trong phòng khách thì nằm mơ thấy Elvis Presley. Trong giấc mộng, Elvis vào văn phòng tôi. Anh nói Anh biết vài tin tức về Tony. Tôi nhớ Anh nói: "Thưa ông, tôi lo lắng cho Tony, Tony rất ái mộ tôi. Tony đang ở Los Angeles, tôi không thể đến với nó được". Elvis mặc quần áo thường, khoác ngoài cái áo choàng mỏng của cảnh sát. Elvis cho tôi xem cái thẻ. Tôi có treo một tấm bản đồ thành phố trên tường ngay sau bàn giấy, nhưng trong giấc mộng thì lại là tấm bản đồ thành phố Los Angeles.

Anh chỉ cho tôi vài con đường nhưng chưa bao giờ tôi tới Los Angeles nên khó mà nhớ được tên các con đường đó. Cố gắng hết sức tôi cũng không thể nhớ tên một con đường nào. Elvis đành chịu. Anh bắt đầu nói với tôi: "Hãy nhìn, Tony đang ở trong một cái nhà có phòng cho thuê". Rồi Anh chỉ cho tôi quang cảnh. Một đường phố ngắn có một nhà thuốc tây ở góc đường và trước mặt là một tiệm ăn nhỏ.

Ðột nhiên tôi và Elvis ở ngay trên con đường phố đó và đi bộ xuống, Mọi thứ như mờ mịt, tôi không nhìn rõ mấy. Elvis cố gắng chỉ cho tôi để tôi có thể nhận được. Elvis nắm cánh tay tôi và lay tôi. Anh nói: "Nhìn đây ông, ông phải nhìn kỹ. Rất là quan trọng đấy ông". Anh chỉ tôi một căn nhà có, một căn nhà tồi tệ. Elvis nói: "Ông à, con ông đang ghiền ma túy đấy, ông phải giúp đỡ nó". Tôi có thể nói là Elvis cố gắng chỉ cho tôi cái nhà có. Ðó là một căn nhà hai tầng. Tôi thấy một con mèo trên thềm đang cố vào nhà. Hình như con mèo của căn nhà ấy. Con mèo mầu vàng có sọc.

Elvis cố gắng chỉ cho tôi tên con đường nhưng tôi không tài nào nhớ được. Elvis vẫn giống như trong hình. Trong giấc mộng tôi thấy Anh cao chừng khoảng 6 feet và chừng 30 tuổi. Tôi thấy Anh rõ ràng nhưng chung quanh Anh thì mờ ảo. Tôi cố tập trung nhận diện căn nhà nhưng tôi chỉ thấy qua làn sương mù. Tôi cảm ơn Anh vì sự quan tâm của Anh. Tôi tỉnh dậy, đầu đau và tai ù. Bấy giờ ông có thể nghĩ tôi là người mất trí. nhưng tôi, tỉnh dậy, tôi biết tôi sẽ tìm được Tony. Giấc mộng vẫn ám ảnh tôi cả ngày hôm sau. Ðiều tôi ngạc nhiên là tấm thẻ cảnh sát. Tôi vẫn biết Anh rất thích giúp đỡ an ninh cảnh sát. Trước kia, chưa bao giờ tôi nằm mơ thấy Elvis. Giấc mộng hầu như thật.

Harold Jr và tôi đáp máy bay xuống Los Angeles ngày 3 Tháng Ba. Chúng tôi bắt tay vào việc ngay. Tôi liên lạc với các nhân viên an ninh cảnh sát địa phương. Họ sẵn sàng cộng tác. Tôi nới chuyện với một chuyên viên về vụ này. Ông ta chỉ cho tôi những địa điểm mà các em thường tụ tập. Chúng tôi đưa hình của Tony, Chúng tôi gặp một số người tại các chỗ này xong không một ai nhớ là đã nhìn thấy Tony. Harold Jr thuê một chiếc xe hơi. Chúng tôi đến tất cả những nơi do chuyên viên cho biết. Ngày 9 tháng 3 tôi đang lái xe, chợt nhìn thấy một tiệm bán thuốc tây và trước mặt có một quán nhỏ bán bánh mờ thịt nướng y như tôi đã trông thấy trong giấc mộng.

Bây giờ chắc Bác Sĩ nghĩ: "ông này mất trí rồi" phải không, Bác Sĩ Moody? Không đâu! khi nhìn thấy tiệm thuốc và quán ăn tôi tự nói: "Ðúng là con đường Elvis chỉ cho tôi trong giấc mộng". Lúc này là 2 giờ chiều. Tôi quay sang nói với Harold Jr: "Con à, chúng ta sẽ tìm thấy Tony tại chỗ này." Harold Jr chắc nghĩ rằng ông già này bí mật. Tôi dừng xe sát lề đường ngay trước cửa hiệu thuốc. Tôi sang phía phải con đường và đi xuống chừng nửa quãng tôi nhìn thấy ba căn nhà 2 tầng có. Con đường này trông rất quen thuộc. Bây giờ tôi không biết nói với ông thế nào nhưng đúng là con đường mà tôi và Elvis cùng đi trong giấc mộng.

Tôi không biết trong giấc mộng Elvis chỉ cho tôi căn nhà nào. Tôi nhớ phần rõ nhất là cái cửa chính và mấy bậc thềm. Tôi lại gần nhìn kỹ hơn thì thấy một căn nhà có cửa và bậc thềm giống như trong mộng. Tôi liền đi tới nhà này và gõ cửa. Một bà già chống gậy ra mở. Tôi nhận thấy cửa trước có kính và phần trên có màn trắng giống như tê mỏng che bên trong cửa kính. Những màn này được ngăn ra giống như những màn tôi nhìn thấy trong giấc mộng.

Tim tôi đập mạnh như muốn ra khỏi lồng ngực khi bà cô mở cửa. Bà cô nhìn tôi. Hình như bà cô sợ hãi. Có lẽ bà cô tưởng tôi là người điên chăng. Bà cô hỏi: "Cái gì! Tôi có thể giúp gì cho ông?" Tôi hỏi: "Thưa Cô, Tony Welch có ở đây không?" Bà cô trả lời: "Có". Tôi nói với Bà tôi là cha y, y đã bỏ nhà đi. Tôi phải gặp ngay y. Bà cô chỉ cho tôi phòng của Tony trên lầu trông ra cầu thang. Ðến đây Harold Jr ngơ ngác như trong sương mù. Tôi không nói cho Harold Jr biết giấc mộng. Harold Jr có vẻ bối rối và theo chân tôi lên cầu thang.

Khi tôi lên đến phòng Tony, tôi gõ của. Tôi nghe thấy y nói "Xin cứ vào". Tôi mở của bước và o. Thằng nhỏ đang nằm dài trên giường đọc tạp chí. Tôi nhìn thẳng vào mặt y và mỉm cười. Mặt y trắng bệch như tấm vải trải giường. Nó nói "Thưa Ba, Ba làm sao mà tìm được con thế?" Nó òa khóc và nhảy đến tôi. Tôi đứng đấy ôm choàng thằng nhỏ lối một phút. Tôi cũng khóc. Nó nói: "Thưa Ba, con muốn trở về nhà."

Chúng tôi xếp đồ dùng cho nó. Tôi trả tiền nhà cho bà cô. Khi chúng tôi sắp sửa bước ra tôi hỏi bà cô: "Thưa cô, cô có nuôi mèo không?" Bà cô trả lời "Không, tôi không nuôi mèo." Tôi hỏi bà cô cô có thấy một con mèo vàng có sọc ở lối xóm không. Tôi muốn biết về con mèo mà tôi trông thấy trong giấc mộng. Tôi chắc chắn con mèo đó ở đâu đây. Bà cô trả lời bà cô không thấy con mèo nào như vậy. Bà cô không hỏi tôi tại sao tôi muốn biết. Nhưng theo hành động của tôi và lối nhìn của Harold Jr chắc bà cô tưởng chúng tôi thuộc loại điên khùng.

Trên xe về khách sạn, Harold Jr và Tony không hỏi tôi sao tôi lại biết. Tôi không bao giờ kể cho chúng hay. Thực ra tôi cũng cảm thấy khó nói với các con tôi là Elvis chỉ đường cho tôi trong giấc mộng. Tôi giữ kín trong lòng. Harold cho rằng tôi tìm được là do tin tức của một cảnh sát viên thuộc Nha Cảnh Sát Los Angeles, và tôi cũng không muốn phổ biến nguyên do tôi đã thành công. Tôi không nói về Elvis, những gì Anh đã đến với tôi.

Ðêm đó tại khách sạn, tôi và Tony suy nghĩ về sự may mắn. Tony nói: "Thưa Ba, có một điều rất ngộ, con đã nằm mơ thấy Elvis hai lần. Trong cả hai giấc mộng Elvis bảo con là Ba sẽ đến đón con về. Anh cũng nói Anh lo lắng cho con và Anh sẽ giải quyết được." Tôi bằt đầu khóc khi nghe thấy vậy, nhưng tôi vẫn chưa nói cho con tôi về giấc mộng. Tôi vẫn chưa nói đến Anh, nhưng tôi đã thấy thần kinh căng thẳng. Tôi sẽ nói về Anh một ngày gần đây. Quả là đúng như trong giấc mộng Elvis nói Tony ghiền ma túy. Chúng tôi đã cố gắng cho Tony bỏ ma túy. Tony đã vượt qua, và rất khoẻ mạnh. Mọi việc đều tốt đẹp.

Tôi không hiểu sao tôi lại nằm mộng như vậy. Trước đây cũng như sau đó không bao giờ có những giấc mơ như thế nữa. Tôi đâu phải là người không biết suy nghĩ. Tôi phải đứng trên cương vị việc là m. Tôi chưa bao giờ dính dáng tới những chuyện siêu linh. Vài năm trước đây. tại một thành phố gần đây, có một vụ giết người rất sôi nổi. Ðủ loại giấy tờ. Họ đã mang các nhà siêu linh đến để giúp đỡ. Tôi tự nghĩ đó chỉ là lường gạt. Bây giờ tôi không biết nghĩ sao. Với tôi hình như Elvis Presley lo âu cho con tôi nên Anh đã đến bằng giấc mộng để giúp đỡ tôi. Tôi không biết nghĩ gì hơn nữa."

Câu chuyện của Harold Welch là một câu chuyện khó khăn trở ngại nhất mà tôi gặp phải. Nếu những dữ kiện mà ông nhớ lại đúng như ông trình bầy, câu chuyện như thách đố sự giải thích tầm thường. Harold là một người thành thực đáng tin cẩn, có lý trí, không phải loại người có khuynh hướng ngông cuồng. Chính giấc mộng là động lực tâm lý quan trọng. Theo cách mà Harold mô tả Elvis trong giấc mộng, Elvis xuất hiện lo âu cho Tony cũng như Harold trong lúc nằm mộng là một sĩ quan cảnh sát lo âu cho nghề nghiệp của mình. Sự khó khăn do Evis ám chỉ trong giấc mộng là làm sao báo cho Tony biết sự trở ngại của Harold trong việc liên lạc với con.

Tuy nhiên, điều huyền bí là chốn xảy ra trong giấc mộng đã biến thành sự thực ăn sâu vào trí nhớ của Harold. Giống như Harold, tôi cũng khó biết phải nghĩ gì!


HILDA WEAVER, NHÀ TÂM LÝ HỌC THẤY THẦN HỒN CA SĨ ELVIS PRESLEY

Hilda Weaver là một nữ Bác Sĩ Tâm Lý Ðiều Dưỡng 30 tuổi, còn độc thân. Trong thị xã, Cô được mọi tầng lớp dân chúng và các đồng nghiệp quý trọng. Cô đã từng nói cô thuộc loại người "bảo thủ" và không mấy để ý đến các hiện tượng siêu nhiên cho đến khi cô đã tự mình chứng nghiệm. Khi Elvis chết được gần 3 tháng, lúc đó cô 28 tuổi Elvis đến thăm cô, thuyết phục cô.

Sau đây là lời cô thuật lại:

"Khi tôi khoảng 10 hay 12 tuổi tôi có gặp Elvis một lần. Tôi nói "gặp" chứ đúng ra lúc ấy Anh đi bên cạnh tôi. Anh nhìn vào mặt tôi và nói: "Chào Em Cưng". Tôi nhớ tôi thật là cảm động. Một em bộ nít như tôi mà tự nhiên được một người đàn ông có cả nửa số phụ nữ trên thế giới ái mộ âu yếm nói chuyện. Ôi thật là cảm động biết chừng nào! Lẽ đương nhiên tôi nghĩ ngay đến việc lấy Anh. (Thật tức cười) Thật là một ý tưởng ngộ nghĩnh! Tôi nhớ mãi tới mấy tháng sau đó và đúng ra cả năm sau không chừng. Có lẽ tôi đã hơi lập dị.

Tôi nghĩ "Khi tôi lớn Elvis có thể cưới tôi, Anh có thể mang tôi theo Anh và chúng tôi sẽ sống bên nhau hạnh phúc suốt đời.(Thật tức cười) Cuộc hành trình thú vị biết bao! Chuyện này đã làm cho tôi khúc khích cười thầm cho đến cả đến bây giờ mỗi lần tôi nhớ lại. Tôi chỉ gặp Elvis một lần duy nhất đó. Thực thà mà nói, trước khi xảy ra việc trên tôi cũng chưa hẳn là người thực sự ái mộ Anh. Tôi chỉ mới xem 1, 2 cuốn phim Anh đóng. Tôi có vài dĩa hát của Anh, như Ông (Raymond A. Moody) thấy, chừng nửa tá tập nhạc của Anh.

Tôi không bị Elvis ám ảnh như những người con gái đồng lứa tuổi. Tôi thuộc loại người đứng đắn, chỉ biết có học; Ông có thể hỏi bạn hữu của tôi. Họ sẽ cho Ông biết là tôi đứng đắn hay không. Ðời tôi chỉ có học đường và sách vở. Thế cho nên tôi vô cùng kinh ngạc khi Elvis đến thăm tôi. Bây giờ Ông thấy việc này như từ trên trời rơi xuống, tuyệt đối không có liên quan gì đến ma quỷ hay thần giao cách cảm. Không, bao giờ tôi cũng có thành kiến thiển cận về trí óc của con người. Tôi nghĩ rằng những chuyện như vậy là do tưởng tượng hay kỷ thị ám thị mà thôi.

Ðó là lý do khiến không bao giờ tôi kể lại chuyện đó cho các bạn đồng nghiệp nghe cũng như tôi không bao giờ muốn nói cả. Mọi người sẽ coi tôi giống như tôi coi các người khác các bệnh nhân của tôi đã từng kể cho tôi nghe những loại chứng nghiệm tương tự như vậy. Rồi việc xảy đến làm tôi cứng họng. Vào buổi chiều tôi đang làm việc trong phòng, tôi viết bài cho một tờ báo chuyên môn. Bài đó cuối cùng đã được đăng. Tốt hơn tôi không cho ông biết bài gì và tờ báo nào bái vì nếu mọi người tìm ra, họ sẽ sợ hãi và chống đối. Họ sẽ không ngạc nhiên khi biết điều gì xảy đến khi tôi đang viết bài này.

Bấy giờ, tôi đang trong phòng làm việc, ngày 17 Tháng 11 Năm 1977. Tôi biết đúng là ngày đó vì sau khi Elvis Presley ra về tôi lấy bút xanh ghi ngày vào cuốn lịch để bàn với chữ "EP (Elvis Presley) bất ngờ đến thăm" Hiện nay tôi vẫn còn giữ cuốn lịch đó. Cắm cúi viết trong phòng làm việc, ngẩng lên tôi chợt thấy Elvis Presley đang ngồi trước mặt tôi trên chiếc ghế bành da mà bệnh nhân của tôi thường ngồi. Thật là sửng sốt biết làm gì đây trong trường hợp này.

Tôi nhận ra Anh và cảm thấy bầu không khí chung quanh tràn ngặp yêu thương, hình như Anh có ý nghĩ không mấy tốt đẹp về tôi. Thật là ngạc nhiên. Tôi nhớ lại lúc đó tôi là người hạnh phúc nhất trên đời. Là một nhà tâm lý giỏi, khôn ngoan, không gì ràng buộc lại giàu có và sống trên mảnh đất đẹp nhất của trái đất. Bởi vậy tôi có thể nói rằng Elvis nhận thấy có cái gì không ổn trong đời sống của tôi, cái đó mà chính tôi cũng không biết nên Anh đang thử giúp đỡ tôi. Chúng tôi đến với nhau, tuy đột ngột nhưng đầy nhiệt tình. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy lúc đó tôi thật vụng về.

Thông thường với các bệnh nhân mới tới, tôi hay hỏi câu: "Tôi có thể giúp đỡ gì cho ông (hay bà) đây?" Nhưng khi đối diện với gương mặt đôn hậu, hào phóng của Elvis presley, tôi lại hỏi: "Anh có thể giúp đỡ gì cho tôi đây?" . Anh mỉm cười, hớn hở, và chắc chắn rất hài lòng. Nhìn gần trông Anh rất trẻ chỉ trạc tuổi tôi vào lúc đó. Anh có vẻ sung sướng. Ðến lúc này thì khả năng phê phán của tôi chợt đến và tôi ngưng ngay sự phân tích. Tôi nghĩ điều này: "Có thể xảy ra? Có thực điều này thật đang xảy ra sao?" Dù vậy khả năng phê phán của tôi chưa lén xén. Tôi vẫn dùng khả năng này từ hồi nào đến giờ rất hiệu quả. Nói đúng ra tôi biết có hơi lợi dụng.

Thật điên rồ khi dùng khả năng phán xét để ngờ vực sự thực mà tôi đang nhìn thấy trước mắt. Tôi thực đang nhìn thấy mà. Tôi thấy Elvis Presley, Anh mặc bộ đồ mầu xanh với các tua rũ xuống trông hấp dẫn nhưng tôi không chú ý mấy về y phục. Ðiều tôi muốn nhấn mạnh là tôi đang nhìn thấy Anh, hơn nữa là đang cùng Anh hòa hợp, đang cùng Anh tác động, và đang có với Anh một sự thân ái, một tình bằng hữu. Tôi cảm thấy tôi như một học sinh, một em gái, một người bạn, tất cả trong cùng một lúc.

Anh bắt đầu trò chuyện với tôi, Anh nói "Missy, Cô có hài lòng với cuộc sống của Cô không?" Khi tôi còn nhỏ, một số người thân trong gia đình gọi tôi là Missy, nhưng từ nhiều năm qua, từ khi tôi ra khỏi trường Ðại Học, không còn ai gọi tôi bằng cái tên này nữa. Câu hỏi này giáng vào tôi theo tục ngữ như cả một tấn gạch nặng. Câu hỏi như vào thẳng tim tôi, tôi trả lời: "Anh là nhà tâm lý giỏi hơn tôi, tuy chẳng bao giờ Anh đến trường." Vừa nói xong, tôi cảm thấy bối rối và hổ thẹn vì mới gặp Anh lại hạ Anh. Nhưng Anh mỉm cười và câu trả lời của Anh làm bầu không khí đang lúng túng trở thành ấm cúng và thuận hòa ngay.

Anh nói: "Tôi đã theo học một nhà trường tốt nhất ". Theo cách Anh nói, tôi nhận là Anh có lý. Sau cùng Anh đã chết để về nơi Thiên Cảnh! Cái gì đã làm tôi nghĩ tôi là người tài giỏi, phải chăng mảnh giấy treo trên tường kia? Tôi hiểu rằng cấp bằng Tiến Sĩ của tôi không còn nghĩa lý. Tôi không thể núp sau văn bằng đó nữa. Trước đây đối với bất cứ ai ngồi tại cái ghế này, thì tôi là Tiến Sĩ, xử dụng văn bằng này để đối phó. Nhưng giờ đây với một người đã chết và người nay đang hỏi tôi điều gì đó trong lòng tôi mà chính tôi không biết.

Tôi trả lời Elvis: "Hài lòng với cuộc sống của tôi à? Ồ! Anh biết rõ về tôi, chính tôi không biết điều đó, tôi không biết đối phó phải không Anh?" Anh yên lặng làm thinh và hiền từ nhìn thẳng vào mật tôi. Tôi bắt đầu thổn thức. Anh hiểu ngay và nói: "Hilda à, Cô phải mở rộng bối cảnh mà Cô đang làm trong đời sống của Cô". Rồi chúng tôi trò chuyện một lúc hết chuyện riêng tư lại đến những chuyện vớ vẩn mà từ trước tới nay tôi chưa hề hé môi cho ai biết cả.

Sau khi chấm dứt câu chuyện tôi hiểu tầm đa hiệu của tư tưởng và trí tuệ con người nếu biết áp dụng, tôi sẽ đem lợi ích đến cho nhiều người khác; tôi phải hiểu tư tưởng và trí tuệ trong tôi và biết khai thác triệt để tối đa. Khi tất cả mọi vấn đề đã ăn sâu vào tâm khảm tôi là lúc Anh phải ra đi, tôi biết là tôi không bao giờ gặp lại Anh nữa vì tôi đang sống ở trần gian. Và tôi cũng chuẩn bị kỹ càng để tiễn Anh đi, điều mà tôi không làm trong khi Anh còn sống đó là tự mình cái mở nhiều hơn nữa cho chính mình cũng như cho những người khác.

Mặt khác tôi hãy còn chưa bộc lộ được hết lòng thương yêu của tôi đối với Anh, và tôi không thể để Anh ra đi một mình. Ðến lúc này tôi nhớ đến một chuyện làm tôi bối rối. Vài ngay sau khi Elvis chết, tôi đọc trên một tờ báo có tin hai phụ nữ trẻ đến chia buồn, đang đứng quanh nhà Elvis, bị xe đụng chết. Tôi xúc động nhiều vì cái chết của hai người đàn bà còn quá trẻ. Khi Elvis từ giã, tôi đem chuyện này nói với Anh và tôi cũng lo lắng phản ứng của Anh hay được Anh có buồn rầu không. Anh trả lời: "Tôi cũng rất buồn về chuyện này. Tôi có mặt ở đó để chào họ và sống với họ khi họ về Thiên Cảnh".

Sau đó tôi hết lo lắng, thêm lần nữa Elvis đã làm cho tôi cảm động với sự hiền từ của Anh. Tôi liền cúi đầu, chắp hai tay như cầu nguyện. Khi tôi ngẩng đầu lên thì Anh không còn nữa. Từ đó tôi không bao giờ nhìn thấy Anh và cũng chẳng bao giờ nằm mơ thấy Anh cả. Trên đây là chứng nghiệm của tôi. Không có thông điệp vũ trụ, không có sự thực uyên thâm, không có giấy tờ ghi lại. Tất cả đều riêng tư rất đầm ấm và riêng tư. Từ đó tôi trở nên sung mãn nghị lực. Tôi thương tất cả mọi người. Ông biết không dù đời có sao đi nữa thì tất cả chúng ta vẫn cần hợp quần.

Chúng tôi còn có rất nhiều thứ mà không có trong sách vở. Không một người bệnh nào hay một đồng nghiệp nào của tôi biết tôi có kinh nghiệm này với Elvis Presley. Mà cũng không ai có thể biết được vì là rất riêng tư như ông đã biết. Cái mà tôi hy vọng là họ nhìn thấy hậu quả nơi tôi. Hậu quả đã giúp tôi cởi mở, đã làm cho tôi có lại cuộc đời hoạt động.

Việc này đã làm cho tôi có được các điều tốt đẹp đó. Sau khi Hilda mô tả chứng nghiệm của Cô, Tôi và Cô đã có một cuộc bàn luận khá lâu. Tôi bầy tỏ ý kiến riêng của tôi. Một số đặc tính đến với Cô rất phù hợp, chứng nghiệm đã thức tỉnh tư tưởng thầm kín của Cô, và thật là rõ ràng Cô cần có một số tình cảm thiết yếu mà từ lâu Cô không để ý tới.

Ðầu tiên, phần Cô, Cô đã không bộc lộ thương tiếc Elvis Presley. Ðáng lẽ Cô cần bộc lộ tình cảm ngay từ khi Elvis chứng tỏ trìu mến với Cô lúc Cô còn nhỏ. Chứng nghiệm với Elvis tại Văn Phòng của Cô có thể giải thích là sự biểu lộ lòng thương tiếc của Cô với Elvis. Thứ nữa là Cô bầy tỏ lòng tiếc thương và sự bối rối về thảm kịch của hai người đàn bà trẻ bị xe đụng chết tại Graceland. Sự xuất hiện của Elvis tại văn phòng đã an ủi Cô phần nào.

Ðiều thứ ba Cô nhận xét là Cô giữ tâm tư thầm kín về mọi mặt của cuộc đời. Ðược biết với các nhà tâm linh học, một người chối bỏ trạng huống của chính mình, giữ tâm tư thầm kín, thì trạng huống đó ít nhiều cũng vẫn còn giữ trong tư tưởng của người ấy. Trạng huống đó có thể biến thành những giấc mơ như thật, cũng có thể là những hình thái của các sự khó khăn hoặc là những khuôn mẫu trong việc giao tế thí dụ như đàn ông cứng rắn lạnh lùng cưới phụ nữ sôi nổi nhậy cảm như để bổ khuyết cho nhau khiến cho đời sống được điều hòa.

Tôi nghĩ có lẽ Hilda đã nén tinh thần đau xót nổi dậy trong ảo ảnh của Elvis, người đã khen ngợi Cô nên hậu quả là làm Cô thức tỉnh cái quan niệm thiển cận của mình. Cuối cùng trước cái ngày định mệnh ấy, Hilda lúc nào cũng sống với sự suy nghĩ khắc khổ. Cô đã từ bỏ các lạc thú bình thường của cuộc đời, Cô rất ít khi vui. Ở mức độ nào đó Cô phải khao khát thú vui. Mặt khác Elvis Presley là một người nổi tiếng về ăn chơi, mê phim ảnh, trượt tuyết, cưỡi ngưạ và những trò chơi giả tưởng.

Với một số người, Elvis Presley là hình ảnh của một người yêu đời. Thật là hợp lý,hình ảnh của Elvis nổi lên từ đầu óc khép kín của Hilda, để bầy tỏ cho Cô biết Cô cần có thú vui cho cuộc đời. Và như thế Cô bắt đầu cho phép mình được hưởng các thú vui sau khi trò chuyện với Elvis. Hilda ngồi bình tĩnh, mỉm cười hoan lạc trong khi tôi tóm tắt lại những sự giải thích có thể có được. Khi tôi nói xong, tôi nhận thấy gần như tự động Hilda thở ra một hơi dài nhẹ nhỏm. Từ từ rồi mọi sự như qua đi, Hình như Cô đang đắm mình trong tình trạng nghỉ ngơi thoải mái và nhìn thẳng và mắt tôi.

Tôi có cảm nghĩ Cô đang xâm nhập tôi. Như thể Cô đang đặt Cô trong hoàn cảnh của tôi. Rồi Cô trở lại bình thường và nhận xét câu trả lời của tôi về câu chuyện. Lời phê phán của Cô thật là khôn ngoan, hiểu biết và lanh lợi, tôi xin ghi nguyên văn: "Raymond, Ông đã bỏ ra nhiều năm nghiên cứu các chứng nghiệm bất thường của một số người, nhưng chính Ông thì chưa có. Ðó là một thất bại. Hãy xem tôi. Tôi không bao giờ lưu ý đến việc đó mà nó lại đến với tôi. Hình như Ông xem có vẻ thèm thuồng và giận tôi.

Ông cần phải tìm kiếm chính nơi Ông để tìm được nguồn cội. Ông sợ hãi đề cập đến những chuyện đó theo qui ước thông thường vì nghĩ rằng chuyện đó không thể xảy ra được. Ông cần phải cởi mở những phần khác của tư tưởng ông. Ông sẽ vui hơn khi làm như vậy." Tôi ngạc nhiên và cảm động về nhận xét của Cô. Rõ ràng là Cô đã hòa nhập vào lời nói và sắc diện của tôi mà chính tôi cũng không để ý đến. Dù gì khi Cô nhận xét về cảm nghĩ day dứt hay khao khát của tôi trong cuộc phỏng vấn với Cô là đúng.

Cuộc đàm thoại với Hilda cũng làm cho tôi lưu ý đến cái giới hạn trong phương pháp giải thích vấn đề siêu linh nếu đơn thuần dựa trên tính chất tâm lý của người có chứng nghiệm. Cũng có thể rằng trong một vài trường hợp chứng tỏ trạng huống của chứng nghiệm đã đưa đến sự đối nghịch không giải quyết được trong tư tưởng của người chứng nghiệm.

Trong một vài trạng huống đem tâm lý mà giải thích của một chứng nghiệm bất thường có thể bắt nguồn từ những đối nghịch bất thường của tư tưởng người giải thích. Vì vậy nên nếu chối bỏ chứng nghiệm của một ngườì khác vì cho rằng nó phản ảnh những bối rối về tâm linh, dường như người đó bắt buộc cũng chối bỏ dự định của mình để giải thích chứng nghiệm nếu sự giải thích ấy phản ảnh bối rối tâm linh của chính mình.


Tỳ kheo Thích Tâm Quang

trích dịch



#276 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/07/2011 - 00:40

KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC GÌ



KHI CHẾT KHÔNG AI ĐEM THEO ĐƯỢC BẤT CỨ GÌ.

"Tất cả lúa, đậu, tài sản, vàng bạc châu báu, tiền của, mọi vật sở hửu đều để lại hết khi người chủ của các thứ ấy chết đi. Người đó không mang theo được bất cứ thứ gì dù lúc còn sống người ấy ôm giữ từng giờ từng phút. Chỉ có cái đi theo người ấy lúc chết, đó là Thân, Khẩu, Ý và những gì người ấy đã làm lúc sống. Tất cả những thứ ấy đi theo để tạo Nghiệp báo cho đời sau mà thôi. Biết được vậy thì khi sống ta phải tạo việc lành, phải biết bố thí giúp người..." (Tương Ưng Bộ Kinh)

Bà Dianne Perry, sinh trưởng tại Anh quốc (người mà sau này trở thành Nữ tu Phật giáo nổi tiếng thế giới, người đã trải qua 12 năm tu khổ hạnh nơi rặng tuyết sơn của Hymalaya) lúc mới 12 tuổi đã có lần thấy một người vô gia cư chết bên gầm cầu. Cảnh sát lục lọi cái xách rách nát của người chết ấy chỉ thấy một cái bát một cái muống và vài đồng xu. Hôm đó trở về nhà, tuy nhỏ tuổi mà cô bé Diane Perry đã hỏi mẹ một câu đầy vẻ triết lý:

"Mẹ ơi! Tại sao người ta chết đi không đem theo được gì cả? Hôm qua con thấy một người chết bên gầm cầu, người ấy rất nghèo, chỉ có cái bát, cái muống và mấy đồng xu. Chỉ chừng ấy thôi mà khi chết người ấy vẫn để lại không mang theo sao?"

Bà mẹ của Diane ngạc nhiên vì câu hỏi lạ lùng ấy và đã trả lời con:

"Không con à! Khi chết không ai đem theo được bất cứ cái gì. Dù Vua chúa, người giàu sang hay kẻ nghèo hèn... một khi đã chết thì không đem theo của cải vật chất nào cả."

Qua câu chuyện trên ta thấy rõ ràng trong thực tế có vô số người giàu có sống trên của cải nhưng khi họ chết đi, hai tay buông xuôi thì họ trở thành tay trắng vì không mang theo được dù một chút của cải vật chất nào. Sự kiện thực tế ấy từ lúc con người xuất hiện trên quả đất cho đến nay đều thấy rõ không ai chối cải. Ấy vậy mà từ xưa tới nay có biết bao người quyết chí làm giàu, lúc nào cũng mong tiền bạc đến với mình không dứt.

Họ sống vì tiền, vui thú vì lo thu nhặt tiền bạc vào cho đầy túi nhưng không bao giờ chấm dứt được cái ham muốn ấy vì lòng tham quá mức. Đến khi xuôi tay thì tất cả tiền bạc của cải ấy đều để lại thế gian còn họ thì nằm dưới lòng đất lạnh. Có biết bao nhà triệu phú, tỷ phú sống trên của cải, có người hằng chục tỷ mỹ Kim, khi chết không mang theo được một cent nhỏ. Ngay khi đang làm giàu họ luôn luôn phải phấn đấu tranh dành, mưu lược để chống chọi lại với những gì bất lợi đến với mình.

Do đó tâm hồn những người giàu có thường bất an hồi hộp, lo lắng mệt trí vì tính toán...không những thế họ thường keo kiệt không dám giúp đỡ ai vì sợ số tiền có được của mình hao hụt đi. Có người, ngay chính bản thân họ cũng không dám ăn tiêu huống hồ là nói đến chuyện giúp đỡ kẻ khác. Ngày nay cũng có nhiều đại phú gia, nhiều người giàu có, tất cả đều bị như thế nhưng không ai chịu tìm hiểu xem mình PHẢI LÀM GÌ LÚC ÐANG CÒN SỐNG TRÊN ÐỜI?

VẬY KHI TA ĐANG CÒN SỐNG TRÊN CÕI ĐỜI NÀY THÌ TA NÊN LÀM GÌ?

Chúng ta có rất nhiều cách làm, nhiều cách hành động và suy nghĩ tốt lành nhưng vì quá bận rộn với cuộc sống đầy bon chen, đầy tham lam, đố kỵ mà ta không thực hiện được. Trước hết là cố gắng bỏ bớt dần "cái Ta" của mình đi. Vì cái Ta mà mình khổ, mà mình Tự ái, lo toan, ích kỷ, tự phụ, sân si, sầu hận. Cái Ta càng giảm thì tình thương bao la dễ nẩy nở.

Tình thương đây không phải là tình thương đầy vị kỷ mà rộng rãi hơn, vị tha hơn. Đó là tình thương đồng loại thương người. Vì mỗi con người "đều là những kẻ đáng thương" mà có khi còn đáng thương hơn mình nữa. Kinh Unanda có ghi câu: "Ví dầu ai có đi khắp bốn phương trời cũng không thấy ai là kẻ đáng thương hơn mình. Ấy vậy là mình thương mình. Mình đã thương mình thì cũng đừng nên làm phiền người."

Ta không những không làm phiền người mà còn phải thương người nữa. Nhờ "tình thương" mà thân tâm con người được an lạc. Khi ta mang tình thương đến cho người khác thì chính là tự mình mang "hạnh phúc" đến cho chính mình. Có thể lúc đầu vì "cái Ta" quá lớn nên ta không thể thực hiện và cảm nhận được điều đó vì khi cho, khi mang tình thương hổ trợ người khác ta thường hay nghĩ lại, hay tiếc rẽ, ân hận nên không cảm thấy được sự hạnh phúc vui sướng đến với mình. Chúng ta hãy theo dõi bài thuyết giảng dưới đây của Đức Đạt Lai Lạt Ma về Tình Thương.

#277 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/07/2011 - 00:46

KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC GÌ

CHƯƠNG HAI

TÌNH THƯƠNG VÀ CON NGƯỜI

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thuyết giảng một bài rất thâm thúy về Tình thương và Con người. Dưới đây là phần dịch thuật của Hòa Thượng Thích Trí Chơn

MỤC ĐÍCH CỦA CUỘC SỐNG

Mục đích của đời sống là gì? Đó là câu hỏi quan trọng mà tôi nghĩ mỗi người trong chúng ta dù trí thức hay bình dân, giàu nghèo hay sang hèn vẫn thường nghĩ tới. Theo tôi, sống ở đời ai cũng mong có được hạnh phúc. Từ khi mới lọt lòng mẹ cho đến lúc già chết, tất cả mọi người đều mơ ước được sống cuộc đời hạnh phúc và không ai thích gặp khổ đau.

Hiện nay nhân loại sống trên trái đất này, đang phải đối dầu với một vấn đề nan giải là bằng cách nào chúng ta có thể xây dựng hạnh phúc cho nhau. Do đó muốn chấm dứt nổi khổ đau triền miên của kiếp người, chúng ta cần phải tìm hiểu làm sao con người có thể tạo dựng mang lại hạnh phúc cho nhau.

LÀM SAO CÓ ĐƯỢC HẠNH PHÚC

Trước hết chúng ta nhận thấy hạnh phúc hay đau khổ đều có hai loại: Thể xác và phần tinh thần. Trong cả hai loại này tâm của chúng ta vẫn làm chủ, ảnh hưởng nhiều đến chúng ta. Trừ khi thân thể chúng ta bị đau ốm hoặc quá thiêu thốn, còn không thì đời sống thể xác vẫn đóng vai trò thứ yếu trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta.

Khi thân thể chúng ta khỏe mạnh và cuộc sống vật chất tương đối đầy đủ thì chúng ta cảm thấy phần nào có hạnh phúc. Tuy nhiên nếu tinh thần chúng ta bị khủng hoảng, dù ít hay nhiều, việc nhỏ hay lớn, chúng ta liền cảm thấy rất đau khổ, và trong lúc cuồng trí, không làm chủ được tinh thần, có thể dẫn chúng ta đến hành động tự sát, hủy hoại đời mình một cách oan uổng.

Do đó, tôi nghĩ việc tìm kiếm một sự sáng suốt bình an nơi tâm hồn thực hết sức quan trọng. Muốn thân tâm an lạc, chúng ta cần phải phát triển tình yêu thương và lòng từ bi.

Chúng ta nên nghĩ đến hạnh húc của kẻ khác, đừng gây đau khổ cho bất cứ ai. Khi chúng ta ban bố tình thương, cứu giúp tha nhân tức là chúng ta đã tự giúp mình có được chân hạnh phúc. Thực hành đức tánh khoan dung, tha thứ và mở rộng lòng yêu thương mọi người, tức khắc tâm hồn của chúng ta sẽ cảm thấy thanh tịnh và an lạc.

Điều này cũng giúp chúng ta tận diệt hết mọi nổi lo âu, bất an và phiền não. Nó mang lại cho chúng ta sức mạnh tinh thần, lòng tự tin để khắc phục, vượt qua những nổi khó khăn, bất như ý mà chúng ta thường gặp phải trong cuộc đời.

Sống ở thế gian này, có ai trong chúng ta chỉ gặt hái thành công mà không thất bại, gặp toàn chuyện may chứ không có điều rủi? Trong mọi hoàn cảnh, mỗi người đều phải đối phó với những khó khăn riêng. Khi gặp gian truân nếu chúng ta không cố gắng khắc phục vượt qua, chúng ta sẽ thất bại và đâm ra tuyệt vọng, chán nản.

Muốn thành công, trái lại chúng ta nên nghĩ rằng không riêng chúng ta mà tất cả mọi người trên thế gian đều gặp phải những điều bất hạnh. Nhờ ý thức được như vậy mà tâm hồn chúng ta cảm thấy vơi bớt đi phần nào niềm đau khổ, và tinh thần chúng ta trở nên vững mạnh với quyết tâm chiến thắng mọi gian lao thử thách để thành tựu sự nghiệp vẻ vang trong cuộc sống.

Khi nhận thức được sự đau khổ của người khác như của chính mình, chúng sẽ cố gắng tu tập phát triển lòng từ bi thương yêu giúp đỡ tất cả đồng loại thoát khỏi mọi khổ đau, và do đó tâm hồn chúng ta cảm thấy an lạc và hạnh phúc.

CHÚNG TA CẦN TÌNH THƯƠNG

Tại sau tình thương mang lại cho con người nguồn hạnh phúc lớn lao nhất? Lý do đơn giản vì bản chất của chúng ta là hâm mộ, yêu chuộng tình thương và không thích sự ganh ghét oán thù. Nhân loại cần đến tình thương để tồn tại. Con người cần sự giúp đỡ nương tựa vào nhau để sống còn.

Cá nhân nam hoặc nử, dù có khả năng tài giỏi đến đâu, nếu bỏ một mình họ cũng không thể tự sống được. Trong bất cứ hoàn cảnh, tình huống nào giàu sang phú quý hay thiếu thốn nghèo hèn, khi trẻ trung mạnh khỏe hay già nua đau ốm, con người vẫn phải sống nhờ vào sự giúp đỡ của kẻ khác.

Cho nên, tinh thần tương thân tương trợ rất cần thiết cho mọi người trong xã hội. Không những con người mà ngay cả loài vật vẫn phải sống hợp quần. Tất cả những cảnh vật ngoại giới, từ hạt bụi nhỏ bé đến quả đất to lớn chúng ta đang sống, từ sông ngòi biển cả đến núi từng đồng ruộng, từ đám mây trên trời đến những cành hoa trong vườn đều có tương quan, tương duyên với nhau.

Nếu không có sự hổ tương, liên hệ nhân quả, vạn vật sẽ không thể phát sinh hay tồn tại. Vì con người cần nương vào sự giúp đỡ của kẻ khác để sống còn, đó là tình thương là chất liệu thiết yếu cho cuộc sống của chúng ta. Và chúng ta có trách nhiệm trong hành động tạo nên hạnh phúc hoặc gây đau khổ cho mọi kẻ khác.

Chúng ta nên tìm hiểu bản chất thực sự của chúng ta là gì? Chúng ta không phải là sản phẩm của máy móc. Nếu chúng ta là những vật dụng máy móc thì các đồ dùng máy móc này đã có thể thỏa mãn mọi nhu cầu và dứt trừ được hết những nổi khổ đau của chúng ta.

Bởi lẽ chúng ta không phải là những sinh vật được cấu tạo thuần túy bằng vật chất cho nên thực là điều sai lầm nếu chúng ta mong tìm hạnh phúc của mình ở bên ngoài con người, mà trái lại muốn có hạnh phúc chân thật chúng ta cần thấu hiểu nguổn gốc và bản chất đích thực về con người để chúng ta có thể khám phá ra điều mà chúng ta ước mong có được.

Chúng ta hãy tạm gác qua một bên câu hỏi quá phức tạp khó giải đáp về sự diễn tiến cũng như tạo dựng nên thế giới của chúng ta đang sống, nhưng chúng ta có thể đồng ý với nhau rằng mỗi chúng ta là chính do cha mẹ của chúng ta sinh ra. Như vậy, sở dĩ có chúng ta không phải chỉ hoàn toàn do lòng ham muốn thỏa mãn tình cảm mà có bởi cha mẹ của chúng ta thực sự mong muốn có một đứa con.

Nói khác, trước khi sanh con thì cha mẹ đã ý thức rõ trách nhiệm là phải yêu thương, chăm sóc và dạy dỗ đứa con của mình nên người, chứ không thể bỏ mặc để cho nó hư hỏng. Cho nên chính do tình thương của cha mẹ đã dẫn đến sự chào đời của mỗi chúng ta hơn nữa ngay từ lúc còn ở trong bào thai, chúng ta đã cần đến sự chăm sóc của người mẹ.

Và theo các nhà khoa học thì thai nhi không những chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi thể xác mà còn về mặt tinh thần của bà mẹ. Nếu trong lúc mang thai, người mẹ gặp những chuyện phấn khởi vui vẻ hay ho lắng buồn phiền đều gây ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến tinh thần của em bé sắp sinh ra sau này.

Ngay vào lúc mới lọt lòng, đứa trẻ củng rất cần thiết đến tình thương của bà mẹ. Em bé nhờ sữa mẹ lúc ban đầu mà lớn lên. Mặc dù ngày nay có sữa bột để nuôi con, sữa mẹ vẫn và nguồn sống căn bản tự nhiên của các hài nhi. Đứa nhỏ ngậm vú mẹ lúc sơ sinh nói lên tình mẹ thương con thật lai láng "như nước trong nguồn chảy ra". Nếu người mẹ không thực lòng yêu thương con mình hay nổi cơn giận dữ khi con khóc phá thì dòng sữa mẹ sẽ ảnh hưởng bị tắt nghẻn không chảy ra bình thường được.

Lại nửa, cơ thể và nhất là bộ óc của em bé trong thời gian từ lúc mới sinh cho đến khi được ba hay bốn tuổi sự chăm sóc kỹ lưỡng của bà mẹ thực hết sức quan trọng để giúp cho thân thể đứa trẻ được lớn mạnh và phát triển đầy đủ. Nếu thiếu sự chăm sóc, yêu thương và nuôi dưỡng của bà mẹ, thân thể của em bé có thể chậm lớn, nhất là bộ óc của nó không thể phát triển bình thường được:

Lý do bởi đứa trẻ rất khó lớn khôn nếu không có sự chăm sóc của người lớn, cho nên tình thương của bà mẹ là chất liệu nuôi dưỡng quan trọng nhất. Sức khỏe và hạnh phúc của các trẻ em hoàn toàn tùy thuộc vào tình yêu thương nuôi nấng và dạy dỗ tận tình của các bà mẹ.

Trong xã hội Âu Mỹ ngày nay, có nhiều đứa trẻ đã lớn lên trong những gia đình thiếu hạnh phúc. Một đứa trẻ thiếu sự chăm sóc hướng dẫn của người lớn, và cha mẹ không biết yêu thương con cái mình kết quả là chúng sẽ không bao giờ nghĩ tưởng đến cha mẹ. Từ hành động không biết chăm sóc, thương yêu cha mẹ những đứa trẻ đó sau này lớn lên vào đời, chúng sẽ không có lòng yêu thương đồng loại.

Thực là điều đáng buồn. Trẻ em lớn lên được cha mẹ gởi đến trường học lúc ấy đứa trẻ cần sự giáo dục hướng dẫn của thầy giáo. Ngoài sự dạy dỗ kiến thức phố thông, nếu giáo sư biết rèn luyện cho học sinh có những đức tính tốt như tánh ngay thẳng, tự tin và giúp đỡ người khốn cùng v...v... thì các học sinh này sẽ biết ơn kính mến và giữ một ấn tượng tốt lâu dài trong tâm hồn của mình về ông thầy giáo đó.

Trái lại, nếu vị giáo sư tỏ ra không hết lòng yêu thương, chăm sóc dạy dỗ các em học sinh thì sự mến thương tình cảm giữa chúng với người thầy giáo cùng chóng phai lạt. Tương tự như thế, nếu một bệnh nhân trong nhà thương được chăm sóc hết lòng, tận tình chửa trị của Vị bác sĩ thì chính tình thương này của ông ta sẽ là liều thuốc hữu hiệu nhất giúp cho người bệnh chóng lành, mặc dù ông không hẳn là một bác sĩ giỏi.

Trái lại, cho dù một bác sĩ có tài, nhưng thiếu đạo đức, không thương yêu tận tụy khi chữa trị cho bệnh nhân, khiến cho người bệnh buồn phiền tức giận, do đó không thể chóng bình phục được. Cho nên tình thương, sự hết lòng cứu chữa bệnh nhân của vị thầy thuốc sẽ góp phần lớn trong việc giúp người đau bệnh chóng lành.

Trong cuộc sống giao tế hằng ngày, người ta thích nghe lời nói hòa nhã êm dịu cho dù câu chuyện của ngườn trình bày không hay, ngược lại, một đề tài dù hấp dẫn bao nhiêu đi nữa mà người phát biếu dùng ngôn từ năng nề, thiếu lễ độ nhã nhặn thì chẳng ai muốn nghe. Do đó mọi việc ở đời, từ nhỏ đến lớn, lòng thương yêu, kính mến kẻ khác là điều căn bản tạo nên hạnh phúc cho mỗi chúng ta.

Gần đây, tôi gặp một nhóm khoa học gia Hoa Kỳ, họ cho biết rằng hiện nay có khoảng mười hai phần trăm dân số ở Mỹ đang mắc bệnh tâm thần. Nguyên nhân chính không phải vì thiếu thốn vật chất mà do bởi cuộc sống giữa con người với nhau thiếu thông cảm và tình thương.

Cho nên, như tôi đã trình bày ở trên mặc dù quý vị có nhận thức rỏ điều đó hay không, thì vào lúc chúng ta chào đời tình thương vẫn là chất liệu cần thiết như máu huyết nuôi dưỡng sự sống của chúng ta. Ngay cả tình thương ấy phát xuất từ nơi một con vật, hay kẻ thù của chúng ta thì trẻ nhỏ và người lớn vẫn đều cần đến nó.

SỰ PHÁT TRIỂN TÌNH THƯƠNG

Một số người bảo tình thương và lòng từ bi là những tính cao quý, nhưng rất khó thực hiện. Bởi lẻ thế giới ngày nay, họ lập luận cho rằng không phải là môi trường thuận lợi cho chúng phát triển. Mà bãn tính con người vốn thích làm những việc ác và lòng người chứa đầy sự thù hận và tham sân. Tôi không đồng ý như vậy.

Nhân loại xuất hiện trên quả đất hiện nay đã có từ hàng trăm nghìn năm trước. Tôi nghĩ rằng trong khoảng thời gian này nếu tâm con người hoàn toàn độc ác hung dữ thì dân số trên thế giới đã giảm sút. Nhưng trái lại, mặc dù xảy ra nhiều cuộc chiến tranh, ngày nay dân số toàn cầu đã tăng lên rất nhiều. Ðiều này chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng lòng từ bi và tình thương đã ngự trị thắng thế trên thế giới.

Tình thương đã mang lại cho chúng ta nhiều lợi ích tinh thần và lành mạnh thể xác. Điều rõ ràng ai cũng thấy là khi tâm mình an vui sẽ giúp cơ thể chúng ta khỏe mạnh. Sự giận dữ, ưu phiền dễ khiến con người sanh ốm đau. Trái lại, tâm thanh tịnh an lạc giúp chúng ta tránh được nhiều bệnh tật.

Muốn có hạnh phúc chân thật, con người cần trãi lờng yêu thương tất cả, không nuôi dưỡng tâm ganh ghét, oán thù ai. Chúng ta không chỉ nhận thức tình thương là đức tính tốt, cao quý mà nên thực hành phát triển nó trong cuộc sống hàng ngày.

Trước hết, chúng ta cần hiểu rõ về ý nghĩa đích thực của tình thương. Tình cảm yêu thương lắm khi pha lẫn sự tham đắm. Chẳng hạng cha mẹ thương yêu con cái là thứ tình cảm vị kỷ đối với người thân của mình, khác hẳn với lòng từ bi rộng lớn. Trong hôn nhân, sự đắm say giửa hai vợ chồng hay tình yêu cuồng nhiệt giữa đôi trai gái hoàn toàn không phải là thứ tình thương đích thực. Lòng thương nặng tính chất đam mê ái nhiểm khiến chúng ta thường hay mù quáng nghĩ tưởng rằng người mà ta yêu thương luôn có những đặc tính tốt, nhưng đôi khi họ lại mang nhiều thói hư tật xấu.

Tình thương nhằm mục đích lợi kỷ, tình thương khó tồn tại lâu dài và dễ tan biến khi nó không mang lại ích lợi gì cho con người. Cho nên tình thương chân chính không xây dựng trên tình cảm so đo toan tính lợi hại cho bản thân mà hoàn toàn đặt nền tảng trên lòng vị tha quên mình vì hạnh phúc cho chúng sanh. Hẳn nhiên phát triển lòng từ bi rộng lớn này không phải điều dễ đàng. Muốn thành tựu, chúng ta cần sáng suốt nhận thức rõ các sự thực sau đây:

Tất cả chúng ta dù tốt hay xấu, giàu nghèo sang hèn, điều là con người như nhau. Ai cũng mong sống trong hạnh phúc và không thích khổ đau. Họ có quyền khắc phục chống lại sự đau khổ để có được hạnh phúc. Khi bạn hiểu rằng mọi người điều bình đẳng trong ý muốn đi tìm và có quyền đạt tới hạnh phúc, tự nhiên bạn thấy có thiện cảm và gần gủi với họ. Khi tâm bạn có được tình thương nhân loại phổ quát, bạn sẽ thấy có trách nhiệm cần giúp đỡ kẻ khốn cùng vượt qua những khó khăn của họ.

Bạn làm việc cứu khổ với tâm bình đẳng, không chọn lựa và phân biệt kẻ thân người sơ, thù hay bạn, sang trọng hay thấp hèn, khi chúng ta biết rằng con người, họ có những niềm vui và đau khổ như chúng ta; cho nên không thể có sự kỳ thị, phân chia giữa người này với người kia mà chúng ta cần có lòng từ bi thương xót cứu độ tất cả.

Muốn thành công việc phát triển lòng từ bi, chúng ta cần phải trãi qua một thời gian dài kiên nhẩn tu tập. Khi chúng ta còn nghĩ đến bản ngả nhỏ nhen, cái "ta" tham lam ích kỷ, đam mê thú vui trần tục, không dám hy sinh quyền lợi cá nhân cho hạnh phúc của kẻ khác thì rất khó để thực hành tình thương rộng lớn này. Mặc dù không dễ làm ngay tức khắc, điều đó không có nghĩa là chúng ta không thể bất đầu luyện tập từ từ để dẫn đến kết quả được.

CHÚNG TA KHỞI SỰ THỰC TẬP NHƯ THẾ NÀO?

Trước hết Chúng ta cần diệt những trở ngại lớn lao cho sự phát triển lòng từ bi là tâm oán thù và sân hận. Đây là hai ác tính độc hại nhất thường nằm sẵn trong tâm mọi người, nhưng chúng ta có thể kiểm soát. Chúng ta không những chỉ cần có lòng từ bi mà còn phải có trí tuệ và hạnh nhẫn nhục. Chúng là những phương thuốc hữu hiệu nhất có thể chữa trị đoạn diệt lòng sân hận nơi tâm chúng ta.

Nhưng rất tiếc, nhiều người đã nhận thức sai lầm cho rằng thực hành các đức tánh trên là dấu hiệu của sự yếu hèn và nhu nhược. Trái lại, tôi vẫn tin nhẫn nhục là điều rất khó làm, đòi hỏi nơi hành giả một ý chí dũng mảnh. Bản chất của lòng từ bi mặc dù là hiền lành mềm mỏng và dịu dàng, nhưng nó cũng là một sức mạnh.

Thêm nữa, thiếu nhẫn nhục con người sẽ sống trong tình trạng lo âu và bất hạnh. Do đó, khi phát khởi tâm sân hận, theo tôi là dấu hiệu yếu kém. Cho nên khi gặp chuyện bất hòa, xung đột với ai, bạn nên cố gắng kiềm chế sự nóng giận hết sức bình tĩnh, giải quyết vấn đề với lòng từ bi để tránh sự đổ vỡ. Ngay trường hợp kẻ có tâm xấu ác muốn làm hại bạn cũng sẽ không thành công mà kết quả là họ chuốc lấy sự thất bại mà thôi. Cho nên muốn diệt trừ tánh vị kỷ, đố kỵ

chúng ta cần phải thực hiện lòng từ bi đế giúp cho người khác tránh được sự đau khổ do hậu quả gây nên bởi việc làm sân hận của họ. Do đó, nhờ biết thực hành hạnh nhẫn nhục mà chúng ta tránh được sự lo âu phiền não; có được sự an lạc và hạnh phúc.

BẠN VÀ THÙ

Nếu chúng ta chỉ nghĩ đến lòng từ bi không thôi thì chưa đủ, mà chúng ta cần mong gặp hoàn cảnh thuận lợi để thực hiện, phát triển tình thương rộng lớn đó. Và ai sẽ là người giúp chúng ta tạo cơ hội ấy? không phải bạn mà là kẻ thù của chúng ta. Chính họ là những người đã gây khó khăn nhiều nhất cho chúng ta:

Do đó, nếu muốn học hỏi, thực hành hạnh từ bi chúng ta không xem họ như những người bạn mà là thầy của chúng ta. Muốn trãi tình thương rộng lớn đến mọi chúng sanh, chúng ta nên thực hành đức tánh khoan dung, từ bi và hỷ xả; do đó, chúng ta cần đến các kẻ thù. Bởi vậy chúng ta hảy cám ơn những kẻ thù vì họ đã giúp chúng ta giử được cái tâm thanh tịnh an lạc. Và trong nhiều trường hợp cá nhân, củng như tập thể, khi chúng ta thay đổi hoàn cảnh sinh sống, kẻ thù có thể trở thành bạn.

Cho nên tánh nóng giận và lòng sân hận luôn luôn là những ác tính độc hại, và trừ khi chúng điều phục làm chủ được cái tâm của mình để diệt trừ, còn không thì chúng sẽ tiếp tục gây phiền não và ngăn chặn mọi nỗ lực tu tập mang lại sự an lạc cho chúng ta. Bởi vậy, sự giận dữ và lòng sân hận chính là kẻ thù của chúng ta. Chúng là những ác tính chúng ta cần khắc phục và loại bỏ, không chỉ nhất thời mà phải thường xuyên liên tục trong suốt cả cuộc đời của chúng ta.

Hẳn nhiên là tất cả chúng ta ai cũng có nhiều bạn. Và tôi thường nói đùa rằng nếu bạn ích kỷ muốn thủ lợi riêng cho mình thì nên có lòng vị tha. Bạn hãy thương yêu kẻ khác, phục vụ và giúp đỡ cho họ. Bạn cần giao hảo, vui cười và kết thân với mọi người. Được vậy thì khi bạn gặp khó khăn, bạn sẽ có người giúp đở.

Trái lại nếu chúng ta không bao giờ nghĩ đến hạnh phúc của kẻ khác thì về lâu dài chúng ta sẽ là người bị mất mát và thua lỗ. Không bao giờ những sự cải vả, giận dử, tranh chấp và đố kỵ có thể mang lại tình bạn thân hữu giữa con người. Mà chỉ có lòng khoan dung tha thứ và hỷ xả mới giúp chúng ta kết thân, gần gũi và yêu thương nhau.

Trong xả hội vật chất ngày nay nếu chúng ta có tiền và quyền lực, chúng ta sẽ có nhiều bạn. Nhưng chúng không phải là bạn chân thật mà là bạn của tiền bạc và thế lực của chúng ta. Khi chúng ta nghèo khổ, mất hết địa vị uy quyền những người bạn đó sẽ bỏ rơi chúng ta.

Trong cuộc sống nếu không có biến cố hay tai nạn gì xảy ra, con người thường nghĩ rằng mình có thể tự lo được, không cần đến ai; nhưng khi hữu sự gặp khó khăn, thiếu thốn, hay bệnh tật con người cảm thấy cô đơn và cần phải nhờ đến sự giúp đỡ của kẻ khác. Do đó, để chuẩn bị cho giờ phút lâm nguy ngặt nghèo sẽ có người chăm sóc giúp đỡ cho mình thì ngay hôm nay, chúng ta nên kết bạn thân, đối xử tốt và có lòng vị tha cứu giúp mọi người.

Đôi lúc, người ta cười chế nhạo khi nghe tôi nói tôi muốn có nhiều bạn thân hơn và tôi yêu nụ cười của thiên hạ. Cho nên tôi phải biết nghệ thuật sống cách nào để có thêm bạn bớt thù và làm sao tôi có thể giữ mãi nụ cười trên môi khi tiếp xúc với mọi người, đặc biệt là nụ cười hỷ xả của tình thương.

Trong cuộc sống giao tiếp hàng ngày, chúng ta bất gặp nhiều nụ cười khác nhau của thiên hạ: có nụ cười chua chát, giả dối hay xả giao. Đôi khi nụ cười bày tỏ sự bất mãn, gây nên nghi ngờ hay sợ hãi cho kẻ khác. Tuy nhiên củng có những nụ cười mang lại niềm vui của sự an lạc và giải thoát: đó là nụ cười từ bi hỷ xả của chư Phật và Bồ Tát. Ðây là những nụ cười mà chúng ta nên cố gắng thực hiện để mang lại hạnh phúc cho mọi người.

TÌNH THƯƠNG VÀ THẾ GIỚI

Chúng ta cần chia sẻ tình thương với tất cả mọi người, cho nên bất cứ ai chúng ta gặp, dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta đều xem họ như những bậc cha mẹ và anh chị hay em của chúng ta. Chúng ta không quan tâm về khuôn mặt của họ là mới hay cũ; lạ hay quen họ mặc y phục như thế nào, đẹp hoặc xấu, rẻ hay đắc tiền; và tánh tình của họ ra sao, hiền lành hay dữ tợn.

Chúng ta vẫn thấy không có gì sẽ khác giữa họ và chúng ta thật là điều sai lầm khi chúng ta có óc kỳ thị, phân biệt giữa chúng ta với mọi người; hoặc giữa người này với người kia, vì như đức Phật đã dạy rằng tất cả mọi người chúng ta đều có Phật tánh, hay khả năng thành Phật giống nhau.

Sau hết, toàn thể nhân loại là một và quả đất nhỏ chúng ta đang sống là ngôi nhà chung của chúng ta. Nếu chúng ta muốn bảo vệ căn nhà nhân loại này, mỗi chúng ta cần thực hiện tình yêu thương con người trên toàn thế giới.

Được vậy, chúng ta mới có thể diệt trừ hết lòng tham, tánh vị kỷ nơi con người, nguồn gốc gây ra mọi khổ đau cho nhân loại qua những cuộc xung đột xâm lăng và chiến tranh vì quyền lợi của con người. Nếu các bạn có một tấm lòng thành thực và rộng mở, chẳng bao giờ gây oán thù với ai tâm bạn sẽ bình an không lo sợ bất cứ người nào làm hại đến mình.

Tôi tin rằng mọi người sống trong xã hội, cho dù ở phạm vi gia đình, bộ tộc, quốc gia hay quốc tế; chìa khóa hay bí quyết mang lại cho thế giới con người có đời sống tốt đẹp, an lạc và hạnh phúc hơn hiện nay, là sự áp dụng, thực hành và phát triển của tình thương.

Chúng ta không cần phải theo một tôn giáo ý thức hệ hay chủ thuyết chính trị nào; điều căn bản là chúng ta nên tu tập và thực hành các tánh thiện nơi mỗi con người chúng ta, tôi thường cố gắng đối xử với bất cứ người nào tôi mới gặp họ lần đầu tiên đều giống như một người bạn cũ tâm tình thân quen. Điều này đã mang lại cho tôi một nguồn hạnh phúc vô biên. Đó là sự thực hành đức tánh từ bi hỷ xả của đức Phật.

#278 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/07/2011 - 00:51

KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC GÌ

CHƯƠNG BA

BỐ THÍ, GIÚP ÐỜI LÀ CÁCH LÀM GIÀU VỮNG CHẮC

CHO ÐỜI HIỆN TẠI VÀ CẢ ÐỜI SAU.

Điều quan trọng đáng làm, cần làm là chia sẽ với người qua tình thương yêu, sự an ủi vỗ về, sự giúp đỡ bằng vật chất hay hành động. Đó gọi chung là bố thí. Bố thí như vậy thể hiện qua nhiều hình thức.

Do đó, bố thí không phải là chỉ có việc đem tiền bạc phẩm vật cho người khác mà bố thí còn là đem tình thương tới giúp đỡ mọi người, là lời an ủi, vỗ về, khuyến khích, nâng đở, góp ý..Sự giúp đỡ ấy tùy vào phương tiện khả năng, chỉ sợ người có của mà lại sợ tốn kém, người có công sức mà ngại khó khăn thôi.

Trong các Kinh sách của các tôn giáo đều đề cao sự Bố Thí. Bố thí là hành động tốt đẹp mang lại hạnh phúc cho người cho lẫn người nhận.

Trong cuốn: Luận Về Nhân Quả, tác giả Chơn Quang khi trình bày về vấn đề Bố thí đã viết rằng:

"Mọi sự giàu sang bắt nguồn từ bố thí. Không bố thí, vĩnh viễn không có sự sung mãn tài vật. Người có lòng Nhân ái sẽ không bỏ qua một chúng sanh khốn khổ nào dù đó là kẻ tội lỗi.

Bố thí là biểu hiện chân thật của tình thương: Không thể có tình thương ở đầu lưỡi mà phải có tình thương nơi đôi bàn tay dâng tặng.

Bố thí không những đem lại phước báo cụ thể mà nó còn là một phương pháp để tu tập những đức hạnh khác. Bắt đầu bằng công hạnh bố thí, người này sẽ buông xả những chấp trước dễ hơn, tâm quảng đại thêm lớn lòng tham mỏng nhạt dần.

Hãy tập bố thí từng chút và bạn sẽ cảm nghe tâm hồn mình thay đổi. Đừng tiêu xài hết những gì mình có, hãy san sẻ với mọi người, dù đó chỉ là gói bánh ngọt, đĩa trái cây, hoặc to tát như lợi nhuận thu được bởi mồ hôi nước mắt.

Người mới biết tu tức là trích ra 1/10 số tiền kiếm được để san sẻ với kẻ khác. Người đã thuần phục trong công hạnh bố thí sẽ san sẻ nhiều hơn nữa. Tài vật vô thường tạm bợ không chắc ở lại lâu với mình. Một cuộc thay đổi thời thế, một cơn hỏa hoạn, ngập lụt, một lần bị trộm cướp đều có thể lấy đi những gì đã được tích lũy từ lâu.

Khi không còn tài sản mà muốn bố thí cúng dường cũng không có cơ hội đễ làm. Chi bằng, trong từng giờ phút hiện tại vừa được lợi nhuận, hãy chia xớt ngay cho người, đừng để cơ hội trôi qua. Người tin hiểu Nhân Quả sẽ khao khát bố thí như người mù khao khát mắt sáng... người sống vị tha thì luôn luôn nghĩ đến nhu cầu của người chung quanh để giải quyết"

Như vậy Bố thí là điều quan trọng. Bố thí giúp ta vui sướng tự tin và được nhiều phước quả. Bố thí quả thật là việc nên làm. Tuy nhiên một khi bố thí, giúp người, giúp đời thì ta không nên tiếc rẽ. Bố thí phải từ lòng nhân ái vị tha, không vì cầu được phước hay vì muốn có phước lành mà bố thí. Vì từ tâm mà bố thí nên không đắn do cân nhắc, so sánh lựa chọn thiệt hơn khi bố thí.

Bố thí mà lòng tiếc rẽ tức là không muốn người mình cho được hưởng tiền hay vật mà mình cho. Cho mà còn tiếc rẽ thì chẳng khác nào đau khổ không vui khi cho. Tiếc rẽ là chứng tỏ mình còn phân vân, so sánh cân nhắc khi cho, chứng tỏ cho vì áy náy, bị ép buộc hay không thích cho mà phải cho.

Trên đời chúng ta đã từng biết bao người hà tiện keo kiệt, bủn xẻn với bạn bè, người thân. Có người keo kiệt với cả cha mẹ, con cái, vợ chồng, anh em và ân nhân mình. Khi người ấy sa cơ lỡ vận nếu may mắn được người giúp thì khi đó mới nhớ lại rằng trước đây mình quá sai lầm.

Tuy nhiên vẫn có khối người bỏn xẻn keo kiệt mà không biết mình như thế. Đôi khi họ còn chê cười phê bình chỉ trích người khác keo kiệt hà tiện. Cái mê mờ u tối ấy đã từng bao phủ biết bao người khiến họ không thoát ra được để thấy cái ánh sáng vi diệu của sự giúp đỡ bố thí kẻ khác.

Phần đông những người càng giàu có họ lại càng có cái Tâm Tiếc Rẽ. Lý do là vì lòng tham con người quá lớn, có rồi muốn có thêm nữa. Vì thế nếu đem cho, giúp đỡ, bố thí thì tiền của sẽ hao hụt, làm sao lợi nhuận tăng thêm?

Nhiều người lại nghĩ sai khi cho rằng bố thí là việc làm của kẻ giàu có: Họ bảo "tôi đâu phải là người giàu, tiền bạc ít ỏi làm sao tôi có đủ để bố thí giúp đở ai"... Nghĩ như vậy là sai. Bố thí không phải bắt buộc phải nhiều. "Của ít lòng nhiều" là câu nói của cổ nhân ta từ lâu nhắc nhở cho thấy của cho quan trọng ở tấm lòng.

Bạn có ít thì cho ít, giúp ít, bố thí ít. Bạn có nhiều thì cho nhiều. Chính cái tấm lòng thương người cảm thông nổi khổ về người mình cho mới là cao cả và đáng giá. Do đó đừng cho rằng bố thí là việc của người giàu. Không có người giàu nào lại nghĩ rằng họ giàu có, họ đầy đủ, vì tâm họ luôn luôn cho rằng họ còn nghèo hơn kẻ khác.

Những người ấn Độ giàu có từ ngàn xưa đã biết rõ vấn đề bố thí quan trọng như thế nào nên hết lòng bố thí khi sản nghiệp họ ngày càng tăng. Ngoài ra họ còn cố tập tành thế nào để khi bố thí dứt hết lòng tiếc nuối về tiền của phải mất ấy. Lý do là trong Kinh có đoạn nói về hậu quả của kẻ bố thí mà lòng còn tiếc của.

"Kẻ nào khi bố thí mà còn đau xót, tiếc nuối thì đời sau nếu kẻ đó giàu có vạn ức thì cũng ngồi trên của cải mà không dám ăn tiêu suốt đời vất vả vì đã trở thành kẻ nô lệ của tiền bạc, của cải cho tới chết".

Điều quan trọng khác nữa trong sự Bố thí là thái độ và tư tưởng của người cho. Nếu ta bố thí, giúp đỡ người khác với tấm lòng kiêu ngạo, khinh bỉ, kẻ cả thì cái Cho ấy mất hết ý nghĩa của sự Bố thí. Bởi lý do hai chữ Bố thí bao hàm sự cho với lòng thông cảm, thiện tâm, an ủi cầu mong cho người mình cho được đầy đủ hạnh phúc.

Nếu ta cho kèm theo lời trách móc, chỉ trích hất hủi, chỉ dạy kẻ cả, miệt thị cùng với cách cho bất lịch sự thì sự giúp đỡ cứu giúp đó trở thành sự khổ đau tủi nhục mà người nhận phải lấy. Chúng ta đã từng thấy tại quê nhà nhiều người trước khi ban phát cho người ăn xin vài nắm gạo hay vài đồng bạc đã xỉ vả chửi rủa, mạt sát họ thậm tệ khiến kẻ đã khổ đau càng thêm khổ đau.

"...Những bậc Thánh giải thoát thường giấu mình trong một hình thức tầm thường giản dị. Trong những người tầm thưởng giản dị mà chúng ta đã gặp gỡ bố thí, biết đâu cũng có người phi phàm vượt thế. Chỉ một lần dâng tặng đến người như thế, phúc lạc chờ đợi chúng ta là vô hạn ở mai sau ...".

#279 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/07/2011 - 01:00

KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC GÌ

CHƯƠNG BỐN

CÓ PHẢI KHI CHẾT, KHÔNG MANG THEO ÐƯỢC GÌ HAY KHÔNG?

Trở lại vấn đề Khi Chết không mang theo được gì, nhiều người đã nhận thức rõ điều ấy, và đó là một sự thật hiển nhiên mà từ cổ đại tới nay, mọi người trên quả đất đều thấy và biết.

Tuy nhiên, đối với Phật giáo thì Khi chết mỗi người đều có mang theo "cái" mà không ai thấy hay biết "cái" mang theo đó là "Cái Nghiệp" của chính họ.

Cho đến nay, sự kiện gọi là Nghiệp quả hay Nghiệp báo vẫn còn gây nhiều thắc mắc khó hiểu mặc dù số lượng người tin vào Nghiệp (Karma) và nhất là tin vào vấn đề có sự tái sinh ở kiếp sau ngày càng gia tăng thấy rõ tại các nước Âu Mỹ.


NGHIỆP LÀ HẬU QUẢ CỦA KIẾP TRƯỚC?


Tái sinh vào kiếp sau tức là sau khi chết sẽ lại hóa sanh trở lại qua một kiếp đời khác.

Như vậy khi một người nào đó chết đi thì thật sự người đó không chết, vì chỉ cái thân xác tan rã mà thôi còn cái tinh anh vi diệu của người ấy (con ngươi, thường gọi là Hồn hay Linh hồn) lại chuyển qua một đời sống mới qua một thân xác mới.

Sự luân chuyển từ kiếp nầy qua kiếp khác gọi là sự luân hồi. Mỗi giai đoạn sống trong sự chuyển hoá luân hồi ấy gọi là mỗi Kiếp.

Mỗi Kiếp người đều phải chịu hậu quả của những hành động gây ra từ kiếp trước, tạo ra các nguyên nhân hay có thể gọi là cái nghiệp. Đó là luật Karma hay còn gọi là luật Quả Báo hoặc Nghiệp báo. Sự luân chuyển từ kiếp này qua kiếp khác gọi là Luân hồi.


NGƯỜI CHẾT CHỈ MANG THEO "CÁI NGHIỆP" CỦA HỌ

ÐỂ TẠO QUẢ CHO KIẾP SAU.


Để hiểu rõ giai đoạn này, ta hãy bất đầu khi một người chết đi, họ trở thành bất động. Sở dĩ xác thân khi chết bất động vì thật ra nó chỉ là một khối vật chất bình thường trong tự nhiên mà thôi.

Nó như cái áo mặc, khi chết chính là lúc trút bỏ cái áo ấy. Khi sống, xác thân cử động được là nhờ có sự hổ trợ hợp đồng của các giác quan như thấy, nghe, nhận biết, ngửi, nếm, suy nghĩ tính toán...

Khi chết, thân xác bất động thì các giác quan ấy cũng mất luôn. Tuy nhiên có 2 thể vật chất đặc biệt không bị mất đi, vẫn còn tồn tại. Hai thể này có tên gọi là "Mạt Na Thức và A Lại Da Thức" mà kinh Phật giáo gọi là hai thức. Hai thức này sẽ là cầu nối giữa cái xác thân đã chết vớì các xác Thân sanh trở lại của kiếp kế tiếp.

Mạt Na Thức có nhiệm vụ sao chép lại bao quát về cá tánh, bản năng, năng khiếu, cảm xúc, sự hiểu biết và ký ức, hành vi cử chỉ lẫn tư tưởng của con người mà nó liên hệ lúc còn sống. Tất cả những ghi nhận, sao chép này từ Mạt Na Thức sẽ truyền hết cho A lại Da thức lưu trữ.

Như vậy có thể hiểu A lại Da Thức như là một cái thư viện lưu trữ các tài liệu sách vở của một người lúc còn sống. Tài liệu ấy bao gồm các đặc tính, bản năng, thói hư tật xấu và cả tánh tốt của người đó.

Tuy nhiên tùy theo sự dồn nén tập trung tư tưởng, tình cảm nào đó quá nhiều như uất hận, căm thù, đau khổ, sợ hãi, nuối tiếc... thì những tư tưởng tình cảm ấy sẽ là đầu mối cho đời sống kế tiếp mang nặng tất cả những gì đã bị kích động dồn nén ấy.

Do đó mà các vị chân tu thấy rõ điều đó đã căn dặn mọi người rằng; lúc sắp qua đời phải cố giữ tâm yên bình không nên nuối tiếc, đau buồn hay căm giận. Đặc biệt sự căm thù, lòng tức giận là mối nguy ghê sợ nhất nếu phát sinh lúc lâm chung thì lúc tái sanh sẽ rơi vào vòng đau khổ cùng cực.

Ðó cũng là lý do tại sao lúc người vừa mới chết, mọi người có mặt nên đọc kinh cầu nguyện, nhắc nhở tâm linh người chết nên sáng suốt, vui vẻ hầu tránh sự mê mờ u tối, lầm lạc khiến dễ sa vào chốn địa ngục.


NGƯỜI CHẾT CÓ CÒN BIẾT GÌ KHÔNG?


Đây là câu hỏi mà nhiều người đã thường đặt ra khi đứng trước xác thân một người vừa mới qua đời.

Nhiều người thắc mắc cho rằng một khi đã chết thì làm sao người chết nghe thấy, nhận biết những gì xung quanh nữa? như vậy tụng Kinh, đọc Kinh, nhắc nhở những điều tốt lành bên cạnh họ có ích gì nữa đâu?

Phật Thích Ca bậc đã đắc đạo, giác ngộ, nên thấy biết hết những nguyên lý thâm sâu vi diệu trong vũ trụ. Theo Phật thì: khi một người chết thì cái xác thân của người đó trở nên bất động và không còn các tiếp nhận qua các giác quan liên hệ về thấy, nghe, ngửi, sờ, nhận thức nữa vì các giác quan ấy cũng không còn.

Tuy nhiên nhờ hai thức còn lại là Mạt Na Thức và A Lại Da Thức mà người chết vẫn còn hiểu biết mặc dù tim đã ngừng đập, không còn thở, không còn cử động nữa mà thôi.


SỰ NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI CHẾT

KÉO DÀI ÐƯỢC BAO LÂU?


Các kinh sách Phật giáo đều cho biết là thời gian ấy là 49 ngày. Một thời gian vô cùng quan trọng đối với người chết. Vì người ấy tuy đã chết rồi nhưng nhờ hai thức quan trọng là Mạt Na Thức và A Lại Da Thức còn tồn tại nên người chết vẫn còn hiểu biết rất rõ những sự việc chung quanh.

Khi sắp chết, tim đập yếu dần, nhiệt lượng cơ thể giảm. Trong khi các giác quan bình thường sắp sửa biến mất thì hai thức Mạt Na và A Lại Da lại đảm trách công việc vào lúc này. Ta có thể nhận biết điều này khi thấy phần nhiều những người chết rất tỉnh táo vào giờ phút cuối cùng sắp từ giả cõi đời.

Có người chuẩn bị tắm rửa sạch sẽ trước khi chết hay dặn dò vợ con điều này điều kia. Ấy là do thức Mạt Na của người ấy phát động vào lúc người ấy sắp lìa đời. Thức Mạt Na là phần ghi nhận tất cả những gì liên quan tới cảm nghĩ, nhận thức hành động của người ấy nên thức này khi mở ra chẳng khác nào mở cuốn tự điển của cuộc đời nên không quên bất cứ điều gì trước đây dù xa xưa tới mấy.

Cái nhớ, biết rõ ràng như thế nên trước khi lìa đời người chết nói năng rất tỉnh táo sáng suốt. Trong khoảng thời gian 49 ngày, thức A Lại Da trước đây im lìm khi người còn sống thì nay hoạt động.

Vì là nơi tích trữ các dữ kiện về tâm thức hành động bản năng, tư tưởng, tình cảm, ý muốn của người ấy lúc còn sống do Mạt Na Thức chuyển tới nên vào giai đoạn này, nếu vì lý do nào đó mà A Lại Da Thức bị kích động mạnh bởi những tác động ảnh hưởng bên ngoài.

Như sự kêu gào thãm thương, đau đớn của thân nhân người chết hay bản thân người sắp chết căm hờn, tức tối, oán thù, thì những tác động ấy sẽ khiến người chết không nguôi và ảnh hưởng tới cuộc đời kế tiếp khi tái sanh khó mà vào được hoàn cảnh thanh lành.

Như vậy khi một người chết, ta nên nghĩ là người ấy chết về phần xác thân mà thôi còn một phần thuộc tâm linh vẫn còn ràng buộc với thân xác, chưa hẳn rời ra ngay nên người chết ấy chưa hẳn là đã chết một cách tuyệt đối.

Tình trạng này có khi lâu đến mấy ngày. Trong thời gian đó phần cảm nhận mà người chết có được là nhờ thức gọi là Thần Thức. Chính Thần Thức này là do Mạt Na Thức và A Lại Da Thức kết hợp lại mà thành.

Khi chết Mạt Na Thức và A Lại Da Thức liên kết nhau tạo nên một thân mới khác, nhưng thân mới này không có hình hài gọi là Thân Trung ấm. Mặc dầu Thân Trung ấm vô hình vô tướng nhưng lại có sự thông hiểu tinh tường hơn cả người sống.

Thân Trung ấm chính là cái thân chuẩn bị của tương lai khi xác thân cũ sẽ tan rã, hủy hoại. Khi chuyển biến từ kiếp này qua kiếp khác, thức A Lại Da đóng vai trò quan trọng vì nó chứa đựng một năng lực vô song.

#280 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/07/2011 - 01:08

KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC GÌ

CHƯƠNG NĂM

SỨC MẠNH CỦA NGHIỆP LỰC

Nhà nghiên cứu Nguyễn Gia Cát khi tìm hiểu về Thần Thức và Năng lực bảo vệ đã có những ghi nhận như sau:

Khi con người trút hơi thở cuối cùng thì cơ thể vẫn còn có một nơi tập trung hơi nóng ấm, đó là Thần Thức.

Thần Thức là tất cả những hành động của quá khứ tập trung lại tạo nên một sức mạnh vô hình, mầu nhiệm chuyển dẫn người chết lại đầu thai vào xác thân khác để chịu Quả Báo. Sức mạnh đó là sức mạnh của Nghiệp lực. Cái mà nhiều người gọi là Hồn thật ra là Thần Thức chớ không gì khác.

Thần thức lưu giữ tất cả mọi cá tính, bản năng, hành động, hoàn cảnh... của người đã chết đầy đủ, không thiếu sót (Chính vì lẽ đó mà không ai có thể che dấu những gì mình đã làm, vì Thần thức đã giữ bản sao của đời người đó từng chi tiết rồi)

Vì thế cho nên dù người đó đã qua đời, thân xác đã tan rửa nhưng vẫn còn phần quan trọng là Thần thức là bản sao chép về đời người đó vẫn còn và tạo ra một năng lực gọi là Nghiệp lực. Nghiệp lực ấy sẽ chuyển dần người chết đầu thai vào một thân xác mới khác để chịu quả báo.


THẦN THỨC THOÁT KHỎI THÂN XÁC TỪ VỊ TRÍ NÀO?


Trong dân gian ta thường nghe nói: người chết thì Hồn ra khỏi xác. Chữ Hồn ấy chính là Thần Thức. Khi một người chết đi thì trong một thời gian nào đó mặt dầu người đó đã chết nhưng vẫn còn hiểu biết và sự hiểu biết ấy còn linh diệu hơn khi người đó còn sống. Âý là do sự hiện hữu và hoạt động của Thần Thức. Nhưng Thần Thức cũng sẽ rời khỏi xác thân sau một thời gian.

Thần Thức sẽ thoát ra hỏi thân xác người chết ở những vị trí khác nhau tùy vào Nghiệp lực.

Nếu nghiệp lực nặng nề thì Thần thức sẽ thoát ra từ phần dưới của cơ thể người chết như từ bàn chân từ bụng hay đầu gối.

Nếu Nghiệp lực thanh cao tốt lành thì Thần thức sẽ thoát ra từ trán, mặt hay ngực.

Nhiều tài liệu Kinh điển cổ xưa cho hay rằng có thể quan sát sắc thái, tình trạng, cảm giác thể hiện nên gương mặt của người sắp chết mà suy đoán vị trí thoát ra của Thần Thức như sau:

Khi thấy gương mặt người chết nhăn nhó, mặt xám đen, quằn quại thì biết ngay là Thần Thức thoát ra từ bàn chân.

Nếu người sắp chết đòi ăn, đòi uống, tiếc nuối, than vãn, khổ sở, đau đớn thì Thần Thức chuyển từ bụng xuống đầu gối và thoát đi.

Nếu người chết bình tỉnh, sáng suốt, dặn dò người thân mọi điều và giả từ ra đi hay từ từ nhắm mất trong an bình tự tại thì Thần Thức sẽ thoát ra từ ngực hay trán hoặc mặt.


NGHIỆP CÓ NHIỀU LOẠI


Nếu phân chia theo chi tiết thì có rất nhiều loại Nghiệp khác nhau. Tuy nhiên để hiểu khái quát, chúng ta chỉ nên nhớ mấy loại Nghiệp chính sau đây:

1. Nghiệp hiện tại: Tạo ác và bị quả báo ngay trong đời. Ví dụ anh A giết người và mấy năm sau anh ta bị tai nạn qua đời.

2. Nghiệp đời sau: Do tạo nghiệp đời này và đời sau (kiếp sau) mới bị quả báo. Có khi đến mấy kiếp sau mới bị quả báo.

3. Nghiệp bất định: Quả báo đến không nhất định về thời gian có thể mau hay chậm.

4. Nghiệp tích lũy: Nhiều nghiệp quả từ nhiều đời tích tụ lại.

5. Tập quán nghiêp: Nghiệp tạo ra theo tập quán. Ví dụ người làm nghề giết mổ heo gà vịt hành nghề lâu thành lập quán không bỏ.

6. Nghiệp Cận tử: Nghiệp tạo ra vào lúc gần lâm chung. Ví dụ một người lúc gần chết dùng vũ khí giết người vì căm tức hay để trả thù.


NGUYÊN NHÂN HÀNH ÐỘNG PHÁT SINH MỨC ÐỘ NGHIỆP QUẢ


Khi một người làm việc ác cùng với sự hăng say thích thú trong lúc hành động thì quả báo đến với họ gia tăng. Nhưng nếu một người làm điều ác theo lệnh cấp trên, bị bó buộc, bị sai khiến, thúc hối phải làm nhưng trong lòng không muốn, cảm thấy đau khổ xót xa vì biết là mình làm điều ác thì nghiệp quả vẫn tạo ta nhưng không lớn lao như người vừa mô tả trước.

Vậy các nguyên nhân giữ vai trò quan trọng trong luật quả báo. Anh A làm điều ác, quả báo phản hồi về hành động ác ấy tùy vào nguyên nhân nào đã khiến anh ta hành động. Nguyên nhân ấy có thể do lòng gian ác hung bạo hận thù hay có thể là do bị bắt buộc nếu không làm thì anh ta phải chịu chết.

Như thế nguyên nhân gây hành động tàn ác khác nhau nên hậu quả do quả báo đem lại khác nhau. Khi bàn về sự kiện này có người đã dựa vào lý luận để bào chữa cho hành động sai quấy của mình như người ăn trộm nghĩ rằng: Vì đói vì muốn cho vợ con hạnh phúc nên anh ta phải đi ăn trộm nên theo anh ta thì nguyên nhân ấy chắc sẽ không nhận quả báo quá nặng nề!

Nếu lý luận theo cách đó thì rõ ràng anh ta chưa hiểu thế nào là thiện tâm là đạo đức là quả báo. Nếu cứ nghĩ sai lạc như thế thì kẻ giết người cũng sẽ bảo rằng: nếu tôi không giết người đó thì người đó sẽ tố cáo tôi - vì tôi sợ nên tôi phải giết thôi. Lý luận ấy cũng hồ đồ như có một kẻ sát nhân đã bảo: Tôi phải giết người ấy để lấy tiền bạc vì gia đình tôi đang túng thiếu!

Làm việc thiện không phải lớn lao mới tạo phước đức. Đôi khi việc nhỏ mà hành động với Tâm lành thì phước đức lại rất lớn lao. Nhiều người nói ta toàn chuyện phước thiện lớn lao ý nghĩ to lớn nhưng thực tế thì chẳng có gì cả. Đã có biết bao người thường nói:

"Cầu cho tôi được trúng số tôi sẽ xây mấy cảnh chùa nhà thờ! Tôi sẽ... Tôi sẽ... "Chuyện trúng số thì biết bao giờ mới trúng, nên chi cứ nói mà không thấy trong khi có người lở đường xin chút tiền mua cơm ăn lại không cho, nghe đồng bào bị bảo lụt đói lạnh không dám bỏ vài đồng đóng góp. Thực tế trước mắt không thực hiện, chỉ thực hiện ở đầu môi chót lưỡi mà thôi. Thế gian có vô số người như thế.

Theo các kinh sách và lời giảng của các bậc tu hành thì trong cuộc đời dù ta làm việc Thiện nhỏ nhoi tới mấy đi nữa thì đó cũng là gieo mầm phúc thiện. Cứ mỗi ngày mỗi giờ mỗi phút ta suy nghĩ những điều tốt lành làm những việc hướng Thiện thì dù nhỏ tới mấy nhưng cứ một ít, một ít dồn chứa tích tụ lại và cuối cùng đời ta cũng sẽ tạo được phước lành nếu không có ngay trong đời này thì cũng sẽ ở đời sau.

Mình muốn được mọi người thương mến mình thì cách hay nhất là mình phải thương mến mọi người hay ít nhất là đừng ghét họ. Vậy cái nguyên nhân tạo nên mối thiện cảm tốt lành chính là Tình thương. Do đó Kinh Phật có câu: "Đem yêu thương xóa bỏ hận thù".

Theo thuyết luân hồi thì mọi thứ trên thế gian khi có sự gặp gỡ hội tụ liên kết nhau là do ở nhân duyên, nghiệp lực làm phát sinh. Tại sao cô con gái nhà đó lại làm con dâu nhà tôi? Tạo sao ông bà ấy lại là cha mẹ chồng của tôi? Tại sao chúng tôi lại sống cạnh nhau? Phải chăng là do có nghiệp báo luân hồi với nhau? Phải chăng chúng ta có Nợ với nhau? Như vậy, nếu có thì chúng tôi phải sống với nhau như thế nào cho tốt?

Chúa đã dạy rằng:

"Đừng Mắc Nợ ai chi hết,

Chỉ mắc nợ yêu Thương mà thôi!"

Hay

"Ngươi phải yêu kẽ lân cận mình như mình yêu mình vậy."

Như vậy thì rõ ràng khi người mẹ chồng đối xử tốt với con dâu thì khó mà có người con dâu nào ăn ở không biết điều với cha mẹ chồng. Cũng vậy, một khi người con dâu xem cha mẹ chồng như cha mẹ mình thì khó có người cha mẹ chồng nào lại đem lòng ghét bỏ con dâu. Trong Kinh Thánh có đoạn ghi như sau:

"Các ngươi muốn người ta làm cho mình như thế nào thì hãy làm cho người như thế ấy"

Trên đây chỉ là một số tội lỗi thường thấy trong đời sống của con người. Thật ra còn vô số sự kiện mà từ đó phát sinh nghiệp quả chồng chất ngày càng lớn lao như tội lừa dối, lừa dối chồng vợ, con cái, bè bạn người khác hăm dọa như nặc danh hăm dọa bằng lời nói..

Xúi giục, xúi người khác làm điều xấu, hại người, chế diểu, cười cợt khi thấy kẻ khác gặp điều không may, ganh ghét, thấy kẻ khác hơn mình thì sanh lòng tức giận, ích kỷ, chỉ muốn tốt lợi cho mình mà không muốn tốt hay lợi cho người, sang đoạt, lấy nhà cửa của cải người.

Gạt gẩm, giả mạo, bày mưu tính kế (chuyên làm giấy tờ giả mạo, sản xuất giả mạo hàng giả, chế thuốc giả mạo, pha chế thức ăn giả mạo bằng những chất có hại cho cơ thể người tiêu dùng, bày mưu tính kế lừa gạt người hay làm hại người..)...

Những sự kiện vừa kể đã thường xảy ra từ muôn nơi và muôn thuở. Tuy nhiên những người phạm vào các vấn đề trên hiếm người cảm nhận được rằng mình làm điều sai quấy để rồi ân hận hối lỗi mà bỏ qua.

Trái lại rất nhiều người biết việc mình làm sai nhưng vẫn cho là không ác hại gì và cứ thế mà tiếp tục. Hậu quả là ác nghiệp tạo thành ngày càng chồng chất khiến tội lỗi ngày càng nặng nề thêm và dĩ nhiên họ phải nhận lãnh quả báo không may sớm hoặc muộn mà thôi.

Muốn nghiệp báo đừng tạo thêm và giảm thiểu thì nhớ lời dạy của Phật:

Ý nghĩ và hành động tốt lành thì nên nghĩ tới và tiến hành. Nếu việc Thiện đã tiến hành rồi thì nên phát triển việc thiện ấy ngày càng lớn thêm.

Ý nghĩ và hành động xấu xa, tàn ác hung dữ thì nên diệt ngay trong ý nghĩ, không cho phát sinh. Nếu lỡ đã tiến hành thì nên ngừng lại và dứt bỏ không làm nữa.

#281 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/07/2011 - 01:16

KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC GÌ

CHƯƠNG SÁU

NGUYÊN NHÂN NÀO KHIẾN TA PHẢI ÐAU KHỔ

Con người sinh ra và sống trên cõi đời không ai là không khổ. Từ vua quan cho tới kẻ cùng dân, ai cũng đều có cái "Khổ" riêng cả. Cư sĩ Tâm Quang đã nêu một vài cái Khổ trong bài viết "Thân thể con người"

"Cái chết là một cái Khổ trong 8 thứ Khổ của con người:

Khổ vì bị Sanh ta, Khổ vì bị Già, khổ vì bị Bệnh, Khổ vì bị Chết, Khổ vì bị gần với những thứ mình không ưa, Khổ vì bị xa với những thứ mình ưa thích, Khổ vì muốn mà không được, Khổ vì có quá nhiều sức khỏe và Ngũ ấm.

Ngũ Ấm gồm năm thứ:

1. Sắc: chỉ cho các hình danh sắc tưởng.

2 Thọ chỉ những cảm giác

3 Tưởng chỉ những sự tưởng tưởng, suy nghĩ

4. Hành chỉ cho các hành động tạo tác

5. Thức chỉ cho các cái biết của "

Còn có cái Khổ khác nữa do mỗi con người tự tạo ta đó chính là Cái Tâm của mỗi người. Cái Tâm đó thường tham lam, thường mơ mộng, tưởng tượng những thứ không có thật mà cứ tưởng là có Thật. Cái Tâm cũng là nguyên nhân tạo ta những hậu quả. Kinh Phật giáo thường cho rằng: "Mọi sự tại Tâm" đã nói lên điều đó.

Ngoài cái Tâm ta còn có Cái Thân. Cái Thân xác mà ta cho là sự "Của Ta" hay "chính là Ta" Vì cái Thân ấy mà Ta phải Khổ. Có Thân thì có ham muốn vì đó chỉ là các thân vật chất thật sư.

Có ham muốn là có chiếm hữu, sinh ra ích kỷ chỉ muốn lợi cho thân mình mà không muốn cho ai được lợi cả. Như thế càng ham sống là càng gây ra nhiều nghiệp quả để rồi nhận lấy quả báo luân hồi đau khổ.

Nếu biết Các Xác Thân chỉ như các áo ta mặc thì sự khổ đau, bệnh hoạn chỉ như cái áo bị rách cũ mà thôi. Cái xác thân ta đẹp đẽ hay xấu xí thì cũng như cái áo ấy màu sắc đẹp đẻ hoặc không được sáng sủa hấp dẫn. Khi chết chính là lúc cái áo ấy bị thay bỏ không mặc nữa và rồi ta sẽ mặc vào cái áo khác.

Khi sống, ta cử động nhúc nhích, đi lại thì cái thân xác ta cử động, nói năng, nhận biết, cảm xúc nhưng thật ra các hổ trợ đó không phải phát xuất từ cái xác thân mà từ nhiều thứ như ý nghĩ, cảm giác, thấy nghe, nếm ngửi... bộc lộ qua tai, mắt, mủi, miệng, lưởi...Khi chết những thứ đó đều mất đi.

Vậy mà chúng ta, ai cũng nghĩ về Cái Thân Xác mình mang và cho đó là Chính Mình. Thật sự thì cái Thân xác ấy chỉ là những vật chất cơ bản tạo nên và sau một thời gian cũng quay về với các bụi mà thôi.

Để chứng minh cái Thân xác ấy có phải của Ta không thì ta hãy nhớ lại là Cái Thân ấy có hoàn toàn theo ý ta không? Ta thì luôn luôn muốn khỏe mạnh, nhưng xác thân muốn đau yếu, bệnh hoạn muốn chết khi nào là tùy ý nó.

Ta không muốn uống nước nhưng cái xác thân lại Khát và ta phải chìu ý nó. Ta cố rán sức thức nhưng cái Xác Thân cứ muốn ngủ không theo ý ta. Có khi ta quyết nhịn ăn, nhưng cái Xác lại đòi ăn. Rõ ràng là các Thân làm ta Khổ.

Ngay cả Cái Tâm mà chúng ta nghĩ ngợi, phân tích, suy tính thiệt hơn ta cũng tưởng là "của Mình" luôn. Nhưng cũng chính Cái Tâm làm mình khổ.

Tại sao Cái Tâm thật sự không phải là Ta? Nếu Tâm là Ta thì chỉ có mỗi một thứ Tâm thôi, cớ sao lại hai thứ như Tâm Thiện và Tâm ác? Vậy đã là Cái Ta thì tại sao lại là hai được?

Còn Cái Tâm làm cho ta đau Khổ thì thật quá nhiều. Ví dụ như khi Ta muốn điều gì tức là Tâm ta muốn nhưng đâu có phải muốn là đạt được. Ví dụ lúc ta có Thiện Tâm, ta muốn người bị bệnh được lành hay người nghèo có được tiền bạc, nhưng điều mình muốn hay Tâm mình muốn như thế đâu có phải hoàn toàn được như ý.

Thế là ta Đau khổ vì không đạt ý nguyện. Đôi khi vì lòng ghen tức căm ghét một người nào đó nên ta muốn kẻ ấy phải bị khổ đau nhưng kẻ ấy vẫn bình yên an lành. Như thế là Tâm muốn mà không được cũng khiến ta đau khổ.

Vậy chính Cái Thân và Cái Tâm làm mình ham muốn, tự cao tự đại, tự ái phân biệt, ích kỷ, tham lam, ganh ghét, giận hờn. Tức tối... Nghĩa là vì Cái Thân và Cái Tâm mà càng ngày mình càng phát triển Tham Sân Si, lòng thù hận nhiều lên nhất là khi mình cứ nghĩ là Cái Thân chính là của mình, Cái Tâm chính là mình.

Chính vì sự nhầm lẫn mê mờ u tối trong nhận thức về cái xác thân và cái Tâm như thế nên hằng phút, hằng ngày, hằng giờ... mỗi người đều tự tạo cho mình biết bao hành động, ý nghĩ sai lầm tội lỗi khiến tạo ra biết bao nghiệp báo chồng chất không bao giờ vơi mà mình không biết.


MỘT SỐ THẮC MẮC VỀ VẤN ÐỀ NGHIỆP BÁO


Nhiều người đã nêu thắc mắc rằng: mỗi người tạo ra Nghiệp và sẽ phải nhận lấy quả báo. Nếu nghiệp tốt thì quả lành, nghiệp ác thì quả dữ. Như vậy trường hợp một số đông người cùng bị đoạ đày đau khổ hay cùng bị chết một lượt như bị động đất núi 1ửa, bom đạn vân vân thì thế nào?

Câu hỏi rất chi ly và rất hữu lý. Thật vậy, tại sao trên đời ai cũng có lần nghe hay thấy vô số người bị tai nạn hay chết. Như cả chuyến máy bay chở mấy trăm người bị rơi khiến không một hành khách nào sống sót.

Trong chiến tranh, nhiều cuộc dội bom khiến hàng trăm người chết hay trận động đất lớn làm hàng vạn người bị chôn vùi... Theo thuyết luân hồi nhân quả, nghiệp báo thì những trường hợp cùng chết hàng loạt như vậy gọi là Cộng Nghiệp (các Nghiệp cùng liên kết lại).

Nhà biên khảo về luật quả báo là Gina Cerminara giải thích rằng, trong vũ trụ tự nhiên có những nhóm linh hồn đầu thai hàng loạt trở lại quả đất để sống, vì họ có cùng nghiệp lực tương đồng nhau.

Sau đó, theo thời gian đã định phù hợp và hoàn cảnh thời đại thuận hợp để trả quả tương ứng đối với những người ấy thì họ sẽ lại gặp nhau tại một vùng đất nào đó, vị trí nào đó để cùng chịu quả báo một lượt.

Để dễ hiểu hơn về vấn đề gọi là Cộng Nghiệp ta thử nêu thí dụ về một chuyến vượt biên khủng khiếp tại Việt Nam vào năm 1978 khiến hàng trăm người bị chìm ghe chết đồng loạt.

Những người này ở từ nhiều nơi như người ở Huế, kẻ ở Quảng Nam, Đà Lạt, Sài gòn, Buôn mê thuột. Thế rồi họ cùng gặp nhau, lên cùng một chiếc ghe cuối cùng ghe chìm và tất cả đều chết.

Theo lý giải về hiện tượng Cộng nghiệp thì những người này ở kiếp trước hay chính trong kiếp mà họ đang sống đã tạo ra một nghiệp nặng liên quan tới nước như làm cho kẻ khác chết chìm, xô người xuống nước hay trấn nước, nhận nước tới chết người nào đó.

Khi hoàn cảnh thuận lợi đến (thời điểm phát sinh những cuộc vượt biên) những người tạo nghiệp tương tự sẽ cùng nhau đi vào nghiệp quả bằng cách quyết định đi chiếc ghe đó, để cùng nhận lấy quả báo bằng cùng một hình thức như vừa kể trên.


LUẬT QUẢ BÁO


Quả báo là một định luật, rõ ràng, minh bạch, công bằng và khoa học vô cùng. Cũng giống như ta ném cái banh vào tường trái banh sẽ dội ngược lại.

Luật quả báo không phân biệt một ai, nó như là định luật tự nhiên, như định luật phản chiếu của gương trong Vật Lý: Có tia tới thì có tia phản chiếu, cân phân rõ ràng không hơn không kém: góc tới bằng góc phản chiếu; nếu gây nhân tốt thì gặp quả tốt gây nhân xấu thì nhận quả xấu.

Nhân xấu gây nhiều thì sẽ nhận quả xấu nhiều và trái lại. Do đó mới có câu: Nhân nào quả ấy hoặc Ai gieo giống chi thì sẽ phải gặt lấy giống ấy. Hoặc Kẻ nào sử dụng gươm đao, kẻ ấy sẽ bị chết vì gươm đao. Như vậy kẻ nào giết người thì kẻ đó sẽ phải bị giết. Lưới Trời lồng lộng, thưa mà khó lọt, bởi luật Quả báo thật công bằng.

Những kẻ sát nhân dù có trốn tránh, đánh lạc hướng thế nào đi nữa thì cuối cùng cũng bị bắt và bị đền tội. Có điều kỳ diệu là ngay trong bản thể của mỗi con người còn có một "năng lực" liên hợp với luật quả báo trong tự nhiên.

Cái Năng lực lạ lùng đó chính là Lương tâm. Có kẻ sát nhân đã trốn tránh và qua mặt pháp 1uật nhưng một thời gian sau tự nhiên ra nộp mình. Chính các năng lực vô hình vừa kể đã thôi thúc y tuân theo luật quả báo một cách tự nhiên.

Cái năng lực vừa kể đó đã ảnh hướng mạnh mẽ lên một năng lực khác ẩn tàng trong mỗi con người đó là các Thiện Tâm, cái Ân hận hay sự Sám hối. Năng lực này khi phát tỏa ra nơi mỗi người sẽ tạo nên một sức mạnh vô song có khả năng làm giảm bớt rất nhiều những hậu quả của luật Quả báo.

Acoka Vardhan, bạo chúa lừng danh Ấn Độ thường ra lệnh xây dựng nhà tù lớn để giam cầm vô số tù nhân và đặt ra những hình phạt dã man để tra tấn họ như thả vào chảo dầu sôi.

Về sau bạo chúa tự nhiên ra lệnh dẹp bỏ các hình phạt và trở thành một ông vua đạo hạnh. Tuy nhiên chính nhà vua cũng biết những hành động tàn ác của mình đã làm trước đây không thể nào hoàn toàn gột rửa sạch tất cả, có chăng là sự ân hận sám hối và sống nhân đức sẽ giúp giảm đi cái quả báo nặng nề mà ông sẽ phải chịu.

Thế là nhà vua bình thản chờ đợi. Quả nhiên về sau, người cháu nội của nhà vua đã cùng với các quan lại trong triều bắt giam nhà vua vào ngục và hạn chế phần ăn hằng ngày. Ấy vậy mà nhà vua lại thường bảo cai ngục rằng, nếu có tù nhân nào đói khát không có ăn thì lấy phần cơm của ông cho họ.

Cai ngục lấy làm lạ có lần hỏi nguyên do thì vua Acoka bảo "Tội của ta trước đây to lớn vô cùng, đáng ra phải bị quả báo rất nặng, thể xác ta ngày nay không phải chịu như những người vô tội ngày xưa bị ta ra lệnh liệng vào vạc dầu sôi!".

#282 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/07/2011 - 01:26

KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC GÌ

CHƯƠNG BẢY

CÓ NHỮNG TỘI LỖI TÍCH LŨY MÀ NHIỀU NGƯỜI ÐÃ PHẠM PHẢI

Rất nhiều người có ý nghĩ sai lầm rằng giết người mới có tội. Nhưng họ không hiểu là có những tội lỗi tích lũy ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác mà không ai hay. Những tội tích lũy như dưới đây nhiều người đã phạm phải, tuy không phải là ghê gớm khủng khiếp, nhưng lâu dần tội ấy chất chồng khiến ngày càng nặng nề hơn và khi trả quả cũng sẽ nặng hơn:


TỘI CHỬI CHA MẮNG MẸ


Nhiều người con bất hiếu, bất mục, xem cha mẹ như người dưng nước lã. Có kẻ mắng nhiếc cha mẹ thậm tệ. Nơi xứ Tây phương, phong tục tập quán khác xứ Đông phương, người ta vịn vào 2 chữ Tự do nên thường đi quá trớn trong cách hành xử trong gia đình, giữa cha mẹ con cái hay vợ chồng.

Tuy nhiên nơi trời Tây cũng hiếm có con cái xấc láo với cha mẹ. Thật ra chữ Tự Do vẫn có giới hạn của nó vì ta nên hiểu hai chữ Tự Do không có nghĩa là "Muốn làm gì thì làm". Tự Do không có nghĩa là xem thường thầy cô dạy học mình, không kính trọng thầy cô mình. Tự Do không có nghĩa là cải tay đôi với cha mẹ.


TỘI ÐỐI XỬ TỆ BẠC VỚI NGƯỜI GIÀ LÃO


Người già ở đây là cha mẹ già hay ông bà nội ngoại già lão. Những người này sống gần đất xa trời, trong lòng luôn luôn lo buồn, nuối tiếc nên thường hay gắt gỏng bực bội. Những người này sức khỏe suy yếu nên không thể làm việc nặng. Những điều đó thường biến họ thành kẽ sống thừa trong xã hội, lời nói và ý kiến của họ đôi khi không còn được ai nghe.

Con cháu cũng từ đó mà coi thường và đôi khi có lời nói hành động bất nhã, hỗn xược khiến những người già lão ấy vô cùng tủi thân và đau khổ. Có những gia đình mà cả cha mẹ lẫn con cái đều có thái độ hất hủi đối với ông bà nội ngoại sống cùng trong một nhà. Cảnh tượng này xãy ra thường ngày ở nhiều gia đình tại Việt Nam, chúng ta.

Riêng đối với những gia đình người Việt sinh sống ở xứ người thì hình ảnh vừa kể cũng không hiếm. Những người già lão vừa nêu trên đây là những người thân thuộc trong gia đình, vậy mà đôi khi họ còn bị sự đối xử tàn tệ của con cháu huống hồ những người già lão cô đơn không kẻ thân thích nương nhờ thì cuộc sống của họ sẽ ta sao?

Chắc chắn là còn đau khổ hơn nữa. Do đó, ta còn sống trên cõi thế gian này thì phãi nhớ rằng có ngày ta cũng trở thành già lão. Cho nên cần giúp đỡ an ủi người già bất kể họ là cha mẹ, ông bà mình hay họ là người hàng xóm hoặc khách qua đường hay người hành khất... Bởi lẽ họ là các hình ảnh tương lai của mình đó!


TỘI ÐỐI XỬ TÀN NHẪN VỚI NGƯỜI TÔI TỚ, GIÚP VIỆC TRONG NHÀ:


Việc đối xử tàn tệ đối với kẻ ăn người ở trong nhà thường rất phổ biến tại Việt Nam chúng ta. Nhiều người hàng ngày siêng năng tới nhà thờ hay chùa cầu nguyện. Ðứng trước tượng Phật hay Chúa, họ xuýt xoa, rên rỉ, van lạy khẩn cầu vô cùng thiết tha, cung kính lễ bái tu hành...

Nhưng khi bước chân về đến nhà là họ quát tháo người tôi tớ om sòm, mỗi lần không hợp ý điều gì về người làm là họ chụp ngay một vật trước mặt, bất kể là vật gì, cái chổi, cây cuốc, khúc cây, thậm chí con dao họ cũng vung vẩy rượt đuỗi người ở để trừng trị họ.

Nhiều chủ nhà dùng lửa bếp đốt da thịt người giúp việc, kẻ tôi tớ trong nhà vì nghi họ ăn vụng trong bếp hay có khi sẩy tay làm bể cái chén hoặc giặt cái áo của chủ không sạch...

Năm 1950, tại cố đô Huế đồng bào trong vùng đã chứng kiến cảnh tượng rất dã man một người chủ nhà nổi tiếng tàn ác, đã trói người tôi ở của ông ta vào gốc cây nhãn, và hành hạ đánh đập người ấy đến ngất xỉu vì nghi họ là kẻ đã ăn cắp tiền của ông: Năm ngày sau người ấy uống thuốc rầy tự vận vì quá uất ức.

Nhà chức trách theo lời tố cáo của đồng bào đã mỡ cuộc điều tra, và biết được số tiền bị mất chính là do người con trai của chủ nhà lấy: Người chủ nhà bị bắt giam nhưng sau trở thành như ngây dại nên cho về nhà. Riêng người con trai của ông ta trước đó học trường Khải Định, bỏ học đã theo bè bạn ăn chơi lêu lỗng và còn liên hệ tới một vụ trộm tại một cửa tiệm ở đường Trần Hưng Đạo Huế.

Bị bắt xử tù giam, trong tù anh ta dùng mảnh chai cắt mạch máu ở cổ tay tự vẫn. Người cha từ đó như điên dại, rượu chè be bét và một hôm người nhà thấy ông nằm chết bên gốc cây nhãn, nơi mà trước đó mấy năm ông đã tra tấn hành hạ người tôi tớ của ông đến nổi nạn nhân uất ức phải tự tử.

Những người giúp việc, làm tôi tớ trong nhà luôn luôn là nạn nhân của sự bóc lột sức lao động không thương tiếc của chủ nhà và con cái chủ nhà. Nhiều người làm kẻ giúp việc cho một gia đình có đến 6, 7 người: hai vợ chồng chủ nhà và 5 người con.

Nếu những người trong gia đình này không có lòng nhân, thì đó là điều bất hạnh cho kẻ vào giúp việc. Người ấy sẽ trở thành kẻ nô lệ cho từng thành viên trong gia đình này. Mỗi ngày người ấy phải lo chu toàn hàng khối công việc nào nấu ăn, giặt rửa, lau nhà quét dọn, ủi áo quần, giữ con, công việc liên tục không ngưng nghỉ.

Vậy mà người ấy còn bị mắng nhiếc la rầy, đánh đập vô cùng khốn khổ. Chúng ta vẫn tưởng rằng thời đại văn minh này không còn hình ảnh sự việc khổ đau ấy nữa, nhưng không tại đất nước quê hương mình tình trạng ấy vẫn xảy ra. Bao lâu những người nghèo khổ nơi nông thôn lên tỉnh còn nhiều, chỉ mong có miếng ăn đủ nuôi sống mình qua ngày thì những người đi ở đợ ấy vẫn còn nhiều.

Bao lâu mà những kẽ có tiền bạc nhưng không có lòng nhân, còn nhan nhãn trong đời thì dưới mắt họ những kẻ tôi tớ trong nhà chỉ là những dụng cụ để họ sử dụng như cái máy chớ không có tình người. Bao lâu mà chúng ta còn tới chùa, nhà thờ cầu nguyện thì ta cũng đừng quên cầu nguyện cho những kẻ khốn cùng này, mau thoát khỏi những gia đình hung ác và gặp được những gia đình đầy mối thiện tâm.

Trong cuốn Quốc văn giáo khoa thư ngày xưa có một bài học thuộc lòng rất hay về một ông quan nhân từ: Một hôm gần tới giờ vào triều, ông quan áo mão chỉnh tề chờ người giúp việc bưng tô cháo lên để ăn sáng. Vì sợ chậm trể nên người giúp việc hối hả khiến tô cháo nóng đổ lên áo quan. Ông quan thay vì tức giận quát mắng người ấy thì ông lại nhẹ nhàng hỏi: "này Con có bị phỏng hay không?".


TỘI ÐỐI XỬ ÁC NGHIỆT VỚI CON DÂU


Cho đến nay, vấn đề mẹ chồng con dâu vẫn còn là đề tài gay cấn. Nhiều người tự cho mình là hiền đức nhưng lại không xem con dâu như con mình, mà vẫn thường tìm những sai sót của con dâu để bắt bẻ, hạch xách, nói xấu và tạo mối ác cảm ngày một gia tăng.

Dĩ nhiên trên thế gian này vẫn không hiếm những người con dâu ngổ nghịch, hỗn láo, xấc xược. Nếu người đó hiểu được luật Nhân Quả thì có lẽ người ấy đã không có thái độ sai trái đối với cha mẹ chồng, vì tương lai người ấy cũng sẽ có dâu con!

Như thế luật Nhân quả không phân biệt Mẹ chồng hay nàng Dâu. Nếu Mẹ chồng ác nghiệt với Dâu thì mẹ chồng sẽ nhận quả báo tương xứng.

Nếu người con dâu sống không phải với mẹ chồng thì luật Nhân quả sẽ khiến quả báo dội ngược về phía người con dâu, không sai lệch vào đâu được.

Về chuyện những người đàn bà đối xử ác nghiệt với con dâu trong thế gian nhiều vô kể. Ta đã từng nghe có những người đàn bà gian ác muốn tạo xấu cho con dâu, đã không từ nan những hành động ác độc ném đá dấu tay từ nhỏ nhoi đến to lớn, như lén bỏ muối vào thức ăn mà con dâu đang nấu, hay độc ác hơn, bỏ chất độc vào thức ăn để hô hoán lên là con dâu hãm hại cha mẹ chồng.

Ngày xưa có nhiều bà mẹ chồng tàn ác và ghét con dâu, nên tìm cách cưới thêm vợ lẽ cho con trai để người con dâu đau khổ. Ngày nay sự việc ấy khó xảy ra nhưng những người đàn bà có bản tánh xấu xa độc hiểm với con dâu, thì họ thường có vô số mưu lược, ý đồ để làm hại con dâu.

Thế gian cũng có những đứa con dâu gian ác, tàn nhẫn đối với mẹ chồng. Có người sợ mẹ chồng lấy tiền bạc của chồng đi, hay sợ phải nuôi nấng cưu mang cha mẹ chồng. Có người còn hung hãn hơn như trường hợp tại San Francisco, đã có trường hợp một người con dâu có lời qua tiếng lại với cha chồng, và đã rút súng ra chỉa về phía cha chồng hăm dọa: Nếu ông còn bước tới tôi sẽ bắn!

Tuy nhiên trên cõi đời này không phải tất cả các bà gia, các bà mẹ chồng đều ghét con dâu. Cũng như không phải tất cả các con dâu đều ghét và coi thường cha mẹ chồng. Có những người con dâu thương yêu quý trọng cha mẹ chồng như cha mẹ mình. Cũng có những cha mẹ chồng thương quý con dâu có khi còn hơn cả con ruột mình. Bất cứ điều gì cũng đều có nguyên nhân của nó.


NẾU LẤY OÁN BÁO OÁN THÌ OÁN SẼ MÃI CHẤT CHỒNG!


Kinh Phật giáo và trong Thánh Kinh đều thường nhắc đi nhắc lại những câu tương tự về vấn đề Ân Oán như: Chớ lấy ác trả ác cho ai. Lấy Oán báo Oán; Oán chất chồng. Lấy Đức báo Oán; Oán tiêu tan.

Trên thế giới, tội Ác xảy ra liên tục khắp nơi, từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây không ngưng nghỉ. Theo lý giải của thuyết Phật giáo thì nguyên nhân là do bởi "Nghiệp lực" và "Quả báo" mà ra, và tiếp diễn bởi sự kiện: lấy oán báo oán cứ mãi chất chồng.

Cuộc hành quyết xảy ra tại thành phố Kabul ở Afganistan trong năm 2000 đã là một thí dụ. Một kẻ sát nhân hung bạo tên là Mohammed Daoud phạm tội giết hai người đàn ông. Luật Hồi giáo cho phép người trong gia đình nạn nhân đứng ra tự tay hành quyết kẻ đã giết thân nhân mình.

Trong trường hợp này, người em trai của nạn nhân tên là Maulvi Mohasil đã đứng ra đảm trách việc trả thù. Kẻ phạm tội bị một tiểu đội lính Taliban dẫn ra pháp trường, đó là một sân vận động chứa hàng nghìn người tới chứng kiến.

Tội nhân bị bịt mắt, trói tay và được phép cầu nguyện trong 10 phút. Trong thời gian đó, chánh án tòa án quân sự Haibatullah Akhund đưa ra lời yêu cầu tha thứ cho tội nhân. Khán giả cũng có thể đưa ra lời đề nghị. Nhưng toàn thể gia đình nạn nhân đang có mặt đều quyết trả thù, không thể tha thứ cho kẻ đã giết người thân của họ.

Tội nhân cúi đầu xuống và bắt đầu tỏ dấu kinh sợ. Người em của nạn nhân đại diện cho gia đình rút mạnh con dao sắc lẻm bên hông ra và nói to: "Tôi và gia đình không bao giờ tha thứ cho kẻ đã làm tan nát tâm can cả đại gia đình chúng tôi! Máu phải trả bằng máu!" Sau lời nói đó, anh ta bước ra sau lưng tội nhân đưa dao cắt đứt cổ họng của tội nhân.

Tiếng thét vang của tội nhân làm hàng nghìn người nơi vận động trường đang huyên náo bỗng im bặt. Lúc tội nhân còn đang quằn quại chưa chết, thì bà vợ của người bị kẻ tội phạm giết chết nhào tới đưa hai tay ra hứng lấy máu phun ra từ cổ tội nhân phả vào mặt bà.

Trong khi sự việc diễn ra thì gia đình thân nhân của kẻ tội phạm cũng có mặt trong đám đông. Phần lớn trong số những người này lại dấy lên lòng thù hận và họ lại nuối mối căm hờn quyết chờ có ngày sẽ trả nợ máu...

Quả báo chất chồng còn thấy rõ qua lịch sử thế giới điển hình là lịch sử Việt Nam khi nhà Tây Sơn chiến thắng vinh quang thay vì dĩ hòa vi quý, đem tình phương xóa bỏ hận thù, đối xử với kẻ thù bằng mối thiện tâm thì nhà Tây sơn lại lấy oán báo oán. Lúc bấy giờ, theo sử liệu Đại Nam nhất thống chí và sử liệu của nhà biên soạn lịch sử Phạm văn Sơn thì:

"Quân Tây sơn đã ra lệnh khai quật lăng tẩm của các tiên chúa họ Nguyễn từ cháu nội ông Nguyễn Kim đến ông thân sinh ra Chúa là Nguyễn Phúc Luân"

Chính vì những hành động quá ư nghiệt ngã như thế nên khi nhà Nguyễn đại thắng quân Tây sơn, mối thù cũ ấy Chúa Nguyễn không bao giờ quên nên tháng 7 năm Nhâm Tuất (1802) đã tận dụng các hình phạt dã man ghê rợn và tàn bạo nhất để xử tội những người của triều Tây sơn bị bắt.

Người thì bị voi chà cho nát thây như bà Bùi Thị Xuân và người con gái của bà. Người thì bị cột chân tay vào chân các con voi để voi di chuyển xác họ bị xé ra nhiều mảnh như vua Quang Toản...

Ngoài ra Chúa Nguyễn còn ra lệnh đào mộ của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ lấy xương nghiền nát và cho quân lệnh tiểu tiện vào trước sự chứng kiến của anh em vua Cảnh Thịnh. Riêng hai các sọ của Nhạc và Huệ thì xiềng lại và giam trong ngục tối.

Thời vua Minh Mệnh có một nịnh thần tên là Bạch Xuân Nguyên, được nhà vua giao trọng trách ngầm canh chừng mọi việc làm của Lê văn Duyệt một đại công thần, nhưng vì vua không ưa nên muốn tìm cớ buộc tội.

Bạch xuân Nguyên rình rập toàn gia Lê văn Duyệt rồi dâng báo cáo đủ điều lên vua, và xin hạch tội Lê văn Duyệt cùng chém đầu 16 thân nhân. Sau đó còn bắt Lê văn Khôi, con nuôi Lê văn Duyệt.

Trong tù Khôi liên kết với các tù nhân can tội bạo loạn ở Bắc Kỳ. Phá ngục và kéo tới dinh Bố Chánh bắt được Bạch Xuân Nguyên và Án sát Nguyễn Chương Đạt, Nguyễn văn Quế. Khôi ra lệnh trói cả ba lại rồi thiêu sống họ như cây đuốc trước Từ đường Tả Quân để làm lễ Tế cáo.

Không lâu sau đó, Lê văn Khôi bị đầu độc chết một cách tức tưởi. Ba người con trai của Khôi thì bị giết khi tấn công thành Phiên An. Người con út mới 8 tuổi bị quân triều đình bắt một lần với Cố Du (tức P. Marchand) đem về kinh đô trị tội.

Mặc dù mới 8 tuổi, con út của Khôi cũng vẫn bị triều đình ra lệnh xử tội Lăng Trì (tức là xẻo từng miếng thịt theo tiếng trống lệnh). Riêng Lê văn Khôi, mặc dầu đã chết và chôn dưới lòng đất lạnh, nhưng cũng bị triều đình ra lệnh đào mộ lấy đầu cắm trên cây tre bêu ngoài chợ 3 ngày.

Xong nghiền nát đổ xuống sông. Còn vợ con thân thuộc của Khôi và các tướng tá của Khôi đều bì giết cắt tai đem về đều báo tiệp (theo A.Schreine-Abrégé de l'histoire d'Annam).

#283 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/07/2011 - 01:32

KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC GÌ

CHƯƠNG TÁM

VẤN ÐỀ GÂY THẮC MẮC CHO NHIỀU NGƯỜI HIỆN NAY

Nếu thật sự có Kiếp trước, như vậy thì tại sao từ xưa tới nay, không ai nhớ tới Kiếp trước của mình, cũng như chẳng có ai thương nhớ nuối tiếc người thân yêu của mình lúc ấy cả?

Đây là câu hỏi thường được nhiều người nêu ra nhất, vì nó thực tế và rõ ràng nhất đối với vấn đề tái sinh luân hồi. Nếu chúng ta không hấp tấp vội vàng, cứ một mực cho rằng tái sinh luân hồi là điều không thể có ngay trong ý nghĩ mình thì khó mà giải quyết, làm sáng tỏ vấn đề. Bằng sự vô tư và khách quan, ta bình tỉnh tìm các chứng liệu thu thập được qua các nhà nghiên cứu đáng tin cậy về vấn đế nhớ lại tiền kiếp như thế nào?

Thật ra từ cổ đại tới nay đã có vô số tài liệu ghi lại những sự kiện vừa kể. Các nhà nghiên cứu tìm hiểu vấn đề không phải là những nhà tôn giáo mà phần lớn là những nhà khoa học những nhà sử học, những Y Bác sĩ, những nhà khảo cổ nổi tiếng...

Các nghiên cứu tìm hiểu ấy được thực hiện qua các phương pháp có tính khoa học như ghi chép lại từng chi tiết của sự việc, quay phim, chụp hình, thu âm điều tra, phỏng vấn những nhân vật liên quan tới sư kiện cũng như thăm dò quan sát, đối chiếu và kiểm chứng cẩn thận những gì đã xảy ra.

Qua những tư liệu thu nhặt được từ những khám phá mới đây với những tài liệu cổ xưa về vấn đề Tái sanh, nhớ lại Tiền kiếp ta mới thấy rằng quả thật xưa nay đã có những người đã nhớ lại kiếp trước của họ, chớ không phải là chẳng có ai nhớ lại kiếp trước của họ cả.

Trong thời đại khoa học hiện nay thế giới lại ngạc nhiên lần nữa về sự nghiên cứu và khám phá của một Bác sĩ người Mỹ, đó là Giáo sư Bác sĩ lan Stevenson, ông chuyên tìm hiểu về các hiện tượng liên quan tới Tiền kiếp hay Kiếp trước.

Ông đã thiết lập một số lớn hồ sơ dày ghi lại chi tiết những trường hợp của một số người nhớ lại kiếp trước của họ. Để được kết quả trung thực, chính bác sĩ Stevenson đã đích thân tới tận nơi gặp gở, tiếp xúc, phỏng vấn những người đã nhớ lại tiền kiếp của chính họ chớ không nghe qua lời kể lại của người khác.

Trước bác sĩ Stevenson tại Hoa Kỳ cũng đã một thời dân chúng xôn xao về sự kiện cũng một người Mỹ tên là Edgar Cayce, ông này không có khái niệm gì về tái sinh luân hồi cả, nhưng lại có khả năng tìm nguồn gốc xa xăm của căn bệnh nan y một người nào đó qua giấc ngủ thôi miên.

Chính bản thân ông Cayce lúc thực hiện phương pháp chữa bệnh đi vào tiền kiếp của người bệnh qua giấc ngủ thôi miên, cũng cảm thấy nghi ngờ vì ông xuất thân từ một gia đình Cơ Đốc giáo chính thống.

Ông không hiểu là thật sự có kiếp trước hay không? Nhưng điều làm ông phân vân thắc mắc là tại sao trong giấc ngủ thôi miên khi chữa cho bệnh nhân thì ông lại thường hay thốt ra câu: "Thửa xa xưa, ông ta, hay bà ta là..."

Nhất là có lần ông định bệnh cho một người đàn ông trong khi đang chìm vào giấc ngủ thôi miên, ông lại thốt ra câu: "Thuở xưa ông ta là một nhà giáo" Vậy chữ thuở xa xưa ấy là lúc nào? Chắc chắn không phải là trong đời hiện tại của ông ấy, vì hiện tại ông ta không phải là nhà giáo mà là một thương gia. Như thế thì phải chăng chữ thuở xa xưa chính là cái đời trước hay kiếp trước.

Càng ngày ông Edgar Cayce càng chiêm nghiệm thấy rằng, ông đang khám phá ra một chân trời mới mà từ lâu nhiều người không biết tới. Trong thời gian chữa bệnh, nhiều bệnh nhân được ông tìm ra nguồn gốc bệnh và được lành, nhưng một số người cũng không vì thế mà tin hoàn toàn vào những gì gọi là kiếp trước, kiếp sau hay luân hồi.

Họ cũng thắc mắc hỏi ông là tại sao bản thân họ có kiếp trước như thế mà chính họ lại không biết mà ông lại biết? Ông Cayce đã trả lời rằng: "mỗi con người đều trải qua một thời gian dài đăng đẳng qua sự tiến hóa, do đó trong trí óc mỗi người đều tích chứa biết bao ký ức từ buổi xa xăm. Ta có thể thấy rõ điều đó qua phần khám phá của thuyết tiến hóa Charles Darwin, mà một thời bị nhiều người phê bình phản bác.

Đơn giản hơn cả là ta thấy con người sống trong thời đại văn minh ngày nay, vẫn còn có người thỉnh thoảng bộc lộ bản năng thú tính man dã của thời đại tiền sử xa xưa. Về thắc mắc tại sao phần lớn con người không nhớ lại được kiếp trước của mình, ông Caye cho rằng: Đừng nói tới chụyện kiếp trước, ngay trong đời hiện tại của chúng ta đây mà đôi khi cũng có nhiều việc ta không nhớ.

Có khi vừa mới nghĩ ra một việc thì rồi lại quên ngay. Như thế trí nhớ của con người rất hạn chế. Điều quan trọng là khi ta không nhớ những gì ta đã làm, những gì đã xảy ra trong giai đoạn thời gian nào đó của đời ta, thì không có nghĩa là không có bất cứ điều gì xảy ra vào thời gian đó.

Như vậy là vì do ta quên mà thôi chớ chính ta đã trãi qua nhiều việc trong đời, đời hiện tại không nhớ hết thì đời trước hay kiếp trước nếu có thì làm sao ta nhớ lại được?

Còn về thắc mắc: Tại sao ông Cayce lại biết được kiếp trước của người ông đang tìm nguồn gốc bệnh thì ông cho rằng: Khi chìm vào trạng thái thôi miên, ông như được làm trống bộ não khiến cho những hình ảnh đời sống hiện tại biến mất, chỉ còn chờ tiếp nhận những hình ảnh khác mà thôi.

Theo ông Cayce thì lúc ấy ông tiếp nhận được hình ảnh, sự việc từ trạng thái vô thức của người mà ông đang truy tầm căn nguyên bệnh chứng. Chính trạng thái vô thức của người đó đã lưu trữ những kinh nghiệm, những gì đã trải qua trong những kiếp đời người ấy, Theo ông Cayce thì trong trạng thái thôi miên, ông bắt gặp được ký ức của người mà ông đang lưu tâm tới một cách dễ dàng, nhờ tiềm thức chớ không phải bằng ý thức.

Lý do là khi ông tỉnh thức thì sẽ khó khăn về lúc tỉnh ông chỉ dùng ý thức mà thôi. Nhưng ý thức thì khó thăm dò tìm hiểu được tiềm thức của kẻ khác. Ngoài ra ông Cayce còn cho biết một sự kiện mà cho đến ngày nay khoa học chưa khám phá ra.

Theo ông thì trong vũ trụ có một chất rất đặc biệt giống như phim ảnh ghi nhận lại tất cả những gì đã xảy ra trong vũ trụ bất luận lớn nhỏ, xấu tốt, rõ ràng hay ẩn dấu... Do đó, mỗi kiếp đời mỗi người với mọi tình huống đều được ghi lại đầy đủ từng chi tiết, giống như trong thư viện muốn tìm đề tài, sự kiện gì thì cứ việc giở ra xem mà thôi.

Cũng theo ông Cayce thì mỗi người chúng ta đều có khả năng đọc được những gì đã ẩn tàng trong vũ trụ, tuy nhiên có người thu nhận dễ, nhưng cũng có vô số người không cảm thụ được. Những người bắt được nguồn thụ cảm đọc được các hình ảnh vừa kể, thường được gọi là những người có khả năng thấu thị hay thần nhãn, hoặc con mắt thứ ba hoặc huệ nhãn.

#284 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/07/2011 - 01:41

KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC GÌ

CHƯƠNG CHÍN

BÁC SĨ IAN STEVENSON TRẢ LỜI THẮC MẮC

VỀ SỰ NHỚ LẠI TIỀN KIẾP

Nhiều thắc mắc về vấn đề nhớ lại kiếp trước của mình, cũng đã được nhiều người Âu Mỹ nêu ra với giáo sư Bác sĩ lan Stevenson, nhà nghiên cứu nổi tiếng Hoa Kỳ về vấn đề tiền kiếp và luân hồi.

Theo bác sĩ Stevenson thì ông may mắn đã trực tiếp với vô số người có khả năng nhớ lại kiếp nước của họ. Chính ông cũng bị ray rức bởi câu hỏi vừa nêu, nên ông đã áp dụng phương pháp thống kê khoa học để phân loại các hồ sơ, có kết quả như sau:

Phần đông những người nhớ lại kiếp trước của họ đều kể rằng, họ chết lúc còn bé. Như thế phần lớn những trẻ con chết sớm, khi tái sinh sẽ nhớ lại tiền kiếp của chúng rất rõ, một số rất nhiều trường hợp trong hồ sơ kể về kiếp trước, phần lớn do những trẻ con tường thuật lại.

Ngoài ra những người chết bất ngờ về tai nạn, bị giết, hay những người tự tử chết, khi tái sinh thường nhớ rõ tiền kiếp mình. Bác sĩ Stevenson còn đưa ra vài nhận xét qua kinh nghiệm nghiên cứu vấn đề nhớ lại Tiền kiếp như sau:

"Những người có trí nhớ tốt, những người quá ham sống mà phải lìa đời, những người có quá nhiều hoài bảo, nhiều việc cần làm nhưng bị dở dang vì chết bất ngờ, có người chết khi con còn nhỏ dại, mới cưới vợ hay mới lấy chồng thì bị chết tức tưởi... khi tái sinh thường nhớ rõ tiền kiếp mình".

Về vấn đề nhớ nhiều hay nhớ ít hoặc không còn nhớ chút gì về tiền kiếp, thì bác sĩ Stevenson cũng dựa vào xác xuất thống kê qua các hồ sơ, ông nghiên cứu để phác họa một sơ đồ về khả năng nhớ lại tiền kiếp như sau:

- Từ hai tới năm tuổi. trẻ nhớ rõ tiền kiếp hơn cả.

- Từ sáu tuổi tới mười hai tuổi, sự nhớ về kiếp trước không liên tục.

- Từ hai mươi tuổi trở lên, sự nhớ lại tiền kiếp mù mờ, rồi không còn nhớ nữa

Một số nhà nghiên cứu vấn đề Tiền kiếp còn cho biết rằng: Từ 20 tuổi trở về sau đôi khi bất chợt nhớ lại kiếp trước qua một số hình ảnh, âm thanh, màu sắc hay câu chuyện nghe thấy hoặc đọc qua...

Ví dụ có người tới một nơi mà họ tự nhiên ngờ ngợ rằng: "Hình như nơi đây mình đã có lần sinh sống hay đặt chân đến rồi". Sự kiện này thường xảy ra ở nhiều người đó là sự khơi đậy tiền kiếp qua hình ảnh nơi chốn.

Cũng có khi sự khơi dậy chỉ phát sinh qua giấc mộng mà thôi như: mơ thấy bị rượt đuổi, đi trể giờ, bị ngạt thở hay đói khát, thấy nước mênh mông hoặc tới một vùng âm u rừng rậm.

Các nhà tâm sinh lý cho rằng đó là do có vấn đề liên quan bệnh tim mạch. Nhưng đối với nhà nghiên cứu về luân hồi, thì đó là một trong những sự cố đã xảy ra trong tiền kiếp, mà người ấy đã nhớ lại qua giấc mộng chớ không qua trí nhớ bình thường.


ÐẠI ÐỨC K. DHAMMANANDA GIẢI THÍCH VỀ SỰ

NHỚ LẠI KIẾP TRƯỚC CỦA MÌNH?


Trong cuốn: Bạn tin có tái sanh của Đại Đức K.Sri Dhammananda. Minh Tuệ dịch thuật, nhà xuất bản Hoa Sen, sàigòn 1974. Đại đức K.Sri Dhammananda còn cho biết, những hạng người với những tình huống nào khiến cho sự nhớ về tiền kiếp khó khăn. Dưới đây là một đoạn giải thích vấn đề này như sau (xin được trích dẫn nguyên văn):

Phần đông loài người không hề nhớ rõ những gì trong ấu thời của mình và cũng chẳng biết đến ngày chào đời nữa. Người ta cho rằng, đối với những hạng chúng sinh dưới đây, khó có thể nhớ lại tiền kiếp mình nếu và khi người ấy được sanh lên làm người:

1. Mà người ấy chết yểu.

2. Mà người ấy chết già.

3. Mà người ấy bị nghiện nặng về thuốc hay rượu.

4. Mà mẹ người ấy, trong thời kỳ thai nghén hay ốm đau hoặc phải lao động vất vả, hoặc thường bất cẩn hay đần độn trong khi mang thai.

5. Mà người ấy khi còn thai nhi đã bị bấn loạn và kinh dị mất cả sự ý thức về tiền kiếp của mình.


TẠI SAO TUỔI CÀNG LỚN, SỰ NHỚ VỀ KIẾP

TRƯỚC CÀNG GIẢM HAY MẤT HẲN?


Bác sĩ Ian Stevenson đã nghiên cứu hàng ngàn trường hợp liên hệ tới vấn đề nhớ lại kiếp trước. Bác sĩ phân tích trong 300 trường hợp mà ông đã tiếp xúc trực tiếp với chính các nhân chứng. Sau khi phân tích đầy đủ các mặt, bác sĩ đã đi đến một nhận định sơ khởi như sau:

Khi đứa bé chào đời, trí óc nó trong cuộc đời mới đặt chân vào như một tờ giấy trắng. Vì thế quá khứ của nó thì gần gũi với nó hơn là hiện tại. Do đó nó dễ dàng nhớ về quá khứ. Càng ngày đứa bé càng lớn lên dĩ nhiên nó tiếp xúc nhiều hơn với môi trường, cuộc sống và những người chung quanh.

Thế là những hình ảnh của quá khứ hay kiếp trước của nó bị các hình ảnh thực tại chồng chất dần lên, làm cho hình ảnh có trước bị mờ dần đi. Đó là chưa nói tới ảnh hưởng của những sự dạy dổ của cha mẹ, trường đời, tập quán.

Tuy nhiên ký ức cũ vẫn dễ dàng khơi động lại khi bất ngờ đứa bé bắt gặp hình ảnh, âm thanh, tình huống chung quanh xảy ra trường hợp với những gì đã xảy ra trong kiếp trước của nó.

Theo Bác sĩ Stevenson thì hình ảnh quá khứ hay tiền kiếp phai mờ dần, khi tuổi đời mỗi người tăng lên là do môi trường sống, cuộc sống, hoàn cảnh trong đời hiện tại xâm chiếm tâm trí làm cho hình ảnh xa xưa bị dồn ép vào tận cùng sâu thẳm của ký ức...

Cũng theo bác sĩ Stevenson thì dù chưa tìm ra cội nguồn của sự quên về kiếp trước, nhưng dù sao thì sự quên quá khứ hay tiền kiếp cũng có cái hữu ích của nó, vì giúp mỗi con người yên tâm với cuộc sống mới cuộc đời mới.

Nhớ lại đời trước hay kiếp nước cho thêm ngậm ngùi chớ chẳng ích gì. Nếu nhớ lại kẻ đã hãm hại mình kiếp trước thì càng làm cho căm giận buồn khổ mà thôi chớ có lợi gì đâu. Trãi qua bao kiếp đời là bao cuộc xáo trộn đảo điên diễn ra.

Trong cuốn Luân Hồi của soạn giả Chánh trí Võ Văn Ðạt (Nhà xuất bản Thế giới - USA 1995) có viết như sau: "..nêú không quên đi quá khứ làm sao đóng trọn được vai trò, để giải quyết cho xong những mắc míu ân đền oán trả, vốn đã ràng buộc với nhau từ trong một quá khứ nào đó..."

Tuy nhiên nếu nhớ được hay biết được tiền kiếp thì những gì xảy ra từ tiền kiếp, sẽ là những bài học kinh nghiệm để kiếp sống này và kiếp kế tiếp, được tốt lành hơn vì quả thật luân hồi là một chuổi tiến hóa tiếp diễn.

#285 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/07/2011 - 02:03

KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC GÌ

CHƯƠNG MƯỜI

DẤU TÍCH LUÂN HỒI BIỂU HIỆN QUA NHỮNG NGƯỜI LIÊN HỆ,

THÂN THUỘC. LUÂN HỔI TÁI SINH GIẢI ÐÁP VẤN ÐỀ HÔN NHÂN

Trên thế giới nhiều người đã có sự nhận xét giống nhau về một vấn đề: đó là sự tương quan về nhân dáng diện mạo giữa chồng và vợ. Phần lớn một cặp vợ chồng thường có những nét giống nhau về gương mặt và đôi khi cả tánh tình.

Có nhiều vợ chồng thoạt mới nhìn qua ai cũng tưởng đó là hai anh em. Nếu xét về mặt tánh tình thì có thể bảo rằng vì sống gần nhau họ sẽ chịu ảnh hưởng về cá tính của nhau. Nhưng trên thế giới, thật sự những người có tánh tình tương tự nhau mới hợp được nhau, mới khiến họ tìm đến nhau và dễ tiến tới hôn nhân (đồng thanh tương ứng, đồng chí tương cầu là vậy).

Nếu xét về diện mạo thì khó mà giải thích theo lập luận nào. Vì quả thật vợ chồng không đồng chung huyết thống, mỗi người thuộc một dòng dõi riêng. Vậy mà như đã trình bày ở trên, có lắm cặp vợ chồng có gương mặt tương tự nhau và ai trong chúng ta cũng có lần thấy rõ điều đó.

Nguyên nhân nào đã khiến những người này liên hệ, kết hợp với nhau để thành vợ chồng? Theo các nhà tâm lý học thì một trong những nguyên nhân đáng kể là sự "gặp lại hình ảnh của chính mình". Những cặp vợ chồng ấy trước đây sống riêng lẽ, khi mới gặp nhau, quen biết nhau, họ đối mặt nhau và mỗi người tự cảm nhận một hình ảnh thân thuộc lạ lùng từ người kia mà họ chưa định rõ là gì.

Cái hình ảnh thân thuộc ấy chính là những nét giống họ về gương mặt mà thường ngày họ bắt gặp trong lúc soi gương... Tuy nhiên, điều cần lưu ý là không phải cặp vợ chồng nào cũng đều có gương mặt tương tợ nhau, mà trái lại có những cặp vợ chồng lại khác nhau một trời một vực về diện mạo và cả tánh tình.

Những nhà nghiên cứu về các hiện tượng siêu linh đã đưa vào một vài thuyết tôn giáo, trong đó có thuyết luân hồi để giải thích và làm sáng tỏ phần nào vấn đề này.

Hôn nhân có nguồn gốc từ tiền kiếp. Ở kiếp này khi hai người nam nữ cùng nhau đi đến hôn nhân vợ chồng, quyết định sống bên nhau trọn đời, thì thật ra điều đó không có nghĩa là điều mới được quyết định.

Theo thuyết luân hồi, chính nhân duyên từ kiếp trước đã là quyết định thế nào họ cũng gặp nhau vì nhân duyên (nhân duyên được hiểu đơn giản là Nhân cái này mà sinh ra cái kia (quả) như nhân có hạt giống mà sinh ra quả.

Nhân duyên có 12 thứ: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, thủ, hữu, sinh, lão và tử xem ý nghĩa 12 nhân duyên. Duyên giữa trai gái để trở thành vợ chồng) Nguyễn Du có câu thơ: Có nhân duyên, có vợ chồng).

Chính sợi dây duyên nghiệp sẽ nối kết trói buộc hai người lại với nhau. Khi hai người nam nữ gặp nhau, cảm tình với nhau, mong ước được cùng nhau sống hạnh phúc dưới một mái nhà, họ vẫn tưởng họ là hai người xa lạ không quen biết nhau và chỉ gặp nhau qua sự giới thiệu hoặc sự tình cờ nhưng thật sự họ ÐÃ QUEN BIẾT NHAU TỪ KIẾP TRƯỚC, hay nói khác đi là họ đã có duyên nghiệp với nhau từ kiếp trước.

Duyên nghiệp gồm có nghiệp và duyên theo nhau để tạo nên quả báo. Có thể trước đây người này đã gây đau khổ cho người kia (về khía cạnh nào đó) và trái lại. Hoặc trước đây hai người vẫn còn mối liên hệ ràng buộc nào đó chưa dứt cần phải có thêm thời gian nữa mới mong trả hết cho nhau...

Vì thế mà họ phải gặp lại nhau ở kiếp kế tiếp. Có thể trước đó họ là anh em trong một nhà, hay cùng một giòng giõi, thân thuộc. Do đó không lạ gì khi có những cặp vợ chồng có gương mặt thường giống nhau như hai anh em.

Ngoài ra tùy theo duyên nghiệp mà cặp vợ chồng sống với nhau thuận hòa hạnh phúc hay lại xung đột, cải vả, bất hòa khổ đau, chán chường để rồi đi đến ly hôn, ly dị, đôi khi còn coi nhau như kẻ thù.

Có những cặp vợ chồng mới cưới nhau một thời gian ngắn đã vội lìa nhau. Thời gian chung sống với nhau ấy tùy thuộc vào nghiệp quả (Giống nghiệp báo chỉ sự báo ứng. của những gì mà trước đó người này đã tác động lên người kia nhiều hay ít, dữ hay lành...)

Nhiều người ở tiền kiếp đã có nhiều nghiệp duyên với người khác và nếu chưa trả hết thì đến kiếp này họ phải trả. Vì thế có nhiều người đã phải trải qua nhiều cuộc hôn nhân, mà không được hưởng hạnh phúc của một vợ một chồng.

Theo những nhà nghiên cứu và thực hành phương pháp tìm về quá khứ hay tiền kiếp của con người, như nhà vật lý học Pháp P.Drouot, Morris Nettherton, Cayce, N.Kchan... thì có nhiều người trong những thời gian của những tiền kiếp khác nhau, đã là vợ chồng của nhau nên bị cái hấp lực mạnh của nhau tác động vào, vì thế đến kiếp này họ vẫn còn liên hệ ràng buộc với nhau theo kiểu tự nguyện.

Dĩ nhiên phần lớn những trường hợp này họ dễ hòa thuận với nhau hơn là xung khắc, vì họ đã biết nhau nhiều hơn qua nhiều kiếp và chắc chắn họ sẽ dễ đạt thành công trên đường đời. Có nhiều trường hợp ở tiền kiếp người này vì có nghiệp duyên với người kia quá nặng, nên đến kiếp này họ tự nhiên bị ám ảnh bởi một sự hối thúc tìm gặp người kia và đôi khi người kia chẳng biết.


LUÂN HỒI TÁI SINH GIẢI ÐÁP VẤN ÐỀ NGƯỜI THÂN THUỘC


Ðối với trường hợp cha mẹ anh em cũng vậy, đã có những sự liên hệ nhân quả nào đó giữa cha, mẹ, anh em, con cái với nhau ở tiền kiếp. Cha mẹ dĩ nhiên có liên quan với con cái không phải xét về mặt di truyền và tình cảm ruột thịt, mà xét về mặt luân hồi. Con cái và cha mẹ có những sợi dây liên hệ ràng buộc nhau.

Có thể kiếp trước người cha, người mẹ, những người con có nghiệp căn nào đó và kiếp này gặp lại nhau để tiếp tục hoàn tất những gì theo nghiệp quả báo ứng. Chuyện cái cân thủy ngân là câu chuyện giả tưởng trong dân gian, một phần nào đã nói lên hình thức báo ứng của cha mẹ và con cái.

Ngoài ra cũng phải hiểu thêm rằng để có cơ hội gần gũi sâu xa hơn, những đứa con đã mượn chỗ đầu thai ở cõi trần của kiếp này qua phương tiện là cha mẹ. Sự liên hệ của người con không phải luôn cả với cha và mẹ, mà có thể người con chỉ có sự liên hệ nghiệp quả ràng buộc với người mẹ, mà không phải người cha hoặc có khi trái lại.

Vì thế thường có trường hợp có sự bất hợp ý hay dửng dưng, tẻ nhạt hoặc thương yêu, gắn bó mật thiết giữa mẹ con hay cha con tùy theo duyên nghiệp phát sinh từ tiền kiếp. Trong dân gian thường cho rằng: cha mẹ, con cái, vợ chồng thật ra đều là oan trái nghiệp quả của nhau cả.

Những kẻ cùng sống chung một nhà hay tranh cãi, xung khắc, bất hòa chán ghét nhau cũng đều có nguyên nhân từ tiền kiếp, có thể họ đã gây đau khổ cho nhau nên mới phải trả quả đã gây ra.

Thuyết luân hồi nhân quả còn cho rằng "có thể nhìn cuộc sống của con cái và cha mẹ với nhau trong một gia đình, cách đối xử, nuôi nấng, chăm sóc, tình phụ tử, mẫu tử nồng nàn hay tẻ lạnh của họ, mà đoán được sự liên hệ ràng buộc của những con người ấy với nhau ở tiền kiếp”.

Ở kiếp trước có thể họ là anh em, là chị em, là cha con là mẹ con, là bạn bè với nhau và đã tạo ra những nghiệp quả nào đó nên kiếp này vẫn phải còn liên hệ ràng buộc, để hoàn tất những gì chưa giải quyết hết.

Riêng về anh, chị em trong gia đình cũng như thương yêu, ganh ghét, hay đôi khi xung khắc căm thù nhau, đều là nhũng dấu vết biểu hiện của luân hồi. Có thể ở kiếp trước họ là những người khác nhau về chí hướng, chủng tộc hoặc có sự tranh chấp đố kỵ nhau, hay cũng có thể ở kiếp trước họ là hai vợ chồng hoặc là hai người bạn thân...

Câu chuyện có thật sau đây xảy ra tại Hoa Kỳ và đã được báo chí ở Hoa Kỳ đăng tải vào năm 1991. Bà Gilllian sống ở tiểu bang Colorado, năm 1986 bà sinh hạ được một cháu bé kháu khỉnh đặt tên là Mandy.

Nhưng không may cho bà Gillian, cháu bé chỉ sống được bốn tháng thì qua đời. Bà Gillian vô cùng đau khổ, bà khóc than vật vã bên mộ huyệt, bà đã té xỉu và khi tỉnh dậy lại muốn nhào xuống huyệt theo con...

Một thời gian sau, bà Gillian có chuyện bất hòa với chồng, họ ly dị nhau và sau đó bà Gillian có thai với người chồng thứ hai. Lần này bà cũng sinh hạ được một cháu bé kháu khỉnh và bà lại đặt lên là Mandy để nhớ lại đứa con gái bất hạnh của mình trước đây.

Năm Mandy lên 4 tuổi, bà Gillian đưa cháu đến nghĩa trang để thăm mộ Mandy, chị gái cháu bé. Khi vừa đến gần mộ chí, bé Mandy bỗng nhiên nói to lên có vẻ thích thú: "Má, Má? đây là nơi mà ngày xưa má đã đặt con xuống dưới cái hố sâu trong đất. Lúc đó má khóc nhiều lắm và má đã suýt rơi xuống cái hố đất ấy rồi, má có còn nhớ không?"

Bà Giiiian vừa ngạc nhiên vừa kinh hãi. Bà không ngờ con bà mới bốn tuổi mà đã nói lên câu nói lạ lùng và trôi chảy như người lớn. Điều kỳ dị là bà chưa bao giờ kể chuyện bé Mandy, con gái đầu lòng của bà chết ra sao và an táng thế nào cho bé Mandy, đứa con thứ hai của bà nghe cả.

Vậy phải chăng bé Mandy con bà hiện đang sống với bà chính là bé Mandy ngày trước và đã lìa đời? phải chăng bé Mandy, đứa con thứ hai của bà là hậu thân của đứa con gái thứ nhất của bà?

Từ đó bà Gillian cảm thấy sung sướng yêu đời bà thường ôm Mandy vào lòng và nói: “tôi cảm thấy có được tất cả và con tôi là tất cả..." Câu chuyện có thật ấy là một chứng cớ điển hình về những gì thuộc về tiền kiếp và hậu kiếp.

Thời gian chuyển đổi từ kiếp này qua kiếp khác, đôi khi rất xa hay đôi khi rất gần. Ngoài ra người thân thuộc trong một gia đình có khi lìa đời rồi vẫn có thể quay trở lại, đầu thai làm con hay cháu trong gia đình.






Similar Topics Collapse

11 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 11 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |  
Vượng
Thịnh
Khang
An