5
831 replies to this topic
#1
Gửi vào 05/06/2011 - 02:04
NHỮNG HUYỀN NHIỆM TRÊN HY MÃ LẠP SƠN
TÔN GIÁO VÀ THỊ TỘC RA ÐỜI SAU MỘT THỜI GIAN DÀI KỂ TỪ KHI LOÀI NGƯỜI XUẤT HIỆN..
Lúc bấy giờ con người sống thành từng bầy, lấy đá làm thành những công cụ lao động, đào bới, trồng trọt, chặt phá…săn bắt thú rừng, hái lượm hoa quả v.v… Con người của thời cổ đại còn có hình thù như các loài vượn, tiếng nói còn đơn giản để truyền tin cho nhau…
Nhưng rồi… là một loài vốn tối linh hơn muôn vật, dần dà qua những hoạt động vì nhu cầu cần thiết, tự cải biến và từ từ hoàn thiện. Trí thông minh phát triển, con người biết tìm ra lửa. Từ đó nền văn minh “lửa”xuất hiện; loài người bắt đầu ăn đồ chín, biết sưởi ấm mùa đông, biết sử dụng lửa để chống trả hay đề phòng thú dữ…
Kể từ đó tính đến ngày nay đã từ ba đến bốn chục ngàn năm dẫn đến sáu ngàn năm… trải qua một quá trình lắm chông gai khắc khổ,trí tuệ mở mang hơn, nhìn lên tận trên mây xanh biết đó là trời, nhìn xuống nơi mình đang đứng biết đây là đất, chung quanh là núi non trùng điệp, xa xa là sông ngòi, xa hơn nữa là bể cả mênh mông…
Những hiện tượng sóng gào, gió thét, những tảng đá ven đường… tất cả những thứ đó là các thần linh được Ðấng Tối Cao sai xuống ngự trị trần gian kiểm soát các hành động của con người dưới thế, thay uy trời mà thưởng phạt phân minh: Người làm điều thiện thì khen thưởng chỉ cho con đường về Cội Phúc, kẻ làm điều ác thì đưa vào Ðịa Ngục…
Cũng kể từ đó loài người sống theo tổ chức thị tộc: Biết quan hệ huyết thống, chống lại quan hệ tạp hôn... nương tựa lẫn nhau mà sống. Trí tuệ dần dà phát triển, tận dụng sức lao động, phát triển trí thông minh...
Tôn Giáo và Nghệ Thuật cũng đồng thời xuất hiện đem lại những thành tựu nhất định. Chính sự chuyển biến sang xã hội thị tộc cùng một lúc hình thành con người Homo Sapiens, đó là con người hiện đại hay nói khác là con người khôn ngoan tân cổ...
Rồi 400 năm Tr.CN trên dòng lưu vực sông Nil của xứ sở Ai Cập, một Nhà Nước sơ khai... hình thành có vị vua Pharaon đầu tiên ra đời... Cũng 4000 Tr CN, các thành thị bắt đầu mọc ra ở đồng bằng Tigre và Euphrate... giống người Urbaidians ở Lưỡng Hà xuất hiện...
Rồi 3000 đến 2000 Tr.CN sự phát triển được xem là thịnh đạt vào giai đoạn Cổ vương quốc ở Ai Cập, nơi được xem là rất thịnh đạt về mọi mặt, nhất là về mặt nghệ thuật và cấu trúc cho mãi đến thế kỷ 21 con người mới bắt đầu đi vào vũ trụ chuẩn bị cho một cuộc ngự trị không gian vẫn còn chưa biết người Ai Cập cổ xưa làm thế nào mà xây được Kim Tự Tháp một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại?
Từ năm 3000 đến 1900 Tr.CN nền văn minh lưu vực Indus phát triển ngoài sức tưởng tượng của con người, nhiều phố phường xuất hiện như Harappa và Mohenjo Daeo... đầy đủ tiện nghi... trong đời sống...
Đến khoảng 2800 Tr.CN khai sáng ra nền văn minh Minoan đặt theo tên một vì vua huyền thoại... Rồi qua những năm tháng dài theo tuần tự từ Sargon Đại Đế bắt đầu thực hiện chủ nghĩa thực dân chinh phục người Summer, lập nên một đất nước Akkad-Summer cường thịnh...
Nhà Hạ cũng xuất hiện từ dạo ấy. Đây là triều đại đầu tiên của lịch sử Trung Hoa... Sau đó là người Hebreux tức người Do Thái bây giờ có ông vua đầu tiên xâm nhập vào đất Canaan. Kế đến quốc gia Palestine được dựng lên song song với đạo Do Thái hình thành...
Một Thế Vận Hội đầu tiên vào năm 776 Tr.CN tổ chức tại Hy Lạp, bắt nguồn từ sự thi đua nhau rèn luyện thân thể để mong đạt được chức vô địch...Tổ chức này bốn năm một lần thi thố, đầu tiên là tại Olempia tức Olympic ngày nay.
Tóm lại kể từ thời Bàn Cổ mở mang, đời Tam Hoàng cai trị đến đời Ngũ Đế định ra nhân luân và sau đó thì đến năm châu, bốn bể con người sinh sôi nẩy nở, từ chỗ mờ mịt hỗn mang đến khi con người cảm thấy được cái thiện và cái ác mà tự áp đặt đến tính tu trì, kể từ đó mới sinh ra "đạo lớn".
Thời Tùy Đường đúng là thời điểm Phật Giáo tại đất nước Trung Hoa, được đánh giá là thời kỳ cực thịnh. Thời Tùy đã có đến 5.000 ngôi chùa, ngót cả 2.000 bộ kinh được chuyển dịch ra từ chữ Phạn tính ra có đến năm, sáu ngàn quyển...
Đến thời Đường đã có hơn 40.000 ngôi chùa, tăng ni gần cả ba trăm. Tính chùa Phật không thôi, đã có đến hơn nghìn vạn khoảnh đất, số lượng chú tiểu đạt đến con số 150.000... Kinh Phật tính ra ước khoảng 67.000, riêng đời Đường dịch hơn 400 bộ, hơn 200 quyển...
Trong thời gian từ Tùy đến Đường, có đến tám tông phái đó là:
1. Thiên Thai tông do Trí Khải cầm đầu.
2. Tam Luận tông do Cát Tạng sáng lập.
3. Duy Thức tông do Huyền Trang lập ra được đặc biệt chú ý.
4. Luật Tông do Đạo Tuyên sáng lập.
5. Hiền Thủ tông do Pháp Tạng.
6.Thiền Tông do Đạt Ma sáng lập.
7. Tịnh Độ Tông do Đạo Xước và Thiện Đạo dựng lên.
8. Mật Tông do ba vị Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí và Bất Không... Ba vị Hòa Thượng này là người bên Ấn Độ được người đời lúc bấy giờ gọi là "Khai Nguyên Tam Đạo Sư".
Như trên đã nói một trong các vị cao tăng tiếng tăm lẫy lừng đời Đường là Huyền Trang được mọi người cho là một nhà tu hành đáng ca tụng và nhắc nhở đến nhất.
Phật giáo được truyền vào TÂY TẠNG từ đời nhà Đường. Qua một quá trình lâu dài, Phật giáo tại đây hình thành một "tôn giáo tín ngưỡng riêng của toàn dân Tây Tạng. Tín ngưỡng đặc biệt cho Tây Tạng lại được chia ra bốn giáo phái. Đó là:
a. Minh Ma phái tục xưng là Hồng giáo.
b. Tát Già phái, tục xưng là Hoa giáo.
c. Hạt Cử phái tục xưng Bạch giáo.
d. Cách Lỗ phái tục xưng Hoàng giáo.
Trong bốn phái này, về sau kể từ đời Minh Thanh mãi đến nay phái Hoàng giáo chiếm địa vị tối cao nắm giữ vai trò chính thống. Như ta thấy các vị Đạt Lai, các Ban Thiền đều thuộc về phái Hoàng giáo này.
Chuyện gì xảy ra nơi Hy Mã Lạp Sơn, nơi dẫy đầy những chuyện huyền bí mầu nhiệm này?
TÔN GIÁO VÀ THỊ TỘC RA ÐỜI SAU MỘT THỜI GIAN DÀI KỂ TỪ KHI LOÀI NGƯỜI XUẤT HIỆN..
Lúc bấy giờ con người sống thành từng bầy, lấy đá làm thành những công cụ lao động, đào bới, trồng trọt, chặt phá…săn bắt thú rừng, hái lượm hoa quả v.v… Con người của thời cổ đại còn có hình thù như các loài vượn, tiếng nói còn đơn giản để truyền tin cho nhau…
Nhưng rồi… là một loài vốn tối linh hơn muôn vật, dần dà qua những hoạt động vì nhu cầu cần thiết, tự cải biến và từ từ hoàn thiện. Trí thông minh phát triển, con người biết tìm ra lửa. Từ đó nền văn minh “lửa”xuất hiện; loài người bắt đầu ăn đồ chín, biết sưởi ấm mùa đông, biết sử dụng lửa để chống trả hay đề phòng thú dữ…
Kể từ đó tính đến ngày nay đã từ ba đến bốn chục ngàn năm dẫn đến sáu ngàn năm… trải qua một quá trình lắm chông gai khắc khổ,trí tuệ mở mang hơn, nhìn lên tận trên mây xanh biết đó là trời, nhìn xuống nơi mình đang đứng biết đây là đất, chung quanh là núi non trùng điệp, xa xa là sông ngòi, xa hơn nữa là bể cả mênh mông…
Những hiện tượng sóng gào, gió thét, những tảng đá ven đường… tất cả những thứ đó là các thần linh được Ðấng Tối Cao sai xuống ngự trị trần gian kiểm soát các hành động của con người dưới thế, thay uy trời mà thưởng phạt phân minh: Người làm điều thiện thì khen thưởng chỉ cho con đường về Cội Phúc, kẻ làm điều ác thì đưa vào Ðịa Ngục…
Cũng kể từ đó loài người sống theo tổ chức thị tộc: Biết quan hệ huyết thống, chống lại quan hệ tạp hôn... nương tựa lẫn nhau mà sống. Trí tuệ dần dà phát triển, tận dụng sức lao động, phát triển trí thông minh...
Tôn Giáo và Nghệ Thuật cũng đồng thời xuất hiện đem lại những thành tựu nhất định. Chính sự chuyển biến sang xã hội thị tộc cùng một lúc hình thành con người Homo Sapiens, đó là con người hiện đại hay nói khác là con người khôn ngoan tân cổ...
Rồi 400 năm Tr.CN trên dòng lưu vực sông Nil của xứ sở Ai Cập, một Nhà Nước sơ khai... hình thành có vị vua Pharaon đầu tiên ra đời... Cũng 4000 Tr CN, các thành thị bắt đầu mọc ra ở đồng bằng Tigre và Euphrate... giống người Urbaidians ở Lưỡng Hà xuất hiện...
Rồi 3000 đến 2000 Tr.CN sự phát triển được xem là thịnh đạt vào giai đoạn Cổ vương quốc ở Ai Cập, nơi được xem là rất thịnh đạt về mọi mặt, nhất là về mặt nghệ thuật và cấu trúc cho mãi đến thế kỷ 21 con người mới bắt đầu đi vào vũ trụ chuẩn bị cho một cuộc ngự trị không gian vẫn còn chưa biết người Ai Cập cổ xưa làm thế nào mà xây được Kim Tự Tháp một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại?
Từ năm 3000 đến 1900 Tr.CN nền văn minh lưu vực Indus phát triển ngoài sức tưởng tượng của con người, nhiều phố phường xuất hiện như Harappa và Mohenjo Daeo... đầy đủ tiện nghi... trong đời sống...
Đến khoảng 2800 Tr.CN khai sáng ra nền văn minh Minoan đặt theo tên một vì vua huyền thoại... Rồi qua những năm tháng dài theo tuần tự từ Sargon Đại Đế bắt đầu thực hiện chủ nghĩa thực dân chinh phục người Summer, lập nên một đất nước Akkad-Summer cường thịnh...
Nhà Hạ cũng xuất hiện từ dạo ấy. Đây là triều đại đầu tiên của lịch sử Trung Hoa... Sau đó là người Hebreux tức người Do Thái bây giờ có ông vua đầu tiên xâm nhập vào đất Canaan. Kế đến quốc gia Palestine được dựng lên song song với đạo Do Thái hình thành...
Một Thế Vận Hội đầu tiên vào năm 776 Tr.CN tổ chức tại Hy Lạp, bắt nguồn từ sự thi đua nhau rèn luyện thân thể để mong đạt được chức vô địch...Tổ chức này bốn năm một lần thi thố, đầu tiên là tại Olempia tức Olympic ngày nay.
Tóm lại kể từ thời Bàn Cổ mở mang, đời Tam Hoàng cai trị đến đời Ngũ Đế định ra nhân luân và sau đó thì đến năm châu, bốn bể con người sinh sôi nẩy nở, từ chỗ mờ mịt hỗn mang đến khi con người cảm thấy được cái thiện và cái ác mà tự áp đặt đến tính tu trì, kể từ đó mới sinh ra "đạo lớn".
Thời Tùy Đường đúng là thời điểm Phật Giáo tại đất nước Trung Hoa, được đánh giá là thời kỳ cực thịnh. Thời Tùy đã có đến 5.000 ngôi chùa, ngót cả 2.000 bộ kinh được chuyển dịch ra từ chữ Phạn tính ra có đến năm, sáu ngàn quyển...
Đến thời Đường đã có hơn 40.000 ngôi chùa, tăng ni gần cả ba trăm. Tính chùa Phật không thôi, đã có đến hơn nghìn vạn khoảnh đất, số lượng chú tiểu đạt đến con số 150.000... Kinh Phật tính ra ước khoảng 67.000, riêng đời Đường dịch hơn 400 bộ, hơn 200 quyển...
Trong thời gian từ Tùy đến Đường, có đến tám tông phái đó là:
1. Thiên Thai tông do Trí Khải cầm đầu.
2. Tam Luận tông do Cát Tạng sáng lập.
3. Duy Thức tông do Huyền Trang lập ra được đặc biệt chú ý.
4. Luật Tông do Đạo Tuyên sáng lập.
5. Hiền Thủ tông do Pháp Tạng.
6.Thiền Tông do Đạt Ma sáng lập.
7. Tịnh Độ Tông do Đạo Xước và Thiện Đạo dựng lên.
8. Mật Tông do ba vị Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí và Bất Không... Ba vị Hòa Thượng này là người bên Ấn Độ được người đời lúc bấy giờ gọi là "Khai Nguyên Tam Đạo Sư".
Như trên đã nói một trong các vị cao tăng tiếng tăm lẫy lừng đời Đường là Huyền Trang được mọi người cho là một nhà tu hành đáng ca tụng và nhắc nhở đến nhất.
Phật giáo được truyền vào TÂY TẠNG từ đời nhà Đường. Qua một quá trình lâu dài, Phật giáo tại đây hình thành một "tôn giáo tín ngưỡng riêng của toàn dân Tây Tạng. Tín ngưỡng đặc biệt cho Tây Tạng lại được chia ra bốn giáo phái. Đó là:
a. Minh Ma phái tục xưng là Hồng giáo.
b. Tát Già phái, tục xưng là Hoa giáo.
c. Hạt Cử phái tục xưng Bạch giáo.
d. Cách Lỗ phái tục xưng Hoàng giáo.
Trong bốn phái này, về sau kể từ đời Minh Thanh mãi đến nay phái Hoàng giáo chiếm địa vị tối cao nắm giữ vai trò chính thống. Như ta thấy các vị Đạt Lai, các Ban Thiền đều thuộc về phái Hoàng giáo này.
Chuyện gì xảy ra nơi Hy Mã Lạp Sơn, nơi dẫy đầy những chuyện huyền bí mầu nhiệm này?
Thanked by 1 Member:
|
|
#2
Gửi vào 06/06/2011 - 21:32
CHƯƠNG MỘT
BÍ MẬT NƠI CỔ HIỀN THẠCH ĐỘNG
Một chiều đầu xuân khí trời thật ấm. Cảnh vật hoàn toàn yên tĩnh. Từng cụm mây lơ lửng bay trên các rặng cây xanh đen và luôn cả mấy ngọn Tuyết Sơn trắng xóa nằm đối diện với ngọn Phổ Đà La lúc nào trông cũng có vẻ hiền hòa trầm lặng...
Càng về chiều sắc trời càng sậm lại. Một màu vàng ối trải dài lên các dãy phố của thành Lạt Sa nằm khép mình giữa lòng thung lũng. Bên dưới chân đồi đoàn khách thương Ấn Độ hối hả đi về hướng Tây Môn của thành Bát Nhã.
Cùng lúc đoàn người hành hương nối đuôi nhau rảo bước vòng theo con lộ Linh Cơ ngoằn ngoèo, xương xẩu. Từ đỉnh cao nhìn xuống trông như thể con khủng long đang cuộn mình quanh sườn núi.
Dòng sông Châu lặng lờ chảy xuôi theo những lượn sóng lăn tăn như muôn ngàn con rắn lửa đang chập chờn uốn lượn. Thành Lạt Sa thấp thoáng các ánh đèn thắp bằng dầu bơ sản xuất từ mỡ bò, trông hệt như các ngôi sao le lói sáng tận trên nền trời xa tít góp phần trầm buồn cho cảnh trí chiều hôm...
Màn đêm từ từ buông xuống. Hàng ngàn ánh nến xuyên qua các khung cửa của ngôi đền tận đỉnh Phổ Đà La rực lên như cả một rừng hoa đăng lấp lánh. Bên trong đền thấp thoáng các nhà sư đang làm công quả. Đâu đó trên vòm trời một cánh sao băng vụt lóe lên tia sáng xanh lè trước khi sa xuống mặt địa cầu trông như đám bụi mờ tàn rụi...
Chúng tôi sững sờ nhìn cái huyền diệu của trời đất nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ. Tiếng hú của gió, tiếng kêu nỉ non của côn trùng, tiếng kèn đồng thu không gần như lạc giọng hòa lẫn với tiếng cầu kinh nghe như một điệp khúc trầm buồn vọng lại từ mải dưới tận chân đồi.
- Lỗ San ơi! Đêm nay trời đẹp lắm!
Rồi cũng với giọng hiền hòa ấy hướng về phía chú Chécour lặp lại:
- Có phải thế không Abdul Chécour ? Đêm nay trời đẹp lắm!
Chúng tôi chỉ lặng lẽ cúi đầu để tỏ lòng tôn kính. Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống rồi đưa tay chỉ lên vòm trời lấp lánh đầy sao.
- Các chú có bao giờ nghĩ rằng mình chẳng khác nào những ngôi sao trên nền trời tím sẩm kia không?
Tôi ngẩn người ra suy nghĩ. Làm sao mà con người so sánh với các vì tinh tú tuyệt vời kia được? Cho dù có khôi ngô tuấn tú, đầu trán bóng loáng và mặt mày sáng rực tợ mảnh trăng rằm như Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt đi nữa, thì đã vị tất so sánh kịp, huống hồ là đối với hạng người tầm thường như chúng tôi còn vướng đầy nghiệp chướng!
Nhìn vẻ mặt ngơ ngác của tôi, Ngài bất giác phì cười:
- Các lời ta vừa nói đó chú hãy hiểu theo "từ" mà không nên hiểu theo cái "nghĩa" thông thường của nó. Vạn vật trên cõi đời này không phải nhìn thấy thể nào là y như vậy được.
Thực ra lắm lúc nó bắt buộc ta phải đi ra ngoài ý tưởng của mình. Giả dụ như chú viết hàng chữ "Om Mani Padme Hum" thật lớn, bao trùm cả cái thung lũng Lạt Sa này thì chắc chắn dòng chữ vĩ đại vô cùng đó cũng chỉ có mỗi mình chú biết mà thôi chứ chẳng ai hiểu chú đã viết những gì ?!
Đến đây Ngài ngưng lại trong giây lát rồi mỉm cười tiếp:
- Khó hiểu ư ? Không! Chẳng có gì khó hiểu cả. Nó rất đơn giản. Bởi vì chú viết hàng chữ này quá lớn ngoài cả tầm mắt của con người. Tuy nhiên cái to lớn đó nó chẳng thấm thía gì so với các vì sao giữa vòm trời tím sẫm kia! Vì vậy mà chúng ta không thể nào nhận định được sự kết hợp của nó ra làm sao nữa!
- Kết hợp? Tôi khẽ kêu lên. Thế nào là kết hợp? Kết hợp ra sao? Tôi vừa chăm chú nghe vừa đăm chiêu suy nghĩ về vấn đề kết hợp của các vì sao trên trời. Sự kết hợp ấy mang ý nghĩa gì? Hay nó cũng chẳng là gì cả?!
- Lỗ San ạ! Thầy tôi tiếp tục giảng giải, bây giờ chú thử tưởng tượng cái thân hình của chú được ban cho đó, nó đang trong tình trạng co rút nhỏ dần đến độ như hạt cát chắc chắn là lúc ấy chẳng ai nhận ra được chú. Rồi chú cứ tiếp tục tưởng tượng nó nhỏ hơn - nhỏ đến nỗi cái hạt cát "hóa thân" chú lúc ban đầu lại trở thành là thế giới của nó. Vậy thử hỏi lúc ấy chú có trông thấy được sự hiện diện của ta chăng?
Không đợi tôi đáp lại, Ngài tiếp tục giảng giải thêm về sự kiện này :
- Giả dụ cho chú bảo rằng không đi nữa, thì liệu lúc ấy chú nhận thấy được những sự kiện gì đã diễn ra trước mắt chú ?
"Nhận thấy những sự kiện gì?" Chúng tôi chẳng biết phải trả lời ra làm sao mà chỉ đưa mắt nhìn nhau mồm há hốc hệt như hình ảnh của con cá nghểnh đầu ra khỏi mặt nước. Mọi cảm nghĩ của chúng tôi lúc bây giờ như thể bị tê liệt hẳn.
- Lỗ San! Cái mà chú sẽ trông thấy đó là cả một thế giới như chùm nho sai quả, tản mác bay quanh bóng tối. Lúc đó chú sẽ nhìn rõ từng tế bào nơi cơ thể của ta trông chẳng khác nào như những vũ trụ riêng biệt sống cách xa nhau với từng khoảnh cách mênh mông.
Chú sẽ thấy thế giới này xoay chung quanh những thế giới khác Chú sẽ được chiêm ngưỡng biết bao nhiêu Mặt Trời mà Mặt Trời nào cũng là trung tâm Thái Dương Hệ có hằng hà sa số các vũ trụ khác nhau trong cái mênh mông vô cùng của Trời Đất.
Tôi cảm thấy bàng hoàng và đầu óc như thể bị vỡ tung ra vì đã phải vận dụng quá sức tưởng tượng của mình để cố hiểu cho được những lời Đức Lạt Ma thuyết giảng.
- Lỗ San à! Sự cố gắng của chú đã làm cho ta cảm thấy thích thú. Ta sẽ đáp lại bằng cách nói lên tất cả những gì chú muốn biết đêm nay.
Nói đến đây Ngài tựa lưng vào bờ tường đá yên lặng trong phút giây đoạn nhìn tôi khẽ bảo:
- Lỗ San! hãy nhìn vào cái áo của chú đang mặc và hãy lấy tay sờ vào nó.
Tôi vội vã làm theo với điệu bộ của một thằng khùng khi nhìn thấy áo quần mình đang mặc bị rách tả tơi!
- Bộ y phục chú đang mặc đó là là vải. - Đức Lạt Ma nói chú khó lòng phóng qua lớp áo mỏng ấy để nhìn thấy những gì ở phía bên kia được. Song le, nếu chú quan sát nó qua làn kính hiển vi và khuếch đại thêm mười lần hơn thì sẽ thấy đó là những sợi lông cừu chứ không còn là những đường tơ nhỏ mứt.
Ánh sáng sẽ len lỏi một cách dễ dàng qua từng khe hở. Nhưng nếu chú lại phóng đại gấp triệu lần hơn nữa, chắc chắn là chú không khỏi bối rối trước những sợi lông cừu "lớn quá cỡ"chồng chất lên nhau, tạo cho chú có cảm tưởng khó lòng mà vượt qua nổi. Thực ra không phải vậy. Chú đừng lo .
Mọi việc xảy ra trong cõi đời đều có thừa trừ. Cái khối lông cừu vĩ đại ấy lúc bấy giờ có lắm kẽ rộng thênh thang. Rộng đến nỗi ta có thể cưỡi ngựa băng qua một cách dễ dàng mà chẳng thấy một chút nào khó khăn cả...
Thầy tôi có lý. Tôi sửa lại tư thế ngồi thật ngay ngắn và luôn luôn biểu lộ sự đồng tình của mình bằng đôi mắt dán chặt vào người.
-Thưa thầy! Tôi bất thần lên tiếng hỏi. Có điều con thắc mắc phải chăng ngoài đời sống trên mặt Địa cầu này, còn hằng hà đời sống khác nằm rải rác trong khoảng không gian vô cùng vô tận kia ?
- Thì ra chú chẳng khác nào như ông Abdul Chécour của chú. Ngày xưa chính ta cũng nghĩ như các chú vậy. Ta cũng nghĩ có những đời sống khác ngoài đời sống này...
Nói đến đây Ngài đổi sang giọng thật nhỏ nhẹ tiếp :
- Lỗ San à! Hãy ngồi lại cho thật ngay ngắn và hãy để cho tâm tư mình thật thoải mái. Ta sẽ trình bày cho chú nghe về cái "kiến thức siêu việt" của người xưa mà ta cùng các Bậc Chân Sư khám phá được nơi "Cổ Hiền Thạch Động".
- Cổ Hiền Thạch Động ? Tôi thảng thốt kêu lên .
Lòng hiếu kỳ thúc đẩy tôi muốn được nghe ngay cái gì bí mật bị chôn vùi trong lòng Thạch Cốc đã hàng bao nhiêu thế kỷ kia!
- Thưa thầy! Chúng con nóng lòng muốn biết những gì ẩn giấu bên trong lòng Cốc Đá?!
- Được ! Người mỉm cười gật đầu đáp lại. Ta sẽ kể tất cả cho chú nghe. Tuy nhiên trước khi đi sâu vào từng chi tiết bí mật đó chú cần phải am tường về đời sống của tiền nhân trong thời kỳ châu Atlantic còn hiện hữu trên mặt Địa cầu này!
Nói đến đây Ngài đưa mắt nhìn về tận phương trời xa thẳm dường như muốn sắp xếp câu chuyện cho có thứ lớp trước khi thuật lại. Với tôi thì đây là dịp may hiếm có sẽ được nghe tất cả mọi bí mật ẩn tàng bên trong lòng Thạch Cốc bao gồm cả một kho tàng về "nền văn hóa kiến thiết siêu linh" mà xưa nay mọi người đều muốn biết.
BÍ MẬT NƠI CỔ HIỀN THẠCH ĐỘNG
Một chiều đầu xuân khí trời thật ấm. Cảnh vật hoàn toàn yên tĩnh. Từng cụm mây lơ lửng bay trên các rặng cây xanh đen và luôn cả mấy ngọn Tuyết Sơn trắng xóa nằm đối diện với ngọn Phổ Đà La lúc nào trông cũng có vẻ hiền hòa trầm lặng...
Càng về chiều sắc trời càng sậm lại. Một màu vàng ối trải dài lên các dãy phố của thành Lạt Sa nằm khép mình giữa lòng thung lũng. Bên dưới chân đồi đoàn khách thương Ấn Độ hối hả đi về hướng Tây Môn của thành Bát Nhã.
Cùng lúc đoàn người hành hương nối đuôi nhau rảo bước vòng theo con lộ Linh Cơ ngoằn ngoèo, xương xẩu. Từ đỉnh cao nhìn xuống trông như thể con khủng long đang cuộn mình quanh sườn núi.
Dòng sông Châu lặng lờ chảy xuôi theo những lượn sóng lăn tăn như muôn ngàn con rắn lửa đang chập chờn uốn lượn. Thành Lạt Sa thấp thoáng các ánh đèn thắp bằng dầu bơ sản xuất từ mỡ bò, trông hệt như các ngôi sao le lói sáng tận trên nền trời xa tít góp phần trầm buồn cho cảnh trí chiều hôm...
Màn đêm từ từ buông xuống. Hàng ngàn ánh nến xuyên qua các khung cửa của ngôi đền tận đỉnh Phổ Đà La rực lên như cả một rừng hoa đăng lấp lánh. Bên trong đền thấp thoáng các nhà sư đang làm công quả. Đâu đó trên vòm trời một cánh sao băng vụt lóe lên tia sáng xanh lè trước khi sa xuống mặt địa cầu trông như đám bụi mờ tàn rụi...
Chúng tôi sững sờ nhìn cái huyền diệu của trời đất nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ. Tiếng hú của gió, tiếng kêu nỉ non của côn trùng, tiếng kèn đồng thu không gần như lạc giọng hòa lẫn với tiếng cầu kinh nghe như một điệp khúc trầm buồn vọng lại từ mải dưới tận chân đồi.
- Lỗ San ơi! Đêm nay trời đẹp lắm!
Rồi cũng với giọng hiền hòa ấy hướng về phía chú Chécour lặp lại:
- Có phải thế không Abdul Chécour ? Đêm nay trời đẹp lắm!
Chúng tôi chỉ lặng lẽ cúi đầu để tỏ lòng tôn kính. Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống rồi đưa tay chỉ lên vòm trời lấp lánh đầy sao.
- Các chú có bao giờ nghĩ rằng mình chẳng khác nào những ngôi sao trên nền trời tím sẩm kia không?
Tôi ngẩn người ra suy nghĩ. Làm sao mà con người so sánh với các vì tinh tú tuyệt vời kia được? Cho dù có khôi ngô tuấn tú, đầu trán bóng loáng và mặt mày sáng rực tợ mảnh trăng rằm như Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt đi nữa, thì đã vị tất so sánh kịp, huống hồ là đối với hạng người tầm thường như chúng tôi còn vướng đầy nghiệp chướng!
Nhìn vẻ mặt ngơ ngác của tôi, Ngài bất giác phì cười:
- Các lời ta vừa nói đó chú hãy hiểu theo "từ" mà không nên hiểu theo cái "nghĩa" thông thường của nó. Vạn vật trên cõi đời này không phải nhìn thấy thể nào là y như vậy được.
Thực ra lắm lúc nó bắt buộc ta phải đi ra ngoài ý tưởng của mình. Giả dụ như chú viết hàng chữ "Om Mani Padme Hum" thật lớn, bao trùm cả cái thung lũng Lạt Sa này thì chắc chắn dòng chữ vĩ đại vô cùng đó cũng chỉ có mỗi mình chú biết mà thôi chứ chẳng ai hiểu chú đã viết những gì ?!
Đến đây Ngài ngưng lại trong giây lát rồi mỉm cười tiếp:
- Khó hiểu ư ? Không! Chẳng có gì khó hiểu cả. Nó rất đơn giản. Bởi vì chú viết hàng chữ này quá lớn ngoài cả tầm mắt của con người. Tuy nhiên cái to lớn đó nó chẳng thấm thía gì so với các vì sao giữa vòm trời tím sẫm kia! Vì vậy mà chúng ta không thể nào nhận định được sự kết hợp của nó ra làm sao nữa!
- Kết hợp? Tôi khẽ kêu lên. Thế nào là kết hợp? Kết hợp ra sao? Tôi vừa chăm chú nghe vừa đăm chiêu suy nghĩ về vấn đề kết hợp của các vì sao trên trời. Sự kết hợp ấy mang ý nghĩa gì? Hay nó cũng chẳng là gì cả?!
- Lỗ San ạ! Thầy tôi tiếp tục giảng giải, bây giờ chú thử tưởng tượng cái thân hình của chú được ban cho đó, nó đang trong tình trạng co rút nhỏ dần đến độ như hạt cát chắc chắn là lúc ấy chẳng ai nhận ra được chú. Rồi chú cứ tiếp tục tưởng tượng nó nhỏ hơn - nhỏ đến nỗi cái hạt cát "hóa thân" chú lúc ban đầu lại trở thành là thế giới của nó. Vậy thử hỏi lúc ấy chú có trông thấy được sự hiện diện của ta chăng?
Không đợi tôi đáp lại, Ngài tiếp tục giảng giải thêm về sự kiện này :
- Giả dụ cho chú bảo rằng không đi nữa, thì liệu lúc ấy chú nhận thấy được những sự kiện gì đã diễn ra trước mắt chú ?
"Nhận thấy những sự kiện gì?" Chúng tôi chẳng biết phải trả lời ra làm sao mà chỉ đưa mắt nhìn nhau mồm há hốc hệt như hình ảnh của con cá nghểnh đầu ra khỏi mặt nước. Mọi cảm nghĩ của chúng tôi lúc bây giờ như thể bị tê liệt hẳn.
- Lỗ San! Cái mà chú sẽ trông thấy đó là cả một thế giới như chùm nho sai quả, tản mác bay quanh bóng tối. Lúc đó chú sẽ nhìn rõ từng tế bào nơi cơ thể của ta trông chẳng khác nào như những vũ trụ riêng biệt sống cách xa nhau với từng khoảnh cách mênh mông.
Chú sẽ thấy thế giới này xoay chung quanh những thế giới khác Chú sẽ được chiêm ngưỡng biết bao nhiêu Mặt Trời mà Mặt Trời nào cũng là trung tâm Thái Dương Hệ có hằng hà sa số các vũ trụ khác nhau trong cái mênh mông vô cùng của Trời Đất.
Tôi cảm thấy bàng hoàng và đầu óc như thể bị vỡ tung ra vì đã phải vận dụng quá sức tưởng tượng của mình để cố hiểu cho được những lời Đức Lạt Ma thuyết giảng.
- Lỗ San à! Sự cố gắng của chú đã làm cho ta cảm thấy thích thú. Ta sẽ đáp lại bằng cách nói lên tất cả những gì chú muốn biết đêm nay.
Nói đến đây Ngài tựa lưng vào bờ tường đá yên lặng trong phút giây đoạn nhìn tôi khẽ bảo:
- Lỗ San! hãy nhìn vào cái áo của chú đang mặc và hãy lấy tay sờ vào nó.
Tôi vội vã làm theo với điệu bộ của một thằng khùng khi nhìn thấy áo quần mình đang mặc bị rách tả tơi!
- Bộ y phục chú đang mặc đó là là vải. - Đức Lạt Ma nói chú khó lòng phóng qua lớp áo mỏng ấy để nhìn thấy những gì ở phía bên kia được. Song le, nếu chú quan sát nó qua làn kính hiển vi và khuếch đại thêm mười lần hơn thì sẽ thấy đó là những sợi lông cừu chứ không còn là những đường tơ nhỏ mứt.
Ánh sáng sẽ len lỏi một cách dễ dàng qua từng khe hở. Nhưng nếu chú lại phóng đại gấp triệu lần hơn nữa, chắc chắn là chú không khỏi bối rối trước những sợi lông cừu "lớn quá cỡ"chồng chất lên nhau, tạo cho chú có cảm tưởng khó lòng mà vượt qua nổi. Thực ra không phải vậy. Chú đừng lo .
Mọi việc xảy ra trong cõi đời đều có thừa trừ. Cái khối lông cừu vĩ đại ấy lúc bấy giờ có lắm kẽ rộng thênh thang. Rộng đến nỗi ta có thể cưỡi ngựa băng qua một cách dễ dàng mà chẳng thấy một chút nào khó khăn cả...
Thầy tôi có lý. Tôi sửa lại tư thế ngồi thật ngay ngắn và luôn luôn biểu lộ sự đồng tình của mình bằng đôi mắt dán chặt vào người.
-Thưa thầy! Tôi bất thần lên tiếng hỏi. Có điều con thắc mắc phải chăng ngoài đời sống trên mặt Địa cầu này, còn hằng hà đời sống khác nằm rải rác trong khoảng không gian vô cùng vô tận kia ?
- Thì ra chú chẳng khác nào như ông Abdul Chécour của chú. Ngày xưa chính ta cũng nghĩ như các chú vậy. Ta cũng nghĩ có những đời sống khác ngoài đời sống này...
Nói đến đây Ngài đổi sang giọng thật nhỏ nhẹ tiếp :
- Lỗ San à! Hãy ngồi lại cho thật ngay ngắn và hãy để cho tâm tư mình thật thoải mái. Ta sẽ trình bày cho chú nghe về cái "kiến thức siêu việt" của người xưa mà ta cùng các Bậc Chân Sư khám phá được nơi "Cổ Hiền Thạch Động".
- Cổ Hiền Thạch Động ? Tôi thảng thốt kêu lên .
Lòng hiếu kỳ thúc đẩy tôi muốn được nghe ngay cái gì bí mật bị chôn vùi trong lòng Thạch Cốc đã hàng bao nhiêu thế kỷ kia!
- Thưa thầy! Chúng con nóng lòng muốn biết những gì ẩn giấu bên trong lòng Cốc Đá?!
- Được ! Người mỉm cười gật đầu đáp lại. Ta sẽ kể tất cả cho chú nghe. Tuy nhiên trước khi đi sâu vào từng chi tiết bí mật đó chú cần phải am tường về đời sống của tiền nhân trong thời kỳ châu Atlantic còn hiện hữu trên mặt Địa cầu này!
Nói đến đây Ngài đưa mắt nhìn về tận phương trời xa thẳm dường như muốn sắp xếp câu chuyện cho có thứ lớp trước khi thuật lại. Với tôi thì đây là dịp may hiếm có sẽ được nghe tất cả mọi bí mật ẩn tàng bên trong lòng Thạch Cốc bao gồm cả một kho tàng về "nền văn hóa kiến thiết siêu linh" mà xưa nay mọi người đều muốn biết.
Thanked by 2 Members:
|
|
#3
Gửi vào 06/06/2011 - 21:34
NHỮNG ĐẤNG THÔNG MINH SIÊU VIỆT
Đêm càng về khuya bầu trời càng yên tĩnh. Xa xa tiếng chó sủa từ làng xa vọng lại, tạo cho cảnh tượng về đêm nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn đượm thêm màu huyền hoặc! Trên vòm trời vầng trăng non chênh chếch bóng.
Mấy lá phướn treo trên các cột trụ được dựng lên trước sân đền rủ xuống phơ phất bay theo từng cơn gió thoảng. Sự yên lặng hoàn toàn chế ngự cảnh núi rừng, ngoại trừ tiếng côn trùng rả rích tấu lên như một điệu nhạc trầm buồn não nuột.
Tiếng cọt kẹt của chiếc luân xa bằng gỗ của nhà Sư Già đang công phu đâu đó quay bánh xe lăn để cầu nguyện Phật gia hộ cho mình, làm mất đi cảnh tịch mịch của núi rừng. Chẳng ai trong chúng tôi nói gì song mọi người đều biết nhà sư đó chưa thấu triệt cái "lý chân như" của đạo Phật như thế nào!
Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt đưa mắt nhìn như ngầm bảo cho biết là Ngài đã đọc được tư tưởng tôi đang nghĩ gì về tiếng cọt kẹt của chiếc luân xa kia.
- Tùy theo chúng sinh, Lỗ San à! Và cũng còn tùy theo đức tin và cả hoàn cảnh căn cơ nữa. Các chú không nên quá khắt khe với bất cứ ai còn quá cách xa với mình trên con đường "đạo". Bất cứ các cung cách lễ nghi hoặc các phương pháp tụng niệm nào cũng đều được xem là một vấn đề trọng yếu.
Nó là niềm an ủi vô biên và cũng là phương tiện cần thiết phải có cho những kẻ tu hành. Chẳng khác nào như những người què quặt không thể bỏ nạng để đi bằng chính hai chân tàn phế của mình.
Thầy tôi cũng giải thích về vấn đề "Lý Trí và Bản Tính" của con người cho chúng tôi nghe. Càng lúc tôi càng cảm thấy gần gũi với thầy tôi hơn. Chính Người mới cho tôi sự hiểu biết và thương yêu mình thực sự.
Tôi chăm chú nghe và thấy hứng khởi một cách lạ lùng. Chú Sa Quốc cũng chẳng khác gì tôi. Chú cũng chăm chú lắng nghe từng lời của Đức Lạt Ma giảng giải. Chú lớn hơn tôi rất nhiều và vốn có bản chất hiền hòa, riêng đối với tôi chú hệt như người từ mẫu, chăm sóc và thỏ thẻ hỏi han tôi từng ly từng tí.
- Lỗ San! Thế nào hả cháu? Có khỏe lắm không?
Mỗi lần như vậy hoặc tôi siết chặt lấy tay chú hoặc tôi gật đầu lễ phép tỏ bày sự biết ơn sâu xa của mình đối với chú. Trong lúc đó Ngài Lạt Ma đảo mắt nhìn quanh một vòng rồi tiếp tục giảng giải:
- "Ta nghĩ rằng các chú nôn nóng muốn biết sự cấu tạo của một vật thể ở cõi thế gian này làm sao mà có, do đâu mà ra? Thật ra, nó nằm trong "Nhất Động Nhất Tĩnh", theo qui luật âm dương của Tạo Hóa tạo thành. Mọi sinh vật trong vũ trụ bao la này đều có cùng một qui luật như vậy.
Dãy Hy Mã Lạp Sơn trùng trùng điệp điệp với hàng bao nhiêu ngọn núi chọc trời cũng không ngoài sự cấu tạo của các tế bào góp lại, mà trong đó mỗi tế bào có sự luân chuyển riêng biệt của nó. Có nghĩa là nó có tính độc lập không cái nào va chạm cái nào.
Chúng nâng đỡ lẫn nhau, chẳng khác nào vầng Thái Dương của chúng ta hiện hữu có nhiều hành tinh quay chung quanh và cùng đi theo một qui luật nhất định, chẳng bao giờ va chạm nhau được.
Đến đây, Ngài bỗng im bặt rồi hướng mắt nhìn tôi như để tìm hiểu tôi có thấu triệt được những lời lẽ Người giảng giải đó không? Đọc được ý tưởng của Người, tôi khẽ mỉm cười như ngầm bảo:
"Thưa thầy! Con đã hiểu thật rõ ràng rồi. Xin thầy tiếp tục giảng giải. Con thật vô cùng thích thú và đang lắng nghe đây."
Trong lúc đang say sưa nghe lời giảng giải của Người thì bất giác tôi giật nẩy mình khi nhìn thấy một linh ảnh (bóng ma) đang chập chờn ẩn hiện trên một mỏm đá trắng nằm ven sườn núi kế cận. Linh ảnh không có một hình dáng nhất định mà thoạt ngắn thoạt dài đang quay cuồng dưới ánh trăng mờ ảo...
Tôi trân trối nhìn quên cả mọi sự vật diễn biến chung quanh mình. Như nhận thấy được nỗi kinh ngạc của tôi đối với linh ảnh lạ lùng ấy, Ngài bèn xoay ngay sang đề tài này, cố ý giảng giải giúp tôi hiểu biết thêm về khía cạnh "Vật Thể của Linh Hồn".
- Lỗ San! Đối với chú thì cái bóng dáng ma quái ấy thật là lạ lùng mà cũng thật là khó hiểu. Nhưng đối với ta thì khác. Ta nhờ "Đắc Thần Thông" nên đã từng tiếp xúc với họ nhiều lần bên trong "Mật Tẩm". Chú đừng lấy đó làm điều quái gở.
Các linh hồn đó đều là những con người như chúng ta, đã sống và đã từ giã thế giới này, để đi vào một thế giới khác. Thế giới đó do phân tử cấu tạo có khoảng cách thật xa nhau. Nhờ vậy mà tất cả các linh hồn đều có thể xuyên qua bất cứ bức tường nào cho dù dày đặc đến đâu cũng không hề bị vướng vấp hay trở ngại.
- Thưa thầy, con được nghe khi một linh hồn lướt cạnh ta, khiến cho thân hình mình cảm thấy nhột nhạt khó chịu, chẳng biết có đúng như vậy chăng? Xin thầy giảng giải.
- Mỗi tế bào là một Thái dương hệ.
Thầy tôi đáp lại.
- Và cho dù tế bào ấy lớn hay nhỏ cũng đều có điện năng bao phủ cả. Điện năng này không như điện lực của loài người chúng ta thường sử dụng mà nó thuộc về loại "điện năng siêu tầng" thập phần tinh vi.
Từ luồng điện của các ngôi sao đổi ngôi trong màn đêm đen tối, đến những ánh hào quang rực chiếu lên vòm trời tím sẫm ở miền Bắc cực quanh năm lạnh buốt thấu xương, đều do ở sự rung động mà phát xuất.
Điều mà chú vừa hỏi tại sao khi có một linh hồn lướt ngang bên cạnh khiến ta có cảm giác nhột nhạt khó chịu cũng không ngoài cái nguyên lý này. Chẳng qua do sự đụng chạm của linh hồn với ánh hào quang của chính mình bao quanh cơ thể.
- Thế thì
Tôi ngắt lời
- Thưa thầy, ánh hào quang bao quanh người chúng ta nhìn thấy đó có phải là điện năng không?
- Đúng vậy! Nhiều nước trên thế giới dùng dây kim loại để chuyển điện lực có tần số cao bắc ngang lưng trời đều phát ra ánh hào quang cả. Hầu hết các kỹ sư chuyên về điện lực cũng xác nhận như vây.
Đó là một thứ hào quang màu xanh nhạt thường phát hiện vào những đêm tối trời hoặc các đêm có lắm sương mù bao phủ. Hào quang lúc nào cũng có sự rung chuyển bởi một nguồn điện năng của nó. Có điều ta có thể nhìn thấy ánh hào quang ấy hay không thì còn tùy thuộc vào nhân lực của mỗi người.
Nói đến đây thầy tôi có vẻ như trầm ngâm suy tư điều gì, mãi giây lâu sau khi nhìn thẳng vào tôi, Người dõng dạc nói:
- Rồi một ngày nào đây con sẽ được đưa sang Trùng Khánh theo học ngành y khoa. Ta nghĩ tằng lúc ấy con sẽ có dịp dùng các dụng cụ đo lường và phác họa các luồng điện năng trong các hệ thống não bộ của con người.
Đến đây thì chú Sa Quốc lên tiếng hỏi:
- Thưa thầy, nếu nói như vậy thì chẳng hóa ra đời sống của con người bị ràng buộc giữa "điện năng và sự chuyển động" sao?
Người vừa cười vừa đáp lại:
- Đúng vậy, Sa Quốc ạ! Không thể nào có điện năng mà chẳng có sự rung chuyển bao giờ ? Ví dụ có một nhạc khí như phong cầm chẳng hạn, với những tiếng tơ rung chuyển phát ra những âm thinh dài lê thê tưởng chừng như bất tận vi vút trên từng cung "bát âm" nối tiếp triền miên vẳng vọng đến tận một chốn vô cùng nào đó mà không bao giờ dứt được.
Còn những âm thinh tiếp nối theo sau đó tuần tự thể hiện cho từng tiếng động chỉ vào nhân sinh quan, hoặc cho tình cảm, cho ý thức hoặc hướng vào một mục đích nào đó và hằng hà sa số các âm thinh hiện diện trên vũ trụ này mà ta không thể nào thu nhận được.
Ví như tai của một con người chỉ có thể nghe được giọng trầm nhưng loài chó thì nghe được cả âm thinh nổi. Loài chó rất thính tai, nó phát hiện dễ dàng các âm thinh cao mà điều này thì chẳng bao giờ con người chúng ta có được.
- Nhưng nếu ta muốn liệu có được chăng?
- Được. Tuy nhiên ta cần phải luyện khoa "Thiên Nhĩ Thông". Nếu ta luyện được thì chuyện nghe tiếng nói của các vị thần linh nơi cõi "Siêu Thinh Giới" sẽ trở thành vô cùng dễ dàng.
Sau khi dứt lời giảng giải này, Đức Lạt Ma nhìn chúng tôi nói:
- Đêm nay các chú phải thức khuya hơn một chút để được biết những gì các chú lâu nay muốn biết. Ngày mai các chú được nghỉ bù để lấy lại sức.
Nhắm nghiền mắt lại để dưỡng thần, giây lâu sau đó, thầy tôi bắt đầu lên tiếng kể tiếp:
- Từ ngày được thăm nơi Cổ Hiền Thạch Động và được sử dụng những dụng cụ lạ lùng nơi đó, ta đã nhìn tận mắt nhiều chuyện lắm lúc khó tin nhưng...lại là sự thật.
Thầy tôi nói như vậy.
Từ xưa nay chúng ta cứ nghĩ rằng con người có khối óc thông minh hơn tất cả mọi sinh vật trên trái đất này, nhưng thật ra trước hiện tượng mà chính mắt ta nhìn thấy, có những sinh vật nhỏ hơn cả những vi khuẩn li ti không hình thù vóc dáng còn vượt xa hơn nhân loại hiện hữu và đó mới chính là những đấng "Thông Minh Siêu Việt". Họ biết sử dụng các dụng cụ siêu tinh vi ngoài cả sức tưởng tượng của loài người.
Bất giác chúng tôi không ai bảo ai đều im lặng khi Thầy tôi đưa tay chỉ về phía một nhà sư đang đi thong dong dưới ánh trăng mờ ảo... Nhà sư này vừa đi vừa nghêu ngao ca tụng cái đẹp của đất trời:
- "Ôi! Đêm nay trời đẹp làm sao! Cảnh vật thật tuyệt vời! Nhưng tiếc thay ta không đủ lời để ca tụng, không đủ tiếng để tung hô mà cũng không đủ những danh từ hoa mỹ để ghi vào từng câu trong thi phú... Này! Vũ trụ kia ơi! Tạo hóa sao mà khéo tay lắm vậy!"
- "Vâng! Đạo hữu kia, lời Người nói đúng."
Giọng thánh thót của một nhà sư khác từ đâu đó bất thần xuất hiện lặp lại và tán tụng thêm ra: "Ôi! đẹp làm sao các vì tinh tú ấy! Nó lấp la lấp lánh tợ như những hạt kim cương rực tỏa giữa vòm trời... Nhưng hỡi ai kia! Ta muốn hỏi người hàng triệu triệu ngôi sao giữa màn trời tím sẫm đó có bao nhiêu thế giới như ta ở cõi thế gian này?!"
Ngừng lại trong giây lát, nhà sư này bỗng lại cất tiếng cười vang:
- "Ta cũng hỏi đời sống của chúng ta sinh ra với mục đích gì? Phải chăng ta sinh ra là để ca tụng cái đẹp của đất trời hay là để hận thù chém giết nhau đời đời kiếp kiếp giữa cuộc đời dẫy đầy sự ô trọc này?"
Nhà sư lúc ban đầu mà thầy tôi chỉ đến, tên là Lão Bái hét lớn lên dường như muốn trút tất cả sự phẫn nộ của mình:
- "Ôi! cái người đạo hữu kia ơi! Người quả thật bậy bạ, thật bổ báng! Câu hỏi của lão nghe thật buồn cười. Lão há chẳng nhớ lời thầy dạy dỗ đó sao? Chỉ có con người ở thế giới này mới mang hình ảnh của thì làm sao có một sinh vật nào khác mang hình hài như chúng ta được nữa?! Ôi, cái lão già kia ơi! Lời nói của lão sao mà hoàn toàn vô lý vậy?"
Thầy tôi mỉm cười nhún vai tỏ ý không tán thành lý luận của cả hai nhà sư kia đoạn cất tiếng bảo với chúng tôi:
- Có thể cả hai đều lầm lẫn.
Và như để thấm giọng, thầy tôi chậm rãi nhấm thêm chung trà đoạn nhìn tôi giây lát rồi trở lại câu chuyện "Những bí mật ẩn tàng bên trong lòng Thạch Động" của "nền văn hóa kiến thiết siêu linh" mà Người đã bảo sẽ nói lên tất cả sự bí mật của nó theo như lời Người đã hứa:
- Hẳn các chú muốn được biết một câu chuyện được ghi lại trong tập Kinh sách mà ta đã hứa. Đó là một câu chuyện nói lên những sự kiện thật lạ lùng xảy ra tại căn phòng thí nghiệm có dàn kính hiển vi tối tân bậc nhất đặt dưới quyền cai quản của hai nhà bác học. Một hôm, một trong hai nhà bác học này bỗng reo lên:
- "Tại sao lại có chuyện lạ lùng như thế này? Anh Trần ơi! Lại đây mà nhìn xem một sự kiện kỳ quái diễn ra dưới lăng kính hiển vi này".
Và khi nhà bác học họ Trần kia nhìn thấy một cảnh tượng khác thường hiện ra trước mắt mình cũng phải kêu lên:
- Trời ơi! Đúng, đây phải chăng là hình ảnh của một vũ trụ nằm trong ống kính.
Rồi như một nhà diễn giả thuyết trình về hình ảnh lạ lùng kia về hiện tượng này:
- "Này đây là hình ảnh của một mặt trời rực đỏ...và kia là những hành tinh đang luân chuyển xoay quanh nó...Tất cả đều không đứng yên một chỗ ngoài cái mặt nhật như một lò than hồng rực cháy kia, chúng luôn luôn biến hóa ra muôn hình vạn trạng mà con mắt của thế nhân không thể nào nhận thấy!
Rồi một trong hai nhà bác học kia nói: "Ước gì ta có được những dụng cụ khuếch đại những hình ảnh bé nhỏ kia để tìm xem liệu trong cái thế giới li ti ấy có đời sống nào khác nữa hay không?".
"Không ! Không thể nào có được. Có thể chúng ta bị ảo giác đánh lừa mất rồi".
Nhà bác học kia đáp lại :
" Ông anh không nhớ sao? Chúng ta đã từng được giảng giải qua một giảng sư khoa học rằng là chỉ có loài người trên dương thế này mang hình ảnh của Người mà thôi, ngoài ra không còn một sinh vật nào dù có ở bất cứ một thiên thể trong hàng ngàn triệu thiên thể trong vòm trời bao la này."
Nói đến đây, thầy tôi đưa mắt nhìn lên các vì sao đang lấp lánh giữa vòm trời tím sẫm, rồi từ từ dưa tay vào túi áo móc ra cái hộp đựng quẹt lửa mua từ Ấn Độ, lấy ra một que diêm đưa cao lên về phía chúng tôi nói :
- Lỗ San! Hãy xem đây! Ta sẽ trình bày cho chú thấy sự cấu tạo của vũ trụ (creation) như thế nào?
Dứt lời, thầy tôi đặt ngay đầu que diêm vào mặt của cái hộp có hóa chất bật lên cháy thành ngọn lửa, cũng ngay sau đó Người thổi tắt đi đoạn mỉm cười nhìn chúng tôi nói:
- Các chú biết đó là thế nào không ?
Và không đợi chúng tôi suy nghĩ đáp lại, thầy tôi tiếp tục giảng giải:
- Đó là "Tạo thành và Hủy diệt". Khi ngọn lửa đang cháy là có cả ngàn phân tử kết tụ lại. Mỗi phân tử là một thế giới riêng biệt không đụng chạm đến nhau. Rồi các phân tử ấy lại kết tụ trở lại để hình thành ra vũ trụ.
- Vậy thì thưa thầy, mỗi thế giới đều có sự sống bên trong, nó tuần hoàn và tăng trưởng để rồi đến một giai đoạn nào đó đúng với chu kỳ của nó, tất cả đều phải đi vào con đường hủy diệt như que diêm và hộp quẹt của thầy mang ra ví dụ đó sao?
- Đúng!
Thầy tôi cười, trông có vẻ hài lòng về câu hỏi này
- Sự sống nơi nào có sinh vật như hành tinh của chúng ta đều phải theo quy luật của trời đất, có nghĩa là phải làm nhiệm vụ phát triển giống nòi từ đời này sang đời khác. Các sinh vật có thể tồn tại đến hàng triệu triệu năm, nhưng không có nghĩa là vĩnh viễn,
mà tất cả, cuối cùng rồi cũng phải tàn tạ, tan biến trong cái vô cùng mênh mông của vũ trụ!
Tôi tò mò hỏi:
- Thầy có thể cho chúng con biết cái mối đầu của vũ trụ không ?
Nhìn tôi trong phút giây, thầy tôi giải thích:
- Cứ theo Kinh sách thì Vũ trụ nguyên thủy vốn không đồng đều. Ví như ở những địa điểm cường độ bức xạ thì cao hơn, tất nhiên mật độ vật chất và từ trường hấp dẫn cũng tăng theo.
Cũng theo Kinh sách cách đây 16 tỷ năm giữa cái cái mênh mông trời đất còn trong cảnh hỗn mang đó bỗng phát ra một tiếng nổ làm long lở cả vòm trời, tạo thành những đám mây mù nguyên thủy. Tiếng nổ kinh hồn khiếp vía đó biểu trưng cho ngày khai sinh ra Vũ trụ.
Nhật, Nguyệt xuất phát ra từ đó mà Mặt Trời là mầm mống của Thiên hà. Các đám mây dần dà phân tán ra nhiều mảnh tạo nên những ngôi sao mà các chú đang nhìn thấy chúng lấp lánh trên nền trời xa xăm và tím sẫm kia. Thực tế cho ta thấy sự sự cấu tạo ra những Thiên hà là một quá trình vô cùng phức tạp.
Tiếc thay ta không có đủ thời giờ để giải thích một cách cặn kẽ được. Sư tổ đã từng giảng giải cho ta biết chẳng phải duy chỉ có thế giới này, mà nó còn có lắm cõi sống khác nữa. Tưởng tất cả chúng ta cũng nên nhớ rằng mỗi hạt nhân là một bầu trời thế giới. Hạt nhân nào cũng được xem là một cơ bản.
Đó là lý luận chung chung, còn riêng phần Sư Tổ lại cho rằng chỉ có điện tử và quang tử mới thực sự mang tính chất đơn thuần biệt lập. Như ngày nay ta thấy các hạt nhân Proton, Electron, Neutron.. là những nguyên tử và phân tử có khả năng hấp thụ đồng thời phát bức xạ ra một đám khí nguyên tử.
Cứ mỗi hạt tách ra thành một vũ trụ. Như vậy, ta có thể cả quyết cho rằng vũ trụ chẳng phải một, cũng không hai hoặc ba, bốn, năm, sáu mà là hằng hà sa số. Tóm lại, việc tìm hiểu sự hình thành của Thiên hà vẫn còn đang là một vấn đề thời sự.
Tôi thắc mắc hỏi :
- Vậy, thưa thầy Vũ trụ nguyên thủy như thế nào? Con còn chưa rõ!
- Nó thật vô cùng! Tuy nhiên ta có thể nói đại khái để chú tường tận một phần nào, đợi đến khi nào chú theo học các bậc cao hơn sẽ thấy các sự việc xảy ra trong thời kỳ Vũ trụ còn nằm trong trạng thái hỗn mang huyền nhiệm như thế nào.
Ví như thuyết Vũ trụ nổ bắt đầu từ một điểm kỳ dị. Sở dĩ dùng cái danh từ "kỳ dị" bởi nó nó bắt đầu từ một điểm mà không có một danh từ nào hơn từ "huyền nhiệm".
Nói đến cái mối đầu của Vũ trụ thì chẳng một ai không nghĩ đến sự già nua của nó! Muốn biết tuổi của Vũ trụ phải đi ngược lại thời gian cho đến điểm kỳ dị lúc mà tuổi và bán kính của Vũ trụ là số Zero và từ con số Zero này người ta lấy đó làm mốc.
Danh từ mà chúng ta ngày nay thường dùng cho "cái nghĩa của mốc thời gian" chỉ vào khoảng thời gian và không gian nào đó. (Tại điểm này những định luật của toán học vật lý cũng như thuyết tương đối rộng không thể áp dụng được)
- Còn, thưa thầy con muốn được rõ hơn những giây phút đầu tiên trong vụ nổ đó!
Thầy tôi nhìn tôi đăm đăm, được một lúc Người bắt đầu cho tôi được một phần thỏa mãn về sự tò mò đối với câu hỏi này:
- Kinh sách nói: "Sau vụ nổ, Vũ trụ sẽ giản nở ra và tất nhiên là nhiệt độ sẽ được giảm dần". Chỉ trong vòng ba phút cũng đã quá đủ rồi. Vũ trụ tiến hóa rất nhanh với nhiều sự kiện không giống nhau, có nghĩa nó biến hóa một cách phi thường.
Tuy nhiên, chú nên biết rằng nếu Vũ trụ lúc bấy giờ chỉ đánh đổi đi một chút, chỉ một chút thôi nha, thì cả cái Vũ trụ bao la này đã đổi khác hẳn hơn cái Vũ trụ mà chúng ta đang ở đây, có nghĩa là chúng ta đã không có sự hiện diện trên hành tinh này.
- Thưa thầy.
Tôi hỏi:
- Vậy thì mỗi thế giới đều có sự sống bên trong và cùng chung một định luật như thế giới của chúng ta hiện hữu ?
Thầy tôi gật đầu:
- Như ta đã dẫn chứng, khi ngọn lửa được bật cháy lên thành lửa ngọn tức là nói lên sự "Tạo Thành". Và ngược lại, lúc ngọn lửa bị thổi tắt đi thì đó là sự "Hủy Diệt". Tất cả đều như nhau, chẳng ai có thể tránh thoát được định luật .
Sau lời giảng giải này, thầy tôi đứng lên hẹn sẽ gặp lại vào một đêm đẹp trời khác rồi lách mình mất hút bên sau bờ đá. Vầng trăng trên vòm trời trông có vẻ u buồn trải dài lên khắp sơn khê một màu vẩn đục như váng sữa.
Càng về đêm gió càng lộng. Tôi cùng chú Chécour đi về hướng cầu thang lần mò xuống dưới hầm chùa tìm nơi ngủ tạm qua đêm. Tuy đã cẩn thận lần đi từng bước song vẫn không tránh khỏi bị sẩy chân trượt ngã khi vô ý giẫm lên bãi dầu "bơ" bê bết làm trơn trợt cả các bậc cầu thang.
Lúc bấy giờ tôi chẳng khác nào như cái bị bông rơi đánh bịch xuống tận chân cầu khiến chú Chécour hốt hoảng la lên bai bải làm kinh động cả khu hầm giữa lúc mọi người đang say ngủ phải giật mình càu nhàu.
- Lỗ San! Lỗ San ơi! Có sao không ?
Tuy bị đau thấu xương, tôi vẫn cố trấn an gắng gượng đáp:
- Không sao cả chú à! Chỉ hơi ê một chút thôi.
Vừa dứt lời, có bàn tay của ai nắm chặt vào cổ tôi xô mạnh về phía trước làm tôi chúi mũi xuýt chút nữa đâm người vào cây cột đá được dựng lên giữa khu hầm. Thế là tôi cùng chú Chécour quờ quạng nắm lấy tay nhau chạy thục mạng về phía bên trong hầm chùa để lẩn tránh.
Chạy quanh co một lúc, cuối cùng cũng tìm ra được phiến đá phẳng lì khá rộng bèn chia nhau nằm ngủ qua đêm. Vừa đặt lưng xuống, tôi đã thiếp ngay đi không còn biết trời trăng gì nữa. Mãi đến khi mặt trời lên quá con sào tôi mới giật mình tỉnh dậy song đôi mắt vẫn còn dính chặt vào nhau. Trong lúc ấy bên tai tôi nghe văng vẳng có tiếng quát tháo ầm ĩ của một chú tiểu:
- Dậy đi.. Nhanh lên ông bạn nhóc con ơi!
Tôi giật mình và cố mở mắt ra nhìn. Thì ra đứng trước mặt tôi là một chú tiểu mập ú na ú nần mà chúng tôi thường gọi đùa bằng cái ngạo danh con lợn ỉ. Có thể chú muốn giương cao uy danh mình nên khi tôi vừa lo mò đứng dậy chú tiểu này lấy chân thốc mạnh vào mông tôi quát lên hối thúc:
- Thượng tọa Trụ trì cho gọi anh đấy... Không phải chơi đâu. Đi nhanh lên kẻo trễ bị ăn đòn đấy.
Nghe đến tên Thượng tọa Trụ trì tôi hơi ớn nên vội xốc lại áo quần cho chỉnh tề, chúc sức khỏe chú Chécour rồi phóng nhanh ra cửa chạy bán sống bán chết. Lúc bấy giờ dạ dày tôi bắt đầu cồn cào khó chịu, vừa đi vừa lẩm bẩm :
- Làm sao mà cứ gọi người ta vào ngay giờ ăn thế này? Đói muốn chết được đây.
Tuy vậy, tôi vẫn cắm đầu chạy dọc theo hành lang vòng quanh theo các bờ tường dài của chùa làm cho các vị Sư Già đang đứng rải rác đâu đó vội né sang bên để tránh khỏi bị đâm nhằm, trên mặt họ hiện ra vẻ bất bình.
May mắn thay! Tôi đến văn phòng cũng vừa kịp đúng giờ. Trong khi đó vị Thượng tọa Trụ trì đang xem xét hồ sơ một cách khá chăm chú và như đã biết có sự hiện diện của tôi, Ngài ngẩng mặt lên nhìn tôi cười:
- À! Thì ra cái chú nhóc con đã ngã xuống chân cầu làm cho bao nhiêu người náo loạn cả lên đêm rồi...
Nói đến đây Ngài ngưng lại chăm chú nhìn tôi đoạn vừa cười vừa tỏ lời khen tặng :
- Chú nhóc con ơi! Chú học khá lắm...Trình độ Vật Lý học của chú được ghi nhận là xuất sắc nhất. Học bạ ghi chú thuộc vào hạng ưu. Bởi thế ta phải đặc biệt giao chú lại cho Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt.
Ngài sẽ nhận lãnh trách nhiệm dẫn dắt chú trên đường học vấn. Đây là ân huệ tối hậu đặc biệt Ngài sẽ dành riêng cho chú. Ta hy vọng chú sẽ xứng đáng với lòng ưu ái của Ngài.
Nói đến đây vị Trụ trì nheo mắt nhìn tôi vừa khôi hài vừa tỏ vẻ trìu mến:
- Xong rồi! Bây giờ chú về gặp ngay Minh sư của chú đi! Chúc chú thành công.
Dứt lời Ngài mỉm cười với tôi lần nữa như thể tiễn đưa lần cuối với đứa học trò ngoan của mình và lại lẵng lặng quay đầu lại tiếp tục xem xét các hồ sơ khác. Tôi vừa rảo bước đi vừa yên lòng vì biết các lỗi vụn vặt của mình không bị ghi vào trong học bạ.
Vừa đặt chân đến văn phòng thì đã gặp ngay thầy tôi đang ngồi đợi sẵn. Có lẽ vì biết tính xấu đói của tôi nên Thầy tôi cười vui vẻ :
- Đã ăn uống đầy đủ chưa ?
- Thưa thầy, Ngài Trụ trì cho gọi trong lúc con còn chưa tỉnh ngủ hẳn, vội chạy đến ra mắt ngài và sau đó lại được lệnh bảo đi ngay đến trình diện Minh sư nên vẫn chưa ăn uống gì cả ạ!
Nghe tôi vừa nói dứt lời, thầy tôi đã phá lên cười:
- Đi tìm thức gì ăn đi rồi trở ngay vào đây. Ta có chuyện cần...đến chú.
Rồi tiếp theo bằng lời nói bông đùa :
- Trông dáng điệu chú làm như là đã nhịn ăn mấy ngày liền rồi vậy.
Mặc dù bị cơn đói dày vò thật sự nhưng tôi cố gắng không tỏ ra cử chỉ nào có vẻ vội vàng cả mặc dù càng lúc dạ dày tôi càng cồn cào và chân tôi như không còn đứng vững được nữa.
Sau khi có bữa điểm tâm thật ngon lành tôi cảm thấy tỉnh táo hẳn lại. Nhưng cũng từ giờ phút ấy tôi mới bắt đầu ưu tư cho công việc phải làm gấp bao nhiêu lần nhiều hơn như đã được thông báo trước. Vừa trở lại văn phòng đã trông thấy thầy tôi đang ngồi loay hoay sắp xếp sách vở vào tay nải, nghe tiếng động Ngài quay lại bảo tôi:
- Chúng ta phải sang ngay ngọn Phổ Đà La (Potala) và ở lại nơi đó một tuần.
Thế là ngay sau đó chúng tôi tức tốc rời khỏi phòng.
Vừa ra đến sân nhác thấy ngay ông Sãi đứng canh chừng bên cạnh hai con tuấn mã chờ đợi chúng tôi sẵn từ lúc nào. Bất giác một nỗi buồn man mác xâm chiếm trong tâm hồn tôi khi nhìn con tuấn mã từ tay ông Sãi dắt lại trao cho.
Con vật cũng nhìn lại tôi trông nó có vẻ buồn thảm hơn. Dường như nó cũng thông cảm và ái ngại hộ cho tôi sắp phải trải qua những nỗi gian lao nơi đèo heo hút gió. Lặng lẽ leo lên mình ngựa mà lòng tôi mang nặng nỗi ưu tư! Với tôi thì cái gì cũng tạm được song đối với môn cỡi ngựa thì lại còn rất kém.
Người và vật rong ruổi ven theo bờ núi tới ngọn Trắc Phổ Di, lần bước xuống dốc ngang qua con lộ Mã Nê, nhìn sang bên phải là con đường Bát Nhã. Ngồi trên lưng ngựa đi một khoảng thời gian lâu chúng tôi mới vào đến làng So.
Nơi đây tạm nghỉ trong chốc lát để lấy lại sức, thầy trò tôi lại bắt đầu tiếp tục cuộc hành trình. Trải qua các dốc đá khá cao nữa mới đến ngọn Phổ Đà La. Con dốc vừa cheo leo vừa thẳng đứng, lại vừa ngoằn ngoèo hiểm trở. Nhận thấy cơ nguy bị trượt ngã lúc nào cũng có thể xảy ra, vì vậy tôi luôn luôn thận trọng từng bước.
Tuy đường sá khó khăn song khách thập phương lai vãng khá đông. Kẻ lên người xuống trông có vẻ tấp nập. Thỉnh thoảng có người dừng chân lại để vừa nghỉ mệt vừa ngoạn cảnh núi rừng. Đi thêm một chặng dài nữa thì chúng tôi đến tận đỉnh cao của ngọn Phổ Đà La.
Tôi thầm cảm tạ Ơn Trên đã ban cho nhiều may mắn trong cuộc hành trình lắm gian truân này. Rời khỏi lưng ngựa nhìn xuống chân núi bất giác cảm thấy rợn cả người. Con vật như tuồng cũng thở phào ra. Trông nó có vẻ cáu kỉnh quay nhìn lại phía tôi đang đứng.
Chúng tôi lại bắt đầu đi bộ trèo hết thang dây này đến các thang dây khác bắc cheo leo ngang lưng sườn núi. Khi đến tận ngôi chùa Phổ Đà La, thầy tôi được dành riêng cho gian tịnh thất gồm khu nhà có phòng ốc Khoa học đầy nhóc các dụng cụ máy móc của nền văn minh tối cổ lưu lại.
Tôi cũng được cấp cho căn phòng ở trong một khu nhà kế cận thấp hơn phòng của thầy tôi một tầng. Đứng nơi cửa sổ vọng mắt nhìn ra bên ngoài trông thấy được toàn bộ vùng Lạt Sa và cả một cánh đồng mênh mông rộng lớn. Xa xa ngôi đền Du Khang với mái vàng sáng chói làm hoa cả mắt.
Con đường Linh Cơ ngoằn ngoèo bao quanh thành Lạt Sa mỗi ngày có cả hàng ngàn thiện nam tín nữ thập phương tấp tập kéo đến để dâng hương và chiêm ngưỡng nơi có ngôi trường dạy Thần Bí Học lớn nhất thế giới.
Tôi thầm tạ ơn Phật cho mình sự may mắn gặp được vị minh sư Lạt Ma Minh Đà Đông Đạt . Nếu không có định mệnh an bài thì có lẽ tôi cũng chỉ là một chú tiểu tầm thường như trăm nghìn chú tiểu khác. Có nghĩa là những chú tiểu chỉ biết cặm cụi làm việc và chui rúc ngủ dưới hầm chùa tối tăm ẩm thấp.
Làm sao có diễm phúc trèo lên được tận đỉnh núi này, một nơi được xem gần như cao nhất thế giới. Trong lúc đang nghĩ vẩn vơ thì cả người tôi bất thần bị nhấc bổng lên cao. Tôi hốt hoảng kêu rú lên víu chặt lấy hai cánh tay hộ pháp nào đó, đôi chân tôi giẫy nẩy, mắt nhắm nghiền lại phó mặc cho toàn thể châu thân mình bị xoay tròn như con vụ.
- A! cái chú nhóc chỉ biết nghĩ có mỗi mình minh sư đã đưa lên đỉnh Phổ Đà La này mà chả cần biết đến ai nữa phải không?
Tiếng nói oang oang như xoi thủng cả màng nhĩ. Tôi giẫy nẩy kêu lên oai oái. Con người có hai cánh tay hộ pháp này cũng chẳng thèm lưu ý. Ông ta cười hô hố làm chói cả tai.
- A! chú nhóc nghĩ cái gì đó? Có phải chú nghĩ về hai cánh tay tợ như hai cái gốc cổ thụ này không?
Tôi nhận ra đó là tiếng nói của một nhà sư áo vàng. Nhà sư này vừa nói vừa cười ha hả trông có vẻ thích thú lắm. Tôi không hiểu bằng cách nào mà ông có thể đọc được tư tưởng của tôi lúc này. Nhưng rồi, tức khắc sau đó tôi cũng được trả về lại vị trí cũ một cách nhẹ nhàng. Nhà sư nhìn tôi với ánh mắt hiền hòa rồi nói:
- Này chú bé thân yêu ơi! Chúng mình đã quá quen thân nhau trong tiền kiếp. Cái kiếp mà hai chúng ta đều được liệt vào hàng kiến thức, am tường được mọi việc, thông đạt được mọi cảm nghĩ của mọi người. Chú chỉ cần ôn lại thì cái kiến thức đó sẽ trở về ngay với tiềm thức của mình. Ta sẽ giúp chú điều ấy. Hãy đến tại phòng ta và bắt tay ngay vào việc ấy.
Nhà sư nói xong liền quày quả bỏ đi, nhanh đến nỗi chỉ trong nháy mắt là mất dạng. Tôi xốc lại áo. Nhặt cái bát nằm lăn lóc ở ven sườn núi lúc bị nhà sư hổ mang đó nhấc bổng lên khiến nó rơi xuống, may mắn là chưa hề hấn gì. Thế rồi tôi lầm lũi trở về phòng đợi lệnh.
Thầy tôi nói đến đây đoạn nhìn tôi bằng đôi mắt hiền từ:
- Lỗ San! Chú hiểu lời ta nói chứ ?
- Vâng, thưa thầy con hiểu...
- Đừng bao giờ nghĩ ngọn lửa của Vũ Trụ là một hình ảnh phi thường.Thật ra nó có một hình thù kỳ quặc ở môi trường khá hấp dẫn. Ngọn lửa vũ trụ không bao giờ bốc lên cao như chúng ta thường trông thấy những ngọn lửa hiện hữu, mà nó thu lại trông hệt như hình thù của một quả bóng rực cháy hay có thể nói đúng hơn thì đó là một quả cầu lửa.
Ngọn lửa không đủ mạnh này đã tự nó vỡ thành từng phần lơ lửng bay như những quả bóng nhỏ trông hệt như những vật lạ bồng
bềnh giữa khoảng không gian. Theo Kinh sách thì chính những quả bóng lửa đó hàm chứa cả một sự bí mật đòi hỏi phải là một khối óc siêu phàm mới có thể hiểu được.
Đối với loài người thì ngọn lửa kỳ diệu này sẽ luôn luôn là một thứ khó hiểu. Bởi sự phức tạp không thể minh định được nó xuất phát từ đâu và ý nghĩa đích thực của nó là gì? Ngọn lửa đèn bình thường xuất hiện bởi hàng nghìn những phản ứng khác nhau.
Các phân tử của nó, mà ngày nay ta gọi là Hydrocarbon được hút lên thay bấc đèn bị bốc hơi và chất nhiệt của nó bị hủy hoại. Các phân tử này sản sinh ra ánh sáng luôn cả nhiệt và khí. mà theo khoa học ngày nay giải thích chúng được kết hợp lại với Oxy và Nước.
- Thưa thầy làm thế nào mà nó tự cháy được, nếu không có một bàn tay mầu nhiệm nào thắp sáng? Tôi lên tiếng hỏi.
- Bằng vào một sự hỗn loạn vừa phải của các phân tử không khí chung quanh, khiến cho ngọn lửa bốc cháy nhanh hơn, có điều nếu bị hỗn loạn quá đáng nó lại có phản ứng ngược lại, có nghĩa là nó bị tắt ngấm ngay.
- Thưa thầy con muốn biết cặn kẽ lý do nào nó như vậy?
- Chính Kinh sách cũng chưa khẳng định được. Đó là lý do khiến nó phải có phản ứng ngược lại. Ta nghĩ đó là bí mật của trời đất (Tưởng chúng ta cũng nên biết rằng khi lửa cháy, thì một số mảnh vỡ của Hydro-Carbon từ nhiên liệu được hút lên theo bấc đèn, sẽ tạo ra các phân tử hình khuyên gọi là Polycyclic Aromatic Hydro Carbons.
Một số mảnh vỡ khác thì tạo ra chất bồ hóng, tức là chất khói bị quyện lại với nhau mà ta thường thấy ở các chỗ bếp của các người dân nghèo khổ, của các quốc gia nhược tiểu. Sau đó các phân tử bồ hóng này có thể bị đốt cháy, hoặc bị cuốn bay ra ngoài và biến mất vào cái mênh mông vô cùng của Vũ trụ.
- Như chúng ta biết bình thường các khí lạnh đẩy khí nóng lên cao,vì vậy mà ta thấy vị thế ngọn lửa luôn luôn có xu hướng vươn thẳng lên. Hiệu ứng này người ta gọi là "độ nổi" của ngọn lửa trong không khí.
- Nói như vậy, thì ở môi trường hấp dẫn yếu như ngọn lửa thiên nhiên đầy bí mật ấy chẳng hóa ra bị triệt tiêu sao? Tôi hỏi.
- Hoàn toàn bí mật. Kinh sách bảo chưa có ai có thể tìm hiểu được điều gì bên trong cái bí ẩn ấy, Từ xưa nay trên mặt Địa Cầu mà ta đang ở, chưa có một Kinh sách nào từ Đông sang Tây, nghiên cứu được quả bóng lửa trong thời gian dài triền miên, kể ngay từ cái mốc thời gian khởi đầu Vũ Trụ!
Điều này tưởng ta nên biết cứ một cú rơi theo trục dài ví như trong 30 mét, chỉ mất có vào khoảng hai giây. Ngày nay cơ quan hàng không Vũ Trụ, NASA, đã tìm ra được cách tạo ra quả bóng lửa trong một khoang kín ở chiếc tàu con thoi.
Ban đầu máy tính dự đoán quả cầu lửa sẽ có kích thước rất nhỏ và chỉ tồn tại trong vòng vài phút, Tuy vậy, trên thực tế quả bóng mà cơ quan NASA tạo ra còn lớn hơn sự dự đoán đến ba lần và thời gian cháy kéo dài đến 8 phút.
Tôi đang miên man suy nghĩ sự bí mật của quả cầu lửa thì thầy tôi lớn tiếng hỏi:
- Lỗ San ! Chú đã suy nghĩ về vấn đề đời sống sinh vật mà chúng ta đã bàn luận đêm rồi chưa?
Tôi ấp úng trả lời:
- Thưa thầy nguyên con còn đang ngái ngủ thì bị vị Trụ Trì cho gọi đến. Sau đó thì con đến gặp thầy, rồi thì đi điểm tâm và cuối cùng quay lại đây gặp thầy lần nữa. Thật quả con không đủ thời giờ.
Không đợi tôi nói hết lời, thầy tôi mỉm cười bảo:
- Bây giờ ta tiếp tục kể câu chuyện còn dở dang của đêm qua trước khi cùng chú bàn thảo về các vấn đề khác...
Đến đây, thầy tôi ngưng lại với tay lấy một tập sách viết bằng ngoại ngữ trên giá sách để trên mặt bàn. Tôi ngạc nhiên vì đó là một tập sách viết bằng Anh ngữ và chắc chắn Người sẽ bàn cùng tôi vấn đề gì đây nữa.
Thầy tôi lật qua trang sau cùng của tập sách rồi chỉ vào hình ảnh bên trong hỏi:
- Chú có biết đây là những hình ảnh gì không?
Dán mắt vào tấm hình được in ấn trong tập sách tôi hơi ngờ ngợ và dường như có cái gì đó quen thuộc mà chưa kịp nghĩ ra. Mấy dòng chữ ghi chú bên dưới tấm hình thì tôi không thể đọc được!
- Lỗ San có thể không đọc được loại chữ này nhưng chẳng lẽ không nhận ra được bức hình trong sách đó sao ?
Thấy tôi ngơ ngác thầy tôi mỉm cười nói:
- Đó là hình ảnh của một vị linh thần...Chú nhớ lại thử xem.
Trong óc tôi bỗng lóe lên một tia sáng mường tượng "cái gì đó" song vẫn không thể xác định được "cái gì đó" là gì ? Thầy tôi đưa tay chỉ vào từng tấm hình đoạn giảng giải:
- Tuy hỏi chú như vậy song ta cũng biết là chú khó lòng nhớ rõ được. Ta nghĩ rằng chú có thể mang máng nhớ rằng là có một lần nào đó chú đã nhìn thấy họ, nhưng không thể nhớ được họ là ai và tại nơi nào. Ta có thể xác quyết là chú đã từng gặp các vị thần linh này.
Tất cả mọi đời sống như ta đã thảo luận đêm qua đều do những cọ xát có mức độ rung chuyển nhanh của vật chất phát sinh ra điện lực. Vậy thì, chắc chú thừa rõ điện lực là "đời sống của vật chất", chẳng khác nào như làn sóng bát âm.
Ví như người bình thường chúng ta rung chuyển theo những âm giai trung bình, chỉ nghe thấy trong một phạm vi nào đó. Nhưng đối với các "thần linh" các "linh hồn" hoặc các "ma quỉ"cthì phát ra những âm thanh qua luồng sóng cao, mà con người bình thường chúng ta, nếu không được truyền pháp, thì không thể nào nghe thấy được.
Nói đến đây Người nhìn tôi hỏi:
- Lỗ San ! Chú có hiểu tại vì sao không?
- Thưa thầy, có thể những linh hồn đó ở nơi thế giới vô hình!
- Đúng vậy. Đối với nhãn quan của con người không thể nghe thấy được loại âm thanh cao như vậy.
- Thưa thầy đã có bao giờ thầy sờ vào hình bóng và nắm bắt được bóng ma nào chưa?
- Có chứ.
Thầy tôi trả lời.
- Ta nắm được chúng chứ, nhưng những lúc như vậy ta phải nâng cao tần số tốc độ của mình ngang với tốc độ chuyển lực của linh hồn đó.
Đến đây thầy tôi trầm ngâm suy nghĩ trong giây lát rồi nói tiếp:
- Ta sẽ nói lại vấn đề này rõ hơn trong một ngày khác.
Đến đây, Ngài đưa tay vào túi lấy ra cái chuông bạc lóng lánh khẽ rung lên vài tiếng. Một âm thanh trong trẻo vang lên. Tôi được biết là cái ngân chung này do một vị Thượng Tọa trụ trì tại một Thiền đường nổi tiếng ở Tây Tạng tặng cho Ngài.
Tiếng chuông ngân nga vừa dứt liền sau đó một chú tiểu quen thuộc giữ nhiệm vụ phục dịch bưng ra một khay trà thơm ngon của xứ Ấn cùng với loại bánh ngọt nhập cảng đặc biệt không giống với bánh Tsampa thông thường mà tôi ăn hàng ngày.
Loại bánh đặc biệt này dành riêng cho các vị Đạt Lai Lạt Ma cũng như cho các Đại Sư mà thôi. Đức Đạt Lai Minh Dà Đông Đạt đã từng chu du khắp nơi. Ngài có hai phép để đi, hoặc bằng Thần Pháp hoặc bằng Nhiếp Hồn.
- Mấy mươi năm về trước khi ta còn tuổi trẻ, có lần vì sắp bị trễ buổi lễ, không còn cách nào hơn là phải chạy thục mạng xuyên qua bức tường bên kia mới may ra kịp giờ đảnh lễ.
Trong lúc chạy bán sống bán chết tự nhiên ta cảm thấy một sức cản nào đó như muốn chận lại. Ta ngước mặt lên nhìn, bỗng nhác thấy một nhà sư có thân hình hộ pháp, chạy đâm ngang với tốc độ còn hơn cả tốc độ của ta, băng băng chạy đến. Ta định đứng dừng lại để tránh, nhưng đã muộn rồi. Không còn biết làm sao nữa, đành lao thẳng vào thân hình hộ pháp của nhà sư kia.
Tôi nghĩ là phen này sẽ phải xảy ra một tai nạn mà hậu quả sẽ khó thể đo lường được. Nhưng may mắn thay...cả hai chúng ta như hai luồng hơi xuyên thủng qua nhau mà chẳng bị hề hấn gì. Giữa lúc ta còn bàng hoàng thì nhà sư hộ pháp kia đã đứng lại nhe răng ra cười rồi chẳng nói chẳng rằng, nhà sư kia lại tiếp tục bỏ chạy.
Ta cũng vậy. Vì giờ đảnh lễ sắp đến, ta cũng cắm cổ lao vút người như bay về hướng bờ tường trước mặt, miệng lẩm bẩm tự hỏi tại sao mình lại không dùng "Thần Pháp" mà lại chạy thục mạng như vậy?
Ngài nhoẻn miệng cười nhìn tôi:
- Chú biết không, suốt đêm hôm ấy ta không thể nào ngủ nghê được. Điều làm cho ta phải suy nghĩ là tại làm sao mình không nắm được "hồn ma"? Thế là bắt đầu từ đó ta tìm mọi cách để thực hiện cho kỳ được. Ta tự vạch lấy chương trình học và học một cách khoa học, chu đáo. Trước hết ta tìm đọc các Kinh thư và đồng thời tham khảo ý kiến và học hỏi các vị Chân tu trong lòng Thạch Cốc.
- Và thầy thành công? Tôi nóng lòng muốn biết nên ngắt lời thầy tôi.
- Tất nhiên là ta thành công. Quả như lòng mong ước, ta thực hiện được điều này.
- Có nghĩa là thầy nắm được "hồn ma"?
- Bắt đầu từ đó ta thường xuyên giao tiếp với tất cả các linh hồn nào ta muốn gặp bằng nhiều hình thức, hoặc cùng họ đàm đạo suốt đêm, hoặc cầm nắm tay họ mà chẳng có lấy một chút khó khăn nào.
Nói đến đây thầy tôi ngưng lại trong giây lát rót thêm trà vào chung. Hương trà tỏa lên mùi thơm ngạt ngào. Người nhấp từng ngụm một, trầm ngâm như để thưởng thức hương vị của loại trà nổi tiếng xứ Ấn rồi thong thả nói:
- Như chú đã biết đời sống chỉ là một khối gồm các phân tử, như một thế giới li ti xoay quanh các mặt nhật cũng cùng loại nhỏ bé như vậy. Nhờ tốc độ cọ xát phát sinh ra một chất mà ta gọi là điện.
Nếu ăn uống đúng theo phương pháp thì tốc độ trong người chúng ta được tăng trưởng. Ta không nói đến vấn đề huyền bí mà chỉ nói đến phương thức dinh dưỡng và dinh dưỡng như thế nào?
Ta đã học được nhiều phương pháp trực tiếp "sờ mó" hoặc "nắm chặt" lấy hồn ma bằng cách làm cho các tế bào tăng thêm tốc độ rung chuyển. Quả thật ta đã đi đúng đường. Nhờ luyện bằng lối tích cực, nên từ đó ta lần lần có được tốc độ của một con ma.
Đức Lạt Ma ngừng lại trong giây lát đốt cây nhang thơm và đợi khi cây nhang này bốc khói, Người mới quay lại nhìn tôi:
- Chú biết không? Mục đích chính của cây nhang là làm cho tăng trưởng vận động không khí khi có mùi hương của nó, kể cả vận động cho bất cứ ai ở trong khu vực đó nếu chúng ta dùng đúng loại hương của nó.
Ta phải chay tịnh giữ giới trong suốt mấy tuần lễ, theo phương pháp để tăng tốc độ cảm xạ. Suốt trong thời gian này, phải dùng đúng loại nhang thích hợp với phòng riêng của mình đang ở.
Chính nhờ loại nhang thích hợp này, khiến cho tinh thần ta thoải mái. Thế rồi thời gian sau đó tự nhiên ta cảm thấy nhẹ hẳn người đi, tựa hồ như không còn cái xác thân bằng xương bằng thịt này nữa...Ta thử bước đi. Thật là lạ lùng ! Cả châu thân ta như đang là là bay trên mặt đất.
Nói đến đây, đôi mắt Người nhìn ra ngoài trời đăm chiêu rồi tiếp tục nói :
- Bây giờ ta đâm ra ưu tư vì nỗi khó khăn để kiềm giữ lại linh hồn mình, trong cái xác thân ở cõi tạm này.
Rồi Người vui vẻ hỏi tôi:
- Chắc chú không mấy thích trai giới để sờ vào cái hồn ma như vậy phải không?
Tôi thầm nghĩ thà ăn một bữa cơm ngon lành còn hơn là đi sờ mó vào một con ma đen đủi xấu xí như Người đã thuật lại.
Cuối tuần lễ đó, cũng sau bữa ăn ngạt ngào hương vị Ấn Độ, thầy tôi lại bắt đầu kể tiếp chuyện các linh hồn:
- Đó là một buổi hoàng hôn vào tiết đông thiên trời đang hồi giá rét căm căm. Ta co ro đến chùa dưới cơn mưa phùn giá bấc. Vừa đến nơi ta liền vào ngay "Mật Tẩm" thắp thêm nén nhang thì thần khấn xin một "linh hồn" nào đó để được cùng nhau tay trong tay đàm đạo.
Đang lúc dõi mắt ra ngoài song sổ đợi "linh hồn của kẻ bên kia thế giới" hiện về, thì bất thần có một bàn tay nhẹ nhàng đặt lên bờ vai khiến ta giật bắn cả người lên. Đó là một bàn tay xương xẩu lạnh như đồng của một người bạn đã chết cách đây mấy tháng, trước sự chứng kiến của ta vào một đêm ngoài trời tầm tã gió mưa...
Đến đây thầy tôi bỗng phá lên cười như nhớ lại sự sợ hãi tận cùng của mình còn in sâu trong tiềm thức khi bắt gặp một bóng ma lần đầu tiên trong cuộc đời. Thầy tôi hạ thấp giọng kể tiếp:
- Lỗ San! Đó là linh hồn của một vị Lạt Ma, ông ta cười lên hô hố. Giọng cười khác hẳn lúc sinh thời, song âm hưởng vẫn còn nghe trong trẻo. Ông ấy nhìn chăm chú ta trong một thời gian khá lâu im lặng.
Sau cùng cất tiếng phê phán về phương thức đi tìm hồn ma như ta chỉ thêm khó nhọc. Tại sao lại không ngồi "Thiền" để "Nhiếp Hồn
" có phải dễ dàng gặp nhau không? Tất nhiên ta nghĩ là Người Chết có lý.
Đến đây thầy tôi gật gù nói tiếp:
- Như chú đã biết, giờ thì ta có thể dùng phép "nhiếp hồn" là vị chi có thể nói chuyện với ma hoặc bất cứ những kẻ khuất mặt nào nếu ta muốn.
- Vật = Ý có nghĩa là thầy đã dùng "Thần Giao Cách Cảm". Con cũng có thể áp dụng môn này. Tuy nhiên con không biết phải làm thế nào giảng giải.
Trầm ngâm trong giây lát, thầy tôi tiếp tục nói:
- Khối óc của con người khác nào cái máy thu thanh. Nó cũng như cái dụng cụ của anh chàng Masconi đã từng dùng để chuyển tin tức từ bên kia bờ đại dương. Sự hợp tác giữa các tế bào với điện năng là để cấu tạo. Thế có nghĩa là con người được cấu tạo bởi điện năng và tế bào.
Trong các bộ phận thu nhận tín hiệu do óc phát ra sai khiến để hoàn tất ý định. Khi ta nghĩ làm một việc gì như muốn cử động cánh tay chẳng hạn, tức thì điện lực chuyển đến những đường gân điều khiển hành động như khối óc ra lệnh. Do đó ta thấy khi mình nghĩ gì tức là đã dùng đến điện để điều khiển bộ óc.
Và từ bộ óc ra lệnh cho các hành động y hệt như cái máy phát thanh dùng điện để hoạt động. Các nước văn minh ở phương Tây dùng máy móc để đo điện năng phóng xạ và họ cũng phác họa các hình đồ ghi ra các loại điện gọi là Alpha, Beta, Delta hoặc Gamma tuyến. Điều này rất đúng!
Phía dưới dãy ghế hàng đầu đối diện bàn thờ Phật, một vị Đại Lai Lạt Ma trọng tuổi lưng còng đứng lên một cách khó khăn lê từng bước một đến trước các bạn đồng cấp nghiêng mình thi lễ. Lẽo đẽo theo sau là các chú tiểu đủ các màu da hai tay bưng lấy chiếc khay hình chữ nhật phủ lên vuông vải tơ điều.
Vị Đại Lai Lạt Ma trọng tuổi này lại kéo lê từng bước một đến trước mặt Đức Đạt Lai Lạt Ma cúi mình đảnh lễ, đoạn quay về phía các tăng lữ đang xếp hàng ngồi bên dưới, cất cao giọng thật thâm hậu xướng lên như thể một đạo nhân phủ dụ đám tín đồ.
- "Hãy nghe đây tiếng nói của linh hồn"! Thế gian này chỉ toàn là ảo ảnh và đời sống nơi quả Địa Cầu này âu chỉ là giấc mơ ngắn ngủi mà thôi!
- "Hãy lắng nghe đây tiếng nói của linh hồn! Cõi tạm này làm sao sánh kịp với Cõi Trường Tồn Bất Diệt? Không! Không bao giờ.
- "Hãy lắng nghe đây tiếng nói của linh hồn! Thế giới này chỉ toàn là ảo ảnh! Đời sống trên Địa Cầu đâu có phải là trường tồn bất diệt. Âu đó chỉ là một giấc mơ ngắn ngủi mà thôi!
- "Hỡi những ai kia mang bao nỗi buồn u uẩn! Hãy lắng tai nghe đây tiếng gọi của linh hồn! Tất cả những ảo ảnh rồi cũng ra đi trong cái khoảng không vô cùng thăm thẳm! Chuyện gì đâu mà phải khóc than sầu hận?
- "Hãy đốt lên đi nén nhang đầu soi sáng cho những linh hồn vất vưởng!
- " Hãy hộ trì cho họ quay về với thế giới siêu linh "
Tiếng xướng vừa tạm lắng xuống từ bên trong hàng ngũ áo vàng một nhà sư trẻ tuổi đứng lên tiến đến đảnh lễ Đức Lạt Ma, lúc bấy giờ Ngài đang trầm ngâm dõi mắt theo làn khói hương nghi ngút.
Nhà sư trẻ lại đốt nén nhang quay khắp bốn phương khấn bái đoạn cất lên giọng trầm trầm tụng niệm. Và ngay sau đó tiếng cầu kinh của các chú tiểu cũng rập ràng vang lên hòa cùng nhịp điệu.
Từ bên trong đám các tăng lữ bỗng xuất hiện Đức Lạt Ma đẫy đà trọng tuổi ra trước bực lễ đường đưa cao chiếc chuông bạc rung lên một hồi dài,rồi vừa cất cao lời tụng niệm vừa đảo mắt xuống hàng cử tọa thử xem mình có được tán thưởng hay không?
Để nhà sư này trở về chỗ cũ, Đức Lạt Ma trọng tuổi tiến đến trước mặt Giáo Chủ đảnh lễ thêm lần nữa rồi quay sang lễ trước bàn thờ. Xong đâu đó, ông ta lại cất cao lời tiếp tục tụng niệm:
-"Hãy lắng tai nghe đây tiếng gọi của linh hồn! Thế giới này chỉ là ảo ảnh! Địa Cầu là môi trường để thử thách trong cuộc sống mà thôi! Thanh lọc ngay đi các màu trược khí mà vươn lên hướng về Cội Phúc để tìm cái trọn vẹn nguyên thủy của Đất Trời!"
Tiếng tụng niệm cùng với tiếng chuông vẫn vẳng vọng từ dưới chùa lên,trong khi chú tiểu đồ trịnh trọng đốt nén nhang thứ hai rồi tiến về phía Ngài Giáo Chủ cúi rạp mình đảnh lễ.
Bốn bức tường của ngôi đại tự hình như mở rộng thêm ra và dường như nó cũng chuyển động nhịp nhàng theo từng âm điệu của câu kinh.
Bất giác tôi sững sờ giương tròn xoe đôi mắt nhìn vào những hình ảnh đen đúa xấu xí một cách dị thường, đầu tóc bỏ xõa, tay chân thì như co quắp lại không biết xuất hiện từ lúc nào đang chập chờn bao quanh lấy vị Đại Lạt Ma trọng tuổi này!
- "Đó là những bóng ma của những người vừa mới chết!"
Giọng nói này bỗng từ đâu vang vọng vào tai tôi.
- Họ là những kẻ bình sinh chẳng chịu tu hành!
Tôi chăm chú nhìn vào những bóng ma ấy. Trông họ có vẻ lạc lõng cô đơn. Nét mặt họ hằn lên vẻ đau buồn, tủi hận! Ánh đèn chập chờn lúc tối lúc sáng bám sát vào các bóng ma đang vừa thất thểu vừa đi vừa rên rỉ kêu xin cho được hưởng ơn huyền nhiệm để cứu rỗi lấy linh hồn.
- Hãy lắng tai nghe tiếng nói của linh hồn..
Tôi cùng Minh Sư đến ngọn Phổ Đà La vừa lúc ánh bình minh vừa ló dạng ở chân trời. Từ đầu xa nhìn về ngôi Đại Tự trông chẳng khác nào như một sinh vật sống động.
Vừa đến nơi thầy tôi đã tức khắc cùng các vị đại sư mật đàm ngay tại khu mật thất. Riêng tôi hôm nay hoàn toàn được tự do khỏi phải bị ràng buộc như những ngày theo minh sư trong suốt chặng đường dài. Cũng nhờ vậy mà tôi khám phá được nhiều điều bí mật xảy ra bên trong ngôi đại tự cổ kính này.
Hình ảnh đầu tiên tôi bắt gặp là một bức hoành phi treo lủng lẳng bên trên cái xà ngang nơi cạnh mái phòng hội, trong đó ghi khắc các giới luật của nhà chùa. Tầng trên ngôi đại tự có một sân thượng khá rộng.
Muốn lên sân thượng này phải qua một chiếc cầu thang có nhiều bục lát toàn loại đá hoa đủ các màu sắc vừa rực rỡ vừa trang nhã. Đứng tại đây nhìn chung quanh có thể quan sát được toàn bộ khu vực rộng lớn của Phổ Đà La nơi chúng tôi đang tạm trú.
Đi quanh quất một lúc thì gặp một cửa nhỏ khép hờ hững, chỉ cần đẩy nhẹ đủ mở tung ra không mấy khó khăn. Tôi cẩn thận nhìn quanh quất, khi đã yên chí là chẳng có ai dòm ngó, tôi vội lách mình đi vào bên trong.
Đây là một gian phòng hoàn toàn bằng đá không lớn không nhỏ sát bờ tường của ngôi Chính Điện đập ngay vào mắt tôi là một cái bàn hình chữ nhật, cao lối hơn một thước tây được dựng lên toàn bằng loại đá cẩm vân.
Tôi mon men lại gần quan sát, nhận thấy một lỗ hổng tròn trịa trên bức tường ngay trước mắt có đường kính vừa đủ để chui đầu ra quan sát bên ngoài.
Mái ngói của ngôi chùa đỏ choét rực lên dưới ánh nắng mặt trời. Một con đường từ cổng dẫn vào có hai hàng cây xanh đen thẳng tăm tắp. Lố nhố chung quanh ngôi đại tự mấy dãy nhà không cao không thấp trông như một rặng núi ẩn hiện trong lớp sương mù có màu váng sữa.
Từ nơi sân thượng của ngôi đại tự nhìn xuống bên dưới, cảnh vật đều thu nhỏ lại trông như bức tranh thủy mạc giữa cảnh chiều hôm. Tất cả đều ngã màu vàng vọt, ngoại trừ cụm Tuyết Sơn trắng xóa tỏa lên hai luồng ánh sáng chẳng khác nào như hai dải lụa bạch.
Hàng trăm ngọn đèn thắp bằng dầu "bơ" tỏa ra một màu vàng nhợt nhạt. Tự nhiên tôi cảm thấy tâm hồn nhẹ nhõm và châu thân tuồng như đang bồng bềnh ngay giữa lưng trời.
Ánh sáng của các ngọn đuốc lớn được thắp lên khi vầng Ô vừa tắt lịm in bóng lên các cột chùa trên mặt tường nơi "thính đường" tạo thành những hình ảnh chập chờn ma quái.
Trước những hình bóng dị thường này tôi ngỡ như mình đang lạc vào một thế giới diệu huyền, hay bị ảo giác lôi cuốn vào một hiện tượng siêu linh đầy những hình ảnh kinh dị!
Bất giác tôi sững sờ chẳng biết những điều mình trông thấy có thật là mình đang sống giữa thế giới hay không?! Hay đây là cảnh tượng của thế giới bên kia, một thế giới đầy ma quái?
Nhưng rồi tôi lấy lại được sự ổn định tinh thần và đưa mắt nhìn sang bên kia khu đối diện với chính điện, qua cái khoảng cách chẳng khác nào như một biển khói cuồn cuộn hệt như thân một con rồng khổng lồ đang lặn ngụp giữa lòng biển sóng.
Các chú tiểu tay bưng bình hương thỉnh thoảng bắn lên các đóm lửa nhỏ, nối đuôi nhau vừa đi vừa tụng niệm. Cứ thế, các chú cứ tiếp tục chậm rãi bước đi mang theo những lọn khói đen sì bốc lên cao, quay cuồng y như những con quái vật thở ra các cột khói đen ngòm.
Càng lúc tôi càng bị lún sâu vào trạng thái như dở tỉnh dở mê, có thể là do tự kỷ ám thị, hoặc bị mê hoặc bởi đôi mắt huyền bí tận một chốn xa xăm nào đó! Tôi cảm thấy mình đang chui rúc vào xem lục phủ ngũ tạng của chính mình và nghe luôn cả tiếng chuyển động của dòng máu chảy theo từng nhịp đập của con tim mình.
Qua làn khói hương bao phủ tôi nhìn thấy hình ảnh lờ mờ của các chú tiểu đi chung quanh các vị Đại Sư cùng các Đức Lạt Ma ngồi nơi chính điện. Họ kết thành hàng dài, mình mặc toàn áo cà sa đủ màu vàng, xanh, tím, đỏ. Các màu sắc này được chằm vá lên nhau trông hệt như một bức tranh màu tuyệt mỹ dưới ánh sáng chập chờn của các ngọn đuốc.
Đức Chí Tôn Đạt Lai Lạt Ma ngồi chủ tọa nơi hàng ghế đầu. Ngài là hiện thân thứ 13 của Đức Lạt Ma Tối Thượng trong Cộng Đồng Phật Giáo Thế Giới.
Tiếng tụng niệm trầm trầm của các vị Đại Sư kéo dài ra, trong khi các chú tiểu lại cất cao giọng vang lên tợ bản hợp ca khi trần lúc bổng như đưa tâm hồn người nghe đi vào thế giới mung lung diệu vợi.
Nhìn xuyên qua khung cửa lớn tôi theo dõi những hình bóng đen sì lung linh chiếu lên trên những bức tường đá bên trong điện thờ và hàng trăm ngọn đèn được các Sãi áo nâu hờm sẵn bình dầu trên tay sẵn sàng châm thêm vào cho những ngọn đèn nào sắp cạn.
Tôi cũng không bỏ sót từng hành động của các chú tiểu đang túc trực cạnh những bình hương trên bục bàn thờ để thay nhang mới, chú tiểu nào cũng tỏ ra một lòng cung kính.
Phía dưới dãy ghế hàng đầu đối diện bàn thờ Phật, một vị Đại Lạt Ma trọng tuổi lưng còng đứng lên một cách khó khăn lê từng bước một đến trước các bạn đồng cấp nghiêng mình thi lễ. Lẽo đẽo theo sau là các chú tiểu đủ các màu da hai tay bưng lấy chiếc khay hình chữ nhật phủ lên trên vuông vải tơ điều.
Vị Đại Lạt Ma trọng tuổi này lại kéo lê từng bước một đến trước mặt Đức Đạt Lai Lạt Ma cúi mình đảnh lễ, đoạn quay về phía các tăng lữ đang xếp hàng ngồi bên dưới, cất cao giọng thật thâm hậu xướng lên như thể một đạo nhân phủ dụ đám tín đồ.
- "Hãy nghe đây tiếng nói của linh hồn"! Thế gian này chỉ toàn là ảo ảnh và đời sống nơi quả Địa Cầu này âu chỉ là giấc mơ ngắn ngủi mà thôi!
- "Hãy lắng nghe đây tiếng nói của linh hồn! Cõi tạm này làm sao sánh kịp với Cõi Trường Tồn Bất Diệt?! Không! Không bao giờ!
- "Hãy lắng nghe đây tiếng nói của linh hồn! Thế giới này chỉ toàn là ảo ảnh! Đời sống trên Địa Cầu đâu có phải là trường tồn bất diệt. Âu đó chỉ là một giấc mơ ngắn ngủi mà thôi!
- "Hỡi những ai kia mang bao nỗi buồn u uẩn! Hãy lắng tai nghe đây tiếng gọi của linh hồn! Tất cả những ảo ảnh rồi cũng ra đi trong cái khoảng không vô cùng thăm thẳm! Chuyện gì đâu mà phải khóc than sầu hận?
- "Hãy đốt lên đi nén nhang đầu soi sáng cho những linh hồn vất vưởng!
- " Hãy hộ trì cho họ quay về với thế giới siêu linh!"
Tiếng xướng vừa tạm lắng xuống từ bên trong hàng ngũ áo vàng một nhà sư trẻ tuổi đứng lên tiến đến đảnh lễ Đức Đạt Lai Lạt Ma, lúc bấy giờ Ngài đang trầm ngâm dõi mắt theo làn khói hương nghi ngút. Nhà sư trẻ lại đốt nén nhang quay khắp bốn phương khấn bái đoạn cất lên giọng trầm trầm tụng niệm. Và ngay sau đó tiếng cầu kinh của các chú tiểu cũng rập ràng vang lên hòa cùng nhịp điệu.
Từ bên trong đám các tăng lữ bỗng xuất hiện Đức Lạt Ma đẫy đà trọng tuổi ra trước bực lễ đường đưa cao chiếc chuông bạc rung lên một hồi dài,rồi vừa cất cao lời tụng niệm vừa đảo mắt xuống hàng cử tọa thử xem mình có được tán thưởng hay không?
Tôi chăm chú nhìn vào những bóng ma ấy. Trông họ có vẻ lạc lõng cô đơn. Nét mặt họ hằn lên vẻ đau buồn, tủi hận! Ánh đèn chập chờn lúc tối lúc sáng bám sát vào các bóng ma đang vừa thất thểu đi vừa rên rỉ kêu xin cho được hưởng ơn huyền nhiệm để cứu rỗi lấy linh hồn.
- Hãy lắng tai nghe tiếng nói của linh hồn..
Đứng trước cảnh tượng ma quái ấy tôi cảm thấy mình như đang chơi vơi lạc lõng giữa hai thế giới. Một thế giới thiêng liêng trong cảnh hành lễ mà lần thứ nhất tôi được chứng kiến tận mắt, và một thế giới khác của những hồn ma mang đầy tội lỗi đang hãi hùng run sợ trước cõi chết!
Tiếng khóc than rên rỉ của họ lúc thì gấp gẫy, khi thì rời rạc, vang vọng lên như tiếng của những con dê lạc đàn giữa chốn rừng già hoang dã.
Trong bóng tối ẩm ướt của thế giới lạc lõng đó các hồn ma chập chờn bước theo ánh lửa xanh lè, khi ẩn khi hiện giữa màn khói hương bao phủ tư bề...Cứ như thế các hồn ma kia nhịp nhàng bước đi theo từng lời kinh tiếp dẫn của vị Đại Lạt Ma trọng tuổi.
- "Hãy lắng tai nghe đây tiếng gọi của "linh hồn"! Thế giới này chỉ toàn là ảo ảnh hão huyền, tất cả chúng sinh chỉ là các "linh thần" ở thế giới "Chân Như" xuống trần gian để hoàn thành nghiệp quả, đợi đến khi mãn phần rời khỏi cõi tạm này mới trở về với thế giới thiêng liêng vĩnh cửu. Đó là cái thế giới Bất Sinh, Bất Tử, Chân Như Tự Tại.
Hãy lắng tai nghe tiếng gọi của linh hồn! Thắp nén nhang lên để dẫn độ các vong linh đang rên xiết trong biển trầm luân đau khổ lang thang tìm đàng trở về với thế giới siêu nhiên đời đời kiếp kiếp!"...
Trong lúc mải mê với cảnh tượng lạ lùng này thì đột nhiên một luồng cảm xạ từ một nơi nào đó phóng đến tai tôi :
- Lỗ San ! Hãy trở về ngay, tôi đang cần đến chú
Tôi vội đáp lại ngay cũng bằng phương pháp cảm xạ cho Ngài biết là tôi đang trên đường trở về.
Trong suốt thời gian bị khói hương từ ngôi Chánh Điện tuôn ra mù mịt làm cho mắt tôi ràn rụa cả lệ và đỏ au lên! Lúc bấy giờ tôi như một kẻ mất hồn, ngơ ngơ ngẩn ngẩn đến độ khi vừa bước vào phòng, Minh Sư đã phải kêu lên:
- Lỗ San! Hình thù chú làm thế nào mà như thể bị quỉ ám vậy?
- Thưa thầy, có thể như vậy, thưa Minh Sư! Chính mắt con đã nhìn thấy những bóng ma xuất hiện nơi Chánh Điện!
- Chú nhìn thấy?
- Thưa Minh Sư, chính mắt con đã nhìn thấy từng đàn kéo nhau đến trước Điện thờ vừa đi vừa than khóc... Đây là lần thứ nhất trong cuộc đời con chứng kiến được cảnh rùng rợn đến như vậy...
- Minh Sư im lặng. Người không để ý đến lời của tôi vừa nói, chỉ mỉm cười rồi chuyển sang công việc của tôi phải làm cho ngày hôm sau:
- Đêm nay chúng ta lưu lại ngủ tại đây. Sáng sớm ngày mai đến yết kiến ngài Tiên Tri Lạt Ma. Nơi đó thế nào chú sẽ được ngài chỉ giáo cho được nhiều điều cần thiết!
Đến đây thầy tôi phát ra một giọng cười giòn giã:
- Chú đã gặp lắm ma ắt phải đói nhiều! Vậy bây giờ chú hãy đi tìm thức gì ăn để còn phải nghỉ ngơi sớm....
Tôi vừa ăn vừa ôn lại những sự việc đã xảy ra nơi ngôi Đại Tự. "Cứ theo lời của vị Đại Lạt Ma trọng tuổi ban chiều nơi Chánh Điện, thì chẳng hóa ra thế giới này toàn là ảo ảnh! Đời chỉ là một giấc mộng lớn, chẳng có gì vĩnh cửu cả! ".
Ăn xong bữa tối, tôi vội về ngay phòng để lấy lại sức sau một ngày mệt mỏi. Vừa đặt lưng xuống giường tôi đã mê man hẳn. Trong giấc ngủ thấy toàn những cơn ác mộng, đi lang thang vào các cảnh giới của người chết đầy sự hãi hùng khiếp đảm!
Tuy nhiên, tôi vẫn giữ được sự tỉnh táo nhớ cả những hình ảnh của đàn ma quái, mặt mày đen đủi, diêm dúa bước đi khập khễnh vây quanh vị Đại Lạt Ma trọng tuổi ngồi đối diện với Điện thờ nơi Chính Điện và lũ ma này không ngớt cất tiếng khóc than thảm thiết.
Trong quang cảnh rợn người đó tôi nhìn thấy hằng hà sa số các vật gì "tròn trĩnh" bay đến trông hệt như luồng sóng cát quay cuồng trong cơn bão táp. Rồi tiếp đến là các chấm đen nhỏ li ti từ đầu xa tít xuất hiện.
Các chấm đen này cứ lớn dần ra rồi là là bay về hướng tôi đang đứng trông hệt như những hạt kim cương rực lên đủ màu sắc lung linh như thể một rừng hoa đăng trong những đêm dài của các ngày hội lớn.
Những hạt kim cương xinh đẹp này cứ lớn dần ra, biến dạng thành những quả cầu thủy tinh của những tên phù thủy và vẫn tiếp tục thay hình đổi dạng, để rồi cuối cùng trông hệt như những chiếc đầu lâu xanh dờn nhe ra hai hàm răng trắng hếu.
Điều lạ nhất với tốc độ bay của chúng nhanh như thể tia điện lóe lên loang loáng ánh sáng trông hệt như một mũi tên phóng lại và chúng biến mất vào màn đêm đen tối.
Trong lúc tôi miên man suy nghĩ về giấc mơ dị thường đầy vẻ ma quái này thì bỗng có giọng nói như tru tréo phát ra: "Con ma này đã nhìn xuyên qua được mấy bức tường dày của ngôi Đại Tự, chẳng biết bây giờ nó có còn là "ma" nữa hay không ?"
Nghe câu hỏi này từ cửa miệng của một kẻ xa lạ, tôi bất giác rùng mình! Tại sao kẻ nào đó lại đi hỏi ta với lời lẽ này? Một nỗi sợ hãi len lỏi vào người tôi. Toàn thân tôi bất giác nổi lên cả gai ốc.
Tôi lẩm nhẩm tự hỏi: Phải chăng ta đã chết? Vậy ta đã chết từ bao giờ? Từ trên mình ngựa lao xuống lòng vực sâu thăm thẳm? Hay mình chỉ mới chết ngày qua đây lúc quỳ xuống bên cạnh chiếc hầm nổi để tò mò nhìn xem "thế giới bên kia"?
Nhưng rồi, tôi lại trầm ngâm suy nghĩ: "Tại sao ta lại quá ưu tư về cái chết như vậy? Chẳng lẽ ta hèn nhát lắm ư ? Chết đâu có phải là hết? Ta vốn biết như vậy. Nó chỉ là một cuộc tái sinh để chuẩn bị cho một kiếp khác!
Minh Sư há đã chẳng từng nói "Chết đi là sống lại" đó sao?". Nghĩ đến lời lẽ của Minh Sư tôi lấy ngay lại được sự bình tĩnh... yên lòng nằm xuống để tìm lại giấc ngủ.
Nhưng vừa chợp mắt thì lại hốt hoảng, ngồi ngay dậy. Hai tay tôi nắm chặt lấy thành giường. Mắt tôi trừng trừng nhìn về phía trước. Đột nhiên tôi có cảm giác trời đất bỗng dưng rung chuyển mạnh, đến nỗi mọi vật thảy đều đảo lộn. Tiếng kêu răng rắc của nhà cửa.
Tiếng tường xiêu vách đổ mỗi lúc một mạnh thêm lên. Tiếng của mái nhà đong đưa nghe hệt như tiếng lồng lộn của bầy thú dữ. Gió tứ hướng thổi đến giữa đêm khuya vắng! Tiếng mưa đập vào các mái nhà, vào các bức tường gạch, vào các khung cửa kính, và luôn cả những mái tôn, tạo thành một điệp khúc điên loạn.
Đó chưa kể tiếng loảng xoảng của đồ vật trong nhà đổ vãi lung tung văng ra ngổn ngang cùng khắp. Tôi co cụm người lại trước những âm vang đến rợn cả người.
Lúc bấy giờ tôi có cảm tưởng ngôi Đại Tự đồ sộ này đổ sụp cả xuống và tưởng tượng như hàng hà sa số các tảng đá bắn tung lên rơi vung vãi chung quanh nơi tôi đang nằm tới tấp.
Tôi lại nghĩ đến Ngày Tận Thế, bàng hoàng sợ hãi. Miệng mồm tôi như cứng hẳn lại. Nhưng rồi tôi cũng kêu lên được khi bỗng dưng nhìn thấy mọi vật chung quanh mình cứ lớn dần mãi ra...
Hình ảnh bốn bức tường của ngôi Đại Tự mới ngày qua mà bây giờ tôi đưa tay sờ vào thấy nhẵn nhụi bóng loáng, thế mà bây giờ sao nó lại trở nên sần sùi cùng khắp!
Tôi trố mắt ra nhìn. Tại sao lại có hiện tượng lạ lùng như vậy? Những lỗ hổng này cứ mỗi phút lại nở rộng thêm ra. Tò mò đưa mắt nhìn vào bên trong các lỗ hủng này, bất giác tôi rợn cả người khi nhìn thấy lúc nhúc, toàn những sinh vật đủ mọi hình dạng khác nhau, mà tôi đã từng nhìn thấy qua các lăng kính hiển vi.
Chưa hết cái khiếp đảm này lại sang cái khiếp đảm khác. Hiện tượng lạ lùng này cứ liên tục tiếp diễn làm tôi sửng sốt. Mọi vật chung quanh tôi mỗi lúc một nẩy nở to lớn khác thường. Cho đến cả các sinh vật to lớn bên trong các lỗ hủng kia cũng bỗng dưng lớn lên quá cỡ, đến nỗi tôi có thể nhìn thấy được cả cái lỗ chân lông của chúng.
Thế giới lạ lùng này cứ tiếp tục lớn mãi thêm ra. Trong lúc hình hài tôi càng lúc càng bị thu nhỏ lại. Đứng trước sự kiện hãi hùng này thì bất thần có một cơn gió lốc xuất hiện. Nó thổi đến với một tốc độ kinh khủng, cuồn cuộn xoay tròn tạo thành một cây cột khổng lồ, cao vút tận trời xanh rồi bắn tung ra vung vãi!
Lúc bấy giờ chung quanh tôi toàn là cát bụi bao phủ. Nhưng có một điều khiến tôi ngạc nhiên không ít, là tất cả những hạt bụi nhỏ li ti đó lớn dần ra như hàng triệu tảng đá đủ cỡ, và đủ thể dạng, trong đó có cả những tảng đá to lớn bằng cả ngọn Hy Mã Lạp Sơn.
Nhưng lạ lùng thay hằng hà sa số bụi bặm, và đá tảng khổng lồ đó, không có một hạt bụi nào đừng nói là một tảng đá, đụng chạm vào người tôi cả.
Đêm càng về khuya bầu trời càng yên tĩnh. Xa xa tiếng chó sủa từ làng xa vọng lại, tạo cho cảnh tượng về đêm nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn đượm thêm màu huyền hoặc! Trên vòm trời vầng trăng non chênh chếch bóng.
Mấy lá phướn treo trên các cột trụ được dựng lên trước sân đền rủ xuống phơ phất bay theo từng cơn gió thoảng. Sự yên lặng hoàn toàn chế ngự cảnh núi rừng, ngoại trừ tiếng côn trùng rả rích tấu lên như một điệu nhạc trầm buồn não nuột.
Tiếng cọt kẹt của chiếc luân xa bằng gỗ của nhà Sư Già đang công phu đâu đó quay bánh xe lăn để cầu nguyện Phật gia hộ cho mình, làm mất đi cảnh tịch mịch của núi rừng. Chẳng ai trong chúng tôi nói gì song mọi người đều biết nhà sư đó chưa thấu triệt cái "lý chân như" của đạo Phật như thế nào!
Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt đưa mắt nhìn như ngầm bảo cho biết là Ngài đã đọc được tư tưởng tôi đang nghĩ gì về tiếng cọt kẹt của chiếc luân xa kia.
- Tùy theo chúng sinh, Lỗ San à! Và cũng còn tùy theo đức tin và cả hoàn cảnh căn cơ nữa. Các chú không nên quá khắt khe với bất cứ ai còn quá cách xa với mình trên con đường "đạo". Bất cứ các cung cách lễ nghi hoặc các phương pháp tụng niệm nào cũng đều được xem là một vấn đề trọng yếu.
Nó là niềm an ủi vô biên và cũng là phương tiện cần thiết phải có cho những kẻ tu hành. Chẳng khác nào như những người què quặt không thể bỏ nạng để đi bằng chính hai chân tàn phế của mình.
Thầy tôi cũng giải thích về vấn đề "Lý Trí và Bản Tính" của con người cho chúng tôi nghe. Càng lúc tôi càng cảm thấy gần gũi với thầy tôi hơn. Chính Người mới cho tôi sự hiểu biết và thương yêu mình thực sự.
Tôi chăm chú nghe và thấy hứng khởi một cách lạ lùng. Chú Sa Quốc cũng chẳng khác gì tôi. Chú cũng chăm chú lắng nghe từng lời của Đức Lạt Ma giảng giải. Chú lớn hơn tôi rất nhiều và vốn có bản chất hiền hòa, riêng đối với tôi chú hệt như người từ mẫu, chăm sóc và thỏ thẻ hỏi han tôi từng ly từng tí.
- Lỗ San! Thế nào hả cháu? Có khỏe lắm không?
Mỗi lần như vậy hoặc tôi siết chặt lấy tay chú hoặc tôi gật đầu lễ phép tỏ bày sự biết ơn sâu xa của mình đối với chú. Trong lúc đó Ngài Lạt Ma đảo mắt nhìn quanh một vòng rồi tiếp tục giảng giải:
- "Ta nghĩ rằng các chú nôn nóng muốn biết sự cấu tạo của một vật thể ở cõi thế gian này làm sao mà có, do đâu mà ra? Thật ra, nó nằm trong "Nhất Động Nhất Tĩnh", theo qui luật âm dương của Tạo Hóa tạo thành. Mọi sinh vật trong vũ trụ bao la này đều có cùng một qui luật như vậy.
Dãy Hy Mã Lạp Sơn trùng trùng điệp điệp với hàng bao nhiêu ngọn núi chọc trời cũng không ngoài sự cấu tạo của các tế bào góp lại, mà trong đó mỗi tế bào có sự luân chuyển riêng biệt của nó. Có nghĩa là nó có tính độc lập không cái nào va chạm cái nào.
Chúng nâng đỡ lẫn nhau, chẳng khác nào vầng Thái Dương của chúng ta hiện hữu có nhiều hành tinh quay chung quanh và cùng đi theo một qui luật nhất định, chẳng bao giờ va chạm nhau được.
Đến đây, Ngài bỗng im bặt rồi hướng mắt nhìn tôi như để tìm hiểu tôi có thấu triệt được những lời lẽ Người giảng giải đó không? Đọc được ý tưởng của Người, tôi khẽ mỉm cười như ngầm bảo:
"Thưa thầy! Con đã hiểu thật rõ ràng rồi. Xin thầy tiếp tục giảng giải. Con thật vô cùng thích thú và đang lắng nghe đây."
Trong lúc đang say sưa nghe lời giảng giải của Người thì bất giác tôi giật nẩy mình khi nhìn thấy một linh ảnh (bóng ma) đang chập chờn ẩn hiện trên một mỏm đá trắng nằm ven sườn núi kế cận. Linh ảnh không có một hình dáng nhất định mà thoạt ngắn thoạt dài đang quay cuồng dưới ánh trăng mờ ảo...
Tôi trân trối nhìn quên cả mọi sự vật diễn biến chung quanh mình. Như nhận thấy được nỗi kinh ngạc của tôi đối với linh ảnh lạ lùng ấy, Ngài bèn xoay ngay sang đề tài này, cố ý giảng giải giúp tôi hiểu biết thêm về khía cạnh "Vật Thể của Linh Hồn".
- Lỗ San! Đối với chú thì cái bóng dáng ma quái ấy thật là lạ lùng mà cũng thật là khó hiểu. Nhưng đối với ta thì khác. Ta nhờ "Đắc Thần Thông" nên đã từng tiếp xúc với họ nhiều lần bên trong "Mật Tẩm". Chú đừng lấy đó làm điều quái gở.
Các linh hồn đó đều là những con người như chúng ta, đã sống và đã từ giã thế giới này, để đi vào một thế giới khác. Thế giới đó do phân tử cấu tạo có khoảng cách thật xa nhau. Nhờ vậy mà tất cả các linh hồn đều có thể xuyên qua bất cứ bức tường nào cho dù dày đặc đến đâu cũng không hề bị vướng vấp hay trở ngại.
- Thưa thầy, con được nghe khi một linh hồn lướt cạnh ta, khiến cho thân hình mình cảm thấy nhột nhạt khó chịu, chẳng biết có đúng như vậy chăng? Xin thầy giảng giải.
- Mỗi tế bào là một Thái dương hệ.
Thầy tôi đáp lại.
- Và cho dù tế bào ấy lớn hay nhỏ cũng đều có điện năng bao phủ cả. Điện năng này không như điện lực của loài người chúng ta thường sử dụng mà nó thuộc về loại "điện năng siêu tầng" thập phần tinh vi.
Từ luồng điện của các ngôi sao đổi ngôi trong màn đêm đen tối, đến những ánh hào quang rực chiếu lên vòm trời tím sẫm ở miền Bắc cực quanh năm lạnh buốt thấu xương, đều do ở sự rung động mà phát xuất.
Điều mà chú vừa hỏi tại sao khi có một linh hồn lướt ngang bên cạnh khiến ta có cảm giác nhột nhạt khó chịu cũng không ngoài cái nguyên lý này. Chẳng qua do sự đụng chạm của linh hồn với ánh hào quang của chính mình bao quanh cơ thể.
- Thế thì
Tôi ngắt lời
- Thưa thầy, ánh hào quang bao quanh người chúng ta nhìn thấy đó có phải là điện năng không?
- Đúng vậy! Nhiều nước trên thế giới dùng dây kim loại để chuyển điện lực có tần số cao bắc ngang lưng trời đều phát ra ánh hào quang cả. Hầu hết các kỹ sư chuyên về điện lực cũng xác nhận như vây.
Đó là một thứ hào quang màu xanh nhạt thường phát hiện vào những đêm tối trời hoặc các đêm có lắm sương mù bao phủ. Hào quang lúc nào cũng có sự rung chuyển bởi một nguồn điện năng của nó. Có điều ta có thể nhìn thấy ánh hào quang ấy hay không thì còn tùy thuộc vào nhân lực của mỗi người.
Nói đến đây thầy tôi có vẻ như trầm ngâm suy tư điều gì, mãi giây lâu sau khi nhìn thẳng vào tôi, Người dõng dạc nói:
- Rồi một ngày nào đây con sẽ được đưa sang Trùng Khánh theo học ngành y khoa. Ta nghĩ tằng lúc ấy con sẽ có dịp dùng các dụng cụ đo lường và phác họa các luồng điện năng trong các hệ thống não bộ của con người.
Đến đây thì chú Sa Quốc lên tiếng hỏi:
- Thưa thầy, nếu nói như vậy thì chẳng hóa ra đời sống của con người bị ràng buộc giữa "điện năng và sự chuyển động" sao?
Người vừa cười vừa đáp lại:
- Đúng vậy, Sa Quốc ạ! Không thể nào có điện năng mà chẳng có sự rung chuyển bao giờ ? Ví dụ có một nhạc khí như phong cầm chẳng hạn, với những tiếng tơ rung chuyển phát ra những âm thinh dài lê thê tưởng chừng như bất tận vi vút trên từng cung "bát âm" nối tiếp triền miên vẳng vọng đến tận một chốn vô cùng nào đó mà không bao giờ dứt được.
Còn những âm thinh tiếp nối theo sau đó tuần tự thể hiện cho từng tiếng động chỉ vào nhân sinh quan, hoặc cho tình cảm, cho ý thức hoặc hướng vào một mục đích nào đó và hằng hà sa số các âm thinh hiện diện trên vũ trụ này mà ta không thể nào thu nhận được.
Ví như tai của một con người chỉ có thể nghe được giọng trầm nhưng loài chó thì nghe được cả âm thinh nổi. Loài chó rất thính tai, nó phát hiện dễ dàng các âm thinh cao mà điều này thì chẳng bao giờ con người chúng ta có được.
- Nhưng nếu ta muốn liệu có được chăng?
- Được. Tuy nhiên ta cần phải luyện khoa "Thiên Nhĩ Thông". Nếu ta luyện được thì chuyện nghe tiếng nói của các vị thần linh nơi cõi "Siêu Thinh Giới" sẽ trở thành vô cùng dễ dàng.
Sau khi dứt lời giảng giải này, Đức Lạt Ma nhìn chúng tôi nói:
- Đêm nay các chú phải thức khuya hơn một chút để được biết những gì các chú lâu nay muốn biết. Ngày mai các chú được nghỉ bù để lấy lại sức.
Nhắm nghiền mắt lại để dưỡng thần, giây lâu sau đó, thầy tôi bắt đầu lên tiếng kể tiếp:
- Từ ngày được thăm nơi Cổ Hiền Thạch Động và được sử dụng những dụng cụ lạ lùng nơi đó, ta đã nhìn tận mắt nhiều chuyện lắm lúc khó tin nhưng...lại là sự thật.
Thầy tôi nói như vậy.
Từ xưa nay chúng ta cứ nghĩ rằng con người có khối óc thông minh hơn tất cả mọi sinh vật trên trái đất này, nhưng thật ra trước hiện tượng mà chính mắt ta nhìn thấy, có những sinh vật nhỏ hơn cả những vi khuẩn li ti không hình thù vóc dáng còn vượt xa hơn nhân loại hiện hữu và đó mới chính là những đấng "Thông Minh Siêu Việt". Họ biết sử dụng các dụng cụ siêu tinh vi ngoài cả sức tưởng tượng của loài người.
Bất giác chúng tôi không ai bảo ai đều im lặng khi Thầy tôi đưa tay chỉ về phía một nhà sư đang đi thong dong dưới ánh trăng mờ ảo... Nhà sư này vừa đi vừa nghêu ngao ca tụng cái đẹp của đất trời:
- "Ôi! Đêm nay trời đẹp làm sao! Cảnh vật thật tuyệt vời! Nhưng tiếc thay ta không đủ lời để ca tụng, không đủ tiếng để tung hô mà cũng không đủ những danh từ hoa mỹ để ghi vào từng câu trong thi phú... Này! Vũ trụ kia ơi! Tạo hóa sao mà khéo tay lắm vậy!"
- "Vâng! Đạo hữu kia, lời Người nói đúng."
Giọng thánh thót của một nhà sư khác từ đâu đó bất thần xuất hiện lặp lại và tán tụng thêm ra: "Ôi! đẹp làm sao các vì tinh tú ấy! Nó lấp la lấp lánh tợ như những hạt kim cương rực tỏa giữa vòm trời... Nhưng hỡi ai kia! Ta muốn hỏi người hàng triệu triệu ngôi sao giữa màn trời tím sẫm đó có bao nhiêu thế giới như ta ở cõi thế gian này?!"
Ngừng lại trong giây lát, nhà sư này bỗng lại cất tiếng cười vang:
- "Ta cũng hỏi đời sống của chúng ta sinh ra với mục đích gì? Phải chăng ta sinh ra là để ca tụng cái đẹp của đất trời hay là để hận thù chém giết nhau đời đời kiếp kiếp giữa cuộc đời dẫy đầy sự ô trọc này?"
Nhà sư lúc ban đầu mà thầy tôi chỉ đến, tên là Lão Bái hét lớn lên dường như muốn trút tất cả sự phẫn nộ của mình:
- "Ôi! cái người đạo hữu kia ơi! Người quả thật bậy bạ, thật bổ báng! Câu hỏi của lão nghe thật buồn cười. Lão há chẳng nhớ lời thầy dạy dỗ đó sao? Chỉ có con người ở thế giới này mới mang hình ảnh của thì làm sao có một sinh vật nào khác mang hình hài như chúng ta được nữa?! Ôi, cái lão già kia ơi! Lời nói của lão sao mà hoàn toàn vô lý vậy?"
Thầy tôi mỉm cười nhún vai tỏ ý không tán thành lý luận của cả hai nhà sư kia đoạn cất tiếng bảo với chúng tôi:
- Có thể cả hai đều lầm lẫn.
Và như để thấm giọng, thầy tôi chậm rãi nhấm thêm chung trà đoạn nhìn tôi giây lát rồi trở lại câu chuyện "Những bí mật ẩn tàng bên trong lòng Thạch Động" của "nền văn hóa kiến thiết siêu linh" mà Người đã bảo sẽ nói lên tất cả sự bí mật của nó theo như lời Người đã hứa:
- Hẳn các chú muốn được biết một câu chuyện được ghi lại trong tập Kinh sách mà ta đã hứa. Đó là một câu chuyện nói lên những sự kiện thật lạ lùng xảy ra tại căn phòng thí nghiệm có dàn kính hiển vi tối tân bậc nhất đặt dưới quyền cai quản của hai nhà bác học. Một hôm, một trong hai nhà bác học này bỗng reo lên:
- "Tại sao lại có chuyện lạ lùng như thế này? Anh Trần ơi! Lại đây mà nhìn xem một sự kiện kỳ quái diễn ra dưới lăng kính hiển vi này".
Và khi nhà bác học họ Trần kia nhìn thấy một cảnh tượng khác thường hiện ra trước mắt mình cũng phải kêu lên:
- Trời ơi! Đúng, đây phải chăng là hình ảnh của một vũ trụ nằm trong ống kính.
Rồi như một nhà diễn giả thuyết trình về hình ảnh lạ lùng kia về hiện tượng này:
- "Này đây là hình ảnh của một mặt trời rực đỏ...và kia là những hành tinh đang luân chuyển xoay quanh nó...Tất cả đều không đứng yên một chỗ ngoài cái mặt nhật như một lò than hồng rực cháy kia, chúng luôn luôn biến hóa ra muôn hình vạn trạng mà con mắt của thế nhân không thể nào nhận thấy!
Rồi một trong hai nhà bác học kia nói: "Ước gì ta có được những dụng cụ khuếch đại những hình ảnh bé nhỏ kia để tìm xem liệu trong cái thế giới li ti ấy có đời sống nào khác nữa hay không?".
"Không ! Không thể nào có được. Có thể chúng ta bị ảo giác đánh lừa mất rồi".
Nhà bác học kia đáp lại :
" Ông anh không nhớ sao? Chúng ta đã từng được giảng giải qua một giảng sư khoa học rằng là chỉ có loài người trên dương thế này mang hình ảnh của Người mà thôi, ngoài ra không còn một sinh vật nào dù có ở bất cứ một thiên thể trong hàng ngàn triệu thiên thể trong vòm trời bao la này."
Nói đến đây, thầy tôi đưa mắt nhìn lên các vì sao đang lấp lánh giữa vòm trời tím sẫm, rồi từ từ dưa tay vào túi áo móc ra cái hộp đựng quẹt lửa mua từ Ấn Độ, lấy ra một que diêm đưa cao lên về phía chúng tôi nói :
- Lỗ San! Hãy xem đây! Ta sẽ trình bày cho chú thấy sự cấu tạo của vũ trụ (creation) như thế nào?
Dứt lời, thầy tôi đặt ngay đầu que diêm vào mặt của cái hộp có hóa chất bật lên cháy thành ngọn lửa, cũng ngay sau đó Người thổi tắt đi đoạn mỉm cười nhìn chúng tôi nói:
- Các chú biết đó là thế nào không ?
Và không đợi chúng tôi suy nghĩ đáp lại, thầy tôi tiếp tục giảng giải:
- Đó là "Tạo thành và Hủy diệt". Khi ngọn lửa đang cháy là có cả ngàn phân tử kết tụ lại. Mỗi phân tử là một thế giới riêng biệt không đụng chạm đến nhau. Rồi các phân tử ấy lại kết tụ trở lại để hình thành ra vũ trụ.
- Vậy thì thưa thầy, mỗi thế giới đều có sự sống bên trong, nó tuần hoàn và tăng trưởng để rồi đến một giai đoạn nào đó đúng với chu kỳ của nó, tất cả đều phải đi vào con đường hủy diệt như que diêm và hộp quẹt của thầy mang ra ví dụ đó sao?
- Đúng!
Thầy tôi cười, trông có vẻ hài lòng về câu hỏi này
- Sự sống nơi nào có sinh vật như hành tinh của chúng ta đều phải theo quy luật của trời đất, có nghĩa là phải làm nhiệm vụ phát triển giống nòi từ đời này sang đời khác. Các sinh vật có thể tồn tại đến hàng triệu triệu năm, nhưng không có nghĩa là vĩnh viễn,
mà tất cả, cuối cùng rồi cũng phải tàn tạ, tan biến trong cái vô cùng mênh mông của vũ trụ!
Tôi tò mò hỏi:
- Thầy có thể cho chúng con biết cái mối đầu của vũ trụ không ?
Nhìn tôi trong phút giây, thầy tôi giải thích:
- Cứ theo Kinh sách thì Vũ trụ nguyên thủy vốn không đồng đều. Ví như ở những địa điểm cường độ bức xạ thì cao hơn, tất nhiên mật độ vật chất và từ trường hấp dẫn cũng tăng theo.
Cũng theo Kinh sách cách đây 16 tỷ năm giữa cái cái mênh mông trời đất còn trong cảnh hỗn mang đó bỗng phát ra một tiếng nổ làm long lở cả vòm trời, tạo thành những đám mây mù nguyên thủy. Tiếng nổ kinh hồn khiếp vía đó biểu trưng cho ngày khai sinh ra Vũ trụ.
Nhật, Nguyệt xuất phát ra từ đó mà Mặt Trời là mầm mống của Thiên hà. Các đám mây dần dà phân tán ra nhiều mảnh tạo nên những ngôi sao mà các chú đang nhìn thấy chúng lấp lánh trên nền trời xa xăm và tím sẫm kia. Thực tế cho ta thấy sự sự cấu tạo ra những Thiên hà là một quá trình vô cùng phức tạp.
Tiếc thay ta không có đủ thời giờ để giải thích một cách cặn kẽ được. Sư tổ đã từng giảng giải cho ta biết chẳng phải duy chỉ có thế giới này, mà nó còn có lắm cõi sống khác nữa. Tưởng tất cả chúng ta cũng nên nhớ rằng mỗi hạt nhân là một bầu trời thế giới. Hạt nhân nào cũng được xem là một cơ bản.
Đó là lý luận chung chung, còn riêng phần Sư Tổ lại cho rằng chỉ có điện tử và quang tử mới thực sự mang tính chất đơn thuần biệt lập. Như ngày nay ta thấy các hạt nhân Proton, Electron, Neutron.. là những nguyên tử và phân tử có khả năng hấp thụ đồng thời phát bức xạ ra một đám khí nguyên tử.
Cứ mỗi hạt tách ra thành một vũ trụ. Như vậy, ta có thể cả quyết cho rằng vũ trụ chẳng phải một, cũng không hai hoặc ba, bốn, năm, sáu mà là hằng hà sa số. Tóm lại, việc tìm hiểu sự hình thành của Thiên hà vẫn còn đang là một vấn đề thời sự.
Tôi thắc mắc hỏi :
- Vậy, thưa thầy Vũ trụ nguyên thủy như thế nào? Con còn chưa rõ!
- Nó thật vô cùng! Tuy nhiên ta có thể nói đại khái để chú tường tận một phần nào, đợi đến khi nào chú theo học các bậc cao hơn sẽ thấy các sự việc xảy ra trong thời kỳ Vũ trụ còn nằm trong trạng thái hỗn mang huyền nhiệm như thế nào.
Ví như thuyết Vũ trụ nổ bắt đầu từ một điểm kỳ dị. Sở dĩ dùng cái danh từ "kỳ dị" bởi nó nó bắt đầu từ một điểm mà không có một danh từ nào hơn từ "huyền nhiệm".
Nói đến cái mối đầu của Vũ trụ thì chẳng một ai không nghĩ đến sự già nua của nó! Muốn biết tuổi của Vũ trụ phải đi ngược lại thời gian cho đến điểm kỳ dị lúc mà tuổi và bán kính của Vũ trụ là số Zero và từ con số Zero này người ta lấy đó làm mốc.
Danh từ mà chúng ta ngày nay thường dùng cho "cái nghĩa của mốc thời gian" chỉ vào khoảng thời gian và không gian nào đó. (Tại điểm này những định luật của toán học vật lý cũng như thuyết tương đối rộng không thể áp dụng được)
- Còn, thưa thầy con muốn được rõ hơn những giây phút đầu tiên trong vụ nổ đó!
Thầy tôi nhìn tôi đăm đăm, được một lúc Người bắt đầu cho tôi được một phần thỏa mãn về sự tò mò đối với câu hỏi này:
- Kinh sách nói: "Sau vụ nổ, Vũ trụ sẽ giản nở ra và tất nhiên là nhiệt độ sẽ được giảm dần". Chỉ trong vòng ba phút cũng đã quá đủ rồi. Vũ trụ tiến hóa rất nhanh với nhiều sự kiện không giống nhau, có nghĩa nó biến hóa một cách phi thường.
Tuy nhiên, chú nên biết rằng nếu Vũ trụ lúc bấy giờ chỉ đánh đổi đi một chút, chỉ một chút thôi nha, thì cả cái Vũ trụ bao la này đã đổi khác hẳn hơn cái Vũ trụ mà chúng ta đang ở đây, có nghĩa là chúng ta đã không có sự hiện diện trên hành tinh này.
- Thưa thầy.
Tôi hỏi:
- Vậy thì mỗi thế giới đều có sự sống bên trong và cùng chung một định luật như thế giới của chúng ta hiện hữu ?
Thầy tôi gật đầu:
- Như ta đã dẫn chứng, khi ngọn lửa được bật cháy lên thành lửa ngọn tức là nói lên sự "Tạo Thành". Và ngược lại, lúc ngọn lửa bị thổi tắt đi thì đó là sự "Hủy Diệt". Tất cả đều như nhau, chẳng ai có thể tránh thoát được định luật .
Sau lời giảng giải này, thầy tôi đứng lên hẹn sẽ gặp lại vào một đêm đẹp trời khác rồi lách mình mất hút bên sau bờ đá. Vầng trăng trên vòm trời trông có vẻ u buồn trải dài lên khắp sơn khê một màu vẩn đục như váng sữa.
Càng về đêm gió càng lộng. Tôi cùng chú Chécour đi về hướng cầu thang lần mò xuống dưới hầm chùa tìm nơi ngủ tạm qua đêm. Tuy đã cẩn thận lần đi từng bước song vẫn không tránh khỏi bị sẩy chân trượt ngã khi vô ý giẫm lên bãi dầu "bơ" bê bết làm trơn trợt cả các bậc cầu thang.
Lúc bấy giờ tôi chẳng khác nào như cái bị bông rơi đánh bịch xuống tận chân cầu khiến chú Chécour hốt hoảng la lên bai bải làm kinh động cả khu hầm giữa lúc mọi người đang say ngủ phải giật mình càu nhàu.
- Lỗ San! Lỗ San ơi! Có sao không ?
Tuy bị đau thấu xương, tôi vẫn cố trấn an gắng gượng đáp:
- Không sao cả chú à! Chỉ hơi ê một chút thôi.
Vừa dứt lời, có bàn tay của ai nắm chặt vào cổ tôi xô mạnh về phía trước làm tôi chúi mũi xuýt chút nữa đâm người vào cây cột đá được dựng lên giữa khu hầm. Thế là tôi cùng chú Chécour quờ quạng nắm lấy tay nhau chạy thục mạng về phía bên trong hầm chùa để lẩn tránh.
Chạy quanh co một lúc, cuối cùng cũng tìm ra được phiến đá phẳng lì khá rộng bèn chia nhau nằm ngủ qua đêm. Vừa đặt lưng xuống, tôi đã thiếp ngay đi không còn biết trời trăng gì nữa. Mãi đến khi mặt trời lên quá con sào tôi mới giật mình tỉnh dậy song đôi mắt vẫn còn dính chặt vào nhau. Trong lúc ấy bên tai tôi nghe văng vẳng có tiếng quát tháo ầm ĩ của một chú tiểu:
- Dậy đi.. Nhanh lên ông bạn nhóc con ơi!
Tôi giật mình và cố mở mắt ra nhìn. Thì ra đứng trước mặt tôi là một chú tiểu mập ú na ú nần mà chúng tôi thường gọi đùa bằng cái ngạo danh con lợn ỉ. Có thể chú muốn giương cao uy danh mình nên khi tôi vừa lo mò đứng dậy chú tiểu này lấy chân thốc mạnh vào mông tôi quát lên hối thúc:
- Thượng tọa Trụ trì cho gọi anh đấy... Không phải chơi đâu. Đi nhanh lên kẻo trễ bị ăn đòn đấy.
Nghe đến tên Thượng tọa Trụ trì tôi hơi ớn nên vội xốc lại áo quần cho chỉnh tề, chúc sức khỏe chú Chécour rồi phóng nhanh ra cửa chạy bán sống bán chết. Lúc bấy giờ dạ dày tôi bắt đầu cồn cào khó chịu, vừa đi vừa lẩm bẩm :
- Làm sao mà cứ gọi người ta vào ngay giờ ăn thế này? Đói muốn chết được đây.
Tuy vậy, tôi vẫn cắm đầu chạy dọc theo hành lang vòng quanh theo các bờ tường dài của chùa làm cho các vị Sư Già đang đứng rải rác đâu đó vội né sang bên để tránh khỏi bị đâm nhằm, trên mặt họ hiện ra vẻ bất bình.
May mắn thay! Tôi đến văn phòng cũng vừa kịp đúng giờ. Trong khi đó vị Thượng tọa Trụ trì đang xem xét hồ sơ một cách khá chăm chú và như đã biết có sự hiện diện của tôi, Ngài ngẩng mặt lên nhìn tôi cười:
- À! Thì ra cái chú nhóc con đã ngã xuống chân cầu làm cho bao nhiêu người náo loạn cả lên đêm rồi...
Nói đến đây Ngài ngưng lại chăm chú nhìn tôi đoạn vừa cười vừa tỏ lời khen tặng :
- Chú nhóc con ơi! Chú học khá lắm...Trình độ Vật Lý học của chú được ghi nhận là xuất sắc nhất. Học bạ ghi chú thuộc vào hạng ưu. Bởi thế ta phải đặc biệt giao chú lại cho Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt.
Ngài sẽ nhận lãnh trách nhiệm dẫn dắt chú trên đường học vấn. Đây là ân huệ tối hậu đặc biệt Ngài sẽ dành riêng cho chú. Ta hy vọng chú sẽ xứng đáng với lòng ưu ái của Ngài.
Nói đến đây vị Trụ trì nheo mắt nhìn tôi vừa khôi hài vừa tỏ vẻ trìu mến:
- Xong rồi! Bây giờ chú về gặp ngay Minh sư của chú đi! Chúc chú thành công.
Dứt lời Ngài mỉm cười với tôi lần nữa như thể tiễn đưa lần cuối với đứa học trò ngoan của mình và lại lẵng lặng quay đầu lại tiếp tục xem xét các hồ sơ khác. Tôi vừa rảo bước đi vừa yên lòng vì biết các lỗi vụn vặt của mình không bị ghi vào trong học bạ.
Vừa đặt chân đến văn phòng thì đã gặp ngay thầy tôi đang ngồi đợi sẵn. Có lẽ vì biết tính xấu đói của tôi nên Thầy tôi cười vui vẻ :
- Đã ăn uống đầy đủ chưa ?
- Thưa thầy, Ngài Trụ trì cho gọi trong lúc con còn chưa tỉnh ngủ hẳn, vội chạy đến ra mắt ngài và sau đó lại được lệnh bảo đi ngay đến trình diện Minh sư nên vẫn chưa ăn uống gì cả ạ!
Nghe tôi vừa nói dứt lời, thầy tôi đã phá lên cười:
- Đi tìm thức gì ăn đi rồi trở ngay vào đây. Ta có chuyện cần...đến chú.
Rồi tiếp theo bằng lời nói bông đùa :
- Trông dáng điệu chú làm như là đã nhịn ăn mấy ngày liền rồi vậy.
Mặc dù bị cơn đói dày vò thật sự nhưng tôi cố gắng không tỏ ra cử chỉ nào có vẻ vội vàng cả mặc dù càng lúc dạ dày tôi càng cồn cào và chân tôi như không còn đứng vững được nữa.
Sau khi có bữa điểm tâm thật ngon lành tôi cảm thấy tỉnh táo hẳn lại. Nhưng cũng từ giờ phút ấy tôi mới bắt đầu ưu tư cho công việc phải làm gấp bao nhiêu lần nhiều hơn như đã được thông báo trước. Vừa trở lại văn phòng đã trông thấy thầy tôi đang ngồi loay hoay sắp xếp sách vở vào tay nải, nghe tiếng động Ngài quay lại bảo tôi:
- Chúng ta phải sang ngay ngọn Phổ Đà La (Potala) và ở lại nơi đó một tuần.
Thế là ngay sau đó chúng tôi tức tốc rời khỏi phòng.
Vừa ra đến sân nhác thấy ngay ông Sãi đứng canh chừng bên cạnh hai con tuấn mã chờ đợi chúng tôi sẵn từ lúc nào. Bất giác một nỗi buồn man mác xâm chiếm trong tâm hồn tôi khi nhìn con tuấn mã từ tay ông Sãi dắt lại trao cho.
Con vật cũng nhìn lại tôi trông nó có vẻ buồn thảm hơn. Dường như nó cũng thông cảm và ái ngại hộ cho tôi sắp phải trải qua những nỗi gian lao nơi đèo heo hút gió. Lặng lẽ leo lên mình ngựa mà lòng tôi mang nặng nỗi ưu tư! Với tôi thì cái gì cũng tạm được song đối với môn cỡi ngựa thì lại còn rất kém.
Người và vật rong ruổi ven theo bờ núi tới ngọn Trắc Phổ Di, lần bước xuống dốc ngang qua con lộ Mã Nê, nhìn sang bên phải là con đường Bát Nhã. Ngồi trên lưng ngựa đi một khoảng thời gian lâu chúng tôi mới vào đến làng So.
Nơi đây tạm nghỉ trong chốc lát để lấy lại sức, thầy trò tôi lại bắt đầu tiếp tục cuộc hành trình. Trải qua các dốc đá khá cao nữa mới đến ngọn Phổ Đà La. Con dốc vừa cheo leo vừa thẳng đứng, lại vừa ngoằn ngoèo hiểm trở. Nhận thấy cơ nguy bị trượt ngã lúc nào cũng có thể xảy ra, vì vậy tôi luôn luôn thận trọng từng bước.
Tuy đường sá khó khăn song khách thập phương lai vãng khá đông. Kẻ lên người xuống trông có vẻ tấp nập. Thỉnh thoảng có người dừng chân lại để vừa nghỉ mệt vừa ngoạn cảnh núi rừng. Đi thêm một chặng dài nữa thì chúng tôi đến tận đỉnh cao của ngọn Phổ Đà La.
Tôi thầm cảm tạ Ơn Trên đã ban cho nhiều may mắn trong cuộc hành trình lắm gian truân này. Rời khỏi lưng ngựa nhìn xuống chân núi bất giác cảm thấy rợn cả người. Con vật như tuồng cũng thở phào ra. Trông nó có vẻ cáu kỉnh quay nhìn lại phía tôi đang đứng.
Chúng tôi lại bắt đầu đi bộ trèo hết thang dây này đến các thang dây khác bắc cheo leo ngang lưng sườn núi. Khi đến tận ngôi chùa Phổ Đà La, thầy tôi được dành riêng cho gian tịnh thất gồm khu nhà có phòng ốc Khoa học đầy nhóc các dụng cụ máy móc của nền văn minh tối cổ lưu lại.
Tôi cũng được cấp cho căn phòng ở trong một khu nhà kế cận thấp hơn phòng của thầy tôi một tầng. Đứng nơi cửa sổ vọng mắt nhìn ra bên ngoài trông thấy được toàn bộ vùng Lạt Sa và cả một cánh đồng mênh mông rộng lớn. Xa xa ngôi đền Du Khang với mái vàng sáng chói làm hoa cả mắt.
Con đường Linh Cơ ngoằn ngoèo bao quanh thành Lạt Sa mỗi ngày có cả hàng ngàn thiện nam tín nữ thập phương tấp tập kéo đến để dâng hương và chiêm ngưỡng nơi có ngôi trường dạy Thần Bí Học lớn nhất thế giới.
Tôi thầm tạ ơn Phật cho mình sự may mắn gặp được vị minh sư Lạt Ma Minh Đà Đông Đạt . Nếu không có định mệnh an bài thì có lẽ tôi cũng chỉ là một chú tiểu tầm thường như trăm nghìn chú tiểu khác. Có nghĩa là những chú tiểu chỉ biết cặm cụi làm việc và chui rúc ngủ dưới hầm chùa tối tăm ẩm thấp.
Làm sao có diễm phúc trèo lên được tận đỉnh núi này, một nơi được xem gần như cao nhất thế giới. Trong lúc đang nghĩ vẩn vơ thì cả người tôi bất thần bị nhấc bổng lên cao. Tôi hốt hoảng kêu rú lên víu chặt lấy hai cánh tay hộ pháp nào đó, đôi chân tôi giẫy nẩy, mắt nhắm nghiền lại phó mặc cho toàn thể châu thân mình bị xoay tròn như con vụ.
- A! cái chú nhóc chỉ biết nghĩ có mỗi mình minh sư đã đưa lên đỉnh Phổ Đà La này mà chả cần biết đến ai nữa phải không?
Tiếng nói oang oang như xoi thủng cả màng nhĩ. Tôi giẫy nẩy kêu lên oai oái. Con người có hai cánh tay hộ pháp này cũng chẳng thèm lưu ý. Ông ta cười hô hố làm chói cả tai.
- A! chú nhóc nghĩ cái gì đó? Có phải chú nghĩ về hai cánh tay tợ như hai cái gốc cổ thụ này không?
Tôi nhận ra đó là tiếng nói của một nhà sư áo vàng. Nhà sư này vừa nói vừa cười ha hả trông có vẻ thích thú lắm. Tôi không hiểu bằng cách nào mà ông có thể đọc được tư tưởng của tôi lúc này. Nhưng rồi, tức khắc sau đó tôi cũng được trả về lại vị trí cũ một cách nhẹ nhàng. Nhà sư nhìn tôi với ánh mắt hiền hòa rồi nói:
- Này chú bé thân yêu ơi! Chúng mình đã quá quen thân nhau trong tiền kiếp. Cái kiếp mà hai chúng ta đều được liệt vào hàng kiến thức, am tường được mọi việc, thông đạt được mọi cảm nghĩ của mọi người. Chú chỉ cần ôn lại thì cái kiến thức đó sẽ trở về ngay với tiềm thức của mình. Ta sẽ giúp chú điều ấy. Hãy đến tại phòng ta và bắt tay ngay vào việc ấy.
Nhà sư nói xong liền quày quả bỏ đi, nhanh đến nỗi chỉ trong nháy mắt là mất dạng. Tôi xốc lại áo. Nhặt cái bát nằm lăn lóc ở ven sườn núi lúc bị nhà sư hổ mang đó nhấc bổng lên khiến nó rơi xuống, may mắn là chưa hề hấn gì. Thế rồi tôi lầm lũi trở về phòng đợi lệnh.
Thầy tôi nói đến đây đoạn nhìn tôi bằng đôi mắt hiền từ:
- Lỗ San! Chú hiểu lời ta nói chứ ?
- Vâng, thưa thầy con hiểu...
- Đừng bao giờ nghĩ ngọn lửa của Vũ Trụ là một hình ảnh phi thường.Thật ra nó có một hình thù kỳ quặc ở môi trường khá hấp dẫn. Ngọn lửa vũ trụ không bao giờ bốc lên cao như chúng ta thường trông thấy những ngọn lửa hiện hữu, mà nó thu lại trông hệt như hình thù của một quả bóng rực cháy hay có thể nói đúng hơn thì đó là một quả cầu lửa.
Ngọn lửa không đủ mạnh này đã tự nó vỡ thành từng phần lơ lửng bay như những quả bóng nhỏ trông hệt như những vật lạ bồng
bềnh giữa khoảng không gian. Theo Kinh sách thì chính những quả bóng lửa đó hàm chứa cả một sự bí mật đòi hỏi phải là một khối óc siêu phàm mới có thể hiểu được.
Đối với loài người thì ngọn lửa kỳ diệu này sẽ luôn luôn là một thứ khó hiểu. Bởi sự phức tạp không thể minh định được nó xuất phát từ đâu và ý nghĩa đích thực của nó là gì? Ngọn lửa đèn bình thường xuất hiện bởi hàng nghìn những phản ứng khác nhau.
Các phân tử của nó, mà ngày nay ta gọi là Hydrocarbon được hút lên thay bấc đèn bị bốc hơi và chất nhiệt của nó bị hủy hoại. Các phân tử này sản sinh ra ánh sáng luôn cả nhiệt và khí. mà theo khoa học ngày nay giải thích chúng được kết hợp lại với Oxy và Nước.
- Thưa thầy làm thế nào mà nó tự cháy được, nếu không có một bàn tay mầu nhiệm nào thắp sáng? Tôi lên tiếng hỏi.
- Bằng vào một sự hỗn loạn vừa phải của các phân tử không khí chung quanh, khiến cho ngọn lửa bốc cháy nhanh hơn, có điều nếu bị hỗn loạn quá đáng nó lại có phản ứng ngược lại, có nghĩa là nó bị tắt ngấm ngay.
- Thưa thầy con muốn biết cặn kẽ lý do nào nó như vậy?
- Chính Kinh sách cũng chưa khẳng định được. Đó là lý do khiến nó phải có phản ứng ngược lại. Ta nghĩ đó là bí mật của trời đất (Tưởng chúng ta cũng nên biết rằng khi lửa cháy, thì một số mảnh vỡ của Hydro-Carbon từ nhiên liệu được hút lên theo bấc đèn, sẽ tạo ra các phân tử hình khuyên gọi là Polycyclic Aromatic Hydro Carbons.
Một số mảnh vỡ khác thì tạo ra chất bồ hóng, tức là chất khói bị quyện lại với nhau mà ta thường thấy ở các chỗ bếp của các người dân nghèo khổ, của các quốc gia nhược tiểu. Sau đó các phân tử bồ hóng này có thể bị đốt cháy, hoặc bị cuốn bay ra ngoài và biến mất vào cái mênh mông vô cùng của Vũ trụ.
- Như chúng ta biết bình thường các khí lạnh đẩy khí nóng lên cao,vì vậy mà ta thấy vị thế ngọn lửa luôn luôn có xu hướng vươn thẳng lên. Hiệu ứng này người ta gọi là "độ nổi" của ngọn lửa trong không khí.
- Nói như vậy, thì ở môi trường hấp dẫn yếu như ngọn lửa thiên nhiên đầy bí mật ấy chẳng hóa ra bị triệt tiêu sao? Tôi hỏi.
- Hoàn toàn bí mật. Kinh sách bảo chưa có ai có thể tìm hiểu được điều gì bên trong cái bí ẩn ấy, Từ xưa nay trên mặt Địa Cầu mà ta đang ở, chưa có một Kinh sách nào từ Đông sang Tây, nghiên cứu được quả bóng lửa trong thời gian dài triền miên, kể ngay từ cái mốc thời gian khởi đầu Vũ Trụ!
Điều này tưởng ta nên biết cứ một cú rơi theo trục dài ví như trong 30 mét, chỉ mất có vào khoảng hai giây. Ngày nay cơ quan hàng không Vũ Trụ, NASA, đã tìm ra được cách tạo ra quả bóng lửa trong một khoang kín ở chiếc tàu con thoi.
Ban đầu máy tính dự đoán quả cầu lửa sẽ có kích thước rất nhỏ và chỉ tồn tại trong vòng vài phút, Tuy vậy, trên thực tế quả bóng mà cơ quan NASA tạo ra còn lớn hơn sự dự đoán đến ba lần và thời gian cháy kéo dài đến 8 phút.
Tôi đang miên man suy nghĩ sự bí mật của quả cầu lửa thì thầy tôi lớn tiếng hỏi:
- Lỗ San ! Chú đã suy nghĩ về vấn đề đời sống sinh vật mà chúng ta đã bàn luận đêm rồi chưa?
Tôi ấp úng trả lời:
- Thưa thầy nguyên con còn đang ngái ngủ thì bị vị Trụ Trì cho gọi đến. Sau đó thì con đến gặp thầy, rồi thì đi điểm tâm và cuối cùng quay lại đây gặp thầy lần nữa. Thật quả con không đủ thời giờ.
Không đợi tôi nói hết lời, thầy tôi mỉm cười bảo:
- Bây giờ ta tiếp tục kể câu chuyện còn dở dang của đêm qua trước khi cùng chú bàn thảo về các vấn đề khác...
Đến đây, thầy tôi ngưng lại với tay lấy một tập sách viết bằng ngoại ngữ trên giá sách để trên mặt bàn. Tôi ngạc nhiên vì đó là một tập sách viết bằng Anh ngữ và chắc chắn Người sẽ bàn cùng tôi vấn đề gì đây nữa.
Thầy tôi lật qua trang sau cùng của tập sách rồi chỉ vào hình ảnh bên trong hỏi:
- Chú có biết đây là những hình ảnh gì không?
Dán mắt vào tấm hình được in ấn trong tập sách tôi hơi ngờ ngợ và dường như có cái gì đó quen thuộc mà chưa kịp nghĩ ra. Mấy dòng chữ ghi chú bên dưới tấm hình thì tôi không thể đọc được!
- Lỗ San có thể không đọc được loại chữ này nhưng chẳng lẽ không nhận ra được bức hình trong sách đó sao ?
Thấy tôi ngơ ngác thầy tôi mỉm cười nói:
- Đó là hình ảnh của một vị linh thần...Chú nhớ lại thử xem.
Trong óc tôi bỗng lóe lên một tia sáng mường tượng "cái gì đó" song vẫn không thể xác định được "cái gì đó" là gì ? Thầy tôi đưa tay chỉ vào từng tấm hình đoạn giảng giải:
- Tuy hỏi chú như vậy song ta cũng biết là chú khó lòng nhớ rõ được. Ta nghĩ rằng chú có thể mang máng nhớ rằng là có một lần nào đó chú đã nhìn thấy họ, nhưng không thể nhớ được họ là ai và tại nơi nào. Ta có thể xác quyết là chú đã từng gặp các vị thần linh này.
Tất cả mọi đời sống như ta đã thảo luận đêm qua đều do những cọ xát có mức độ rung chuyển nhanh của vật chất phát sinh ra điện lực. Vậy thì, chắc chú thừa rõ điện lực là "đời sống của vật chất", chẳng khác nào như làn sóng bát âm.
Ví như người bình thường chúng ta rung chuyển theo những âm giai trung bình, chỉ nghe thấy trong một phạm vi nào đó. Nhưng đối với các "thần linh" các "linh hồn" hoặc các "ma quỉ"cthì phát ra những âm thanh qua luồng sóng cao, mà con người bình thường chúng ta, nếu không được truyền pháp, thì không thể nào nghe thấy được.
Nói đến đây Người nhìn tôi hỏi:
- Lỗ San ! Chú có hiểu tại vì sao không?
- Thưa thầy, có thể những linh hồn đó ở nơi thế giới vô hình!
- Đúng vậy. Đối với nhãn quan của con người không thể nghe thấy được loại âm thanh cao như vậy.
- Thưa thầy đã có bao giờ thầy sờ vào hình bóng và nắm bắt được bóng ma nào chưa?
- Có chứ.
Thầy tôi trả lời.
- Ta nắm được chúng chứ, nhưng những lúc như vậy ta phải nâng cao tần số tốc độ của mình ngang với tốc độ chuyển lực của linh hồn đó.
Đến đây thầy tôi trầm ngâm suy nghĩ trong giây lát rồi nói tiếp:
- Ta sẽ nói lại vấn đề này rõ hơn trong một ngày khác.
Đến đây, Ngài đưa tay vào túi lấy ra cái chuông bạc lóng lánh khẽ rung lên vài tiếng. Một âm thanh trong trẻo vang lên. Tôi được biết là cái ngân chung này do một vị Thượng Tọa trụ trì tại một Thiền đường nổi tiếng ở Tây Tạng tặng cho Ngài.
Tiếng chuông ngân nga vừa dứt liền sau đó một chú tiểu quen thuộc giữ nhiệm vụ phục dịch bưng ra một khay trà thơm ngon của xứ Ấn cùng với loại bánh ngọt nhập cảng đặc biệt không giống với bánh Tsampa thông thường mà tôi ăn hàng ngày.
Loại bánh đặc biệt này dành riêng cho các vị Đạt Lai Lạt Ma cũng như cho các Đại Sư mà thôi. Đức Đạt Lai Minh Dà Đông Đạt đã từng chu du khắp nơi. Ngài có hai phép để đi, hoặc bằng Thần Pháp hoặc bằng Nhiếp Hồn.
- Mấy mươi năm về trước khi ta còn tuổi trẻ, có lần vì sắp bị trễ buổi lễ, không còn cách nào hơn là phải chạy thục mạng xuyên qua bức tường bên kia mới may ra kịp giờ đảnh lễ.
Trong lúc chạy bán sống bán chết tự nhiên ta cảm thấy một sức cản nào đó như muốn chận lại. Ta ngước mặt lên nhìn, bỗng nhác thấy một nhà sư có thân hình hộ pháp, chạy đâm ngang với tốc độ còn hơn cả tốc độ của ta, băng băng chạy đến. Ta định đứng dừng lại để tránh, nhưng đã muộn rồi. Không còn biết làm sao nữa, đành lao thẳng vào thân hình hộ pháp của nhà sư kia.
Tôi nghĩ là phen này sẽ phải xảy ra một tai nạn mà hậu quả sẽ khó thể đo lường được. Nhưng may mắn thay...cả hai chúng ta như hai luồng hơi xuyên thủng qua nhau mà chẳng bị hề hấn gì. Giữa lúc ta còn bàng hoàng thì nhà sư hộ pháp kia đã đứng lại nhe răng ra cười rồi chẳng nói chẳng rằng, nhà sư kia lại tiếp tục bỏ chạy.
Ta cũng vậy. Vì giờ đảnh lễ sắp đến, ta cũng cắm cổ lao vút người như bay về hướng bờ tường trước mặt, miệng lẩm bẩm tự hỏi tại sao mình lại không dùng "Thần Pháp" mà lại chạy thục mạng như vậy?
Ngài nhoẻn miệng cười nhìn tôi:
- Chú biết không, suốt đêm hôm ấy ta không thể nào ngủ nghê được. Điều làm cho ta phải suy nghĩ là tại làm sao mình không nắm được "hồn ma"? Thế là bắt đầu từ đó ta tìm mọi cách để thực hiện cho kỳ được. Ta tự vạch lấy chương trình học và học một cách khoa học, chu đáo. Trước hết ta tìm đọc các Kinh thư và đồng thời tham khảo ý kiến và học hỏi các vị Chân tu trong lòng Thạch Cốc.
- Và thầy thành công? Tôi nóng lòng muốn biết nên ngắt lời thầy tôi.
- Tất nhiên là ta thành công. Quả như lòng mong ước, ta thực hiện được điều này.
- Có nghĩa là thầy nắm được "hồn ma"?
- Bắt đầu từ đó ta thường xuyên giao tiếp với tất cả các linh hồn nào ta muốn gặp bằng nhiều hình thức, hoặc cùng họ đàm đạo suốt đêm, hoặc cầm nắm tay họ mà chẳng có lấy một chút khó khăn nào.
Nói đến đây thầy tôi ngưng lại trong giây lát rót thêm trà vào chung. Hương trà tỏa lên mùi thơm ngạt ngào. Người nhấp từng ngụm một, trầm ngâm như để thưởng thức hương vị của loại trà nổi tiếng xứ Ấn rồi thong thả nói:
- Như chú đã biết đời sống chỉ là một khối gồm các phân tử, như một thế giới li ti xoay quanh các mặt nhật cũng cùng loại nhỏ bé như vậy. Nhờ tốc độ cọ xát phát sinh ra một chất mà ta gọi là điện.
Nếu ăn uống đúng theo phương pháp thì tốc độ trong người chúng ta được tăng trưởng. Ta không nói đến vấn đề huyền bí mà chỉ nói đến phương thức dinh dưỡng và dinh dưỡng như thế nào?
Ta đã học được nhiều phương pháp trực tiếp "sờ mó" hoặc "nắm chặt" lấy hồn ma bằng cách làm cho các tế bào tăng thêm tốc độ rung chuyển. Quả thật ta đã đi đúng đường. Nhờ luyện bằng lối tích cực, nên từ đó ta lần lần có được tốc độ của một con ma.
Đức Lạt Ma ngừng lại trong giây lát đốt cây nhang thơm và đợi khi cây nhang này bốc khói, Người mới quay lại nhìn tôi:
- Chú biết không? Mục đích chính của cây nhang là làm cho tăng trưởng vận động không khí khi có mùi hương của nó, kể cả vận động cho bất cứ ai ở trong khu vực đó nếu chúng ta dùng đúng loại hương của nó.
Ta phải chay tịnh giữ giới trong suốt mấy tuần lễ, theo phương pháp để tăng tốc độ cảm xạ. Suốt trong thời gian này, phải dùng đúng loại nhang thích hợp với phòng riêng của mình đang ở.
Chính nhờ loại nhang thích hợp này, khiến cho tinh thần ta thoải mái. Thế rồi thời gian sau đó tự nhiên ta cảm thấy nhẹ hẳn người đi, tựa hồ như không còn cái xác thân bằng xương bằng thịt này nữa...Ta thử bước đi. Thật là lạ lùng ! Cả châu thân ta như đang là là bay trên mặt đất.
Nói đến đây, đôi mắt Người nhìn ra ngoài trời đăm chiêu rồi tiếp tục nói :
- Bây giờ ta đâm ra ưu tư vì nỗi khó khăn để kiềm giữ lại linh hồn mình, trong cái xác thân ở cõi tạm này.
Rồi Người vui vẻ hỏi tôi:
- Chắc chú không mấy thích trai giới để sờ vào cái hồn ma như vậy phải không?
Tôi thầm nghĩ thà ăn một bữa cơm ngon lành còn hơn là đi sờ mó vào một con ma đen đủi xấu xí như Người đã thuật lại.
Cuối tuần lễ đó, cũng sau bữa ăn ngạt ngào hương vị Ấn Độ, thầy tôi lại bắt đầu kể tiếp chuyện các linh hồn:
- Đó là một buổi hoàng hôn vào tiết đông thiên trời đang hồi giá rét căm căm. Ta co ro đến chùa dưới cơn mưa phùn giá bấc. Vừa đến nơi ta liền vào ngay "Mật Tẩm" thắp thêm nén nhang thì thần khấn xin một "linh hồn" nào đó để được cùng nhau tay trong tay đàm đạo.
Đang lúc dõi mắt ra ngoài song sổ đợi "linh hồn của kẻ bên kia thế giới" hiện về, thì bất thần có một bàn tay nhẹ nhàng đặt lên bờ vai khiến ta giật bắn cả người lên. Đó là một bàn tay xương xẩu lạnh như đồng của một người bạn đã chết cách đây mấy tháng, trước sự chứng kiến của ta vào một đêm ngoài trời tầm tã gió mưa...
Đến đây thầy tôi bỗng phá lên cười như nhớ lại sự sợ hãi tận cùng của mình còn in sâu trong tiềm thức khi bắt gặp một bóng ma lần đầu tiên trong cuộc đời. Thầy tôi hạ thấp giọng kể tiếp:
- Lỗ San! Đó là linh hồn của một vị Lạt Ma, ông ta cười lên hô hố. Giọng cười khác hẳn lúc sinh thời, song âm hưởng vẫn còn nghe trong trẻo. Ông ấy nhìn chăm chú ta trong một thời gian khá lâu im lặng.
Sau cùng cất tiếng phê phán về phương thức đi tìm hồn ma như ta chỉ thêm khó nhọc. Tại sao lại không ngồi "Thiền" để "Nhiếp Hồn
" có phải dễ dàng gặp nhau không? Tất nhiên ta nghĩ là Người Chết có lý.
Đến đây thầy tôi gật gù nói tiếp:
- Như chú đã biết, giờ thì ta có thể dùng phép "nhiếp hồn" là vị chi có thể nói chuyện với ma hoặc bất cứ những kẻ khuất mặt nào nếu ta muốn.
- Vật = Ý có nghĩa là thầy đã dùng "Thần Giao Cách Cảm". Con cũng có thể áp dụng môn này. Tuy nhiên con không biết phải làm thế nào giảng giải.
Trầm ngâm trong giây lát, thầy tôi tiếp tục nói:
- Khối óc của con người khác nào cái máy thu thanh. Nó cũng như cái dụng cụ của anh chàng Masconi đã từng dùng để chuyển tin tức từ bên kia bờ đại dương. Sự hợp tác giữa các tế bào với điện năng là để cấu tạo. Thế có nghĩa là con người được cấu tạo bởi điện năng và tế bào.
Trong các bộ phận thu nhận tín hiệu do óc phát ra sai khiến để hoàn tất ý định. Khi ta nghĩ làm một việc gì như muốn cử động cánh tay chẳng hạn, tức thì điện lực chuyển đến những đường gân điều khiển hành động như khối óc ra lệnh. Do đó ta thấy khi mình nghĩ gì tức là đã dùng đến điện để điều khiển bộ óc.
Và từ bộ óc ra lệnh cho các hành động y hệt như cái máy phát thanh dùng điện để hoạt động. Các nước văn minh ở phương Tây dùng máy móc để đo điện năng phóng xạ và họ cũng phác họa các hình đồ ghi ra các loại điện gọi là Alpha, Beta, Delta hoặc Gamma tuyến. Điều này rất đúng!
Phía dưới dãy ghế hàng đầu đối diện bàn thờ Phật, một vị Đại Lai Lạt Ma trọng tuổi lưng còng đứng lên một cách khó khăn lê từng bước một đến trước các bạn đồng cấp nghiêng mình thi lễ. Lẽo đẽo theo sau là các chú tiểu đủ các màu da hai tay bưng lấy chiếc khay hình chữ nhật phủ lên vuông vải tơ điều.
Vị Đại Lai Lạt Ma trọng tuổi này lại kéo lê từng bước một đến trước mặt Đức Đạt Lai Lạt Ma cúi mình đảnh lễ, đoạn quay về phía các tăng lữ đang xếp hàng ngồi bên dưới, cất cao giọng thật thâm hậu xướng lên như thể một đạo nhân phủ dụ đám tín đồ.
- "Hãy nghe đây tiếng nói của linh hồn"! Thế gian này chỉ toàn là ảo ảnh và đời sống nơi quả Địa Cầu này âu chỉ là giấc mơ ngắn ngủi mà thôi!
- "Hãy lắng nghe đây tiếng nói của linh hồn! Cõi tạm này làm sao sánh kịp với Cõi Trường Tồn Bất Diệt? Không! Không bao giờ.
- "Hãy lắng nghe đây tiếng nói của linh hồn! Thế giới này chỉ toàn là ảo ảnh! Đời sống trên Địa Cầu đâu có phải là trường tồn bất diệt. Âu đó chỉ là một giấc mơ ngắn ngủi mà thôi!
- "Hỡi những ai kia mang bao nỗi buồn u uẩn! Hãy lắng tai nghe đây tiếng gọi của linh hồn! Tất cả những ảo ảnh rồi cũng ra đi trong cái khoảng không vô cùng thăm thẳm! Chuyện gì đâu mà phải khóc than sầu hận?
- "Hãy đốt lên đi nén nhang đầu soi sáng cho những linh hồn vất vưởng!
- " Hãy hộ trì cho họ quay về với thế giới siêu linh "
Tiếng xướng vừa tạm lắng xuống từ bên trong hàng ngũ áo vàng một nhà sư trẻ tuổi đứng lên tiến đến đảnh lễ Đức Lạt Ma, lúc bấy giờ Ngài đang trầm ngâm dõi mắt theo làn khói hương nghi ngút.
Nhà sư trẻ lại đốt nén nhang quay khắp bốn phương khấn bái đoạn cất lên giọng trầm trầm tụng niệm. Và ngay sau đó tiếng cầu kinh của các chú tiểu cũng rập ràng vang lên hòa cùng nhịp điệu.
Từ bên trong đám các tăng lữ bỗng xuất hiện Đức Lạt Ma đẫy đà trọng tuổi ra trước bực lễ đường đưa cao chiếc chuông bạc rung lên một hồi dài,rồi vừa cất cao lời tụng niệm vừa đảo mắt xuống hàng cử tọa thử xem mình có được tán thưởng hay không?
Để nhà sư này trở về chỗ cũ, Đức Lạt Ma trọng tuổi tiến đến trước mặt Giáo Chủ đảnh lễ thêm lần nữa rồi quay sang lễ trước bàn thờ. Xong đâu đó, ông ta lại cất cao lời tiếp tục tụng niệm:
-"Hãy lắng tai nghe đây tiếng gọi của linh hồn! Thế giới này chỉ là ảo ảnh! Địa Cầu là môi trường để thử thách trong cuộc sống mà thôi! Thanh lọc ngay đi các màu trược khí mà vươn lên hướng về Cội Phúc để tìm cái trọn vẹn nguyên thủy của Đất Trời!"
Tiếng tụng niệm cùng với tiếng chuông vẫn vẳng vọng từ dưới chùa lên,trong khi chú tiểu đồ trịnh trọng đốt nén nhang thứ hai rồi tiến về phía Ngài Giáo Chủ cúi rạp mình đảnh lễ.
Bốn bức tường của ngôi đại tự hình như mở rộng thêm ra và dường như nó cũng chuyển động nhịp nhàng theo từng âm điệu của câu kinh.
Bất giác tôi sững sờ giương tròn xoe đôi mắt nhìn vào những hình ảnh đen đúa xấu xí một cách dị thường, đầu tóc bỏ xõa, tay chân thì như co quắp lại không biết xuất hiện từ lúc nào đang chập chờn bao quanh lấy vị Đại Lạt Ma trọng tuổi này!
- "Đó là những bóng ma của những người vừa mới chết!"
Giọng nói này bỗng từ đâu vang vọng vào tai tôi.
- Họ là những kẻ bình sinh chẳng chịu tu hành!
Tôi chăm chú nhìn vào những bóng ma ấy. Trông họ có vẻ lạc lõng cô đơn. Nét mặt họ hằn lên vẻ đau buồn, tủi hận! Ánh đèn chập chờn lúc tối lúc sáng bám sát vào các bóng ma đang vừa thất thểu vừa đi vừa rên rỉ kêu xin cho được hưởng ơn huyền nhiệm để cứu rỗi lấy linh hồn.
- Hãy lắng tai nghe tiếng nói của linh hồn..
Tôi cùng Minh Sư đến ngọn Phổ Đà La vừa lúc ánh bình minh vừa ló dạng ở chân trời. Từ đầu xa nhìn về ngôi Đại Tự trông chẳng khác nào như một sinh vật sống động.
Vừa đến nơi thầy tôi đã tức khắc cùng các vị đại sư mật đàm ngay tại khu mật thất. Riêng tôi hôm nay hoàn toàn được tự do khỏi phải bị ràng buộc như những ngày theo minh sư trong suốt chặng đường dài. Cũng nhờ vậy mà tôi khám phá được nhiều điều bí mật xảy ra bên trong ngôi đại tự cổ kính này.
Hình ảnh đầu tiên tôi bắt gặp là một bức hoành phi treo lủng lẳng bên trên cái xà ngang nơi cạnh mái phòng hội, trong đó ghi khắc các giới luật của nhà chùa. Tầng trên ngôi đại tự có một sân thượng khá rộng.
Muốn lên sân thượng này phải qua một chiếc cầu thang có nhiều bục lát toàn loại đá hoa đủ các màu sắc vừa rực rỡ vừa trang nhã. Đứng tại đây nhìn chung quanh có thể quan sát được toàn bộ khu vực rộng lớn của Phổ Đà La nơi chúng tôi đang tạm trú.
Đi quanh quất một lúc thì gặp một cửa nhỏ khép hờ hững, chỉ cần đẩy nhẹ đủ mở tung ra không mấy khó khăn. Tôi cẩn thận nhìn quanh quất, khi đã yên chí là chẳng có ai dòm ngó, tôi vội lách mình đi vào bên trong.
Đây là một gian phòng hoàn toàn bằng đá không lớn không nhỏ sát bờ tường của ngôi Chính Điện đập ngay vào mắt tôi là một cái bàn hình chữ nhật, cao lối hơn một thước tây được dựng lên toàn bằng loại đá cẩm vân.
Tôi mon men lại gần quan sát, nhận thấy một lỗ hổng tròn trịa trên bức tường ngay trước mắt có đường kính vừa đủ để chui đầu ra quan sát bên ngoài.
Mái ngói của ngôi chùa đỏ choét rực lên dưới ánh nắng mặt trời. Một con đường từ cổng dẫn vào có hai hàng cây xanh đen thẳng tăm tắp. Lố nhố chung quanh ngôi đại tự mấy dãy nhà không cao không thấp trông như một rặng núi ẩn hiện trong lớp sương mù có màu váng sữa.
Từ nơi sân thượng của ngôi đại tự nhìn xuống bên dưới, cảnh vật đều thu nhỏ lại trông như bức tranh thủy mạc giữa cảnh chiều hôm. Tất cả đều ngã màu vàng vọt, ngoại trừ cụm Tuyết Sơn trắng xóa tỏa lên hai luồng ánh sáng chẳng khác nào như hai dải lụa bạch.
Hàng trăm ngọn đèn thắp bằng dầu "bơ" tỏa ra một màu vàng nhợt nhạt. Tự nhiên tôi cảm thấy tâm hồn nhẹ nhõm và châu thân tuồng như đang bồng bềnh ngay giữa lưng trời.
Ánh sáng của các ngọn đuốc lớn được thắp lên khi vầng Ô vừa tắt lịm in bóng lên các cột chùa trên mặt tường nơi "thính đường" tạo thành những hình ảnh chập chờn ma quái.
Trước những hình bóng dị thường này tôi ngỡ như mình đang lạc vào một thế giới diệu huyền, hay bị ảo giác lôi cuốn vào một hiện tượng siêu linh đầy những hình ảnh kinh dị!
Bất giác tôi sững sờ chẳng biết những điều mình trông thấy có thật là mình đang sống giữa thế giới hay không?! Hay đây là cảnh tượng của thế giới bên kia, một thế giới đầy ma quái?
Nhưng rồi tôi lấy lại được sự ổn định tinh thần và đưa mắt nhìn sang bên kia khu đối diện với chính điện, qua cái khoảng cách chẳng khác nào như một biển khói cuồn cuộn hệt như thân một con rồng khổng lồ đang lặn ngụp giữa lòng biển sóng.
Các chú tiểu tay bưng bình hương thỉnh thoảng bắn lên các đóm lửa nhỏ, nối đuôi nhau vừa đi vừa tụng niệm. Cứ thế, các chú cứ tiếp tục chậm rãi bước đi mang theo những lọn khói đen sì bốc lên cao, quay cuồng y như những con quái vật thở ra các cột khói đen ngòm.
Càng lúc tôi càng bị lún sâu vào trạng thái như dở tỉnh dở mê, có thể là do tự kỷ ám thị, hoặc bị mê hoặc bởi đôi mắt huyền bí tận một chốn xa xăm nào đó! Tôi cảm thấy mình đang chui rúc vào xem lục phủ ngũ tạng của chính mình và nghe luôn cả tiếng chuyển động của dòng máu chảy theo từng nhịp đập của con tim mình.
Qua làn khói hương bao phủ tôi nhìn thấy hình ảnh lờ mờ của các chú tiểu đi chung quanh các vị Đại Sư cùng các Đức Lạt Ma ngồi nơi chính điện. Họ kết thành hàng dài, mình mặc toàn áo cà sa đủ màu vàng, xanh, tím, đỏ. Các màu sắc này được chằm vá lên nhau trông hệt như một bức tranh màu tuyệt mỹ dưới ánh sáng chập chờn của các ngọn đuốc.
Đức Chí Tôn Đạt Lai Lạt Ma ngồi chủ tọa nơi hàng ghế đầu. Ngài là hiện thân thứ 13 của Đức Lạt Ma Tối Thượng trong Cộng Đồng Phật Giáo Thế Giới.
Tiếng tụng niệm trầm trầm của các vị Đại Sư kéo dài ra, trong khi các chú tiểu lại cất cao giọng vang lên tợ bản hợp ca khi trần lúc bổng như đưa tâm hồn người nghe đi vào thế giới mung lung diệu vợi.
Nhìn xuyên qua khung cửa lớn tôi theo dõi những hình bóng đen sì lung linh chiếu lên trên những bức tường đá bên trong điện thờ và hàng trăm ngọn đèn được các Sãi áo nâu hờm sẵn bình dầu trên tay sẵn sàng châm thêm vào cho những ngọn đèn nào sắp cạn.
Tôi cũng không bỏ sót từng hành động của các chú tiểu đang túc trực cạnh những bình hương trên bục bàn thờ để thay nhang mới, chú tiểu nào cũng tỏ ra một lòng cung kính.
Phía dưới dãy ghế hàng đầu đối diện bàn thờ Phật, một vị Đại Lạt Ma trọng tuổi lưng còng đứng lên một cách khó khăn lê từng bước một đến trước các bạn đồng cấp nghiêng mình thi lễ. Lẽo đẽo theo sau là các chú tiểu đủ các màu da hai tay bưng lấy chiếc khay hình chữ nhật phủ lên trên vuông vải tơ điều.
Vị Đại Lạt Ma trọng tuổi này lại kéo lê từng bước một đến trước mặt Đức Đạt Lai Lạt Ma cúi mình đảnh lễ, đoạn quay về phía các tăng lữ đang xếp hàng ngồi bên dưới, cất cao giọng thật thâm hậu xướng lên như thể một đạo nhân phủ dụ đám tín đồ.
- "Hãy nghe đây tiếng nói của linh hồn"! Thế gian này chỉ toàn là ảo ảnh và đời sống nơi quả Địa Cầu này âu chỉ là giấc mơ ngắn ngủi mà thôi!
- "Hãy lắng nghe đây tiếng nói của linh hồn! Cõi tạm này làm sao sánh kịp với Cõi Trường Tồn Bất Diệt?! Không! Không bao giờ!
- "Hãy lắng nghe đây tiếng nói của linh hồn! Thế giới này chỉ toàn là ảo ảnh! Đời sống trên Địa Cầu đâu có phải là trường tồn bất diệt. Âu đó chỉ là một giấc mơ ngắn ngủi mà thôi!
- "Hỡi những ai kia mang bao nỗi buồn u uẩn! Hãy lắng tai nghe đây tiếng gọi của linh hồn! Tất cả những ảo ảnh rồi cũng ra đi trong cái khoảng không vô cùng thăm thẳm! Chuyện gì đâu mà phải khóc than sầu hận?
- "Hãy đốt lên đi nén nhang đầu soi sáng cho những linh hồn vất vưởng!
- " Hãy hộ trì cho họ quay về với thế giới siêu linh!"
Tiếng xướng vừa tạm lắng xuống từ bên trong hàng ngũ áo vàng một nhà sư trẻ tuổi đứng lên tiến đến đảnh lễ Đức Đạt Lai Lạt Ma, lúc bấy giờ Ngài đang trầm ngâm dõi mắt theo làn khói hương nghi ngút. Nhà sư trẻ lại đốt nén nhang quay khắp bốn phương khấn bái đoạn cất lên giọng trầm trầm tụng niệm. Và ngay sau đó tiếng cầu kinh của các chú tiểu cũng rập ràng vang lên hòa cùng nhịp điệu.
Từ bên trong đám các tăng lữ bỗng xuất hiện Đức Lạt Ma đẫy đà trọng tuổi ra trước bực lễ đường đưa cao chiếc chuông bạc rung lên một hồi dài,rồi vừa cất cao lời tụng niệm vừa đảo mắt xuống hàng cử tọa thử xem mình có được tán thưởng hay không?
Tôi chăm chú nhìn vào những bóng ma ấy. Trông họ có vẻ lạc lõng cô đơn. Nét mặt họ hằn lên vẻ đau buồn, tủi hận! Ánh đèn chập chờn lúc tối lúc sáng bám sát vào các bóng ma đang vừa thất thểu đi vừa rên rỉ kêu xin cho được hưởng ơn huyền nhiệm để cứu rỗi lấy linh hồn.
- Hãy lắng tai nghe tiếng nói của linh hồn..
Đứng trước cảnh tượng ma quái ấy tôi cảm thấy mình như đang chơi vơi lạc lõng giữa hai thế giới. Một thế giới thiêng liêng trong cảnh hành lễ mà lần thứ nhất tôi được chứng kiến tận mắt, và một thế giới khác của những hồn ma mang đầy tội lỗi đang hãi hùng run sợ trước cõi chết!
Tiếng khóc than rên rỉ của họ lúc thì gấp gẫy, khi thì rời rạc, vang vọng lên như tiếng của những con dê lạc đàn giữa chốn rừng già hoang dã.
Trong bóng tối ẩm ướt của thế giới lạc lõng đó các hồn ma chập chờn bước theo ánh lửa xanh lè, khi ẩn khi hiện giữa màn khói hương bao phủ tư bề...Cứ như thế các hồn ma kia nhịp nhàng bước đi theo từng lời kinh tiếp dẫn của vị Đại Lạt Ma trọng tuổi.
- "Hãy lắng tai nghe đây tiếng gọi của "linh hồn"! Thế giới này chỉ toàn là ảo ảnh hão huyền, tất cả chúng sinh chỉ là các "linh thần" ở thế giới "Chân Như" xuống trần gian để hoàn thành nghiệp quả, đợi đến khi mãn phần rời khỏi cõi tạm này mới trở về với thế giới thiêng liêng vĩnh cửu. Đó là cái thế giới Bất Sinh, Bất Tử, Chân Như Tự Tại.
Hãy lắng tai nghe tiếng gọi của linh hồn! Thắp nén nhang lên để dẫn độ các vong linh đang rên xiết trong biển trầm luân đau khổ lang thang tìm đàng trở về với thế giới siêu nhiên đời đời kiếp kiếp!"...
Trong lúc mải mê với cảnh tượng lạ lùng này thì đột nhiên một luồng cảm xạ từ một nơi nào đó phóng đến tai tôi :
- Lỗ San ! Hãy trở về ngay, tôi đang cần đến chú
Tôi vội đáp lại ngay cũng bằng phương pháp cảm xạ cho Ngài biết là tôi đang trên đường trở về.
Trong suốt thời gian bị khói hương từ ngôi Chánh Điện tuôn ra mù mịt làm cho mắt tôi ràn rụa cả lệ và đỏ au lên! Lúc bấy giờ tôi như một kẻ mất hồn, ngơ ngơ ngẩn ngẩn đến độ khi vừa bước vào phòng, Minh Sư đã phải kêu lên:
- Lỗ San! Hình thù chú làm thế nào mà như thể bị quỉ ám vậy?
- Thưa thầy, có thể như vậy, thưa Minh Sư! Chính mắt con đã nhìn thấy những bóng ma xuất hiện nơi Chánh Điện!
- Chú nhìn thấy?
- Thưa Minh Sư, chính mắt con đã nhìn thấy từng đàn kéo nhau đến trước Điện thờ vừa đi vừa than khóc... Đây là lần thứ nhất trong cuộc đời con chứng kiến được cảnh rùng rợn đến như vậy...
- Minh Sư im lặng. Người không để ý đến lời của tôi vừa nói, chỉ mỉm cười rồi chuyển sang công việc của tôi phải làm cho ngày hôm sau:
- Đêm nay chúng ta lưu lại ngủ tại đây. Sáng sớm ngày mai đến yết kiến ngài Tiên Tri Lạt Ma. Nơi đó thế nào chú sẽ được ngài chỉ giáo cho được nhiều điều cần thiết!
Đến đây thầy tôi phát ra một giọng cười giòn giã:
- Chú đã gặp lắm ma ắt phải đói nhiều! Vậy bây giờ chú hãy đi tìm thức gì ăn để còn phải nghỉ ngơi sớm....
Tôi vừa ăn vừa ôn lại những sự việc đã xảy ra nơi ngôi Đại Tự. "Cứ theo lời của vị Đại Lạt Ma trọng tuổi ban chiều nơi Chánh Điện, thì chẳng hóa ra thế giới này toàn là ảo ảnh! Đời chỉ là một giấc mộng lớn, chẳng có gì vĩnh cửu cả! ".
Ăn xong bữa tối, tôi vội về ngay phòng để lấy lại sức sau một ngày mệt mỏi. Vừa đặt lưng xuống giường tôi đã mê man hẳn. Trong giấc ngủ thấy toàn những cơn ác mộng, đi lang thang vào các cảnh giới của người chết đầy sự hãi hùng khiếp đảm!
Tuy nhiên, tôi vẫn giữ được sự tỉnh táo nhớ cả những hình ảnh của đàn ma quái, mặt mày đen đủi, diêm dúa bước đi khập khễnh vây quanh vị Đại Lạt Ma trọng tuổi ngồi đối diện với Điện thờ nơi Chính Điện và lũ ma này không ngớt cất tiếng khóc than thảm thiết.
Trong quang cảnh rợn người đó tôi nhìn thấy hằng hà sa số các vật gì "tròn trĩnh" bay đến trông hệt như luồng sóng cát quay cuồng trong cơn bão táp. Rồi tiếp đến là các chấm đen nhỏ li ti từ đầu xa tít xuất hiện.
Các chấm đen này cứ lớn dần ra rồi là là bay về hướng tôi đang đứng trông hệt như những hạt kim cương rực lên đủ màu sắc lung linh như thể một rừng hoa đăng trong những đêm dài của các ngày hội lớn.
Những hạt kim cương xinh đẹp này cứ lớn dần ra, biến dạng thành những quả cầu thủy tinh của những tên phù thủy và vẫn tiếp tục thay hình đổi dạng, để rồi cuối cùng trông hệt như những chiếc đầu lâu xanh dờn nhe ra hai hàm răng trắng hếu.
Điều lạ nhất với tốc độ bay của chúng nhanh như thể tia điện lóe lên loang loáng ánh sáng trông hệt như một mũi tên phóng lại và chúng biến mất vào màn đêm đen tối.
Trong lúc tôi miên man suy nghĩ về giấc mơ dị thường đầy vẻ ma quái này thì bỗng có giọng nói như tru tréo phát ra: "Con ma này đã nhìn xuyên qua được mấy bức tường dày của ngôi Đại Tự, chẳng biết bây giờ nó có còn là "ma" nữa hay không ?"
Nghe câu hỏi này từ cửa miệng của một kẻ xa lạ, tôi bất giác rùng mình! Tại sao kẻ nào đó lại đi hỏi ta với lời lẽ này? Một nỗi sợ hãi len lỏi vào người tôi. Toàn thân tôi bất giác nổi lên cả gai ốc.
Tôi lẩm nhẩm tự hỏi: Phải chăng ta đã chết? Vậy ta đã chết từ bao giờ? Từ trên mình ngựa lao xuống lòng vực sâu thăm thẳm? Hay mình chỉ mới chết ngày qua đây lúc quỳ xuống bên cạnh chiếc hầm nổi để tò mò nhìn xem "thế giới bên kia"?
Nhưng rồi, tôi lại trầm ngâm suy nghĩ: "Tại sao ta lại quá ưu tư về cái chết như vậy? Chẳng lẽ ta hèn nhát lắm ư ? Chết đâu có phải là hết? Ta vốn biết như vậy. Nó chỉ là một cuộc tái sinh để chuẩn bị cho một kiếp khác!
Minh Sư há đã chẳng từng nói "Chết đi là sống lại" đó sao?". Nghĩ đến lời lẽ của Minh Sư tôi lấy ngay lại được sự bình tĩnh... yên lòng nằm xuống để tìm lại giấc ngủ.
Nhưng vừa chợp mắt thì lại hốt hoảng, ngồi ngay dậy. Hai tay tôi nắm chặt lấy thành giường. Mắt tôi trừng trừng nhìn về phía trước. Đột nhiên tôi có cảm giác trời đất bỗng dưng rung chuyển mạnh, đến nỗi mọi vật thảy đều đảo lộn. Tiếng kêu răng rắc của nhà cửa.
Tiếng tường xiêu vách đổ mỗi lúc một mạnh thêm lên. Tiếng của mái nhà đong đưa nghe hệt như tiếng lồng lộn của bầy thú dữ. Gió tứ hướng thổi đến giữa đêm khuya vắng! Tiếng mưa đập vào các mái nhà, vào các bức tường gạch, vào các khung cửa kính, và luôn cả những mái tôn, tạo thành một điệp khúc điên loạn.
Đó chưa kể tiếng loảng xoảng của đồ vật trong nhà đổ vãi lung tung văng ra ngổn ngang cùng khắp. Tôi co cụm người lại trước những âm vang đến rợn cả người.
Lúc bấy giờ tôi có cảm tưởng ngôi Đại Tự đồ sộ này đổ sụp cả xuống và tưởng tượng như hàng hà sa số các tảng đá bắn tung lên rơi vung vãi chung quanh nơi tôi đang nằm tới tấp.
Tôi lại nghĩ đến Ngày Tận Thế, bàng hoàng sợ hãi. Miệng mồm tôi như cứng hẳn lại. Nhưng rồi tôi cũng kêu lên được khi bỗng dưng nhìn thấy mọi vật chung quanh mình cứ lớn dần mãi ra...
Hình ảnh bốn bức tường của ngôi Đại Tự mới ngày qua mà bây giờ tôi đưa tay sờ vào thấy nhẵn nhụi bóng loáng, thế mà bây giờ sao nó lại trở nên sần sùi cùng khắp!
Tôi trố mắt ra nhìn. Tại sao lại có hiện tượng lạ lùng như vậy? Những lỗ hổng này cứ mỗi phút lại nở rộng thêm ra. Tò mò đưa mắt nhìn vào bên trong các lỗ hủng này, bất giác tôi rợn cả người khi nhìn thấy lúc nhúc, toàn những sinh vật đủ mọi hình dạng khác nhau, mà tôi đã từng nhìn thấy qua các lăng kính hiển vi.
Chưa hết cái khiếp đảm này lại sang cái khiếp đảm khác. Hiện tượng lạ lùng này cứ liên tục tiếp diễn làm tôi sửng sốt. Mọi vật chung quanh tôi mỗi lúc một nẩy nở to lớn khác thường. Cho đến cả các sinh vật to lớn bên trong các lỗ hủng kia cũng bỗng dưng lớn lên quá cỡ, đến nỗi tôi có thể nhìn thấy được cả cái lỗ chân lông của chúng.
Thế giới lạ lùng này cứ tiếp tục lớn mãi thêm ra. Trong lúc hình hài tôi càng lúc càng bị thu nhỏ lại. Đứng trước sự kiện hãi hùng này thì bất thần có một cơn gió lốc xuất hiện. Nó thổi đến với một tốc độ kinh khủng, cuồn cuộn xoay tròn tạo thành một cây cột khổng lồ, cao vút tận trời xanh rồi bắn tung ra vung vãi!
Lúc bấy giờ chung quanh tôi toàn là cát bụi bao phủ. Nhưng có một điều khiến tôi ngạc nhiên không ít, là tất cả những hạt bụi nhỏ li ti đó lớn dần ra như hàng triệu tảng đá đủ cỡ, và đủ thể dạng, trong đó có cả những tảng đá to lớn bằng cả ngọn Hy Mã Lạp Sơn.
Nhưng lạ lùng thay hằng hà sa số bụi bặm, và đá tảng khổng lồ đó, không có một hạt bụi nào đừng nói là một tảng đá, đụng chạm vào người tôi cả.
#4
Gửi vào 06/06/2011 - 21:36
CHƯƠNG HAI
ĐƯỜNG DÂY NGÂN TUYẾN
Thế rồi tôi lại mơ thấy mình đang bồng bềnh trên các chùm sao. Nổi trôi trong khoảng không gian mênh mông vô tận.
Đang chìm đắm trong cảm giác đê mê này thì một cảnh tượng khác lại vụt hiện lên trước mắt. Toàn thể cảnh vật như đang quay cuồng cuốn hút tôi vào cơn lốc xoáy!
Tiếp đến là một tiếng nổ long trời lở đất, đầu óc tôi như như bị vỡ tung ra và cảm thấy cả vũ trụ bao la tròng trành như chiếc thuyền nan trước cơn bão táp...Tôi bất giác kêu lên:
- "Phải chăng đây là ngày tận thế?".
Tất cả mọi vật thể, mọi sự sống đang bắt đầu trở về với cái nguyên thủy của cái khoảng không trống rỗng mênh mông bất tận...
Tôi đang miên man nghĩ đến đây thì hốt nhiên hàng nghìn, hàng vạn cảnh vật khác nhau cũng vụt hiện lên cùng một lúc. Các hình ảnh khủng khiếp ấy cũng xoay tròn như con vụ, cũng lắc lư như những hình ảnh ma quái!
Lần này thì tôi hoàn toàn bị rơi hẳn vào cơn thác loạn! Các cảnh vật va chạm vào nhau tuôn xuống như dòng thác lũ, nhằm ngay vào người tôi đổ xuống. Tôi hốt hoảng nhắm nghiền mắt lại.
- Chết đến nơi rồi! Tôi hét lớn lên và nằm mê man bất tỉnh.
- Lỗ San! Kìa! Lỗ San ơi! Lỗ San à! Chú làm sao thế ? Chú đang bay lên trời đó phải không?
Trong cơn mê sảng nghe văng vẳng bên tai một giọng nói ấm cúng như từ cõi xa xăm vọng lại...Tôi cố gắng mở mắt ra để nhìn xem mình đang ở đâu và chuyện gì đã xảy đến? Nhưng chẳng nhìn thấy gì cả, ngoại trừ Minh sư nhìn tôi bằng đôi mắt hiền từ nhỏ nhẹ hỏi:
- Lỗ San, hãy tỉnh dậy đi! Chú vừa mới du hành vào tận khoảng không gian vô tận?
Lúc bây giờ ánh sáng bên ngoài trời đã lùa vào phòng qua khung cửa sổ. Cảnh vật đã hiện rõ ràng ra trước mắt. Một vệt sáng dài như dải lụa bạch chứa đầy cả bụi li ti từ bên ngoài trời xuyên qua lỗ hổng của bờ tường, lóe ra các màu sắc tợ hình ảnh của cái mống cầu vồng hiện giữa lưng trời.
- Lỗ San! Trễ đến nơi rồi. Dậy ngay, chú còn phải tìm cái gì điểm tâm để lên đường cho kịp.
Tôi ngồi nhổm dậy tuy vẫn cảm thấy trong người còn mệt mỏi sau cơn ác mộng, song cố làm ra như tươi tỉnh, tôi khẽ gật đầu chào Minh Sư rồi chạy ngay đi tắm rửa, mặc dù mắt vẫn còn hoa lên và đầu cổ vẫn còn nặng trình trịch tưởng chừng như cổ tôi không đủ sức chịu đựng được.
Sau khi tắm rửa sạch sẽ, tôi vội thu dọn mấy đồ lặt vặt cho vào túi áo đoạn ra khỏi phòng để xuống nhà bếp tìm thức ăn sáng. Đến cầu thang, tôi như con chim phải ná, thận trọng bước xuống từng bậc sợ bị rủi ro sẩy chân ngã như ngày nào. Vào đến phòng ăn gặp phải ngay mấy ông sư hỏa đầu quân, tôi lễ phép nói:
- Thưa quí sư huynh, con xin được phép điểm tâm.
Một nhà sư hỏa đầu quân mập ú đôi mắt của ông ta như tuồng không thể nào mở ra được nhìn tôi quát lớn:
- Giờ này mà còn đòi ăn sáng nữa à? Cút ngay.
Nói xong nhà sư hỏa đầu quân này chỉ tay lên bản nội qui treo trên tường cạnh một bàn ăn dài kê bên cạnh, ra lệnh:
- Đứng đó mà đọc. Coi lại đồng hồ mấy giờ rồi?
Ông cố giương đôi mắt hí lên sừng sộ, đoạn vớ ngay lấy chiếc đũa bếp trong chảo canh cạnh đó, định quật vào đầu tôi. Cũng may, nhờ một nhà sư đứng cạnh vội ngăn cản lại khẽ bảo:
- Xin sư huynh hạ bớt cơn giận. Chú tiểu này đi với Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt đấy.
Nghe nói vậy, nhà sư hỏa đầu quân này thay đổi ngay thái độ, nhìn tôi chăm chú rồi khẽ gật đầu mỉm cười đoạn quay lại tìm người phụ bếp, cử chỉ ông ta lúc bấy giờ trông chẳng khác như những kẻ bị ong đốt hét lên ầm ĩ :
- Anh phụ bếp đâu rồi! Còn chần chờ gì nữa mang các món điểm tâm ra ngay, cho chú tiểu đường xa Nhanh lên. Nhớ hâm lại cho nóng.
Món ăn ở xứ Tây Tạng nơi nào cũng như nhau. Bánh Tsampa được xem là món ăn chính. Đây là loại bánh thơm ngon làm bằng lúa mạch trộn beurre và trà. Điểm tâm xong tôi cảm thấy tỉnh táo hẳn, trở về gặp lại Minh sư để chuẩn bị lên đường.
Con ngựa tôi cưỡi quả thật bất nhân. Nó cứ lắc lư làm tôi nhiều lần suýt bị ngã nhào dưới chân núi. Chúng tôi đi dọc theo Linh Cơ lộ, tuy đường đi quanh co nhưng nhờ được cái phẳng phiu nên chẳng có gì trở ngại. Và cũng tại con lộ này thầy trò tôi gặp lắm khách hành hương lũ lượt kéo về Thiền Viện.
Họ nhìn thấy chiếc áo cà sa của thầy tôi đang mặc biết đó là vị Cao Tăng đều đưa nhau đến trước mặt Người xin ban cho phép lành. Sau khi nhận ơn phước nơi Minh Sư tôi đoàn người này lại vui vẻ tiếp tục cuộc hành trình, ca hát luôn mồm tưởng chừng như họ vừa đi hết được nửa chặng đường giải thoát.
Đường dốc càng lên cao gió càng lộng. Thỉnh thoảng đâu đó có tiếng sáo diều véo von vọng lại, tôi nghe mà lòng cảm thấy lâng lâng nhẹ nhõm. Chẳng bao lâu chúng tôi ngang qua khu rừng liễu băng đến con đường trải đá trắng dẫn thẳng vào dinh cơ của Ngài Tiên Tri Lạt Ma.
Vừa vào đền sân Linh Cơ đã có ngay chú tiểu chạy đến đón và đưa ngựa của chúng tôi về chuồng. Tôi khẽ gật đầu chào anh để làm quen trước khi cùng thầy tôi đi vào bên trong ngôi chùa này.
Khi đặt chân đến ngoài thềm Linh Cơ đã thấy có sự hiện diện đông đảo của các vị Lạt Ma tụ hội lại từ bao giờ rồi. Sở dĩ tôi được đến dự cuộc hội hôm nay là nhờ có lệnh đặc biệt của ngài Lạt Ma Tối Cao ban xuống.
Nơi đây, tôi được hướng dẫn đến một căn phòng riêng để nghỉ ngơi và ngủ đêm tại đó. Đây là lần đầu tiên tôi được hưởng ân huệ khỏi phải về nhà chung dành riêng cho các chú tiểu. Lúc đi ngang qua một ngôi chùa nhỏ ngay trong dinh cơ này tôi dừng chân hẳn lại khi nghe như có ai đó đang cất tiếng truyền ra lời kinh mà tôi đã có lần nghe đến:
- Hãy nghe đây tiếng gọi của linh hồn! Thế giới này chỉ là ảo ảnh. Hãy nghe đây tiếng gọi của linh hồn.
Đây là lần thứ hai tôi được nghe thấy như thể lời kinh muốn nhắc nhở tôi điều gì. Chiều hôm ấy tôi gặp Minh Sư và đưa lời kinh này ra hỏi:
- Thưa Minh Sư, làm sao lại cho thế giới này chỉ là ảo ảnh?
Minh Sư nhìn tôi cười nói:
- Vậy chú cho cái gì trên đời là có thật ?
Và không để tôi trả lời, Người nói tiếp:
- Chú thử lấy tay sờ vào bức tường cạnh đó chắc chắn tay chú sẽ bị ngừng lại trước những viên đá xây lên bức tường đó chận lại. Chắc chú cho rằng không thể làm sao thoát ra được ngoại trừ phá vỡ nó đi.
Nói đến đây, Người đưa tay chỉ ra ngoài khung sổ:
- Chú hãy nhìn xuyên qua song sổ kia, bên ngoài đó rặng núi Hy Mã Lạp Sơn sừng sững đứng như là một cái cột xương sống của quả Địa Cầu.
Nó dày đặc cho dù có hàng ngàn quả đại bác thần công bắn vào cũng không thể nào làm thủng được cái hùng vĩ của ngọn núi này. Ấy thế mà chú có thể làm phép "nhiếp hồn" là y như chú xuyên qua một cách dễ dàng chẳng có gì là khó khăn cả!
- Nhưng thưa thầy có điều con thắc mắc làm sao gọi là "ảo ảnh"?
Sở dĩ hỏi như vậy vì tôi vẫn còn có cảm giác hãi hùng run sợ trước những hình ảnh mà chính mắt tôi đã nhìn thấy rõ trong cơn ác mộng. Tôi cố hình dung kể lại cho Minh Sư nghe. Người chăm chú theo dõi từng lời tôi thuật lại, thỉnh thoảng trong mắt Người rực sáng lên như có điều gì làm cho Minh sư thích thú.
- Ta sẽ cho chú nghe, Nhưng giờ thì không đủ thì giờ vì chúng ta còn phải đi vào bái kiến ngài Lạt Ma Tiên Tri đã.
Vừa đặt chân vào chính điện tôi không khỏi ngạc nhiên trước khuôn mặt có còn non nớt và làn da hơi xanh mét của người mà thầy tôi bảo đó là ngài Lạt Ma Tiên Tri đang ngồi trên chiếc ghế mạ vàng, được điêu khắc một cách tuyệt xảo.
Minh Sư chỉ tôi và thì thầm nói điều gì với ngài Lạt Ma Tiên Tri và ngài Lạt Ma Tiên Tri này thỉnh thoảng đưa mắt nhìn tôi. Đứng trước mặt ngài không hiểu sao tôi cảm thấy ớn lạnh cả xương sống khi trông thấy hai luồng nhãn quang cực mạnh của Người phóng đến nhìn tôi! Mãi giây lát sau, ngài Lạt Ma bỗng cười lên tỏ ra mừng rỡ :
- A! Đúng rồi! Đúng là chú. Ta đã từng biết chú... cái chú mà người ta thường gọi đùa "nhóc con", có phải thế không ?
Nói đến đây Người lại phá lên cười lần nữa một cách hồn nhiên rồi quay lại phía Minh sư lộ hẳn vẻ hoan hỉ !
Ngoài trời tiếng gió thổi vi vu nghe như một điệu nhạc trầm hùng. Thế rồi, tất cả chúng tôi đều giữ im lặng.
- Bây giờ chúng ta hãy vào trong chính điện. Ngài Lạt Ma Tiên Tri quay lại nói với Minh Sư và tôi.
Ngài nhìn tôi cười bảo:
- Lỗ San! Chú hãy nói về thế giới ảo ảnh cho ta nghe đi !
Tôi định thuật lại những gì mà tôi nhìn thấy cho vị Lạt Ma Tiên Tri nghe, nhưng sực nghĩ lại, với Ngài đã là một Đấng Tiên Tri thì chuyện gì lại không biết được?
Vừa nghĩ đến đây thì chúng tôi đã bước vào chánh điện. Nơi đây chẳng có lấy một bóng người dù chỉ là một chú tiểu hầu đèn. Các ngọn nến tại bàn thờ tỏa ra rực sáng các pho tượng Phật! Những tia sáng lung linh chập chờn như một vũ khúc ma trơi, huyền ảo...
Các cuộn khói từ những lọn nhang cuộn tròn xoắn trôn ốc bay lên tận trần chánh điện, lững lờ như những đám mây đen trôi lơ lửng giữa vòm trời... Tôi ngồi bên dưới cạnh Minh Sư và Đức Lạt Ma Tiên Tri ngồi trên một chiếc cạnh đó. Kế bên là cái bục cao dành cho các nhà sư ngồi theo lối "tọa thiền", chân vòng theo cung cách kiết già đang đọc kinh cầu nguyện.
Xong buổi lễ đầu, tôi cùng Minh Sư về phòng riêng của Người. Sau bình trà thơm Ấn Độ, thầy tôi bắt đầu giảng giải:
- Lỗ San à! Minh sư nhìn tôi nói đây là thế giới của ảo ảnh hão huyền. Một thế giới hoàn toàn trinh trắng, trong lành. Nó là thế giới của những linh hồn thanh khiết.
Tôi vừa có ý định cắt ngang để tìm hiểu thêm những chi tiết mà tôi còn chưa được am tường, nhưng Minh Sư tôi đã đưa tay ngăn lại:
- Chưa phải lúc để hỏi. Lỗ San, hãy lắng nghe lời ta nói hết. Đối với những ai chưa đầy đủ cơ duyên, hãy giúp họ có một đức tin và giải thích sao cho họ biết rằng ngoài hành tinh chúng ta đang ở giữa cái vũ trụ bao la này, còn có một đấng Nhiệm Mầu cao minh hết mực luôn luôn chở che và an ủi họ trong suốt cuộc đời. Chú hiểu chứ ?
- Vâng thưa Minh Sư con hiểu.
- Thế giới này, đời sống này đâu có nghĩa gì, âu đó chỉ là những tuồng ảo tưởng, là hiện thân của một cõi để trắc nghiệm mức độ hiền lương và sự độc ác của con người!
Đến đây Người siết chặt lấy tay tôi đoạn nhìn tôi nói tiếp:
- Lỗ San, cuộc đời chỉ là ảo ảnh, mà con người thì cứ đua nhau lặn ngụp trong vòng danh lợi gây nên bao nhiêu điều tội ác. Chú hiểu điều này chứ ?
- Thưa Minh Sư vâng ạ!
- Vậy bây giờ chú còn điều gì cần nêu ra nữa không?
- Thưa thầy có ạ. Con muốn biết dòng "điện lực" nối kết giữa linh hồn và thể xác!
- Chú có bao giờ nhìn thấy không khí đang bao quanh chúng ta không? Chắc chắn là chẳng bao giờ chú nhìn thấy cả! Dòng điện năng chú hỏi cũng chẳng khác nào không khí mà mọi sinh linh đều cần đến nó.
Bình thường chú không thể nào thấy được mà chú chỉ thấy khi có sự cọ xát nhưng nó cũng chỉ là một thứ mà chú không bao giờ cầm nắm nó được trong tay. Nhưng nói đến đây, không hiểu sao Người nhìn tôi nghiêm khắc nói:
- Lỗ San! Đầu óc chú đi đâu rồi? Phải chăng cái trí khôn minh mẫn của chú hoàn toàn bị biến mất? Liệu chú không còn nhớ sợi "ngân tuyến" kia không? Chính nó là luồng "điện năng nối liền giữa thể xác với linh hồn của con người chúng ta và cũng chính nó đã cho chúng ta sự sống!
Lúc bấy giờ mặt mày tôi nóng ran lên. Thì ra tôi lú lẫn thật. "Ngân tuyến", Vâng, đúng là sợi ngân tuyến. Tôi được biết từ lâu rồi. Đó là luồng ánh sáng màu xanh nhạt. Nó, như Minh sư đã nói là luồng điện năng nối liền giữa cái nhục thể của con người chúng ta với cái linh hồn cao khiết.
Tôi cũng đã từng nhiều lần dùng đến phép "nhiếp hồn" rong chơi đây đó... và sợi ngân tuyến óng ánh kia rung lên theo nhịp sống của con người. Tôi đã hiểu ý nghĩa của nó chẳng khác nào sợi "nhau" nối liền cái bào thai với bụng của người mẹ.
Nói giả dụ vạn nhất, rủi ro sợi dây "nhau" bị sút ra, thì cái bào thai kia cũng không thể nào sống được. Cái xác thân trưởng thành của chúng ta cũng vậy. Nó cũng sẽ bị chết đi khi mà sợi "ngân tuyến" bị tách rời ra khỏi giữa cái linh hồn và thể xác...
Tôi từ từ ngẩng mặt lên nhìn Minh Sư với tất cả lòng thuần phục! Trong lúc đó bằng giọng đều đều, thầy tôi bắt đầu tiếp tục giảng giải:
- Khi chúng ta sống trong cõi giới vật chất đầy cả sức quyến rũ mà vẫn ghi nhớ đến cảnh giới Thần Tiên Cực Lạc thì quả là một cố gắng siêu phàm.
Nói đến đây, Người cầm cái chuông bạc nhỏ khe khẽ rung lên rồi quay về phía tôi mỉm cười bảo:
- Uống xong tuần trà ta sẽ kể cho chú nghe chuyện của một người Trung Hoa từ lúc buông tay nhắm mắt cho đến khi tái sinh, sẽ giúp không ít cho chú trong việc tìm hiểu về định luật luân hồi nhân quả mà chú hằng quan tâm muốn biết đến.
Ngay đó, chú tiểu từ nhà trong bưng ra khay trà đặt trên chiếc bàn gỗ mun bóng lộn được bày sẵn trước mặt thầy tôi. Người có vẻ như đang suy nghĩ điều gì, đôi mắt đăm chiêu nhìn vào khoảng không mênh mông vô tận. Thỉnh thoảng đôi mắt Người nhắm nghiền lại như thể đưa hồn mình vào cõi giới xa xăm nào đó...
Tôi cố giữ im lặng để vừa tôn trọng sự riêng tư của Người vừa mong muốn được Người tập trung cả sự minh mẫn để giảng giải cho tôi biết những huyền nhiệm nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn - một hệ thống núi cao nhất và non trẻ nhất trên Địa Cầu này.
Về địa thế Hy Mã Lạp Sơn nằm về phía nam miền bình nguyên thuộc vùng nam Tây Tạng và phía bắc đồng bằng Ấn - Hằng. Nơi đây tôi đã có lần được một nhà sư hàng huynh trưởng, người đã từng đi qua thuật lại đây là một dãy núi có chiều dài hàng 2.400 cây số kể từ thung lũng sông Ấn dẫn thẳng đến Brahmaputra ngoài các đỉnh cao trên 4.000 cây số còn có cả 11 đỉnh cao hơn 8.000 mét nữa.
Hy Mã Lạp Sơn nằm giữa cả bốn quốc gia từ Trung Quốc đến Ấn Độ và từ Népal đến Pakistan. Vị huynh trưởng kể cho tôi nghe về cuộc hành trình của ông băng ngang qua các dãy núi có đỉnh núi cao 8.000 m như Nanga Pacbat và luôn cả Chomolungma, Everet là ngọn núi được xem là cao nhất thế giới - ngọn núi màu băng tuyết quanh năm...
Bằng một giọng trầm trầm, Người lên tiếng gọi tôi:
- Lỗ San! Chú có bao giờ nghĩ rằng khi ta uống chung trà bé nhỏ này là uống cả hàng triệu thế giới đó không ?
Và Người không đợi tôi đáp lại, chậm rãi lên tiếng tiếp :
- Ta nghĩ rằng chú cho là có. Thật vậy! Khối nước lỏng chứa nhiều tế bào có một khoảng cách xa nhau khá rộng. Nếu ta khuếch đại những tế bào trong nước ấy ắt ta sẽ nhìn thấy nó chẳng khác nào những hạt cát nằm ven theo bãi bể. Ngay đến cả khinh khí hay không khí cũng chỉ là những tế bào li ti kết tụ lại.
Ngày xưa, người Trung Hoa đã có những ức thuyết về vũ trụ. Họ cho rằng Thái Dương Hệ chẳng khác nào là cái Vũ Trụ được thu hẹp lại và tất cả đều do bàn tay của Đấng Tạo Hóa sắp xếp tạo thành.
Họ quan niệm Vũ Trụ mà ta đang sinh sống nẩy nở từ cái "không" mà ra. Đó là một định luật biến thể, từ cõi vô hình ra cõi hữu hình hay nói cách khác hơn từ cõi Tiên Thiên ra cõi Hậu Thiên.
Lý thuyết về vũ trụ có nhiều lập luận, song cuối cùng thảy đều giống nhau. Nó là một sự kết hợp vừa tương đồng vừa tương dị của sự hình thành những đám tinh vân trong vũ trụ.
Trước kia Sư Tổ cũng đã từng dẫn giải cho ta nghe về những đám "tinh vân" xoáy ốc nằm trong trạng thái cùng cực đông đặc để trở thành một Thái Dương Hệ mới.
Sư Tổ bảo rằng rồi đến một thời kỳ nào gần đây khi thời gian đã chín mùi các "tinh vân xoáy ốc" đang rải rác nằm cùng khắp trong vũ trụ, sẽ rời cái dãy Ngân Hà lấp la lấp lánh kia để đi đến một nơi khác trong cái bao la cùng khắp này.
Vậy thì, Lỗ San! Chú cũng có thể kết luận những Vũ Trụ ở ngoài vũ trụ của chúng ta chẳng khác gì cái vũ trụ hiện hữu của ta đây, ắt hẳn phải đi theo một định luật chung theo hình xoáy ốc.
Rồi một ngày nào đó, chú sẽ nhìn thấy hàng bao nhiêu mặt trăng ra đời như sao Thiên Vương Tinh chẳng hạn, vượt ra ngoài sự hiểu biết của người xưa về sự hiện hữu của lối vài chục Mặt Trăng cố định trong vũ trụ!
Và nếu con người kéo dài thêm tuổi thọ ắt sẽ thấy những hiện tượng lạ lùng diễn tiến sau đó! Hàng loạt mưa sao làm rực sáng cả vòm trời tuy chỉ kéo dài vài giờ song nó sẽ liên tục một thời gian vô hạn định.
Thế có nghĩa là pháo hoa nhà trời rực tỏa ra cùng khắp để cho người thế gian chiêm ngưỡng sẽ không ấn định khi nào sẽ chấm dứt?! Sư Tổ bảo rằng rồi đến một thời kỳ nào đó khi thời gian đã chín mùi các "tinh vân xoáy ốc" ù sẽ rời cái sông Ngân Hà lấp la lấp lánh kia để đến một nơi khác trong vũ trụ bao la cùng khắp này.
Đến đây, Người tự tay châm trà vào chung mình rồi châm vào chung tôi, đoạn đưa cao chung lên cùng tôi đối ẩm. Uống xong tuần trà ,Người tiếp tục giảng giải:
- Vậy thì, ta có thể kết luận những Vũ Trụ ở ngoài vũ trụ của ta đều cùng tuân thủ theo một định luật chung một định luật theo mô hình xoáy ốc.! Lỗ San, chú hiểu chứ?!
- Vâng! Thưa Minh Sư con hiểu.
- Theo Sư Tổ thì qui luật không phải là luôn luôn cố định. Chú đừng nghĩ rằng một ngày của chú chỉ có bấy nhiêu thời khắc, song thật ra, rất có thể có một lúc nào đó, ngày sẽ dài thêm ra, mặt trăng sẽ lánh mặt Địa Cầu, không còn ban cho nhân loại những ánh sáng dịu hiền tươi mát nữa.
Minh Sư thao thao bất tuyệt, dường như hôm nay Người cố ý cho tôi biết mọi hiện tượng mà chúng ta đã từng nhìn thấy, đang bám víu để sống, đều là ảo ảnh. Đạo gia thì qui tất cả mọi hiện tượng vào "Tự Nhiên", còn Phật gia thì khác hẳn.
Phật gia, quan niệm rằng tất cả chỉ toàn là ảo ảnh, mà đã là "ảo ảnh" thì nó luôn luôn biến hóa khôn cùng... Những cái ta cho rằng thật, nhưng thực ra nó chẳng thật chút nào... chỉ toàn là một giấc mơ thoáng qua rồi tan biến đi ngay không còn vướng víu gì với cuộc sống hàng ngày cho đến trọn đời trọn kiếp...
- Có lẽ ta hơi dài dòng, phải không Lỗ San? Đó chỉ vì ta muốn chú được tường tận một cách gấp rút bởi sự yêu cầu cấp bách mà Bề Trên ban xuống.
Người lại hỏi tôi :
- Chú tin có sự Công Bằng của Đấng Quyền Uy Mầu Nhiệm không ?
Tôi gật đầu khẳng định:
- Thưa Minh Sư, con hằng tin là vậy.
- Vậy thì sự công bằng đó là "Cái Chết và Định Luật của Luân Hồi".
Và bằng một giọng thật nhẹ nhàng thầy tôi đi vào câu chuyện dẫn chứng cho "sự mầu nhiệm" mà Người vừa mới nêu ra:
- Ta muốn thuật lại cho chú nghe câu chuyện của một viên quan già hồi hưu của đất nước Trung Quốc. Viên quan hồi hưu này họ Vũ tên Xương, thuộc tỉnh Phúc Kiến, tỉnh đối diện với hải đảo Đài Loan.
Họ Vũ có lắm vợ tất nhiên là phải lắm con cái ra đời và cũng không phải ít kẻ ăn người ở túc trực đêm ngày thay phiên nhau hầu hạ. Viên quan họ Vũ này quyền quí giàu sang khó lòng có ai địch nổi. Quyền thế của ông trên thì thay quyền nhà vua trị vì thiên hạ, dưới thì kiểm soát điều hành các quan đồng triều và luôn cả chăn dắt sinh linh bách tính cai quản giang san bờ cõi.
Nhưng tuy viên quan họ Vũ thầm cầu xin Thượng Đế ban cho mình trường sinh bất tử, nhưng luật Tạo Hóa không phải chỉ riêng ai mà tất cả đều phải vâng theo định mệnh đã được an bài!
Viên quan họ Vũ cũng không ngoài định luật đó. Chúng ta càng ngày càng suy yếu dần... dù đầy đủ cả thuốc thang và các lương y nổi tiếng nhất trần gian đều được ông cho vời đến để bảo vệ mạng sống của mình.
Rồi một hôm, họ Vũ cảm thấy có cái gì làm cho thân thể bất an, như thể bị móng vuốt của Tử Thần đang lần mò tháo bỏ mối dây nối liền sự sống với xác thân mình! Họ Vũ khẽ rên lên, lăn lộn cố ghì chặt lấy các sợi dây thiêng liêng kia những mong sao Thần Chết không
thể mang mình theo đi vào kiếp khác.
Lúc bấy giờ họ Vũ không còn chịu nổi với sự đau đớn mà ông ta có cảm giác như bị một bàn tay sắt bóp lấy tim mình. Các đường dây thần kinh cùng một lúc giật mạnh lên khiến đôi chân ông co rúm lại. Đôi môi ông mở rộng ra bày cả hai hàm răng đầy cả nhựa á phiện chen lẫn với bợn của thức ăn trắng hếu.
Tôi ngồi yên lặng lắng nghe và hình dung cảnh viên quan này đang lăn lộn trên giường bệnh theo lời Minh Sư thuật lại:
"...Hôm ấy... trời bắt đầu từ từ tối hẳn. Chiếc đèn bóng nhỏ trong phòng ông đã được thắp sáng lên tự bao giờ. Đàn dơi bắt đầu xuất hiện lao thẳng vào các bờ tường hoen rỉ tạo thành những âm thanh vang lên chát chúa...
Tiếng muỗi bay vo ve trong bóng đêm dày đặc. Tiếng côn trùng rên rỉ từ các lùm cây ven cạnh cống rãnh hay bờ ao đâu đó. Tiếng chim cú rúc từng tiếng một từ một ngôi nhà đối diện với căn phòng viên quan họ Vũ, vẳng vọng đến như một điệp khúc trầm buồn.
Hơi thở của viên quan họ Vũ yếu dần. Mặt mày ông xanh mét. Đôi mắt trũng sâu xuống hoàn toàn thất thần, đục hẳn trông như hai miếng ván sữa đóng khớp vào. Lúc bấy giờ mồm ông bắt đầu phải há hốc ra để thở.
Tất cả các danh y đều được vời đến. Nhưng họ hoàn toàn bất lực trước nanh vuốt của tử thần. Thế rồi vợ con ông, gia nhân ông, đều bật lên khóc nức nở. Tiếng khóc càng lúc càng lớn dần lên. Chẳng ai còn có thể can ngăn nữa.
Và các lương y những kẻ bàng quan sững sờ khi nhìn thấy vành môi trên của họ Vũ bỗng giật xách lên báo hiệu cho sự ra đi vĩnh viễn giã từ nhân thế. Thế là ông từ giã tất cả: vợ con, danh vọng cao sang, tiền rừng bạc biển. Những cái gì ông gia công tạo dựng đều để lại cho thế gian mà chỉ mang theo vỏn vẹn với hai bàn tay trắng.
Nói đến đây, Minh Sư ngưng lại trong giây lát, quan sát mức độ theo dõi của tôi về câu chuyện người đang nói. Người gục gặc đầu tỏ vẻ bằng lòng, đoạn tiếp tục kể:
- " Xác viên quan họ Vũ nằm cứng đơ trên nệm. Tuy đã chết, nhưng đôi mắt ông vẫn còn mở ra thao láo. Có lẽ ông ta như còn đang nuối tiếc cuộc đời vàng son của mình.
Lúc bấy giờ nếu người có Thiên Nhãn Thông ắt sẽ nhìn thấy một làn hơi mỏng màu xanh nhạt bao quanh xác chết từ từ bay lên dính liền với sợi ánh sáng chập chờn như hình bóng của ma trơi.
- Lỗ San! Minh Sư bỗng quay sang nhìn tôi gọi Sợi ánh sáng màu xanh đó được gọi là "Ngân Tuyến" hay "Ngân Quang" mà ta đã giảng giải cho chú nghe rồi. Lúc đầu sợi ánh sáng đó trông như cả một màn sương dày đặc, nhưng nó từ từ mỏng dần ra để rồi cuối cùng tan biến mất....
Nói đến đây, Người lại rót thêm trà vào chiếc chung bạc uống cho thấm giọng rồi kể tiếp:
- " Chắc chú muốn biết hồn họ Vũ đi đâu trong giờ phút lâm chung này phải không?
- Thưa Minh Sư quả như vậy. Con muốn biết theo trí tò mò là liệu ông ấy sẽ được đi vào cảnh giới nào?
- Hồn ông ta bềnh bồng trôi giữa khoảng không trung, xuyên qua nhiều cảnh giới khác nhau, và cuối cùng hồn ông tấp vào một tòa nhà rộng lớn khác thường. Đó là một lâu đài tráng lệ uy nghi, đến đây, dường như có một uy lực nào đưa ông đến một sảnh đường ánh lên như mặt thủy tinh.
- Đẹp. Đúng là đẹp không thể nào diễn đạt được.
Thầy tôi và cả tôi như cảm thấy chính mắt mình được nhìn cảnh tượng tuyệt vời như vậy.
- Chú nên hiểu rằng các linh hồn nếu ở trên cảnh giới của họ thì họ cũng "đông đặc" lại tợ xác thân mình ở cảnh giới mà chúng ta đang ở đây.
Có điều, chú đừng nghĩ một khi linh hồn giã từ cái xác thân mục nát để trở về với thế giới siêu nhiên hoàn toàn được phóng khoáng tự do, tự tại! Không.
Tuyệt đối không phải như vậy. Một linh hồn ở trong cảnh giới của linh hồn cũng bị hạn chế trước những chướng ngại cản ngăn lại, như các bức tường của ta đang hiện hữu.
ĐƯỜNG DÂY NGÂN TUYẾN
Thế rồi tôi lại mơ thấy mình đang bồng bềnh trên các chùm sao. Nổi trôi trong khoảng không gian mênh mông vô tận.
Đang chìm đắm trong cảm giác đê mê này thì một cảnh tượng khác lại vụt hiện lên trước mắt. Toàn thể cảnh vật như đang quay cuồng cuốn hút tôi vào cơn lốc xoáy!
Tiếp đến là một tiếng nổ long trời lở đất, đầu óc tôi như như bị vỡ tung ra và cảm thấy cả vũ trụ bao la tròng trành như chiếc thuyền nan trước cơn bão táp...Tôi bất giác kêu lên:
- "Phải chăng đây là ngày tận thế?".
Tất cả mọi vật thể, mọi sự sống đang bắt đầu trở về với cái nguyên thủy của cái khoảng không trống rỗng mênh mông bất tận...
Tôi đang miên man nghĩ đến đây thì hốt nhiên hàng nghìn, hàng vạn cảnh vật khác nhau cũng vụt hiện lên cùng một lúc. Các hình ảnh khủng khiếp ấy cũng xoay tròn như con vụ, cũng lắc lư như những hình ảnh ma quái!
Lần này thì tôi hoàn toàn bị rơi hẳn vào cơn thác loạn! Các cảnh vật va chạm vào nhau tuôn xuống như dòng thác lũ, nhằm ngay vào người tôi đổ xuống. Tôi hốt hoảng nhắm nghiền mắt lại.
- Chết đến nơi rồi! Tôi hét lớn lên và nằm mê man bất tỉnh.
- Lỗ San! Kìa! Lỗ San ơi! Lỗ San à! Chú làm sao thế ? Chú đang bay lên trời đó phải không?
Trong cơn mê sảng nghe văng vẳng bên tai một giọng nói ấm cúng như từ cõi xa xăm vọng lại...Tôi cố gắng mở mắt ra để nhìn xem mình đang ở đâu và chuyện gì đã xảy đến? Nhưng chẳng nhìn thấy gì cả, ngoại trừ Minh sư nhìn tôi bằng đôi mắt hiền từ nhỏ nhẹ hỏi:
- Lỗ San, hãy tỉnh dậy đi! Chú vừa mới du hành vào tận khoảng không gian vô tận?
Lúc bây giờ ánh sáng bên ngoài trời đã lùa vào phòng qua khung cửa sổ. Cảnh vật đã hiện rõ ràng ra trước mắt. Một vệt sáng dài như dải lụa bạch chứa đầy cả bụi li ti từ bên ngoài trời xuyên qua lỗ hổng của bờ tường, lóe ra các màu sắc tợ hình ảnh của cái mống cầu vồng hiện giữa lưng trời.
- Lỗ San! Trễ đến nơi rồi. Dậy ngay, chú còn phải tìm cái gì điểm tâm để lên đường cho kịp.
Tôi ngồi nhổm dậy tuy vẫn cảm thấy trong người còn mệt mỏi sau cơn ác mộng, song cố làm ra như tươi tỉnh, tôi khẽ gật đầu chào Minh Sư rồi chạy ngay đi tắm rửa, mặc dù mắt vẫn còn hoa lên và đầu cổ vẫn còn nặng trình trịch tưởng chừng như cổ tôi không đủ sức chịu đựng được.
Sau khi tắm rửa sạch sẽ, tôi vội thu dọn mấy đồ lặt vặt cho vào túi áo đoạn ra khỏi phòng để xuống nhà bếp tìm thức ăn sáng. Đến cầu thang, tôi như con chim phải ná, thận trọng bước xuống từng bậc sợ bị rủi ro sẩy chân ngã như ngày nào. Vào đến phòng ăn gặp phải ngay mấy ông sư hỏa đầu quân, tôi lễ phép nói:
- Thưa quí sư huynh, con xin được phép điểm tâm.
Một nhà sư hỏa đầu quân mập ú đôi mắt của ông ta như tuồng không thể nào mở ra được nhìn tôi quát lớn:
- Giờ này mà còn đòi ăn sáng nữa à? Cút ngay.
Nói xong nhà sư hỏa đầu quân này chỉ tay lên bản nội qui treo trên tường cạnh một bàn ăn dài kê bên cạnh, ra lệnh:
- Đứng đó mà đọc. Coi lại đồng hồ mấy giờ rồi?
Ông cố giương đôi mắt hí lên sừng sộ, đoạn vớ ngay lấy chiếc đũa bếp trong chảo canh cạnh đó, định quật vào đầu tôi. Cũng may, nhờ một nhà sư đứng cạnh vội ngăn cản lại khẽ bảo:
- Xin sư huynh hạ bớt cơn giận. Chú tiểu này đi với Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt đấy.
Nghe nói vậy, nhà sư hỏa đầu quân này thay đổi ngay thái độ, nhìn tôi chăm chú rồi khẽ gật đầu mỉm cười đoạn quay lại tìm người phụ bếp, cử chỉ ông ta lúc bấy giờ trông chẳng khác như những kẻ bị ong đốt hét lên ầm ĩ :
- Anh phụ bếp đâu rồi! Còn chần chờ gì nữa mang các món điểm tâm ra ngay, cho chú tiểu đường xa Nhanh lên. Nhớ hâm lại cho nóng.
Món ăn ở xứ Tây Tạng nơi nào cũng như nhau. Bánh Tsampa được xem là món ăn chính. Đây là loại bánh thơm ngon làm bằng lúa mạch trộn beurre và trà. Điểm tâm xong tôi cảm thấy tỉnh táo hẳn, trở về gặp lại Minh sư để chuẩn bị lên đường.
Con ngựa tôi cưỡi quả thật bất nhân. Nó cứ lắc lư làm tôi nhiều lần suýt bị ngã nhào dưới chân núi. Chúng tôi đi dọc theo Linh Cơ lộ, tuy đường đi quanh co nhưng nhờ được cái phẳng phiu nên chẳng có gì trở ngại. Và cũng tại con lộ này thầy trò tôi gặp lắm khách hành hương lũ lượt kéo về Thiền Viện.
Họ nhìn thấy chiếc áo cà sa của thầy tôi đang mặc biết đó là vị Cao Tăng đều đưa nhau đến trước mặt Người xin ban cho phép lành. Sau khi nhận ơn phước nơi Minh Sư tôi đoàn người này lại vui vẻ tiếp tục cuộc hành trình, ca hát luôn mồm tưởng chừng như họ vừa đi hết được nửa chặng đường giải thoát.
Đường dốc càng lên cao gió càng lộng. Thỉnh thoảng đâu đó có tiếng sáo diều véo von vọng lại, tôi nghe mà lòng cảm thấy lâng lâng nhẹ nhõm. Chẳng bao lâu chúng tôi ngang qua khu rừng liễu băng đến con đường trải đá trắng dẫn thẳng vào dinh cơ của Ngài Tiên Tri Lạt Ma.
Vừa vào đền sân Linh Cơ đã có ngay chú tiểu chạy đến đón và đưa ngựa của chúng tôi về chuồng. Tôi khẽ gật đầu chào anh để làm quen trước khi cùng thầy tôi đi vào bên trong ngôi chùa này.
Khi đặt chân đến ngoài thềm Linh Cơ đã thấy có sự hiện diện đông đảo của các vị Lạt Ma tụ hội lại từ bao giờ rồi. Sở dĩ tôi được đến dự cuộc hội hôm nay là nhờ có lệnh đặc biệt của ngài Lạt Ma Tối Cao ban xuống.
Nơi đây, tôi được hướng dẫn đến một căn phòng riêng để nghỉ ngơi và ngủ đêm tại đó. Đây là lần đầu tiên tôi được hưởng ân huệ khỏi phải về nhà chung dành riêng cho các chú tiểu. Lúc đi ngang qua một ngôi chùa nhỏ ngay trong dinh cơ này tôi dừng chân hẳn lại khi nghe như có ai đó đang cất tiếng truyền ra lời kinh mà tôi đã có lần nghe đến:
- Hãy nghe đây tiếng gọi của linh hồn! Thế giới này chỉ là ảo ảnh. Hãy nghe đây tiếng gọi của linh hồn.
Đây là lần thứ hai tôi được nghe thấy như thể lời kinh muốn nhắc nhở tôi điều gì. Chiều hôm ấy tôi gặp Minh Sư và đưa lời kinh này ra hỏi:
- Thưa Minh Sư, làm sao lại cho thế giới này chỉ là ảo ảnh?
Minh Sư nhìn tôi cười nói:
- Vậy chú cho cái gì trên đời là có thật ?
Và không để tôi trả lời, Người nói tiếp:
- Chú thử lấy tay sờ vào bức tường cạnh đó chắc chắn tay chú sẽ bị ngừng lại trước những viên đá xây lên bức tường đó chận lại. Chắc chú cho rằng không thể làm sao thoát ra được ngoại trừ phá vỡ nó đi.
Nói đến đây, Người đưa tay chỉ ra ngoài khung sổ:
- Chú hãy nhìn xuyên qua song sổ kia, bên ngoài đó rặng núi Hy Mã Lạp Sơn sừng sững đứng như là một cái cột xương sống của quả Địa Cầu.
Nó dày đặc cho dù có hàng ngàn quả đại bác thần công bắn vào cũng không thể nào làm thủng được cái hùng vĩ của ngọn núi này. Ấy thế mà chú có thể làm phép "nhiếp hồn" là y như chú xuyên qua một cách dễ dàng chẳng có gì là khó khăn cả!
- Nhưng thưa thầy có điều con thắc mắc làm sao gọi là "ảo ảnh"?
Sở dĩ hỏi như vậy vì tôi vẫn còn có cảm giác hãi hùng run sợ trước những hình ảnh mà chính mắt tôi đã nhìn thấy rõ trong cơn ác mộng. Tôi cố hình dung kể lại cho Minh Sư nghe. Người chăm chú theo dõi từng lời tôi thuật lại, thỉnh thoảng trong mắt Người rực sáng lên như có điều gì làm cho Minh sư thích thú.
- Ta sẽ cho chú nghe, Nhưng giờ thì không đủ thì giờ vì chúng ta còn phải đi vào bái kiến ngài Lạt Ma Tiên Tri đã.
Vừa đặt chân vào chính điện tôi không khỏi ngạc nhiên trước khuôn mặt có còn non nớt và làn da hơi xanh mét của người mà thầy tôi bảo đó là ngài Lạt Ma Tiên Tri đang ngồi trên chiếc ghế mạ vàng, được điêu khắc một cách tuyệt xảo.
Minh Sư chỉ tôi và thì thầm nói điều gì với ngài Lạt Ma Tiên Tri và ngài Lạt Ma Tiên Tri này thỉnh thoảng đưa mắt nhìn tôi. Đứng trước mặt ngài không hiểu sao tôi cảm thấy ớn lạnh cả xương sống khi trông thấy hai luồng nhãn quang cực mạnh của Người phóng đến nhìn tôi! Mãi giây lát sau, ngài Lạt Ma bỗng cười lên tỏ ra mừng rỡ :
- A! Đúng rồi! Đúng là chú. Ta đã từng biết chú... cái chú mà người ta thường gọi đùa "nhóc con", có phải thế không ?
Nói đến đây Người lại phá lên cười lần nữa một cách hồn nhiên rồi quay lại phía Minh sư lộ hẳn vẻ hoan hỉ !
Ngoài trời tiếng gió thổi vi vu nghe như một điệu nhạc trầm hùng. Thế rồi, tất cả chúng tôi đều giữ im lặng.
- Bây giờ chúng ta hãy vào trong chính điện. Ngài Lạt Ma Tiên Tri quay lại nói với Minh Sư và tôi.
Ngài nhìn tôi cười bảo:
- Lỗ San! Chú hãy nói về thế giới ảo ảnh cho ta nghe đi !
Tôi định thuật lại những gì mà tôi nhìn thấy cho vị Lạt Ma Tiên Tri nghe, nhưng sực nghĩ lại, với Ngài đã là một Đấng Tiên Tri thì chuyện gì lại không biết được?
Vừa nghĩ đến đây thì chúng tôi đã bước vào chánh điện. Nơi đây chẳng có lấy một bóng người dù chỉ là một chú tiểu hầu đèn. Các ngọn nến tại bàn thờ tỏa ra rực sáng các pho tượng Phật! Những tia sáng lung linh chập chờn như một vũ khúc ma trơi, huyền ảo...
Các cuộn khói từ những lọn nhang cuộn tròn xoắn trôn ốc bay lên tận trần chánh điện, lững lờ như những đám mây đen trôi lơ lửng giữa vòm trời... Tôi ngồi bên dưới cạnh Minh Sư và Đức Lạt Ma Tiên Tri ngồi trên một chiếc cạnh đó. Kế bên là cái bục cao dành cho các nhà sư ngồi theo lối "tọa thiền", chân vòng theo cung cách kiết già đang đọc kinh cầu nguyện.
Xong buổi lễ đầu, tôi cùng Minh Sư về phòng riêng của Người. Sau bình trà thơm Ấn Độ, thầy tôi bắt đầu giảng giải:
- Lỗ San à! Minh sư nhìn tôi nói đây là thế giới của ảo ảnh hão huyền. Một thế giới hoàn toàn trinh trắng, trong lành. Nó là thế giới của những linh hồn thanh khiết.
Tôi vừa có ý định cắt ngang để tìm hiểu thêm những chi tiết mà tôi còn chưa được am tường, nhưng Minh Sư tôi đã đưa tay ngăn lại:
- Chưa phải lúc để hỏi. Lỗ San, hãy lắng nghe lời ta nói hết. Đối với những ai chưa đầy đủ cơ duyên, hãy giúp họ có một đức tin và giải thích sao cho họ biết rằng ngoài hành tinh chúng ta đang ở giữa cái vũ trụ bao la này, còn có một đấng Nhiệm Mầu cao minh hết mực luôn luôn chở che và an ủi họ trong suốt cuộc đời. Chú hiểu chứ ?
- Vâng thưa Minh Sư con hiểu.
- Thế giới này, đời sống này đâu có nghĩa gì, âu đó chỉ là những tuồng ảo tưởng, là hiện thân của một cõi để trắc nghiệm mức độ hiền lương và sự độc ác của con người!
Đến đây Người siết chặt lấy tay tôi đoạn nhìn tôi nói tiếp:
- Lỗ San, cuộc đời chỉ là ảo ảnh, mà con người thì cứ đua nhau lặn ngụp trong vòng danh lợi gây nên bao nhiêu điều tội ác. Chú hiểu điều này chứ ?
- Thưa Minh Sư vâng ạ!
- Vậy bây giờ chú còn điều gì cần nêu ra nữa không?
- Thưa thầy có ạ. Con muốn biết dòng "điện lực" nối kết giữa linh hồn và thể xác!
- Chú có bao giờ nhìn thấy không khí đang bao quanh chúng ta không? Chắc chắn là chẳng bao giờ chú nhìn thấy cả! Dòng điện năng chú hỏi cũng chẳng khác nào không khí mà mọi sinh linh đều cần đến nó.
Bình thường chú không thể nào thấy được mà chú chỉ thấy khi có sự cọ xát nhưng nó cũng chỉ là một thứ mà chú không bao giờ cầm nắm nó được trong tay. Nhưng nói đến đây, không hiểu sao Người nhìn tôi nghiêm khắc nói:
- Lỗ San! Đầu óc chú đi đâu rồi? Phải chăng cái trí khôn minh mẫn của chú hoàn toàn bị biến mất? Liệu chú không còn nhớ sợi "ngân tuyến" kia không? Chính nó là luồng "điện năng nối liền giữa thể xác với linh hồn của con người chúng ta và cũng chính nó đã cho chúng ta sự sống!
Lúc bấy giờ mặt mày tôi nóng ran lên. Thì ra tôi lú lẫn thật. "Ngân tuyến", Vâng, đúng là sợi ngân tuyến. Tôi được biết từ lâu rồi. Đó là luồng ánh sáng màu xanh nhạt. Nó, như Minh sư đã nói là luồng điện năng nối liền giữa cái nhục thể của con người chúng ta với cái linh hồn cao khiết.
Tôi cũng đã từng nhiều lần dùng đến phép "nhiếp hồn" rong chơi đây đó... và sợi ngân tuyến óng ánh kia rung lên theo nhịp sống của con người. Tôi đã hiểu ý nghĩa của nó chẳng khác nào sợi "nhau" nối liền cái bào thai với bụng của người mẹ.
Nói giả dụ vạn nhất, rủi ro sợi dây "nhau" bị sút ra, thì cái bào thai kia cũng không thể nào sống được. Cái xác thân trưởng thành của chúng ta cũng vậy. Nó cũng sẽ bị chết đi khi mà sợi "ngân tuyến" bị tách rời ra khỏi giữa cái linh hồn và thể xác...
Tôi từ từ ngẩng mặt lên nhìn Minh Sư với tất cả lòng thuần phục! Trong lúc đó bằng giọng đều đều, thầy tôi bắt đầu tiếp tục giảng giải:
- Khi chúng ta sống trong cõi giới vật chất đầy cả sức quyến rũ mà vẫn ghi nhớ đến cảnh giới Thần Tiên Cực Lạc thì quả là một cố gắng siêu phàm.
Nói đến đây, Người cầm cái chuông bạc nhỏ khe khẽ rung lên rồi quay về phía tôi mỉm cười bảo:
- Uống xong tuần trà ta sẽ kể cho chú nghe chuyện của một người Trung Hoa từ lúc buông tay nhắm mắt cho đến khi tái sinh, sẽ giúp không ít cho chú trong việc tìm hiểu về định luật luân hồi nhân quả mà chú hằng quan tâm muốn biết đến.
Ngay đó, chú tiểu từ nhà trong bưng ra khay trà đặt trên chiếc bàn gỗ mun bóng lộn được bày sẵn trước mặt thầy tôi. Người có vẻ như đang suy nghĩ điều gì, đôi mắt đăm chiêu nhìn vào khoảng không mênh mông vô tận. Thỉnh thoảng đôi mắt Người nhắm nghiền lại như thể đưa hồn mình vào cõi giới xa xăm nào đó...
Tôi cố giữ im lặng để vừa tôn trọng sự riêng tư của Người vừa mong muốn được Người tập trung cả sự minh mẫn để giảng giải cho tôi biết những huyền nhiệm nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn - một hệ thống núi cao nhất và non trẻ nhất trên Địa Cầu này.
Về địa thế Hy Mã Lạp Sơn nằm về phía nam miền bình nguyên thuộc vùng nam Tây Tạng và phía bắc đồng bằng Ấn - Hằng. Nơi đây tôi đã có lần được một nhà sư hàng huynh trưởng, người đã từng đi qua thuật lại đây là một dãy núi có chiều dài hàng 2.400 cây số kể từ thung lũng sông Ấn dẫn thẳng đến Brahmaputra ngoài các đỉnh cao trên 4.000 cây số còn có cả 11 đỉnh cao hơn 8.000 mét nữa.
Hy Mã Lạp Sơn nằm giữa cả bốn quốc gia từ Trung Quốc đến Ấn Độ và từ Népal đến Pakistan. Vị huynh trưởng kể cho tôi nghe về cuộc hành trình của ông băng ngang qua các dãy núi có đỉnh núi cao 8.000 m như Nanga Pacbat và luôn cả Chomolungma, Everet là ngọn núi được xem là cao nhất thế giới - ngọn núi màu băng tuyết quanh năm...
Bằng một giọng trầm trầm, Người lên tiếng gọi tôi:
- Lỗ San! Chú có bao giờ nghĩ rằng khi ta uống chung trà bé nhỏ này là uống cả hàng triệu thế giới đó không ?
Và Người không đợi tôi đáp lại, chậm rãi lên tiếng tiếp :
- Ta nghĩ rằng chú cho là có. Thật vậy! Khối nước lỏng chứa nhiều tế bào có một khoảng cách xa nhau khá rộng. Nếu ta khuếch đại những tế bào trong nước ấy ắt ta sẽ nhìn thấy nó chẳng khác nào những hạt cát nằm ven theo bãi bể. Ngay đến cả khinh khí hay không khí cũng chỉ là những tế bào li ti kết tụ lại.
Ngày xưa, người Trung Hoa đã có những ức thuyết về vũ trụ. Họ cho rằng Thái Dương Hệ chẳng khác nào là cái Vũ Trụ được thu hẹp lại và tất cả đều do bàn tay của Đấng Tạo Hóa sắp xếp tạo thành.
Họ quan niệm Vũ Trụ mà ta đang sinh sống nẩy nở từ cái "không" mà ra. Đó là một định luật biến thể, từ cõi vô hình ra cõi hữu hình hay nói cách khác hơn từ cõi Tiên Thiên ra cõi Hậu Thiên.
Lý thuyết về vũ trụ có nhiều lập luận, song cuối cùng thảy đều giống nhau. Nó là một sự kết hợp vừa tương đồng vừa tương dị của sự hình thành những đám tinh vân trong vũ trụ.
Trước kia Sư Tổ cũng đã từng dẫn giải cho ta nghe về những đám "tinh vân" xoáy ốc nằm trong trạng thái cùng cực đông đặc để trở thành một Thái Dương Hệ mới.
Sư Tổ bảo rằng rồi đến một thời kỳ nào gần đây khi thời gian đã chín mùi các "tinh vân xoáy ốc" đang rải rác nằm cùng khắp trong vũ trụ, sẽ rời cái dãy Ngân Hà lấp la lấp lánh kia để đi đến một nơi khác trong cái bao la cùng khắp này.
Vậy thì, Lỗ San! Chú cũng có thể kết luận những Vũ Trụ ở ngoài vũ trụ của chúng ta chẳng khác gì cái vũ trụ hiện hữu của ta đây, ắt hẳn phải đi theo một định luật chung theo hình xoáy ốc.
Rồi một ngày nào đó, chú sẽ nhìn thấy hàng bao nhiêu mặt trăng ra đời như sao Thiên Vương Tinh chẳng hạn, vượt ra ngoài sự hiểu biết của người xưa về sự hiện hữu của lối vài chục Mặt Trăng cố định trong vũ trụ!
Và nếu con người kéo dài thêm tuổi thọ ắt sẽ thấy những hiện tượng lạ lùng diễn tiến sau đó! Hàng loạt mưa sao làm rực sáng cả vòm trời tuy chỉ kéo dài vài giờ song nó sẽ liên tục một thời gian vô hạn định.
Thế có nghĩa là pháo hoa nhà trời rực tỏa ra cùng khắp để cho người thế gian chiêm ngưỡng sẽ không ấn định khi nào sẽ chấm dứt?! Sư Tổ bảo rằng rồi đến một thời kỳ nào đó khi thời gian đã chín mùi các "tinh vân xoáy ốc" ù sẽ rời cái sông Ngân Hà lấp la lấp lánh kia để đến một nơi khác trong vũ trụ bao la cùng khắp này.
Đến đây, Người tự tay châm trà vào chung mình rồi châm vào chung tôi, đoạn đưa cao chung lên cùng tôi đối ẩm. Uống xong tuần trà ,Người tiếp tục giảng giải:
- Vậy thì, ta có thể kết luận những Vũ Trụ ở ngoài vũ trụ của ta đều cùng tuân thủ theo một định luật chung một định luật theo mô hình xoáy ốc.! Lỗ San, chú hiểu chứ?!
- Vâng! Thưa Minh Sư con hiểu.
- Theo Sư Tổ thì qui luật không phải là luôn luôn cố định. Chú đừng nghĩ rằng một ngày của chú chỉ có bấy nhiêu thời khắc, song thật ra, rất có thể có một lúc nào đó, ngày sẽ dài thêm ra, mặt trăng sẽ lánh mặt Địa Cầu, không còn ban cho nhân loại những ánh sáng dịu hiền tươi mát nữa.
Minh Sư thao thao bất tuyệt, dường như hôm nay Người cố ý cho tôi biết mọi hiện tượng mà chúng ta đã từng nhìn thấy, đang bám víu để sống, đều là ảo ảnh. Đạo gia thì qui tất cả mọi hiện tượng vào "Tự Nhiên", còn Phật gia thì khác hẳn.
Phật gia, quan niệm rằng tất cả chỉ toàn là ảo ảnh, mà đã là "ảo ảnh" thì nó luôn luôn biến hóa khôn cùng... Những cái ta cho rằng thật, nhưng thực ra nó chẳng thật chút nào... chỉ toàn là một giấc mơ thoáng qua rồi tan biến đi ngay không còn vướng víu gì với cuộc sống hàng ngày cho đến trọn đời trọn kiếp...
- Có lẽ ta hơi dài dòng, phải không Lỗ San? Đó chỉ vì ta muốn chú được tường tận một cách gấp rút bởi sự yêu cầu cấp bách mà Bề Trên ban xuống.
Người lại hỏi tôi :
- Chú tin có sự Công Bằng của Đấng Quyền Uy Mầu Nhiệm không ?
Tôi gật đầu khẳng định:
- Thưa Minh Sư, con hằng tin là vậy.
- Vậy thì sự công bằng đó là "Cái Chết và Định Luật của Luân Hồi".
Và bằng một giọng thật nhẹ nhàng thầy tôi đi vào câu chuyện dẫn chứng cho "sự mầu nhiệm" mà Người vừa mới nêu ra:
- Ta muốn thuật lại cho chú nghe câu chuyện của một viên quan già hồi hưu của đất nước Trung Quốc. Viên quan hồi hưu này họ Vũ tên Xương, thuộc tỉnh Phúc Kiến, tỉnh đối diện với hải đảo Đài Loan.
Họ Vũ có lắm vợ tất nhiên là phải lắm con cái ra đời và cũng không phải ít kẻ ăn người ở túc trực đêm ngày thay phiên nhau hầu hạ. Viên quan họ Vũ này quyền quí giàu sang khó lòng có ai địch nổi. Quyền thế của ông trên thì thay quyền nhà vua trị vì thiên hạ, dưới thì kiểm soát điều hành các quan đồng triều và luôn cả chăn dắt sinh linh bách tính cai quản giang san bờ cõi.
Nhưng tuy viên quan họ Vũ thầm cầu xin Thượng Đế ban cho mình trường sinh bất tử, nhưng luật Tạo Hóa không phải chỉ riêng ai mà tất cả đều phải vâng theo định mệnh đã được an bài!
Viên quan họ Vũ cũng không ngoài định luật đó. Chúng ta càng ngày càng suy yếu dần... dù đầy đủ cả thuốc thang và các lương y nổi tiếng nhất trần gian đều được ông cho vời đến để bảo vệ mạng sống của mình.
Rồi một hôm, họ Vũ cảm thấy có cái gì làm cho thân thể bất an, như thể bị móng vuốt của Tử Thần đang lần mò tháo bỏ mối dây nối liền sự sống với xác thân mình! Họ Vũ khẽ rên lên, lăn lộn cố ghì chặt lấy các sợi dây thiêng liêng kia những mong sao Thần Chết không
thể mang mình theo đi vào kiếp khác.
Lúc bấy giờ họ Vũ không còn chịu nổi với sự đau đớn mà ông ta có cảm giác như bị một bàn tay sắt bóp lấy tim mình. Các đường dây thần kinh cùng một lúc giật mạnh lên khiến đôi chân ông co rúm lại. Đôi môi ông mở rộng ra bày cả hai hàm răng đầy cả nhựa á phiện chen lẫn với bợn của thức ăn trắng hếu.
Tôi ngồi yên lặng lắng nghe và hình dung cảnh viên quan này đang lăn lộn trên giường bệnh theo lời Minh Sư thuật lại:
"...Hôm ấy... trời bắt đầu từ từ tối hẳn. Chiếc đèn bóng nhỏ trong phòng ông đã được thắp sáng lên tự bao giờ. Đàn dơi bắt đầu xuất hiện lao thẳng vào các bờ tường hoen rỉ tạo thành những âm thanh vang lên chát chúa...
Tiếng muỗi bay vo ve trong bóng đêm dày đặc. Tiếng côn trùng rên rỉ từ các lùm cây ven cạnh cống rãnh hay bờ ao đâu đó. Tiếng chim cú rúc từng tiếng một từ một ngôi nhà đối diện với căn phòng viên quan họ Vũ, vẳng vọng đến như một điệp khúc trầm buồn.
Hơi thở của viên quan họ Vũ yếu dần. Mặt mày ông xanh mét. Đôi mắt trũng sâu xuống hoàn toàn thất thần, đục hẳn trông như hai miếng ván sữa đóng khớp vào. Lúc bấy giờ mồm ông bắt đầu phải há hốc ra để thở.
Tất cả các danh y đều được vời đến. Nhưng họ hoàn toàn bất lực trước nanh vuốt của tử thần. Thế rồi vợ con ông, gia nhân ông, đều bật lên khóc nức nở. Tiếng khóc càng lúc càng lớn dần lên. Chẳng ai còn có thể can ngăn nữa.
Và các lương y những kẻ bàng quan sững sờ khi nhìn thấy vành môi trên của họ Vũ bỗng giật xách lên báo hiệu cho sự ra đi vĩnh viễn giã từ nhân thế. Thế là ông từ giã tất cả: vợ con, danh vọng cao sang, tiền rừng bạc biển. Những cái gì ông gia công tạo dựng đều để lại cho thế gian mà chỉ mang theo vỏn vẹn với hai bàn tay trắng.
Nói đến đây, Minh Sư ngưng lại trong giây lát, quan sát mức độ theo dõi của tôi về câu chuyện người đang nói. Người gục gặc đầu tỏ vẻ bằng lòng, đoạn tiếp tục kể:
- " Xác viên quan họ Vũ nằm cứng đơ trên nệm. Tuy đã chết, nhưng đôi mắt ông vẫn còn mở ra thao láo. Có lẽ ông ta như còn đang nuối tiếc cuộc đời vàng son của mình.
Lúc bấy giờ nếu người có Thiên Nhãn Thông ắt sẽ nhìn thấy một làn hơi mỏng màu xanh nhạt bao quanh xác chết từ từ bay lên dính liền với sợi ánh sáng chập chờn như hình bóng của ma trơi.
- Lỗ San! Minh Sư bỗng quay sang nhìn tôi gọi Sợi ánh sáng màu xanh đó được gọi là "Ngân Tuyến" hay "Ngân Quang" mà ta đã giảng giải cho chú nghe rồi. Lúc đầu sợi ánh sáng đó trông như cả một màn sương dày đặc, nhưng nó từ từ mỏng dần ra để rồi cuối cùng tan biến mất....
Nói đến đây, Người lại rót thêm trà vào chiếc chung bạc uống cho thấm giọng rồi kể tiếp:
- " Chắc chú muốn biết hồn họ Vũ đi đâu trong giờ phút lâm chung này phải không?
- Thưa Minh Sư quả như vậy. Con muốn biết theo trí tò mò là liệu ông ấy sẽ được đi vào cảnh giới nào?
- Hồn ông ta bềnh bồng trôi giữa khoảng không trung, xuyên qua nhiều cảnh giới khác nhau, và cuối cùng hồn ông tấp vào một tòa nhà rộng lớn khác thường. Đó là một lâu đài tráng lệ uy nghi, đến đây, dường như có một uy lực nào đưa ông đến một sảnh đường ánh lên như mặt thủy tinh.
- Đẹp. Đúng là đẹp không thể nào diễn đạt được.
Thầy tôi và cả tôi như cảm thấy chính mắt mình được nhìn cảnh tượng tuyệt vời như vậy.
- Chú nên hiểu rằng các linh hồn nếu ở trên cảnh giới của họ thì họ cũng "đông đặc" lại tợ xác thân mình ở cảnh giới mà chúng ta đang ở đây.
Có điều, chú đừng nghĩ một khi linh hồn giã từ cái xác thân mục nát để trở về với thế giới siêu nhiên hoàn toàn được phóng khoáng tự do, tự tại! Không.
Tuyệt đối không phải như vậy. Một linh hồn ở trong cảnh giới của linh hồn cũng bị hạn chế trước những chướng ngại cản ngăn lại, như các bức tường của ta đang hiện hữu.
#5
Gửi vào 06/06/2011 - 21:38
CÂU CHUYỆN LUÂN HỒI
Chẳng những vậy mà họ cũng đi đứng theo điều kiện, phương cách như chúng ta ngay trên sàn nhà, trên đường đi của cảnh giới đó. Tuy nhiên, đối với ta họ thông minh hơn nhiều, họ có lắm khả năng và sức hiểu biết thật siêu phàm.
Suýt nữa ta quên khuấy mất đàn cừu của ta rồi. Bây giờ chúng ta hãy trở lại với linh hồn ông quan họ Vũ. Hồn ông ta tiếp tục đi quanh quẩn nơi cảnh giới này và cuối cùng tiến vào một căn phòng nhỏ. Nơi đây họ Vũ bỗng nghe văng vẳng bên tai một giọng thật ấm cúng nhẹ nhàng:
- "Hãy ngồi xuống! Và hướng mắt nhìn về phía trước."
Ngay đó hồn họ Vũ vâng lời ngồi lên chiếc ghế được làm bằng loại ngọc bích ánh lên những tia sáng cực kỳ rực rỡ hệt như mầu hổ phách. Điều đầu tiên làm cho hồn họ Vũ ngạc nhiên không ít, đó là bức tường phía trước mặt bỗng dưng tan biến mất .
Thay vào đó là những hình ảnh quen thuộc diễn tiến theo từng giai đoạn ghi lại thật rõ ràng mọi hành động của họ Vũ trong quá khứ chẳng khác nào như cả một cuốn phim dài được thu gọn lại. Cuộn phim đó là A Lại Da Tàng Thức (Akashic Record) theo như Kinh điển đã nói.
Bất cứ ai ở cõi trần này khi lìa bỏ thế gian đi sang cảnh giới khác cũng đều được xem lại hình ảnh của hành động mình trong lúc sinh tiền để kiểm điểm những thành công và thất bại, những ơn phước và tội lỗi, rồi tự mình phán xét lấy.
Nhìn thấy tôi mở rộng mắt ra trừng trừng nhìn, Minh Sư đưa tay ra dấu:
- Đừng ngạc nhiên Lỗ San! Nơi đó chẳng có ai là phán quan xử án cả mà chính mình tự xử lấy mình.
Chúng ta không phải run rẩy, kêu gào, chối bỏ để cố chạy tội trước gương mặt sắt đá, đen sì hắc ám của một vị thần ở cõi âm hoặc đứng trước ông thánh mặt đỏ rực tợ son tàu đăm đăm phóng mắt cơ hồ như xoi thủng cả tâm can mình.
Không! Linh hồn chúng ta lúc bấy giờ vẫn bình tĩnh ngồi xem lại tất cả những gì đã hành động từ điều thiện đến điều ác, rồi tự kết án lấy mình không bằng lý trí mà bằng lương tâm của chính mình!
Tôi cảm thấy mặt mày tôi đỏ rực lên như người say men rượu mạnh. Tôi lặng lẽ lắng tai nghe một cách say sưa như thả hồn vào thế giới mung lung huyền diệu.
- Thế rồi
Thầy tôi nói tiếp.
- Hồn của viên quan hồi hưu Vũ Xương sững sờ nhìn lại tất cả việc làm của mình trong suốt cuộc đời khi còn tại thế. Ông tự cho là rất khả quan mặc dù cũng có lắm sự việc làm cho ông ta ăn năn, hối hận. Mãi không biết phải bao lâu song cũng chẳng phải là chỉ trong thời gian ngắn ngủi, cuộn phim " A Lại Da Tàng Thức" đó chấm dứt sau đó.
Hồn họ Vũ từ từ đứng dậy rời khỏi căn phòng bé nhỏ đó rảo bước đến một căn phòng rộng lớn hơn ngay nơi đại sảnh. Tại đây, hồn họ Vũ nhìn thấy một đám đông linh hồn cả nam lẫn nữ đang đứng sẵn chờ đợi.
Họ đứng theo hình vòng cung, gương mặt người nào cũng rực sáng cả lên trông có vẻ thông cảm và tràn ngập cả tình thương. Họ yên lặng đợi hồn họ Vũ tiến đến và sẵn sàng chỉ dẫn mọi điều mà linh hồn này cần biết.
Tại đây hồn họ Vũ thành khẩn trình bày cho mọi linh hồn khác biết những lỗi lầm mình phạm phải. Chẳng những vậy, họ Vũ còn mang ra thuật lại tất cả tư tưởng đen tối của mình dự định có những hành động bất nhân sắp hành động hoặc đã hành động mà bị thất bại khi còn sống ở thế gian.
Tôi bỗng ngắt ngang lời của Minh Sư:
- Thưa Minh Sư! Lúc nãy Minh Sư bảo rằng tự xử lấy mình kia mà!
- Đúng vậy! Thầy tôi đáp. Linh hồn đã nhìn thấy lỗi lầm trong quá khứ của cuộc đời khi còn sống! Nay đã đi về cảnh giới khác, linh hồn đó cần phải tham khảo ý kiến với các "linh hồn cố vấn" để được nhận lấy những lời khuyên bảo. Nhưng Lỗ San! Nhớ đừng ngắt ngang lời ta vội. Hãy lắng nghe lấy lời nói của ta.
Tôi ngoan ngoãn vâng theo ngồi yên lặng và cảm thấy đầu hơi choáng váng như thể ngấm mùi men rượu.
- Linh hồn ông Vũ cũng chẳng khác nào như những linh hồn khác, trình bày thật rõ ràng những lỗi lầm cũng như đức tính của mình để mong được đến một cảnh giới nào cao hơn. Sau đó ông Vũ được quay trở về trần thế để nhìn lại cái xác thân bất động của mình trước khi được thân nhân mang đi chôn cất.
Lúc bấy giờ mới bắt đầu có sự chia cắt vĩnh viễn giữa linh hồn và xác thân bằng những nắm đất tiễn đưa cuối cùng của các thân nhân, cũng như của đám bạn bè thân hữu!
Và cũng kể từ giờ phút đó cái "Hồn Thiêng" này không còn thuộc về người họ Vũ nữa, mà là một trong trong hằng hà sa số các linh hồn đang sẵn sàng đi vào chốn nghỉ ngơi nơi cảnh giới thanh bình.
Nơi đó các linh hồn đã thoát xác này được thảnh thơi an nghỉ để học hỏi và ôn lại tất cả những hành động của mình trong các tiền kiếp để rồi một thời gian ngắn hay dài tùy theo quả phúc sẽ được đưa đi đầu thai vào kiếp khác.
- Thưa Minh Sư phải chăng đó là Luân Hồi?
- Đúng vậy. Hẳn Lỗ San cũng biết "Luân Hồi" là một sự công bằng tuyệt đối. Tuy nhiên với tri thức và kiến thức của con người không mấy ai thông suốt được những "bí hiểm" của đời người.
Sự bất công, chênh lệch, bất bình đẳng giữa con người và con người ở thế gian đã làm cho ta lắm lúc bối rối và nghi ngờ sự công bằng của Tạo hóa.
Thật vậy, nếu chúng ta chịu khó quan sát cuộc đời hiện hữu ở thế gian này ắt sẽ thấy có một sự bất công rất lớn, một sự bất bình đẳng và chênh lệch về cán cân sức khỏe và thể xác giữa con người với con người nhân thế.
Có những đứa trẻ sinh ra trên nhung lụa với một sức khỏe sung mãn, nơi đó chúng được trông nom săn sóc và có đầy đủ mọi nhu cầu cần thiết để bảo đảm một đời sống ấm êm, hạnh phúc.
Ngược lại, có hàng triệu đứa bé sơ sinh vừa ra đời đã phải hứng chịu ngay những điều kiện khó khăn khổ sở. Chúng, những đứa trẻ khốn nạn đó vô cùng ươn yếu.
Có những đứa vừa mới sinh ra đã bị đui mù, câm điếc sống trong các gia đình phạm đầy tội ác, chui rúc trong những căn nhà ổ chuột hoặc sống dưới gầm cầu, đường cống, vỉa hè, xó chợ..
Lớn lên sẽ trở thành những đứa trẻ bụi đời lang thang đây đó, bữa đói bữa no, không lấy một chút tình thương từ bất cứ một kẻ nào.
Nói đến đây,Thầy tôi trầm ngâm trong giây lát rồi nhìn tôi hỏi :
- Lỗ San! Chú có biết những đứa trẻ khốn khổ này lớn lên chúng sẽ như thế nào không? Phải chăng, các sản phẩm đau thương, thiếu thốn mọi mặt đó đã cấu tạo chúng trở thành những kẻ tội phạm làm băng hoại xã hội, hoen ố đạo đức, và cuối cùng chúng sẽ trở thành là những kẻ sát nhân, lúc nào cũng lặn ngụp trong vũng lầy tội ác!
Chẳng hiểu tại sao Thượng Đế lại dung túng bao nhiêu sự bất công đến độ tàn nhẫn như vậy? Những nỗi bất công đó, không phải mới xảy ra hôm qua hay hôm nay mà đã có tự ngàn xưa và tiếp nối liên tục từ đời này sang đời khác không bao giờ chấm dứt!
Chắc chú cũng không khỏi thắc mắc lắm kẻ độc ác, bất nhân lại được giàu có cao sang, quyền cao chức trọng, còn những người được xem là hiền từ đức độ thì lại lâm cảnh lầm than đau khổ triền miên tưởng chừng như bất tận.
Nói vậy, thì chẳng hóa ra Tạo Hóa quả là bất công và độc ác lắm ru?!
- Không! Ta quyết không thể nói như vậy. Nền minh triết cổ truyền cho ta thấy rằng có một sự công bằng thiêng liêng bao trùm khắp cả thế gian này.
Tạo hóa sinh ra con người thật ra có một "mục đích" và "ý nghĩa" của nó. Mặc dù mới nhìn thấy ở bên ngoài thì tưởng chừng như có sự bất công, nhưng thật ra nó có một sự công bằng tuyệt đối được bảo đảm cho nhân loại theo đúng định luật "Nhân Quả".
Mục đích của đời người là sự tiến hóa của Linh Hồn tôi luyện để tìm đến một mức độ Toàn Thiện và Toàn Mỹ. Chính đó là con đường giải thoát của toàn thể nhân loại. Thật vậy, trong một tương lai gần không xa xôi mấy tất cả mọi người đều đạt được mục đích đó tùy theo công phu khổ hạnh của mình.
Giáo lý Huyền Môn đã cho ta thấy muốn có một sự phát triển toàn vẹn phải rập ràng, đồng nhất từ mặt Thề Chất, Trí Tuệ đến Tâm Linh mới mong có được một Cõi Giới vui tươi, an lành đời đời kiếp kiếp, còn không thì luôn luôn phải chịu kiếp luân hồi chạy theo những biến động chập chùng đầy đau khổ giữa cõi thế gian đầy ô trọc này.
Cái xã hội vật chất có một quyền năng đầy ma lực quyến rũ con người và có thể nói mọi người đã thất bại ngay từ cái "kiếp ban đầu" bởi các bả vinh hoa phú quí cùng với các dục vọng tầm thường mê hoặc.
Cái đau khổ tủi nhục bây giờ là hậu quả của các tiền kiếp. Bới vậy với định luật "Luân Hồi" ta không thể trách cứ oán hờn là sao kẻ hiền thường gặp nạn, còn kẻ ác lại giàu sang, cao cả!
- Thưa Minh Sư! Tôi hỏi. Nói như vậy chẳng lẽ con người phải trải qua nhiều kiếp hay sao?
- Đúng vậy! Nó liên tục từ kiếp này đến kiếp khác. Mỗi kiếp con người được thử thách để tiến hóa. Càng tiến hóa càng đạt đến mục đích cao hơn và sau nhiều kiếp như vậy con người có thể đạt đến được Toàn Chân và Toàn Thiện.
Cứ qua một kiếp thì Linh Hồn có thể tạm thời dừng chân lại để nghỉ ngơi trong một cảnh giới thanh bình. Chính chỗ dừng chân này "linh hồn" sẽ kiểm điểm lại tất cả mọi hành vi của mình trong các tiền kiếp, lâu hay mau để đi đầu thai và đầu thai nơi nào, trường hợp nào, hoàn cảnh nào thì tùy theo quả phúc của mình.
Minh Sư nhìn tôi cười. Ngài tỏ ra thật vui vẻ trước sự chú tâm của tôi, rồi kể tiếp:
- Vào một thời gian nào đó "Hồn" sẽ được đi đầu thai do một vị "Linh Thần" cai quản điều động trở lại dương gian. Các linh hồn đi vào dương thế, con người trần mắt thịt không thể nào nhìn thấy được, bởi họ là những kẻ vô hình.
Linh Thần sẽ đưa hồn nào đó đến một nơi đã được dự định trước và ai trên dương thế sẽ là cha mẹ tương lai của "Hồn"
Hoàn cảnh và điều kiện nào để cho Anh Linh đó tiếp tục đi vào môi trường thử thách? "Hồn" sẽ được vị Linh Thần đặt để ở một vị trí nào đó sẵn sàng chờ đợi thời gian do định mệnh an bài để nhập vào cái bào thai đã được ấn định!
Tất nhiên, như Lỗ San đã biết phần Hồn trước kia trong xác thân họ Vũ nay đi vào trong một xác thân khác, não bộ khác, xương cốt khác hoàn toàn xa lạ.
Sau chín tháng mười ngày, bào thai được ra đời... Đứa trẻ sơ sinh này mang tên Lê Hoàng, con của một nhà chài lưới nghèo nàn tại một ngôi làng nhỏ bé thuộc một vùng bể Trung Hoa.
Trước kia anh linh của họ họ Vũ đang ở mức độ cao, có một đời sống đầy quyền uy, giàu có, nay phải hạ xuống mức âm tầng thấp, nghèo nàn đau khổ hợp với hoàn cảnh và xác thân mới do sự công bằng tuyệt đối mà chính mình tự gán lấy cho mình!
Bất giác tôi đâm ra suy nghĩ trước câu chuyện của viên quan hồi hưu họ Vũ mà Minh Sư tôi vừa kể. Tôi liền nêu ra những thắc mắc để xin thầy tôi giải thích:
- Thưa Minh Sư, nếu như vậy thì làm sao mà con người cứ sợ chết? Theo Minh Sư giảng giải thì "Chết" chỉ có nghĩa là trút đi gánh nặng khó khăn ở cõi đời đầy đau khổ này mà thôi...
- Lỗ San! Chú có lý, thầy tôi đáp. Câu hỏi của chú thật có ý nghĩa. Nhưng nếu chúng ta cứ nhớ mãi hình ảnh của cảnh giới an nhàn nơi Cực Lạc thì chắc chắn chúng ta không thể nào chịu đựng nổi những phiền não ở cõi tạm này!
Do lẽ đó khi mọi linh hồn được phép trở lại với cuộc sống tạm bợ này, sẽ phải trải qua những biện pháp cần thiết, làm cho quên tất cả những gì thuộc về tiền kiếp của mình.
Do đó chúng ta mới khiếp sợ trước cái chết, lo âu cái xác thân nặng màu ô trọc này phải bị mất mát đi, bị tiêu diệt đi.
Đến đây Minh Sư mỉm cười nhìn tôi đoạn nói tiếp:
- Cũng chẳng phải ít người không thích đến trường, e ngại trước mọi kỷ luật cần thiết của nhà trường đưa ra, nhưng đến giai đoạn nào đó khi đã khôn lớn mới cảm thấy "trường học" quả vô cùng ích lợi.
Chúng ta nếu không chịu học hỏi thì làm sao hiểu được mọi việc trên đời? Hơn nữa, con người lại càng không nên hủy hoại đời mình trong thời gian mà mình đã được ủy thác để sống.
Tôi bất chợt nghĩ đến trường hợp một nhà sư tự vẫn cách đây không bao lâu. Đây là ông sư áo vàng mù chữ và hay ươn yếu đứng từ trên mấy trượng cao nhảy xuống mũi đá nhọn bên dưới để tự vận. Nhà sư này vốn có bản chất hay cáu kỉnh, chẳng muốn gần gũi ai và cũng chẳng thích ai quan tâm, giúp đỡ mình.
Thế cũng tốt! Tốt cho riêng ông ta và nó cũng vừa tốt cho tất cả mọi người. Tôi không bao giờ quên tên của ông ta. Cái tên đúng với vóc dáng mập tròn, lại có hàng lông mi dài phủ xuống tận mí mắt. Đó là cái tên "Phệ Mi". Nghĩ đến đây tôi liền cất tiếng hỏi Minh Sư:
- Cứ theo lời Minh Sư nói thì trường hợp tự vẫn của nhà sư "Phệ Mi" để kết thúc cuộc đời mình là kẻ có trọng tội ?
- Đúng! Lỗ San! Lỗ San không sai. Đó là một trọng tội!
Thầy tôi nhấn mạnh như vậy. Bất cứ là ai, đàn ông hay đàn bà, khi sinh ra đời đều được ủy thác cho một khoảng thời gian sống ở cõi dương trần này. Nếu những kẻ trốn tránh nợ trần để được vơi đi nỗi thống khổ mà mình phải gánh lấy, thì họ phải tức khắc trở lại ngay để làm cho tròn nhiệm vụ của mình được ủy thác trước đó.
Vì vậy mới có cảnh những đứa trẻ sơ sinh được vài ba tháng hoặc vài ba năm lại phải ra đi. Đó là những xác thân mang "hồn" của những kẻ đã tự vẫn chạy trốn trách nhiệm của mình phải trở lại dương thể để hoàn tất nhiệm vụ theo thời gian được ấn định.
- Chú nên nhớ rằng tự hủy hoại lấy xác thân là phạm vào một trọng tội đối với "Linh Hồn", và luôn cả đối với "Thể Phách" của chính mình.
- Thưa thầy! Tôi hỏi. Thế thì những người tự mổ bụng tìm lấy cái chết như người Nhật chẳng hạn để giữ lấy danh dự và khí tiết cho gia đình, cho Tổ quốc, có phải là can đảm và vô tội đối với phần thiêng liêng không?
- Không! Can đảm là phải chấp nhận sống trong thử thách, trong đau khổ. Tự tử là hèn nhát, là chạy trốn trách nhiệm. Biết chịu đựng nỗi khổ tâm mới thật sự là can đảm. Những kẻ không biết sợ hãi chỉ là hạng người vô trách nhiệm.
- Thưa thầy, con chưa hiểu cái nghĩa của sự sợ hãi. Vậy sự "sợ hãi" mà thầy vừa giảng giải nó có mục đích gì? Làm sao chúng ta cứ mãi mãi sợ hãi để phải luôn luôn đau khổ?
Minh nhìn Sư tôi mỉm cười trả lời:
- Việc đó sẽ đến với tất cả mọi người, trong đó dĩ nhiên có cả chúng ta. Chúng ta sợ điều chúng ta không biết. Đó là chúng ta sợ thế giới vô hình. Lỗ San nên biết rằng "sợ hãi là điều cần thiết".
Sự sợ hãi thúc đẩy chúng ta, giúp cho chúng ta thêm được năng lực hầu tránh những tai ương, khuyến khích và giúp chúng ta khắc phục những khó khăn và hoàn thành nhiệm vụ ở trên cõi thế này.
- Minh Sư tôi vừa dứt lời thì cũng là lúc bên ngoài các nhà sư lục tục kéo đến. Các chú tiểu lăng xăng châm dầu, thắp nhang trên các bàn thờ. Thầy tôi và tôi cùng đứng dậy bước ra sân chùa. Lúc bấy mặt trời đã xế bóng.
Gió chiều phe phẩy trên mấy cành dương liễu trước sân. Tiếng kèn đồng từ ngọn Phổ Đà La (Potala) vọng lại quanh bốn bức tường gạch đỏ bao quanh ngôi Tịnh Xá, nơi được đặc biệt dành riêng cho Đức Lạt Ma Tiên Tri của quốc gia tu luyện.
Bóng hoàng hôn từ từ buông xuống. Vầng Ô tắt hẳn. Trên nền trời cao một màu xanh thẳm. Lơ thơ dăm ba vì sao xuất hiện. Cả không gian như nhuộm toàn một màu huyền diệu, thỉnh thoáng một vài tia chớp yếu ớt lóe lên và xa xa như có tiếng cầu kinh vang vọng đến.
Chẳng những vậy mà họ cũng đi đứng theo điều kiện, phương cách như chúng ta ngay trên sàn nhà, trên đường đi của cảnh giới đó. Tuy nhiên, đối với ta họ thông minh hơn nhiều, họ có lắm khả năng và sức hiểu biết thật siêu phàm.
Suýt nữa ta quên khuấy mất đàn cừu của ta rồi. Bây giờ chúng ta hãy trở lại với linh hồn ông quan họ Vũ. Hồn ông ta tiếp tục đi quanh quẩn nơi cảnh giới này và cuối cùng tiến vào một căn phòng nhỏ. Nơi đây họ Vũ bỗng nghe văng vẳng bên tai một giọng thật ấm cúng nhẹ nhàng:
- "Hãy ngồi xuống! Và hướng mắt nhìn về phía trước."
Ngay đó hồn họ Vũ vâng lời ngồi lên chiếc ghế được làm bằng loại ngọc bích ánh lên những tia sáng cực kỳ rực rỡ hệt như mầu hổ phách. Điều đầu tiên làm cho hồn họ Vũ ngạc nhiên không ít, đó là bức tường phía trước mặt bỗng dưng tan biến mất .
Thay vào đó là những hình ảnh quen thuộc diễn tiến theo từng giai đoạn ghi lại thật rõ ràng mọi hành động của họ Vũ trong quá khứ chẳng khác nào như cả một cuốn phim dài được thu gọn lại. Cuộn phim đó là A Lại Da Tàng Thức (Akashic Record) theo như Kinh điển đã nói.
Bất cứ ai ở cõi trần này khi lìa bỏ thế gian đi sang cảnh giới khác cũng đều được xem lại hình ảnh của hành động mình trong lúc sinh tiền để kiểm điểm những thành công và thất bại, những ơn phước và tội lỗi, rồi tự mình phán xét lấy.
Nhìn thấy tôi mở rộng mắt ra trừng trừng nhìn, Minh Sư đưa tay ra dấu:
- Đừng ngạc nhiên Lỗ San! Nơi đó chẳng có ai là phán quan xử án cả mà chính mình tự xử lấy mình.
Chúng ta không phải run rẩy, kêu gào, chối bỏ để cố chạy tội trước gương mặt sắt đá, đen sì hắc ám của một vị thần ở cõi âm hoặc đứng trước ông thánh mặt đỏ rực tợ son tàu đăm đăm phóng mắt cơ hồ như xoi thủng cả tâm can mình.
Không! Linh hồn chúng ta lúc bấy giờ vẫn bình tĩnh ngồi xem lại tất cả những gì đã hành động từ điều thiện đến điều ác, rồi tự kết án lấy mình không bằng lý trí mà bằng lương tâm của chính mình!
Tôi cảm thấy mặt mày tôi đỏ rực lên như người say men rượu mạnh. Tôi lặng lẽ lắng tai nghe một cách say sưa như thả hồn vào thế giới mung lung huyền diệu.
- Thế rồi
Thầy tôi nói tiếp.
- Hồn của viên quan hồi hưu Vũ Xương sững sờ nhìn lại tất cả việc làm của mình trong suốt cuộc đời khi còn tại thế. Ông tự cho là rất khả quan mặc dù cũng có lắm sự việc làm cho ông ta ăn năn, hối hận. Mãi không biết phải bao lâu song cũng chẳng phải là chỉ trong thời gian ngắn ngủi, cuộn phim " A Lại Da Tàng Thức" đó chấm dứt sau đó.
Hồn họ Vũ từ từ đứng dậy rời khỏi căn phòng bé nhỏ đó rảo bước đến một căn phòng rộng lớn hơn ngay nơi đại sảnh. Tại đây, hồn họ Vũ nhìn thấy một đám đông linh hồn cả nam lẫn nữ đang đứng sẵn chờ đợi.
Họ đứng theo hình vòng cung, gương mặt người nào cũng rực sáng cả lên trông có vẻ thông cảm và tràn ngập cả tình thương. Họ yên lặng đợi hồn họ Vũ tiến đến và sẵn sàng chỉ dẫn mọi điều mà linh hồn này cần biết.
Tại đây hồn họ Vũ thành khẩn trình bày cho mọi linh hồn khác biết những lỗi lầm mình phạm phải. Chẳng những vậy, họ Vũ còn mang ra thuật lại tất cả tư tưởng đen tối của mình dự định có những hành động bất nhân sắp hành động hoặc đã hành động mà bị thất bại khi còn sống ở thế gian.
Tôi bỗng ngắt ngang lời của Minh Sư:
- Thưa Minh Sư! Lúc nãy Minh Sư bảo rằng tự xử lấy mình kia mà!
- Đúng vậy! Thầy tôi đáp. Linh hồn đã nhìn thấy lỗi lầm trong quá khứ của cuộc đời khi còn sống! Nay đã đi về cảnh giới khác, linh hồn đó cần phải tham khảo ý kiến với các "linh hồn cố vấn" để được nhận lấy những lời khuyên bảo. Nhưng Lỗ San! Nhớ đừng ngắt ngang lời ta vội. Hãy lắng nghe lấy lời nói của ta.
Tôi ngoan ngoãn vâng theo ngồi yên lặng và cảm thấy đầu hơi choáng váng như thể ngấm mùi men rượu.
- Linh hồn ông Vũ cũng chẳng khác nào như những linh hồn khác, trình bày thật rõ ràng những lỗi lầm cũng như đức tính của mình để mong được đến một cảnh giới nào cao hơn. Sau đó ông Vũ được quay trở về trần thế để nhìn lại cái xác thân bất động của mình trước khi được thân nhân mang đi chôn cất.
Lúc bấy giờ mới bắt đầu có sự chia cắt vĩnh viễn giữa linh hồn và xác thân bằng những nắm đất tiễn đưa cuối cùng của các thân nhân, cũng như của đám bạn bè thân hữu!
Và cũng kể từ giờ phút đó cái "Hồn Thiêng" này không còn thuộc về người họ Vũ nữa, mà là một trong trong hằng hà sa số các linh hồn đang sẵn sàng đi vào chốn nghỉ ngơi nơi cảnh giới thanh bình.
Nơi đó các linh hồn đã thoát xác này được thảnh thơi an nghỉ để học hỏi và ôn lại tất cả những hành động của mình trong các tiền kiếp để rồi một thời gian ngắn hay dài tùy theo quả phúc sẽ được đưa đi đầu thai vào kiếp khác.
- Thưa Minh Sư phải chăng đó là Luân Hồi?
- Đúng vậy. Hẳn Lỗ San cũng biết "Luân Hồi" là một sự công bằng tuyệt đối. Tuy nhiên với tri thức và kiến thức của con người không mấy ai thông suốt được những "bí hiểm" của đời người.
Sự bất công, chênh lệch, bất bình đẳng giữa con người và con người ở thế gian đã làm cho ta lắm lúc bối rối và nghi ngờ sự công bằng của Tạo hóa.
Thật vậy, nếu chúng ta chịu khó quan sát cuộc đời hiện hữu ở thế gian này ắt sẽ thấy có một sự bất công rất lớn, một sự bất bình đẳng và chênh lệch về cán cân sức khỏe và thể xác giữa con người với con người nhân thế.
Có những đứa trẻ sinh ra trên nhung lụa với một sức khỏe sung mãn, nơi đó chúng được trông nom săn sóc và có đầy đủ mọi nhu cầu cần thiết để bảo đảm một đời sống ấm êm, hạnh phúc.
Ngược lại, có hàng triệu đứa bé sơ sinh vừa ra đời đã phải hứng chịu ngay những điều kiện khó khăn khổ sở. Chúng, những đứa trẻ khốn nạn đó vô cùng ươn yếu.
Có những đứa vừa mới sinh ra đã bị đui mù, câm điếc sống trong các gia đình phạm đầy tội ác, chui rúc trong những căn nhà ổ chuột hoặc sống dưới gầm cầu, đường cống, vỉa hè, xó chợ..
Lớn lên sẽ trở thành những đứa trẻ bụi đời lang thang đây đó, bữa đói bữa no, không lấy một chút tình thương từ bất cứ một kẻ nào.
Nói đến đây,Thầy tôi trầm ngâm trong giây lát rồi nhìn tôi hỏi :
- Lỗ San! Chú có biết những đứa trẻ khốn khổ này lớn lên chúng sẽ như thế nào không? Phải chăng, các sản phẩm đau thương, thiếu thốn mọi mặt đó đã cấu tạo chúng trở thành những kẻ tội phạm làm băng hoại xã hội, hoen ố đạo đức, và cuối cùng chúng sẽ trở thành là những kẻ sát nhân, lúc nào cũng lặn ngụp trong vũng lầy tội ác!
Chẳng hiểu tại sao Thượng Đế lại dung túng bao nhiêu sự bất công đến độ tàn nhẫn như vậy? Những nỗi bất công đó, không phải mới xảy ra hôm qua hay hôm nay mà đã có tự ngàn xưa và tiếp nối liên tục từ đời này sang đời khác không bao giờ chấm dứt!
Chắc chú cũng không khỏi thắc mắc lắm kẻ độc ác, bất nhân lại được giàu có cao sang, quyền cao chức trọng, còn những người được xem là hiền từ đức độ thì lại lâm cảnh lầm than đau khổ triền miên tưởng chừng như bất tận.
Nói vậy, thì chẳng hóa ra Tạo Hóa quả là bất công và độc ác lắm ru?!
- Không! Ta quyết không thể nói như vậy. Nền minh triết cổ truyền cho ta thấy rằng có một sự công bằng thiêng liêng bao trùm khắp cả thế gian này.
Tạo hóa sinh ra con người thật ra có một "mục đích" và "ý nghĩa" của nó. Mặc dù mới nhìn thấy ở bên ngoài thì tưởng chừng như có sự bất công, nhưng thật ra nó có một sự công bằng tuyệt đối được bảo đảm cho nhân loại theo đúng định luật "Nhân Quả".
Mục đích của đời người là sự tiến hóa của Linh Hồn tôi luyện để tìm đến một mức độ Toàn Thiện và Toàn Mỹ. Chính đó là con đường giải thoát của toàn thể nhân loại. Thật vậy, trong một tương lai gần không xa xôi mấy tất cả mọi người đều đạt được mục đích đó tùy theo công phu khổ hạnh của mình.
Giáo lý Huyền Môn đã cho ta thấy muốn có một sự phát triển toàn vẹn phải rập ràng, đồng nhất từ mặt Thề Chất, Trí Tuệ đến Tâm Linh mới mong có được một Cõi Giới vui tươi, an lành đời đời kiếp kiếp, còn không thì luôn luôn phải chịu kiếp luân hồi chạy theo những biến động chập chùng đầy đau khổ giữa cõi thế gian đầy ô trọc này.
Cái xã hội vật chất có một quyền năng đầy ma lực quyến rũ con người và có thể nói mọi người đã thất bại ngay từ cái "kiếp ban đầu" bởi các bả vinh hoa phú quí cùng với các dục vọng tầm thường mê hoặc.
Cái đau khổ tủi nhục bây giờ là hậu quả của các tiền kiếp. Bới vậy với định luật "Luân Hồi" ta không thể trách cứ oán hờn là sao kẻ hiền thường gặp nạn, còn kẻ ác lại giàu sang, cao cả!
- Thưa Minh Sư! Tôi hỏi. Nói như vậy chẳng lẽ con người phải trải qua nhiều kiếp hay sao?
- Đúng vậy! Nó liên tục từ kiếp này đến kiếp khác. Mỗi kiếp con người được thử thách để tiến hóa. Càng tiến hóa càng đạt đến mục đích cao hơn và sau nhiều kiếp như vậy con người có thể đạt đến được Toàn Chân và Toàn Thiện.
Cứ qua một kiếp thì Linh Hồn có thể tạm thời dừng chân lại để nghỉ ngơi trong một cảnh giới thanh bình. Chính chỗ dừng chân này "linh hồn" sẽ kiểm điểm lại tất cả mọi hành vi của mình trong các tiền kiếp, lâu hay mau để đi đầu thai và đầu thai nơi nào, trường hợp nào, hoàn cảnh nào thì tùy theo quả phúc của mình.
Minh Sư nhìn tôi cười. Ngài tỏ ra thật vui vẻ trước sự chú tâm của tôi, rồi kể tiếp:
- Vào một thời gian nào đó "Hồn" sẽ được đi đầu thai do một vị "Linh Thần" cai quản điều động trở lại dương gian. Các linh hồn đi vào dương thế, con người trần mắt thịt không thể nào nhìn thấy được, bởi họ là những kẻ vô hình.
Linh Thần sẽ đưa hồn nào đó đến một nơi đã được dự định trước và ai trên dương thế sẽ là cha mẹ tương lai của "Hồn"
Hoàn cảnh và điều kiện nào để cho Anh Linh đó tiếp tục đi vào môi trường thử thách? "Hồn" sẽ được vị Linh Thần đặt để ở một vị trí nào đó sẵn sàng chờ đợi thời gian do định mệnh an bài để nhập vào cái bào thai đã được ấn định!
Tất nhiên, như Lỗ San đã biết phần Hồn trước kia trong xác thân họ Vũ nay đi vào trong một xác thân khác, não bộ khác, xương cốt khác hoàn toàn xa lạ.
Sau chín tháng mười ngày, bào thai được ra đời... Đứa trẻ sơ sinh này mang tên Lê Hoàng, con của một nhà chài lưới nghèo nàn tại một ngôi làng nhỏ bé thuộc một vùng bể Trung Hoa.
Trước kia anh linh của họ họ Vũ đang ở mức độ cao, có một đời sống đầy quyền uy, giàu có, nay phải hạ xuống mức âm tầng thấp, nghèo nàn đau khổ hợp với hoàn cảnh và xác thân mới do sự công bằng tuyệt đối mà chính mình tự gán lấy cho mình!
Bất giác tôi đâm ra suy nghĩ trước câu chuyện của viên quan hồi hưu họ Vũ mà Minh Sư tôi vừa kể. Tôi liền nêu ra những thắc mắc để xin thầy tôi giải thích:
- Thưa Minh Sư, nếu như vậy thì làm sao mà con người cứ sợ chết? Theo Minh Sư giảng giải thì "Chết" chỉ có nghĩa là trút đi gánh nặng khó khăn ở cõi đời đầy đau khổ này mà thôi...
- Lỗ San! Chú có lý, thầy tôi đáp. Câu hỏi của chú thật có ý nghĩa. Nhưng nếu chúng ta cứ nhớ mãi hình ảnh của cảnh giới an nhàn nơi Cực Lạc thì chắc chắn chúng ta không thể nào chịu đựng nổi những phiền não ở cõi tạm này!
Do lẽ đó khi mọi linh hồn được phép trở lại với cuộc sống tạm bợ này, sẽ phải trải qua những biện pháp cần thiết, làm cho quên tất cả những gì thuộc về tiền kiếp của mình.
Do đó chúng ta mới khiếp sợ trước cái chết, lo âu cái xác thân nặng màu ô trọc này phải bị mất mát đi, bị tiêu diệt đi.
Đến đây Minh Sư mỉm cười nhìn tôi đoạn nói tiếp:
- Cũng chẳng phải ít người không thích đến trường, e ngại trước mọi kỷ luật cần thiết của nhà trường đưa ra, nhưng đến giai đoạn nào đó khi đã khôn lớn mới cảm thấy "trường học" quả vô cùng ích lợi.
Chúng ta nếu không chịu học hỏi thì làm sao hiểu được mọi việc trên đời? Hơn nữa, con người lại càng không nên hủy hoại đời mình trong thời gian mà mình đã được ủy thác để sống.
Tôi bất chợt nghĩ đến trường hợp một nhà sư tự vẫn cách đây không bao lâu. Đây là ông sư áo vàng mù chữ và hay ươn yếu đứng từ trên mấy trượng cao nhảy xuống mũi đá nhọn bên dưới để tự vận. Nhà sư này vốn có bản chất hay cáu kỉnh, chẳng muốn gần gũi ai và cũng chẳng thích ai quan tâm, giúp đỡ mình.
Thế cũng tốt! Tốt cho riêng ông ta và nó cũng vừa tốt cho tất cả mọi người. Tôi không bao giờ quên tên của ông ta. Cái tên đúng với vóc dáng mập tròn, lại có hàng lông mi dài phủ xuống tận mí mắt. Đó là cái tên "Phệ Mi". Nghĩ đến đây tôi liền cất tiếng hỏi Minh Sư:
- Cứ theo lời Minh Sư nói thì trường hợp tự vẫn của nhà sư "Phệ Mi" để kết thúc cuộc đời mình là kẻ có trọng tội ?
- Đúng! Lỗ San! Lỗ San không sai. Đó là một trọng tội!
Thầy tôi nhấn mạnh như vậy. Bất cứ là ai, đàn ông hay đàn bà, khi sinh ra đời đều được ủy thác cho một khoảng thời gian sống ở cõi dương trần này. Nếu những kẻ trốn tránh nợ trần để được vơi đi nỗi thống khổ mà mình phải gánh lấy, thì họ phải tức khắc trở lại ngay để làm cho tròn nhiệm vụ của mình được ủy thác trước đó.
Vì vậy mới có cảnh những đứa trẻ sơ sinh được vài ba tháng hoặc vài ba năm lại phải ra đi. Đó là những xác thân mang "hồn" của những kẻ đã tự vẫn chạy trốn trách nhiệm của mình phải trở lại dương thể để hoàn tất nhiệm vụ theo thời gian được ấn định.
- Chú nên nhớ rằng tự hủy hoại lấy xác thân là phạm vào một trọng tội đối với "Linh Hồn", và luôn cả đối với "Thể Phách" của chính mình.
- Thưa thầy! Tôi hỏi. Thế thì những người tự mổ bụng tìm lấy cái chết như người Nhật chẳng hạn để giữ lấy danh dự và khí tiết cho gia đình, cho Tổ quốc, có phải là can đảm và vô tội đối với phần thiêng liêng không?
- Không! Can đảm là phải chấp nhận sống trong thử thách, trong đau khổ. Tự tử là hèn nhát, là chạy trốn trách nhiệm. Biết chịu đựng nỗi khổ tâm mới thật sự là can đảm. Những kẻ không biết sợ hãi chỉ là hạng người vô trách nhiệm.
- Thưa thầy, con chưa hiểu cái nghĩa của sự sợ hãi. Vậy sự "sợ hãi" mà thầy vừa giảng giải nó có mục đích gì? Làm sao chúng ta cứ mãi mãi sợ hãi để phải luôn luôn đau khổ?
Minh nhìn Sư tôi mỉm cười trả lời:
- Việc đó sẽ đến với tất cả mọi người, trong đó dĩ nhiên có cả chúng ta. Chúng ta sợ điều chúng ta không biết. Đó là chúng ta sợ thế giới vô hình. Lỗ San nên biết rằng "sợ hãi là điều cần thiết".
Sự sợ hãi thúc đẩy chúng ta, giúp cho chúng ta thêm được năng lực hầu tránh những tai ương, khuyến khích và giúp chúng ta khắc phục những khó khăn và hoàn thành nhiệm vụ ở trên cõi thế này.
- Minh Sư tôi vừa dứt lời thì cũng là lúc bên ngoài các nhà sư lục tục kéo đến. Các chú tiểu lăng xăng châm dầu, thắp nhang trên các bàn thờ. Thầy tôi và tôi cùng đứng dậy bước ra sân chùa. Lúc bấy mặt trời đã xế bóng.
Gió chiều phe phẩy trên mấy cành dương liễu trước sân. Tiếng kèn đồng từ ngọn Phổ Đà La (Potala) vọng lại quanh bốn bức tường gạch đỏ bao quanh ngôi Tịnh Xá, nơi được đặc biệt dành riêng cho Đức Lạt Ma Tiên Tri của quốc gia tu luyện.
Bóng hoàng hôn từ từ buông xuống. Vầng Ô tắt hẳn. Trên nền trời cao một màu xanh thẳm. Lơ thơ dăm ba vì sao xuất hiện. Cả không gian như nhuộm toàn một màu huyền diệu, thỉnh thoáng một vài tia chớp yếu ớt lóe lên và xa xa như có tiếng cầu kinh vang vọng đến.
#6
Gửi vào 06/06/2011 - 21:40
Thiền viện của đức Lạt Ma Tiên Tri không lớn không nhỏ, trông có vẻ gọn gàng và nằm ẩn phía bên trong rặng núi. Trước mặt thiền viện là cái sân lót toàn gạch màu trắng có vân xanh.
Các loại hoa rừng màu tím hoa sim hay màu hồng thắm mọc theo các đường viền kẻ chung quanh mép bờ tường. Tại đây không có bóng dáng các nhà sư trẻ mà đa phần những ông sư già lụ khụ hoặc các Đức Lạt Ma da mồi tóc bạc chống gậy trúc đi làm công quả.
Thật ra đây là nơi trung tâm của các Đức Lạt Ma chuyên về việc tiên đoán quốc sự, nghiên cứu các điềm được Thần linh ứng báo trước hoặc các dữ kiện thuộc về Thiên văn, để đưa ra những lời giải đoán có liên quan đến quốc gia đại sự.
Đây cũng không phải là chỗ cho các du khách ngoại quốc đến vãng cảnh, cũng không phải là chỗ nghỉ ngơi để mang ra bàn thảo những câu chuyện phiếm hoặc chạy ra chạy vào để kiếm sống qua ngày.
Ít ai dám bén mảng đến nơi đây, vì vậy những người hiện diện đều thuộc thiền viện hoặc được mời lại bàn thảo một vấn đề quan trọng nào đó. Chân sư tôi là một "vì" được xem là thượng khách của Thiền viện. Ngài muốn đến lúc nào thì đến, mà đi lúc nào thì đi.
Ngôi Thiền viện được bao quanh bởi những bức tường đá và còn có cả một hàng rào trồng toàn cây xanh tươi bốn mùa đơm hoa rực rỡ. Nhờ vậy mà chận đứng được sự tò mò dòm ngó của người ngoài lúc nào cũng muốn tìm hiểu những cái gì bí mật được ẩn tàng bên trong đó.
Thiền viện là một trong những ngôi đền lớn nhất của xứ sở Tây Tạng, luôn luôn có một số phòng được trang hoàng tươm tất dành riêng cho Đức Đạt Lai Lạt Ma vốn thường xuyên lui tới nghỉ ngơi hoặc dùng làm nơi mật đàm với các cố vấn tại Thông Thiên Đền.
Luật lệ của Thiền Viện thật nghiêm minh. Lúc nào cũng có vẻ yên lặng. Chẳng bao giờ có tiếng nói lớn hoặc tranh luận gây sự ồn ào làm mất cả vẻ tôn nghiệm. Bảo vệ khu Thiền Viện là một toán cảnh sát hộ pháp người Kham, thuộc giống to lớn, lực lưỡng nặng lối 250 cân Anh và cao không dưới hai thước công xích.
Vẻ mặt họ lúc nào cũng lạnh lùng, sắt đá. Nhất là đôi mắt họ như có hai luồng điện cực mạnh sẵn sàng phóng ra đốt cháy trước bất cứ đối tượng nào xâm nhập đến vùng cấm địa hoặc làm băng hoại kỷ luật nghiêm minh của nhà chùa.
Họ cũng được trang bị chiếc dùi cui đeo lủng lẳng bên thắt lưng. Gần như người nào trong giống dân này cũng có chiếc mũi quặp hệt cái mỏ con chim ó chấm đến bờ môi trên dày sấn và cũng đen sì như làn da của họ.
Đứng trước thân hình khổng lồ cùng bản mặt dữ dằn ấy cho dù kẻ gian có gan sắt dạ đồng cũng phải tỏ ra kiêng dè, nể sợ... Tôi cũng không lấy làm lạ tại sao chốn tu hành nghiêm chỉnh của xứ sở có Đức Phật Sống cai quản mà cũng phải cần đến các ông hộ pháp dị hợm này, chỉ bởi không phải tất cả những người mặc áo cà sa nằm trong cửa Phật đều lương thiện cả.
Xã hội của cửa Thiền nhiều khi cũng na ná như ngoài đời. Bề ngoài có lắm ông cũng mặc áo vàng, trông có vẻ tu hành đượm màu đạo hạnh nhưng thật ra đa phần cũng vướng phải nhiều tội lỗi, đi lang thang đây đó, trốn tránh nhiệm vụ làm công quả, vi phạm quy luật nhà Thiền. Bởi vậy phải nhờ đến sự tuần tra của các toán cảnh sát để chận đứng sự luông tuồng của các ông sư trắc nết này.
Hầu hết các ngôi tịnh xá đều có lối kiến trúc giống như kiểu cách ngoài đời. Tuy nhiên các ngôi nhà nơi đây không cao lắm và cũng chẳng bao giờ làm cầu thang bằng những thân cây ghép lại.
Lý do không thể làm như vậy vì ở nơi Thiền Viện gồm toàn người già yếu lụm cụm dễ dàng xảy ra sự nguy hiểm nếu rủi ro gặp phải bất trắc. Hành lang tại các Thiền Viện đều rộng rãi tiện bề đi lại. Công việc xây cất được tính toán cân nhắc cẩn thận trước.
Những gian phòng nơi tầng trệt dành cho các bô lão già yếu. Phòng riêng tư của Ngài Lạt Ma Tiên Tri cũng ngay ở tầng trệt và sát ngay cạnh đền Thiên Văn.
Để bảo vệ an ninh cho Ngài Lạt Ma Tiên Tri cùng các bô lão là đồn trại của Ban Chỉ Huy Đoàn Cảnh Sát người Kham...luôn luôn được canh phòng cẩn mật ngay sát cạnh bên những căn hộ của các bậc yếu nhân.
- Lỗ San! Chúng ta hãy đến yết kiến ngài Tiên Tri. Ngài có bảo với ta là rất lưu ý chú và sẽ dành nhiều thời giờ để cùng chú thảo luận.
Với tôi được mời đến hay có lệnh gọi đi trình diện ngài Lạt Ma Tiên Tri đều làm cho tôi lo lắng không ít. Tôi đã từng gặp các ông "thiên văn", các thầy "giải đoán" mấy lần trước đây, lần nào cũng đều gặp lắm điều phiền nhiễu bởi những sự việc bắt buộc tôi phải thực hiện không phải là dễ dàng gì.
Chắc chắn lần này cũng chẳng khác gì hơn mấy cuộc gặp gỡ trước là phải ăn vận cho lịch sự chỉnh tề, ngồi cho thật ngay ngắn, giữ cho thân thể không bị chuyển động.
Phải làm sao tự tạo cho mình thành một pho tượng gỗ bất động, để lắng tai nghe một ông sư già nua, chậm chạp nói lè nhè hàng chuỗi dài toàn những lời lẽ vô vị nghe muốn phát ngấy lên đến buồn ngủ! Tôi thầm nghĩ thà là bắt tôi đi làm công việc bằng tay chân còn hơn là phải ngồi hàng giờ nghe các ông sư già ấy giảng.
Liếc mắt thật nhanh nhìn "Nhà Tiên Tri Quốc Gia" bên trong Thiền Viện rồi đảo ngay mắt nhìn lại Minh Sư tôi với vẻ buồn và nghi ngờ không tin tưởng mấy. Nhà Tiên Tri mà tôi sắp phải đối diện hôm nay đó là Đức Lạt Ma Chân Sư.
Tuy Ngài còn ở cách xa tôi nhưng tôi vẫn trông thấy được Ngài hiền hòa, mặt mày tươi tắn, trên vành môi luôn luôn nở một nụ cười như đóa hoa hàm tiếu. Tư tưởng tôi bắt đầu giao động. Điều này Minh Sư tôi đã đọc được và truyền đạt cho tôi lời khuyến cáo bằng thần giao cách cảm:
- Hãy bình tĩnh và đừng nghi ngại. Lỗ San! Ngài Tiên Tri Lạt Ma không bao giờ đánh giá chú qua lớp quần áo tốt hay xấu mà Ngài đánh giá chú qua đức tính mà những kẻ khác không làm sao có được.
Chú nên nhớ rằng Ngài biết chú một cách sâu xa hơn là chính chú tự biết lấy mình. Tôi im lặng. Nỗi buồn xâm nhập vào tâm hồn tôi. Tôi tự hỏi: "Chẳng biết ta sẽ được nghe những gì từ Ngài Lạt Ma Tiên Tri ban phát đây?"
Không hiểu sao, Minh Sư tôi lại đưa tôi sang một hướng khác thay vì đến ngay nơi mà tôi thoáng nhìn thấy Ngài Tiên Tri Lạt Ma, vòng ra phía sau đến ngay một am nhỏ, đứng lại nơi này trong giây lát, và trên đôi môi rung động, hình như người đang nói với ai điều gì lí nhí trong miệng.
Tôi lại theo chân thầy tôi đi vòng sau cái am nhỏ rẽ sang một con đường khác và cuối cùng đến ngay trước Thiền Viện.
Xa xa là rặng núi lờ mờ được phủ bởi một làn mây mỏng nhẹ. Bước đi của tôi nặng trĩu như tuồng đeo theo những tảng đá bên dưới cổ chân. Tôi có cảm tưởng là mình đang bị đưa đến chốn cực hình.
Bỗng từ đầu xa xuất hiện ông cảnh sát khổng lồ có đôi lông mày hệt như hai đầu con sâu rộm châu nhau vắt ngang bên trên đôi mắt to tướng như thể lồi hẳn ra bên ngoài. Người cảnh sát khổng lồ này xăm xúi đi thẳng đến phía tôi, tiếng bước chân của ông làm rung động cả mặt đất.
Cũng may, khi trông thấy thầy tôi, người cảnh sát này vội buông cái dùi cui đen sì xuống để tòn ten nơi thắt lưng và cùng lúc trên đôi vành môi dày cộm của ông ta nở ra một nụ cười thật tươi, cúi rạp đầu theo cung cách của người Nhật :
- Xin kính chào Ngài Lạt Ma! Xin Ngài cho phép tôi được hân hạnh đưa Ngài đến văn phòng Ngài Quốc Gia Tiên Tri.
Không đợi thầy tôi gật đầu, người cảnh sát này tiến lên đưa chúng tôi đến ngay nơi có hai vị Lạt Ma đang đứng túc trực. Khi nhìn thấy chúng tôi cách lối 5 thước, hai vị Lạt Ma này đứng dạt sang hai bên và tức thì một trong hai vị Lạt Ma này cất tiếng :
- Kính chào quý Ngài. Đức Lạt Ma Tiên Tri đang nóng lòng trông đợi quí vị.
Vị Lạt Ma đối diện kia lên tiếng tiếp:
- Quả như vậy. Thưa Ngài Minh Dà Đông Đạt! Ngài Tiên Tri Quốc Gia đang nóng lòng chờ đợi.
Tức thì chúng tôi được đưa vào bên trong một căn phòng âm u. Tôi không trông thấy gì cả, chỉ lần theo bước chân của hai Lạt Ma này theo vào bên trong. Có thể vì từ chỗ sáng chúng tôi đột ngột đi vào chỗ tối nên không tránh khỏi trường hợp này.
Nhưng chỉ mất khoảng một thời gian ngắn mắt chúng tôi bắt đầu quen dần nên quan sát được toàn thể căn phòng này. Điều làm cho tôi thắc mắc là cả một căn phòng rộng lớn như thế này mà chẳng thấy có đồ vật gì bày biện bên trong cả.
Tôi quan sát từ đầu bờ tường này đến bờ tường kia chỉ thấy một khoảng trống trơn, không có bất cứ một vật nào ngoại trừ một vị Lạt Ma với thân hình mảnh mai ngồi bên trên chiếc nệm tròn màu vàng cổ đồng!
Bên cạnh Ngài Lạt Ma là một cái bàn tròn, bên trên đặt một cái lư đồng thắp sẵn nhang thơm đang cuồn cuộn bốc lên một làn khói cực mỏng, xanh lam tỏa ra mùi trầm hương thơm ngát. Nhìn người Lạt Ma trên nệm tôi không phải mất công suy nghĩ vì tôi đã được Minh Sư mách bảo trước khi bước vào nơi trang nghiêm này.
Đôi mắt Ngài hơi to như có luồng nhãn lực cực mạnh nhìn thẳng về phía tôi. Lúc bấy giờ tôi cảm thấy như bị hai luồng điện phóng đến cơ hồ xoi thủng cơ thể, nơi linh hồn tôi đang ngự trị.
Thầy tôi và tôi đến trước mặt Ngài cúi rạp mình xuống thi lễ đúng theo nghi thức cổ truyền. Sau khi lễ xong, chúng tôi đứng lên đợi lệnh. Qua giây phút im lặng, tôi bắt đầu lo sợ chẳng biết rồi chuyện gì sẽ xảy đến tiếp theo? Đang lo nghĩ như vậy thì vừa lúc Ngài Lạt Ma Tiên Tri cất tiếng nói:
- Chào Ngài Minh Dà Đông Đạt! Chào Lỗ San.
Giọng nói Ngài thật nhỏ nhẹ nhưng quái lạ thay âm thanh Ngài nghe như thể cao vút. Tôi có cảm tưởng như từ một chốn xa xăm nào đó vọng đến.
Thầy tôi tiến đến cạnh Ngài Lạt Ma Tiên Tri để bàn thảo một vấn đề quan trọng nào đó. Nhưng chỉ khoảng thời gian ngắn ngủi, Minh Sư tôi mới đứng lên cúi đầu chào một lần nữa rồi quay lại nhìn tôi trước khi rời khỏi phòng.
Lúc bấy giờ Ngài Tiên Tri mới đưa mắt nhìn tôi cất tiếng nói:
- Lỗ San! Hãy mang cái nệm đang dựng kia lại nơi bên cạnh ta.
Tôi vâng lời, ngoan ngoãn làm theo ý Ngài, mang cái nệm vuông dựng nơi góc tường đến đặt ngay trước mặt Ngài Tiên Tri đoạn ngồi xuống. Ngài chăm chú nhìn tôi. Nét mặt Ngài lộ vẻ suy tư. Ngài quan sát tôi thật tỉ mỉ, đoạn mỉm cười lên tiếng một cách ra vẻ thân mật :
- Thì ra chú là Thế Lai Lỗ San Lâm Bá! À! Bây giờ ta đã nhớ ra rồi
. Chúng mình đã quen biết nhau từ lâu. Phải! Thật lâu rồi! Trong một tiền kiếp xa xôi chúng mình là đôi bạn thâm giao cùng ăn một mâm, nằm một chiếu, cùng học một Ngài Lạt Ma. Ta thì nhớ rõ song với chú thì chưa thể nhận thức ngay trong giờ phút ngẫu nhiên này.
Nói đến đây, Ngài nhìn tôi bằng đôi mắt thật hiền từ, sau đó mới tiếp tục nói:
- Ta nhận được lệnh của Đức Lạt Ma Tối Cao phải có bổn phận nói cho chú rõ những trọng trách mà chú sẽ được giao phó cũng như những khó khăn chú cần phải khắc phục để chu toàn nhiệm vụ.
- Dạ, thưa Ngài Lạt Ma Tiên Tri! Tôi vội lên tiếng cắt ngang hỏi. Có lẽ con đã phạm phải tội lỗi trong nhiều tiền kiếp nên kiếp này phải gánh lấy nghiệp báo như Ngài vừa nói chăng?
Nếu vậy thì con sẵn sàng xin tuân phục để trả cái nghiệp quả của mình đã tạo ra.
- Không!
Ngài Tiên Tri đáp lại. Không phải vậy. Xưa nay mọi người hiểu lầm là nếu trong đời này ta gặp lắm khó khăn là do mình đã gây nên lắm điều tội lỗi từ nhiều kiếp trước.
Thật không gì nông cạn bằng nếu chú nghĩ rằng thỏi sắt mang nung trong một lò lửa nóng hừng hực kia chỉ vì nó có tội. Thật không có gì hài hước bằng! Người ta nung nó chỉ vì muốn nó trở thành một loại kim khí có phẩm chất cao hơn chứ đâu phải là một cực hình phạt vạ nó?
Nói đến đây Ngài ngưng lại chăm chú nhìn tôi đoạn tiếp:
- Minh Sư của chú sẽ nói rõ với chú điều này. Bổn phận và trách nhiệm của ta là cho chú biết về tương lai của chú.
Đến đây, Ngài lấy cái chuông bạc rung lên một hồi ngắn gọn, tức thì từ bên trong một người có lẽ túc trực sẵn từ hồi nào lặng lẽ bước ra. Người này là một nhà sư không có vẻ già lắm, mang ra cái bàn nhỏ đặt ngay trước mặt tôi.
Trên mặt bàn là một cái bát sứ bịt bạc sáng ngời và bên trong lòng bát là một cục than hồng đang rực đỏ. Nhà sư này khẽ cúi đầu thì thầm điều gì bên tai Ngài Lạt Ma Tiên Tri, đoạn đặt cái hộp quí được cẩn xa cừ tuyệt đẹp phía bên phải của chiếc bát sứ.
Tôi ngồi yên lặng, âm thầm đưa mắt theo dõi và phân vân chẳng hiểu tại vì sao những thứ đó đưa đến đây trước mặt tôi để làm gì? Không hiểu sao tôi linh cảm là mình sẽ phải đương đầu với những nỗi khó khăn trước mắt.
Về sau, mọi người đều tỏ ý tán thành về những gì cực nhọc đến với tôi bằng những lời lẽ khuyến cáo phải chu toàn nhiệm vụ, đó là một vinh dự vô vàn mà tôi đã được Bề Trên ban phát.
Ngài Tiên Tri từ từ nghiêng người về phía trước đưa tay mở cái nắp đang đậy kín trên chiếc hộp nằm cạnh cái bát sứ. Sau đó Ngài cầm cái thìa nhỏ bằng vàng múc ra một thứ bột màu nâu đoạn rắc lên chỗ cục than hồng.
Một làn khói xanh mờ nhạt tỏa ra cùng khắp cả căn phòng. Tự nhiên tôi cảm thấy đầu óc như quay cuồng, mắt mờ đi, lờ đờ như kẻ bị quáng gà.
Tôi bỗng nghe tiếng đại đồng chung từ một nơi xa xôi nào đó văng vẳng vọng lại. Tiếng rền rĩ của nó mỗi lúc một lớn thêm lên đến nỗi tôi phải bưng chặt lấy hai tai lại. Tôi có cảm tưởng nếu tình trạng này kéo dài thêm, chắc chắn đầu óc tôi sẽ bị nổ tung ra!
Trong lúc đó bất giác đôi mắt tôi sáng rực khi nhìn thấy chiếc cột khói xanh rờn như màu xanh da trời từ trong lòng bát bốc lên cao rồi uyển chuyển như một dải lụa từ tay của người vũ nữ đang múa lượn. Cùng lúc đó, một giọng nói nhỏ nhẹ của Ngài Tiên Tri văng vẳng bên tai tôi:
- Lỗ San ! Hãy nhìn cuộc đời của chú trên màn ảnh đó!
"Cuộc đời của tôi trên màn ảnh?" Tôi tự hỏi lấy mình. Tôi chăm chú nhìn thấy lượn khói trắng trong như một tấm vải trắng ngay trước mắt. Quả đúng như như Ngài Tiên Tri truyền đến. Đó là một cuộn phim sống động hiện lên thật rõ ràng.
Tôi thấy một quãng đời từ thuở bé thơ cho đến ngày khôn lớn, sống cạnh người cha lúc nào cũng mang vẻ mặt nghiêm khắc. Tất cả các hình ảnh hiện lên một cách thật sinh động.
Nhất là hình ảnh có một lần tôi đang ở trên mái chùa Xá Lợi bất thình lình có một tảng đá to tướng từ đỉnh Thiết Linh Sơn bị gió cuốn thổi ngay đến nơi tôi đang đứng. Tôi chỉ còn kịp rú lên nhắm nghiền mắt lại.
Tảng đá đó tông đến vào thân thể tôi như trời long đất lở, đẩy tôi rơi ngay xuống chân núi; tôi đinh ninh là mình khó lòng tránh được khỏi cảnh tan xương nát thịt.
Toàn thể căn phòng vẫn yên lặng càng lúc càng tối hẳn đi bởi khói của trầm hương thi nhau cuồn cuộn bốc lên cùng lúc với những hình ảnh tuần tự hiện ra trước mắt.
- A! Biết rồi ! Đó là Tàng thức A Lại Da...(Akasin Record). Tôi tự nói với mình như vậy.
Có một đoạn phim tôi thấy mình đang lê bước trên một con đường mòn vắng vẻ, dài lê thê không biết bao nhiều ngàn dặm để đến trung tâm Trùng Khánh.
Tôi còn chứng kiến cả một cái máy lạ lùng quay cuồng trên bâu trời đầy mây u ám. Bất thần nó bay vụt lên cao rồi lao thẳng xuống giữa lòng rặng núi đá dựng dứng chĩa lên như trời trồng. Chính vùng đất này đã tạo cho Trùng Khánh thành một vùng hiểm địa.
Rõ ràng là tôi nhìn thấy trên bức màn khói trắng kia là mình đang ngồi điều khiển cái máy đen đúa kỳ cục này. Không bao lâu sau đó có hàng bao nhiêu cái máy kỳ cục khác như của tôi đang điều khiển từ đâu xa bay đến. Những cái máy này vẽ lên hình ảnh
Mặt Trời trông hệt như lá quốc kỳ của xứ sở Phù Tang. Tôi sửng sốt trố mắt nhìn những quả đen hình bầu dục từ trong lòng của những cái máy kia lần lượt nối đuôi nhau rơi xuống.
Rồi trong khoảnh khắc tiếng nổ vang rền từ dưới mặt mặt đất vang lên đồng thời một biển lửa rực lên làm đỏ cả vòm trời.
Không gì làm tôi ghê tởm và khủng khiếp bằng khi nhìn thấy trên màn ảnh hàng bao nhiêu xác người tung lên cao và rơi xuống ngay sau đó. Máu đỏ loang lổ trên mặt đất.
Tôi nghe rõ cả tiếng kêu khóc vang đi cùng khắp.Tim tôi đau nhói. Mắt tôi hoa lên! Tôi cảm thấy toàn thể châu thân mình chao đảo như thể không còn ngồi vững được nữa!
- Lỗ San! Hãy bình tĩnh.
Ngài Lạt Ma Tiên Tri gọi tôi bằng thần giao cách cảm. Hãy an lòng, người bạn già tiền kiếp của ta.
Lại một cảnh tượng khác tiếp tục hiện ra trước mắt tôi. Lần này tôi cảm thấy từng thớ thịt mình như bị co giật theo từng sự kiện diễn ra trên màn ảnh. Rõ ràng tôi đang bị người Nhật hành hạ.
Họ dùng những chiếc dùi cui đen sì quất vào người tôi từ đầu đến chân không chút thương xót. Tôi không nghi ngờ gì các sự kiện này sẽ diễn ra đối với tôi một ngày nào như vậy.
Và tôi tin đó là những điều chính xác. Điều làm cho tôi chú ý là hình ảnh của một mẫu giấy dài trông hệt như một tờ sớ màu vàng được viết bằng mực đỏ hệt như son phác họa các vì sao chỉ về những nỗi thăng trầm trong cuộc đời tôi.
- Hóa ra đời ta như thế ư !
- Thì là như thế đấy! Tôi lẩm bẩm nói trong miệng.
Tiếng nói này vẳng vọng bên tai tôi và bất giác tôi cảm thấy trên bờ vai mình có bàn tay ai đặt nhẹ lên và một luồng hơi ấm tư từ xâm nhập dần vào từng thớ thịt. Tôi quay phắc lại, thì ra đó là bàn tay của Ngài Lạt Ma Tiên Tri đang ngồi ngay phía sau tôi.
Lúc bây giờ tôi mới được nhìn thấy được rõ ràng sự phúc hậu tràn đầy trên gương mặt phương phi và phúc hậu của Người.
Và trong đôi mắt của Ngài, một luồng nhãn quang vô cùng nhân ái phóng ra. Ngài Lạt Ma Tiên Tri như thông cảm nỗi bâng khuâng của tôi khi nhìn thấy trước về cuộc đời tương lai mà mình sẽ phải gánh chịu.
- Lỗ San! Linh thức của con rất mạnh.
- Lúc bấy giờ Ngài không còn gọi tôi theo lối xưng hô thông thường nữa. Thay vì gọi tôi bằng "chú" như đối với các chú tiểu khác, mà bằng tiếng "con" một cách đậm đà thân mật.
- Thật vậy, Lỗ San à! Con không như những kẻ khác mỗi lần nhìn cuộc đời mình trên màn ảnh huyền diệu đó thì ta phải giảng giải từng giai đoạn một.
Đến đây ngày hạ thấp giọng nhìn tôi ưu ái hỏi:
- Lỗ San, con đang suy nghĩ gì thế ?
- Thưa Ngài Lạt Ma Tiên Tri, con chỉ muốn ở đây cho được yên thân. Con không hiểu tại làm sao mà con lại sinh ra ở giữa lúc mà cuộc đời chỉ toàn là sự lừa dối
Nơi nào con cũng nhận thấy họ thi nhau thuyết pháp, cũng truyền đạo một cách cuồng nhiệt để rồi cuối cùng họ lại phạm vào những điều lỗi lầm tai hại.
Ngài Tiên Tri nắm lấy tay tôi nghiêm nghị bảo:
- Mỗi người có một trách vụ và phải hoàn tất trách vụ đó của mình một cách chu đáo. Con hãy yên lòng đừng để tâm thần giao động. Mặc dù sẽ gặp lắm cảnh trái ngang nhưng con sẽ hoàn thành được sứ mạng và trách nhiệm của mình.
Vì lẽ đó con sẽ trải qua nhiều thử thách cần phải được tôi luyện qua những lớp đặc biệt dẫy đầy cam go tủi hận!
Tim tôi như thắt lại. Một nỗi ê chề chạy rần trong cơ thể. Tôi nghiền ngẫm suy nghĩ. Ta phải có trách nhiệm nặng nề? Nhưng trách nhiệm nặng nề gì đây?
Tại sao lại là mình mà không là người khác? Tại sao mình không được sống trong cảnh thanh bình để tìm sự bình an cho tâm hồn ?
Tôi khẽ thở dài cảm thấy buồn cho số kiếp mình! Ngài Tiên Tri như thấu hiểu nỗi lòng tôi, mỉm cười rồi bằng giọng trầm trầm nói:
- Bây giờ con hãy trở về ngay để gặp Ngài Minh Dà Đông Đạt! Minh Sư con đang nóng lòng mong đợi. Chắc chắn Người sẽ có nhiều điều muốn được cùng con thảo luận.
Tôi đứng lên như một cái máy, cúi rạp đầu đúng theo nghi lễ trước khi rời khỏi phòng. Bên ngoài nhà sư cảnh sát có thân hình như ông khổng lồ đang đợi sẵn để đưa đường.
Chúng tôi đi song song bên nhau và tôi sực nhớ ra một bức tranh ngộ nghĩnh có lần đã được xem, trong đó hình ảnh con voi to tướng đang đi bên cạnh con kiến tại cánh rừng già.
Nghĩ đến đây tôi bật cười thành tiếng, nhưng ngay sau đó vội chắp hai tay lại đọc lên lời sám hối:
- A Di Đà Phật! Tôi đã phạm qui điều nơi cửa Thiền.
Cũng may là người cảnh sát khổng lồ không hề lưu ý. Cũng có thể ông ta nghe thấy nhưng tảng lờ đi vì tôi được xếp vào hàng ngoại lệ?! Tôi vừa đi vừa mỉm cười suy nghĩ quên hẳn những nỗi gian lao sắp đến. Tâm thần tôi tự nhiên thoải mái lạ lùng.
Hình ảnh chú Sĩ Ca chập chờn hiện ra trước mắt. Tôi cảm thấy nhớ chú một cách lạ lùng. Chú đã từng nói với tôi về thuyết luân hồi.
Từ xưa nay theo chú các dân tộc Đông Phương đều quan niệm con người có tiền kiếp, và xem đó là một sự kiện tự nhiên không thể chống lại được.
Có người đặt vấn đề: "Nếu có "Luân Hồi" thì ắt phải nhớ lại tiền kiếp của mình, thế tại làm sao chẳng một ai nhớ cả?"
Điều này chú Sĩ Ca giảng giải: "Chúng ta hãy loại bỏ những chi tiết mà chỉ giữ lấy phần nguyên tắc đại cương. Ví như con người khi mới tập tễnh biết đi, biết đứng rồi cắp sách đến trường để học những kiến thức đầu tiên mà nhà trường lúc ban đầu dạy bảo, nhưng đã mấy ai nhớ lại được các sự kiện ấy?
Chắc chắn là chẳng mấy ai còn nhớ đến các hình ảnh ấy bao giờ!! Thế thì câu chuyện của mấy trăm, mấy ngàn vạn năm về trước thật khó lòng mà ghi nhớ hết được.
Hơn nữa, cứ mỗi kiếp trải qua là một xác thân khác, một bộ óc khác, một đất nước khác, một chủng tộc khác, như vậy đủ chứng minh rằng chuyện không nhớ ra tiền kiếp chẳng có gì là lạ lùng cả!
Chú Sĩ Ca siết chặt tay tôi với tất cả tình thương của chú. Chú muốn nói hết những điều gì chú biết để truyền đạt lại cho tôi:
- Lỗ San! Sự lãng quên các tiền kiếp là một điều cần thiết cho mọi thử thách ở trần gian. Con người bằng da bằng thịt ở trần gian này, có đầu tóc hoặc đen huyền, hoặc óng ánh như bạch kim, cùng có một huyết thống như nhau, tất cả đều ô nhiễm những tội lỗi xấu xa và đầy dẫy những điều hổ thẹn.
Trong lịch trình tiến hóa dài dằng dặc từ thiên niên kỷ này sang thiên niên kỷ khác...trải qua biết bao kiếp tử sinh, sinh tử, chắc chắn chúng ta đều đã tích trữ bao nhiêu điều tội ác, đầy dẫy cả những bất công trong quá khứ đó.
Vả lại, cuộc đời trước mắt Lỗ San đây cũng đã ngập tràn những nỗi nhọc nhằn đau khổ, nhưng vẫn chưa hết, nó còn nhọc nhằn đau khổ hàng bao nhiêu lần hơn nữa, nếu ta còn phải nhớ thêm cả những nỗi khó khăn đau khổ tích trữ từ bao nhiêu kiếp trước!
Lỗ San nên biết rằng nhớ lại dĩ vãng của mình ở các kiếp xa xưa đó nó còn liên hệ đến đến dĩ vãng của biết bao nhiêu người khác.
Tất nhiên mọi hành động bất công của họ đối với ta hay ngược lại của từ bao nhiêu kiếp trước sẽ hiện ra trước mắt mình, và tất nhiên sự thù oán sẽ đến không thể nào tránh được sẽ nẩy mầm từ đó rồi tiếp tục diễn ra từ đời này sang đời khác, biết đến bao giờ chấm dứt ?
Tôi lặng lẽ bước đi và miên man suy nghĩ. Anh Hà Mịch đã có lần giúp tôi giữ vững lập trường trên con đường đi tìm đạo hạnh. Anh nhắc lại chuyện Đức Thích Ca Mâu Ni
- Đấng đã tìm ra con đường dẫn dắt chúng sinh đi vào Cõi Thiện. Có một hôm một môn sinh kia đến hỏi Ngài: "Bạch Thầy, con phải tin ai đây, vì người thì nói điều này, kẻ lại bảo điều kia, cả hai đều đoan quyết là lời mình nói đúng!"
Đức Phật đã trả lời: "Đừng tin lời ai cả, kể cả lời nói của ta trừ phi thấy lời nói của ai đó có ý nghĩa với ngươi. Và ngay cả với ngươi nữa khi không tin được điều nào đó thì hãy xử sự nó như một giả thuyết hợp lý, mãi đến khi chính bản thân ngươi cảm nhận rằng điều ấy là đúng."
Lời nói này của anh Hà Mịch làm tôi suy nghĩ nhiều. Anh Hà Mịch hay chú Sĩ Ca đều có lý. Rồi tôi lại miên man nghĩ đến anh Lâm Chánh có lần cùng tôi mạn đàm về "sự sống" của các vật thể trên đời.
- Lỗ San à ! Chưa ai có thể phân tích được "Sự Sống" một cách rõ ràng, mặc dù tất cả mọi người đều phải tiếp xúc với sự sống hiện hữu của mình. Có ai đã từng được nhìn thấy một sinh vật bắt đầu từ giã cõi đời, và trong giờ phút đó những gì đã xảy ra trong giờ phút lâm chung của họ?
Tuy không nói ra bằng lời, nhưng có điều chẳng ai có thể chối bỏ là chắc chắn có một cái gì đó đã rời khỏi ngay thân xác một lớp vỏ bằng da thịt, xương xóc hay đúng hơn là một thi thể đang đi vào sự tan rã rữa nát để rồi vĩnh viễn trở về với cát bụi.
Tôi nhìn anh Lâm Chánh một hồi lâu rồi lên tiếng hỏi:
- Vậy, thưa anh Lâm Chánh, "Sự Sống" có phải là một hiện tượng có thật hay không?
- Đúng vậy! Nó là một hiện tượng hiển nhiên có thật. Dù rằng, ta khó lòng hiểu được nó. Đành rằng trí tuệ của nhân sinh đã cố gắng sản xuất ra được các tổng hợp nhân tạo để hỗ tương cho những hiện tượng thiên nhiên!
Đang nghĩ đến đây tôi bất giác giật mình đánh thót khi nghe giọng nói ồ ồ của người cảnh sát khổng lồ đang đi bên cạnh.
- Thưa quý khách đã đến nơi rồi. Xin Ngài cho phép kẻ đưa đường này được cáo từ tại đây!
Nghe lời nói một cách trịnh trọng này khiến tôi lúng túng, mặt mày đỏ au lên vì cả thẹn, không biết phải trả lời làm sao cho đúng phép
! Tôi chỉ là một đứa bé thân phận không hơn không kém một chú tiểu đâu có gì mà khiến ông cảnh sát có thân hình hộ pháp lại đến nỗi phải khuất mình trước một đứa bé con như vậy?!
Bỗng ngay trong lúc đó giọng nói của Minh Sư vẳng vọng vào tai tôi, như thể muốn cắt đứt dòng mạch suy tư của tôi về những nỗi thắc mắc này:
- Lỗ San, đừng quá ưu tư về những gì chú đã nhìn thấy trên màn ảnh đầy huyền diệu đó. Âu đó cũng chỉ là một chuyện thông thường có gì phải đáng quan tâm đâu?
Các loại hoa rừng màu tím hoa sim hay màu hồng thắm mọc theo các đường viền kẻ chung quanh mép bờ tường. Tại đây không có bóng dáng các nhà sư trẻ mà đa phần những ông sư già lụ khụ hoặc các Đức Lạt Ma da mồi tóc bạc chống gậy trúc đi làm công quả.
Thật ra đây là nơi trung tâm của các Đức Lạt Ma chuyên về việc tiên đoán quốc sự, nghiên cứu các điềm được Thần linh ứng báo trước hoặc các dữ kiện thuộc về Thiên văn, để đưa ra những lời giải đoán có liên quan đến quốc gia đại sự.
Đây cũng không phải là chỗ cho các du khách ngoại quốc đến vãng cảnh, cũng không phải là chỗ nghỉ ngơi để mang ra bàn thảo những câu chuyện phiếm hoặc chạy ra chạy vào để kiếm sống qua ngày.
Ít ai dám bén mảng đến nơi đây, vì vậy những người hiện diện đều thuộc thiền viện hoặc được mời lại bàn thảo một vấn đề quan trọng nào đó. Chân sư tôi là một "vì" được xem là thượng khách của Thiền viện. Ngài muốn đến lúc nào thì đến, mà đi lúc nào thì đi.
Ngôi Thiền viện được bao quanh bởi những bức tường đá và còn có cả một hàng rào trồng toàn cây xanh tươi bốn mùa đơm hoa rực rỡ. Nhờ vậy mà chận đứng được sự tò mò dòm ngó của người ngoài lúc nào cũng muốn tìm hiểu những cái gì bí mật được ẩn tàng bên trong đó.
Thiền viện là một trong những ngôi đền lớn nhất của xứ sở Tây Tạng, luôn luôn có một số phòng được trang hoàng tươm tất dành riêng cho Đức Đạt Lai Lạt Ma vốn thường xuyên lui tới nghỉ ngơi hoặc dùng làm nơi mật đàm với các cố vấn tại Thông Thiên Đền.
Luật lệ của Thiền Viện thật nghiêm minh. Lúc nào cũng có vẻ yên lặng. Chẳng bao giờ có tiếng nói lớn hoặc tranh luận gây sự ồn ào làm mất cả vẻ tôn nghiệm. Bảo vệ khu Thiền Viện là một toán cảnh sát hộ pháp người Kham, thuộc giống to lớn, lực lưỡng nặng lối 250 cân Anh và cao không dưới hai thước công xích.
Vẻ mặt họ lúc nào cũng lạnh lùng, sắt đá. Nhất là đôi mắt họ như có hai luồng điện cực mạnh sẵn sàng phóng ra đốt cháy trước bất cứ đối tượng nào xâm nhập đến vùng cấm địa hoặc làm băng hoại kỷ luật nghiêm minh của nhà chùa.
Họ cũng được trang bị chiếc dùi cui đeo lủng lẳng bên thắt lưng. Gần như người nào trong giống dân này cũng có chiếc mũi quặp hệt cái mỏ con chim ó chấm đến bờ môi trên dày sấn và cũng đen sì như làn da của họ.
Đứng trước thân hình khổng lồ cùng bản mặt dữ dằn ấy cho dù kẻ gian có gan sắt dạ đồng cũng phải tỏ ra kiêng dè, nể sợ... Tôi cũng không lấy làm lạ tại sao chốn tu hành nghiêm chỉnh của xứ sở có Đức Phật Sống cai quản mà cũng phải cần đến các ông hộ pháp dị hợm này, chỉ bởi không phải tất cả những người mặc áo cà sa nằm trong cửa Phật đều lương thiện cả.
Xã hội của cửa Thiền nhiều khi cũng na ná như ngoài đời. Bề ngoài có lắm ông cũng mặc áo vàng, trông có vẻ tu hành đượm màu đạo hạnh nhưng thật ra đa phần cũng vướng phải nhiều tội lỗi, đi lang thang đây đó, trốn tránh nhiệm vụ làm công quả, vi phạm quy luật nhà Thiền. Bởi vậy phải nhờ đến sự tuần tra của các toán cảnh sát để chận đứng sự luông tuồng của các ông sư trắc nết này.
Hầu hết các ngôi tịnh xá đều có lối kiến trúc giống như kiểu cách ngoài đời. Tuy nhiên các ngôi nhà nơi đây không cao lắm và cũng chẳng bao giờ làm cầu thang bằng những thân cây ghép lại.
Lý do không thể làm như vậy vì ở nơi Thiền Viện gồm toàn người già yếu lụm cụm dễ dàng xảy ra sự nguy hiểm nếu rủi ro gặp phải bất trắc. Hành lang tại các Thiền Viện đều rộng rãi tiện bề đi lại. Công việc xây cất được tính toán cân nhắc cẩn thận trước.
Những gian phòng nơi tầng trệt dành cho các bô lão già yếu. Phòng riêng tư của Ngài Lạt Ma Tiên Tri cũng ngay ở tầng trệt và sát ngay cạnh đền Thiên Văn.
Để bảo vệ an ninh cho Ngài Lạt Ma Tiên Tri cùng các bô lão là đồn trại của Ban Chỉ Huy Đoàn Cảnh Sát người Kham...luôn luôn được canh phòng cẩn mật ngay sát cạnh bên những căn hộ của các bậc yếu nhân.
- Lỗ San! Chúng ta hãy đến yết kiến ngài Tiên Tri. Ngài có bảo với ta là rất lưu ý chú và sẽ dành nhiều thời giờ để cùng chú thảo luận.
Với tôi được mời đến hay có lệnh gọi đi trình diện ngài Lạt Ma Tiên Tri đều làm cho tôi lo lắng không ít. Tôi đã từng gặp các ông "thiên văn", các thầy "giải đoán" mấy lần trước đây, lần nào cũng đều gặp lắm điều phiền nhiễu bởi những sự việc bắt buộc tôi phải thực hiện không phải là dễ dàng gì.
Chắc chắn lần này cũng chẳng khác gì hơn mấy cuộc gặp gỡ trước là phải ăn vận cho lịch sự chỉnh tề, ngồi cho thật ngay ngắn, giữ cho thân thể không bị chuyển động.
Phải làm sao tự tạo cho mình thành một pho tượng gỗ bất động, để lắng tai nghe một ông sư già nua, chậm chạp nói lè nhè hàng chuỗi dài toàn những lời lẽ vô vị nghe muốn phát ngấy lên đến buồn ngủ! Tôi thầm nghĩ thà là bắt tôi đi làm công việc bằng tay chân còn hơn là phải ngồi hàng giờ nghe các ông sư già ấy giảng.
Liếc mắt thật nhanh nhìn "Nhà Tiên Tri Quốc Gia" bên trong Thiền Viện rồi đảo ngay mắt nhìn lại Minh Sư tôi với vẻ buồn và nghi ngờ không tin tưởng mấy. Nhà Tiên Tri mà tôi sắp phải đối diện hôm nay đó là Đức Lạt Ma Chân Sư.
Tuy Ngài còn ở cách xa tôi nhưng tôi vẫn trông thấy được Ngài hiền hòa, mặt mày tươi tắn, trên vành môi luôn luôn nở một nụ cười như đóa hoa hàm tiếu. Tư tưởng tôi bắt đầu giao động. Điều này Minh Sư tôi đã đọc được và truyền đạt cho tôi lời khuyến cáo bằng thần giao cách cảm:
- Hãy bình tĩnh và đừng nghi ngại. Lỗ San! Ngài Tiên Tri Lạt Ma không bao giờ đánh giá chú qua lớp quần áo tốt hay xấu mà Ngài đánh giá chú qua đức tính mà những kẻ khác không làm sao có được.
Chú nên nhớ rằng Ngài biết chú một cách sâu xa hơn là chính chú tự biết lấy mình. Tôi im lặng. Nỗi buồn xâm nhập vào tâm hồn tôi. Tôi tự hỏi: "Chẳng biết ta sẽ được nghe những gì từ Ngài Lạt Ma Tiên Tri ban phát đây?"
Không hiểu sao, Minh Sư tôi lại đưa tôi sang một hướng khác thay vì đến ngay nơi mà tôi thoáng nhìn thấy Ngài Tiên Tri Lạt Ma, vòng ra phía sau đến ngay một am nhỏ, đứng lại nơi này trong giây lát, và trên đôi môi rung động, hình như người đang nói với ai điều gì lí nhí trong miệng.
Tôi lại theo chân thầy tôi đi vòng sau cái am nhỏ rẽ sang một con đường khác và cuối cùng đến ngay trước Thiền Viện.
Xa xa là rặng núi lờ mờ được phủ bởi một làn mây mỏng nhẹ. Bước đi của tôi nặng trĩu như tuồng đeo theo những tảng đá bên dưới cổ chân. Tôi có cảm tưởng là mình đang bị đưa đến chốn cực hình.
Bỗng từ đầu xa xuất hiện ông cảnh sát khổng lồ có đôi lông mày hệt như hai đầu con sâu rộm châu nhau vắt ngang bên trên đôi mắt to tướng như thể lồi hẳn ra bên ngoài. Người cảnh sát khổng lồ này xăm xúi đi thẳng đến phía tôi, tiếng bước chân của ông làm rung động cả mặt đất.
Cũng may, khi trông thấy thầy tôi, người cảnh sát này vội buông cái dùi cui đen sì xuống để tòn ten nơi thắt lưng và cùng lúc trên đôi vành môi dày cộm của ông ta nở ra một nụ cười thật tươi, cúi rạp đầu theo cung cách của người Nhật :
- Xin kính chào Ngài Lạt Ma! Xin Ngài cho phép tôi được hân hạnh đưa Ngài đến văn phòng Ngài Quốc Gia Tiên Tri.
Không đợi thầy tôi gật đầu, người cảnh sát này tiến lên đưa chúng tôi đến ngay nơi có hai vị Lạt Ma đang đứng túc trực. Khi nhìn thấy chúng tôi cách lối 5 thước, hai vị Lạt Ma này đứng dạt sang hai bên và tức thì một trong hai vị Lạt Ma này cất tiếng :
- Kính chào quý Ngài. Đức Lạt Ma Tiên Tri đang nóng lòng trông đợi quí vị.
Vị Lạt Ma đối diện kia lên tiếng tiếp:
- Quả như vậy. Thưa Ngài Minh Dà Đông Đạt! Ngài Tiên Tri Quốc Gia đang nóng lòng chờ đợi.
Tức thì chúng tôi được đưa vào bên trong một căn phòng âm u. Tôi không trông thấy gì cả, chỉ lần theo bước chân của hai Lạt Ma này theo vào bên trong. Có thể vì từ chỗ sáng chúng tôi đột ngột đi vào chỗ tối nên không tránh khỏi trường hợp này.
Nhưng chỉ mất khoảng một thời gian ngắn mắt chúng tôi bắt đầu quen dần nên quan sát được toàn thể căn phòng này. Điều làm cho tôi thắc mắc là cả một căn phòng rộng lớn như thế này mà chẳng thấy có đồ vật gì bày biện bên trong cả.
Tôi quan sát từ đầu bờ tường này đến bờ tường kia chỉ thấy một khoảng trống trơn, không có bất cứ một vật nào ngoại trừ một vị Lạt Ma với thân hình mảnh mai ngồi bên trên chiếc nệm tròn màu vàng cổ đồng!
Bên cạnh Ngài Lạt Ma là một cái bàn tròn, bên trên đặt một cái lư đồng thắp sẵn nhang thơm đang cuồn cuộn bốc lên một làn khói cực mỏng, xanh lam tỏa ra mùi trầm hương thơm ngát. Nhìn người Lạt Ma trên nệm tôi không phải mất công suy nghĩ vì tôi đã được Minh Sư mách bảo trước khi bước vào nơi trang nghiêm này.
Đôi mắt Ngài hơi to như có luồng nhãn lực cực mạnh nhìn thẳng về phía tôi. Lúc bấy giờ tôi cảm thấy như bị hai luồng điện phóng đến cơ hồ xoi thủng cơ thể, nơi linh hồn tôi đang ngự trị.
Thầy tôi và tôi đến trước mặt Ngài cúi rạp mình xuống thi lễ đúng theo nghi thức cổ truyền. Sau khi lễ xong, chúng tôi đứng lên đợi lệnh. Qua giây phút im lặng, tôi bắt đầu lo sợ chẳng biết rồi chuyện gì sẽ xảy đến tiếp theo? Đang lo nghĩ như vậy thì vừa lúc Ngài Lạt Ma Tiên Tri cất tiếng nói:
- Chào Ngài Minh Dà Đông Đạt! Chào Lỗ San.
Giọng nói Ngài thật nhỏ nhẹ nhưng quái lạ thay âm thanh Ngài nghe như thể cao vút. Tôi có cảm tưởng như từ một chốn xa xăm nào đó vọng đến.
Thầy tôi tiến đến cạnh Ngài Lạt Ma Tiên Tri để bàn thảo một vấn đề quan trọng nào đó. Nhưng chỉ khoảng thời gian ngắn ngủi, Minh Sư tôi mới đứng lên cúi đầu chào một lần nữa rồi quay lại nhìn tôi trước khi rời khỏi phòng.
Lúc bấy giờ Ngài Tiên Tri mới đưa mắt nhìn tôi cất tiếng nói:
- Lỗ San! Hãy mang cái nệm đang dựng kia lại nơi bên cạnh ta.
Tôi vâng lời, ngoan ngoãn làm theo ý Ngài, mang cái nệm vuông dựng nơi góc tường đến đặt ngay trước mặt Ngài Tiên Tri đoạn ngồi xuống. Ngài chăm chú nhìn tôi. Nét mặt Ngài lộ vẻ suy tư. Ngài quan sát tôi thật tỉ mỉ, đoạn mỉm cười lên tiếng một cách ra vẻ thân mật :
- Thì ra chú là Thế Lai Lỗ San Lâm Bá! À! Bây giờ ta đã nhớ ra rồi
. Chúng mình đã quen biết nhau từ lâu. Phải! Thật lâu rồi! Trong một tiền kiếp xa xôi chúng mình là đôi bạn thâm giao cùng ăn một mâm, nằm một chiếu, cùng học một Ngài Lạt Ma. Ta thì nhớ rõ song với chú thì chưa thể nhận thức ngay trong giờ phút ngẫu nhiên này.
Nói đến đây, Ngài nhìn tôi bằng đôi mắt thật hiền từ, sau đó mới tiếp tục nói:
- Ta nhận được lệnh của Đức Lạt Ma Tối Cao phải có bổn phận nói cho chú rõ những trọng trách mà chú sẽ được giao phó cũng như những khó khăn chú cần phải khắc phục để chu toàn nhiệm vụ.
- Dạ, thưa Ngài Lạt Ma Tiên Tri! Tôi vội lên tiếng cắt ngang hỏi. Có lẽ con đã phạm phải tội lỗi trong nhiều tiền kiếp nên kiếp này phải gánh lấy nghiệp báo như Ngài vừa nói chăng?
Nếu vậy thì con sẵn sàng xin tuân phục để trả cái nghiệp quả của mình đã tạo ra.
- Không!
Ngài Tiên Tri đáp lại. Không phải vậy. Xưa nay mọi người hiểu lầm là nếu trong đời này ta gặp lắm khó khăn là do mình đã gây nên lắm điều tội lỗi từ nhiều kiếp trước.
Thật không gì nông cạn bằng nếu chú nghĩ rằng thỏi sắt mang nung trong một lò lửa nóng hừng hực kia chỉ vì nó có tội. Thật không có gì hài hước bằng! Người ta nung nó chỉ vì muốn nó trở thành một loại kim khí có phẩm chất cao hơn chứ đâu phải là một cực hình phạt vạ nó?
Nói đến đây Ngài ngưng lại chăm chú nhìn tôi đoạn tiếp:
- Minh Sư của chú sẽ nói rõ với chú điều này. Bổn phận và trách nhiệm của ta là cho chú biết về tương lai của chú.
Đến đây, Ngài lấy cái chuông bạc rung lên một hồi ngắn gọn, tức thì từ bên trong một người có lẽ túc trực sẵn từ hồi nào lặng lẽ bước ra. Người này là một nhà sư không có vẻ già lắm, mang ra cái bàn nhỏ đặt ngay trước mặt tôi.
Trên mặt bàn là một cái bát sứ bịt bạc sáng ngời và bên trong lòng bát là một cục than hồng đang rực đỏ. Nhà sư này khẽ cúi đầu thì thầm điều gì bên tai Ngài Lạt Ma Tiên Tri, đoạn đặt cái hộp quí được cẩn xa cừ tuyệt đẹp phía bên phải của chiếc bát sứ.
Tôi ngồi yên lặng, âm thầm đưa mắt theo dõi và phân vân chẳng hiểu tại vì sao những thứ đó đưa đến đây trước mặt tôi để làm gì? Không hiểu sao tôi linh cảm là mình sẽ phải đương đầu với những nỗi khó khăn trước mắt.
Về sau, mọi người đều tỏ ý tán thành về những gì cực nhọc đến với tôi bằng những lời lẽ khuyến cáo phải chu toàn nhiệm vụ, đó là một vinh dự vô vàn mà tôi đã được Bề Trên ban phát.
Ngài Tiên Tri từ từ nghiêng người về phía trước đưa tay mở cái nắp đang đậy kín trên chiếc hộp nằm cạnh cái bát sứ. Sau đó Ngài cầm cái thìa nhỏ bằng vàng múc ra một thứ bột màu nâu đoạn rắc lên chỗ cục than hồng.
Một làn khói xanh mờ nhạt tỏa ra cùng khắp cả căn phòng. Tự nhiên tôi cảm thấy đầu óc như quay cuồng, mắt mờ đi, lờ đờ như kẻ bị quáng gà.
Tôi bỗng nghe tiếng đại đồng chung từ một nơi xa xôi nào đó văng vẳng vọng lại. Tiếng rền rĩ của nó mỗi lúc một lớn thêm lên đến nỗi tôi phải bưng chặt lấy hai tai lại. Tôi có cảm tưởng nếu tình trạng này kéo dài thêm, chắc chắn đầu óc tôi sẽ bị nổ tung ra!
Trong lúc đó bất giác đôi mắt tôi sáng rực khi nhìn thấy chiếc cột khói xanh rờn như màu xanh da trời từ trong lòng bát bốc lên cao rồi uyển chuyển như một dải lụa từ tay của người vũ nữ đang múa lượn. Cùng lúc đó, một giọng nói nhỏ nhẹ của Ngài Tiên Tri văng vẳng bên tai tôi:
- Lỗ San ! Hãy nhìn cuộc đời của chú trên màn ảnh đó!
"Cuộc đời của tôi trên màn ảnh?" Tôi tự hỏi lấy mình. Tôi chăm chú nhìn thấy lượn khói trắng trong như một tấm vải trắng ngay trước mắt. Quả đúng như như Ngài Tiên Tri truyền đến. Đó là một cuộn phim sống động hiện lên thật rõ ràng.
Tôi thấy một quãng đời từ thuở bé thơ cho đến ngày khôn lớn, sống cạnh người cha lúc nào cũng mang vẻ mặt nghiêm khắc. Tất cả các hình ảnh hiện lên một cách thật sinh động.
Nhất là hình ảnh có một lần tôi đang ở trên mái chùa Xá Lợi bất thình lình có một tảng đá to tướng từ đỉnh Thiết Linh Sơn bị gió cuốn thổi ngay đến nơi tôi đang đứng. Tôi chỉ còn kịp rú lên nhắm nghiền mắt lại.
Tảng đá đó tông đến vào thân thể tôi như trời long đất lở, đẩy tôi rơi ngay xuống chân núi; tôi đinh ninh là mình khó lòng tránh được khỏi cảnh tan xương nát thịt.
Toàn thể căn phòng vẫn yên lặng càng lúc càng tối hẳn đi bởi khói của trầm hương thi nhau cuồn cuộn bốc lên cùng lúc với những hình ảnh tuần tự hiện ra trước mắt.
- A! Biết rồi ! Đó là Tàng thức A Lại Da...(Akasin Record). Tôi tự nói với mình như vậy.
Có một đoạn phim tôi thấy mình đang lê bước trên một con đường mòn vắng vẻ, dài lê thê không biết bao nhiều ngàn dặm để đến trung tâm Trùng Khánh.
Tôi còn chứng kiến cả một cái máy lạ lùng quay cuồng trên bâu trời đầy mây u ám. Bất thần nó bay vụt lên cao rồi lao thẳng xuống giữa lòng rặng núi đá dựng dứng chĩa lên như trời trồng. Chính vùng đất này đã tạo cho Trùng Khánh thành một vùng hiểm địa.
Rõ ràng là tôi nhìn thấy trên bức màn khói trắng kia là mình đang ngồi điều khiển cái máy đen đúa kỳ cục này. Không bao lâu sau đó có hàng bao nhiêu cái máy kỳ cục khác như của tôi đang điều khiển từ đâu xa bay đến. Những cái máy này vẽ lên hình ảnh
Mặt Trời trông hệt như lá quốc kỳ của xứ sở Phù Tang. Tôi sửng sốt trố mắt nhìn những quả đen hình bầu dục từ trong lòng của những cái máy kia lần lượt nối đuôi nhau rơi xuống.
Rồi trong khoảnh khắc tiếng nổ vang rền từ dưới mặt mặt đất vang lên đồng thời một biển lửa rực lên làm đỏ cả vòm trời.
Không gì làm tôi ghê tởm và khủng khiếp bằng khi nhìn thấy trên màn ảnh hàng bao nhiêu xác người tung lên cao và rơi xuống ngay sau đó. Máu đỏ loang lổ trên mặt đất.
Tôi nghe rõ cả tiếng kêu khóc vang đi cùng khắp.Tim tôi đau nhói. Mắt tôi hoa lên! Tôi cảm thấy toàn thể châu thân mình chao đảo như thể không còn ngồi vững được nữa!
- Lỗ San! Hãy bình tĩnh.
Ngài Lạt Ma Tiên Tri gọi tôi bằng thần giao cách cảm. Hãy an lòng, người bạn già tiền kiếp của ta.
Lại một cảnh tượng khác tiếp tục hiện ra trước mắt tôi. Lần này tôi cảm thấy từng thớ thịt mình như bị co giật theo từng sự kiện diễn ra trên màn ảnh. Rõ ràng tôi đang bị người Nhật hành hạ.
Họ dùng những chiếc dùi cui đen sì quất vào người tôi từ đầu đến chân không chút thương xót. Tôi không nghi ngờ gì các sự kiện này sẽ diễn ra đối với tôi một ngày nào như vậy.
Và tôi tin đó là những điều chính xác. Điều làm cho tôi chú ý là hình ảnh của một mẫu giấy dài trông hệt như một tờ sớ màu vàng được viết bằng mực đỏ hệt như son phác họa các vì sao chỉ về những nỗi thăng trầm trong cuộc đời tôi.
- Hóa ra đời ta như thế ư !
- Thì là như thế đấy! Tôi lẩm bẩm nói trong miệng.
Tiếng nói này vẳng vọng bên tai tôi và bất giác tôi cảm thấy trên bờ vai mình có bàn tay ai đặt nhẹ lên và một luồng hơi ấm tư từ xâm nhập dần vào từng thớ thịt. Tôi quay phắc lại, thì ra đó là bàn tay của Ngài Lạt Ma Tiên Tri đang ngồi ngay phía sau tôi.
Lúc bây giờ tôi mới được nhìn thấy được rõ ràng sự phúc hậu tràn đầy trên gương mặt phương phi và phúc hậu của Người.
Và trong đôi mắt của Ngài, một luồng nhãn quang vô cùng nhân ái phóng ra. Ngài Lạt Ma Tiên Tri như thông cảm nỗi bâng khuâng của tôi khi nhìn thấy trước về cuộc đời tương lai mà mình sẽ phải gánh chịu.
- Lỗ San! Linh thức của con rất mạnh.
- Lúc bấy giờ Ngài không còn gọi tôi theo lối xưng hô thông thường nữa. Thay vì gọi tôi bằng "chú" như đối với các chú tiểu khác, mà bằng tiếng "con" một cách đậm đà thân mật.
- Thật vậy, Lỗ San à! Con không như những kẻ khác mỗi lần nhìn cuộc đời mình trên màn ảnh huyền diệu đó thì ta phải giảng giải từng giai đoạn một.
Đến đây ngày hạ thấp giọng nhìn tôi ưu ái hỏi:
- Lỗ San, con đang suy nghĩ gì thế ?
- Thưa Ngài Lạt Ma Tiên Tri, con chỉ muốn ở đây cho được yên thân. Con không hiểu tại làm sao mà con lại sinh ra ở giữa lúc mà cuộc đời chỉ toàn là sự lừa dối
Nơi nào con cũng nhận thấy họ thi nhau thuyết pháp, cũng truyền đạo một cách cuồng nhiệt để rồi cuối cùng họ lại phạm vào những điều lỗi lầm tai hại.
Ngài Tiên Tri nắm lấy tay tôi nghiêm nghị bảo:
- Mỗi người có một trách vụ và phải hoàn tất trách vụ đó của mình một cách chu đáo. Con hãy yên lòng đừng để tâm thần giao động. Mặc dù sẽ gặp lắm cảnh trái ngang nhưng con sẽ hoàn thành được sứ mạng và trách nhiệm của mình.
Vì lẽ đó con sẽ trải qua nhiều thử thách cần phải được tôi luyện qua những lớp đặc biệt dẫy đầy cam go tủi hận!
Tim tôi như thắt lại. Một nỗi ê chề chạy rần trong cơ thể. Tôi nghiền ngẫm suy nghĩ. Ta phải có trách nhiệm nặng nề? Nhưng trách nhiệm nặng nề gì đây?
Tại sao lại là mình mà không là người khác? Tại sao mình không được sống trong cảnh thanh bình để tìm sự bình an cho tâm hồn ?
Tôi khẽ thở dài cảm thấy buồn cho số kiếp mình! Ngài Tiên Tri như thấu hiểu nỗi lòng tôi, mỉm cười rồi bằng giọng trầm trầm nói:
- Bây giờ con hãy trở về ngay để gặp Ngài Minh Dà Đông Đạt! Minh Sư con đang nóng lòng mong đợi. Chắc chắn Người sẽ có nhiều điều muốn được cùng con thảo luận.
Tôi đứng lên như một cái máy, cúi rạp đầu đúng theo nghi lễ trước khi rời khỏi phòng. Bên ngoài nhà sư cảnh sát có thân hình như ông khổng lồ đang đợi sẵn để đưa đường.
Chúng tôi đi song song bên nhau và tôi sực nhớ ra một bức tranh ngộ nghĩnh có lần đã được xem, trong đó hình ảnh con voi to tướng đang đi bên cạnh con kiến tại cánh rừng già.
Nghĩ đến đây tôi bật cười thành tiếng, nhưng ngay sau đó vội chắp hai tay lại đọc lên lời sám hối:
- A Di Đà Phật! Tôi đã phạm qui điều nơi cửa Thiền.
Cũng may là người cảnh sát khổng lồ không hề lưu ý. Cũng có thể ông ta nghe thấy nhưng tảng lờ đi vì tôi được xếp vào hàng ngoại lệ?! Tôi vừa đi vừa mỉm cười suy nghĩ quên hẳn những nỗi gian lao sắp đến. Tâm thần tôi tự nhiên thoải mái lạ lùng.
Hình ảnh chú Sĩ Ca chập chờn hiện ra trước mắt. Tôi cảm thấy nhớ chú một cách lạ lùng. Chú đã từng nói với tôi về thuyết luân hồi.
Từ xưa nay theo chú các dân tộc Đông Phương đều quan niệm con người có tiền kiếp, và xem đó là một sự kiện tự nhiên không thể chống lại được.
Có người đặt vấn đề: "Nếu có "Luân Hồi" thì ắt phải nhớ lại tiền kiếp của mình, thế tại làm sao chẳng một ai nhớ cả?"
Điều này chú Sĩ Ca giảng giải: "Chúng ta hãy loại bỏ những chi tiết mà chỉ giữ lấy phần nguyên tắc đại cương. Ví như con người khi mới tập tễnh biết đi, biết đứng rồi cắp sách đến trường để học những kiến thức đầu tiên mà nhà trường lúc ban đầu dạy bảo, nhưng đã mấy ai nhớ lại được các sự kiện ấy?
Chắc chắn là chẳng mấy ai còn nhớ đến các hình ảnh ấy bao giờ!! Thế thì câu chuyện của mấy trăm, mấy ngàn vạn năm về trước thật khó lòng mà ghi nhớ hết được.
Hơn nữa, cứ mỗi kiếp trải qua là một xác thân khác, một bộ óc khác, một đất nước khác, một chủng tộc khác, như vậy đủ chứng minh rằng chuyện không nhớ ra tiền kiếp chẳng có gì là lạ lùng cả!
Chú Sĩ Ca siết chặt tay tôi với tất cả tình thương của chú. Chú muốn nói hết những điều gì chú biết để truyền đạt lại cho tôi:
- Lỗ San! Sự lãng quên các tiền kiếp là một điều cần thiết cho mọi thử thách ở trần gian. Con người bằng da bằng thịt ở trần gian này, có đầu tóc hoặc đen huyền, hoặc óng ánh như bạch kim, cùng có một huyết thống như nhau, tất cả đều ô nhiễm những tội lỗi xấu xa và đầy dẫy những điều hổ thẹn.
Trong lịch trình tiến hóa dài dằng dặc từ thiên niên kỷ này sang thiên niên kỷ khác...trải qua biết bao kiếp tử sinh, sinh tử, chắc chắn chúng ta đều đã tích trữ bao nhiêu điều tội ác, đầy dẫy cả những bất công trong quá khứ đó.
Vả lại, cuộc đời trước mắt Lỗ San đây cũng đã ngập tràn những nỗi nhọc nhằn đau khổ, nhưng vẫn chưa hết, nó còn nhọc nhằn đau khổ hàng bao nhiêu lần hơn nữa, nếu ta còn phải nhớ thêm cả những nỗi khó khăn đau khổ tích trữ từ bao nhiêu kiếp trước!
Lỗ San nên biết rằng nhớ lại dĩ vãng của mình ở các kiếp xa xưa đó nó còn liên hệ đến đến dĩ vãng của biết bao nhiêu người khác.
Tất nhiên mọi hành động bất công của họ đối với ta hay ngược lại của từ bao nhiêu kiếp trước sẽ hiện ra trước mắt mình, và tất nhiên sự thù oán sẽ đến không thể nào tránh được sẽ nẩy mầm từ đó rồi tiếp tục diễn ra từ đời này sang đời khác, biết đến bao giờ chấm dứt ?
Tôi lặng lẽ bước đi và miên man suy nghĩ. Anh Hà Mịch đã có lần giúp tôi giữ vững lập trường trên con đường đi tìm đạo hạnh. Anh nhắc lại chuyện Đức Thích Ca Mâu Ni
- Đấng đã tìm ra con đường dẫn dắt chúng sinh đi vào Cõi Thiện. Có một hôm một môn sinh kia đến hỏi Ngài: "Bạch Thầy, con phải tin ai đây, vì người thì nói điều này, kẻ lại bảo điều kia, cả hai đều đoan quyết là lời mình nói đúng!"
Đức Phật đã trả lời: "Đừng tin lời ai cả, kể cả lời nói của ta trừ phi thấy lời nói của ai đó có ý nghĩa với ngươi. Và ngay cả với ngươi nữa khi không tin được điều nào đó thì hãy xử sự nó như một giả thuyết hợp lý, mãi đến khi chính bản thân ngươi cảm nhận rằng điều ấy là đúng."
Lời nói này của anh Hà Mịch làm tôi suy nghĩ nhiều. Anh Hà Mịch hay chú Sĩ Ca đều có lý. Rồi tôi lại miên man nghĩ đến anh Lâm Chánh có lần cùng tôi mạn đàm về "sự sống" của các vật thể trên đời.
- Lỗ San à ! Chưa ai có thể phân tích được "Sự Sống" một cách rõ ràng, mặc dù tất cả mọi người đều phải tiếp xúc với sự sống hiện hữu của mình. Có ai đã từng được nhìn thấy một sinh vật bắt đầu từ giã cõi đời, và trong giờ phút đó những gì đã xảy ra trong giờ phút lâm chung của họ?
Tuy không nói ra bằng lời, nhưng có điều chẳng ai có thể chối bỏ là chắc chắn có một cái gì đó đã rời khỏi ngay thân xác một lớp vỏ bằng da thịt, xương xóc hay đúng hơn là một thi thể đang đi vào sự tan rã rữa nát để rồi vĩnh viễn trở về với cát bụi.
Tôi nhìn anh Lâm Chánh một hồi lâu rồi lên tiếng hỏi:
- Vậy, thưa anh Lâm Chánh, "Sự Sống" có phải là một hiện tượng có thật hay không?
- Đúng vậy! Nó là một hiện tượng hiển nhiên có thật. Dù rằng, ta khó lòng hiểu được nó. Đành rằng trí tuệ của nhân sinh đã cố gắng sản xuất ra được các tổng hợp nhân tạo để hỗ tương cho những hiện tượng thiên nhiên!
Đang nghĩ đến đây tôi bất giác giật mình đánh thót khi nghe giọng nói ồ ồ của người cảnh sát khổng lồ đang đi bên cạnh.
- Thưa quý khách đã đến nơi rồi. Xin Ngài cho phép kẻ đưa đường này được cáo từ tại đây!
Nghe lời nói một cách trịnh trọng này khiến tôi lúng túng, mặt mày đỏ au lên vì cả thẹn, không biết phải trả lời làm sao cho đúng phép
! Tôi chỉ là một đứa bé thân phận không hơn không kém một chú tiểu đâu có gì mà khiến ông cảnh sát có thân hình hộ pháp lại đến nỗi phải khuất mình trước một đứa bé con như vậy?!
Bỗng ngay trong lúc đó giọng nói của Minh Sư vẳng vọng vào tai tôi, như thể muốn cắt đứt dòng mạch suy tư của tôi về những nỗi thắc mắc này:
- Lỗ San, đừng quá ưu tư về những gì chú đã nhìn thấy trên màn ảnh đầy huyền diệu đó. Âu đó cũng chỉ là một chuyện thông thường có gì phải đáng quan tâm đâu?
#7
Gửi vào 06/06/2011 - 21:43
MẬT PHÁP MỘT QUYỀN NĂNG TỐI THƯỢNG
Minh Sư đã ngồi đợi sẵn từ lúc nào. Vừa nhìn thấy tôi Người đã ra hiệu ngồi xuống chiếc ghế đối diện tại một bàn ăn làm bằng loại gỗ mun đen bóng lộn. Tôi vừa ngồi xuống thì cũng vừa lúc chiếc chuông bạc trên tay Người rung và ngân lên một hồi dài như tiếng của phong linh đong đưa trước gió.
Trả cái chuông bạc về chỗ cũ, Người nhìn tôi cười bảo:
- Hãy ăn cái đã...Thể xác phải được bồi dưỡng trước, nhiên hậu mới lo đến phần hồn. Có phải thế không chú ?
- Thưa Minh Sư, con cũng nghĩ vậy.
Từ nhà trong một chú tiểu đầu vừa gọt sạch nhẵn bưng khay thức ăn ra đặt giữa bàn đoạn cúi đầu lui lại trước khi quay mặt trở vào. Cũng may tôi về đúng vào giờ ăn, nên khỏi phải lo chạy xuống nhà bếp, lắm khi xui xẻo gặp các ông hỏa đầu hổ mang thường sừng sộ hạch sách đủ điều về sự trễ nải của mình về giờ giấc ăn uống. Thật ra với tôi thì giờ giấc ít khi được đúng theo điều lệ ấn định cho các chú tiểu tập huấn tại Thiền Viện.
Nhưng các ông Sư Hỏa Đầu đâu có biết sự hiện diện cùng trách vụ đặc biệt của tôi tại ngôi Thiền Viện cao nhất nước này! Có lần khi mới cùng thầy tôi đến nơi, đã lãnh ngay chiếc đũa bếp còn đang có nhiệt độ cao từ trong bếp lửa ra đập mạnh vào đầu tôi, chỉ vì cái tội ăn uống ngoài giờ giấc qui định.
Những lúc như vậy tôi cảm thấy mình bị xúc phạm một cách quá đáng, hai dòng lệ bất giác tuôn trào lên đôi má. Nhưng tôi được an ủi từ một chú tiểu ngồi bên cạnh thầm thì vừa đủ để cho tôi nghe: "Rồi cái gì cũng quen đi ông bạn ạ!.
Các ông sư hỏa đầu hổ mang có la lối, hạch sách hay đánh đập đến đâu, chúng ta hãy xem đó như việc làm công quả, dù là công quả hóc búa hay công quả êm đẹp cũng đều như nhau, có nghĩa là cùng một thứ công quả để mong có được ngày đạt thành chánh quả cả chú ạ!".
Rồi ngồi trầm ngâm trong giây lát, chú đưa cho tôi chiếc khăn tay và bảo: "Hãy thấm nước mắt vào trong chiếc khăn này và chú hãy giữ lấy để làm kỷ niệm". Về sau, có nghĩa là hơn nửa thế ký sau đó tôi mới truy ra được ông bạn "Tiểu Tiểu" này, trước kia, kiếp trước là một người bạn chí thân của tôi tại ngay đất nước có nhiều giai cấp nhất thế giới. Đó là đất nước Ấn Độ.
Ăn uống ở cửa Thiền cũng có qui tắc. Khi ăn không được nhìn ngửa nhìn nghiêng. Tuy đang ăn uống cũng phải lắng nghe lời kinh tại ngôi đại sảnh đường vẳng vọng lại và tuyệt đối không được phân trí. Mọi hành động đều không thể thoát qua khỏi tầm mắt của các nhà sư già.
Chỉ một cái liếc mắt nhìn nhau, một cái cựa mình không đúng lúc trong khi tiếng kinh kệ còn vang nơi Chánh Điện là vị chi đã bị ngay các Ngài Giám Thị tiến đến cảnh cáo. Riêng tôi, từ sau ngày gặp gỡ Ngài Lạt Ma Tiên Tri được ân sủng ngoại lệ ăn uống cùng phòng của Minh Sư, nên không còn bị ràng buộc theo các qui điều nghiêm khắc này.
Nhìn qua song cửa sổ là ngọn Hy Mã Lạp Sơn chạy dài gần như bất tận hiện ra trước mắt. Dưới chân núi những bông hoa dại đủ màu rực rỡ. Xa xa một lạch suối trong veo có những nụ tầm xuân vàng ửng nổi lên giữa làn nước bạc phếu.
Dăm ba chòm mây màu hồng nhạt lững lờ trôi giữa vòm trời xanh biếc. Không hiểu sao tự nhiên tôi cảm thấy lòng mình lâng lâng trước cảnh đẹp hùng vĩ của rặng Hy Mã Lạp Sơn và không muốn rời xa nó. Nhưng hoàn cảnh không cho phép tôi được làm theo ý muốn.
Tuy chỉ là một chú tiểu tầm thường như trăm ngàn chú tiểu khác song tôi được tách biệt ra bởi thầy tôi và vị Lạt Ma Tiên Tri đưa tôi vào một địa vị khá đặc biệt, một vị trí khác. Tôi phải gánh vác một nhiệm vụ trọng đại mà Ngài Lạt Ma Tiên Tri cũng như thầy tôi đã dùng thần giao cách cảm truyền đạt đến:
"Lỗ San! Chú không phải là một chú tiểu tầm thường hàng ngày lo châm dầu, quét dọn chánh điện. Chú phải gánh vác một trọng trách to lớn mà chính chúng ta cũng không được phép làm như chú."
Thế có nghĩa là một ngày kia tôi sẽ phải rời bỏ ra đi vâng theo mệnh lệnh đến một nơi xa xăm nào đó để làm tròn trách vụ nặng nề của mình! Nhưng mà, rồi trong tương lai tôi còn có dịp nào trở về nơi đây để được chiêm ngưỡng cảnh đẹp của dãy Hy Mã Lạp San hùng vĩ này chăng? Hay là...
Về hình ảnh tương lai của tôi, tôi đã được nhìn thấy rõ ràng trên màn ảnh. Thú thật, tôi cảm thấy ưu tư không ít, bởi nhiều lúc có những cảnh tượng lờ mờ hiện lên trên màn ảnh mà tôi chẳng nhận ra được đó là những hình ảnh gì?!
Một cuộc chiến máu chảy thành sông, thây chồng thành núi? Một cuộc vật lộn giữa con người với đàn thú dữ? Thật lạ lùng! Cái gì tôi cũng không làm sao diễn tả được! Hình như trong đó có cả hình ảnh của tôi, của những người chung quanh tôi! Của những kẻ hiền và của cả những người dữ.
Tại sao lại như vậy? Và tại sao lại có cả hình ảnh của tôi bên trong ấy?!Tôi có cảm tưởng là mình đang bị quay cuồng theo cơn lốc xoáy và cuối cùng tôi chẳng còn là tôi nữa mà chỉ là một điểm trắng nhỏ rực lên sáng chói bay đi cùng khắp giữa màn trời đen tối.
Và, chưa hết, tôi thấy hình ảnh tôi đang gặp cảnh hiểm nguy tứ bề thọ địch. Tôi như một kẻ bị lọt vào trong chiếc lưới sắt bủa vây cùng khắp mà chung quanh toàn là loài ác thú, luôn luôn rình rập để ăn tươi nuốt sống tôi. Chúng gầm gừ sẵn sàng nhảy vào tôi để xé tan từng mảnh.
Rồi tiếp theo đó: sấm sét, bão táp, tựa như trời đất đang thịnh nộ. Tôi vụt nẩy ra ý nghĩ gần như khôi hài, ắt tiếng sấm sét gầm vang đó ắt làm náo loạn cả thiên cung, làm rung chuyển cả chín tầng địa ngục, khiến cho đất trời đều khủng khiếp. Vẫn chưa hết!
Rồi một trận lụt đại hồng thủy. Nước đỏ như máu. Tôi lặn ngụp trước những đợt sóng thần phủ chụp và tôi có cảm tưởng là mình không còn đủ sức chịu đựng nữa. Tôi cố vùng vẫy để thoát khỏi cảnh hãi hùng ấy. Giữa lúc cảnh tượng thập tử nhất sinh ấy thì có tiếng thầy tôi văng vẳng bên tai:
- Lỗ San! Chú đã nhìn thấy tương lai của chú rồi. Liệu chú có chịu đựng nổi không? Cuộc đời của chú toàn là như thế đấy! Nếu chú cảm thấy không đủ can đảm để xông pha cáng đáng với công việc mà mạng sống của chú chẳng khác nào như sợi chỉ mành treo chuông thì âu đó chỉ vì chú không có được cơ duyên.
Ôi! Đáng tiếc thay! Thôi thì đành vậy. Nhưng biết làm sao bây giờ? Nếu thật vậy thì âu ta cũng đành giữ chú ở lại để tiếp tục sống và chiêm ngưỡng cảnh đẹp của núi rừng hùng vĩ ở dải đất Tây Tạng này.
Tôi giật mình. Thầy tôi đã biết được ý nghĩ của tôi đang lưu luyến cảnh thái thiên nhiên của dãy Hy Mã Lạp San đầy huyền nhiệm này! Người đã biết rõ ràng là ta không muốn rời xa nó.
- Thưa thầy! Con không muốn là hạng người tầm thường run sợ trước mọi cảnh hiểm nguy mà chối bỏ lấy trách nhiệm! Không, thưa Minh Sư, con không muốn bị người đời cho là hạng người tham sinh úy tử! Thưa Minh Sư, con không muốn bị liệt vào hạng người tầm thường đó.
Con sẵn sàng chịu đựng và sẵn sàng làm tròn trách vụ của mình, mặc dù con biết sẽ gặp lắm nỗi khó khăn, cơ khổ.
Nghe tôi nói như vậy, Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt nở nụ cười tươi trên gương mặt hiền hòa rạng rỡ. Người nhìn tôi thật lâu đoạn lên tiếng:
- Ta không chê trách chú và ta còn biết trước chú sẽ có những phản ứng như vừa rồi. Chú hãy yên lòng và vững tin vào định mệnh của chú trên bước đường gian nan hiểm trở, mà chú sẽ phải trải qua với muôn vàn khổ nạn. Ta chắc chắn rằng chú sẽ thành công. Đức Lạt Ma Tiên Tri tin rằng kiếp số chú không phải là một chú tiểu tầm thường.
Không hiểu sao, tôi sực nhớ đến lời giảng giải của chú Sĩ Ca trước kia nói về câu chuyện "tiền kiếp", liền cất tiếng hỏi :
- Có một điều con thắc mắc là làm sao con người tái sinh vào cuộc đời này mà không nhớ được gì về tiền kiếp của mình? Và, tại sao còn có những chuyện phải che dấu không cho con người có trách nhiệm phải gánh vác một điều gì quan trọng được biết
"cái gì rồi sẽ xảy ra", như trường hợp của con chẳng hạn?! Và cũng như tại làm sao, vì những lý lẽ gì mà chúng ta không nhìn thấy rõ tất cả mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời mình?
Nghe tôi hỏi vậy, bất giác Ngài Minh Dà Đông Đạt phá lên cười. Giọng cười của Người làm tôi có cảm tưởng như âm vang chuyển động cả dãy Hy Mã Lạp Sơn đầy huyền nhiệm này.
- Chú quả thật biết quá nhiều, mà chú cũng vừa là con người lại chóng quên tất cả. Gần đây, có lần ta đã nói với chú là thông thường chẳng ai nhớ được những gì ở kiếp trước của mình được. Nếu biết được chỉ gây thêm cho mình những nỗi bận tâm không ít.
Như chú đã biết, bánh xe luân hồi quay đều đặn và rất công minh, khi thì đem phú quí cao sang cho người này, và cũng cùng lúc mang cho kẻ khác bao cảnh khốn cùng đau khổ! Kiếp này làm kẻ ăn xin, cơm không, áo chẳng, kiếp sau lại trở thành là những ông hoàng bà chúa, sống trong chốn lầu son gác tía, ăn sung mặc sướng, rủng rỉnh ngựa xe, lắm kẻ hạ người hầu.
Nói đến đây, thầy tôi im lặng trong giây lát như tuồng Người đang trầm ngâm suy nghĩ đoạn sau đó tiếp tục giải thích về điều tôi thắc mắc:
- Con người không thể nhớ về quá khứ, đó là một qui luật của sự sống mà tạo hóa đã an bài. Con người không nhớ được cái quá khứ là một sự "thử thách" bắt đầu lập lại cuộc đời mới của một kiếp tái sinh!
Tôi chận lại hỏi thầy tôi:
- Nhưng, thưa thầy còn những cảnh phải dấu diếm là tại làm sao? Nếu cứ để cho mọi người đều biết được cái tiền kiếp của mình thì chắc chắn họ sẽ tiến nhanh hơn.
- Đâu có phải giản đơn như vậy. Chúng ta có những tiềm năng ở trong người chúng ta thuộc quyền điều khiển của chính ngay thể phách mình. Không có gì so sánh được vì nó quá vĩ đại đối với tất cả cái gì.
Chẳng biết thầy tôi nghĩ thế nào, đến đây Người mỉm cười chậm rãi nói:
- Ta càng nghĩ càng không thể hiểu được khi nhìn thấy người Tây phương họ dùng một lúc hàng loạt các phương tiện máy móc để gửi tin tức bằng đường vô tuyến qua các đại dương mênh mông xa thẳm. Họ gọi đó là đường dây "vô tuyến" nhưng thật ra trong các máy móc đó lại chứa đựng hàng ngàn cây số dây điện.
Trong lúc đó ở xứ sở Tây Tạng này các thông tin với nhau bằng "thần giao cách cảm". Chúng ta đâu có phải sử dụng cái vô tuyến như họ? Chúng ta còn có thể du hành trong cõi "Vô Hình", qua không gian và thời gian, đi khắp cùng thế giới hoặc các cảnh giới khác nhau.
Chúng ta có thể dùng tiềm năng cho thể xác ta lướt trên không khí hoặc dùng nhãn lực của mình nhấc bổng được những khối nặng cả ngàn cân... Lỗ San ơi! Chẳng phải trên cõi đời này thảy đều trong sạch.
Cũng chẳng phải tất cả những vị sư mặc áo cà sa đều trở thành Đức Phật. Đừng nghĩ đâu xa xôi, ngay cả ở Cửa Thiền này các nhà sư thảy đều hiền lành, đạo đức mà thật ra cũng lắm kẻ làm cho Cửa Thiền hoen ố!
- Thưa thầy! Làm thế nào chúng ta có được những điều thầy vừa nói?
- Mật pháp ! Mật pháp bảo vệ sự sinh tồn cho toàn thể nhân loại.
- Thưa thầy, thật tình con chưa được hiểu điều này.
- Mật pháp (Secret Knowledge) có thể cho ta biết trước những điều gì sắp xảy ra. Chính vì "mật pháp" đó mà có nhiều Đức Lạt Ma thuộc hàng cao cấp bị bách hại... chỉ vì các Ngài nhất quyết không chịu tiết lộ dù chỉ là một vài chi tiết.
- Truyền đạt cho nhau là một điều nên làm, tại sao chúng ta phải giữ bí mật ?
Ngài Minh Dà Đông Đạt nhìn tôi lắc đầu:
- Lỗ San! Không nên nghĩ một cách nông cạn như vậy. Giữa cái xã hội ngày nay, con người đa phần chỉ nghĩ đến "tiền tài và quyền lực". Nếu "mật pháp" của chúng ta trao nhầm tay quỉ dữ thì chú thử tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra đây?
Như thể nghi ngờ rằng tôi chưa nghe rõ sự cần thiết giữ bí mật các Mật Pháp, Minh Sư nhấn mạnh lại vấn đề này:
- Để bảo vệ sự sinh tồn cho nhân loại chúng ta bắt buộc phải tuyệt đối giữ bí mật các "Mật Pháp" như ta đã nói với chú. Lỗ San, nghe rõ chứ?
- Thưa thầy vâng. Con nghe rõ.
Ngài Tiên Tri và nhiều vị khác nữa đều tiên đoán rằng mảnh đất Tây Tạng này rồi đây sẽ bị một loại tôn giáo ngoại lai khác mang quân đến chinh phục. Đó là loại tôn giáo bất bình thường.
Mục đích của họ không ngoài củng cố bạo lực cho những nhà độc tài bắt toàn thể nhân loại hoặc ít nhất là một nửa số người trên hoàn vũ này làm nô lệ cho họ.
Có nhiều Đức Lạt Ma thuộc hàng cao cấp đã bị người Nga bách hại đến chết, chỉ vì các vị này đã nhất quyết không chịu tiết lộ "mật pháp" dù chỉ là một chi tiết nhỏ nhặt.
Một kẻ tầm thường nếu có mật pháp trong tay họ sẽ làm gì khi mà kẻ ấy đã thấu đáo là mình sẽ tóm thâu tất cả những gì mình muốn bằng vào "quyền lực" siêu phàm mình đang sẵn có? Lúc ban đầu họ còn sợ hãi, hoang mang chẳng biết việc gì sẽ xảy ra nếu một khi họ sử dụng đến?
Nhưng rồi sự sợ hãi ấy dần dà tan biến đi, tà tâm của họ bắt đầu khuấy động. Và từ sự khuấy động đó lòng tham lam của họ sẽ dấy lên và ý đồ lợi dụng sẽ từ từ nẩy nở... Từ đó họ bắt đầu cảm thấy phải thực hiện cái quyền lực vô song và phi thường này để thỏa mãn sự khát vọng của mình.
Nói đến đây, Minh Sư nhìn tôi hỏi:
- Chú hiểu chứ ?
- Thưa thầy, con hiểu.
- Lỗ San à! Họ thèm khát "mật pháp" của chúng ta là vì họ cần có tiền. Khi mà họ có tiền trong tay rồi thì quyền lực của họ càng tăng trưởng hơn lên. Từ đó họ bắt đầu biến thành một con thú dữ.
Vốn là một con hổ dữ, giờ thêm mật pháp nữa thì chẳng khác nào ta cho họ thêm vây. Túi tham của họ không đáy. Với họ của cải quí
báu có bao nhiêu cũng không đủ. Lúc nào họ cũng không thỏa mãn với sự hiện hữu của mình. Đừng nói "tri túc" với họ.
Thầy tôi nói đến đây, thở dài lắc đầu:
- Ôi! Không có gì đáng buồn bằng khi một kẻ giàu lòng tham vọng mà trong tay họ có quyền năng tối thượng, thì quả đất này sẽ có một ngày kia tan nát hết!
Tự nhiên trong đầu óc tôi lóe lên một tia sáng vì nghĩ rằng nhờ "mật pháp" sẽ cứu nguy cho chính mảnh đất ven dãy Hy Mã Lạp Sơn đầy huyền nhiệm này thoát ra khỏi cảnh đau khổ. Tôi bèn lên tiếng hỏi Minh Sư:
- Nếu vậy thì thưa Minh Sư, "mật pháp" sẽ cứu nguy cho quê hương yêu dấu của chúng ta được có cảnh thanh bình an lạc.
Người khẽ thở dài lắc đầu :
- Không.
Tôi vô cùng kinh ngạc khi nghe Minh Sư phủ nhận về cái quyền lực tối thượng của "mật pháp", bèn hỏi lại:
- Thưa Minh Sư, tại sao lại không?
- Không thể nào được. Chúng ta không có quyền mang bí pháp ra sử dụng với công việc làm như vậy.
- Mật pháp của chúng ta, chúng ta có quyền mang ra bảo vệ hoặc làm tăng trưởng thêm quyền lực của chính mình. Tại sao lại không ?
Minh Sư nhìn tôi trầm ngâm giây lát rồi lên tiếng đáp:
- Không. Không thể được. Chúng ta không được phép mang bí pháp ra sử dụng với công việc như chú mong muốn. Chú nghĩ rằng Tây Tạng từ ngàn xưa không có tội lỗi hay sao?
- Theo con nghĩ là không.
- Chú lầm rồi! Có. Tây Tạng đã bị lỗi lầm to lớn, không phải như Lỗ San nghĩ hoàn toàn thánh thiện. Tây Tạng từng một thời như các quốc gia khác có một quá khứ dẫy đầy tội ác! Tây Tạng cũng bị trừng phạt theo định luật của Đất Trời.
Mảnh quê hương này của chúng ta đã có một thời gian gần như bị tiêu diệt, nhưng may mắn thay chúng ta đã thoát ra được cảnh đau thương ấy. Hiện giờ tuy còn bị chìm trong nỗi tang thương thật nhưng trong tương lai sẽ được phục hồi và sẽ trở thành lớn mạnh!
Mảnh quê hương yêu dấu có dãy Hy Mã Lạp Sơn này sẽ thanh lọc mọi cặn bã xấu xa ngay trong ngọn lửa chiến tranh và sẽ đưa toàn thể thế giới cùng hòa nhập vào đời sống thanh bình, an lạc...
Rồi Người mỉm cười nhìn tôi nói nhỏ:
- Lỗ San ! Chiến tranh thật tàn ác, nhưng nó cũng là một đường lối giải quyết tất cả những cái xấu xa...
- Thưa Minh Sư, còn nếu không có chiến tranh thì sao?
- Thì loài người sẽ bị chết về mọi bệnh dịch bất trị khác. Đó là một đáp số thật công bình vì nhờ nó mà quân bình được dân số trên hoàn vũ để loài người trên Địa cầu này có cơ hội cùng các Thế Giới khác ở một cõi xa xôi nào đó, có cơ hội nương tựa, giúp đỡ lẫn nhau.
Chiến tranh sẽ xảy ra hết giai đoạn này đến giai đoạn khác, cho đến khi quả đất được điều hòa bằng một phương pháp hợp lý để đạt được một đời sống không còn hận thù đau khổ nữa, một thế giới hoàn toàn an bình, cực lạc.
Tiếng cồng từ xa bỗng rền rĩ đưa lại. Minh Sư vội đứng lên và bảo tôi hãy cùng đến Chánh Điện. Ra khỏi cửa phòng, thầy trò tôi đi dọc theo hành lang vào trong sân chùa. Tiếng cồng càng lúc càng vang lên như thể thúc giục, có vẻ càng lâu hơn cả khi chúng tôi còn ở Trắc Phổ Di.
Trước mắt chúng tôi là một đám đông người toàn là các vị tuổi tác già nua hoặc những vị bị tàn phế khập khễnh bước đi một cách nặng nề, khó khăn nhất đối với họ là khi bước lên các bậc thềm của ngôi chùa vĩ đại này.
Minh Sư khẽ nói bên tai tôi:
- Lỗ San, chú hãy tìm chỗ đến ngồi cạnh với các tăng sĩ trong dinh Ngài Tiên Tri thì hơn.
Tôi gật đầu vâng lời và tiến đến cạnh với đám tông đồ áo nâu đang ngồi bên trong ngay giữa Chánh Điện. Đám Tăng sĩ nhìn tôi có vẻ như tò mò. Rồi bất thần đám này thừa cơ viên giám thị nhìn đi nơi khác, liền sẽ sàng phóng nhanh đến bu quanh tôi để nhìn tôi được tường tận hơn.
Trong đám đông Tăng sĩ bao quanh tôi đó, có tiếng khẽ hỏi:
- Ông anh từ đâu đến ?
- Trắc Phổ Di.
Rồi một giọng có vẻ còn non choẹt hỏi tiếp theo:
- Chú là người của Ngài Đại Lạt Ma gửi đến phải không ?
Tôi nhìn chú tiểu nhỏ tí xíu này một lát rồi gật đầu:
- Phải.
- Để làm gì thế ?
- Để gặp Ngài Tiên Tri.
Bỗng một giọng oang oang như tiếng đồng chung từ phía sau lưng tôi vang lên:
- Im ngay đi. Không được phép làm ồn nữa nghe không?
- Tôi giật mình khẽ liếc mắt nhìn. Thì ra đó là ông cảnh sát Hộ pháp đang quắt mắt nhìn đám trẻ chúng tôi, nhưng may mắn thay, ông cảnh sát Hộ pháp này nói xong liền bỏ đi nơi khác.
Lại có tiếng cười khúc khích:
- Ấy dà! Đừng để ý làm gì cái ông bắt nạt người ấy! Tiếng sủa của con "tê" lúc nào cũng lớn hơn tiếng cắn.
Đám Tăng sĩ nhỏ nhìn tôi rồi cùng nhau bụm miệng lại cười. Cùng trong lúc đó từ cánh cửa nhỏ Ngài Tiên Tri cùng với Ngài Trụ Trì xuất hiện tiến về hướng Chánh Điện.
Sau khi làm lễ chúng tôi kéo nhau kéo nhau vào bên trong nhà bếp để lấy nước trà uống. Tôi cũng không quên lấy lúa mạch chứa đầy vào túi da rồi lặng lẽ bước ra trở về phòng ngủ.
Nơi ngủ của tôi là một chiếc giường không lớn không nhỏ kê bên cửa sổ. Đêm đã về khuya, phòng kế bên một mầu tím sẫm bao phủ. Vài ngọn đèn le lói sáng.
Ngoài trời, xa xa ngọn Hy Mã Lạp Sơn với những đỉnh núi nhọn hoắt chọc trời chia chỉa đâm lên tợ như những ngón tay chụp vào nhau để cầu khẩn các Linh Thần trên không trung bảo hộ cho mình. Ánh trăng chiếu vào các khe núi lúc ẩn lúc hiện, càng về khuya càng sáng hẳn lên.
Bóng trăng trải xuống con suối trông hệt như một dòng sông nhấp nhô gợn sóng. Bên trên, các hòn đá nhọn chĩa lên, xa xa nhìn như những cây cột dựng hai bên của một cây cầu vắt ngang sông.
Tôi sực nhớ ngày nào có lần cùng Minh Sư đi đến ngôi Đại Tự qua những cái ao nhỏ mọc đầy bông tý ngọ có màu sắc vừa tím vừa đỏ xen lẫn nhau cùng nhiều bụi huệ trổ hoa mọc ở chung quanh trông như thể một bức tranh ngày tết.
Lúc ấy nếu không có Minh Sư đi bên cạnh, thế nào tôi cũng nhảy xuống ngựa đuổi bắt mấy chú chuồn chuồn hoặc bắt các nàng bướm hoa đủ màu đủ sắc.
Lúc bấy giờ, các hình ảnh này đã gợi cho tôi nhớ lại cảnh sống ở quê nhà lúc tôi chưa được thân phụ mang đi tu viện đó là một nơi thật trầm lặng và cũng thật yên tĩnh, phảng phất mùi thơm của núi rừng hòa lẫn với mùi cỏ dại.
Bây giờ thì quê hương ấy chỉ còn lại trong ký ức, hy vọng ngày trở về thăm viếng cha mẹ thật xa vời.
Không ngủ được, tôi nằm miên man suy nghĩ đủ mọi thứ, đủ mọi hình ảnh. Tôi nhớ cả mấy ngọn cờ lễ rũ xuống im lìm trên cột gỗ. Một vài tảng mây mỏng lững lờ trôi trên vòm trời thành Lạt Sa.
Ôi! Lạt Sa đẹp làm sao! Tôi không thể nào quên được các hình ảnh đầy thơ mộng ấy...Và, cứ như thế, hết hình ảnh này đến hình ảnh khác chập chờn hiện lên trước mắt cho đến khi tôi chìm dần vào giấc ngủ ngon lành đến sáng.
Tôi giật mình thức dậy. Ánh bình minh vừa rựng dưới chân trời. Các cành cây còn đọng hạt sương mai lấp la lấp lánh trông hệt như những viên kim cương đủ màu đủ sắc.
Tôi vội vàng vùng dậy, khoác lấy áo chạy ngay ra cửa dọc theo hành lang rồi vụt chạy thẳng đến sân ngoài gần đó, và cứ chúi đầu chúi cổ chạy, bất giác đâm sầm ngay vào vòng tay của ông cảnh sát người Kham.
- Chú đi đâu ?
Tôi vừa giật mình vừa cảm thấy cái đầu mình ê ẩm, ngước mắt lên nhìn thấy ông cảnh sát Hộ pháp này mỉm cười nhìn tôi, hỏi lại lần nữa:
- Chú đi đâu thế ?
Tuy giọng nói của ông ta nhỏ nhẹ đượm vẻ hiền hòa, nhưng cũng đủ làm cho tôi thấy chói cả tai:
- Thưa ông cảnh sát, tôi chạy cho kịp đến khóa lễ sớm ạ! Có lẽ tôi bị ngủ dậy trễ rồi.
Ông ta mỉm cười buông tay tôi ra khẽ nói:
- A! Thì ra chú là khách đường xa đến. Nơi đây không có lễ sáng như chú tưởng. Thôi, chú có thể trở về phòng để tiếp tục ngủ lại đi.
Nhìn thấy tôi có vẻ ngơ ngác, ông mỉm cười giải thích:
- Nơi đây toàn là những người già cả, nếu không thì cũng là những kẻ tàn tật, què quặt hay đui mù...bởi những lý do đó nên được đặc ân khỏi phải đi lễ sáng như các Thiền Viện khác.
Nói xong, ông ta cười híp cả mắt đưa tay vỗ nhẹ lên đầu tôi. Nhưng, với cái đầu nhẵn nhụi của tôi bị cái vỗ ấy của ông cảnh sát Hộ pháp này chẳng khác nào như một quả đấm nặng tợ ngàn cân giáng xuống.
Tôi ngẩng mặt nhìn ông ta một lần nữa rồi cúi đầu thi lễ, đoạn chạy nhanh băng qua dãy hành lang trở về phòng ngả lưng xuống giường tiếp tục tìm lại giấc ngủ.
Tiếng chim ngoài trời líu lo như thể những bản đàn tấu lên một điệp khúc êm ái, nhẹ nhàng đưa tôi vào chốn thiên thai đầy hoa thơm cỏ lạ.
Minh Sư đã ngồi đợi sẵn từ lúc nào. Vừa nhìn thấy tôi Người đã ra hiệu ngồi xuống chiếc ghế đối diện tại một bàn ăn làm bằng loại gỗ mun đen bóng lộn. Tôi vừa ngồi xuống thì cũng vừa lúc chiếc chuông bạc trên tay Người rung và ngân lên một hồi dài như tiếng của phong linh đong đưa trước gió.
Trả cái chuông bạc về chỗ cũ, Người nhìn tôi cười bảo:
- Hãy ăn cái đã...Thể xác phải được bồi dưỡng trước, nhiên hậu mới lo đến phần hồn. Có phải thế không chú ?
- Thưa Minh Sư, con cũng nghĩ vậy.
Từ nhà trong một chú tiểu đầu vừa gọt sạch nhẵn bưng khay thức ăn ra đặt giữa bàn đoạn cúi đầu lui lại trước khi quay mặt trở vào. Cũng may tôi về đúng vào giờ ăn, nên khỏi phải lo chạy xuống nhà bếp, lắm khi xui xẻo gặp các ông hỏa đầu hổ mang thường sừng sộ hạch sách đủ điều về sự trễ nải của mình về giờ giấc ăn uống. Thật ra với tôi thì giờ giấc ít khi được đúng theo điều lệ ấn định cho các chú tiểu tập huấn tại Thiền Viện.
Nhưng các ông Sư Hỏa Đầu đâu có biết sự hiện diện cùng trách vụ đặc biệt của tôi tại ngôi Thiền Viện cao nhất nước này! Có lần khi mới cùng thầy tôi đến nơi, đã lãnh ngay chiếc đũa bếp còn đang có nhiệt độ cao từ trong bếp lửa ra đập mạnh vào đầu tôi, chỉ vì cái tội ăn uống ngoài giờ giấc qui định.
Những lúc như vậy tôi cảm thấy mình bị xúc phạm một cách quá đáng, hai dòng lệ bất giác tuôn trào lên đôi má. Nhưng tôi được an ủi từ một chú tiểu ngồi bên cạnh thầm thì vừa đủ để cho tôi nghe: "Rồi cái gì cũng quen đi ông bạn ạ!.
Các ông sư hỏa đầu hổ mang có la lối, hạch sách hay đánh đập đến đâu, chúng ta hãy xem đó như việc làm công quả, dù là công quả hóc búa hay công quả êm đẹp cũng đều như nhau, có nghĩa là cùng một thứ công quả để mong có được ngày đạt thành chánh quả cả chú ạ!".
Rồi ngồi trầm ngâm trong giây lát, chú đưa cho tôi chiếc khăn tay và bảo: "Hãy thấm nước mắt vào trong chiếc khăn này và chú hãy giữ lấy để làm kỷ niệm". Về sau, có nghĩa là hơn nửa thế ký sau đó tôi mới truy ra được ông bạn "Tiểu Tiểu" này, trước kia, kiếp trước là một người bạn chí thân của tôi tại ngay đất nước có nhiều giai cấp nhất thế giới. Đó là đất nước Ấn Độ.
Ăn uống ở cửa Thiền cũng có qui tắc. Khi ăn không được nhìn ngửa nhìn nghiêng. Tuy đang ăn uống cũng phải lắng nghe lời kinh tại ngôi đại sảnh đường vẳng vọng lại và tuyệt đối không được phân trí. Mọi hành động đều không thể thoát qua khỏi tầm mắt của các nhà sư già.
Chỉ một cái liếc mắt nhìn nhau, một cái cựa mình không đúng lúc trong khi tiếng kinh kệ còn vang nơi Chánh Điện là vị chi đã bị ngay các Ngài Giám Thị tiến đến cảnh cáo. Riêng tôi, từ sau ngày gặp gỡ Ngài Lạt Ma Tiên Tri được ân sủng ngoại lệ ăn uống cùng phòng của Minh Sư, nên không còn bị ràng buộc theo các qui điều nghiêm khắc này.
Nhìn qua song cửa sổ là ngọn Hy Mã Lạp Sơn chạy dài gần như bất tận hiện ra trước mắt. Dưới chân núi những bông hoa dại đủ màu rực rỡ. Xa xa một lạch suối trong veo có những nụ tầm xuân vàng ửng nổi lên giữa làn nước bạc phếu.
Dăm ba chòm mây màu hồng nhạt lững lờ trôi giữa vòm trời xanh biếc. Không hiểu sao tự nhiên tôi cảm thấy lòng mình lâng lâng trước cảnh đẹp hùng vĩ của rặng Hy Mã Lạp Sơn và không muốn rời xa nó. Nhưng hoàn cảnh không cho phép tôi được làm theo ý muốn.
Tuy chỉ là một chú tiểu tầm thường như trăm ngàn chú tiểu khác song tôi được tách biệt ra bởi thầy tôi và vị Lạt Ma Tiên Tri đưa tôi vào một địa vị khá đặc biệt, một vị trí khác. Tôi phải gánh vác một nhiệm vụ trọng đại mà Ngài Lạt Ma Tiên Tri cũng như thầy tôi đã dùng thần giao cách cảm truyền đạt đến:
"Lỗ San! Chú không phải là một chú tiểu tầm thường hàng ngày lo châm dầu, quét dọn chánh điện. Chú phải gánh vác một trọng trách to lớn mà chính chúng ta cũng không được phép làm như chú."
Thế có nghĩa là một ngày kia tôi sẽ phải rời bỏ ra đi vâng theo mệnh lệnh đến một nơi xa xăm nào đó để làm tròn trách vụ nặng nề của mình! Nhưng mà, rồi trong tương lai tôi còn có dịp nào trở về nơi đây để được chiêm ngưỡng cảnh đẹp của dãy Hy Mã Lạp San hùng vĩ này chăng? Hay là...
Về hình ảnh tương lai của tôi, tôi đã được nhìn thấy rõ ràng trên màn ảnh. Thú thật, tôi cảm thấy ưu tư không ít, bởi nhiều lúc có những cảnh tượng lờ mờ hiện lên trên màn ảnh mà tôi chẳng nhận ra được đó là những hình ảnh gì?!
Một cuộc chiến máu chảy thành sông, thây chồng thành núi? Một cuộc vật lộn giữa con người với đàn thú dữ? Thật lạ lùng! Cái gì tôi cũng không làm sao diễn tả được! Hình như trong đó có cả hình ảnh của tôi, của những người chung quanh tôi! Của những kẻ hiền và của cả những người dữ.
Tại sao lại như vậy? Và tại sao lại có cả hình ảnh của tôi bên trong ấy?!Tôi có cảm tưởng là mình đang bị quay cuồng theo cơn lốc xoáy và cuối cùng tôi chẳng còn là tôi nữa mà chỉ là một điểm trắng nhỏ rực lên sáng chói bay đi cùng khắp giữa màn trời đen tối.
Và, chưa hết, tôi thấy hình ảnh tôi đang gặp cảnh hiểm nguy tứ bề thọ địch. Tôi như một kẻ bị lọt vào trong chiếc lưới sắt bủa vây cùng khắp mà chung quanh toàn là loài ác thú, luôn luôn rình rập để ăn tươi nuốt sống tôi. Chúng gầm gừ sẵn sàng nhảy vào tôi để xé tan từng mảnh.
Rồi tiếp theo đó: sấm sét, bão táp, tựa như trời đất đang thịnh nộ. Tôi vụt nẩy ra ý nghĩ gần như khôi hài, ắt tiếng sấm sét gầm vang đó ắt làm náo loạn cả thiên cung, làm rung chuyển cả chín tầng địa ngục, khiến cho đất trời đều khủng khiếp. Vẫn chưa hết!
Rồi một trận lụt đại hồng thủy. Nước đỏ như máu. Tôi lặn ngụp trước những đợt sóng thần phủ chụp và tôi có cảm tưởng là mình không còn đủ sức chịu đựng nữa. Tôi cố vùng vẫy để thoát khỏi cảnh hãi hùng ấy. Giữa lúc cảnh tượng thập tử nhất sinh ấy thì có tiếng thầy tôi văng vẳng bên tai:
- Lỗ San! Chú đã nhìn thấy tương lai của chú rồi. Liệu chú có chịu đựng nổi không? Cuộc đời của chú toàn là như thế đấy! Nếu chú cảm thấy không đủ can đảm để xông pha cáng đáng với công việc mà mạng sống của chú chẳng khác nào như sợi chỉ mành treo chuông thì âu đó chỉ vì chú không có được cơ duyên.
Ôi! Đáng tiếc thay! Thôi thì đành vậy. Nhưng biết làm sao bây giờ? Nếu thật vậy thì âu ta cũng đành giữ chú ở lại để tiếp tục sống và chiêm ngưỡng cảnh đẹp của núi rừng hùng vĩ ở dải đất Tây Tạng này.
Tôi giật mình. Thầy tôi đã biết được ý nghĩ của tôi đang lưu luyến cảnh thái thiên nhiên của dãy Hy Mã Lạp San đầy huyền nhiệm này! Người đã biết rõ ràng là ta không muốn rời xa nó.
- Thưa thầy! Con không muốn là hạng người tầm thường run sợ trước mọi cảnh hiểm nguy mà chối bỏ lấy trách nhiệm! Không, thưa Minh Sư, con không muốn bị người đời cho là hạng người tham sinh úy tử! Thưa Minh Sư, con không muốn bị liệt vào hạng người tầm thường đó.
Con sẵn sàng chịu đựng và sẵn sàng làm tròn trách vụ của mình, mặc dù con biết sẽ gặp lắm nỗi khó khăn, cơ khổ.
Nghe tôi nói như vậy, Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt nở nụ cười tươi trên gương mặt hiền hòa rạng rỡ. Người nhìn tôi thật lâu đoạn lên tiếng:
- Ta không chê trách chú và ta còn biết trước chú sẽ có những phản ứng như vừa rồi. Chú hãy yên lòng và vững tin vào định mệnh của chú trên bước đường gian nan hiểm trở, mà chú sẽ phải trải qua với muôn vàn khổ nạn. Ta chắc chắn rằng chú sẽ thành công. Đức Lạt Ma Tiên Tri tin rằng kiếp số chú không phải là một chú tiểu tầm thường.
Không hiểu sao, tôi sực nhớ đến lời giảng giải của chú Sĩ Ca trước kia nói về câu chuyện "tiền kiếp", liền cất tiếng hỏi :
- Có một điều con thắc mắc là làm sao con người tái sinh vào cuộc đời này mà không nhớ được gì về tiền kiếp của mình? Và, tại sao còn có những chuyện phải che dấu không cho con người có trách nhiệm phải gánh vác một điều gì quan trọng được biết
"cái gì rồi sẽ xảy ra", như trường hợp của con chẳng hạn?! Và cũng như tại làm sao, vì những lý lẽ gì mà chúng ta không nhìn thấy rõ tất cả mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời mình?
Nghe tôi hỏi vậy, bất giác Ngài Minh Dà Đông Đạt phá lên cười. Giọng cười của Người làm tôi có cảm tưởng như âm vang chuyển động cả dãy Hy Mã Lạp Sơn đầy huyền nhiệm này.
- Chú quả thật biết quá nhiều, mà chú cũng vừa là con người lại chóng quên tất cả. Gần đây, có lần ta đã nói với chú là thông thường chẳng ai nhớ được những gì ở kiếp trước của mình được. Nếu biết được chỉ gây thêm cho mình những nỗi bận tâm không ít.
Như chú đã biết, bánh xe luân hồi quay đều đặn và rất công minh, khi thì đem phú quí cao sang cho người này, và cũng cùng lúc mang cho kẻ khác bao cảnh khốn cùng đau khổ! Kiếp này làm kẻ ăn xin, cơm không, áo chẳng, kiếp sau lại trở thành là những ông hoàng bà chúa, sống trong chốn lầu son gác tía, ăn sung mặc sướng, rủng rỉnh ngựa xe, lắm kẻ hạ người hầu.
Nói đến đây, thầy tôi im lặng trong giây lát như tuồng Người đang trầm ngâm suy nghĩ đoạn sau đó tiếp tục giải thích về điều tôi thắc mắc:
- Con người không thể nhớ về quá khứ, đó là một qui luật của sự sống mà tạo hóa đã an bài. Con người không nhớ được cái quá khứ là một sự "thử thách" bắt đầu lập lại cuộc đời mới của một kiếp tái sinh!
Tôi chận lại hỏi thầy tôi:
- Nhưng, thưa thầy còn những cảnh phải dấu diếm là tại làm sao? Nếu cứ để cho mọi người đều biết được cái tiền kiếp của mình thì chắc chắn họ sẽ tiến nhanh hơn.
- Đâu có phải giản đơn như vậy. Chúng ta có những tiềm năng ở trong người chúng ta thuộc quyền điều khiển của chính ngay thể phách mình. Không có gì so sánh được vì nó quá vĩ đại đối với tất cả cái gì.
Chẳng biết thầy tôi nghĩ thế nào, đến đây Người mỉm cười chậm rãi nói:
- Ta càng nghĩ càng không thể hiểu được khi nhìn thấy người Tây phương họ dùng một lúc hàng loạt các phương tiện máy móc để gửi tin tức bằng đường vô tuyến qua các đại dương mênh mông xa thẳm. Họ gọi đó là đường dây "vô tuyến" nhưng thật ra trong các máy móc đó lại chứa đựng hàng ngàn cây số dây điện.
Trong lúc đó ở xứ sở Tây Tạng này các thông tin với nhau bằng "thần giao cách cảm". Chúng ta đâu có phải sử dụng cái vô tuyến như họ? Chúng ta còn có thể du hành trong cõi "Vô Hình", qua không gian và thời gian, đi khắp cùng thế giới hoặc các cảnh giới khác nhau.
Chúng ta có thể dùng tiềm năng cho thể xác ta lướt trên không khí hoặc dùng nhãn lực của mình nhấc bổng được những khối nặng cả ngàn cân... Lỗ San ơi! Chẳng phải trên cõi đời này thảy đều trong sạch.
Cũng chẳng phải tất cả những vị sư mặc áo cà sa đều trở thành Đức Phật. Đừng nghĩ đâu xa xôi, ngay cả ở Cửa Thiền này các nhà sư thảy đều hiền lành, đạo đức mà thật ra cũng lắm kẻ làm cho Cửa Thiền hoen ố!
- Thưa thầy! Làm thế nào chúng ta có được những điều thầy vừa nói?
- Mật pháp ! Mật pháp bảo vệ sự sinh tồn cho toàn thể nhân loại.
- Thưa thầy, thật tình con chưa được hiểu điều này.
- Mật pháp (Secret Knowledge) có thể cho ta biết trước những điều gì sắp xảy ra. Chính vì "mật pháp" đó mà có nhiều Đức Lạt Ma thuộc hàng cao cấp bị bách hại... chỉ vì các Ngài nhất quyết không chịu tiết lộ dù chỉ là một vài chi tiết.
- Truyền đạt cho nhau là một điều nên làm, tại sao chúng ta phải giữ bí mật ?
Ngài Minh Dà Đông Đạt nhìn tôi lắc đầu:
- Lỗ San! Không nên nghĩ một cách nông cạn như vậy. Giữa cái xã hội ngày nay, con người đa phần chỉ nghĩ đến "tiền tài và quyền lực". Nếu "mật pháp" của chúng ta trao nhầm tay quỉ dữ thì chú thử tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra đây?
Như thể nghi ngờ rằng tôi chưa nghe rõ sự cần thiết giữ bí mật các Mật Pháp, Minh Sư nhấn mạnh lại vấn đề này:
- Để bảo vệ sự sinh tồn cho nhân loại chúng ta bắt buộc phải tuyệt đối giữ bí mật các "Mật Pháp" như ta đã nói với chú. Lỗ San, nghe rõ chứ?
- Thưa thầy vâng. Con nghe rõ.
Ngài Tiên Tri và nhiều vị khác nữa đều tiên đoán rằng mảnh đất Tây Tạng này rồi đây sẽ bị một loại tôn giáo ngoại lai khác mang quân đến chinh phục. Đó là loại tôn giáo bất bình thường.
Mục đích của họ không ngoài củng cố bạo lực cho những nhà độc tài bắt toàn thể nhân loại hoặc ít nhất là một nửa số người trên hoàn vũ này làm nô lệ cho họ.
Có nhiều Đức Lạt Ma thuộc hàng cao cấp đã bị người Nga bách hại đến chết, chỉ vì các vị này đã nhất quyết không chịu tiết lộ "mật pháp" dù chỉ là một chi tiết nhỏ nhặt.
Một kẻ tầm thường nếu có mật pháp trong tay họ sẽ làm gì khi mà kẻ ấy đã thấu đáo là mình sẽ tóm thâu tất cả những gì mình muốn bằng vào "quyền lực" siêu phàm mình đang sẵn có? Lúc ban đầu họ còn sợ hãi, hoang mang chẳng biết việc gì sẽ xảy ra nếu một khi họ sử dụng đến?
Nhưng rồi sự sợ hãi ấy dần dà tan biến đi, tà tâm của họ bắt đầu khuấy động. Và từ sự khuấy động đó lòng tham lam của họ sẽ dấy lên và ý đồ lợi dụng sẽ từ từ nẩy nở... Từ đó họ bắt đầu cảm thấy phải thực hiện cái quyền lực vô song và phi thường này để thỏa mãn sự khát vọng của mình.
Nói đến đây, Minh Sư nhìn tôi hỏi:
- Chú hiểu chứ ?
- Thưa thầy, con hiểu.
- Lỗ San à! Họ thèm khát "mật pháp" của chúng ta là vì họ cần có tiền. Khi mà họ có tiền trong tay rồi thì quyền lực của họ càng tăng trưởng hơn lên. Từ đó họ bắt đầu biến thành một con thú dữ.
Vốn là một con hổ dữ, giờ thêm mật pháp nữa thì chẳng khác nào ta cho họ thêm vây. Túi tham của họ không đáy. Với họ của cải quí
báu có bao nhiêu cũng không đủ. Lúc nào họ cũng không thỏa mãn với sự hiện hữu của mình. Đừng nói "tri túc" với họ.
Thầy tôi nói đến đây, thở dài lắc đầu:
- Ôi! Không có gì đáng buồn bằng khi một kẻ giàu lòng tham vọng mà trong tay họ có quyền năng tối thượng, thì quả đất này sẽ có một ngày kia tan nát hết!
Tự nhiên trong đầu óc tôi lóe lên một tia sáng vì nghĩ rằng nhờ "mật pháp" sẽ cứu nguy cho chính mảnh đất ven dãy Hy Mã Lạp Sơn đầy huyền nhiệm này thoát ra khỏi cảnh đau khổ. Tôi bèn lên tiếng hỏi Minh Sư:
- Nếu vậy thì thưa Minh Sư, "mật pháp" sẽ cứu nguy cho quê hương yêu dấu của chúng ta được có cảnh thanh bình an lạc.
Người khẽ thở dài lắc đầu :
- Không.
Tôi vô cùng kinh ngạc khi nghe Minh Sư phủ nhận về cái quyền lực tối thượng của "mật pháp", bèn hỏi lại:
- Thưa Minh Sư, tại sao lại không?
- Không thể nào được. Chúng ta không có quyền mang bí pháp ra sử dụng với công việc làm như vậy.
- Mật pháp của chúng ta, chúng ta có quyền mang ra bảo vệ hoặc làm tăng trưởng thêm quyền lực của chính mình. Tại sao lại không ?
Minh Sư nhìn tôi trầm ngâm giây lát rồi lên tiếng đáp:
- Không. Không thể được. Chúng ta không được phép mang bí pháp ra sử dụng với công việc như chú mong muốn. Chú nghĩ rằng Tây Tạng từ ngàn xưa không có tội lỗi hay sao?
- Theo con nghĩ là không.
- Chú lầm rồi! Có. Tây Tạng đã bị lỗi lầm to lớn, không phải như Lỗ San nghĩ hoàn toàn thánh thiện. Tây Tạng từng một thời như các quốc gia khác có một quá khứ dẫy đầy tội ác! Tây Tạng cũng bị trừng phạt theo định luật của Đất Trời.
Mảnh quê hương này của chúng ta đã có một thời gian gần như bị tiêu diệt, nhưng may mắn thay chúng ta đã thoát ra được cảnh đau thương ấy. Hiện giờ tuy còn bị chìm trong nỗi tang thương thật nhưng trong tương lai sẽ được phục hồi và sẽ trở thành lớn mạnh!
Mảnh quê hương yêu dấu có dãy Hy Mã Lạp Sơn này sẽ thanh lọc mọi cặn bã xấu xa ngay trong ngọn lửa chiến tranh và sẽ đưa toàn thể thế giới cùng hòa nhập vào đời sống thanh bình, an lạc...
Rồi Người mỉm cười nhìn tôi nói nhỏ:
- Lỗ San ! Chiến tranh thật tàn ác, nhưng nó cũng là một đường lối giải quyết tất cả những cái xấu xa...
- Thưa Minh Sư, còn nếu không có chiến tranh thì sao?
- Thì loài người sẽ bị chết về mọi bệnh dịch bất trị khác. Đó là một đáp số thật công bình vì nhờ nó mà quân bình được dân số trên hoàn vũ để loài người trên Địa cầu này có cơ hội cùng các Thế Giới khác ở một cõi xa xôi nào đó, có cơ hội nương tựa, giúp đỡ lẫn nhau.
Chiến tranh sẽ xảy ra hết giai đoạn này đến giai đoạn khác, cho đến khi quả đất được điều hòa bằng một phương pháp hợp lý để đạt được một đời sống không còn hận thù đau khổ nữa, một thế giới hoàn toàn an bình, cực lạc.
Tiếng cồng từ xa bỗng rền rĩ đưa lại. Minh Sư vội đứng lên và bảo tôi hãy cùng đến Chánh Điện. Ra khỏi cửa phòng, thầy trò tôi đi dọc theo hành lang vào trong sân chùa. Tiếng cồng càng lúc càng vang lên như thể thúc giục, có vẻ càng lâu hơn cả khi chúng tôi còn ở Trắc Phổ Di.
Trước mắt chúng tôi là một đám đông người toàn là các vị tuổi tác già nua hoặc những vị bị tàn phế khập khễnh bước đi một cách nặng nề, khó khăn nhất đối với họ là khi bước lên các bậc thềm của ngôi chùa vĩ đại này.
Minh Sư khẽ nói bên tai tôi:
- Lỗ San, chú hãy tìm chỗ đến ngồi cạnh với các tăng sĩ trong dinh Ngài Tiên Tri thì hơn.
Tôi gật đầu vâng lời và tiến đến cạnh với đám tông đồ áo nâu đang ngồi bên trong ngay giữa Chánh Điện. Đám Tăng sĩ nhìn tôi có vẻ như tò mò. Rồi bất thần đám này thừa cơ viên giám thị nhìn đi nơi khác, liền sẽ sàng phóng nhanh đến bu quanh tôi để nhìn tôi được tường tận hơn.
Trong đám đông Tăng sĩ bao quanh tôi đó, có tiếng khẽ hỏi:
- Ông anh từ đâu đến ?
- Trắc Phổ Di.
Rồi một giọng có vẻ còn non choẹt hỏi tiếp theo:
- Chú là người của Ngài Đại Lạt Ma gửi đến phải không ?
Tôi nhìn chú tiểu nhỏ tí xíu này một lát rồi gật đầu:
- Phải.
- Để làm gì thế ?
- Để gặp Ngài Tiên Tri.
Bỗng một giọng oang oang như tiếng đồng chung từ phía sau lưng tôi vang lên:
- Im ngay đi. Không được phép làm ồn nữa nghe không?
- Tôi giật mình khẽ liếc mắt nhìn. Thì ra đó là ông cảnh sát Hộ pháp đang quắt mắt nhìn đám trẻ chúng tôi, nhưng may mắn thay, ông cảnh sát Hộ pháp này nói xong liền bỏ đi nơi khác.
Lại có tiếng cười khúc khích:
- Ấy dà! Đừng để ý làm gì cái ông bắt nạt người ấy! Tiếng sủa của con "tê" lúc nào cũng lớn hơn tiếng cắn.
Đám Tăng sĩ nhỏ nhìn tôi rồi cùng nhau bụm miệng lại cười. Cùng trong lúc đó từ cánh cửa nhỏ Ngài Tiên Tri cùng với Ngài Trụ Trì xuất hiện tiến về hướng Chánh Điện.
Sau khi làm lễ chúng tôi kéo nhau kéo nhau vào bên trong nhà bếp để lấy nước trà uống. Tôi cũng không quên lấy lúa mạch chứa đầy vào túi da rồi lặng lẽ bước ra trở về phòng ngủ.
Nơi ngủ của tôi là một chiếc giường không lớn không nhỏ kê bên cửa sổ. Đêm đã về khuya, phòng kế bên một mầu tím sẫm bao phủ. Vài ngọn đèn le lói sáng.
Ngoài trời, xa xa ngọn Hy Mã Lạp Sơn với những đỉnh núi nhọn hoắt chọc trời chia chỉa đâm lên tợ như những ngón tay chụp vào nhau để cầu khẩn các Linh Thần trên không trung bảo hộ cho mình. Ánh trăng chiếu vào các khe núi lúc ẩn lúc hiện, càng về khuya càng sáng hẳn lên.
Bóng trăng trải xuống con suối trông hệt như một dòng sông nhấp nhô gợn sóng. Bên trên, các hòn đá nhọn chĩa lên, xa xa nhìn như những cây cột dựng hai bên của một cây cầu vắt ngang sông.
Tôi sực nhớ ngày nào có lần cùng Minh Sư đi đến ngôi Đại Tự qua những cái ao nhỏ mọc đầy bông tý ngọ có màu sắc vừa tím vừa đỏ xen lẫn nhau cùng nhiều bụi huệ trổ hoa mọc ở chung quanh trông như thể một bức tranh ngày tết.
Lúc ấy nếu không có Minh Sư đi bên cạnh, thế nào tôi cũng nhảy xuống ngựa đuổi bắt mấy chú chuồn chuồn hoặc bắt các nàng bướm hoa đủ màu đủ sắc.
Lúc bấy giờ, các hình ảnh này đã gợi cho tôi nhớ lại cảnh sống ở quê nhà lúc tôi chưa được thân phụ mang đi tu viện đó là một nơi thật trầm lặng và cũng thật yên tĩnh, phảng phất mùi thơm của núi rừng hòa lẫn với mùi cỏ dại.
Bây giờ thì quê hương ấy chỉ còn lại trong ký ức, hy vọng ngày trở về thăm viếng cha mẹ thật xa vời.
Không ngủ được, tôi nằm miên man suy nghĩ đủ mọi thứ, đủ mọi hình ảnh. Tôi nhớ cả mấy ngọn cờ lễ rũ xuống im lìm trên cột gỗ. Một vài tảng mây mỏng lững lờ trôi trên vòm trời thành Lạt Sa.
Ôi! Lạt Sa đẹp làm sao! Tôi không thể nào quên được các hình ảnh đầy thơ mộng ấy...Và, cứ như thế, hết hình ảnh này đến hình ảnh khác chập chờn hiện lên trước mắt cho đến khi tôi chìm dần vào giấc ngủ ngon lành đến sáng.
Tôi giật mình thức dậy. Ánh bình minh vừa rựng dưới chân trời. Các cành cây còn đọng hạt sương mai lấp la lấp lánh trông hệt như những viên kim cương đủ màu đủ sắc.
Tôi vội vàng vùng dậy, khoác lấy áo chạy ngay ra cửa dọc theo hành lang rồi vụt chạy thẳng đến sân ngoài gần đó, và cứ chúi đầu chúi cổ chạy, bất giác đâm sầm ngay vào vòng tay của ông cảnh sát người Kham.
- Chú đi đâu ?
Tôi vừa giật mình vừa cảm thấy cái đầu mình ê ẩm, ngước mắt lên nhìn thấy ông cảnh sát Hộ pháp này mỉm cười nhìn tôi, hỏi lại lần nữa:
- Chú đi đâu thế ?
Tuy giọng nói của ông ta nhỏ nhẹ đượm vẻ hiền hòa, nhưng cũng đủ làm cho tôi thấy chói cả tai:
- Thưa ông cảnh sát, tôi chạy cho kịp đến khóa lễ sớm ạ! Có lẽ tôi bị ngủ dậy trễ rồi.
Ông ta mỉm cười buông tay tôi ra khẽ nói:
- A! Thì ra chú là khách đường xa đến. Nơi đây không có lễ sáng như chú tưởng. Thôi, chú có thể trở về phòng để tiếp tục ngủ lại đi.
Nhìn thấy tôi có vẻ ngơ ngác, ông mỉm cười giải thích:
- Nơi đây toàn là những người già cả, nếu không thì cũng là những kẻ tàn tật, què quặt hay đui mù...bởi những lý do đó nên được đặc ân khỏi phải đi lễ sáng như các Thiền Viện khác.
Nói xong, ông ta cười híp cả mắt đưa tay vỗ nhẹ lên đầu tôi. Nhưng, với cái đầu nhẵn nhụi của tôi bị cái vỗ ấy của ông cảnh sát Hộ pháp này chẳng khác nào như một quả đấm nặng tợ ngàn cân giáng xuống.
Tôi ngẩng mặt nhìn ông ta một lần nữa rồi cúi đầu thi lễ, đoạn chạy nhanh băng qua dãy hành lang trở về phòng ngả lưng xuống giường tiếp tục tìm lại giấc ngủ.
Tiếng chim ngoài trời líu lo như thể những bản đàn tấu lên một điệp khúc êm ái, nhẹ nhàng đưa tôi vào chốn thiên thai đầy hoa thơm cỏ lạ.
#8
Gửi vào 06/06/2011 - 21:50
CHƯƠNG BA
ĐI TÌM TIỀN KIẾP
Tôi rời phòng ngủ lững thững đi đến một khu vườn trồng đủ các loại kỳ hoa dị thảo. Mới thoạt nhìn tôi không biết được có bao nhiêu loại hoa và gồm những loại hoa gì? Màu sắc rực rỡ của khu vườn làm tôi loáng cả mắt.
Chân tôi cứ chậm rãi bước đi và mắt thì cứ chăm chú nhìn hết nơi này đến nơi khác. Có những cụm hoa rực lên như màu lửa mà cũng có những loài hoa hệt như những loài hoa dại mọc ven đường rừng mà tôi được nhiều lần trông thấy.
Tất cả đều như thể tranh nhau phô bày vẻ đẹp muôn hồng nghìn tía của mình trước các đàn bướm hoa hay các con vò vẽ đang chập chờn bay lượn!
Và cứ như thế, tôi lững thững tiến sâu vào bên trong khu vườn trông hệt như một thảm hoa rực rỡ. Xa xa tiếng sáo diều khi trầm khi bổng véo von vọng lại, như thể đưa hồn người đi vào một thế giới siêu nhiên nào đó.
Tôi tiến sâu thêm vào bên trong, một quang cảnh khác lại phơi bày ra trước mắt. Đó là một cái hồ nước không lớn nhưng cũng chẳng là nhỏ nổi bật giữa một khoảnh đất trồng đầy loài hoa "tý ngọ" rực lên đủ màu sắc.
Hồ nước có hình dáng như khu hồ Balaton mà có lần chú Sĩ Cát cho tôi xem trong tập sách nói về danh lam thắng cảnh nổi tiếng tại đất nước Hung Gia Lợi.
Hồ Balaton ở chân núi Bakony có chiều rộng khoảng một cây số rưỡi là hồ lớn nhất ở Trung Âu, có những dải rừng xanh mướt, cũng như có các suối nước nóng bốc hơi và cả nước khoáng chảy róc rách ven theo sườn núi tạo thành một phong cảnh vô cùng ngoạn mục.
Tôi không biết công trình kiến tạo hồ nước tại khu vườn hoa này nơi đây liệu người xưa có mô phỏng theo cảnh thực của Balaton không, nhưng hồ nước nhân tạo thu nhỏ lại mà tôi đang đứng sững sờ chiêm ngưỡng không có gì khác hơn.
Cũng những dòng nước suối róc rách, cũng một dải thông xanh mướt và nước hồ trông hệt như mặt gương xanh phẳng lì, đứng tự đầu xa trông chẳng khác gì một bức tranh lung linh đủ màu đủ sắc.
Bên kia vườn là một ngôi nhà có mái cong hệt như một ngôi đền, khi tôi bước vào bên trong mới biết đó là một tiểu thư viện, gồm một tủ kiếng lớn chứa đầy sách vở và một số tranh treo trên các tường.
Tôi chú ý đến mấy bức tranh có sắc thái Bắc Tông mà tôi được biết nhờ có lần chú Sĩ Cát giải thích, còn gọi là Phật giáo Bắc Tông hay Phật giáo Bắc Phương. Phái Bắc Tông tức Đại Thừa, phổ biến ở Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng và luôn cả Mông Cổ, Triều Tiên và Việt Nam.
Phái Phật giáo này dựa vào những kinh sách Phật bằng chữ Sanskrit nếu mang ra so sánh với phái Phật giáo Nam Tông, dựa vào kinh sách Phật chữ Pali thì phái Phật giáo Bắc Tông cấp tiến hơn, có phần uyển chuyển hơn.
Dễ thích ứng với những đổi thay tùy theo hoàn cảnh và thời đại của trào lưu, nhưng có điều nó dễ pha trộn với những yếu tố tín ngưỡng trong dân gian, vì vậy nó có vẻ xa lạ với Phật Giáo Nguyên Thủy thời đức Phật.
Vừa về đến phòng đã được lệnh của thầy tôi bảo đến ngay gặp Ngài có chuyện cần gấp. Tôi được Minh Sư đưa đến gặp Ngài Trụ Trì cùng hai vị Lạt Ma lớn tuổi. Họ phỏng vấn tôi nhiều điều về gia cảnh. Họ còn nhìn tôi chăm chú, hỏi tôi có nhớ gì về tiền kiếp hay không?
Và bằng cách nào mà tôi liên lạc được với Ngài Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt? Cuối cùng cả ba vị này im lặng chậm chạp lê bước ra bên ngoài không nói thêm lời nào. Tôi ngơ ngác chẳng biết có nên theo các Ngài hay không, thì vị tăng sau cùng đã lấy tay vẫy tôi vừa đi vừa nói:
- Đi, đi theo chúng ta. Lúc bấy giờ tôi như cái máy chỉ biết phục tùng ngoan ngoãn theo sau. Tiếng dép lẹp kẹp vang lên dọc nẻo hành lang. Tôi có cảm tưởng như tiếng của con ngựa đói từ đường xa đang cố hết sức mình kéo lê đi một cách miễn cưỡng.
Tôi đành theo sau từng bước. Và tôi có cảm tưởng những ông sư già này là hiện thân của các con sên đang mang cái vỏ già nua cằn cỗi, đang tiến dần đến bờ huyệt để an hưởng tuổi già. Thú thật trước hình ảnh này tôi thật sự cảm thấy khó chịu.
Mỗi lần đi ngang các căn phòng trống, mấy chú tiểu cùng mấy ông phục dịch bên trong cứ trố mắt mắt nhìn tôi lộ vẻ tinh quái. Những lúc như vậy, mặt mày tôi nóng bừng lên thẹn thùng vì phải ở trong đám người lê bước chẳng khác như đàn rùa đói sau giấc ngủ dài vừa bừng tỉnh.
Dẫn đầu là Ngài Trụ Trì bằng vào hai cái nạng khập khễnh bước, còn miệng thì cứ lẩm nhẩm đọc những lời kinh, chẳng biết có phải là những lời kinh sám hối không? Kế đến là hai vị Lạt Ma già lụ khụ, gầy đét như hai con mực khô, lảo đảo bước như một chú gà chọi thất trận.
Còn tôi, thân phận của một chú tiểu giữ vị thế "tập hậu" cứ phải kiềm hãm lại bước chân mà không một chút nào thích thú. Không biết mất bao nhiêu thời gian, song tôi nghĩ là lâu lắm mới đến được phía cửa nhỏ ở chân tường.
Đến đây Ngài Trụ Trì đứng hẳn lại, mò mẫm trong bọc túi áo lấy ra chiếc chìa khóa nhỏ, miệng lâm râm đọc. Vì tiếng quá nhỏ tôi không thể nghe thấy Ngài đã đọc những lời nào! Liền ngay sau đó một vị Lạt Ma khác đến giúp Ngài mở tung cánh cửa, tức thì có tiếng rít kèn kẹt của bản lề vang lên.
Ngay sau đó hai vì Lạt Ma theo chân Ngài Trụ Trì bước vào bên trong. Chẳng một ai ra lệnh cho tôi theo vào, song lần này tôi không còn ngơ ngác nữa, tức thì lẳng lặng bám sát theo từng bước.
Sau khi tôi bước qua ngạch cửa của một ngôi nhà gần như đổ nát thì bỗng một vị Lạt Ma quay lại đóng sập ngay cửa lại. Vào bên trong chúng tôi tiến đến một cái bàn khá dài, bên trên chất đầy những đồ vật cũ kỹ bám đầy bụi bặm.
Những vật cũ kỹ này toàn là áo cà sa từ thời xa xưa nào, cũng như các xâu tràng hạt và nhiều bánh xe quay để các nhà tu già nua đi cầu kinh.. toàn là các loại từ bao nhiêu thời đại lưu lại. Nằm rải rác trên mép bàn có vài ba hộp búa bằng gỗ chạm trổ cùng nhiều vật khác khá lạ lùng tôi chẳng biết các vật lạ ấy là gì nữa?
- Này! Lại đây chú bé ơi! Vị Trụ Trì gọi tôi. Chú thử nhìn xem tất cả các món đồ trên bàn này có nhận thấy cái nào là của chú không ?
Tôi ngạc nhiên nhìn vị Trụ Trì vừa nói, hỏi lại:
- Con không hiểu Ngài định nói điều gì ?
Vị Trụ Trì nhắc lại từng tiếng một:
- Ta muốn nói là chú thử nhìn xem trong đống đồ cũ kỹ này có cái nào của chú không
Tôi lắc đầu:
- Thưa Ngài Trụ Trì, làm sao có được đối với một đứa bé như con?!
- Ta muốn nói những cái mà tiền kiếp của chú kia...
Ngài vừa nói vừa từ từ tiến về chỗ tôi đang đứng rồi dắt về phía cạnh bàn, đoạn nghiêm nghị bảo:
- Nếu chú nhận thấy các đồ vật nơi này không phải của chú thì cứ nhặt một vài món mang đến cho ta xem.
Dứt lời, ngài đến chiếc ghế cách chỗ tôi đang đứng không bao xa ngồi xuống một cách nặng nề. Mặt ngẩng lên, mắt hướng lên trần nhà như đang suy tư một vấn đề gì. Lúc bấy giờ tư bề hoàn toàn yên tĩnh. Thỉnh thoảng có làn gió nhẹ thoảng vào, làm lay động mấy tấm màn treo nơi cửa sổ.
- Được!
Tôi lẩm bẩm và mỉm cười. Nếu ba Ngài muốn chơi cái trò này, thì "tiểu oắt con" này sẽ làm cho các Ngài ngạc nhiên cho mà xem!
Sở dĩ tôi nghĩ vậy vì cho là các nhà sư già muốn chơi trò tâm lý. Nghĩ vậy, tôi từ từ tiến về phía bàn có đống đồ cũ. Khi đến nơi tôi dừng lại đưa mắt nhìn trong giây lát. Sau đó tôi tự động đưa tay bên trái ra để cách đống đồ cao lối ba tấc, đoạn rà qua rà lại các vật đặt trên mặt bàn.
Có điều làm tôi ngạc nhiên là có một vài đồ vật đã làm tôi rụt tay ngay lại vì cảm thấy như bị điện giật khi tôi mó nhằm vào, đã vậy mà luôn cả mặt mũi như tuồng bị ngứa ngáy khó chịu!
Còn một vấn đề khác nữa, tôi đâu có chú ý đến "bánh xe cầu kinh", ấy thế mà tôi lại nhắc ra để bên cạnh mình. Tiếp đến tôi bưng cái bình bát móp méo cùng một một xâu tràng hạt dính đầy bụi bặm.
Như có một sức hút nhẹ nhàng tiếp tục đưa tôi đi ven theo quanh mép mặt bàn. Và cũng bất giác đứng lại, táy máy đôi tay mó thử một vài vật khác mà tôi nghĩ là dường như quen quen đã từng thấy từ bao giờ.
Đó là chiếc "áo cà sa" màu vàng nghệ thường dành cho các bậc cao tăng! Chiếc áo cà sa này đã ngả màu bạc phếu và gần như mục nát!
Đứng yên lặng trong giây lát, và nhất định không chần chờ nữa, tôi nhấc cái áo này lên một cách thật nhẹ nhàng đưa ra trước mắt mình ngắm nghía. Sở dĩ tôi có cử chỉ thận trọng như vậy chỉ vì sợ nó đã mục nát, có thể bấy ra từng mảnh vụn trước khi mang đến cho Ngài Trụ Trì quan sát.
Vừa cầm trong tay vừa rón rén bước đi không dám động mạnh, đến đặt dưới chân ghế của vị Trụ Trì đang ngồi. Và, tôi lại nhẹ nhàng quay trở lại mang các thứ khác như bánh xe cầu kinh, cái bình bát méo mó và một xâu tràng hạt đã vẩn màu bạc mốc đến trước mặt ngài.
Tôi mang tất cả các vật vừa tìm thấy đến để Ngài Trụ Trì quan sát, và tức thì ngay sau đó, hai nhà sư đang đứng đối diện với tôi bước ngay đến để cùng vị sư già tìm kiếm các dấu vết hoặc những điểm bí mật nào đó trong từng đồ vật một, đoạn mang ra đối chiếu với tập sách "Tiên Tri" và cùng nhau bàn thảo trước khi xác định tính cách riêng tư của các vật này.
Các vị sư này thì thầm bàn tán trong khoảng thời gian khá lâu, bất giác cả ba đều ngẩng mặt lên đưa mắt nhìn nhau, như thể sững sờ trước một sự thể vừa khám phá ra một việc tối quan trọng nào đó.
Tôi đứng bên kia bàn đưa mắt theo dõi, và suýt tí nữa tôi bật phì cười, vì cả ba vị đều có cái cổ khẳng khiu, dài thượt, trông hệt như cổ cò hay con gà tây mồng đỏ đang gật gù trông ra tuồng tương đắc lắm.
Bỗng cả ba vị sư cất tiếng cười vui vẻ:
- A! Ha,ha! Chú tiểu kia ơi !
Cả ba vị cùng cất tiếng cười vui vẻ rồi cùng nói tiếp:
- Đích thị...rồi...
Tôi ngơ ngác, chẳng biết chuyện gì đã xảy đến với tôi? Tôi ngơ ngác nhưng tuyệt đối chẳng hỏi han thêm chuyện gì đã xảy đến cho tôi?
- Hừ, hừ...đúng ...đúng là Người rồi...Ha, ha! Này chú tiểu ơi! Chú có nghe ba ông sư già này nói gì không?
- Thưa, con có nghe, song chẳng hiểu điều gì cả!
- Hả? Không hiểu điều gì cả à? Chúng ta nói rằng chú đích thực. Rõ ràng là đích thực, chú có hiểu không?
Tôi ngơ ngác giương tròn xoe mắt lên hỏi lại:
- Nhưng thưa các đại sư, con chẳng hiểu các đại sư khuyên bảo điều gì!
Vị Trụ Trì mỉm cười:
- Chúng ta đâu dám khuyên bảo chú điều gì, mà chỉ nói rằng là chú đúng là nhân vật mà chúng ta đang tìm kiếm.
Rồi Ngài nắm lấy tay tôi nói tiếp:
- Hừ, hừ. Thành quả chúng ta tìm thấy được thật không gì quý giá bằng. Chúng ta có thể tuyên bố là rất đáng lạc quan rất lạc quan chú biết chứ!
Giờ chú hãy mau trở về thưa với Chân Sư của chú, ông Minh Dà Đông Đạt đó, rằng chúng ta muốn được hân hạnh tiếp chuyện với Ngài tại đây. Tại nơi này. Chú nghe rõ chứ?!
Giọng nói của ngài Trụ Trì nghe có vẻ hoan hỉ! Tôi lập tức chạy đi ngay nhưng vừa bước đến ngạch cửa thì lại nghe tiếng của Ngài Trụ Trì già này nói vói theo:
- Này! Ông bạn bé bỏng kia ơi! Nhớ là chỉ một mình Minh Sư ông bạn thôi đấy nha, còn ông bạn khỏi phải quay trở lại đây nữa. Ha! Ha! Nhanh lên. Phen này đừng hòng mà trốn các lão già này.
- Tôi gật đầu và quay người lại chạy trở về nơi tôi và thầy tôi đang ở, vẫn còn nghe giọng cười của cả ba ông sư cao cổ vọng theo phía sau lưng tôi đuổi theo.
Riêng tôi, cảm thấy sung sướng vì đã thoát khỏi cảnh phải ngồi cạnh mấy cái xác ma chỉ toàn da bọc lấy xương không còn một chút sinh lực nào!
Tôi vừa chạy vừa suy nghĩ việc làm của mấy Ngài Trụ Trì trông hệt như cái hình nộm kia nên chẳng hề để ý đến mọi vật chung quanh, suýt chút nữa đâm sầm vào thầy tôi đang đứng cách đó chỉ trong gang tấc. Người vừa lấy tay ra nắm lấy tôi vừa cười lên tiếng hỏi:
- Đi đâu mà vội mà vàng như thế, hở chú?
Tôi vừa định đáp lại thì Người đã vỗ nhẹ vào vai tôi bảo:
- Tôi biết rồi. Bây giờ chú có thể đi dạo quanh quất nơi này đợi ta về cùng một thể.
Nói xong Minh Sư rảo bước đi đến nơi của các vị cao tăng đang đợi. Còn một mình tôi lững thững ra sân, lấy chân đá vào các hòn sỏi rồi thẩn thơ đi quanh quẩn trong vườn .
Rồi hình ảnh của các vật cổ lỗ, xấu xí, ẩm mốc nhưng vẫn còn giữ được màu sắc nguyên thủy của nó hiện ra trước mắt.
- Lạ! Chẳng biết các vị cao tăng này định chơi cái trò múa rối gì đây. Tại sao cái ông Trụ Trì kia cùng với hai vị Lạt Ma cứ bảo mình nhìn xem thử, có vật nào thuộc quyền sở hữu của mình hay không.
Để làm gì. Mà làm sao một chú tiểu chưa thuộc hết pho kinh sách làm gì có được những của cải kỷ niệm như vậy?
Tôi liên miên suy nghĩ như vậy. Nhưng rồi, đối với tuổi trẻ chúng tôi mọi việc đều dễ quên đi để chấp nhận những cái mới mẻ khác.
Tôi miên man suy nghĩ. Chẳng biết mục đích của các bậc cao tăng bắt tôi tìm các kỷ vật như vậy để làm gì? Mặc dù cho có đi, cũng chẳng ích lợi
gì cả đối với tôi. Mặc! Hơi đâu mà nghĩ?! Chuyện của các vị cao tăng hãy trả lại cho các vị ấy.
Với tôi thì những chuyện vặt vãnh như vậy chẳng có gì là quan trọng!
Tôi lững thững đi, đưa mắt nhìn khu vườn cây rậm rạp nhà chùa vừa để làm kiểng, cho các du khách hay cho những người mộ đạo tứ phương kéo về chiêm ngưỡng, vừa để ăn trái. Con đường dẫn đến khu vườn này không được rộng rãi lắm, lót bằng đá sỏi trắng phau phau.
Ven theo vệ đường là một con lạch nước trong vắt, trông hệt như mặt kiếng phẳng lì. Những cây cọc lớn đóng dọc ven theo bờ lạch không cao không thấp, trông hệt như một dãy hành lang của một tòa nhà có lối kiến trúc của Tây phương.
Đến cạnh khu vườn quang cảnh có khác đi. Bóng râm mát phủ kín toàn thể khu vườn bởi các tàng cây quá lớn, cành lá đan vào nhau, ánh mặt trời không thể nào rọi qua được. Chính vì vậy mà bên trong khu vườn chỉ sáng lờ mờ mặc dù lúc bấy giờ mới vừa đúng ngọ, bên ngoài vẫn còn rực sáng!
- Này, ông anh kia ơi!
Tiếng nói của ai từ phía sau lưng tôi gọi vọng đến khiến tôi phải quay lại nhìn. Người vừa gọi là một tăng sĩ đang đứng nhìn tôi chòng chọc mỉm miệng cười hỏi:
- Có phải anh là người có liên lạc với tiền kiếp đó không?
- Tiền kiếp?
Tôi hỏi lại.
- Vâng! Tiền kiếp. Liên lạc tiền kiếp. Có phải thật vậy không?
Tôi ngạc nhiên lắc đầu:
- Ông anh nói gì tôi cũng chẳng hiểu nữa.
- Quái! Thế mấy ông Trụ Trì cùng các bậc cao tăng chẳng nói gì với anh sao?
- Các ông ấy bảo tôi tìm các kỷ vật của tôi.
- Thì là đó. Các ông ấy muốn anh tìm cái gì thuộc kỷ vật của anh ở thời tiền kiếp! Rồi anh tìm được?
- Ờ, thì ra là vậy. Nhưng nếu là tìm kỷ vật của thời tiền kiếp tôi thì các vật tôi tìm thấy ấy chắc gì là đúng của mình? Tôi chỉ mường tượng thôi ông anh ạ!
- Mường tượng giống phải không ?
Tôi nhún vai lè lưỡi:
- Tôi không dám xác nhận là đúng hay không? Mà, thôi ông anh ạ! Tôi chỉ biết là bị họ kéo đi qua hành lang vào tận một căn phòng nhỏ nơi đó, như lúc nãy tôi vừa nói với anh, họ bày ra đủ mọi thứ toàn là các đồ vật cũ kỹ từ đời nào lưu giữ lại và bảo tôi tìm xem có cái gì của chính mình không?
- Nhưng mà tôi muốn hỏi anh là có cảm giác gì khi sờ vào các món ấy?
Tôi suy nghĩ trong giây lâu rồi gật đầu:
- Có. Có anh ạ!
- Thế nó như thế nào?
- Lạ lắm. Có lần tôi rà nhằm một vật nào đó, cảm thấy tay mình như chạm phải điện vậy.
- Nó giật?
- Gần như vậy.
- Anh có bảo như vậy với các vị Trụ Trì chăng?
- Có.
- Thế họ có ra lệnh gì cho anh không?
- Có chứ. Họ bảo tôi cứ nhặt vài món nào mà tôi ngờ ngợ là của mình rồi mang lại cho các ông ấy. Tôi thấy điều này cũng hơi kỳ.
Làm như vậy thì ai lại làm chẳng được. Đâu cần phải đợi đến tôi?
Người tăng sĩ cười toe toét miệng, trông rất vui vẻ, nói:
- Các vị cao tăng này ở Trắc Phổ Di đều biết các vật ấy là của chú, bằng không thì chú làm thế nào vào được nơi "Cổ Tàng Viện" đó?
Tôi có nghe lóm các vị ấy nói với nhau là tiền kiếp của chú giữ một địa vị khá cao. Do đó mà Ngài Tiên Tri mới dành trọn nửa ngày cho chú. Đó là một điều đặc biệt. Bộ ai cũng được như chú sao!
Anh ta vừa nói vừa khẽ nhún đôi vai lên, quay đầu nhìn chung quanh mình như thể sợ có ai nghe được câu nói vừa rồi.
- Này! Phải coi chừng đấy! Trước khi chú biết được việc gì sẽ xảy đến, họ sẽ chứng nhận ngay lý lịch của chú và sẽ đưa chú lên làm một vị Trụ Trì quan trọng mà chính chú cũng không nghĩ đó là sự thực.
Nói đến đây, người tăng sĩ nheo mắt nhìn tôi cười:
- Liệu hồn nha! Rồi một ngày nào đây ông anh sẽ không còn một chút thì giờ mà rong chơi với đám bạn hữu nhỏ ở chốn Trắc Phổ Di nữa đâu! Chú sẽ vùi đầu với công việc như các vị cao tăng khác.
Tôi đang ưu tư về lời nói của vị tăng sĩ này thì từ xa tôi nhìn thấy thấp thoáng bóng của Minh Sư từ cuối vườn hướng về phía chúng tôi đang đứng tiến đến. Khi Người vừa đến nơi, ông anh tăng sĩ này vội vàng cúi rạp đầu xuống chào một cách thật cung kính.
Nội bấy nhiêu đó cũng biết vai vế của thầy tôi không phải là nhỏ nhoi gì. Đáp lễ xong, Minh Sư bèn quay lại phía tôi bảo:
- Lỗ San! phải lên đường ngay kẻo trời sắp tối mất. Chúng ta lại phải đành dùng ngựa đi trong đêm, chẳng biết làm gì hơn! Đi ngựa vào đêm hôm là điều phiền phức. Nhưng đành vậy!
Hai chú tiểu trạc tuổi tôi đã chuẩn bị sẵn sàng hai con ngựa một con "Ô" và một con "Kim" đứng chờ chúng tôi từ lúc nào rồi. Đối với tôi phải đi ngựa là điều bất đắc dĩ. Chặng đường đầu tiên chúng tôi ngang qua là một rặng liễu dài cả hơn cây số. Nơi đây quả thật thơ mộng.
Nhiều cảnh tượng
trông như những hình ảnh vẽ trong tranh! Một chiếc cầu bằng cây vắt ngang qua lạch sông nhỏ có dòng nước trong xanh dưới tàng liễu rũ. Một đàn cá bơi lội tung tăng thỉnh thoảng dăm ba con nhô lên mặt nước hoặc đuổi nhau giữa dòng rồi lại trở ngay về đàn tiếp tục cuộc hành trình.
Trong cuộc hành trình ngắn ngủi này chúng tôi chẳng chuyện vãn với nhau một lời nào. Nhất lại là tôi. Vì đi ngựa chưa được thành thạo nên tôi phải luôn luôn để ý tránh gặp trường hợp ngựa trở chứng có thể làm cho tôi bị ngã dọc đường. Đã vậy, tôi còn muốn được có tinh thần thoải mái để chiêm ngưỡng cảnh đẹp của núi rừng.
Tôi vẫn cho ngựa đi nước kiệu theo sau Minh Sư. Tôi hoàn toàn thụ động, Minh Sư muốn đưa tôi đi nơi nào tôi theo đến nơi ấy nên chẳng biết là mình đang đi đâu và sẽ đến nơi nào?
Có điều tôi không khỏi ngạc nhiên là tại làm sao Ngài Minh Dà Đông Đạt không rẽ về phía hướng Trắc Phổ Di mà lại đưa về hướng Phổ Đà La? Để làm gì? Và nơi ấy là nơi nào?
Đường đi càng lúc càng dốc. Hai con ngựa nặng nề kéo lê từng bước một cách nặng nề. Phía bên dưới cánh đồng đã tắt nắng. Bóng hoàng hôn vàng vọt phủ chụp lên vạn vật. Và, dần dà bóng đêm bao trùm lên vạn nẻo. Còn gì đẹp bằng cảnh rừng núi về đêm.
Đến Phổ Đà La thầy trò dần bước để tạm nghỉ ngơi và ăn uống tại đây. Sau khi ăn uống xong tôi trở về phòng. Chân sư đã ngồi đợi sẵn. Ngài gọi tôi đến và ra hiệu cho tôi ngồi xuống.
- Lỗ San! Thầy tôi bắt đầu nói. Ta biết chú không khỏi thắc mắc về những sự việc liên tục diễn tiến trong cuộc đời của chú. Chú có cảm thấy thế không?
Tôi cúi đầu trong giây lát , đoạn ngẩng thẳng mặt lên:
- Thưa Minh Sư, phải chăng các cao tăng muốn tìm chứng minh về tiền kiếp của con?
- Chú không sai! Lúc chú được các ngài Trụ Trì cho trở về gọi ta đến gặp các Ngài là không ngoài việc cùng các ngài thảo luận về tiền kiếp của chú. Bây giờ chỉ còn phải đợi mọi cuộc bàn thảo cuối cùng được hoàn tất chúng ta mới được rời khỏi nơi này.
Chiều nay, chú không phải đi lễ, ta sẽ giảng giải cho chú thật rõ ràng những gì đã, đang và sẽ xảy ra trong cuộc đời chú. Có điều, chú nên nhớ là không nên ngắt lời ta trong lúc ta giảng giải cho chú biết. Lỗ San! Chú có nghe rõ điều này không?
- Thưa Minh sư, vâng ạ! Con nghe rõ.
Người nhìn tôi trong giây lát và từ từ nói:
- Đa phần khi con người trở lại thế gian này là để trau dồi học hỏi thêm những điều thiếu sót. Có người trở lại để giúp đỡ cho kẻ khác khi họ cần đến. Cũng có người trở lại vì được cõi giới khác giao phó sứ mệnh đặc biệt để hoàn thành một trọng trách mà người ấy còn đang bỏ dở!
Nói đến đây, Minh Sư ngừng lại để dò xét xem tôi có bị phân trí hay không rồi lại tiếp tục giảng giải:
- Có nhiều tôn giáo cho rằng "Địa Ngục" là nơi để tra khảo, trừng phạt linh hồn kẻ chết để đền lại những lỗi lầm trong thời gian còn ở cõi đời! Địa Ngục không phải ở đâu xa, mà ngay nơi tầm tay của chúng ta. Hay nói cách khác nó hiện hữu ở ngay thế gian này chứ không thuộc về cảnh giới khác.
Hoặc giả, để hoàn thành sứ mệnh. Như chú chẳng hạn, như ta và như các Ngài Tiên Tri trong đời sống hiện hữu ở thế gian này.
Chúng ta đều phải có trách nhiệm hoàn tất mọi sự kiện liên hệ đến "Ánh Sáng Thiêng Liêng" đang ngự trị trong cái thể xác bằng da bằng thịt này.
Đến đây Người nhìn tôi hỏi:
- Lỗ San, chú có nghe rõ lời ta vừa nói đó không?
- Thưa, con rõ... Con nghe tất cả.
- Lục Giác Thông sẽ giúp chú đạt đến trình độ nhìn thấu rõ ánh hào quang của con người và chú sẽ đạt thông tất cả các pháp môn về Huyền Bí Học.
Chính Ngài Tối Cao Lạt Ma ra lệnh cho toàn thể chúng ta phải giúp đỡ chú bằng mọi cách để được tăng trưởng về khả năng pháp lực.
Chúng ta sẽ tận dụng tất cả năng lực của mình hoặc bằng Trực Tiếp Tâm Truyền hoặc bằng Thần Giao Cách Cảm giúp chú tu luyện hầu có đủ Linh Năng Trực Giác trong một thời gian kỷ lục. Lỗ San hiểu chứ?
Tôi suy nghĩ không ít về những câu nói của Minh Sư, hóa ra ngay cõi trần này là nơi để con người tự chuộc lấy tội lỗi của mình. Tôi liền hỏi lại Minh Sư:
- Thưa Minh Sư, nói như vậy thì phải chăng cõi
chúng ta đang sống đây là Địa ngục?
- Nói là luyện ngục thì đúng hơn. Chính chốn luyện ngục này chúng ta sẽ bị thử thách đủ mọi hình thức tất nhiên không khỏi chịu trải qua lắm nỗi gian nan bắt buộc chúng ta phải cố vượt qua tất cả mọi truân chuyên để tiến lên một kiếp sống khác hoàn toàn tốt đẹp hơn.
Mọi cam go sẽ được xóa bỏ. Mọi lỗi lầm phạm phải sẽ được tẩy trừ. Mọi hoen ố sẽ được thanh lọc. Tất cả sẽ làm cho linh hồn ta được trong sáng và nhẹ nhàng hơn, không còn vướng víu những vết nhơ tội lỗi trong cuộc sống đầy ô trọc này.
Nếu chúng ta không gạn lọc được những điều xấu xa của một xã hội phi nhân ấy từ tâm hồn đến thể xác thì làm thế nào bước chân được vào cảnh giới siêu nhiên?
Lỗ San, nên nhớ rằng một kiếp sống ở thế gian này so với cõi vĩnh cửu bên kia cảnh giới nó ngắn ngủi đến độ không bằng một cái nháy mắt!
- Có thể người Tây phương nghi ngờ về điều này và họ cho rằng chúng ta thuộc về lớp người lạc hậu, lúc nào cũng mơ tưởng đến cảnh giới siêu hình, cảnh giới hoàn toàn do ảo giác, đánh lừa ta trên con đường đi tìm thánh thiện!
Chúng ta sẽ nói lên cho họ một cách rõ ràng "Đời sống sau khi chết" là có thật. Và chúng ta cũng phải cho họ hiểu một cách cặn kẽ rằng tất cả mọi vật thể trên thế gian này là do qui luật "chuyển lực" tạo thành.
Ngay cả đến cái vũ trụ bao la cùng khắp cũng phải tuân theo cái qui luật này, nó đâu có khác gì với lãnh vực bát âm của một cung đàn! Một khi chúng ta bước sang cảnh giới khác thì lĩnh vực "bát âm" đó lại bắt đầu lên cao hơn, réo rắt hơn, sắc sảo hơn chứ đâu có phải vĩnh viễn giữ mãi âm điệu ấy đứng nguyên tại chỗ?
Người tu hành muốn bảo vệ cái "Thiện" phải biết tiêu diệt cái "Ác". Cái ác mà không triệt tiêu được ắt cái thiện sẽ bị ngọn lửa có sức nóng đến cực độ thiêu cháy, biến thành mây khói của ngày kinh hoàng cách đây 1.600 năm ngày mà những tri thức của nhiều thế kỷ phải bị tiêu tan:
Đại thư viện của thành phố Alexandria hoàn toàn thiêu rụi mang theo cả một nền văn minh rực rỡ đi vào quên lãng.
Ngọn lửa tai hại ấy hiện chưa xuất hiện, nhưng mà những tư liệu về tri thức của loài người đang từ từ bị chôn vùi dưới lòng hố sâu vực thẳm, khiến cho nhân loại phải lâm vào cơ nguy sắp bị đánh mất đi quá khứ.
Nền văn minh vật chất đang ngày càng phát triển, khiến con người vì nhu cầu phục vụ cho cái "sở dục" tầm thường của mình phải nhắm mắt chạy theo đuổi bắt để rồi lãnh cái hậu quả cuối cùng, là tất cả cái gì trong sáng của phần hồn đã bị đốt cháy, đạo lý sẽ không còn, nhân tính sẽ bị mất đi. Tất cả đều đảo lộn.
Những tri thức sẽ biến mất và những gì còn lại chắc chắn cũng sẽ bị tiêu diệt chỉ trong vòng một thế hệ nữa, không xa lắm!
Nói đến đây Minh Sư lại lên tiếng hỏi với mục đích đánh thức tiềm thức của tôi dậy:
- Lỗ San! Chú có hiểu những gì ta nói đây với chú không ?
- Vâng, thưa Minh Sư, con hiểu.
- Ta biết chú thông minh, nhưng ta có bổn phận nhắc nhở lại những gì mà chú đã biết.
Hoàng đế Khuphu, khoảng 2800 năm trước công nguyên trị vì đất nước Ai Cập, một đất nước thật xa xôi đối với xứ sở của chúng ta, đã từng thể theo lời khuyên của các giáo sĩ phán với mọi người dân là cuộc sống ở trần gian này chỉ ngắn ngủi và tạm thời, cung đình nguy nga lộng lẫy này âu đó chỉ là quán trọ.
Cũng theo lời của nhà Vua thì chính ngôi mộ mới là ngôi nhà vĩnh cửu của các bậc Đế Vương.! Nhưng với chúng ta thì ngôi mộ mà nhà Vua cho rằng là nơi Vĩnh Hằng bất di bất dịch thì nó chẳng qua cũng chỉ là của cải vật chất nặng về phần trình diễn của phần xác chứ đâu phải phần hồn?
Ngôi mộ mà nhà Vua Khuphu đã trịnh trọng phán ra cũng chỉ là một sự che đậy cái thây ma rữa nát! Thế thôi! Cái gì thuộc về vật chất thảy đều tạm thời, se sua trong một giai đoạn dù dài lâu hay ngắn ngủi cũng tàn đi theo biến chuyển của thời gian và không gian.
Lỗ San, chú nghĩ thế đúng hay không?
Thầy tôi hỏi.
- Thưa, Minh Sư, đúng như vậy.
- Quốc gia Hy Lạp từng tồn tại với một nền văn minh rực rỡ cổ đại, từ thời văn hóa Crète Mycène ở vào cuối thế kỷ thứ ba trước công nguyên đến Homère, nhà thơ vĩ đại, đại diện cho thời kỳ xuất hiện hai tập sử thi nổi tiếng đó là Ilyade và Odyssée mà tác giả của nó không ai khác hơn: chính đó là Homère!
Rồi qua thời kỳ thứ ba với nhiều giai đoạn đạt đến đỉnh cao ở Athénes dưới thời Periclès trị vì. Nhưng rồi cuối cùng Hy Lạp cũng bị La Mã thôn tính và nền văn minh Hy Lạp chấm dứt từ đó.
Đành rằng trong sự ra đời và phát triển của nền văn minh Hy Lạp càng ngày càng nảy sinh đa dạng và cũng lắm thành tựu rực rỡ được xem là một đất nước có nền văn minh tối cổ chiếm một vị trí quan trọng trong kho tàng văn hóa nhân loại, đặc biệt là thần thoại!
Cả thế giới đều phải thừa nhận Thần thoại Hy Lạp vô cùng đa dạng và phong phú. Nhưng rồi các tài sản vật chất được dựng lên bởi lý trí của con người có tồn tại hay không?
Chắc chắn là không. Đó là ta chưa nhắc nhở lại chú về các cội rễ của các nền văn minh khác trên thế giới, nhất là nền văn minh Ấn Độ, Ả Rập nền văn minh có hằng hà con số nối đuôi song cuối cùng chỉ còn là con số Không, mà bài thơ của nhà Vua Frédéric ll thể hiện trong những bức thư với dụng ý lấy nó làm đề tài cho khổ thơ tứ tuyệt:
" Quần thần đó, chỉ là những quân cờ trên bàn tính toán. Giá trị của từng thành phần tùy thuộc vào vị trí nơi họ. Khi họ được hưởng những ân sủng đến hàng triệu triệu. Nhưng than ôi khi hết ân huệ rồi thì chỉ còn là những con số không thôi."
Bài thơ tuy diễn đạt một thực tế của sự tính toán nhưng nó hàm súc một ẩn số cho ta thấy rằng cái gì rồi cũng trở về với con số không. Nó đâu có khác gì đời sống của con người như chúng ta hiện tại!
Và một điều nữa. Một nền văn minh rực rỡ khác, nền văn minh của thời đại Kalip, triều Albasid. Al Ma'mum đã lập ra tại Baghdad một Ngôi nhà thông thái, có tính truyền thông và giao lưu văn hóa giữa nơi này với Ấn Độ thu thập được những loại sách quý.
Nhưng đó chỉ là những của cải vật chất sản sinh từ tinh ba của con người. Tất cả đều không phải là cứu cánh, mà cứu cánh thật của con người là nơi Vĩnh Hằng, là Tinh Túy, là Bất Diệt. Chú biết chứ, Lỗ San?
- Vâng, thưa Minh Sư, con biết.
Đến đây thầy tôi dùng bàn tay Người đập đập xuống thềm nhà lát đá:
- Này Lỗ San! Đây là đá! Sức rung động tất nhiên phải nặng.
Rồi Người lại đưa tay cọ vào cái áo của tôi đang mặc trong người :
- Còn đây là "len", vậy thì sự rung động phải nhẹ hơn. Nếu chúng ta nâng cao chuyển lực cho những âm tầng cao hơn vào sự cứng rắn hoặc tầm chuyển lực của nó. Vì thế mà đời sống sau khi chết, ở thế giới vĩnh cửu sẽ có đủ các vật thể riêng biệt cũng như ở thế gian này.
Đến đây, người ngẩng mặt lên đưa mắt đăm đăm nhìn tôi:
- Chú có hiểu những gì ta vừa nói đó không ?
Lẽ tự nhiên là tôi hiểu, vì các điều này đã được biết từ lâu rồi. Không đợi tôi trả lời thầy tôi lại tiếp:
- Tất cả những điều đó mọi người đều rõ cả. Ta nghĩ rằng những lời ta đem cả tâm huyết giảng giải cho chú nghe tuy rườm rà đượm màu lý luận, song nó lại là điều cần thiết. Một ngày nào đó, chú sẽ đi đến các nước Tây phương. Lúc đó chú ắt sẽ thấy là ta có lý.
Ngoài hành lang các tăng sĩ đang lũ lượt kéo nhau vào chùa dự buổi lễ tối. Tiếng kèn đồng từ trên thung lũng rền rĩ vang lên báo hiệu một ngày đã lặng lẽ trôi qua và buổi lễ nguyện cầu sắp đến.
Minh sư vẫn ngồi nguyên tại vị, miệng vẫn tiếp tục nói:
- Lỗ San! Chú có biết chăng lý do phát sinh ra tôn giáo đều do hoàn cảnh và môi trường của nó. Ta không có ý đả kích bất cứ dòng tư tưởng nào đẻ ra một tôn giáo mà chỉ nói cái nguyên nhân phát sinh ra nguyên lý Toàn Chân và Toàn Thiện của con người.
Những ngày sơ khai trên trái đất, con người chỉ ở với nhau từng đám nhỏ, từng bộ lạc nhỏ. Lúc bấy giờ không có đề ra một nền luân lý trong đời sống của con người.
Họ, Thủy tổ của chúng ta, cho rằng chỉ có sức mạnh mới là tất cả, vì Tổ tiên của chúng ta lúc bấy giờ nghĩ rằng "sức mạnh" là luật duy nhất. Kẻ nào mạnh nhất, dữ tợn nhất sẽ đứng ra lập "bộ lạc". Họ sẽ được khuyến cáo phải có sự chiến đấu mới mong được sinh tồn.
Thế là bộ lạc này gây hấn với bộ lạc kia, chinh phục, chèn ép nhau, giết chóc nhau không một chút động lòng. Từ đó, theo thời gian kẻ mạnh cũng như kẻ yếu đều khôn ra, tất cả đều nhận thấy rằng nếu biết tổ chức thì đời sống con người sẽ trở nên tươi sáng hơn.
Ví như đặt bày ra nền tảng luân lý, họ cũng đặt bày ra những luật lệ để áp dụng, và cuối cùng là tôn giáo. Tổ tiên ta bảo rằng: Phải thật mạnh khỏe và phải bành trướng thêm về nhân số. Có sinh sản nhiều bộ lạc mới mong được đông đảo hơn. Có đông đảo mới hy vọng được thêm cường tráng.
Trong lúc đó lòng ích kỷ, sự hẹp hòi, là điều kiện tất yếu đưa đến sự tàn ác, hung hãn, thiếu tình nhân loại! Tất cả đều phát sinh từ đó. Thế có nghĩa là người bộ lạc này không được lấy nhau với người bộ lạc khác. Nếu sự kiện này xảy ra thì lòng trung thành sẽ bị chia xẻ.
Khi đã đưa ra luật lệ tất nhiên phải tìm mọi cách để ngăn chặn những kẻ phá luật. Các trưởng tế lại họp nhau đề ra phương thức ban thưởng và trừng phạt bằng roi vọt ở trần gian. Và cũng không quên đưa ra các danh từ Thiên Đàng, Tiên cảnh, Lạc Quốc, Niết Bàn cho những kẻ biết vâng lời.
Cũng như Địa ngục, Hỏa ngục, Âm Phủ dành cho những ai đi ngược lại lời khuyến nhủ của kẻ thế gian, nơi đây họ sẽ phải chịu những hình phạt tra khảo đời đời, kiếp kiếp.
Nhận thấy tôi có vẻ nghĩ ngợi về điều mà Minh Sư vừa nói, Người bèn cầm lấy tay tôi như muốn chuyền sang hơi ấm, đoạn lên tiếng từ từ nói:
- Có thể chú nghĩ rằng ta muốn nói là kẻ làm điều dữ sẽ phải hứng chịu lấy quả báo, có phải thế không ?
Tôi gật đầu:
- Vâng, thưa Minh Sư quả con nghĩ như vậy!
- Không, ta không phải chủ ý nói như vậy với chú. Lỗ San, chú nên nhớ rằng có lắm người tự thấy mình lạc lõng mất tin tưởng và cho rằng con người sinh ra giữa thế gian này chẳng lệ thuộc vào bất cứ ai.
Họ làm điều lành hay điều ác, tất cả chung qui rồi cuối cùng cũng phải chết, mà chết là hết, là "tử giả biệt luận", không có bất cứ cõi nào nữa ngoại trừ kiếp sống hiện hữu.
Vì vậy mà những người có những ý tưởng này hoàn toàn mất tất cả tin tưởng, cho đến khi chính họ nhận ra được là có một cái gì đó ngoài tầm mắt của mình lúc nào cũng trông thấy họ đang làm những gì, đang săn sóc họ và quan phòng họ, cho họ đời sống.
Ngay từ khi chưa lọt lòng mẹ cho đến lúc sinh thành, và đặc biệt bên cạnh luôn có một "linh thần" lúc nào cũng theo dõi các hành động hàng ngày của họ.
- Thế thì thưa thầy, trên đầu ta có một Đấng Thiêng Liêng và chính đấng này sẽ thưởng phạt phân minh đối với những hành động của con người trong đời sống?
!
- Đó là Đấng Tối Cao mà ta thường gọi là Thượng Đế ! Nhưng đó đã vị tất chỉ riêng Ngài mà luôn cả chính con người chúng ta nữa.
Tôi vô cùng ngạc nhiên trước lời nói này của Minh Sư bèn vội hỏi lại:
- Ta cũng... là Thượng Đế ?
- Ta muốn nói như vậy, và đúng như vậy!
- Thưa Minh Sư, con hoàn toàn không hiểu điều này.
Minh Sư cười:
- Chẳng gì khó hiểu cả.
Chính chúng ta cũng là Đấng Thượng Đế của những sinh vật li ti ở trong cơ thể chúng ta và còn ngay cả trong hằng hà sa số những sinh vật li ti đó, trong cái siêu vi của chúng còn có những loại cực cùng siêu vi khác nữa.
Mắt thường ta không bao giờ có thể nhìn thấy được, chúng luôn luôn sinh sôi nẩy nở, biến hóa vô thường, đến nỗi con người chúng ta chính là Đấng Thượng Đế của chúng cũng phải điên cuồng cả lên.
Nói đến đây Minh Sư đưa mắt nhìn ra ngoài khoảng không mênh mông vô tận, ngưng lại trong giây lát, rồi tiếp tục giảng giải:
- Có lẽ chú còn nhớ có một lần nào đó đã hỏi ta sự cầu nguyện mà chú nghi ngờ rằng nó hoàn toàn mơ hồ về sự hiệu nghiệm của nó.
- Vâng, thưa Minh Sư quả thật như vậy. Điều này con vẫn còn thắc mắc. Con còn nhớ có lần thầy giảng giải cho con là sự cầu nguyện rất có ích lợi và vô cùng hiệu nghiệm. Con chỉ biết theo lời thầy giảng giải thế thôi.
- Có vậy. Ta có lần bảo với chú như vậy. Ta xác nhận rằng là cầu nguyện rất linh ứng. Nếu chúng ta cầu nguyện với: linh hồn" và "thể phách" của ngay bản thân mình hoặc với "linh thể" của mình trên cõi Chân Như.
Vì nơi đó mới là thực thể của ta đang điều khiển nối liền chúng ta với cõi Chân Như bởi những sợi "Siêu Thăng Tuyến". Chính nơi đó mới chuyển đạt lời cầu nguyện chân thành của chúng ta đến Đấng Tối Cao.
- Và, thưa Minh Sư là lời cầu nguyện của chúng ta mới hiệu nghiệm?
- Đúng vậy.
- Thưa thầy, theo lời giảng giải của thầy như vậy mới được linh ứng?
- Đúng vậy. Nếu cầu nguyện đúng với phương pháp tự nhiên và giản dị như ta vừa nói thì không gì linh nghiệm bằng.
Chúng ta chẳng khác gì một đứa bé thơ lúc nào cũng run sợ trước mọi biến chuyển có tính hỗn loạn của sự vật quanh mình, đứa bé thơ này chỉ an lòng khi nào có được một cảm giác nằm trong vòng tay người mẹ.
Tôn giáo chẳng khác nào như cái chăn bông ấm cúng và an toàn. Nhưng ấm cúng và an toàn hơn khi ta biết rõ được sự thật về sự sống và sự chết của chính mình.
Khi ta chết thì linh hồn ta thoát ra khỏi cái vỏ mục nát đó biến thành hơi bay bổng lên đợi đến một ngày nào đó để đi đầu thai vào kiếp khác.
Làn hơi kia lại trở thành dòng suối mát như xưa. Âu đó cũng chỉ là cái vòng lẩn quẩn của kiếp luân hồi. Lỗ San, chú hiểu chứ?
Người vừa giảng đến đây bỗng có một nhà sư từ bên ngoài đi vào cúi rạp đầu xuống:
- Kính thưa Ngài Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt! Tôi xin kính cẩn chuyển đến lời chào thân ái nhất của Ngài Tối Cao Lạt Ma đến Ngài. Tôi cũng xin được mạn phép đưa Ngài đến gặp Người để thảo luận những điều cần thiết.
Không hỏi han một điều gì với nhà sư này, thầy tôi vội vã đứng lên đi ngay sau khi cho phép tôi được tự do trong khoảng thời gian Minh Sư vắng mặt. Tôi lững thững một mình trèo lên tầng thượng ngôi Đại Tự Phổ Đà La ngắm cảnh.
Lúc bây gờ màn đêm bắt đầu buông xuống và xa xa hình ảnh Viện Y khoa Trắc Phổ Di ẩn hiện dưới lớp sương mờ nhạt. Cạnh chỗ tôi đang đứng, lá cờ lễ treo trên cao bay phấp phới.
Tôi lần bước đến ngay khung cửa sổ, nhìn xuống bên dưới bất giác trông thấy một vị Tăng già đang quay "luân xa" giống như các vị tăng khác mà tôi đã từng chứng kiến vọng lên tiếng kêu kĩu kịt của bánh xe, chẳng khác nào tiếng võng đong đưa, phá tan sự im lặng giữa màn đêm đen tối.
Bầu trời tím sẫm giăng mắc dày đặc các vì sao trông hệt như một bức tranh dệt toàn bằng những hạt kim cương lấp lánh. Thỉnh thoảng vài tia chớp ngoằn ngoèo trông như các con rắn bạc vụt hiện lên và vội tắt ngấm ngay sau đó.
ĐI TÌM TIỀN KIẾP
Tôi rời phòng ngủ lững thững đi đến một khu vườn trồng đủ các loại kỳ hoa dị thảo. Mới thoạt nhìn tôi không biết được có bao nhiêu loại hoa và gồm những loại hoa gì? Màu sắc rực rỡ của khu vườn làm tôi loáng cả mắt.
Chân tôi cứ chậm rãi bước đi và mắt thì cứ chăm chú nhìn hết nơi này đến nơi khác. Có những cụm hoa rực lên như màu lửa mà cũng có những loài hoa hệt như những loài hoa dại mọc ven đường rừng mà tôi được nhiều lần trông thấy.
Tất cả đều như thể tranh nhau phô bày vẻ đẹp muôn hồng nghìn tía của mình trước các đàn bướm hoa hay các con vò vẽ đang chập chờn bay lượn!
Và cứ như thế, tôi lững thững tiến sâu vào bên trong khu vườn trông hệt như một thảm hoa rực rỡ. Xa xa tiếng sáo diều khi trầm khi bổng véo von vọng lại, như thể đưa hồn người đi vào một thế giới siêu nhiên nào đó.
Tôi tiến sâu thêm vào bên trong, một quang cảnh khác lại phơi bày ra trước mắt. Đó là một cái hồ nước không lớn nhưng cũng chẳng là nhỏ nổi bật giữa một khoảnh đất trồng đầy loài hoa "tý ngọ" rực lên đủ màu sắc.
Hồ nước có hình dáng như khu hồ Balaton mà có lần chú Sĩ Cát cho tôi xem trong tập sách nói về danh lam thắng cảnh nổi tiếng tại đất nước Hung Gia Lợi.
Hồ Balaton ở chân núi Bakony có chiều rộng khoảng một cây số rưỡi là hồ lớn nhất ở Trung Âu, có những dải rừng xanh mướt, cũng như có các suối nước nóng bốc hơi và cả nước khoáng chảy róc rách ven theo sườn núi tạo thành một phong cảnh vô cùng ngoạn mục.
Tôi không biết công trình kiến tạo hồ nước tại khu vườn hoa này nơi đây liệu người xưa có mô phỏng theo cảnh thực của Balaton không, nhưng hồ nước nhân tạo thu nhỏ lại mà tôi đang đứng sững sờ chiêm ngưỡng không có gì khác hơn.
Cũng những dòng nước suối róc rách, cũng một dải thông xanh mướt và nước hồ trông hệt như mặt gương xanh phẳng lì, đứng tự đầu xa trông chẳng khác gì một bức tranh lung linh đủ màu đủ sắc.
Bên kia vườn là một ngôi nhà có mái cong hệt như một ngôi đền, khi tôi bước vào bên trong mới biết đó là một tiểu thư viện, gồm một tủ kiếng lớn chứa đầy sách vở và một số tranh treo trên các tường.
Tôi chú ý đến mấy bức tranh có sắc thái Bắc Tông mà tôi được biết nhờ có lần chú Sĩ Cát giải thích, còn gọi là Phật giáo Bắc Tông hay Phật giáo Bắc Phương. Phái Bắc Tông tức Đại Thừa, phổ biến ở Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng và luôn cả Mông Cổ, Triều Tiên và Việt Nam.
Phái Phật giáo này dựa vào những kinh sách Phật bằng chữ Sanskrit nếu mang ra so sánh với phái Phật giáo Nam Tông, dựa vào kinh sách Phật chữ Pali thì phái Phật giáo Bắc Tông cấp tiến hơn, có phần uyển chuyển hơn.
Dễ thích ứng với những đổi thay tùy theo hoàn cảnh và thời đại của trào lưu, nhưng có điều nó dễ pha trộn với những yếu tố tín ngưỡng trong dân gian, vì vậy nó có vẻ xa lạ với Phật Giáo Nguyên Thủy thời đức Phật.
Vừa về đến phòng đã được lệnh của thầy tôi bảo đến ngay gặp Ngài có chuyện cần gấp. Tôi được Minh Sư đưa đến gặp Ngài Trụ Trì cùng hai vị Lạt Ma lớn tuổi. Họ phỏng vấn tôi nhiều điều về gia cảnh. Họ còn nhìn tôi chăm chú, hỏi tôi có nhớ gì về tiền kiếp hay không?
Và bằng cách nào mà tôi liên lạc được với Ngài Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt? Cuối cùng cả ba vị này im lặng chậm chạp lê bước ra bên ngoài không nói thêm lời nào. Tôi ngơ ngác chẳng biết có nên theo các Ngài hay không, thì vị tăng sau cùng đã lấy tay vẫy tôi vừa đi vừa nói:
- Đi, đi theo chúng ta. Lúc bấy giờ tôi như cái máy chỉ biết phục tùng ngoan ngoãn theo sau. Tiếng dép lẹp kẹp vang lên dọc nẻo hành lang. Tôi có cảm tưởng như tiếng của con ngựa đói từ đường xa đang cố hết sức mình kéo lê đi một cách miễn cưỡng.
Tôi đành theo sau từng bước. Và tôi có cảm tưởng những ông sư già này là hiện thân của các con sên đang mang cái vỏ già nua cằn cỗi, đang tiến dần đến bờ huyệt để an hưởng tuổi già. Thú thật trước hình ảnh này tôi thật sự cảm thấy khó chịu.
Mỗi lần đi ngang các căn phòng trống, mấy chú tiểu cùng mấy ông phục dịch bên trong cứ trố mắt mắt nhìn tôi lộ vẻ tinh quái. Những lúc như vậy, mặt mày tôi nóng bừng lên thẹn thùng vì phải ở trong đám người lê bước chẳng khác như đàn rùa đói sau giấc ngủ dài vừa bừng tỉnh.
Dẫn đầu là Ngài Trụ Trì bằng vào hai cái nạng khập khễnh bước, còn miệng thì cứ lẩm nhẩm đọc những lời kinh, chẳng biết có phải là những lời kinh sám hối không? Kế đến là hai vị Lạt Ma già lụ khụ, gầy đét như hai con mực khô, lảo đảo bước như một chú gà chọi thất trận.
Còn tôi, thân phận của một chú tiểu giữ vị thế "tập hậu" cứ phải kiềm hãm lại bước chân mà không một chút nào thích thú. Không biết mất bao nhiêu thời gian, song tôi nghĩ là lâu lắm mới đến được phía cửa nhỏ ở chân tường.
Đến đây Ngài Trụ Trì đứng hẳn lại, mò mẫm trong bọc túi áo lấy ra chiếc chìa khóa nhỏ, miệng lâm râm đọc. Vì tiếng quá nhỏ tôi không thể nghe thấy Ngài đã đọc những lời nào! Liền ngay sau đó một vị Lạt Ma khác đến giúp Ngài mở tung cánh cửa, tức thì có tiếng rít kèn kẹt của bản lề vang lên.
Ngay sau đó hai vì Lạt Ma theo chân Ngài Trụ Trì bước vào bên trong. Chẳng một ai ra lệnh cho tôi theo vào, song lần này tôi không còn ngơ ngác nữa, tức thì lẳng lặng bám sát theo từng bước.
Sau khi tôi bước qua ngạch cửa của một ngôi nhà gần như đổ nát thì bỗng một vị Lạt Ma quay lại đóng sập ngay cửa lại. Vào bên trong chúng tôi tiến đến một cái bàn khá dài, bên trên chất đầy những đồ vật cũ kỹ bám đầy bụi bặm.
Những vật cũ kỹ này toàn là áo cà sa từ thời xa xưa nào, cũng như các xâu tràng hạt và nhiều bánh xe quay để các nhà tu già nua đi cầu kinh.. toàn là các loại từ bao nhiêu thời đại lưu lại. Nằm rải rác trên mép bàn có vài ba hộp búa bằng gỗ chạm trổ cùng nhiều vật khác khá lạ lùng tôi chẳng biết các vật lạ ấy là gì nữa?
- Này! Lại đây chú bé ơi! Vị Trụ Trì gọi tôi. Chú thử nhìn xem tất cả các món đồ trên bàn này có nhận thấy cái nào là của chú không ?
Tôi ngạc nhiên nhìn vị Trụ Trì vừa nói, hỏi lại:
- Con không hiểu Ngài định nói điều gì ?
Vị Trụ Trì nhắc lại từng tiếng một:
- Ta muốn nói là chú thử nhìn xem trong đống đồ cũ kỹ này có cái nào của chú không
Tôi lắc đầu:
- Thưa Ngài Trụ Trì, làm sao có được đối với một đứa bé như con?!
- Ta muốn nói những cái mà tiền kiếp của chú kia...
Ngài vừa nói vừa từ từ tiến về chỗ tôi đang đứng rồi dắt về phía cạnh bàn, đoạn nghiêm nghị bảo:
- Nếu chú nhận thấy các đồ vật nơi này không phải của chú thì cứ nhặt một vài món mang đến cho ta xem.
Dứt lời, ngài đến chiếc ghế cách chỗ tôi đang đứng không bao xa ngồi xuống một cách nặng nề. Mặt ngẩng lên, mắt hướng lên trần nhà như đang suy tư một vấn đề gì. Lúc bấy giờ tư bề hoàn toàn yên tĩnh. Thỉnh thoảng có làn gió nhẹ thoảng vào, làm lay động mấy tấm màn treo nơi cửa sổ.
- Được!
Tôi lẩm bẩm và mỉm cười. Nếu ba Ngài muốn chơi cái trò này, thì "tiểu oắt con" này sẽ làm cho các Ngài ngạc nhiên cho mà xem!
Sở dĩ tôi nghĩ vậy vì cho là các nhà sư già muốn chơi trò tâm lý. Nghĩ vậy, tôi từ từ tiến về phía bàn có đống đồ cũ. Khi đến nơi tôi dừng lại đưa mắt nhìn trong giây lát. Sau đó tôi tự động đưa tay bên trái ra để cách đống đồ cao lối ba tấc, đoạn rà qua rà lại các vật đặt trên mặt bàn.
Có điều làm tôi ngạc nhiên là có một vài đồ vật đã làm tôi rụt tay ngay lại vì cảm thấy như bị điện giật khi tôi mó nhằm vào, đã vậy mà luôn cả mặt mũi như tuồng bị ngứa ngáy khó chịu!
Còn một vấn đề khác nữa, tôi đâu có chú ý đến "bánh xe cầu kinh", ấy thế mà tôi lại nhắc ra để bên cạnh mình. Tiếp đến tôi bưng cái bình bát móp méo cùng một một xâu tràng hạt dính đầy bụi bặm.
Như có một sức hút nhẹ nhàng tiếp tục đưa tôi đi ven theo quanh mép mặt bàn. Và cũng bất giác đứng lại, táy máy đôi tay mó thử một vài vật khác mà tôi nghĩ là dường như quen quen đã từng thấy từ bao giờ.
Đó là chiếc "áo cà sa" màu vàng nghệ thường dành cho các bậc cao tăng! Chiếc áo cà sa này đã ngả màu bạc phếu và gần như mục nát!
Đứng yên lặng trong giây lát, và nhất định không chần chờ nữa, tôi nhấc cái áo này lên một cách thật nhẹ nhàng đưa ra trước mắt mình ngắm nghía. Sở dĩ tôi có cử chỉ thận trọng như vậy chỉ vì sợ nó đã mục nát, có thể bấy ra từng mảnh vụn trước khi mang đến cho Ngài Trụ Trì quan sát.
Vừa cầm trong tay vừa rón rén bước đi không dám động mạnh, đến đặt dưới chân ghế của vị Trụ Trì đang ngồi. Và, tôi lại nhẹ nhàng quay trở lại mang các thứ khác như bánh xe cầu kinh, cái bình bát méo mó và một xâu tràng hạt đã vẩn màu bạc mốc đến trước mặt ngài.
Tôi mang tất cả các vật vừa tìm thấy đến để Ngài Trụ Trì quan sát, và tức thì ngay sau đó, hai nhà sư đang đứng đối diện với tôi bước ngay đến để cùng vị sư già tìm kiếm các dấu vết hoặc những điểm bí mật nào đó trong từng đồ vật một, đoạn mang ra đối chiếu với tập sách "Tiên Tri" và cùng nhau bàn thảo trước khi xác định tính cách riêng tư của các vật này.
Các vị sư này thì thầm bàn tán trong khoảng thời gian khá lâu, bất giác cả ba đều ngẩng mặt lên đưa mắt nhìn nhau, như thể sững sờ trước một sự thể vừa khám phá ra một việc tối quan trọng nào đó.
Tôi đứng bên kia bàn đưa mắt theo dõi, và suýt tí nữa tôi bật phì cười, vì cả ba vị đều có cái cổ khẳng khiu, dài thượt, trông hệt như cổ cò hay con gà tây mồng đỏ đang gật gù trông ra tuồng tương đắc lắm.
Bỗng cả ba vị sư cất tiếng cười vui vẻ:
- A! Ha,ha! Chú tiểu kia ơi !
Cả ba vị cùng cất tiếng cười vui vẻ rồi cùng nói tiếp:
- Đích thị...rồi...
Tôi ngơ ngác, chẳng biết chuyện gì đã xảy đến với tôi? Tôi ngơ ngác nhưng tuyệt đối chẳng hỏi han thêm chuyện gì đã xảy đến cho tôi?
- Hừ, hừ...đúng ...đúng là Người rồi...Ha, ha! Này chú tiểu ơi! Chú có nghe ba ông sư già này nói gì không?
- Thưa, con có nghe, song chẳng hiểu điều gì cả!
- Hả? Không hiểu điều gì cả à? Chúng ta nói rằng chú đích thực. Rõ ràng là đích thực, chú có hiểu không?
Tôi ngơ ngác giương tròn xoe mắt lên hỏi lại:
- Nhưng thưa các đại sư, con chẳng hiểu các đại sư khuyên bảo điều gì!
Vị Trụ Trì mỉm cười:
- Chúng ta đâu dám khuyên bảo chú điều gì, mà chỉ nói rằng là chú đúng là nhân vật mà chúng ta đang tìm kiếm.
Rồi Ngài nắm lấy tay tôi nói tiếp:
- Hừ, hừ. Thành quả chúng ta tìm thấy được thật không gì quý giá bằng. Chúng ta có thể tuyên bố là rất đáng lạc quan rất lạc quan chú biết chứ!
Giờ chú hãy mau trở về thưa với Chân Sư của chú, ông Minh Dà Đông Đạt đó, rằng chúng ta muốn được hân hạnh tiếp chuyện với Ngài tại đây. Tại nơi này. Chú nghe rõ chứ?!
Giọng nói của ngài Trụ Trì nghe có vẻ hoan hỉ! Tôi lập tức chạy đi ngay nhưng vừa bước đến ngạch cửa thì lại nghe tiếng của Ngài Trụ Trì già này nói vói theo:
- Này! Ông bạn bé bỏng kia ơi! Nhớ là chỉ một mình Minh Sư ông bạn thôi đấy nha, còn ông bạn khỏi phải quay trở lại đây nữa. Ha! Ha! Nhanh lên. Phen này đừng hòng mà trốn các lão già này.
- Tôi gật đầu và quay người lại chạy trở về nơi tôi và thầy tôi đang ở, vẫn còn nghe giọng cười của cả ba ông sư cao cổ vọng theo phía sau lưng tôi đuổi theo.
Riêng tôi, cảm thấy sung sướng vì đã thoát khỏi cảnh phải ngồi cạnh mấy cái xác ma chỉ toàn da bọc lấy xương không còn một chút sinh lực nào!
Tôi vừa chạy vừa suy nghĩ việc làm của mấy Ngài Trụ Trì trông hệt như cái hình nộm kia nên chẳng hề để ý đến mọi vật chung quanh, suýt chút nữa đâm sầm vào thầy tôi đang đứng cách đó chỉ trong gang tấc. Người vừa lấy tay ra nắm lấy tôi vừa cười lên tiếng hỏi:
- Đi đâu mà vội mà vàng như thế, hở chú?
Tôi vừa định đáp lại thì Người đã vỗ nhẹ vào vai tôi bảo:
- Tôi biết rồi. Bây giờ chú có thể đi dạo quanh quất nơi này đợi ta về cùng một thể.
Nói xong Minh Sư rảo bước đi đến nơi của các vị cao tăng đang đợi. Còn một mình tôi lững thững ra sân, lấy chân đá vào các hòn sỏi rồi thẩn thơ đi quanh quẩn trong vườn .
Rồi hình ảnh của các vật cổ lỗ, xấu xí, ẩm mốc nhưng vẫn còn giữ được màu sắc nguyên thủy của nó hiện ra trước mắt.
- Lạ! Chẳng biết các vị cao tăng này định chơi cái trò múa rối gì đây. Tại sao cái ông Trụ Trì kia cùng với hai vị Lạt Ma cứ bảo mình nhìn xem thử, có vật nào thuộc quyền sở hữu của mình hay không.
Để làm gì. Mà làm sao một chú tiểu chưa thuộc hết pho kinh sách làm gì có được những của cải kỷ niệm như vậy?
Tôi liên miên suy nghĩ như vậy. Nhưng rồi, đối với tuổi trẻ chúng tôi mọi việc đều dễ quên đi để chấp nhận những cái mới mẻ khác.
Tôi miên man suy nghĩ. Chẳng biết mục đích của các bậc cao tăng bắt tôi tìm các kỷ vật như vậy để làm gì? Mặc dù cho có đi, cũng chẳng ích lợi
gì cả đối với tôi. Mặc! Hơi đâu mà nghĩ?! Chuyện của các vị cao tăng hãy trả lại cho các vị ấy.
Với tôi thì những chuyện vặt vãnh như vậy chẳng có gì là quan trọng!
Tôi lững thững đi, đưa mắt nhìn khu vườn cây rậm rạp nhà chùa vừa để làm kiểng, cho các du khách hay cho những người mộ đạo tứ phương kéo về chiêm ngưỡng, vừa để ăn trái. Con đường dẫn đến khu vườn này không được rộng rãi lắm, lót bằng đá sỏi trắng phau phau.
Ven theo vệ đường là một con lạch nước trong vắt, trông hệt như mặt kiếng phẳng lì. Những cây cọc lớn đóng dọc ven theo bờ lạch không cao không thấp, trông hệt như một dãy hành lang của một tòa nhà có lối kiến trúc của Tây phương.
Đến cạnh khu vườn quang cảnh có khác đi. Bóng râm mát phủ kín toàn thể khu vườn bởi các tàng cây quá lớn, cành lá đan vào nhau, ánh mặt trời không thể nào rọi qua được. Chính vì vậy mà bên trong khu vườn chỉ sáng lờ mờ mặc dù lúc bấy giờ mới vừa đúng ngọ, bên ngoài vẫn còn rực sáng!
- Này, ông anh kia ơi!
Tiếng nói của ai từ phía sau lưng tôi gọi vọng đến khiến tôi phải quay lại nhìn. Người vừa gọi là một tăng sĩ đang đứng nhìn tôi chòng chọc mỉm miệng cười hỏi:
- Có phải anh là người có liên lạc với tiền kiếp đó không?
- Tiền kiếp?
Tôi hỏi lại.
- Vâng! Tiền kiếp. Liên lạc tiền kiếp. Có phải thật vậy không?
Tôi ngạc nhiên lắc đầu:
- Ông anh nói gì tôi cũng chẳng hiểu nữa.
- Quái! Thế mấy ông Trụ Trì cùng các bậc cao tăng chẳng nói gì với anh sao?
- Các ông ấy bảo tôi tìm các kỷ vật của tôi.
- Thì là đó. Các ông ấy muốn anh tìm cái gì thuộc kỷ vật của anh ở thời tiền kiếp! Rồi anh tìm được?
- Ờ, thì ra là vậy. Nhưng nếu là tìm kỷ vật của thời tiền kiếp tôi thì các vật tôi tìm thấy ấy chắc gì là đúng của mình? Tôi chỉ mường tượng thôi ông anh ạ!
- Mường tượng giống phải không ?
Tôi nhún vai lè lưỡi:
- Tôi không dám xác nhận là đúng hay không? Mà, thôi ông anh ạ! Tôi chỉ biết là bị họ kéo đi qua hành lang vào tận một căn phòng nhỏ nơi đó, như lúc nãy tôi vừa nói với anh, họ bày ra đủ mọi thứ toàn là các đồ vật cũ kỹ từ đời nào lưu giữ lại và bảo tôi tìm xem có cái gì của chính mình không?
- Nhưng mà tôi muốn hỏi anh là có cảm giác gì khi sờ vào các món ấy?
Tôi suy nghĩ trong giây lâu rồi gật đầu:
- Có. Có anh ạ!
- Thế nó như thế nào?
- Lạ lắm. Có lần tôi rà nhằm một vật nào đó, cảm thấy tay mình như chạm phải điện vậy.
- Nó giật?
- Gần như vậy.
- Anh có bảo như vậy với các vị Trụ Trì chăng?
- Có.
- Thế họ có ra lệnh gì cho anh không?
- Có chứ. Họ bảo tôi cứ nhặt vài món nào mà tôi ngờ ngợ là của mình rồi mang lại cho các ông ấy. Tôi thấy điều này cũng hơi kỳ.
Làm như vậy thì ai lại làm chẳng được. Đâu cần phải đợi đến tôi?
Người tăng sĩ cười toe toét miệng, trông rất vui vẻ, nói:
- Các vị cao tăng này ở Trắc Phổ Di đều biết các vật ấy là của chú, bằng không thì chú làm thế nào vào được nơi "Cổ Tàng Viện" đó?
Tôi có nghe lóm các vị ấy nói với nhau là tiền kiếp của chú giữ một địa vị khá cao. Do đó mà Ngài Tiên Tri mới dành trọn nửa ngày cho chú. Đó là một điều đặc biệt. Bộ ai cũng được như chú sao!
Anh ta vừa nói vừa khẽ nhún đôi vai lên, quay đầu nhìn chung quanh mình như thể sợ có ai nghe được câu nói vừa rồi.
- Này! Phải coi chừng đấy! Trước khi chú biết được việc gì sẽ xảy đến, họ sẽ chứng nhận ngay lý lịch của chú và sẽ đưa chú lên làm một vị Trụ Trì quan trọng mà chính chú cũng không nghĩ đó là sự thực.
Nói đến đây, người tăng sĩ nheo mắt nhìn tôi cười:
- Liệu hồn nha! Rồi một ngày nào đây ông anh sẽ không còn một chút thì giờ mà rong chơi với đám bạn hữu nhỏ ở chốn Trắc Phổ Di nữa đâu! Chú sẽ vùi đầu với công việc như các vị cao tăng khác.
Tôi đang ưu tư về lời nói của vị tăng sĩ này thì từ xa tôi nhìn thấy thấp thoáng bóng của Minh Sư từ cuối vườn hướng về phía chúng tôi đang đứng tiến đến. Khi Người vừa đến nơi, ông anh tăng sĩ này vội vàng cúi rạp đầu xuống chào một cách thật cung kính.
Nội bấy nhiêu đó cũng biết vai vế của thầy tôi không phải là nhỏ nhoi gì. Đáp lễ xong, Minh Sư bèn quay lại phía tôi bảo:
- Lỗ San! phải lên đường ngay kẻo trời sắp tối mất. Chúng ta lại phải đành dùng ngựa đi trong đêm, chẳng biết làm gì hơn! Đi ngựa vào đêm hôm là điều phiền phức. Nhưng đành vậy!
Hai chú tiểu trạc tuổi tôi đã chuẩn bị sẵn sàng hai con ngựa một con "Ô" và một con "Kim" đứng chờ chúng tôi từ lúc nào rồi. Đối với tôi phải đi ngựa là điều bất đắc dĩ. Chặng đường đầu tiên chúng tôi ngang qua là một rặng liễu dài cả hơn cây số. Nơi đây quả thật thơ mộng.
Nhiều cảnh tượng
trông như những hình ảnh vẽ trong tranh! Một chiếc cầu bằng cây vắt ngang qua lạch sông nhỏ có dòng nước trong xanh dưới tàng liễu rũ. Một đàn cá bơi lội tung tăng thỉnh thoảng dăm ba con nhô lên mặt nước hoặc đuổi nhau giữa dòng rồi lại trở ngay về đàn tiếp tục cuộc hành trình.
Trong cuộc hành trình ngắn ngủi này chúng tôi chẳng chuyện vãn với nhau một lời nào. Nhất lại là tôi. Vì đi ngựa chưa được thành thạo nên tôi phải luôn luôn để ý tránh gặp trường hợp ngựa trở chứng có thể làm cho tôi bị ngã dọc đường. Đã vậy, tôi còn muốn được có tinh thần thoải mái để chiêm ngưỡng cảnh đẹp của núi rừng.
Tôi vẫn cho ngựa đi nước kiệu theo sau Minh Sư. Tôi hoàn toàn thụ động, Minh Sư muốn đưa tôi đi nơi nào tôi theo đến nơi ấy nên chẳng biết là mình đang đi đâu và sẽ đến nơi nào?
Có điều tôi không khỏi ngạc nhiên là tại làm sao Ngài Minh Dà Đông Đạt không rẽ về phía hướng Trắc Phổ Di mà lại đưa về hướng Phổ Đà La? Để làm gì? Và nơi ấy là nơi nào?
Đường đi càng lúc càng dốc. Hai con ngựa nặng nề kéo lê từng bước một cách nặng nề. Phía bên dưới cánh đồng đã tắt nắng. Bóng hoàng hôn vàng vọt phủ chụp lên vạn vật. Và, dần dà bóng đêm bao trùm lên vạn nẻo. Còn gì đẹp bằng cảnh rừng núi về đêm.
Đến Phổ Đà La thầy trò dần bước để tạm nghỉ ngơi và ăn uống tại đây. Sau khi ăn uống xong tôi trở về phòng. Chân sư đã ngồi đợi sẵn. Ngài gọi tôi đến và ra hiệu cho tôi ngồi xuống.
- Lỗ San! Thầy tôi bắt đầu nói. Ta biết chú không khỏi thắc mắc về những sự việc liên tục diễn tiến trong cuộc đời của chú. Chú có cảm thấy thế không?
Tôi cúi đầu trong giây lát , đoạn ngẩng thẳng mặt lên:
- Thưa Minh Sư, phải chăng các cao tăng muốn tìm chứng minh về tiền kiếp của con?
- Chú không sai! Lúc chú được các ngài Trụ Trì cho trở về gọi ta đến gặp các Ngài là không ngoài việc cùng các ngài thảo luận về tiền kiếp của chú. Bây giờ chỉ còn phải đợi mọi cuộc bàn thảo cuối cùng được hoàn tất chúng ta mới được rời khỏi nơi này.
Chiều nay, chú không phải đi lễ, ta sẽ giảng giải cho chú thật rõ ràng những gì đã, đang và sẽ xảy ra trong cuộc đời chú. Có điều, chú nên nhớ là không nên ngắt lời ta trong lúc ta giảng giải cho chú biết. Lỗ San! Chú có nghe rõ điều này không?
- Thưa Minh sư, vâng ạ! Con nghe rõ.
Người nhìn tôi trong giây lát và từ từ nói:
- Đa phần khi con người trở lại thế gian này là để trau dồi học hỏi thêm những điều thiếu sót. Có người trở lại để giúp đỡ cho kẻ khác khi họ cần đến. Cũng có người trở lại vì được cõi giới khác giao phó sứ mệnh đặc biệt để hoàn thành một trọng trách mà người ấy còn đang bỏ dở!
Nói đến đây, Minh Sư ngừng lại để dò xét xem tôi có bị phân trí hay không rồi lại tiếp tục giảng giải:
- Có nhiều tôn giáo cho rằng "Địa Ngục" là nơi để tra khảo, trừng phạt linh hồn kẻ chết để đền lại những lỗi lầm trong thời gian còn ở cõi đời! Địa Ngục không phải ở đâu xa, mà ngay nơi tầm tay của chúng ta. Hay nói cách khác nó hiện hữu ở ngay thế gian này chứ không thuộc về cảnh giới khác.
Hoặc giả, để hoàn thành sứ mệnh. Như chú chẳng hạn, như ta và như các Ngài Tiên Tri trong đời sống hiện hữu ở thế gian này.
Chúng ta đều phải có trách nhiệm hoàn tất mọi sự kiện liên hệ đến "Ánh Sáng Thiêng Liêng" đang ngự trị trong cái thể xác bằng da bằng thịt này.
Đến đây Người nhìn tôi hỏi:
- Lỗ San, chú có nghe rõ lời ta vừa nói đó không?
- Thưa, con rõ... Con nghe tất cả.
- Lục Giác Thông sẽ giúp chú đạt đến trình độ nhìn thấu rõ ánh hào quang của con người và chú sẽ đạt thông tất cả các pháp môn về Huyền Bí Học.
Chính Ngài Tối Cao Lạt Ma ra lệnh cho toàn thể chúng ta phải giúp đỡ chú bằng mọi cách để được tăng trưởng về khả năng pháp lực.
Chúng ta sẽ tận dụng tất cả năng lực của mình hoặc bằng Trực Tiếp Tâm Truyền hoặc bằng Thần Giao Cách Cảm giúp chú tu luyện hầu có đủ Linh Năng Trực Giác trong một thời gian kỷ lục. Lỗ San hiểu chứ?
Tôi suy nghĩ không ít về những câu nói của Minh Sư, hóa ra ngay cõi trần này là nơi để con người tự chuộc lấy tội lỗi của mình. Tôi liền hỏi lại Minh Sư:
- Thưa Minh Sư, nói như vậy thì phải chăng cõi
chúng ta đang sống đây là Địa ngục?
- Nói là luyện ngục thì đúng hơn. Chính chốn luyện ngục này chúng ta sẽ bị thử thách đủ mọi hình thức tất nhiên không khỏi chịu trải qua lắm nỗi gian nan bắt buộc chúng ta phải cố vượt qua tất cả mọi truân chuyên để tiến lên một kiếp sống khác hoàn toàn tốt đẹp hơn.
Mọi cam go sẽ được xóa bỏ. Mọi lỗi lầm phạm phải sẽ được tẩy trừ. Mọi hoen ố sẽ được thanh lọc. Tất cả sẽ làm cho linh hồn ta được trong sáng và nhẹ nhàng hơn, không còn vướng víu những vết nhơ tội lỗi trong cuộc sống đầy ô trọc này.
Nếu chúng ta không gạn lọc được những điều xấu xa của một xã hội phi nhân ấy từ tâm hồn đến thể xác thì làm thế nào bước chân được vào cảnh giới siêu nhiên?
Lỗ San, nên nhớ rằng một kiếp sống ở thế gian này so với cõi vĩnh cửu bên kia cảnh giới nó ngắn ngủi đến độ không bằng một cái nháy mắt!
- Có thể người Tây phương nghi ngờ về điều này và họ cho rằng chúng ta thuộc về lớp người lạc hậu, lúc nào cũng mơ tưởng đến cảnh giới siêu hình, cảnh giới hoàn toàn do ảo giác, đánh lừa ta trên con đường đi tìm thánh thiện!
Chúng ta sẽ nói lên cho họ một cách rõ ràng "Đời sống sau khi chết" là có thật. Và chúng ta cũng phải cho họ hiểu một cách cặn kẽ rằng tất cả mọi vật thể trên thế gian này là do qui luật "chuyển lực" tạo thành.
Ngay cả đến cái vũ trụ bao la cùng khắp cũng phải tuân theo cái qui luật này, nó đâu có khác gì với lãnh vực bát âm của một cung đàn! Một khi chúng ta bước sang cảnh giới khác thì lĩnh vực "bát âm" đó lại bắt đầu lên cao hơn, réo rắt hơn, sắc sảo hơn chứ đâu có phải vĩnh viễn giữ mãi âm điệu ấy đứng nguyên tại chỗ?
Người tu hành muốn bảo vệ cái "Thiện" phải biết tiêu diệt cái "Ác". Cái ác mà không triệt tiêu được ắt cái thiện sẽ bị ngọn lửa có sức nóng đến cực độ thiêu cháy, biến thành mây khói của ngày kinh hoàng cách đây 1.600 năm ngày mà những tri thức của nhiều thế kỷ phải bị tiêu tan:
Đại thư viện của thành phố Alexandria hoàn toàn thiêu rụi mang theo cả một nền văn minh rực rỡ đi vào quên lãng.
Ngọn lửa tai hại ấy hiện chưa xuất hiện, nhưng mà những tư liệu về tri thức của loài người đang từ từ bị chôn vùi dưới lòng hố sâu vực thẳm, khiến cho nhân loại phải lâm vào cơ nguy sắp bị đánh mất đi quá khứ.
Nền văn minh vật chất đang ngày càng phát triển, khiến con người vì nhu cầu phục vụ cho cái "sở dục" tầm thường của mình phải nhắm mắt chạy theo đuổi bắt để rồi lãnh cái hậu quả cuối cùng, là tất cả cái gì trong sáng của phần hồn đã bị đốt cháy, đạo lý sẽ không còn, nhân tính sẽ bị mất đi. Tất cả đều đảo lộn.
Những tri thức sẽ biến mất và những gì còn lại chắc chắn cũng sẽ bị tiêu diệt chỉ trong vòng một thế hệ nữa, không xa lắm!
Nói đến đây Minh Sư lại lên tiếng hỏi với mục đích đánh thức tiềm thức của tôi dậy:
- Lỗ San! Chú có hiểu những gì ta nói đây với chú không ?
- Vâng, thưa Minh Sư, con hiểu.
- Ta biết chú thông minh, nhưng ta có bổn phận nhắc nhở lại những gì mà chú đã biết.
Hoàng đế Khuphu, khoảng 2800 năm trước công nguyên trị vì đất nước Ai Cập, một đất nước thật xa xôi đối với xứ sở của chúng ta, đã từng thể theo lời khuyên của các giáo sĩ phán với mọi người dân là cuộc sống ở trần gian này chỉ ngắn ngủi và tạm thời, cung đình nguy nga lộng lẫy này âu đó chỉ là quán trọ.
Cũng theo lời của nhà Vua thì chính ngôi mộ mới là ngôi nhà vĩnh cửu của các bậc Đế Vương.! Nhưng với chúng ta thì ngôi mộ mà nhà Vua cho rằng là nơi Vĩnh Hằng bất di bất dịch thì nó chẳng qua cũng chỉ là của cải vật chất nặng về phần trình diễn của phần xác chứ đâu phải phần hồn?
Ngôi mộ mà nhà Vua Khuphu đã trịnh trọng phán ra cũng chỉ là một sự che đậy cái thây ma rữa nát! Thế thôi! Cái gì thuộc về vật chất thảy đều tạm thời, se sua trong một giai đoạn dù dài lâu hay ngắn ngủi cũng tàn đi theo biến chuyển của thời gian và không gian.
Lỗ San, chú nghĩ thế đúng hay không?
Thầy tôi hỏi.
- Thưa, Minh Sư, đúng như vậy.
- Quốc gia Hy Lạp từng tồn tại với một nền văn minh rực rỡ cổ đại, từ thời văn hóa Crète Mycène ở vào cuối thế kỷ thứ ba trước công nguyên đến Homère, nhà thơ vĩ đại, đại diện cho thời kỳ xuất hiện hai tập sử thi nổi tiếng đó là Ilyade và Odyssée mà tác giả của nó không ai khác hơn: chính đó là Homère!
Rồi qua thời kỳ thứ ba với nhiều giai đoạn đạt đến đỉnh cao ở Athénes dưới thời Periclès trị vì. Nhưng rồi cuối cùng Hy Lạp cũng bị La Mã thôn tính và nền văn minh Hy Lạp chấm dứt từ đó.
Đành rằng trong sự ra đời và phát triển của nền văn minh Hy Lạp càng ngày càng nảy sinh đa dạng và cũng lắm thành tựu rực rỡ được xem là một đất nước có nền văn minh tối cổ chiếm một vị trí quan trọng trong kho tàng văn hóa nhân loại, đặc biệt là thần thoại!
Cả thế giới đều phải thừa nhận Thần thoại Hy Lạp vô cùng đa dạng và phong phú. Nhưng rồi các tài sản vật chất được dựng lên bởi lý trí của con người có tồn tại hay không?
Chắc chắn là không. Đó là ta chưa nhắc nhở lại chú về các cội rễ của các nền văn minh khác trên thế giới, nhất là nền văn minh Ấn Độ, Ả Rập nền văn minh có hằng hà con số nối đuôi song cuối cùng chỉ còn là con số Không, mà bài thơ của nhà Vua Frédéric ll thể hiện trong những bức thư với dụng ý lấy nó làm đề tài cho khổ thơ tứ tuyệt:
" Quần thần đó, chỉ là những quân cờ trên bàn tính toán. Giá trị của từng thành phần tùy thuộc vào vị trí nơi họ. Khi họ được hưởng những ân sủng đến hàng triệu triệu. Nhưng than ôi khi hết ân huệ rồi thì chỉ còn là những con số không thôi."
Bài thơ tuy diễn đạt một thực tế của sự tính toán nhưng nó hàm súc một ẩn số cho ta thấy rằng cái gì rồi cũng trở về với con số không. Nó đâu có khác gì đời sống của con người như chúng ta hiện tại!
Và một điều nữa. Một nền văn minh rực rỡ khác, nền văn minh của thời đại Kalip, triều Albasid. Al Ma'mum đã lập ra tại Baghdad một Ngôi nhà thông thái, có tính truyền thông và giao lưu văn hóa giữa nơi này với Ấn Độ thu thập được những loại sách quý.
Nhưng đó chỉ là những của cải vật chất sản sinh từ tinh ba của con người. Tất cả đều không phải là cứu cánh, mà cứu cánh thật của con người là nơi Vĩnh Hằng, là Tinh Túy, là Bất Diệt. Chú biết chứ, Lỗ San?
- Vâng, thưa Minh Sư, con biết.
Đến đây thầy tôi dùng bàn tay Người đập đập xuống thềm nhà lát đá:
- Này Lỗ San! Đây là đá! Sức rung động tất nhiên phải nặng.
Rồi Người lại đưa tay cọ vào cái áo của tôi đang mặc trong người :
- Còn đây là "len", vậy thì sự rung động phải nhẹ hơn. Nếu chúng ta nâng cao chuyển lực cho những âm tầng cao hơn vào sự cứng rắn hoặc tầm chuyển lực của nó. Vì thế mà đời sống sau khi chết, ở thế giới vĩnh cửu sẽ có đủ các vật thể riêng biệt cũng như ở thế gian này.
Đến đây, người ngẩng mặt lên đưa mắt đăm đăm nhìn tôi:
- Chú có hiểu những gì ta vừa nói đó không ?
Lẽ tự nhiên là tôi hiểu, vì các điều này đã được biết từ lâu rồi. Không đợi tôi trả lời thầy tôi lại tiếp:
- Tất cả những điều đó mọi người đều rõ cả. Ta nghĩ rằng những lời ta đem cả tâm huyết giảng giải cho chú nghe tuy rườm rà đượm màu lý luận, song nó lại là điều cần thiết. Một ngày nào đó, chú sẽ đi đến các nước Tây phương. Lúc đó chú ắt sẽ thấy là ta có lý.
Ngoài hành lang các tăng sĩ đang lũ lượt kéo nhau vào chùa dự buổi lễ tối. Tiếng kèn đồng từ trên thung lũng rền rĩ vang lên báo hiệu một ngày đã lặng lẽ trôi qua và buổi lễ nguyện cầu sắp đến.
Minh sư vẫn ngồi nguyên tại vị, miệng vẫn tiếp tục nói:
- Lỗ San! Chú có biết chăng lý do phát sinh ra tôn giáo đều do hoàn cảnh và môi trường của nó. Ta không có ý đả kích bất cứ dòng tư tưởng nào đẻ ra một tôn giáo mà chỉ nói cái nguyên nhân phát sinh ra nguyên lý Toàn Chân và Toàn Thiện của con người.
Những ngày sơ khai trên trái đất, con người chỉ ở với nhau từng đám nhỏ, từng bộ lạc nhỏ. Lúc bấy giờ không có đề ra một nền luân lý trong đời sống của con người.
Họ, Thủy tổ của chúng ta, cho rằng chỉ có sức mạnh mới là tất cả, vì Tổ tiên của chúng ta lúc bấy giờ nghĩ rằng "sức mạnh" là luật duy nhất. Kẻ nào mạnh nhất, dữ tợn nhất sẽ đứng ra lập "bộ lạc". Họ sẽ được khuyến cáo phải có sự chiến đấu mới mong được sinh tồn.
Thế là bộ lạc này gây hấn với bộ lạc kia, chinh phục, chèn ép nhau, giết chóc nhau không một chút động lòng. Từ đó, theo thời gian kẻ mạnh cũng như kẻ yếu đều khôn ra, tất cả đều nhận thấy rằng nếu biết tổ chức thì đời sống con người sẽ trở nên tươi sáng hơn.
Ví như đặt bày ra nền tảng luân lý, họ cũng đặt bày ra những luật lệ để áp dụng, và cuối cùng là tôn giáo. Tổ tiên ta bảo rằng: Phải thật mạnh khỏe và phải bành trướng thêm về nhân số. Có sinh sản nhiều bộ lạc mới mong được đông đảo hơn. Có đông đảo mới hy vọng được thêm cường tráng.
Trong lúc đó lòng ích kỷ, sự hẹp hòi, là điều kiện tất yếu đưa đến sự tàn ác, hung hãn, thiếu tình nhân loại! Tất cả đều phát sinh từ đó. Thế có nghĩa là người bộ lạc này không được lấy nhau với người bộ lạc khác. Nếu sự kiện này xảy ra thì lòng trung thành sẽ bị chia xẻ.
Khi đã đưa ra luật lệ tất nhiên phải tìm mọi cách để ngăn chặn những kẻ phá luật. Các trưởng tế lại họp nhau đề ra phương thức ban thưởng và trừng phạt bằng roi vọt ở trần gian. Và cũng không quên đưa ra các danh từ Thiên Đàng, Tiên cảnh, Lạc Quốc, Niết Bàn cho những kẻ biết vâng lời.
Cũng như Địa ngục, Hỏa ngục, Âm Phủ dành cho những ai đi ngược lại lời khuyến nhủ của kẻ thế gian, nơi đây họ sẽ phải chịu những hình phạt tra khảo đời đời, kiếp kiếp.
Nhận thấy tôi có vẻ nghĩ ngợi về điều mà Minh Sư vừa nói, Người bèn cầm lấy tay tôi như muốn chuyền sang hơi ấm, đoạn lên tiếng từ từ nói:
- Có thể chú nghĩ rằng ta muốn nói là kẻ làm điều dữ sẽ phải hứng chịu lấy quả báo, có phải thế không ?
Tôi gật đầu:
- Vâng, thưa Minh Sư quả con nghĩ như vậy!
- Không, ta không phải chủ ý nói như vậy với chú. Lỗ San, chú nên nhớ rằng có lắm người tự thấy mình lạc lõng mất tin tưởng và cho rằng con người sinh ra giữa thế gian này chẳng lệ thuộc vào bất cứ ai.
Họ làm điều lành hay điều ác, tất cả chung qui rồi cuối cùng cũng phải chết, mà chết là hết, là "tử giả biệt luận", không có bất cứ cõi nào nữa ngoại trừ kiếp sống hiện hữu.
Vì vậy mà những người có những ý tưởng này hoàn toàn mất tất cả tin tưởng, cho đến khi chính họ nhận ra được là có một cái gì đó ngoài tầm mắt của mình lúc nào cũng trông thấy họ đang làm những gì, đang săn sóc họ và quan phòng họ, cho họ đời sống.
Ngay từ khi chưa lọt lòng mẹ cho đến lúc sinh thành, và đặc biệt bên cạnh luôn có một "linh thần" lúc nào cũng theo dõi các hành động hàng ngày của họ.
- Thế thì thưa thầy, trên đầu ta có một Đấng Thiêng Liêng và chính đấng này sẽ thưởng phạt phân minh đối với những hành động của con người trong đời sống?
!
- Đó là Đấng Tối Cao mà ta thường gọi là Thượng Đế ! Nhưng đó đã vị tất chỉ riêng Ngài mà luôn cả chính con người chúng ta nữa.
Tôi vô cùng ngạc nhiên trước lời nói này của Minh Sư bèn vội hỏi lại:
- Ta cũng... là Thượng Đế ?
- Ta muốn nói như vậy, và đúng như vậy!
- Thưa Minh Sư, con hoàn toàn không hiểu điều này.
Minh Sư cười:
- Chẳng gì khó hiểu cả.
Chính chúng ta cũng là Đấng Thượng Đế của những sinh vật li ti ở trong cơ thể chúng ta và còn ngay cả trong hằng hà sa số những sinh vật li ti đó, trong cái siêu vi của chúng còn có những loại cực cùng siêu vi khác nữa.
Mắt thường ta không bao giờ có thể nhìn thấy được, chúng luôn luôn sinh sôi nẩy nở, biến hóa vô thường, đến nỗi con người chúng ta chính là Đấng Thượng Đế của chúng cũng phải điên cuồng cả lên.
Nói đến đây Minh Sư đưa mắt nhìn ra ngoài khoảng không mênh mông vô tận, ngưng lại trong giây lát, rồi tiếp tục giảng giải:
- Có lẽ chú còn nhớ có một lần nào đó đã hỏi ta sự cầu nguyện mà chú nghi ngờ rằng nó hoàn toàn mơ hồ về sự hiệu nghiệm của nó.
- Vâng, thưa Minh Sư quả thật như vậy. Điều này con vẫn còn thắc mắc. Con còn nhớ có lần thầy giảng giải cho con là sự cầu nguyện rất có ích lợi và vô cùng hiệu nghiệm. Con chỉ biết theo lời thầy giảng giải thế thôi.
- Có vậy. Ta có lần bảo với chú như vậy. Ta xác nhận rằng là cầu nguyện rất linh ứng. Nếu chúng ta cầu nguyện với: linh hồn" và "thể phách" của ngay bản thân mình hoặc với "linh thể" của mình trên cõi Chân Như.
Vì nơi đó mới là thực thể của ta đang điều khiển nối liền chúng ta với cõi Chân Như bởi những sợi "Siêu Thăng Tuyến". Chính nơi đó mới chuyển đạt lời cầu nguyện chân thành của chúng ta đến Đấng Tối Cao.
- Và, thưa Minh Sư là lời cầu nguyện của chúng ta mới hiệu nghiệm?
- Đúng vậy.
- Thưa thầy, theo lời giảng giải của thầy như vậy mới được linh ứng?
- Đúng vậy. Nếu cầu nguyện đúng với phương pháp tự nhiên và giản dị như ta vừa nói thì không gì linh nghiệm bằng.
Chúng ta chẳng khác gì một đứa bé thơ lúc nào cũng run sợ trước mọi biến chuyển có tính hỗn loạn của sự vật quanh mình, đứa bé thơ này chỉ an lòng khi nào có được một cảm giác nằm trong vòng tay người mẹ.
Tôn giáo chẳng khác nào như cái chăn bông ấm cúng và an toàn. Nhưng ấm cúng và an toàn hơn khi ta biết rõ được sự thật về sự sống và sự chết của chính mình.
Khi ta chết thì linh hồn ta thoát ra khỏi cái vỏ mục nát đó biến thành hơi bay bổng lên đợi đến một ngày nào đó để đi đầu thai vào kiếp khác.
Làn hơi kia lại trở thành dòng suối mát như xưa. Âu đó cũng chỉ là cái vòng lẩn quẩn của kiếp luân hồi. Lỗ San, chú hiểu chứ?
Người vừa giảng đến đây bỗng có một nhà sư từ bên ngoài đi vào cúi rạp đầu xuống:
- Kính thưa Ngài Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt! Tôi xin kính cẩn chuyển đến lời chào thân ái nhất của Ngài Tối Cao Lạt Ma đến Ngài. Tôi cũng xin được mạn phép đưa Ngài đến gặp Người để thảo luận những điều cần thiết.
Không hỏi han một điều gì với nhà sư này, thầy tôi vội vã đứng lên đi ngay sau khi cho phép tôi được tự do trong khoảng thời gian Minh Sư vắng mặt. Tôi lững thững một mình trèo lên tầng thượng ngôi Đại Tự Phổ Đà La ngắm cảnh.
Lúc bây gờ màn đêm bắt đầu buông xuống và xa xa hình ảnh Viện Y khoa Trắc Phổ Di ẩn hiện dưới lớp sương mờ nhạt. Cạnh chỗ tôi đang đứng, lá cờ lễ treo trên cao bay phấp phới.
Tôi lần bước đến ngay khung cửa sổ, nhìn xuống bên dưới bất giác trông thấy một vị Tăng già đang quay "luân xa" giống như các vị tăng khác mà tôi đã từng chứng kiến vọng lên tiếng kêu kĩu kịt của bánh xe, chẳng khác nào tiếng võng đong đưa, phá tan sự im lặng giữa màn đêm đen tối.
Bầu trời tím sẫm giăng mắc dày đặc các vì sao trông hệt như một bức tranh dệt toàn bằng những hạt kim cương lấp lánh. Thỉnh thoảng vài tia chớp ngoằn ngoèo trông như các con rắn bạc vụt hiện lên và vội tắt ngấm ngay sau đó.
#9
Gửi vào 06/06/2011 - 21:57
CHƯƠNG BỐN
HỒN MA NƠI CỐC ĐÁ
Tết Nguyên Đán của xứ Tây Tạng được gọi là lễ Lộ Sa. Năm nay được lệnh chuẩn bị ăn một cái Tết thật lớn, thật vui, thật lành mạnh mà còn phải thật hào hứng nữa. Lệnh này do Đức Đại Lạt Ma ban xuống. Nhờ vậy mà tất cả lớn nhỏ trong ngôi Đại Tự này đều đổ xô vào công việc lo cho ngày Tết.
Đây là một cái tết ăn bù, bởi vì năm rồi chùa chúng tôi không đủ thì giờ để vui xuân. Các chùa bạn đều có ý nghĩ ngược lại ngôi Đại Tự chúng tôi không muốn tham gia vào các trò chơi có tính cách trẻ con vô bổ. Chúng tôi không mấy quan tâm đến điều này, rồi đây họ sẽ hiểu và thông cảm chúng tôi hơn.
Năm này, chúng tôi cố gắng làm đủ mọi cách để tham gia song le cũng chỉ góp được một phần bé nhỏ chẳng đáng vào đâu. Trên một giá gỗ cao 6 thước và dài 9 thước, chúng tôi lấy mỡ bò đủ màu sắc đắp lên các mô hình gồm các hình tượng có ghi sẵn trong kinh sách.
Nhờ có hoa tay nên tôi nặn các tượng hình khá đẹp. Tôi vừa đẽo gọt, vừa tô phết thêm cho các ảnh tượng tăng phần mỹ thuật. Mấy tháng trước đây trong lớp học "nặn tượng", có một vài điều tôi muốn hỏi Minh Sư về vấn đề tôn giáo vì các hình tượng này có liên quan đến đời sống tâm linh.
Thế rồi nhân một đêm rỗi rảnh dưới ánh trăng vằng vặc, thầy trò tôi ra bên ngoài hóng gió. Nhìn cảnh đẹp của đất trời, tôi sực nhớ lại một bức tượng vẽ chân dung của một người ngồi Thiền được thầy tôi treo ở phòng ngủ của Người, tôi lên tiếng hỏi:
- Thưa Minh Sư, con từng nhiều lần tò mò đứng hàng giờ để nhìn bức tượng mà Minh Sư đã treo ở trong phòng ngủ dưới có đề mấy chữ "Siêu Phàm Của Nhân Loại", vậy đó phải chăng là chân dung của một bậc siêu phàm thời cổ đại?
Thầy tôi mỉm cười lắc đầu đáp lại:
- Không phải vậy. Đó là hình ảnh biểu trưng cho những dòng tư tưởng của Ấn Độ, nước láng giềng với chúng ta, nói về sự cấu tạo của Vũ trụ bởi hai yếu tố cần thiết. Đó là yếu tố Akaska và Prana.
Tất cả những gì hữu hình đều xây dựng từ Akaska, kể cả Mặt Trăng, Mặt Trời, các vì tinh tú, con người chúng ta, và luôn cả các động, thực vật.. nói chung cho các thể đặc hay lỏng hoặc khí, dưới mọi hình dạng vô cơ hay hữu cơ, hữu sinh hoặc vô sinh, hiện hữu trong vũ trụ này.
- Thưa Minh Sư, làm sao mà biết được Akaska như Minh Sư đã nói?
- Không thể có ai nhận biết được Akaska trực tiếp, vì chưng nó nằm ở dạng thái cực kỳ vi tế, mà chỉ có thể nhận thấy nó một cách gián tiếp qua dạng cô đọng trong các hình thể vật chất mà thôi.
Akaska thực thể và hiện hữu khắp mọi nơi tràn ngập cả không gian mông lung, không biên giới, chẳng bến bờ. Nó lúc nào cũng hiện hữu, ngay cả trong buổi đầu hình thành vũ trụ, đó là ngày của sự cấu tạo và hiện hữu ngay cả khi đến giai đoạn chuyển hóa của mỗi chu kỳ. Nhưng tất cả vạn vật đều trở về với Akaska nguyên thủy dưới muôn hình vạn trạng.
- Còn, thưa thầy Prana, là cái gì, hình như nó biểu tượng một cái gì đó ghê gớm lắm!
- Chính ta đang muốn nói đến nó. Prana chẳng khác gì Akaska, nó cũng ở trong một dạng thái vô cùng và bao trùm cả vũ trụ. Ta không đủ thì giờ giảng giải nhiều về nó cho chú, mà rất có thể một ngày nào đó chú sẽ tự nhận chân ra bộ mặt thật của nó.
Bây giờ chú chỉ cần biết rằng tất cả các lực tinh thần hay vật lý đều chung một bản thể là Prana, ở cuối mỗi một chu kỳ của Vũ trụ tất cả mọi dạng năng lượng lại trở về với cái trạng thái nguyên thủy của nó. Trạng thái nguyên thủy đó là Prana.
Cái hình mà chú nhìn thấy trong phòng ngủ của ta là để chỉ sự thị hiện cho chúng ta được biết một cách rõ ràng nhất và gần gũi nhất đó chính là PRANA trong cơ thể của con người, là sự hoạt động của Phổi. Điều mà chúng ta nên biết nếu hoạt động của phổi bị ngừng thì mọi sự hoạt động trong cơ thể ta đều hoàn toàn chấm dứt.
- Thưa thầy, theo thầy thì đó là qui luật chung của tất cả ?
- Chẳng có gì tuyệt đối trên cuộc đời này cả. Ta muốn nói là tuyệt đại đa số đều bị tê liệt, nhưng ngoại trừ đối với những người luyện Yoga đạt đến một trình độ thượng thừa, họ vẫn sống bình thường dù không còn hô hấp nữa.
Nói đến đây thì mây đen tứ phía ùn ùn kéo đến. Kế tiếp là các tiếng giông ầm ĩ, những ánh chớp làm sáng rực cả vòm trời và mưa bắt đầu trút xuống. Chúng tôi chạy vào phòng. Sự giảng giải của thầy tôi tạm thời chấm dứt.
Tôi lấy một cục bơ pha màu đoạn leo lên giàn đắp nốt cái tai Phật còn bỏ dở dang. Bên dưới tiếng đùa giỡn của hai chú tiểu nghịch ngợm nhồi hai cục bơ lớn bằng quả ổi xá lị mang ném vào nhau. Tiếng cười la của chúng làm ầm ĩ cả lên, chẳng may bị một trong các vị giám thị bắt gặp túm lấy cả hai ném vào cái chảo bơ to tướng còn hâm hấp nóng bên cạnh.
Nhìn cảnh hai chú tiểu bị liệng vào chảo bơ lem luốt cả mặt mũi áo quần, đang đứng nép sát bờ tường mặt lộ vẻ sợ hãi trông đến thảm hại! Một chú tiểu khác đang đi bên cạnh tôi lẩm bẩm :
- Nếu quả có các chư vì thần thánh quanh quẩn đâu đây nhìn thấy cảnh này chắc hẳn mấy ngài cũng phải bật phì cười, đừng nói là cái lũ người phàm mắt thịt này...ha...ha...
Nói đến đây, chú quay nhìn tôi hỏi:
- Phải thế không ông anh?
Tôi không trực tiếp trả lời song cái mỉm cười của tôi đáp lại cũng đủ cho chú ta hiểu ngầm rằng là "quả đúng như ông anh nghĩ vậy!"
Mải mê chuyện vãn với nhau đến Thiền Viện từ lúc nào tôi cũng chẳng hay biết nữa, cho mãi đến khi nghe tiếng cầu kinh của vị Sư Trưởng từ bên trong vang vọng đến, chúng tôi mới giật mình vội vã chạy vào để kịp thời dự buổi lễ chiều thường lệ.
- "Hãy nghe đây tiếng nói của linh hồn và của tất cả những ai vô định hướng! Thế giới này chỉ là ảo ảnh và đời sống này cũng chỉ là một giấc chiêm bao! Hãy lắng nghe đây tiếng nói của linh hồn"
Trên bàn thờ hàng trăm ngọn đèn bơ rực sáng! Các tuần nhang được lần lượt đốt lên! Tôi được biết đây là các nén nhang dẫn độ những linh hồn lạc lõng qua bến sông mê! Điều này làm cho tôi suy tư không ít! Phải chăng đó là các oan hồn uổng tử đang lặn ngụp trong bể trầm luân?!
Các câu hỏi này cứ lảng vảng trong đầu óc tôi đến nỗi tôi cảm thấy có cái gì đó làm cho tôi phải băn khoăn không ít! Đang miên man suy nghĩ thì bất thần có tiếng ai gọi bên tai:
- Lỗ San! Mày làm sao thế... Chết rồi à? Đứng dậy nhanh lên... đi! Lễ tất rồi... Mày suy tư gì thế? Có phải mày nghĩ đến các oan hồn uổng tử nào đó phải không?
Tôi giật mình đưa mắt nhìn nó. "Thằng oắt con!" Cái chú tiểu nghịch ngợm này tôi đã trông thấy nó nhiều lần. Hai mắt nó rực sáng mà tôi có cảm tưởng như hai luồng điện cực mạnh phóng xuyên vào đầu óc tôi!
Có thể nó đọc được dòng suy tư của tôi đang nghĩ điều gì? Bất tất phải ngại ngùng, nó chỉ là một chú tiểu tò mò, có gì phải đáng ưu tư?! Tôi đứng lên lảo đảo bước theo dòng người rời nơi Thiền Viện.
Sau đó tôi gặp Minh Sư đang đứng cạnh sẵn bên hiên, tôi ngỏ ý xin Người giảng giải những vấn đề tôi còn chưa rõ:
- Thưa Minh Sư! Con muốn biết sự thật về hình ảnh của các vị thần thánh! Liệu thật có những hình ảnh ấy không?
Người nhìn tôi trong giây lâu rồi lên tiếng bảo:
- Lỗ San! Hãy lên sân thượng kia, chúng ta sẽ mặc tình thảo luận những điều mà chú đang còn thắc mắc!
Tôi theo chân Người đi dọc theo hành lang ngang qua các dãy phòng của các vị Lạt Ma, đoạn trèo lên trên sân thượng. Lúc bây giờ trời đã tối hẳn. Càng về đêm gió càng lộng. Nhìn về phía trước mặt là dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ.
Cách thiền viện không bao xa là dòng nước trong xanh của con sông Kỳ Châu lăn tăn gợn sóng như muôn ngàn con rắn bạc! Và từ xa xa một rừng lau bao quanh ngọn Khả Linh Châu trông chẳng khác nào như hòn cù lao giữa lòng bể cả.
Từ sân thượng nhìn xuống là khu Ngọc Hoa Viên và cạnh đó là tấm thảm cỏ xanh mướt dưới ánh trăng óng ánh lên những hạt sương đêm rực rỡ muôn màu.
Thầy tôi đưa tay chỉ xuống cảnh vật bên dưới:
- Lỗ San! Cảnh vật trước mắt chúng ta đây không phải do ngẫu nhiên mà phải có bàn tay mầu nhiệm an bài!
- Thưa Minh Sư, nếu vậy thì ở cõi này có sự hiện hữu của thần thánh hay sao?
- Đúng như vậy. Có sự sống của con người là có các thần linh hiện diện. Vị thiên thần cai quản thế giới ta đang ở như chú đã đọc thấy trong kinh điển gọi là Manu. Đó là một vị thiên thần trải qua nhiều kiếp tu luyện.
Ngài đến và ra đi từ quả đất này không biết bao nhiêu lần rồi. Mỗi lần là một thử thách, một thanh lọc cho đến khi "Hồn" của Ngài trở nên hoàn toàn tỉnh lặng!
Thầy tôi cũng giảng giải cho biết Đức Phật Thích Ca, Ngài Moses, Đấng Christ cùng nhiều Đấng khác nữa cũng trải qua một thời gian dài thử thách như vậy.
- Ta từng nghiền ngẫm đọc trong các pho kinh nhà Phật nói về Ngài Di Lặc, đã bao nhiêu lần trở lại thế giới này đến cả 5.656 triệu năm, sau ngày Đức Phật đắc đạo. Ngài có tên là Cồ Đàm Ma (Guatama) là Manu của thế giới này.
Chính Ngài là hóa thân của nhiều tiền kiếp. Chẳng riêng gì Ngài, chúng ta còn rất nhiều Manu khác nữa, có nhiệm vụ điều khiển vận mệnh cho mỗi quốc gia, luân phiên thay đổi vị trí để cai quản muôn loài.
- Vậy thì thưa Minh Sư.
Tôi nói:
- phải chăng các Manu không phải đều là các bậc anh minh!
Nghe tôi hỏi vậy Người ngạc nhiên nhìn tôi lên tiếng :
- Lỗ San, tại sao chú lại bảo như vậy? Phải chăng chú nhận thấy được có điều gì sai trái?
- Theo Minh Sư dạy thì bất cứ quốc gia nào cũng có Manu và Manu nào cũng phải trải qua bao nhiêu kiếp tu hành để trở thành một Manu thuần nhất. Thế thì, theo con nghĩ lại có cả những Manu của các quốc gia lớn chiếm cứ các quốc gia yếu kém hơn?! Điều này con nhận thấy hoàn toàn bất công mà Đấng Manu không làm việc đó.
Thầy tôi mỉm cười, đưa tay ra trước mặt như bảo tôi hãy nghe trọn ý nghĩa Ngài muốn nói :
- Lỗ San! Chú quên thế giới này là Địa Ngục rồi sao?! Chúng ta đến đây là để tu luyện, sẵn sàng chịu đựng mọi giông tố phũ phàng để cho "linh hồn" được nhẹ nhõm hầu được siêu thăng, chứ đâu phải đến đây để hưởng thụ, lún sâu thêm vào vũng lầy tội lỗi.
Đến đây, Minh Sư hạ thấp giọng nói rõ ràng từng lời mục đích để tôi tiếp thu ý Người:
- Vất vả, cực nhọc, khốn đốn, khổ cực là những điều kiện để tôi luyện cho ta. Đau đớn, đắng cay, buồn phiền, tủi nhục là để rèn luyện ta có một đức tự tin với lòng hỷ xả. Chiến tranh, chết chóc để con người biểu lộ được lòng can trường nơi chiến tuyến.
Xác thân bằng xương bằng thịt này, Lỗ San ơi! Nó chỉ là tạm thời, đâu phải là vĩnh viễn? Chính linh hồn mới là tinh anh nhất vĩnh viễn tồn tại đến đời đời kiếp kiếp.
Nhưng, tội lỗi thay! Con người dù muốn dù không cũng đều biết có cái gì đó nơi cõi vô hình, có cái gì đó nơi xác thân mình, ấy thế mà họ vẫn chối bỏ, bất chấp. Họ chỉ chú trọng về đời sống vật chất, lo lắng, săn sóc cho xác thân làm lu mờ lương tri và tâm trí của mình trước các quyến rũ tầm thường của tiền tài, danh vọng!
- Thưa Minh Sư, con muốn được phép trình bày một vài ý nghĩ của con.
- Được. Chú cứ nói lên những điều chú còn cảm thấy chưa được sáng tỏ!.
- Theo con nghĩ rằng vấn đề giáo dục cần phải có những kỷ luật nhẹ nhàng hơn là áp dụng kỷ luật đó để trừng phạt ép uổng các học sinh phải đi vào khuôn khổ.
Thầy tôi mỉm cười:
- A! Thì ra chú muốn có sự nuông chiều trong học đường phải không? Ta hỏi chú, nếu chú không nể vì thầy giáo liệu chú có mang hết khả năng ra để đọc cho hết Kinh Thư không? Thảng hoặc chú không sợ bị trừng phạt bởi kỷ luật thì liệu chú có đi đúng theo khuôn khổ của nhà trường không? Hãy cho ta biết chú muốn cách nào để giáo huấn những mầm non tơ đó?
Nói đến đây Ngài đứng lên vỗ vào vai tôi:
- Lỗ San, chú còn gì thắc mắc nữa không?
- Nhưng mà Lỗ San ơi! Chúng ta còn phải lo cho đám rước lễ năm mới Lộ Sa ngày mai nữa chứ !
- Vâng, thưa Minh Sư, có một điều con muốn biết là có lần con được nghe chú Sĩ Cát bảo là các nhà Yoga họ có thể đọc được tư tưởng của ta... chẳng hay có thật vậy hay không?
- Thật vậy! Thầy tôi gật đầu khẳng định. Sĩ Cát của chú không sai. Các nhà Yoga có thể đọc được dễ dàng tư tưởng của chúng ta hoặc trông thấy được các vật thể siêu cảm mà các nhà nghiên cứu về siêu nhiên gọi suprasensible, lúc ấy họ nhận thấy chúng trong không gian tâm linh Chittakasha.
Điều này ta không thể giảng giải cho chú hiểu rõ cùng một lúc được. Đây chính là vấn đề thuộc về tâm linh hiện thực trông bề ngoài có vẻ trừu tượng song nó lại là một thực thể siêu nhiên. Sau này có dịp ta sẽ dẫn giải một cách rõ ràng hơn.
Con người chúng ta chỉ là một đơn vị, một dòng nước chảy vào lòng đại dương vô biên của tri thức và quyền năng. Lỗ San, chú nên nhớ rằng khi mà sự khát vọng và nhu cầu cần thiết của con người dấy lên thì phương tiện thỏa mãn cũng chính ở nơi con người chứ chẳng phải ở trong tay của bất cứ một Đấng Tối Cao nào cả.
Chú cũng nên biết rằng khi mà đức tin hội nhập vào thế lực siêu nhiên, thì đức tin ấy chỉ đem lại cho ta nỗi run sợ, mà nỗi run sợ đó nó chỉ có nghĩa là suy thoái của tinh thần.
- Vậy, thưa thầy còn Kundalini là gì?
- Nó là sự thể hiện của PRANA và PRANAYAMA chỉ có mục đích là lay tỉnh con rắn lửa Kundalini mà ta sẽ giảng giải cho chú vào một dịp khác gần đây trước khi chú lên đường thực hiện một sứ mạng đặc biệt cho Đất Nước, Dân Tộc và Đạo Giáo.
Ngoài thời gian ấn định giảng giải chính thức, Minh Sư và tôi còn một khoảng trống dành để mạn đàm với nhau. Có lần Minh Sư ngồi đối diện tôi tại ven bờ suối nói đủ mọi thứ chuyện huyền nhiệm mà các nhà khoa học ngày nay vẫn còn chưa có lời giải thích được.
- Khoa học phát triển, không có nghĩa là thấu hiểu được tất cả mọi chuyện bí mật của đất trời. Tạo Hóa từ cái không làm ra cái có, nhưng con người gần đây từng tự hào là đang đạt dần đến nền văn minh cực đỉnh vẫn hoàn toàn bất lực. Thầy tôi đã khẳng định như vậy.
- Thưa Minh Sư, con cũng cảm thấy như Minh Sư đã dạy. Con người dù có thông minh đến đâu đi nữa cũng khó lòng tước đoạt được quyền tối thượng của tạo hóa.
- Lỗ San chú đúng! Đấng huyền nhiệm tối thượng có thể ban phát cho ta sự sống và thu hồi sự sống đó bằng cái chết, mà con người thì chỉ có mỗi một điều kiện hoàn toàn tuân thủ.
- Thưa Minh Sư, tạo hóa đúc nén hình tượng con người và ban cho con người sự sống... liệu đến một giai đoạn nào đó, con muốn nói về lâu về dài liệu khoa học có thể tước đoạt cái quyền tối thượng đó không?
- Con người có thể lấy cái sẵn có rập theo khuôn chứ không thể lấy cái không để tạo nên cái có. Cái gì phản lại với thiên nhiên đều không đạt đến sự thuần nhất được. Tất nhiên cái gì không thuần nhất là nghịch lý không thể sinh tồn.
Tôi trầm ngâm suy nghĩ trong giây lát đoạn lên tiếng hỏi :
- Thưa Minh Sư con muốn biết cái gì đã mất đi liệu khoa học có thể phục hồi lại được chăng ?
- Được.
Thầy tôi gật đầu khẳng định. Như các xác ướp chẳng hạn, các nhà khoa học có thể tái tạo lại được từ khuôn mặt và niên đại sống của họ, nhưng không có nghĩa là làm cho họ sống lại được.
Như ta đã nói khoa học chỉ có thể lập lại cái đã có từ trước bằng cái có như tế bào chẳng hạn, nhưng tuyệt đối không thể làm cho vật tái tạo đó có sự sống và có linh hồn như tạo hóa đã ban phát cho tất cả mọi người ở thế gian này.
Gần đây các nhà khoa học đang thực hiện dự án sử dụng công nghệ cao để tái tạo hoàn chỉnh cơ thể của một xác ướp có tên Cleo, nhằm khám phá cuộc sống và cái chết của một phụ nữ trung lưu trong tấm vải bọc sống tại Ai Cập cách đây 2000 năm.
Các chuyên gia sẽ sử dụng công nghệ CT scan (Computerized tomography) để tạo ra một mô hình kỹ thuật số của bộ xương và chiếc sọ. Từ đây, các nhà điêu khắc sẽ tái tạo lại khuôn mặt hoàn chỉnh của xác người phụ nữ vừa phát hiện được này, cho phép các chuyên gia chiêm ngưỡng dáng vóc của bà ta hệt như 2000 năm về trước.
Người ta phỏng đoán rằng xác ướp này là của một nàng công chúa và đã được bán cho một gia đình Sulman ở Canada vào đầu thế kỷ 19. Đến thập kỷ 40, Cleo được đưa vào viện bảo tàng. Chắc chắn là việc nghiên cứu về xác chết của nàng công chúa cổ đại này không ngừng tại nơi đây.
Theo chân thầy tôi xuống hành lang chùa đến phía sau nơi đám đông người đang ồn ào, bận rộn trong suốt tuần nay dành cho việc chuẩn bị ngày Nguyên Đán tại đây thì bất chợt gặp ngay vị giáo sư hội họa đang nhớn nhác tìm tôi.
Ông ta đang cần một người nhỏ con có tài điêu khắc đồng thời phải có đầu óc tinh tế về mỹ thuật, để trèo lên cao sửa một vài chi tiết cho bức tượng vừa được đắp xong ngày qua.
Tôi vội vã theo bén gót ông ta, vừa phải đi nhanh nhưng cũng vừa phải lưu ý giữ thật cẩn thận để khỏi bị trượt ngã vì sàn nhà quá trơn trợt bởi một lớp mỡ đánh bóng.
Tôi tạt vào phòng "bơ màu" mượn tạm một sợi dây dài buộc ngang lưng mình phòng lúc phải lấy thêm vật dụng thòng xuống kéo lên. Tôi bắt đầu leo lên, và đúng như giáo sư hội họa đoán, một nửa cái đầu của pho tượng bị vỡ ra khỏi cái khung gỗ bởi nơi đó không được đóng nẹp.
Tôi ngoái cổ nhìn xuống bên dưới báo cho họ biết là tôi cần có thêm nhiều bơ, đoạn thả dây để họ buộc cả một thùng bơ đầy ngoài cả số lượng cần thiết của tôi đòi hỏi. Tôi từ từ kéo lên không mấy nặng nhọc khó khăn.
Suốt mấy giờ liền, tôi làm việc liên miên, dùng gỗ đóng những nẹp nhỏ để giữ bơ mới được đắp khỏi bị vỡ ra như lần trước. Xong xuôi đâu đó tôi mới dùng tay nắn lại cho thật chắc chắn. Bên dưới vị giáo sư hội họa đứng theo dõi việc làm của tôi từng chi tiết một.
Tôi không nhớ là mất trong bao lâu nhưng chắc chắn là lâu lắm, cho đến khi ông ta kêu lớn tên tôi và tiếp theo chìa ngón tay cái ra phía trước mặt tỏ ra khen thưởng và ra lệnh cho tôi cẩn thận leo trở xuống.
Ngày hôm sau, tôi gặp lại chú Sĩ Cát. Lâu ngày mới được gặp, mừng quá chúng tôi ôm chầm nhau lại. Chú lên tiếng hỏi tôi cũng vẫn với câu thường lệ, thật ấm tràn ngập cả tình thương :
- Có mạnh khỏe không? Ta mới vừa gặp thân mẫu Lỗ San. Trông người vẫn khỏe như dạo nào.
Tôi cùng các chú tiểu và tất nhiên là có cả chú Sĩ Cát đi xuống cánh đồng Lạt Sa tràn đầy mạ lúa vào làng So nằm phía dưới chân núi Phổ Đà La. Trên nguyên tắc là chúng tôi đưa nhau xuống núi để xem đám rước, tham dự lễ đón năm mới Lộ Sa chật ních các nẻo đường.
Đám người hành hương thường ước ao được nhìn tận mắt thành Lạt Sa. Họ đến từ khắp nơi trên thế giới. Đa phần họ là các người thuộc các nước sùng Phật giáo. Tất cả đều gọi xứ sở Tây Tạng là Thánh Địa hoặc Phật Quốc.
Hôm nay quang cảnh thật tấp nập, khắp nơi đều ngựa xe như nước, áo quần như nêm. Những kẻ già nua tuổi tác, những người tật nguyền, cùng những thiếu phụ cõng con trên lưng hăng hái bước đi.
Mọi người hành hương đều tin tưởng rằng nếu họ chịu khó đi hết một vòng chung quanh theo vòng đai đất Thánh Phổ Đà La là sẽ được xả hết tội lỗi từ trước đến giờ. Họ còn cả đức tin mạnh mẽ là sẽ được đi đầu thai vào kiếp khác sung sướng hơn và danh giá hơn đời sống hiện tại của họ hiện nay!
Các ông thầy tướng, các nhà bói toán ngồi la liệt trên con lộ Linh Cơ và cũng như cả những kẻ ăn xin, vừa đi vừa rên rỉ xin lòng thương xót của những kẻ hành hương từ phương xa lại. Những người bán hàng rong vai mang đầy hàng hóa vừa rao vừa chen lấn đi tìm mồi gạ gẫm.
Tôi và chú Sĩ Cát bắt đầu thấm mệt trước đám đông đang vây quanh khi chúng tôi dừng chân nghỉ để hỏi những mẩu chuyện đâu đâu, mà nhiều lúc tôi cũng chẳng hiểu là gì. Chúng tôi bảo nhau băng qua sườn núi rút lui về nghỉ ngơi để cùng nhau tâm sự sau những ngày tháng cách xa nhau.
Đến nơi, chúng tôi leo lên sân thượng đưa nhau đến ngồi ở hành lang. Đây thật là một nơi yên tĩnh và lý tưởng đối với tôi. Trời chiều nắng ấm, tuy đã vào hoàng hôn mà trời vẫn sáng. Một đàn công sặc sỡ màu sắc sà xuống dưới bãi cỏ xanh cùng nhau vũ lộng.
Tiếng ồn ào của đông đảo đám người bên dưới vang lên nghe như những lời cầu kinh không thành tiếng nhẹ nhàng dễ khiến người nghe đi dần vào giấc ngủ.
Và tôi như bắt đầu lim dim đôi mắt chập chờn nửa tỉnh nửa mê, thì lạ lùng thay, dường như có bóng dáng một người chập chờn hiện lên đứng tận ở bờ tường núi đối diện nhìn tôi nhoẻn miệng cười.
Tôi cố gắng chống lại cơn buồn ngủ đang liên tục kéo đến như quyến rũ tôi đi vào một thế giới mộng mơ. Không muốn bị rơi vào giấc ngủ trong trạng thái ảo tưởng trong lúc tôi còn nhiều điều cần cùng chú Sĩ Cát tâm sự, do đó tôi cố hết sức lắc đầu thật mạnh để lấy lại sự tỉnh táo.
Nhưng, cái bóng có vẻ ma quái kia đang tiến dần lại về phía tôi đang ngồi. Tôi bắt đầu lo sợ, vì khuôn mặt của nó có cái vẻ gì đó, cứ nhìn chằm chặp tôi cười khiến cả tóc gáy tôi như tuồng dựng đứng cả lên.
Tôi cố nhắm mắt lại để khỏi trông thấy, nhưng không được, càng cố nhắm lại, lại càng mở to thêm, tôi mơ hồ nghĩ như vậy. Trong lúc đó nó đã đến ngay trước mặt tôi cười lên một tràng dài, khiến tôi nắm lấy tay chú Sĩ Cát hét lên thật lớn:
- Ma, ma! Chú Sĩ Cát ơi!
- Không! Ta không là ma! Hãy bình tĩnh! Bóng kia đáp lại.
Tuy tôi khiếp hãi đến như vậy, nhưng khi nghe tiếng từ bóng kia nói ra, cũng hơi an lòng bèn lên tiếng hỏi :
- Nếu không là ma, thì người là ai?
- Ta? Ta là một con người bằng da bằng thịt đã từng một thời đi học tại ngọn Trắc Phổ Di này. Ta cũng vốn có tật lười như chú và cũng vốn thích cái sân thượng thật yên tĩnh này để ngồi trầm tư hàng giờ như chú.
Về sau ta quyết chí lo tu hành tinh tấn gạt bỏ mọi khát vọng tầm thường của thế tục mong sao cho mình được chóng có ngày giải thoát mà trở về với Cõi Phúc.
Bởi vậy ta mới đến cái cốc đá kia hỡi Lỗ San và chú Sĩ Cát thân mến các người có nhìn thấy không? Đó, cái thạch cốc đó nằm ngay ở giữa vách núi chênh vênh kia để tịnh tâm tu dưỡng.
Tôi cùng chú Sĩ Cát nhìn theo ngón tay chỉ của bóng người này và tự nhiên cả hai chúng tôi đều cảm thấy ớn lạnh cả xương sống.
Đến nay đã mười một mùa Lộ Sa. Ta đã đạt được kết quả như ý muốn. Có nghĩa là tự do cho linh thân lướt bay giữa khoảng không gian vô tận, trong khi xác thân ta vẫn an toàn trong cốc đá.
Chuyến bay thứ nhất của ta là để có dịp ngắm lại quang cảnh đông đảo của ngày Hội Lớn và cũng để nhìn lại nơi mà ta thường ngồi để suy tư hàng ngày hồi tưởng lại những lúc cam go để thực hiện được lòng mơ ước của mình.
HỒN MA NƠI CỐC ĐÁ
Tết Nguyên Đán của xứ Tây Tạng được gọi là lễ Lộ Sa. Năm nay được lệnh chuẩn bị ăn một cái Tết thật lớn, thật vui, thật lành mạnh mà còn phải thật hào hứng nữa. Lệnh này do Đức Đại Lạt Ma ban xuống. Nhờ vậy mà tất cả lớn nhỏ trong ngôi Đại Tự này đều đổ xô vào công việc lo cho ngày Tết.
Đây là một cái tết ăn bù, bởi vì năm rồi chùa chúng tôi không đủ thì giờ để vui xuân. Các chùa bạn đều có ý nghĩ ngược lại ngôi Đại Tự chúng tôi không muốn tham gia vào các trò chơi có tính cách trẻ con vô bổ. Chúng tôi không mấy quan tâm đến điều này, rồi đây họ sẽ hiểu và thông cảm chúng tôi hơn.
Năm này, chúng tôi cố gắng làm đủ mọi cách để tham gia song le cũng chỉ góp được một phần bé nhỏ chẳng đáng vào đâu. Trên một giá gỗ cao 6 thước và dài 9 thước, chúng tôi lấy mỡ bò đủ màu sắc đắp lên các mô hình gồm các hình tượng có ghi sẵn trong kinh sách.
Nhờ có hoa tay nên tôi nặn các tượng hình khá đẹp. Tôi vừa đẽo gọt, vừa tô phết thêm cho các ảnh tượng tăng phần mỹ thuật. Mấy tháng trước đây trong lớp học "nặn tượng", có một vài điều tôi muốn hỏi Minh Sư về vấn đề tôn giáo vì các hình tượng này có liên quan đến đời sống tâm linh.
Thế rồi nhân một đêm rỗi rảnh dưới ánh trăng vằng vặc, thầy trò tôi ra bên ngoài hóng gió. Nhìn cảnh đẹp của đất trời, tôi sực nhớ lại một bức tượng vẽ chân dung của một người ngồi Thiền được thầy tôi treo ở phòng ngủ của Người, tôi lên tiếng hỏi:
- Thưa Minh Sư, con từng nhiều lần tò mò đứng hàng giờ để nhìn bức tượng mà Minh Sư đã treo ở trong phòng ngủ dưới có đề mấy chữ "Siêu Phàm Của Nhân Loại", vậy đó phải chăng là chân dung của một bậc siêu phàm thời cổ đại?
Thầy tôi mỉm cười lắc đầu đáp lại:
- Không phải vậy. Đó là hình ảnh biểu trưng cho những dòng tư tưởng của Ấn Độ, nước láng giềng với chúng ta, nói về sự cấu tạo của Vũ trụ bởi hai yếu tố cần thiết. Đó là yếu tố Akaska và Prana.
Tất cả những gì hữu hình đều xây dựng từ Akaska, kể cả Mặt Trăng, Mặt Trời, các vì tinh tú, con người chúng ta, và luôn cả các động, thực vật.. nói chung cho các thể đặc hay lỏng hoặc khí, dưới mọi hình dạng vô cơ hay hữu cơ, hữu sinh hoặc vô sinh, hiện hữu trong vũ trụ này.
- Thưa Minh Sư, làm sao mà biết được Akaska như Minh Sư đã nói?
- Không thể có ai nhận biết được Akaska trực tiếp, vì chưng nó nằm ở dạng thái cực kỳ vi tế, mà chỉ có thể nhận thấy nó một cách gián tiếp qua dạng cô đọng trong các hình thể vật chất mà thôi.
Akaska thực thể và hiện hữu khắp mọi nơi tràn ngập cả không gian mông lung, không biên giới, chẳng bến bờ. Nó lúc nào cũng hiện hữu, ngay cả trong buổi đầu hình thành vũ trụ, đó là ngày của sự cấu tạo và hiện hữu ngay cả khi đến giai đoạn chuyển hóa của mỗi chu kỳ. Nhưng tất cả vạn vật đều trở về với Akaska nguyên thủy dưới muôn hình vạn trạng.
- Còn, thưa thầy Prana, là cái gì, hình như nó biểu tượng một cái gì đó ghê gớm lắm!
- Chính ta đang muốn nói đến nó. Prana chẳng khác gì Akaska, nó cũng ở trong một dạng thái vô cùng và bao trùm cả vũ trụ. Ta không đủ thì giờ giảng giải nhiều về nó cho chú, mà rất có thể một ngày nào đó chú sẽ tự nhận chân ra bộ mặt thật của nó.
Bây giờ chú chỉ cần biết rằng tất cả các lực tinh thần hay vật lý đều chung một bản thể là Prana, ở cuối mỗi một chu kỳ của Vũ trụ tất cả mọi dạng năng lượng lại trở về với cái trạng thái nguyên thủy của nó. Trạng thái nguyên thủy đó là Prana.
Cái hình mà chú nhìn thấy trong phòng ngủ của ta là để chỉ sự thị hiện cho chúng ta được biết một cách rõ ràng nhất và gần gũi nhất đó chính là PRANA trong cơ thể của con người, là sự hoạt động của Phổi. Điều mà chúng ta nên biết nếu hoạt động của phổi bị ngừng thì mọi sự hoạt động trong cơ thể ta đều hoàn toàn chấm dứt.
- Thưa thầy, theo thầy thì đó là qui luật chung của tất cả ?
- Chẳng có gì tuyệt đối trên cuộc đời này cả. Ta muốn nói là tuyệt đại đa số đều bị tê liệt, nhưng ngoại trừ đối với những người luyện Yoga đạt đến một trình độ thượng thừa, họ vẫn sống bình thường dù không còn hô hấp nữa.
Nói đến đây thì mây đen tứ phía ùn ùn kéo đến. Kế tiếp là các tiếng giông ầm ĩ, những ánh chớp làm sáng rực cả vòm trời và mưa bắt đầu trút xuống. Chúng tôi chạy vào phòng. Sự giảng giải của thầy tôi tạm thời chấm dứt.
Tôi lấy một cục bơ pha màu đoạn leo lên giàn đắp nốt cái tai Phật còn bỏ dở dang. Bên dưới tiếng đùa giỡn của hai chú tiểu nghịch ngợm nhồi hai cục bơ lớn bằng quả ổi xá lị mang ném vào nhau. Tiếng cười la của chúng làm ầm ĩ cả lên, chẳng may bị một trong các vị giám thị bắt gặp túm lấy cả hai ném vào cái chảo bơ to tướng còn hâm hấp nóng bên cạnh.
Nhìn cảnh hai chú tiểu bị liệng vào chảo bơ lem luốt cả mặt mũi áo quần, đang đứng nép sát bờ tường mặt lộ vẻ sợ hãi trông đến thảm hại! Một chú tiểu khác đang đi bên cạnh tôi lẩm bẩm :
- Nếu quả có các chư vì thần thánh quanh quẩn đâu đây nhìn thấy cảnh này chắc hẳn mấy ngài cũng phải bật phì cười, đừng nói là cái lũ người phàm mắt thịt này...ha...ha...
Nói đến đây, chú quay nhìn tôi hỏi:
- Phải thế không ông anh?
Tôi không trực tiếp trả lời song cái mỉm cười của tôi đáp lại cũng đủ cho chú ta hiểu ngầm rằng là "quả đúng như ông anh nghĩ vậy!"
Mải mê chuyện vãn với nhau đến Thiền Viện từ lúc nào tôi cũng chẳng hay biết nữa, cho mãi đến khi nghe tiếng cầu kinh của vị Sư Trưởng từ bên trong vang vọng đến, chúng tôi mới giật mình vội vã chạy vào để kịp thời dự buổi lễ chiều thường lệ.
- "Hãy nghe đây tiếng nói của linh hồn và của tất cả những ai vô định hướng! Thế giới này chỉ là ảo ảnh và đời sống này cũng chỉ là một giấc chiêm bao! Hãy lắng nghe đây tiếng nói của linh hồn"
Trên bàn thờ hàng trăm ngọn đèn bơ rực sáng! Các tuần nhang được lần lượt đốt lên! Tôi được biết đây là các nén nhang dẫn độ những linh hồn lạc lõng qua bến sông mê! Điều này làm cho tôi suy tư không ít! Phải chăng đó là các oan hồn uổng tử đang lặn ngụp trong bể trầm luân?!
Các câu hỏi này cứ lảng vảng trong đầu óc tôi đến nỗi tôi cảm thấy có cái gì đó làm cho tôi phải băn khoăn không ít! Đang miên man suy nghĩ thì bất thần có tiếng ai gọi bên tai:
- Lỗ San! Mày làm sao thế... Chết rồi à? Đứng dậy nhanh lên... đi! Lễ tất rồi... Mày suy tư gì thế? Có phải mày nghĩ đến các oan hồn uổng tử nào đó phải không?
Tôi giật mình đưa mắt nhìn nó. "Thằng oắt con!" Cái chú tiểu nghịch ngợm này tôi đã trông thấy nó nhiều lần. Hai mắt nó rực sáng mà tôi có cảm tưởng như hai luồng điện cực mạnh phóng xuyên vào đầu óc tôi!
Có thể nó đọc được dòng suy tư của tôi đang nghĩ điều gì? Bất tất phải ngại ngùng, nó chỉ là một chú tiểu tò mò, có gì phải đáng ưu tư?! Tôi đứng lên lảo đảo bước theo dòng người rời nơi Thiền Viện.
Sau đó tôi gặp Minh Sư đang đứng cạnh sẵn bên hiên, tôi ngỏ ý xin Người giảng giải những vấn đề tôi còn chưa rõ:
- Thưa Minh Sư! Con muốn biết sự thật về hình ảnh của các vị thần thánh! Liệu thật có những hình ảnh ấy không?
Người nhìn tôi trong giây lâu rồi lên tiếng bảo:
- Lỗ San! Hãy lên sân thượng kia, chúng ta sẽ mặc tình thảo luận những điều mà chú đang còn thắc mắc!
Tôi theo chân Người đi dọc theo hành lang ngang qua các dãy phòng của các vị Lạt Ma, đoạn trèo lên trên sân thượng. Lúc bây giờ trời đã tối hẳn. Càng về đêm gió càng lộng. Nhìn về phía trước mặt là dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ.
Cách thiền viện không bao xa là dòng nước trong xanh của con sông Kỳ Châu lăn tăn gợn sóng như muôn ngàn con rắn bạc! Và từ xa xa một rừng lau bao quanh ngọn Khả Linh Châu trông chẳng khác nào như hòn cù lao giữa lòng bể cả.
Từ sân thượng nhìn xuống là khu Ngọc Hoa Viên và cạnh đó là tấm thảm cỏ xanh mướt dưới ánh trăng óng ánh lên những hạt sương đêm rực rỡ muôn màu.
Thầy tôi đưa tay chỉ xuống cảnh vật bên dưới:
- Lỗ San! Cảnh vật trước mắt chúng ta đây không phải do ngẫu nhiên mà phải có bàn tay mầu nhiệm an bài!
- Thưa Minh Sư, nếu vậy thì ở cõi này có sự hiện hữu của thần thánh hay sao?
- Đúng như vậy. Có sự sống của con người là có các thần linh hiện diện. Vị thiên thần cai quản thế giới ta đang ở như chú đã đọc thấy trong kinh điển gọi là Manu. Đó là một vị thiên thần trải qua nhiều kiếp tu luyện.
Ngài đến và ra đi từ quả đất này không biết bao nhiêu lần rồi. Mỗi lần là một thử thách, một thanh lọc cho đến khi "Hồn" của Ngài trở nên hoàn toàn tỉnh lặng!
Thầy tôi cũng giảng giải cho biết Đức Phật Thích Ca, Ngài Moses, Đấng Christ cùng nhiều Đấng khác nữa cũng trải qua một thời gian dài thử thách như vậy.
- Ta từng nghiền ngẫm đọc trong các pho kinh nhà Phật nói về Ngài Di Lặc, đã bao nhiêu lần trở lại thế giới này đến cả 5.656 triệu năm, sau ngày Đức Phật đắc đạo. Ngài có tên là Cồ Đàm Ma (Guatama) là Manu của thế giới này.
Chính Ngài là hóa thân của nhiều tiền kiếp. Chẳng riêng gì Ngài, chúng ta còn rất nhiều Manu khác nữa, có nhiệm vụ điều khiển vận mệnh cho mỗi quốc gia, luân phiên thay đổi vị trí để cai quản muôn loài.
- Vậy thì thưa Minh Sư.
Tôi nói:
- phải chăng các Manu không phải đều là các bậc anh minh!
Nghe tôi hỏi vậy Người ngạc nhiên nhìn tôi lên tiếng :
- Lỗ San, tại sao chú lại bảo như vậy? Phải chăng chú nhận thấy được có điều gì sai trái?
- Theo Minh Sư dạy thì bất cứ quốc gia nào cũng có Manu và Manu nào cũng phải trải qua bao nhiêu kiếp tu hành để trở thành một Manu thuần nhất. Thế thì, theo con nghĩ lại có cả những Manu của các quốc gia lớn chiếm cứ các quốc gia yếu kém hơn?! Điều này con nhận thấy hoàn toàn bất công mà Đấng Manu không làm việc đó.
Thầy tôi mỉm cười, đưa tay ra trước mặt như bảo tôi hãy nghe trọn ý nghĩa Ngài muốn nói :
- Lỗ San! Chú quên thế giới này là Địa Ngục rồi sao?! Chúng ta đến đây là để tu luyện, sẵn sàng chịu đựng mọi giông tố phũ phàng để cho "linh hồn" được nhẹ nhõm hầu được siêu thăng, chứ đâu phải đến đây để hưởng thụ, lún sâu thêm vào vũng lầy tội lỗi.
Đến đây, Minh Sư hạ thấp giọng nói rõ ràng từng lời mục đích để tôi tiếp thu ý Người:
- Vất vả, cực nhọc, khốn đốn, khổ cực là những điều kiện để tôi luyện cho ta. Đau đớn, đắng cay, buồn phiền, tủi nhục là để rèn luyện ta có một đức tự tin với lòng hỷ xả. Chiến tranh, chết chóc để con người biểu lộ được lòng can trường nơi chiến tuyến.
Xác thân bằng xương bằng thịt này, Lỗ San ơi! Nó chỉ là tạm thời, đâu phải là vĩnh viễn? Chính linh hồn mới là tinh anh nhất vĩnh viễn tồn tại đến đời đời kiếp kiếp.
Nhưng, tội lỗi thay! Con người dù muốn dù không cũng đều biết có cái gì đó nơi cõi vô hình, có cái gì đó nơi xác thân mình, ấy thế mà họ vẫn chối bỏ, bất chấp. Họ chỉ chú trọng về đời sống vật chất, lo lắng, săn sóc cho xác thân làm lu mờ lương tri và tâm trí của mình trước các quyến rũ tầm thường của tiền tài, danh vọng!
- Thưa Minh Sư, con muốn được phép trình bày một vài ý nghĩ của con.
- Được. Chú cứ nói lên những điều chú còn cảm thấy chưa được sáng tỏ!.
- Theo con nghĩ rằng vấn đề giáo dục cần phải có những kỷ luật nhẹ nhàng hơn là áp dụng kỷ luật đó để trừng phạt ép uổng các học sinh phải đi vào khuôn khổ.
Thầy tôi mỉm cười:
- A! Thì ra chú muốn có sự nuông chiều trong học đường phải không? Ta hỏi chú, nếu chú không nể vì thầy giáo liệu chú có mang hết khả năng ra để đọc cho hết Kinh Thư không? Thảng hoặc chú không sợ bị trừng phạt bởi kỷ luật thì liệu chú có đi đúng theo khuôn khổ của nhà trường không? Hãy cho ta biết chú muốn cách nào để giáo huấn những mầm non tơ đó?
Nói đến đây Ngài đứng lên vỗ vào vai tôi:
- Lỗ San, chú còn gì thắc mắc nữa không?
- Nhưng mà Lỗ San ơi! Chúng ta còn phải lo cho đám rước lễ năm mới Lộ Sa ngày mai nữa chứ !
- Vâng, thưa Minh Sư, có một điều con muốn biết là có lần con được nghe chú Sĩ Cát bảo là các nhà Yoga họ có thể đọc được tư tưởng của ta... chẳng hay có thật vậy hay không?
- Thật vậy! Thầy tôi gật đầu khẳng định. Sĩ Cát của chú không sai. Các nhà Yoga có thể đọc được dễ dàng tư tưởng của chúng ta hoặc trông thấy được các vật thể siêu cảm mà các nhà nghiên cứu về siêu nhiên gọi suprasensible, lúc ấy họ nhận thấy chúng trong không gian tâm linh Chittakasha.
Điều này ta không thể giảng giải cho chú hiểu rõ cùng một lúc được. Đây chính là vấn đề thuộc về tâm linh hiện thực trông bề ngoài có vẻ trừu tượng song nó lại là một thực thể siêu nhiên. Sau này có dịp ta sẽ dẫn giải một cách rõ ràng hơn.
Con người chúng ta chỉ là một đơn vị, một dòng nước chảy vào lòng đại dương vô biên của tri thức và quyền năng. Lỗ San, chú nên nhớ rằng khi mà sự khát vọng và nhu cầu cần thiết của con người dấy lên thì phương tiện thỏa mãn cũng chính ở nơi con người chứ chẳng phải ở trong tay của bất cứ một Đấng Tối Cao nào cả.
Chú cũng nên biết rằng khi mà đức tin hội nhập vào thế lực siêu nhiên, thì đức tin ấy chỉ đem lại cho ta nỗi run sợ, mà nỗi run sợ đó nó chỉ có nghĩa là suy thoái của tinh thần.
- Vậy, thưa thầy còn Kundalini là gì?
- Nó là sự thể hiện của PRANA và PRANAYAMA chỉ có mục đích là lay tỉnh con rắn lửa Kundalini mà ta sẽ giảng giải cho chú vào một dịp khác gần đây trước khi chú lên đường thực hiện một sứ mạng đặc biệt cho Đất Nước, Dân Tộc và Đạo Giáo.
Ngoài thời gian ấn định giảng giải chính thức, Minh Sư và tôi còn một khoảng trống dành để mạn đàm với nhau. Có lần Minh Sư ngồi đối diện tôi tại ven bờ suối nói đủ mọi thứ chuyện huyền nhiệm mà các nhà khoa học ngày nay vẫn còn chưa có lời giải thích được.
- Khoa học phát triển, không có nghĩa là thấu hiểu được tất cả mọi chuyện bí mật của đất trời. Tạo Hóa từ cái không làm ra cái có, nhưng con người gần đây từng tự hào là đang đạt dần đến nền văn minh cực đỉnh vẫn hoàn toàn bất lực. Thầy tôi đã khẳng định như vậy.
- Thưa Minh Sư, con cũng cảm thấy như Minh Sư đã dạy. Con người dù có thông minh đến đâu đi nữa cũng khó lòng tước đoạt được quyền tối thượng của tạo hóa.
- Lỗ San chú đúng! Đấng huyền nhiệm tối thượng có thể ban phát cho ta sự sống và thu hồi sự sống đó bằng cái chết, mà con người thì chỉ có mỗi một điều kiện hoàn toàn tuân thủ.
- Thưa Minh Sư, tạo hóa đúc nén hình tượng con người và ban cho con người sự sống... liệu đến một giai đoạn nào đó, con muốn nói về lâu về dài liệu khoa học có thể tước đoạt cái quyền tối thượng đó không?
- Con người có thể lấy cái sẵn có rập theo khuôn chứ không thể lấy cái không để tạo nên cái có. Cái gì phản lại với thiên nhiên đều không đạt đến sự thuần nhất được. Tất nhiên cái gì không thuần nhất là nghịch lý không thể sinh tồn.
Tôi trầm ngâm suy nghĩ trong giây lát đoạn lên tiếng hỏi :
- Thưa Minh Sư con muốn biết cái gì đã mất đi liệu khoa học có thể phục hồi lại được chăng ?
- Được.
Thầy tôi gật đầu khẳng định. Như các xác ướp chẳng hạn, các nhà khoa học có thể tái tạo lại được từ khuôn mặt và niên đại sống của họ, nhưng không có nghĩa là làm cho họ sống lại được.
Như ta đã nói khoa học chỉ có thể lập lại cái đã có từ trước bằng cái có như tế bào chẳng hạn, nhưng tuyệt đối không thể làm cho vật tái tạo đó có sự sống và có linh hồn như tạo hóa đã ban phát cho tất cả mọi người ở thế gian này.
Gần đây các nhà khoa học đang thực hiện dự án sử dụng công nghệ cao để tái tạo hoàn chỉnh cơ thể của một xác ướp có tên Cleo, nhằm khám phá cuộc sống và cái chết của một phụ nữ trung lưu trong tấm vải bọc sống tại Ai Cập cách đây 2000 năm.
Các chuyên gia sẽ sử dụng công nghệ CT scan (Computerized tomography) để tạo ra một mô hình kỹ thuật số của bộ xương và chiếc sọ. Từ đây, các nhà điêu khắc sẽ tái tạo lại khuôn mặt hoàn chỉnh của xác người phụ nữ vừa phát hiện được này, cho phép các chuyên gia chiêm ngưỡng dáng vóc của bà ta hệt như 2000 năm về trước.
Người ta phỏng đoán rằng xác ướp này là của một nàng công chúa và đã được bán cho một gia đình Sulman ở Canada vào đầu thế kỷ 19. Đến thập kỷ 40, Cleo được đưa vào viện bảo tàng. Chắc chắn là việc nghiên cứu về xác chết của nàng công chúa cổ đại này không ngừng tại nơi đây.
Theo chân thầy tôi xuống hành lang chùa đến phía sau nơi đám đông người đang ồn ào, bận rộn trong suốt tuần nay dành cho việc chuẩn bị ngày Nguyên Đán tại đây thì bất chợt gặp ngay vị giáo sư hội họa đang nhớn nhác tìm tôi.
Ông ta đang cần một người nhỏ con có tài điêu khắc đồng thời phải có đầu óc tinh tế về mỹ thuật, để trèo lên cao sửa một vài chi tiết cho bức tượng vừa được đắp xong ngày qua.
Tôi vội vã theo bén gót ông ta, vừa phải đi nhanh nhưng cũng vừa phải lưu ý giữ thật cẩn thận để khỏi bị trượt ngã vì sàn nhà quá trơn trợt bởi một lớp mỡ đánh bóng.
Tôi tạt vào phòng "bơ màu" mượn tạm một sợi dây dài buộc ngang lưng mình phòng lúc phải lấy thêm vật dụng thòng xuống kéo lên. Tôi bắt đầu leo lên, và đúng như giáo sư hội họa đoán, một nửa cái đầu của pho tượng bị vỡ ra khỏi cái khung gỗ bởi nơi đó không được đóng nẹp.
Tôi ngoái cổ nhìn xuống bên dưới báo cho họ biết là tôi cần có thêm nhiều bơ, đoạn thả dây để họ buộc cả một thùng bơ đầy ngoài cả số lượng cần thiết của tôi đòi hỏi. Tôi từ từ kéo lên không mấy nặng nhọc khó khăn.
Suốt mấy giờ liền, tôi làm việc liên miên, dùng gỗ đóng những nẹp nhỏ để giữ bơ mới được đắp khỏi bị vỡ ra như lần trước. Xong xuôi đâu đó tôi mới dùng tay nắn lại cho thật chắc chắn. Bên dưới vị giáo sư hội họa đứng theo dõi việc làm của tôi từng chi tiết một.
Tôi không nhớ là mất trong bao lâu nhưng chắc chắn là lâu lắm, cho đến khi ông ta kêu lớn tên tôi và tiếp theo chìa ngón tay cái ra phía trước mặt tỏ ra khen thưởng và ra lệnh cho tôi cẩn thận leo trở xuống.
Ngày hôm sau, tôi gặp lại chú Sĩ Cát. Lâu ngày mới được gặp, mừng quá chúng tôi ôm chầm nhau lại. Chú lên tiếng hỏi tôi cũng vẫn với câu thường lệ, thật ấm tràn ngập cả tình thương :
- Có mạnh khỏe không? Ta mới vừa gặp thân mẫu Lỗ San. Trông người vẫn khỏe như dạo nào.
Tôi cùng các chú tiểu và tất nhiên là có cả chú Sĩ Cát đi xuống cánh đồng Lạt Sa tràn đầy mạ lúa vào làng So nằm phía dưới chân núi Phổ Đà La. Trên nguyên tắc là chúng tôi đưa nhau xuống núi để xem đám rước, tham dự lễ đón năm mới Lộ Sa chật ních các nẻo đường.
Đám người hành hương thường ước ao được nhìn tận mắt thành Lạt Sa. Họ đến từ khắp nơi trên thế giới. Đa phần họ là các người thuộc các nước sùng Phật giáo. Tất cả đều gọi xứ sở Tây Tạng là Thánh Địa hoặc Phật Quốc.
Hôm nay quang cảnh thật tấp nập, khắp nơi đều ngựa xe như nước, áo quần như nêm. Những kẻ già nua tuổi tác, những người tật nguyền, cùng những thiếu phụ cõng con trên lưng hăng hái bước đi.
Mọi người hành hương đều tin tưởng rằng nếu họ chịu khó đi hết một vòng chung quanh theo vòng đai đất Thánh Phổ Đà La là sẽ được xả hết tội lỗi từ trước đến giờ. Họ còn cả đức tin mạnh mẽ là sẽ được đi đầu thai vào kiếp khác sung sướng hơn và danh giá hơn đời sống hiện tại của họ hiện nay!
Các ông thầy tướng, các nhà bói toán ngồi la liệt trên con lộ Linh Cơ và cũng như cả những kẻ ăn xin, vừa đi vừa rên rỉ xin lòng thương xót của những kẻ hành hương từ phương xa lại. Những người bán hàng rong vai mang đầy hàng hóa vừa rao vừa chen lấn đi tìm mồi gạ gẫm.
Tôi và chú Sĩ Cát bắt đầu thấm mệt trước đám đông đang vây quanh khi chúng tôi dừng chân nghỉ để hỏi những mẩu chuyện đâu đâu, mà nhiều lúc tôi cũng chẳng hiểu là gì. Chúng tôi bảo nhau băng qua sườn núi rút lui về nghỉ ngơi để cùng nhau tâm sự sau những ngày tháng cách xa nhau.
Đến nơi, chúng tôi leo lên sân thượng đưa nhau đến ngồi ở hành lang. Đây thật là một nơi yên tĩnh và lý tưởng đối với tôi. Trời chiều nắng ấm, tuy đã vào hoàng hôn mà trời vẫn sáng. Một đàn công sặc sỡ màu sắc sà xuống dưới bãi cỏ xanh cùng nhau vũ lộng.
Tiếng ồn ào của đông đảo đám người bên dưới vang lên nghe như những lời cầu kinh không thành tiếng nhẹ nhàng dễ khiến người nghe đi dần vào giấc ngủ.
Và tôi như bắt đầu lim dim đôi mắt chập chờn nửa tỉnh nửa mê, thì lạ lùng thay, dường như có bóng dáng một người chập chờn hiện lên đứng tận ở bờ tường núi đối diện nhìn tôi nhoẻn miệng cười.
Tôi cố gắng chống lại cơn buồn ngủ đang liên tục kéo đến như quyến rũ tôi đi vào một thế giới mộng mơ. Không muốn bị rơi vào giấc ngủ trong trạng thái ảo tưởng trong lúc tôi còn nhiều điều cần cùng chú Sĩ Cát tâm sự, do đó tôi cố hết sức lắc đầu thật mạnh để lấy lại sự tỉnh táo.
Nhưng, cái bóng có vẻ ma quái kia đang tiến dần lại về phía tôi đang ngồi. Tôi bắt đầu lo sợ, vì khuôn mặt của nó có cái vẻ gì đó, cứ nhìn chằm chặp tôi cười khiến cả tóc gáy tôi như tuồng dựng đứng cả lên.
Tôi cố nhắm mắt lại để khỏi trông thấy, nhưng không được, càng cố nhắm lại, lại càng mở to thêm, tôi mơ hồ nghĩ như vậy. Trong lúc đó nó đã đến ngay trước mặt tôi cười lên một tràng dài, khiến tôi nắm lấy tay chú Sĩ Cát hét lên thật lớn:
- Ma, ma! Chú Sĩ Cát ơi!
- Không! Ta không là ma! Hãy bình tĩnh! Bóng kia đáp lại.
Tuy tôi khiếp hãi đến như vậy, nhưng khi nghe tiếng từ bóng kia nói ra, cũng hơi an lòng bèn lên tiếng hỏi :
- Nếu không là ma, thì người là ai?
- Ta? Ta là một con người bằng da bằng thịt đã từng một thời đi học tại ngọn Trắc Phổ Di này. Ta cũng vốn có tật lười như chú và cũng vốn thích cái sân thượng thật yên tĩnh này để ngồi trầm tư hàng giờ như chú.
Về sau ta quyết chí lo tu hành tinh tấn gạt bỏ mọi khát vọng tầm thường của thế tục mong sao cho mình được chóng có ngày giải thoát mà trở về với Cõi Phúc.
Bởi vậy ta mới đến cái cốc đá kia hỡi Lỗ San và chú Sĩ Cát thân mến các người có nhìn thấy không? Đó, cái thạch cốc đó nằm ngay ở giữa vách núi chênh vênh kia để tịnh tâm tu dưỡng.
Tôi cùng chú Sĩ Cát nhìn theo ngón tay chỉ của bóng người này và tự nhiên cả hai chúng tôi đều cảm thấy ớn lạnh cả xương sống.
Đến nay đã mười một mùa Lộ Sa. Ta đã đạt được kết quả như ý muốn. Có nghĩa là tự do cho linh thân lướt bay giữa khoảng không gian vô tận, trong khi xác thân ta vẫn an toàn trong cốc đá.
Chuyến bay thứ nhất của ta là để có dịp ngắm lại quang cảnh đông đảo của ngày Hội Lớn và cũng để nhìn lại nơi mà ta thường ngồi để suy tư hàng ngày hồi tưởng lại những lúc cam go để thực hiện được lòng mơ ước của mình.
#10
Gửi vào 06/06/2011 - 21:58
PHÉP DU HỒN
Nói đến đây, bóng người này lớn tiếng cười.
- Lỗ San, ta đã đạt được phép du hồn. Ta có thể thả hồn mình đi đến bất cứ nơi nào trên thế gian này và luôn cả cõi hư vô bao la vô cùng vô tận kia, bất cứ lúc nào ta cảm thấy thích thú.
Tôi vô cùng mừng rỡ, không còn sợ hãi như lúc ban đầu nữa. Đây là một dịp may để tìm hiểu những điều mình được nghe đến như các trường hợp của các "ẩn sĩ" hay của các "tiểu tăng" mà tôi hằng muốn được biết. Chẳng biết tại làm sao họ lại thích chơi cái trò trèo leo nguy hiểm như vậy để đùa với cái chết sẵn sàng đưa họ xuống tận lòng hố sâu thăm thẳm đó?!
Bỗng dưng tôi nhớ lại một nhà sư người dân tộc Hán tên là Ngô Tử có một địa vị khá cao trong xã hội. Được biết trước kia ông là nhà sư tu hành ngay tại cung vua ở Bắc Bình. Nơi này, về sau không thích hợp nên ông quyết định rời khỏi kinh thành tìm sang vùng đất Thánh.
Ước vọng của ông đến vùng đất Tây Tạng này để dốc lòng chừa cải, gột rửa mọi dục vọng tầm thường của thế gian, lo tu luyện mong chóng đạt thành chánh quả. Cuối cùng ông đến được Trắc Phổ Di liền qui y tại nơi đất Thánh này.
Sau vài năm công quả, ông quyết định hãm mình trong "thạch cốc" với lời nguyện ở trọn bảy năm trường tại nơi ấy quanh năm sống với bóng tối vây quanh, không bóng người, không tiếng nói... Bất chấp rắn rít lúc nào cũng lướt ngang bên cạnh ông, có khi còn leo lên cả lên chân ông...lên người ông...
Ngày nay thì nhà sư kia đã đắc đạo trở về Trắc Phổ Di ở tại căn phòng cách nơi tôi đang ở không xa mấy. "Đúng rồi, đó là tiếng nói của nhà sư kia, không ai xa lạ".
Thế là hôm sau, trong khoảng thời gian rảnh rỗi, tôi xuống nhà ngang qua lớp hành làng quen thuộc tìm căn phòng bé nhỏ mà tôi đã có lần phát giác được, nhẹ nhàng bước đến, áp sát mặt vào cánh cửa được sơn màu hồng phấn cất tiếng khẽ gọi vào:
- Đại sư ! Đại sư ơi !
Không một tiếng trả lời. Chẳng lẽ giờ này Người tham thiền sao? Tuy nghi ngờ vậy tôi vẫn lên tiếng nhỏ nhẹ gọi thêm lần nữa:
- Đại sư ! Ngài tham thiền ư ?
Bỗng có tiếng thật trong trẻo từ bên trong vọng ra nghe thật rõ ràng:
- Vào đi. Chú cứ tự nhiên. Hãy vào với ta. Ta đang đợi chú.
Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tôi là một nhà sư già đang ngồi với tư thế "bán già". Mặc dù đã trọng tuổi mà lưng ông vẫn thẳng tắp. Ông có đôi gò má nhô cao và làn da mỏng như lụa của lòng cây măng trúc. Mắt ông đen nhưng có hơi phảng phất màn mỏng màu váng sữa.
Cằm rộng và vuông vức có chòm râu ngả màu sương muối. Trên mu bàn tay nổi lên cả gân xanh trông hệt như một cành cây khô cằn cỗi. Đã vậy mà da tay có sắc vàng nhợt nhạt pha lẫn màu nâu với nhiều chấm nhỏ đen sẫm biểu lộ cho một sự tàn tạ.
Tôi lễ phép đến trước mặt Người cúi đầu cung kính:
- Kính mừng Đại sư !
Bằng phản ứng tự nhiên nhà sư quay vội về phía tôi đang đứng. Dường như ông lắng tai nghe nhiều hơn là nhìn bằng mắt để quan sát.
- Ừ, ừ...đây là chú bé.
Rồi ông mỉm cười nói tiếp:
- Chỉ cần nghe bước chân là đủ biết chú lớn hay nhỏ rồi.
Giọng ông hơi run run tuy vậy mà vẫn còn nghe rổn rảng chẳng kém gì người đang thời cường tráng. Tôi vẫn đứng yên lặng để được quan sát kỹ về cơ thể của con người trở về từ lòng thạch cốc.
- Này, chú bé kia ơi! Chú muốn điều gì ?
- Thưa Ngài! Con muốn được nghe những điều gì đã xảy ra trong lòng thạch cốc mà suốt thời gian dài Ngài đã tự giam hãm mình nơi ấy?!
Nhà sư chép chép miệng mình vài cái rồi ra hiệu cho tôi:
- Lỗ San, hãy ngồi xuống đã. Ta ít nhắc đến chuyện cũ từ lâu rồi, những câu chuyện mà không thể nào phai mờ trong đầu óc ta được.
Nói đến đây, nhà sư đưa tay vê về vài sợi râu mép, mắt hơi đảo lên mí mắt trên để lộ một màu trắng dã bên dưới rồi chậm rãi kể lại:
- Ngày ta còn trai trẻ, ta đã phải mỏi gót kỳ khu trên mọi nẻo đường. Sau đó, ta đến xứ sở Ấn Độ. Tại nơi đây có rất nhiều ẩn sĩ sống trong thạch cốc. Có vài người ngày nay đã đắc đạo.
Đến đây, ông ta ngừng lại, đầu khẽ lắc như tuồng biểu lô tiếc rẻ:
- Có đi vào thạch cốc và nhìn thấy được những người đã đắc đạo nơi đây, ta mới cảm thấy buồn cho những kẻ suốt ngày chỉ lẩn quẩn dưới mấy gốc cây thả hồn theo mây trời gió nước, thử hỏi họ đã đạt được những gì?
- Thưa Đại sư ! Tôi ngắt ngang lời. Con muốn được nghe những gì về các vị ẩn sĩ xứ Tây Tạng này?
- Hả? Ngươi muốn cái gì? Điều gì? Nhà sư này ngơ ngác cho mãi đến giây lát sau mới khẽ gật đầu. À, ta biết rồi! Ta ở Ấn Độ trở về Bắc Bình, nơi đó ta đâu có học hỏi được gì? Ta đâm ra chán nản rồi xách gậy và bình bát ra đi. Đầu trần, chân không dưới ánh nắng chói chang nhiều tháng trời như vậy ta mới đến tận nơi vùng Thánh Địa này.
Sau bao nhiêu năm tháng đi lần lượt từ chùa này sang chùa khác, lang thang mãi mới đến được ngọn Trắc Phổ Di này. May mắn thay, ta gặp được Ngài Trụ Trì và được Ngài cho phép ta ở lại đây để học hỏi, tu hành.
Nói đến đây, Người ngưng hẳn lại rồi quay lại phía tôi trầm ngâm giây lát rồi khẽ chép miệng nói tiếp:
- Ta rất vui mừng khi nghe được hơi thở của cháu, quả cháu có một "tiên thiên sung mãn" đáng mừng thay!
- Tại làm sao Đại sư lại biết được như vậy? Tôi lên tiếng hỏi.
- Trước kia ta vốn là một Đông y sĩ tại vùng Hoa Bắc, công việc chính của ta là châm cứu. Điều ta khuyên cháu hôm nay là cháu nên giữ lấy kho tàng của ông cha để lại đó mà dốc cả tâm lực vào việc tu hành.
Riêng ta, cũng đã một thời có được cái diễm phúc hưởng được cái kho tàng đồ sộ như cháu và nhờ vậy mà tu hành một thời gian vô cùng thoải mái. Nhưng tiếc thay, ta không thể tiếp tục đường đi đó vì một cơ duyên hãn hữu nên ta lại vào tu đại định nơi Tịnh cốc.
Tôi thở dài sốt ruột trước lối thuật chuyện lê thê như thế này chỉ vì sợ bị trễ khóa lễ đêm nay. Đang ngồi ưu tư chuyện này thì bên ngoài tiếng cồng bắt đầu vọng vào mỗi lúc một dồn dập thêm. Không còn chần chờ được nữa tôi bèn đứng lên khoanh tay cáo từ:
- Thưa Đại sư, con phải đi ngay bây giờ.
Ông Đại sư này lắng tai nghe rồi mỉm cười:
- Không! Lỗ San có thể ở lại nơi đây! Lỗ San có đủ lý do lưu lại để nghe ta thuyết giảng về phép "Công phu tu niệm". Lỗ San nên nhớ rằng hiện giờ phút này chú có bổn phận lãnh hội sự diễn giải của một sư huynh của chú cơ mà.
Ở lại đây! Không nên bồn chồn. Ngươi có thể vắng mặt khóa lễ đêm nay! Ta bảo đảm chẳng sao cả. Hãy ngồi xuống lại và nghiêm chỉnh nghe ta.
Đến đây, vị Đại sư già quay mặt vào bên trong cất tiếng:
- Có chú nào bên trong ấy không? Cho bình trà ra đây.
Ra lệnh xong,Người quay lại bên tôi cười nói:
- Chúng ta cùng uống trà nhé! Tóc bạc da mồi như ta hoặc tuổi trẻ như cháu cả hai lớp người già trẻ cũng đều phải cần trà cả. Nó là một loại thuốc làm tươi nhuận lại các tế bào và còn giúp cho tinh thần thêm thoải mái nữa.
Một chú tiểu từ bên ngoài mang vào một khay trà cùng bột lúa mạch đặt lên chiếc bàn đá phía trước mặt người Đại sư già. Chúng tôi trộn bột lúa mì làm thành bánh Tsampa vừa ăn vừa uống với nước trà thơm đặc biệt được nhập cảng từ Ấn Độ. Nhà sư già lại tiếp tục đi vào câu chuyện bị bỏ dở:
- Ngài Trụ Trì nơi đây cho phép ta nhập "tịnh cốc". Ngài cấp cho một chú tiểu để trông nom giúp đỡ ta. Thế là thầy trò ta sau năm ngày lặn lội mới tìm được một nơi vừa ý đối diện với sân thượng này như chú đã nhìn thấy.
Tôi gật gù đầu:
- Thưa Đại sư ! Con được biết đó là một cốc đá nhỏ được xây bên trên ngọn Hy Mã Lạp Sơn.
- Đúng vậy. Cốc nhỏ này lúc ấy có một nhà sư viên tịch. Lâu ngày chẳng ai quét tước, vì vậy, khi đến đây,thầy trò ta phải thu dọn lau chùi sạch sẽ. Sau khi hoàn tất, ta mới có thì giờ bước ra nhìn xuống cánh đồng La Sa, ngọn Phổ Đà La và cuối cùng là Trắc Phổ Di trước khi chui vào bên trong tiểu cốc.
Chú đệ tử nhỏ bé của ta bắt đầu thi hành phận sự. Chú ta lấy mấy tảng đá đặt sẵn bên cạnh cốc chắn ngang nơi cửa ra vào rồi bên ngoài đó người đệ tử này dùng xi măng trám lại thật kín.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Thật kín? Làm sao mà thở được?
- Được chứ. Đâu hẳn đã bít kín được tất cả, còn những lỗ hổng khác trên nóc động có thể để lọt ánh sáng cũng như thông cả khí trời, chỉ có điều là không thể thoát ra bên ngoài được.
- Nhưng làm sao ăn uống? Đại sư tự nấu lấy chăng?
- Không. Ta có thể tự ăn thôi. Nhà Sư già đùa. Chú đừng lo, tuy bít kín lỗ hổng ra vào song còn chừa một khoảng trống nhỏ đủ đặt cái khay thức ăn, cứ hai ngày một lần cho lão sư già này, kẻo không thì đói bụng làm sao chịu nổi?
- Thưa Đại sư, bên trong tiểu cốc ấy như thế nào?
Nhà sư Ngô Tử đưa tay lên xoa xoa chiếc đầu trụi lủi tóc của mình đoạn lên tiếng đáp lại:
- Đó là một căn phòng nhỏ bé, tường vách thật dày, không có cánh cửa hay lối thoát nào mà cũng chẳng có lấy tia sáng nào lọt vào được.
- Thưa Đại sư, chẳng lẽ tối om om sao?
- Thì phải vậy. Bức tường bên trong có một các ngách nhỏ dùng để tiếp tế cơm nước. Cạnh đó, có một đường hầm nhỏ, thông từ bên ngoài của cái cốc nhỏ ta đang giam mình hệt như một màn đen dày đặt, tưởng chừng có thể dùng tay sờ được.
Tứ bề im phăng phắc không có lấy một tiếng động nhỏ. Ta ngồi xuống sàn và bắt đầu tham thiền. Thoạt đầu, ta cảm thấy tâm trí mình gặp nhiều cảnh lạ lùng, nhưng tự biết đó âu chỉ là ảo tưởng. Các ảo ảnh này lúc thì là từng tia sáng li ti nhỏ lọt vào qua khe nứt nhỏ, khi thì như có cả một vừng ánh sáng bừng lên rồi từ từ tan biến.
Cũng lắm lúc lại nhìn thấy cả một màn đen tối phủ xuống đè lên người làm cho ta nghẹt thở. Chẳng những vậy, ta còn có cảm tưởng toàn châu thân mình hình như có cả khối bùn đen bao cả lại. Về sau này có lúc ta tưởng tượng như đâu đó có tiếng chuông rung xen lẫn với tiếng cồng vang lên tứ phía, lại có cả tiếng của hàng bao nhiêu người tụng kinh cầu nguyện.
Có lắm lúc ta đập tay vào vách tường đá đến độ điên cuồng như muốn phá vỡ một lối thoát ra bên ngoài. Dần dần về sau, ta cũng chẳng biết là bao nhiêu lâu nữa không còn phân biệt được ngày và đêm nữa.
Mà làm sao phân biệt được khi mà chung quanh mình chỉ toàn là bóng tối và câm lặng như một nấm mồ. Dần dà về sau ta trở nên yên tĩnh, tâm tư ta lắng đọng lại, không còn bị hốt hoảng nữa. Thế là cũng kể từ đó với ta mọi âu lo, bồn chồn, hồi họp đều lần lượt tan biến hết.
Tôi sững sờ ngồi lắng nghe và hình dung từng hình ảnh sống động trong "thạch cốc" mà nhà sư họ Ngô từng tự hãm mình để tu hành. Bên ngoài tiếng cầu kinh vọng vào lúc cao lúc thấp, khi to khi nhỏ, như thể đưa hồn chúng tôi vào cảnh tiêu diêu huyền nhiệm.
Nhà sư họ Ngô tiếp tục thuật lại cho tôi nghe về cảnh sống của người tại nơi thạch cốc!
- Cứ hai ngày một lần, chú tiểu đồng của ta ở bên ngoài lại đặt vào cái ngách nhỏ bên đường ít mẫu bánh Tsampa. Những lần mà chú tiểu đồng đến bỏ bánh, khi đến cũng như lúc rời khỏi nơi thạch cốc ta không hề được hay biết.
Có lần ta sờ soạng trong bóng tối để lấy thức ăn, vô ý làm đổ cả ra tận ngoài xa, ta cố với mãi song cũng không thể nào với tới được. Ta lên tiếng gọi song cũng chẳng ai nghe thấy
Tôi mau miệng hỏi:
- Thế Đại Sư phải làm thế nào? Chẳng lẽ phải nhịn đói đến cả hai ngày sao?
- Thì đành phải vậy, biết làm sao hơn! Bụng làm dạ chịu mà Lỗ San! Như chú đã hỏi, ta đành nhịn đói suốt hai ngày trời như vậy.
Tôi lại liên tưởng đến cảnh lỡ bị trái gió trở trời thì sao? Chẳng lẽ nằm chịu trận để Thần Chết đến mang đi sao? Nghĩ vậy tôi liền lên tiếng hỏi:
- Thưa Đại Sư ! Nếu gặp cảnh đau ốm hay nói gỡ hơn là bị hóa kiếp đi thì làm thế nào?
- À! Nếu có bị bệnh hoạn thì chẳng đáng lo ngại tí nào. Ta có thể dùng "Thiền Định" mà tự chữa lấy, nhưng bất thần bị hóa kiếp thì đã có quy định đã được đưa ra từ trước ngày nhập cốc.
Người đệ tử mang cơm hàng ngày có thể nhìn vào đống cơm cứ tiếp tục chất chồng lên với nhau tại ngay ngách tính đến ngày thứ mười bốn, lúc bấy giờ chú đệ tử phải cấp báo ngay về cấp trên để được biết. Đã có một số không ít các ẩn sĩ có vào song chẳng bao giờ trở lại với ánh sáng mặt trời nữa.
- Có nghĩa là...đã bị chết !
- Thì là đúng như vậy.
- Khi được tin người ẩn sĩ ấy qua đời thì phải làm thế nào, thưa Đại Sư ?
- Tức thì ngay sau đó người ta sẽ đến cho phá vỡ cửa ra đoạn mang xác của người ẩn sĩ hóa kiếp ấy ra bên ngoài.
- Tôi trân trối ngắm nhìn nhà sư Ngô Tử như để tìm kiếm những dấu vết còn ghi lại trên thân thể Người sau những năm tháng dài trong lòng thạch cốc.
- Phải mất thời gian bao lâu Đại Sư mới rời khỏi thạch cốc?
- Thoạt đầu, ta ấn định hai năm, song sau đó ta cảm thấy còn có thể lưu lại lâu hơn nữa. Vì vậy, ta quyết định ở cho đủ bảy năm. Khi đến giai đoạn sắp phải rời cốc, thì ngài Trụ Trì cho người đến khoét một lỗ nhỏ phía bên trên nóc của thạch cốc vừa đủ cho tia sáng mỏng manh lọt vào.
Rồi, chờ đôi ba ngày sau mới lại cho đục khoét to thêm ra một chút nữa, mục đích rót thêm ánh sáng vào. Và cứ như vậy tiếp tục cho ánh sáng dần dần nhiều hơn, mãi đến khi đôi mắt ta có thể chịu đựng được như mọi người bình thường mới thôi.
- Cần gì phải như vậy. Thầy có thể để cho họ mang ra ngay sau khi đúng thời hạn. Làm như Đại Sư có vẻ sao sao ấy.
Nhà sư họ Ngô mỉm cười lắc đầu:
- Nếu bị mang ra bất thần theo như ý của chú thì người ẩn mình trong thạch cốc ấy sẽ bị mù ngay tức khắc. Đó là một điều dễ hiểu, vì khi ở trong bóng tối lòng đồng tử bị nở to ra khi gặp phải ánh sáng đột ngột chiếu đến, khiến lòng đồng tử của người ẩn cư trong thạch cốc lúc bấy giờ không kịp thời thu nhỏ lại.
Nói đến đây, nhà sư bật cười:
- Giả dụ ngày ra xuất cốc mà có chú đứng đón ta ắt sẽ không khỏi giật mình trố mắt ra nhìn. Toàn thân ta trắng toát mà đầu tóc thì như băng tuyết phủ. Ta phải chà xát cả người, nắn bóp khá lâu, đồng thời tập co giãn chân tay để cho các gân cốt làm việc trở lại. Chú đừng ngạc nhiên và cho ta là cầu kỳ.
Thật ra chính vì ta không cử động trong một khoảng thời gian thật dài nên tay chân hầu như không còn hoạt động được nữa. Dần dà sức lực và toàn cơ thể ta khôi phục lại. Thế là ta bước ra khỏi cốc đá như những kẻ bình thường cùng chú tiểu đồng xuống núi và đến nơi đây, không ngờ lại được may mắn gặp chú.
Tôi cúi đầu suy nghĩ, trong những năm tháng dài sống trong bóng tối, khiến thị giác của vị Đại Sư này cảm thấy không còn cần thiết nữa. Ông có thể nhìn thấy mọi vật trong bóng đêm vừa bằng nhãn lực và cũng vừa bằng cảm quan phát xuất từ trong tiềm thức!
Nhưng, ánh sáng mà suốt thời gian dài ngài Đại Sư ẩn cư không cần đến đó sẽ trở thành một loại vũ khí cực kỳ nguy hiểm. Nó có thể làm cho nhà sư này bị tước đoạt hẳn thị giác.
Tốc độ của ánh sáng nhanh đến nỗi chẳng có một tốc độ nào khác đuổi theo kịp và cũng chẳng có một quyền phép nào điều khiển được nó.
Có lần nghe được lời giảng dạy của Minh Sư tôi có đề cập đến tốc độ ánh sáng, đối với khoa học vẫn còn chưa ai có thể đuổi theo, hoặc cầm nắm nó lại đó, nhưng với nhà tu hành cấp cao, có thể giam hãm lại và có thể biến đổi cả màu sắc nó.
Gần đây một nguồn tin AP được đánh đi từ Boston, theo các nhà nghiên cứu của Viện Đại học Kỹ Thuật Massachusetts qua các cuộc thí nghiệm đã phát giác ra rằng, khi sóng ánh sáng tương tác với một lực mạnh như lực của viên đạn đang bay, chúng có những phản ứng rất khác lạ.
Nhà vật lý Evan J.Reed, làm việc tại phòng thí nghiệm nghiên cứu điện tử của MIT, đã tiến hành các cuộc nghiên cứu hiện tượng kỳ lạ này và thấy rằng, khi cho sóng xung kích có cường độ mạnh đi qua tinh thể lượng từ ánh sáng, chúng có thể biến đổi màu đỏ sang màu xanh.
Những kết quả thu được từ thí nghiệm có thể ứng dụng cho lĩnh vực truyền thông và quang học điện tử. Thí nghiệm về sóng xung kích còn cho phép các nhà nghiên cứu có thể thấy phản ứng của vật chất trong môi trường chịu lực tác động lớn.
Chính vì không ai có thể đến gần tâm của trái đất nên thí nghiệm kiểu này sẽ giúp các nhà nghiên cứu thấy được sự thay đổi cấu trúc kết tinh của vật chất dưới nhiệt độ và áp lực cao.
Theo nhà vật lý Reed, kiểu thí nghiệm này không có gì đặc biệt nhưng cho đến nay vẫn chưa có nhà khoa học nào có thể tiến hành tương tự.
Qua thí nghiệm trên, các nhà nghiên cứu tại MIT cho biết họ có thể điều khiển được ánh sáng khi đưa sóng xung kích đi qua tinh thể lượng tử ánh sáng. Bằng cách giam hãm ánh sáng giữa mặt chuyển động của xung kích và bề mặt phản chiếu, tia sáng được đưa tới có thể bị ket lại tác các ranh giới của sóng xung kích.
Khi xung kích di chuyển qua tinh thể, độ dài sóng ánh sáng có thể thay đổi mỗi lần chúng tăng cường độ. Nếu sóng xung kích cùng chiều với ánh sáng, cường độ của ánh sáng sẽ mạnh lên, còn nếu nó ngược chiều thì cường độ ánh sáng nó sẽ giảm.
Nếu thay đổi cấu trúc của tinh thể, các nhà nghiên cứu có thể hoàn toàn điều khiển được cường độ tần số vào và ra khỏi tinh thể.
- Thưa Đại Sư, công phu của Đại Sư bỏ ra lớn lao đến như thế ấy có xứng đáng với thành quả của mình đạt được chăng ?
- Có, có chứ. Nhà sư họ Ngô nói với tôi. Xứng đáng lắm chú à! Nhờ đó mà ta thấu rõ nguyên tắc của đời sống, mục đích và hành động của bộ óc, sự ràng buộc giữa linh hồn và thể xác. Nhờ đó mà ta ngày nay được tự tại vô ngại.
Ta có thể xuất hồn để bay lên trên không trung, chẳng khác nào chú dùng phép nhiếp hồn để đi đây đi đó.
- Thưa Đại Sư!
Tôi lại hỏi.
- Ngài có tin chắc rằng những thành quả của Ngài vừa nói đó là sự thật hay là do đầu óc mình tưởng tượng mà ra? Hoặc giả, xin Đại Sư cho phép con được vô phép hỏi, liệu Ngài chắc chắn là mình không bị "tẩu hỏa nhập ma"?
Có điều con vẫn thắc mắc là tại sao Ngài không dùng phép nhiếp hồn mà đi đó đi đây, có phải vừa đỡ hại sức khỏe, đỡ khỏi mất thời gian mà còn an toàn khỏi bị nguy hiểm nữa!
Nghe tôi hỏi một tràng dài toàn những thắc mắc, Đại Sư Ngô Tử cười ngửa nghiêng, phát ra thành tiếng. Ngài cười đến chảy ròng ròng cả nước mắt. Cuối cùng đưa tay chụp vào bả vai tôi nói:
- Á há ! Hỏi, hỏi, chú cứ hỏi nữa đi! Chú chẳng khác nào ta lúc trước thắc mắc mãi và hỏi mãi không bao giờ biết chán. Nó như thế này chú ơi! Thoạt đầu ta cố khắc phục nỗi bồn chồn hốt hoảng.
Ta tự nguyền rủa cái ngày mình quy y. Ta còn nguyền rủa cả ngày ta nhập cốc. Nhưng, rồi dần dà ta theo lối quán tưởng tập hô hấp rồi nhập thiền tĩnh tọa, ngưng thần.
Ta cũng có những lúc nhìn thấy cảnh ma quái chập chờn, ẩn hiện trong đầu óc hoặc ngay trước mặt mình. Ta cũng có những giấc mơ hão huyền, mộng tưởng. Nhưng tất cả những sự kiện đó, ta đều biết là do tinh thần mình quá căng thẳng tạo thành và khi ta xả thiền thì tất cả những ảo ảnh, mộng mị đều tan biến mất.
Điều tôi nhận thấy tuy nhà sư Ngô Tử nói cả một thôi dài mà vẫn giữ được sự điều hòa của hô hấp, không có vẻ gì là mệt mỏi cả. Ngài vẫn tiếp ục nói:
- Cho mãi đến một ngày kia, ta cảm thấy người mình nhẹ hẳn đi, và tự cảm thấy như hồn từ từ thoát ra khỏi thể xác. Trong bóng đêm dày đặc tự nhiên ta nhìn thấy rõ như ánh sáng ban ngày. Ta cúi xuống nhìn thể xác mình, rõ ràng là đang tham thiền tĩnh tọa.
Rõ ràng, mắt mình đang mở ra như thể đang nhìn về một phương trời xa xăm nào đó. Ta cũng nhìn thấy cả làn da ta quá xanh xao và cả thân hình thì gầy đi hẳn.
Ta lửng lơ bay xuyên qua những rặng núi từ thấp đến cao, có những lúc quá hứng khởi ta lại bay lên tận đỉnh núi cao quanh năm tuyết phủ Không khí nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn thật mát mẻ, trong lành. Ta nhìn xuống cả cánh đồng La Sa xanh mướt, mênh mông, rộng lớn.
Ta nhận thấy ở đất Thánh Tây Tạng này ngày nay có nhiều thay đổi. Ta cũng nhìn thấy cả những người đã quen biết từ trước, những người quen ở vào một thời gian nào đó. Ta lướt nhẹ vào ngôi Đại tự. Nơi đây, ta bắt đầu dùng Thần Giao Cách Cảm để chuyện trò với Đức Lạt Ma đã cho phép ta được rời khỏi "cốc".
Ta là là bay khá xa đến một xứ khác du ngoạn. Cứ mỗi hai ngày ta trở về cốc để nhập lại vào xác thân mình. Chú ngạc nhiên và thắc mắc ư ? Chẳng có gì cả. Thật ra ta vẫn như mọi người khác.
Có nghĩa là ta vẫn còn sống tại thế gian này, còn phải nhờ vả cái thể xác này. Ta phải nhập trở lại vào trong cái vỏ bằng da bằng thịt này để có thể cho nó ăn uống và dưỡng nuôi nó.
- Thưa Đại Sư! Tại sao Ngài không dùng phép "Nhiếp Hồn" để tránh khỏi phải tốn hao công sức?!
- Có rất nhiều người không có cơ duyên. Đâu có phải ai cũng như cháu cả! Chú đã nhờ trải qua bao nhiêu kiếp tu luyện nên kiếp này chú mới được giao phó một trách nhiệm đặc biệt.
Chú phải dùng đến "Linh Thân" chuyển động đến nhiều nơi xa xăm để thi hành Phật sự. Đa phần, như ta chẳng hạn phải dày công tu luyện đủ phúc, đủ duyên mới có thể thoát được hồn ra khỏi xác. Trong trường hợp cháu thì khác, lắm điều may mắn. Chú được thật nhiều duyên huyền linh hỗ trợ.
Nói đến đây, bóng người này lớn tiếng cười.
- Lỗ San, ta đã đạt được phép du hồn. Ta có thể thả hồn mình đi đến bất cứ nơi nào trên thế gian này và luôn cả cõi hư vô bao la vô cùng vô tận kia, bất cứ lúc nào ta cảm thấy thích thú.
Tôi vô cùng mừng rỡ, không còn sợ hãi như lúc ban đầu nữa. Đây là một dịp may để tìm hiểu những điều mình được nghe đến như các trường hợp của các "ẩn sĩ" hay của các "tiểu tăng" mà tôi hằng muốn được biết. Chẳng biết tại làm sao họ lại thích chơi cái trò trèo leo nguy hiểm như vậy để đùa với cái chết sẵn sàng đưa họ xuống tận lòng hố sâu thăm thẳm đó?!
Bỗng dưng tôi nhớ lại một nhà sư người dân tộc Hán tên là Ngô Tử có một địa vị khá cao trong xã hội. Được biết trước kia ông là nhà sư tu hành ngay tại cung vua ở Bắc Bình. Nơi này, về sau không thích hợp nên ông quyết định rời khỏi kinh thành tìm sang vùng đất Thánh.
Ước vọng của ông đến vùng đất Tây Tạng này để dốc lòng chừa cải, gột rửa mọi dục vọng tầm thường của thế gian, lo tu luyện mong chóng đạt thành chánh quả. Cuối cùng ông đến được Trắc Phổ Di liền qui y tại nơi đất Thánh này.
Sau vài năm công quả, ông quyết định hãm mình trong "thạch cốc" với lời nguyện ở trọn bảy năm trường tại nơi ấy quanh năm sống với bóng tối vây quanh, không bóng người, không tiếng nói... Bất chấp rắn rít lúc nào cũng lướt ngang bên cạnh ông, có khi còn leo lên cả lên chân ông...lên người ông...
Ngày nay thì nhà sư kia đã đắc đạo trở về Trắc Phổ Di ở tại căn phòng cách nơi tôi đang ở không xa mấy. "Đúng rồi, đó là tiếng nói của nhà sư kia, không ai xa lạ".
Thế là hôm sau, trong khoảng thời gian rảnh rỗi, tôi xuống nhà ngang qua lớp hành làng quen thuộc tìm căn phòng bé nhỏ mà tôi đã có lần phát giác được, nhẹ nhàng bước đến, áp sát mặt vào cánh cửa được sơn màu hồng phấn cất tiếng khẽ gọi vào:
- Đại sư ! Đại sư ơi !
Không một tiếng trả lời. Chẳng lẽ giờ này Người tham thiền sao? Tuy nghi ngờ vậy tôi vẫn lên tiếng nhỏ nhẹ gọi thêm lần nữa:
- Đại sư ! Ngài tham thiền ư ?
Bỗng có tiếng thật trong trẻo từ bên trong vọng ra nghe thật rõ ràng:
- Vào đi. Chú cứ tự nhiên. Hãy vào với ta. Ta đang đợi chú.
Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tôi là một nhà sư già đang ngồi với tư thế "bán già". Mặc dù đã trọng tuổi mà lưng ông vẫn thẳng tắp. Ông có đôi gò má nhô cao và làn da mỏng như lụa của lòng cây măng trúc. Mắt ông đen nhưng có hơi phảng phất màn mỏng màu váng sữa.
Cằm rộng và vuông vức có chòm râu ngả màu sương muối. Trên mu bàn tay nổi lên cả gân xanh trông hệt như một cành cây khô cằn cỗi. Đã vậy mà da tay có sắc vàng nhợt nhạt pha lẫn màu nâu với nhiều chấm nhỏ đen sẫm biểu lộ cho một sự tàn tạ.
Tôi lễ phép đến trước mặt Người cúi đầu cung kính:
- Kính mừng Đại sư !
Bằng phản ứng tự nhiên nhà sư quay vội về phía tôi đang đứng. Dường như ông lắng tai nghe nhiều hơn là nhìn bằng mắt để quan sát.
- Ừ, ừ...đây là chú bé.
Rồi ông mỉm cười nói tiếp:
- Chỉ cần nghe bước chân là đủ biết chú lớn hay nhỏ rồi.
Giọng ông hơi run run tuy vậy mà vẫn còn nghe rổn rảng chẳng kém gì người đang thời cường tráng. Tôi vẫn đứng yên lặng để được quan sát kỹ về cơ thể của con người trở về từ lòng thạch cốc.
- Này, chú bé kia ơi! Chú muốn điều gì ?
- Thưa Ngài! Con muốn được nghe những điều gì đã xảy ra trong lòng thạch cốc mà suốt thời gian dài Ngài đã tự giam hãm mình nơi ấy?!
Nhà sư chép chép miệng mình vài cái rồi ra hiệu cho tôi:
- Lỗ San, hãy ngồi xuống đã. Ta ít nhắc đến chuyện cũ từ lâu rồi, những câu chuyện mà không thể nào phai mờ trong đầu óc ta được.
Nói đến đây, nhà sư đưa tay vê về vài sợi râu mép, mắt hơi đảo lên mí mắt trên để lộ một màu trắng dã bên dưới rồi chậm rãi kể lại:
- Ngày ta còn trai trẻ, ta đã phải mỏi gót kỳ khu trên mọi nẻo đường. Sau đó, ta đến xứ sở Ấn Độ. Tại nơi đây có rất nhiều ẩn sĩ sống trong thạch cốc. Có vài người ngày nay đã đắc đạo.
Đến đây, ông ta ngừng lại, đầu khẽ lắc như tuồng biểu lô tiếc rẻ:
- Có đi vào thạch cốc và nhìn thấy được những người đã đắc đạo nơi đây, ta mới cảm thấy buồn cho những kẻ suốt ngày chỉ lẩn quẩn dưới mấy gốc cây thả hồn theo mây trời gió nước, thử hỏi họ đã đạt được những gì?
- Thưa Đại sư ! Tôi ngắt ngang lời. Con muốn được nghe những gì về các vị ẩn sĩ xứ Tây Tạng này?
- Hả? Ngươi muốn cái gì? Điều gì? Nhà sư này ngơ ngác cho mãi đến giây lát sau mới khẽ gật đầu. À, ta biết rồi! Ta ở Ấn Độ trở về Bắc Bình, nơi đó ta đâu có học hỏi được gì? Ta đâm ra chán nản rồi xách gậy và bình bát ra đi. Đầu trần, chân không dưới ánh nắng chói chang nhiều tháng trời như vậy ta mới đến tận nơi vùng Thánh Địa này.
Sau bao nhiêu năm tháng đi lần lượt từ chùa này sang chùa khác, lang thang mãi mới đến được ngọn Trắc Phổ Di này. May mắn thay, ta gặp được Ngài Trụ Trì và được Ngài cho phép ta ở lại đây để học hỏi, tu hành.
Nói đến đây, Người ngưng hẳn lại rồi quay lại phía tôi trầm ngâm giây lát rồi khẽ chép miệng nói tiếp:
- Ta rất vui mừng khi nghe được hơi thở của cháu, quả cháu có một "tiên thiên sung mãn" đáng mừng thay!
- Tại làm sao Đại sư lại biết được như vậy? Tôi lên tiếng hỏi.
- Trước kia ta vốn là một Đông y sĩ tại vùng Hoa Bắc, công việc chính của ta là châm cứu. Điều ta khuyên cháu hôm nay là cháu nên giữ lấy kho tàng của ông cha để lại đó mà dốc cả tâm lực vào việc tu hành.
Riêng ta, cũng đã một thời có được cái diễm phúc hưởng được cái kho tàng đồ sộ như cháu và nhờ vậy mà tu hành một thời gian vô cùng thoải mái. Nhưng tiếc thay, ta không thể tiếp tục đường đi đó vì một cơ duyên hãn hữu nên ta lại vào tu đại định nơi Tịnh cốc.
Tôi thở dài sốt ruột trước lối thuật chuyện lê thê như thế này chỉ vì sợ bị trễ khóa lễ đêm nay. Đang ngồi ưu tư chuyện này thì bên ngoài tiếng cồng bắt đầu vọng vào mỗi lúc một dồn dập thêm. Không còn chần chờ được nữa tôi bèn đứng lên khoanh tay cáo từ:
- Thưa Đại sư, con phải đi ngay bây giờ.
Ông Đại sư này lắng tai nghe rồi mỉm cười:
- Không! Lỗ San có thể ở lại nơi đây! Lỗ San có đủ lý do lưu lại để nghe ta thuyết giảng về phép "Công phu tu niệm". Lỗ San nên nhớ rằng hiện giờ phút này chú có bổn phận lãnh hội sự diễn giải của một sư huynh của chú cơ mà.
Ở lại đây! Không nên bồn chồn. Ngươi có thể vắng mặt khóa lễ đêm nay! Ta bảo đảm chẳng sao cả. Hãy ngồi xuống lại và nghiêm chỉnh nghe ta.
Đến đây, vị Đại sư già quay mặt vào bên trong cất tiếng:
- Có chú nào bên trong ấy không? Cho bình trà ra đây.
Ra lệnh xong,Người quay lại bên tôi cười nói:
- Chúng ta cùng uống trà nhé! Tóc bạc da mồi như ta hoặc tuổi trẻ như cháu cả hai lớp người già trẻ cũng đều phải cần trà cả. Nó là một loại thuốc làm tươi nhuận lại các tế bào và còn giúp cho tinh thần thêm thoải mái nữa.
Một chú tiểu từ bên ngoài mang vào một khay trà cùng bột lúa mạch đặt lên chiếc bàn đá phía trước mặt người Đại sư già. Chúng tôi trộn bột lúa mì làm thành bánh Tsampa vừa ăn vừa uống với nước trà thơm đặc biệt được nhập cảng từ Ấn Độ. Nhà sư già lại tiếp tục đi vào câu chuyện bị bỏ dở:
- Ngài Trụ Trì nơi đây cho phép ta nhập "tịnh cốc". Ngài cấp cho một chú tiểu để trông nom giúp đỡ ta. Thế là thầy trò ta sau năm ngày lặn lội mới tìm được một nơi vừa ý đối diện với sân thượng này như chú đã nhìn thấy.
Tôi gật gù đầu:
- Thưa Đại sư ! Con được biết đó là một cốc đá nhỏ được xây bên trên ngọn Hy Mã Lạp Sơn.
- Đúng vậy. Cốc nhỏ này lúc ấy có một nhà sư viên tịch. Lâu ngày chẳng ai quét tước, vì vậy, khi đến đây,thầy trò ta phải thu dọn lau chùi sạch sẽ. Sau khi hoàn tất, ta mới có thì giờ bước ra nhìn xuống cánh đồng La Sa, ngọn Phổ Đà La và cuối cùng là Trắc Phổ Di trước khi chui vào bên trong tiểu cốc.
Chú đệ tử nhỏ bé của ta bắt đầu thi hành phận sự. Chú ta lấy mấy tảng đá đặt sẵn bên cạnh cốc chắn ngang nơi cửa ra vào rồi bên ngoài đó người đệ tử này dùng xi măng trám lại thật kín.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Thật kín? Làm sao mà thở được?
- Được chứ. Đâu hẳn đã bít kín được tất cả, còn những lỗ hổng khác trên nóc động có thể để lọt ánh sáng cũng như thông cả khí trời, chỉ có điều là không thể thoát ra bên ngoài được.
- Nhưng làm sao ăn uống? Đại sư tự nấu lấy chăng?
- Không. Ta có thể tự ăn thôi. Nhà Sư già đùa. Chú đừng lo, tuy bít kín lỗ hổng ra vào song còn chừa một khoảng trống nhỏ đủ đặt cái khay thức ăn, cứ hai ngày một lần cho lão sư già này, kẻo không thì đói bụng làm sao chịu nổi?
- Thưa Đại sư, bên trong tiểu cốc ấy như thế nào?
Nhà sư Ngô Tử đưa tay lên xoa xoa chiếc đầu trụi lủi tóc của mình đoạn lên tiếng đáp lại:
- Đó là một căn phòng nhỏ bé, tường vách thật dày, không có cánh cửa hay lối thoát nào mà cũng chẳng có lấy tia sáng nào lọt vào được.
- Thưa Đại sư, chẳng lẽ tối om om sao?
- Thì phải vậy. Bức tường bên trong có một các ngách nhỏ dùng để tiếp tế cơm nước. Cạnh đó, có một đường hầm nhỏ, thông từ bên ngoài của cái cốc nhỏ ta đang giam mình hệt như một màn đen dày đặt, tưởng chừng có thể dùng tay sờ được.
Tứ bề im phăng phắc không có lấy một tiếng động nhỏ. Ta ngồi xuống sàn và bắt đầu tham thiền. Thoạt đầu, ta cảm thấy tâm trí mình gặp nhiều cảnh lạ lùng, nhưng tự biết đó âu chỉ là ảo tưởng. Các ảo ảnh này lúc thì là từng tia sáng li ti nhỏ lọt vào qua khe nứt nhỏ, khi thì như có cả một vừng ánh sáng bừng lên rồi từ từ tan biến.
Cũng lắm lúc lại nhìn thấy cả một màn đen tối phủ xuống đè lên người làm cho ta nghẹt thở. Chẳng những vậy, ta còn có cảm tưởng toàn châu thân mình hình như có cả khối bùn đen bao cả lại. Về sau này có lúc ta tưởng tượng như đâu đó có tiếng chuông rung xen lẫn với tiếng cồng vang lên tứ phía, lại có cả tiếng của hàng bao nhiêu người tụng kinh cầu nguyện.
Có lắm lúc ta đập tay vào vách tường đá đến độ điên cuồng như muốn phá vỡ một lối thoát ra bên ngoài. Dần dần về sau, ta cũng chẳng biết là bao nhiêu lâu nữa không còn phân biệt được ngày và đêm nữa.
Mà làm sao phân biệt được khi mà chung quanh mình chỉ toàn là bóng tối và câm lặng như một nấm mồ. Dần dà về sau ta trở nên yên tĩnh, tâm tư ta lắng đọng lại, không còn bị hốt hoảng nữa. Thế là cũng kể từ đó với ta mọi âu lo, bồn chồn, hồi họp đều lần lượt tan biến hết.
Tôi sững sờ ngồi lắng nghe và hình dung từng hình ảnh sống động trong "thạch cốc" mà nhà sư họ Ngô từng tự hãm mình để tu hành. Bên ngoài tiếng cầu kinh vọng vào lúc cao lúc thấp, khi to khi nhỏ, như thể đưa hồn chúng tôi vào cảnh tiêu diêu huyền nhiệm.
Nhà sư họ Ngô tiếp tục thuật lại cho tôi nghe về cảnh sống của người tại nơi thạch cốc!
- Cứ hai ngày một lần, chú tiểu đồng của ta ở bên ngoài lại đặt vào cái ngách nhỏ bên đường ít mẫu bánh Tsampa. Những lần mà chú tiểu đồng đến bỏ bánh, khi đến cũng như lúc rời khỏi nơi thạch cốc ta không hề được hay biết.
Có lần ta sờ soạng trong bóng tối để lấy thức ăn, vô ý làm đổ cả ra tận ngoài xa, ta cố với mãi song cũng không thể nào với tới được. Ta lên tiếng gọi song cũng chẳng ai nghe thấy
Tôi mau miệng hỏi:
- Thế Đại Sư phải làm thế nào? Chẳng lẽ phải nhịn đói đến cả hai ngày sao?
- Thì đành phải vậy, biết làm sao hơn! Bụng làm dạ chịu mà Lỗ San! Như chú đã hỏi, ta đành nhịn đói suốt hai ngày trời như vậy.
Tôi lại liên tưởng đến cảnh lỡ bị trái gió trở trời thì sao? Chẳng lẽ nằm chịu trận để Thần Chết đến mang đi sao? Nghĩ vậy tôi liền lên tiếng hỏi:
- Thưa Đại Sư ! Nếu gặp cảnh đau ốm hay nói gỡ hơn là bị hóa kiếp đi thì làm thế nào?
- À! Nếu có bị bệnh hoạn thì chẳng đáng lo ngại tí nào. Ta có thể dùng "Thiền Định" mà tự chữa lấy, nhưng bất thần bị hóa kiếp thì đã có quy định đã được đưa ra từ trước ngày nhập cốc.
Người đệ tử mang cơm hàng ngày có thể nhìn vào đống cơm cứ tiếp tục chất chồng lên với nhau tại ngay ngách tính đến ngày thứ mười bốn, lúc bấy giờ chú đệ tử phải cấp báo ngay về cấp trên để được biết. Đã có một số không ít các ẩn sĩ có vào song chẳng bao giờ trở lại với ánh sáng mặt trời nữa.
- Có nghĩa là...đã bị chết !
- Thì là đúng như vậy.
- Khi được tin người ẩn sĩ ấy qua đời thì phải làm thế nào, thưa Đại Sư ?
- Tức thì ngay sau đó người ta sẽ đến cho phá vỡ cửa ra đoạn mang xác của người ẩn sĩ hóa kiếp ấy ra bên ngoài.
- Tôi trân trối ngắm nhìn nhà sư Ngô Tử như để tìm kiếm những dấu vết còn ghi lại trên thân thể Người sau những năm tháng dài trong lòng thạch cốc.
- Phải mất thời gian bao lâu Đại Sư mới rời khỏi thạch cốc?
- Thoạt đầu, ta ấn định hai năm, song sau đó ta cảm thấy còn có thể lưu lại lâu hơn nữa. Vì vậy, ta quyết định ở cho đủ bảy năm. Khi đến giai đoạn sắp phải rời cốc, thì ngài Trụ Trì cho người đến khoét một lỗ nhỏ phía bên trên nóc của thạch cốc vừa đủ cho tia sáng mỏng manh lọt vào.
Rồi, chờ đôi ba ngày sau mới lại cho đục khoét to thêm ra một chút nữa, mục đích rót thêm ánh sáng vào. Và cứ như vậy tiếp tục cho ánh sáng dần dần nhiều hơn, mãi đến khi đôi mắt ta có thể chịu đựng được như mọi người bình thường mới thôi.
- Cần gì phải như vậy. Thầy có thể để cho họ mang ra ngay sau khi đúng thời hạn. Làm như Đại Sư có vẻ sao sao ấy.
Nhà sư họ Ngô mỉm cười lắc đầu:
- Nếu bị mang ra bất thần theo như ý của chú thì người ẩn mình trong thạch cốc ấy sẽ bị mù ngay tức khắc. Đó là một điều dễ hiểu, vì khi ở trong bóng tối lòng đồng tử bị nở to ra khi gặp phải ánh sáng đột ngột chiếu đến, khiến lòng đồng tử của người ẩn cư trong thạch cốc lúc bấy giờ không kịp thời thu nhỏ lại.
Nói đến đây, nhà sư bật cười:
- Giả dụ ngày ra xuất cốc mà có chú đứng đón ta ắt sẽ không khỏi giật mình trố mắt ra nhìn. Toàn thân ta trắng toát mà đầu tóc thì như băng tuyết phủ. Ta phải chà xát cả người, nắn bóp khá lâu, đồng thời tập co giãn chân tay để cho các gân cốt làm việc trở lại. Chú đừng ngạc nhiên và cho ta là cầu kỳ.
Thật ra chính vì ta không cử động trong một khoảng thời gian thật dài nên tay chân hầu như không còn hoạt động được nữa. Dần dà sức lực và toàn cơ thể ta khôi phục lại. Thế là ta bước ra khỏi cốc đá như những kẻ bình thường cùng chú tiểu đồng xuống núi và đến nơi đây, không ngờ lại được may mắn gặp chú.
Tôi cúi đầu suy nghĩ, trong những năm tháng dài sống trong bóng tối, khiến thị giác của vị Đại Sư này cảm thấy không còn cần thiết nữa. Ông có thể nhìn thấy mọi vật trong bóng đêm vừa bằng nhãn lực và cũng vừa bằng cảm quan phát xuất từ trong tiềm thức!
Nhưng, ánh sáng mà suốt thời gian dài ngài Đại Sư ẩn cư không cần đến đó sẽ trở thành một loại vũ khí cực kỳ nguy hiểm. Nó có thể làm cho nhà sư này bị tước đoạt hẳn thị giác.
Tốc độ của ánh sáng nhanh đến nỗi chẳng có một tốc độ nào khác đuổi theo kịp và cũng chẳng có một quyền phép nào điều khiển được nó.
Có lần nghe được lời giảng dạy của Minh Sư tôi có đề cập đến tốc độ ánh sáng, đối với khoa học vẫn còn chưa ai có thể đuổi theo, hoặc cầm nắm nó lại đó, nhưng với nhà tu hành cấp cao, có thể giam hãm lại và có thể biến đổi cả màu sắc nó.
Gần đây một nguồn tin AP được đánh đi từ Boston, theo các nhà nghiên cứu của Viện Đại học Kỹ Thuật Massachusetts qua các cuộc thí nghiệm đã phát giác ra rằng, khi sóng ánh sáng tương tác với một lực mạnh như lực của viên đạn đang bay, chúng có những phản ứng rất khác lạ.
Nhà vật lý Evan J.Reed, làm việc tại phòng thí nghiệm nghiên cứu điện tử của MIT, đã tiến hành các cuộc nghiên cứu hiện tượng kỳ lạ này và thấy rằng, khi cho sóng xung kích có cường độ mạnh đi qua tinh thể lượng từ ánh sáng, chúng có thể biến đổi màu đỏ sang màu xanh.
Những kết quả thu được từ thí nghiệm có thể ứng dụng cho lĩnh vực truyền thông và quang học điện tử. Thí nghiệm về sóng xung kích còn cho phép các nhà nghiên cứu có thể thấy phản ứng của vật chất trong môi trường chịu lực tác động lớn.
Chính vì không ai có thể đến gần tâm của trái đất nên thí nghiệm kiểu này sẽ giúp các nhà nghiên cứu thấy được sự thay đổi cấu trúc kết tinh của vật chất dưới nhiệt độ và áp lực cao.
Theo nhà vật lý Reed, kiểu thí nghiệm này không có gì đặc biệt nhưng cho đến nay vẫn chưa có nhà khoa học nào có thể tiến hành tương tự.
Qua thí nghiệm trên, các nhà nghiên cứu tại MIT cho biết họ có thể điều khiển được ánh sáng khi đưa sóng xung kích đi qua tinh thể lượng tử ánh sáng. Bằng cách giam hãm ánh sáng giữa mặt chuyển động của xung kích và bề mặt phản chiếu, tia sáng được đưa tới có thể bị ket lại tác các ranh giới của sóng xung kích.
Khi xung kích di chuyển qua tinh thể, độ dài sóng ánh sáng có thể thay đổi mỗi lần chúng tăng cường độ. Nếu sóng xung kích cùng chiều với ánh sáng, cường độ của ánh sáng sẽ mạnh lên, còn nếu nó ngược chiều thì cường độ ánh sáng nó sẽ giảm.
Nếu thay đổi cấu trúc của tinh thể, các nhà nghiên cứu có thể hoàn toàn điều khiển được cường độ tần số vào và ra khỏi tinh thể.
- Thưa Đại Sư, công phu của Đại Sư bỏ ra lớn lao đến như thế ấy có xứng đáng với thành quả của mình đạt được chăng ?
- Có, có chứ. Nhà sư họ Ngô nói với tôi. Xứng đáng lắm chú à! Nhờ đó mà ta thấu rõ nguyên tắc của đời sống, mục đích và hành động của bộ óc, sự ràng buộc giữa linh hồn và thể xác. Nhờ đó mà ta ngày nay được tự tại vô ngại.
Ta có thể xuất hồn để bay lên trên không trung, chẳng khác nào chú dùng phép nhiếp hồn để đi đây đi đó.
- Thưa Đại Sư!
Tôi lại hỏi.
- Ngài có tin chắc rằng những thành quả của Ngài vừa nói đó là sự thật hay là do đầu óc mình tưởng tượng mà ra? Hoặc giả, xin Đại Sư cho phép con được vô phép hỏi, liệu Ngài chắc chắn là mình không bị "tẩu hỏa nhập ma"?
Có điều con vẫn thắc mắc là tại sao Ngài không dùng phép nhiếp hồn mà đi đó đi đây, có phải vừa đỡ hại sức khỏe, đỡ khỏi mất thời gian mà còn an toàn khỏi bị nguy hiểm nữa!
Nghe tôi hỏi một tràng dài toàn những thắc mắc, Đại Sư Ngô Tử cười ngửa nghiêng, phát ra thành tiếng. Ngài cười đến chảy ròng ròng cả nước mắt. Cuối cùng đưa tay chụp vào bả vai tôi nói:
- Á há ! Hỏi, hỏi, chú cứ hỏi nữa đi! Chú chẳng khác nào ta lúc trước thắc mắc mãi và hỏi mãi không bao giờ biết chán. Nó như thế này chú ơi! Thoạt đầu ta cố khắc phục nỗi bồn chồn hốt hoảng.
Ta tự nguyền rủa cái ngày mình quy y. Ta còn nguyền rủa cả ngày ta nhập cốc. Nhưng, rồi dần dà ta theo lối quán tưởng tập hô hấp rồi nhập thiền tĩnh tọa, ngưng thần.
Ta cũng có những lúc nhìn thấy cảnh ma quái chập chờn, ẩn hiện trong đầu óc hoặc ngay trước mặt mình. Ta cũng có những giấc mơ hão huyền, mộng tưởng. Nhưng tất cả những sự kiện đó, ta đều biết là do tinh thần mình quá căng thẳng tạo thành và khi ta xả thiền thì tất cả những ảo ảnh, mộng mị đều tan biến mất.
Điều tôi nhận thấy tuy nhà sư Ngô Tử nói cả một thôi dài mà vẫn giữ được sự điều hòa của hô hấp, không có vẻ gì là mệt mỏi cả. Ngài vẫn tiếp ục nói:
- Cho mãi đến một ngày kia, ta cảm thấy người mình nhẹ hẳn đi, và tự cảm thấy như hồn từ từ thoát ra khỏi thể xác. Trong bóng đêm dày đặc tự nhiên ta nhìn thấy rõ như ánh sáng ban ngày. Ta cúi xuống nhìn thể xác mình, rõ ràng là đang tham thiền tĩnh tọa.
Rõ ràng, mắt mình đang mở ra như thể đang nhìn về một phương trời xa xăm nào đó. Ta cũng nhìn thấy cả làn da ta quá xanh xao và cả thân hình thì gầy đi hẳn.
Ta lửng lơ bay xuyên qua những rặng núi từ thấp đến cao, có những lúc quá hứng khởi ta lại bay lên tận đỉnh núi cao quanh năm tuyết phủ Không khí nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn thật mát mẻ, trong lành. Ta nhìn xuống cả cánh đồng La Sa xanh mướt, mênh mông, rộng lớn.
Ta nhận thấy ở đất Thánh Tây Tạng này ngày nay có nhiều thay đổi. Ta cũng nhìn thấy cả những người đã quen biết từ trước, những người quen ở vào một thời gian nào đó. Ta lướt nhẹ vào ngôi Đại tự. Nơi đây, ta bắt đầu dùng Thần Giao Cách Cảm để chuyện trò với Đức Lạt Ma đã cho phép ta được rời khỏi "cốc".
Ta là là bay khá xa đến một xứ khác du ngoạn. Cứ mỗi hai ngày ta trở về cốc để nhập lại vào xác thân mình. Chú ngạc nhiên và thắc mắc ư ? Chẳng có gì cả. Thật ra ta vẫn như mọi người khác.
Có nghĩa là ta vẫn còn sống tại thế gian này, còn phải nhờ vả cái thể xác này. Ta phải nhập trở lại vào trong cái vỏ bằng da bằng thịt này để có thể cho nó ăn uống và dưỡng nuôi nó.
- Thưa Đại Sư! Tại sao Ngài không dùng phép "Nhiếp Hồn" để tránh khỏi phải tốn hao công sức?!
- Có rất nhiều người không có cơ duyên. Đâu có phải ai cũng như cháu cả! Chú đã nhờ trải qua bao nhiêu kiếp tu luyện nên kiếp này chú mới được giao phó một trách nhiệm đặc biệt.
Chú phải dùng đến "Linh Thân" chuyển động đến nhiều nơi xa xăm để thi hành Phật sự. Đa phần, như ta chẳng hạn phải dày công tu luyện đủ phúc, đủ duyên mới có thể thoát được hồn ra khỏi xác. Trong trường hợp cháu thì khác, lắm điều may mắn. Chú được thật nhiều duyên huyền linh hỗ trợ.
#11
Gửi vào 06/06/2011 - 22:01
CHƯƠNG NĂM
CON NGƯỜI BẤT TỬ
Nói đến đây, hơi thở của ngài Ngô Tử trông thấy có vẻ thiếu điều hòa. Trên mặt ngài lộ hẳn vẻ mệt mỏi. Mãi đến giây lâu sau ngài mới lấy lại được sức lên tiếng bảo:
- Thế cũng đã đủ cho cuộc gặp gỡ giữa hai chúng mình. Bây giờ thì cháu có thể rời khỏi nơi này. Xin lỗi cháu, ta đã mệt lắm vì đã nói quá nhiều. Ta mong rằng từ nay về sau, nếu cháu còn ở lại đây, thỉnh thoảng đến thăm viếng ta, mặc dù ta biết cháu hay tò mò muốn biết những điều huyền nhiệm ngay tại Hy Mã Lạp Sơn này, song ta lại cảm thấy là điều đó đã làm cho ta thích thú!
Dứt lời nhà sư Ngô Tử quay mặt về hướng khác. Tôi cúi đầu và khẽ cám ơn đoạn lặng lẽ bước ra khỏi căn phòng bé nhỏ này. Tôi vừa đi vừa nghiền ngẫm cuộc chuyện vãn vừa rồi đến độ không trông thấy cả bức tường chắn ngang phía trước mặt nên đầu bị va mạnh vào, đau muốn tắt cả hơi thở.
Khi ngang qua chánh điện thì cũng vừa lúc khóa lễ buổi chiều sắp chấm dứt. Các tăng sĩ ai nấy cũng muốn được về phòng nghỉ sớm. Nhà sư phát ngôn viên của Thiền Viện trông có vẻ đã luống tuổi còn đứng trên bục cao dùng tay đánh dấu trang kinh rồi mới ung dung bước xuống.
Góc bên kia có một cái bục cao vừa đủ cho ông giám thị có đôi mắt sáng quắc như thể đang toát ra hơi nóng sẵn sàng thiêu đốt các chú tiểu nào phạm vào qui điều của chốn thâm nghiêm, cái qui điều đó là sự nghịch ngợm và không chăm chú lắng nghe những lời giảng giải từ các Lạt Ma trên bục lễ đường.
Tuy nhiên ngay trong giờ phút này đôi mắt ông ta có vẻ hiền dịu và ấm áp hơn như ánh nắng của những ngày đầu xuân sau những tháng dài của tiết đông thiên giá rét.
Mấy chú tiểu cùng đi rập ràng tay đẩy đưa bình hương quanh một vòng cuối cùng trước khi thực sự giải tán. Trong lúc đó, toàn thể các người dự lễ cũng lục tục đứng dậy kéo ra bên ngoài rảo bước về phòng.
Nhưng bất thần một tiếng thét đâu đó vang lên như xé cả màng tai rồi tiếp theo một bóng người to lớn nhảy vọt lên qua đầu của các tăng lữ, chụp lấy tay chú tiểu đang cầm hai cây nhang trong tay. Hành động này đã khiến cho toàn thể mọi người đang hiện diện phải sửng sốt đứng dừng lại nhìn thẳng vào cái bóng người vừa xuất hiện đó.
Tôi cũng tỏ ra sửng sốt nhìn kẻ nào đó đã có hành động hung hãn như vậy. Thì ra, kẻ đang đứng trước mặt mọi người đó là một "thằng điên". Hắn vừa cầm hai cây nhang đang nghi ngút cháy từ tay của một chú tiểu rồi vặn mình nhảy múa.
Hắn đang trong cơn thác loạn, hết vặn người bên này, lại uốn éo bên kia, miệng mồm cũng cùng một hành động rập ràng như ông ta đang nhảy múa, có nghĩa là ông méo mó cái mồm mình theo cung cách của vũ điệu.
Nước dãi chảy ròng ròng ra hai bên khóe mép, đổ bừa bãi lên cả chiếc áo ông đang mặc trong người. Cổ ông ta nổi đầy cả gân, gồ lên và xanh rờn. Thỉnh thoảng từ trong cổ họng người này phát ra các âm thanh the thé tợ như ma hờn quỉ khóc.
Trước cảnh tượng xảy ra quá đột ngột này, các ông sư cảnh sát cũng đứng khựng lại vì không thể nào phản ứng kịp. Mấy nhà sư Chủ Tế cũng đứng trân người ra, há hốc cả mồm, đưa hai tay lên trời tỏ vẻ vừa kinh ngạc vừa thất vọng.
Cuối cùng không cần bảo nhau, các ông giám thị bất thần lao thẳng đến tóm lấy cổ ông ta đè xuống. Bị tấn công bất thình lình, người điên kia bị đè xuống không còn chống trả được đành nằm yên một chỗ.
Tuy vậy, ông ta không cần vận dụng về sức lực tay chân mà bằng những lời văng tục, mà xưa nay giới tu hành tại đây chưa bao giờ nghe nghe thấy! Mọi người cố hè nhau ấn mạnh đầu ông ta xuống, dùng tay bịt mồm kẻ điên loạn này lại, không để cho những lời lẽ phàm phu còn tiếp tục tuôn ra nữa. Họ lấy áo phủ lên đầu đoạn nhấc bổng ông ta lên khiêng ra khỏi chùa.
Chúng tôi hiếu kỳ chạy theo ra để được nhìn tận mắt tên điên khùng này rồi cùng nhau mỗi người một lời bàn tán.
Tôi được một chú tiểu thạo chuyện ở khu Thiền Viện này cho biết:
- Đó là một nhà sư Nhật. Tên ông ta là Henji Tchkenchi (Cảnh Di Tề Cữu Chi). Ông ta đã từng đi nhiều nơi hay có thể nói là khắp năm châu bốn bể.
Một chú tiểu khác chen vào:
- Ông còn bảo là đi như vậy mục đích là để tìm "Chân Lý". Ông ta muốn đi kiếm tìm một người nào đó mang "đạo quả" đến trao tận tay cho mình, chứ không muốn tự mình phải khổ tâm tu luyện.
Tôi không khỏi thắc mắc, đầu óc tôi cứ phải nghĩ mãi về việc nhà sư Nhật này đi tìm chân lý mà không muốn phải khổ công tu luyện thì chẳng khác nào chuyện nằm ngửa dưới gốc sung để chờ sung từ trên cành cây rụng xuống miệng mình.
Về đến phòng tôi cảm thấy thân mình đã như yếu hẳn đi, không thể chống lại cơn lạnh đã xâm nhập vào cơ thể mình, run lên lập cập. Tôi vớ vội áo quần treo trong phòng quấn vào người và nằm xuống với tư thế co quắp như thân hình con tôm sú. Tôi chợp mắt và ngủ thiếp đi từ lúc nào không hay biết. Cho mãi đến khi nghe tiếng cồng từ thiền viện vọng lại báo hiệu buổi lễ sáng sắp sửa đến nơi rồi.
Mở mắt ra nhìn qua cửa sổ, ánh nắng đã bắt đầu le lói chiếu đến. Xuyên qua đỉnh núi ánh sáng mặt trời rực lên đủ màu sắc, chiếu xuống dòng sông phẳng lì như tấm gương, lấp lánh chẳng khác nào như những hạt kim cương đủ màu sắc. Tôi đi vội xuống hành lang hướng về phía thiền viện không khỏi lo sợ bị trễ buổi lễ sáng.
Sau buổi lễ, tôi gặp Minh Sư Minh Dà Đông Đạt. Ngài chăm chú nhìn tôi hỏi:
- Chiều qua chú đã nhìn thấy nhà sư Nhật Bản phải không ?
Tôi gật đầu:
- Thưa Minh Sư quả có như vậy.
- Đó là một nhà sư điên khùng. Chú nhận thấy như thế phải không?
- Vâng, thưa Minh Sư, quả ông ấy là một tên khùng đến độ khiến cho mọi người phải ghê tởm.
Thầy tôi mỉm cười:
- Ấy thế mà đối với chú sẽ không phải là hình ảnh đáng ghê tởm như chú đã nghĩ như vậy. Ta sẽ nói với chú về ông ta sau này.
- Tại sao Minh Sư phải nói với con về vấn đề ông ấy với con?
- Vì chú có cơ duyên với ông ta, mà không có ai ở đây được may mắn như chú!
Nói đến đây thầy tôi khẽ nhíu đôi lông mày lại, tiếp tục:
- Ta muốn nói với chú về con người ông ta, vì với chú là điều không thể tránh được.
Thầy bảo tôi ngồi xuống đối diện với Ngài. Tôi biết ngay câu chuyện Minh Sư sắp nói ra đây sẽ phải dài dòng... vì đó có thể là tương lai sự nghiệp của mình!
- Lỗ San! Có lẽ chúng ta phải dùng trà và bánh ngọt cho đỡ đói và làm cho tinh thần thêm sảng khoái. Có phải thế không?
Đến đây, Người chăm chú nhìn tôi đoạn bật cười thành tiếng.:
- Bánh họ sắp mang ra ngay. Chú thấy đói chưa?
Câu hỏi vừa dứt thì thấy một chú tiểu đã mang khay trà và bánh đi vào. Loại bánh mà chú tiểu mang vào thuộc loại bánh nhập cảng từ Ấn Độ mà tôi ưa thích nhất. Vì vậy, mà tôi ngấu nghiến ăn như kẻ bị bỏ đói lâu ngày, quên cả đang có sự hiện diện của thầy tôi bên cạnh!
- Cảnh Chi Tề Cữu Chi! Như chú biết.
Thầy tôi bắt đầu kể
- Ông ta là một nhà biện luận tài tình và khéo léo, từng đi du lịch nhiều nơi trên thế giới. Chú biết ông ấy đi làm gì không? Ông đi kiếm tìm "chân lý" đấy.
Thật là nực cười, "Chân lý" đang ở ngay trong chính người ông ta, thế mà chẳng hay biết cứ đi lang thang tìm hết nơi này đến nơi khác. Ông ta là một nhà có kiến thức cao rộng, đọc và nghiên cứu rất nhiều loại sách các tôn giáo.
Có thể nhà sư Nhật Bản này đọc gần hết các loại kinh kệ về mọi tôn giáo ở các quốc gia trên thế giới để tìm cho ra cái "chân lý" mà ông từng mơ ước đó. Ông cũng đã từng đi tìm con "Long Mã" mà vua Phục Hy đã nhìn thấy tại dòng sông Hoàng Hà.
Đó là con vật kỳ quái đã được huyền sử Trung Hoa mô tả là nó đã mang trên lưng một chiếc "bát quái" có tám dấu, mỗi dấu có ba hàng bố trí đối xứng quanh một vòng tròn nửa đỏ, nửa đen. Vậy chú đã có lần nào nghe đến con Long Mã này chứ?
- Vâng, con có nghe qua, nhưng không thể nào hiểu nổi cái huyền diệu của nó!
- Nó có ba mươi vẩy đen hình vuông sát bên hai mươi lăm vẩy khác hình tròn, màu trắng. Nó giúp tạo thành hình xen kẽ trắng, đen. Chính hình này tạo thành ba hình đồng tâm vuông vức.
Hoàng Đế biết đó là điềm trời phát xuống hạ giới bèn ghi lại những ấn dấu đầy huyền bí này.Ví như sự huyền nhiệm nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn mà chúng ta đang sinh sống.
- Thế thưa Minh Sư, còn chuyện con Thần Quy như thế nào?
Ngài nhìn tôi đoạn nói:
- " Hoàng đế Đại Vũ, một ngày kia đi du thuyền thấy một con rùa thần nổi lên trên dòng sông Lạc. Con rùa thần này mang trên lưng nó hai hàng chấm đen, trắng, tạo thành một hình vuông ở bốn góc.
Mỗi góc có hai mươi chấm đen hợp thành một chuỗi toàn những số chẵn: hai, bốn, sáu, tám. Bên cạnh đó thì có hai mươi chấm trắng cũng ở bốn cạnh hình vuông.
Các con số này cũng hợp thành một dây số lẻ như: một, ba, năm, bảy, chín. Toàn thân con rùa đều có ý nghĩa, như mai tròn nơi lưng tượng trưng cho Trời, còn hình vuông ở dưới biểu trưng cho Đất.
Người ta có thể nhìn nơi các hình ở vẩy của nó để tìm hiểu những lời tiên tri hàm chứa các sự nhiệm mầu bên trong đó.
- Thưa Minh Sư còn sáu mươi bốn ký hiệu mà con đã từng nghe nhắc đến là điều gì?
- Phục Hy đã tập hợp tám dấu trước tiên do rồng thiêng dâng lên cho Ngài ở sông Hoàng Hà, tạo nên sáu mươi bốn ký hiệu mà mỗi ký hiệu có sáu hàng chữ.
Mãi đến đời Văn Vương tức là phụ hoàng của Võ Vương, các nhà bói toán coi đây là loại sách "thần" có thể thông đạt được Trời Đất. Theo sách "Kỳ Môn Ngữ Tổng Quy" thì con Long Mã thân cao tám thước năm tấc.
Xương cổ nó dài, cánh bên phải nhúng nước không thấm ướt, bên trên có bức cổ đồ. Nó xuất hiện trên dòng sông Mạnh Hà, người đời lúc bấy giờ còn gọi là dòng sông Mạnh Độc. Nhưng đó là chuyện dài dòng, về sau tự khắc chú sẽ rõ.
Nói đến đây, thầy tôi châm trà cho tôi mời tôi cùng cạn chén:
- Chú cần có nhiều sức để đón các sự thể khác từ bên ngoài đưa đến. Chú có biết Akaska không ?
Tôi lắc đầu:
- Con chưa từng nghe nói đến.
- Nhà sư Nhật Bản có lần đã tiết lộ cho ta hình thái nguyên thủy của nó. Tất cả những hình ảnh trong Vũ Trụ này đều được cấu tạo đều từ Akaska mà ra.
Nó hình thành Mặt Trời, Mặt Trăng cùng tất cả các vì Tinh Tú, con người chúng ta và luôn cả muôn muôn loài muôn vật trong vũ trụ bao la cùng khắp này.
- Vậy thưa thầy, nó có ngay ở trước mắt ta không? Tôi tò mò hỏi với cái ước vọng hoang tưởng của tôi bất thần nẩy ra từ trong đầu óc mình.
- Không. Nó rất vi tế. Người ta chỉ nhận thấy nó dưới dạng được cô đọng lại trong các hình thể vật chất hiện đang vây chung quanh ta mà thôi. Nó biến biến hóa hóa khôn cùng. Nó từ cái không biến ra cái nguyên thủy.
Cái nguyên thủy đó là Akaska, như ta đã nói. Cái Akaska đó không thể nào nhìn thấy qua kinh hiển vi chứ đừng mơ tưởng là mắt thường cũng có thể trông thấy được.
Nó cũng chuyển hóa như Vũ Trụ qua mỗi chu kỳ, như con người từ trong lòng mẹ sinh ra, lớn lên, già nua rồi chết để rồi trở lại với cái sinh ra, lớn lên và cuối cùng cũng buông tay nhắm mắt.
Chẳng khác nào trong cái vòng lẩn quẩn! Cái Akaska nó huyền vi như vây. Con người nhắm mắt, tắt hơi thở, đâu phải là chết hẳn, vĩnh viễn xa lánh cuộc đời! Mà nó vẫn còn mãi mãi tồn tại qua một hình thức khác.
Vậy cái cát bụi vị tất đã là cái cuối cùng của các vật thể ở giữa thế gian này. Thế có nghĩa là nó sẽ tiếp tục đi vào cái vòng lẩn quẩn! Có phải thế không, Lỗ San?!
Thầy tôi tiếp tục nói lên điều kỳ diệu của cái thăng hoa và siêu phàm của con người trên quả đất này.
- Như ta đã giảng giải cho chú biết về chất liệu nguyên thủy của AKASKA , là hình thái nguyên thủy của chất liệu phổ biến phát sinh từ cái không ra có. Nó biểu trưng cho những sản phẩm của một sự tổ hợp phát xuất từ AKASKA mà ra.
Theo các nhà tư tưởng Ấn Độ cho đó là đầu mối tạo dựng ra Mặt trời, Mặt trăng, và hàng hà sa số các vì tinh tú cùng tất cả muôn loài muôn vật đang hiện hữu cùng khắp trong vòm trời bao la này.
Hay nói một cách khác nó là hiện hữu và bất biến tràn ngập khắp không gian vũ trụ, nó xuất hiện, biến đi và ngược lại nó lại xuất hiện theo đúng chu kỳ dài dặc của nó vô cùng vô tận!
Cái AKASKA mà ta giảng giải cho chú là nguyên thủy của sự chuyển hóa ra vũ trụ hiện hữu này.
- Vậy thưa thầy còn PRANA mà có lần con nghe một vị trụ trì nói đến cái nhiệm mầu của nó. Vậy thì cái PRANA đó có tác dụng gì ?
- Prana cũng chẳng khác với Askaka, vì cả hai đều là cái vô cùng, mà cũng là mối đầu của hai mối Âm Dương, rập ràng biến hóa! Nó ở khắp cùng mọi nơi và đời đời kiếp.
Ai làm chủ được PRANA thì có thể chế ngự và điều khiển được cả thể xác lẫn tinh thần của mình và luôn cả của kẻ khác.
Tôi tò mò hỏi:
- Thưa thầy, tại sao lại đạt được đến mức thượng thừa như vậy ?
- Nhờ thị hiện được khái quát hóa của năng lượng.
- Như các người luyện YOGA! Có phải thế không thưa Minh Sư ?
Thầy tôi gật đầu:
- Đúng như vậy. Những người luyện được Yoga là họ có thể chế ngự được Prana trở nên toàn bích luôn cả toàn năng và toàn tri nữa.
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
- Chẳng lẽ phi thường đến như thế sao ?
Người gật đầu khẳng định:
- Đúng. Nó thật phi thường ngoài cả sức tưởng tượng của con người.
Tôi miên man suy nghĩ, có lần tôi được chú Sĩ Cát giảng giải về các cung cách chữa bệnh của những bậc được xem như các nhà tiên tri như chữa bằng "đức tin".
Bằng tinh thần, từ những nhà thôi miên hay thông thiên học, họ có thể điều động luồng điện lực từ xa phóng lại để điều trị của những con bệnh sống cách xa từ hàng ngàn vạn dặm. Người nhìn tôi mỉm cười đáp lại:
- Chú Sĩ Cát của chú không sai. Họ không phải trải qua một khóa học nào mà chỉ nhờ tình cờ khám phá ra được phương pháp trị liệu như vậy. Họ không biết một tí nào về Prana như ta đã giảng giải cho chú nghe. Điều này có dịp ta sẽ dẫn giải để chú được rõ thêm hơn.
Tôi nhớ lại có lần Minh Sư nói về câu thần chú "Án Ma Ni Bát Mê Hồng" nhưng tôi chưa hiểu rõ được căn nguyên của nó, bèn lên tiếng yêu cầu thầy tôi giảng giải lại:
- Thưa Minh Sư câu "Án Ma Ni Bát Mê Hồng" có đúng là câu thần chú không?
- Đó là câu thần chú mà trong dân gian Tây Tạng của chúng ta thường niệm lên để đuổi ma quỉ. Theo truyền thuyết là do Bồ Tát Quán Thế Âm dành cho nhân dân Tây Tạng.
Câu thần chú gốc chữ Sanskrist này được ghi là Aum Mani Padme Hong. Vậy Mani cho ta thấy nghĩa của nó là ngọc báu, Bát Mê là hoa sen, còn tiếng Hong thì giữ nguyên dạng của chữ Sanskrist.
- Thưa Minh Sư, trong lời giải thích của Minh Sư, con không thấy Minh Sư đề cập đến chữ Aum, vậy tiếng Aum ấy nó có nghĩa hay không ?
- Có chứ ! Aum là Án tức là âm linh thiêng của Ấn Độ giáo và Bà La Môn giáo. Trong Phật giáo Mật tông các câu chú cũng thường bắt đầu bằng âm Aum. Từ này tùy theo lối phát âm không giống nhau, như Việt Nam thì gọi là Úm, Trung Hoa thì đọc là Án, tiếng Phạn là Aum.
Nói đến đây thầy tôi cười nói tiếp:
- Hôm nay chúng ta mạn đàm có hơi nhiều. Hãy tạm nghỉ dành cho ngày khác. Bây giờ chú có quyền dùng thời gian rỗi rảnh để đi ngao du cho thơ thới tinh thần.
Một hôm tôi gặp lại nhà sư từng ẩn tu trong thạch cốc. Lần này nhà sư đề cập đến trường hợp của không ít nhà sư tham thiền và viên tịch luôn bên trong cốc đá.
Thân xác của các vị sư tu trong thạch cốc này vẫn giữ được nguyên vẹn, thỉnh thoảng có cả những nhà sư viên tịch từ lâu bỗng dưng người ta phát hiện đầu tóc mọc lại!
Trường hợp này ngày nay vẫn còn xảy ra như một nhà sư Thái Lan sau khi tham thiền nhập định đã để lại nhục thân gần hai mươi chín năm mà chẳng hề bị hủy hoại.
Câu chuyện này đã được loan báo trong thời gian gần đây, giữa những năm đầu của thế kỷ 21 này, nói về một nhà sư sau 29 năm không hề được bảo quản, nhục thân nhà sư Thái Lan Samatha Kittikhun vẫn khô ráo và còn nguyên vẹn cả nội tạng. Được biết nhà sư đã nhập diệt sau một thời gian dài tham thiền nhập định.
Khác với các quốc gia có nền văn minh cổ đại như Ai Cập cổ muốn giữ được xác của người chết được dài lâu, họ phải chuẩn bị kỹ lưỡng nhục thân trước khi mang đi ướp. Người Peru thì bảo quản xác ướp tự nhiên bằng cách chôn vùi trong cát khô.
Tại Á Châu, vẫn còn thấy những vị thiền sư Phật giáo sau khi viên tịch còn để lại thi thể nguyên vẹn. Như tại Việt Nam trường hợp này cũng từng xảy ra, nhục thân của vị thiền sư pháp danh là Đạo Chân tục danh là Vũ Khắc Trường còn giữ được nguyên vẹn cho đến nay vẫn không suy suyển, đang được thờ tại chùa Pháp Vũ hay gọi là chùa Đậu nay là thôn Gia Phúc, cách Hà Nội lối 23 cây số ngàn về phía Nam.
Nhà sư Thái Lan đang làm cho cả thế giới xôn xao không ít về xác thân của ông vẫn còn nguyên vẹn mang tên là Phra Khru Samatha Kitthikhun, nguyên trụ trì chùa Khunaram. Sinh quán của ông tại Koh Samui,thuộc tỉnh Surat Thani.
Ông sinh năm 1894, vào chùa tu năm lên 20 tuổi. Trong vòng sáu tháng sau ông xin trở lại sống với đời sống dân giả, cưới vợ, sinh được 6 con. Nhưng sau khi ông gầy dựng dựng được tài sản để lại cho vợ con, ông quay trở lại Cửa Thiền vào năm 1944 tiếp tục tu hành.
Lúc bấy giờ ông đã được 50 tuổi theo học tham thiền với nhiều vị sư nổi danh ẩn thân tại các nơi hoang vắng. Ông có đặc tài ngồi thiền suốt cả thời gian 15 ngày liên tục không ăn, không uống! Ông qua đời trong lúc ngồi tham thiền. Đó là ngày 6 tháng 5 năm 1973.
Theo lời các người thân thuật lại thì nhà sư biết trước ngày giờ viên tịch của mình, căn dặn những người chung quanh: "Nếu xác thầy thối rữa thì hãy mang chôn đi! Còn nếu không hề hôi thối thì liệm vào chiếc quan tài bình thường để cho các thế hệ mai sau chiêm ngưỡng, hầu tìm đến con đường giải thoát như ta".
Hai mươi chín năm sau xác thân nhà sư Samatha Kittikhun trở thành đối tượng cho các nhà nghiên cứu Jerry Conlogue và Ron Beckett là hai giáo sư của trường Đại học Quinnipiac ở Hamden thuộc bang Connecticut, Hoa Kỳ. Hai vị giáo sư hoàn toàn bất ngờ khi tiếp xúc với nhục thân của nhà sư Thái Lan. Hai ông mô tả đó là một người chết khô trong tư thế nhập định, mang kính râm, ngồi trong lồng kính.
Theo sự nhận xét của của giáo sư Beckett thì xác hoàn toàn khô ráo và không có lấy dấu hiệu gì cho thấy có dùng kỹ thuật bảo quản cho xác giữ cho được lâu dài. Có điều kỳ lạ đặc biệt hơn nữa là không hiểu trong thời tiết nóng và ẩm ướt như ở Koh Samui, tại sao xác thân của vị sư này không bị ảnh hưởng?
Được sự chấp thuận của các chức sắc cao cấp trong chùa Khunaram, hai ông có quyền tiếp xúc với xác chết bằng mọi cách. Họ yêu cầu được chụp quang tuyến X và mở nắp lồng kính che trên quan tài để được quan sát rõ ràng liệu có những điều gì bí mật nơi xác chết của nhà sư tịch diệt Thái Lan này hàng hai chục năm hơn hay không?
Cả hai nhà nghiên cứu đều tỏ ra vô cùng kinh ngạc là nội tạng của nhục thân lâu năm như tim, phổi, ruột, gan đều còn nguyên vẹn, không hề bị vi khuẩn tấn công dù chỉ ở mức độ tối thiểu đi nữa.
Thông thường, sau khi chết thì các cơ quan thuộc nội tạng phải teo đi, nhưng với nhà sư thì hoàn toàn không hề chẳng thấy có dấu hiệu nào bị teo đi hay bị hủy hoại.
Một ngày kia trong một dịp khác tôi trở lại chuyện của nhà sư Nhật Bản bị xem như điên loạn mang ra hỏi thầy tôi.
- Như ta đã nói với chú nhà sư Cảnh Di Tề Cưu Chi là một nhà biện luận giỏi dắn, khéo léo. Hình như điều này đã có lần ta đã bảo với chú, phải không?
- Vâng, thưa Minh Sư con nhớ.
- Ông ta đã đi du lịch khá nhiều nơi trên thế giới để tìm kiếm "chân lý", trong lúc đó "chân lý" thật sự đang ở trong người ông.
Ông ta bị điên loạn không phải vì thất chí, vì bị xúc động mạnh hay bị mất mát điều gì mà vì ông đọc quá nhiều những tư tưởng chống đối nhau thành ra tinh thần ông bị xô bồ, hỗn loạn.
Do đó mà "Nhân Thể Quang" bị nhiễm tà khí làm vẩn đục đi cái trong sáng của nó. Nhà sư này đọc thì nhiều song thu thập lại chẳng bao nhiêu, khiến thân tâm bị khích động, ý nghĩ lệch lạc và cuối cùng tai hại thay lại bị "tẩu hỏa nhập ma". Kiến thức cứ bị dồn nén quá nhiều trong đầu óc, song tiêu hóa lại chẳng bao nhiêu. Có thể nói đầu óc của ông ta bị bội thực.
Tôi ngắt lời hỏi lại:
- Nói như vậy chẳng hóa ra thầy thấy việc học bằng sách là không tốt hay sao?
- Không! Ta không có ý nói như vậy. Lỗ San à! Ta chỉ nói, chúng ta không nên đọc quá nhiều các sách nghiên cứu về Ma giáo hay Tà giáo. Tất cả những sách dạy ta về các phép thuật huyền bí đều hoàn toàn không tốt. Người đọc và nghiên cứu về tà ma chỉ đầu độc linh hồn mình mà không làm sao tránh khỏi mọi ám ảnh độc hại được.
- Thưa thầy, nếu bị lỡ lầm như vậy, ta làm thế nào để thoát khỏi cái nghiệp chướng đó?
- Hãy trở lại với sự hiền lương của tuổi thơ, mới mong tự mình giải thoát lấy được.
- Con vẫn chưa hiểu làm sao đọc sách không đúng phương pháp và chọn đúng nội dung của nó lại trở thành điên loạn?
- Đó là cả một chuyện dài dòng! Ở trên quả đất này chúng ta chẳng khác nào như những vật chơi có những tế bào và những luồng điện năng với các tốc độ rung chuyển trong thân thể ta một cách thật gắn bó.
Nó đâu có khác nào như những chiếc máy thu thanh nhận được các làn sóng điện trên khắp thế giới. Bộ óc của chúng ta chẳng khác nào như những máy thu thanh có thể nhận được những tin tức hoặc mệnh lệnh hay những chỉ dẫn của "linh thần" qua một siêu tần cao rồi chuyển đến một siêu tần thấp hơn thích hợp với cái xác thân để điều khiển mọi hoạt động...
Bộ óc của con người là một cái máy điện tử có chứa hóa chất. Phản ứng của hóa chất có thể đưa đến những sự hoạt động sai lầm tai hại. Tâm trí của chúng ta có thể chịu một phần trách nhiệm, có thể tự có những ý kiến và định đoạt để lấp bằng cái lỗ hổng nếu có giữa những hoàn thiện tuyệt hảo của "linh thần" với những điều kiện khó khăn ở trái đất.
Tôi ngắt ngang lời thầy tôi hỏi:
- Vậy, thưa thầy người Tây phương có chấp nhận lý thuyết điện năng ở bộ óc của con người không?
- Có! Có chứ ! Có những bệnh viện họ có máy đo "óc" ghi lên đồ bảng và mang đi nghiên cứu có thể biết được bệnh nhân đó bị mắc bệnh tâm trí hay không?
- Thưa thầy, nhà sư Nhật đó, có phải thật sự điên hay chăng?
Không đáp lại câu hỏi này, Ngài đến cầm lấy tay tôi lên tiếng có vẻ gấp rút:
- Đi, đi ngay, Lỗ San! Chúng ta đến gặp ngay ông ta. Bình thường ông ta ăn nói khôn ngoan lắm. Rồi chú ắt thấy và ta mong rằng chú sẽ không còn thắc mắc nữa.
Minh Sư Minh Đà Đông Đạt vừa nói vừa bước ra bên ngoài. Tôi lặng lẽ lẽo đẽo theo sau.
Người đi dọc theo hành lang, xuống tầng dưới thẳng đến khu nhà ngang nơi có nhiều căn phòng dành riêng cho các bệnh nhân nằm điều trị. Chúng tôi đến cái gác xếp, không lớn không nhỏ, cửa sổ trông ra Khatilinga, tại đây một nhà sư đang ngồi trên cái ghế mây, vọng mắt nhìn nhìn ra ngoài trời.
Khi nhìn thấy Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt, ông vội vàng đứng lên chắp tay cung kính cúi đầu thi lễ:
- Đạo hữu không nên quá khách khí, xin hãy tự nhiên. Thầy tôi nói. Hôm nay tôi đưa đến đây một chú "tiểu" trước là ra mắt sau nữa để được nghe những lời lẽ tốt đẹp nhất của đạo hữu dạy bảo. Chú tiểu này được đặc biệt huấn luyện theo lệnh của Ngài Tối Cao Lạt Ma, tất nhiên là đủ trí thông minh để hiểu biết được những điều gì đạo hữu giảng giải!
Nói xong thầy tôi chào từ giã nhà sư đoạn bước thẳng ra bên ngoài. Đợi cánh cửa khép kín lại, ông ta mới bắt đầu nhìn tôi mỉm cười, đưa tay chỉ chiếc ghế mây đặt đối diện:
- Chú cứ ngồi tự nhiên. Bây giờ chúng ta hãy xem nhau như đôi bạn, một già, một trẻ!
Đợi tôi ngồi xong xuôi,ông ta mới bắt đầu lên tiếng hỏi:
- Chú tên là...
Không đợi nhà sư Nhật này nói dứt lời, tôi đã đáp ngay lại:
- Thưa, con tên là Lỗ San!
Tôi vừa lễ phép đáp vừa lưu ý từng hành động của ông ta, mục đích là đề phòng rủi ro bị nhà sư nổi hứng lên cơn ắt không thể tránh khỏi tai họa oan uổng!
- Này, chú tiểu của ta ơi! Nhà sư điên này bắt đầu đi ngay vào vấn đề mà tôi hằng tìm hiểu. Điều đầu tiên ta yêu cầu chú là đừng bao giờ để cho đầu óc còn trắng trong của chú bị nhồi sọ bởi ba thứ sách vở nói về phép lạ với huyền bí.
Đó toàn là những chất béo khó tiêu hóa, làm cản trở không ít sự tiến hóa của loài người. Ta đã nghiên cứu đủ các loại tôn giáo và tìm hiểu bất cứ điều gì về phù thủy, quỷ thuật, về phép lạ và tà ma.
Tóm lại những điều mà con người còn băn khoăn chưa tìm hiểu được thì ta đã nghiền ngẫm và biết đó là những cái gì mà người xưa từ bao nhiêu thiên niên kỷ đã cố tình làm ra vẻ bí mật để che dấu ta.
Nói đến đây, nhà sư này đứng lên đi về phía cửa sổ tì tay lên mấy chấn song như tuồng để suy nghĩ điều gì. Không biết mất trong bao nhiêu lâu, song sau đó thì nhà sư từ từ quay lại ngồi vào chỗ cũ tiếp tục giảng giải:
- Ta cứ tưởng với mớ kiến thức kếch xù đó mình sẽ đạt được đến đỉnh cao vô địch, sẽ trở thành một người quán thế, không còn kẻ nào có thể so sánh kịp! Nhưng có ngờ đâu, chính cái ấy đã đầu độc ta, làm lý trí ta bị đen tối, làm cho ta lúc nào cũng cứ nghĩ mình là Đấng có đầy đủ quyền uy bao trùm khắp cả thế gian này!
Kể từ dạo ấy, bộ óc ta hoàn toàn bị bại hoại, nhiều lúc không còn tự chủ được khiến ta lang thang như những oan hồn lạc lõng.Thú thật với chú, cho đến ngay trong giờ khắc này, giờ phút mà ta còn tỉnh táo, đang ngồi trước mặt chú, hiểu biết chú không cần qua sự giới thiệu, rằng là...chú là ai, tại làm sao chú đến đây và đến để làm gì.
Nhưng, điều mà ta có thể thông báo cho chú biết, đằng sau của con người mà chú đang đối diện còn có hình ảnh của một kẻ điên dại, nó hiện thân của một con thú dữ, có cơ nguy đem lại cho chú nhiều điều phiền toái!
Hy vọng rằng chú sẽ không bị mệnh hệ thế nào, xin các Đấng Linh Thiêng hộ phù cho chú nếu rủi ro gặp phải điều gì không tốt lành! Ta thành thật khuyên chú đừng nên tò mò đọc bất cứ một loại sách vở nào xét thấy không có lợi gì cho trí tuệ mình.
- Thưa thầy, có đọc mới biết, còn nghe thì chỉ có tin hay chẳng tin mà thôi.
- Tin là một đức tính tốt, mà các tín hữu hay các con chiên cần phải có, nhưng ta muốn chú phải tìm hiểu cái biết. Chỉ có cái biết mới mong tránh được những thảm họa. Sách in ra không nguy hiểm, nhưng tư tưởng và lời lẽ của nó có thể bị độc hại!
Nó chẳng khác nào như tất cả loại thực phẩm, người ta không thể ăn được tất cả mọi thứ, không thể pha trộn lẫn lộn các thức ăn không hợp với nhau để tự mình làm sức khỏe mình có cơ nguy suy sụp! Đọc sách đâu có khác gì như vậy!
Đọc sách lành thì ảnh hưởng điều thiện, nâng niu sách xấu trong người ắt không thể nào tránh những hành vi tội lỗi! Vậy ta khuyên chú không nên đọc các sách có nhiều lời lẽ hứa hẹn mang lại cho ta những phép mầu huyền bí.
Chính những loại sách này sẽ đầu độc đầu óc chúng ta, khiến không còn tự chủ được. Như ta đây chẳng hạn, ta biết mình đang hành động gì trong lúc ấy, nhưng không thể nào tự chế được!
- Thưa Đại sư đã từng đi chu du trong thiên hạ?
Nhà sư Nhật nhìn tôi chằm chặp không chớp mắt:
- Ta sinh ra trong một ngôi làng nhỏ tại đất nước Phù Tang. Lớn lên theo học ngành Thông Thiên Học. Ta cũng đã học qua nhiều lý thuyết tôn giáo và từng luyện tập các môn thuộc "thần bí học". Ít lâu sau đó ta được sự khuyến khích nên đi ra ngước ngoài ở ngay bên kia bờ Đại Dương để tìm tòi học hỏi thêm.
Suốt năm mươi năm trường ta đi từ xứ này qua xứ khác, lục địa này đến lục địa kia, luôn luôn tìm tòi các môn học mới mẻ toàn là những phép lạ ngoài sức tưởng tượng của ta.
- Thưa Đại sư, có thể cho con biết đó là những phép lạ gì không?
- Đủ các loại, như phép lạ do đoàn Âm Binh tận trên từng tinh tú kết hợp, chính phép lạ này đã nhiều phen xâm phạm đến "Ngân tuyến" của ta. Sau này có dịp ta sẽ nói thêm cho chú biết điều này.
Ta nghiên cứu cả các thuật "Bói, Độn,Thuật số hoặc cả Tử vi, Nhân tướng học. Ta biết cả Mai Hoa Dịch Số, ta hiểu rõ về Tam Thế Diễn Cầm, về Lục Nhâm Đại Độn. Ta có thể tự hào thành thạo cả Bát Quái, thông hiểu cả Phong Thủy, cũng như Trạch Cát, Tinh Tượng...
Có điều cái mà ta đam mê nhiều nhất về Quyền mưu quỉ bí, Ảo thuật, Ma phương, Cửu cung, Hồng phạm khiến trí óc ta nhiều khi như trăm mối tơ vò, lẩn quẩn mãi không thể tìm ra lối thoát.
Và cũng như lần trước, nhà sư đến nơi cửa sổ đứng yên lặng tì tay vào song sổ nhìn ra bên ngoài lẩm bẩm điều gì tôi không nghe rõ. Sau đó, ông ta từ từ quay lại đến ngồi xuống nắm lấy tay tôi:
- Ta học cả Kinh dịch, cả Thái ất Thần kinh, nhưng ta vẫn còn cảm thấy chưa đủ. Thế là ta sang Ấn Độ tìm các môn phái Thiền học tĩnh tọa! Nơi đây ta học Yoga, đó là môn Thiền ra đời từ mấy ngàn năm trước.
Ta bắt đầu say mê với các môn phái mới mẻ mà ta vừa khám phá được, nó đã đưa con người đạt đến mức thâm sâu nhất của tư tưởng, đạt đến chốn quyền năng thượng thặng.
Lúc bấy giờ ta mới nhận thấy mình vẫn còn kém cỏi đối với sự hiểu biết của các thánh nhân từ ngàn xưa lưu lại.
Ta bắt đầu học hỏi nghiên cứu. Thì ra con người có nhân duyên nhân quả, mới mong đạt được đến Bát Thức và Vô Lượng Thức, chỉ đến khi ấy mới hy vọng hòa đồng với Vũ Trụ bao la, và với cả cái Vô Hình Vô Ảnh.
Khi mà ta đã thông suốt và luyện được các bí quyết thâm sâu đó, thì cơ thể này trở thành nhẹ nhàng như mảnh lông hồng không còn cái gì có thể lôi kéo lại được!
Đến lúc đó ta có thể thoát khỏi sức hút của trọng lực trái đất, bay thẳng lên cao đúng theo cung cách của các nhà Fakir, điều khiển được muôn vật, muôn hình quanh ta bằng luồng điện trí năng và cả bằng linh giác.
Nhận thấy tôi còn bán tín bán nghi về những lời ông vừa nói, nhà sư này gật đầu nói lên lời xác quyết:
- Có thể là chú chẳng mấy tin những lời ta vừa nói. Ta cho chú biết đó là sự thật. Chú hãy xem đây.
Nói xong, nhà sư Nhật Bản này ngồi với tư thế tĩnh tọa, hai tay chắp ngay trước ngực, mắt nhắm nghiền, mặt nhìn thẳng ra phía trước. Và không bao lâu sau đó thân hình nhà sư từ từ nhấc lên, cao dần, cao dần cho đến khi cách mặt đất nơi tôi ngồi hơn hai thước.
Tôi vô cùng ngạc nhiên, không dám rỉ hơi nói ra lời nào, sợ làm mất đi không khí tĩnh lặng có thể mang đến sự rủi ro cho ông ta!
Nhưng, cũng chỉ sau đó không bao lâu, nhà sư Nhật từ từ hạ xuống, mở choàng mắt ra, nhìn tôi, gật đầu chào, như tuồng Người mới đi đâu trở về gặp lại.
- Đây là một môn thuộc hàng tối cao của nền văn minh cổ đại. Ta tưởng thế giới văn minh ngày nay không thể nào bỏ qua một di sản vô cùng quí báu mà những Thiền giả từ ngàn xưa lưu truyền lại.
Nó không phải là việc làm vô ích, nếu người sử dụng nó làm điều có ích lợi cho nhân quần xã hội! Từ đó ta lại đi khắp cùng trong thiên hạ, từ lục địa này đến lục địa kia, luôn luôn tìm hiểu các môn học mới. Ngoài sự tìm tòi học hỏi về các môn học thần bí, ta cũng còn nghiên cứu về nghệ thuật siêu nhiên.
Các nghệ thuật mà ta tìm hiểu, trước tiên là nghệ thuật ban sơ của con người, nó có ý nghĩa gì, nó có mang nhiều chức năng khác như siêu nhiên chẳng hạn! Ta tin một cách tuyệt đối là từ hàng vạn vạn năm về trước, con người đã có một tiềm năng vô địch mà ngày nay khoa học vị tất đã sánh bằng!
Ta có lần gặp một người tiều phu tại chân núi Hy Mã Lạp Sơn này nơi giáp ranh với Trung Quốc và cũng luôn cả phần đất Ấn Độ nữa. Người tiều phu này không bàn luận với ta chuyện củi quế trong rừng sâu, mà nói toàn chuyện quyền năng, phép tắc.
Ông ta cũng không nói về vòng danh lợi của con người mà bàn toàn chuyện những hình ảnh nghệ thuật siêu nhiên tự ngàn xưa lưu lại. Ông ta quả xứng đáng là con người của nghệ thuật vị nghệ thuật.
Ông ta đưa ta vào từng hang động, chỉ nghe không thôi mà ta đã mường tượng như chính mình đang mò mẫm tìm những điều gì bí mật ở chốn nhân gian này! Nhưng nói đến đây, bất giác ông ta đứng vụt dậy:
- Tiếc thay, sắp đến giờ riêng tư của ta rồi. Chú không nên chần chờ ở lại đây nữa!
Không kịp để tôi bái biệt, nhà sư Nhật Bản này đã đẩy tôi ra rồi đóng sầm cửa lại. Điều này khiến tôi băn khoăn không ít! Mãi đến khi về phòng, tôi mang ra hỏi mới biết hàng ngày nhà sư ít nhất có một lần lên cơn như vậy!
Câu chuyện nhà sư Nhật nói về cuộc gặp gỡ giữa ông ta với người tiều phu nói về nghệ thuật lúc bấy giờ trùng hợp với các hình ảnh chạm trổ của người nguyên thủy tại trong các hang động gần đây như sau:
Những bức bích họa trong hang có ý nghĩa gì? Chúng chỉ đơn giản là "nghệ thuật vị nghệ thuật" hay còn mang nhiều chức năng khác? Các tiếp cận đa ngành có thể trả lời như sau:
Tháng 2 năm 1994, Jean Marie Chauvet cùng hai người bạn khác khám phá được các hang động ngay vùng Archède tại nước Pháp. Nơi đây họ hy vọng tìm được những bằng chứng của nên nghệ thuật lúc ban sơ của nhân loại, nhưng chưa thành công.
Tuy nhiên họ bắt đầu biết đến những hình ảnh được xem là tuyệt vời dưới đất của thời Đồ đá mới (40.000-10.000 năm trước); ngoài ra họ cũng tìm tòi và biết nghệ thuật tại Lascaux, Niaux cùng các địa danh nổi tiếng khác.
Nhưng cả ba người này đều tỏ ra vô cùng ngạc nhiên khi phát giác ra được trong một hang sâu nằm ngay dưới ngọn đồi bên dòng sông Archède, nơi đó còn hiển hiện dấu ấn của bàn tay con người. Theo họ nhận thấy đây là những bàn tay của những người thuộc thời cổ đại.
Họ nhìn thấy vô số hình ảnh được vẽ ra, hoặc được chạm trổ khá tinh vi tại các vách đá toàn là hình ảnh sinh động của các chú ngựa đủ cỡ, hoặc sư tử, hoặc bò tót, hay tê giác cũng như ma mút - loại này ngày nay đã tuyệt chủng.
Nhóm ba người bạn này rọi đèn xuyên qua bóng tối, nhìn thấy rõ các đống xương gấu, các chỗ nhóm lửa sém đen và nhiều hình ảnh khác! Họ cảm thấy như đang chìm sâu vào một thế giới linh thiêng đã mất từ lâu.
Hai anh Hà Mịch, Lâm Trần cùng chú Sĩ Cát đã ngồi đợi sẵn tại căn phòng khách được thầy Minh Đà Đông Đạt dành riêng cho tôi.
Đây là một căn phòng không lớn không nhỏ mà tôi là người duy nhất trong hàng ngàn các chú tiểu được hưởng đặc ân này. Không gì vui mừng bằng đã lâu nay mới được gặp mặt lại chú Sĩ Cát cùng hai người bạn vong niên đến viếng thăm mà tôi hằng trông đợi. Đêm ấy chúng tôi bàn đủ mọi thứ chuyện, trong đó có vấn đề liên lạc với các linh hồn ở bên kia thế giới.
Anh Hà Mịch tỏ ra hăm hở nhất khi nói đến sự chết và đời sống của Thế Giới Bên Kia. Bằng một giọng quả quyết, anh bắt đầu đi vào câu chuyện mà tôi cần muốn biết đến:
- Tôi quả quyết là có đời sống bên kia cửa tử. Họ không chết. Họ vẫn còn sống như chúng ta đang sống. Sự việc này chẳng có gì là mới mẻ cả. Đã từ bao nhiêu thế kỷ những nhà tâm linh học nhiều lần xác quyết họ đã từng tiếp xúc với các người chết.
Họ từng được nghe có nhiều linh hồn đã thổ lộ với họ là chẳng gì buồn lòng đối với họ khi nhìn thấy cái nghĩa trang, nơi có nấm mồ mà lòng đất đang ôm ấp cái vỏ mục nát của mình!
Với họ các vong linh đó cho rằng âu đó chỉ là sự cố tình che dấu sự thật! Thật ra nó chẳng có gì cả, chẳng là gì cả, nó hoàn toàn "trống không", hoang vắng. Với họ cái chết của con người chỉ là sự chuyển tiếp của cuộc sống này qua cuộc sống khác, qua trung gian của cái chết!
Ngừng trong giây lát, anh Hà Mịch tiếp tục kể:
- Lỗ San ạ! Khi bước qua bên kia cửa tử, mỗi người chúng ta sẽ gặp lại chính "nhân tính" của mình và đọc lại những trang sách dẫy đầy những kỷ niệm chẳng khác nào tấn tuồng trên sân khấu có đủ cả hỷ, nộ, ái, ố.
- Tôi có cảm tưởng dường như anh Hà Mịch đã trải qua một lần chết rồi vậy!
- Đúng như vậy! Anh Hà Mịch gật đầu xác nhận Thật không gì hứng thú bằng! Quả là một thứ hứng thú đặc biệt.
Nếu trải qua một lần chết rồi mới biết chẳng có gì khủng khiếp cả. Đến đây, anh lại ra chiều đăm chiêu như thể để lục lại ký ức về trường hợp "chết" của mình, rồi bắt đầu thuật lại:
- Lúc bấy giờ tôi từ xứ sở Tây Tạng này trở về bán đảo Đông Dương, đột nhiên tôi lên cơn sốt nặng, sau đó thì mê man chẳng còn biết gì nữa. Đến nửa đêm bất thần tỉnh lại. Nhưng khi mở mắt ra, tôi không khỏi ngạc nhiên khi nhìn thấy có ai đó đang nằm bên cạnh mình.
Điều làm cho tôi bàng hoàng kinh hãi là càng chăm chú nhìn, càng nhận thấy kẻ đang nằm bên cạnh giống hệt tôi như hai giọt nước, từ mặt mày đến hình dáng và luôn cả lối ăn mặc tôi đang vận trong người.
Tôi bắt đầu nghi ngờ là như có điều gì bất thường đang diễn ra chung quanh mình. Nhìn đồng hồ quả lắc, kim chỉ đúng 3 giờ 15 phút sáng. Bây giờ đã sắp đến canh năm. Tư bề hoàn toàn tịch mịch. Tôi sờ soạng tìm chiếc đồng hồ quả quít dây vàng 24 kara khi ngủ vẫn còn cẩn thận cài nơi túi áo trên. Nhưng không còn nữa.
Ai đã đánh cắp mất từ bao giờ rồi. Tôi bèn đến chiếc tủ cất hành lý mà khi mới vào khách sạn người bồi phòng đã mang hộ cất tại đây. Giờ thì hành lý của tôi cũng như chiếc đồng hồ quả quít đã không cánh mà bay. Tôi trở về giường để quan sát lại một lần nữa con người nằm bên cạnh đang say sưa trong giấc ngủ.
Ông ta vẫn nằm yên bất động. Tôi cố lấy hết sức can đảm cúi xuống để nhận diện kẻ đó là ai? Tại sao lại lên nằm bên cạnh tôi như vậy? Người này có liên quan gì với tôi chăng? Nhưng tôi thật sự hốt hoảng khi nhận ra kẻ ấy không ai xa lạ mà chính là tôi!
Hóa ra tôi đã chết ? Có thật thế ư ? Tôi khựng lại lẩm bẩm tự hỏi:
"Mình chết thật rồi ư?".
- Ừ, thì anh chết thật rồi, Hà Mịch ạ! Một giọng nói hơi quen thuộc đã từng nhiều lần tôi nghe thấy, nhưng bây giờ không còn nhớ nữa, đang văng vẳng bên tai tôi.
Tôi cũng chẳng khác gì anh, nhưng có điều là tôi chết trước anh lâu lắm rồi. Thôi bây giờ anh theo tôi, ra ngoài kia ngồi ôn lại những việc anh đã làm trong suốt chặng đường anh còn hiện hữu ở thế gian!
Tôi chỉ nghe tiếng nói mà tuyệt nhiên chẳng nhìn thấy bóng dáng của ai đó đang đeo đẳng bên mình. Tôi lặng lẽ theo âm thanh của kẻ đó dẫn dắt đến nơi mỏm đá trắng rực rỡ những tia sáng lấp lánh như ánh ngọc, và lung linh tợ như ánh kim cương dưới ánh mặt trời.
Như có một sức mạnh huyền nhiệm nào đó ấn mạnh vai tôi, thế là tôi từ từ ngồi xuống! Tiếng nói của ai đó lại văng vẳng vọng lên:
- Anh Hà Mịch! Hãy ôn lại đi cuộc đời của anh từ ấu thơ cho đến khi buông tay nhắm mắt!
Thế là hình ảnh của cả cuộc đời tôi lần lượt hiện ra trước mắt như một cuộn phim trình chiếu trên màn ảnh. Thật nhanh và thật súc tích. Tôi nhìn thấy cả những việc thiện và những điều tội lỗi mà lúc sinh thời mình đã nhúng tay làm.
Tất cả đều hiện ra một cách rõ ràng, không sơ sót lấy một tơ hào nào! Một cuộc đời của con người không phải là ngắn ngủi, song với hình ảnh trưng ra các hành động mà trong lúc sinh thời tôi đã tạo nên lần lượt từ trong tiềm thức tôi xuất hiện phơi bày ra trước mắt!
Xem xong cuộn phim, tôi lại nghe thấy giọng nói ngọt ngào vẳng vọng đến:
- Hà Mịch! Bây giờ thì tôi đưa anh đi tìm Tình Thương nha!
- Tình thương?
- Vâng! Đó là một sinh vật "Ánh Sáng".
Và tôi đã được gặp. Khi nhìn thấy sinh vật Ánh Sáng tôi biết ngay đó là hình ảnh Đấng Quyền Uy Tối Thượng.
Người Ánh Sáng rực rỡ gấp cả hàng ngàn, hàng vạn lần của vầng thái dương, nhưng lạ lùng thay ánh sáng rực rỡ phi thường của Sinh Vật Ánh Sáng đó không làm cho tôi choáng mắt. Tôi có cảm tưởng nguồn ánh sáng quí báu đó hàm súc cả sự hiểu biết, và ban bố cho tôi một thứ tình yêu vô hạn.
Câu chuyện chết của anh Hà Mịch kể, làm tôi sực nhớ lại chuyện anh thợ máy Tom chết dưới chính cái xe của mình. Câu chuyện này được ghi lại trong tập Nguồn Suối Đen của Mark Twain, nhà văn hào nước Mỹ. Khi Tom được cứu sống, có một nữ ký giả đến phỏng vấn:
- Anh có thể kể trường hợp anh được sống lại hay không?
- Thật tình tôi không thể
diễn tả lại bằng lời nói.
- Tại sao lại không?
- Vì đó là chuyện một cái gì mà trong cõi đời này không biết được và không thể nói hết được.
- Là thế nào, thưa anh?
- Bởi nó toàn là Tình Yêu!
- Tình yêu? Thế là nghĩa làm sao?
Anh Tom nhắm nghiền mắt lại, như thể để ôn lại và tận hưởng những gì anh đã thu nhận được khi anh chết. Và giây lâu sau mới bắt đầu kể tiếp:
- Chắc cô cũng thừa rõ, trên đời này chỉ có tình yêu vợ chồng và lòng yêu quý con cái là bao trùm hơn tất cả. Ấy thế mà những thứ ấy nó chẳng thấm tháp vào đâu đối với Tình Yêu Ánh Sáng.
Đó là một thứ tình yêu mênh mang bao trùm cùng khắp. Tôi cũng đã từng nghe thầy tôi kể lại sau khi người đọc từ những tập sách của các nước Tây phương, cũng không ngoài sự ca tụng vị linh thần Ánh Sáng, có một sinh lực thật đặc biệt, một sức sống vô cùng quý báu. Họ có phép thần thông và nơi họ không bệnh hoạn hay ưu tư sầu muộn.
Anh Hà Mịch như bị tràn ngập nỗi xúc động, nên lại thêm một lần nữa, giọng anh nghẹn ngào, mãi đến khi tôi, chú Sĩ Cát và anh Lâm Trần thúc giục, lúc ấy anh mới bắt đầu thuật tiếp:
- Thầy tôi cũng cho biết mặc dù được tiếp xúc với sinh vật Ánh Sáng, linh hồn kẻ chết cũng chưa có thể trở thành một linh hồn toàn thiện, toàn hảo được.
Nó vẫn còn vướng víu bởi những tội lỗi đã phạm phải lúc sinh thời. Vì vậy, những linh hồn này vẫn còn phải vất vưởng ở chốn thế gian mà người sống không thể nhìn thấy bằng mắt của người phàm được.
Họ, những vong hồn vất vưởng ấy sống chung đụng với ta, nhưng nào đã có ai biết được? Lúc ấy các vong hồn chẳng may mắn đó chưa biết suy nghĩ, ước muốn điều gì? Có lắm linh hồn khi còn sống thân xác bị vướng phải tật gì, thì khi chết vẫn đa mang tật ấy!
Vì vậy những người nghiện rượu trác táng, khi chết linh hồn chưa siêu thoát qua Cửa Tử được, mà họ phải cứ lảng vảng đến quán rượu để tiếp tục hưởng thụ kiếp sống thấp hèn như vậy. Do đó, hình ảnh của sinh thể Ánh Sáng cũng phai mờ với họ. Sự đau đớn tự họ đem lại còn cao hơn sự quằn quại của những cơn bệnh trầm kha ở thế gian.
- Có cách nào để thoát được không? Người nữ ký giả này hỏi.
- Nếu dốc lòng chừa cải, và nếu còn luyến tiếc trần gian thì họ có thể được tái sinh để đền bù tội lỗi!
Đến đây, tôi bất thần hỏi:
- Anh tin là có sự tái sinh sao?
- Có! Tôi tín là có. Chắc chắn chú Sĩ Cát và luôn cả anh Lâm Trần cũng đều tin như vậy. Thật khó lòng mà giải thích tỉ mỉ được, bởi nó vô cùng phức tạp.
Nhiều khi có những linh hồn chưa đi đầu thai được thì sống chung đụng với chúng ta đêm cũng như ngày. Lỗ San nên nhớ rằng linh hồn thuộc về chiều đo thứ tư. Luồng sóng điện của họ khác hẳn với sóng điện của chúng ta.
- Khi anh chết, anh có nhìn thấy ma không?
- Không phải đợi đến khi chết mới nhìn thấy mà ngay cả lúc sống, trong điều kiện nào đó chúng ta đều có thể nhìn thấy người chết. Có người nhạy vía còn thấy ma hiện lên hay bị ma hành!
Đạo thờ quỷ thần ở Phi Châu, đừng tưởng đó là dị đoan, vô căn cứ, phản khoa học, mà là một chứng minh cho sự kiện có người chết đang sống giữa chúng ta.
Họ là những linh hồn không siêu thoát, họ bị đày đọa giữa trần gian, nơi họ phạm lắm điều tội lỗi. Những vong hồn này luôn luôn cầu nguyện xin được "Sinh Thể Ánh Sáng" cho họ được chuộc tội!
Chú Sĩ Cát bỗng nhìn chú Lâm Trần mỉm cười hỏi:
- Hình như anh Lâm Trần cũng đã...
Không đợi chú Sĩ Cát nói hết câu, anh Lâm Trần gật đầu đáp lại:
- Đúng vậy. Tôi cũng đã trải qua một lần lìa bỏ thế gian này!
- Vâng. Tôi cũng đã từng một lần chết. Nhưng cái chết của tôi có phần khác hơn anh Hà Mịch. Tôi cũng gặp được Linh Thần Ánh Sáng và tiếp nhận lòng nhân từ mà tôi cảm thấy không còn danh từ nào diễn tả hết được!
Ánh sáng của Linh Thần bừng sáng lên như một vầng hào quang rực rỡ. Tôi có thể nói rằng nếu Linh Thần có thể chấp nhận cho tôi được sống vĩnh viễn bên cạnh Người, thì chính đây là bước đầu tiên tôi xin được ơn che chở đó.
Nhưng mà không bao lâu sau đó, vầng hào quang rực rỡ của vị Linh Thần Ánh Sáng mờ nhạt dần đi, và cuối cùng là những bóng ma chập chờn hiện ra trước mắt! Hình ảnh của những bóng ma này lúc thì như những chiếc đầu lâu trắng hếu, khi thì hình ảnh của các dạng hình người đầu thú.
Lại có cả những bóng đen dị hợm, vây chung quanh tôi như sẵn sàng quẳng tôi vào đống lửa đang ngùn ngụt cháy. Bên tai tôi như thể có những âm thanh rền rĩ, kéo dài như một điệp khúc của bản nhạc trầm buồn tiễn đưa kẻ chết đến chốn an nghỉ cuối cùng!
Tiếng nhạc cứ thế vang lên và biến mất giữa khoảng không gian mênh mang vô tận. Bất giác, tôi có cảm giác như mình biến thành như con vụ đang bị một sức mạnh vô hình quay tít đến độ tôi nhận thấy tất cả cảnh vật chung quanh đều biến mất, chỉ còn là một điểm đen nhỏ mút bằng đầu ngòi bút viết xoáy mạnh vào mắt tôi.
Và cứ như thế hết vòng xoáy này đến vòng xoáy khác, tôi phải hét lớn lên vì đau đớn. Thế rồi bất thần tiếp theo sau đó, toàn thân tôi như bị bàn tay vô hình nào đó xốc mạnh lên và vứt cả xác thân tôi xuống tận đáy một hố sâu thăm thẳm, bên dưới lúc nhúc từng đàn rắn rít.
Chúng chỉ đợi khi xác thân tôi rơi xuống là đổ xô đến bám lấy tôi cùng khắp, quấn vào chân tôi, tay tôi, cổ tôi và lè dài chiếc lưỡi đỏ như lửa ra liếm khắp mặt mày tôi từ tai, mắt, mũi và luôn cả miệng, mồm tôi không bỏ sót một chỗ nào.
Thú thật, tôi sợ đến lạnh điếng cả người. Đàn rắn làm cho tôi kinh hồn khiếp vía đã đành, lại còn bị hàng trăm con rít đầu vàng chui vào trong người tôi, tranh nhau với cả hàng đàn bò cạp đen sì sì không biết cơ man nào mà kể, len lỏi cùng khắp ở châu thân tôi.
Chỉ cần một cái chích nhẹ truyền nọc độc vào cũng đủ làm cho cả thân hình tôi sưng vù lên như cái thây ma chết sình trôi lềnh bềnh trên mặt nước. Trước cảnh tượng này tôi run lên cầm cập, muốn hét lớn lên cầu cứu, nhưng miệng mồm tôi như khớp hẳn lại.
Giữa lúc đó, thì bỗng có tiếng ai văng vẳng bên tai:
" Lâm Trần, ý thức giống như cả một lòng đại dương mênh mông, trong đó có những sinh vật khác nhau sống với các mực nước khác nhau.
Đó là hình ảnh hàng ngày cho ta thấy những gì đã xảy ra trong cuộc sống, sẽ được sàng lọc và đọng lại trong ý thức, tiềm thức và luôn cả trong vô thức nữa!
Lâm Trần, hiểu rồi chứ? Với những kẻ thiếu lòng nhân, cái chết như một cơn ác mộng. Bây giờ thì hãy quay về đi, bởi cái kiếp của ngươi vẫn còn chưa trả hết. "
- Và, chú ..
Tôi chưa kịp hết lời chú mỉm cười cầm lấy tay tôi chua chát nói:
- Vâng! Tôi sống lại sau lời nói ấy từ vị linh thần Ánh Sáng phát ra. Và ta quyết sẽ làm lại cuộc đời tôi không cần giải thích, ắt Lỗ San cũng thừa rõ.
Chú Sĩ Cát trầm ngâm trong giây lâu, đoạn cất tiếng nói:
- Tiềm thức có khi giải quyết được những vấn đề mà ý thức không làm nỗi. Nó có thể cho ta các ý tưởng mới. Nhưng với chú Lâm Trần thì khác, bởi chú không muốn phải trải qua thêm một lần nữa sống trong cơn ác mộng.!
Giấc mơ có nhiều ý nghĩa khác nhau. Tùy theo trường hợp. Có người vì bị ám ảnh của những biến cố xảy ra trong cuộc đời của họ. Cũng có những giấc mơ dự báo cho tương lai.
Ví như vài tuần trước khi cố Tổng Thống Mỹ Abraham Lincoln bị ám sát, ông đã nằm mơ thấy người ta đang khóc sụt sùi. Và sau đó ông mơ thấy xuống dưới tầng trệt trông thấy có cỗ quan tài đã đóng kín nắp để ở gian phía đông.
Ông quay lại hỏi người lính đứng gần:"Ai trong cỗ áo quan thế?" Người lính này đáp lại: "Thưa, đó là Tổng Thống! Ông ta đã bị ám sát." Và quả nhiên, sau đó thì biến cố đã diễn ra cho ông.
Với chú Lâm Trần thì không phải như vậy. Có thể chú là một trong những người được nhìn thấy cảnh địa ngục. Nhưng may mắn thay chú vẫn còn nặng nợ với đời, và vị Linh Thần Ánh Sáng ở tận cõi Siêu Nhiên kia cho chú một cơ hội để ăn năn hối cải, nếu chú tự xét mình đã phạm phải lỗi lầm.
Tashilunpo là một tu viện đẹp nhất của xứ sở Tây Tạng. Tôi đã từng có một lần vào buổi sáng bình minh cùng Minh Sư đưa nhau đến ngọn đồi đối diện để chiêm ngưỡng công trình mỹ thuật này. Ánh sáng trải lên các mái ngói đỏ làm nổi bật giữa nền bóng đen của ngọn núi Thương Tích.
Hình ảnh này làm tăng thêm vẻ huyền bí của tu viện! Được biết tu viện được xây tại ngay thủ đô Xigaze của Tây Tạng mà hiện nay là thành phố lớn vào bậc thứ hai của xứ sở này chỉ đứng sau có Lhasa.
Tu viện Tashilunpo chính là nơi đức Panchen trú ngụ, xây từ năm 1447, trải qua nhiều thế kỷ phát triển dần lên. Hiện tu viện có một diện tích 18.5 ha với hơn 50 giảng đường được chạm khắc tinh vi, gồm 3.600 phòng, tất cả đều dành riêng cho các vị Lạt Ma.
Theo lời Đức Phật sống Chiazha Qamba Chili cho biết thì tu viện này trước kia có đến 3.800 vị Lạt Ma, nhưng ngày nay thì số Lạt Ma còn ít hơn, chỉ 780 vị mà thôi.
Và Ngài cũng cho biết vị tu viện trưởng vào giữa thế kỷ 20 này là hiện thân của Đức Phật sống - là cấp lãnh đạo tối cao xuất xứ từ một trong các Lạt Ma qua nhiều thử thách cam go và được sự tín nhiệm tuyệt đối.
Mỗi khi có một Lạt Ma được xem là thuộc hàng đạo cao đức dày viên tịch, người ta tin là ngài sẽ đi đầu thai thành một đứa bé khác.
Nơi ăn ở tu niệm hàng ngày của Chiaza là một căn nhà có hai phòng xây bằng gạch, các cây cột dựng lên thuộc loại quí mộc, đủ sức chịu đựng trọng lượng của tầng nhì đúc bằng đất nung bóng loáng.
Tuy sống nơi tu viện, đức Chiaza vẫn biết cách sử dụng những máy móc cần thiết như máy đánh chữ Tây Tạng, hiện nay là loại máy Flying Fish, Ngài còn vận áo veston hay thắt cà vạt vào những trường hợp cần thiết khi giao dịch với bên ngoài đúng theo nghi lễ ngoại giao.
Ngài là một Lạt Ma sùng tín tiêu biểu nhất điều hành Tashilunpo trong nhiệm vụ tôn giáo. Trách nhiệm được xem là nặng nề nhất của đức Chiaza là phải tìm cho được đứa bé hóa thân của đức Panchen thứ 10 đã viên tịch vào năm 1989 vì bệnh tim.
Tưởng cũng nên biết, không phải ai cũng có thể vào tu viện được, mà phải trải qua một cuộc tuyển chọn gắt gao qua các cuộc sát hạch khắp các nơi như Tây Tạng, Nội Mông, luôn cả các tỉnh Vân Nam, Quí Châu và Sơn Đông.
Đời sống tại tu viện, rất khắc khổ, phải dậy từ lúc 6 giờ sáng, dọn mình và tụ họp tại nguyện đường đề đọc kinh sáng Sutra, sau đó thì ăn sáng. Nghỉ ngơi được một lúc, đến đúng 9 giờ 30 kéo nhau đi làm công quả cho tu viện hay đến lớp học giáo lý.. Buổi chiều đọc kinh Sutra, ăn cháo chứ không ăn cơm vào thời điểm này.
Các thức ăn không có gì là cầu kỳ. Họ ăn thật đơn giản chỉ có bánh Tsamba và uống trà beurre Yak cùng một ít muối. Hai điều cấm kỵ của các Lạt Ma là tuyệt đối kiêng rượu và thuốc lá.
Tính số thu nhập của tu viện hàng năm chỉ vào khoảng hơn một triệu rưỡi đồng Yuan tức vào khoảng 540.800 dollars Mỹ. Số lương hướng tùy theo địa vị quan trọng, người cũ hay mới, do hội đồng tối cao Tây Tạng định đoạt.
Có thể nói cả tu viện là một mê cung gồm nhiều phòng, nhưng phòng nào cũng âm u đen tối. Hành lang dẫn đi đến các phòng thì chật hẹp còn các sân lại đầy cả bóng râm. Ở các nguyện đường có đặt nhiều tượng Phật. Tại góc phía Đông Bắc có xây một bức tường bằng gạch cao đến 32 mét và bề rộng đến 42m.
Tại nơi đây, hàng năm cứ vào tháng 6, các khách hành hương tấp nập đổ về. Các Lạt Ma vẽ hình các đức Phật trương lên, mỗi ngày một bức từ Phật Quá Khứ, Phật Hiện Tại đến Phật Vị Lai tại ngay bức tường cao này.
Nếu đi về hướng Tây Bắc ắt sẽ nhìn thấy một tòa nhà đỏ thắm. Bên trong là một pho tượng Phật Quán Âm bằng đồng lớn, có thể được xem là một pho tượng thuộc hàng bậc nhất của hành tinh này. Pho tượng có chiều cao đến 26 thước vuông, nặng 115 tấn.
Và một pho tượng khác cũng vĩ đại không kém. Đó là pho tượng được trang hoàng toàn bằng ngọc trai, mã não, san hô và luôn cả vàng lẫn bạc. Được biết pho tượng này do 110 tay thợ tài ba nhất nước làm việc suốt bốn năm trường mới tạo nên được bức tượng quí giá này.
Nhìn lên phía bên trên các bức tượng này còn treo la liệt các bức tranh vẽ có niên đại từ nhiều thế kỷ. Hình ảnh của các bức tranh vẽ đó ghi lại sự tích của Đức Thích Ca Mâu Ni và Giáo chủ Zongkaba vị Giáo chủ (1358-1419) đã sáng lập nên Phật giáo Tây Tạng, mà ngày nay được nhiều người sùng tín.
Sau đó, tôi được Minh Sư cho nghỉ ngơi thêm một thời gian nữa trước khi chuẩn bị đi làm nhiệm vụ mới. Nhân đó tôi được gặp gỡ nhà thiền sư Nhật Bản mà nhiều người cho là bị tẩu hỏa nhập ma. Tuy vậy, riêng tôi, thì đây chính là một vị chân tu có nhiều kiến thức, cần phải học hỏi.
Thế là, tôi lại tìm đến. Chỉ sau ba tiếng gõ nhẹ vào cửa, và tức thời cánh cửa được mở toang ra với giọng cười hiền hòa, nhà thiền sư ẩn tu tại thạch cốc trước kia đã đứng đợi sẵn lên tiếng:
- Ta đoán chẳng sai. Thế nào rồi hôm nay chú cũng lại đến viếng thăm ta.
- Vâng, thưa thiền sư, con cũng biết thế nào thiền sư cũng vui lòng cho phép con đến bái hầu thiền sư thêm lần nữa.
Lại một tràng cười phá lên, làm mất đi sự yên tĩnh vốn dĩ của căn phòng mà tôi được biết chẳng ai được phép khuấy động.
- Ta biết. Nếu Lỗ San không biết phép thần giao cách cảm thì chắc chắn là chẳng có giờ phút tái hội hôm nay.
Nói đến đây thì bên trong, một chú tiểu bưng ra cái khay bạc đặt ra giữa bàn, lễ phép cúi đầu và bước lùi lại theo đúng phong cách thân phận của một chú tiểu.
Chúng tôi bắt đầu vào chuyện sau vài tuần trà thơm sực mùi hương xứ Ấn. Ngài chậm rãi nói:
- Lỗ San, chắc chú nhớ câu chuyện tương truyền về đức Đạt Ma Thiền Sư vị thủy tổ của chùa Thiếu Lâm, mà ta đã suốt bảy năm trường học theo cung cách diện bích tham thiền trong một thạch động thiên nhiên trên đỉnh Ngũ Nhũ, và đức Đạt Ma này đã đốn ngộ được.
Tức thời Người đã truyền rao cho các đệ tử được biết. "Khi mà thanh tâm tĩnh trí, vạn niệm đều không thì đầu óc vị chi minh triết. Đã vậy còn thấu suốt mọi lẽ tình, mọi sự vật được khắc ghi trong trí nhớ, khác nào như dao chém đá vậy." Chú biết điều này chứ ?
Tôi gật đầu:
- Nhờ Thiền sư nhắc nhở, con đã nhớ lại điều này.
- Thế cháu biết Thiền định như thế nào không ?
- Thưa, sẽ đưa đến trí tuệ sinh!
- Vậy thì Tĩnh tọa có khác gì chăng?
- Không mà có. Bởi Tĩnh tọa được xem là một trong những phương pháp đạt được "Huệ".
Nó là một cảnh giới Thượng thừa của Phật gia. Còn Đạo gia thì nói nhằm vào "hư tĩnh", vào "vô vi".
Nho gia thì nói đến Trai tâm, Tọa vong, nhưng theo con thì đặc biệt chỉ có môn Yoga, là có thể giúp cho ta phong phú hơn lên về mọi nhu cầu cần thiết trong đời sống.
Nhà Thiền sư mù lòa giương đôi mắt trắng nhợt ra như cố thu cả hình ảnh của tôi vào trong tiềm thức người sau khi nghe tôi đưa ra sự nhận xét như trên.
- Lỗ San, ta không ngờ ngươi lại có một ý tưởng sắc bén được như thế! Đúng vậy. Nói đến Yoga phải kể đến Dhyana, Samadhi. Chính nó là chiếc chìa khóa khai mở tiềm năng trí tuệ của con người.
- Thưa Thiền sư, có thể cho con biết các bậc hiền triết Đông phương quan niệm điều này như thế nào chăng?
- Các bậc cùng một lập luận trong một quan niệm như nhau: Con người là một tiểu vũ trụ, được cấu tạo theo đúng mô hình của đại Vũ trụ. Chú hiểu chứ?
- Thưa, con chưa được sáng tỏ lắm!
- Chú chưa sáng tỏ, tức chú đã hiểu. Chú hiểu một cách mù mờ. Vậy ta khai thông hộ chú điểm này. Tất cả những gì trong Vũ trụ này đều có mục tiêu cuối cùng của nó.
Vậy mục tiêu cuối cùng của cuộc đời là sự "đắc Đạo". Có nghĩa là hòa nhập được với Đại Vũ trụ, không còn có sự cách biệt với nhau nữa, nó sẽ hòa tan vào thực thể bao la vô cùng vô tận.
- Cái gì gọi là hợp, thưa Thiền Sư.
Một là Hợp Đức với Hợp Trời, hai là Hợp Ánh sáng với hai vầng Nhật Nguyệt, ba là hợp bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, và hợp Cát Hung với Quỉ Thần. Đó gọi là Hợp mà Lỗ San muốn biết.
- Nhưng hợp rồi sẽ đi về đâu ?
Nhà Thiền sư mù ngửa mắt lên trời cười vang lên quay mặt về phía tôi đáp lại:
- Giải thoát! Là sự giải thoát! Đó là sự Minh Triết Thiêng Liêng. Biết chứ Lỗ San?
CON NGƯỜI BẤT TỬ
Nói đến đây, hơi thở của ngài Ngô Tử trông thấy có vẻ thiếu điều hòa. Trên mặt ngài lộ hẳn vẻ mệt mỏi. Mãi đến giây lâu sau ngài mới lấy lại được sức lên tiếng bảo:
- Thế cũng đã đủ cho cuộc gặp gỡ giữa hai chúng mình. Bây giờ thì cháu có thể rời khỏi nơi này. Xin lỗi cháu, ta đã mệt lắm vì đã nói quá nhiều. Ta mong rằng từ nay về sau, nếu cháu còn ở lại đây, thỉnh thoảng đến thăm viếng ta, mặc dù ta biết cháu hay tò mò muốn biết những điều huyền nhiệm ngay tại Hy Mã Lạp Sơn này, song ta lại cảm thấy là điều đó đã làm cho ta thích thú!
Dứt lời nhà sư Ngô Tử quay mặt về hướng khác. Tôi cúi đầu và khẽ cám ơn đoạn lặng lẽ bước ra khỏi căn phòng bé nhỏ này. Tôi vừa đi vừa nghiền ngẫm cuộc chuyện vãn vừa rồi đến độ không trông thấy cả bức tường chắn ngang phía trước mặt nên đầu bị va mạnh vào, đau muốn tắt cả hơi thở.
Khi ngang qua chánh điện thì cũng vừa lúc khóa lễ buổi chiều sắp chấm dứt. Các tăng sĩ ai nấy cũng muốn được về phòng nghỉ sớm. Nhà sư phát ngôn viên của Thiền Viện trông có vẻ đã luống tuổi còn đứng trên bục cao dùng tay đánh dấu trang kinh rồi mới ung dung bước xuống.
Góc bên kia có một cái bục cao vừa đủ cho ông giám thị có đôi mắt sáng quắc như thể đang toát ra hơi nóng sẵn sàng thiêu đốt các chú tiểu nào phạm vào qui điều của chốn thâm nghiêm, cái qui điều đó là sự nghịch ngợm và không chăm chú lắng nghe những lời giảng giải từ các Lạt Ma trên bục lễ đường.
Tuy nhiên ngay trong giờ phút này đôi mắt ông ta có vẻ hiền dịu và ấm áp hơn như ánh nắng của những ngày đầu xuân sau những tháng dài của tiết đông thiên giá rét.
Mấy chú tiểu cùng đi rập ràng tay đẩy đưa bình hương quanh một vòng cuối cùng trước khi thực sự giải tán. Trong lúc đó, toàn thể các người dự lễ cũng lục tục đứng dậy kéo ra bên ngoài rảo bước về phòng.
Nhưng bất thần một tiếng thét đâu đó vang lên như xé cả màng tai rồi tiếp theo một bóng người to lớn nhảy vọt lên qua đầu của các tăng lữ, chụp lấy tay chú tiểu đang cầm hai cây nhang trong tay. Hành động này đã khiến cho toàn thể mọi người đang hiện diện phải sửng sốt đứng dừng lại nhìn thẳng vào cái bóng người vừa xuất hiện đó.
Tôi cũng tỏ ra sửng sốt nhìn kẻ nào đó đã có hành động hung hãn như vậy. Thì ra, kẻ đang đứng trước mặt mọi người đó là một "thằng điên". Hắn vừa cầm hai cây nhang đang nghi ngút cháy từ tay của một chú tiểu rồi vặn mình nhảy múa.
Hắn đang trong cơn thác loạn, hết vặn người bên này, lại uốn éo bên kia, miệng mồm cũng cùng một hành động rập ràng như ông ta đang nhảy múa, có nghĩa là ông méo mó cái mồm mình theo cung cách của vũ điệu.
Nước dãi chảy ròng ròng ra hai bên khóe mép, đổ bừa bãi lên cả chiếc áo ông đang mặc trong người. Cổ ông ta nổi đầy cả gân, gồ lên và xanh rờn. Thỉnh thoảng từ trong cổ họng người này phát ra các âm thanh the thé tợ như ma hờn quỉ khóc.
Trước cảnh tượng xảy ra quá đột ngột này, các ông sư cảnh sát cũng đứng khựng lại vì không thể nào phản ứng kịp. Mấy nhà sư Chủ Tế cũng đứng trân người ra, há hốc cả mồm, đưa hai tay lên trời tỏ vẻ vừa kinh ngạc vừa thất vọng.
Cuối cùng không cần bảo nhau, các ông giám thị bất thần lao thẳng đến tóm lấy cổ ông ta đè xuống. Bị tấn công bất thình lình, người điên kia bị đè xuống không còn chống trả được đành nằm yên một chỗ.
Tuy vậy, ông ta không cần vận dụng về sức lực tay chân mà bằng những lời văng tục, mà xưa nay giới tu hành tại đây chưa bao giờ nghe nghe thấy! Mọi người cố hè nhau ấn mạnh đầu ông ta xuống, dùng tay bịt mồm kẻ điên loạn này lại, không để cho những lời lẽ phàm phu còn tiếp tục tuôn ra nữa. Họ lấy áo phủ lên đầu đoạn nhấc bổng ông ta lên khiêng ra khỏi chùa.
Chúng tôi hiếu kỳ chạy theo ra để được nhìn tận mắt tên điên khùng này rồi cùng nhau mỗi người một lời bàn tán.
Tôi được một chú tiểu thạo chuyện ở khu Thiền Viện này cho biết:
- Đó là một nhà sư Nhật. Tên ông ta là Henji Tchkenchi (Cảnh Di Tề Cữu Chi). Ông ta đã từng đi nhiều nơi hay có thể nói là khắp năm châu bốn bể.
Một chú tiểu khác chen vào:
- Ông còn bảo là đi như vậy mục đích là để tìm "Chân Lý". Ông ta muốn đi kiếm tìm một người nào đó mang "đạo quả" đến trao tận tay cho mình, chứ không muốn tự mình phải khổ tâm tu luyện.
Tôi không khỏi thắc mắc, đầu óc tôi cứ phải nghĩ mãi về việc nhà sư Nhật này đi tìm chân lý mà không muốn phải khổ công tu luyện thì chẳng khác nào chuyện nằm ngửa dưới gốc sung để chờ sung từ trên cành cây rụng xuống miệng mình.
Về đến phòng tôi cảm thấy thân mình đã như yếu hẳn đi, không thể chống lại cơn lạnh đã xâm nhập vào cơ thể mình, run lên lập cập. Tôi vớ vội áo quần treo trong phòng quấn vào người và nằm xuống với tư thế co quắp như thân hình con tôm sú. Tôi chợp mắt và ngủ thiếp đi từ lúc nào không hay biết. Cho mãi đến khi nghe tiếng cồng từ thiền viện vọng lại báo hiệu buổi lễ sáng sắp sửa đến nơi rồi.
Mở mắt ra nhìn qua cửa sổ, ánh nắng đã bắt đầu le lói chiếu đến. Xuyên qua đỉnh núi ánh sáng mặt trời rực lên đủ màu sắc, chiếu xuống dòng sông phẳng lì như tấm gương, lấp lánh chẳng khác nào như những hạt kim cương đủ màu sắc. Tôi đi vội xuống hành lang hướng về phía thiền viện không khỏi lo sợ bị trễ buổi lễ sáng.
Sau buổi lễ, tôi gặp Minh Sư Minh Dà Đông Đạt. Ngài chăm chú nhìn tôi hỏi:
- Chiều qua chú đã nhìn thấy nhà sư Nhật Bản phải không ?
Tôi gật đầu:
- Thưa Minh Sư quả có như vậy.
- Đó là một nhà sư điên khùng. Chú nhận thấy như thế phải không?
- Vâng, thưa Minh Sư, quả ông ấy là một tên khùng đến độ khiến cho mọi người phải ghê tởm.
Thầy tôi mỉm cười:
- Ấy thế mà đối với chú sẽ không phải là hình ảnh đáng ghê tởm như chú đã nghĩ như vậy. Ta sẽ nói với chú về ông ta sau này.
- Tại sao Minh Sư phải nói với con về vấn đề ông ấy với con?
- Vì chú có cơ duyên với ông ta, mà không có ai ở đây được may mắn như chú!
Nói đến đây thầy tôi khẽ nhíu đôi lông mày lại, tiếp tục:
- Ta muốn nói với chú về con người ông ta, vì với chú là điều không thể tránh được.
Thầy bảo tôi ngồi xuống đối diện với Ngài. Tôi biết ngay câu chuyện Minh Sư sắp nói ra đây sẽ phải dài dòng... vì đó có thể là tương lai sự nghiệp của mình!
- Lỗ San! Có lẽ chúng ta phải dùng trà và bánh ngọt cho đỡ đói và làm cho tinh thần thêm sảng khoái. Có phải thế không?
Đến đây, Người chăm chú nhìn tôi đoạn bật cười thành tiếng.:
- Bánh họ sắp mang ra ngay. Chú thấy đói chưa?
Câu hỏi vừa dứt thì thấy một chú tiểu đã mang khay trà và bánh đi vào. Loại bánh mà chú tiểu mang vào thuộc loại bánh nhập cảng từ Ấn Độ mà tôi ưa thích nhất. Vì vậy, mà tôi ngấu nghiến ăn như kẻ bị bỏ đói lâu ngày, quên cả đang có sự hiện diện của thầy tôi bên cạnh!
- Cảnh Chi Tề Cữu Chi! Như chú biết.
Thầy tôi bắt đầu kể
- Ông ta là một nhà biện luận tài tình và khéo léo, từng đi du lịch nhiều nơi trên thế giới. Chú biết ông ấy đi làm gì không? Ông đi kiếm tìm "chân lý" đấy.
Thật là nực cười, "Chân lý" đang ở ngay trong chính người ông ta, thế mà chẳng hay biết cứ đi lang thang tìm hết nơi này đến nơi khác. Ông ta là một nhà có kiến thức cao rộng, đọc và nghiên cứu rất nhiều loại sách các tôn giáo.
Có thể nhà sư Nhật Bản này đọc gần hết các loại kinh kệ về mọi tôn giáo ở các quốc gia trên thế giới để tìm cho ra cái "chân lý" mà ông từng mơ ước đó. Ông cũng đã từng đi tìm con "Long Mã" mà vua Phục Hy đã nhìn thấy tại dòng sông Hoàng Hà.
Đó là con vật kỳ quái đã được huyền sử Trung Hoa mô tả là nó đã mang trên lưng một chiếc "bát quái" có tám dấu, mỗi dấu có ba hàng bố trí đối xứng quanh một vòng tròn nửa đỏ, nửa đen. Vậy chú đã có lần nào nghe đến con Long Mã này chứ?
- Vâng, con có nghe qua, nhưng không thể nào hiểu nổi cái huyền diệu của nó!
- Nó có ba mươi vẩy đen hình vuông sát bên hai mươi lăm vẩy khác hình tròn, màu trắng. Nó giúp tạo thành hình xen kẽ trắng, đen. Chính hình này tạo thành ba hình đồng tâm vuông vức.
Hoàng Đế biết đó là điềm trời phát xuống hạ giới bèn ghi lại những ấn dấu đầy huyền bí này.Ví như sự huyền nhiệm nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn mà chúng ta đang sinh sống.
- Thế thưa Minh Sư, còn chuyện con Thần Quy như thế nào?
Ngài nhìn tôi đoạn nói:
- " Hoàng đế Đại Vũ, một ngày kia đi du thuyền thấy một con rùa thần nổi lên trên dòng sông Lạc. Con rùa thần này mang trên lưng nó hai hàng chấm đen, trắng, tạo thành một hình vuông ở bốn góc.
Mỗi góc có hai mươi chấm đen hợp thành một chuỗi toàn những số chẵn: hai, bốn, sáu, tám. Bên cạnh đó thì có hai mươi chấm trắng cũng ở bốn cạnh hình vuông.
Các con số này cũng hợp thành một dây số lẻ như: một, ba, năm, bảy, chín. Toàn thân con rùa đều có ý nghĩa, như mai tròn nơi lưng tượng trưng cho Trời, còn hình vuông ở dưới biểu trưng cho Đất.
Người ta có thể nhìn nơi các hình ở vẩy của nó để tìm hiểu những lời tiên tri hàm chứa các sự nhiệm mầu bên trong đó.
- Thưa Minh Sư còn sáu mươi bốn ký hiệu mà con đã từng nghe nhắc đến là điều gì?
- Phục Hy đã tập hợp tám dấu trước tiên do rồng thiêng dâng lên cho Ngài ở sông Hoàng Hà, tạo nên sáu mươi bốn ký hiệu mà mỗi ký hiệu có sáu hàng chữ.
Mãi đến đời Văn Vương tức là phụ hoàng của Võ Vương, các nhà bói toán coi đây là loại sách "thần" có thể thông đạt được Trời Đất. Theo sách "Kỳ Môn Ngữ Tổng Quy" thì con Long Mã thân cao tám thước năm tấc.
Xương cổ nó dài, cánh bên phải nhúng nước không thấm ướt, bên trên có bức cổ đồ. Nó xuất hiện trên dòng sông Mạnh Hà, người đời lúc bấy giờ còn gọi là dòng sông Mạnh Độc. Nhưng đó là chuyện dài dòng, về sau tự khắc chú sẽ rõ.
Nói đến đây, thầy tôi châm trà cho tôi mời tôi cùng cạn chén:
- Chú cần có nhiều sức để đón các sự thể khác từ bên ngoài đưa đến. Chú có biết Akaska không ?
Tôi lắc đầu:
- Con chưa từng nghe nói đến.
- Nhà sư Nhật Bản có lần đã tiết lộ cho ta hình thái nguyên thủy của nó. Tất cả những hình ảnh trong Vũ Trụ này đều được cấu tạo đều từ Akaska mà ra.
Nó hình thành Mặt Trời, Mặt Trăng cùng tất cả các vì Tinh Tú, con người chúng ta và luôn cả muôn muôn loài muôn vật trong vũ trụ bao la cùng khắp này.
- Vậy thưa thầy, nó có ngay ở trước mắt ta không? Tôi tò mò hỏi với cái ước vọng hoang tưởng của tôi bất thần nẩy ra từ trong đầu óc mình.
- Không. Nó rất vi tế. Người ta chỉ nhận thấy nó dưới dạng được cô đọng lại trong các hình thể vật chất hiện đang vây chung quanh ta mà thôi. Nó biến biến hóa hóa khôn cùng. Nó từ cái không biến ra cái nguyên thủy.
Cái nguyên thủy đó là Akaska, như ta đã nói. Cái Akaska đó không thể nào nhìn thấy qua kinh hiển vi chứ đừng mơ tưởng là mắt thường cũng có thể trông thấy được.
Nó cũng chuyển hóa như Vũ Trụ qua mỗi chu kỳ, như con người từ trong lòng mẹ sinh ra, lớn lên, già nua rồi chết để rồi trở lại với cái sinh ra, lớn lên và cuối cùng cũng buông tay nhắm mắt.
Chẳng khác nào trong cái vòng lẩn quẩn! Cái Akaska nó huyền vi như vây. Con người nhắm mắt, tắt hơi thở, đâu phải là chết hẳn, vĩnh viễn xa lánh cuộc đời! Mà nó vẫn còn mãi mãi tồn tại qua một hình thức khác.
Vậy cái cát bụi vị tất đã là cái cuối cùng của các vật thể ở giữa thế gian này. Thế có nghĩa là nó sẽ tiếp tục đi vào cái vòng lẩn quẩn! Có phải thế không, Lỗ San?!
Thầy tôi tiếp tục nói lên điều kỳ diệu của cái thăng hoa và siêu phàm của con người trên quả đất này.
- Như ta đã giảng giải cho chú biết về chất liệu nguyên thủy của AKASKA , là hình thái nguyên thủy của chất liệu phổ biến phát sinh từ cái không ra có. Nó biểu trưng cho những sản phẩm của một sự tổ hợp phát xuất từ AKASKA mà ra.
Theo các nhà tư tưởng Ấn Độ cho đó là đầu mối tạo dựng ra Mặt trời, Mặt trăng, và hàng hà sa số các vì tinh tú cùng tất cả muôn loài muôn vật đang hiện hữu cùng khắp trong vòm trời bao la này.
Hay nói một cách khác nó là hiện hữu và bất biến tràn ngập khắp không gian vũ trụ, nó xuất hiện, biến đi và ngược lại nó lại xuất hiện theo đúng chu kỳ dài dặc của nó vô cùng vô tận!
Cái AKASKA mà ta giảng giải cho chú là nguyên thủy của sự chuyển hóa ra vũ trụ hiện hữu này.
- Vậy thưa thầy còn PRANA mà có lần con nghe một vị trụ trì nói đến cái nhiệm mầu của nó. Vậy thì cái PRANA đó có tác dụng gì ?
- Prana cũng chẳng khác với Askaka, vì cả hai đều là cái vô cùng, mà cũng là mối đầu của hai mối Âm Dương, rập ràng biến hóa! Nó ở khắp cùng mọi nơi và đời đời kiếp.
Ai làm chủ được PRANA thì có thể chế ngự và điều khiển được cả thể xác lẫn tinh thần của mình và luôn cả của kẻ khác.
Tôi tò mò hỏi:
- Thưa thầy, tại sao lại đạt được đến mức thượng thừa như vậy ?
- Nhờ thị hiện được khái quát hóa của năng lượng.
- Như các người luyện YOGA! Có phải thế không thưa Minh Sư ?
Thầy tôi gật đầu:
- Đúng như vậy. Những người luyện được Yoga là họ có thể chế ngự được Prana trở nên toàn bích luôn cả toàn năng và toàn tri nữa.
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
- Chẳng lẽ phi thường đến như thế sao ?
Người gật đầu khẳng định:
- Đúng. Nó thật phi thường ngoài cả sức tưởng tượng của con người.
Tôi miên man suy nghĩ, có lần tôi được chú Sĩ Cát giảng giải về các cung cách chữa bệnh của những bậc được xem như các nhà tiên tri như chữa bằng "đức tin".
Bằng tinh thần, từ những nhà thôi miên hay thông thiên học, họ có thể điều động luồng điện lực từ xa phóng lại để điều trị của những con bệnh sống cách xa từ hàng ngàn vạn dặm. Người nhìn tôi mỉm cười đáp lại:
- Chú Sĩ Cát của chú không sai. Họ không phải trải qua một khóa học nào mà chỉ nhờ tình cờ khám phá ra được phương pháp trị liệu như vậy. Họ không biết một tí nào về Prana như ta đã giảng giải cho chú nghe. Điều này có dịp ta sẽ dẫn giải để chú được rõ thêm hơn.
Tôi nhớ lại có lần Minh Sư nói về câu thần chú "Án Ma Ni Bát Mê Hồng" nhưng tôi chưa hiểu rõ được căn nguyên của nó, bèn lên tiếng yêu cầu thầy tôi giảng giải lại:
- Thưa Minh Sư câu "Án Ma Ni Bát Mê Hồng" có đúng là câu thần chú không?
- Đó là câu thần chú mà trong dân gian Tây Tạng của chúng ta thường niệm lên để đuổi ma quỉ. Theo truyền thuyết là do Bồ Tát Quán Thế Âm dành cho nhân dân Tây Tạng.
Câu thần chú gốc chữ Sanskrist này được ghi là Aum Mani Padme Hong. Vậy Mani cho ta thấy nghĩa của nó là ngọc báu, Bát Mê là hoa sen, còn tiếng Hong thì giữ nguyên dạng của chữ Sanskrist.
- Thưa Minh Sư, trong lời giải thích của Minh Sư, con không thấy Minh Sư đề cập đến chữ Aum, vậy tiếng Aum ấy nó có nghĩa hay không ?
- Có chứ ! Aum là Án tức là âm linh thiêng của Ấn Độ giáo và Bà La Môn giáo. Trong Phật giáo Mật tông các câu chú cũng thường bắt đầu bằng âm Aum. Từ này tùy theo lối phát âm không giống nhau, như Việt Nam thì gọi là Úm, Trung Hoa thì đọc là Án, tiếng Phạn là Aum.
Nói đến đây thầy tôi cười nói tiếp:
- Hôm nay chúng ta mạn đàm có hơi nhiều. Hãy tạm nghỉ dành cho ngày khác. Bây giờ chú có quyền dùng thời gian rỗi rảnh để đi ngao du cho thơ thới tinh thần.
Một hôm tôi gặp lại nhà sư từng ẩn tu trong thạch cốc. Lần này nhà sư đề cập đến trường hợp của không ít nhà sư tham thiền và viên tịch luôn bên trong cốc đá.
Thân xác của các vị sư tu trong thạch cốc này vẫn giữ được nguyên vẹn, thỉnh thoảng có cả những nhà sư viên tịch từ lâu bỗng dưng người ta phát hiện đầu tóc mọc lại!
Trường hợp này ngày nay vẫn còn xảy ra như một nhà sư Thái Lan sau khi tham thiền nhập định đã để lại nhục thân gần hai mươi chín năm mà chẳng hề bị hủy hoại.
Câu chuyện này đã được loan báo trong thời gian gần đây, giữa những năm đầu của thế kỷ 21 này, nói về một nhà sư sau 29 năm không hề được bảo quản, nhục thân nhà sư Thái Lan Samatha Kittikhun vẫn khô ráo và còn nguyên vẹn cả nội tạng. Được biết nhà sư đã nhập diệt sau một thời gian dài tham thiền nhập định.
Khác với các quốc gia có nền văn minh cổ đại như Ai Cập cổ muốn giữ được xác của người chết được dài lâu, họ phải chuẩn bị kỹ lưỡng nhục thân trước khi mang đi ướp. Người Peru thì bảo quản xác ướp tự nhiên bằng cách chôn vùi trong cát khô.
Tại Á Châu, vẫn còn thấy những vị thiền sư Phật giáo sau khi viên tịch còn để lại thi thể nguyên vẹn. Như tại Việt Nam trường hợp này cũng từng xảy ra, nhục thân của vị thiền sư pháp danh là Đạo Chân tục danh là Vũ Khắc Trường còn giữ được nguyên vẹn cho đến nay vẫn không suy suyển, đang được thờ tại chùa Pháp Vũ hay gọi là chùa Đậu nay là thôn Gia Phúc, cách Hà Nội lối 23 cây số ngàn về phía Nam.
Nhà sư Thái Lan đang làm cho cả thế giới xôn xao không ít về xác thân của ông vẫn còn nguyên vẹn mang tên là Phra Khru Samatha Kitthikhun, nguyên trụ trì chùa Khunaram. Sinh quán của ông tại Koh Samui,thuộc tỉnh Surat Thani.
Ông sinh năm 1894, vào chùa tu năm lên 20 tuổi. Trong vòng sáu tháng sau ông xin trở lại sống với đời sống dân giả, cưới vợ, sinh được 6 con. Nhưng sau khi ông gầy dựng dựng được tài sản để lại cho vợ con, ông quay trở lại Cửa Thiền vào năm 1944 tiếp tục tu hành.
Lúc bấy giờ ông đã được 50 tuổi theo học tham thiền với nhiều vị sư nổi danh ẩn thân tại các nơi hoang vắng. Ông có đặc tài ngồi thiền suốt cả thời gian 15 ngày liên tục không ăn, không uống! Ông qua đời trong lúc ngồi tham thiền. Đó là ngày 6 tháng 5 năm 1973.
Theo lời các người thân thuật lại thì nhà sư biết trước ngày giờ viên tịch của mình, căn dặn những người chung quanh: "Nếu xác thầy thối rữa thì hãy mang chôn đi! Còn nếu không hề hôi thối thì liệm vào chiếc quan tài bình thường để cho các thế hệ mai sau chiêm ngưỡng, hầu tìm đến con đường giải thoát như ta".
Hai mươi chín năm sau xác thân nhà sư Samatha Kittikhun trở thành đối tượng cho các nhà nghiên cứu Jerry Conlogue và Ron Beckett là hai giáo sư của trường Đại học Quinnipiac ở Hamden thuộc bang Connecticut, Hoa Kỳ. Hai vị giáo sư hoàn toàn bất ngờ khi tiếp xúc với nhục thân của nhà sư Thái Lan. Hai ông mô tả đó là một người chết khô trong tư thế nhập định, mang kính râm, ngồi trong lồng kính.
Theo sự nhận xét của của giáo sư Beckett thì xác hoàn toàn khô ráo và không có lấy dấu hiệu gì cho thấy có dùng kỹ thuật bảo quản cho xác giữ cho được lâu dài. Có điều kỳ lạ đặc biệt hơn nữa là không hiểu trong thời tiết nóng và ẩm ướt như ở Koh Samui, tại sao xác thân của vị sư này không bị ảnh hưởng?
Được sự chấp thuận của các chức sắc cao cấp trong chùa Khunaram, hai ông có quyền tiếp xúc với xác chết bằng mọi cách. Họ yêu cầu được chụp quang tuyến X và mở nắp lồng kính che trên quan tài để được quan sát rõ ràng liệu có những điều gì bí mật nơi xác chết của nhà sư tịch diệt Thái Lan này hàng hai chục năm hơn hay không?
Cả hai nhà nghiên cứu đều tỏ ra vô cùng kinh ngạc là nội tạng của nhục thân lâu năm như tim, phổi, ruột, gan đều còn nguyên vẹn, không hề bị vi khuẩn tấn công dù chỉ ở mức độ tối thiểu đi nữa.
Thông thường, sau khi chết thì các cơ quan thuộc nội tạng phải teo đi, nhưng với nhà sư thì hoàn toàn không hề chẳng thấy có dấu hiệu nào bị teo đi hay bị hủy hoại.
Một ngày kia trong một dịp khác tôi trở lại chuyện của nhà sư Nhật Bản bị xem như điên loạn mang ra hỏi thầy tôi.
- Như ta đã nói với chú nhà sư Cảnh Di Tề Cưu Chi là một nhà biện luận giỏi dắn, khéo léo. Hình như điều này đã có lần ta đã bảo với chú, phải không?
- Vâng, thưa Minh Sư con nhớ.
- Ông ta đã đi du lịch khá nhiều nơi trên thế giới để tìm kiếm "chân lý", trong lúc đó "chân lý" thật sự đang ở trong người ông.
Ông ta bị điên loạn không phải vì thất chí, vì bị xúc động mạnh hay bị mất mát điều gì mà vì ông đọc quá nhiều những tư tưởng chống đối nhau thành ra tinh thần ông bị xô bồ, hỗn loạn.
Do đó mà "Nhân Thể Quang" bị nhiễm tà khí làm vẩn đục đi cái trong sáng của nó. Nhà sư này đọc thì nhiều song thu thập lại chẳng bao nhiêu, khiến thân tâm bị khích động, ý nghĩ lệch lạc và cuối cùng tai hại thay lại bị "tẩu hỏa nhập ma". Kiến thức cứ bị dồn nén quá nhiều trong đầu óc, song tiêu hóa lại chẳng bao nhiêu. Có thể nói đầu óc của ông ta bị bội thực.
Tôi ngắt lời hỏi lại:
- Nói như vậy chẳng hóa ra thầy thấy việc học bằng sách là không tốt hay sao?
- Không! Ta không có ý nói như vậy. Lỗ San à! Ta chỉ nói, chúng ta không nên đọc quá nhiều các sách nghiên cứu về Ma giáo hay Tà giáo. Tất cả những sách dạy ta về các phép thuật huyền bí đều hoàn toàn không tốt. Người đọc và nghiên cứu về tà ma chỉ đầu độc linh hồn mình mà không làm sao tránh khỏi mọi ám ảnh độc hại được.
- Thưa thầy, nếu bị lỡ lầm như vậy, ta làm thế nào để thoát khỏi cái nghiệp chướng đó?
- Hãy trở lại với sự hiền lương của tuổi thơ, mới mong tự mình giải thoát lấy được.
- Con vẫn chưa hiểu làm sao đọc sách không đúng phương pháp và chọn đúng nội dung của nó lại trở thành điên loạn?
- Đó là cả một chuyện dài dòng! Ở trên quả đất này chúng ta chẳng khác nào như những vật chơi có những tế bào và những luồng điện năng với các tốc độ rung chuyển trong thân thể ta một cách thật gắn bó.
Nó đâu có khác nào như những chiếc máy thu thanh nhận được các làn sóng điện trên khắp thế giới. Bộ óc của chúng ta chẳng khác nào như những máy thu thanh có thể nhận được những tin tức hoặc mệnh lệnh hay những chỉ dẫn của "linh thần" qua một siêu tần cao rồi chuyển đến một siêu tần thấp hơn thích hợp với cái xác thân để điều khiển mọi hoạt động...
Bộ óc của con người là một cái máy điện tử có chứa hóa chất. Phản ứng của hóa chất có thể đưa đến những sự hoạt động sai lầm tai hại. Tâm trí của chúng ta có thể chịu một phần trách nhiệm, có thể tự có những ý kiến và định đoạt để lấp bằng cái lỗ hổng nếu có giữa những hoàn thiện tuyệt hảo của "linh thần" với những điều kiện khó khăn ở trái đất.
Tôi ngắt ngang lời thầy tôi hỏi:
- Vậy, thưa thầy người Tây phương có chấp nhận lý thuyết điện năng ở bộ óc của con người không?
- Có! Có chứ ! Có những bệnh viện họ có máy đo "óc" ghi lên đồ bảng và mang đi nghiên cứu có thể biết được bệnh nhân đó bị mắc bệnh tâm trí hay không?
- Thưa thầy, nhà sư Nhật đó, có phải thật sự điên hay chăng?
Không đáp lại câu hỏi này, Ngài đến cầm lấy tay tôi lên tiếng có vẻ gấp rút:
- Đi, đi ngay, Lỗ San! Chúng ta đến gặp ngay ông ta. Bình thường ông ta ăn nói khôn ngoan lắm. Rồi chú ắt thấy và ta mong rằng chú sẽ không còn thắc mắc nữa.
Minh Sư Minh Đà Đông Đạt vừa nói vừa bước ra bên ngoài. Tôi lặng lẽ lẽo đẽo theo sau.
Người đi dọc theo hành lang, xuống tầng dưới thẳng đến khu nhà ngang nơi có nhiều căn phòng dành riêng cho các bệnh nhân nằm điều trị. Chúng tôi đến cái gác xếp, không lớn không nhỏ, cửa sổ trông ra Khatilinga, tại đây một nhà sư đang ngồi trên cái ghế mây, vọng mắt nhìn nhìn ra ngoài trời.
Khi nhìn thấy Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt, ông vội vàng đứng lên chắp tay cung kính cúi đầu thi lễ:
- Đạo hữu không nên quá khách khí, xin hãy tự nhiên. Thầy tôi nói. Hôm nay tôi đưa đến đây một chú "tiểu" trước là ra mắt sau nữa để được nghe những lời lẽ tốt đẹp nhất của đạo hữu dạy bảo. Chú tiểu này được đặc biệt huấn luyện theo lệnh của Ngài Tối Cao Lạt Ma, tất nhiên là đủ trí thông minh để hiểu biết được những điều gì đạo hữu giảng giải!
Nói xong thầy tôi chào từ giã nhà sư đoạn bước thẳng ra bên ngoài. Đợi cánh cửa khép kín lại, ông ta mới bắt đầu nhìn tôi mỉm cười, đưa tay chỉ chiếc ghế mây đặt đối diện:
- Chú cứ ngồi tự nhiên. Bây giờ chúng ta hãy xem nhau như đôi bạn, một già, một trẻ!
Đợi tôi ngồi xong xuôi,ông ta mới bắt đầu lên tiếng hỏi:
- Chú tên là...
Không đợi nhà sư Nhật này nói dứt lời, tôi đã đáp ngay lại:
- Thưa, con tên là Lỗ San!
Tôi vừa lễ phép đáp vừa lưu ý từng hành động của ông ta, mục đích là đề phòng rủi ro bị nhà sư nổi hứng lên cơn ắt không thể tránh khỏi tai họa oan uổng!
- Này, chú tiểu của ta ơi! Nhà sư điên này bắt đầu đi ngay vào vấn đề mà tôi hằng tìm hiểu. Điều đầu tiên ta yêu cầu chú là đừng bao giờ để cho đầu óc còn trắng trong của chú bị nhồi sọ bởi ba thứ sách vở nói về phép lạ với huyền bí.
Đó toàn là những chất béo khó tiêu hóa, làm cản trở không ít sự tiến hóa của loài người. Ta đã nghiên cứu đủ các loại tôn giáo và tìm hiểu bất cứ điều gì về phù thủy, quỷ thuật, về phép lạ và tà ma.
Tóm lại những điều mà con người còn băn khoăn chưa tìm hiểu được thì ta đã nghiền ngẫm và biết đó là những cái gì mà người xưa từ bao nhiêu thiên niên kỷ đã cố tình làm ra vẻ bí mật để che dấu ta.
Nói đến đây, nhà sư này đứng lên đi về phía cửa sổ tì tay lên mấy chấn song như tuồng để suy nghĩ điều gì. Không biết mất trong bao nhiêu lâu, song sau đó thì nhà sư từ từ quay lại ngồi vào chỗ cũ tiếp tục giảng giải:
- Ta cứ tưởng với mớ kiến thức kếch xù đó mình sẽ đạt được đến đỉnh cao vô địch, sẽ trở thành một người quán thế, không còn kẻ nào có thể so sánh kịp! Nhưng có ngờ đâu, chính cái ấy đã đầu độc ta, làm lý trí ta bị đen tối, làm cho ta lúc nào cũng cứ nghĩ mình là Đấng có đầy đủ quyền uy bao trùm khắp cả thế gian này!
Kể từ dạo ấy, bộ óc ta hoàn toàn bị bại hoại, nhiều lúc không còn tự chủ được khiến ta lang thang như những oan hồn lạc lõng.Thú thật với chú, cho đến ngay trong giờ khắc này, giờ phút mà ta còn tỉnh táo, đang ngồi trước mặt chú, hiểu biết chú không cần qua sự giới thiệu, rằng là...chú là ai, tại làm sao chú đến đây và đến để làm gì.
Nhưng, điều mà ta có thể thông báo cho chú biết, đằng sau của con người mà chú đang đối diện còn có hình ảnh của một kẻ điên dại, nó hiện thân của một con thú dữ, có cơ nguy đem lại cho chú nhiều điều phiền toái!
Hy vọng rằng chú sẽ không bị mệnh hệ thế nào, xin các Đấng Linh Thiêng hộ phù cho chú nếu rủi ro gặp phải điều gì không tốt lành! Ta thành thật khuyên chú đừng nên tò mò đọc bất cứ một loại sách vở nào xét thấy không có lợi gì cho trí tuệ mình.
- Thưa thầy, có đọc mới biết, còn nghe thì chỉ có tin hay chẳng tin mà thôi.
- Tin là một đức tính tốt, mà các tín hữu hay các con chiên cần phải có, nhưng ta muốn chú phải tìm hiểu cái biết. Chỉ có cái biết mới mong tránh được những thảm họa. Sách in ra không nguy hiểm, nhưng tư tưởng và lời lẽ của nó có thể bị độc hại!
Nó chẳng khác nào như tất cả loại thực phẩm, người ta không thể ăn được tất cả mọi thứ, không thể pha trộn lẫn lộn các thức ăn không hợp với nhau để tự mình làm sức khỏe mình có cơ nguy suy sụp! Đọc sách đâu có khác gì như vậy!
Đọc sách lành thì ảnh hưởng điều thiện, nâng niu sách xấu trong người ắt không thể nào tránh những hành vi tội lỗi! Vậy ta khuyên chú không nên đọc các sách có nhiều lời lẽ hứa hẹn mang lại cho ta những phép mầu huyền bí.
Chính những loại sách này sẽ đầu độc đầu óc chúng ta, khiến không còn tự chủ được. Như ta đây chẳng hạn, ta biết mình đang hành động gì trong lúc ấy, nhưng không thể nào tự chế được!
- Thưa Đại sư đã từng đi chu du trong thiên hạ?
Nhà sư Nhật nhìn tôi chằm chặp không chớp mắt:
- Ta sinh ra trong một ngôi làng nhỏ tại đất nước Phù Tang. Lớn lên theo học ngành Thông Thiên Học. Ta cũng đã học qua nhiều lý thuyết tôn giáo và từng luyện tập các môn thuộc "thần bí học". Ít lâu sau đó ta được sự khuyến khích nên đi ra ngước ngoài ở ngay bên kia bờ Đại Dương để tìm tòi học hỏi thêm.
Suốt năm mươi năm trường ta đi từ xứ này qua xứ khác, lục địa này đến lục địa kia, luôn luôn tìm tòi các môn học mới mẻ toàn là những phép lạ ngoài sức tưởng tượng của ta.
- Thưa Đại sư, có thể cho con biết đó là những phép lạ gì không?
- Đủ các loại, như phép lạ do đoàn Âm Binh tận trên từng tinh tú kết hợp, chính phép lạ này đã nhiều phen xâm phạm đến "Ngân tuyến" của ta. Sau này có dịp ta sẽ nói thêm cho chú biết điều này.
Ta nghiên cứu cả các thuật "Bói, Độn,Thuật số hoặc cả Tử vi, Nhân tướng học. Ta biết cả Mai Hoa Dịch Số, ta hiểu rõ về Tam Thế Diễn Cầm, về Lục Nhâm Đại Độn. Ta có thể tự hào thành thạo cả Bát Quái, thông hiểu cả Phong Thủy, cũng như Trạch Cát, Tinh Tượng...
Có điều cái mà ta đam mê nhiều nhất về Quyền mưu quỉ bí, Ảo thuật, Ma phương, Cửu cung, Hồng phạm khiến trí óc ta nhiều khi như trăm mối tơ vò, lẩn quẩn mãi không thể tìm ra lối thoát.
Và cũng như lần trước, nhà sư đến nơi cửa sổ đứng yên lặng tì tay vào song sổ nhìn ra bên ngoài lẩm bẩm điều gì tôi không nghe rõ. Sau đó, ông ta từ từ quay lại đến ngồi xuống nắm lấy tay tôi:
- Ta học cả Kinh dịch, cả Thái ất Thần kinh, nhưng ta vẫn còn cảm thấy chưa đủ. Thế là ta sang Ấn Độ tìm các môn phái Thiền học tĩnh tọa! Nơi đây ta học Yoga, đó là môn Thiền ra đời từ mấy ngàn năm trước.
Ta bắt đầu say mê với các môn phái mới mẻ mà ta vừa khám phá được, nó đã đưa con người đạt đến mức thâm sâu nhất của tư tưởng, đạt đến chốn quyền năng thượng thặng.
Lúc bấy giờ ta mới nhận thấy mình vẫn còn kém cỏi đối với sự hiểu biết của các thánh nhân từ ngàn xưa lưu lại.
Ta bắt đầu học hỏi nghiên cứu. Thì ra con người có nhân duyên nhân quả, mới mong đạt được đến Bát Thức và Vô Lượng Thức, chỉ đến khi ấy mới hy vọng hòa đồng với Vũ Trụ bao la, và với cả cái Vô Hình Vô Ảnh.
Khi mà ta đã thông suốt và luyện được các bí quyết thâm sâu đó, thì cơ thể này trở thành nhẹ nhàng như mảnh lông hồng không còn cái gì có thể lôi kéo lại được!
Đến lúc đó ta có thể thoát khỏi sức hút của trọng lực trái đất, bay thẳng lên cao đúng theo cung cách của các nhà Fakir, điều khiển được muôn vật, muôn hình quanh ta bằng luồng điện trí năng và cả bằng linh giác.
Nhận thấy tôi còn bán tín bán nghi về những lời ông vừa nói, nhà sư này gật đầu nói lên lời xác quyết:
- Có thể là chú chẳng mấy tin những lời ta vừa nói. Ta cho chú biết đó là sự thật. Chú hãy xem đây.
Nói xong, nhà sư Nhật Bản này ngồi với tư thế tĩnh tọa, hai tay chắp ngay trước ngực, mắt nhắm nghiền, mặt nhìn thẳng ra phía trước. Và không bao lâu sau đó thân hình nhà sư từ từ nhấc lên, cao dần, cao dần cho đến khi cách mặt đất nơi tôi ngồi hơn hai thước.
Tôi vô cùng ngạc nhiên, không dám rỉ hơi nói ra lời nào, sợ làm mất đi không khí tĩnh lặng có thể mang đến sự rủi ro cho ông ta!
Nhưng, cũng chỉ sau đó không bao lâu, nhà sư Nhật từ từ hạ xuống, mở choàng mắt ra, nhìn tôi, gật đầu chào, như tuồng Người mới đi đâu trở về gặp lại.
- Đây là một môn thuộc hàng tối cao của nền văn minh cổ đại. Ta tưởng thế giới văn minh ngày nay không thể nào bỏ qua một di sản vô cùng quí báu mà những Thiền giả từ ngàn xưa lưu truyền lại.
Nó không phải là việc làm vô ích, nếu người sử dụng nó làm điều có ích lợi cho nhân quần xã hội! Từ đó ta lại đi khắp cùng trong thiên hạ, từ lục địa này đến lục địa kia, luôn luôn tìm hiểu các môn học mới. Ngoài sự tìm tòi học hỏi về các môn học thần bí, ta cũng còn nghiên cứu về nghệ thuật siêu nhiên.
Các nghệ thuật mà ta tìm hiểu, trước tiên là nghệ thuật ban sơ của con người, nó có ý nghĩa gì, nó có mang nhiều chức năng khác như siêu nhiên chẳng hạn! Ta tin một cách tuyệt đối là từ hàng vạn vạn năm về trước, con người đã có một tiềm năng vô địch mà ngày nay khoa học vị tất đã sánh bằng!
Ta có lần gặp một người tiều phu tại chân núi Hy Mã Lạp Sơn này nơi giáp ranh với Trung Quốc và cũng luôn cả phần đất Ấn Độ nữa. Người tiều phu này không bàn luận với ta chuyện củi quế trong rừng sâu, mà nói toàn chuyện quyền năng, phép tắc.
Ông ta cũng không nói về vòng danh lợi của con người mà bàn toàn chuyện những hình ảnh nghệ thuật siêu nhiên tự ngàn xưa lưu lại. Ông ta quả xứng đáng là con người của nghệ thuật vị nghệ thuật.
Ông ta đưa ta vào từng hang động, chỉ nghe không thôi mà ta đã mường tượng như chính mình đang mò mẫm tìm những điều gì bí mật ở chốn nhân gian này! Nhưng nói đến đây, bất giác ông ta đứng vụt dậy:
- Tiếc thay, sắp đến giờ riêng tư của ta rồi. Chú không nên chần chờ ở lại đây nữa!
Không kịp để tôi bái biệt, nhà sư Nhật Bản này đã đẩy tôi ra rồi đóng sầm cửa lại. Điều này khiến tôi băn khoăn không ít! Mãi đến khi về phòng, tôi mang ra hỏi mới biết hàng ngày nhà sư ít nhất có một lần lên cơn như vậy!
Câu chuyện nhà sư Nhật nói về cuộc gặp gỡ giữa ông ta với người tiều phu nói về nghệ thuật lúc bấy giờ trùng hợp với các hình ảnh chạm trổ của người nguyên thủy tại trong các hang động gần đây như sau:
Những bức bích họa trong hang có ý nghĩa gì? Chúng chỉ đơn giản là "nghệ thuật vị nghệ thuật" hay còn mang nhiều chức năng khác? Các tiếp cận đa ngành có thể trả lời như sau:
Tháng 2 năm 1994, Jean Marie Chauvet cùng hai người bạn khác khám phá được các hang động ngay vùng Archède tại nước Pháp. Nơi đây họ hy vọng tìm được những bằng chứng của nên nghệ thuật lúc ban sơ của nhân loại, nhưng chưa thành công.
Tuy nhiên họ bắt đầu biết đến những hình ảnh được xem là tuyệt vời dưới đất của thời Đồ đá mới (40.000-10.000 năm trước); ngoài ra họ cũng tìm tòi và biết nghệ thuật tại Lascaux, Niaux cùng các địa danh nổi tiếng khác.
Nhưng cả ba người này đều tỏ ra vô cùng ngạc nhiên khi phát giác ra được trong một hang sâu nằm ngay dưới ngọn đồi bên dòng sông Archède, nơi đó còn hiển hiện dấu ấn của bàn tay con người. Theo họ nhận thấy đây là những bàn tay của những người thuộc thời cổ đại.
Họ nhìn thấy vô số hình ảnh được vẽ ra, hoặc được chạm trổ khá tinh vi tại các vách đá toàn là hình ảnh sinh động của các chú ngựa đủ cỡ, hoặc sư tử, hoặc bò tót, hay tê giác cũng như ma mút - loại này ngày nay đã tuyệt chủng.
Nhóm ba người bạn này rọi đèn xuyên qua bóng tối, nhìn thấy rõ các đống xương gấu, các chỗ nhóm lửa sém đen và nhiều hình ảnh khác! Họ cảm thấy như đang chìm sâu vào một thế giới linh thiêng đã mất từ lâu.
Hai anh Hà Mịch, Lâm Trần cùng chú Sĩ Cát đã ngồi đợi sẵn tại căn phòng khách được thầy Minh Đà Đông Đạt dành riêng cho tôi.
Đây là một căn phòng không lớn không nhỏ mà tôi là người duy nhất trong hàng ngàn các chú tiểu được hưởng đặc ân này. Không gì vui mừng bằng đã lâu nay mới được gặp mặt lại chú Sĩ Cát cùng hai người bạn vong niên đến viếng thăm mà tôi hằng trông đợi. Đêm ấy chúng tôi bàn đủ mọi thứ chuyện, trong đó có vấn đề liên lạc với các linh hồn ở bên kia thế giới.
Anh Hà Mịch tỏ ra hăm hở nhất khi nói đến sự chết và đời sống của Thế Giới Bên Kia. Bằng một giọng quả quyết, anh bắt đầu đi vào câu chuyện mà tôi cần muốn biết đến:
- Tôi quả quyết là có đời sống bên kia cửa tử. Họ không chết. Họ vẫn còn sống như chúng ta đang sống. Sự việc này chẳng có gì là mới mẻ cả. Đã từ bao nhiêu thế kỷ những nhà tâm linh học nhiều lần xác quyết họ đã từng tiếp xúc với các người chết.
Họ từng được nghe có nhiều linh hồn đã thổ lộ với họ là chẳng gì buồn lòng đối với họ khi nhìn thấy cái nghĩa trang, nơi có nấm mồ mà lòng đất đang ôm ấp cái vỏ mục nát của mình!
Với họ các vong linh đó cho rằng âu đó chỉ là sự cố tình che dấu sự thật! Thật ra nó chẳng có gì cả, chẳng là gì cả, nó hoàn toàn "trống không", hoang vắng. Với họ cái chết của con người chỉ là sự chuyển tiếp của cuộc sống này qua cuộc sống khác, qua trung gian của cái chết!
Ngừng trong giây lát, anh Hà Mịch tiếp tục kể:
- Lỗ San ạ! Khi bước qua bên kia cửa tử, mỗi người chúng ta sẽ gặp lại chính "nhân tính" của mình và đọc lại những trang sách dẫy đầy những kỷ niệm chẳng khác nào tấn tuồng trên sân khấu có đủ cả hỷ, nộ, ái, ố.
- Tôi có cảm tưởng dường như anh Hà Mịch đã trải qua một lần chết rồi vậy!
- Đúng như vậy! Anh Hà Mịch gật đầu xác nhận Thật không gì hứng thú bằng! Quả là một thứ hứng thú đặc biệt.
Nếu trải qua một lần chết rồi mới biết chẳng có gì khủng khiếp cả. Đến đây, anh lại ra chiều đăm chiêu như thể để lục lại ký ức về trường hợp "chết" của mình, rồi bắt đầu thuật lại:
- Lúc bấy giờ tôi từ xứ sở Tây Tạng này trở về bán đảo Đông Dương, đột nhiên tôi lên cơn sốt nặng, sau đó thì mê man chẳng còn biết gì nữa. Đến nửa đêm bất thần tỉnh lại. Nhưng khi mở mắt ra, tôi không khỏi ngạc nhiên khi nhìn thấy có ai đó đang nằm bên cạnh mình.
Điều làm cho tôi bàng hoàng kinh hãi là càng chăm chú nhìn, càng nhận thấy kẻ đang nằm bên cạnh giống hệt tôi như hai giọt nước, từ mặt mày đến hình dáng và luôn cả lối ăn mặc tôi đang vận trong người.
Tôi bắt đầu nghi ngờ là như có điều gì bất thường đang diễn ra chung quanh mình. Nhìn đồng hồ quả lắc, kim chỉ đúng 3 giờ 15 phút sáng. Bây giờ đã sắp đến canh năm. Tư bề hoàn toàn tịch mịch. Tôi sờ soạng tìm chiếc đồng hồ quả quít dây vàng 24 kara khi ngủ vẫn còn cẩn thận cài nơi túi áo trên. Nhưng không còn nữa.
Ai đã đánh cắp mất từ bao giờ rồi. Tôi bèn đến chiếc tủ cất hành lý mà khi mới vào khách sạn người bồi phòng đã mang hộ cất tại đây. Giờ thì hành lý của tôi cũng như chiếc đồng hồ quả quít đã không cánh mà bay. Tôi trở về giường để quan sát lại một lần nữa con người nằm bên cạnh đang say sưa trong giấc ngủ.
Ông ta vẫn nằm yên bất động. Tôi cố lấy hết sức can đảm cúi xuống để nhận diện kẻ đó là ai? Tại sao lại lên nằm bên cạnh tôi như vậy? Người này có liên quan gì với tôi chăng? Nhưng tôi thật sự hốt hoảng khi nhận ra kẻ ấy không ai xa lạ mà chính là tôi!
Hóa ra tôi đã chết ? Có thật thế ư ? Tôi khựng lại lẩm bẩm tự hỏi:
"Mình chết thật rồi ư?".
- Ừ, thì anh chết thật rồi, Hà Mịch ạ! Một giọng nói hơi quen thuộc đã từng nhiều lần tôi nghe thấy, nhưng bây giờ không còn nhớ nữa, đang văng vẳng bên tai tôi.
Tôi cũng chẳng khác gì anh, nhưng có điều là tôi chết trước anh lâu lắm rồi. Thôi bây giờ anh theo tôi, ra ngoài kia ngồi ôn lại những việc anh đã làm trong suốt chặng đường anh còn hiện hữu ở thế gian!
Tôi chỉ nghe tiếng nói mà tuyệt nhiên chẳng nhìn thấy bóng dáng của ai đó đang đeo đẳng bên mình. Tôi lặng lẽ theo âm thanh của kẻ đó dẫn dắt đến nơi mỏm đá trắng rực rỡ những tia sáng lấp lánh như ánh ngọc, và lung linh tợ như ánh kim cương dưới ánh mặt trời.
Như có một sức mạnh huyền nhiệm nào đó ấn mạnh vai tôi, thế là tôi từ từ ngồi xuống! Tiếng nói của ai đó lại văng vẳng vọng lên:
- Anh Hà Mịch! Hãy ôn lại đi cuộc đời của anh từ ấu thơ cho đến khi buông tay nhắm mắt!
Thế là hình ảnh của cả cuộc đời tôi lần lượt hiện ra trước mắt như một cuộn phim trình chiếu trên màn ảnh. Thật nhanh và thật súc tích. Tôi nhìn thấy cả những việc thiện và những điều tội lỗi mà lúc sinh thời mình đã nhúng tay làm.
Tất cả đều hiện ra một cách rõ ràng, không sơ sót lấy một tơ hào nào! Một cuộc đời của con người không phải là ngắn ngủi, song với hình ảnh trưng ra các hành động mà trong lúc sinh thời tôi đã tạo nên lần lượt từ trong tiềm thức tôi xuất hiện phơi bày ra trước mắt!
Xem xong cuộn phim, tôi lại nghe thấy giọng nói ngọt ngào vẳng vọng đến:
- Hà Mịch! Bây giờ thì tôi đưa anh đi tìm Tình Thương nha!
- Tình thương?
- Vâng! Đó là một sinh vật "Ánh Sáng".
Và tôi đã được gặp. Khi nhìn thấy sinh vật Ánh Sáng tôi biết ngay đó là hình ảnh Đấng Quyền Uy Tối Thượng.
Người Ánh Sáng rực rỡ gấp cả hàng ngàn, hàng vạn lần của vầng thái dương, nhưng lạ lùng thay ánh sáng rực rỡ phi thường của Sinh Vật Ánh Sáng đó không làm cho tôi choáng mắt. Tôi có cảm tưởng nguồn ánh sáng quí báu đó hàm súc cả sự hiểu biết, và ban bố cho tôi một thứ tình yêu vô hạn.
Câu chuyện chết của anh Hà Mịch kể, làm tôi sực nhớ lại chuyện anh thợ máy Tom chết dưới chính cái xe của mình. Câu chuyện này được ghi lại trong tập Nguồn Suối Đen của Mark Twain, nhà văn hào nước Mỹ. Khi Tom được cứu sống, có một nữ ký giả đến phỏng vấn:
- Anh có thể kể trường hợp anh được sống lại hay không?
- Thật tình tôi không thể
diễn tả lại bằng lời nói.
- Tại sao lại không?
- Vì đó là chuyện một cái gì mà trong cõi đời này không biết được và không thể nói hết được.
- Là thế nào, thưa anh?
- Bởi nó toàn là Tình Yêu!
- Tình yêu? Thế là nghĩa làm sao?
Anh Tom nhắm nghiền mắt lại, như thể để ôn lại và tận hưởng những gì anh đã thu nhận được khi anh chết. Và giây lâu sau mới bắt đầu kể tiếp:
- Chắc cô cũng thừa rõ, trên đời này chỉ có tình yêu vợ chồng và lòng yêu quý con cái là bao trùm hơn tất cả. Ấy thế mà những thứ ấy nó chẳng thấm tháp vào đâu đối với Tình Yêu Ánh Sáng.
Đó là một thứ tình yêu mênh mang bao trùm cùng khắp. Tôi cũng đã từng nghe thầy tôi kể lại sau khi người đọc từ những tập sách của các nước Tây phương, cũng không ngoài sự ca tụng vị linh thần Ánh Sáng, có một sinh lực thật đặc biệt, một sức sống vô cùng quý báu. Họ có phép thần thông và nơi họ không bệnh hoạn hay ưu tư sầu muộn.
Anh Hà Mịch như bị tràn ngập nỗi xúc động, nên lại thêm một lần nữa, giọng anh nghẹn ngào, mãi đến khi tôi, chú Sĩ Cát và anh Lâm Trần thúc giục, lúc ấy anh mới bắt đầu thuật tiếp:
- Thầy tôi cũng cho biết mặc dù được tiếp xúc với sinh vật Ánh Sáng, linh hồn kẻ chết cũng chưa có thể trở thành một linh hồn toàn thiện, toàn hảo được.
Nó vẫn còn vướng víu bởi những tội lỗi đã phạm phải lúc sinh thời. Vì vậy, những linh hồn này vẫn còn phải vất vưởng ở chốn thế gian mà người sống không thể nhìn thấy bằng mắt của người phàm được.
Họ, những vong hồn vất vưởng ấy sống chung đụng với ta, nhưng nào đã có ai biết được? Lúc ấy các vong hồn chẳng may mắn đó chưa biết suy nghĩ, ước muốn điều gì? Có lắm linh hồn khi còn sống thân xác bị vướng phải tật gì, thì khi chết vẫn đa mang tật ấy!
Vì vậy những người nghiện rượu trác táng, khi chết linh hồn chưa siêu thoát qua Cửa Tử được, mà họ phải cứ lảng vảng đến quán rượu để tiếp tục hưởng thụ kiếp sống thấp hèn như vậy. Do đó, hình ảnh của sinh thể Ánh Sáng cũng phai mờ với họ. Sự đau đớn tự họ đem lại còn cao hơn sự quằn quại của những cơn bệnh trầm kha ở thế gian.
- Có cách nào để thoát được không? Người nữ ký giả này hỏi.
- Nếu dốc lòng chừa cải, và nếu còn luyến tiếc trần gian thì họ có thể được tái sinh để đền bù tội lỗi!
Đến đây, tôi bất thần hỏi:
- Anh tin là có sự tái sinh sao?
- Có! Tôi tín là có. Chắc chắn chú Sĩ Cát và luôn cả anh Lâm Trần cũng đều tin như vậy. Thật khó lòng mà giải thích tỉ mỉ được, bởi nó vô cùng phức tạp.
Nhiều khi có những linh hồn chưa đi đầu thai được thì sống chung đụng với chúng ta đêm cũng như ngày. Lỗ San nên nhớ rằng linh hồn thuộc về chiều đo thứ tư. Luồng sóng điện của họ khác hẳn với sóng điện của chúng ta.
- Khi anh chết, anh có nhìn thấy ma không?
- Không phải đợi đến khi chết mới nhìn thấy mà ngay cả lúc sống, trong điều kiện nào đó chúng ta đều có thể nhìn thấy người chết. Có người nhạy vía còn thấy ma hiện lên hay bị ma hành!
Đạo thờ quỷ thần ở Phi Châu, đừng tưởng đó là dị đoan, vô căn cứ, phản khoa học, mà là một chứng minh cho sự kiện có người chết đang sống giữa chúng ta.
Họ là những linh hồn không siêu thoát, họ bị đày đọa giữa trần gian, nơi họ phạm lắm điều tội lỗi. Những vong hồn này luôn luôn cầu nguyện xin được "Sinh Thể Ánh Sáng" cho họ được chuộc tội!
Chú Sĩ Cát bỗng nhìn chú Lâm Trần mỉm cười hỏi:
- Hình như anh Lâm Trần cũng đã...
Không đợi chú Sĩ Cát nói hết câu, anh Lâm Trần gật đầu đáp lại:
- Đúng vậy. Tôi cũng đã trải qua một lần lìa bỏ thế gian này!
- Vâng. Tôi cũng đã từng một lần chết. Nhưng cái chết của tôi có phần khác hơn anh Hà Mịch. Tôi cũng gặp được Linh Thần Ánh Sáng và tiếp nhận lòng nhân từ mà tôi cảm thấy không còn danh từ nào diễn tả hết được!
Ánh sáng của Linh Thần bừng sáng lên như một vầng hào quang rực rỡ. Tôi có thể nói rằng nếu Linh Thần có thể chấp nhận cho tôi được sống vĩnh viễn bên cạnh Người, thì chính đây là bước đầu tiên tôi xin được ơn che chở đó.
Nhưng mà không bao lâu sau đó, vầng hào quang rực rỡ của vị Linh Thần Ánh Sáng mờ nhạt dần đi, và cuối cùng là những bóng ma chập chờn hiện ra trước mắt! Hình ảnh của những bóng ma này lúc thì như những chiếc đầu lâu trắng hếu, khi thì hình ảnh của các dạng hình người đầu thú.
Lại có cả những bóng đen dị hợm, vây chung quanh tôi như sẵn sàng quẳng tôi vào đống lửa đang ngùn ngụt cháy. Bên tai tôi như thể có những âm thanh rền rĩ, kéo dài như một điệp khúc của bản nhạc trầm buồn tiễn đưa kẻ chết đến chốn an nghỉ cuối cùng!
Tiếng nhạc cứ thế vang lên và biến mất giữa khoảng không gian mênh mang vô tận. Bất giác, tôi có cảm giác như mình biến thành như con vụ đang bị một sức mạnh vô hình quay tít đến độ tôi nhận thấy tất cả cảnh vật chung quanh đều biến mất, chỉ còn là một điểm đen nhỏ mút bằng đầu ngòi bút viết xoáy mạnh vào mắt tôi.
Và cứ như thế hết vòng xoáy này đến vòng xoáy khác, tôi phải hét lớn lên vì đau đớn. Thế rồi bất thần tiếp theo sau đó, toàn thân tôi như bị bàn tay vô hình nào đó xốc mạnh lên và vứt cả xác thân tôi xuống tận đáy một hố sâu thăm thẳm, bên dưới lúc nhúc từng đàn rắn rít.
Chúng chỉ đợi khi xác thân tôi rơi xuống là đổ xô đến bám lấy tôi cùng khắp, quấn vào chân tôi, tay tôi, cổ tôi và lè dài chiếc lưỡi đỏ như lửa ra liếm khắp mặt mày tôi từ tai, mắt, mũi và luôn cả miệng, mồm tôi không bỏ sót một chỗ nào.
Thú thật, tôi sợ đến lạnh điếng cả người. Đàn rắn làm cho tôi kinh hồn khiếp vía đã đành, lại còn bị hàng trăm con rít đầu vàng chui vào trong người tôi, tranh nhau với cả hàng đàn bò cạp đen sì sì không biết cơ man nào mà kể, len lỏi cùng khắp ở châu thân tôi.
Chỉ cần một cái chích nhẹ truyền nọc độc vào cũng đủ làm cho cả thân hình tôi sưng vù lên như cái thây ma chết sình trôi lềnh bềnh trên mặt nước. Trước cảnh tượng này tôi run lên cầm cập, muốn hét lớn lên cầu cứu, nhưng miệng mồm tôi như khớp hẳn lại.
Giữa lúc đó, thì bỗng có tiếng ai văng vẳng bên tai:
" Lâm Trần, ý thức giống như cả một lòng đại dương mênh mông, trong đó có những sinh vật khác nhau sống với các mực nước khác nhau.
Đó là hình ảnh hàng ngày cho ta thấy những gì đã xảy ra trong cuộc sống, sẽ được sàng lọc và đọng lại trong ý thức, tiềm thức và luôn cả trong vô thức nữa!
Lâm Trần, hiểu rồi chứ? Với những kẻ thiếu lòng nhân, cái chết như một cơn ác mộng. Bây giờ thì hãy quay về đi, bởi cái kiếp của ngươi vẫn còn chưa trả hết. "
- Và, chú ..
Tôi chưa kịp hết lời chú mỉm cười cầm lấy tay tôi chua chát nói:
- Vâng! Tôi sống lại sau lời nói ấy từ vị linh thần Ánh Sáng phát ra. Và ta quyết sẽ làm lại cuộc đời tôi không cần giải thích, ắt Lỗ San cũng thừa rõ.
Chú Sĩ Cát trầm ngâm trong giây lâu, đoạn cất tiếng nói:
- Tiềm thức có khi giải quyết được những vấn đề mà ý thức không làm nỗi. Nó có thể cho ta các ý tưởng mới. Nhưng với chú Lâm Trần thì khác, bởi chú không muốn phải trải qua thêm một lần nữa sống trong cơn ác mộng.!
Giấc mơ có nhiều ý nghĩa khác nhau. Tùy theo trường hợp. Có người vì bị ám ảnh của những biến cố xảy ra trong cuộc đời của họ. Cũng có những giấc mơ dự báo cho tương lai.
Ví như vài tuần trước khi cố Tổng Thống Mỹ Abraham Lincoln bị ám sát, ông đã nằm mơ thấy người ta đang khóc sụt sùi. Và sau đó ông mơ thấy xuống dưới tầng trệt trông thấy có cỗ quan tài đã đóng kín nắp để ở gian phía đông.
Ông quay lại hỏi người lính đứng gần:"Ai trong cỗ áo quan thế?" Người lính này đáp lại: "Thưa, đó là Tổng Thống! Ông ta đã bị ám sát." Và quả nhiên, sau đó thì biến cố đã diễn ra cho ông.
Với chú Lâm Trần thì không phải như vậy. Có thể chú là một trong những người được nhìn thấy cảnh địa ngục. Nhưng may mắn thay chú vẫn còn nặng nợ với đời, và vị Linh Thần Ánh Sáng ở tận cõi Siêu Nhiên kia cho chú một cơ hội để ăn năn hối cải, nếu chú tự xét mình đã phạm phải lỗi lầm.
Tashilunpo là một tu viện đẹp nhất của xứ sở Tây Tạng. Tôi đã từng có một lần vào buổi sáng bình minh cùng Minh Sư đưa nhau đến ngọn đồi đối diện để chiêm ngưỡng công trình mỹ thuật này. Ánh sáng trải lên các mái ngói đỏ làm nổi bật giữa nền bóng đen của ngọn núi Thương Tích.
Hình ảnh này làm tăng thêm vẻ huyền bí của tu viện! Được biết tu viện được xây tại ngay thủ đô Xigaze của Tây Tạng mà hiện nay là thành phố lớn vào bậc thứ hai của xứ sở này chỉ đứng sau có Lhasa.
Tu viện Tashilunpo chính là nơi đức Panchen trú ngụ, xây từ năm 1447, trải qua nhiều thế kỷ phát triển dần lên. Hiện tu viện có một diện tích 18.5 ha với hơn 50 giảng đường được chạm khắc tinh vi, gồm 3.600 phòng, tất cả đều dành riêng cho các vị Lạt Ma.
Theo lời Đức Phật sống Chiazha Qamba Chili cho biết thì tu viện này trước kia có đến 3.800 vị Lạt Ma, nhưng ngày nay thì số Lạt Ma còn ít hơn, chỉ 780 vị mà thôi.
Và Ngài cũng cho biết vị tu viện trưởng vào giữa thế kỷ 20 này là hiện thân của Đức Phật sống - là cấp lãnh đạo tối cao xuất xứ từ một trong các Lạt Ma qua nhiều thử thách cam go và được sự tín nhiệm tuyệt đối.
Mỗi khi có một Lạt Ma được xem là thuộc hàng đạo cao đức dày viên tịch, người ta tin là ngài sẽ đi đầu thai thành một đứa bé khác.
Nơi ăn ở tu niệm hàng ngày của Chiaza là một căn nhà có hai phòng xây bằng gạch, các cây cột dựng lên thuộc loại quí mộc, đủ sức chịu đựng trọng lượng của tầng nhì đúc bằng đất nung bóng loáng.
Tuy sống nơi tu viện, đức Chiaza vẫn biết cách sử dụng những máy móc cần thiết như máy đánh chữ Tây Tạng, hiện nay là loại máy Flying Fish, Ngài còn vận áo veston hay thắt cà vạt vào những trường hợp cần thiết khi giao dịch với bên ngoài đúng theo nghi lễ ngoại giao.
Ngài là một Lạt Ma sùng tín tiêu biểu nhất điều hành Tashilunpo trong nhiệm vụ tôn giáo. Trách nhiệm được xem là nặng nề nhất của đức Chiaza là phải tìm cho được đứa bé hóa thân của đức Panchen thứ 10 đã viên tịch vào năm 1989 vì bệnh tim.
Tưởng cũng nên biết, không phải ai cũng có thể vào tu viện được, mà phải trải qua một cuộc tuyển chọn gắt gao qua các cuộc sát hạch khắp các nơi như Tây Tạng, Nội Mông, luôn cả các tỉnh Vân Nam, Quí Châu và Sơn Đông.
Đời sống tại tu viện, rất khắc khổ, phải dậy từ lúc 6 giờ sáng, dọn mình và tụ họp tại nguyện đường đề đọc kinh sáng Sutra, sau đó thì ăn sáng. Nghỉ ngơi được một lúc, đến đúng 9 giờ 30 kéo nhau đi làm công quả cho tu viện hay đến lớp học giáo lý.. Buổi chiều đọc kinh Sutra, ăn cháo chứ không ăn cơm vào thời điểm này.
Các thức ăn không có gì là cầu kỳ. Họ ăn thật đơn giản chỉ có bánh Tsamba và uống trà beurre Yak cùng một ít muối. Hai điều cấm kỵ của các Lạt Ma là tuyệt đối kiêng rượu và thuốc lá.
Tính số thu nhập của tu viện hàng năm chỉ vào khoảng hơn một triệu rưỡi đồng Yuan tức vào khoảng 540.800 dollars Mỹ. Số lương hướng tùy theo địa vị quan trọng, người cũ hay mới, do hội đồng tối cao Tây Tạng định đoạt.
Có thể nói cả tu viện là một mê cung gồm nhiều phòng, nhưng phòng nào cũng âm u đen tối. Hành lang dẫn đi đến các phòng thì chật hẹp còn các sân lại đầy cả bóng râm. Ở các nguyện đường có đặt nhiều tượng Phật. Tại góc phía Đông Bắc có xây một bức tường bằng gạch cao đến 32 mét và bề rộng đến 42m.
Tại nơi đây, hàng năm cứ vào tháng 6, các khách hành hương tấp nập đổ về. Các Lạt Ma vẽ hình các đức Phật trương lên, mỗi ngày một bức từ Phật Quá Khứ, Phật Hiện Tại đến Phật Vị Lai tại ngay bức tường cao này.
Nếu đi về hướng Tây Bắc ắt sẽ nhìn thấy một tòa nhà đỏ thắm. Bên trong là một pho tượng Phật Quán Âm bằng đồng lớn, có thể được xem là một pho tượng thuộc hàng bậc nhất của hành tinh này. Pho tượng có chiều cao đến 26 thước vuông, nặng 115 tấn.
Và một pho tượng khác cũng vĩ đại không kém. Đó là pho tượng được trang hoàng toàn bằng ngọc trai, mã não, san hô và luôn cả vàng lẫn bạc. Được biết pho tượng này do 110 tay thợ tài ba nhất nước làm việc suốt bốn năm trường mới tạo nên được bức tượng quí giá này.
Nhìn lên phía bên trên các bức tượng này còn treo la liệt các bức tranh vẽ có niên đại từ nhiều thế kỷ. Hình ảnh của các bức tranh vẽ đó ghi lại sự tích của Đức Thích Ca Mâu Ni và Giáo chủ Zongkaba vị Giáo chủ (1358-1419) đã sáng lập nên Phật giáo Tây Tạng, mà ngày nay được nhiều người sùng tín.
Sau đó, tôi được Minh Sư cho nghỉ ngơi thêm một thời gian nữa trước khi chuẩn bị đi làm nhiệm vụ mới. Nhân đó tôi được gặp gỡ nhà thiền sư Nhật Bản mà nhiều người cho là bị tẩu hỏa nhập ma. Tuy vậy, riêng tôi, thì đây chính là một vị chân tu có nhiều kiến thức, cần phải học hỏi.
Thế là, tôi lại tìm đến. Chỉ sau ba tiếng gõ nhẹ vào cửa, và tức thời cánh cửa được mở toang ra với giọng cười hiền hòa, nhà thiền sư ẩn tu tại thạch cốc trước kia đã đứng đợi sẵn lên tiếng:
- Ta đoán chẳng sai. Thế nào rồi hôm nay chú cũng lại đến viếng thăm ta.
- Vâng, thưa thiền sư, con cũng biết thế nào thiền sư cũng vui lòng cho phép con đến bái hầu thiền sư thêm lần nữa.
Lại một tràng cười phá lên, làm mất đi sự yên tĩnh vốn dĩ của căn phòng mà tôi được biết chẳng ai được phép khuấy động.
- Ta biết. Nếu Lỗ San không biết phép thần giao cách cảm thì chắc chắn là chẳng có giờ phút tái hội hôm nay.
Nói đến đây thì bên trong, một chú tiểu bưng ra cái khay bạc đặt ra giữa bàn, lễ phép cúi đầu và bước lùi lại theo đúng phong cách thân phận của một chú tiểu.
Chúng tôi bắt đầu vào chuyện sau vài tuần trà thơm sực mùi hương xứ Ấn. Ngài chậm rãi nói:
- Lỗ San, chắc chú nhớ câu chuyện tương truyền về đức Đạt Ma Thiền Sư vị thủy tổ của chùa Thiếu Lâm, mà ta đã suốt bảy năm trường học theo cung cách diện bích tham thiền trong một thạch động thiên nhiên trên đỉnh Ngũ Nhũ, và đức Đạt Ma này đã đốn ngộ được.
Tức thời Người đã truyền rao cho các đệ tử được biết. "Khi mà thanh tâm tĩnh trí, vạn niệm đều không thì đầu óc vị chi minh triết. Đã vậy còn thấu suốt mọi lẽ tình, mọi sự vật được khắc ghi trong trí nhớ, khác nào như dao chém đá vậy." Chú biết điều này chứ ?
Tôi gật đầu:
- Nhờ Thiền sư nhắc nhở, con đã nhớ lại điều này.
- Thế cháu biết Thiền định như thế nào không ?
- Thưa, sẽ đưa đến trí tuệ sinh!
- Vậy thì Tĩnh tọa có khác gì chăng?
- Không mà có. Bởi Tĩnh tọa được xem là một trong những phương pháp đạt được "Huệ".
Nó là một cảnh giới Thượng thừa của Phật gia. Còn Đạo gia thì nói nhằm vào "hư tĩnh", vào "vô vi".
Nho gia thì nói đến Trai tâm, Tọa vong, nhưng theo con thì đặc biệt chỉ có môn Yoga, là có thể giúp cho ta phong phú hơn lên về mọi nhu cầu cần thiết trong đời sống.
Nhà Thiền sư mù lòa giương đôi mắt trắng nhợt ra như cố thu cả hình ảnh của tôi vào trong tiềm thức người sau khi nghe tôi đưa ra sự nhận xét như trên.
- Lỗ San, ta không ngờ ngươi lại có một ý tưởng sắc bén được như thế! Đúng vậy. Nói đến Yoga phải kể đến Dhyana, Samadhi. Chính nó là chiếc chìa khóa khai mở tiềm năng trí tuệ của con người.
- Thưa Thiền sư, có thể cho con biết các bậc hiền triết Đông phương quan niệm điều này như thế nào chăng?
- Các bậc cùng một lập luận trong một quan niệm như nhau: Con người là một tiểu vũ trụ, được cấu tạo theo đúng mô hình của đại Vũ trụ. Chú hiểu chứ?
- Thưa, con chưa được sáng tỏ lắm!
- Chú chưa sáng tỏ, tức chú đã hiểu. Chú hiểu một cách mù mờ. Vậy ta khai thông hộ chú điểm này. Tất cả những gì trong Vũ trụ này đều có mục tiêu cuối cùng của nó.
Vậy mục tiêu cuối cùng của cuộc đời là sự "đắc Đạo". Có nghĩa là hòa nhập được với Đại Vũ trụ, không còn có sự cách biệt với nhau nữa, nó sẽ hòa tan vào thực thể bao la vô cùng vô tận.
- Cái gì gọi là hợp, thưa Thiền Sư.
Một là Hợp Đức với Hợp Trời, hai là Hợp Ánh sáng với hai vầng Nhật Nguyệt, ba là hợp bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, và hợp Cát Hung với Quỉ Thần. Đó gọi là Hợp mà Lỗ San muốn biết.
- Nhưng hợp rồi sẽ đi về đâu ?
Nhà Thiền sư mù ngửa mắt lên trời cười vang lên quay mặt về phía tôi đáp lại:
- Giải thoát! Là sự giải thoát! Đó là sự Minh Triết Thiêng Liêng. Biết chứ Lỗ San?
#12
Gửi vào 06/06/2011 - 22:02
CHƯƠNG SÁU
CỔ HIỀN THẠCH ĐỘNG
Nói về sự minh triết thiêng liêng, tôi sực nhớ có lần chú Sĩ Cát có nhắc đến những quyền năng kỳ vĩ, một thứ quyền năng đưa con người thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi! Nhưng có điều phải làm thế nào để đạt cho được những quyền năng kỳ vĩ đó? Đây là điều khiến tôi ưu tư không ít!
Nghĩ vậy tôi vội lên tiếng hỏi:
- Thưa Đại sư, theo con được biết muốn thoát ra khỏi vòng tục lụy con người cần phải triệt tiêu cho được mọi hoạt động của tâm thức? Vậy phải làm cách nào để thực hiện sự triệt tiêu tâm thức hầu đạt cho được không gian tuệ giác mà ta thường gọi là Chidakasha? Đại sư có thể giải thích hộ cho không?
- Khi con rắn lửa huyền bí mà các nhà Yoga thường gọi Kundalini thoát khỏi được giấc ngủ mê mệt trong Muladhara, nó sẽ chui vào Shushumna và từ đó con rắn lửa huyền điệu đó lần lượt vươn lên từng bậc charka một, để tiến đến một trình độ cao hơn trong không gian tâm linh.
Chính cái tâm linh không gian mà chú vừa nói đó là "quyền năng kỳ vĩ". Các hành giả sẽ phải cố gắng tiến lên từng bậc một, mới mong kiến nhận được vũ trụ và từ đó thăng hoa đến tột đỉnh Sahasrara, mà ta thường gọi đó là Niết Bàn.
- Nói như vậy, thưa Đại sư, khi con người đạt đến đỉnh Sahaasara thì cũng chẳng khác nào như hình ảnh của Đấng Thế Tôn toàn tri, toàn năng sao?
- Thì đúng là vậy. Lúc ấy ta sẽ thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi, thì Đấng Thế Tôn toàn tri, toàn năng cũng có thế mà thôi! Nhà sư Nhật nói đến đây đột nhiên im lặng. Mãi trong giây lâu sau mới ngẩng mặt lên nhìn tôi hỏi:
- Lỗ San, chú có bao giờ thắc mắc về cái vũ trụ bao la này với sự hiện hữu của con người chúng ta từ đâu mà có không? Chắc chắn là chú suy tư nhiều về điều này. Không phải chỉ có mỗi mình chú với ta là băn khoăn không thôi, mà ngay từ thuở hồng hoang của nhân loại, tiền nhân của chúng ta cũng đã từng ưu tư không ít!
Vấn đề này trong những năm tháng đầu của thế kỷ 21, nhà khoa học nổi tiếng James Peebles đã có lần bày tỏ nỗi băn khoăn của mình về những điều kỳ diệu của vũ trụ, đồng thời ông cũng thú thật về những cố gắng vô vọng của loài người như sau:
"Cho mãi đến ngày nay chúng ta vẫn hoàn toàn còn mù tịt là vũ trụ đã từng như thế nào vào thời điểm trước khi hình thành và sự thành hình của vũ trụ mà chúng ta đang hiện diện ra làm sao? "
Cuối cùng nhà khoa học này khẳng định: "Thật khó lòng mà tìm hiểu được, không phải thiên niên kỷ này mà còn bao nhiêu thiên niên kỷ tiếp nối nữa!"
Thế có nghĩa là nhà khoa học lừng danh này khẳng định mọi sự bí ẩn trong vũ trụ này con người không thể nào khám phá được.
Theo nhà vật lý Murray Gell-Mann thì con người cho dù đến bao nhiêu thiên niên kỷ chăng nữa cũng khó đạt đến những biên cương cuối cùng của những bí hiểm trong vũ trụ. Ông đã viết lên tâm tư mình bằng những dòng chân thành xuất phát ra từ tận tâm tư mình:
"Thật không thể nào tưởng tượng được hàng tỉ tỉ con người chúng ta đang chen chúc nhau trên một hành tinh bé nhỏ, trong khi cái hành tinh này bay chung quanh mặt trời như hàng tỷ mặt trời khác trong một dải ngân hà bé nhỏ so với hàng triệu triệu các dải ngân hà khác hiện hữu trong vũ trụ, làm sao có thể hiểu được những bí hiểm đầy sự huyền nhiệm này?
Thật là hoài công khi các nhà khoa học cứ mãi chạy đua để cố tìm hiểu các cấu trúc bên trong vũ trụ hầu thỏa mãn lòng tự hào của mình, để tuyên bố với toàn thể những con người ở vũ trụ này rằng là.
Bên trong vũ trụ chẳng có Thiên Đàng hay Niết Bàn nào cả, chẳng có bàn tay mầu nhiệm sáng tạo ra nó mà chỉ có mỗi con người mới chính là các Đấng Toàn Trí,Toàn Năng của nhân loại.
Nhà khoa học này đã phải kêu lên:
- Con người kiêu ngạo đến thế sao?
- Lỗ San ạ!
Nhà sư Nhật tiếp tục nói:
- Nhiều khi ta muốn điên lên trước những bí ẩn của vũ trụ, mà tâm thức của ta cho ta biết nhất định phải có những sự bí ẩn thâm sâu mà con người không thể nào lý giải được.
Có thể vì không lý giải được nên ta trở thành như kẻ điên dại, chính ngay cả các ngài Lạt Ma cũng nghi ngờ về sự mất thăng bằng con người của ta như chú đã biết.
Rồi bất thần nhà sư Nhật Bản cũng như lần đầu tôi đến viếng thăm, Người đứng bật dậy nắm lấy cánh tay tôi bảo:
- Lỗ San, hãy ra khỏi nơi này ngay, ta đã sắp đến giờ rồi.
Thế có nghĩa là nhà sư Nhật này sắp nổi cơn điên loạn! Tôi đứng lên và làm theo lệnh của nhà sư Nhật Bản bước ra khỏi phòng! Tôi vừa đi vừa liên miên suy nghĩ thì gặp thầy tôi từ phía trước mặt đi lại.
Nhưng lần này thầy tôi không đi một mình mà cùng đi với Người có hai vị sư già. Cả ba vừa thong thả bước đi vừa chuyện vãn như tuồng tâm đắc lắm.
Khi đi gần đến, một trong hai vị sư già nhìn tôi mỉm cười, cử chỉ thân mật của vị trụ trì này tôi có cảm tưởng ông ta như một khối băng giá đông đặc. Minh Sư nhìn tôi tươi cười hỏi:
- Lỗ San, chú vừa từ trong phòng của nhà sư Nhật ra đây phải không? Hai vị trụ trì đã bảo cho ta biết là chú đang phân vân về sự bí mật của đất trời! Có đúng như thế không?
Tôi gật đầu:
- Vâng, thưa Minh Sư, có như vậy. Nhà sư Nhật đã cho con biết sự bí mật của vũ trụ luôn luôn bị khép kín, thật khó lòng có ai có thể tìm hiểu được.
Một trong hai vị sư già này lên tiếng:
- Chú Thúc Di Lê Lỗ San Lâm Bát! Hãy gác lại chuyện vũ trụ vào một dịp khác. Giờ chúng tôi có nhiệm vụ báo tin cho chú biết là Ngài Tối Cao Lạt Ma đã có kết quả điều tra về lai lịch của chú.
Tôi không khỏi ngạc nhiên, giương mắt nhìn vị trụ trì già nua này khẽ hỏi:
- Để làm gì, thưa ngài trụ trì ?
- Để có được một kết quả mà hiện tất cả mọi người trong Thiền Viện chúng ta đều vui mừng khi hay tin chú được công nhận là hậu thân của Ngài.
"Là hậu thân của Ngài Tối Cao Lạt Ma" đã viên tịch? Đầu óc tôi như quay cuồng. Trước mắt tôi mọi vật đều như không đứng nguyên một chỗ.
- Thưa Ngài Trụ Trì là nghĩa như thế nào ?
Vị Trụ Trì cười lớn:
- Rồi chú sẽ được biết những gì sẽ xảy đến cho chú trong tương lai. Bây giờ thì.
Đến đây tôi chỉ còn loáng thoáng nghe tiếng được tiếng mất, và chỉ nhớ mang máng ở đoạn sau cùng nói về các lễ nghi, phẩm tước và chức vị Trụ Trì Đại Sư mà tôi sẽ được ban phát trong dịp lễ tấn phong sắp đến.
Sau khi nói hết mọi điều, hai vị trụ trì cùng cúi rạp người xuống trước đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt và luôn cả tôi trước khi chia tay, rẽ sang ngả khác.
Tôi thẫn thờ bước đi như một kẻ không hồn. Thầy tôi khẽ đặt tay lên vai tôi bằng giọng nhẹ nhàng nói:
- Bây giờ thì chú đã biết hết mọi diễn tiến đã qua và chuẩn bị tư tưởng để tiếp nhận những việc làm sắp đến. Cuộc điều tra mà các vị trụ trì thông báo đó chẳng qua chỉ để chứng minh những gì mà Ngài Tối Cao đã biết từ lâu.
Nói đến đây, thầy tôi mỉm cười vỗ vai tôi bảo:
- Đây là ngày mà thầy trò chúng mình vui vẻ nhất. Ta phải có một bữa khao đặc biệt đãi chú, chúc chú gặp nhiều may mắn và thành công trong nhiệm vụ mới sau này.
Đức Minh Dà Đông Đạt đưa tôi vào một căn phòng đặc biệt mà tôi chưa từng được đến bao giờ. Hai thầy trò tôi ngồi đối diện tại một chiếc bàn gỗ mun bóng lộn, trên mặt bàn đã có sẵn mâm cơm thật thịnh soạn.
Hôm ấy tôi ăn thật nhiều. Món nào cũng ngon lành, ăn quên cả no mãi cho đến khi không còn ăn nổi được nữa. Sau bữa cơm chúng tôi lại được mời sang phòng bên cạnh uống trà thơm nơi một bộ ghế xa cừ kê cạnh cửa sổ.
Chính tay Đức Minh Dà Đông Đạt trao tôi chung trà thơm thượng hảo hạng của xứ Ấn. Uống xong chung trà này, đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy tinh thần thơ thới hẳn lên.
- Lỗ San! Thầy tôi bắt đầu nói. Ngài Đạt Lai Lạt Ma đã cho phép ta thuật cho chú nghe về Cổ Hiền Thạch Động.
Nói đến đây, Thầy tôi nhìn chung quanh và khi biết chẳng có ai ở trong phòng trà đặc biệt này bèn khẽ nói vào tai tôi:
- Vài hôm nữa sẽ có một đoàn tăng sĩ đến nơi đó.
Tuy chẳng biết nơi đó là nơi nào nhưng nghe được tin này lòng tôi bỗng dấy lên niềm vui dào dạt. Bỗng dưng tôi cảm thấy hình như cái tên "Cổ Hiền Thạch Động" quen thuộc đối tôi, chẳng biết bằng cách nào và bao giờ tôi được biết đến nơi ấy?
Minh sư nhìn tôi không chớp mắt đoạn gật gù đầu lên tiếng tiếp:
- Lỗ San, ngày xưa ta cũng như chú . Ta cũng được đặc biệt huấn luyện và cũng được may mắn học hỏi được nhiều điều bổ ích. Nay thì hẳn nhiên Sư phụ ta đã qua đời! Ngài qua đời từ lâu rồi.
Nhục thể của Người hiện vẫn còn giữ tại Mật Tẩm Kim Thân. Những ngày Ngài còn tại thế, ta từng được tháp tùng đi khắp nơi thế giới, ngay cả Cổ Hiền Thạch Động mà chú sắp đến đó nữa. Ngày ấy, ta theo thầy đến một mỏm đá trắng, chính nơi ấy.
Nhưng nói đến đây Minh sư bỗng chăm chú nhìn về phía trước mặt, được một lúc Người bảo tôi:
- Kìa! Lỗ San! Hãy ngồi ngay xuống nơi này! Phía trước mặt kia, chú có nhìn thấy cái gì không?
Theo bàn tay chỉ của Minh sư, tôi khẽ đáp:
- Thưa, mỏm đá hoa cương!
- Đúng. Đó là mỏm đá trắng bóng loáng. Nơi mỏm đá trắng ấy, ngày xưa ta đã từng ngồi nơi ấy trước mặt thầy ta. Đó là cửa ngỏ bắt đầu đi vào Cổ Hiền Thạch Động!
- Cổ Hiền Thạch Động! Tôi reo lên.
- Đúng là vậy! Ta đã từng nhìn tận mắt.
Tôi vô cùng thích thú. Nỗi vui hôm ấy, tưởng chừng như trên đời này chẳng có gì làm tôi vui sướng hơn nữa. Nhưng mà lại một lần nữa khi nhìn sang bên kia tôi lại có cảm tưởng là dường như nơi này đối với tôi chẳng có gì lạ lùng.
Hình như tôi đã từng đến qua một lần nào rồi. Nhưng có điều lúc nào và trường hợp nào thì tôi cũng chẳng làm sao nhớ nữa!
Nghe nói đến Cổ Hiền Thạch Động, tôi không che dấu được nỗi vui mừng khôn xiết! Minh Sư Minh Đà Đông Đạt mỉm cười đưa tay chỉ về phía trước mặt một lần nữa đoạn thì thầm bên tai tôi:
- Lỗ San! Lúc bấy giờ ta theo chân Sư Tổ đi cùng với với ba Lạt Ma lên đường đến một dãy núi xa xôi đầy gian nan hiểm trở. Chính nơi ấy, một ngày không xa mấy chú sẽ có sứ mệnh đến đó để làm một nhiệm vụ mới do Đức Lạt Ma Tối Cao giao phó.
Sở dĩ ba chúng ta cùng Sư tổ đến nơi ấy vì vừa xảy ra một vụ nổ kinh thiên động địa làm rung chuyển cả núi non, hất tung những tảng đá lớn vung vãi khắp nơi quanh sườn núi.
Sư phụ đã cho chúng ta biết: "Đó là một sự kiện đặc biệt mà các nhà tiên tri đã cho biết từ bao nhiêu thế kỷ. Vì lẽ đó mà chúng ta cần phải đến tận nơi để nhìn xem chuyện gì đã xảy đến sau đó?"
Thế là ngay hôm sau chúng tôi mang khăn nải theo chân Sư tổ lên đường! Đi được vài ngày thì đến chân một đỉnh núi cao, muốn lên tận đỉnh cao không phải là chuyện dễ dàng! Càng tiến lên cao đường đi càng quanh co hiểm trở. Mãi đến ngày nay ta cũng chẳng biết phải diễn tả nỗi gian truân nguy hiểm đó như thế nào!
Phải quanh co mất hơn nửa ngày trời trên các ngách đi trên cao độ trên sườn núi, chỉ cần sơ ý để sẩy chân thì cả thân xác chúng ta không tránh khỏi nát như tương ngay khi rơi xuống.
Thú thật, nhiều khi chúng ta phát run lên khi phải băng ngang qua khu đá dựng, nhìn lên bên trên thì toàn là những thỏi đá nhọn nhô ra cản cả lối đi, bên dưới thì hố sâu thăm thẳm, còn bề ngang của ngách đi không đủ đặt cả hai bàn chân cùng một lúc, muốn tiếp tục bước đi, phải cố lê từng bước một.
Vì vậy mà chúng ta phải lần mò bước đi từng bước. Tuy gặp cảnh khó khăn như vậy, nhưng bọn ba người chúng ta không hề tỏ ra mềm lòng thối chí, vẫn lặng lẽ theo thầy ngày đi đêm nghỉ.
Cho mãi đến ngày thứ năm, hôm ấy trời chưa rạng sáng Sư tổ đã dậy, nhưng trông Người có vẻ còn chưa khỏe hẳn. Lúc bấy giờ Người đang dõi mắt đăm chiêu như đang suy tư một vấn đề gì. Chúng ta bèn xúm xít quanh để vấn an và săn sóc Người.
Buổi sáng hôm ấy khác với thường lệ, Sư tổ im lặng chẳng đáp lại chúng ta một lời nào.
Riêng với ta, không khỏi phải ưu tư. Vì trong bọn ba Lạt Ma trẻ tháp tùng cùng Sư tổ lần này thì ta là người trọng tuổi hơn, coi như phải có bổn phận chịu trách nhiệm đến sự an nguy của Sư phụ. Nếu vạn nhất Người bị đau ốm thì chúng ta phải làm thế nào đưa xuống núi cho được an toàn? Nhất lại là, con đường lên cũng như xuống núi đầy cả gian nan hiểm trở.
Ta đang mải mê ưu tư thì bỗng nhiên thấy châu thân Người bắt đầu cử động! Hình như có một sức mạnh huyền nhiệm nào đang xâm nhập vào châu thân thầy ta, đã mấy lần Người vừa lồm cồm đứng lên đã phải ngã chúi xuống ngay xuống, mặc dù bên cạnh đã có bọn chúng ta cố mang cả sức lực của mình giúp cho Sư tổ chống trả lại.
Trong tình trạng này, chúng ta đề nghị Sư phụ nên tạm thời nghỉ lại, đợi đến khi lấy lại đầy đủ sức khỏe hãy tiếp tục lên đường. Nhưng Người vẫn cương quyết bác bỏ lời đề nghị của chúng ta. Thế là thầy trò chúng ta lên đường ngay sau đó. Qua khỏi rặng núi thứ hai chúng ta phải tạm nghỉ lại qua đêm để lấy sức leo trèo lên vách đá thẳng tắp để đến đỉnh núi cuối cùng!
Sáng hôm sau, khi mặt trời lên được khoảng con sào thầy trò ta mới bắt đầu lên đường để tiến đến ngọn núi được xem là cao nhất, nơi đây thầy ta ra lệnh cho tất cả hãy dừng lại bên này đỉnh núi. Sư phụ cố nhoẻn miệng cười nhìn chúng ta lên tiếng hỏi:
- Các chú khỏe chứ ?
- Chúng con chỉ lo cho Sư phụ không được bình an còn chúng con thì hoàn toàn khỏe cả.
Sư phụ đưa tay chỉ về hướng trước mặt: "Các chú có thấy không, nơi hòn núi bên kia. Có một khe nhỏ bị các loại đá lấp gần hết. Chính đó là nơi đã xảy ra tiếng nổ rền vang cả trời đất làm tung tóe các núi đá hầu như khắp nơi trong vùng.
Điều đặc biệt khiến chúng ta phải lưu ý là nơi các vách đá bên kia rực lên óng ánh làm lóa cả mắt Phải chăng Sư tổ đưa bọn Lạt Ma trẻ chúng ta đến viếng thăm cảnh Bồng Lai Tiên Cảnh?.
Trong lúc đó thì sư phụ ta từ từ đứng lên, lần này thì trông Người khỏe hẳn lại, không cần đến sự giúp đỡ của chúng ta nữa. Dường như có một sức mạnh huyền nhiệm nào đó đã giúp Người chạy nhanh xuống phía sườn núi, nhanh đến nỗi chúng ta cố gắng chạy theo vẫn không thể nào bắt kịp.
Tuy đang hổn hển thở vì bị mệt nhoài, song ta cũng có thể nghĩ là Sư phụ làm sao có một sức mạnh phi thường như vậy, nếu không có một sức huyền nhiệm nào hỗ trợ ?
Tôi gật đầu:
- Có. Con tin rằng là có. Và sau đó thì Sư Tổ phải giúp đỡ Minh Sư cùng các sư thúc, sư bá ?
- Không! Người vẫn đợi chúng ta ì ạch sang được bên kia sườn núi. Người ngồi trên một mỏm đá trắng. Việc qua bên kia sườn núi hôm nay không như các ngày hôm trước. Lần này chúng ta phải đi trên các mảnh đá núi lở lấp cả lối đi, nhọn hoắt và thập phần khó khăn, nguy hiểm.
Chúng ta vừa leo trèo vừa run sợ. Trống ngực đánh liên hồi, nhất là lúc bắt đầu leo lên bờ tường núi thẳng tắp, phải dùng cả tay lẫn chân bám chặt vào từng hốc đá nhỏ.
Cái chết sờ sờ hiện ra trước mắt. Chỉ cần lơ đễnh, bám trật ngón chân hoặc trệch với lỗ hổng đầy rong rêu trơn trợt thì cả thân xác này hóa thành đống thịt vụn. Trèo lên như vậy đã quá nguy hiểm rồi, nhưng đến lượt về thì thập phần khó khăn hơn.
Nói đến đây, Minh Sư nhìn chung quanh tứ phía rồi mỉm cười kể tiếp:
- Thật là nguy hiểm. Sư phụ ta già nua còn đầy đủ can đảm vượt mọi hiểm nguy huống hồ là bọn chúng ta tuổi còn trẻ há lại chẳng làm được như vậy ru?! Ta thầm nhủ với lòng mình là không nên tỏ thái độ hèn nhát. Lòng tự ái không cho phép ta run sơ, ï làm như thế là khiếp nhược.
Chúng ta đi quanh quẩn ven sườn núi cạnh miệng bờ vực sâu thăm thẳm mà đường đi thì chỉ vừa đủ cho từng người một lần bước đi. Chúng ta phải cố vận hết sức tinh thần để giữ cho bước chân đi thăng bằng.
Phần thì đá dưới chân vừa nhọn vừa cứng nhắc, phần không khí trên ngọn núi cao này như loãng đi. Chúng ta vẫn cố hết sức trèo lên cho kỳ được. Mồ hôi toát ra nhễ nhại cả áo.
Được một lúc ta cảm thấy cổ mình khô quánh lại. Hơi thở bắt đầu khò khè. Buồng phổi ta như nhói lên. Chúng ta đang leo lên một cái hốc đá cao hơn thung lũng lối hơn một trăm năm mươi thước.
Thật là diễm phúc, cái hốc núi này lại có một phiến đá phẳng lì, rộng đủ cho cả năm người nằm nghỉ ngơi thoải mái. Chúng ta không ai bảo ai đều ngả lưng xuống để nghỉ mệt một chút trước khi tiếp tục cố trèo lên nơi sư phụ đang ngồi. Chiếc áo vàng của Người phơ phất trông hệt như lá cờ phướn.
- Thưa Minh Sư, từ nơi phiến đá Minh Sư ngả lưng nằm nghỉ đến nơi sư tổ ngồi đợi có còn xa lắm không?
- Tuy khá xa, song không đến nỗi xa lắm như chú nghĩ. Sư phụ ta ra hiệu bảo chúng ta tạm nằm nghỉ, khi sức khỏe đầy đủ hẳn tiếp tục lên đường. Đây là chặng đường vô cùng nguy hiểm. Các Lạt Ma trẻ bạn ta đều tái xanh cả mày mặt, đâu có khác gì ta cũng đang hãi hùng khiếp vía.
Sau một lúc nghỉ ngơi, chúng ta lại bắt đầu lên đường. Càng lên cao, gió thổi càng lộng, khiến các áo chúng ta đang mặc tung bay kêu lên phần phật. Có điều, đá sỏi bên trên lưng núi bị gió thổi bay lên rơi xuống trên đầu trên cổ chúng ta. Càng lúc, con đường đi càng thu nhỏ lại, khiến việc leo trèo của chúng ta vô cùng khó khăn hơn.
Một trong ba Lạt Ma chúng ta bỗng kêu lên oai oái:
- Chết mất, các sư huynh ơi! Tôi đang bám nhằm vào chiếc đuôi con rắn hổ mang Làm sao bây giờ?
- Thả tay ấy ra, tìm chỗ khác mà bám vào.
- Đâu có được.Chỉ có mỗi một lỗ này thôi.
- Thì cố trườn người lên nắm lấy gốc cây kế cận đó.
Tuy tôi nói vậy, song cũng lo sợ hộ cho người anh em Lạt Ma kia, nếu bị con hổ mang quay lại cắn thì chắc chắn chưa kịp ngấm độc rắn thì anh ta cũng đã bị trượt chân rơi tan xác rồi.
Tôi cố thu hết can đảm để giúp cho anh ấy có đầy đủ tinh thần chịu đựng hầu thoát khỏi cơn nguy biến :
- Hãy để yên bàn tay, đừng nhúc nhích khiến nó giật mình...nguy hiểm lắm.
- Làm sao bây giờ ?
- Thì cố nhắm cho kỹ cành cây nhô ra từ trong đám bụi kia rồi phóng tay đến nắm lấy. Phải thật cẩn thận đấy nha.
Và, có lẽ vì quá sợ con hổ mang trong ngách núi mà người Lạt Ma trẻ tuổi đồng bọn của chúng tôi, nhắm mắt làm liều phóng đến bụi rậm cách đó lối một thước.
Khi nhìn thấy thân hình anh ta chuyển động, tim ta như ngưng đập hẳn lại. Chỉ cần một chút sơ hở không nắm được cành cây thì tính mạng sẽ không còn nữa. Nếu chuyện ấy xảy ra, ta sẽ vô cùng ân hận.
Nhưng may mắn thay! Người Lạt Ma trẻ này đã thoát khỏi miệng của con hổ mang và đang lơ lửng đu mình nơi rễ chuột của cây si, ta mừng rỡ reo lên:
- Thoát hiểm rồi! Giờ đạo hữu hãy đưa chân bám vào ngách đá bên kia đi. Chúng ta lại có nơi tạm nghỉ nữa rồi. Sư phụ đang đưa tay vẩy chúng ta kia kìa. Bây giờ ba chúng ta chỉ cần rướn mình một chút là lên phía hốc đá ấy.
Đó là một cái hốc đá hơi nghiêng nghiêng có bề rộng lối ba thước. Hang đá mát lạnh. Tiếc thay lúc bấy giờ ta không có đủ thì giờ để đi sâu vào tìm hiểu có những gì bên trong hang sâu thăm thẳm đó?! Ta lên trước tiên, trong lúc đó hai Lạt Ma trẻ kia còn ì ạch. Vì thế, ta lần lượt chìa tay ra tiếp sức họ từng người một.
Khi chúng ta lên đến nơi được một lúc, phải đứng nép sát người vào nhau vì gió trên cao bắt đầu thấm lạnh. Hang này được Sư phụ ta cho biết vì bị đá lở mà thành. Và từ nơi đây lên đến chỗ Sư phụ đang ngồi không bao xa nữa và có đường dẫn lên nên không mấy khó khăn.
Sư phụ chúng ta mừng rỡ vỗ vào vai từng môn đệ một khen thưởng:
- Các chú xứng đáng là môn sinh của ta. Ngồi xuống đây đi và nhìn sang vách núi ngay trước mặt kia kìa. Các chú có nhìn thấy gì không?
Và không đợi cho chúng ta đáp lại, sư phụ gật đầu nói tiếp:
- Ngay chỗ chúng ta đang ngồi nhìn sang thì trông như cái bóng của một cây cổ thụ trải dài. Các chú đã khỏe cả rồi chứ ?
Vừa nói, sư phụ vừa đứng lên.
- Giờ thì chúng ta đi lại về phía đó để nhìn xem.
Càng tiến sâu vào bên trong hang động càng rộng ra và ánh sáng tỏa ra cùng khắp. Chiếc bàn đá hoa cương tròn bóng loáng, xếp chung quanh là mười cái ghế cũng bằng một loại đá như nhau.
Trên các mặt tường của hang động đều khắc những hình ảnh người cổ đại, đủ cả mọi lứa tuổi: nam, phu, lão, ấu. Chúng ta đang mải mê quan sát quên cả sư phụ. Mãi đến khi quanh quất nhìn quanh thì Người đã không còn ở bên cạnh, không biết Người đã biến đi đâu mất từ bao giờ!
Chúng ta chia nhau đi tìm nhưng vẫn không thấy bóng dáng người. Ta buộc lòng phải lên tiếng gọi.
- Minh Sư! Minh Sư ở nơi nào? Minh Sư chỉ đường cho chúng con.
Lúc đầu chúng ta còn gọi nhỏ nhẹ, song vì sợ hãi, chẳng biết Sư tổ có gặp điều gì hay không, nên ta lớn tiếng gọi như thể gào lên:
- Sư phụ...Sư phụ ơi!
Chúng ta cùng một lúc gào lên, nhưng vẫn bặt vô âm tín, chẳng nghe thấy tiếng của Người hồi âm lại. Ta bắt đầu thật sự lo lắng. Chúng ta đưa nhau tiến vào các ngách không còn ánh sáng nữa. Nơi đây tối om như mực. Phải vận dụng nhãn quan để nhìn vào các ngách đá tối om như nhà mồ.
Có nhiều ngách nhỏ đến nỗi không thể đứng thẳng để đi vào được mà cần phải cúi gập người xuống bò vào tận bên trong, đưa tay sờ soạng từng ngách nhỏ. Ta nghĩ dại, biết đâu Sư tổ gặp rắn rít hay bởi sức khỏe bị suy yếu ngã vào một nơi nào đó.
Nghĩ vậy, ta lại cố trườn mình bò lê vào bên trong. Thật khó khăn mới có thể nhích lên một vài tấc Khi ta bò lối mười thước thì gặp một cái ngách quẹo khác. Và cứ như thế, ta phải quẹo đi quẹo lại không biết đến bao nhiêu lần mà vẫn hoài công vô ích.
Nỗi lo sợ của ta mỗi lúc một tăng lên khiến ta gần như tuyệt vọng. Ta cũng như hai vị Lạt Ma kia cố thu người lại để chui qua các ngách nhỏ bên trong lòng hang động! Càng tiến sâu vào, bóng đen càng dày đặc thêm, đến nỗi ngửa lòng bàn tay ra cũng không tài nào trông thấy được!
Bất giác ta cảm thấy phía sau gáy dường như có vật gì lạnh buốt đang bò lướt ngang qua!. Ta thật sự kinh hoàng vì biết đó là loài rắn hổ mang, một loài rắn tối độc, chỉ cần phản ứng bằng một cử động nhỏ cũng đủ nhận lãnh lấy ân huệ cuối cùng ban phát ra từ loài ác xà này. T
rước nỗi nguy khốn thập tử nhất sinh này ta phải thu hết can đảm nằm yên bất động! Lúc bấy giờ ta cố hóa thân thành một vật vô tri vô giác, nhắm nghiền mắt lại phó mặc cho định mệnh an bài. May mắn thay! cuối cùng con rắn hổ mang này bò qua một ngách đá cạnh đó. Thoát được cảnh hiểm nguy này ta thở phào nhẹ nhõm.
Vì hang đá có nhiều ngõ ngách, dễ bị lạc lối nên thỉnh thoảng chúng ta lên tiếng báo cho nhau biết về vị trí và sự hiện diện của mình hầu tránh bị mất liên lạc có thể dẫn đến hậu quả vô cùng tai hại là chẳng bao giờ tìm thấy nhau được nữa.
Nói đến đây Minh Sư nhìn tôi hồi lâu đoạn nói tiếp :
- Ta ngại nhất lúc bấy giờ nếu rủi ro chúng ta bị lạc nhau thì chắc chắn là khó lòng tìm nhau ra được nữa.
- Đến trọn đời ? Tôi lên tiếng hỏi Minh sư.
- Tất nhiên là vậy.
Nếu một trong ba chúng ta bị lạc lối, rất có thể như lạc trong mê hồn trận không bao giờ có lối thoát cho đến trọn đời như chú nói, trừ phi họ tìm được lối thoát ra bên ngoài. Còn không thì cuối cùng gục ngã xuống bên trong lòng các hang động để làm mồi cho loài ác thú.
- Thưa Minh Sư, như vậy thì trường hợp này đã từng xảy ra ?
- Tất nhiên là có... có thể hàng trăm nhân mạng.
- Họ lặn lội thám hiểm như thế để làm gì?
- Để đi tìm Cổ Hiền Thạch Động.
Minh Sư lại im lặng, đôi mắt Người dõi về một nơi xa xôi nào đó, mãi giây lâu sau Người bắt đầu lên tiếng tiếp tục thuật lại cuộc hành trình của Người với Sư tổ đến nơi thạch động đầy huyền nhiệm này:
- Chúng ta mò mẫm trong hang động tối tăm để tìm ra lối thoát thì bất thần phía trước mặt từ từ hiện ra một loại ánh sáng mờ đục màu ván sữa! Nơi đây, không còn bị bóng đen bao phủ nữa.
Chúng ta reo lên tỏ vẻ vui mừng vì biết là mình đã thoát ra được khỏi màn đen của hang động, rồi từ từ tiến về phía cửa ngách cuối cùng, bước ra một lòng hang rộng lớn tràn ngập cả ánh sáng khác thường mà từ xưa nay ta chưa hề trông thấy bao giờ .
Đây là một cái động đá lớn rộng thênh thang toàn đá hoa cương màu trắng xen lẫn với màu xanh trứng sáo. Điều khiến cho ta kinh ngạc là khi nhìn lên bên trên trần hang động như thể được kết lên hàng ngàn hạt kim cương lung linh tỏa ra muôn ngàn màu sắc rực rỡ.
Đến giữa hang thấy có nhiều máy móc được sắp xếp thứ tự, ngăn nắp. Đó là những máy móc lạ lùng chúng ta chưa từng được trông thấy. Lạ lùng nhất làm cho chúng ta ngạc nhiên không ít và cùng nhau trầm trồ khi đứng trước một số máy khá lớn bên ngoài bọc lớp vỏ thủy tinh trong suốt dựng sát cạnh tường đá.
Chúng ta quẹo sang bên phải nhìn thấy có những tảng đá đủ mọi hình dạng, tròn trịa có, hình thuẫn có, luôn cả các hình vuông vức hay hình chữ nhật, lớn nhỏ không đồng đều nhau được dựng lớp lang bên cạnh vách đá.
Điều làm cho chúng ta không khỏi phải kinh ngạc khi nhìn thấy các tảng đá này phát lên ánh sáng lấp lánh đủ các màu sắc, xanh có, đỏ có, vàng ửng có, hoa lý có, hồng nhạt và xanh màu da trời vô cùng xinh đẹp.
Chúng ta tò mò tiến đến bên cạnh nhìn xem đây là những vật gì mà tỏa ra ánh hào quang rực rỡ như vậy?! Thì ra đó là những chiếc đầu lâu được khắc bằng một loại đá đặc biệt không thể tìm thấy ở thế gian này.
Gần đây tại Ý, các nhà khảo cổ đã khám phá những khuôn mặt người khắc trong các tảng đá có niên đại vô cùng xa xưa. Nhà khảo cổ học Pietro Gaietto thuộc Viện Bảo Tàng Nguồn Gốc Loài Người đã tìm thấy nhiều tác phẩm điêu khắc hình mặt người như vậy có niên đại cách đây 200.000 năm.
Pietro đã khám phá ra vào năm 2001 tại khu vực Borzonasca ở Ý Đại Lợi khi vô tình tìm ra từ trong đám gạch vụn dùng để xây nhà. Thoạt đầu Pietro bắt gặp một hòn đá trông giống cái đầu lâu rất đặc biệt. Sau khi xem xét ông cho biết đó là tác phẩm được chạm trổ khá công phu và vô cùng tinh tế, kỹ thuật ngày nay khó lòng điêu khắc được như vậy.
Theo lời nhà khảo cổ Pietro Gaietto: Nếu tôi không để ý, chúng có thể đã biến thành vật liệu để xây cất rồi. Theo ông cho biết đó là những phiến đá có khắc hình hai mặt con người, một mặt có râu trông rất biểu cảm còn mặt kia thì nhẵn thín, không có râu ria với hai mắt, miệng rộng, mũi to.
Chúng có thể là sản phẩm nghệ thuật của người Homo Erectus giống dân này đã bị tuyệt chủng cách đây hơn 150.000 năm,vốn có di tích được tìm thấy tại nơi đây.
Vấn đề này cũng có nhiều tranh cãi trong giới khoa học. Có một số trong giới khoa học cho rằng người Homo Erectus chưa có đủ khả năng tư duy hình tượng cần thiết để điêu khắc được các tác phẩm nghệ thuật như nhà khảo cổ Gaietto đã nghĩ.
Họ nêu ra dẫn chứng các di chỉ nghệ thuật của nhân loại thường có niên đại ít hơn 100.000 năm, rõ nhất là nhạc cụ 70.000 năm được tìm thấy ở động Blombos tại Nam Phi.
Lại còn có một số cổ vật được nhiều nhà nghiên cứu cho là những tác phẩm nghệ thuật. Các pho tượng nhỏ Tantan được khai quật lên ở Moroon xa xưa hơn về mặt cổ đại đối với các khuôn mặt của Borzonacco vào năm 1999, được biết là các pho tượng này có niên đại từ 400.000 năm.
Có điều giới khoa học tin là tất cả những cổ vật tìm thấy trên đây nhất định không phải được tạo ra bởi con người. Những đường nét giống mặt người có thể là sản phẩm của các quá trình địa chất.
Sau đó thì chúng ta qua một cửa hang nhỏ để tiến sang bên phía trái của hang động này. Nơi đây, được bày biện những "thẻ bài" dài ngắn không đều nhau cẩn thận gắn trên tường đá hoa cương, mới nhìn vào trông hệt như một bức tranh phong thủy.
Đây có thể nói là một bức vẽ thủy mạc có nghệ thuật siêu việt. Một dòng sông đang chảy lặng lờ, lăn tăn gợn sóng. Một chiếc đò nan với một cô lái đò có lọn tóc dài lơ lửng trên đôi bờ vai thon tròn, một thân hình mảnh mai mặt hướng về một phương trời xa tắp.
Ta tiến lại nhìn kỹ vào các thẻ bài, thì ra đó là những thẻ tre được viết bằng những chữ cổ tự. Chữ viết thật rõ nét. Thú thật ta không đọc được các thẻ tre ấy người xưa đã viết những gì bên trên ấy?
(Tưởng cũng nên biết các nhà khảo cổ Trung Quốc đã tìm thấy hàng nghìn cổ thư chính thức cách đây hơn 2.000 năm và khoảng 20.000 trúc thư cổ xưa cung cấp thông tin chi tiết về đời sống văn hóa, kinh tế,chính trị của triều đại nhà Tần (221-206 trước CN.
Tài liệu cũng bao gồm việc tiêu thụ thực phẩm của quân đội và mối quan hệ giữa các cộng đồng sắc tộc khác nhau. Theo Tân Hoa Xã cho biết những cổ vật này được khai quật tại tỉnh Hồ Nam thuộc miền Hoa Nam. Các chuyên gia đã so sánh những tài liệu mới khám phá với những tượng binh lính và ngựa bằng đất nung của thời nhà Tần được khai quật tại tỉnh Sơn Tây trong thập niên 70.
Các nhà nghiên cứu cho biết chi tiết 2.000 thẻ tre được khai quật trong thế kỷ 20. Ông Guo Weimin, phó giám đốc Viện Khảo Cổ Hồ Nam cho biết: Đây là lần đầu tiên tại Trung Quốc phát giác được một khối lượng thẻ tre khổng lồ ghi lại lịch sử từ thời Xuân Thu 770-476 trước Công Nguyên. Đến triều đại Tây Hán 206 trước CN và 25 năm sau Công Nguyên.)
Trong lúc đang ngẩn ngơ trước cảnh tượng lạ lùng này thì có tiếng cười vang lên khiến chúng ta giật mình quay lại, thì ra Sư tổ đã đứng ngay bên cạnh từ bao giờ. Không gì vui mừng bằng khi nhìn thấy lại Người, chúng ta đứng vây quanh như thể không cho Người biến mất đi lần nữa. Và như thông cảm Sư tổ dang rộng vòng tay ra ôm lấy chúng ta nói lên bèn giọng cảm động:
- Ta biết các con lo lắng không ít trong suốt thời gian ta không ở bên cạnh. Thật ra, ta phải có bổn phận đi tìm kiếm những gì trong "Mật Thư" đã ghi lại, đợi khi nào tìm được nơi cất giấu những bảo vật trong hang động này ta sẽ quay trở lại đón các con, không ngờ các con đã tự tìm ra trước khi ta quay trở lại để tìm kiếm các con! Thật Sư phụ không phải, không phải!
Nhưng chỉ nói đến đây, Minh sư Minh Dà Đông Đạt bất giác im lặng. Riêng tôi không cần đợi lời giải thích, cũng biết là Minh Sư đang nhận các thông tin truyền đạt đến. Và đúng như vậy, Người nói:
- Ta định đưa các chú đến Cổ Hiền Thạch Động để chiêm ngưỡng ngoại cảnh của thạch động này, nhưng ta được lệnh của Đức Tối Cao Lạt Ma gọi về. Âu đó là các chú không có cơ duyên!
Riêng mỗi Lỗ San thì khác, chú còn được cơ may nhìn tận mắt những tất cả những gì huyền nhiệm được cất giấu bên trong lòng thạch động này trong thời gian không còn xa nữa.
Một hôm tôi đang ngồi suy tư về những điều bí mật bên trong dãy Hy Mã Lạp Sơn nơi lòng Cổ Hiền Thạch Động trong chuyến đi mạo hiểm mà thầy tôi vừa kể thì Minh Sư Minh Dà Đông Đạt cho người gọi tôi đến:
- Ngày mai này các chú Sĩ Cát, Lâm Trần, cùng anh Hà Mịch trở về Ấn Độ, ta cho phép chú được đặc biệt nghỉ một ngày trước khi những người bạn này của chú rời khỏi Tây Tạng và có thể sẽ không còn bao giờ gặp gỡ nữa!
Tôi sững sờ hỏi lại Minh Sư:
- Không bao giờ hội ngộ nữa?
- Không bao giờ. Tất cả đều có định mệnh. Con người không ai có thể tự quyết định lấy ý muốn của mình.
Tôi lẩm bẩm tự hỏi:
"Tại sao lại như vậy?".
Nhưng thầy tôi đã lên tiếng khuyên nhủ:
- Đừng thắc mắc Lỗ San! Rồi chú hẳn biết tại vì sao chú sẽ không còn có những cuộc gặp gỡ như vậy.
Thế là ngày hôm sau, chúng tôi gặp nhau ở ven bờ suối. Không gì sung sướng bằng khi được ngồi quây quần lại bên nhau nói đủ thứ chuyện. Cuối cùng chú Sĩ Cát cho biết:
- Ngày mai này, chúng ta sẽ trở lại Đông Dương!
- Trở về bán đảo Đông Dương? Tại sao không trở về Ấn Độ?
- Không! Chúng ta còn một ít việc phải làm trong một thời gian nữa. Lỗ San, chúng ta cầu mong sao cho Lỗ San thành công viên mãn trong cuộc hành trình mà ta biết định mệnh đã an bài cho chú.
Hai anh Hà Mịch và Lâm Trần cũng đều khuyên tôi như vậy...Trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi này, chúng tôi thảo luận đủ mọi điều như về thuyết tiến hóa của linh hồn, làm sao cho đạt được đến mức toàn thiện, đạt đến trạng thái phát triển tâm linh thật hoàn hảo như một siêu nhân.
Đạo lý cổ truyền cho biết mục đích "toàn thiện" và "giải thoát là quả vị cuối cùng, còn mau hay chậm thì tùy vào sức chịu đựng hy sinh và sự cố gắng của chính mình.
Khi bàn đến chuyện sự tu luyện và hóa kiếp của con người, chú Sĩ Cát đã giải thích về giáo lý Huyền Môn. Theo chú sự phát triển về mặt thể chất, trí tuệ và tâm linh không thể nào đạt được trong một kiếp sống ngắn ngủi ít hơn trăm năm.
Nếu con người chỉ sống duy nhất ở một kiếp này rồi vĩnh viễn không còn nữa thì cái quả vị tối cao ấy đâu có thể nào thực hiện được? Mà không thực hiện được thì ắt là nó sẽ trở thành điều hoàn toàn tuyệt vọng.
Tôi sực nhớ lại có lần thầy tôi đã nói:
"Con người ai cũng phải trải qua những thất bại của buổi ban đầu. Âu đó là một điều dễ hiểu. Không ai có đủ thì giờ và cơ hội để phát triển mọi khả năng, sửa đổi mọi khuyết điểm để đạt đến mục tiêu Toàn Thiện cùng một lúc được!"
Hôm ấy chúng tôi đưa nhau đến ven các bờ suối để ngồi yên lặng hàng giờ lắng nghe tiếng nước suối chảy róc rách, tiếng gió rừng vi vu, cả tiếng của chim kêu vượn hú, hầu tận hưởng cảnh thiên nhiên của rừng núi.
Chúng tôi cũng cùng nhau đến thăm khu rừng đầy cả hàng ngàn cánh bướm đủ màu đủ sắc đang nhởn nhơ bay lượn trên hàng ngàn cánh hoa rừng rực rỡ.
Chúng tôi như bị một sức huyền nhiệm cuốn hút tiến sâu vào khu rừng đầy muôn hương nghìn sắc Tôi nâng lên từng cánh hoa mà không hề dám mạnh tay sợ làm lay động và xúc phạm đến vẻ đẹp thiên nhiên của tạo hóa kết thành.
CỔ HIỀN THẠCH ĐỘNG
Nói về sự minh triết thiêng liêng, tôi sực nhớ có lần chú Sĩ Cát có nhắc đến những quyền năng kỳ vĩ, một thứ quyền năng đưa con người thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi! Nhưng có điều phải làm thế nào để đạt cho được những quyền năng kỳ vĩ đó? Đây là điều khiến tôi ưu tư không ít!
Nghĩ vậy tôi vội lên tiếng hỏi:
- Thưa Đại sư, theo con được biết muốn thoát ra khỏi vòng tục lụy con người cần phải triệt tiêu cho được mọi hoạt động của tâm thức? Vậy phải làm cách nào để thực hiện sự triệt tiêu tâm thức hầu đạt cho được không gian tuệ giác mà ta thường gọi là Chidakasha? Đại sư có thể giải thích hộ cho không?
- Khi con rắn lửa huyền bí mà các nhà Yoga thường gọi Kundalini thoát khỏi được giấc ngủ mê mệt trong Muladhara, nó sẽ chui vào Shushumna và từ đó con rắn lửa huyền điệu đó lần lượt vươn lên từng bậc charka một, để tiến đến một trình độ cao hơn trong không gian tâm linh.
Chính cái tâm linh không gian mà chú vừa nói đó là "quyền năng kỳ vĩ". Các hành giả sẽ phải cố gắng tiến lên từng bậc một, mới mong kiến nhận được vũ trụ và từ đó thăng hoa đến tột đỉnh Sahasrara, mà ta thường gọi đó là Niết Bàn.
- Nói như vậy, thưa Đại sư, khi con người đạt đến đỉnh Sahaasara thì cũng chẳng khác nào như hình ảnh của Đấng Thế Tôn toàn tri, toàn năng sao?
- Thì đúng là vậy. Lúc ấy ta sẽ thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi, thì Đấng Thế Tôn toàn tri, toàn năng cũng có thế mà thôi! Nhà sư Nhật nói đến đây đột nhiên im lặng. Mãi trong giây lâu sau mới ngẩng mặt lên nhìn tôi hỏi:
- Lỗ San, chú có bao giờ thắc mắc về cái vũ trụ bao la này với sự hiện hữu của con người chúng ta từ đâu mà có không? Chắc chắn là chú suy tư nhiều về điều này. Không phải chỉ có mỗi mình chú với ta là băn khoăn không thôi, mà ngay từ thuở hồng hoang của nhân loại, tiền nhân của chúng ta cũng đã từng ưu tư không ít!
Vấn đề này trong những năm tháng đầu của thế kỷ 21, nhà khoa học nổi tiếng James Peebles đã có lần bày tỏ nỗi băn khoăn của mình về những điều kỳ diệu của vũ trụ, đồng thời ông cũng thú thật về những cố gắng vô vọng của loài người như sau:
"Cho mãi đến ngày nay chúng ta vẫn hoàn toàn còn mù tịt là vũ trụ đã từng như thế nào vào thời điểm trước khi hình thành và sự thành hình của vũ trụ mà chúng ta đang hiện diện ra làm sao? "
Cuối cùng nhà khoa học này khẳng định: "Thật khó lòng mà tìm hiểu được, không phải thiên niên kỷ này mà còn bao nhiêu thiên niên kỷ tiếp nối nữa!"
Thế có nghĩa là nhà khoa học lừng danh này khẳng định mọi sự bí ẩn trong vũ trụ này con người không thể nào khám phá được.
Theo nhà vật lý Murray Gell-Mann thì con người cho dù đến bao nhiêu thiên niên kỷ chăng nữa cũng khó đạt đến những biên cương cuối cùng của những bí hiểm trong vũ trụ. Ông đã viết lên tâm tư mình bằng những dòng chân thành xuất phát ra từ tận tâm tư mình:
"Thật không thể nào tưởng tượng được hàng tỉ tỉ con người chúng ta đang chen chúc nhau trên một hành tinh bé nhỏ, trong khi cái hành tinh này bay chung quanh mặt trời như hàng tỷ mặt trời khác trong một dải ngân hà bé nhỏ so với hàng triệu triệu các dải ngân hà khác hiện hữu trong vũ trụ, làm sao có thể hiểu được những bí hiểm đầy sự huyền nhiệm này?
Thật là hoài công khi các nhà khoa học cứ mãi chạy đua để cố tìm hiểu các cấu trúc bên trong vũ trụ hầu thỏa mãn lòng tự hào của mình, để tuyên bố với toàn thể những con người ở vũ trụ này rằng là.
Bên trong vũ trụ chẳng có Thiên Đàng hay Niết Bàn nào cả, chẳng có bàn tay mầu nhiệm sáng tạo ra nó mà chỉ có mỗi con người mới chính là các Đấng Toàn Trí,Toàn Năng của nhân loại.
Nhà khoa học này đã phải kêu lên:
- Con người kiêu ngạo đến thế sao?
- Lỗ San ạ!
Nhà sư Nhật tiếp tục nói:
- Nhiều khi ta muốn điên lên trước những bí ẩn của vũ trụ, mà tâm thức của ta cho ta biết nhất định phải có những sự bí ẩn thâm sâu mà con người không thể nào lý giải được.
Có thể vì không lý giải được nên ta trở thành như kẻ điên dại, chính ngay cả các ngài Lạt Ma cũng nghi ngờ về sự mất thăng bằng con người của ta như chú đã biết.
Rồi bất thần nhà sư Nhật Bản cũng như lần đầu tôi đến viếng thăm, Người đứng bật dậy nắm lấy cánh tay tôi bảo:
- Lỗ San, hãy ra khỏi nơi này ngay, ta đã sắp đến giờ rồi.
Thế có nghĩa là nhà sư Nhật này sắp nổi cơn điên loạn! Tôi đứng lên và làm theo lệnh của nhà sư Nhật Bản bước ra khỏi phòng! Tôi vừa đi vừa liên miên suy nghĩ thì gặp thầy tôi từ phía trước mặt đi lại.
Nhưng lần này thầy tôi không đi một mình mà cùng đi với Người có hai vị sư già. Cả ba vừa thong thả bước đi vừa chuyện vãn như tuồng tâm đắc lắm.
Khi đi gần đến, một trong hai vị sư già nhìn tôi mỉm cười, cử chỉ thân mật của vị trụ trì này tôi có cảm tưởng ông ta như một khối băng giá đông đặc. Minh Sư nhìn tôi tươi cười hỏi:
- Lỗ San, chú vừa từ trong phòng của nhà sư Nhật ra đây phải không? Hai vị trụ trì đã bảo cho ta biết là chú đang phân vân về sự bí mật của đất trời! Có đúng như thế không?
Tôi gật đầu:
- Vâng, thưa Minh Sư, có như vậy. Nhà sư Nhật đã cho con biết sự bí mật của vũ trụ luôn luôn bị khép kín, thật khó lòng có ai có thể tìm hiểu được.
Một trong hai vị sư già này lên tiếng:
- Chú Thúc Di Lê Lỗ San Lâm Bát! Hãy gác lại chuyện vũ trụ vào một dịp khác. Giờ chúng tôi có nhiệm vụ báo tin cho chú biết là Ngài Tối Cao Lạt Ma đã có kết quả điều tra về lai lịch của chú.
Tôi không khỏi ngạc nhiên, giương mắt nhìn vị trụ trì già nua này khẽ hỏi:
- Để làm gì, thưa ngài trụ trì ?
- Để có được một kết quả mà hiện tất cả mọi người trong Thiền Viện chúng ta đều vui mừng khi hay tin chú được công nhận là hậu thân của Ngài.
"Là hậu thân của Ngài Tối Cao Lạt Ma" đã viên tịch? Đầu óc tôi như quay cuồng. Trước mắt tôi mọi vật đều như không đứng nguyên một chỗ.
- Thưa Ngài Trụ Trì là nghĩa như thế nào ?
Vị Trụ Trì cười lớn:
- Rồi chú sẽ được biết những gì sẽ xảy đến cho chú trong tương lai. Bây giờ thì.
Đến đây tôi chỉ còn loáng thoáng nghe tiếng được tiếng mất, và chỉ nhớ mang máng ở đoạn sau cùng nói về các lễ nghi, phẩm tước và chức vị Trụ Trì Đại Sư mà tôi sẽ được ban phát trong dịp lễ tấn phong sắp đến.
Sau khi nói hết mọi điều, hai vị trụ trì cùng cúi rạp người xuống trước đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt và luôn cả tôi trước khi chia tay, rẽ sang ngả khác.
Tôi thẫn thờ bước đi như một kẻ không hồn. Thầy tôi khẽ đặt tay lên vai tôi bằng giọng nhẹ nhàng nói:
- Bây giờ thì chú đã biết hết mọi diễn tiến đã qua và chuẩn bị tư tưởng để tiếp nhận những việc làm sắp đến. Cuộc điều tra mà các vị trụ trì thông báo đó chẳng qua chỉ để chứng minh những gì mà Ngài Tối Cao đã biết từ lâu.
Nói đến đây, thầy tôi mỉm cười vỗ vai tôi bảo:
- Đây là ngày mà thầy trò chúng mình vui vẻ nhất. Ta phải có một bữa khao đặc biệt đãi chú, chúc chú gặp nhiều may mắn và thành công trong nhiệm vụ mới sau này.
Đức Minh Dà Đông Đạt đưa tôi vào một căn phòng đặc biệt mà tôi chưa từng được đến bao giờ. Hai thầy trò tôi ngồi đối diện tại một chiếc bàn gỗ mun bóng lộn, trên mặt bàn đã có sẵn mâm cơm thật thịnh soạn.
Hôm ấy tôi ăn thật nhiều. Món nào cũng ngon lành, ăn quên cả no mãi cho đến khi không còn ăn nổi được nữa. Sau bữa cơm chúng tôi lại được mời sang phòng bên cạnh uống trà thơm nơi một bộ ghế xa cừ kê cạnh cửa sổ.
Chính tay Đức Minh Dà Đông Đạt trao tôi chung trà thơm thượng hảo hạng của xứ Ấn. Uống xong chung trà này, đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy tinh thần thơ thới hẳn lên.
- Lỗ San! Thầy tôi bắt đầu nói. Ngài Đạt Lai Lạt Ma đã cho phép ta thuật cho chú nghe về Cổ Hiền Thạch Động.
Nói đến đây, Thầy tôi nhìn chung quanh và khi biết chẳng có ai ở trong phòng trà đặc biệt này bèn khẽ nói vào tai tôi:
- Vài hôm nữa sẽ có một đoàn tăng sĩ đến nơi đó.
Tuy chẳng biết nơi đó là nơi nào nhưng nghe được tin này lòng tôi bỗng dấy lên niềm vui dào dạt. Bỗng dưng tôi cảm thấy hình như cái tên "Cổ Hiền Thạch Động" quen thuộc đối tôi, chẳng biết bằng cách nào và bao giờ tôi được biết đến nơi ấy?
Minh sư nhìn tôi không chớp mắt đoạn gật gù đầu lên tiếng tiếp:
- Lỗ San, ngày xưa ta cũng như chú . Ta cũng được đặc biệt huấn luyện và cũng được may mắn học hỏi được nhiều điều bổ ích. Nay thì hẳn nhiên Sư phụ ta đã qua đời! Ngài qua đời từ lâu rồi.
Nhục thể của Người hiện vẫn còn giữ tại Mật Tẩm Kim Thân. Những ngày Ngài còn tại thế, ta từng được tháp tùng đi khắp nơi thế giới, ngay cả Cổ Hiền Thạch Động mà chú sắp đến đó nữa. Ngày ấy, ta theo thầy đến một mỏm đá trắng, chính nơi ấy.
Nhưng nói đến đây Minh sư bỗng chăm chú nhìn về phía trước mặt, được một lúc Người bảo tôi:
- Kìa! Lỗ San! Hãy ngồi ngay xuống nơi này! Phía trước mặt kia, chú có nhìn thấy cái gì không?
Theo bàn tay chỉ của Minh sư, tôi khẽ đáp:
- Thưa, mỏm đá hoa cương!
- Đúng. Đó là mỏm đá trắng bóng loáng. Nơi mỏm đá trắng ấy, ngày xưa ta đã từng ngồi nơi ấy trước mặt thầy ta. Đó là cửa ngỏ bắt đầu đi vào Cổ Hiền Thạch Động!
- Cổ Hiền Thạch Động! Tôi reo lên.
- Đúng là vậy! Ta đã từng nhìn tận mắt.
Tôi vô cùng thích thú. Nỗi vui hôm ấy, tưởng chừng như trên đời này chẳng có gì làm tôi vui sướng hơn nữa. Nhưng mà lại một lần nữa khi nhìn sang bên kia tôi lại có cảm tưởng là dường như nơi này đối với tôi chẳng có gì lạ lùng.
Hình như tôi đã từng đến qua một lần nào rồi. Nhưng có điều lúc nào và trường hợp nào thì tôi cũng chẳng làm sao nhớ nữa!
Nghe nói đến Cổ Hiền Thạch Động, tôi không che dấu được nỗi vui mừng khôn xiết! Minh Sư Minh Đà Đông Đạt mỉm cười đưa tay chỉ về phía trước mặt một lần nữa đoạn thì thầm bên tai tôi:
- Lỗ San! Lúc bấy giờ ta theo chân Sư Tổ đi cùng với với ba Lạt Ma lên đường đến một dãy núi xa xôi đầy gian nan hiểm trở. Chính nơi ấy, một ngày không xa mấy chú sẽ có sứ mệnh đến đó để làm một nhiệm vụ mới do Đức Lạt Ma Tối Cao giao phó.
Sở dĩ ba chúng ta cùng Sư tổ đến nơi ấy vì vừa xảy ra một vụ nổ kinh thiên động địa làm rung chuyển cả núi non, hất tung những tảng đá lớn vung vãi khắp nơi quanh sườn núi.
Sư phụ đã cho chúng ta biết: "Đó là một sự kiện đặc biệt mà các nhà tiên tri đã cho biết từ bao nhiêu thế kỷ. Vì lẽ đó mà chúng ta cần phải đến tận nơi để nhìn xem chuyện gì đã xảy đến sau đó?"
Thế là ngay hôm sau chúng tôi mang khăn nải theo chân Sư tổ lên đường! Đi được vài ngày thì đến chân một đỉnh núi cao, muốn lên tận đỉnh cao không phải là chuyện dễ dàng! Càng tiến lên cao đường đi càng quanh co hiểm trở. Mãi đến ngày nay ta cũng chẳng biết phải diễn tả nỗi gian truân nguy hiểm đó như thế nào!
Phải quanh co mất hơn nửa ngày trời trên các ngách đi trên cao độ trên sườn núi, chỉ cần sơ ý để sẩy chân thì cả thân xác chúng ta không tránh khỏi nát như tương ngay khi rơi xuống.
Thú thật, nhiều khi chúng ta phát run lên khi phải băng ngang qua khu đá dựng, nhìn lên bên trên thì toàn là những thỏi đá nhọn nhô ra cản cả lối đi, bên dưới thì hố sâu thăm thẳm, còn bề ngang của ngách đi không đủ đặt cả hai bàn chân cùng một lúc, muốn tiếp tục bước đi, phải cố lê từng bước một.
Vì vậy mà chúng ta phải lần mò bước đi từng bước. Tuy gặp cảnh khó khăn như vậy, nhưng bọn ba người chúng ta không hề tỏ ra mềm lòng thối chí, vẫn lặng lẽ theo thầy ngày đi đêm nghỉ.
Cho mãi đến ngày thứ năm, hôm ấy trời chưa rạng sáng Sư tổ đã dậy, nhưng trông Người có vẻ còn chưa khỏe hẳn. Lúc bấy giờ Người đang dõi mắt đăm chiêu như đang suy tư một vấn đề gì. Chúng ta bèn xúm xít quanh để vấn an và săn sóc Người.
Buổi sáng hôm ấy khác với thường lệ, Sư tổ im lặng chẳng đáp lại chúng ta một lời nào.
Riêng với ta, không khỏi phải ưu tư. Vì trong bọn ba Lạt Ma trẻ tháp tùng cùng Sư tổ lần này thì ta là người trọng tuổi hơn, coi như phải có bổn phận chịu trách nhiệm đến sự an nguy của Sư phụ. Nếu vạn nhất Người bị đau ốm thì chúng ta phải làm thế nào đưa xuống núi cho được an toàn? Nhất lại là, con đường lên cũng như xuống núi đầy cả gian nan hiểm trở.
Ta đang mải mê ưu tư thì bỗng nhiên thấy châu thân Người bắt đầu cử động! Hình như có một sức mạnh huyền nhiệm nào đang xâm nhập vào châu thân thầy ta, đã mấy lần Người vừa lồm cồm đứng lên đã phải ngã chúi xuống ngay xuống, mặc dù bên cạnh đã có bọn chúng ta cố mang cả sức lực của mình giúp cho Sư tổ chống trả lại.
Trong tình trạng này, chúng ta đề nghị Sư phụ nên tạm thời nghỉ lại, đợi đến khi lấy lại đầy đủ sức khỏe hãy tiếp tục lên đường. Nhưng Người vẫn cương quyết bác bỏ lời đề nghị của chúng ta. Thế là thầy trò chúng ta lên đường ngay sau đó. Qua khỏi rặng núi thứ hai chúng ta phải tạm nghỉ lại qua đêm để lấy sức leo trèo lên vách đá thẳng tắp để đến đỉnh núi cuối cùng!
Sáng hôm sau, khi mặt trời lên được khoảng con sào thầy trò ta mới bắt đầu lên đường để tiến đến ngọn núi được xem là cao nhất, nơi đây thầy ta ra lệnh cho tất cả hãy dừng lại bên này đỉnh núi. Sư phụ cố nhoẻn miệng cười nhìn chúng ta lên tiếng hỏi:
- Các chú khỏe chứ ?
- Chúng con chỉ lo cho Sư phụ không được bình an còn chúng con thì hoàn toàn khỏe cả.
Sư phụ đưa tay chỉ về hướng trước mặt: "Các chú có thấy không, nơi hòn núi bên kia. Có một khe nhỏ bị các loại đá lấp gần hết. Chính đó là nơi đã xảy ra tiếng nổ rền vang cả trời đất làm tung tóe các núi đá hầu như khắp nơi trong vùng.
Điều đặc biệt khiến chúng ta phải lưu ý là nơi các vách đá bên kia rực lên óng ánh làm lóa cả mắt Phải chăng Sư tổ đưa bọn Lạt Ma trẻ chúng ta đến viếng thăm cảnh Bồng Lai Tiên Cảnh?.
Trong lúc đó thì sư phụ ta từ từ đứng lên, lần này thì trông Người khỏe hẳn lại, không cần đến sự giúp đỡ của chúng ta nữa. Dường như có một sức mạnh huyền nhiệm nào đó đã giúp Người chạy nhanh xuống phía sườn núi, nhanh đến nỗi chúng ta cố gắng chạy theo vẫn không thể nào bắt kịp.
Tuy đang hổn hển thở vì bị mệt nhoài, song ta cũng có thể nghĩ là Sư phụ làm sao có một sức mạnh phi thường như vậy, nếu không có một sức huyền nhiệm nào hỗ trợ ?
Tôi gật đầu:
- Có. Con tin rằng là có. Và sau đó thì Sư Tổ phải giúp đỡ Minh Sư cùng các sư thúc, sư bá ?
- Không! Người vẫn đợi chúng ta ì ạch sang được bên kia sườn núi. Người ngồi trên một mỏm đá trắng. Việc qua bên kia sườn núi hôm nay không như các ngày hôm trước. Lần này chúng ta phải đi trên các mảnh đá núi lở lấp cả lối đi, nhọn hoắt và thập phần khó khăn, nguy hiểm.
Chúng ta vừa leo trèo vừa run sợ. Trống ngực đánh liên hồi, nhất là lúc bắt đầu leo lên bờ tường núi thẳng tắp, phải dùng cả tay lẫn chân bám chặt vào từng hốc đá nhỏ.
Cái chết sờ sờ hiện ra trước mắt. Chỉ cần lơ đễnh, bám trật ngón chân hoặc trệch với lỗ hổng đầy rong rêu trơn trợt thì cả thân xác này hóa thành đống thịt vụn. Trèo lên như vậy đã quá nguy hiểm rồi, nhưng đến lượt về thì thập phần khó khăn hơn.
Nói đến đây, Minh Sư nhìn chung quanh tứ phía rồi mỉm cười kể tiếp:
- Thật là nguy hiểm. Sư phụ ta già nua còn đầy đủ can đảm vượt mọi hiểm nguy huống hồ là bọn chúng ta tuổi còn trẻ há lại chẳng làm được như vậy ru?! Ta thầm nhủ với lòng mình là không nên tỏ thái độ hèn nhát. Lòng tự ái không cho phép ta run sơ, ï làm như thế là khiếp nhược.
Chúng ta đi quanh quẩn ven sườn núi cạnh miệng bờ vực sâu thăm thẳm mà đường đi thì chỉ vừa đủ cho từng người một lần bước đi. Chúng ta phải cố vận hết sức tinh thần để giữ cho bước chân đi thăng bằng.
Phần thì đá dưới chân vừa nhọn vừa cứng nhắc, phần không khí trên ngọn núi cao này như loãng đi. Chúng ta vẫn cố hết sức trèo lên cho kỳ được. Mồ hôi toát ra nhễ nhại cả áo.
Được một lúc ta cảm thấy cổ mình khô quánh lại. Hơi thở bắt đầu khò khè. Buồng phổi ta như nhói lên. Chúng ta đang leo lên một cái hốc đá cao hơn thung lũng lối hơn một trăm năm mươi thước.
Thật là diễm phúc, cái hốc núi này lại có một phiến đá phẳng lì, rộng đủ cho cả năm người nằm nghỉ ngơi thoải mái. Chúng ta không ai bảo ai đều ngả lưng xuống để nghỉ mệt một chút trước khi tiếp tục cố trèo lên nơi sư phụ đang ngồi. Chiếc áo vàng của Người phơ phất trông hệt như lá cờ phướn.
- Thưa Minh Sư, từ nơi phiến đá Minh Sư ngả lưng nằm nghỉ đến nơi sư tổ ngồi đợi có còn xa lắm không?
- Tuy khá xa, song không đến nỗi xa lắm như chú nghĩ. Sư phụ ta ra hiệu bảo chúng ta tạm nằm nghỉ, khi sức khỏe đầy đủ hẳn tiếp tục lên đường. Đây là chặng đường vô cùng nguy hiểm. Các Lạt Ma trẻ bạn ta đều tái xanh cả mày mặt, đâu có khác gì ta cũng đang hãi hùng khiếp vía.
Sau một lúc nghỉ ngơi, chúng ta lại bắt đầu lên đường. Càng lên cao, gió thổi càng lộng, khiến các áo chúng ta đang mặc tung bay kêu lên phần phật. Có điều, đá sỏi bên trên lưng núi bị gió thổi bay lên rơi xuống trên đầu trên cổ chúng ta. Càng lúc, con đường đi càng thu nhỏ lại, khiến việc leo trèo của chúng ta vô cùng khó khăn hơn.
Một trong ba Lạt Ma chúng ta bỗng kêu lên oai oái:
- Chết mất, các sư huynh ơi! Tôi đang bám nhằm vào chiếc đuôi con rắn hổ mang Làm sao bây giờ?
- Thả tay ấy ra, tìm chỗ khác mà bám vào.
- Đâu có được.Chỉ có mỗi một lỗ này thôi.
- Thì cố trườn người lên nắm lấy gốc cây kế cận đó.
Tuy tôi nói vậy, song cũng lo sợ hộ cho người anh em Lạt Ma kia, nếu bị con hổ mang quay lại cắn thì chắc chắn chưa kịp ngấm độc rắn thì anh ta cũng đã bị trượt chân rơi tan xác rồi.
Tôi cố thu hết can đảm để giúp cho anh ấy có đầy đủ tinh thần chịu đựng hầu thoát khỏi cơn nguy biến :
- Hãy để yên bàn tay, đừng nhúc nhích khiến nó giật mình...nguy hiểm lắm.
- Làm sao bây giờ ?
- Thì cố nhắm cho kỹ cành cây nhô ra từ trong đám bụi kia rồi phóng tay đến nắm lấy. Phải thật cẩn thận đấy nha.
Và, có lẽ vì quá sợ con hổ mang trong ngách núi mà người Lạt Ma trẻ tuổi đồng bọn của chúng tôi, nhắm mắt làm liều phóng đến bụi rậm cách đó lối một thước.
Khi nhìn thấy thân hình anh ta chuyển động, tim ta như ngưng đập hẳn lại. Chỉ cần một chút sơ hở không nắm được cành cây thì tính mạng sẽ không còn nữa. Nếu chuyện ấy xảy ra, ta sẽ vô cùng ân hận.
Nhưng may mắn thay! Người Lạt Ma trẻ này đã thoát khỏi miệng của con hổ mang và đang lơ lửng đu mình nơi rễ chuột của cây si, ta mừng rỡ reo lên:
- Thoát hiểm rồi! Giờ đạo hữu hãy đưa chân bám vào ngách đá bên kia đi. Chúng ta lại có nơi tạm nghỉ nữa rồi. Sư phụ đang đưa tay vẩy chúng ta kia kìa. Bây giờ ba chúng ta chỉ cần rướn mình một chút là lên phía hốc đá ấy.
Đó là một cái hốc đá hơi nghiêng nghiêng có bề rộng lối ba thước. Hang đá mát lạnh. Tiếc thay lúc bấy giờ ta không có đủ thì giờ để đi sâu vào tìm hiểu có những gì bên trong hang sâu thăm thẳm đó?! Ta lên trước tiên, trong lúc đó hai Lạt Ma trẻ kia còn ì ạch. Vì thế, ta lần lượt chìa tay ra tiếp sức họ từng người một.
Khi chúng ta lên đến nơi được một lúc, phải đứng nép sát người vào nhau vì gió trên cao bắt đầu thấm lạnh. Hang này được Sư phụ ta cho biết vì bị đá lở mà thành. Và từ nơi đây lên đến chỗ Sư phụ đang ngồi không bao xa nữa và có đường dẫn lên nên không mấy khó khăn.
Sư phụ chúng ta mừng rỡ vỗ vào vai từng môn đệ một khen thưởng:
- Các chú xứng đáng là môn sinh của ta. Ngồi xuống đây đi và nhìn sang vách núi ngay trước mặt kia kìa. Các chú có nhìn thấy gì không?
Và không đợi cho chúng ta đáp lại, sư phụ gật đầu nói tiếp:
- Ngay chỗ chúng ta đang ngồi nhìn sang thì trông như cái bóng của một cây cổ thụ trải dài. Các chú đã khỏe cả rồi chứ ?
Vừa nói, sư phụ vừa đứng lên.
- Giờ thì chúng ta đi lại về phía đó để nhìn xem.
Càng tiến sâu vào bên trong hang động càng rộng ra và ánh sáng tỏa ra cùng khắp. Chiếc bàn đá hoa cương tròn bóng loáng, xếp chung quanh là mười cái ghế cũng bằng một loại đá như nhau.
Trên các mặt tường của hang động đều khắc những hình ảnh người cổ đại, đủ cả mọi lứa tuổi: nam, phu, lão, ấu. Chúng ta đang mải mê quan sát quên cả sư phụ. Mãi đến khi quanh quất nhìn quanh thì Người đã không còn ở bên cạnh, không biết Người đã biến đi đâu mất từ bao giờ!
Chúng ta chia nhau đi tìm nhưng vẫn không thấy bóng dáng người. Ta buộc lòng phải lên tiếng gọi.
- Minh Sư! Minh Sư ở nơi nào? Minh Sư chỉ đường cho chúng con.
Lúc đầu chúng ta còn gọi nhỏ nhẹ, song vì sợ hãi, chẳng biết Sư tổ có gặp điều gì hay không, nên ta lớn tiếng gọi như thể gào lên:
- Sư phụ...Sư phụ ơi!
Chúng ta cùng một lúc gào lên, nhưng vẫn bặt vô âm tín, chẳng nghe thấy tiếng của Người hồi âm lại. Ta bắt đầu thật sự lo lắng. Chúng ta đưa nhau tiến vào các ngách không còn ánh sáng nữa. Nơi đây tối om như mực. Phải vận dụng nhãn quan để nhìn vào các ngách đá tối om như nhà mồ.
Có nhiều ngách nhỏ đến nỗi không thể đứng thẳng để đi vào được mà cần phải cúi gập người xuống bò vào tận bên trong, đưa tay sờ soạng từng ngách nhỏ. Ta nghĩ dại, biết đâu Sư tổ gặp rắn rít hay bởi sức khỏe bị suy yếu ngã vào một nơi nào đó.
Nghĩ vậy, ta lại cố trườn mình bò lê vào bên trong. Thật khó khăn mới có thể nhích lên một vài tấc Khi ta bò lối mười thước thì gặp một cái ngách quẹo khác. Và cứ như thế, ta phải quẹo đi quẹo lại không biết đến bao nhiêu lần mà vẫn hoài công vô ích.
Nỗi lo sợ của ta mỗi lúc một tăng lên khiến ta gần như tuyệt vọng. Ta cũng như hai vị Lạt Ma kia cố thu người lại để chui qua các ngách nhỏ bên trong lòng hang động! Càng tiến sâu vào, bóng đen càng dày đặc thêm, đến nỗi ngửa lòng bàn tay ra cũng không tài nào trông thấy được!
Bất giác ta cảm thấy phía sau gáy dường như có vật gì lạnh buốt đang bò lướt ngang qua!. Ta thật sự kinh hoàng vì biết đó là loài rắn hổ mang, một loài rắn tối độc, chỉ cần phản ứng bằng một cử động nhỏ cũng đủ nhận lãnh lấy ân huệ cuối cùng ban phát ra từ loài ác xà này. T
rước nỗi nguy khốn thập tử nhất sinh này ta phải thu hết can đảm nằm yên bất động! Lúc bấy giờ ta cố hóa thân thành một vật vô tri vô giác, nhắm nghiền mắt lại phó mặc cho định mệnh an bài. May mắn thay! cuối cùng con rắn hổ mang này bò qua một ngách đá cạnh đó. Thoát được cảnh hiểm nguy này ta thở phào nhẹ nhõm.
Vì hang đá có nhiều ngõ ngách, dễ bị lạc lối nên thỉnh thoảng chúng ta lên tiếng báo cho nhau biết về vị trí và sự hiện diện của mình hầu tránh bị mất liên lạc có thể dẫn đến hậu quả vô cùng tai hại là chẳng bao giờ tìm thấy nhau được nữa.
Nói đến đây Minh Sư nhìn tôi hồi lâu đoạn nói tiếp :
- Ta ngại nhất lúc bấy giờ nếu rủi ro chúng ta bị lạc nhau thì chắc chắn là khó lòng tìm nhau ra được nữa.
- Đến trọn đời ? Tôi lên tiếng hỏi Minh sư.
- Tất nhiên là vậy.
Nếu một trong ba chúng ta bị lạc lối, rất có thể như lạc trong mê hồn trận không bao giờ có lối thoát cho đến trọn đời như chú nói, trừ phi họ tìm được lối thoát ra bên ngoài. Còn không thì cuối cùng gục ngã xuống bên trong lòng các hang động để làm mồi cho loài ác thú.
- Thưa Minh Sư, như vậy thì trường hợp này đã từng xảy ra ?
- Tất nhiên là có... có thể hàng trăm nhân mạng.
- Họ lặn lội thám hiểm như thế để làm gì?
- Để đi tìm Cổ Hiền Thạch Động.
Minh Sư lại im lặng, đôi mắt Người dõi về một nơi xa xôi nào đó, mãi giây lâu sau Người bắt đầu lên tiếng tiếp tục thuật lại cuộc hành trình của Người với Sư tổ đến nơi thạch động đầy huyền nhiệm này:
- Chúng ta mò mẫm trong hang động tối tăm để tìm ra lối thoát thì bất thần phía trước mặt từ từ hiện ra một loại ánh sáng mờ đục màu ván sữa! Nơi đây, không còn bị bóng đen bao phủ nữa.
Chúng ta reo lên tỏ vẻ vui mừng vì biết là mình đã thoát ra được khỏi màn đen của hang động, rồi từ từ tiến về phía cửa ngách cuối cùng, bước ra một lòng hang rộng lớn tràn ngập cả ánh sáng khác thường mà từ xưa nay ta chưa hề trông thấy bao giờ .
Đây là một cái động đá lớn rộng thênh thang toàn đá hoa cương màu trắng xen lẫn với màu xanh trứng sáo. Điều khiến cho ta kinh ngạc là khi nhìn lên bên trên trần hang động như thể được kết lên hàng ngàn hạt kim cương lung linh tỏa ra muôn ngàn màu sắc rực rỡ.
Đến giữa hang thấy có nhiều máy móc được sắp xếp thứ tự, ngăn nắp. Đó là những máy móc lạ lùng chúng ta chưa từng được trông thấy. Lạ lùng nhất làm cho chúng ta ngạc nhiên không ít và cùng nhau trầm trồ khi đứng trước một số máy khá lớn bên ngoài bọc lớp vỏ thủy tinh trong suốt dựng sát cạnh tường đá.
Chúng ta quẹo sang bên phải nhìn thấy có những tảng đá đủ mọi hình dạng, tròn trịa có, hình thuẫn có, luôn cả các hình vuông vức hay hình chữ nhật, lớn nhỏ không đồng đều nhau được dựng lớp lang bên cạnh vách đá.
Điều làm cho chúng ta không khỏi phải kinh ngạc khi nhìn thấy các tảng đá này phát lên ánh sáng lấp lánh đủ các màu sắc, xanh có, đỏ có, vàng ửng có, hoa lý có, hồng nhạt và xanh màu da trời vô cùng xinh đẹp.
Chúng ta tò mò tiến đến bên cạnh nhìn xem đây là những vật gì mà tỏa ra ánh hào quang rực rỡ như vậy?! Thì ra đó là những chiếc đầu lâu được khắc bằng một loại đá đặc biệt không thể tìm thấy ở thế gian này.
Gần đây tại Ý, các nhà khảo cổ đã khám phá những khuôn mặt người khắc trong các tảng đá có niên đại vô cùng xa xưa. Nhà khảo cổ học Pietro Gaietto thuộc Viện Bảo Tàng Nguồn Gốc Loài Người đã tìm thấy nhiều tác phẩm điêu khắc hình mặt người như vậy có niên đại cách đây 200.000 năm.
Pietro đã khám phá ra vào năm 2001 tại khu vực Borzonasca ở Ý Đại Lợi khi vô tình tìm ra từ trong đám gạch vụn dùng để xây nhà. Thoạt đầu Pietro bắt gặp một hòn đá trông giống cái đầu lâu rất đặc biệt. Sau khi xem xét ông cho biết đó là tác phẩm được chạm trổ khá công phu và vô cùng tinh tế, kỹ thuật ngày nay khó lòng điêu khắc được như vậy.
Theo lời nhà khảo cổ Pietro Gaietto: Nếu tôi không để ý, chúng có thể đã biến thành vật liệu để xây cất rồi. Theo ông cho biết đó là những phiến đá có khắc hình hai mặt con người, một mặt có râu trông rất biểu cảm còn mặt kia thì nhẵn thín, không có râu ria với hai mắt, miệng rộng, mũi to.
Chúng có thể là sản phẩm nghệ thuật của người Homo Erectus giống dân này đã bị tuyệt chủng cách đây hơn 150.000 năm,vốn có di tích được tìm thấy tại nơi đây.
Vấn đề này cũng có nhiều tranh cãi trong giới khoa học. Có một số trong giới khoa học cho rằng người Homo Erectus chưa có đủ khả năng tư duy hình tượng cần thiết để điêu khắc được các tác phẩm nghệ thuật như nhà khảo cổ Gaietto đã nghĩ.
Họ nêu ra dẫn chứng các di chỉ nghệ thuật của nhân loại thường có niên đại ít hơn 100.000 năm, rõ nhất là nhạc cụ 70.000 năm được tìm thấy ở động Blombos tại Nam Phi.
Lại còn có một số cổ vật được nhiều nhà nghiên cứu cho là những tác phẩm nghệ thuật. Các pho tượng nhỏ Tantan được khai quật lên ở Moroon xa xưa hơn về mặt cổ đại đối với các khuôn mặt của Borzonacco vào năm 1999, được biết là các pho tượng này có niên đại từ 400.000 năm.
Có điều giới khoa học tin là tất cả những cổ vật tìm thấy trên đây nhất định không phải được tạo ra bởi con người. Những đường nét giống mặt người có thể là sản phẩm của các quá trình địa chất.
Sau đó thì chúng ta qua một cửa hang nhỏ để tiến sang bên phía trái của hang động này. Nơi đây, được bày biện những "thẻ bài" dài ngắn không đều nhau cẩn thận gắn trên tường đá hoa cương, mới nhìn vào trông hệt như một bức tranh phong thủy.
Đây có thể nói là một bức vẽ thủy mạc có nghệ thuật siêu việt. Một dòng sông đang chảy lặng lờ, lăn tăn gợn sóng. Một chiếc đò nan với một cô lái đò có lọn tóc dài lơ lửng trên đôi bờ vai thon tròn, một thân hình mảnh mai mặt hướng về một phương trời xa tắp.
Ta tiến lại nhìn kỹ vào các thẻ bài, thì ra đó là những thẻ tre được viết bằng những chữ cổ tự. Chữ viết thật rõ nét. Thú thật ta không đọc được các thẻ tre ấy người xưa đã viết những gì bên trên ấy?
(Tưởng cũng nên biết các nhà khảo cổ Trung Quốc đã tìm thấy hàng nghìn cổ thư chính thức cách đây hơn 2.000 năm và khoảng 20.000 trúc thư cổ xưa cung cấp thông tin chi tiết về đời sống văn hóa, kinh tế,chính trị của triều đại nhà Tần (221-206 trước CN.
Tài liệu cũng bao gồm việc tiêu thụ thực phẩm của quân đội và mối quan hệ giữa các cộng đồng sắc tộc khác nhau. Theo Tân Hoa Xã cho biết những cổ vật này được khai quật tại tỉnh Hồ Nam thuộc miền Hoa Nam. Các chuyên gia đã so sánh những tài liệu mới khám phá với những tượng binh lính và ngựa bằng đất nung của thời nhà Tần được khai quật tại tỉnh Sơn Tây trong thập niên 70.
Các nhà nghiên cứu cho biết chi tiết 2.000 thẻ tre được khai quật trong thế kỷ 20. Ông Guo Weimin, phó giám đốc Viện Khảo Cổ Hồ Nam cho biết: Đây là lần đầu tiên tại Trung Quốc phát giác được một khối lượng thẻ tre khổng lồ ghi lại lịch sử từ thời Xuân Thu 770-476 trước Công Nguyên. Đến triều đại Tây Hán 206 trước CN và 25 năm sau Công Nguyên.)
Trong lúc đang ngẩn ngơ trước cảnh tượng lạ lùng này thì có tiếng cười vang lên khiến chúng ta giật mình quay lại, thì ra Sư tổ đã đứng ngay bên cạnh từ bao giờ. Không gì vui mừng bằng khi nhìn thấy lại Người, chúng ta đứng vây quanh như thể không cho Người biến mất đi lần nữa. Và như thông cảm Sư tổ dang rộng vòng tay ra ôm lấy chúng ta nói lên bèn giọng cảm động:
- Ta biết các con lo lắng không ít trong suốt thời gian ta không ở bên cạnh. Thật ra, ta phải có bổn phận đi tìm kiếm những gì trong "Mật Thư" đã ghi lại, đợi khi nào tìm được nơi cất giấu những bảo vật trong hang động này ta sẽ quay trở lại đón các con, không ngờ các con đã tự tìm ra trước khi ta quay trở lại để tìm kiếm các con! Thật Sư phụ không phải, không phải!
Nhưng chỉ nói đến đây, Minh sư Minh Dà Đông Đạt bất giác im lặng. Riêng tôi không cần đợi lời giải thích, cũng biết là Minh Sư đang nhận các thông tin truyền đạt đến. Và đúng như vậy, Người nói:
- Ta định đưa các chú đến Cổ Hiền Thạch Động để chiêm ngưỡng ngoại cảnh của thạch động này, nhưng ta được lệnh của Đức Tối Cao Lạt Ma gọi về. Âu đó là các chú không có cơ duyên!
Riêng mỗi Lỗ San thì khác, chú còn được cơ may nhìn tận mắt những tất cả những gì huyền nhiệm được cất giấu bên trong lòng thạch động này trong thời gian không còn xa nữa.
Một hôm tôi đang ngồi suy tư về những điều bí mật bên trong dãy Hy Mã Lạp Sơn nơi lòng Cổ Hiền Thạch Động trong chuyến đi mạo hiểm mà thầy tôi vừa kể thì Minh Sư Minh Dà Đông Đạt cho người gọi tôi đến:
- Ngày mai này các chú Sĩ Cát, Lâm Trần, cùng anh Hà Mịch trở về Ấn Độ, ta cho phép chú được đặc biệt nghỉ một ngày trước khi những người bạn này của chú rời khỏi Tây Tạng và có thể sẽ không còn bao giờ gặp gỡ nữa!
Tôi sững sờ hỏi lại Minh Sư:
- Không bao giờ hội ngộ nữa?
- Không bao giờ. Tất cả đều có định mệnh. Con người không ai có thể tự quyết định lấy ý muốn của mình.
Tôi lẩm bẩm tự hỏi:
"Tại sao lại như vậy?".
Nhưng thầy tôi đã lên tiếng khuyên nhủ:
- Đừng thắc mắc Lỗ San! Rồi chú hẳn biết tại vì sao chú sẽ không còn có những cuộc gặp gỡ như vậy.
Thế là ngày hôm sau, chúng tôi gặp nhau ở ven bờ suối. Không gì sung sướng bằng khi được ngồi quây quần lại bên nhau nói đủ thứ chuyện. Cuối cùng chú Sĩ Cát cho biết:
- Ngày mai này, chúng ta sẽ trở lại Đông Dương!
- Trở về bán đảo Đông Dương? Tại sao không trở về Ấn Độ?
- Không! Chúng ta còn một ít việc phải làm trong một thời gian nữa. Lỗ San, chúng ta cầu mong sao cho Lỗ San thành công viên mãn trong cuộc hành trình mà ta biết định mệnh đã an bài cho chú.
Hai anh Hà Mịch và Lâm Trần cũng đều khuyên tôi như vậy...Trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi này, chúng tôi thảo luận đủ mọi điều như về thuyết tiến hóa của linh hồn, làm sao cho đạt được đến mức toàn thiện, đạt đến trạng thái phát triển tâm linh thật hoàn hảo như một siêu nhân.
Đạo lý cổ truyền cho biết mục đích "toàn thiện" và "giải thoát là quả vị cuối cùng, còn mau hay chậm thì tùy vào sức chịu đựng hy sinh và sự cố gắng của chính mình.
Khi bàn đến chuyện sự tu luyện và hóa kiếp của con người, chú Sĩ Cát đã giải thích về giáo lý Huyền Môn. Theo chú sự phát triển về mặt thể chất, trí tuệ và tâm linh không thể nào đạt được trong một kiếp sống ngắn ngủi ít hơn trăm năm.
Nếu con người chỉ sống duy nhất ở một kiếp này rồi vĩnh viễn không còn nữa thì cái quả vị tối cao ấy đâu có thể nào thực hiện được? Mà không thực hiện được thì ắt là nó sẽ trở thành điều hoàn toàn tuyệt vọng.
Tôi sực nhớ lại có lần thầy tôi đã nói:
"Con người ai cũng phải trải qua những thất bại của buổi ban đầu. Âu đó là một điều dễ hiểu. Không ai có đủ thì giờ và cơ hội để phát triển mọi khả năng, sửa đổi mọi khuyết điểm để đạt đến mục tiêu Toàn Thiện cùng một lúc được!"
Hôm ấy chúng tôi đưa nhau đến ven các bờ suối để ngồi yên lặng hàng giờ lắng nghe tiếng nước suối chảy róc rách, tiếng gió rừng vi vu, cả tiếng của chim kêu vượn hú, hầu tận hưởng cảnh thiên nhiên của rừng núi.
Chúng tôi cũng cùng nhau đến thăm khu rừng đầy cả hàng ngàn cánh bướm đủ màu đủ sắc đang nhởn nhơ bay lượn trên hàng ngàn cánh hoa rừng rực rỡ.
Chúng tôi như bị một sức huyền nhiệm cuốn hút tiến sâu vào khu rừng đầy muôn hương nghìn sắc Tôi nâng lên từng cánh hoa mà không hề dám mạnh tay sợ làm lay động và xúc phạm đến vẻ đẹp thiên nhiên của tạo hóa kết thành.
#13
Gửi vào 06/06/2011 - 22:03
THOÁT VÒNG SINH TỬ
Sinh lão bệnh tử là cái vòng lẩn quẩn, Thánh Nhân đã bảo như vậy. Sinh ra, lớn lên, già nua, bệnh hoạn, và cuối cùng thì quay đầu về núi. Chẳng ai thoát cả. Âu đó là qui luật của tạo hóa. Ấy thế mà, đối với các đấng siêu phàm thì thoát hẳn khỏi vòng sinh tử.
Anh Hà Mịch dừng lại một lúc, dõi mắt nhìn lên tận đâu đâu mãi đến phút giây sau mới tiếp tục nói:
Đúng vậy! Đó là các đấng siêu phàm thoát vòng sinh tử, là các bậc Chân sư mà hiện nay đang ẩn dật trong lòng dãi Hy Mã Lạp Sơn huyền nhiệm này. Các ngài có huệ nhãn nhìn thấy được ánh hào quang bao quanh của mỗi người và luôn cả hai dòng "Thần Kinh Lực", mà mắt của con người phàm như chúng ta không bao giờ nhìn thấy được.
Chú Sĩ Cát cũng đề cập đến các đấng Giác Ngộ từng truyền cho hậu thế Thánh ngữ Aoum Man Ni Pát Mi Hồng nói lên sự an lạc, dịu hiền, sự thanh thoát rung cảm với cõi Vô Hình nối liền giữa con người với đấng Thiêng Liêng.
- Đó là sức mạnh đầy quyền lực vô địch của con người, hay là sức mạnh phi thường của Thần Kinh Lực, của Prana, mà cũng là sức mạnh của dòng tư tưởng, xuất phát từ một quyền năng vô lượng.
Chú Sĩ Cát kết luận :
- Nếu ta hoàn toàn hiểu rõ được Prana và điều khiển được nó thì trên cõi đời này chẳng còn có quyền lực nào mà con người không có được.
- Vậy thì, như theo lời chú giảng giải, con người chúng ta sẽ điều khiển được mọi vật thể trong vũ trụ, từ cái nguyên tử li ti đến cả cái thiên thể cực lớn? Tôi muốn chú xác định điều này.
- Đúng vậy! Chú Lâm Trần cũng khẳng định như vậy Khi mà con người làm chủ cái Prana và luôn cả cái Thần Kinh Lực rồi thì chẳng khác nào các bậc siêu phàm ở chốn siêu nhiên.
- Nói như thế hóa ra ta có thể sánh mình như hàng Thánh Thần điều khiển được cả các linh hồn người chết? Tôi tò mò hỏi.
- Đến lúc ấy mọi thế lực thiên nhiên sẽ vâng theo mệnh lệnh của chúng ta, như đã tuân theo qui luật của vũ trụ.
Chúng tôi bàn thảo với nhau cả về khoa học của tôn giáo để tìm ra cái thực tại tối cao. Từ đó chúng tôi lần ra cái mốc cuối cùng cái triết của đạo giáo. Chúng tôi cũng lạm bàn về tâm linh của các Bồ Tát xuất phát từ cái Sambhogakaya hay cái hóa sinh phát xuất từ Mahakarana của các chư Phật Bồ Tát.
Chúng tôi cũng bàn đến các câu thần chú, mặc dù chẳng ai dùng đến nó, dù đó là "Lục Tự Thần Chú Vương Kinh" một câu chú biến được sự già nua cỗi cằn của con người trở lại sự trẻ trung tươi mát, hay đúng hơn là cải lão hoàn đồng.
Tôi sức nhớ lại Minh Sư có lần mang các lời lẽ trong "Mật Thư" nói về cái bản nguyên cuối cùng của vũ trụ, nó có thể đảo lộn được các mối quan hệ của "tâm vật".
Các phái trong giới nhà Phật như phái Thiên Đài phóng đại sức vô hạn tác dụng nội tại của "tâm", hay phái Pháp Tướng thì nặng về phần kinh nghiệm cảm giác theo như quan niệm "tâm ngoại vô vật, vạn pháp duy thức".
Trong khi đó phái Hoa Nghiêm thì bằng vào duy lý tính để nói lên thứ vũ trụ quan duy tâm này.
Lúc ấy, tôi đột ngột hỏi Minh sư :
- Thưa Minh sư, nói như thế thì chẳng hóa ra ai cũng cũng có thể đảo lộn "tâm vật" được sao?
- Tất nhiên là được, nếu ta không để ngoại cảnh làm giao động được tâm hồn mình. Chú có thể thành Phật, nếu chú thấu triệt được quan điểm "lương tri lương năng" thì chú có thể thành công được mọi việc.
Lúc bấy giờ chú có thể làm được ông Nghiêu, ông Thuấn, chú có thể thông suốt luôn cả quan niệm thể nghiệm cảm nhận của Đạo gia...mới là Phật. Vậy thì, Phật tính tồn tại trong tâm của mọi người chúng ta. Thế có nghĩa Phật tính là bản tính duy nhất của nhân tính bởi
Phật tính luôn luôn tồn tại trong tâm của mỗi người chúng ta, đừng để bất cứ một ý nghĩ nào làm sai lạc đi, mà sai lạc tức là "vọng niệm"... mà vọng niệm thì che lấp tất cả làm sao mà đốn ngộ được! Chúng ta phải "tự ngộ", "tự giác" để được thanh thản đi vào cõi Phật.
Chú đã từng nói về Huệ Năng với ta kia mà! Ông Tổ thứ sáu của phái Thiền tông này đã từng khuyến nhủ : "Hãy thận trọng, đừng để ý nghĩ sai lạc, nếu sai lạc thì sẽ bị diệt, hiểu biết tự tính, giác ngộ mà đến đất Phật".
Thế Lỗ San há chẳng nhớ "nhất sát na gian, vọng niệm cụ diệt, nhược thực tự tính, nhất ngộ tức chí Phật địa" đó sao? Đó là "đốn Ngộ", mà "Đốn Ngộ" tức là thành Phật rồi.
Mải mê chuyện trò với nhau quên cả trời bắt đầu tắt nắng. Một màu đỏ bao phủ cả núi rừng. Chẳng mấy chốc bóng đêm rủ xuống bao trùm lên vạn vật!
Chúng tôi trở về phòng, Minh Sư đã truyền cho nhà bếp dành cho chúng tôi một bữa ăn tối thịnh soạn. Đêm hôm ấy chúng tôi tiếp tục chuyện vãn suốt đêm vì biết rằng sẽ không còn cơ hội nào gặp mặt nhau lần nữa
Tôi lại bắt đầu trở lại nghe những buổi thuyết giảng của Minh Sư như thường nhật. Minh Sư Minh Dà Đông Đạt quay lại câu chuyện bỏ dở tại Cổ Hiền Thạch Động hôm nào:
- Chúng ta theo sư phụ vào tận bên trong Cổ Hiền Thạch Động, càng lúc càng thấy quang cảnh nơi này thật lạ lùng. Ta sững sờ như một kẻ mất hồn. Cái động đá lớn như một đại sảnh, rộng thênh thang và bên trên là một trần đá phẳng lì cao vút, nơi nào cũng lấp lánh sáng như một rừng hoa đăng giăng mắc trên vòm trời!
Mãi một lúc sau, ta mới nhận ra đó là những bóng đèn đủ màu sắc đang tỏa ra muôn ngàn ánh sáng li ti như những hạt kim cương nhấp nháy. Bọn chúng ta còn đang ngơ ngác thì bỗng nghe có tiếng kêu lách tách vang lên cùng khắp hệt như các tiếng kim khí va chạm vào nhau.
Tiếp theo các âm thanh là một lằn sáng xanh tợ như mắt mèo hiện ra. Lằn sáng xanh này lớn dần lên và biến thành một bóng ma khi ẩn khi hiện chập chờn trước mắt. Bóng ma cứ lớn dần ra đến nỗi ta không không còn phân biệt được đó là bóng ma hay là bóng đêm nữa.
Trong lúc chúng ta như bị lạc trong mê hồn trận thì bất thần một tiếng nổ lớn làm rung chuyển cả thạch động. Thú thật bọn ta đều sợ xanh mặt, ngồi sát vào nhau và chẳng một ai dám nói lên lời nào. Sau đó không bao lâu như có luồng phóng xạ từ xa phóng lại, khiến ta có cảm tưởng đó là luồng phóng xạ của một vị Lạt Ma nào đó.
Có thể là của một vị Lạt Ma đã qua đời biến thành một bóng ma để đùa vói bọn chúng ta chăng?!
- Thưa Minh Sư, có đúng đó là trò nghịch đùa của một bóng ma không?
Minh Sư gật đầu:
- Sau đó là hình dáng của một bóng ma hiện lên mờ mờ ao ảo trông như hơi sương mờ không thể nào nhận diện được. Lúc bấy giờ đầu của bóng ma này nhẵn thín, không có lấy sợi tóc nào. Nhưng chẳng bao lâu sau đó bóng ma này mờ nhạt dần và cuối cùng tan biến mất. .
- Thưa Minh Sư, tôi hỏi. Sau chuyện bóng ma ấy còn có những sự kiện nào ly kỳ nữa không?
Người mỉm cười, không đáp vội, cầm lấy bình trà châm thêm vào chung rồi cứ nhịp độ như thế người uống liên tiếp cho đến khi bình trà không còn một giọt nào nữa. Tiếng cồng lại vang lên báo hiệu cho buổi lễ chiều sắp bắt đầu. Trước khi đứng dậy, mỉm cười đáp lại:
- Đã đến giờ đảnh lễ, đừng nôn nóng, chẳng còn bao lâu nữa chú sẽ được chính mắt mình nhìn thấy tất cả những gì diễn tiến sau đó. Ta có thể tóm lược đại khái là cách đây mấy nghìn năm, trên quả đất này từng có một nền văn minh cực thịnh.
Lúc bấy giờ con người đã từng biết sử dụng máy bay vượt khỏi sức hút của địa cầu. Chú nên biết rằng, tổ tiên ta đã từng sáng chế ra vô số máy móc chẳng phải chỉ để truyền tin cho nhau bằng âm thanh mà luôn cả về hình ảnh nữa.
Chú ngạc nhiên ư ? Không! Chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. Chú có thể tin không, có một thời kỳ tổ tiên ta cho nổ quả bom khinh khí nhận chìm xuống lòng sâu bể cả mấy châu lục địa mà ngày nay vẫn còn những dấu tích!
Ngày hôm sau, Minh sư lại tiếp tục nói về những bức hình điêu khắc tại trong Cổ Hiền Thạch Động :
- Đó là một công trình nghệ thuật vô giá. Ta sững sờ nhìn từng nét khắc, thật tuyệt vời. Sao mà họ, những người cổ đại lại có bàn tay điêu luyện đến như thế. Sau này ta nghĩ chú sẽ không tránh khỏi xuýt xoa hoặc tiếc lời khen tặng.
Có những hình ảnh quái vật, mới thoạt nhìn thấy ta cứ đinh ninh đó là một con vật sống đang ngồi trên mỏm đá trắng. Và bên cạnh đó là những hình ảnh của bầy yêu tinh mình người đầu thú đang nhảy múa vây quanh đống lửa.
Chẳng những vậy, ta càng sửng sốt khi đứng trước một bức tranh lớn điêu khắc cảnh của bầu trời về đêm với những dãi ngân hà giăng mắc. Càng nhìn càng thấy như đó là một hình ảnh thật. các ngôi sao như thể đang nhấp nháy bên cạnh mặt trăng tròn vành vạnh. Sao mà tài tình đến như thế
(Gần đây, vào năm 2003 này, người ta đã tìm thấy các bức họa quái vật của người Ý Đại Lợi cổ đại. Nhờ vậy mà được biết nghệ thuật hội họa của người Etruscan, một giống người Ý Đại Lợi cổ đại, với những hình vẽ ma quỉ kỳ lạ, đang dần lộ diện tại ngôi làng Saterno, cách thành phố Siena 80 km. Phát hiện này được xem là một trong những khám phá khảo cổ quan trọng nhất thời kỳ gần đây.)
Những bức tranh được điêu khắc như vậy có rất nhiều trên các bức tường trong Cổ Hiền Thạch Động. Đây không phải là những hình ảnh của một nền nghệ thuật còn sơ khai, mà chính là những dấu ấn được khắc ghi bởi các bàn tay khéo léo của những con người thời cổ đại.
- Lỗ San, chú có nhận thấy như thế không?
Tôi gật đầu đáp lại:
- Thưa Minh Sư, đúng như vậy!
Những điểm sáng như các vì tinh tú phía bên trên mà chú trông thấy, đó là những hạt thủy tinh li ti mà nhà điêu khắc gia cổ đại đã khéo léo gắn vào một cách tài tình.
Nói đến đây người nhìn tôi mỉm cười :
- Bên trong các vì sao li ti đó là ánh sáng được phát ra bởi nguồn điện lực. Rồi đây chú sẽ có dịp được xem những hình thù quái đản khác. Ta đã trông thấy những động cơ làm bằng kim loại.
Khi đến một động cơ đầu tiên Minh Sư đã dùng tay quay thật mạnh vào một bánh xe và bỗng dưng tự nó phát ra những tiếng nổ liên tục cùng một lúc những tia chớp lóe lên bắn ra tứ phía. Thú thật lúc bấy giờ ta không còn bình tĩnh được nữa, đứng dang xa ra trố mắt nhìn trân trối.
Không phải mãi đến ngày nay con người mới biết sử dụng máy móc, điện lực mà từ thời xa xưa tại ngay trong hang đá của Cổ Hiền Thạch Động đã có sự hiện hữu của các động cơ như thế rồi.
Để giảng giải cho ta được hiểu thêm về nguồn điện năng, người mang một ít dụng cụ bằng thủy tinh trong một cái hộp ra và cột mỗi cái vào dây điện nơi đầu máy, đoạn quay mạnh cho phát ra tiếng nổ, rõ ràng ngọn lửa bật lên trong một cái bóng thủy tinh rồi tiếp nối bật sáng lên trong các bóng khác mà thầy ta đã cài vào.
Con người của chúng ta cũng có những nguồn điện lực như thế ấy. Vì vậy mà chúng ta thấy có các thuật thôi miên. Người ta có thể dùng điện lực của ta sai khiến kẻ khác, hoặc như để chữa bệnh chẳng hạn.
Ta có thể dùng điện lực của ta mở mang trí tuệ của chú mà không cần phải bửa cái sọ của chú ra để nhét vào. Chú có tin không ?
Tôi gật đầu:
- Thưa Minh sư, con tin là như vậy.
- Ta có thể bảo chú, khuyên chú, hoặc chỉ dẫn chú, trong lúc đó chú có thể chấp nhận hoặc từ khước những gì chú không muốn nhận lấy. Những lúc từ chối như vậy óc chú tự nhiên phóng ra luồng điện để khước từ trước luồng điện năng của đối phương đưa đến.
- Có khi nào Minh Sư dùng thuật thôi miên đối với người nào bằng lối cưỡng bức không?
- Ít khi ta dùng thuật thôi miên cho người nào trái với ý họ, ngoại trừ tình thế bắt buộc để chữa bệnh.
Và đến đây, người nhìn tôi trong giây lâu đoạn lên tiếng hỏi:
- Lỗ San! Chú có muốn thực hiểu về thuật thôi miên không ?
Tôi vui mừng gật đầu:
- Thưa Minh sư, con muốn có được điều này.
Người đưa mắt nhìn tôi chăm chú đoạn lên tiếng:
- Ta biết chú không thích đọc phần thứ "Năm" trong kinh Lăng Nghiêm, có đúng như thế không?
Tôi giật mình,vì đó là sự thật. Nhưng làm sao Minh sư biết được điều này? Không đợi để tôi đáp lại, người tiếp tục nói:
- Ta biết chú chưa học học kỹ lời kinh đó vì nó quá cao siêu có đúng thế chăng?
- Vì con cảm thấy nó rắc rối quá.
- Tôi đáp lại như vậy.
Thầy tôi đưa tay chỉ pho kinh Lăng Nghiêm đặt ở cạnh cửa sổ rồi lên tiếng bảo:
- Chú hãy đến đấy mang lại đây và mở đoạn ấy ra.
Tôi mang pho kinh này mà lòng chẳng mấy thích thú, nhất là khi tưởng tượng mò mẫm tìm kiếm những đoạn mà tôi không muốn đọc đến. Tại Tây Tạng pho kinh nào cũng vĩ đại. Tôi đặt pho kinh này xuống trên mặt bàn đang ngồi và từ từ mở ra.
Tôi có linh cảm là Minh Sư đang phóng mắt nhìn vào tôi, và chỉ trong giây lát sau không hiểu tại sao tôi lại tìm thấy dễ dàng những dòng kinh nơi phần của chương Năm này.
- Bây giờ chú thử đọc đi.
Khác với bao nhiêu lần khác, lần này tôi cảm thấy vô cùng thích thú. Đọc đến đoạn nào tôi chẳng những hiểu ý nghĩa của nó mà còn thuộc như thể nằm lòng từng dòng một của các lời kinh đó.
- Lỗ San, chú đừng ngạc nhiên về sự thông minh của chú hôm nay mà chính là chú đã nhận được luồng cảm xạ của ta. Chính ta đã điều khiển bộ óc của chú theo như ý chú muốn được có. Lúc bấy giờ dung dịch bọc chất chuyển động nơi não bộ chú đã làm những gì mà ta muốn. Đó là thôi miên.
Minh Sư ngừng lại trong giây lát nhìn vào thần thái của tôi rồi tiếp tục:
- Thôi miên là thế đấy, nhưng nó chẳng phải đơn thuần như vậy. Có điều quan trọng là làm sao cho "cảm xạ lực" của chú phải được tăng trưởng nhiều hơn, vì đó là nhu cầu trong tương lai của chú.
Tôi sực nhớ lại là nhiệm vụ của tôi đã được đặt định nó sẽ ra làm sao!
- Thưa Minh Sư con muốn..
Nhưng thầy tôi đã đưa tay ra cản lại:
- Bây giờ thì chú chưa cần quan tâm đến vội. Chú chỉ cần biết rằng đất nước đang cần đến chú. Vì vậy chú phải được huấn luyện đến nơi đến chốn.
- Con? Đất nước đang cần con?
- Phải. Đất nước đang cần chú. Ngoài con đường chú đã và đang đi là cố làm sao giải thoát cho linh hồn, nhưng không phải chỉ có ngần ấy không thôi, mà chúng ta còn có bổn phận bảo vệ đất nước và dân tộc nữa. Rồi đây, một thời gian nào đó ắt chú sẽ thấy điều này.
- Vậy thưa Minh Sư, con thật sự muốn biết nhiệm vụ của con sẽ đảm nhận việc gì ?
- Chú sẽ được đưa đi nhiều quốc gia trên thế giới. Tất nhiên là suốt thời gian ấy chú sẽ được thường xuyên liên lạc với chúng ta ở quê nhà. Chú nên nhớ rằng dù máy móc truyền thông tinh vi đến thế mấy cũng không thể nào vượt qua được "thần giao cách cảm".
Nghe đến "thần giao cách cảm" tôi vội lên tiếng hỏi:
- Con muốn được hiểu theo cái nghĩa đúng của "thần giao cách cảm" như thế nào!
- Thật đơn giản. "Thần giao cách cảm" là truyền đạt ý nghĩ của mình sang cho người khác mà không phải phát ra thành tiếng dù cho kẻ đó ở xa hàng ngàn dặm họ cũng có thể thu nhận được qua làn sóng điện mà ta phóng đến.
- Thế có nghĩa là chúng ta chỉ cần điều khiển cho được làn sóng điện là được. Đó là cách dùng điện năng của ý thức phát đi không giới hạn.
- Chú đúng. Trong tương lai gần chú sẽ phải sử dụng nó với chúng ta khi mà chú ra ngoài tiền tuyến. Trong thời buổi văn minh này mọi người đều sử dụng máy móc để thông tin liên lạc với nhau, nhưng với cung cách truyền tin cho nhau như vậy làm sao bảo mật được?
Tất nhiên là kẻ thù của chúng ta sẽ có thể nghe và có thể giải mã một cách dễ dàng. Nhưng với "thần giao cách cảm" thì chúng ta không cần đến mã số nữa, kẻ địch không thể nào nghe thấy chúng ta đang chuyện vãn với nhau.
Nói đến đây Minh Sư quay trở lại về các bức hình được điêu khắc trong Cổ Hiền Thạch Động mà người đã bỏ lửng nửa chừng:
- Bây giờ thì chúng ta quay lại về những hình ảnh điêu khắc trong các hang động mà ta đã được may mắn chiêm ngưỡng nó. Đúng đó là dấu ấn của con người từ ngàn xưa lưu lại.
Ngoài cái giá trị nghệ thuật, các hình ảnh sinh động của đàn ngựa, của chúa sơn lâm, của những con bò có đôi sừng cong vòng, hoặc nhưng con ma mút, những con tê giác quý hiếm.. nó còn ẩn chứa những bí mật của những người cổ đại truyền lại cho hậu thế.
- Thưa Minh Sư, phải chăng đó là những tác phẩm nghệ thuật siêu phàm?
- Có thể. Nhưng như ta đã nói. Ngoài việc phô trương về nghệ thuật của những bàn tay siêu việt, nó còn là những bức "mật thư" chỉ có các bậc tiên tri của chúng ta mới có thể đọc thấy được.
(Gần đây tại Pháp các nhà khảo cổ đã khám phá các hang động tại vùng Archède. Họ hy vọng tìm thấy những bằng chứng của nền nghệ thuật ban sơ của con người nhưng chưa thành công.
Họ đã biết các hình ảnh tuyệt vời dưới đất của thời Đổ Đá Mới (40.000 - 10.000 năm trước) họ cũng biết nghệ thuật tại Lascaux, Niaux và các địa danh nổi tiếng khác.
Nhưng Jean-Marie Chauvet và hai người cùng phát hiện cũng không thể ngờ tới cái mà họ tìm thấy trong một hang sâu, dưới ngọn đồi bên sông Archède - dấu ấn bàn tay con người từ rất xa xưa.
Đó là vô số hình ảnh sinh động của ngựa, sư tử, bò tót, tê giác cũng như voi ma mút đã tuyệt chủng. Một số hình ảnh được vẽ, số khác được chạm vào vách hang.
Đèn của ba nhà khảo cổ rọi qua bóng tối, chiếu sáng đám xương gấu, chỗ vết lửa và các dấu vết như thể người ta dụi bó đuốc đang cháy vào tường. Họ cảm thấy như đang chìm sâu vào một thế giới linh thiêng đã mất từ lâu.
Khám phá hang Chauvet là một trong những phát hiện khảo cổ vĩ đại nhất thế kỷ 20. Nhưng giống như các phát hiện khác, trong khi giải đáp được một số vấn đề, nó cũng đặt ra nhiều câu hỏi mới.
Những người nguyên thủy mà dấu chân trần còn thấy rõ trên bùn đã vào các hang tối đó từ bao giờ! Tại sao họ vào sâu trong lòng đất để vẽ tranh? Hành vi bí ẩn đó có phải là nguồn gốc của cái mà chúng ta gọi là "nghệ thuật" ngày nay hay không?
Những hình ảnh đó liên quan thế nào với vật khắc trên xương, ngà voi và các bức tượng nhỏ tìm thấy ở các địa danh thời Đồ Đá Mới?
Và căn cứ theo niên địa cực kỳ xa xưa của chúng (32.400 năm với sai số 720 năm) người ta cũng phải tự hỏi liệu nghệ thuật có thể đã xuất hiện hoàn chỉnh ngay từ đầu, chứ không phải trải qua một quá trình phát triển từ thấp lên cao.)
Theo các nhà khảo cổ này thì các bức tranh mà họ khám phá ra chỉ là "nghệ thuật vị nghệ thuật", nhưng với hình ảnh được khắc trên các vách tường đá trong Cổ Hiền Thạch Động thì bên ngoài trông nó chẳng khác nào các điêu khắc gia cổ đại cũng không ngoài vấn đề nghệ thuật.
- Lỗ San, chú có bao giờ nghĩ những hình ảnh được người xưa điêu khắc đó không phải chỉ thuần túy về nghệ thuật mà nó còn ẩn chứa những điều gì đó mà chúng ta chưa thể tiết lộ ra được ngày nay không?
- Thưa Minh Sư, con hiểu.
Thầy tôi đứng dậy, gật gù đầu nhìn tôi nhỏ nhẹ bảo:
- Chúng ta tạm nghỉ, chú có thể rong chơi đâu đó Ngày mai chúng ta sẽ cùng bàn thảo thêm những điều cần thiết khác.
Nói xong, thầy tôi ung dung bước ra khỏi phòng. Đợi Minh sư rẽ vào phòng kế cận xong, lúc bấy giờ tôi mới ra thẳng hòn giả sơn ngắm nhìn đỉnh Hy Mã Lạp Sơn cao vút ẩn hiện trong đám mây vàng.
Sinh lão bệnh tử là cái vòng lẩn quẩn, Thánh Nhân đã bảo như vậy. Sinh ra, lớn lên, già nua, bệnh hoạn, và cuối cùng thì quay đầu về núi. Chẳng ai thoát cả. Âu đó là qui luật của tạo hóa. Ấy thế mà, đối với các đấng siêu phàm thì thoát hẳn khỏi vòng sinh tử.
Anh Hà Mịch dừng lại một lúc, dõi mắt nhìn lên tận đâu đâu mãi đến phút giây sau mới tiếp tục nói:
Đúng vậy! Đó là các đấng siêu phàm thoát vòng sinh tử, là các bậc Chân sư mà hiện nay đang ẩn dật trong lòng dãi Hy Mã Lạp Sơn huyền nhiệm này. Các ngài có huệ nhãn nhìn thấy được ánh hào quang bao quanh của mỗi người và luôn cả hai dòng "Thần Kinh Lực", mà mắt của con người phàm như chúng ta không bao giờ nhìn thấy được.
Chú Sĩ Cát cũng đề cập đến các đấng Giác Ngộ từng truyền cho hậu thế Thánh ngữ Aoum Man Ni Pát Mi Hồng nói lên sự an lạc, dịu hiền, sự thanh thoát rung cảm với cõi Vô Hình nối liền giữa con người với đấng Thiêng Liêng.
- Đó là sức mạnh đầy quyền lực vô địch của con người, hay là sức mạnh phi thường của Thần Kinh Lực, của Prana, mà cũng là sức mạnh của dòng tư tưởng, xuất phát từ một quyền năng vô lượng.
Chú Sĩ Cát kết luận :
- Nếu ta hoàn toàn hiểu rõ được Prana và điều khiển được nó thì trên cõi đời này chẳng còn có quyền lực nào mà con người không có được.
- Vậy thì, như theo lời chú giảng giải, con người chúng ta sẽ điều khiển được mọi vật thể trong vũ trụ, từ cái nguyên tử li ti đến cả cái thiên thể cực lớn? Tôi muốn chú xác định điều này.
- Đúng vậy! Chú Lâm Trần cũng khẳng định như vậy Khi mà con người làm chủ cái Prana và luôn cả cái Thần Kinh Lực rồi thì chẳng khác nào các bậc siêu phàm ở chốn siêu nhiên.
- Nói như thế hóa ra ta có thể sánh mình như hàng Thánh Thần điều khiển được cả các linh hồn người chết? Tôi tò mò hỏi.
- Đến lúc ấy mọi thế lực thiên nhiên sẽ vâng theo mệnh lệnh của chúng ta, như đã tuân theo qui luật của vũ trụ.
Chúng tôi bàn thảo với nhau cả về khoa học của tôn giáo để tìm ra cái thực tại tối cao. Từ đó chúng tôi lần ra cái mốc cuối cùng cái triết của đạo giáo. Chúng tôi cũng lạm bàn về tâm linh của các Bồ Tát xuất phát từ cái Sambhogakaya hay cái hóa sinh phát xuất từ Mahakarana của các chư Phật Bồ Tát.
Chúng tôi cũng bàn đến các câu thần chú, mặc dù chẳng ai dùng đến nó, dù đó là "Lục Tự Thần Chú Vương Kinh" một câu chú biến được sự già nua cỗi cằn của con người trở lại sự trẻ trung tươi mát, hay đúng hơn là cải lão hoàn đồng.
Tôi sức nhớ lại Minh Sư có lần mang các lời lẽ trong "Mật Thư" nói về cái bản nguyên cuối cùng của vũ trụ, nó có thể đảo lộn được các mối quan hệ của "tâm vật".
Các phái trong giới nhà Phật như phái Thiên Đài phóng đại sức vô hạn tác dụng nội tại của "tâm", hay phái Pháp Tướng thì nặng về phần kinh nghiệm cảm giác theo như quan niệm "tâm ngoại vô vật, vạn pháp duy thức".
Trong khi đó phái Hoa Nghiêm thì bằng vào duy lý tính để nói lên thứ vũ trụ quan duy tâm này.
Lúc ấy, tôi đột ngột hỏi Minh sư :
- Thưa Minh sư, nói như thế thì chẳng hóa ra ai cũng cũng có thể đảo lộn "tâm vật" được sao?
- Tất nhiên là được, nếu ta không để ngoại cảnh làm giao động được tâm hồn mình. Chú có thể thành Phật, nếu chú thấu triệt được quan điểm "lương tri lương năng" thì chú có thể thành công được mọi việc.
Lúc bấy giờ chú có thể làm được ông Nghiêu, ông Thuấn, chú có thể thông suốt luôn cả quan niệm thể nghiệm cảm nhận của Đạo gia...mới là Phật. Vậy thì, Phật tính tồn tại trong tâm của mọi người chúng ta. Thế có nghĩa Phật tính là bản tính duy nhất của nhân tính bởi
Phật tính luôn luôn tồn tại trong tâm của mỗi người chúng ta, đừng để bất cứ một ý nghĩ nào làm sai lạc đi, mà sai lạc tức là "vọng niệm"... mà vọng niệm thì che lấp tất cả làm sao mà đốn ngộ được! Chúng ta phải "tự ngộ", "tự giác" để được thanh thản đi vào cõi Phật.
Chú đã từng nói về Huệ Năng với ta kia mà! Ông Tổ thứ sáu của phái Thiền tông này đã từng khuyến nhủ : "Hãy thận trọng, đừng để ý nghĩ sai lạc, nếu sai lạc thì sẽ bị diệt, hiểu biết tự tính, giác ngộ mà đến đất Phật".
Thế Lỗ San há chẳng nhớ "nhất sát na gian, vọng niệm cụ diệt, nhược thực tự tính, nhất ngộ tức chí Phật địa" đó sao? Đó là "đốn Ngộ", mà "Đốn Ngộ" tức là thành Phật rồi.
Mải mê chuyện trò với nhau quên cả trời bắt đầu tắt nắng. Một màu đỏ bao phủ cả núi rừng. Chẳng mấy chốc bóng đêm rủ xuống bao trùm lên vạn vật!
Chúng tôi trở về phòng, Minh Sư đã truyền cho nhà bếp dành cho chúng tôi một bữa ăn tối thịnh soạn. Đêm hôm ấy chúng tôi tiếp tục chuyện vãn suốt đêm vì biết rằng sẽ không còn cơ hội nào gặp mặt nhau lần nữa
Tôi lại bắt đầu trở lại nghe những buổi thuyết giảng của Minh Sư như thường nhật. Minh Sư Minh Dà Đông Đạt quay lại câu chuyện bỏ dở tại Cổ Hiền Thạch Động hôm nào:
- Chúng ta theo sư phụ vào tận bên trong Cổ Hiền Thạch Động, càng lúc càng thấy quang cảnh nơi này thật lạ lùng. Ta sững sờ như một kẻ mất hồn. Cái động đá lớn như một đại sảnh, rộng thênh thang và bên trên là một trần đá phẳng lì cao vút, nơi nào cũng lấp lánh sáng như một rừng hoa đăng giăng mắc trên vòm trời!
Mãi một lúc sau, ta mới nhận ra đó là những bóng đèn đủ màu sắc đang tỏa ra muôn ngàn ánh sáng li ti như những hạt kim cương nhấp nháy. Bọn chúng ta còn đang ngơ ngác thì bỗng nghe có tiếng kêu lách tách vang lên cùng khắp hệt như các tiếng kim khí va chạm vào nhau.
Tiếp theo các âm thanh là một lằn sáng xanh tợ như mắt mèo hiện ra. Lằn sáng xanh này lớn dần lên và biến thành một bóng ma khi ẩn khi hiện chập chờn trước mắt. Bóng ma cứ lớn dần ra đến nỗi ta không không còn phân biệt được đó là bóng ma hay là bóng đêm nữa.
Trong lúc chúng ta như bị lạc trong mê hồn trận thì bất thần một tiếng nổ lớn làm rung chuyển cả thạch động. Thú thật bọn ta đều sợ xanh mặt, ngồi sát vào nhau và chẳng một ai dám nói lên lời nào. Sau đó không bao lâu như có luồng phóng xạ từ xa phóng lại, khiến ta có cảm tưởng đó là luồng phóng xạ của một vị Lạt Ma nào đó.
Có thể là của một vị Lạt Ma đã qua đời biến thành một bóng ma để đùa vói bọn chúng ta chăng?!
- Thưa Minh Sư, có đúng đó là trò nghịch đùa của một bóng ma không?
Minh Sư gật đầu:
- Sau đó là hình dáng của một bóng ma hiện lên mờ mờ ao ảo trông như hơi sương mờ không thể nào nhận diện được. Lúc bấy giờ đầu của bóng ma này nhẵn thín, không có lấy sợi tóc nào. Nhưng chẳng bao lâu sau đó bóng ma này mờ nhạt dần và cuối cùng tan biến mất. .
- Thưa Minh Sư, tôi hỏi. Sau chuyện bóng ma ấy còn có những sự kiện nào ly kỳ nữa không?
Người mỉm cười, không đáp vội, cầm lấy bình trà châm thêm vào chung rồi cứ nhịp độ như thế người uống liên tiếp cho đến khi bình trà không còn một giọt nào nữa. Tiếng cồng lại vang lên báo hiệu cho buổi lễ chiều sắp bắt đầu. Trước khi đứng dậy, mỉm cười đáp lại:
- Đã đến giờ đảnh lễ, đừng nôn nóng, chẳng còn bao lâu nữa chú sẽ được chính mắt mình nhìn thấy tất cả những gì diễn tiến sau đó. Ta có thể tóm lược đại khái là cách đây mấy nghìn năm, trên quả đất này từng có một nền văn minh cực thịnh.
Lúc bấy giờ con người đã từng biết sử dụng máy bay vượt khỏi sức hút của địa cầu. Chú nên biết rằng, tổ tiên ta đã từng sáng chế ra vô số máy móc chẳng phải chỉ để truyền tin cho nhau bằng âm thanh mà luôn cả về hình ảnh nữa.
Chú ngạc nhiên ư ? Không! Chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. Chú có thể tin không, có một thời kỳ tổ tiên ta cho nổ quả bom khinh khí nhận chìm xuống lòng sâu bể cả mấy châu lục địa mà ngày nay vẫn còn những dấu tích!
Ngày hôm sau, Minh sư lại tiếp tục nói về những bức hình điêu khắc tại trong Cổ Hiền Thạch Động :
- Đó là một công trình nghệ thuật vô giá. Ta sững sờ nhìn từng nét khắc, thật tuyệt vời. Sao mà họ, những người cổ đại lại có bàn tay điêu luyện đến như thế. Sau này ta nghĩ chú sẽ không tránh khỏi xuýt xoa hoặc tiếc lời khen tặng.
Có những hình ảnh quái vật, mới thoạt nhìn thấy ta cứ đinh ninh đó là một con vật sống đang ngồi trên mỏm đá trắng. Và bên cạnh đó là những hình ảnh của bầy yêu tinh mình người đầu thú đang nhảy múa vây quanh đống lửa.
Chẳng những vậy, ta càng sửng sốt khi đứng trước một bức tranh lớn điêu khắc cảnh của bầu trời về đêm với những dãi ngân hà giăng mắc. Càng nhìn càng thấy như đó là một hình ảnh thật. các ngôi sao như thể đang nhấp nháy bên cạnh mặt trăng tròn vành vạnh. Sao mà tài tình đến như thế
(Gần đây, vào năm 2003 này, người ta đã tìm thấy các bức họa quái vật của người Ý Đại Lợi cổ đại. Nhờ vậy mà được biết nghệ thuật hội họa của người Etruscan, một giống người Ý Đại Lợi cổ đại, với những hình vẽ ma quỉ kỳ lạ, đang dần lộ diện tại ngôi làng Saterno, cách thành phố Siena 80 km. Phát hiện này được xem là một trong những khám phá khảo cổ quan trọng nhất thời kỳ gần đây.)
Những bức tranh được điêu khắc như vậy có rất nhiều trên các bức tường trong Cổ Hiền Thạch Động. Đây không phải là những hình ảnh của một nền nghệ thuật còn sơ khai, mà chính là những dấu ấn được khắc ghi bởi các bàn tay khéo léo của những con người thời cổ đại.
- Lỗ San, chú có nhận thấy như thế không?
Tôi gật đầu đáp lại:
- Thưa Minh Sư, đúng như vậy!
Những điểm sáng như các vì tinh tú phía bên trên mà chú trông thấy, đó là những hạt thủy tinh li ti mà nhà điêu khắc gia cổ đại đã khéo léo gắn vào một cách tài tình.
Nói đến đây người nhìn tôi mỉm cười :
- Bên trong các vì sao li ti đó là ánh sáng được phát ra bởi nguồn điện lực. Rồi đây chú sẽ có dịp được xem những hình thù quái đản khác. Ta đã trông thấy những động cơ làm bằng kim loại.
Khi đến một động cơ đầu tiên Minh Sư đã dùng tay quay thật mạnh vào một bánh xe và bỗng dưng tự nó phát ra những tiếng nổ liên tục cùng một lúc những tia chớp lóe lên bắn ra tứ phía. Thú thật lúc bấy giờ ta không còn bình tĩnh được nữa, đứng dang xa ra trố mắt nhìn trân trối.
Không phải mãi đến ngày nay con người mới biết sử dụng máy móc, điện lực mà từ thời xa xưa tại ngay trong hang đá của Cổ Hiền Thạch Động đã có sự hiện hữu của các động cơ như thế rồi.
Để giảng giải cho ta được hiểu thêm về nguồn điện năng, người mang một ít dụng cụ bằng thủy tinh trong một cái hộp ra và cột mỗi cái vào dây điện nơi đầu máy, đoạn quay mạnh cho phát ra tiếng nổ, rõ ràng ngọn lửa bật lên trong một cái bóng thủy tinh rồi tiếp nối bật sáng lên trong các bóng khác mà thầy ta đã cài vào.
Con người của chúng ta cũng có những nguồn điện lực như thế ấy. Vì vậy mà chúng ta thấy có các thuật thôi miên. Người ta có thể dùng điện lực của ta sai khiến kẻ khác, hoặc như để chữa bệnh chẳng hạn.
Ta có thể dùng điện lực của ta mở mang trí tuệ của chú mà không cần phải bửa cái sọ của chú ra để nhét vào. Chú có tin không ?
Tôi gật đầu:
- Thưa Minh sư, con tin là như vậy.
- Ta có thể bảo chú, khuyên chú, hoặc chỉ dẫn chú, trong lúc đó chú có thể chấp nhận hoặc từ khước những gì chú không muốn nhận lấy. Những lúc từ chối như vậy óc chú tự nhiên phóng ra luồng điện để khước từ trước luồng điện năng của đối phương đưa đến.
- Có khi nào Minh Sư dùng thuật thôi miên đối với người nào bằng lối cưỡng bức không?
- Ít khi ta dùng thuật thôi miên cho người nào trái với ý họ, ngoại trừ tình thế bắt buộc để chữa bệnh.
Và đến đây, người nhìn tôi trong giây lâu đoạn lên tiếng hỏi:
- Lỗ San! Chú có muốn thực hiểu về thuật thôi miên không ?
Tôi vui mừng gật đầu:
- Thưa Minh sư, con muốn có được điều này.
Người đưa mắt nhìn tôi chăm chú đoạn lên tiếng:
- Ta biết chú không thích đọc phần thứ "Năm" trong kinh Lăng Nghiêm, có đúng như thế không?
Tôi giật mình,vì đó là sự thật. Nhưng làm sao Minh sư biết được điều này? Không đợi để tôi đáp lại, người tiếp tục nói:
- Ta biết chú chưa học học kỹ lời kinh đó vì nó quá cao siêu có đúng thế chăng?
- Vì con cảm thấy nó rắc rối quá.
- Tôi đáp lại như vậy.
Thầy tôi đưa tay chỉ pho kinh Lăng Nghiêm đặt ở cạnh cửa sổ rồi lên tiếng bảo:
- Chú hãy đến đấy mang lại đây và mở đoạn ấy ra.
Tôi mang pho kinh này mà lòng chẳng mấy thích thú, nhất là khi tưởng tượng mò mẫm tìm kiếm những đoạn mà tôi không muốn đọc đến. Tại Tây Tạng pho kinh nào cũng vĩ đại. Tôi đặt pho kinh này xuống trên mặt bàn đang ngồi và từ từ mở ra.
Tôi có linh cảm là Minh Sư đang phóng mắt nhìn vào tôi, và chỉ trong giây lát sau không hiểu tại sao tôi lại tìm thấy dễ dàng những dòng kinh nơi phần của chương Năm này.
- Bây giờ chú thử đọc đi.
Khác với bao nhiêu lần khác, lần này tôi cảm thấy vô cùng thích thú. Đọc đến đoạn nào tôi chẳng những hiểu ý nghĩa của nó mà còn thuộc như thể nằm lòng từng dòng một của các lời kinh đó.
- Lỗ San, chú đừng ngạc nhiên về sự thông minh của chú hôm nay mà chính là chú đã nhận được luồng cảm xạ của ta. Chính ta đã điều khiển bộ óc của chú theo như ý chú muốn được có. Lúc bấy giờ dung dịch bọc chất chuyển động nơi não bộ chú đã làm những gì mà ta muốn. Đó là thôi miên.
Minh Sư ngừng lại trong giây lát nhìn vào thần thái của tôi rồi tiếp tục:
- Thôi miên là thế đấy, nhưng nó chẳng phải đơn thuần như vậy. Có điều quan trọng là làm sao cho "cảm xạ lực" của chú phải được tăng trưởng nhiều hơn, vì đó là nhu cầu trong tương lai của chú.
Tôi sực nhớ lại là nhiệm vụ của tôi đã được đặt định nó sẽ ra làm sao!
- Thưa Minh Sư con muốn..
Nhưng thầy tôi đã đưa tay ra cản lại:
- Bây giờ thì chú chưa cần quan tâm đến vội. Chú chỉ cần biết rằng đất nước đang cần đến chú. Vì vậy chú phải được huấn luyện đến nơi đến chốn.
- Con? Đất nước đang cần con?
- Phải. Đất nước đang cần chú. Ngoài con đường chú đã và đang đi là cố làm sao giải thoát cho linh hồn, nhưng không phải chỉ có ngần ấy không thôi, mà chúng ta còn có bổn phận bảo vệ đất nước và dân tộc nữa. Rồi đây, một thời gian nào đó ắt chú sẽ thấy điều này.
- Vậy thưa Minh Sư, con thật sự muốn biết nhiệm vụ của con sẽ đảm nhận việc gì ?
- Chú sẽ được đưa đi nhiều quốc gia trên thế giới. Tất nhiên là suốt thời gian ấy chú sẽ được thường xuyên liên lạc với chúng ta ở quê nhà. Chú nên nhớ rằng dù máy móc truyền thông tinh vi đến thế mấy cũng không thể nào vượt qua được "thần giao cách cảm".
Nghe đến "thần giao cách cảm" tôi vội lên tiếng hỏi:
- Con muốn được hiểu theo cái nghĩa đúng của "thần giao cách cảm" như thế nào!
- Thật đơn giản. "Thần giao cách cảm" là truyền đạt ý nghĩ của mình sang cho người khác mà không phải phát ra thành tiếng dù cho kẻ đó ở xa hàng ngàn dặm họ cũng có thể thu nhận được qua làn sóng điện mà ta phóng đến.
- Thế có nghĩa là chúng ta chỉ cần điều khiển cho được làn sóng điện là được. Đó là cách dùng điện năng của ý thức phát đi không giới hạn.
- Chú đúng. Trong tương lai gần chú sẽ phải sử dụng nó với chúng ta khi mà chú ra ngoài tiền tuyến. Trong thời buổi văn minh này mọi người đều sử dụng máy móc để thông tin liên lạc với nhau, nhưng với cung cách truyền tin cho nhau như vậy làm sao bảo mật được?
Tất nhiên là kẻ thù của chúng ta sẽ có thể nghe và có thể giải mã một cách dễ dàng. Nhưng với "thần giao cách cảm" thì chúng ta không cần đến mã số nữa, kẻ địch không thể nào nghe thấy chúng ta đang chuyện vãn với nhau.
Nói đến đây Minh Sư quay trở lại về các bức hình được điêu khắc trong Cổ Hiền Thạch Động mà người đã bỏ lửng nửa chừng:
- Bây giờ thì chúng ta quay lại về những hình ảnh điêu khắc trong các hang động mà ta đã được may mắn chiêm ngưỡng nó. Đúng đó là dấu ấn của con người từ ngàn xưa lưu lại.
Ngoài cái giá trị nghệ thuật, các hình ảnh sinh động của đàn ngựa, của chúa sơn lâm, của những con bò có đôi sừng cong vòng, hoặc nhưng con ma mút, những con tê giác quý hiếm.. nó còn ẩn chứa những bí mật của những người cổ đại truyền lại cho hậu thế.
- Thưa Minh Sư, phải chăng đó là những tác phẩm nghệ thuật siêu phàm?
- Có thể. Nhưng như ta đã nói. Ngoài việc phô trương về nghệ thuật của những bàn tay siêu việt, nó còn là những bức "mật thư" chỉ có các bậc tiên tri của chúng ta mới có thể đọc thấy được.
(Gần đây tại Pháp các nhà khảo cổ đã khám phá các hang động tại vùng Archède. Họ hy vọng tìm thấy những bằng chứng của nền nghệ thuật ban sơ của con người nhưng chưa thành công.
Họ đã biết các hình ảnh tuyệt vời dưới đất của thời Đổ Đá Mới (40.000 - 10.000 năm trước) họ cũng biết nghệ thuật tại Lascaux, Niaux và các địa danh nổi tiếng khác.
Nhưng Jean-Marie Chauvet và hai người cùng phát hiện cũng không thể ngờ tới cái mà họ tìm thấy trong một hang sâu, dưới ngọn đồi bên sông Archède - dấu ấn bàn tay con người từ rất xa xưa.
Đó là vô số hình ảnh sinh động của ngựa, sư tử, bò tót, tê giác cũng như voi ma mút đã tuyệt chủng. Một số hình ảnh được vẽ, số khác được chạm vào vách hang.
Đèn của ba nhà khảo cổ rọi qua bóng tối, chiếu sáng đám xương gấu, chỗ vết lửa và các dấu vết như thể người ta dụi bó đuốc đang cháy vào tường. Họ cảm thấy như đang chìm sâu vào một thế giới linh thiêng đã mất từ lâu.
Khám phá hang Chauvet là một trong những phát hiện khảo cổ vĩ đại nhất thế kỷ 20. Nhưng giống như các phát hiện khác, trong khi giải đáp được một số vấn đề, nó cũng đặt ra nhiều câu hỏi mới.
Những người nguyên thủy mà dấu chân trần còn thấy rõ trên bùn đã vào các hang tối đó từ bao giờ! Tại sao họ vào sâu trong lòng đất để vẽ tranh? Hành vi bí ẩn đó có phải là nguồn gốc của cái mà chúng ta gọi là "nghệ thuật" ngày nay hay không?
Những hình ảnh đó liên quan thế nào với vật khắc trên xương, ngà voi và các bức tượng nhỏ tìm thấy ở các địa danh thời Đồ Đá Mới?
Và căn cứ theo niên địa cực kỳ xa xưa của chúng (32.400 năm với sai số 720 năm) người ta cũng phải tự hỏi liệu nghệ thuật có thể đã xuất hiện hoàn chỉnh ngay từ đầu, chứ không phải trải qua một quá trình phát triển từ thấp lên cao.)
Theo các nhà khảo cổ này thì các bức tranh mà họ khám phá ra chỉ là "nghệ thuật vị nghệ thuật", nhưng với hình ảnh được khắc trên các vách tường đá trong Cổ Hiền Thạch Động thì bên ngoài trông nó chẳng khác nào các điêu khắc gia cổ đại cũng không ngoài vấn đề nghệ thuật.
- Lỗ San, chú có bao giờ nghĩ những hình ảnh được người xưa điêu khắc đó không phải chỉ thuần túy về nghệ thuật mà nó còn ẩn chứa những điều gì đó mà chúng ta chưa thể tiết lộ ra được ngày nay không?
- Thưa Minh Sư, con hiểu.
Thầy tôi đứng dậy, gật gù đầu nhìn tôi nhỏ nhẹ bảo:
- Chúng ta tạm nghỉ, chú có thể rong chơi đâu đó Ngày mai chúng ta sẽ cùng bàn thảo thêm những điều cần thiết khác.
Nói xong, thầy tôi ung dung bước ra khỏi phòng. Đợi Minh sư rẽ vào phòng kế cận xong, lúc bấy giờ tôi mới ra thẳng hòn giả sơn ngắm nhìn đỉnh Hy Mã Lạp Sơn cao vút ẩn hiện trong đám mây vàng.
#14
Gửi vào 06/06/2011 - 22:04
CHƯƠNG BẢY
PHẦN MỘT
Từ thiền viện "Trắc Phổ Di" ra đi phải xuống một con dốc thoai thoải dọc theo công viên "Khả Chi Đa Linh Ngã" tràn ngập cả bông hoa và những cánh bướm rực rỡ đủ màu sắc đua nhau chập chờn bay lượn.
Chúng tôi tiến dần đến bến đò nơi có chiếc ghe bằng da bò thổi phồng và người lái đò đang cầm sào đợi sẵn. Bọn người chúng tôi gồm tất cả bảy người vượt sang sông Kỳ Chu, phải dành mất một thời gian gần trọn cả ngày đi ghe vì lòng sông quá lớn.
Khi sang đến bên kia bờ chúng tôi chia nhau các vật dụng để mang theo, trong đó có cả các thực phẩm, nước uống, dây thừng, quần áo. Ngoài ra mỗi người chúng tôi còn mang theo một số ít vật dụng cho cá nhân.
Bọn chúng tôi nhằm về hướng Tây Nam tiến đến. Khi đến cạnh dưới chân núi mới cảm thấy thấm mệt, không ai bảo ai, chúng tôi cùng ngồi xuống nơi mỏm đá ven đường để nghỉ mệt và dùng bữa cơm tối với ít bánh Tsampa.
Trên vòm trời tím sẫm các ngôi sao như những hạt kim cương lấp la lấp lánh. Cạnh nơi chúng tôi đang ngồi là những cánh hoa dại mọc ven theo sườn núi. Bóng trăng bắt đầu xuất hiện, ánh sáng vàng vọt chiếu lên cảnh vật một màu ván sữa.
Ăn uống xong chúng tôi tạm ngủ lại qua đêm tại đây. Vì quá mệt mỏi, vừa ngả lưng xuống tôi đã chìm ngay vào giấc ngủ. Tư thế ngủ của tôi có khác với các tăng sĩ và lạt ma Tây Tạng. Những người này theo giới luật "ngủ ngồi". Giới luật ngủ của tôi khác với số người cùng đi hôm nay, tuy vậy cũng chỉ được phép ngủ nằm bên tay phải với người không cùng một giới luật.
Tuy giữa cảnh rừng núi đêm hôm, song tôi cũng được yên lòng khi nhìn thấy Minh Sư Minh Dà Đông Đạt đang ngồi bên kia tảng đá trắng, lưng tựa vào vách tường núi, mặt hướng về phía tôi đang nằm trông hệt như một pho tượng đá. Người nhìn tôi mỉm cười:
- Lỗ San! Chúc chú ngủ ngon.
Và tôi ngủ ngon thật. Cho đến khi thức giấc thì vừa lúc trời rựng sáng. Vòm trời đã tan biến cả sao. Mặt trăng lưỡi liềm đã biến dạng từ lúc nào. Gió rừng buổi sáng nhẹ nhàng thổi lại. Cả rừng núi lúc bây giờ vang lên tiếng ca hót của các chim chóc, và xa xa tiếng tru tréo của các loài dã thú, cùng với các tiếng côn trùng kêu lên ra rả. Tất cả hòa hợp lại thành điệu nhạc vang lừng như những lời kinh cầu nguyện.
Ăn điểm tâm qua loa, chúng tôi lại mang hành trang lên vai tiếp tục cuộc hành trình. Suốt hai ngày băng đèo vượt suối mới qua hết chặng đường dài dưới chân núi. Chúng tôi dừng lại buộc dây thừng giữa người này với người kia, cố trèo lên các đỉnh núi trên cao, sự nguy hiểm luôn luôn đe dọa đến mạng sống.
Chúng tôi tập trung đến chân của một bờ tường đá cao chất ngất. Đứng trước bờ tường đá cao cheo leo này chúng tôi không tìm thấy bất cứ một chỗ nào có thể dùng tay bám vào để đặt chân lên được. Trước mắt chúng tôi hiện giờ là một cảnh đổ vở của đá núi rơi vung vãi.
Từ nhiều năm nay sỏi đá từ trên cao rơi xuống làm lấp cả các hốc kẽ chẳng còn nơi nào để lấy thế bám vào được để trèo sang bên kia. Sau gần một ngày trời tìm kiếm, bất thần chúng tôi nhìn thấy một hình ảnh trên bờ tường núi một hình dạng như cái ống khói. Niềm vui tràn ngập trong lòng tôi.
Thế là, chúng tôi bàn nhau tìm cách dùng tay bám vào nơi có hình dạng cái ống khói này, tựa lưng vào tường vách núi đá rồi từ từ nhô người lên. Gió thổi lồng lộng khiến nhiều khi chúng tôi bị ngợp thở. Hì hục mãi, rồi chúng tôi cũng leo đến tận phía bên kia. Nhưng nơi đây chúng tôi vẫn chưa tìm được nơi nào là chỗ hang động.
Phần thì gió lộng thổi không ngừng, phần trước mặt đầy cả những tảng đá chồng chất lên nhau, nhìn lại xuống bên phía dưới, đầy ắp cả những hòn đá nhọn quanh năm gồng mình chống lại các dòng nước cuốn như thác đổ băng qua.
Nơi đây có con đường nhỏ ngoằn ngoèo theo thân sườn núi. Nước suối chảy xiết như muốn cuốn trôi các tảng đá nằm rải rác giữa dòng, tung lên những chòm bọt nước trông như các đóa hoa tuyết trắng phau. Chúng tôi phải vất vả lắm mới lội sang được đến bên kia bờ.
Nhưng nỗi khó khăn vẫn chưa hết đối với chúng tôi. Khi lên được bờ lại bị các tảng đá lớn chắn ngang trước mặt, chúng tôi lại phải nhảy từ tảng này sang tảng nọ, vạn nhất chẳng may sẩy chân không chết, thì thế nào cũng phải bị trọng thương.
Khi tất cả đã sang được bên bờ bên kia xong xuôi, Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt cho chúng tôi biết chỉ còn bức tường cuối cùng đang chắn ngang trước mặt là sẽ đến ngay Cổ Hiền Thạch Động.
Người đưa tay chỉ vào bức tường sứt mẻ thuật lại cho chúng tôi đủ mọi thứ chuyện. Những hốc đá mà trước kia để bám víu trèo lên, nay đã bị những tảng đá từ trên cao lở xuống làm biến mất tất cả như các chú đã trông thấy.
Thật vậy. Chúng tôi ngẩng mặt nhìn lên thấy một cái hốc đá cuối cùng cách mặt đất khoảng 4 thước, muốn trèo lên được chỉ còn có cách chọn một người mạnh nhất trong bọn đứng sát vào tựa vách đá, hai tay dang thẳng ra bám chặt thành núi để làm thế tựa cho các thể tháo gia đang giao đấu.
Tiếp đến là chọn một vị Lạt Ma trẻ khác có trọng lượng nhẹ nhất leo lên đứng trên vai vị này và cũng áp sát người vào tường giữ vững thế đứng để leo lên cột dây thừng vào nơi thuận tiện nhất, đoạn thòng xuống cho những người bên dưới tuần tự đu lên.
Tất nhiên là trong đám Lạt Ma trong chuyến đi này tôi được xem là nhỏ con và có trọng lượng nhẹ nhất so với đồng bọn. Thế là tôi được chọn để cho các Lạt Ma khác đôn tôi lên và thực hiện điều này.
Tôi từ từ leo lên phía trên cao và cột dây thừng vào một mõm núi, đâu đó xong xuôi, buông dây xuống bên dưới. Tôi chui vào một hốc đá vừa vẹn với thân hình nhỏ thó của tôi ngồi cầm sợi dây canh chừng, trong khi đó Minh Sư cùng các vị Lạt Ma kia từng người một nắm lấy dây thừng đang lơ lửng đó đu lần lên.
Khi mọi người chúng tôi lên được tận đỉnh cao của núi, chúng tôi ôm nhau lại tỏ vẻ vui mừng là đã được sự may mắn. Trong những giờ phút gian nan, tôi mới cảm thấy tình thương của đồng đội nó cao cả như thế nào. Minh Sư Minh Dà Đông Đạt đưa chúng tôi đến đứng trước hang động, nhưng chẳng thấy lối vào.
Tất cả chúng tôi đều cố dán mắt tìm kiếm, nhưng kể cả Minh Sư, cũng chẳng làm sao khám phá ra được. Bỗng mắt tôi bất thần nhìn vào khe núi nơi đó có dấu vết của đường nước chảy làm hoen ố trông hệt như bóng dáng hình ảnh của một con người đồng quê hương xứ sở.
Tôi nhìn sững sờ, chưa kịp báo cáo cho Minh Sư biết về cái hình quái dị này thì bỗng có một bàn tay đặt sau lưng đẩy tôi về phía trước, và bằng giọng nói ồ ồ:
- Nào, chú bé cưng ơi! Hãy mạnh dạn đẩy viên đá trước mặt đi, cánh cửa động ắt sẽ mở ra để đón mời vị Minh Sư cũng như chú cùng đám bạn của chú vào bên trong chiêm ngưỡng.
Tôi chưa kịp quay lại để nhận diện kẻ nào đã ra lệnh cho tôi như vậy, thì đã bước qua cửa của hang động từ bao giờ. Tôi bất giác giật mình khi nhìn thấy luồng ánh sáng từ đâu đột nhiên rực lên, phơi bày ra cảnh tượng lạ lùng hiện ra trước mắt. Bên trong hang động lớn gấp hai lần so với ngôi đại tự ở Lạt Sa. Vào tận bên trong, ánh sáng trở nên êm dịu hơn. Lúc bấy giờ Minh Sư mới bắt đầu lên tiếng nhẹ nhàng nói:
- Ánh sáng êm dịu ở đây, ngày xưa từng rực lên như khối lửa của mặt trời. Nhưng rồi trải qua hàng ngàn năm ánh lửa như mặt nhật đó bắt đầu giảm dần xuống, cho đến ngày nay như chúng ta đang nhìn thấy.
Minh Sư đưa chúng tôi đi sâu vào bên trong, ngang qua một căn phòng có một cái máy được đặt nơi đó từ bao giờ. Chẳng một ai trong chúng tôi dám động đến, nhưng lại tò mò muốn biết tác động của cái máy này, và tìm hiểu ai đã mang được nó vào tận nơi đây?
Chúng tôi lại được Minh Sư đưa đến một căn phòng khác. Trước mắt tôi là một bục nhỏ vuông vức, chiều rộng lối một thước, bốn bề được chắn lại bởi các lan can sơn màu xanh thẳm. Nối liền với cái máy đầu bên kia bởi một cái ống gập lại.
Vô tình tôi bước lên một cái bục gỗ tức thì cả cái bục lẫn lan can đều từ từ bay bổng lên. Tôi hốt hoảng đưa tay nắm chặt lấy lan can, trong lúc các Lạt Ma khác nhốn nháo cả lên. Minh Sư đứng bên dưới tươi cười nhìn tôi lên tiếng trấn an:
- Lỗ San, chú cứ an tâm. Ta từng bị một lần như chú vậy. Rồi nó sẽ hạ xuống. khi nó không còn đủ sức đưa chú lên cao được nữa.
Và quả thật như vậy! Thầy tôi vừa dứt lời thì một tiếng "tách" nhẹ vang lên, tức thì cái bục lại từ từ hạ xuống. Nhưng, tiếp ngay sau đó bỗng xuất hiện một làn ánh sáng lơ lửng trước mắt tôi. Tuy ánh sáng rực lên trước mặt như vậy song tôi cảm thấy không hề bị lóa mắt chút nào.
Tiếp đến, là phía chân tường xuất hiện một con quái vật trông hệt như một con mèo rừng khổng lồ. Nhưng khi nhìn kỹ ra, rõ ràng con quái vật này thân hình là một giống thú vật song đầu lại của một người đàn bà có mái tóc đen huyền phủ xuống tận đôi bờ vai thon tròn bé nhỏ.
Gương mặt của quái vật đầu người mình thú này trông có vẻ kiêu kỳ, ngạo mạn. Chúng tôi cảm thấy bàng hoàng sợ hãi, toàn thân nổi cả da gà.
Minh Sư cười giải thích:
- Các chú đừng ngạc nhiên trước hiện tượng này. Hình ảnh được vẽ ra đó là tượng hình cổ tự (hierolyphs), một loại chữ cổ vẽ bằng hình của người Hy Lạp thời cổ đại phác họa cảnh con mèo quái dị đó đang chuyện vãn với Người và Linh Hồn khi rời khỏi thân xác để sang bên kia thế giới.
Đến đây Minh Sư quay sang nhìn tôi :
- Lỗ San hiểu chứ ?
Không đợi tôi đáp lại, Minh Sư chỉ vào một chiếc bàn đặt cạnh đó rồi cho phép chúng tôi lần lượt đặt tay lên nắp của chiếc hộp làm bằng kim loại.
Tôi là người đầu tiên thực hiện, tức thì nhìn thấy bên trong hiện lên một đám đông người đang rộn ràng điều khiển những máy móc cất giấu tại trong các căn phòng tại hang động này. Tôi sững sờ, suy nghĩ.
Minh Sư nhìn tôi bảo:
- Đừng ngạc nhiên Lỗ San ạ! Rồi một ngày kia, trong một tương lai gần chú sẽ nhìn thấy nó ở khắp mọi nơi trên thế giới này.
Người đẩy chúng tôi vào Cổ Hiền Thạch Động lúc còn ở ngoài cửa hang là một vị sư già. Hình như vị sư già biết trước đoàn chúng tôi đến chiêm ngưỡng hang động linh thiêng này nên đã ra đứng đón sẵn ở nơi nào đó mà chúng tôi không phát giác được.
Lúc bấy giờ vị sư già này mới sừng sững hiện ra đứng bên cạnh Minh Sư Minh Dà Đông Đạt cười thành tiếng vui vẻ nói:
- Chắc các chú ngạc nhiên khi thấy ta đường đột hiện lên và âm thầm biến mất! Thật ra ta có bổn phận đợi chờ Ngài Minh Sư Minh Đà Đông Đạt cùng các chú để đưa vào trong Cổ Hiền Thạch Động.
Hang động này không phải mới hình thành vào thời cổ đại. Xứ sở Tây Tạng này đã trải qua bao nhiêu biến thiên của lịch sử, máu đã từng đổ nhuộm đỏ cả rừng núi, ngay từ thời bộ lạc Tubo phất cờ dựng nước.
Và cũng kể từ ngày Lạt Ma Giáo (Lamaism) phối hợp với giáo thuyết của Đại Thừa Mật Tông cùng với đạo Bon hình thành một giáo thuyết riêng biệt. Chắc hẳn các chú thừa biết Lạt Ma giáo của chúng ta tin rằng các Lạt Ma đều là Phật tái sinh như các chú đó chẳng hạn.
Không hiểu sao, vị sư già này bỗng từ từ quay mặt lại nhìn tôi:
- Nhất là chú Lỗ San này chú không phải là một tăng sĩ bình thường. Chú được liệt kê có tước hiệu là Rinpoche một tước hiệu quí báu phi thường. Thật vậy! Chú là hạt ngọc báu trong các hạt ngọc. Chú là hình ảnh của sự thánh thiện hơn bất cứ hình ảnh thánh thiện nào.
Càng đi sâu vào bên trong Cổ Hiền Thạch Động, càng nhìn thấy nhiều hiện tượng lạ lùng. Bên trên trần hang động các đám mây đen trôi lơ lửng bềnh bồng. Thỉnh thoảng lóe lên những tia chớp ngoằn ngoèo nhưng rồi lại thoát biến ngay sau đó. Bóng tối cơ hồ đông đặc lại, tưởng chừng như bất cứ một vật cứng rắn nào cũng khó lòng có thể xuyên qua được.
Trong lúc đó có tiếng Minh Sư dõng dạc ra lệnh:
- Nắm chặt lấy tay nhau lại hãy tiến thẳng vào.
Chúng tôi siết chặt tay nhau xông xáo đi, bất chấp cả mọi rủi ro rất có thể xảy ra sau bức màn đen dày đặc ấy. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc, bất thần có tiếng nói của Minh Sư vọng ra kêu lên:
- Thận trọng hình như có vật gì áng ngữ phía trước mặt chúng ta.
Và quả thật dường như bên trong bóng đen dày đặc đó có tiếng kêu "tí tắc" vọng ra. Không bảo nhau nhưng tất cả cùng đứng dừng ngay lại. Nhưng càng lúc, tiếng kêu tí tắc" càng vang vọng lên mỗi lúc một nhiều thêm.
Tôi có cảm giác như tiếng kim khí va chạm vào nhau. Trong khi chúng tôi ngơ ngác không hiểu cái gì đang diễn ra bên trong bức màn đen tối ấy, thì bỗng dưng có luồng ánh sáng không biết từ đâu tỏa ra khắp nơi làm bóng đen hoàn toàn tan biến hẳn.
Lúc bấy giờ chúng tôi chẳng khác nào như những kẻ sực tỉnh sau cơn mơ, đưa mắt lơ láo nhìn tứ phía nơi mình đang đứng trên trần hang động lúc bấy giờ trông hệt như vòm trời xanh đầy dẫy các vì tinh tú lung linh sáng.
Có điều ánh sáng của các vì tinh tú ấy đủ các màu sắc lấp lánh hệt như các hạt kim cương rực chiếu. Quang cảnh này khiến chúng tôi đứng trân người ra chiêm ngưỡng.
Chúng tôi theo chân Minh Sư Minh Dà Đông Đạt vào căn phòng hoàn toàn trưng bày các hình tượng rời ra từng pho, hoặc được người thời cổ đại khắc sâu vào vách tường đá. Các hình tượng được điêu khắc nơi đây gần như hầu hết là các hình ảnh ma quỉ kỳ lạ, hoặc của những vị thần mà nhiều người thường thờ cúng. Ngoài ra, không ít các bức tượng to lớn được tạc ngay trên bờ tường đá.
(Gần đây, các nhà khảo cổ khám phá ra những bức tượng đá tương tự như vậy tại Ý Đại Lợi. Như tại Siena của nước Ý mà theo tin của hãng thông tấn AFP trích thuật tin của Discovery đã diễn tả.
Nghệ thuật hội họa của người Etruscan, một giống người Ý cổ đại,với những hình vẽ ma quỉ kỳ lạ, đang dần lộ diện tại ngôi làng Sarteano, cách thành phố Siena 80 cây số. Khám phá này được xem là một trong những khám phá khảo cổ quan trọng nhất thời kỳ gần đây.
Ngoài ra, cũng nguồn tin này viết lại, các nhà khảo cổ cũng cho biết "ẩn trong bức tường bên trái của một ngôi mộ có từ thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, người ta đã tìm thấy những hình ảnh họa các quái vật và ma quỉ còn nguyên vẹn khác thường.
Nhà khảo cổ Alessandra Minetti cho biết: Chúng tôi đã tìm thấy một số cảnh tiệc tùng, những quái vật giống rắn, yêu ma và một cái quách bị vỡ làm nhiều mảnh.
Những hình ảnh được điêu khắc này trùng hợp với các tác phẩm cổ đại tại ngay giữa lòng Cổ Hiền Thạch Động. Có điều đặc biệt là tư tưởng giữa những thánh nhân ẩn mình trong Cổ Hiền Thạch Động không cách biệt mấy đối với quan niệm của người Hy Lạp cổ xưa. Họ cũng có những màu sắc sặc sỡ, các hình vẽ trong ngôi mộ đã phản ảnh sự thay đổi u ám trong quan niệm về cái chết của người Etruscan.
Theo nhà khảo cổ học Giám đốc Trung tâm Bảo tồn ở Florence cho biết: Chân dung với mái tóc đỏ chắc chắn là một dạng bóng ma thần chết. Điều này khiến tôi sực nhớ lại nhà Thiền sư cuồng loạn đã có lần đề cập đến với tôi về điều này, trùng hợp giữa lời giải thích của các nhà khảo cổ ngày nay nói về hình ảnh Thần Chết được người cổ đại điêu khắc ngay trên các bức tường đá
Ông ấy đã khẳng định: "Thần Chết ngồi ngất ngưởng trên chiếc xe thổ mộ y hệt như một con quái vật mình sư tử đầu chim miệng mở ngoạc ra như thể muốn ăn tươi nuốt sống kẻ đang hấp hối trên giường bệnh.
Trong bản tin của Reuter có ghi về hình ảnh của các khám phá mới này như sau: ... các nhà học thuật không rõ chân dung đó là của Charu (thường được mô tả như một người đàn ông có râu với làn da hung đỏ), ma nữ Vanth (thường có cánh) hay là một loại ma chưa hề biết tới...)
Chúng tôi nhận thấy trong Cổ Hiền Thạch Động thật lắm cái phi thường. Nhất là hình ảnh trái đất khi mới được hình thành, có nghĩa là từ khi khai thiên lập địa. Thế giới còn trong thời kỳ sơ khai, núi non giăng khắp mọi nơi, ngay cả những nơi mà ngày nay là bể cả.
Những bức tranh nói lên vai trò của nghệ thuật trong xã hội và mang nhiều mục đích từ chính trị đến kinh tế, từ tôn giáo cho đến vũ trụ quan...Tất cả những quan niệm này đều được ghi vào trong các ẩn ngữ nghệ thuật thời tiền sử.
(Trong Cổ Hiền Thạch Động đã ghi lên đầy đủ những bí mật trong đời sống của con người mà ngày nay người ta vừa phát hiện được loan báo trên các làn sóng phát thanh, báo chí :
"Các con đường xuyên sâu xuống lòng đất nó có sự bí mật nào đó. Salomon Reinach, cách đây trên một thế kỷ (1902) cho rằng con người vẽ lên các hình ảnh để điều khiển các loài muông thú mà họ vẫn săn bắt. Các hành vi đó được bao phủ dưới bức màn bí ẩn và cần phải được thực hiện xa nơi cư trú.
Rồi đến khi, nhà tiền sử học lừng danh trên thế giới, Abbé Henri Breuil vào năm 1952 cho rằng con người phác họa ra hình ảnh của các loài muông thú này chỉ vì muốn được khỏe mạnh như chúng.
Nhưng thật ra, đối với những nhà khảo cứu thì cho rằng những lời giải thích như vậy quả thật quá đơn giản. Đối với dạng nghệ thuật thì nó chẳng giải thích được gì, nhất lại là không giải thích được những đặc trưng của nó còn chưa phát hiện.
Vào thập niên 1960, André Leroi-Gourhan môn sinh cũ của Breuil đã đưa ra được cách giải thích hoàn toàn mới mẻ. Ông đã dựa trên cấu trúc luận do nhà dân tộc học Claude Lévi-Strauss phát triển, cho rằng mọi tư duy của con người đều có xu hướng đối đầu nhau theo phương thức nhị nguyên, thế có nghĩa là hai bán cầu của bộ não có chức năng bổ sung cho nhau.
Điều này như ta đã biết như: tự nhiên đối đầu với văn hóa, nóng đối đầu với lạnh, sáng đối đầu với tối, nam đối đầu với nữ. Ông Leroi-Gourhan muốn lấy khung cảnh đối đầu giữa nam/nữ mà lập thuyết cái này đương đầu với cái kia. Ông tin rằng trong toàn bộ 20.000 năm của thời đại Đồ đá mới, các hang động được cấu trúc theo nguyên tắc nam nữ.
Một số động vật, như ngựa, tượng trưng cho nam tính, còn số khác như bò tót, tượng trưng cho nữ tính. Các loài "nữ "tập trung tại giữa hang, các loài "nam" thì tản mát khắp nơi. Hình sư tử, gấu và các dã thú nguy hiểm khác thì nằm sâu trong hang)
Nơi đây chúng tôi được chứng kiến các hình ảnh lạ lùng mà cứ tưởng rằng mình đang nằm mơ chứ không phải là sự thực. Chúng tôi giương tròn xoe mắt nhìn những tia sáng quay chung quanh một hình tròn.
Các hình ảnh này lúc đầu lờ mờ trông không được rõ ràng, nhưng dần dần trở nên sống động hiện lên "ba chiều". Chúng tôi không còn lời lẽ nào để tán thưởng mà chỉ thốt lên đó là một điều phi thường.
Những cái phi thường mà chúng tôi nhìn thấy là hình ảnh của một trái đất khi mới khai thiên lập địa. Đó là một thế giới non trẻ, còn trong thời kỳ sơ khai, núi non đứng sừng sững ở những vùng đất đai mà bây giờ đã biến thành bể cả
Còn những nơi có những bờ biển thơ mộng thì ngày nay lại biến đổi thành những ngọn núi cao. Khí hậu lúc bấy giờ ấm áp dần và có lắm sinh vật lạ lùng hoạt động trên khắp mọi nơi ở quả đất này.
Đó là hình ảnh của một thế giới phát triển từ những ngôi chùa thật vĩ đại với những nóc tháp chọc trời, xuyên qua những màn mây đang thấp dần xuống giữa tiết đông giá rét.
Lúc bấy giờ, những thiên niên kỷ xa xưa đó thầy chúng tôi đã giải thích "Lúc bấy giờ người và loài vật không tị hiềm, xâu xé, phân biệt nhau mà từng dùng thần giao cách cảm để giao cảm nhau. Tôi nghĩ đó là một xã hội hoàn toàn hạnh phúc, an lành.
Nhưng càng nhìn lâu càng nhận thấy bên trong cái an lành đó dường như đang âm thầm nẩy nở mầm mống của sự chống đối nhau vì sự sống trên mọi lĩnh vực. Điều này sau này tôi được Minh Sư giải thích là thế giới bắt đầu đi vào con đường "tam phân ngũ liệt". Con người bắt đầu chia nhau các khu vực riêng biệt.
Rồi khu vực này thèm thuồng khu vực kia. Cũng kể từ đó, theo lời Minh Sư thì đã bắt đầu xuất hiện các Giáo chủ. Người phái này, kẻ phái khác. Phái nào cũng tự cho mình là đứa con ngoan của Thượng Đế, của Chân, Thiện, Mỹ.
Có lần Minh sư hỏi :
- Lỗ San, chú có nhận thấy điều đó chăng?
- Thưa Minh sư, có. Tôi xác nhận như vậy.
Tôi từng nhìn các hình ảnh này lần lượt hiện ra trước một bức tường phẳng lì trong hang động. Hình ảnh của các giáo chủ hiện lên trước mắt chúng tôi. Họ đang giảng giải những lời lẽ cứu rỗi. Họ luôn luôn thuyết đến chữ Thiện, đến lòng Từ, đến sự Bác ái
.
Nhưng có điều, những hình ảnh này lại còn xen lẫn với những từ ngữ đối nghịch lại với nhau như lối đối đầu theo phương thức "nhị nguyên" ví như bên trên đã nói: "nóng với lạnh, sáng với tối, nam với nữ..."
Chúng tôi nhìn thấy các khoa học gia làm việc trong các phòng thí nghiệm đang bù đầu để phục vụ cho cái chết của những kẻ không cùng một chiến tuyến. Họ các nhà bác học này đang mò mẫm chế tạo ra những khí giới có sức tàn phá khủng khiếp.
Trong cái xô bồ hỗn loạn, chúng tôi cũng được nhìn thấy những con người đang mưu cầu sự an toàn cho tương lai của nhân loại. Họ cùng nhau âm thầm tổ chức cái "Ống Thời Gian" mà ngày nay được gọi là "Cổ Hiền Thạch Động".
Cái "Ống Thời Gian" đó giữ lại tất cả các máy móc đang được để dành sử dụng cho các thế hệ mai sau trong đó họ ghi nhận đầy đủ mọi chi tiết hình ảnh của một nền văn minh đang hồi cực thịnh.
Thật lạ lùng làm sao! Nhiều cơ khí hệt như người máy khổng lồ thay người khoan đá, đào đất, xuyên thủng núi non, cày sâu dưới lòng bể cả... Cũng có những toán người khác đang hì hục ráp nối đủ các loại máy khác lạ mà tôi không thể nào hiểu được.
Tôi há hốc mồm ra để nhìn khi trông thấy họ mang những quả ánh sáng tròn và tôi có cảm giác là nó lạnh như tuyết băng kéo lên tận trên cao, trong đó điện năng cung cấp ánh sáng cho cả hàng triệu năm.
Lúc đầu những hình ảnh này giải thích về "tĩnh năng và hoạt năng", hai danh từ phát sinh ở thế giới khoa học cực thịnh làm cho tôi bối rối chẳng hiểu họ muốn nói về cái gì.
Sau đó, nhờ những hình ảnh ráp nối chúng tôi mới biết được cái nghĩa của các từ "tĩnh năng" danh từ chỉ cho sự an toàn không làm hại đến cơ thể con người, còn từ "hoạt năng" là loại ánh sánh bất diệt, nó tồn tại mãi với thời gian và không gian.
Thế giới chúng ta đang ở đã từng một thời có nền văn minh cực thịnh. Những sự kiện đặc biệt mà chúng tôi được nhìn thấy nhờ vào cái máy "Ống Thời Gian" tuần tự chiếu lên màn ảnh trong Cổ Hiền Thạch Động.
Thì ra không phải mãi đến ngày nay chúng ta mới có được nền văn minh đang đi vào hồi cực thịnh, mà nó đã xuất hiện từ hàng bao nhiêu ngàn năm về trước!
Chính cái Ống Thời Gian đã chứa đựng hầu hết các công trình khoa học của cả một nền văn minh kỳ diệu mà tôi được may mắn chiêm ngưỡng tận mắt, hiện còn tồn trữ chẳng riêng tại xứ sở Tây Tạng này mà nó còn được cất dấu khắp năm châu bốn bể nữa.
Ngay cả những cổ tháp ở Nam Mỹ cũng như ở vùng đất lạnh lẽo Tây Bá Lợi Á, nơi quanh năm suốt tháng giá băng bao phủ chẳng mấy ai được biết. Đoàn Lạt Ma chúng tôi còn được sự hướng dẫn của tiếng nói của một người vô hình nào đó hướng dẫn đến các hang động, trong đó người xưa đã lưu lại dấu vết hoặc các hình ảnh được khắc lên trên các tường núi đá cực kỳ tinh xảo.
Đặc biệt là mỗi hang như vậy đều có hình ảnh của con mèo khổng lồ đầu người được khắc ngay vào các tường đá trong các hang động, hoặc có nơi còn điêu khắc cả một pho tượng thần miêu riêng rẽ được đặt lên một chiếc bệ dài hơn mười thước và chiều cao lối năm thược.
Cứ theo truyền thuyết thì đây là thần miêu Sphinx xuất hiện cùng thời với con người! Thần Sphinx hình mèo đầu người này biết nói năng và bày tỏ được mọi cảm xúc như loài người chúng ta. Người xưa cho rằng mèo là con vật hoàn hảo nhất về sức lực và luôn cả trí thông minh.
Nó có thể bưng cả ngọn núi to nhất lên và có thể tính toán và làm được mọi điều mà con người khó lòng thực hiện được.
Thần miêu Sphinx đầu người có gương mặt trái xoan cùng một làn da hồng hào trắng mịn. Thần Sphinx còn có đôi mắt bồ câu đen láy, cùng chiếc sống mũi dọc dừa nằm bên trên đôi môi hồng mọng đỏ, luôn luôn hé nở nụ cười để lộ đôi hàm răng nhỏ mứt, trắng trong như hạt lựu.
Ngoài ra thần miêu Sphinx còn có mái tóc vàng kim óng ánh phủ chụp xuống đôi bờ vai thon tròn nhỏ. Chính mái tóc vàng này có sức quyến rũ thu hút được tình cảm của mọi người nếu được cơ may gặp mặt.
Càng lúc tôi lại càng được chứng kiến lắm sự kiện lạ lùng khác cũng xuất phát từ cái máy "Ống Thời Gian" hiện lên trên màn ảnh. Tôi không tránh khỏi có những phút giây kinh hoàng khi nhìn thấy cảnh tượng hàng triệu con người đang gặp phải thiên tai nguy biến.
Rõ ràng có hàng bao nhiêu tiếng gào thét vang lên. Họ đang cố bám lấy trên những chiếc thuyền nan, hoặc trên các chiếc bè nhỏ mong manh, lênh đênh trên mặt đại dương giữa cơn giống tố bão bùng!
Dù đó là hình ảnh được Ống Thời Gian phát chiếu lại trên màn ảnh, tôi cũng không tránh khỏi nỗi hãi hùng trước các xác chết, có thể hàng trăm, có thể lên đến hàng ngàn đang bị các làn sóng thần cuốn hút ra tận ngoài trùng khơi bể cả mịt mùng.
Rồi một hình ảnh khác hiện lên. Đó là một đô thị, nhà cửa san sát bên nhau, đường sá dọc ngang, đan nhau như một bàn cờ vuông vức. Có lắm đô thị được dựng lên toàn là những nhà chọc trời, các dinh thự nguy nga mọc lên tứ phía, có cái trông hệt như pha lê trong suốt, có những ngôi tợ như dựng lên bằng vàng hay bạc
Nhưng đặc biệt là có những thành phố xây trên không trung và nối kết với nhau bằng những cây cầu treo lơ lửng. Có điều là tôi không thể biết được họ, những bậc tiền nhân xa xưa đó làm thế nào dựng lên được các phố xá giữa không trung ấy!
Đang mải mê chiêm ngưỡng các hình ảnh bên trên thì toàn thể màn ảnh như bị một màn đêm bao phủ. Chỉ trong phút chốc bóng đêm dần dần tan đi và ánh sáng bắt đầu trở lại.
Lần này, trước mắt chúng tôi là một khu nghĩa trang. Có nhiều ngôi mộ được xây nấm tròn, có ngôi lại hình chữ nhật. Nhưng tất cả được xây bằng pha lê trong suốt có thể nhìn thấy những chiếc quan tài bằng vàng hay bạc được điêu khắc những hình vân hoa, cũng như long, lân, qui, phụng.
Đặc biệt, có những Kim Tự Tháp chẳng khác gì như ở Ai Cập, nhưng không phải bằng đá mà bằng kim loại. Trong các ngôi cổ mộ này có khắc hình ảnh hệt như một thầy tu và chung quanh quan tài được bao quanh bởi một bức tường bằng đá vôi trắng cùng các bức phù điêu.
Một điều khiến tôi ngạc nhiên là có cả một phụ nữ bà ta trông rất đẹp đang cùng ngồi với một đàn con gồm cả trai lẫn gái.
(Gần đây các chuyên gia thuộc Viện Khảo Cổ Pháp ở Cairo (IFAO), Ai Cập vừa khai quật một nghĩa địa cổ với những ngôi mộ có niên đại 4.000 năm. Khám phá này có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm kiếm Pharaoh thất lạc ở Userkare.
Nghĩa địa này là nơi chôn cất những viên chức cao cấp dưới thời Vương Quốc Cổ Ai Cập, kéo dài từ năm 2.400 đến năm 2.100 trước CN. Vào thời kỳ này, 4 vị vua Ai Cập thuộc triều đại thứ 6 biến mất trong lịch sử không để lại dấu vết.
Theo Vassil Dobrev, trưởng đoàn khai quật cho biết họ khám phá tổng cộng 5 ngôi mộ song có thể được khai quật được nhiều hơn trong tương lai. Ngôi mộ đầu tiên thuộc về Hau-Nefer một thầy tu phụng sự trong ngôi đền tang lễ của vua Pepp l cùng với Hoàng hậu tên là Khuti, có với nhau 13 đứa con trai, gồm 4 gái và 9 trai)
Đang mải mê xem cảnh trí lạ lùng này thì đột nhiên ngay trên vòm trời xuất hiện một quả cầu lửa rực sáng, nhằm vào các nhịp cầu treo lơ lửng kia phóng xuống làm nổ tung ra từng mảnh nhỏ.
Rồi tiếp đến những quả cầu lửa khác xuất hiện và cũng như những quả cầu trước, nó lao thẳng đến các dãy phố bên dưới tạo nên một biển lửa rực sáng cả bầu trời. Và cứ như cảnh tượng này tuần tự diễn tiến, hết nơi này đến nơi khác, cuối cùng tất cả bị hoàn toàn tàn phá chỉ còn là một đống gạch vụn.
Hình ảnh này cho tôi thấy tất cả sự sống đã bị tiêu diệt. Không còn lấy một sinh vật nào tồn tại. Hình ảnh của ngày tận thế.
Nhưng cảnh huống này tự nhiên chuyển sang hình ảnh các hang động mà trong đó có điêu khắc những động vật như ngựa, lừa, trâu bò hoặc các giống thú vật khác như có lần tôi đã nhìn thấy chẳng khác nào vào niên đại của "Đồ Đá Mới".
(Vào năm 1972, Alexander Marshach đưa ra giả định một số về công trình điêu khắc được chạm trên xương hoặc ngà voi với niên đại 32.000 năm tính theo loại âm lịch.
Năm 1983 Pfeiffer đã bổ sung thêm những lời lẽ giải thích về quan niệm của Leroi Gourhan khi xem xét tác động của môi trường hang sâu lên giác quan và tinh thần con người. Pfeiffer cho rằng với người thời Đồ Đá Mới, hoàn toàn khác so với tình thế của từng giai đoạn.)
Các hình ảnh trong các hang động mà tôi đã được chiêm ngưỡng trên màn ảnh của Ống Thời Gian phát ra, như thể nó đang sống động. Tuy tôi biết các đàn vật kia chỉ là những tác phẩm điêu khắc được chạm trổ ngay trên vách tường đá, nhưng vẫn cảm thấy như là một đàn sinh vật sống động như thật.
(Sự kiện này cũng theo Alexander Marshach ghi nhân trong tài liệu khảo cổ ông đã ghi rõ Dưới ánh đuốc bập bùng, các hình ảnh động vật dường như cử động và hít thở. Không thể hiểu động cơ nào đã khiến người nguyên thủy tạo nên được các chi tiết quan trọng đó)
Chúng tôi còn được nhìn thấy một đám đông người vây quanh cái "Ống Thời Gian", mà bên trong của chiếc máy khổng lồ này nó chứa các bộ óc điện tử mang nhiều dấu ấn của một nền văn minh cực thịnh. Người cổ đại lúc bấy giờ đã tiên liệu được cái gì rồi sẽ diễn ra trong tương lai, nên đã thực hiện công trình lưu trữ này.
(Hiện nay, các nhà nghiên cứu đang tranh cãi về một cách giải thích cũng dựa trên sự kết nối thần kinh của bộ não, nhưng không liên quan tới tính đối ngẫu như trên.
Nó xuất phát từ một thực tế là, hầu hết các xã hội săn bắn, hái lượm trên thế giới đều có hệ niềm tin chung là vu thuật. Cộng đồng vu thuật luôn tin rằng, ngoài thế giới mà họ đang sống, còn có thế giới linh hồn phía trên và phía dưới.)
Có một điều lạ lùng, trong các hang động được Ống Thời Gian chiếu lên trên màn ảnh, có một hang đá thật âm u, nơi đó phát ra những tiếng khóc than thảm thiết! Tôi có cảm tưởng hình như đó là tiếng rên xiết của những oan hồn uổng tử.
Rồi tiếp đến là hình ảnh của các tay phù thủy múa may quay cuồng như thể muốn xâm nhập vào thế giới bên kia.
(Sự kiện này trong Ống Thời Gian chẳng khác mấy đối với bản giả định của nhà khảo cổ Pfeiffer cũng trong mục Đồ Đá Mới, nói về nhiệm vụ của các pháp sư là thâm nhập thế giới đó để giao tiếp xúc với các linh hồn, chữa các bệnh tật, kiểm soát các loại động vật cũng như thay đổi thời tiết.
Muốn làm được như vậy họ phải trải qua những trạng thái về ý thức thay đổi, từ sự phân ly nhẹ đến trạng thái ảo giác mạnh hay trong giấc chiêm bao. Trong trạng thái đó họ có thể gặp một linh hồn động vật để nhận được sức mạnh và sự giúp đỡ của nó trong vương quốc các linh hồn.)
Tôi sực nhớ lại có lần lén lút chứng kiến cảnh những con người ở thế giới bên kia trong ngôi Thiền Viện. Theo lời giải thích của Minh Sư Minh Dà Đông Đạt:
Vào một thời gian nào đó Hồn sẽ được đưa đi đầu thai do một vị Linh Thần cai quản điều động trở lại dương gian. Linh Thần đưa hồn nào đó đi đầu thai đến một nơi đã được dự định trước ai sẽ là cha mẹ tương lai của "Hồn"? Hoàn cảnh và điều kiện nào để cho "anh linh" đó tiếp tục đi vào môi trường thử thách?
Câu hỏi này được thầy tôi cho biết: "Hồn" đó sẽ được vị linh thần đặt để ở một vị trí nào đó, chờ đợi đúng ngày giờ khi có tiếng khóc chào đời của đứa bé sơ sinh, tức thì "Hồn" đó được vị Linh Thần cho nhập ngay vào. Theo thầy tôi cho biết thêm là giữa "Hồn" và đứa bé sơ sinh kia hoàn toàn xa lạ.)
(Theo bản giả định của Pfeiffer, thì các linh thần đó và các pháp sư cùng nghĩa với các tay phù thủy, có trách nhiệm ở các vương quốc được ấn định, họ tìm kiếm linh hồn động vật trong vai trò của kẻ giúp đỡ thực hiện công việc thiêng liêng này. Bằng cách nhìn và tiếp xúc cũng như đốt đuốc lên rồi lại dụi tắt đuốc đi, họ xem tường đá ở hang là tấm chắn ngăn cản họ với thế giới linh hồn.
Nhưng, khi họ nắm được linh hồn của một động vật, họ lôi kéo nó qua màn ngăn và dùng khả năng nghệ sĩ để nhận diện cái mà họ đã nhìn thấy! Nhà khảo cổ này khẳng định "Vu thuật là hệ niềm tin và tư tưởng năng động mà con người chúng ta có thể xử lý cũng như thay đổi tùy theo hoàn cảnh của xã hội.
Một số đặc trưng cơ bản của nó, như niềm tin vào thế giới bên kia, dường như không thay đổi trong suốt thời gian "Đồ Đá Mới", tuy nhiên các đặc tính khác thì có thể thay đổi sau mỗi thiên niên kỷ.)
Điều này tôi cũng từng được Minh sư Minh Dà Đông Đạt giải thích là tất cả những gì mình suy nghiệm đều do các trạng thái ý thức thay đổi xuất hiện do Thiền. Hay nói một cách khác hơn là do ảo giác hay do cách ly về cảm giác.
Trong lúc chăm chú nhìn cái "Ống Thời Gian" kia thì bất thần nghe một giọng nói rổn rảng phát ra: "Hỡi con người của tương lai, hãy cẩn trọng giữ kho tàng dự trữ đầy đủ các hồ sơ ghi chép các công trình văn minh của nhân loại này. Hãy trao lại cho thế hệ mai sau, vì chính những người hậu thế mới làm đầy đủ được mọi việc mà những con người tiên tri đã nhìn thấy trước.
Tiếng nói ấy nhỏ dần và im bặt lại ngay sau khi nơi các bức tường rực lên ánh sáng có màu váng sữa. Hình ảnh hiện lên bên trong bức màn này toàn là các loại máy móc nằm ngổn ngang cùng khắp. Có nhiều hình ảnh toàn là phố xá có những chiếc cầu bằng đá hoặc bằng kim khí bắc ngang qua, mà chúng tôi không phân biệt được thuộc kim loại nào! Lại cũng nhiều mô hình được xây lên bằng một chất trong suốt như thủy tinh.
Đang trong lúc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác thì bất thình lình "Một Con Mắt Đỏ" rực lên nhấp nháy ngay giữa bức tường vừa được sơn phết. Tôi có linh cảm thì hình như có điều gì không hay sắp xảy đến chăng? Đang phân vân thì Minh Sư Minh Dà Đông Đạt bước đến nắm lấy tay tôi giữa lúc con mắt lửa to lớn kia nhỏ dần rồi tắt hẳn:
- Chẳng hề hấn gì cả. Hãy nhìn kia. Thầy tôi bảo như vậy
.
Chúng tôi lại chụm đầu hướng mắt nhìn vào hình ảnh của một gian phòng khác. Nơi đây, bất thần tôi nhận được sự truyền đạt từ thần giao cách cảm của một vị Thiền sư nào đó vọng đến:
- "Hãy nhìn vào căn phòng kia, ắt sẽ nhìn thấy các vật liệu dùng để gắn kín cửa hang mà quý vị lúc mới đến đã đi ngang qua nơi đó. Nếu quý vị vẫn còn chưa đạt đến trình độ có thể điều khiển được những vật liệu và các cơ khí này thì cứ hãy để nguyên trạng như vậy sẽ có người thay thế làm việc đó."
Sau giọng nói này, chúng tôi tự cảm thấy như chính mình đang đi trong màn ảnh và đang tiến đến gian phòng thứ ba hiện lên trước mắt. Chúng tôi vừa đến nơi thì hai cánh cửa đại bảng từ từ mở ra. Lúc tiến vào bên trong, chúng tôi nhìn thấy có nhiều chai thủy tinh được đóng kín cùng một bản chỉ dẫn cách thức mở nắp đậy ra lấy vật liệu bên trong sử dụng lấp các cửa hang mà chúng tôi vừa đi ngang qua.
Khi đến gian phòng này thì bất thần nhận được lệnh tất cả ngồi bệt xuống trên nền đá của động! Vừa ngồi xuống trên mặt nền đá chúng tôi cảm thấy một toàn thân mát lạnh khác thường. Một cảm giác sảng khoải chạy rần trong cơ thể, khiến tinh thần chúng tôi minh mẫn và sự mệt mỏi đều hoàn toàn tan biến hẳn.
Nơi đây chúng tôi có thể nhìn suốt qua mọi cảnh vật qua "A Lại Da Tàng Thức"! Tôi lên tiếng xin Minh Sư giải thích và được cho biết:
- Chúng ta có thể nhớ mọi việc có thể xảy ra ngày hôm qua một cách dễ dàng, rồi đến những việc ngày hôm trước của ngày hôm qua và cứ như thế chúng ta nhớ được tất cả những gì đã xảy ra trong suốt thời gian ta sống trên cõi đời này. Lỗ San có tin như thế không ?
- Có.
Ta nghĩ là mọi người chúng ta đều có thể nhớ lại một cách rõ ràng, chỉ cần dành một chút thời giờ để tập luyện. Như ta đã nói chúng ta có thể nhớ rõ tất cả mọi việc đã xảy ra hàng trăm năm nếu đời sống chúng ta kéo dài đến hàng thế kỷ! Chẳng những vậy, chú còn có thể luyện biết trước được ngày của mình sẽ đi đầu thai kiếp khác
Thế có nghĩa là chú có thể tập luyện để nhớ lại chẳng những kiếp trước mà luôn cả bao nhiêu kiếp trước nữa của chính mình. Đó gọi là Tàng Thức.
- Thưa Minh sư, Còn A Lại Đa Tàng Thức là như thế nào?
- Đó là Akashic record tức là A Lại Da Tàng Thức mà chú đã nêu ra. Nó có thể áp dụng cho từng cá nhân một hoặc cho toàn thể mọi người. Luyện A Lại Da Tàng Thức có thể nhìn thấy mọi diễn biến trên thế giới và thấy luôn cả bất cứ sự kiện nào sắp xảy ra trong cuộc đời mình.
- Nói như vậy thì nó chẳng khác nào như một pháp thuật ?
Minh Sư lắc đầu :
- Không. Không phải vậy. Nó không dính dáng gì với pháp thuật cả. Tuy nhiên nó lại có liên hệ đến khoa thôi miên. Ta sẽ có ngày thảo luận vấn đề này với chú.
Minh Sư vừa dứt lời thì ánh sáng như váng sữa kia bỗng dưng mờ nhạt dần rồi tắt hẳn. Nhưng ánh sáng vừa tắt ngấm đó lại vụt bừng sáng lên, nhờ vậy nên chúng tôi nhìn thấy hình ảnh một đoàn người gồm cả nam lẫn nữ hiện lên đang rập ràng bước đi trong một đám rước, trong đó có cả các vị cao niên trong giới chức sắc thuộc hàng cao cấp.
Đám rước từ từ tiến ra cửa động, theo sau là những con người thép khổng lồ đang đẩy những tảng đá lớn bằng cả nửa quả núi vừa đủ để lấp kín cửa hang.
Tôi sực nhớ lại câu chuyện chú Sĩ Cát cùng hai anh Hà Mịch và Lâm Trần đã thuật lại về một đồng tử nhờ Tàng Thức mà nhớ lại các kiếp trước của mình. Đám rước theo chú Sĩ Cát thuật lại là một đám rước thật vĩ đại, có tiếng nhạc vang lừng, có xe loan màn che trướng phủ, bên trong có vị đại thánh xuất hiện từ bầu trời Kim Tinh chễm chệ ngồi.
Đám rước đi đến đâu đều có hào quang tỏa ra đến đó. Đoàn người này từ Thượng giới giáng xuống trên Bạch Đảo, hiện nay được gọi là Bạch Ngọc Kinh đầy hoa thơm cỏ lạ, quanh năm chỉ có một mùa xuân, bướm lượn ong vờn.
Về điều này, có lần tôi hỏi anh Lâm Trần:
- Thế thì phải có thiên đình, nhưng nếu có thì thiên đình ở chốn nào? Có phải trên không gian vô cùng vô tận kia không?
- Không! Thiên đình vốn là trung tâm thanh khí tại Oasis, ta thường gọi là Ốc Đảo trong dãi sa mạc Gobi thuộc vùng Á Châu, nơi đây kẻ phàm tục không thể nào đến được. Trung tâm này được bảo vệ bởi một mãnh lực phi thường.
Mãnh lực phi thường ấy không phải là một sức cản mà bằng sự huyền nhiệm, trên thế gian này chẳng có một ai có thể vượt qua được. Nếu đó là hình ảnh được dựng lên bằng vật chất thì chẳng có gì thoát khỏi tầm mắt và khối óc thông minh của con người.
Tuy nhiên những hình ảnh đó đã được tạo nên bằng sức mạnh của sự huyền bí tại ngay trên Ốc Đảo, thì dù con người có tài thiên biến vạn hóa đến đâu cũng chẳng nhìn thấy được cái gì đang hiện hữu tại nơi được xem là thiêng liêng huyền nhiệm này?
Có nhiều người từng lặn lội trên Ốc Đảo ấy, họ chẳng trông thấy gì cả! Nhưng thật ra đối với người có Tàng Thức thì đó là một cảnh Bồng Lai, một chốn Thiên Đường, cũng dinh thự đền đài, cũng núi cao, cũng sông ngòi, cũng hoa thơm cỏ lạ.
Nhưng con người chúng ta không thể nào va chạm được nó, dù có xuyên vào ngay chính các vật thể này. Tôi lại tò mò hỏi thêm.
- Vậy, ai đã tạo dựng nên Đấng Chí Tôn huyền nhiệm đó?
- Chẳng ai cả. Anh Hà Mịch trả lời. Ngài là Đấng Vô Thủy, Vô Chung, hằng sống đời đời. Ngài là chúa tể của muôn loài, muôn vật. Ngài không như chúng ta được tạo dựng bằng một khối hằng hà sa số tế bào, mà hình ảnh của Ngài chính do ý chí của Ngài tự tạo dựng lấy.
Đồng tử này khẳng định, Ngài không có những vết nhăn kiêu hùng của một bậc trưởng lão, mà luôn luôn có một sắc thái của một chàng trai giữa tuổi đương xuân. Trông Ngài uy nghiêm, lẫm liệt, nhưng Ngài lúc nào cũng có tấm lòng bao dung đại từ, đại bi đại hùng, đại lực.
Với Ngài luôn luôn trong sáng như vầng Thái dương soi sáng mọi nơi giữa vũ trụ bao la mênh mông vô tận.
Bỗng có tiếng của thầy tôi vẳng vọng đến bằng thần giao cách cảm:
- Lỗ San, chú lại bị phân trí rồi.
Tôi giật mình sực tỉnh, bắt đầu trở lại với các hình ảnh hoạt động của các máy móc trong Cổ Hiền Thạch Động. Những con người máy này làm nhiệm vụ khó khăn mà sức con người không thể nào chu toàn được. Nhưng rồi, các hình ảnh đó mờ nhạt dần, cuối cùng tan biến hẳn trên một bức tường bằng một tấm đá trắng.
Giữa lúc bấy giờ bất thần nhìn thấy một vị trưởng lão đứng trên cái bục trông giống như một Kim Tự Tháp đang chỉ huy đám binh sĩ ngoài trận địa. Nhưng, hình ảnh của vị trưởng lão cùng các chiến sĩ ngoài trận địa kia biến thành một cột khói bốc lên cuồn cuộn tỏa ra cùng khắp.
Bầu trời đang xám xịt chuyển sang màu đỏ rực trông hệt như một biển lửa. Tôi cảm thấy đầu óc choáng váng. Hơi nóng càng lúc càng hực lên như thiêu như đốt. Rõ ràng, trước mắt tôi là cả một đô thị bốc cháy lên dữ dội, Những tiếng nổ long trời lở đất, những nóc nhà nguy nga đồ sộ lần lượt sụp đổ và cuối cùng trở thành bình địa.
Lúc bấy giờ trời bắt đầu tối sầm lại. Trong cái bóng đêm cùng khắp ấy phát ra các tiếng khóc than, tiếng kều gào, kết hợp với các tiếng rên rỉ tạo nên một điệp khúc u buồn ảm đạm.
- Trông kìa, nước biển dâng tràn lên.
Tôi bất giác thét lên như thể chính mình đang bị nằm trong hoàn cảnh hãi hùng đó. Làm sao tôi không hoảng hốt được, khi mà những đợt sóng thần cứ dập dồn phủ lên cuốn trôi tất cả mọi vật trên đất liền.
Các đợt sóng bủa lên cao và cứ thế cho đến khi cả dãy Hy Mã Lạp Sơn cùng tất cả những cái gì hiện diện trên mặt địa cầu này đều bị cuốn hút xuống tận dưới lòng đáy sâu bể cả. Quả đất chuyển động giật lên từng cơn như thể một con mãnh thú đang rẩy chết!
Lúc bấy giờ mặt đất hoàn toàn thay đổi. Lục địa biến thành bể cả, và biển cả bao la kia lại trở thành các dãy núi trùng trùng điệp điệp. Cuối cùng bão táp không còn nữa. Bầu trời trở lại trong sáng. Gió yên. Bể lặng. Đó đây trên mặt địa cầu còn lại một số sinh vật may mắn sống sót trong đó có cả con người. Họ là những kẻ được ghi nhận là có phúc phần lớn.
Nhưng rồi, những cảnh tàn phá trên màn ảnh không còn nữa. Giờ đây đã trở lại cảnh thanh bình. Hoa tuyết từ trên vòm trời bay bay rơi xuống. Những con người có phúc phần sống sót chạy ra ngửa hai lòng hai bàn tay hứng lấy bỏ vào miệng mình và nhắm nghiền mắt lại như thể để trọn hưởng những niềm vui bất tận.
Tôi thực sự bàng hoàng trước những dụng cụ khoa học phát ra từ trong cái "Ống Thời Gian" chiếu lên bức tường đá trong Cổ Hiền Thạch Động. Như vậy chứng tỏ loài người không phải đợi ngày nay mới có một nền khoa học tân tiến, mà nó đã từng có từ ngàn xưa, trước cả khi nạn đại hồng thủy xảy ra trên mặt đất!
Cuộc đời lắm cuộc bể dâu. Có đó rồi mất đó. Mới là thềm lục địa đã bỗng trở thành bể cả! Và, ngược lại, mới là bể cả mênh mông sóng gào gió thét, nay lại hóa thành một thềm lục địa xanh tươi, muôn màu muôn sắc.
Tôi nhìn tận mắt cảnh tượng của một trái núi trông hệt như cả dãy Hy Mã Lạp Sơn bị chẻ làm đôi, một nửa chìm sâu vào giữa lòng bể cả, một nửa còn lại trông hệt như con kình ngư bị lụy trước những cơn sóng cả bão bùng!
Chính nơi này, người đời sau gọi đó là Địa Trung Hải. Lại một nơi khác, cũng trước kia là một đại dương mênh mông, với màu xanh biếc, bây giờ thì biển cả kia đã hoàn toàn khô cạn, và biến thành một bãi cát trắng lớn đến nỗi tưởng chừng nếu có người lữ khách nào bị lạc lõng nơi đây thật khó lòng thoát ra khỏi được!
Cảnh tượng sau cơn Đại Hồng Thủy, những người còn cơ may sống sót, họ bắt đầu tìm cách gặp nhau lập thành bộ lạc, rồi trở lại sống kiếp lang thang nay đây mai đó như đàn người du mục ngày nào của một thời cổ đại. Họ trở lại với nếp sống nguyên sơ, đói đi tìm hoa quả hái ăn.
Khát rủ rê nhau đi tìm dòng suối ngọt để uống. Rồi dần dà tìm ra lửa và từ đó nền văn hóa lửa tái xuất hiện nói lên sự tiến hóa của con người Thế rồi từ hình ảnh này sang hình ảnh nọ, từng giai đoạn theo thời gian tuần tự.
Có những lúc đoàn người may mắn còn sống này tiếp tục quây quần bên bếp lửa để lắng nghe tiếng nổ lách tách của các đốm lửa phát ra, kể những chuyện ngày xưa, từ tiềm thức họ lóe ra cho nhau nghe. Họ nhắc nhở nạn lụt Đại Hồng Thủy, về châu Atlantis, từng có một nền văn minh cực thịnh, nhưng thời vàng son ấy hiện đang nằm yên giữa lòng sâu bể cả.
Họ cũng kể cho nhau nghe chuyện khó tin nhưng là sự thật, đó là chuyện cái ngày mặt trời không bao giờ chịu tắt. Những ngày xa xôi ấy không có bóng hoàng hôn, và cũng chẳng nhìn thấy có bóng đêm bao trùm lên vạn nẻo.
Tất cả chỉ toàn là một màu xanh êm dịu, quanh năm trăm hoa đua nở, bướm lượn ong vờn, với tiếng chim đua nhau líu lo ca hót, cây cối sum suê, lộc mới đơm cành. Đó là hình ảnh của một thời từng có một mùa xuân bất tận. Nhưng rồi chẳng có cái gì tuyệt đối cả. Tôi hỏi điều này: Tại sao lạ vậy?
Thầy tôi cười đáp:
- Âu đó là cái lý. Thoạt đầu chỉ có mỗi cái một thì chẳng bao giờ động. Nhưng chẳng lẽ bất động thì làm sao có sự chuyển biến? Theo quy luật của Tạo Hóa, có "tịnh" thì phải có "động".
Trương Tải bảo rằng cái "khí" mang tính vật chất ấy đó là nguyên lý đầu tiên của vũ trụ. Ông bảo trời đất phải có lý, có khí, đó là cái đạo hình nhi thượng, mà chú nên nhớ rằng đó là cái vốn của sinh vật. Chú hiểu điều này chứ ?
Tôi lắc đầu biểu lộ là mình chưa thấu đáo được hết nghĩa của thầy tôi vừa giảng giải. Minh Sư Minh Dà Đông Đạt nhìn tôi trong giây lát, đoạn cất tiếng giảng giải tiếp:
- Lỗ San nên nhớ rằng cuộc sống của con người và vạn vật phải có cái "lý" ù nhiên hậu mới có tính. Với Chu Hy, người còn liên kết giữa cái "lý" với Thái cực. Điều này ta đã có lần bàn thảo với chú kia mà!
Tôi sực nhớ ra, gật đầu:
- Thưa Minh Sư, quả có. Ấy đó là cái gốc vũ trụ của đạo gia. Thưa thầy con hiểu điều này. Tổng hợp cái lý của vạn vật trong trời đất lại thì đó là Thái cực, như Chư tử nói:
"Tổng thiên địa vạn vật chi lý, tiện thị thái cực". Đó là "Lý nhất phân thù" "vật vô vô đối". Tuy vậy con chưa hiểu thế nào là "cách vật trí tri"?
- Lỗ San đúng. Cái "Lý nhất" đó là bản nguyên của vũ trụ. Mà bản nguyên của vũ trụ là Thái Cực. Còn "phân thù" là âm dương, ngũ hành, là vạn vật, vạn lý. Là mọi sự vật trong thế định vị không đổi, nó có mặt đối lập với nhau, ấy chính đó mới phát sinh ra "cái động".
Như chú thấy vũ trụ đã hoàn toàn thành hình, nó không có một mà có hai. Một và hai đó chính là động tĩnh. Chú phải tìm kiếm cái nguyên lý của sự vật đó mới thấu đáo được cái cùng của nó. Đó là "cách vật trí tri " mà chú vừa nêu ra hỏi đó.
Đến đây, Minh Sư ngừng lại mỉm cười:
- Tạm đủ rồi, bây giờ thì chúng ta phải nghỉ ngơi ăn uống cái đã! Ngày mai thức dậy hãy tiếp tục xem thử còn những gì trong Cổ Hiền Thạch Động này để được tìm hiểu thêm chăng!
Chúng tôi ăn uống thật no nê và ngủ một giấc ngay trong lòng Cổ Hiền Thạch Động! Đêm ngủ này chúng tôi cảm thấy vô cùng thoải mái!
Sáng dậy, chúng tôi lại được lệnh của Minh Sư khuân ít thùng có chất dẻo bước ra khỏi lòng Thạch Động, cùng nhau đẩy tảng đá bít kín cửa hang lại.
- Hãy để cho Cổ Hiền Thạch Động yên lòng nằm ngủ! Biết đâu, có một ngày đẹp trời nào đó, sẽ lại có những người có cơ duyên đến viếng thăm chiêm ngưỡng! Rồi họ cũng như các chú, sẽ được nhìn tận mắt những gì chúng ta đã nhìn thấy!
Chúng tôi ra khỏi lòng hang động, nhìn cảnh tượng đổ nát bên ngoài động mà lòng không khỏi bồi hồi!
Trên đường về phải qua một cây cầu treo vỏn vẹn chỉ có hai sợi dây, một sợi dùng để đặt bàn chân lên bước đi và một sợi khác ngang tầm tay, để vịn cho khỏi ngã. Nhìn xuống bên dưới một con sông nước chảy xiết, nghĩ dại nếu vạn nhất sẩy chân thì mạng sống khó lòng an toàn.
Nhờ đã vào thu nên trời mát dịu. Ánh nắng vàng trải mình lên vạn vật. Dăm ba con công đang xòe đuôi đủ màu sắc ra múa lượn, như tuồng chúng muốn phô trương cái đẹp của mình trước những loài hoa dại ở ven rừng.
Nhờ khí trời mát dịu nên chúng tôi quên cả sự mệt mỏi, quên luôn cả nghỉ ngơi. Mãi đến khi sương mù từ khí đá núi xông lên tỏa ra khắp làm mờ mịt cả núi rừng mới giật mình bảo nhau đêm sắp về đến nơi rồi! Bóng hoàng hôn phủ khắp sơn khê và mặt nhật đã thật sự lặn xuống dưới chân đồi.
PHẦN MỘT
Từ thiền viện "Trắc Phổ Di" ra đi phải xuống một con dốc thoai thoải dọc theo công viên "Khả Chi Đa Linh Ngã" tràn ngập cả bông hoa và những cánh bướm rực rỡ đủ màu sắc đua nhau chập chờn bay lượn.
Chúng tôi tiến dần đến bến đò nơi có chiếc ghe bằng da bò thổi phồng và người lái đò đang cầm sào đợi sẵn. Bọn người chúng tôi gồm tất cả bảy người vượt sang sông Kỳ Chu, phải dành mất một thời gian gần trọn cả ngày đi ghe vì lòng sông quá lớn.
Khi sang đến bên kia bờ chúng tôi chia nhau các vật dụng để mang theo, trong đó có cả các thực phẩm, nước uống, dây thừng, quần áo. Ngoài ra mỗi người chúng tôi còn mang theo một số ít vật dụng cho cá nhân.
Bọn chúng tôi nhằm về hướng Tây Nam tiến đến. Khi đến cạnh dưới chân núi mới cảm thấy thấm mệt, không ai bảo ai, chúng tôi cùng ngồi xuống nơi mỏm đá ven đường để nghỉ mệt và dùng bữa cơm tối với ít bánh Tsampa.
Trên vòm trời tím sẫm các ngôi sao như những hạt kim cương lấp la lấp lánh. Cạnh nơi chúng tôi đang ngồi là những cánh hoa dại mọc ven theo sườn núi. Bóng trăng bắt đầu xuất hiện, ánh sáng vàng vọt chiếu lên cảnh vật một màu ván sữa.
Ăn uống xong chúng tôi tạm ngủ lại qua đêm tại đây. Vì quá mệt mỏi, vừa ngả lưng xuống tôi đã chìm ngay vào giấc ngủ. Tư thế ngủ của tôi có khác với các tăng sĩ và lạt ma Tây Tạng. Những người này theo giới luật "ngủ ngồi". Giới luật ngủ của tôi khác với số người cùng đi hôm nay, tuy vậy cũng chỉ được phép ngủ nằm bên tay phải với người không cùng một giới luật.
Tuy giữa cảnh rừng núi đêm hôm, song tôi cũng được yên lòng khi nhìn thấy Minh Sư Minh Dà Đông Đạt đang ngồi bên kia tảng đá trắng, lưng tựa vào vách tường núi, mặt hướng về phía tôi đang nằm trông hệt như một pho tượng đá. Người nhìn tôi mỉm cười:
- Lỗ San! Chúc chú ngủ ngon.
Và tôi ngủ ngon thật. Cho đến khi thức giấc thì vừa lúc trời rựng sáng. Vòm trời đã tan biến cả sao. Mặt trăng lưỡi liềm đã biến dạng từ lúc nào. Gió rừng buổi sáng nhẹ nhàng thổi lại. Cả rừng núi lúc bây giờ vang lên tiếng ca hót của các chim chóc, và xa xa tiếng tru tréo của các loài dã thú, cùng với các tiếng côn trùng kêu lên ra rả. Tất cả hòa hợp lại thành điệu nhạc vang lừng như những lời kinh cầu nguyện.
Ăn điểm tâm qua loa, chúng tôi lại mang hành trang lên vai tiếp tục cuộc hành trình. Suốt hai ngày băng đèo vượt suối mới qua hết chặng đường dài dưới chân núi. Chúng tôi dừng lại buộc dây thừng giữa người này với người kia, cố trèo lên các đỉnh núi trên cao, sự nguy hiểm luôn luôn đe dọa đến mạng sống.
Chúng tôi tập trung đến chân của một bờ tường đá cao chất ngất. Đứng trước bờ tường đá cao cheo leo này chúng tôi không tìm thấy bất cứ một chỗ nào có thể dùng tay bám vào để đặt chân lên được. Trước mắt chúng tôi hiện giờ là một cảnh đổ vở của đá núi rơi vung vãi.
Từ nhiều năm nay sỏi đá từ trên cao rơi xuống làm lấp cả các hốc kẽ chẳng còn nơi nào để lấy thế bám vào được để trèo sang bên kia. Sau gần một ngày trời tìm kiếm, bất thần chúng tôi nhìn thấy một hình ảnh trên bờ tường núi một hình dạng như cái ống khói. Niềm vui tràn ngập trong lòng tôi.
Thế là, chúng tôi bàn nhau tìm cách dùng tay bám vào nơi có hình dạng cái ống khói này, tựa lưng vào tường vách núi đá rồi từ từ nhô người lên. Gió thổi lồng lộng khiến nhiều khi chúng tôi bị ngợp thở. Hì hục mãi, rồi chúng tôi cũng leo đến tận phía bên kia. Nhưng nơi đây chúng tôi vẫn chưa tìm được nơi nào là chỗ hang động.
Phần thì gió lộng thổi không ngừng, phần trước mặt đầy cả những tảng đá chồng chất lên nhau, nhìn lại xuống bên phía dưới, đầy ắp cả những hòn đá nhọn quanh năm gồng mình chống lại các dòng nước cuốn như thác đổ băng qua.
Nơi đây có con đường nhỏ ngoằn ngoèo theo thân sườn núi. Nước suối chảy xiết như muốn cuốn trôi các tảng đá nằm rải rác giữa dòng, tung lên những chòm bọt nước trông như các đóa hoa tuyết trắng phau. Chúng tôi phải vất vả lắm mới lội sang được đến bên kia bờ.
Nhưng nỗi khó khăn vẫn chưa hết đối với chúng tôi. Khi lên được bờ lại bị các tảng đá lớn chắn ngang trước mặt, chúng tôi lại phải nhảy từ tảng này sang tảng nọ, vạn nhất chẳng may sẩy chân không chết, thì thế nào cũng phải bị trọng thương.
Khi tất cả đã sang được bên bờ bên kia xong xuôi, Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt cho chúng tôi biết chỉ còn bức tường cuối cùng đang chắn ngang trước mặt là sẽ đến ngay Cổ Hiền Thạch Động.
Người đưa tay chỉ vào bức tường sứt mẻ thuật lại cho chúng tôi đủ mọi thứ chuyện. Những hốc đá mà trước kia để bám víu trèo lên, nay đã bị những tảng đá từ trên cao lở xuống làm biến mất tất cả như các chú đã trông thấy.
Thật vậy. Chúng tôi ngẩng mặt nhìn lên thấy một cái hốc đá cuối cùng cách mặt đất khoảng 4 thước, muốn trèo lên được chỉ còn có cách chọn một người mạnh nhất trong bọn đứng sát vào tựa vách đá, hai tay dang thẳng ra bám chặt thành núi để làm thế tựa cho các thể tháo gia đang giao đấu.
Tiếp đến là chọn một vị Lạt Ma trẻ khác có trọng lượng nhẹ nhất leo lên đứng trên vai vị này và cũng áp sát người vào tường giữ vững thế đứng để leo lên cột dây thừng vào nơi thuận tiện nhất, đoạn thòng xuống cho những người bên dưới tuần tự đu lên.
Tất nhiên là trong đám Lạt Ma trong chuyến đi này tôi được xem là nhỏ con và có trọng lượng nhẹ nhất so với đồng bọn. Thế là tôi được chọn để cho các Lạt Ma khác đôn tôi lên và thực hiện điều này.
Tôi từ từ leo lên phía trên cao và cột dây thừng vào một mõm núi, đâu đó xong xuôi, buông dây xuống bên dưới. Tôi chui vào một hốc đá vừa vẹn với thân hình nhỏ thó của tôi ngồi cầm sợi dây canh chừng, trong khi đó Minh Sư cùng các vị Lạt Ma kia từng người một nắm lấy dây thừng đang lơ lửng đó đu lần lên.
Khi mọi người chúng tôi lên được tận đỉnh cao của núi, chúng tôi ôm nhau lại tỏ vẻ vui mừng là đã được sự may mắn. Trong những giờ phút gian nan, tôi mới cảm thấy tình thương của đồng đội nó cao cả như thế nào. Minh Sư Minh Dà Đông Đạt đưa chúng tôi đến đứng trước hang động, nhưng chẳng thấy lối vào.
Tất cả chúng tôi đều cố dán mắt tìm kiếm, nhưng kể cả Minh Sư, cũng chẳng làm sao khám phá ra được. Bỗng mắt tôi bất thần nhìn vào khe núi nơi đó có dấu vết của đường nước chảy làm hoen ố trông hệt như bóng dáng hình ảnh của một con người đồng quê hương xứ sở.
Tôi nhìn sững sờ, chưa kịp báo cáo cho Minh Sư biết về cái hình quái dị này thì bỗng có một bàn tay đặt sau lưng đẩy tôi về phía trước, và bằng giọng nói ồ ồ:
- Nào, chú bé cưng ơi! Hãy mạnh dạn đẩy viên đá trước mặt đi, cánh cửa động ắt sẽ mở ra để đón mời vị Minh Sư cũng như chú cùng đám bạn của chú vào bên trong chiêm ngưỡng.
Tôi chưa kịp quay lại để nhận diện kẻ nào đã ra lệnh cho tôi như vậy, thì đã bước qua cửa của hang động từ bao giờ. Tôi bất giác giật mình khi nhìn thấy luồng ánh sáng từ đâu đột nhiên rực lên, phơi bày ra cảnh tượng lạ lùng hiện ra trước mắt. Bên trong hang động lớn gấp hai lần so với ngôi đại tự ở Lạt Sa. Vào tận bên trong, ánh sáng trở nên êm dịu hơn. Lúc bấy giờ Minh Sư mới bắt đầu lên tiếng nhẹ nhàng nói:
- Ánh sáng êm dịu ở đây, ngày xưa từng rực lên như khối lửa của mặt trời. Nhưng rồi trải qua hàng ngàn năm ánh lửa như mặt nhật đó bắt đầu giảm dần xuống, cho đến ngày nay như chúng ta đang nhìn thấy.
Minh Sư đưa chúng tôi đi sâu vào bên trong, ngang qua một căn phòng có một cái máy được đặt nơi đó từ bao giờ. Chẳng một ai trong chúng tôi dám động đến, nhưng lại tò mò muốn biết tác động của cái máy này, và tìm hiểu ai đã mang được nó vào tận nơi đây?
Chúng tôi lại được Minh Sư đưa đến một căn phòng khác. Trước mắt tôi là một bục nhỏ vuông vức, chiều rộng lối một thước, bốn bề được chắn lại bởi các lan can sơn màu xanh thẳm. Nối liền với cái máy đầu bên kia bởi một cái ống gập lại.
Vô tình tôi bước lên một cái bục gỗ tức thì cả cái bục lẫn lan can đều từ từ bay bổng lên. Tôi hốt hoảng đưa tay nắm chặt lấy lan can, trong lúc các Lạt Ma khác nhốn nháo cả lên. Minh Sư đứng bên dưới tươi cười nhìn tôi lên tiếng trấn an:
- Lỗ San, chú cứ an tâm. Ta từng bị một lần như chú vậy. Rồi nó sẽ hạ xuống. khi nó không còn đủ sức đưa chú lên cao được nữa.
Và quả thật như vậy! Thầy tôi vừa dứt lời thì một tiếng "tách" nhẹ vang lên, tức thì cái bục lại từ từ hạ xuống. Nhưng, tiếp ngay sau đó bỗng xuất hiện một làn ánh sáng lơ lửng trước mắt tôi. Tuy ánh sáng rực lên trước mặt như vậy song tôi cảm thấy không hề bị lóa mắt chút nào.
Tiếp đến, là phía chân tường xuất hiện một con quái vật trông hệt như một con mèo rừng khổng lồ. Nhưng khi nhìn kỹ ra, rõ ràng con quái vật này thân hình là một giống thú vật song đầu lại của một người đàn bà có mái tóc đen huyền phủ xuống tận đôi bờ vai thon tròn bé nhỏ.
Gương mặt của quái vật đầu người mình thú này trông có vẻ kiêu kỳ, ngạo mạn. Chúng tôi cảm thấy bàng hoàng sợ hãi, toàn thân nổi cả da gà.
Minh Sư cười giải thích:
- Các chú đừng ngạc nhiên trước hiện tượng này. Hình ảnh được vẽ ra đó là tượng hình cổ tự (hierolyphs), một loại chữ cổ vẽ bằng hình của người Hy Lạp thời cổ đại phác họa cảnh con mèo quái dị đó đang chuyện vãn với Người và Linh Hồn khi rời khỏi thân xác để sang bên kia thế giới.
Đến đây Minh Sư quay sang nhìn tôi :
- Lỗ San hiểu chứ ?
Không đợi tôi đáp lại, Minh Sư chỉ vào một chiếc bàn đặt cạnh đó rồi cho phép chúng tôi lần lượt đặt tay lên nắp của chiếc hộp làm bằng kim loại.
Tôi là người đầu tiên thực hiện, tức thì nhìn thấy bên trong hiện lên một đám đông người đang rộn ràng điều khiển những máy móc cất giấu tại trong các căn phòng tại hang động này. Tôi sững sờ, suy nghĩ.
Minh Sư nhìn tôi bảo:
- Đừng ngạc nhiên Lỗ San ạ! Rồi một ngày kia, trong một tương lai gần chú sẽ nhìn thấy nó ở khắp mọi nơi trên thế giới này.
Người đẩy chúng tôi vào Cổ Hiền Thạch Động lúc còn ở ngoài cửa hang là một vị sư già. Hình như vị sư già biết trước đoàn chúng tôi đến chiêm ngưỡng hang động linh thiêng này nên đã ra đứng đón sẵn ở nơi nào đó mà chúng tôi không phát giác được.
Lúc bấy giờ vị sư già này mới sừng sững hiện ra đứng bên cạnh Minh Sư Minh Dà Đông Đạt cười thành tiếng vui vẻ nói:
- Chắc các chú ngạc nhiên khi thấy ta đường đột hiện lên và âm thầm biến mất! Thật ra ta có bổn phận đợi chờ Ngài Minh Sư Minh Đà Đông Đạt cùng các chú để đưa vào trong Cổ Hiền Thạch Động.
Hang động này không phải mới hình thành vào thời cổ đại. Xứ sở Tây Tạng này đã trải qua bao nhiêu biến thiên của lịch sử, máu đã từng đổ nhuộm đỏ cả rừng núi, ngay từ thời bộ lạc Tubo phất cờ dựng nước.
Và cũng kể từ ngày Lạt Ma Giáo (Lamaism) phối hợp với giáo thuyết của Đại Thừa Mật Tông cùng với đạo Bon hình thành một giáo thuyết riêng biệt. Chắc hẳn các chú thừa biết Lạt Ma giáo của chúng ta tin rằng các Lạt Ma đều là Phật tái sinh như các chú đó chẳng hạn.
Không hiểu sao, vị sư già này bỗng từ từ quay mặt lại nhìn tôi:
- Nhất là chú Lỗ San này chú không phải là một tăng sĩ bình thường. Chú được liệt kê có tước hiệu là Rinpoche một tước hiệu quí báu phi thường. Thật vậy! Chú là hạt ngọc báu trong các hạt ngọc. Chú là hình ảnh của sự thánh thiện hơn bất cứ hình ảnh thánh thiện nào.
Càng đi sâu vào bên trong Cổ Hiền Thạch Động, càng nhìn thấy nhiều hiện tượng lạ lùng. Bên trên trần hang động các đám mây đen trôi lơ lửng bềnh bồng. Thỉnh thoảng lóe lên những tia chớp ngoằn ngoèo nhưng rồi lại thoát biến ngay sau đó. Bóng tối cơ hồ đông đặc lại, tưởng chừng như bất cứ một vật cứng rắn nào cũng khó lòng có thể xuyên qua được.
Trong lúc đó có tiếng Minh Sư dõng dạc ra lệnh:
- Nắm chặt lấy tay nhau lại hãy tiến thẳng vào.
Chúng tôi siết chặt tay nhau xông xáo đi, bất chấp cả mọi rủi ro rất có thể xảy ra sau bức màn đen dày đặc ấy. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc, bất thần có tiếng nói của Minh Sư vọng ra kêu lên:
- Thận trọng hình như có vật gì áng ngữ phía trước mặt chúng ta.
Và quả thật dường như bên trong bóng đen dày đặc đó có tiếng kêu "tí tắc" vọng ra. Không bảo nhau nhưng tất cả cùng đứng dừng ngay lại. Nhưng càng lúc, tiếng kêu tí tắc" càng vang vọng lên mỗi lúc một nhiều thêm.
Tôi có cảm giác như tiếng kim khí va chạm vào nhau. Trong khi chúng tôi ngơ ngác không hiểu cái gì đang diễn ra bên trong bức màn đen tối ấy, thì bỗng dưng có luồng ánh sáng không biết từ đâu tỏa ra khắp nơi làm bóng đen hoàn toàn tan biến hẳn.
Lúc bấy giờ chúng tôi chẳng khác nào như những kẻ sực tỉnh sau cơn mơ, đưa mắt lơ láo nhìn tứ phía nơi mình đang đứng trên trần hang động lúc bấy giờ trông hệt như vòm trời xanh đầy dẫy các vì tinh tú lung linh sáng.
Có điều ánh sáng của các vì tinh tú ấy đủ các màu sắc lấp lánh hệt như các hạt kim cương rực chiếu. Quang cảnh này khiến chúng tôi đứng trân người ra chiêm ngưỡng.
Chúng tôi theo chân Minh Sư Minh Dà Đông Đạt vào căn phòng hoàn toàn trưng bày các hình tượng rời ra từng pho, hoặc được người thời cổ đại khắc sâu vào vách tường đá. Các hình tượng được điêu khắc nơi đây gần như hầu hết là các hình ảnh ma quỉ kỳ lạ, hoặc của những vị thần mà nhiều người thường thờ cúng. Ngoài ra, không ít các bức tượng to lớn được tạc ngay trên bờ tường đá.
(Gần đây, các nhà khảo cổ khám phá ra những bức tượng đá tương tự như vậy tại Ý Đại Lợi. Như tại Siena của nước Ý mà theo tin của hãng thông tấn AFP trích thuật tin của Discovery đã diễn tả.
Nghệ thuật hội họa của người Etruscan, một giống người Ý cổ đại,với những hình vẽ ma quỉ kỳ lạ, đang dần lộ diện tại ngôi làng Sarteano, cách thành phố Siena 80 cây số. Khám phá này được xem là một trong những khám phá khảo cổ quan trọng nhất thời kỳ gần đây.
Ngoài ra, cũng nguồn tin này viết lại, các nhà khảo cổ cũng cho biết "ẩn trong bức tường bên trái của một ngôi mộ có từ thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, người ta đã tìm thấy những hình ảnh họa các quái vật và ma quỉ còn nguyên vẹn khác thường.
Nhà khảo cổ Alessandra Minetti cho biết: Chúng tôi đã tìm thấy một số cảnh tiệc tùng, những quái vật giống rắn, yêu ma và một cái quách bị vỡ làm nhiều mảnh.
Những hình ảnh được điêu khắc này trùng hợp với các tác phẩm cổ đại tại ngay giữa lòng Cổ Hiền Thạch Động. Có điều đặc biệt là tư tưởng giữa những thánh nhân ẩn mình trong Cổ Hiền Thạch Động không cách biệt mấy đối với quan niệm của người Hy Lạp cổ xưa. Họ cũng có những màu sắc sặc sỡ, các hình vẽ trong ngôi mộ đã phản ảnh sự thay đổi u ám trong quan niệm về cái chết của người Etruscan.
Theo nhà khảo cổ học Giám đốc Trung tâm Bảo tồn ở Florence cho biết: Chân dung với mái tóc đỏ chắc chắn là một dạng bóng ma thần chết. Điều này khiến tôi sực nhớ lại nhà Thiền sư cuồng loạn đã có lần đề cập đến với tôi về điều này, trùng hợp giữa lời giải thích của các nhà khảo cổ ngày nay nói về hình ảnh Thần Chết được người cổ đại điêu khắc ngay trên các bức tường đá
Ông ấy đã khẳng định: "Thần Chết ngồi ngất ngưởng trên chiếc xe thổ mộ y hệt như một con quái vật mình sư tử đầu chim miệng mở ngoạc ra như thể muốn ăn tươi nuốt sống kẻ đang hấp hối trên giường bệnh.
Trong bản tin của Reuter có ghi về hình ảnh của các khám phá mới này như sau: ... các nhà học thuật không rõ chân dung đó là của Charu (thường được mô tả như một người đàn ông có râu với làn da hung đỏ), ma nữ Vanth (thường có cánh) hay là một loại ma chưa hề biết tới...)
Chúng tôi nhận thấy trong Cổ Hiền Thạch Động thật lắm cái phi thường. Nhất là hình ảnh trái đất khi mới được hình thành, có nghĩa là từ khi khai thiên lập địa. Thế giới còn trong thời kỳ sơ khai, núi non giăng khắp mọi nơi, ngay cả những nơi mà ngày nay là bể cả.
Những bức tranh nói lên vai trò của nghệ thuật trong xã hội và mang nhiều mục đích từ chính trị đến kinh tế, từ tôn giáo cho đến vũ trụ quan...Tất cả những quan niệm này đều được ghi vào trong các ẩn ngữ nghệ thuật thời tiền sử.
(Trong Cổ Hiền Thạch Động đã ghi lên đầy đủ những bí mật trong đời sống của con người mà ngày nay người ta vừa phát hiện được loan báo trên các làn sóng phát thanh, báo chí :
"Các con đường xuyên sâu xuống lòng đất nó có sự bí mật nào đó. Salomon Reinach, cách đây trên một thế kỷ (1902) cho rằng con người vẽ lên các hình ảnh để điều khiển các loài muông thú mà họ vẫn săn bắt. Các hành vi đó được bao phủ dưới bức màn bí ẩn và cần phải được thực hiện xa nơi cư trú.
Rồi đến khi, nhà tiền sử học lừng danh trên thế giới, Abbé Henri Breuil vào năm 1952 cho rằng con người phác họa ra hình ảnh của các loài muông thú này chỉ vì muốn được khỏe mạnh như chúng.
Nhưng thật ra, đối với những nhà khảo cứu thì cho rằng những lời giải thích như vậy quả thật quá đơn giản. Đối với dạng nghệ thuật thì nó chẳng giải thích được gì, nhất lại là không giải thích được những đặc trưng của nó còn chưa phát hiện.
Vào thập niên 1960, André Leroi-Gourhan môn sinh cũ của Breuil đã đưa ra được cách giải thích hoàn toàn mới mẻ. Ông đã dựa trên cấu trúc luận do nhà dân tộc học Claude Lévi-Strauss phát triển, cho rằng mọi tư duy của con người đều có xu hướng đối đầu nhau theo phương thức nhị nguyên, thế có nghĩa là hai bán cầu của bộ não có chức năng bổ sung cho nhau.
Điều này như ta đã biết như: tự nhiên đối đầu với văn hóa, nóng đối đầu với lạnh, sáng đối đầu với tối, nam đối đầu với nữ. Ông Leroi-Gourhan muốn lấy khung cảnh đối đầu giữa nam/nữ mà lập thuyết cái này đương đầu với cái kia. Ông tin rằng trong toàn bộ 20.000 năm của thời đại Đồ đá mới, các hang động được cấu trúc theo nguyên tắc nam nữ.
Một số động vật, như ngựa, tượng trưng cho nam tính, còn số khác như bò tót, tượng trưng cho nữ tính. Các loài "nữ "tập trung tại giữa hang, các loài "nam" thì tản mát khắp nơi. Hình sư tử, gấu và các dã thú nguy hiểm khác thì nằm sâu trong hang)
Nơi đây chúng tôi được chứng kiến các hình ảnh lạ lùng mà cứ tưởng rằng mình đang nằm mơ chứ không phải là sự thực. Chúng tôi giương tròn xoe mắt nhìn những tia sáng quay chung quanh một hình tròn.
Các hình ảnh này lúc đầu lờ mờ trông không được rõ ràng, nhưng dần dần trở nên sống động hiện lên "ba chiều". Chúng tôi không còn lời lẽ nào để tán thưởng mà chỉ thốt lên đó là một điều phi thường.
Những cái phi thường mà chúng tôi nhìn thấy là hình ảnh của một trái đất khi mới khai thiên lập địa. Đó là một thế giới non trẻ, còn trong thời kỳ sơ khai, núi non đứng sừng sững ở những vùng đất đai mà bây giờ đã biến thành bể cả
Còn những nơi có những bờ biển thơ mộng thì ngày nay lại biến đổi thành những ngọn núi cao. Khí hậu lúc bấy giờ ấm áp dần và có lắm sinh vật lạ lùng hoạt động trên khắp mọi nơi ở quả đất này.
Đó là hình ảnh của một thế giới phát triển từ những ngôi chùa thật vĩ đại với những nóc tháp chọc trời, xuyên qua những màn mây đang thấp dần xuống giữa tiết đông giá rét.
Lúc bấy giờ, những thiên niên kỷ xa xưa đó thầy chúng tôi đã giải thích "Lúc bấy giờ người và loài vật không tị hiềm, xâu xé, phân biệt nhau mà từng dùng thần giao cách cảm để giao cảm nhau. Tôi nghĩ đó là một xã hội hoàn toàn hạnh phúc, an lành.
Nhưng càng nhìn lâu càng nhận thấy bên trong cái an lành đó dường như đang âm thầm nẩy nở mầm mống của sự chống đối nhau vì sự sống trên mọi lĩnh vực. Điều này sau này tôi được Minh Sư giải thích là thế giới bắt đầu đi vào con đường "tam phân ngũ liệt". Con người bắt đầu chia nhau các khu vực riêng biệt.
Rồi khu vực này thèm thuồng khu vực kia. Cũng kể từ đó, theo lời Minh Sư thì đã bắt đầu xuất hiện các Giáo chủ. Người phái này, kẻ phái khác. Phái nào cũng tự cho mình là đứa con ngoan của Thượng Đế, của Chân, Thiện, Mỹ.
Có lần Minh sư hỏi :
- Lỗ San, chú có nhận thấy điều đó chăng?
- Thưa Minh sư, có. Tôi xác nhận như vậy.
Tôi từng nhìn các hình ảnh này lần lượt hiện ra trước một bức tường phẳng lì trong hang động. Hình ảnh của các giáo chủ hiện lên trước mắt chúng tôi. Họ đang giảng giải những lời lẽ cứu rỗi. Họ luôn luôn thuyết đến chữ Thiện, đến lòng Từ, đến sự Bác ái
.
Nhưng có điều, những hình ảnh này lại còn xen lẫn với những từ ngữ đối nghịch lại với nhau như lối đối đầu theo phương thức "nhị nguyên" ví như bên trên đã nói: "nóng với lạnh, sáng với tối, nam với nữ..."
Chúng tôi nhìn thấy các khoa học gia làm việc trong các phòng thí nghiệm đang bù đầu để phục vụ cho cái chết của những kẻ không cùng một chiến tuyến. Họ các nhà bác học này đang mò mẫm chế tạo ra những khí giới có sức tàn phá khủng khiếp.
Trong cái xô bồ hỗn loạn, chúng tôi cũng được nhìn thấy những con người đang mưu cầu sự an toàn cho tương lai của nhân loại. Họ cùng nhau âm thầm tổ chức cái "Ống Thời Gian" mà ngày nay được gọi là "Cổ Hiền Thạch Động".
Cái "Ống Thời Gian" đó giữ lại tất cả các máy móc đang được để dành sử dụng cho các thế hệ mai sau trong đó họ ghi nhận đầy đủ mọi chi tiết hình ảnh của một nền văn minh đang hồi cực thịnh.
Thật lạ lùng làm sao! Nhiều cơ khí hệt như người máy khổng lồ thay người khoan đá, đào đất, xuyên thủng núi non, cày sâu dưới lòng bể cả... Cũng có những toán người khác đang hì hục ráp nối đủ các loại máy khác lạ mà tôi không thể nào hiểu được.
Tôi há hốc mồm ra để nhìn khi trông thấy họ mang những quả ánh sáng tròn và tôi có cảm giác là nó lạnh như tuyết băng kéo lên tận trên cao, trong đó điện năng cung cấp ánh sáng cho cả hàng triệu năm.
Lúc đầu những hình ảnh này giải thích về "tĩnh năng và hoạt năng", hai danh từ phát sinh ở thế giới khoa học cực thịnh làm cho tôi bối rối chẳng hiểu họ muốn nói về cái gì.
Sau đó, nhờ những hình ảnh ráp nối chúng tôi mới biết được cái nghĩa của các từ "tĩnh năng" danh từ chỉ cho sự an toàn không làm hại đến cơ thể con người, còn từ "hoạt năng" là loại ánh sánh bất diệt, nó tồn tại mãi với thời gian và không gian.
Thế giới chúng ta đang ở đã từng một thời có nền văn minh cực thịnh. Những sự kiện đặc biệt mà chúng tôi được nhìn thấy nhờ vào cái máy "Ống Thời Gian" tuần tự chiếu lên màn ảnh trong Cổ Hiền Thạch Động.
Thì ra không phải mãi đến ngày nay chúng ta mới có được nền văn minh đang đi vào hồi cực thịnh, mà nó đã xuất hiện từ hàng bao nhiêu ngàn năm về trước!
Chính cái Ống Thời Gian đã chứa đựng hầu hết các công trình khoa học của cả một nền văn minh kỳ diệu mà tôi được may mắn chiêm ngưỡng tận mắt, hiện còn tồn trữ chẳng riêng tại xứ sở Tây Tạng này mà nó còn được cất dấu khắp năm châu bốn bể nữa.
Ngay cả những cổ tháp ở Nam Mỹ cũng như ở vùng đất lạnh lẽo Tây Bá Lợi Á, nơi quanh năm suốt tháng giá băng bao phủ chẳng mấy ai được biết. Đoàn Lạt Ma chúng tôi còn được sự hướng dẫn của tiếng nói của một người vô hình nào đó hướng dẫn đến các hang động, trong đó người xưa đã lưu lại dấu vết hoặc các hình ảnh được khắc lên trên các tường núi đá cực kỳ tinh xảo.
Đặc biệt là mỗi hang như vậy đều có hình ảnh của con mèo khổng lồ đầu người được khắc ngay vào các tường đá trong các hang động, hoặc có nơi còn điêu khắc cả một pho tượng thần miêu riêng rẽ được đặt lên một chiếc bệ dài hơn mười thước và chiều cao lối năm thược.
Cứ theo truyền thuyết thì đây là thần miêu Sphinx xuất hiện cùng thời với con người! Thần Sphinx hình mèo đầu người này biết nói năng và bày tỏ được mọi cảm xúc như loài người chúng ta. Người xưa cho rằng mèo là con vật hoàn hảo nhất về sức lực và luôn cả trí thông minh.
Nó có thể bưng cả ngọn núi to nhất lên và có thể tính toán và làm được mọi điều mà con người khó lòng thực hiện được.
Thần miêu Sphinx đầu người có gương mặt trái xoan cùng một làn da hồng hào trắng mịn. Thần Sphinx còn có đôi mắt bồ câu đen láy, cùng chiếc sống mũi dọc dừa nằm bên trên đôi môi hồng mọng đỏ, luôn luôn hé nở nụ cười để lộ đôi hàm răng nhỏ mứt, trắng trong như hạt lựu.
Ngoài ra thần miêu Sphinx còn có mái tóc vàng kim óng ánh phủ chụp xuống đôi bờ vai thon tròn nhỏ. Chính mái tóc vàng này có sức quyến rũ thu hút được tình cảm của mọi người nếu được cơ may gặp mặt.
Càng lúc tôi lại càng được chứng kiến lắm sự kiện lạ lùng khác cũng xuất phát từ cái máy "Ống Thời Gian" hiện lên trên màn ảnh. Tôi không tránh khỏi có những phút giây kinh hoàng khi nhìn thấy cảnh tượng hàng triệu con người đang gặp phải thiên tai nguy biến.
Rõ ràng có hàng bao nhiêu tiếng gào thét vang lên. Họ đang cố bám lấy trên những chiếc thuyền nan, hoặc trên các chiếc bè nhỏ mong manh, lênh đênh trên mặt đại dương giữa cơn giống tố bão bùng!
Dù đó là hình ảnh được Ống Thời Gian phát chiếu lại trên màn ảnh, tôi cũng không tránh khỏi nỗi hãi hùng trước các xác chết, có thể hàng trăm, có thể lên đến hàng ngàn đang bị các làn sóng thần cuốn hút ra tận ngoài trùng khơi bể cả mịt mùng.
Rồi một hình ảnh khác hiện lên. Đó là một đô thị, nhà cửa san sát bên nhau, đường sá dọc ngang, đan nhau như một bàn cờ vuông vức. Có lắm đô thị được dựng lên toàn là những nhà chọc trời, các dinh thự nguy nga mọc lên tứ phía, có cái trông hệt như pha lê trong suốt, có những ngôi tợ như dựng lên bằng vàng hay bạc
Nhưng đặc biệt là có những thành phố xây trên không trung và nối kết với nhau bằng những cây cầu treo lơ lửng. Có điều là tôi không thể biết được họ, những bậc tiền nhân xa xưa đó làm thế nào dựng lên được các phố xá giữa không trung ấy!
Đang mải mê chiêm ngưỡng các hình ảnh bên trên thì toàn thể màn ảnh như bị một màn đêm bao phủ. Chỉ trong phút chốc bóng đêm dần dần tan đi và ánh sáng bắt đầu trở lại.
Lần này, trước mắt chúng tôi là một khu nghĩa trang. Có nhiều ngôi mộ được xây nấm tròn, có ngôi lại hình chữ nhật. Nhưng tất cả được xây bằng pha lê trong suốt có thể nhìn thấy những chiếc quan tài bằng vàng hay bạc được điêu khắc những hình vân hoa, cũng như long, lân, qui, phụng.
Đặc biệt, có những Kim Tự Tháp chẳng khác gì như ở Ai Cập, nhưng không phải bằng đá mà bằng kim loại. Trong các ngôi cổ mộ này có khắc hình ảnh hệt như một thầy tu và chung quanh quan tài được bao quanh bởi một bức tường bằng đá vôi trắng cùng các bức phù điêu.
Một điều khiến tôi ngạc nhiên là có cả một phụ nữ bà ta trông rất đẹp đang cùng ngồi với một đàn con gồm cả trai lẫn gái.
(Gần đây các chuyên gia thuộc Viện Khảo Cổ Pháp ở Cairo (IFAO), Ai Cập vừa khai quật một nghĩa địa cổ với những ngôi mộ có niên đại 4.000 năm. Khám phá này có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm kiếm Pharaoh thất lạc ở Userkare.
Nghĩa địa này là nơi chôn cất những viên chức cao cấp dưới thời Vương Quốc Cổ Ai Cập, kéo dài từ năm 2.400 đến năm 2.100 trước CN. Vào thời kỳ này, 4 vị vua Ai Cập thuộc triều đại thứ 6 biến mất trong lịch sử không để lại dấu vết.
Theo Vassil Dobrev, trưởng đoàn khai quật cho biết họ khám phá tổng cộng 5 ngôi mộ song có thể được khai quật được nhiều hơn trong tương lai. Ngôi mộ đầu tiên thuộc về Hau-Nefer một thầy tu phụng sự trong ngôi đền tang lễ của vua Pepp l cùng với Hoàng hậu tên là Khuti, có với nhau 13 đứa con trai, gồm 4 gái và 9 trai)
Đang mải mê xem cảnh trí lạ lùng này thì đột nhiên ngay trên vòm trời xuất hiện một quả cầu lửa rực sáng, nhằm vào các nhịp cầu treo lơ lửng kia phóng xuống làm nổ tung ra từng mảnh nhỏ.
Rồi tiếp đến những quả cầu lửa khác xuất hiện và cũng như những quả cầu trước, nó lao thẳng đến các dãy phố bên dưới tạo nên một biển lửa rực sáng cả bầu trời. Và cứ như cảnh tượng này tuần tự diễn tiến, hết nơi này đến nơi khác, cuối cùng tất cả bị hoàn toàn tàn phá chỉ còn là một đống gạch vụn.
Hình ảnh này cho tôi thấy tất cả sự sống đã bị tiêu diệt. Không còn lấy một sinh vật nào tồn tại. Hình ảnh của ngày tận thế.
Nhưng cảnh huống này tự nhiên chuyển sang hình ảnh các hang động mà trong đó có điêu khắc những động vật như ngựa, lừa, trâu bò hoặc các giống thú vật khác như có lần tôi đã nhìn thấy chẳng khác nào vào niên đại của "Đồ Đá Mới".
(Vào năm 1972, Alexander Marshach đưa ra giả định một số về công trình điêu khắc được chạm trên xương hoặc ngà voi với niên đại 32.000 năm tính theo loại âm lịch.
Năm 1983 Pfeiffer đã bổ sung thêm những lời lẽ giải thích về quan niệm của Leroi Gourhan khi xem xét tác động của môi trường hang sâu lên giác quan và tinh thần con người. Pfeiffer cho rằng với người thời Đồ Đá Mới, hoàn toàn khác so với tình thế của từng giai đoạn.)
Các hình ảnh trong các hang động mà tôi đã được chiêm ngưỡng trên màn ảnh của Ống Thời Gian phát ra, như thể nó đang sống động. Tuy tôi biết các đàn vật kia chỉ là những tác phẩm điêu khắc được chạm trổ ngay trên vách tường đá, nhưng vẫn cảm thấy như là một đàn sinh vật sống động như thật.
(Sự kiện này cũng theo Alexander Marshach ghi nhân trong tài liệu khảo cổ ông đã ghi rõ Dưới ánh đuốc bập bùng, các hình ảnh động vật dường như cử động và hít thở. Không thể hiểu động cơ nào đã khiến người nguyên thủy tạo nên được các chi tiết quan trọng đó)
Chúng tôi còn được nhìn thấy một đám đông người vây quanh cái "Ống Thời Gian", mà bên trong của chiếc máy khổng lồ này nó chứa các bộ óc điện tử mang nhiều dấu ấn của một nền văn minh cực thịnh. Người cổ đại lúc bấy giờ đã tiên liệu được cái gì rồi sẽ diễn ra trong tương lai, nên đã thực hiện công trình lưu trữ này.
(Hiện nay, các nhà nghiên cứu đang tranh cãi về một cách giải thích cũng dựa trên sự kết nối thần kinh của bộ não, nhưng không liên quan tới tính đối ngẫu như trên.
Nó xuất phát từ một thực tế là, hầu hết các xã hội săn bắn, hái lượm trên thế giới đều có hệ niềm tin chung là vu thuật. Cộng đồng vu thuật luôn tin rằng, ngoài thế giới mà họ đang sống, còn có thế giới linh hồn phía trên và phía dưới.)
Có một điều lạ lùng, trong các hang động được Ống Thời Gian chiếu lên trên màn ảnh, có một hang đá thật âm u, nơi đó phát ra những tiếng khóc than thảm thiết! Tôi có cảm tưởng hình như đó là tiếng rên xiết của những oan hồn uổng tử.
Rồi tiếp đến là hình ảnh của các tay phù thủy múa may quay cuồng như thể muốn xâm nhập vào thế giới bên kia.
(Sự kiện này trong Ống Thời Gian chẳng khác mấy đối với bản giả định của nhà khảo cổ Pfeiffer cũng trong mục Đồ Đá Mới, nói về nhiệm vụ của các pháp sư là thâm nhập thế giới đó để giao tiếp xúc với các linh hồn, chữa các bệnh tật, kiểm soát các loại động vật cũng như thay đổi thời tiết.
Muốn làm được như vậy họ phải trải qua những trạng thái về ý thức thay đổi, từ sự phân ly nhẹ đến trạng thái ảo giác mạnh hay trong giấc chiêm bao. Trong trạng thái đó họ có thể gặp một linh hồn động vật để nhận được sức mạnh và sự giúp đỡ của nó trong vương quốc các linh hồn.)
Tôi sực nhớ lại có lần lén lút chứng kiến cảnh những con người ở thế giới bên kia trong ngôi Thiền Viện. Theo lời giải thích của Minh Sư Minh Dà Đông Đạt:
Vào một thời gian nào đó Hồn sẽ được đưa đi đầu thai do một vị Linh Thần cai quản điều động trở lại dương gian. Linh Thần đưa hồn nào đó đi đầu thai đến một nơi đã được dự định trước ai sẽ là cha mẹ tương lai của "Hồn"? Hoàn cảnh và điều kiện nào để cho "anh linh" đó tiếp tục đi vào môi trường thử thách?
Câu hỏi này được thầy tôi cho biết: "Hồn" đó sẽ được vị linh thần đặt để ở một vị trí nào đó, chờ đợi đúng ngày giờ khi có tiếng khóc chào đời của đứa bé sơ sinh, tức thì "Hồn" đó được vị Linh Thần cho nhập ngay vào. Theo thầy tôi cho biết thêm là giữa "Hồn" và đứa bé sơ sinh kia hoàn toàn xa lạ.)
(Theo bản giả định của Pfeiffer, thì các linh thần đó và các pháp sư cùng nghĩa với các tay phù thủy, có trách nhiệm ở các vương quốc được ấn định, họ tìm kiếm linh hồn động vật trong vai trò của kẻ giúp đỡ thực hiện công việc thiêng liêng này. Bằng cách nhìn và tiếp xúc cũng như đốt đuốc lên rồi lại dụi tắt đuốc đi, họ xem tường đá ở hang là tấm chắn ngăn cản họ với thế giới linh hồn.
Nhưng, khi họ nắm được linh hồn của một động vật, họ lôi kéo nó qua màn ngăn và dùng khả năng nghệ sĩ để nhận diện cái mà họ đã nhìn thấy! Nhà khảo cổ này khẳng định "Vu thuật là hệ niềm tin và tư tưởng năng động mà con người chúng ta có thể xử lý cũng như thay đổi tùy theo hoàn cảnh của xã hội.
Một số đặc trưng cơ bản của nó, như niềm tin vào thế giới bên kia, dường như không thay đổi trong suốt thời gian "Đồ Đá Mới", tuy nhiên các đặc tính khác thì có thể thay đổi sau mỗi thiên niên kỷ.)
Điều này tôi cũng từng được Minh sư Minh Dà Đông Đạt giải thích là tất cả những gì mình suy nghiệm đều do các trạng thái ý thức thay đổi xuất hiện do Thiền. Hay nói một cách khác hơn là do ảo giác hay do cách ly về cảm giác.
Trong lúc chăm chú nhìn cái "Ống Thời Gian" kia thì bất thần nghe một giọng nói rổn rảng phát ra: "Hỡi con người của tương lai, hãy cẩn trọng giữ kho tàng dự trữ đầy đủ các hồ sơ ghi chép các công trình văn minh của nhân loại này. Hãy trao lại cho thế hệ mai sau, vì chính những người hậu thế mới làm đầy đủ được mọi việc mà những con người tiên tri đã nhìn thấy trước.
Tiếng nói ấy nhỏ dần và im bặt lại ngay sau khi nơi các bức tường rực lên ánh sáng có màu váng sữa. Hình ảnh hiện lên bên trong bức màn này toàn là các loại máy móc nằm ngổn ngang cùng khắp. Có nhiều hình ảnh toàn là phố xá có những chiếc cầu bằng đá hoặc bằng kim khí bắc ngang qua, mà chúng tôi không phân biệt được thuộc kim loại nào! Lại cũng nhiều mô hình được xây lên bằng một chất trong suốt như thủy tinh.
Đang trong lúc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác thì bất thình lình "Một Con Mắt Đỏ" rực lên nhấp nháy ngay giữa bức tường vừa được sơn phết. Tôi có linh cảm thì hình như có điều gì không hay sắp xảy đến chăng? Đang phân vân thì Minh Sư Minh Dà Đông Đạt bước đến nắm lấy tay tôi giữa lúc con mắt lửa to lớn kia nhỏ dần rồi tắt hẳn:
- Chẳng hề hấn gì cả. Hãy nhìn kia. Thầy tôi bảo như vậy
.
Chúng tôi lại chụm đầu hướng mắt nhìn vào hình ảnh của một gian phòng khác. Nơi đây, bất thần tôi nhận được sự truyền đạt từ thần giao cách cảm của một vị Thiền sư nào đó vọng đến:
- "Hãy nhìn vào căn phòng kia, ắt sẽ nhìn thấy các vật liệu dùng để gắn kín cửa hang mà quý vị lúc mới đến đã đi ngang qua nơi đó. Nếu quý vị vẫn còn chưa đạt đến trình độ có thể điều khiển được những vật liệu và các cơ khí này thì cứ hãy để nguyên trạng như vậy sẽ có người thay thế làm việc đó."
Sau giọng nói này, chúng tôi tự cảm thấy như chính mình đang đi trong màn ảnh và đang tiến đến gian phòng thứ ba hiện lên trước mắt. Chúng tôi vừa đến nơi thì hai cánh cửa đại bảng từ từ mở ra. Lúc tiến vào bên trong, chúng tôi nhìn thấy có nhiều chai thủy tinh được đóng kín cùng một bản chỉ dẫn cách thức mở nắp đậy ra lấy vật liệu bên trong sử dụng lấp các cửa hang mà chúng tôi vừa đi ngang qua.
Khi đến gian phòng này thì bất thần nhận được lệnh tất cả ngồi bệt xuống trên nền đá của động! Vừa ngồi xuống trên mặt nền đá chúng tôi cảm thấy một toàn thân mát lạnh khác thường. Một cảm giác sảng khoải chạy rần trong cơ thể, khiến tinh thần chúng tôi minh mẫn và sự mệt mỏi đều hoàn toàn tan biến hẳn.
Nơi đây chúng tôi có thể nhìn suốt qua mọi cảnh vật qua "A Lại Da Tàng Thức"! Tôi lên tiếng xin Minh Sư giải thích và được cho biết:
- Chúng ta có thể nhớ mọi việc có thể xảy ra ngày hôm qua một cách dễ dàng, rồi đến những việc ngày hôm trước của ngày hôm qua và cứ như thế chúng ta nhớ được tất cả những gì đã xảy ra trong suốt thời gian ta sống trên cõi đời này. Lỗ San có tin như thế không ?
- Có.
Ta nghĩ là mọi người chúng ta đều có thể nhớ lại một cách rõ ràng, chỉ cần dành một chút thời giờ để tập luyện. Như ta đã nói chúng ta có thể nhớ rõ tất cả mọi việc đã xảy ra hàng trăm năm nếu đời sống chúng ta kéo dài đến hàng thế kỷ! Chẳng những vậy, chú còn có thể luyện biết trước được ngày của mình sẽ đi đầu thai kiếp khác
Thế có nghĩa là chú có thể tập luyện để nhớ lại chẳng những kiếp trước mà luôn cả bao nhiêu kiếp trước nữa của chính mình. Đó gọi là Tàng Thức.
- Thưa Minh sư, Còn A Lại Đa Tàng Thức là như thế nào?
- Đó là Akashic record tức là A Lại Da Tàng Thức mà chú đã nêu ra. Nó có thể áp dụng cho từng cá nhân một hoặc cho toàn thể mọi người. Luyện A Lại Da Tàng Thức có thể nhìn thấy mọi diễn biến trên thế giới và thấy luôn cả bất cứ sự kiện nào sắp xảy ra trong cuộc đời mình.
- Nói như vậy thì nó chẳng khác nào như một pháp thuật ?
Minh Sư lắc đầu :
- Không. Không phải vậy. Nó không dính dáng gì với pháp thuật cả. Tuy nhiên nó lại có liên hệ đến khoa thôi miên. Ta sẽ có ngày thảo luận vấn đề này với chú.
Minh Sư vừa dứt lời thì ánh sáng như váng sữa kia bỗng dưng mờ nhạt dần rồi tắt hẳn. Nhưng ánh sáng vừa tắt ngấm đó lại vụt bừng sáng lên, nhờ vậy nên chúng tôi nhìn thấy hình ảnh một đoàn người gồm cả nam lẫn nữ hiện lên đang rập ràng bước đi trong một đám rước, trong đó có cả các vị cao niên trong giới chức sắc thuộc hàng cao cấp.
Đám rước từ từ tiến ra cửa động, theo sau là những con người thép khổng lồ đang đẩy những tảng đá lớn bằng cả nửa quả núi vừa đủ để lấp kín cửa hang.
Tôi sực nhớ lại câu chuyện chú Sĩ Cát cùng hai anh Hà Mịch và Lâm Trần đã thuật lại về một đồng tử nhờ Tàng Thức mà nhớ lại các kiếp trước của mình. Đám rước theo chú Sĩ Cát thuật lại là một đám rước thật vĩ đại, có tiếng nhạc vang lừng, có xe loan màn che trướng phủ, bên trong có vị đại thánh xuất hiện từ bầu trời Kim Tinh chễm chệ ngồi.
Đám rước đi đến đâu đều có hào quang tỏa ra đến đó. Đoàn người này từ Thượng giới giáng xuống trên Bạch Đảo, hiện nay được gọi là Bạch Ngọc Kinh đầy hoa thơm cỏ lạ, quanh năm chỉ có một mùa xuân, bướm lượn ong vờn.
Về điều này, có lần tôi hỏi anh Lâm Trần:
- Thế thì phải có thiên đình, nhưng nếu có thì thiên đình ở chốn nào? Có phải trên không gian vô cùng vô tận kia không?
- Không! Thiên đình vốn là trung tâm thanh khí tại Oasis, ta thường gọi là Ốc Đảo trong dãi sa mạc Gobi thuộc vùng Á Châu, nơi đây kẻ phàm tục không thể nào đến được. Trung tâm này được bảo vệ bởi một mãnh lực phi thường.
Mãnh lực phi thường ấy không phải là một sức cản mà bằng sự huyền nhiệm, trên thế gian này chẳng có một ai có thể vượt qua được. Nếu đó là hình ảnh được dựng lên bằng vật chất thì chẳng có gì thoát khỏi tầm mắt và khối óc thông minh của con người.
Tuy nhiên những hình ảnh đó đã được tạo nên bằng sức mạnh của sự huyền bí tại ngay trên Ốc Đảo, thì dù con người có tài thiên biến vạn hóa đến đâu cũng chẳng nhìn thấy được cái gì đang hiện hữu tại nơi được xem là thiêng liêng huyền nhiệm này?
Có nhiều người từng lặn lội trên Ốc Đảo ấy, họ chẳng trông thấy gì cả! Nhưng thật ra đối với người có Tàng Thức thì đó là một cảnh Bồng Lai, một chốn Thiên Đường, cũng dinh thự đền đài, cũng núi cao, cũng sông ngòi, cũng hoa thơm cỏ lạ.
Nhưng con người chúng ta không thể nào va chạm được nó, dù có xuyên vào ngay chính các vật thể này. Tôi lại tò mò hỏi thêm.
- Vậy, ai đã tạo dựng nên Đấng Chí Tôn huyền nhiệm đó?
- Chẳng ai cả. Anh Hà Mịch trả lời. Ngài là Đấng Vô Thủy, Vô Chung, hằng sống đời đời. Ngài là chúa tể của muôn loài, muôn vật. Ngài không như chúng ta được tạo dựng bằng một khối hằng hà sa số tế bào, mà hình ảnh của Ngài chính do ý chí của Ngài tự tạo dựng lấy.
Đồng tử này khẳng định, Ngài không có những vết nhăn kiêu hùng của một bậc trưởng lão, mà luôn luôn có một sắc thái của một chàng trai giữa tuổi đương xuân. Trông Ngài uy nghiêm, lẫm liệt, nhưng Ngài lúc nào cũng có tấm lòng bao dung đại từ, đại bi đại hùng, đại lực.
Với Ngài luôn luôn trong sáng như vầng Thái dương soi sáng mọi nơi giữa vũ trụ bao la mênh mông vô tận.
Bỗng có tiếng của thầy tôi vẳng vọng đến bằng thần giao cách cảm:
- Lỗ San, chú lại bị phân trí rồi.
Tôi giật mình sực tỉnh, bắt đầu trở lại với các hình ảnh hoạt động của các máy móc trong Cổ Hiền Thạch Động. Những con người máy này làm nhiệm vụ khó khăn mà sức con người không thể nào chu toàn được. Nhưng rồi, các hình ảnh đó mờ nhạt dần, cuối cùng tan biến hẳn trên một bức tường bằng một tấm đá trắng.
Giữa lúc bấy giờ bất thần nhìn thấy một vị trưởng lão đứng trên cái bục trông giống như một Kim Tự Tháp đang chỉ huy đám binh sĩ ngoài trận địa. Nhưng, hình ảnh của vị trưởng lão cùng các chiến sĩ ngoài trận địa kia biến thành một cột khói bốc lên cuồn cuộn tỏa ra cùng khắp.
Bầu trời đang xám xịt chuyển sang màu đỏ rực trông hệt như một biển lửa. Tôi cảm thấy đầu óc choáng váng. Hơi nóng càng lúc càng hực lên như thiêu như đốt. Rõ ràng, trước mắt tôi là cả một đô thị bốc cháy lên dữ dội, Những tiếng nổ long trời lở đất, những nóc nhà nguy nga đồ sộ lần lượt sụp đổ và cuối cùng trở thành bình địa.
Lúc bấy giờ trời bắt đầu tối sầm lại. Trong cái bóng đêm cùng khắp ấy phát ra các tiếng khóc than, tiếng kều gào, kết hợp với các tiếng rên rỉ tạo nên một điệp khúc u buồn ảm đạm.
- Trông kìa, nước biển dâng tràn lên.
Tôi bất giác thét lên như thể chính mình đang bị nằm trong hoàn cảnh hãi hùng đó. Làm sao tôi không hoảng hốt được, khi mà những đợt sóng thần cứ dập dồn phủ lên cuốn trôi tất cả mọi vật trên đất liền.
Các đợt sóng bủa lên cao và cứ thế cho đến khi cả dãy Hy Mã Lạp Sơn cùng tất cả những cái gì hiện diện trên mặt địa cầu này đều bị cuốn hút xuống tận dưới lòng đáy sâu bể cả. Quả đất chuyển động giật lên từng cơn như thể một con mãnh thú đang rẩy chết!
Lúc bấy giờ mặt đất hoàn toàn thay đổi. Lục địa biến thành bể cả, và biển cả bao la kia lại trở thành các dãy núi trùng trùng điệp điệp. Cuối cùng bão táp không còn nữa. Bầu trời trở lại trong sáng. Gió yên. Bể lặng. Đó đây trên mặt địa cầu còn lại một số sinh vật may mắn sống sót trong đó có cả con người. Họ là những kẻ được ghi nhận là có phúc phần lớn.
Nhưng rồi, những cảnh tàn phá trên màn ảnh không còn nữa. Giờ đây đã trở lại cảnh thanh bình. Hoa tuyết từ trên vòm trời bay bay rơi xuống. Những con người có phúc phần sống sót chạy ra ngửa hai lòng hai bàn tay hứng lấy bỏ vào miệng mình và nhắm nghiền mắt lại như thể để trọn hưởng những niềm vui bất tận.
Tôi thực sự bàng hoàng trước những dụng cụ khoa học phát ra từ trong cái "Ống Thời Gian" chiếu lên bức tường đá trong Cổ Hiền Thạch Động. Như vậy chứng tỏ loài người không phải đợi ngày nay mới có một nền khoa học tân tiến, mà nó đã từng có từ ngàn xưa, trước cả khi nạn đại hồng thủy xảy ra trên mặt đất!
Cuộc đời lắm cuộc bể dâu. Có đó rồi mất đó. Mới là thềm lục địa đã bỗng trở thành bể cả! Và, ngược lại, mới là bể cả mênh mông sóng gào gió thét, nay lại hóa thành một thềm lục địa xanh tươi, muôn màu muôn sắc.
Tôi nhìn tận mắt cảnh tượng của một trái núi trông hệt như cả dãy Hy Mã Lạp Sơn bị chẻ làm đôi, một nửa chìm sâu vào giữa lòng bể cả, một nửa còn lại trông hệt như con kình ngư bị lụy trước những cơn sóng cả bão bùng!
Chính nơi này, người đời sau gọi đó là Địa Trung Hải. Lại một nơi khác, cũng trước kia là một đại dương mênh mông, với màu xanh biếc, bây giờ thì biển cả kia đã hoàn toàn khô cạn, và biến thành một bãi cát trắng lớn đến nỗi tưởng chừng nếu có người lữ khách nào bị lạc lõng nơi đây thật khó lòng thoát ra khỏi được!
Cảnh tượng sau cơn Đại Hồng Thủy, những người còn cơ may sống sót, họ bắt đầu tìm cách gặp nhau lập thành bộ lạc, rồi trở lại sống kiếp lang thang nay đây mai đó như đàn người du mục ngày nào của một thời cổ đại. Họ trở lại với nếp sống nguyên sơ, đói đi tìm hoa quả hái ăn.
Khát rủ rê nhau đi tìm dòng suối ngọt để uống. Rồi dần dà tìm ra lửa và từ đó nền văn hóa lửa tái xuất hiện nói lên sự tiến hóa của con người Thế rồi từ hình ảnh này sang hình ảnh nọ, từng giai đoạn theo thời gian tuần tự.
Có những lúc đoàn người may mắn còn sống này tiếp tục quây quần bên bếp lửa để lắng nghe tiếng nổ lách tách của các đốm lửa phát ra, kể những chuyện ngày xưa, từ tiềm thức họ lóe ra cho nhau nghe. Họ nhắc nhở nạn lụt Đại Hồng Thủy, về châu Atlantis, từng có một nền văn minh cực thịnh, nhưng thời vàng son ấy hiện đang nằm yên giữa lòng sâu bể cả.
Họ cũng kể cho nhau nghe chuyện khó tin nhưng là sự thật, đó là chuyện cái ngày mặt trời không bao giờ chịu tắt. Những ngày xa xôi ấy không có bóng hoàng hôn, và cũng chẳng nhìn thấy có bóng đêm bao trùm lên vạn nẻo.
Tất cả chỉ toàn là một màu xanh êm dịu, quanh năm trăm hoa đua nở, bướm lượn ong vờn, với tiếng chim đua nhau líu lo ca hót, cây cối sum suê, lộc mới đơm cành. Đó là hình ảnh của một thời từng có một mùa xuân bất tận. Nhưng rồi chẳng có cái gì tuyệt đối cả. Tôi hỏi điều này: Tại sao lạ vậy?
Thầy tôi cười đáp:
- Âu đó là cái lý. Thoạt đầu chỉ có mỗi cái một thì chẳng bao giờ động. Nhưng chẳng lẽ bất động thì làm sao có sự chuyển biến? Theo quy luật của Tạo Hóa, có "tịnh" thì phải có "động".
Trương Tải bảo rằng cái "khí" mang tính vật chất ấy đó là nguyên lý đầu tiên của vũ trụ. Ông bảo trời đất phải có lý, có khí, đó là cái đạo hình nhi thượng, mà chú nên nhớ rằng đó là cái vốn của sinh vật. Chú hiểu điều này chứ ?
Tôi lắc đầu biểu lộ là mình chưa thấu đáo được hết nghĩa của thầy tôi vừa giảng giải. Minh Sư Minh Dà Đông Đạt nhìn tôi trong giây lát, đoạn cất tiếng giảng giải tiếp:
- Lỗ San nên nhớ rằng cuộc sống của con người và vạn vật phải có cái "lý" ù nhiên hậu mới có tính. Với Chu Hy, người còn liên kết giữa cái "lý" với Thái cực. Điều này ta đã có lần bàn thảo với chú kia mà!
Tôi sực nhớ ra, gật đầu:
- Thưa Minh Sư, quả có. Ấy đó là cái gốc vũ trụ của đạo gia. Thưa thầy con hiểu điều này. Tổng hợp cái lý của vạn vật trong trời đất lại thì đó là Thái cực, như Chư tử nói:
"Tổng thiên địa vạn vật chi lý, tiện thị thái cực". Đó là "Lý nhất phân thù" "vật vô vô đối". Tuy vậy con chưa hiểu thế nào là "cách vật trí tri"?
- Lỗ San đúng. Cái "Lý nhất" đó là bản nguyên của vũ trụ. Mà bản nguyên của vũ trụ là Thái Cực. Còn "phân thù" là âm dương, ngũ hành, là vạn vật, vạn lý. Là mọi sự vật trong thế định vị không đổi, nó có mặt đối lập với nhau, ấy chính đó mới phát sinh ra "cái động".
Như chú thấy vũ trụ đã hoàn toàn thành hình, nó không có một mà có hai. Một và hai đó chính là động tĩnh. Chú phải tìm kiếm cái nguyên lý của sự vật đó mới thấu đáo được cái cùng của nó. Đó là "cách vật trí tri " mà chú vừa nêu ra hỏi đó.
Đến đây, Minh Sư ngừng lại mỉm cười:
- Tạm đủ rồi, bây giờ thì chúng ta phải nghỉ ngơi ăn uống cái đã! Ngày mai thức dậy hãy tiếp tục xem thử còn những gì trong Cổ Hiền Thạch Động này để được tìm hiểu thêm chăng!
Chúng tôi ăn uống thật no nê và ngủ một giấc ngay trong lòng Cổ Hiền Thạch Động! Đêm ngủ này chúng tôi cảm thấy vô cùng thoải mái!
Sáng dậy, chúng tôi lại được lệnh của Minh Sư khuân ít thùng có chất dẻo bước ra khỏi lòng Thạch Động, cùng nhau đẩy tảng đá bít kín cửa hang lại.
- Hãy để cho Cổ Hiền Thạch Động yên lòng nằm ngủ! Biết đâu, có một ngày đẹp trời nào đó, sẽ lại có những người có cơ duyên đến viếng thăm chiêm ngưỡng! Rồi họ cũng như các chú, sẽ được nhìn tận mắt những gì chúng ta đã nhìn thấy!
Chúng tôi ra khỏi lòng hang động, nhìn cảnh tượng đổ nát bên ngoài động mà lòng không khỏi bồi hồi!
Trên đường về phải qua một cây cầu treo vỏn vẹn chỉ có hai sợi dây, một sợi dùng để đặt bàn chân lên bước đi và một sợi khác ngang tầm tay, để vịn cho khỏi ngã. Nhìn xuống bên dưới một con sông nước chảy xiết, nghĩ dại nếu vạn nhất sẩy chân thì mạng sống khó lòng an toàn.
Nhờ đã vào thu nên trời mát dịu. Ánh nắng vàng trải mình lên vạn vật. Dăm ba con công đang xòe đuôi đủ màu sắc ra múa lượn, như tuồng chúng muốn phô trương cái đẹp của mình trước những loài hoa dại ở ven rừng.
Nhờ khí trời mát dịu nên chúng tôi quên cả sự mệt mỏi, quên luôn cả nghỉ ngơi. Mãi đến khi sương mù từ khí đá núi xông lên tỏa ra khắp làm mờ mịt cả núi rừng mới giật mình bảo nhau đêm sắp về đến nơi rồi! Bóng hoàng hôn phủ khắp sơn khê và mặt nhật đã thật sự lặn xuống dưới chân đồi.
#15
Gửi vào 06/06/2011 - 22:06
CHƯƠNG BẢY
PHẦN HAI
Buổi lễ sáng vừa chấm dứt, chúng tôi đã ùn ùn tranh nhau chạy vào lớp. Bọn chúng tôi vừa chen lấn vừa nghịch ngợm hò reo ầm ĩ, tranh nhau choán chỗ trước để tránh các cây gậy của ông giáo giáng xuống đối với bất cứ chú tiểu nào chậm chân không vào lớp kịp giờ. Chẳng có ngày nào là không có vài ba chú bị thầy giáo giáng vào mông mấy cái cảnh cáo sự chậm trễ, mà theo tôi thì không đáng trừng phạt như vậy.
Tôi sực nhớ lại hôm nào đó, một nhà sư trẻ có việc đi ngang qua cửa lớp, nhằm lúc làn sóng của lũ học trò chúng tôi ào ào chạy vào lớp kéo theo luôn nhà sư trẻ đang đi lẫn lộn trong bọn chúng tôi giữa giờ vào lớp. Nhà sư trẻ này không thể cưỡng lại được nên tông mạnh vào ông nhà giáo, khiến ông ta ngã nhào xuống.
Thế là ông nhà giáo lóp ngóp đứng lên miệng thì la lên tru tréo, tay lại sẵn cây gậy, không chút nương tình giáng ngay vào chiếc đầu nhẵn của vị sư trẻ tuổi kia một gậy nên thân, đến nỗi u lên một cục to bằng quả trứng gà...Thế là sự việc này trở thành lớn chuyện.
Hai đàng cãi vã nhau to tiếng, khiến cho thiền viện phải can thiệp. Thế là ông giáo kia bị mang đi chấp cung còn nhà sư trẻ thì được đưa đến phòng thầy Minh Dà Đông Đạt dùng thuật thôi miên giúp cho ông ta khỏi bị vết thương nơi đầu hành hạ.
Vào lớp học chúng tôi bao giờ cũng phải ngồi thật nghiêm chỉnh trên chiếc chiếu hoa trải nơi sàn của lớp học. Chân chúng tôi xếp bằng tròn, đầu ngẩng cao và mắt nhìn thẳng lên tấm bảng đen trước mặt. Theo kỷ luật nhà trường ở đây, chúng tôi phải quay lưng về phía thầy giáo, mục đích là không cho đám học trò của chúng tôi nhìn thấy được sự kiểm soát của thầy giáo!
Trong lúc tôi đang ngồi nghe thầy giáo giảng giải bài học thì bất thần có chú tiểu bé nhỏ từ bên ngoài hối hả chạy vào. Chú ta đến trước mặt thầy giáo cúi đầu một cách thật cung kính rồi nói :
- Kính thưa thầy, Ngài Minh Dà Đông Đạt cho con đến.
Chú tiểu chưa nói hết lời đã bị ông giáo đưa tay chận lại:
- À, ta biết rồi. Có phải việc của Lỗ San không?
Rồi cũng không cần đợi chú tiểu này xác nhận, ông ta đã dõng dạc lên tiếng gọi tôi đứng lên và quay mặt về phía ngài:
- Lỗ San, ta rất vừa lòng có một đứa học trò như chú! Chú hãy theo chú tiểu này về gặp ngay Minh Sư nói với Ngài ta có lời thăm hỏi...
Sau đó tôi hối hả theo chú tiểu rời khỏi lớp rảo bước về khu của các Lạt Ma, nơi đó Minh Sư đang tạm thời trú ngụ! Khi ngang qua một căn nhà nhỏ nhìn thấy cửa đang mở và từ bên trong hương vị của mùi lạc rang thoang thoảng bay ra!
Chính mùi vị này quyến rũ tôi, đến độ đôi chân tôi không còn muốn nhấc lên được nữa. Giá mà có lấy vài hạt, vài hạt bé bỏng thôi cũng đủ thỏa mãn cho sự thèm thuồng của tôi trong lúc này.
Khẻ đưa mắt nhìn vào bên trong, trông thấy một vị sư già đang đăm dăm nhìn xuống dưới sàn như thể đang tìm vật gì, còn miệng thì lẩm bẩm nói tôi không thể nghe rõ, nhưng có điều tiếng nói lẩm bẩm đó của ông ta không phải là những lời cầu kinh!
Tôi bèn dừng chân lại, nghiêng tai lắng nghe. Tuy không biết là ông ta nói điều gì, song cũng tiến vào để ngỏ ý là mình sẵn sàng giúp đỡ việc gì cho ông ta nếu ông ấy cần. Nghĩ vậy tôi lên tiếng :
- Kính thưa Đại sư !
Tôi nhỏ nhẹ nói
- Tôi vốn là...
Nghĩ rằng thế nào nhà sư già này cũng sẽ vui vẻ nhờ mình giúp một tay trong việc làm gì đó, nhưng bất ngờ ông ta quay phắt người lại tỏ ra thái độ dữ dằn:
- Vốn là gì, mặc xác mày! Bá Ngọ! Chúng mày còn muốn cuỗm mấy chai lạc rang của ta nữa đây? Chúng mày mang trả lại cho ta, ta đã gửi nhờ người ta mua tận bên xứ sở Ấn Độ! Trả ngay lại cho ta.
- Thưa Lạt Ma oan cho con.
- Còn oan nữa hả! Chính mày thừa lúc tao tham thiền lẻn vào cuỗm mất của ông.
Bất thần bị làm dữ, tôi vội quay lưng bước vội trở ra lại bên ngoài, miệng lẩm bẩm: "Chỉ có mấy chai đậu phụng mà ăn nói hồ đồ như quỷ Dạ Xoa vậy!
Nhưng may mắn thay, không hiểu sao nhà sư già này buông ngay tay ra và hết lời xin lỗi là đã xúc phạm tôi:
- À, thì ra chú là Lỗ San. Ta thành thật xin lỗi chú. Quả thật bọn nào đó đánh cắp hai hũ lạc rang của già này, khiến già này lỡ hiểu lầm chú.
Tôi chưa kịp đáp lại lời nào thì bỗng thầy tôi xuất hiện cười nói:
- Chuyện chú bị hàm oan ăn cắp lạc rang không có thì thôi, bỏ qua đi. Hôm nay ta sẽ làm thỏa mãn lòng mong ước của chú.
Tôi ngạc nhiên ngẩng mặt lên nhìn Minh Sư rồi hỏi lại:
- Thưa Minh sư thỏa mãn điều gì, con chẳng hiểu tí nào.
- Thì chú đã bảo ta giảng giải điều này. Bộ chú quên rồi sao?
Nghe vậy tôi reo lên:
- Dạ, thưa Minh sư có Thôi miên thật thích thú.
Tôi theo Minh sư vào tận bên trong góc nhà của vị sư già, ngồi ngay xuống hai chiếc ghế bằng đá cẩm thạch, trên mặt chiếc bàn cùng một loại đá có khay trà pha sẵn cùng hai đĩa bánh Tsampa và luôn cả hũ lạc rang mà tôi ưa thích. Ăn uống xong, thầy tôi bắt đầu giảng giải:
- Như chú đã biết, mọi vật thể ở thế gian này thảy đều chuyển động. Nhờ sức chuyển động đó mà phát xuất ra từ nguồn điện lực. Thân thể con người chúng ta được cấu tạo bởi nhiều hóa chất dựng nên. Có những hóa chất đặc biệt do huyết quản đưa lên não bộ.
Các hóa chất Potassium, Maganese, Carbon cùng với một số hóa chất khác hợp thành màng óc. Phản ứng của các hóa chất làm cho các tế bào chuyển động, từ đó phát sinh ra điện năng.
Khi người ta nghĩ ngợi một điều gì tức là đã đặt ra một hành động dây chuyền tiếp nối với nhau mà kết quả là do điện năng phát sinh ra. Ta gọi đó là "luồng sáng của óc".
Tôi chăm chú nghe thật song vẫn chưa hiểu được thấu đáo nghĩa của nó. Vì vậy mà nhiều dấu hỏi hiện ra trong trí óc tôi. Điều làm tôi thắc mắc, là nếu điện lực có ngay trong óc thì tại sao ta không cảm thấy mình bị điện giật?
Rồi bất giác hình ảnh của một đứa bé chơi diều gặp cơn giông tố, cùng lúc với ánh lửa lóe lên rực sáng cả góc trời. Tiếp đến là một tiếng sét nổ vang rền đến đinh tai nhức óc.
Một vệt sáng xanh lè xẹt lại chạy theo sợi dây ướt từ trên thân diều dẫn thẳng xuống. Đột nhiên ngay lúc đó, thằng bé ngã lăn ngay trên mặt đất. Cả thân hình nó co rúm lại, mặt đen sì như mặt của một pho tượng bằng đồng đen. Toàn thể thân hình nó như một con cá rán.
- Thưa thầy! Tôi ngẳng đầu lên nhìn thẳng Minh Sư , đoạn lên tiếng hỏi. Làm thế nào mà điện lại ở trong óc ta được?
- Lỗ San, thế thì chú còn chưa hiểu gì về điện cả. Trữ lượng điện trong óc ta rất hiếm. Các loại máy móc tinh vi có thể đo được làn sóng điện trong óc khi ta đang suy nghĩ một việc gì.
Chiều nay, chúng ta sang Phổ Đà La, nơi đó Ngài Đạt Lai Đạt Ma sẽ cho phép ta sử dụng chiếc máy giải thích về điện năng, chú sẽ thấu đáo được dễ dàng hơn. Giờ thì chú hãy lo thu xếp hành trang. Đợi đêm đến, chúng ta bắt đầu lên đường thì vừa.
Vừa ra đến sân ngoài thì đã có sẵn hai chú tiểu dắt sẵn ngựa đợi hai thầy trò chúng tôi từ bao giờ. Thầy tôi ung dung leo lên lưng ngựa, còn tôi thì được một chú tiểu giúp việc này.
Tôi vừa ngồi ngay ngắn thì bỗng nghe có tiếng vỗ mạnh nơi mông con ngựa từ tay chú tiểu vang lên, tức thì chú ngựa kim nhảy lồng lên, khiến tôi chao đảo, mặc dù đã đề phòng trước ghìm chặt lấy dây cương kéo sát vào người.
Hai chân trước nó giương cao lên co lại, còn đầu thì chúi xuống, hai chân sau đá bọc hậu sau khi hai chân trước của nó vừa đặt xuống trên mặt đất.
Tiếp ngay sau đó lưng của chú ngựa kim này gô lại, đầu lắc mạnh và nhảy chồm lên khiến tôi bị tụt xuống ngay cổ nó không còn bám víu vào đâu được nữa, và cuối cùng con ngựa quái ác này dùng cổ hất mạnh một cái khiến tôi rơi xuống nằm sóng soài trên mặt đất.
Một vài tiếng cười khúc khích từ đám chú tiểu đứng ở hiên chùa vọng lại tỏ vẻ nhạo báng:
- Trông mặt mày sáng sủa thế mà...ngu!
Tôi chẳng thèm lưu ý làm gì cái lũ tiểu thứ ba này, lồm cồm ngồi dậy, trong lúc đó thì chú tiểu giúp tôi leo lưng ngựa tát một cái tát nên thân vào mặt con ngựa giở chứng này:
- Chú có làm sao không? Minh Sư mỉm cười nhỏ nhẹ hỏi.
Tôi lắc đầu có vẻ e thẹn trả lời:
- Thưa Minh Sư, không sao cả ạ!
Giúp tôi trèo lên lưng ngựa lần này trông chú có vẻ ưu tư hơn. Lần này chú dặn tôi đủ điều trước khi đi rồi bồi thêm một cú tát tai nữa đoạn lên tiếng cảnh cáo nó:
- Mày không được vô lễ.
Rồi cũng như lần trước, chú tiểu vỗ vào mông nó, nhưng nhẹ nhàng hơn. Con ngựa lần này thật ngoan ngoãn, nó từ từ bước đi theo sau con tuấn mã của thầy tôi đang cưỡi. Quả con ngựa kim tôi đang cưỡi thuộc loại khá tinh quái, biết "coi mặt đặt tên".
Nó thừa rõ trước cử chỉ lúng túng của tôi ngay từ lúc đầu leo lên lưng nó nên xem thường cho rằng tôi chẳng phải xứng đáng nắm cương chỉ huy nó.
Trên đường đi con ngựa luôn luôn dọa dẫm tôi bằng cách lao thẳng mình đến những nơi nguy hiểm, không chịu tuân theo lệnh đi nước kiệu của tôi.
Nhất là khi đến các bờ vực, chú ngựa này dừng lại ngẩng cao đầu lên hí vang, đoạn cúi xuống khiến tôi trụt thẳng lên ngay đầu nó, còn nó thì dùng hai vó sau đá lên túi bụi.
Hành động này khiến tôi hoảng hốt phải nằm rạp mình xuống ôm ghì lấy cổ nó để khỏi bị rơi xuống dưới miệng hố sâu thăm thẳm cạnh đó.
Những lúc như vậy tôi có cảm tưởng là nó đang hét vào tai tôi rằng: "Mày liệu hồn mà giữ lấy thân, nếu không tao sẽ cho chú mày xuống cái hố kia để bầy rắn độc bên dưới đó xâu xé cho tan xác đó nha!".
Trải qua nhiều lần như vậy, riết rồi, tôi cũng thừa kinh nghiệm để chống lại trò chơi khăm của con ngựa chứng này. Cứ mỗi lần sắp qua mấy bờ vực cao tôi lại ghìm chặt cương lại, rồi leo xuống nắm chặt lấy dây cương lôi đi, bắt buộc nó phải theo chân tôi, thỉnh thoảng lại còn dùng roi da phang vào mông nó.
Nhờ vậy nó bắt đầu khép mình tuân phục mệnh lệnh của tôi, nhưng dù sao thì tôi cũng đề phòng khi nhác thấy sắp đi đến những chỗ có những hố sâu nào đó. Thà chịu cực một chút mà an toàn hơn để nó thừa cơ trả đũa.
Lên ghềnh xuống thác mãi cho đến lúc mặt trời ngả bóng, chúng tôi đã xuống đến chân núi Thiết Lĩnh. Và, từ đó vào thẳng làng So mới dừng lại tạm nghỉ.
Tại đây, tôi được xem là một thượng khách đặc biệt như Minh Sư Minh Dà Đông Đạt, được hưởng chế độ ăn uống chẳng khác nào của thầy tôi. Bữa ăn tối của tôi cũng có trà thơm xứ Ấn, có bánh Tsampa cùng lạc rang Calcutta thơm phưng phức.
Thơ thẩn một mình trên sân thượng, vọng mắt nhìn xuống bên dưới ngắm cảnh rộn rịp của thành Lạt Sa. Phong cảnh nơi này quả thật danh bất hư truyền.
Các hàng dương liễu tươi xanh mọc quanh bờ hồ, phản chiếu trên mặt nước phẳng lì như tấm kiếng, trông chẳng khác nào như một bức tranh mạc họa được người họa sĩ tài hoa vẽ lại cảnh chiều hôm nơi ngôi chùa có một lịch sử kiêu hùng của xứ sở Tây Tạng này.
Dưới đêm trăng thanh gió mát, dòng sông Du Khang gợn lên những lượn sóng nhỏ nối đuôi nhau nhấp nhô như những con rắn bạc. Từng đoàn người lũ lượt đi lại dưới chân núi Cẩm Sơn. Cuộc hành hương của họ nhằm mục đích được chiêm ngưỡng tận mắt Đức Đạt Lai Lạt Ma mà họ hiếm hoi được trông thấy dung nhan Ngài.
Có lần trong lần giảng giải Minh Sư Minh Dà Đông Đạt có đề cập đến danh tước Dalai Lama xuất hiện từ đời nhà Minh (1368-1644) . Trong thời kỳ này mới thành lập một tông phái Phật Giáo mới lấy tên Gelugpa thường gọi Yellow Sect tức Hoàng tông. Sở dĩ có tên gọi là Hoàng tông vì các nhà sư của tông phái này mặc áo mão toàn màu vàng.
Và không bao lâu sau đó người lãnh đạo tông phái áo vàng được triều đình nhà Minh cho mang danh tước Đạt Lai Lạt Ma. Tưởng cũng nên biết xứ sở Tây Tạng hình thành vào khoảng năm 127 Tr.CN. Bộ lạc Tubo lên nắm quyền sau khi toàn thắng trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ giữa các bộ lạc của vùng đất có dãy Hy Mã Lạp Sơn này. Tôn giáo chính của của bộ lạc Tubo là đạo Bon, một tôn giáo nặng về phần thần linh và pháp thuật.
Xứ sở Tây Tạng bị xé ra từng mảnh nhỏ cho mãi đến thế kỷ thứ 7 sau CN dưới thời đại của Hoàng Đế Songtsan Gambo mới thống nhất được. Đây là thời kỳ huy hoàng nhất của người Tây Tạng, như Hoàng đế Gambo được nhà vua Trung Hoa gả công chúa Wencheng và cũng cùng thời gian này vua xứ Nepal gả công chúa Khridzun, nàng công chúa sắc nước hương trời, dưới thế gian này khó lòng có ai sánh tày được.
Hai nàng công chúa khi về đến Tây Tạng mang theo đạo Phật, tuy lúc đầu đạo Phật không mấy ảnh hưởng trong quần chúng, nhưng đến đời cháu của Gambo là Tride Zhotsan Phật giáo mới thật sự phát triển mạnh tại xứ sở này.
Tôi đề cập đến nhiều về danh tước Đại Lai Lạt Ma, được Minh Sư cho biết kể từ thế kỷ thứ 17 vai trò của các vị Lat Ma mới thật sự được xem là quan trọng. Sở dĩ có điều này vì các triều đình Trung Quốc hoàn toàn giao cho họ quyền cai trị cả hai phương diện tinh thần lẫn chính trị.
Danh từ Dala Lama gồm hai từ Dalai là tiếng Mông Cổ, nó có nghĩa là đại dương. Còn Lama là tiếng của xứ sở Tây Tạng có nghĩa là đại sư. Đạt Lai Lạt Ma là vị giáo chủ của Phật giáo Tây Tạng lãnh đạo Lạt Ma Giáo Lamaism.
Giáo phái này phối hợp với triết thuyết về giáo lý Đại Thừa của Mật Tông kể cả Mông Cổ nữa. Các vị Lạt Ma uyên thâm nổi tiếng được Lạt Ma Giáo phong cho tước hiệu Rinpoche, nó có nghĩa là phi thường và quí báu.
Tôi cũng không khỏi ngạc nhiên khi nghe Minh Sư giảng giải về các tu viện Phật giáo hiện nay gồm có nhiều vị Tulku, nó có nghĩa là Phật Hóa Thân, Phật Tái Sinh cũng còn gọi là Vị Phật Sống. Tại Tây Tạng hiện giờ có đến những 500 vị Tulku của Quan Thế Âm Bồ Tát.
Đặc biệt "Đệ Ngũ Đại Nhân" được vua nhà Thanh lúc bấy giờ thừa nhận chẳng khác nào quốc vương thế tục của Tây Tạng. Vị Đệ Ngũ Đại Nhân này đăng quang với danh hiệu Đạt Lai Lạt Ma.
- Và tôi nói giả dụ thôi như chú đó, sau này khi buông tay nhắm mắt thì phải hóa thân để thừa kế bản thân mình. Đây không phải là một chuyện giản dị, mà nó đòi hỏi có cuộc họp của một hội đồng tu sĩ để đoán xem vị Đạt Lai Đạt Ma vừa qua đời đó muốn để lại những chỉ dẫn gì?
Sau khi đã đoán biết được những lời chỉ dẫn rồi thì hội đồng dựa vào những phán truyền mà đi tìm những đứa trẻ có những dấu hiệu đặc biệt khác thường đưa ra tuyển chọn.
Đứa trẻ được tuyển chọn phải mang đi ngay tách hẳn sự liên hệ với cha mẹ và được các tu sĩ nuôi nấng dạy dỗ hầu đưa lên địa vị của Đức Đạt Lai Lạt Ma thay cho người tiền nhiệm vừa qua đời.
Từ trên sân thượng nhìn xuống bên dưới, tôi nhận thấy trong đám khách hành hương có cả những kẻ bán hàng rong, họ nối đuôi nhau rao hàng. Giọng họ rỗng rảng vang vọng lên, đến nỗi tại ngay sân thượng tôi còn có thể nghe thấy rõ ràng được.
Các thương khách dắt lừa, ngựa hoặc cả lạc đà, trên lưng được chất cả hàng hóa cao nghệu lắc lư đi vòng theo con lộ Bát Ngộ Khả Linh.
Chúng tôi ở lại nơi đây đã mấy ngày liên tiếp, tôi chẳng phải làm một công việc gì, duy chỉ có thầy tôi thì trông có vẻ bận vùi đầu. Ngài bận việc gì chẳng biết, nhưng tôi thì hoàn toàn rảnh rỗi. May mắn thay! Đây là điều bấy lâu nay vẫn hằng mong được có những quãng thời gian như vậy.
Tôi đang mê mải dõi mắt theo cảnh ngựa xe như nước bên dưới, thì bỗng có tiếng chân đi thật nhẹ nhàng tiến lại về phía tôi đang đứng. Lúc quay đầu lại thì ra, đó là thầy tôi vừa tươi cười vừa lên tiếng hỏi han tôi:
- Chú đang thoải mái lắm phải không? Liên tiếp mấy ngày hôm nay vì bận họp bàn các việc tối quan trọng nên không được chuyện trò cùng chú. Giờ thì đâu đó đã xong xuôi. Chúng ta đi uống trà rồi tiếp tục thảo luận bất cứ đề tài gì chú muốn.
Chúng tôi quay gót trở về phòng đã trông thấy ngay một mâm cỗ toàn bánh Tsampa cùng trái cây tươi. Các thức ăn này hoàn toàn khác hơn các thức ăn từ trước tôi thường được dùng đến.
Trà và bánh ở đây được nhập cảng từ Ấn Độ. Đây đúng là một bữa ăn thật ngon lành đối với tôi. Từ trước đến giờ tôi chưa được thưởng thức các món ăn lạ miệng và thơm ngon như thế này.
Ăn uống xong, chúng tôi đến xem các phòng chứa các máy móc mà Ngài Đạt Lai Lạt Ma đã mang từ các quốc gia xa xôi về. Tôi được Minh Sư giảng giải cùng chỉ vẽ cách sử dụng các máy móc mà lâu nay tôi chưa hề được nhìn thấy. Một lát sau, thầy tôi bắt đầu quay lại nhìn tôi bảo:
- Lỗ San! Chú hãy nhìn đây!
Tôi liền phóng mắt nhìn theo tay Minh sư chỉ đến. Đó là một bình thủy tinh, bên trong có hai sợi chỉ nhỏ màu xám đen. Mỗi đầu sợi có một hạt nhỏ như tấm trông như cái bấc ở thân cây liễu.
- Chú nhận thấy đó có phải cây bấc không?
Chắc chắn là chú nghĩ vậy. Khi chú nghĩ đến điện là chú đã liên tưởng ngay đến cái gì làm cho chú bị giật cả người lên. Và, có một thứ ta có thể giải thích bằng hành động, vậy chú hãy nhìn đây, đừng có phân tâm điều mà ta đã một lần giảng giải cho chú về dòng "tĩnh điện" này.
Thầy tôi đưa tay lấy cây gậy đen được đánh bóng để trên mặt bàn trước mặt. Đúng hơn thì cây gậy này chỉ là một cái côn có chiều dài độ ba hay bốn tấc rưỡi cỡ đó. Ngài cầm cây côn này chà xát thật mạnh vào cái áo đang mặc trong người, mãi một lúc lâu có thể là mười hay mười lăm phút, rồi áp sát cây côn đen này vào bình thủy tinh.
Lạ lùng thay, tôi thú thật, không khỏi sửng sốt nhìn hai cục bấc tròn nhỏ bên trong bình dần dần tách xa nhau ra. Và cứ thế tách xa mãi cho đến khi không còn có thể tách thêm ra được nữa.
Thầy tôi gật gù nói:
- Cứ trông vào đó đi! Chú đã trông thấy những gì đã xảy ra chưa?
Tôi im lặng, chăm chú mắt nhìn. Và, chỉ trong vòng vài ba phút sau hai cục bấc đã tách ra đó lại từ từ khép lại, cuối cùng trở về vị trí cũ của nó.
- Hãy thử thực hành đi! Thầy tôi vừa trao cây côn vừa bảo tôi.
Tôi ngần ngại không dám đưa tay tiếp lấy cây côn từ tay thầy tôi đang trao cho. Nhìn thấy tôi có vẻ e sợ, Minh Sư cười rộ lên:
- Cứ thử xem! Ta chưa bao giờ đùa với chú. Đừng nghi ngờ gì cả.
Vừa nói, Người vừa dúi cây côn vào tận tay tôi. Dù muốn hay không tôi vẫn nhận lấy cây côn này và cũng như cách thầy tôi đã làm là xát mạnh vào chiếc áo vải của tôi đang vận trong người, xong áp chiếc côn đang nóng bỏng này vào chiếc bình thủy tinh mà lúc bấy giờ tôi cho là mầu nhiệm.
Quả nhiên như thầy tôi đã làm, hai cục bấc tròn trong bình thủy tinh lại từ từ giãn xa ra chẳng khác nào như thầy tôi đã làm trước đó,
- Lỗ San, như chú thấy, đó là điện lực. Nhưng chú có cảm thấy nó có giật không?
Tôi lắc đầu. Thầy tôi nói tiếp:
- Điện ở ngay trong óc con người chúng ta cũng thế đó.
Nói đến đây Minh Sư ra lệnh tôi hãy cùng Người đến một cái bàn kế bên, nơi đó có đặt một loại dụng cụ khác hơn. Loại dụng cụ này trông hệt như cái bánh xe bề mặt có nhiều mảnh kim khí. Đặc biệt có hai thỏi kim khí gắn vào đầu nhiều sợi dây thép nhỏ tua tủa chĩa ra.
Mỗi đầu dây hơi chạm vào hai miếng kim khí. Trên đầu thỏi có dây nối liền với hai hình tròn cùng một loại. Tôi có ý nghĩ đó là một loại dụng cụ dùng làm trò ma thuật để lừa bịp mọi người.
Hành động kế tiếp của Minh sư là người nắm lấy cái tay quay nơi đàng sau của chiếc bánh xe đoạn quay thật mạnh, tức thì bánh xe quay với tốc độ thật nhanh phát ra những tiếng hú inh ỏi đến nỗi tôi cảm thấy hai tai nhức nhối không thể nào chịu nổi.
Từ trong cái bánh xe đang vùn vụt quay này bắn ra nhiều tia lửa lóe chớp liên hồi tung ra bốn phía.
Lạ lùng hơn nơi hai cái bầu tròn kim khí bất chợt lóe lên một luồng điện dài hệt như cái lưỡi của một con mãng xà đỏ choét. Một mùi khét lẹt từ trong máy phát ra làm tôi có cảm tưởng có cái gì đó bị bốc cháy quanh đâu đó.
Trông thấy vẻ sợ hãi của tôi, Minh Sư cười bảo:
- Lỗ San! Đây là cái máy cổ lỗ được cất nơi đây, ít người được đưa đến để chiêm ngưỡng. Chú là một trong hàng Đạt Lai Lạt Ma đặc biệt được ta mang đến để chú quan sát hầu tránh phải bỡ ngỡ khi được nhìn thấy nó trong một tương lai không xa lắm. Hiện nay khắp các quốc gia trên thế giới có quá nhiều loại máy uyn sược (Winshurst) này dùng dễ giảng dạy về điện năng.
Ngừng& nbsp;lại nơi đây, Minh Sư nắm lấy hai sợi dây trong máy và bảo tôi đến giúp cầm cái tay quay, quay thật mạnh để Người thử nghiệm cho tôi xem:
- Cứ quay mạnh hơn nữa đi. Càng mạnh, càng nhanh, càng tốt. Đừng sợ hãi gì cả. Chẳng có gì làm cho ta đau đớn đâu!
Vừa nói người vừa nắm mỗi tay một sợi dây ra hiệu cho tăng thêm tốc độ. Thật không có gì làm cho tôi ngạc nhiên bằng. Ánh sáng màu tím chỗ đậm, chỗ nhạt chạy ngang qua mặt và tay thầy tôi mà người chẳng bị hề hấn gì. Tôi hơi nhíu mày khi nghe thấy có mùi khét tỏa ra cả gian phòng này.
- Đó là mùi Ozone, chẳng có gì hại cả.
Để ; cho tinh thần tôi khỏi bị căng thẳng trước khi Minh Sư giảng giải những dụng cụ máy móc lạ lùng khác, Người đưa tôi đến một bể nước bên trong phòng kế cận. Bể nước này có chiều dài hơn ba thước và chiều ngang hai thước.
- Lỗ San, chú nhìn thấy những gì bên trong bể nước này?
- Kim Tự Tháp thưa Minh sư!
- Đúng. Đó là những Kim Tự Tháp nhỏ trông hệt như những Kim Tự Tháp ở Ai Cập. Nhưng vị tất chỉ có ở Ai Cập mới có các ngôi Kim Tự Tháp mà khắp năm châu bốn bể cũng có những công trình kỳ diệu như vậy. Ngay tại Tây Tạng này cũng có những ngôi Kim Tự Tháp thu nhỏ lại nằm bên trong lòng Hy Mã Lạp Sơn.
Tiếc thay ta không có đủ thì giờ để đưa chú đến chiêm ngưỡng. Như ta đã từng giảng giải cho chú nghe, là cuộc đời luôn luôn biến ảo, nay là biển xanh mà ngày mai đã thành ruộng dâu rồi thánh nhân thường bảo "như tang điền thương hải"
Cuộc đời này chẳng có gì gọi là tuyệt đối cả. Nay vầy mai khác. Có những cái mà xưa nay ta đinh ninh là cổ kính nhất, nhưng rồi, lại có những cái cổ kính khác xuất hiện tiếp theo. Như các hình ảnh trong bể nước đang ở ngay trước mắt đó, các công trình cùng dạng với các Kim Tự Tháp Ai Cập mà lâu nay được mọi người cho rằng đó là công trình cổ xưa nhất vị tất đã đúng như vậy.
(Theo các nhà khảo cổ gần đây đã tìm thấy trên thềm lục địa Bắc Mỹ những công trình được xây dựng từ thời Băng Hà cuối cùng có đến 12.000 năm về trước. Đó là điều đáng cho ta chú ý là chúng ta vẫn còn chưa hay biết về một nền văn minh lâu đời có được mức độ tổ chức cao độ đến như vậy.
Hồ Rock tại tiểu bang Wisconsin ở Hoa Kỳ, khoảng 35 cây số về phía Đông, có chiều dài đến 8 cây số ngàn và chiều rộng khoảng 4 cây số. Vào năm 1836 người ta tìm thấy một kim tự tháp y hệt hình dạng của kim tự tháp của xứ sở Ai Cập bằng đá nhỏ có phần đỉnh dẹt và đặt tên là Aztalan.
Ông Natanial Heyer đã tình cờ phát hiện được và tức thời được các nhà khảo cổ nghiên cứu đưa ra giả thuyết nó được xây dựng có đến hơn nghìn năm. Trước đó, thổ dân của lục địa này cũng đã cho xây nhiều kim tự tháp dùng để thờ cúng các bậc tiên linh hay thần thánh.
Vào năm 1862 trên một số tạp chí nêu ra vấn đề các kim tự tháp này, cho rằng kim tự tháp tại hồ Rock thì Aztalan còn ra đời sớm hơn bất kỳ kim tự tháp nào trên thế giới. Có nghĩa là kim tự tháp Ai Cập vẫn là hậu sinh đối với kim tự tháp ở thềm lục địa Bắc Mỹ. Vấn đề này đã làm dư luận lúc bấy giờ xôn xao không ít.
Và cũng từ đây người ta mới nêu ra những điều thắc mắc là nếu như kim tự tháp này đã từng được người da đỏ dựng nên thì cớ làm sao nó lại nằm ở dưới đáy một hồ nước lớn vốn đã có từ hơn 1000 năm về trước?
Cũng từ các cuộc tranh luận đó người ta đều cùng một quan điểm những kim tự tháp tại hồ Rock đã được những bộ lạc da đỏ đầu tiên tại xứ sở Bắc Mỹ này xây cất từ lâu rồi!
Sự phát hiện những điều bí mật dưới đáy hồ Rock, tọa lạc tại Madison City, thuộc tiểu bang Wisconsin, Hoa Kỳ đã làm cho các các nhà khảo cổ phải sửng sốt! Mùa Xuân năm 1936, ông Victor S.Taylor, tuyên bố mình đã phát hiện có đến bốn Kim Tự Tháp được xây cất dưới đáy hồ, mà các nhà khảo cổ nghi ngờ kỳ công này của người Aztec.
Nguồn tin đặc biệt này đến tai một nhà xuất bản sách chuyên hướng dẫn du lịch nước Mỹ do tiến sĩ Sonders làm giám đốc quan tâm đến, và ngay sau đó ông đã tổ chức nhiều chuyến khảo sát những công trình cổ xưa đầy bí ẩn này.
Ông tính toán tỉ mỉ về khả năng có thể tìm thấy tại các ngôi kim tự tháp dưới đáy hồ sâu này những dòng chữ nào đó giúp ông xác định được nguồn gốc và thời gian xây dựng của các kim tự tháp này.
Tiếp theo đó là lời tuyên bố vừa khám phá ra được các kim tự tháp của ông Taylor tỏ ra nghi ngờ về các kim tự tháp cho là do người Aztec xây cất lên hoàn toàn không đúng.
Theo ông Taylor thì người Aztec thời cổ đại sống tại Mễ Tây Cơ, mà xứ sở này nằm khá xa so với tiểu bang Wisconsin của Mỹ.
Mặc&nb sp;dù nghe những dư luận như vậy,tiến sĩ Sonders vẫn cho quảng bá để mọi người được biết là mình sẽ thực hiện chuyến thám hiểm dưới đáy hồ Rock này. Nhưng dù ông Sonders quảng cáo ầm ĩ về chuyến thám hiểm đi tìm kim tự tháp dưới đáy hồ Rock đến đâu đi nữa cũng chẳng ai tài trợ kinh phí cho ông để thực hiện kế hoạch do chính ông tự vạch ra.
Cho mãi đến một thời gian sau, nhà Địa Chất Học, giáo sư F.Been cùng với tiến sĩ lịch sử Charles F. Braun, nhân vào dịp thời tiết thích hợp đã tìm cách khảo sát những bí ẩn đang bị chôn vùi dưới lòng sâu của hồ Rock. Họ cùng nhau cặm cụi quyết tâm khám phá, nhưng vì hồ nước quá sâu họ không thể xuống tận dưới đáy lòng hồ này được!
M̕ 7;t chuyên gia từng giữ kỷ lục về tài nghệ lặn sâu, ông Mark Jean Noul cũng quan tâm không ít về những bí ẩn tại hồ Rock này. Ông đã ngồi trên chiếc thuyền nhỏ kéo theo một sợi dây cáp có buộc một thỏi kim loại nặng và chính nhờ thỏi kim loại này đụng nhằm vật thể ở bên dưới đáy hồ cho ông biết đó là sự thật. Thế là, ông tự lặn xuống nhiều lần để xem các vật thể đó là gì.
Khi ông vừa trồi lên khỏi mặt nước tuyên bố ngay rằng, vật thể ông nhìn thấy đó là một kim tự tháp. Trong cuốn nhật ký, ông Noul đã mô tả Công trình có hình dạng kim tự tháp cụt. Có nghĩa là phần trên của nó là một bình diện hình vuông có cạnh lối 1,4m.
Còn phần đế của nó có cạnh dài 5.43m X 8.83. Ngôi kim tự tháp này được xây cất từ những hòn đá phẳng, kết lại bằng một chất kết dính nào đó. Đặc biệt, đá xây ngôi kim tự tháp dưới đáy hồ đước bao phủ bởi một lớp dày màu xanh (liệu có phải là rêu chăng?), muốn cạo sạch không khó khăn gì lắm để được nhìn thấy màu xám ở mặt bên trong của nó.
Ngày 30-7-1967, một nhóm người gồm có bảy thợ lặn nổi tiếng do Lambard, một chuyên gia nghề lặn, đứng đầu, tổ chức chuyến khảo sát mới tại hồ Rock. Vốn là một tay lặn thiện nghệ đầy kinh nghiệm, lại có tài lặn sâu nhất của nhóm, xuống tận ngôi kim tự tháp để quan sát lối cấu trúc như thế nào để xét nghiệm làm sao "những ai đó" đã thực hiện được!
Nhưng trước mắt ông vẫn chưa nhìn thấy gì, cho đến khi phát giác ra được bề mặt có diện tích khoảng 6cm x 12cm và nhô lên khỏi đáy hồ chừng 1.5m thì số oxy dự trữ trong bình mang theo của ông đã cạn. Tuy nhiên trước khi vội vã nhô lên khỏi mặt nước, ông Lambard đã lấy được một số mẫu đá theo để khảo nghiệm.
Tuy nhiên, có điều khi được các nhà khảo cổ hỏi ông có gì chứng minh được đó chính là những mẫu đá lấy được từ các ngôi kim tự tháp dưới đáy hồ sâu đó, thì ông ta chẳng biết phải giải thích thế nào làm cho người ta có thể tin là thực. Do đó mà ông Lambard mang tiếng là kẻ lừa đảo.
Nhiều luận cứ trái ngược nhau về kim tự tháp dưới đáy hồ Rock. Có nhiều chuyên gia của nghề lặn bảo rằng họ đã lặn xuống tìm kỹ song chẳng trông thấy gì cả, tuy nhiên cũng không ít người thợ lặn chuyên nghiệp lại
PHẦN HAI
Buổi lễ sáng vừa chấm dứt, chúng tôi đã ùn ùn tranh nhau chạy vào lớp. Bọn chúng tôi vừa chen lấn vừa nghịch ngợm hò reo ầm ĩ, tranh nhau choán chỗ trước để tránh các cây gậy của ông giáo giáng xuống đối với bất cứ chú tiểu nào chậm chân không vào lớp kịp giờ. Chẳng có ngày nào là không có vài ba chú bị thầy giáo giáng vào mông mấy cái cảnh cáo sự chậm trễ, mà theo tôi thì không đáng trừng phạt như vậy.
Tôi sực nhớ lại hôm nào đó, một nhà sư trẻ có việc đi ngang qua cửa lớp, nhằm lúc làn sóng của lũ học trò chúng tôi ào ào chạy vào lớp kéo theo luôn nhà sư trẻ đang đi lẫn lộn trong bọn chúng tôi giữa giờ vào lớp. Nhà sư trẻ này không thể cưỡng lại được nên tông mạnh vào ông nhà giáo, khiến ông ta ngã nhào xuống.
Thế là ông nhà giáo lóp ngóp đứng lên miệng thì la lên tru tréo, tay lại sẵn cây gậy, không chút nương tình giáng ngay vào chiếc đầu nhẵn của vị sư trẻ tuổi kia một gậy nên thân, đến nỗi u lên một cục to bằng quả trứng gà...Thế là sự việc này trở thành lớn chuyện.
Hai đàng cãi vã nhau to tiếng, khiến cho thiền viện phải can thiệp. Thế là ông giáo kia bị mang đi chấp cung còn nhà sư trẻ thì được đưa đến phòng thầy Minh Dà Đông Đạt dùng thuật thôi miên giúp cho ông ta khỏi bị vết thương nơi đầu hành hạ.
Vào lớp học chúng tôi bao giờ cũng phải ngồi thật nghiêm chỉnh trên chiếc chiếu hoa trải nơi sàn của lớp học. Chân chúng tôi xếp bằng tròn, đầu ngẩng cao và mắt nhìn thẳng lên tấm bảng đen trước mặt. Theo kỷ luật nhà trường ở đây, chúng tôi phải quay lưng về phía thầy giáo, mục đích là không cho đám học trò của chúng tôi nhìn thấy được sự kiểm soát của thầy giáo!
Trong lúc tôi đang ngồi nghe thầy giáo giảng giải bài học thì bất thần có chú tiểu bé nhỏ từ bên ngoài hối hả chạy vào. Chú ta đến trước mặt thầy giáo cúi đầu một cách thật cung kính rồi nói :
- Kính thưa thầy, Ngài Minh Dà Đông Đạt cho con đến.
Chú tiểu chưa nói hết lời đã bị ông giáo đưa tay chận lại:
- À, ta biết rồi. Có phải việc của Lỗ San không?
Rồi cũng không cần đợi chú tiểu này xác nhận, ông ta đã dõng dạc lên tiếng gọi tôi đứng lên và quay mặt về phía ngài:
- Lỗ San, ta rất vừa lòng có một đứa học trò như chú! Chú hãy theo chú tiểu này về gặp ngay Minh Sư nói với Ngài ta có lời thăm hỏi...
Sau đó tôi hối hả theo chú tiểu rời khỏi lớp rảo bước về khu của các Lạt Ma, nơi đó Minh Sư đang tạm thời trú ngụ! Khi ngang qua một căn nhà nhỏ nhìn thấy cửa đang mở và từ bên trong hương vị của mùi lạc rang thoang thoảng bay ra!
Chính mùi vị này quyến rũ tôi, đến độ đôi chân tôi không còn muốn nhấc lên được nữa. Giá mà có lấy vài hạt, vài hạt bé bỏng thôi cũng đủ thỏa mãn cho sự thèm thuồng của tôi trong lúc này.
Khẻ đưa mắt nhìn vào bên trong, trông thấy một vị sư già đang đăm dăm nhìn xuống dưới sàn như thể đang tìm vật gì, còn miệng thì lẩm bẩm nói tôi không thể nghe rõ, nhưng có điều tiếng nói lẩm bẩm đó của ông ta không phải là những lời cầu kinh!
Tôi bèn dừng chân lại, nghiêng tai lắng nghe. Tuy không biết là ông ta nói điều gì, song cũng tiến vào để ngỏ ý là mình sẵn sàng giúp đỡ việc gì cho ông ta nếu ông ấy cần. Nghĩ vậy tôi lên tiếng :
- Kính thưa Đại sư !
Tôi nhỏ nhẹ nói
- Tôi vốn là...
Nghĩ rằng thế nào nhà sư già này cũng sẽ vui vẻ nhờ mình giúp một tay trong việc làm gì đó, nhưng bất ngờ ông ta quay phắt người lại tỏ ra thái độ dữ dằn:
- Vốn là gì, mặc xác mày! Bá Ngọ! Chúng mày còn muốn cuỗm mấy chai lạc rang của ta nữa đây? Chúng mày mang trả lại cho ta, ta đã gửi nhờ người ta mua tận bên xứ sở Ấn Độ! Trả ngay lại cho ta.
- Thưa Lạt Ma oan cho con.
- Còn oan nữa hả! Chính mày thừa lúc tao tham thiền lẻn vào cuỗm mất của ông.
Bất thần bị làm dữ, tôi vội quay lưng bước vội trở ra lại bên ngoài, miệng lẩm bẩm: "Chỉ có mấy chai đậu phụng mà ăn nói hồ đồ như quỷ Dạ Xoa vậy!
Nhưng may mắn thay, không hiểu sao nhà sư già này buông ngay tay ra và hết lời xin lỗi là đã xúc phạm tôi:
- À, thì ra chú là Lỗ San. Ta thành thật xin lỗi chú. Quả thật bọn nào đó đánh cắp hai hũ lạc rang của già này, khiến già này lỡ hiểu lầm chú.
Tôi chưa kịp đáp lại lời nào thì bỗng thầy tôi xuất hiện cười nói:
- Chuyện chú bị hàm oan ăn cắp lạc rang không có thì thôi, bỏ qua đi. Hôm nay ta sẽ làm thỏa mãn lòng mong ước của chú.
Tôi ngạc nhiên ngẩng mặt lên nhìn Minh Sư rồi hỏi lại:
- Thưa Minh sư thỏa mãn điều gì, con chẳng hiểu tí nào.
- Thì chú đã bảo ta giảng giải điều này. Bộ chú quên rồi sao?
Nghe vậy tôi reo lên:
- Dạ, thưa Minh sư có Thôi miên thật thích thú.
Tôi theo Minh sư vào tận bên trong góc nhà của vị sư già, ngồi ngay xuống hai chiếc ghế bằng đá cẩm thạch, trên mặt chiếc bàn cùng một loại đá có khay trà pha sẵn cùng hai đĩa bánh Tsampa và luôn cả hũ lạc rang mà tôi ưa thích. Ăn uống xong, thầy tôi bắt đầu giảng giải:
- Như chú đã biết, mọi vật thể ở thế gian này thảy đều chuyển động. Nhờ sức chuyển động đó mà phát xuất ra từ nguồn điện lực. Thân thể con người chúng ta được cấu tạo bởi nhiều hóa chất dựng nên. Có những hóa chất đặc biệt do huyết quản đưa lên não bộ.
Các hóa chất Potassium, Maganese, Carbon cùng với một số hóa chất khác hợp thành màng óc. Phản ứng của các hóa chất làm cho các tế bào chuyển động, từ đó phát sinh ra điện năng.
Khi người ta nghĩ ngợi một điều gì tức là đã đặt ra một hành động dây chuyền tiếp nối với nhau mà kết quả là do điện năng phát sinh ra. Ta gọi đó là "luồng sáng của óc".
Tôi chăm chú nghe thật song vẫn chưa hiểu được thấu đáo nghĩa của nó. Vì vậy mà nhiều dấu hỏi hiện ra trong trí óc tôi. Điều làm tôi thắc mắc, là nếu điện lực có ngay trong óc thì tại sao ta không cảm thấy mình bị điện giật?
Rồi bất giác hình ảnh của một đứa bé chơi diều gặp cơn giông tố, cùng lúc với ánh lửa lóe lên rực sáng cả góc trời. Tiếp đến là một tiếng sét nổ vang rền đến đinh tai nhức óc.
Một vệt sáng xanh lè xẹt lại chạy theo sợi dây ướt từ trên thân diều dẫn thẳng xuống. Đột nhiên ngay lúc đó, thằng bé ngã lăn ngay trên mặt đất. Cả thân hình nó co rúm lại, mặt đen sì như mặt của một pho tượng bằng đồng đen. Toàn thể thân hình nó như một con cá rán.
- Thưa thầy! Tôi ngẳng đầu lên nhìn thẳng Minh Sư , đoạn lên tiếng hỏi. Làm thế nào mà điện lại ở trong óc ta được?
- Lỗ San, thế thì chú còn chưa hiểu gì về điện cả. Trữ lượng điện trong óc ta rất hiếm. Các loại máy móc tinh vi có thể đo được làn sóng điện trong óc khi ta đang suy nghĩ một việc gì.
Chiều nay, chúng ta sang Phổ Đà La, nơi đó Ngài Đạt Lai Đạt Ma sẽ cho phép ta sử dụng chiếc máy giải thích về điện năng, chú sẽ thấu đáo được dễ dàng hơn. Giờ thì chú hãy lo thu xếp hành trang. Đợi đêm đến, chúng ta bắt đầu lên đường thì vừa.
Vừa ra đến sân ngoài thì đã có sẵn hai chú tiểu dắt sẵn ngựa đợi hai thầy trò chúng tôi từ bao giờ. Thầy tôi ung dung leo lên lưng ngựa, còn tôi thì được một chú tiểu giúp việc này.
Tôi vừa ngồi ngay ngắn thì bỗng nghe có tiếng vỗ mạnh nơi mông con ngựa từ tay chú tiểu vang lên, tức thì chú ngựa kim nhảy lồng lên, khiến tôi chao đảo, mặc dù đã đề phòng trước ghìm chặt lấy dây cương kéo sát vào người.
Hai chân trước nó giương cao lên co lại, còn đầu thì chúi xuống, hai chân sau đá bọc hậu sau khi hai chân trước của nó vừa đặt xuống trên mặt đất.
Tiếp ngay sau đó lưng của chú ngựa kim này gô lại, đầu lắc mạnh và nhảy chồm lên khiến tôi bị tụt xuống ngay cổ nó không còn bám víu vào đâu được nữa, và cuối cùng con ngựa quái ác này dùng cổ hất mạnh một cái khiến tôi rơi xuống nằm sóng soài trên mặt đất.
Một vài tiếng cười khúc khích từ đám chú tiểu đứng ở hiên chùa vọng lại tỏ vẻ nhạo báng:
- Trông mặt mày sáng sủa thế mà...ngu!
Tôi chẳng thèm lưu ý làm gì cái lũ tiểu thứ ba này, lồm cồm ngồi dậy, trong lúc đó thì chú tiểu giúp tôi leo lưng ngựa tát một cái tát nên thân vào mặt con ngựa giở chứng này:
- Chú có làm sao không? Minh Sư mỉm cười nhỏ nhẹ hỏi.
Tôi lắc đầu có vẻ e thẹn trả lời:
- Thưa Minh Sư, không sao cả ạ!
Giúp tôi trèo lên lưng ngựa lần này trông chú có vẻ ưu tư hơn. Lần này chú dặn tôi đủ điều trước khi đi rồi bồi thêm một cú tát tai nữa đoạn lên tiếng cảnh cáo nó:
- Mày không được vô lễ.
Rồi cũng như lần trước, chú tiểu vỗ vào mông nó, nhưng nhẹ nhàng hơn. Con ngựa lần này thật ngoan ngoãn, nó từ từ bước đi theo sau con tuấn mã của thầy tôi đang cưỡi. Quả con ngựa kim tôi đang cưỡi thuộc loại khá tinh quái, biết "coi mặt đặt tên".
Nó thừa rõ trước cử chỉ lúng túng của tôi ngay từ lúc đầu leo lên lưng nó nên xem thường cho rằng tôi chẳng phải xứng đáng nắm cương chỉ huy nó.
Trên đường đi con ngựa luôn luôn dọa dẫm tôi bằng cách lao thẳng mình đến những nơi nguy hiểm, không chịu tuân theo lệnh đi nước kiệu của tôi.
Nhất là khi đến các bờ vực, chú ngựa này dừng lại ngẩng cao đầu lên hí vang, đoạn cúi xuống khiến tôi trụt thẳng lên ngay đầu nó, còn nó thì dùng hai vó sau đá lên túi bụi.
Hành động này khiến tôi hoảng hốt phải nằm rạp mình xuống ôm ghì lấy cổ nó để khỏi bị rơi xuống dưới miệng hố sâu thăm thẳm cạnh đó.
Những lúc như vậy tôi có cảm tưởng là nó đang hét vào tai tôi rằng: "Mày liệu hồn mà giữ lấy thân, nếu không tao sẽ cho chú mày xuống cái hố kia để bầy rắn độc bên dưới đó xâu xé cho tan xác đó nha!".
Trải qua nhiều lần như vậy, riết rồi, tôi cũng thừa kinh nghiệm để chống lại trò chơi khăm của con ngựa chứng này. Cứ mỗi lần sắp qua mấy bờ vực cao tôi lại ghìm chặt cương lại, rồi leo xuống nắm chặt lấy dây cương lôi đi, bắt buộc nó phải theo chân tôi, thỉnh thoảng lại còn dùng roi da phang vào mông nó.
Nhờ vậy nó bắt đầu khép mình tuân phục mệnh lệnh của tôi, nhưng dù sao thì tôi cũng đề phòng khi nhác thấy sắp đi đến những chỗ có những hố sâu nào đó. Thà chịu cực một chút mà an toàn hơn để nó thừa cơ trả đũa.
Lên ghềnh xuống thác mãi cho đến lúc mặt trời ngả bóng, chúng tôi đã xuống đến chân núi Thiết Lĩnh. Và, từ đó vào thẳng làng So mới dừng lại tạm nghỉ.
Tại đây, tôi được xem là một thượng khách đặc biệt như Minh Sư Minh Dà Đông Đạt, được hưởng chế độ ăn uống chẳng khác nào của thầy tôi. Bữa ăn tối của tôi cũng có trà thơm xứ Ấn, có bánh Tsampa cùng lạc rang Calcutta thơm phưng phức.
Thơ thẩn một mình trên sân thượng, vọng mắt nhìn xuống bên dưới ngắm cảnh rộn rịp của thành Lạt Sa. Phong cảnh nơi này quả thật danh bất hư truyền.
Các hàng dương liễu tươi xanh mọc quanh bờ hồ, phản chiếu trên mặt nước phẳng lì như tấm kiếng, trông chẳng khác nào như một bức tranh mạc họa được người họa sĩ tài hoa vẽ lại cảnh chiều hôm nơi ngôi chùa có một lịch sử kiêu hùng của xứ sở Tây Tạng này.
Dưới đêm trăng thanh gió mát, dòng sông Du Khang gợn lên những lượn sóng nhỏ nối đuôi nhau nhấp nhô như những con rắn bạc. Từng đoàn người lũ lượt đi lại dưới chân núi Cẩm Sơn. Cuộc hành hương của họ nhằm mục đích được chiêm ngưỡng tận mắt Đức Đạt Lai Lạt Ma mà họ hiếm hoi được trông thấy dung nhan Ngài.
Có lần trong lần giảng giải Minh Sư Minh Dà Đông Đạt có đề cập đến danh tước Dalai Lama xuất hiện từ đời nhà Minh (1368-1644) . Trong thời kỳ này mới thành lập một tông phái Phật Giáo mới lấy tên Gelugpa thường gọi Yellow Sect tức Hoàng tông. Sở dĩ có tên gọi là Hoàng tông vì các nhà sư của tông phái này mặc áo mão toàn màu vàng.
Và không bao lâu sau đó người lãnh đạo tông phái áo vàng được triều đình nhà Minh cho mang danh tước Đạt Lai Lạt Ma. Tưởng cũng nên biết xứ sở Tây Tạng hình thành vào khoảng năm 127 Tr.CN. Bộ lạc Tubo lên nắm quyền sau khi toàn thắng trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ giữa các bộ lạc của vùng đất có dãy Hy Mã Lạp Sơn này. Tôn giáo chính của của bộ lạc Tubo là đạo Bon, một tôn giáo nặng về phần thần linh và pháp thuật.
Xứ sở Tây Tạng bị xé ra từng mảnh nhỏ cho mãi đến thế kỷ thứ 7 sau CN dưới thời đại của Hoàng Đế Songtsan Gambo mới thống nhất được. Đây là thời kỳ huy hoàng nhất của người Tây Tạng, như Hoàng đế Gambo được nhà vua Trung Hoa gả công chúa Wencheng và cũng cùng thời gian này vua xứ Nepal gả công chúa Khridzun, nàng công chúa sắc nước hương trời, dưới thế gian này khó lòng có ai sánh tày được.
Hai nàng công chúa khi về đến Tây Tạng mang theo đạo Phật, tuy lúc đầu đạo Phật không mấy ảnh hưởng trong quần chúng, nhưng đến đời cháu của Gambo là Tride Zhotsan Phật giáo mới thật sự phát triển mạnh tại xứ sở này.
Tôi đề cập đến nhiều về danh tước Đại Lai Lạt Ma, được Minh Sư cho biết kể từ thế kỷ thứ 17 vai trò của các vị Lat Ma mới thật sự được xem là quan trọng. Sở dĩ có điều này vì các triều đình Trung Quốc hoàn toàn giao cho họ quyền cai trị cả hai phương diện tinh thần lẫn chính trị.
Danh từ Dala Lama gồm hai từ Dalai là tiếng Mông Cổ, nó có nghĩa là đại dương. Còn Lama là tiếng của xứ sở Tây Tạng có nghĩa là đại sư. Đạt Lai Lạt Ma là vị giáo chủ của Phật giáo Tây Tạng lãnh đạo Lạt Ma Giáo Lamaism.
Giáo phái này phối hợp với triết thuyết về giáo lý Đại Thừa của Mật Tông kể cả Mông Cổ nữa. Các vị Lạt Ma uyên thâm nổi tiếng được Lạt Ma Giáo phong cho tước hiệu Rinpoche, nó có nghĩa là phi thường và quí báu.
Tôi cũng không khỏi ngạc nhiên khi nghe Minh Sư giảng giải về các tu viện Phật giáo hiện nay gồm có nhiều vị Tulku, nó có nghĩa là Phật Hóa Thân, Phật Tái Sinh cũng còn gọi là Vị Phật Sống. Tại Tây Tạng hiện giờ có đến những 500 vị Tulku của Quan Thế Âm Bồ Tát.
Đặc biệt "Đệ Ngũ Đại Nhân" được vua nhà Thanh lúc bấy giờ thừa nhận chẳng khác nào quốc vương thế tục của Tây Tạng. Vị Đệ Ngũ Đại Nhân này đăng quang với danh hiệu Đạt Lai Lạt Ma.
- Và tôi nói giả dụ thôi như chú đó, sau này khi buông tay nhắm mắt thì phải hóa thân để thừa kế bản thân mình. Đây không phải là một chuyện giản dị, mà nó đòi hỏi có cuộc họp của một hội đồng tu sĩ để đoán xem vị Đạt Lai Đạt Ma vừa qua đời đó muốn để lại những chỉ dẫn gì?
Sau khi đã đoán biết được những lời chỉ dẫn rồi thì hội đồng dựa vào những phán truyền mà đi tìm những đứa trẻ có những dấu hiệu đặc biệt khác thường đưa ra tuyển chọn.
Đứa trẻ được tuyển chọn phải mang đi ngay tách hẳn sự liên hệ với cha mẹ và được các tu sĩ nuôi nấng dạy dỗ hầu đưa lên địa vị của Đức Đạt Lai Lạt Ma thay cho người tiền nhiệm vừa qua đời.
Từ trên sân thượng nhìn xuống bên dưới, tôi nhận thấy trong đám khách hành hương có cả những kẻ bán hàng rong, họ nối đuôi nhau rao hàng. Giọng họ rỗng rảng vang vọng lên, đến nỗi tại ngay sân thượng tôi còn có thể nghe thấy rõ ràng được.
Các thương khách dắt lừa, ngựa hoặc cả lạc đà, trên lưng được chất cả hàng hóa cao nghệu lắc lư đi vòng theo con lộ Bát Ngộ Khả Linh.
Chúng tôi ở lại nơi đây đã mấy ngày liên tiếp, tôi chẳng phải làm một công việc gì, duy chỉ có thầy tôi thì trông có vẻ bận vùi đầu. Ngài bận việc gì chẳng biết, nhưng tôi thì hoàn toàn rảnh rỗi. May mắn thay! Đây là điều bấy lâu nay vẫn hằng mong được có những quãng thời gian như vậy.
Tôi đang mê mải dõi mắt theo cảnh ngựa xe như nước bên dưới, thì bỗng có tiếng chân đi thật nhẹ nhàng tiến lại về phía tôi đang đứng. Lúc quay đầu lại thì ra, đó là thầy tôi vừa tươi cười vừa lên tiếng hỏi han tôi:
- Chú đang thoải mái lắm phải không? Liên tiếp mấy ngày hôm nay vì bận họp bàn các việc tối quan trọng nên không được chuyện trò cùng chú. Giờ thì đâu đó đã xong xuôi. Chúng ta đi uống trà rồi tiếp tục thảo luận bất cứ đề tài gì chú muốn.
Chúng tôi quay gót trở về phòng đã trông thấy ngay một mâm cỗ toàn bánh Tsampa cùng trái cây tươi. Các thức ăn này hoàn toàn khác hơn các thức ăn từ trước tôi thường được dùng đến.
Trà và bánh ở đây được nhập cảng từ Ấn Độ. Đây đúng là một bữa ăn thật ngon lành đối với tôi. Từ trước đến giờ tôi chưa được thưởng thức các món ăn lạ miệng và thơm ngon như thế này.
Ăn uống xong, chúng tôi đến xem các phòng chứa các máy móc mà Ngài Đạt Lai Lạt Ma đã mang từ các quốc gia xa xôi về. Tôi được Minh Sư giảng giải cùng chỉ vẽ cách sử dụng các máy móc mà lâu nay tôi chưa hề được nhìn thấy. Một lát sau, thầy tôi bắt đầu quay lại nhìn tôi bảo:
- Lỗ San! Chú hãy nhìn đây!
Tôi liền phóng mắt nhìn theo tay Minh sư chỉ đến. Đó là một bình thủy tinh, bên trong có hai sợi chỉ nhỏ màu xám đen. Mỗi đầu sợi có một hạt nhỏ như tấm trông như cái bấc ở thân cây liễu.
- Chú nhận thấy đó có phải cây bấc không?
Chắc chắn là chú nghĩ vậy. Khi chú nghĩ đến điện là chú đã liên tưởng ngay đến cái gì làm cho chú bị giật cả người lên. Và, có một thứ ta có thể giải thích bằng hành động, vậy chú hãy nhìn đây, đừng có phân tâm điều mà ta đã một lần giảng giải cho chú về dòng "tĩnh điện" này.
Thầy tôi đưa tay lấy cây gậy đen được đánh bóng để trên mặt bàn trước mặt. Đúng hơn thì cây gậy này chỉ là một cái côn có chiều dài độ ba hay bốn tấc rưỡi cỡ đó. Ngài cầm cây côn này chà xát thật mạnh vào cái áo đang mặc trong người, mãi một lúc lâu có thể là mười hay mười lăm phút, rồi áp sát cây côn đen này vào bình thủy tinh.
Lạ lùng thay, tôi thú thật, không khỏi sửng sốt nhìn hai cục bấc tròn nhỏ bên trong bình dần dần tách xa nhau ra. Và cứ thế tách xa mãi cho đến khi không còn có thể tách thêm ra được nữa.
Thầy tôi gật gù nói:
- Cứ trông vào đó đi! Chú đã trông thấy những gì đã xảy ra chưa?
Tôi im lặng, chăm chú mắt nhìn. Và, chỉ trong vòng vài ba phút sau hai cục bấc đã tách ra đó lại từ từ khép lại, cuối cùng trở về vị trí cũ của nó.
- Hãy thử thực hành đi! Thầy tôi vừa trao cây côn vừa bảo tôi.
Tôi ngần ngại không dám đưa tay tiếp lấy cây côn từ tay thầy tôi đang trao cho. Nhìn thấy tôi có vẻ e sợ, Minh Sư cười rộ lên:
- Cứ thử xem! Ta chưa bao giờ đùa với chú. Đừng nghi ngờ gì cả.
Vừa nói, Người vừa dúi cây côn vào tận tay tôi. Dù muốn hay không tôi vẫn nhận lấy cây côn này và cũng như cách thầy tôi đã làm là xát mạnh vào chiếc áo vải của tôi đang vận trong người, xong áp chiếc côn đang nóng bỏng này vào chiếc bình thủy tinh mà lúc bấy giờ tôi cho là mầu nhiệm.
Quả nhiên như thầy tôi đã làm, hai cục bấc tròn trong bình thủy tinh lại từ từ giãn xa ra chẳng khác nào như thầy tôi đã làm trước đó,
- Lỗ San, như chú thấy, đó là điện lực. Nhưng chú có cảm thấy nó có giật không?
Tôi lắc đầu. Thầy tôi nói tiếp:
- Điện ở ngay trong óc con người chúng ta cũng thế đó.
Nói đến đây Minh Sư ra lệnh tôi hãy cùng Người đến một cái bàn kế bên, nơi đó có đặt một loại dụng cụ khác hơn. Loại dụng cụ này trông hệt như cái bánh xe bề mặt có nhiều mảnh kim khí. Đặc biệt có hai thỏi kim khí gắn vào đầu nhiều sợi dây thép nhỏ tua tủa chĩa ra.
Mỗi đầu dây hơi chạm vào hai miếng kim khí. Trên đầu thỏi có dây nối liền với hai hình tròn cùng một loại. Tôi có ý nghĩ đó là một loại dụng cụ dùng làm trò ma thuật để lừa bịp mọi người.
Hành động kế tiếp của Minh sư là người nắm lấy cái tay quay nơi đàng sau của chiếc bánh xe đoạn quay thật mạnh, tức thì bánh xe quay với tốc độ thật nhanh phát ra những tiếng hú inh ỏi đến nỗi tôi cảm thấy hai tai nhức nhối không thể nào chịu nổi.
Từ trong cái bánh xe đang vùn vụt quay này bắn ra nhiều tia lửa lóe chớp liên hồi tung ra bốn phía.
Lạ lùng hơn nơi hai cái bầu tròn kim khí bất chợt lóe lên một luồng điện dài hệt như cái lưỡi của một con mãng xà đỏ choét. Một mùi khét lẹt từ trong máy phát ra làm tôi có cảm tưởng có cái gì đó bị bốc cháy quanh đâu đó.
Trông thấy vẻ sợ hãi của tôi, Minh Sư cười bảo:
- Lỗ San! Đây là cái máy cổ lỗ được cất nơi đây, ít người được đưa đến để chiêm ngưỡng. Chú là một trong hàng Đạt Lai Lạt Ma đặc biệt được ta mang đến để chú quan sát hầu tránh phải bỡ ngỡ khi được nhìn thấy nó trong một tương lai không xa lắm. Hiện nay khắp các quốc gia trên thế giới có quá nhiều loại máy uyn sược (Winshurst) này dùng dễ giảng dạy về điện năng.
Ngừng& nbsp;lại nơi đây, Minh Sư nắm lấy hai sợi dây trong máy và bảo tôi đến giúp cầm cái tay quay, quay thật mạnh để Người thử nghiệm cho tôi xem:
- Cứ quay mạnh hơn nữa đi. Càng mạnh, càng nhanh, càng tốt. Đừng sợ hãi gì cả. Chẳng có gì làm cho ta đau đớn đâu!
Vừa nói người vừa nắm mỗi tay một sợi dây ra hiệu cho tăng thêm tốc độ. Thật không có gì làm cho tôi ngạc nhiên bằng. Ánh sáng màu tím chỗ đậm, chỗ nhạt chạy ngang qua mặt và tay thầy tôi mà người chẳng bị hề hấn gì. Tôi hơi nhíu mày khi nghe thấy có mùi khét tỏa ra cả gian phòng này.
- Đó là mùi Ozone, chẳng có gì hại cả.
Để ; cho tinh thần tôi khỏi bị căng thẳng trước khi Minh Sư giảng giải những dụng cụ máy móc lạ lùng khác, Người đưa tôi đến một bể nước bên trong phòng kế cận. Bể nước này có chiều dài hơn ba thước và chiều ngang hai thước.
- Lỗ San, chú nhìn thấy những gì bên trong bể nước này?
- Kim Tự Tháp thưa Minh sư!
- Đúng. Đó là những Kim Tự Tháp nhỏ trông hệt như những Kim Tự Tháp ở Ai Cập. Nhưng vị tất chỉ có ở Ai Cập mới có các ngôi Kim Tự Tháp mà khắp năm châu bốn bể cũng có những công trình kỳ diệu như vậy. Ngay tại Tây Tạng này cũng có những ngôi Kim Tự Tháp thu nhỏ lại nằm bên trong lòng Hy Mã Lạp Sơn.
Tiếc thay ta không có đủ thì giờ để đưa chú đến chiêm ngưỡng. Như ta đã từng giảng giải cho chú nghe, là cuộc đời luôn luôn biến ảo, nay là biển xanh mà ngày mai đã thành ruộng dâu rồi thánh nhân thường bảo "như tang điền thương hải"
Cuộc đời này chẳng có gì gọi là tuyệt đối cả. Nay vầy mai khác. Có những cái mà xưa nay ta đinh ninh là cổ kính nhất, nhưng rồi, lại có những cái cổ kính khác xuất hiện tiếp theo. Như các hình ảnh trong bể nước đang ở ngay trước mắt đó, các công trình cùng dạng với các Kim Tự Tháp Ai Cập mà lâu nay được mọi người cho rằng đó là công trình cổ xưa nhất vị tất đã đúng như vậy.
(Theo các nhà khảo cổ gần đây đã tìm thấy trên thềm lục địa Bắc Mỹ những công trình được xây dựng từ thời Băng Hà cuối cùng có đến 12.000 năm về trước. Đó là điều đáng cho ta chú ý là chúng ta vẫn còn chưa hay biết về một nền văn minh lâu đời có được mức độ tổ chức cao độ đến như vậy.
Hồ Rock tại tiểu bang Wisconsin ở Hoa Kỳ, khoảng 35 cây số về phía Đông, có chiều dài đến 8 cây số ngàn và chiều rộng khoảng 4 cây số. Vào năm 1836 người ta tìm thấy một kim tự tháp y hệt hình dạng của kim tự tháp của xứ sở Ai Cập bằng đá nhỏ có phần đỉnh dẹt và đặt tên là Aztalan.
Ông Natanial Heyer đã tình cờ phát hiện được và tức thời được các nhà khảo cổ nghiên cứu đưa ra giả thuyết nó được xây dựng có đến hơn nghìn năm. Trước đó, thổ dân của lục địa này cũng đã cho xây nhiều kim tự tháp dùng để thờ cúng các bậc tiên linh hay thần thánh.
Vào năm 1862 trên một số tạp chí nêu ra vấn đề các kim tự tháp này, cho rằng kim tự tháp tại hồ Rock thì Aztalan còn ra đời sớm hơn bất kỳ kim tự tháp nào trên thế giới. Có nghĩa là kim tự tháp Ai Cập vẫn là hậu sinh đối với kim tự tháp ở thềm lục địa Bắc Mỹ. Vấn đề này đã làm dư luận lúc bấy giờ xôn xao không ít.
Và cũng từ đây người ta mới nêu ra những điều thắc mắc là nếu như kim tự tháp này đã từng được người da đỏ dựng nên thì cớ làm sao nó lại nằm ở dưới đáy một hồ nước lớn vốn đã có từ hơn 1000 năm về trước?
Cũng từ các cuộc tranh luận đó người ta đều cùng một quan điểm những kim tự tháp tại hồ Rock đã được những bộ lạc da đỏ đầu tiên tại xứ sở Bắc Mỹ này xây cất từ lâu rồi!
Sự phát hiện những điều bí mật dưới đáy hồ Rock, tọa lạc tại Madison City, thuộc tiểu bang Wisconsin, Hoa Kỳ đã làm cho các các nhà khảo cổ phải sửng sốt! Mùa Xuân năm 1936, ông Victor S.Taylor, tuyên bố mình đã phát hiện có đến bốn Kim Tự Tháp được xây cất dưới đáy hồ, mà các nhà khảo cổ nghi ngờ kỳ công này của người Aztec.
Nguồn tin đặc biệt này đến tai một nhà xuất bản sách chuyên hướng dẫn du lịch nước Mỹ do tiến sĩ Sonders làm giám đốc quan tâm đến, và ngay sau đó ông đã tổ chức nhiều chuyến khảo sát những công trình cổ xưa đầy bí ẩn này.
Ông tính toán tỉ mỉ về khả năng có thể tìm thấy tại các ngôi kim tự tháp dưới đáy hồ sâu này những dòng chữ nào đó giúp ông xác định được nguồn gốc và thời gian xây dựng của các kim tự tháp này.
Tiếp theo đó là lời tuyên bố vừa khám phá ra được các kim tự tháp của ông Taylor tỏ ra nghi ngờ về các kim tự tháp cho là do người Aztec xây cất lên hoàn toàn không đúng.
Theo ông Taylor thì người Aztec thời cổ đại sống tại Mễ Tây Cơ, mà xứ sở này nằm khá xa so với tiểu bang Wisconsin của Mỹ.
Mặc&nb sp;dù nghe những dư luận như vậy,tiến sĩ Sonders vẫn cho quảng bá để mọi người được biết là mình sẽ thực hiện chuyến thám hiểm dưới đáy hồ Rock này. Nhưng dù ông Sonders quảng cáo ầm ĩ về chuyến thám hiểm đi tìm kim tự tháp dưới đáy hồ Rock đến đâu đi nữa cũng chẳng ai tài trợ kinh phí cho ông để thực hiện kế hoạch do chính ông tự vạch ra.
Cho mãi đến một thời gian sau, nhà Địa Chất Học, giáo sư F.Been cùng với tiến sĩ lịch sử Charles F. Braun, nhân vào dịp thời tiết thích hợp đã tìm cách khảo sát những bí ẩn đang bị chôn vùi dưới lòng sâu của hồ Rock. Họ cùng nhau cặm cụi quyết tâm khám phá, nhưng vì hồ nước quá sâu họ không thể xuống tận dưới đáy lòng hồ này được!
M̕ 7;t chuyên gia từng giữ kỷ lục về tài nghệ lặn sâu, ông Mark Jean Noul cũng quan tâm không ít về những bí ẩn tại hồ Rock này. Ông đã ngồi trên chiếc thuyền nhỏ kéo theo một sợi dây cáp có buộc một thỏi kim loại nặng và chính nhờ thỏi kim loại này đụng nhằm vật thể ở bên dưới đáy hồ cho ông biết đó là sự thật. Thế là, ông tự lặn xuống nhiều lần để xem các vật thể đó là gì.
Khi ông vừa trồi lên khỏi mặt nước tuyên bố ngay rằng, vật thể ông nhìn thấy đó là một kim tự tháp. Trong cuốn nhật ký, ông Noul đã mô tả Công trình có hình dạng kim tự tháp cụt. Có nghĩa là phần trên của nó là một bình diện hình vuông có cạnh lối 1,4m.
Còn phần đế của nó có cạnh dài 5.43m X 8.83. Ngôi kim tự tháp này được xây cất từ những hòn đá phẳng, kết lại bằng một chất kết dính nào đó. Đặc biệt, đá xây ngôi kim tự tháp dưới đáy hồ đước bao phủ bởi một lớp dày màu xanh (liệu có phải là rêu chăng?), muốn cạo sạch không khó khăn gì lắm để được nhìn thấy màu xám ở mặt bên trong của nó.
Ngày 30-7-1967, một nhóm người gồm có bảy thợ lặn nổi tiếng do Lambard, một chuyên gia nghề lặn, đứng đầu, tổ chức chuyến khảo sát mới tại hồ Rock. Vốn là một tay lặn thiện nghệ đầy kinh nghiệm, lại có tài lặn sâu nhất của nhóm, xuống tận ngôi kim tự tháp để quan sát lối cấu trúc như thế nào để xét nghiệm làm sao "những ai đó" đã thực hiện được!
Nhưng trước mắt ông vẫn chưa nhìn thấy gì, cho đến khi phát giác ra được bề mặt có diện tích khoảng 6cm x 12cm và nhô lên khỏi đáy hồ chừng 1.5m thì số oxy dự trữ trong bình mang theo của ông đã cạn. Tuy nhiên trước khi vội vã nhô lên khỏi mặt nước, ông Lambard đã lấy được một số mẫu đá theo để khảo nghiệm.
Tuy nhiên, có điều khi được các nhà khảo cổ hỏi ông có gì chứng minh được đó chính là những mẫu đá lấy được từ các ngôi kim tự tháp dưới đáy hồ sâu đó, thì ông ta chẳng biết phải giải thích thế nào làm cho người ta có thể tin là thực. Do đó mà ông Lambard mang tiếng là kẻ lừa đảo.
Nhiều luận cứ trái ngược nhau về kim tự tháp dưới đáy hồ Rock. Có nhiều chuyên gia của nghề lặn bảo rằng họ đã lặn xuống tìm kỹ song chẳng trông thấy gì cả, tuy nhiên cũng không ít người thợ lặn chuyên nghiệp lại
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Túc Kê Linh Quái (Phương pháp coi giò gà bí truyền) - Hồ Quang |
Tủ Sách | administrator |
|
||
Michelle Obama BẢO VỆ Gus Walz sau Khoảnh khắc DNC lan truyền với Bố Tim Walz |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
||
Tử vi Nam Phái chân truyền tiếng Trung quốc, bên trung quốc truyền, rất hiếm |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Elohim |
|
||
Dòng Họ (dòng di truyền) |
Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Elohim |
|
|
|
Tả Ao chân truyền địa lý - 左.眞傳地理 - 0442 |
Sách Phong Thuỷ | administrator |
|
||
Tinh túy truyền thống: Đọc Hoa Nam kinh để ngẫm về cuộc sống tự tại tiêu dao ( daikynguyen.tv ) |
Nguồn Sống Tươi Đẹp | thanhthanh2014 |
|
12 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 12 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |