Jump to content






Advertisements




Truyện tâm linh - hiendde



831 replies to this topic

#481

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 10/03/2012 - 00:09

7 – CÁCH SỬ DỤNG CHÍNH VĂN CỦA BẢN TU PHÁP

Những gì được thấy trong Chương Hai vốn đã được phiên dịch từ bản gốc (chính) bằng tiếng Tây Tạng được soạn ra bởi Ngài Tangtong Gyalbo: “Quán Tưởng Thiền Định cho tất cả chúng sanh ở khắp cõi không gian” [những chữ hoặc những đoạn trong ngoặc là do dịch giả thêm vào để ý nghĩa của câu văn được sáng sủa thêm dễ hiểu hơn].

Nguyên văn trong chính bản trình bày rõ ràng chính xác về những gì cần phải quán tưởng và phải được thể nghiệm trong lúc mình quán tưởng. Phải tụng một cách hết sức chậm rãi qua từng đoạn [ngoại trừ những đoạn chú giải được đóng ngoặc]. Lúc đọc, có thể đọc lớn tiếng hoặc đọc thầm thầm cho chính mình, đồng lúc, từng bước một, phải tác quán tưởng theo mỗi lần đọc. Khi mỗi đoạn được hoàn tất có thể tạm nghỉ trong chốc lát rồi tiếp tục ôn lại trong tâm thức những gì mình đã quán tưởng từ đầu cho đến đó. Trong một đoạn như thế, thời gian bỏ ra (sử dụng) nhiều hay ít (dài hay ngắn) là hoàn toàn tùy thuộc vào nhu yếu và sở vọng của mỗi người.

Trong khi trì Chú, phải dốc hết toàn bộ quá trình quán tưởng mà mình có thể có, vào trong tâm thức mình. Hành giả cũng phải đem hết sức chú ý tập trung vào âm thanh của Chú ngữ và cố gắng nỗ lực thể hội thần thông lực của Chú (oai lực của Chú). Đại Bộ phận của thời gian tu Quán Tưởng (toàn thể thời gian tu Quán) sẽ được dùng vào việc trì Chú và cùng với sự Quán Tưởng Vô Tướng.

Sau khi trì Chú nên hoàn thành sự trì tụng và tu pháp thiền định theo chính văn ở đây.

Xin chú ý: Số chữ trong những dấu ngoặc là do sự thêm vào của dịch giả để thuận tiện cho việc phân thành chương tiết của pháp tu. Số chữ mà các đoạn đã nêu lên những số tương ứng được dùng để giải thích chi tiết cho mỗi đoạn trong chương ba.



Thanked by 1 Member:

#482

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 10/03/2012 - 00:16

CHƯƠNG II


CHÍNH VĂN:

Pháp tu “Quán Tưởng Thiền Định

Cho Tất Cả Chúng Sinh

Trong Suốt Cõi Không Gian”

Quán Âm Quán Tưởng này được Truyền thừa trực tiếp bởi Đạo Sư Thánh Tăng

Tangtong Gyalbo.


1. QUY Y

(Quy y Phật, Pháp và Thánh Tăng

Cho đến khi con thành chánh giác.

Nguyện các công đức con tạo được

Như Bố thí, Trì giới vân vân...

Khiến con thành Phật để độ sinh).


2. Chúng con, chúng sanh...đầy hư khôngg

Đảnh đầu đều có hoa sen trắng

Và vầng trăng, hiện mật từ HRÌH (đọc là PHI)

Đấng Chí Tôn Thánh Giả Quán Thế Âm

Khiết bạch quang minh rực năm màu

Mỉm cười bi mẫn nhìn sanh chúng

(Ngài có bốn tay thật nhiệm mầu)

Hai tay trong bốn, trên chắp lại

Hai tay phía dưới của Ngài cầm

Đóa hoa sen trắng, chuỗi pha lê

Lụa, châu trang sức nghiêm Thánh thể

Choàng ngực da nai, đội bảo quan

Trên mão có Phật A Di Đà

Đang ngồi trong thế già phu tọa (Kim Cang)

Vầng nguyệt sau lưng thanh tịnh soi

Ngài là Chơn tánh, là Diệu thể

Tất cả nương về để quy y.


3. Hãy quán tưởng, tưởng tượng rằng mình và tất cả chúng sinh đều cùng nhau khẩn nguyện tụng kinh:

Nay con đảnh lễ Quán Thế Âm

Bậc thánh hoàn toàn không khuyết vọng

Thân báu thanh tịnh suốt một màu

Đỉnh đầu nghiêm sức Viên Mãn Phật

Bi mẫn từ tâm nhìn chúng sanh

(Tụng 3 hoặc 7 lần, tụng càng nhiều càng tốt)


4. Rốt ráo như thế nhất tâm cầu

Bậc thánh thân báu chiếu quang huy

Tận trừ vọng tưởng và nghiệp chướng

Ngoại cảnh biến thành Cực Lạc Ban

Chúng sanh thân khẩu ý ba nghiệp

Đều thành Thân Khẩu Ý Quán Âm

Thinh, sắc, pháp, trần, thảy thành không

Tất cả chỉ là vô phân biệt.

[Đang khi quán tưởng như thế nên tụng lục Tự Chơn Ngôn: Án Ma Ni Bát Di Hồng (Om Mani Padme Hùm)]


5. Xong, hành giả hãy nhập vào Phản Quang Tự Tánh vô niệm tức là không có ý niệm gì cả trong bất cứ ba vòng luân khởi nào (Tam Luân) (không có tác giả, thọ giả và sở tác nghiệp)


6. Đứng Dậy:

Sắc tướng của con và mọi người

Hiện là thánh thể của Quán Âm

Tất cả âm thanh đều biến thành

Âm điệu của Chú Lục Tự Minh

Tư tưởng của con và mọi người

Hiện là trung tâm của Đại Trí

Xin nguyện từ nơi công đức này

Con được chóng thành Quán Thế Âm

Độ khắp chúng sanh không phân biệt

Thẳng vào cảnh giới của Chân Như


(Nguyện đem công đức này,

hướng về khắp tất cả,

đệ tử và chúng sanh

đều trọn thành giác đạo)



Thanked by 1 Member:

#483

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 12/03/2012 - 03:56

CHƯƠNG BA

GIẢI THÍCH

Những tư liệu hàm chứa trong chương này đều đã được căn cứ vào truyền thống Tây Tạng chú sớ về Quán Âm Quán Tưởng Tu Pháp và đã được một số các bậc Thượng Sư hướng dẫn trực tiếp bằng khẩu truyền cho dịch giả.

1 – QUY Y (Trở về nương tựa)

Trong chương đầu tiên này, Pháp tu đã được diễn đạt về hai động cơ thiết cốt có tính cách sống còn chủ yếu nhất để tu học Phật Pháp là Thọ Quy Y và Phát Bồ Đề Tâm.

Hai linh niệm này luôn luôn nhất định phải được thể hiện trước bất cứ sự hành trì nào trong Phật giáo và thực sự đó là điều bắt buộc không thể thiếu được trên tiến trình tu học Phật Pháp của họ.

THỌ QUY Y

(Ba hàng văn đầu của chính văn tu Pháp) đã chính thức đưa ra như là một tiền đề xác định nơi quy y (trở về nương tựa) tối hậu và đồng thời cũng là lý tưởng tối cao của hành giả. Đó là PHẬT, PHÁP và TĂNG. Nói khác hơn, hành giả quyết định lấy Phật, Pháp. Tăng như là điểm quy hướng cơ bản tối hậu của sự xác chứng cho đến khi chính mình chứng thành Phật quả. Lúc thọ Quy Y, hành giả cần ghi nhớ rằng: Đức Phật là một bậc đã thật sự chứng được quả vị Chánh Giác một cách hoàn toàn viên mãn và Ngài đích thực là một khải thị tối cao là linh cảm, là nguồn cảm hứng vô tận đối với toàn thể Phật Giáo đồ.

Pháp là những áo nghĩa, triết lý và phương tiện tối cao, tối hảo mà đại biểu là Kinh Tạng do Đức Phật giảng dạy, và Tăng là những đoàn thể thánh chúng, nói cách khác, Tăng là danh xưng chung để chỉ cho tất cả những thánh nhân quí phái cao thượng, có một đời sống thanh khiết, thánh thiện đã và đang nỗ lực tinh tấn phát triển trí huệ hầu thành tựu Phật Tánh. Như thế, Phật, Pháp, Tăng là ngôi tối tôn kính đối với toàn thể Phật tử.

Trong lúc trì tụng Kệ Tam Quy Y, hành giả cần phải quán tưởng rằng: bao quanh mình gồm có cha mẹ, bạn bè, oán cừu cho đến tất cả chúng sanh, và tất cả đều ngồi chung một chỗ và đồng thọ Quy Y. Trong khoảng không trung ở trước tất cả chúng sanh là Phật, là chư vị Bồ Tát, những quyển Kinh tượng trưng cho Pháp, và đoàn thể Tăng già. Quán tưởng sự có mặt của Chư Phật và Thánh chúng sẽ làm tăng sức mạnh cho thệ nguyện lực quy y của hành giả.

Thông thường, khi thọ Pháp Quy Y lần đầu, tất cả đều hiện diện (thực hiện) trước mặt vị Thượng Sư và lễ thọ Quy Y này là mốc đánh dấu cho sự chánh thức tiến vào Phật đạo. Sau đó, việc lặp lại nghi thức đọc tụng Tam Quy Y Văn, nhất là trước khi quán tưởng thiền định là cốt giúp cho hành giả ghi nhớ mãi chủ hướng tối thượng và lý tưởng tối cao của mình.

PHÁT BỒ ĐỀ TÂM

(tức ba hàng chữ thứ hai của đoạn thứ nhất) là kết quả tất nhiên của sự thọ Tam Quy Y và đồng thời còn là cái chủ trương tối trọng yếu trong Phật pháp. Đoạn văn này nhấn mạnh: Cái mà hành giả đem hết nổ lực để mong cầu giác ngộ chính là cái nhu yếu muốn lợi ích tất cả chúng sanh (hay: Tất cả sự nỗ lực của hành giả để đạt đến sự giác ngộ là vì sự lợi ích của tất cả chúng sanh). Nỗ lực này bao gồm tất cả phương tiện tu học của Phật giáo như: Bố thí, cứu giúp người (độ sanh), tụng kinh, tu tập thiền định...

Hành giả nên thực hành những phương tiện này với một nhận thức minh mẫn rằng: Tất cả mọi nỗ lực đều nhắm vào mục tiêu tối hậu là chứng thành Phật quả để độ thoát chúng sanh, như thế (tức) có thể cấu thành một nguyện lực cường đại có đủ năng lực thẩm thậu khả dĩ biến đổi, chuyển hóa tất cả mọi sự kế tiếp. Mục đích của sự phát Bồ Đề Tâm này là nhằm tránh những sai lầm to lớn mà hành giả có thể vấp phải, đó là: Nỗ lực tu tập chỉ vì mục đích tư lợi.

Vì thế, trước khi mở đầu pháp tu thật tế này, hành giả cần để ra một vài phút quán tưởng để nhìn thấy mọi sự thống khổ mà vô lượng chúng sanh đang thọ nhận trong lúc luân hồi sanh tử trong thế gian. Trong Phật giáo, chúng sanh được phân làm sáu loại: Thiên, A Tu La, Nhân, Súc Sanh, Ngạ Quỷ và Địa Ngục Chúng Sanh (chúng sanh trong địa ngục). Phải thừa nhận rằng mỗi một loại chúng sanh đều tự có một lãnh vực sinh tồn của chính chúng, nhưng, nhìn từ một quan điểm khác thì, tất cả sáu loại hình thái sinh tồn đó đều có thể tồn tại ngay trong nhân loại (kinh gọi là Nhân thú hay Nhân đạo).

Trời (Thiên):

Là một loại ở trong thiên đường vật chất, nhưng sinh hoạt tâm linh của họ phát triển rất ít. Sinh mạng của họ sẽ chấm dứt, và lúc mà họ phát hiện cái nhược điểm đó của chính mình thì họ sẽ bị khủng hoảng đến sửng sờ và đau khổ đến cùng tột.

A Tu La:

Là một loại chúng sanh thuộc cảnh giới mà tánh khí nóng nảy, tật đố, ưa tranh chấp, có thể tranh đấu liên lỉ suốt đời và lại thiếu hẳn cơ hội để suy gẫm về những vấn đề (phương diện) tâm linh.

Loài Súc Sanh:

Là loài tánh tình ngu độn, đau đớn, và thiếu hẳn trí năng sáng suốt. Đời sống của chúng là một chuỗi cắn xé, giành giật để sinh tồn. Chúng cũng thường bị bắt buộc làm nô lệ cho những chúng sanh khác.

Ngạ Quỷ:

Là một cảnh giới (loài) luôn bị đau khổ bởi sự khát khao thèm muốn dục vọng cực độ mà họ không bao giờ có thể thỏa mãn. Vì lòng keo kiệt, bủn xỉn của chính họ mà không lúc nào họ không suy tìm thức ăn, áo mặc và vật dụng; dẫu thế, họ chỉ có thể tìm được một mẩu vụng nhỏ bé hoặc một mảnh giẻ rách mà thôi.

Chúng sanh trong Địa Ngục:

Thì hoàn toàn bị sự nô dịch hóa bởi lòng căm thù, oán hận của chính họ, vì thế mà họ phải nhận không biết là bao nhiêu sự cực hình tra tấn và đau khổ một cách vô hạn.

Loài Người:

Tuy họ cũng có thể có đầy đủ một số mức độ của tất cả những vấn đề đó, nhưng, họ dường như có vừa đủ mức độ trộn lẫn cả khổ đau và thông minh để có khả năng vượt qua sự giao tranh sinh tử và phát triển đôi chút khôn ngoan. Vì thế, loài người là một loại chúng sanh duy nhất khả dĩ có thể tu tập và phát triển Phật đạo. Suy xét thật kỹ thì, số sinh vật được làm người thì không được nhiều như những loại sinh vật khác, do đó, phải biết rằng được làm thân người là cả một điều may mắn, hy hữu. Nhưng, dù đã được làm thân người (nhân thú) cũng không sao tránh khỏi những vấn đề chủ yếu như: Bệnh tật, vô minh, cầu bất đắc khổ (mong muốn cầu xin mà không được thỏa mãn là một thứ KHỔ) và sự chết...

Mặc dù chúng ta có thể nhận thấy được sự đau khổ ở mặt phiến diện nhưng, không phải bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể thể nghiệm được mức độ xung kích cực độ của khổ đau nơi chính bản thân mình. Dù vậy, nếu suy nghĩ (thật cẩn trọng) về tính cách bao quát lan tràn của sự khổ đau đang tồn tại, nó sẽ kích phát được tâm từ bi của con người và đồng thời có thể khiến họ hưng khởi thệ nguyện vĩ đại để cứu độ tất cả sự đau khổ của chúng sanh.

Chúng ta cần thể hội một cách toàn triệt trọng yếu tánh về sự phát triển cần thiết của trí tuệ để ra tay cứu độ một cách hữu hiệu tất cả chúng sanh, để tạo thành một thay đổi thật sự và toàn diện cho cả TÂM lẫn CẢNH của tất cả chúng sanh. Sự tri nhận một cách đầy đủ về nhu cầu khẩn yếu của việc đạt tới trí tuệ và từ bi có thể làm tăng cường sự mong muốn và quyết tâm của hành giả trong việc tu tập (pháp môn này), đồng lúc, sử dụng một cơ hội quý giá để thực hành Phật Pháp như là một nhân thể thông minh lành mạnh, khang kiện.



Thanked by 3 Members:

#484

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 12/03/2012 - 04:06

2 – HIỆN TÁC GIAI ĐOẠN (hay GIAI ĐOẠN HIỆN TƯỚNG)

Hiện tại, hành già đã được chính thức bắt đầu tiến vào phương pháp tu tập, giai đoạn này gọi là giai đoạn hiện tướng bởi vì nó trình bày từng bước một cái quá trình xuất hiện của hình ảnh mà mình quán tưởng về Quán Thế Âm Bồ Tát. Lúc bắt đầu, trước hết, một lần nữa hành giả phải quán tưởng trong hư không đầy dẫy vô lượng chúng sanh. Vô lượng chúng sanh này ngập tràn toàn thể vũ trụ. Hành giả tưởng tượng chúng đang ngồi trong một diện tích rộng lớn và tự khởi lên tịnh tọa và tu tập thiền định cùng lúc với hành giả.

Hành giả quán thấy trên đảnh đầu của mình và của cả chúng sanh đều hiện lên một đóa sen trắng tám cánh. Rễ của hoa sen này sanh trong đầu của những chúng sanh và mọc nhú lên từ nơi thiên đảnh huyệt (gọi là đầu đảnh môn xứ Bà La Môn) của đầu nổi lên (mọc nhú lên). Lủng lẳng bình hành trên đầu cánh hoa là một Nguyệt Luân (vầng trăng) màu trắng tương tự như một tọa cụ dùng để ngồi thiền nhưng rất bằng phẳng.

Trên những nguyệt luân (vầng trăng) này đột nhiên xuất hiện chủng tử HRÌH (đọc âm đồng vận như chữ free trong anh ngữ. Âm H đại biểu cho lúc âm tiết đã chấm dứt có một khí âm đoản xúc). Âm tiết của chữ này là sở tại tinh túy của Từ Bi và Trí Tuệ của chư Phật. Lúc quán tưởng chữ này, có thể sử dụng bất cứ loại văn tự nào cũng được. Có thể quán tưởng chữ này trong một chiều cao một vài inches (phân Anh), đứng ở trên nguyệt luân, mặt hướng về phía trước, màu nó thật khiết bạch và rất quang minh rực rỡ ba động với ánh sáng, tiếp nhận tinh lực linh hoạt nhở bởi tinh chất Đại Bi mãnh liệt. Ánh sáng đó rung động miên viễ́n và chiếu soi toàn thể vũ trụ.

Sau đó chữ HRÌH này lại tự động chuyển biến thành Hình Tượng hay Pháp Tượng của Bồ Tát Quán Thế Âm. Đức Quán Thế Âm có một màu da quang minh rực rỡ và khiết bạch giống như màu sắc của một vầng thu nguyệt. Thánh thể của Ngài phóng chiếu rực rỡ và trải ra năm màu quang huy chói lọi của móng cầu vồng như trắng, xanh da trời, vàng, đỏ và xanh diệp (năm màu này là năm màu đại biểu để cấu thành năm thứ nguyên tố của thế giới). Ánh sáng đó chiếu rọi toàn thể vũ trụ.

Gương mặt đức Bồ Tát đang cười hàm tiếu (vi tiếu) và hai mắt đều hiển lộ chan chứa từ bi, đang xót thương xem xét tất cả chúng sanh trong thế gian. Ngài có bốn cánh tay. Hai cánh tay chấp trước ngực trong vị thế kỳ đảo, cầu kinh, khấn nguyện (namaskara). Trạng thái này thể hiện cho lòng chí kính đối với vô lượng chư Phật. Tay phải vòng ngoài, cầm một hoa sen tuyệt mỹ (tượng trưng của Bồ Tát), và tay trái vòng ngoài thì cầm một chuỗi hạt pha lê (mala) tượng trưng cho lòng Đại Bi không ngừng nghỉ.

Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ăn mặc theo truyền thống thêu dệt bằng oanh lạc, tơ lụa và chân báu. Những thứ này bao gồm cả khăn choàng, xiêm y, áo choàng. Tất cả đều được chế tạo bởi những loại tơ lụa và châu báu hảo hạng tối thượng; ngoài ra, Ngài còn trang sức thêm những loại nữ trang như: Xoan vòng, bông tai, kiềng đeo cổ, nhẫn, đai, xuyến. Ngài còn vận một tấm da nai bên vai trái để tượng trưng cho lòng từ bi của Ngài đối với tất cả chúng sinh. Tóc của Ngài được bện thành những nhánh búi tóc nhỏ quấn vòng quanh đầu và tạo thành một cái đỉnh, phần tóc còn lại thì được xỏa xuống tự nhiên.

Ngài đội một bảo quan (chiếc mão làm bằng châu báu), phía trước mão, ở trên có gắn một tượng nhỏ màu đỏ của đức Phật A Di Đà. Phật A Di Đà là bậc thượng sư của Quán Thế Âm Bồ Tát và là bậc chí tôn trong chư Phật từ liên hoa phóng sanh mà Quán Âm Bồ Tát thuộc một trong phổ hệ này. Hầu hết trên bảo quang của những tôn tượng Quán Âm, đều có một tượng nhỏ Phật A Di Đà để biểu thị lòng tôn sùng chí kính đối với Phật A Di Đà, một vị Phật vô cùng trọng yếu.

Quán Âm Bồ Tát ngồi trong tư thế Kim Cang tọa (Vajrasana), hai chân giao xếp vào nhau, bàn chân hữu gác trên đùi chân trái và ngược lại bàn chân trái gác trên đùi chân hữu. Ngài ngồi đâu lưng với vầng nguyệt luân màu trắng. Vầng trăng đang ở đằng sau Ngài, sự thanh lương, quang huy, rực rỡ của vầng trăng này tượng trưng cho tâm từ bi dùng để khắc phục sự thống khổ, nhiệt não (nóng bức) của tham ái.

Những lời tối hậu của tiết này là hướng dẫn, chỉ dạy cho hành giả phải nhận định một cách minh bạch rằng đức Quán Âm Bồ Tát đang ở trên đầu của hành giả không chỉ là một huyễn tượng được sanh ra từ sự quán tưởng mà chính là đức Quán Âm đích thật. Hành giả cần phải quán tưởng rằng: Bồ Tát này là tất cả sự tinh anh của trí tuệ của chư Phật (tức đối tượng quy đích thực của hành giả). Hình tượng được quán tưởng như thế thì, tức khắc trở thành Phật Tánh tối cao, đầy đủ những oai lực không gì so sánh nổi và có thể thị hiện sự cảm ứng linh hiện trực tiếp với hành giả.



Thanked by 2 Members:

#485

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 12/03/2012 - 04:11

3 – CẦU NGUYỆN ĐỨC QUÁN ÂM

Những hàng văn kế tiếp sau đây là loại văn cầu đảo có tính truyền thống để xưng tụng đức Quán Âm mà trong đó tổng kết lại tính cách đại phẩm đức trọng yếu của Quán Thế Âm Bồ Tát. Viên Mãn Phật tức chỉ đức Phật A D Đà.

Một mặt, hành giả phải khắc nhớ trong tâm tất cả những quán tưởng đã thực hiện từ trước, mặt khác, phải đọc trong nhiều lần (biến) lời Kệ kỳ đảo (cầu nguyện) này. Kệ văn tụng này biểu đạt cách căn bản lòng tôn kính và sự sùng ngưỡng của một tâm cảnh hết sức cao xa sâu thẳm đối với bậc Bồ Tát; loại tâm cảnh này khác hẳn và nghịch phản với cái tâm hỗn loạn dẫy đầy tham dục của tất cả chúng sanh đang trôi lăn trong luân hồi trong sanh tử. Vì thế, hành giả nên khẩn thiết thỉnh cầu Bồ Tát ban cho sự che chở và gia bị.

4 – BIẾN HÓA VÀ TRÌ CHÚ

Đoạn văn ở trước đã tường thuật sự khẩn cầu và nguyện thiết, cả hai đều biểu thị: Hành giả đã chuẩn bị thành thục và đã đạt đến giai đoạn sẵn sàng ban phát, thi thiết, thực hiện tâm Từ Bi. Vì thế, trong tâm Bồ Tát tự nhiên sanh khởi niệm đầu cứu khổ tất cả chúng sanh đang trầm luân trong bể khổ sanh tử. Ánh sáng bắt đầu được phóng ra từ thân thể thế giới. Ánh sáng này có thể quét sạch tất cả những trạng huống (tình trạng, vấn đề) hỗn loạn, sự thống khổ hư huyễn của thế gian được tạo thành bởi vô minh lầm lỗi nơi chúng ta.

Hành giả tưởng tượng toàn thể ngoại cảnh (thế giới vật lý) đều được ánh sáng quang minh chiếu soi. Ngay lúc đó tất cả những việc chung quanh hành giả biến thành những phẩm vật vô cùng mỹ lệ và hết sức ý nghĩa. Nói cách khác, tất cả đều trở thành những trang sức phẩm trang nghiêm của cõi Tịnh Độ Cực Lạc (là chỗ ở của Phật A Di Đà và Quán Âm, và những bậc Bồ Tát thiện tri thức) thí như căn phòng mà hành giả đang ngồi đang biến thành cung điện thủy tinh, một cảnh giới thích ứng cho bậc giác giả. Đồng thời, tất cả chúng sanh ở thế gian được chuyển hóa bởi luồng quang minh. Và dạng thức giác ngộ nhất của họ được trở thành một thành tựu viên mãn, cứu cánh.

Thân họ biến thành giống như thân của Quán Âm. Bất cứ những gì họ nói đều biến thành Lục Tự Chơn Ngôn của Quán Âm. Và bất cứ những gì họ đang suy nghĩ cũng đều là sự hoạt dụng tự phát của Bồ Đề Tâm. Hiển nhiên, bản thân của hành giả cũng được chuyển hóa y hệt như vậy.

Một cách dễ hiểu hơn, tất cả những hiện tượng trong vũ trụ đều chuyển biến thành những hình thái mà lẽ ra chỉ có thể có được nơi cảnh giới của một bậc thánh giả. Ánh sáng (hào quang) của Bồ Tát đã tẩy sạch tận gốc vọng tâm của chúng ta và làm cho tất cả những đối lập tánh nhị nguyên của thế gian bị tiêu hủy một cách toàn diện. Tất cả những âm thinh, sắc tướng và tư tưởng đều biến thành vô phân biệt để cùng trở thành bất khả phân với Không Tánh.

Lúc tâm cảnh đã đạt đến một cảnh khiết tịnh như thế, hành giả liền đã có thể bắt đầu tuyên hô Thần Chú. Số biến của Chú trì tụng càng nhiều càng tốt, nhưng tối thiểu cũng cần phải có 100 biến. Trong khi tuyên hô trì tụng Thần Chú, đặc biệt hành giả cần phải giữ gìn toàn thể sự quán tưởng như vừa diễn tả.

Lục Tự Chơn Ngôn Án Ma Ni Bát Di Hồng (OM MANI PADME HÙM) này được coi là chứa đựng sự tập trung của tất cả năng lực thiêng liêng phát từ lòng Đại Bi và sự Đại Diệu Dụng của Quán Âm Bồ Tát. Nói theo nghĩa đen thì chữ ÁN bao gồm 5 loại hình tượng và trí tuệ của Phật; MA NI có nghĩa là Bảo Châu; BÁT DI có nghĩa là Liên Hoa; hợp hai ý nghĩa này với nhau có nghĩa là Ngài là bậc Thủ Trì Liên Hoa và Bảo Châu, và đây cũng đích thị là biệt hiệu khác của Quán Âm. HỒNG: có công năng bảo hộ lục đạo chúng sanh. Như vậy, theo truyền thống, ý nghĩa của Lục Tự Chơn Ngôn này là: “Hỡi bậc Đạo Sư của Ngũ Phật Thân và Ngũ Trí Như Lai, bậc Thủ Trì Liên Hoa và Bảo Châu, xin Ngài hoan hỷ gia hộ cho lục đạo chúng sanh vượt qua các thống khổ.”

(Xin chú ý, thường thì chơn ngôn này được dịch là: vạn tuế Bảo Châu trong Liên Hoa: đây là một chuyển dịch sai lầm)

Cũng có người cho rằng Lục Tự Chân Ngôn tương đương với lục thú và tương ứng với lục sắc, lục dục, lục trí, lục Phật. Có nhiều sự giải thích khác nhau về Chú này nhưng không cần thiết để phải nghĩ đến tất cả ý nghĩa ấy trong lúc trì tụng. Sức mạnh đơn thuần cố hữu của chỉ nội âm thanh của Lục Tự này sẽ tự nhiên truyền đạt Trí Huệ và Từ Bi của Quán Thế Âm Bồ Tát cho hành giả, và từ đó, qua hành giả, nó truyền đạt đến tất cả chúng sanh.

(Chú thích: OM đọc giống như chữ OM trong chữ Việt, MANI đọc như MANI; còn chữ PADME có thể đọc là PADME hay đọc theo Tây Tạng là PÊ MÊ, còn chữ HUM thì đọc lơ lớ giữa HUM và HUNG trong chữ Việt)



Thanked by 2 Members:

#486

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 12/03/2012 - 20:07

5 – GIAI ĐOẠN HOÀN THÀNH

Sau khi đã hoàn tất giai đoạn tuyên trì thần Chú, thì toàn bộ quán tưởng đều đã tan biến để hòa nhập vào Không Tánh. Như thế, hành giả đã được chỉ dạy cách thể hiện Chân Tánh khế hợp theo nguyên lý cao lớn nhất của Phật Đạo. Chính phần Thiền Quán này, kết quả của việc quán tưởng từ đầu đến đây, thực ra đã không khác gì với những sự tham thiền khác như sự tham thiền trong Thiền Tông hoặc Minh Kiến (Vipashyana).

Có thể giải thích rằng: Vì mình hiện đang có được Trí Huệ Giác Ngộ của Quán Thế Âm Bồ Tát, nên mình tế nhận được Không Tính của tất cả mọi sự trong vũ trụ, kể cả Không Tính của việc quán tưởng. Tâm thức, do đó, trở thành hoạt dụng tự nhiên trở lại với tự tính, tức linh túy của chính sự Giác Ngộ. Tất cả mọi kiến trúc nhị nguyên của Tâm Thức đã được siêu vượt qua hẳn.

Bất kỳ là thọ giả, tác giả hay sở tác nghiệp sẽ đều bị đánh mất ý nghĩa. Không có một sự vật gì để nắm bắt đeo níu (chấp thủ), và ngay cả cảnh địa của sự khoái lạc cũng chẳng có gì để có thể tham trước đeo níu. Ngược lại, hành giả thoát giải buông bỏ theo tự tánh, và tự tánh đây là chân tánh nguyên uyên. Hành giả nên trụ lại trong cảnh giới tự giải thoát này càng lâu càng tốt bởi, nó vốn là phần tối trọng yếu trong pháp tu.

6 – TU XONG ĐỨNG DẬY (XUẤT ĐỊNH)

Lúc xuất định (ra khỏi cảnh Định) thì mình trực nhận rằng tất cả mọi sự đều thuộc về đạo trường mạn đà la của Quán Thế Âm Bồ Tát. Mình nhận thấy rằng tất cả chúng sanh và tất cả hình tướng đều là tự thân của chính Quán Âm. Tất cả âm thanh đều được lãnh hội như là Lục Tự Chơn Ngôn. Tất cả tư tưởng đều được tri nhận như là thành phần thuộc về Từ Bi và Trí Huệ của Quán Thế Âm. Xuất phát từ sự cảm ứng được sanh ra bởi kết quả tu chứng của sự quán tưởng, hành giả nhìn thấy thực tế một cách cao quý sâu thẳm và mới lạ. Ông ta nhìn tất cả sự vật bằng một cái nhìn thuần tịnh, sáng suốt và như thật.

Như thế, bằng mọi cách có thể, càng nhiều càng tốt, hành giả nên đem cảnh giới giác ngộ đã đạt được trong lúc quán tưởng hòa nhập vào sự sinh hoạt hằng ngày. Điều này có nghĩa là hành giả cần phải tránh xa (phủ nhận) tư tưởng nhị nguyên và lòng tham trước níu những đối tượng vật chất. Ngược lại, hành giả cần bồi dưỡng tâm Từ Bi đối với tất cả chúng sanh. Phải xem họ như bạn lành để ra tay giúp đỡ, tế độ. Đồng lúc, luôn luôn ghi nhớ rằng: tất cả mọi hiện tượng đều chỉ là hư huyễn.



Thanked by 2 Members:

#487

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 12/03/2012 - 20:09

7 – HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC

Bất cứ pháp môn nào trong Phật giáo, theo truyền thống, khi hoàn tất việc tu tập, nhất định phải bày tỏ lời hồi hướng này để biểu thị một điều rằng: tất cả những công đức nào mình gặt hái được trong lúc tu tập đều cần được mang ra cống hiến, chia xẻ cho tất cả chúng sanh. Hệt như khi bắt đầu tu tập, hành giả đã phải xác định một cách khẳng quyết rằng: hành giả tu tập Phật pháp không phải vì mục địch nhằm tư lợi bản thân mà chính là vì sự lợi lạc của tất cả chúng sanh. Hành giả thệ quyết sẽ nhất định thành Bồ Tát như Bồ Tát Quán Âm để cứu độ tất cả chúng sanh và làm cho mỗi một chúng sanh đều đạt được tâm thức giác ngộ.

Sau hết, cũng nên có những lời thích đáng về sự tu tập lòng Từ Bi trong đời sống hằng ngày: Phần đông, những hành nhơn sớm muộn gì cũng phát giác và liễu ngộ được rằng: những phương pháp tối ư thông minh và vô cùng hữu hiệu để độ người đã không phải là những phương pháp dễ dàng. Mục đích của Bồ Tát Hạnh là vĩnh viễn giúp đỡ tất cả chúng sanh đều chứng thành chánh giác. Nhưng nếu có thể tri nhận phương pháp tốt nhất để đạt đến mục đích tối cao thì nó đòi hỏi rất nhiều trí tuệ và phương tiện, và rất có nhiều lỗi lầm có thể dễ dàng vấp phải đối với những kẻ sơ học.

Ví dụ: Đương nhiên, tuyệt đối không ai trong chúng ta lại muốn hợp lực với kẻ cướp để phạm tội. Một cách tổng quát: Tuyệt đối không thể vì Từ Bi mà cổ súy, khích lệ người khác nỗ lực làm cái công việc lợi kỷ (lợi mình) hoặc giúp đỡ họ tăng trưởng bản ngã và khiến họ kẹt vướng hơn nữa vào những sự biến động xung đột của tình cảm rối rắm.

Vì thế, người sơ học nên đặc biệt chú trọng đến thái độ nội tâm mà định thời tu tập. Và, đây là một điều hết sức trọng yếu: Hành giả không nên có quá nhiều tham vọng, hoài bảo lớn và cũng không thể lãng mạn tự cho mình là một Cứu Thế Đại Giáo Chủ, làm Vô Thượng Sư cho tất cả mọi người. Dù ý nguyện trong nội tâm của hành giả thực ra là phát triển tự thân để thành đạt lý tưởng sâu thẳm cao cả này, nhưng trong thời gian đầu, thượng sách là chỉ nên thay đổi chút đỉnh cung cách lề lối xử sự bên ngoài.

Một cách đơn giản, hành giả chỉ cần trở thành một người có lòng ưu ái thân thiết hơn, thông thường hơn và đừng quên lòng nhân từ của mình đối với cả loài thú vật. Nên tránh hẳn sự giết hại (sát sinh) dù đó là một côn trùng nhỏ, hay một con gián. Như thế, dần dần hành giả có thể trở thành một người có thể làm chủ và chế ngự được những cảm xúc tình tự và những vấn đề (phức tạp khó khăn) của chính mình. Ngã chấp dần dần sẽ giảm khinh và, đối với những nhu yếu, tình huống của người khác cũng sẽ được mình tri nhận, thông cảm cách rõ ràng sáng suốt hơn.



Thanked by 2 Members:

#488

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 12/03/2012 - 20:16

PHỤ LỤC

(Bài dịch để tụng, có thể thay thế cho phần chính văn của Chương Hai)

CHƯƠNG II

CHÁNH VĂN:

PHÁP TU “QUÁN TƯỞNG THIỀN ĐỊNH CHO TẤT CẢ CHÚNG SANH TRONG SUỐT CÕI KHÔNG GIAN"

Pháp Quán Âm Tưởng này được truyền thừa trực tiếp bởi Đạo Sư Thánh Tăng Tangtong Gyalbo.

1. Quy Y

Quy y Phật, Pháp, Tăng

Đến khi con chứng thành

Quả vị vô thượng giác

Nguyện cho các công đức

Do con tạo tác nên

Như bố thí trì giới

Khiến con được thành Phật

Để cứu độ chúng sanh


2. Chúng con và chúng sanh

Cả hư không đầy khắp

Trên đảnh đầu chúng con

Thảy đều có sen trắng

Lại có cả vầng trăng

Mật tự HRÌH hiển lộ

Từ đó xuất hiện ra

Đấng Quán Âm Thánh Giả

Vô Thượng bậc chí tôn

Khiết bạch chẳng thể lường

Năm màu rực rỡ tỏa

Mỉm cười Ngài bi mẫn

Thương xót nhìn chúng sanh

Hai tay trên chắp lại

Hai tay dưới Ngài cầm

Một tay đóa sen trắng

Tay nọ chuỗi pha lê

Thánh thân Ngài Nghiêm sức

Bằng tơ lụa, bảo châu

Ngực choàng da nai quý

Đầu đội mão bảo trân

Trên mão có đức Phật

Danh hiệu A Di Đà

Ngồi trong thế kiết già

Hay gọi: Kim Cang tọa

Sau lưng Ngài vầng nguyệt

Đang thanh tịnh chiếu soi

Ngài chính là Diệu thể

Để tất cả quay về

Quy y và nương tựa.


3. Hãy quán tưởng, tưởng tượng rằng mình và tất cả chúng sanh đều đang cùng nhau tụng kinh khẩn nguyện:

Con chí thành đảnh lễ

Đức Bồ Tát Quán Âm

Bậc Thánh thật hoàn toàn

Không mảy may khuyết vọng

Thân thanh tịnh trắng trong

Bằng đức Viên Mãn Phật

Đôi mắt đầy từ mẫn

Thương xót nhìn chúng sanh.

(Tụng 3 hoặc 7 lần, tụng càng nhiều càng tốt)


4. Rốt ráo như thế đó

Thành khẩn nhất tâm cầu

Bậc Thánh, thân trân quý

Mầu nhiệm chiếu quang huy

Tận trừ chư vọng tưởng

Các nghiệp tướng xấu xa

Ngoại cảnh thảy biến thành

Cõi Trang Nghiêm Cực Lạc

Chúng sanh thân, khẩu, ý

Ba nghiệp hoán chuyển thành

Thân, khẩu, ý Quán Âm

Thanh, sắc, pháp trần bổng

Tất cả thảy đều không

Trở thành vô phân biệt

Sắc tướng của con trùng

Sắc tướng của mọi người

Hiển hiện thành diệu tướng

Của Bồ Tát Quán Âm

Tất cả những âm thanh

Đều chuyển thành âm điệu

Của Chú “Lục Tự Minh”

Và Tư Tưởng của con

Cùng của cả mọi người

Hiện là trung tâm của

Đại Trí Tuệ thẳm sâu

Nguyện nhờ công đức này

Được chóng thành như đấng

Bồ Tát Quán Thế Âm

Để độ khắp muôn loài

Chúng sanh không phân biệt

Đồng nhập vào cảnh giới

Giác ngộ của Quán Âm.


(Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật Đạo)


Tác Giả: Tangtong Gyalbo

Dịch Giả: Thích Viên Lý


Sửa bởi hiendde: 12/03/2012 - 20:37


Thanked by 2 Members:

#489

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 13/03/2012 - 02:33

...........................................................................


Sửa bởi hiendde: 11/11/2012 - 22:36


Thanked by 3 Members:

#490

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 24/07/2012 - 22:47

LỤC TỔ ĐẠI SƯ - CON NGƯỜI VÀ HUYỀN THOẠI


THAY LỜI TỰA

Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất. Vai trò của ngài cũng đặc biệt quan trọng đối với người Việt Nam, bởi vì có những mối liên hệ và ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp của ngài đối với Thiền tông Việt Nam mà chúng tôi sẽ cố gắng trình bày một phần trong tập sách này, và bởi vì hầu hết những người học thiền hầu như không ai là không biết đến quyển Pháp Bảo Đàn Kinh do ngài truyền lại.

Tương tự như chuyện kể về hầu hết các vị thánh nhân của thời xa xưa, những gì ngày nay chúng ta được biết về Lục Tổ Huệ Năng là một sự pha lẫn kỳ thú giữa vô vàn những yếu tố sử liệu xen lẫn với huyền thoại, giữa những điều rất thật xen lẫn với những điều hư ảo, kỳ bí... Nhưng bao trùm lên tất cả vẫn là một nhân cách siêu việt toả sáng muôn đời của một bậc chân tu giác ngộ. Cho dù sự toả sáng ấy có thể được hậu thế mô tả, ca ngợi theo những cách khác nhau, nhưng điều tất yếu là không nên vì thế mà làm sai lệch đi những gì vốn có về con người thật của ngài.

Tập sách này được thực hiện với mục đích giới thiệu cùng độc giả đôi nét về Lục Tổ Đại sư, bao gồm những gì được ghi chép trong các tư liệu của người đi trước và kể cả một số huyền thoại được lưu truyền rộng rãi về ngài. Nhưng chúng tôi đã thực hiện việc này với một sự thận trọng cần thiết và có định hướng. Trong khi thu thập tư liệu để hình thành tập sách, chúng tôi cố gắng phân tách rõ những yếu tố nào có thể tạm gọi là “sử liệu” bởi tính xác thực tương đối của chúng, và những yếu tố nào có thể xem là truyền thuyết, huyền thoại bởi đã được phát sinh từ trí tưởng tượng của người đời.

Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp khảo sát những yếu tố không xác thực, chúng tôi vẫn cố gắng để có thể một phần nào đó phân tách, chắt lọc được những yếu tố thật tiềm ẩn bên trong lớp vỏ huyền thoại, kỳ bí, bằng cách nhìn nhận mọi vấn đề với một góc độ khách quan và luôn được soi sáng một cách nhất quán bởi những gì phù hợp với tinh thần Phật giáo nói chung, Thiền tông nói riêng.

Như vậy, tập sách này không nhằm mục đích trình bày về Lục Tổ Đại Sư từ góc độ của các nhà sử học. Chúng tôi không có khả năng và cũng không có dự tính làm điều đó. Sau khi thu thập tư liệu, chúng tôi đã chọn lọc và trình bày sách này theo cách mà chúng tôi tin là phù hợp với những gì mà chính Lục Tổ Đại sư đã từng truyền dạy. Các nhà sử học có thể cho rằng như vậy là thiếu tính khách quan, và chúng tôi xin nhận lời phê phán đó. Nhưng về phần mình, chúng tôi có những lý do nhất định để làm như vậy. Chỉ riêng việc Lục Tổ Đại sư là một vị Tổ sư tiêu biểu trong Phật giáo cũng đã là một yếu tố hoàn toàn khách quan cho phép chúng tôi đánh giá và loại bỏ những gì không phù hợp với yếu tố đó.

Ví như một người con xa gia đình đã lâu, nghe rất nhiều người đến nói khác nhau về cha mình. Vì sự ngăn cách về không gian và thời gian nên tất cả những gì được nghe đều không đủ tính xác thực. Tuy nhiên, người con vì đã hiểu được tâm ý của cha mình nên sau khi nghe xong có thể dựa vào sự phán đoán chủ quan của mình để đánh giá và biết được những gì là hợp lý hay không hợp lý.

Tâm trạng của chúng tôi khi biên soạn tập sách này cũng tương tự như thế. Từ nhỏ chúng tôi đã được nghe rất nhiều chuyện kể về Lục Tổ Đại sư. Sau nhiều năm may mắn được học hỏi Phật pháp, được đọc qua kinh Pháp Bảo Đàn do ngài truyền lại, chúng tôi chợt nhận ra là những gì đã được nghe qua có cả những điều hợp lý và không hợp lý.

Vì thế, chúng tôi thừa nhận tính chủ quan khi biên soạn tập sách này. Bởi vì cho dù chúng tôi đã cố gắng trung thực khi thu thập các nguồn tư liệu, nhưng những phân tích và nhận xét trong sách này lại là những ý kiến hoàn toàn chủ quan của chúng tôi, nên điều tất nhiên là độc giả có thể tán đồng hoặc không tán đồng với những ý kiến đó.

Qua cách làm này, chúng tôi mong muốn phác hoạ phần nào chân dung Lục Tổ Đại sư đúng thật như một vị Tổ sư của Thiền tông nói riêng, và như một bậc chân sư của Phật giáo nói chung. Tuy nhiên, việc độc giả có nhận ra được điều đó hay không, hoặc nhận ra đến mức độ nào tất nhiên là còn tuỳ thuộc vào sự khéo léo hay vụng về của chúng tôi trong công việc.

Tuy nhiên, cho dù tự biết sự vụng về của mình, chúng tôi vẫn mạnh dạn thực hiện công việc vì thiết nghĩ rằng, chỉ cần nêu rõ tâm nguyện của mình nơi đây thì chắc chắn sẽ có được sự đồng cảm từ nhiều độc giả gần xa, và do đó cũng chắc chắn sẽ nhận được những sự góp ý của bạn đọc cũng như sự chỉ giáo của các bậc tôn túc, trưởng thượng. Được như thế thì đây chẳng qua cũng chỉ là viên gạch lót đường đầu tiên, lo gì không có những người khác trong tương lai sẽ tiếp tục làm tốt hơn công việc này!


Trân trọng

NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN


Thanked by 2 Members:

#491

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 24/07/2012 - 22:52

LỤC TỔ ĐẠI SƯ - CON NGƯỜI VÀ HUYỀN THOẠI

THÂN THẾ TẦM THƯỜNG CỦA MỘT VĨ NHÂN

a. Người đến từ phương Nam

Theo phẩm Hành do trong Pháp Bảo Đàn Kinh (thường gọi tắt là Đàn Kinh) thì Lục Tổ Đại sư sinh trong một gia đình nghèo khó, sa sút. Cha ngài quê ở Phạm Dương, trước có làm quan, sau bị giáng chức đày đến xứ Lĩnh Nam làm dân thường ở Tân Châu. Không may cha ngài lại mất sớm, hai mẹ con phải trôi dạt kiếm sống, đến ở quận Nam Hải. Nhà nghèo khổ chỉ biết mưu sinh bằng việc kiếm củi mang ra chợ bán.

Ngày kia, có người khách mua củi nhờ mang đến nhà. Sau khi giao bó củi cho người ấy xong, ngài nhận tiền vừa ra đến cửa thì chợt nghe có tiếng người tụng kinh. Vừa thoáng nghe rõ lời kinh, trong tâm ngài liền có chỗ bừng sáng, thấu đạt, liền tìm đến để hỏi xem người kia tụng kinh gì. Người kia đáp: “Ấy là kinh Kim Cang.” Ngài lại hỏi: “Ông từ đâu đến mà biết được kinh này?” Người kia đáp: “Tôi từ chùa Đông Thiền, huyện Hoàng Mai, Kỳ Châu đến đây. Chùa ấy là nơi Ngũ Tổ Đại sư đang giáo hóa, đồ chúng có hơn ngàn người. Tôi ở đó lễ bái, nghe giảng và thọ trì kinh này. Đại sư vẫn thường khuyên người xuất gia, tại gia nên thọ trì kinh này sẽ tự thấy tánh thành Phật.”

Ngài nghe được lời ấy rồi, muốn tìm ngay đến Ngũ Tổ để học đạo. Nhưng nghĩ lại còn mẹ già không ai chăm sóc, nên trong lòng phân vân chưa biết tính sao, mới đem việc ấy nói cùng người kia. Thật là duyên may sẵn có từ đời trước, người kia liền vui vẻ giúp cho 10 lượng bạc, khuyên ngài nên dùng số bạc ấy cấp dưỡng cho mẹ già rồi tìm đến huyện Hoàng Mai tham lễ Ngũ Tổ.

Ngài liền nhanh chóng mang tiền về sắp xếp mọi việc ở nhà cho mẹ, rồi từ giã ra đi. Chỉ không quá 30 ngày đã tới được huyện Hoàng Mai, tìm đến lễ bái Ngũ Tổ.

Ngũ Tổ hỏi: “Ông từ đâu đến? Muốn cầu việc chi?”

Ngài đáp: “Đệ tử là dân xứ Tân Châu, Lĩnh Nam. Đường xa đến đây lễ thầy, chỉ cầu làm Phật chứ không cầu gì khác.”

Ngũ Tổ nói: “Ông là dân xứ Lĩnh Nam, ấy là dân mường mán, mọi rợ, làm sao có thể làm Phật?’

Ngài liền đáp ngay: “Bạch thầy, người có phân ra nam bắc, nhưng tánh Phật vốn không có nam bắc. Tấm thân mường mán này với thân Hòa thượng tuy có khác, nhưng tánh Phật đâu có chi khác biệt?”

Ngũ Tổ nghe qua lời đáp, có ý muốn nói điều gì đó, nhưng chợt thấy đồ chúng vây quanh đông đảo liền bảo ngài hãy lui ra, theo đồ chúng mà làm công việc trong chùa.

Ngài lại thưa rằng: “Đệ tử tự tâm thường sanh trí tuệ, chẳng rời tự tánh, tức là ruộng phước thường sinh phước đức, chẳng hay Hòa thượng còn dạy phải làm việc chi?”

Ngũ Tổ gạt ra, nói: “Tên mọi rợ này căn tánh lanh lợi quá! Thôi đừng nói nữa, hãy đi làm việc đi.”

Ngài nghe lời Ngũ Tổ dạy, liền lui ra nhà sau. Những người ở đây sai bảo ngài bửa củi, giã gạo, trải qua đến hơn tám tháng.


Thanked by 2 Members:

#492

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 24/07/2012 - 22:57

b. Đi tìm dấu vết xa xưa...

Thật ra, về thân thế của Lục Tổ Đại sư thì hiện nay chúng ta không có bất cứ nguồn sử liệu nào có tính cách chính sử, nghĩa là có thể tin cậy vào một cách chắc chắn. Như đã nói, những gì được kể lại như trên là hoàn toàn dựa vào phẩm Hành do trong Pháp Bảo Đàn Kinh. Trong đó, Lục Tổ Đại sư tự thuật lại thân thế và quá trình học đạo của mình. Ngoài những chi tiết được nêu ra ở đây, chúng ta không còn tìm thấy nguồn tư liệu đáng kể nào khác có đề cập đến thân thế của ngài. Chỉ có một vài chứng tích rất mờ nhạt mà chúng tôi sẽ nói đến trong một phần sau.

Pháp Bảo Đàn Kinh là một tác phẩm bằng Hán văn do các đệ tử của Lục Tổ Đại sư ghi chép lại. Nhưng về mặt văn bản học thì bản văn này đã hoàn toàn thất lạc, chưa được tìm thấy. Tất cả những bản hiện có đều được sao chép lại vào một thời điểm khá lâu sau khi Đại sư viên tịch, và không ai có thể nói chắc được là chúng đảm bảo tính chính xác đến mức nào!

Bản Pháp Bảo Đàn Kinh hiện đang lưu hành rộng rãi nhất được chép lại vào năm 1291, gọi là bản Tông Bảo, và được đưa vào Đại Tạng Kinh thời Minh. Đến nay, bản này vẫn còn được lưu giữ trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, được xếp vào quyển 48, số hiệu 2008, trang 345. Trước đó một năm, vào năm 1290 có một bản khác được khắc in ở Nam Hải, gọi là bản Đức Dị. Hai bản này khi so sánh thấy không khác biệt nhau lắm, nhưng chính bản Đức Dị đã được đưa sang Triều Tiên vào năm 1316 và từ đó về sau được chuyển dịch, lưu hành tại quốc gia này.

Trước đó cũng có một số bản Pháp Bảo Đàn Kinh khác nhưng không được phổ biến rộng rãi bằng hai bản vừa kể. Sớm nhất là bản chép năm 967, gọi là bản Huệ Hân. Sau đó là các bản năm 1013 (bản Thiều Hồi), năm 1116 (bản Tồn Trung) và năm 1153 (bản Bắc Tống). Mãi đến gần đây, việc khai quật các thủ bản ở Đôn Hoàng mới hé ra một tia sáng mới: bản Pháp Bảo Đàn Kinh được tìm thấy ở đây có niên đại được xác định vào khoảng năm 830 – 860, nghĩa là cổ nhất so với các bản trước đó đã từng được biết.

Hơn thế nữa, sự khảo sát văn bản còn cho thấy là tất cả các bản kể trên thật ra đều có xuất xứ từ bản Đôn Hoàng, với những thêm thắt khác nhau trong quá trình sao chép. Vì thế, bản Đôn Hoàng là bản ngắn nhất, chỉ có khoảng 12.000 chữ, so với những bản khác đều có khoảng trên dưới 20.000 chữ!

Tuy được xác định là bản ra đời sớm nhất, nhưng nếu so với năm viên tịch của Lục Tổ Đại sư được ghi lại chính trong sách này là năm Tiên Thiên thứ 2 (713) thì cũng đã có khoảng cách đến hơn một thế kỷ! Như vậy, tính chính xác của văn bản này cũng chỉ là tương đối mà thôi.

Quay sang tìm kiếm ở các nguồn sử liệu khác, chúng ta hầu như không tìm thấy gì khác ngoài hai dấu vết mờ nhạt sau đây:

1. Trong Lăng-già sư tử ký, cũng khai quật được ở Đôn Hoàng, thấy có nhắc đến tên Huệ Năng là một trong 10 vị đệ tử của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn. Ngoài ra không đề cập thêm chi tiết nào khác về ngài.

2. Trong bia ký của Vương Duy, một nhà thơ lớn, được chép vào năm 740, thấy có đoạn ghi chép về thiền sư Huệ Năng, đại ý nói rằng “...không ai biết quê quán của ngài ở đâu, chỉ biết ngài sinh sống ở một vùng man di mọi rợ, khi còn trẻ đến học đạo với Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, được Ngũ Tổ nhận ra là bậc pháp khí và truyền trao y bát, bảo ngài phải lánh đi nơi khác. Ngài đã ẩn cư trong 16 năm, sống chung với những người dân tầm thường ngu dốt...”

Nội dung trong bia ký của Vương Duy tuy không phong phú lắm nhưng rất quan trọng, vì qua so sánh chúng ta thấy có nhiều điểm phù hợp với những gì được ghi trong Pháp Bảo Đàn Kinh. Và điều này có thể giúp tăng thêm tính xác thực cho văn bản, bởi vì bia ký được chép vào thời điểm khá sớm, chỉ mới có 27 năm sau khi Lục Tổ Đại sư viên tịch!

Một chi tiết nữa cũng cần được lưu ý là trong lời thêm vào ở cuối bản Đàn Kinh do đệ tử của Lục Tổ Đại sư là Lịnh Thao ghi, có một đoạn nhắc đến văn bia này của Vương Duy và một số văn bia khác nữa: “Còn những sự tích khác, hiện chép tại các bài văn bia của quan Thượng thư Vương Duy, quan Thứ sử Liễu Tông Nguyên, quan Thứ sử Lưu Vũ Tích đời nhà Đường.”

Nay văn bia của Vương Duy quả thật đã được tìm thấy, còn 2 tấm văn bia của Liễu Tông Nguyên và Lưu Vũ Tích thì chưa. Nhưng căn cứ vào việc tìm thấy văn bia của Vương Duy thì có thể tin được bài viết của Lịnh Thao là có thật chứ không phải do người đời sau thêm vào.


Thanked by 1 Member:

#493

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 24/07/2012 - 23:02

c. Câu hỏi chưa có lời đáp

Không một tài liệu mang tính chính sử nào ghi chép về Lục Tổ Đại sư, dù là rất ít. Điều này cho thấy là đương thời ngài không phải một bậc thầy nổi tiếng khắp nơi. Những kẻ biết đến ngài chỉ là giới hạn trong số những người quanh vùng được nghe ngài thuyết pháp hoặc từ xa tìm đến học đạo với ngài. Thiền sư Huyền Giác là một người tinh thông kinh luận, học rộng biết nhiều, nhưng không hề biết đến Lục Tổ, phải đợi khi tình cờ được Huyền Sách giới thiệu mới biết để tìm đến học đạo.

Sự kiện này cho thấy là Lục Tổ Đại sư vào thời đó quả thật không được nhiều người biết đến, khác với Đại sư Thần Tú chính thức được thừa nhận là bậc Quốc sư, thầy dạy của vua, với số môn đồ theo học lúc nào cũng đông đảo. Và vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy không có tư liệu đương thời nào ghi chép về ngài.

Mặc dù khách quan đánh giá về tình hình văn bản, sử liệu là như thế, nhưng vấn đề thật ra cũng không phải hoàn toàn bi quan, mờ mịt. Trong số những dữ kiện ít ỏi mà chúng ta hiện có được, vẫn có rất nhiều đầu mối khá quan trọng giúp ta có thể thông qua đó mà tìm biết được phần nào về những gì liên quan đến Lục Tổ Đại sư.

Trước hết, về quê quán của Lục Tổ Đại sư, tất cả các bản Đàn Kinh đều chép giống nhau, rằng cha ngài quê ở Phạm Dương, trước làm quan, sau bị giáng chức đày ra Tân Châu, Lĩnh Nam. Và vì cha mất sớm, ngài cùng với mẹ già phải lưu lạc đến Nam Hải để sống bằng nghề bán củi.

Như vậy, Phạm Dương (có người nói thuộc tỉnh Hà Bắc) là quê nội của ngài, nhưng ngài đã không được sinh ra và lớn lên ở đó. Nơi sinh trưởng của ngài là ở các vùng Tân Châu, Lĩnh Nam và Nam Hải. Nói rằng cha ngài mất sớm, nên chúng ta có thể tạm hình dung ngài đã phải phiêu dạt từ nhỏ đến những nơi này chứ không đợi đến tuổi trưởng thành. Vào thế kỷ 7, nước ta vẫn còn đang trong thời kỳ Bắc thuộc, và những địa danh Tân Châu, Lĩnh Nam, Nam Hải đều rất quen thuộc với người Việt thời đó.

Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim nói Tân Châu thuộc Liễu Châu, tỉnh Quảng Tây ngày nay. Nhưng ngày xưa thì Tân Châu là một phần của vùng Lĩnh Nam. Theo sách Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sỹ (soạn vào năm 1775) thì Lĩnh Nam là vùng đất kể từ 2 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây chạy về phía nam. Đây cũng chính là cương giới của nước Việt thời xưa.

Chính vì thế mà ta có tập truyện “Lĩnh Nam chích quái” ghi chép những chuyện lạ lùng, kỳ quái trên đất Việt. Đại Việt Sử ký toàn thư (bản khắc gỗ in năm 1697), phần Ngoại kỷ, quyển 2, tờ 18a có đoạn chép rằng: “... Trưng Nữ Vương tuy lấy được Lĩnh Nam... ...mà các triều Đinh, Lê, Lý, Trần chỉ có đất từ Giao Châu trở về nam thôi, không khôi phục được đất cũ của Triệu Vũ Đế...”

“Đất cũ của Triệu Vũ Đế” chính là các vùng Quảng Đông, Quảng Tây, trước đó vốn thuộc Lĩnh Nam nhưng về sau không còn nữa, vì biên giới bị thu hẹp về phía nam. Như vậy, có thể xác định nơi mà gia đình Lục Tổ vì “có tội bị đày ra” chính là thuộc địa phận nước Việt ta xưa kia.

Nam Hải cũng là một địa danh thuộc nước Việt xưa. Sách Đại Việt sử lược, một trong những bộ sử sớm nhất của nước ta, có thể đã được biên soạn vào khoảng những năm 1377 – 1388, chép rằng vào đời Tần Nhị Thế (sau Tần Thuỷ Hoàng), quan Ký quận Nam Hải là Triệu Đà mang quân đánh chiếm các quận Quế Lâm và Tượng Quận rồi lập thành nước Nam Việt, tự xưng là Nam Việt Vương. Sách này cũng cho biết là Nam Việt Vương khéo phục lòng dân, được dân các xứ Âu Lạc, Mân Việt đều quy phục, đất đai mở rộng đông tây có hơn muôn dặm...

Như vậy, rõ ràng Nam Hải ngày xưa cũng là một địa danh thuộc nước Việt ta. Hơn thế nữa, quận này cũng nằm lân cận với Tân Châu chứ không xa lắm. Vì thế, khi mưu sinh khó khăn thì Lục Tổ cùng với mẹ già đã từ Tân Châu sang ngụ ở Nam Hải. Vậy nơi mà Lục Tổ và mẹ ngài sinh sống cũng thuộc địa phận nước ta thời ấy.

Điều này càng được khẳng định hơn nữa khi tất cả các bản Đàn Kinh đều chép giống nhau ở chi tiết Ngũ Tổ gọi ngài Huệ Năng khi mới gặp là “man di mọi rợ” (cát liêu). Đây chính là quan điểm của người Trung Hoa xưa kia đối với người Việt cũng như tất cả các dân tộc láng giềng của họ. Về phía tây là “mọi Tây” (Tây di), về phía nam là “rợ Nam” (Nam man), và nói chung tất cả đều là man di mọi rợ, chỉ trừ người “Trung Quốc” được xem là “ở giữa” và là “có văn minh”!

Như đã nói, những chi tiết này cũng được xác định trong nội dung bia ký của thi hào Vương Duy, dựng năm 740. Như vậy, chúng ta có thể chắc chắn rằng nơi sinh ra và lớn lên của Lục Tổ chính là đất Việt ngày xưa.

Vậy nếu như Lục Tổ là người sinh trưởng trên đất Việt Nam, liệu có thể tìm được cứ liệu nào liên quan đến ngài ở nước ta hay chăng? Chúng tôi đã thử quay sang tìm kiếm theo hướng này và phát hiện được một vài điểm đáng lưu ý.

Bản Đàn Kinh tìm được ở Đôn Hoàng không nói rõ về thân thế gia đình Lục Tổ, ngoài những gì chúng ta đã nhắc đến ở trên. Nhưng trong bài tựa được ghi là do ngài Pháp Hải soạn (được thêm vào ở các bản Đàn Kinh khác) có thêm một số chi tiết rõ hơn. Chẳng hạn, qua bài tựa này chúng ta biết ngài sinh năm Trinh Quán thứ 12 (738) và cha ngài họ Lư, tên huý là Hành Thao.

Sách An Nam chí lược của Lê Tắc soạn vào thế kỷ 14 có nhắc đến một người Trung Hoa họ Lư liên quan đến nước ta là Lư Tàng Dụng. Lai lịch người này có những chi tiết khiến ta ngờ rằng có một mối quan hệ nào đó với thân thế của Lục Tổ Đại sư.

Sách này chép về Lư Tàng Dụng như sau:

“Lư Tàng Dụng tự là Sĩ Thanh, người Do Châu, thi tiến sĩ không đỗ... ... Võ Hậu dùng làm Hoàng Môn Thị Lang. Vì tội phụ giúp Thái Bình Công chúa, Huyền Tông lúc đầu muốn xử trảm, sau bớt giận bèn đày đi Tân Châu...”

Dựa theo ghi chép này thì các chi tiết về tên họ, sự kiện làm quan bị giáng chức, đày ra Tân Châu đều trùng hợp một cách đáng ngờ! Nhưng xét về thời gian có mấy điểm không phù hợp. Nếu là Võ Hậu dùng ông này làm Hoàng Môn Thị Lang, vậy phải là trong thời gian bà nắm quyền bính. Sử Trung Hoa cho biết bà được lập làm hoàng hậu năm 655 và chính thức tham gia triều chính từ năm 660, cho đến năm 684 xưng làm Hoàng đế và nắm quyền đến năm 705. Còn vua Huyền Tông lên ngôi năm 713, sau khi Võ Hậu đã mất, và trị vì đến năm 755. Sự kiện công chúa Thái Bình xảy ra đương thời Võ Hậu, nên e rằng việc nhắc đến vua Huyền Tông ở đây là có gì đó nhầm lẫn.

Theo bài tựa Đàn Kinh thì Lục Tổ sinh năm 638, sớm hơn so với thời gian Võ Hậu cầm quyền. Nhưng tính chính xác của bài tựa Đàn Kinh cũng cần được xét lại. Bản Đàn Kinh tìm được ở Đôn Hoàng không có bài tựa này. Như vậy, có phần chắc chắn là nó không phải do ngài Pháp Hải viết ra. Bởi nếu là do Pháp Hải soạn thì nó phải có mặt ngay trong lần in đầu tiên chứ không thể mãi về sau mới được thêm vào!

Và nếu là do người đời sau soạn, thì những chi tiết có thể đã được ghi theo trí nhớ từ những lời truyền miệng qua nhiều thế hệ.

Dĩ nhiên là vẫn còn chưa đủ cơ sở để khẳng định, nhưng chúng tôi thử đặt ra một giả thuyết là có sự sai lệch khi bài tựa Đàn Kinh ghi lại năm sinh của Lục Tổ. Nếu như đó không phải là năm 638, mà là một năm nào khác trong khoảng gần hơn so với năm 660, nghĩa là năm mà Võ Hậu đã bắt đầu có những quyết định chi phối việc triều chính; và nếu như ghi chép của An Nam chí lược là chính xác, thì Lư Tàng Dụng có làm quan trong thời Võ Hậu, sau bị tội đày ra Tân Châu. Trong thời gian bị đày đến ở Tân Châu, Lĩnh Nam, phải chăng chính gia đình họ Lư này đã sinh ra được người con là Lục Tổ? Hoặc cũng có thể vào thời điểm gia đình bị lưu đày thì ngài đã ra đời nhưng vẫn còn là một đứa trẻ?

Nói một cách cụ thể hơn, nếu chúng ta giả định rằng ngài ra đời vào khoảng năm 648 hoặc muộn hơn, vào bất cứ thời điểm nào sau năm 660 nhưng trước năm 705 thì vấn đề sẽ trở nên hợp lý hơn. Bởi vì nếu như ngài sinh năm 648 và gia đình ngài bị lưu đày ngay trong năm đầu Võ Hậu cầm quyền, thì lúc đó ngài sẽ là một cậu bé mới 12 tuổi. Tuy nhiên, khả năng này có thể xem là kém thuyết phục, vì như trong một phần sau nữa chúng tôi sẽ chứng minh rằng ngài rất có thể đã sinh ra và lớn lên tại Tân Châu, Lĩnh Nam.

Tất cả những điều nói trên có lẽ đều là những nghi vấn rất đáng nêu lên để các nhà sử học tiếp tục quan tâm làm rõ.

Nhưng chúng ta hãy tạm gác lại nghi vấn này để chờ đợi may ra sẽ có thêm những chứng cứ, những tư liệu mới có thể giúp giải quyết được vấn đề. Bây giờ, quay sang với bài tựa của Đàn Kinh, chúng ta sẽ tìm hiểu xem người xưa đã xây dựng những huyền thoại gì quanh sự ra đời của Lục Tổ Đại sư trên đất nước Việt Nam.



Thanked by 1 Member:

#494

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 24/07/2012 - 23:05

d. Huyền thoại về Lục Tổ Đại sư

Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà.

Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”

Cha ngài hỏi: “Vì sao đặt tên là Huệ Năng?” Hai vị tăng đáp: “Huệ, nghĩa là đem Pháp mà bố thí cho chúng sanh; Năng, nghĩa là đủ sức làm nên Phật sự.”

Hai người nói rồi ra đi, chẳng biết đi đâu!

Ngài không dùng sữa mẹ, đêm đêm có thần nhân hiện đến nuôi bằng nước cam-lộ.

Khi lớn lên, năm 24 tuổi ngài nghe kinh Kim Cang chợt có chỗ bừng sáng, mới đến núi Hoàng Mai cầu đạo, được Ngũ Tổ nhận cho là được. Ngũ Tổ nhận biết ngài là bậc pháp khí, liền trao y bát và truyền pháp, nối làm Tổ đời thứ sáu. Lúc ấy là năm đầu niên hiệu Long Sóc.

Ngài theo lời dạy của Ngũ Tổ mà đi về phương Nam ẩn náu trong 16 năm, mang hình tướng của người thế tục. Qua năm đầu niên hiệu Nghi Phụng, nhằm ngày mùng tám tháng giêng, Ngài gặp pháp sư Ấn Tông cùng luận bàn những ý nghĩa cao siêu huyền diệu. Pháp sư Ấn Tông nghe qua tỉnh ngộ, hiểu được nghĩa lý trong lời dạy của ngài, liền bái phục. Bảy ngày sau, tức ngày rằm tháng giêng, pháp sư Ấn Tông nhóm họp bốn chúng, làm lễ xuống tóc cho ngài.

Ngày mùng tám tháng hai, Pháp sư lại nhóm họp các vị danh đức, làm lễ truyền giới cụ túc. Các vị truyền giới có ngài Trí Quang Luật sư ở Tây Kinh (Trường An) làm Thọ giới sư, ngài Huệ Tĩnh Luật sư ở Tô Châu làm Yết-ma, ngài Thông Ứng Luật sư ở Kinh Châu làm Giáo Thọ, ngài Kỳ-đa-la Luật sư ở Trung Thiên Trúc làm Thuyết Giới, ngài Mật-đa Tam Tạng ở nước Tây Trúc làm Chứng Giới.

Giới đàn này là do ngài Cầu-na Bạt-đà-la Tam Tạng hồi triều Lưu Tống sáng lập, có dựng bia đề rằng: “Sau này sẽ có vị Bồ Tát hiện thân người phàm mà thọ giới nơi đây”.

Lại nữa, năm đầu niên hiệu Thiên Giám nhà Lương, Trí Dược pháp sư từ nước Tây Trúc vượt biển sang đây, mang theo một cây Bồ-đề bên xứ ấy mà trồng kế bên đàn này, cũng có nói rằng: “Về sau, khoảng 170 năm nữa, sẽ có vị Bồ Tát hiện thân người phàm mà khai diễn pháp Thượng thừa dưới cội cây này, độ cho vô số chúng sanh, là vị Pháp chủ chân truyền tâm ấn của Phật vậy.”

Trong pháp hội này, Ngài chính thức cạo bỏ râu tóc, thọ giới tỳ-kheo, và vì bốn chúng mà khai thị pháp Đại thừa Đốn giáo, mọi việc đều đúng như những lời dự báo từ trước.

Mùa xuân năm sau, Ngài từ giã bốn chúng mà về chùa Bảo Lâm ở Tào Khê. Ấn Tông pháp sư và cả hai giới tăng tục theo tiễn chân có tới trên ngàn người, thẳng đến tận Tào Khê.

Khi ấy, Thông Ứng Luật sư ở Kinh Châu với vài trăm người tu học cùng về nương theo ngài.

Ngài đến chùa Bảo Lâm, Tào Khê, thấy nhà cửa thấp hẹp, chẳng đủ cho bốn chúng ăn ở. Muốn mở rộng ra, Ngài liền đến gặp một người trong làng là Trần Á Tiên mà nói rằng: “Lão tăng muốn đến thí chủ, cầu xin một chỗ đất để trải cái tọa cụ, không biết có được chăng?”

Á Tiên hỏi: “Tọa cụ của Hòa thượng rộng chừng nào?” Tổ Sư đưa tọa cụ ra cho xem. Á Tiên đồng ý.

Tổ Sư lấy tọa cụ giũ ra một cái, tỏa rộng phủ hết cả vùng Tào Khê, có bốn vị Thiên vương hiện thân ngồi nơi bốn góc. Ngày nay, ở cảnh chùa ấy có núi Thiên Vương, là nhân chuyện này mà đặt tên.

Á Tiên nhìn thấy liền nói: “Nay tôi được biết pháp lực của Hòa thượng thật là rộng lớn; có điều, mồ mả tổ tiên nhà tôi từ trước đến nay đều ở tại đất này. Nếu về sau có cất chùa dựng tháp, xin đừng hủy hoại, còn ngoài ra xin cúng dường cả để mãi mãi dùng làm ngôi Tam Bảo. Nhưng đất này là mạch đến của sanh long, bạch tượng, chỉ có thể làm bằng bên trên, chứ không nên làm bằng phía dưới.”

Theo lời Á Tiên, mọi sự kiến thiết, xây dựng về sau đều tuân thủ như vậy.

Một hôm, Tổ Sư đi dạo chơi đến một chỗ cảnh vật tốt tươi, có suối nước, non cao, liền dừng nghỉ lại đó, bèn thành một nơi lan-nhã. Có cả thảy 13 cảnh như vậy, ngày nay gọi là Hoa Quả Viện. Còn tên gọi đạo tràng Bảo Lâm là do ngài Trí Dược Tam Tạng ở nước Tây Trúc đặt. Khi ngài từ Nam Hải qua cửa Tào Khê, lấy tay vốc nước uống thấy thơm và ngon, lấy làm lạ mà bảo môn đồ rằng: “Nước này với nước bên Tây Thiên không khác gì. Trên nguồn suối này ắt có thắng địa, cất chùa lên rất tốt.”

Liền lần theo dòng suối mà đi lên nguồn, thấy bốn bề non nước quanh co, đèo động tốt lạ, khen rằng: “Thật không khác gì núi Bảo Lâm bên Tây Thiên!” Liền nói với cư dân thôn Tào Hầu rằng: “Nơi đây nên cất một ngôi chùa. Sau này chừng một trăm bảy mươi năm nữa, sẽ có pháp bảo vô thượng được diễn giảng ở đây, kẻ đắc đạo nhiều vô kể, nên đặt hiệu là Bảo Lâm.”

Quan Mục Thiều Châu thuở ấy là Hầu Kính Trung đem lời đó soạn tờ biểu tâu lên triều đình. Nhà vua chuẩn lời xin, ban cho tấm biển đề là Bảo Lâm Tự. Bởi đó mà thành một ngôi chùa. Việc ấy bắt đầu từ năm thứ 3 niên hiệu Thiên Giám.

Trước chùa có hồ lớn, thường có một con rồng nổi lên, thân hình to lớn quấn quanh, làm hại cây cối trong rừng. Một ngày kia, nó hiện hình rất lớn, quẫy đạp sóng dậy tràn lên, mây mưa mù mịt, khiến tăng chúng đều sợ hãi.

Tổ Sư ra nạt con rồng rằng: “Ngươi chỉ hiện được hình lớn, chẳng hiện được hình nhỏ. Nếu là rồng thần biến hóa được, lẽ ra nên từ nhỏ thành lớn, từ lớn thành nhỏ mới phải.”

Ngài nói xong, con rồng ấy liền lặn ngay xuống, giây lâu hiện lên thân hình rất nhỏ bé, nhảy nhót trên mặt hồ. Tổ Sư mở bình bát ra, hỏi rằng: “Ngươi có dám nhảy vào cái bát của lão tăng đây không?”

Con rồng bèn lượn quanh, rồi chập chờn đến trước Tổ Sư, Ngài lấy cái bát úp lại, con rồng chẳng cựa quậy gì được nữa. Tổ Sư liền mang bát trở lên chùa, thuyết pháp với rồng. Rồng bèn thoát xác mà đi, bỏ lại bộ xương dài chừng bảy tấc, đầu, đuôi, sừng, chân đều đủ cả, tương truyền là vẫn để ở cửa chùa. Sau này, Tổ Sư sai lấy đất đá lấp cái hồ ấy. Ngày nay ở trước đền, phía bên trái có cây tháp sắt, tức là chỗ đó vậy.



Thanked by 1 Member:

#495

hiendde



 

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

 

Gửi vào 24/07/2012 - 23:08

e. Bản Đàn Kinh ở Đôn Hoàng

Bản Đàn Kinh tìm được ở Đôn Hoàng không có bài tựa nói trên, nghĩa là không có những chi tiết cụ thể cũng như những huyền thoại về sự ra đời của Lục Tổ Đại sư. Bài tựa cho chúng ta nhiều chi tiết hơn, nhưng đồng thời tính xác thực của nó cũng kém hơn so với những gì được ghi trong phần chính văn của Đàn Kinh.

Trong các bản Đàn Kinh khác, bài tựa này được in đầu sách và ghi rõ là do Pháp Hải soạn vào đời nhà Đường. Pháp Hải đúng là một trong mười đệ tử được Lục Tổ Đại sư giao phó trách nhiệm lưu truyền Đàn Kinh. Trong bản Đàn Kinh ở Đôn Hoàng cũng có đoạn nói rằng chính Pháp Hải là người biên tập Đàn Kinh. Phân đoạn 55 trong bản Đôn Hoàng viết:

“Đàn Kinh này là do Thượng Toạ Pháp Hải biên tập. Lúc mất, Thượng Toạ giao lại cho người bạn đồng học là Đạo Xán. Lúc Đạo Xán qua đời lại giao cho người đệ tử là Ngộ Chơn. Ngộ Chơn hiện giờ đang truyền thọ giáo pháp này ở chùa Pháp Hưng, núi Tào Khê, thuộc Lĩnh Nam.”

Theo như đoạn văn này thì Đàn Kinh được ghi chép ngay sau khi Lục Tổ Đại sư viên tịch, và đệ tử của ngài là Pháp Hải đã chủ trì thực hiện việc ghi chép. Nhưng không thấy có bài tựa do Pháp Hải viết như các bản sau này. Trong khi đó, các bản Đàn Kinh khác đều có thêm bài tựa ở đầu sách. Tất cả các bản đều nói rất rõ là ngài viên tịch ngày mùng 3 tháng 8 năm Quý Sửu (713).

Như vậy, Pháp Hải sau đó đã giao lại bản Đàn Kinh này cho một người bạn đồng học là Đạo Xán. Chúng ta không biết Pháp Hải viên tịch năm nào, nên tạm ước chừng là trong khoảng 30 năm sau khi Lục Tổ Đại sư viên tịch. Đạo Xán là bạn đồng học, nên có lẽ không chênh lệch tuổi tác quá nhiều so với Pháp Hải. Ông này đã tiếp tục giữ gìn bản Đàn Kinh cho đến khi mất và thời gian này có lẽ cũng không quá 20 năm. Khi ấy, Đạo Xán giao Đàn Kinh lại cho Ngộ Chơn.

Có khả năng chính vị này là người ghi thêm phân đoạn 55 và 2 phân đoạn sau đó nữa vào bản Đàn Kinh. Bởi vì trong đoạn văn nói “Ngộ Chơn hiện giờ đang... ...ở chùa Pháp Hưng, núi Tào Khê...”, như vậy có nghĩa là khi viết đoạn văn này vào Đàn Kinh thì Ngộ Chơn vẫn còn đang sống. Và thời điểm này có thể ít nhất đã cách thời điểm Lục Tổ Đại sư viên tịch vào khoảng 50 năm. Và nếu những ước đoán của chúng ta không sai lệch lắm thì bản Đàn Kinh được hoàn chỉnh đến những dòng cuối cùng như trên vào lúc này, khoảng năm 763.

Giáo sư Akira Fujieda của Đại Học Tokyo đã thực hiện việc giảo nghiệm lối viết chữ để xác định niên đại của bản Đàn Kinh tìm được ở Đôn Hoàng và kết luận là bản này được chép sớm nhất cũng phải vào năm 830, muộn nhất không quá năm 860. Nếu kết luận này là đáng tin cậy, thì từ khi được định hình hoàn chỉnh như trên đến thời điểm văn bản Đôn Hoàng được thực hiện đã có khoảng cách thời gian gần 100 năm! Điều này cho thấy là sau khi Lục Tổ Đại sư viên tịch cho đến khoảng hơn một thế kỷ sau đó thì Đàn Kinh vẫn chưa được phổ biến rộng rãi. Và chính vì thế mà ngày nay chúng ta mới không tìm được bản Đàn Kinh nào ra đời từ thời đó.

Trong một tập sách bằng Anh ngữ nhan đề “The Zen Doctrine of No-Mind” (Samuel Weiser, Inc, 1972), D. T. Suzuki có đề cập đến một quyển tiểu sử Lục Tổ Đại sư do một thiền sư Nhật Bản là Tối Trừng (người sáng lập tông Thiên Thai ở Nhật Bản) mang về Nhật vào năm 803, khi vị này sang Trung Hoa để tham học Phật pháp. Như vậy, tập sách này chắc chắn ra đời trước năm 803, nếu không nói là sớm hơn nhiều, vì D. T. Suzuki hẳn có đủ cơ sở nên mới tin rằng nó được biên soạn ngay sau khi Lục Tổ Đại sư viên tịch vào năm 713. Và nếu quả đúng vậy thì đây có thể xem là tư liệu đáng tin cậy nhất về Lục Tổ Đại sư.

Chúng tôi hiện không có trong tay tài liệu này, nhưng theo D. T. Suzuki trong sách đã dẫn trên thì tài liệu này cho biết ngài Huệ Năng đã tìm đến Ngũ Tổ vào năm 34 tuổi, trong khi bài tựa Đàn Kinh chúng ta vừa nhắc đến lại nói là 24 tuổi!

Ngoài ra, sách này cũng cho biết thêm một chi tiết thú vị nữa là ngay sau khi Lục Tổ Đại sư nhận y bát và rời đi không bao lâu thì Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn viên tịch. Chi tiết này hoàn toàn không có trong bản Đàn Kinh tìm được ở Đôn Hoàng, và trong các bản sau này thì được thêm vào bằng một câu khá mơ hồ, qua lời Ngũ Tổ dự báo rằng “Ông đi rồi thì 3 năm sau ta sẽ bỏ cõi thế”, nhưng sau đó lại không có đoạn nào xác nhận là thật ra thì Ngũ Tổ có viên tịch đúng 3 năm sau hay không?

Nếu tài liệu được Suzuki dẫn trên là chính xác, nghĩa là Ngũ Tổ viên tịch ngay sau khi Lục Tổ ra đi về phương Nam, thì xem ra điều này khá phù hợp để giải thích việc truyền y bát có vẻ như hơi vội vàng của Ngũ Tổ, vào lúc mà chàng thanh niên Huệ Năng đến chùa chưa bao lâu cũng như chưa được truyền thọ Cụ túc giới để chính thức trở thành một vị tăng.

Tuy nhiên, nếu loại bỏ những yếu tố khác biệt chỉ mang tính sự kiện như vừa nêu trên, thì các bản Đàn Kinh nói chung không khác nhau mấy trong phần chính văn khi trình bày về giáo pháp Đốn ngộ mà Lục tổ Đại sư thuyết giảng. Điều này cho thấy các vị đệ tử đã gìn giữ rất tốt những lời dạy của thầy. Còn những sai lệch như nêu trên có thể chỉ là do họ đã không quan tâm đúng mức trong việc ghi chép sự kiện, cũng như do về sau – có thể là bắt đầu từ lần in năm 967 – đã có nhiều sự thêm thắt vào mỗi lần khắc in, làm cho bản Đàn Kinh ngày càng dài ra hơn và có thêm nhiều chi tiết hơn.

Tuy nhiên, có một điều dễ nhận ra và rất đáng trân trọng là những bản Đàn Kinh ra đời muộn hơn về sau, nhất là bản Tông Bảo đời Minh (1291), đều đã được nhuận sắc rất kỹ lưỡng, nên câu văn trở nên mạch lạc, rõ ràng và dễ hiểu hơn nhiều khi so sánh với bản Đôn Hoàng. Để làm được điều đó mà không sai lệch đi ý nghĩa kinh văn, những người nhuận sắc chắc chắn đã phải dày công khảo cứu cũng như phải nắm vững được những lời dạy trong giáo pháp này.

Như vậy, việc tìm được cổ bản Đôn Hoàng thật ra chỉ có ý nghĩa về mặt khảo cứu nhiều hơn, vì so ra nó không làm thay đổi mấy những gì đã được nhận hiểu từ các bản Đàn Kinh đang lưu hành, nhất là bản Tông Bảo. Có chăng là nó đã giúp tạo thêm niềm tin chắc chắn vào độ chính xác của những lời giảng dạy về giáo pháp được ghi lại trong Đàn Kinh, bởi vì cho dù có sự thay đổi, trau chuốt văn từ, nhưng khi so sánh thì người ta vẫn thấy ý nghĩa không có gì sai lệch!



Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |