5
831 replies to this topic
#16
Gửi vào 06/06/2011 - 22:10
CHƯƠNG TÁM
HUYỀN THÔNG PHÁP THUẬT
Tiếp đến là một cuộc thí nghiệm khác. Minh Sư tôi lấy ra một số vật dụng bằng thủy tinh đựng trong một cái hộp bạc, cột từng cái bóng vào sợi dây điện, đoạn dùng cả hai tay quay mạnh, có tiếng động cơ phát ra và lạ thay tất cả các bóng đèn thủy tinh kia thảy đều rực sáng. Sự kiện này làm cho tôi ngạc nhiên không ít.
- Với cái máy này đối với bất cứ ai dù không có nhãn thông cũng có thể nhìn thấy "nhân thể quang" của nó. Chú có gì thắc mắc không? Nhưng bây giờ thì chúng ta hãy trở ngay về phòng chuẩn bị đi dự khóa lễ buổi tối. Sau khi lễ tất, nghỉ ngơi ăn uống xong, thầy tôi lại bắt đầu giảng giải thêm vấn đề buổi chiều còn bỏ dở:
- Bây giờ chúng ta bắt đầu thực sự đi vào vấn đề mấu chốt, điều cần thiết là chú hãy chuẩn bị tư tưởng đừng để bị phân trí. Ta sẽ nói với chú về vấn đề "thôi miên", nó là một hiện tượng của một dòng điện xuất phát từ trong não bộ mỗi khi ta nghĩ ngợi đến điều gì! Hiện tượng này được phát hiện trên một họa đồ do từ dụng cụ y khoa ghi nhận.
Tôi sực nhớ lại lúc còn ở Thiền Viện, trong khóa tu luyện phương pháp tập trung tư tưởng đã có thể làm quay được một cái ống loa nhỏ làm bằng giấy mỏng có đục lỗ bắc vào một cái trục và tôi đã dùng hai luồng nhãn quan điều khiển cho nó quay tròn như chiếc chong chóng nhỏ.
Lúc bấy giờ tôi mới biết sự tập trung tư tưởng là một vấn đề quan trọng bởi đó là luồng điện năng có thể làm di động được mọi thứ tùy theo khả năng của mình cũng như trọng lượng của đối tượng.
- Chú nghĩ đúng. Bộ óc phát ra điện năng làm luân chuyển các hóa chất trong não bộ truyền lệnh cho gân cốt hành động.
Nói đến đây Minh Sư lấy xâu chuỗi hạt treo nơi cái móc trên tường rồi người nhìn tôi nói tiếp:
- Chú có thể di chuyển chuỗi hạt này đi nơi khác khi mà chú có một luồng điện năng đủ mạnh trong não bộ. Đối với tất cả mọi người nếu được tu luyện đều có thể thực hiện một cách dễ dàng. Nhưng chú sẽ gặp trở ngại nếu không nói là bị thất bại khi một kẻ nào đó có luồng điện năng mạnh hơn chú, họ có thể chế ngự chú và làm cho ý thức của chú hoàn toàn bị chế ngự.
Chú Sĩ Cát có lần trong cuộc mạn đàm đã giảng giải cho tôi điều này. Chú thực hành ngay trong ngày lễ Phật bên ngoài thiền viện với những trò chơi nhỏ dành cho các chú tiểu mua vui trong chốc lát bằng thuật thôi miên. Tuy nhiên lúc bây giờ tôi vẫn chưa tin hẳn, cho đó chỉ là một xảo thuật.
- Lỗ San! Những sự kiện mà chú đang suy tư đó đều là sự thật. Có nghĩa là chú Sĩ Cát hay các ông Hà Mịch, Lâm Trần từng thực hiện trong những trò chơi giải trí đều là sự thực phát xuất từ luồng điện trong não bộ điều khiển. Các sóng điện ở não bộ mà ta đã trình bày với chú ngày nay do các nhà khoa học Tây phương đã thu được bằng máy ghi lại trên họa đồ.
Như chú biết não bộ phát ra điện năng, còn điện năng phát ra sóng điện và chính sóng điện chi phối cho gân cốt ta hành động. Ví như, chú muốn nhắc cánh tay lên thì óc chú phát ra điện tức thì dòng điện ấy truyền mệnh lệnh cho gân cốt chú thực hiện điều gì chú muốn. Tuy nhiên, nếu lúc bấy giờ có kẻ nào có luồng điện mạnh hơn đang hiện diện muốn phủ định mệnh lệnh đó của chú, thì chú không tài nào có thể thực hiện được.
Tôi bắt đầu biết thế nào là thay đổi "điện cực" của luồng điện để làm cho nó chạy ngược chiều, nhưng vẫn còn chưa hiểu làm thế nào có thể đưa luồng điện vào trong não bộ được. Tôi nêu thắc mắc này ra, được Minh Sư giải thích:
- Ta không cần phải mở cái não bộ của chú ra để nhét các luồng sóng điện vào trong ấy, mà ta chỉ dùng bằng ý thức để khuyên hoặc chỉ dẫn chú tùy theo trường hợp!
- Có khi nào Minh Sư thôi miên một người nào đó mà không được họ đồng thuận hay không?
- Không. Điều này tuyệt đối không bao giờ có. Không nên làm như vậy. Ta không thể và những người biết thuật thôi miên cũng đều như vậy. Ngoại trừ trường hợp bắt buộc đối với người bệnh trong lúc họ mất tự chủ hoặc mê man nếu không cưỡng bách họ sẽ không thể nào tồn tại được! Ta sẽ hướng dẫn chú thực hiện điều này.
Tôi vô cùng sung sướng khi nghe Minh Sư sẽ truyền đạt cho thuật thôi miên, điều mà tôi hằng mơ ước. Tôi reo lên:
- Con thành thật đội ơn Minh Sư.
Thầy tôi cười:
- Thường thì ta nhận thấy chú có một điều tỏ ra không mấy thích thú. Vậy hôm nay ta muốn chú làm công việc mà chú không ưa thích này. Vậy chú có nhớ điều gì đó không?
Tôi cố lục lọi trong đầu mình xem điều mà Minh Sư bảo đó là điều gì, đành lên tiếng yêu cầu Minh Sư nhắc lại:
- Quả tình con không còn nhớ nữa, Minh Sư có thể nhắc lại hộ cho con không?
- Điều mà chú không mấy thích thú đó là phần thứ năm trong pho kinh Lăng Nghiêm. Ta không có gì trách cứ Lỗ San điều này. Chính cái phần năm đó có ý nghĩa quá cao siêu đã làm cho đầu óc chú mệt mỏi không ít. Ta biết vậy nên chẳng có gì phiền hà chú cả.
Đúng như lời Minh Sư đã nói, đây là sự thật mà trong bao nhiêu lâu nay tôi ấp ủ trong lòng không bao giờ tiết lộ.
Nhìn tôi giây lâu, Minh Sư đưa tay chỉ về phía cửa sổ đối diện:
- Chú hãy mang quyển kinh Lăng Nghiêm lại đây, và tìm cái phần mà chú không mấy thích thú đó để chúng ta cùng thảo luận.
Tôi miễn cưỡng vâng lời, đến lấy pho kinh Lăng Nghiêm Lăng Nghiêm mang lại đặt trên mặt bàn ngay trước mặt Minh Sư. Tại Tây Tạng có nhiều kinh sách nhưng pho kinh được xem là vĩ đại nhất phải nói là pho kinh Lăng Nghiêm! Tôi loay hoay tìm kiếm không phải vì chẳng biết đoạn ấy ở nơi nào nhưng vì muốn kéo dài thời gian.. để tránh đọc những dòng kinh mà tôi cho là khúc triết và tối nghĩa nhất.
Nhưng, lạ lùng thay, ngài Lạt Ma đưa mắt nhìn tôi đoạn thì thầm bảo:
"Chú hãy đọc thử xem, ta nghĩ rằng chẳng có gì khó khăn đối với chú cả!"
Lạ lùng thay! Quả đúng như lời Minh Sư bảo, tôi đọc một cách trôi chảy và am tường được tất cả ý nghĩa của đoạn kinh này một cách thật thích thú!
- Lỗ San! Bây giờ thì chú cảm thấy sảng khoái lắm phải không?
Tôi im lặng mỉm cười và cúi đầu xuống im lặng.
- Chú đã nhận được luồng cảm xạ của ta và não bộ chú đã làm theo những gì ta muốn. Lúc bấy giờ dung dịch bọc chất chuyển động trong não bộ của chú và đem lại kết quả mỹ mãn này. Đó là "thôi miên"! Chú hiểu chứ? Lỗ San! Ta đã truyền đạt cho chú sự sáng suốt ấy qua khoa thôi miên mà chú hằng mong muốn được học hỏi.
- Ta nghĩ rằng chú thừa hiểu thôi miên như thế nào rồi! Chỉ còn lại là phần luyện tập làm thế nào cho nhanh để kịp thời ứng phó trước những trường hợp cấp thiết! Điều này chú sẽ còn được huấn luyện thêm nữa.
Thôi miên là một trong những các chi tiết nhỏ trong nền văn minh nhân loại. Loài người đã phát hiện ra các qui luật của tự nhiên, phát sinh ra từ nhu cầu của xã hội và tư duy của con người sống giữa hành tinh này. Chú Sĩ Cát cũng đã từng giảng giải cho tôi điều này.
- Lỗ San có biết đâu thế giới chung quanh ta, trong xã hội loài người, và ngay luôn cả trong bản thể của con người còn chứa biết bao nhiều điều bí ẩn, nhân loại vẫn chưa tìm hiểu và khai thác hết được. Những người theo đường hướng tu luyện để có được một dòng điện mạnh tất nhiên là không phải dễ dàng gì.
Phương pháp tu tập này đòi hỏi từ sự ăn uống đến các nhu cầu cần thiết về ý tưởng. Người tu luyện thôi miên chẳng khác gì người tham Thiền. Các Thiền sư chỉ vì muốn chối bỏ tất cả cái "có" đang hiện hữu để trở thành cái không không.
Vì vậy mà các bậc Thiền sư lúc nào cũng để cho cái "Trí" được hoàn hoàn thanh tịnh! Người tu luyện phép thôi miên cũng vậy. Nếu không có sự tu luyện thì lòng tà vạy sẽ dấy lên và tất nhiên không tránh khỏi có những hành động độc ác.
Có lẽ Minh Sư tôn trọng sự suy tư của tôi trong giờ phút này, nên người chỉ im lặng đưa mắt nhìn mà chẳng nói năng thêm lời nào nữa vì sợ làm tôi kinh động! Mãi trong giây lâu sau người mới tiếp tục giảng giải tiếp:
- Có điều làm sao cho "cảm xạ lực" của chú phải được tăng trưởng nhiều hơn, bởi đó là nhu cầu cần thiết trong tương lai của chú.
- Thưa Minh Sư, con vẫn chưa rõ được tương lai của con như thế nào?
- Hiện bây giờ thì chú chưa cần phải quan tâm đến điều này. Nhưng vấn đề cấp thiết trước mắt là chú phải được huấn luyện thêm hơn nữa về vấn đề ta đang truyền đạt cho chú, vì nhu cầu của đất nước.
- Của đất nước? Tôi sửng sốt hỏi lại.
- Phải! Của đất nước. Ngoài vấn đề giải thoát cho linh hồn chúng ta còn có bổn phận bảo vệ xứ sở, bảo vệ dân tộc rồi đến một thời gian nào đó chú sẽ biết về sự cần thiết này.
Tôi im lặng đưa mắt nhìn Minh Sư chờ đợi những gì sau đó Người sẽ nói ra. Và quả thật, Minh Sư tôi nghiêm sắc mặt nhìn tôi:
- Chú sẽ được đưa đi nhiều nước ngoài xứ sở Tây Tạng này. Một khi chú thực hành nhiệm vụ mà Đức Lạt Ma Tối Cao sẽ giao phó cho chú, lúc ấy chú sẽ thấy mọi sự thông tin liên lạc là điều không thể thiếu sót được. Ngoài vấn đề sử dụng thuật thôi miên, chú còn phải đạt đến sự rành rẽ cả vấn đề thần giao cách cảm nữa.
Nghe Minh sư nói vậy, tôi cảm thấy càng lúc tôi càng không còn thời giờ dành riêng cho cá nhân mình. Mỗi ngày thêm mỗi việc, chẳng bớt đi chút nào.
- Thưa Minh Sư, con muốn biết rõ hơn về thần giao cách cảm.
- Như chú đã biết dù mới chỉ ở trình độ sơ đẳng, nó chỉ là một thuật rất giản dị. Thần giao cách cảm là sự truyền đạt ý nghĩ của mình mà không cần phải phát ra bằng tiếng nói dù ở tận một nơi nào xa xăm đến một đối tượng nào đó, và ngược lại.
Ta chỉ cần điều khiển làn sóng điện là có thể thực hiện được điều này. Có nghĩa là chú nghĩ một điều gì tức thì óc của chú sẽ phát ra luồng sóng điện đó. Như vậy có nghĩa là mệnh lệnh chú chỉ âm thầm đưa ra và chỉ trong chớp nhoáng nó đến ngay với đối tượng nào đó theo ý của mình chỉ định.
Đó là phương pháp dùng điện năng của ý thức phát đi tùy trường hợp gần hay xa và khắp cả mọi nơi. Có điều muốn có luồng sóng điện mạnh cần phải áp dụng thêm lối tập trung tư tưởng vào ý nghĩ của mình định phóng đi tất nhiên là với điện năng như vậy công suất của nó sẽ tăng gấp bội phần khỏi phải sợ sẽ bị một luồng sóng điện nào mạnh hơn áp đảo.
Tôi bỗng sự nhớ ra có lần trên đỉnh núi Potala, Minh Sư thắp lên một ngọn nến nhỏ trong một căn phòng tối đen như mực, ánh sáng leo lét chiếu ra chung quanh, nhưng khi thầy tôi đặt ống kính phóng đại phía trước ngọn nến, tôi nhận thấy ngọn nến này được phản chiếu trên tường với hình ảnh một cây nến đang rực sáng một cách lạ lùng.
Sau đó, Minh Sư lấy thêm một cái kiếng đặt phía sau của ngọn nến này khiến ánh sáng được tập trung lại và chiếu lên mặt tường hình ảnh của một cây nến lớn hơn và rực rỡ hơn nhiều.
Như biết là tôi đang nghĩ điều gì, Minh Sư gật đầu mỉm cười:
- Trí nhớ của chú rất tốt. Ta cần như vậy. Chỉ làm sao cho tư tưởng tập trung là có thể phóng đi đến đích một nơi mà ta đã định trước. Số năng lực căn bản của con người đều do một âm ba nhất định. Nếu ta biết rõ tốc độ âm ba nơi não bộ của kẻ khác phát ra, chúng ta chỉ cần điều khiển cho hai tốc độ âm ba của hai tầng làn sóng đó hợp lại thì sự truyền tin bằng "thần giao cách cảm" hoặc "cảm xạ tuyến" chẳng có gì khó khăn cả.
Nói đến đây, Người rót thêm trà vào hai chung bạc :
- Nào chúng ta thưởng thức chung trà này đi, rồi chú hãy thực nghiệm pháp thuật "thần giao cách cảm" đến bất cứ người nào, như chú Sĩ Cát chẳng hạn.
Tôi thật sự vui mừng. Như vậy là tôi có dịp chuyện trò với chú Sĩ Cát để hỏi han sức khỏe cũng như để được biết chú hiện ở nơi nào?!
Tôi bắt đầu chuyển những ý nghĩ của mình bằng thần giao cách cảm đến chú Sĩ cát hiện đang ở tại một trong ba xứ ở bán đảo Đông Dương! Đúng theo như ý, chú Sĩ Cát nhận được luồng điện của tôi truyền đạt đến một cách thật nhanh chóng.
Chú cho biết là dì tôi đã vắn số qua đời và chính điều này đã làm cho tôi xúc động mạnh khiến không còn tập trung được tư tưởng nữa. Dòng điện bỗng dưng bị đứt đoạn. Mồ hôi tôi vã ra khắp cả châu thân, hơi thở dồn dập và ngay khi đó có giọng nói của Minh Sư khuyến cáo:
- Lỗ San! Chú đã bị xao lãng khiến dòng điện tập trung bị đứt đoạn. Đây là điều tối kỵ đối với sự truyền đạt ý nghĩ của mình bằng phương pháp "thần giao cách cảm". Chú nên nhớ rằng trong khi thực hiện phương pháp truyền đạt ý nghĩ của mình, tuyệt đối không nên để tâm của mình bị xao động! Điều tiên quyết là chú phải giữ cho mình có một tâm hồn cứng cỏi khi đứng trước bất cứ một cảnh ngộ nào kể cả cái chết trước mắt. Chú nhớ chứ?! Bây giờ chú có thể bắt đầu thực hiện trở lại!
Khi tôi vừa tập trung tư tưởng phóng đi luồng điện trở lại, tức thời nhận ngay được lời khuyên bảo của chú Sĩ Cát:
- Lỗ San! Đừng nên buồn làm tổn thương đến sức khỏe. Mọi người trên thế gian này không ai thoát khỏi con đường này. Ta gửi lời chúc mừng chú đã thành công được việc áp dụng "thần giao cách cảm". Đây là một điều vô cùng quan trọng, dù có cách xa nhau nghìn trùng con người vẫn có thể truyền đạt cho nhau ý tưởng của mình. Chẳng có gì khó khăn cả, chỉ sợ mình thiếu sự quyết tâm tu luyện!
Tôi vô cùng thích thú học được môn "thần giao cách cảm", điều mà tôi hằng ước vọng! Từ nay tôi sẽ được chuyện vãn cùng các đạo hữu ở các ngôi chùa khác, như Sera hay ở bất kỳ nơi nào trên thế gian này.
Có điều, sự vui mừng của tôi hôm nay cũng chính là bước đầu đưa đẩy tôi đi vào con đường đầy truân chuyên gian khổ. Mọi cố gắng tôi thu thập được qua sự học hỏi không ngoài đầu tư cho mình một số vốn cho tương lai để ứng phó với mọi nhu cầu của đất nước mà tôi sau này sẽ được Đức Đạt La Lạt Ma Tối Cao giao phó.
Anh Hà Mịch đã có lần giảng giải đời người sẽ không phải mãi mãi như mặt nước hồ thu mà sẽ có những giai đoạn đầy gian nan đau khổ!
- Lỗ San! Mỗi người đều có một định mệnh an bài. Ta đoán chừng chú sẽ phải trải qua bao nhiêu cảnh cam go trong cuộc đời sau này của mình. Hãy chấp nhận và xem đó là nhiệm vụ của chú phải trả lại các nghiệp chướng mà chú đã làm từ bao nhiêu kiếp trước.
Màn đêm buông xuống dày đặc. Trời càng khuya gió càng lộng. Tôi không làm sao ngủ được đến tựa bên cửa sổ phòng nhìn ra bên ngoài. Xa xa ánh đèn thành phố Lạt Sa nhấp nháy như muôn ngàn hạt kim cương lấp lánh giữa màn trời. Vài ánh chớp lóe lên và tắt ngấm ngay sau đó! Thỉnh thoảng dăm ba cánh dơi đập mạnh vào bờ tường tạo nên những tiếng động khô khan chát chúa.
Lại có tiếng luân xa kẽo kẹt cùng với tiếng cầu kinh từ xa vọng lại. Tiếng côn trùng hòa lẫn với tiếng chim cú tạo thành một điệp khúc u buồn. Và, cứ như thế, điệp khúc này hòa lẫn với tiếng vi vu của gió rừng vọng đến rên rỉ, nhịp nhàng và bất tận!
Gió lạnh buốt thấu xương từ các đỉnh núi cao thổi xuống. Những cơn lốc bất thần xảy đến chẳng ai có thể đoán biết trước được cuốn theo cả sỏi đá bay rợp cả bầu trời. Tiếp tục hết cơn lốc này đến cơn lốc khác cứ nhằm theo nơi chúng tôi đang hiện diện lao thẳng đến.
Đợi các cơn lốc không còn nữa, đoàn chúng tôi đi vòng qua con lộ Cung Đắc Linh (Kunder Ring), rẽ về hướng Nam của đường phố Lã Khang (Lhakhang) Và cứ như thế chúng tôi cắm đầu lầm lũi đi để cố tránh các cơn lốc khác rất có thể tái diễn. Và, quả đúng như vậy, chúng tôi không kịp trốn tránh thì một cơn gió xoáy cực mạnh kéo ngay đến!
Cơn lốc này còn mạnh gấp mấy lần hơn những cơn lốc trước. Nó thốc thẳng vào một người bạn đồng hành trong chúng tôi, đến độ bứng cả người anh ta lên trên cao xoay tròn như một con vụ! Cả bọn chúng tôi lúc bấy giờ đều kinh hồn bạt vía đứng tụm vào nhau giương mắt ra nhìn.
Thân hình người bạn này lơ lửng trên cao, cách mặt đất khoảng lối chừng mươi thước. Chiếc áo màu nâu của anh đang mặc phình ra chẳng khác nào thân hình của ông Hộ Pháp!
Nhưng may mắn, không bao lâu cơn lốc xoáy tan hẳn, thân hình người bạn này rơi xuống. Tôi có cảm tưởng như một tảng đá rơi xuống trên dòng sông tại khu phố Khả Linh Chi.
- Yulgye !
Tên của người bạn gặp rủi ro này, đang đứng trơ ra như phỗng đá, nước không quá đầu gối
- Có hề hấn gì không hả Yulgye?
Hắn lắc đầu mặt nhăn nhó:
- Chỉ thấy hơi ê ẩm không thôi.
Chúng tôi lại tiếp tục đi trên con đường Lã Nhan Lộ. Cơn lốc không còn, song gió lớn từ phía sau lưng chúng tôi vẫn tiếp tục đổ đến. Lúc bấy giờ chúng tôi chỉ cần giữ thế đứng cho thân hình được cân đối là vị chi có thể đi vun vút như bay.
Khi vào đến Tung Sho, nơi đây chúng tôi bắt gặp các bà đứng tuổi đeo mặt nạ bằng loại da bò. Điều mà chúng tôi có thể đoán mò có thể nói không bao giờ sai chạy được.
Sở dĩ tôi dám nói một cách chắc chắn như vậy vì khi nhìn thấy người nào mang mặt nạ có vẽ hình một cô gái trẻ thì biết ngay người mang hình vẽ đó chính là các "cụ bà" hay những phụ nữ đã bắt đầu hết thời xuân sắc!
Tây Tạng vốn là một xứ sở được xem có khí hậu nóng bức đến độ có thể nói là dữ dằn nhất. Hình như bất cứ mùa nào tại xứ sở này cũng có tiếng gió hú, có bão cát và có cả những trận cuồng phong mang đầy sỏi đá thổi từ các đỉnh núi xuống.
Sở dĩ các ông hay các bà phải đeo mặt nạ mục đích chống lại những cơn gió bão bất thần xảy đến. Như trên đã nói, mặt nạ được làm bằng da bò, khoét hai lỗ ở mắt để có thể nhìn thấy cũng như một lỗ tròn vừa đủ để mũi hít thở không khí. Ngoài ra, toàn bộ mặt nạ được vẽ các màu sắc sặc sỡ tùy theo sở thích của từng người.
Gió vẫn tiếp tục rít lên từng hồi. Tôi cùng hai thằng bạn Yulgye và Đề Mộng choàng tay trên vai nhau để đủ sức chống trả lại với những cơn gió mạnh bất thần thổi lại rất có thể bốc lên giữa không trung! Đi được nửa tiếng chúng tôi quay nhìn lại về phía sau không còn trông thấy ngọn Thiết Lĩnh Sơn và dinh Potala nữa, cho biết là chúng tôi đã đi qua hẳn khu vực này.
Thiết Lĩnh Sơn cũng như Potala đã chìm vào đám mây đen kịt, xen lẫn với cát sỏi từ dãy Hy Mã Lạp Sơn bay lên mù mịt, trông hệt như một bức tranh được hoàn toàn sơn phết bằng chất nhựa trải đường.
Đây là một màn mây đầy nguy hiểm mà chúng tôi luôn luôn được nhắc nhở phải lo tránh trước mối hiểm họa có thể gây sự hiểm nguy cho tính mạng, vì vậy chúng tôi hối hả nhau chạy thật nhanh để khỏi bị đám mây này phủ chụp lên đầu.
Cũng như khi ngang qua cầu Đá Xanh, đến khu Kim Ốc phía ngoài thành Thánh Địa, nhìn sang bên kia khu nhà thờ lớn Du Khang (Zo Kang) nơi này lại càng cẩn thận hơn trong khi di chuyển. Đây là chốn dễ dàng đem đến cho chúng ta lắm sự hiểm nguy dẫy đầy bất trắc.
Đang liên miên suy nghĩ thì bất thần có tiếng hú nổi lên đâu đó, càng lúc càng gần.
- Chết đến nơi rồi!
Thằng bạn Yulgie kêu lên
- Nhanh lên không khéo chết cả lũ bây giờ.
Đúng như vậy, cơn bão tiến sát đến phía chúng tôi mang theo cát cùng sỏi nhỏ thổi tới tấp vào đầu và mặt mày khiến chúng tôi cảm thấy như mình bị hàng trăm ngàn mũi kim đâm vào.
Bất thình lình thằng Đề Mộng sơ ý buông tay khỏi tôi và tức thì hắn bị ngọn cuồng phong thốc đến kéo cả chiếc áo đang mặc lên tận đầu cất thẳng lên giữa khoảng không trung và quay như một con vụ.
Đá và cành cây khô bị gió thổi lăn lóc đầy đường phố, có lắm lúc đập mạnh vào chân chúng tôi làm tím bầm hoặc có nơi xây xát mãi khi về đến nơi trú ngụ mới hay biết. Đi thêm một quãng đường nữa, chúng tôi đoán biết là đã đến gần ngôi chùa.
Trời tối đen như mực nên chúng tôi cố tìm lối vào trong cổng. Khi vào được bên trong, lúc bấy giờ chúng tôi mới thở phào nhẹ nhõm, cảm thấy an toàn thật sự.
Qua ngày hôm sau chúng tôi mới quan sát ngôi chùa đã từng có một lịch sử lâu đời trên một nghìn ba trăm năm trải qua bao cảnh biến thiên lịch sử. Khách thập phương từng đến đây để dâng hương cầu nguyện.
Tôi quan sát từ sân chùa, mái chùa cho đến cột chùa và luôn cả từng bức tường, tôi có cảm tưởng đâu đâu cũng tỏa ra ánh thiền quang ngời sáng. Ngay cả đến cái sân đá nơi đại sảnh cũng bị xoi mòn lồi lõm xuống theo thời gian vì bao nhiêu triệu triệu bàn chân đã giẫm xuống từ đời này sang đời khác.
Lúc bây giờ không khí trong các ngôi chùa cũng đang nhộn nhịp hẳn lên. Mùi trầm hương xông lên ngào ngạt, tỏa ra mù mịt cả chính điện, khiến mọi người khi đặt chân đến đây cảm thấy như có một Đấng huyền nhiệm đang hiện diện tại ngôi đại tự thiêng liêng này.
Những cột chùa đen bóng phần trên đầu được sơn son thếp vàng, sừng sững đứng chung quanh trong chánh điện. Những ngọn đèn dầu bơ cùng những ngọn nến chập chờn chiếu lên các bờ tường những hình ảnh trông hệt như các bức tranh mạc họa to tướng, kết hợp với hình bóng của các tượng thần trông như thể đang nhảy múa quanh tượng của các "nữ thần" không phút giây ngừng nghỉ.
Bất thần nhìn thấy những tia sáng lấp lánh phát ra từ hàng rào sắt nơi một căn phòng gần đó khiến tôi tò mò đến quan sát, thì ra đó là những tia sáng đầy muôn màu phát ra từ những hạt kim cương và những viên hồng ngọc. Thì ra nơi này trưng bày các hạt trân châu quí báu chẳng thiếu sót một món nào, mỗi loại phát ra một màu khác nhau, không màu nào giống với màu nào.
Chung quanh khu trưng bày có hàng rào và cửa ra vào bằng sắt, kẻ gian khó lòng lẻn vào chộm cướp được. Sở dĩ nhà chùa rào giậu cẩn thận khu này mục đích là làm giảm bớt lòng tham khi nhìn thấy các của quý vô giá này có thể làm dấy lên lòng tà vạy của họ.
Điều làm tôi càng tò mò hơn nữa, là thỉnh thoảng thấy bên trong kho tàng này hiện lên những cặp mắt thần đỏ rực lên như hai miếng huyết gà... tuồng như các cặp mắt này đang thị uy đối với những người đứng bên ngoài song sắt chiêm ngưỡng.
Khi nhìn kỹ thì ra đó chính là những cặp mắt của các con "Thần Miêu" được nhà chùa huấn luyện để canh chừng khu "Bảo Thạch Điện" này. Những con thần miêu này không bao giờ xao lãng việc canh giữ mà chúng được giao phó.
Các bậc chân tu có nhiệm vụ cai quản kho tàng nhờ vậy ít lo sợ có kẻ gian nào dám lẻn vào bên trong để thực hiện ý đồ chiếm hữu các châu báu này được.
Trường hợp không có chuyện gì xảy ra, thì nơi móng vuốt của những con thần miêu này như được bọc nhung. Người ta có thể nhìn nó với hình ảnh của một con mèo dễ thương hiền hòa, lúc nào cũng chứng tỏ chúng là bạn tốt của con người.
Nhưng trái lại, khi hữu sự, ví như có một kẻ gian nào đó có ý đồ lấy trộm châu báu trong kho tàng này, thì móng vuốt nó sẽ trở thành những mũi gươm sắt bén và lúc bấy giờ nó không còn là con thần miêu hiền hòa nữa mà là con ác quỉ, không dung thứ với bất cứ ai nếu ai thật sự thực hiện hành động đen tối này.
Trong việc canh chừng kho tàng, thần miêu lúc nào cũng hợp tác nhịp nhàng thi hành nhiệm vụ. Khi một con nhảy xổ đến bám vào cổ kẻ gian tức thì con thứ hai cùng lúc nhảy xổ vào cắn chặt lấy bàn tay nào của kẻ gian phi đang cầm lấy món đồ trên tay mình.
Khi chúng tôi đã được một vị cao tăng đưa đến chiêm ngưỡng thì có thể cầm lên viên bảo thạch đó xem xét chẳng có việc gì xảy ra, tuy nhiên nếu mang ra khỏi khu vực này, kể cả người cao tăng có nhiệm vụ cai quản cũng vậy, tức thì y như có chuyện.
Những con thần miêu này có bộ lông đen mượt và đôi mắt xanh biếc. Nhưng khi có ánh đèn rọi vào thì đôi mắt xanh biếc đó sẽ trở thành ra màu đỏ như máu. Nói chung về các loại mèo của Tây Tạng khác xa với các giống mèo của các nước khác. Giống mèo Tây Tạng toàn màu đen mun.
(Gần đây các nhà khảo cổ phát hiện về một bộ xương mèo cổ ở Cyprus, các nhà khoa học cho rằng con người đã thuần hóa được loài mèo cách đây 5.000 năm so với người ta thường nghĩ trước đây.
Nằm trong một cái mộ không sâu, nó được chôn cách một người khoảng 30 tuổi, chừng 40 cm, con mèo tám tháng tuổi này có thể là một thành viên trong một gia đình danh giá thuộc thời kỳ đồ đá.
Cho đến nay người ta cho rằng loài mèo đầu tiên được con người thuần hóa là ở Ai Cập cổ đại, vào khoảng năm 1.900 trước Công nguyên.
Phần mộ của người được chôn có chứa nhiều đồ vật giá trị và nhiều đồ có thể là dùng để dâng tiến như là hoàng thổ, đá quý, đồ đánh lửa Không có dấu hiệu con vật này bị giết để làm thức ăn vì xác và xương của nó nằm rải rác quanh đó.
Có thể con mèo này bị giết để chôn cùng lúc với chủ nhân của nó đã qua đời. Các nhà khoa học cũng phát hiện ra ở Neolithic, những vùng ở Trung Đông, Turkey và Do Thái cũng có mộ của người chết chôn chung với các loại đá, các tượng mèo nhỏ bằng đất sét.
Từ đó các nhà khoa học cho rằng loài mèo có một địa vị đặc biệt với người cổ đại, mặc dù cho đến bây giờ chưa có bằng chứng nào chứng tỏ rằng chúng được thuần chủng và là vật kiểng vào thời đó. Có thể loài mèo được thuần hóa từ một loài mèo hoang vào giai đoạn rất sớm "như loài thần miêu Tây Tạng.
HUYỀN THÔNG PHÁP THUẬT
Tiếp đến là một cuộc thí nghiệm khác. Minh Sư tôi lấy ra một số vật dụng bằng thủy tinh đựng trong một cái hộp bạc, cột từng cái bóng vào sợi dây điện, đoạn dùng cả hai tay quay mạnh, có tiếng động cơ phát ra và lạ thay tất cả các bóng đèn thủy tinh kia thảy đều rực sáng. Sự kiện này làm cho tôi ngạc nhiên không ít.
- Với cái máy này đối với bất cứ ai dù không có nhãn thông cũng có thể nhìn thấy "nhân thể quang" của nó. Chú có gì thắc mắc không? Nhưng bây giờ thì chúng ta hãy trở ngay về phòng chuẩn bị đi dự khóa lễ buổi tối. Sau khi lễ tất, nghỉ ngơi ăn uống xong, thầy tôi lại bắt đầu giảng giải thêm vấn đề buổi chiều còn bỏ dở:
- Bây giờ chúng ta bắt đầu thực sự đi vào vấn đề mấu chốt, điều cần thiết là chú hãy chuẩn bị tư tưởng đừng để bị phân trí. Ta sẽ nói với chú về vấn đề "thôi miên", nó là một hiện tượng của một dòng điện xuất phát từ trong não bộ mỗi khi ta nghĩ ngợi đến điều gì! Hiện tượng này được phát hiện trên một họa đồ do từ dụng cụ y khoa ghi nhận.
Tôi sực nhớ lại lúc còn ở Thiền Viện, trong khóa tu luyện phương pháp tập trung tư tưởng đã có thể làm quay được một cái ống loa nhỏ làm bằng giấy mỏng có đục lỗ bắc vào một cái trục và tôi đã dùng hai luồng nhãn quan điều khiển cho nó quay tròn như chiếc chong chóng nhỏ.
Lúc bấy giờ tôi mới biết sự tập trung tư tưởng là một vấn đề quan trọng bởi đó là luồng điện năng có thể làm di động được mọi thứ tùy theo khả năng của mình cũng như trọng lượng của đối tượng.
- Chú nghĩ đúng. Bộ óc phát ra điện năng làm luân chuyển các hóa chất trong não bộ truyền lệnh cho gân cốt hành động.
Nói đến đây Minh Sư lấy xâu chuỗi hạt treo nơi cái móc trên tường rồi người nhìn tôi nói tiếp:
- Chú có thể di chuyển chuỗi hạt này đi nơi khác khi mà chú có một luồng điện năng đủ mạnh trong não bộ. Đối với tất cả mọi người nếu được tu luyện đều có thể thực hiện một cách dễ dàng. Nhưng chú sẽ gặp trở ngại nếu không nói là bị thất bại khi một kẻ nào đó có luồng điện năng mạnh hơn chú, họ có thể chế ngự chú và làm cho ý thức của chú hoàn toàn bị chế ngự.
Chú Sĩ Cát có lần trong cuộc mạn đàm đã giảng giải cho tôi điều này. Chú thực hành ngay trong ngày lễ Phật bên ngoài thiền viện với những trò chơi nhỏ dành cho các chú tiểu mua vui trong chốc lát bằng thuật thôi miên. Tuy nhiên lúc bây giờ tôi vẫn chưa tin hẳn, cho đó chỉ là một xảo thuật.
- Lỗ San! Những sự kiện mà chú đang suy tư đó đều là sự thật. Có nghĩa là chú Sĩ Cát hay các ông Hà Mịch, Lâm Trần từng thực hiện trong những trò chơi giải trí đều là sự thực phát xuất từ luồng điện trong não bộ điều khiển. Các sóng điện ở não bộ mà ta đã trình bày với chú ngày nay do các nhà khoa học Tây phương đã thu được bằng máy ghi lại trên họa đồ.
Như chú biết não bộ phát ra điện năng, còn điện năng phát ra sóng điện và chính sóng điện chi phối cho gân cốt ta hành động. Ví như, chú muốn nhắc cánh tay lên thì óc chú phát ra điện tức thì dòng điện ấy truyền mệnh lệnh cho gân cốt chú thực hiện điều gì chú muốn. Tuy nhiên, nếu lúc bấy giờ có kẻ nào có luồng điện mạnh hơn đang hiện diện muốn phủ định mệnh lệnh đó của chú, thì chú không tài nào có thể thực hiện được.
Tôi bắt đầu biết thế nào là thay đổi "điện cực" của luồng điện để làm cho nó chạy ngược chiều, nhưng vẫn còn chưa hiểu làm thế nào có thể đưa luồng điện vào trong não bộ được. Tôi nêu thắc mắc này ra, được Minh Sư giải thích:
- Ta không cần phải mở cái não bộ của chú ra để nhét các luồng sóng điện vào trong ấy, mà ta chỉ dùng bằng ý thức để khuyên hoặc chỉ dẫn chú tùy theo trường hợp!
- Có khi nào Minh Sư thôi miên một người nào đó mà không được họ đồng thuận hay không?
- Không. Điều này tuyệt đối không bao giờ có. Không nên làm như vậy. Ta không thể và những người biết thuật thôi miên cũng đều như vậy. Ngoại trừ trường hợp bắt buộc đối với người bệnh trong lúc họ mất tự chủ hoặc mê man nếu không cưỡng bách họ sẽ không thể nào tồn tại được! Ta sẽ hướng dẫn chú thực hiện điều này.
Tôi vô cùng sung sướng khi nghe Minh Sư sẽ truyền đạt cho thuật thôi miên, điều mà tôi hằng mơ ước. Tôi reo lên:
- Con thành thật đội ơn Minh Sư.
Thầy tôi cười:
- Thường thì ta nhận thấy chú có một điều tỏ ra không mấy thích thú. Vậy hôm nay ta muốn chú làm công việc mà chú không ưa thích này. Vậy chú có nhớ điều gì đó không?
Tôi cố lục lọi trong đầu mình xem điều mà Minh Sư bảo đó là điều gì, đành lên tiếng yêu cầu Minh Sư nhắc lại:
- Quả tình con không còn nhớ nữa, Minh Sư có thể nhắc lại hộ cho con không?
- Điều mà chú không mấy thích thú đó là phần thứ năm trong pho kinh Lăng Nghiêm. Ta không có gì trách cứ Lỗ San điều này. Chính cái phần năm đó có ý nghĩa quá cao siêu đã làm cho đầu óc chú mệt mỏi không ít. Ta biết vậy nên chẳng có gì phiền hà chú cả.
Đúng như lời Minh Sư đã nói, đây là sự thật mà trong bao nhiêu lâu nay tôi ấp ủ trong lòng không bao giờ tiết lộ.
Nhìn tôi giây lâu, Minh Sư đưa tay chỉ về phía cửa sổ đối diện:
- Chú hãy mang quyển kinh Lăng Nghiêm lại đây, và tìm cái phần mà chú không mấy thích thú đó để chúng ta cùng thảo luận.
Tôi miễn cưỡng vâng lời, đến lấy pho kinh Lăng Nghiêm Lăng Nghiêm mang lại đặt trên mặt bàn ngay trước mặt Minh Sư. Tại Tây Tạng có nhiều kinh sách nhưng pho kinh được xem là vĩ đại nhất phải nói là pho kinh Lăng Nghiêm! Tôi loay hoay tìm kiếm không phải vì chẳng biết đoạn ấy ở nơi nào nhưng vì muốn kéo dài thời gian.. để tránh đọc những dòng kinh mà tôi cho là khúc triết và tối nghĩa nhất.
Nhưng, lạ lùng thay, ngài Lạt Ma đưa mắt nhìn tôi đoạn thì thầm bảo:
"Chú hãy đọc thử xem, ta nghĩ rằng chẳng có gì khó khăn đối với chú cả!"
Lạ lùng thay! Quả đúng như lời Minh Sư bảo, tôi đọc một cách trôi chảy và am tường được tất cả ý nghĩa của đoạn kinh này một cách thật thích thú!
- Lỗ San! Bây giờ thì chú cảm thấy sảng khoái lắm phải không?
Tôi im lặng mỉm cười và cúi đầu xuống im lặng.
- Chú đã nhận được luồng cảm xạ của ta và não bộ chú đã làm theo những gì ta muốn. Lúc bấy giờ dung dịch bọc chất chuyển động trong não bộ của chú và đem lại kết quả mỹ mãn này. Đó là "thôi miên"! Chú hiểu chứ? Lỗ San! Ta đã truyền đạt cho chú sự sáng suốt ấy qua khoa thôi miên mà chú hằng mong muốn được học hỏi.
- Ta nghĩ rằng chú thừa hiểu thôi miên như thế nào rồi! Chỉ còn lại là phần luyện tập làm thế nào cho nhanh để kịp thời ứng phó trước những trường hợp cấp thiết! Điều này chú sẽ còn được huấn luyện thêm nữa.
Thôi miên là một trong những các chi tiết nhỏ trong nền văn minh nhân loại. Loài người đã phát hiện ra các qui luật của tự nhiên, phát sinh ra từ nhu cầu của xã hội và tư duy của con người sống giữa hành tinh này. Chú Sĩ Cát cũng đã từng giảng giải cho tôi điều này.
- Lỗ San có biết đâu thế giới chung quanh ta, trong xã hội loài người, và ngay luôn cả trong bản thể của con người còn chứa biết bao nhiều điều bí ẩn, nhân loại vẫn chưa tìm hiểu và khai thác hết được. Những người theo đường hướng tu luyện để có được một dòng điện mạnh tất nhiên là không phải dễ dàng gì.
Phương pháp tu tập này đòi hỏi từ sự ăn uống đến các nhu cầu cần thiết về ý tưởng. Người tu luyện thôi miên chẳng khác gì người tham Thiền. Các Thiền sư chỉ vì muốn chối bỏ tất cả cái "có" đang hiện hữu để trở thành cái không không.
Vì vậy mà các bậc Thiền sư lúc nào cũng để cho cái "Trí" được hoàn hoàn thanh tịnh! Người tu luyện phép thôi miên cũng vậy. Nếu không có sự tu luyện thì lòng tà vạy sẽ dấy lên và tất nhiên không tránh khỏi có những hành động độc ác.
Có lẽ Minh Sư tôn trọng sự suy tư của tôi trong giờ phút này, nên người chỉ im lặng đưa mắt nhìn mà chẳng nói năng thêm lời nào nữa vì sợ làm tôi kinh động! Mãi trong giây lâu sau người mới tiếp tục giảng giải tiếp:
- Có điều làm sao cho "cảm xạ lực" của chú phải được tăng trưởng nhiều hơn, bởi đó là nhu cầu cần thiết trong tương lai của chú.
- Thưa Minh Sư, con vẫn chưa rõ được tương lai của con như thế nào?
- Hiện bây giờ thì chú chưa cần phải quan tâm đến điều này. Nhưng vấn đề cấp thiết trước mắt là chú phải được huấn luyện thêm hơn nữa về vấn đề ta đang truyền đạt cho chú, vì nhu cầu của đất nước.
- Của đất nước? Tôi sửng sốt hỏi lại.
- Phải! Của đất nước. Ngoài vấn đề giải thoát cho linh hồn chúng ta còn có bổn phận bảo vệ xứ sở, bảo vệ dân tộc rồi đến một thời gian nào đó chú sẽ biết về sự cần thiết này.
Tôi im lặng đưa mắt nhìn Minh Sư chờ đợi những gì sau đó Người sẽ nói ra. Và quả thật, Minh Sư tôi nghiêm sắc mặt nhìn tôi:
- Chú sẽ được đưa đi nhiều nước ngoài xứ sở Tây Tạng này. Một khi chú thực hành nhiệm vụ mà Đức Lạt Ma Tối Cao sẽ giao phó cho chú, lúc ấy chú sẽ thấy mọi sự thông tin liên lạc là điều không thể thiếu sót được. Ngoài vấn đề sử dụng thuật thôi miên, chú còn phải đạt đến sự rành rẽ cả vấn đề thần giao cách cảm nữa.
Nghe Minh sư nói vậy, tôi cảm thấy càng lúc tôi càng không còn thời giờ dành riêng cho cá nhân mình. Mỗi ngày thêm mỗi việc, chẳng bớt đi chút nào.
- Thưa Minh Sư, con muốn biết rõ hơn về thần giao cách cảm.
- Như chú đã biết dù mới chỉ ở trình độ sơ đẳng, nó chỉ là một thuật rất giản dị. Thần giao cách cảm là sự truyền đạt ý nghĩ của mình mà không cần phải phát ra bằng tiếng nói dù ở tận một nơi nào xa xăm đến một đối tượng nào đó, và ngược lại.
Ta chỉ cần điều khiển làn sóng điện là có thể thực hiện được điều này. Có nghĩa là chú nghĩ một điều gì tức thì óc của chú sẽ phát ra luồng sóng điện đó. Như vậy có nghĩa là mệnh lệnh chú chỉ âm thầm đưa ra và chỉ trong chớp nhoáng nó đến ngay với đối tượng nào đó theo ý của mình chỉ định.
Đó là phương pháp dùng điện năng của ý thức phát đi tùy trường hợp gần hay xa và khắp cả mọi nơi. Có điều muốn có luồng sóng điện mạnh cần phải áp dụng thêm lối tập trung tư tưởng vào ý nghĩ của mình định phóng đi tất nhiên là với điện năng như vậy công suất của nó sẽ tăng gấp bội phần khỏi phải sợ sẽ bị một luồng sóng điện nào mạnh hơn áp đảo.
Tôi bỗng sự nhớ ra có lần trên đỉnh núi Potala, Minh Sư thắp lên một ngọn nến nhỏ trong một căn phòng tối đen như mực, ánh sáng leo lét chiếu ra chung quanh, nhưng khi thầy tôi đặt ống kính phóng đại phía trước ngọn nến, tôi nhận thấy ngọn nến này được phản chiếu trên tường với hình ảnh một cây nến đang rực sáng một cách lạ lùng.
Sau đó, Minh Sư lấy thêm một cái kiếng đặt phía sau của ngọn nến này khiến ánh sáng được tập trung lại và chiếu lên mặt tường hình ảnh của một cây nến lớn hơn và rực rỡ hơn nhiều.
Như biết là tôi đang nghĩ điều gì, Minh Sư gật đầu mỉm cười:
- Trí nhớ của chú rất tốt. Ta cần như vậy. Chỉ làm sao cho tư tưởng tập trung là có thể phóng đi đến đích một nơi mà ta đã định trước. Số năng lực căn bản của con người đều do một âm ba nhất định. Nếu ta biết rõ tốc độ âm ba nơi não bộ của kẻ khác phát ra, chúng ta chỉ cần điều khiển cho hai tốc độ âm ba của hai tầng làn sóng đó hợp lại thì sự truyền tin bằng "thần giao cách cảm" hoặc "cảm xạ tuyến" chẳng có gì khó khăn cả.
Nói đến đây, Người rót thêm trà vào hai chung bạc :
- Nào chúng ta thưởng thức chung trà này đi, rồi chú hãy thực nghiệm pháp thuật "thần giao cách cảm" đến bất cứ người nào, như chú Sĩ Cát chẳng hạn.
Tôi thật sự vui mừng. Như vậy là tôi có dịp chuyện trò với chú Sĩ Cát để hỏi han sức khỏe cũng như để được biết chú hiện ở nơi nào?!
Tôi bắt đầu chuyển những ý nghĩ của mình bằng thần giao cách cảm đến chú Sĩ cát hiện đang ở tại một trong ba xứ ở bán đảo Đông Dương! Đúng theo như ý, chú Sĩ Cát nhận được luồng điện của tôi truyền đạt đến một cách thật nhanh chóng.
Chú cho biết là dì tôi đã vắn số qua đời và chính điều này đã làm cho tôi xúc động mạnh khiến không còn tập trung được tư tưởng nữa. Dòng điện bỗng dưng bị đứt đoạn. Mồ hôi tôi vã ra khắp cả châu thân, hơi thở dồn dập và ngay khi đó có giọng nói của Minh Sư khuyến cáo:
- Lỗ San! Chú đã bị xao lãng khiến dòng điện tập trung bị đứt đoạn. Đây là điều tối kỵ đối với sự truyền đạt ý nghĩ của mình bằng phương pháp "thần giao cách cảm". Chú nên nhớ rằng trong khi thực hiện phương pháp truyền đạt ý nghĩ của mình, tuyệt đối không nên để tâm của mình bị xao động! Điều tiên quyết là chú phải giữ cho mình có một tâm hồn cứng cỏi khi đứng trước bất cứ một cảnh ngộ nào kể cả cái chết trước mắt. Chú nhớ chứ?! Bây giờ chú có thể bắt đầu thực hiện trở lại!
Khi tôi vừa tập trung tư tưởng phóng đi luồng điện trở lại, tức thời nhận ngay được lời khuyên bảo của chú Sĩ Cát:
- Lỗ San! Đừng nên buồn làm tổn thương đến sức khỏe. Mọi người trên thế gian này không ai thoát khỏi con đường này. Ta gửi lời chúc mừng chú đã thành công được việc áp dụng "thần giao cách cảm". Đây là một điều vô cùng quan trọng, dù có cách xa nhau nghìn trùng con người vẫn có thể truyền đạt cho nhau ý tưởng của mình. Chẳng có gì khó khăn cả, chỉ sợ mình thiếu sự quyết tâm tu luyện!
Tôi vô cùng thích thú học được môn "thần giao cách cảm", điều mà tôi hằng ước vọng! Từ nay tôi sẽ được chuyện vãn cùng các đạo hữu ở các ngôi chùa khác, như Sera hay ở bất kỳ nơi nào trên thế gian này.
Có điều, sự vui mừng của tôi hôm nay cũng chính là bước đầu đưa đẩy tôi đi vào con đường đầy truân chuyên gian khổ. Mọi cố gắng tôi thu thập được qua sự học hỏi không ngoài đầu tư cho mình một số vốn cho tương lai để ứng phó với mọi nhu cầu của đất nước mà tôi sau này sẽ được Đức Đạt La Lạt Ma Tối Cao giao phó.
Anh Hà Mịch đã có lần giảng giải đời người sẽ không phải mãi mãi như mặt nước hồ thu mà sẽ có những giai đoạn đầy gian nan đau khổ!
- Lỗ San! Mỗi người đều có một định mệnh an bài. Ta đoán chừng chú sẽ phải trải qua bao nhiêu cảnh cam go trong cuộc đời sau này của mình. Hãy chấp nhận và xem đó là nhiệm vụ của chú phải trả lại các nghiệp chướng mà chú đã làm từ bao nhiêu kiếp trước.
Màn đêm buông xuống dày đặc. Trời càng khuya gió càng lộng. Tôi không làm sao ngủ được đến tựa bên cửa sổ phòng nhìn ra bên ngoài. Xa xa ánh đèn thành phố Lạt Sa nhấp nháy như muôn ngàn hạt kim cương lấp lánh giữa màn trời. Vài ánh chớp lóe lên và tắt ngấm ngay sau đó! Thỉnh thoảng dăm ba cánh dơi đập mạnh vào bờ tường tạo nên những tiếng động khô khan chát chúa.
Lại có tiếng luân xa kẽo kẹt cùng với tiếng cầu kinh từ xa vọng lại. Tiếng côn trùng hòa lẫn với tiếng chim cú tạo thành một điệp khúc u buồn. Và, cứ như thế, điệp khúc này hòa lẫn với tiếng vi vu của gió rừng vọng đến rên rỉ, nhịp nhàng và bất tận!
Gió lạnh buốt thấu xương từ các đỉnh núi cao thổi xuống. Những cơn lốc bất thần xảy đến chẳng ai có thể đoán biết trước được cuốn theo cả sỏi đá bay rợp cả bầu trời. Tiếp tục hết cơn lốc này đến cơn lốc khác cứ nhằm theo nơi chúng tôi đang hiện diện lao thẳng đến.
Đợi các cơn lốc không còn nữa, đoàn chúng tôi đi vòng qua con lộ Cung Đắc Linh (Kunder Ring), rẽ về hướng Nam của đường phố Lã Khang (Lhakhang) Và cứ như thế chúng tôi cắm đầu lầm lũi đi để cố tránh các cơn lốc khác rất có thể tái diễn. Và, quả đúng như vậy, chúng tôi không kịp trốn tránh thì một cơn gió xoáy cực mạnh kéo ngay đến!
Cơn lốc này còn mạnh gấp mấy lần hơn những cơn lốc trước. Nó thốc thẳng vào một người bạn đồng hành trong chúng tôi, đến độ bứng cả người anh ta lên trên cao xoay tròn như một con vụ! Cả bọn chúng tôi lúc bấy giờ đều kinh hồn bạt vía đứng tụm vào nhau giương mắt ra nhìn.
Thân hình người bạn này lơ lửng trên cao, cách mặt đất khoảng lối chừng mươi thước. Chiếc áo màu nâu của anh đang mặc phình ra chẳng khác nào thân hình của ông Hộ Pháp!
Nhưng may mắn, không bao lâu cơn lốc xoáy tan hẳn, thân hình người bạn này rơi xuống. Tôi có cảm tưởng như một tảng đá rơi xuống trên dòng sông tại khu phố Khả Linh Chi.
- Yulgye !
Tên của người bạn gặp rủi ro này, đang đứng trơ ra như phỗng đá, nước không quá đầu gối
- Có hề hấn gì không hả Yulgye?
Hắn lắc đầu mặt nhăn nhó:
- Chỉ thấy hơi ê ẩm không thôi.
Chúng tôi lại tiếp tục đi trên con đường Lã Nhan Lộ. Cơn lốc không còn, song gió lớn từ phía sau lưng chúng tôi vẫn tiếp tục đổ đến. Lúc bấy giờ chúng tôi chỉ cần giữ thế đứng cho thân hình được cân đối là vị chi có thể đi vun vút như bay.
Khi vào đến Tung Sho, nơi đây chúng tôi bắt gặp các bà đứng tuổi đeo mặt nạ bằng loại da bò. Điều mà chúng tôi có thể đoán mò có thể nói không bao giờ sai chạy được.
Sở dĩ tôi dám nói một cách chắc chắn như vậy vì khi nhìn thấy người nào mang mặt nạ có vẽ hình một cô gái trẻ thì biết ngay người mang hình vẽ đó chính là các "cụ bà" hay những phụ nữ đã bắt đầu hết thời xuân sắc!
Tây Tạng vốn là một xứ sở được xem có khí hậu nóng bức đến độ có thể nói là dữ dằn nhất. Hình như bất cứ mùa nào tại xứ sở này cũng có tiếng gió hú, có bão cát và có cả những trận cuồng phong mang đầy sỏi đá thổi từ các đỉnh núi xuống.
Sở dĩ các ông hay các bà phải đeo mặt nạ mục đích chống lại những cơn gió bão bất thần xảy đến. Như trên đã nói, mặt nạ được làm bằng da bò, khoét hai lỗ ở mắt để có thể nhìn thấy cũng như một lỗ tròn vừa đủ để mũi hít thở không khí. Ngoài ra, toàn bộ mặt nạ được vẽ các màu sắc sặc sỡ tùy theo sở thích của từng người.
Gió vẫn tiếp tục rít lên từng hồi. Tôi cùng hai thằng bạn Yulgye và Đề Mộng choàng tay trên vai nhau để đủ sức chống trả lại với những cơn gió mạnh bất thần thổi lại rất có thể bốc lên giữa không trung! Đi được nửa tiếng chúng tôi quay nhìn lại về phía sau không còn trông thấy ngọn Thiết Lĩnh Sơn và dinh Potala nữa, cho biết là chúng tôi đã đi qua hẳn khu vực này.
Thiết Lĩnh Sơn cũng như Potala đã chìm vào đám mây đen kịt, xen lẫn với cát sỏi từ dãy Hy Mã Lạp Sơn bay lên mù mịt, trông hệt như một bức tranh được hoàn toàn sơn phết bằng chất nhựa trải đường.
Đây là một màn mây đầy nguy hiểm mà chúng tôi luôn luôn được nhắc nhở phải lo tránh trước mối hiểm họa có thể gây sự hiểm nguy cho tính mạng, vì vậy chúng tôi hối hả nhau chạy thật nhanh để khỏi bị đám mây này phủ chụp lên đầu.
Cũng như khi ngang qua cầu Đá Xanh, đến khu Kim Ốc phía ngoài thành Thánh Địa, nhìn sang bên kia khu nhà thờ lớn Du Khang (Zo Kang) nơi này lại càng cẩn thận hơn trong khi di chuyển. Đây là chốn dễ dàng đem đến cho chúng ta lắm sự hiểm nguy dẫy đầy bất trắc.
Đang liên miên suy nghĩ thì bất thần có tiếng hú nổi lên đâu đó, càng lúc càng gần.
- Chết đến nơi rồi!
Thằng bạn Yulgie kêu lên
- Nhanh lên không khéo chết cả lũ bây giờ.
Đúng như vậy, cơn bão tiến sát đến phía chúng tôi mang theo cát cùng sỏi nhỏ thổi tới tấp vào đầu và mặt mày khiến chúng tôi cảm thấy như mình bị hàng trăm ngàn mũi kim đâm vào.
Bất thình lình thằng Đề Mộng sơ ý buông tay khỏi tôi và tức thì hắn bị ngọn cuồng phong thốc đến kéo cả chiếc áo đang mặc lên tận đầu cất thẳng lên giữa khoảng không trung và quay như một con vụ.
Đá và cành cây khô bị gió thổi lăn lóc đầy đường phố, có lắm lúc đập mạnh vào chân chúng tôi làm tím bầm hoặc có nơi xây xát mãi khi về đến nơi trú ngụ mới hay biết. Đi thêm một quãng đường nữa, chúng tôi đoán biết là đã đến gần ngôi chùa.
Trời tối đen như mực nên chúng tôi cố tìm lối vào trong cổng. Khi vào được bên trong, lúc bấy giờ chúng tôi mới thở phào nhẹ nhõm, cảm thấy an toàn thật sự.
Qua ngày hôm sau chúng tôi mới quan sát ngôi chùa đã từng có một lịch sử lâu đời trên một nghìn ba trăm năm trải qua bao cảnh biến thiên lịch sử. Khách thập phương từng đến đây để dâng hương cầu nguyện.
Tôi quan sát từ sân chùa, mái chùa cho đến cột chùa và luôn cả từng bức tường, tôi có cảm tưởng đâu đâu cũng tỏa ra ánh thiền quang ngời sáng. Ngay cả đến cái sân đá nơi đại sảnh cũng bị xoi mòn lồi lõm xuống theo thời gian vì bao nhiêu triệu triệu bàn chân đã giẫm xuống từ đời này sang đời khác.
Lúc bây giờ không khí trong các ngôi chùa cũng đang nhộn nhịp hẳn lên. Mùi trầm hương xông lên ngào ngạt, tỏa ra mù mịt cả chính điện, khiến mọi người khi đặt chân đến đây cảm thấy như có một Đấng huyền nhiệm đang hiện diện tại ngôi đại tự thiêng liêng này.
Những cột chùa đen bóng phần trên đầu được sơn son thếp vàng, sừng sững đứng chung quanh trong chánh điện. Những ngọn đèn dầu bơ cùng những ngọn nến chập chờn chiếu lên các bờ tường những hình ảnh trông hệt như các bức tranh mạc họa to tướng, kết hợp với hình bóng của các tượng thần trông như thể đang nhảy múa quanh tượng của các "nữ thần" không phút giây ngừng nghỉ.
Bất thần nhìn thấy những tia sáng lấp lánh phát ra từ hàng rào sắt nơi một căn phòng gần đó khiến tôi tò mò đến quan sát, thì ra đó là những tia sáng đầy muôn màu phát ra từ những hạt kim cương và những viên hồng ngọc. Thì ra nơi này trưng bày các hạt trân châu quí báu chẳng thiếu sót một món nào, mỗi loại phát ra một màu khác nhau, không màu nào giống với màu nào.
Chung quanh khu trưng bày có hàng rào và cửa ra vào bằng sắt, kẻ gian khó lòng lẻn vào chộm cướp được. Sở dĩ nhà chùa rào giậu cẩn thận khu này mục đích là làm giảm bớt lòng tham khi nhìn thấy các của quý vô giá này có thể làm dấy lên lòng tà vạy của họ.
Điều làm tôi càng tò mò hơn nữa, là thỉnh thoảng thấy bên trong kho tàng này hiện lên những cặp mắt thần đỏ rực lên như hai miếng huyết gà... tuồng như các cặp mắt này đang thị uy đối với những người đứng bên ngoài song sắt chiêm ngưỡng.
Khi nhìn kỹ thì ra đó chính là những cặp mắt của các con "Thần Miêu" được nhà chùa huấn luyện để canh chừng khu "Bảo Thạch Điện" này. Những con thần miêu này không bao giờ xao lãng việc canh giữ mà chúng được giao phó.
Các bậc chân tu có nhiệm vụ cai quản kho tàng nhờ vậy ít lo sợ có kẻ gian nào dám lẻn vào bên trong để thực hiện ý đồ chiếm hữu các châu báu này được.
Trường hợp không có chuyện gì xảy ra, thì nơi móng vuốt của những con thần miêu này như được bọc nhung. Người ta có thể nhìn nó với hình ảnh của một con mèo dễ thương hiền hòa, lúc nào cũng chứng tỏ chúng là bạn tốt của con người.
Nhưng trái lại, khi hữu sự, ví như có một kẻ gian nào đó có ý đồ lấy trộm châu báu trong kho tàng này, thì móng vuốt nó sẽ trở thành những mũi gươm sắt bén và lúc bấy giờ nó không còn là con thần miêu hiền hòa nữa mà là con ác quỉ, không dung thứ với bất cứ ai nếu ai thật sự thực hiện hành động đen tối này.
Trong việc canh chừng kho tàng, thần miêu lúc nào cũng hợp tác nhịp nhàng thi hành nhiệm vụ. Khi một con nhảy xổ đến bám vào cổ kẻ gian tức thì con thứ hai cùng lúc nhảy xổ vào cắn chặt lấy bàn tay nào của kẻ gian phi đang cầm lấy món đồ trên tay mình.
Khi chúng tôi đã được một vị cao tăng đưa đến chiêm ngưỡng thì có thể cầm lên viên bảo thạch đó xem xét chẳng có việc gì xảy ra, tuy nhiên nếu mang ra khỏi khu vực này, kể cả người cao tăng có nhiệm vụ cai quản cũng vậy, tức thì y như có chuyện.
Những con thần miêu này có bộ lông đen mượt và đôi mắt xanh biếc. Nhưng khi có ánh đèn rọi vào thì đôi mắt xanh biếc đó sẽ trở thành ra màu đỏ như máu. Nói chung về các loại mèo của Tây Tạng khác xa với các giống mèo của các nước khác. Giống mèo Tây Tạng toàn màu đen mun.
(Gần đây các nhà khảo cổ phát hiện về một bộ xương mèo cổ ở Cyprus, các nhà khoa học cho rằng con người đã thuần hóa được loài mèo cách đây 5.000 năm so với người ta thường nghĩ trước đây.
Nằm trong một cái mộ không sâu, nó được chôn cách một người khoảng 30 tuổi, chừng 40 cm, con mèo tám tháng tuổi này có thể là một thành viên trong một gia đình danh giá thuộc thời kỳ đồ đá.
Cho đến nay người ta cho rằng loài mèo đầu tiên được con người thuần hóa là ở Ai Cập cổ đại, vào khoảng năm 1.900 trước Công nguyên.
Phần mộ của người được chôn có chứa nhiều đồ vật giá trị và nhiều đồ có thể là dùng để dâng tiến như là hoàng thổ, đá quý, đồ đánh lửa Không có dấu hiệu con vật này bị giết để làm thức ăn vì xác và xương của nó nằm rải rác quanh đó.
Có thể con mèo này bị giết để chôn cùng lúc với chủ nhân của nó đã qua đời. Các nhà khoa học cũng phát hiện ra ở Neolithic, những vùng ở Trung Đông, Turkey và Do Thái cũng có mộ của người chết chôn chung với các loại đá, các tượng mèo nhỏ bằng đất sét.
Từ đó các nhà khoa học cho rằng loài mèo có một địa vị đặc biệt với người cổ đại, mặc dù cho đến bây giờ chưa có bằng chứng nào chứng tỏ rằng chúng được thuần chủng và là vật kiểng vào thời đó. Có thể loài mèo được thuần hóa từ một loài mèo hoang vào giai đoạn rất sớm "như loài thần miêu Tây Tạng.
#17
Gửi vào 06/06/2011 - 22:12
CHƯƠNG TÁM
THẦN GIAO CÁCH CẢM
Chuyện con thần miêu giữ kho tàng lưu trữ các châu báu vô giá của xứ sở Tây Tạng được xem là an toàn nhất. Vì vậy mà các chú thần miêu này được chăm nom săn sóc đặc biệt như cung cách đối xử với các bậc "Đại Tăng" về chế độ ăn uống.
Các thần miêu này được tuyển chọn cẩn thận, nhất là với điều kiện khỏe mạnh, hình dạng trông có vẻ bề thế, oai phong lẫm liệt như chúa sơn lâm, được giao cho các chuyên viên dạy dỗ các giống thú vật rèn luyện và giao sứ mệnh canh gác kho tàng báu vật vô giá của xứ sở Tây Tạng này.
Tuy nhiên, sau khi được hoàn tất một khóa huấn luyện, chúng được chuyển sang nhà khảo sát lần cuối về đức tính lanh lẹ, sự tài ba và lòng dũng cảm để được chuyển sang một nơi huấn luyện khác chuyên về "thần giao cách cảm".
(Gần đây, các nhà khoa học nêu ra sự cần thiết của những cuộc thí nghiệm để đo lường về "Thần Giao Cách Cảm" giữa con người và bất cứ loài động vật nào. Đặc biệt đối với loại mèo là một giống vật có đôi mắt chẳng khác nào như hai luồng điện cực mạnh, chúng thường dùng làm vũ khí bắt chuột.
Các nhà nghiên cứu biểu lộ sự tiếc rẻ là công cuộc tìm hiểu cặn kẽ này đã không được tiếp tục để có thể chứng minh, hay bác bỏ nếu xét là không thể có được về mối liên hệ về thần giao cách cảm của loài động vật. Có điều là trong mỗi người chúng ta đều có thể tự mình thử nghiệm lấy để biết " liệu có thực như vậy hay không).
Để chứng minh khả năng thần giao cách cảm giữa con người và động vật một số chuyên gia đã khuyên ta nên thử tiến hành một cuộc thí nghiệm như sau:
Nếu như trong gia đình bạn có một Con Mèo, bạn cần phải tập trung tinh thần trong vòng 15 đến 20 phút, cố gắng hình dung về việc có một con chó nào đâu đó đến ngồi bất động ở một góc phòng. Khi thử nghiệm nhớ là phải giữ chung quanh mình thật yên tĩnh, tránh làm cho sự tập trung tư tưởng của ta bị xao lãng bởi thiếu sự chú tâm.
Con mèo trước đó vẫn ngồi bình thản tại chỗ của mình, sẽ bắt đầu cảm thấy sự xuất hiện của một "con chó ảo" (do chính bạn tưởng tượng) và nó bắt đầu tỏ ra dấu hiệu không mấy hài lòng và lo sợ (chú chó ảo tưởng kia).
Thử nghiệm vừa nói thật đơn giản và bất cứ người nào cũng có thể tự làm để kiểm tra về sự thật "có hay không thần giao cách cảm giữa con người và động vật?" Tuy nhiên, cũng đôi khi có người không thể thực hiện theo như ý muốn, bởi khả năng trên còn phải phụ thuộc về nhiều yếu tố khác nhau nữa.
Những năm đầu của thế kỷ 21 này, các nhà khoa học đã tìm ra được các loài vật có Thần Giao Cách Cảm. Chuyện khó tin song đó là sự thật. Một bản tin được đăng tải trong mục Khoa Học & Đời Sống nói về vấn đề này, mà từ ngàn xưa người Tây Tạng đã biết sử dụng nơi các loại mèo và được gọi đó là Thần Miêu canh gác kho tàng quý báu của họ tại đất Phật Sống này.
Câu chuyện chú chó đã chạy bộ đến những 4.000 cây số dọc theo nước Mỹ suốt 8 tháng trường, khiến người chủ chẳng biết nó đã bị lạc nơi nào. Sau một thời gian tìm kiếm, người chủ đã phải bỏ rơi nó khi chuyển đến một nơi ở mới.
Nhưng sau đó không bao lâu ông ta lại tìm ra được chú chó thích ngao du này tại một nơi thật xa xăm nhờ nó đã dùng "thần giao cách cảm" báo tin cho chủ biết nó đang chờ ông ta tại nơi nào đó, hãy đến mang nó trở về.
Có nhiều trường hợp lạ lùng khác nữa, như chuyện chú chó Bonica, theo người chủ nuôi nó thuật lại rằng: Khi con chó bị lâm trọng bệnh họ đưa nó đến bệnh viện của một bác sĩ thú y để khám bệnh. Trong thời gian nằm ở phòng bác sĩ thú y, chú cho này được chạy chữa đúng mức song nó cũng không thể nào qua khỏi.
Nó đã chết. Đúng vào lúc 12 giờ kém 15 hôm ấy nó qua đời. Cũng vào thời gian này người chủ nó, một phụ nữ, đang ở nhà bỗng nghe có tiếng rên rỉ ai oán của con Bonica văng vẳng bên tai mình. Tiếng rên rỉ của con Bonica kéo dài một thời gian đủ để bà ngạc nhiên vì biết chắc chắn là đôi tai mình không thể bị nghe lầm lẫn được. Nó, chính là tiếng của con Boniaca, không thể nào sai được!
Thật ra, nhân loại từ lâu đã chú ý đến quan hệ thần giao cách cảm giữa con người và động vật. Ví như những cuộc thí nghiệm khá thú vị từng được ông V.L.Durov, một chuyên gia người Nga tiến hành với chú chó Mars của chính ông ta nuôi nấng nó.
Nguyên là, một vị giáo sư tại trường Đại học tổng hợp Mạc Tư Khoa, ông G.A. Kosevnikov đã giao cho Durov nhiệm vụ phải sai khiến sao cho con chó làm được những hành động khá phức tạp như: từ phòng khách đi ra phòng bên ngoài, đến chiếc bàn nhỏ, nơi có đặt điện thoại đồng thời dùng răng lấy cuốn sổ danh bạ mang trở lại phòng khách theo đúng như lệnh truyền.
Sau khi nhận nhiệm vụ, Durov dùng tay nắm lấy mõm con chó, chăm chú nhìn vào mắt nó trong vòng 30 giây và sau đó trong vòng 30 giây, ông ta thả con Mars ra, nó chạy ngay ra phòng bên ngoài.
Tại đây, con Mars chạy khắp các xó của căn phòng đánh hơi rồi cuối cùng nó tiến sát tới chiếc bàn nhỏ, nơi có đặt máy điện thoại, dùng hai chân sau đứng lên, mõm nó ngoạm lấy quyển danh bạ mang trở về phòng khách.
Khoa thần giao cách cảm không phải chỉ huấn luyện được loài chó mà có thể với tất cả các loài động vật nào, miễn rằng con vật đó có chút thông minh là được.
Một trường hợp thú vị khác về chuyện nhà văn cũng là nhà tự nhiên học, ông M.Zxerev đã thuật lại một trường hợp kỳ lạ như sau: Vào năm 1966, một ngư dân mang đi bán một con lợn con mới ra đời tròn một tháng cho một khách hàng.
Người chủ mới vừa mua này nhét nó vào trong một bao tải, bỏ xuống bên dưới lòng thuyền đưa nó về nhà. Căn nhà của ông nằm ở tận bên kia sông, cách chỗ ở của người ngư dân kia khoảng 4 cây số. Sau khi cẩn thận thả chú lợn con này vào trong chuồng, nhìn nó trong giây lát, đoạn ông ta leo lên giường ngủ thẳng một giấc ngon lành.
Sáng hôm sau, ông ra chuồng xem thử chú lợn con này để thăm dò sức khỏe nó, nhưng ông không khỏi ngạc nhiên thấy cái chuồng mà ông đã bỏ nó vào đêm rồi hiện chỉ còn là cái chuồng trống trơn, chẳng thấy bóng vía chú lợn bé bỏng kia nữa! Thì ra, trong suốt đêm hôm đó con lợn bé bỏng này một mình bơi qua sông và chạy thẳng về nhà người chủ cũ, nơi nó ra chào đời một tháng trước đây.
Trước sự kiện lạ lùng này, ông ta tiến hành một cuộc thử nghiệm đặc biệt là chở nó đến một nơi thật xa lạ, sau đó tháo bỏ nó ra khỏi bao tải, cẩn thận bỏ vào trong chuồng. Đợi sáng hôm sau, ra lại chuồng xem thử tình hình của nó có trùng hợp như đêm rồi không?
Thật lạ lùng thay, người ta không nhìn thấy tăm dạng nó ở đâu nữa. Có nghĩa là nó trốn thoát trong lúc mọi người đang an giấc. Nhưng, nó chẳng đi đâu lạc cả, mà trở về lại nơi chôn nhau cắt rốn của nó, tức nơi nó đã được sinh hạ.
Cũng vẫn câu chuyện về Thần Giao Cách Cảm mà nhà văn Mỹ có tên Dennis Barden mô tả trong một quyển sách của mình nói về những Nhà Thần Giao Cách Cảm Động Vật như sau: Một phụ nữ đứng tuổi tên là Flinn Rachel đi dạo dọc bờ biển rủi ro bị trượt chân ngã từ một sườn dốc cao và bị thương nặng.
Một lúc sau, bên cạnh người phụ nữ đang nằm đau đớn và tuyệt vọng này xuất hiện một con chim hải âu, con hải âu mà thường nhật bà Flinn hay lấy bánh mì cho nó ăn. Vào lối một phút sau khi đứng nhìn người bạn người tốt bụng này, con hải âu tung cánh lên cao và bay thẳng đến nhà của Rachel, đậu lên bệ cửa sổ và cố ra sức dùng mỏ mổ mạnh vào cửa kính.
Hành vi bất thường của chú chim này đã gây được sự chú ý cho người nhà bà Flinn. Người phụ nữ trong nhà này lờ mờ hiểu rằng con hải âu muốn dẫn bà đi đến một nơi nào đó, nên không còn chần chờ nữa, bà ta mặc vội áo quần chạy theo hải âu đến thẳng nơi xảy ra tai nạn."
Trong khả năng thần giao cách cảm của động vật, Mèo là động vật thường được nhắc tới nhiều nhất. Trong giới nghiên cứu mãi đến ngày nay vẫn còn nhắc tới một trường hợp điển hình.
Đó là câu chuyện khi một Bộ Trưởng Thương Mại Pháp, Moris Kokanovski bị chết trong một tai nạn máy bay vào đầu tháng 9 năm 1928, thì cũng đúng là lúc con mèo yêu quý của ông tại Paris nhằm thời điểm ông bị nạn nổi lên những cơn đau đớn vật vã, co giật rồi tru lên một hồi dài tợ như tiếng khóc than trước khi tắt thở.
Sau đó người ta đem con mèo này đến nhà thương thú y nhờ giải phẫu để tìm ra nguyên cớ đã đưa đến cái chết tức tưởi cho nó. Nhưng sau cuộc phẫu thuật vị bác sĩ thú y tuyên bố chẳng thấy gì cả, chú mèo xấu số này đã chết một cách bình thường. Có nghĩa là con mèo không bị nhiễm độc, không bị mắc phải bất cứ bệnh trạng gì có thể gây nên cái chết tức tưởi cho nó cả.
Nhưng, sau khi được tin chủ nó, vị bộ trưởng Thương Mại Pháp, bị chết bởi tai nạn máy bay cũng trùng hợp vào giờ giấc nó lăn lộn trên nền nhà trước thở hơi cuối cùng. Lúc bấy giờ mọi người xác nhận là nó đã chết theo cái chết của chủ nó.
Có những cuộc thử nghiệm về thần giao cách cảm cấp thấp, như con ốc sên chẳng hạn. Con vật bé bỏng này cũng có thể tự nó áp dụng khả năng thần giao cách cảm. Sau khi những con ốc sên xếp thành một chuỗi sao cho chúng có thể chạm vào nhau, người thử nghiệm tác động một dòng điện lên một trong các con sên xếp hàng này.
Ngay khi đó, ông ta nhìn thấy con sên cuối cùng cũng có phản ứng tương tự như chính nó đã bị điện giật. Tuy nhiên điều thú vị nhất chính ở chỗ, nếu như các con ốc sên này sau đó được tách ra và mang sang những phòng khác nhau, phản ứng tương tự của một cá thể khi một con khác bị kích thích bằng điện vẫn được duy trì như trước.
Cuộc thí nghiệm này tiến hành bởi Gugo Zaimann. Ông bảo rằng đem các loài vật được xem là chậm chạp nhất làm một công việc như người chạy tin hỏa tốc nhanh nhất, không gì hơn là truyền cho nó bằng phương pháp "thần giao cách cảm".
Về sau các nhà nghiên cứu như Allex và Beno của Pháp thực hiện như ông Gugo Zaimann đã làm. Họ lựa ra hai nhóm ốc sên, mỗi nhóm đều có số lượng bằng với số chữ cái có trong bảng chữ cái của Pháp có nghĩa với mỗi một chữ cái sẽ có một cặp ốc sên tương tự. Mỗi cặp này được cho tiếp xúc với nhau, nhờ đó mà chúng có khả năng sao chép nhau về mọi phản ứng.
Sau đó hai nhóm này được tách riêng ra, một nhóm ở lại Paris còn nhóm kia thì được chuyển sang bên kia bờ đại dương tức Nữu Ước. Khi cuộc thử nghiệm bắt đầu, người ta chọn ra một con ốc sên ở Paris tương ứng với một chữ cái nào đó và kích thích vào nó một dòng điện.
Theo tác giả công trình con ốc sên thứ hai tại Nữu Ước, mang chữ cái tương tự, cũng có phản ứng như bị điện giật. Bằng cách này, các nhà nghiên cứu có thể gửi các bức điện cho nhau bằng cách chọn ra những con ốc sên có chữ cái như nhau, từ các chữ cái có thể xác định được một câu hoàn chỉnh.
Ngày dì tôi qua đời, chú Sĩ Cát đã nghĩ ngay đến tôi và biết rằng tôi đang bị một nỗi buồn vô duyên cớ hành hạ. Và quả đúng như vậy, lần gặp gỡ sau cùng với tôi chú đã nói ngay về vấn đề thần giao cách cảm này cho tôi biết:
"Ta đã nhìn thấy chú qua ý tưởng. Ta biết một cách thật rõ ràng là lúc bấy giờ chú đang ngồi trên một mỏm đá ven sườn núi. Mặt mày chú ủ rũ. Trên tay chú cầm một con bướm hoa. Và chú đã thì thầm với con bướm xinh xắn ấy với lời lẽ đầy nỗi thống thiết. Rằng là:
"Bướm hoa ơi! Sao hôm nay lòng ta tràn ngập cả nỗi buồn man mác như thế! Ta nhớ dì ta. Ta đang hình dung bà đang âu yếm nhìn ta. Bướm hoa ơi! Mày có những phút giây tràn ngập nỗi buồn thế này như tao không? Mày có người dì nào để hình dung tưởng nhớ như tao không? Hở bướm!"
Tôi giật mình nhìn chú sửng sốt.
- Đừng ngạc nhiên gì cả. Đó là "thần giao cách cảm".
Hôm ấy, thằng Đề Mộng đòi chúng tôi theo nó ra phố dạo xem các cửa hàng. Thằng Yulgie cho hắn là một kẻ điên rồ :
- Ra phố giờ này? Cửa hàng đều đóng cả rồi biết không?
- Chúng bay cãi nhau cái gì? Im ngay. Giọng một ông giám thị đâu đó quát lên.
Chỉ trong chốc lát, ông giám thị này từ trong bóng tối lò dò đi ra, tiến thẳng đến thằng Đề Mộng đang đứng quạt cho một đấm ngã lăn quay ra giữa sàn. Chúng tôi quá sợ hãi, đứng trân người ra. Thì ra đó là một ông giám thị khổng lồ!
Ông ta có một thân hình đẫy đà cao gần xấp hai lần chúng tôi. Trước mặt ông, tôi có cảm tưởng như mình đang đứng trước một quả núi. Mắt ông trợn trừng hệt như hai cái ốc bươu trắng dã, quát tháo lên ầm ĩ bằng những lời dọa nạt:
- Tụi bây, đứa nào còn ngo ngoe là tao vứt cho con thần miêu kia nó xé xác ra. Nghe không?
Nói xong mặt ông hằm hằm cau lại, đưa mắt nhìn chúng tôi lần cuối rồi biến mất dạng vào con đường nhỏ phía trước.
Thế là chúng tôi không bảo nhau cúi xuống cởi bỏ cả dép đi chân không, se sẽ rút lui ra khỏi nơi đang đứng, đến độ không để gây ra một tiếng động nhỏ nào. Bên ngoài, tiếng gầm thét của gió bão đổ xuống tới tấp.
Chúng tôi đứng bên khung cửa sổ kính nhìn ra ngoài trời. Xa xa là những đỉnh núi tuyết phủ trắng xóa trông tựa như cánh buồm trắng phất phơ theo gió. Lưng trời màn mây đen bao phủ. Gió vẫn ào ạt thổi đến mang theo cả cát sỏi vung vãi vào các bờ tường và các cửa kính tạo nên những âm thanh đến đinh tai nhức óc.
Những cơn lốc bụi cuồn cuộn đổ lên con đường Thánh Lộ dẫn vào thành phố. Tiếng gió gào thét nghe như tiếng gắt gỏng của bầy quỷ sứ đang điên cuồng phát ra những điệu nhạc thác loạn khắp cả núi rừng. Những ánh chớp lóe lên rực sáng cả những lùm cây thấp lè tè ven lộ trông hệt như những bóng ma đang áng ngữ ven đường.
Chúng tôi đang dí mũi nhìn xem cảnh tượng bên ngoài, đếm những lằn chớp ngoằn ngoèo, những mảnh sao đổi ngôi trên nền trời đêm, tuy đã từng nhìn thấy, song cũng không khỏi khiếp hãi khi mỗi lần nghe tiếng giông kéo đến từng chuỗi dài gần như bất tận, tiếp theo đó là tiếng sét giáng xuống như trời long đất lở, cơ hồ làm rung chuyển cả ngôi Thiền Viện, nơi chúng tôi đang ở.
Đột nhiên, một sự kiện khá lạ lùng xảy ra trước mắt chúng tôi. Đó là một bầy thú xanh lè đang kéo nhau chạy trên con đường Thánh Lộ. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau và tiếp tục theo dõi từng bước đi của chúng. Phải chăng đó là một đàn bò ma? Nếu không thì làm sao tự nó phát ra ánh sáng ma quái như vậy?
(Gần đây trên một bản tin nói về việc tạo sinh heo và gà phát sáng. Các nhà khoa học cho biết họ vừa cải thiện được về kỹ thuật chuyển gene ở động vật. Các nhà khoa học Anh đã tạo ra heo và gà phát sáng trong bóng tối. Sở dĩ họ đã tạo ra được nhờ biết bổ sung gene phát sáng của sứa biển.
Hiện nay việc chuyển đổi gene động vật vẫn rất tốn kém nhưng cũng chỉ một trong 70 phôi thai được tiêm vật liệu di truyền là có thể tạo ra một động vật chuyển đổi gene. Kỹ thuật được cải tiến của các nhà khoa học tại viện Roslin (Tô Cách Lan,Anh Quốc) vay mượn liệu pháp gene ở con người.
Trong một cuộc thử nghiệm mới đây, phương pháp mới mẻ này đã tạo ra được 32 con heo phát sáng từ 42 phôi thai. Theo tiến sĩ Bruce Whitelaw và tiến sĩ Helen Sang thì tỷ lệ thành công 90% này có thể tạo ra một cuộc cách mạng trong việc ứng dụng chuyển đổi gene ở vật nuôi.
Heo và gà phát sáng được tạo ra ở Roslin bằng cách sử dụng lentivirus để mang gene protein huỳnh quang xanh (GFP) một gene được tìm thấy ở sứa. Có thể dò thấy cả ở gà và heo mang gene này trong ánh sáng bình thường do chúng có màu hơi xanh lục. Tuy nhiên, khi nhìn chúng trong ánh sáng xanh, tất cả mọi khu vực không có lông của chúng đều một loạt phát sáng như vậy cùng một lúc.
Chân và đầu gà phát sáng trong khi tai mũi, tinh hoàn và chân heo cũng cùng phát sáng như vậy. Một công trình nghiên cứu này đang tiếp tục tiến hành.Tiến sĩ Sang hiện đã sẵn sàng thử nghiệm tạo ra những con gà mái mang nhiều protein dược phẩm trong trứng của chúng.)
Minh Sư Minh Dà Đông Đạt nhắc nhở tôi không được xao nhãng khi bắt đầu áp dụng thần giao cách cảm:
- Đó là điều kiện duy nhất để thu đạt được kết quả theo như ý muốn. Chú nên nhớ rằng: "Theo các nhà tư tưởng Ấn Độ nói về đại thể thì Vũ Trụ này được cấu tạo bởi hai yếu tố căn bản. Đó là Akaska một hình thái nguyên thủy hay nói đúng hơn là cội nguồn của chất liệu phổ biến. Thế có nghĩa tất cả mọi vật thể của Vũ Trụ đều do sản phẩm từ Akaska hình thành.
Trước lời giảng giải này, thú thật tôi cảm thấy chưa được thấu đáo được cặn kẽ, nên nêu ra thắc mắc:
- Thưa Minh sư, nói như vậy chẳng lẽ cả Mặt Trời lẫn Mặt Trăng đều do Akaska cấu tạo cả hay sao?
- Đúng vậy, chẳng những chỉ có hai vầng nhật nguyệt không thôi mà luôn cả vòm trời này, trong đó có cả các vì tinh tú, dù là những vì sao giăng mắc khắp cả vòm trời cũng đều từ Akaska hình thành cả. Những cái gì hữu hình như con người chúng ta, các động, thực vật, các khoáng chất từ thể đặc đến thể lỏng, về hơi khí dưới mọi hình thức và các dạng của nó.
Có nghĩa ta muốn nói đến vô cơ hay hữu cơ, vô sinh hay hữu sinh đều có cùng một quy luật của Tạo Hóa. Akaska là tất cả hay tất cả đều từ Akaska mà ra. Nó hiện hữu và tràn ngập khắp bầu trời thế giới, bao trùm cả vũ trụ bao la, ta nhìn không hết, biết không trọn.
Nó vô cùng mà ta chắc chắn với bộ óc nhỏ bé của con người không bao giờ có thể khám phá ra được.
- Thế, thưa Minh sư, phải chăng Akaska là mối đầu của sự chuyển hóa ra Vũ trụ?
- Hả?! Thầy tôi ngạc nhiên hỏi lại. Chú biết? Ai bảo chú thế?
- Chẳng biết vì sao con hiểu nữa. Có thể là sự tình cờ từ trong tri thức đưa ra.
- Không phải chỉ mỗi một mình Akaska sinh ra Vũ trụ, mà là như chú vừa nói nó chỉ là mối đầu của chuyển hóa, mà cần phải có yếu tố thứ hai, đó chính là Prana. Nó không chỉ có chuyển động cơ học hay ở các dòng điện từ hoặc trường hấp dẫn như chúng ta nghĩ mà ngay cả trong các cơ bắp hoạt động thần kinh nữa.
Nói tóm lại tất cả tinh thần hay vật lý đều có chung một bản thể. Điều này có dịp ta sẽ cùng chú bàn thảo đến những yếu tố quan trọng khác. Kinh Vệ Đà đã ghi: "Cái gì nhờ biết nó, ta biết tất cả". Ta biết cái "nhất dĩ quán tri" đã khái quát hóa vũ trụ trong cái "Tồn Tại Tuyệt Đối Duy Nhất".
Chính nhờ lý thuyết này mà các nhà tư tưởng Yoga lấy đó điều khiển cái Prana có nghĩa điều khiển mọi thứ trong Vũ trụ này. Nếu chú biết sử dụng cái "nhất dĩ quán tri" ắt chú sẽ có một sức mạnh phi thường, sẽ điều khiển được mọi vật hiện hữu ngay trước mắt chú, mặc dù chú chỉ là một hạt cát bé nhỏ đối với cái vô cùng của vũ trụ.
Đến đây Minh Sư im lặng như để suy nghĩ điều gì, sau đó người nói tiếp:
- Ta chỉ là một con sóng bé nhỏ, yếu ớt ở giữa lòng đại dương mênh mông của Prana vũ trụ. Những người luyện Yoga cũng chẳng khác nào luyện thần giao cách cảm mà chế ngự được ngay trong bản thân, được xem là toàn hảo, toàn năng và toàn trí.
Những nhà thôi miên, các nhà thông thiên học có thể dùng tư tưởng và ý chí mình điều động được bất cứ người nào dù ờ cách xa ngàn vạn dặm. Chú phải thực hiện điều này, đây là niềm hoài vọng chẳng những của Đức Đạt Lai Lạt Ma Tối Cao mà là của toàn thể nhân dân xứ sở Tây Tạng.
Tôi bất giác bàng hoàng trước sự tiết lộ đột ngột của Minh Sư, định lên tiếng thoái thác vì tự cảm thấy mình không thể nào thực hiện được điều này, nhưng thầy tôi chặn ngay lại:
- Không. Chú đừng thoái thác. Đây là một chỉ thị. Chú phải học tập và phải thực hiện cho kỳ được. Tuy nhiên ngay bây giờ thì chú chưa vội phải ưu tư, hãy bình tĩnh. Việc gì cũng phải đi từ bước một.
Đến đây Minh sư nhìn trân trối vào mặt tôi trong chốc lát sau đó người thuật lại về kiếp trước của tôi:
- Chú có một tiền kiếp được Đức Tối Cao Đạt Lai Lạt Ma xác nhận. Chú có tin có tiền kiếp không?
- Tôi gật đầu:
- Điều này thì con tin!
- Vậy thì là chú đã nhận lấy nhiệm vụ cao cả do Đức Tối Cao Đạt Lai Lạt Ma giao phó. Tiền kiếp có thật. Ta tuyệt đối tin tưởng như chú đã tin tưởng. Theo sách Táng Thư của Quách Phác, có câu nhận định, nguyên văn như sau:
"Khí cảm nhi ứng, quỉ phúc cập nhân", hàm ý bảo rằng những vật đồng khí đồng chất với nhau có quan hệ cảm ứng lẫn nhau. Từ "quỉ" ở đây, sách Táng Thư muốn chỉ về
Về các đấng sinh thành, tổ tiên sau khi đã quá cố. Theo cổ tự cũng có nghĩa là "qui" tức về, như ta thường bảo về nơi Cửa Phật, với Non Bồng Nước Nhược hay nói cách khác là về với quê thật của mình. Theo thuyết "Phong Thủy" thì chết là về với đất, với "Đại Mẫu" để sửa soạn cho kiếp tái sinh.
Bên Tây Tạng người ta tôn kính các vị Lạt Ma vì tin tưởng rằng đây là người đã được những vị Lạt Ma qua đời báo mộng cho biết ai sẽ là hậu thân của mình.
Câu chuyện luân hồi trước kia chỉ có người Đông phương tin tưởng, nhưng ngày nay thì trên thế giới kể cả về lĩnh vực khoa học cũng không thể bác bỏ hoặc cho đó là huyền hoặc, mê tín nữa.
Ngay ở thế kỷ 21 này, trường hợp một người phụ nữ giải phẫu đầu cho biết, tuy bị nằm thiêm thiếp trên bàn mổ, nhưng trong trạng thái tâm linh, nhận thấy khi phần trên chiếc sọ của mình mở ra, đã nhìn thấy một người nào đó từ bên trong đầu mình nhảy ra.
Bà thuật lại như vậy với các Bác sĩ sau khi tỉnh lại. Vậy thì con người nào đó từ trong đầu của người đàn bà này nhảy ra bên ngoài khi phần trên chiếc sọ được mở ra đó phải chăng là linh hồn?! Câu chuyện tiền kiếp cũng xảy ra cũng tại Tây phương gần đây về một cậu bé thuật lại như sau: Cậu bé tên James 6 tuổi, rất say mê máy bay.
Nhưng khi cậu bắt đầu nói về chiếc hàng không mẫu hạm mà cậu đã phục vụ trên đó trong trận chiến với Nhật Bản cùng những người bạn trong thủy thủ đoàn, hiện là những ông già gần đất xa trời, đã khiến cho cha mẹ cậu sửng sốt đến cực độ.
Gần 60 năm trước, một phi công chiến đấu Hải quân 21 tuổi bị pháo binh Nhật Bản bắn rơi khi đang thi hành nhiệm vụ ngang qua Thái Bình Dương. Có lẽ tên anh bị rơi vào quên lãng nếu không vì cậu, James Leininger, vừa lên 6 tuổi nói lên sự kiện này.
Một số khá nhiều người kể cả những người từng quen biết viên phi công chiến đấu, đều nghĩ rằng James chính là viên phi công kia, nay đã đầu thai lại.
Cha mẹ của James là Andrea và Bruce cho rằng họ có lẽ là những người ít mong đợi một tình huống như vậy, nhất là xảy ra trong cuộc sống của mình. Họ, ông bà Andrea và Bruce thuộc về giới có trình độ học vấn cao, không muốn tin tưởng những chuyện có tính phản khoa học như vậy.
Nhưng cuối cùng họ bắt đầu tin đó là sự thật, có thể con trai của họ đã từng có một kiếp trước nào đó. Theo lời cha mẹ cậu James kể lại, ngay từ tuổi bé thơ James đã không chơi thứ gì khác ngoài máy bay. Khi mới lên 2 tuổi, những chiếc máy bay chơi mà cậu bé yêu thích lại đem đến cho cậu những cơn ác mộng liên tục.
"Tôi đánh thức nó dậy và nó kêu thét lên." ông Andrea nói với phóng viên báo chí như vậy. Khi hỏi cậu bé James đã mơ thấy gì thì được ông cho biết nó đã bảo máy bay của nó đang thi hành nhiệm vụ phát nổ, lúc bấy giờ nó đang tìm cách thoát ra.
James kể lại cho cha mẹ cậu ta biết là mình đã lái chiếc Corsair và nó đã nói: Trước kia lúc nào người ta cũng dùng cái lóp bẹp. Quả đúng như vậy các sử gia và phi công đều đồng ý rằng vỏ bánh xe máy bay thường chịu áp lực rất lớn khi hạ cánh.
Andrea còn kể cả tên của chiếc hàng không mẫu hạm nơi mà chiếc phi cơ của cậu cất cánh Natoma cùng tên của viên phi công bạn Jack Larson cùng bay chuyến bay định mệnh này.
Sau khi nghe con nói về tên của chiếc hàng không mẫu hạm và tên của người phi công bạn nó trong cùng chuyến bay, Bruce phát giác ra rằng Natoma lẫn Jack Larson đều có thật. Riêng Larson bạn của đứa con mình hiện còn sống tại Arkansas. Ôi! Chúa con! Bruce thảng thốt kêu lên Thật họa là có mà đi lộn ngược đầu xuống đất cũng không thể nào tin được.
Kể từ đó, Bruce bị ám ảnh, ông ta sục sạo Internet, rà soát các hồ sơ quân sự và hỏi thăm những người đã từng phục vụ trên hàng không mẫu hạm Natoma Bay. Anh cho biết James kể là cậu đã bị bắn tại Iowa Jima. Từ đây Bruce tìm ra sự thật tên người phi công bị tử trận là James M. Huston Jr. Bruce cũng nói James cho biết là chiếc máy bay của nó đã bị bắn một phát trúng ngay động cơ.
Bruce cho biết giờ thì ông tin rằng kiếp trước của con trai mình chính là James M. Huston Jr. "Anh ấy (tức đứa con mình) đã quay lại vì chưa hoàn thành một việc gì đó.")
Minh sư Minh Dà Đông Đạt khẽ gật đầu nói vừa đủ cho tôi nghe:
- Lỗ San! Chú đã có một tiền kiếp như những vị Đạt La Lạt Ma Tối Cao từ trước. Chú phải làm tròn trách vụ mà trước kia chú còn dang dở.
Trong lúc đó bầu trời bỗng dưng bị mây đen bao phủ. Nhờ các ánh chớp lóe lên nên có thể trông thấy các bụi rậm ven đường chẳng khác nào hình ảnh của những hồn ma hiện về từ lòng địa ngục. Tôi sực nhớ đến một đêm nào đó một ngôi sao chổi có cái đuôi dài lê thê tạo thành một vệt sáng hằn lên nền trời đen tối, đồng thời những thanh kiếm lửa xuất hiện giữa màn trời đêm.
Ánh chớp thi nhau rực sáng lên và cũng thi nhau tắt ngấm, mọi người nhìn thấy đều có cảm tưởng đó là những hình ảnh ma quái, đầu bỏ tóc xõa đang lang thang bước đi miệng đọc vang lên những lời sám hối. Cũng có lúc người ta còn trông thấy hình ảnh ấy y như những chiếc quan tài với hàng đống xác chết nằm la liệt khắp cả các lối đi.
Nhưng rồi các bóng đen mờ ảo đó lại biến đi thay vì là những hình ảnh của hằng hà sa số các bóng đen chen chúc nhau phía dưới chân đồi, trên tay họ cầm những bó đuốc, và đọc lên những lời kinh sám hối. Lúc bấy giờ tiếng gió rền rĩ đổ đến, nghe như tiếng kêu khóc của những oan hồn uổng tử.
Chúng tôi dán mũi vào cửa kính, phóng mắt nhìn ra bên ngoài hình ảnh các bóng đen vẫn tiếp tục chập chờn lướt ngang qua trước mắt, bỗng thằng Đề Mộng kêu lên thất thanh:
- Kìa, chúng đang tiến về phía chúng ta đang đứng. Chạy nhanh lên kẻo chết cả bọn bây giờ.
Hắn vừa nói vừa bỏ chạy vào bên trong, bất giác bị bàn tay ai nắm lấy cổ hắn nhấc bổng lên cao đoạn ném xuống trên mặt sàn gỗ. Chúng tôi quay lại nhìn gặp ngay ông Giám thị vừa rồi đã giáng cho hắn một đòn trí mạng, khiến hắn lăn lộn rên lên ư ử:
- Tôi làm gì mà ông nhẫn tâm đánh đập tôi mãi như vậy?!
- Mày liệu mà giữ lấy thân, còn làm ồn ào tao sẽ bỏ xuống hầm để xem mấy con rắn hoa bên dưới thử gan dạ mày đến bậc nào.
Ông ta vừa nói vừa bỏ đi vào bên trong. Chúng tôi nhìn theo lão Giám thị khổng lồ này với ánh mắt bất bình, nhưng chỉ đành thở dài cúi xuống đỡ hắn lên an ủi:
- Cũng tại cái miệng của mày.
Tuy hắn bị đau đến điếng cả người như vậy song vẫn cố gân cổ lên cãi lại:
- Tao có làm sao đâu ?
- Nhưng mày la lên tru tréo làm mất cả sự thanh tịnh nơi thờ phượng, không phải lỗi à?
Thằng Đề Mộng không đáp lại lời tôi nói, lần này hắn thốt ra lời nguyền rủa lão Giám thị khổng lồ vừa quật ngã hắn trên mặt sàn:
- Đồ ác ôn! Tao muốn "bỏ ngải" cho hắn chết đi cho rồi đời.
Đoạn quay lại phía chúng tôi lên tiếng:
- Tưởng tụi bây cũng nên "bỏ ngải" cái lão có bảng mặt "hà mô" ấy cho rảnh của nợ Chúng ta chịu tuân phục những kẻ hiền hòa chứ cái bản mặt tợ như con cóc chết như lão thì chuyện gì phải cả nể!
Hắn hích mặt lên nhìn tôi nói sang sảng:
- Tao nghĩ Ngài Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt của mày có thể bỏ ngải được hắn đấy, Lỗ San à! Mày làm sao thưa với thầy Lạt Ma mày "thư" cho hắn hóa ra con heo được không?
Nghe hắn nói vậy, cả bọn chúng tôi đều phá lên cười, nhưng vội ngưng ngay lại vì sợ lão Giám thị vẫn còn đâu đó nghe được quay lại thì chỉ còn có nước nhận lấy một trận đòn nên thân. Quy luật của Cửa Thiền quá nghiêm khắc, chỉ cần chú tiểu nào làm kinh động mất sự thanh tịnh thì thế nào cũng lãnh bản án như thằng Đề Mộng cả!
- Mày bảo "thư" ai? Tôi hỏi lại.
- Thì còn ai nữa? "Thư " cái thằng Giám thị ấy chứ còn ai vào đó nữa! Nhưng mày nhớ bảo là thầy mày phải thư làm sao cho hắn hóa ra anh chàng Trư Bát Giới mới được!
Rồi hắn hạ thấp giọng nói làm cho ra vẻ quan trọng:
- Lỗ San à! Nhưng mày nhớ là "thư " ra con "lợn lòi" mới được đó nha!
Thằng Yulgie chen vào:
- Theo tao thì muốn phải cho hắn hóa ra con cóc.
Nghe vậy, thằng Đề Mộng lại cười lên rũ rượi như tuồng ông Giám thị khổng lồ kia đã bị hóa thân thành Cậu Ông Trời rồi, hắn ngâm nga lên :
- "Con cóc trong hang. Con cóc nhảy ra. Con cóc nhảy ra. Con cóc đứng đó.
Thằng Yulgie vốn hay tếu bằng phụ họa với thằng Đề Mộng:
- Con cóc đứng đó. Con cóc nhảy đi. Con cóc nhảy đi. Rồi gì nữa hả Đề Mộng?
- Thì...Con cóc nhảy đi..."
Nghe hai đứa chúng nó đọc bài thơ "con cóc" tôi không thể nhịn nổi cũng phải cười theo, rồi lắc đầu đáp lại lời yêu câu của hắn:
- Tao chắc là thầy tao không làm như lời yêu cầu của mày đâu? Ngài chẳng bao giờ làm hại ai cả. Ngay cả các con vật bé tí ti như con kiến, Ngài cũng chẳng bao giờ động đến.
Thằng Đề Mộng bị hai trận đòn đau điếng cả châu thân, không chịu buông tha, song lần này hắn đề nghị trừng phạt lão nhẹ hơn:
- Nếu không thì mày xin Ngài biến lão Giám thị bất nhân ấy ra chiếc chiếu bông để bọn mình ngồi đè lên cho lão biết thân, hết lên mặt bắt nạt chúng mình.
Nghe hắn nói vậy chúng tôi cùng nhau ôm bụng cười quên cả qui luật của Cửa Thiền và quên luôn cả tiếng gió bên ngoài trời thốc lên từng cơn khiến cho các cánh cửa kiếng rung chuyển lên từng hồi.
Nhưng rồi, bão tố ngoài trời chấm dứt. Đám mây cuối cùng tan biến mất. Các vì sao lại xuất hiện lấp lánh trên nền trời xanh thẳm.
Chúng tôi bừng mắt dậy đã nhìn thấy ngoài trời đã sáng hẳn. Ánh Thái Dương xuyên qua cửa sổ trải mình lên nơi chúng tôi đang nằm trên mấy tấm ghế hoa cương. Rửa ráy mặt mày xong chúng tôi chạy ngay ra để xem cảnh trí bên ngoài sau đêm bão táp đã gây nên hậu quả như thế nào.
Tôi nghiệp cho ngôi nhà bà Paks (Phát Thị) bị thiệt hại nặng nề nhất. Các cánh cửa sổ đều bị thổi bật lên, có cánh treo lủng lẳng, có cánh nằm sóng soài trên mặt đất. Xứ Tây Tạng đa phần các cửa sổ đều dùng loại giấy dầu dán vào các khung thay vì các tấm kính. Giấy dầu màu vàng trong suốt, trong nhà lúc nào cũng có vẻ sáng sủa.
Trên đường đi đến Potala, quả như lời chú Sĩ Cát từng nói, nơi đây cảnh trí hữu tình. Gió mát. Trời xanh. Núi non trùng điệp. Xa xa rừng phong linh uốn mình theo chiều gió,từ xa trông đến tưởng chừng như sóng biển chập chùng khi thấp, khi cao. Thằng Đề Mộng bỗng lên tiếng hỏi:
- Tụi bây ơi! Các nhà buôn giờ này đã mở cửa hàng chưa? Tưởng bọn mình cũng nên đến đó xem một chút cho đỡ thèm.
Thoạt nghe, tôi và Yulgie còn tỏ ra ngần ngại, song cuối cùng cũng tò mò muốn biết thử xem họ bán những vật gì nơi ngôi chợ ấy, bèn đi theo chân hắn. Vào cửa hàng chúng tôi lóa cả mắt. Thật tha hồ mà ngắm nghía đủ các thứ hàng lạ mắt. Các loại trà thơm phưng phức được bày bán ngay trước quày hàng.
Các loại trà này đa phần từ xứ sở Ấn Độ, hoặc từ Trung Hoa du nhập vào. Mùi trà thoảng bay lên thơm phức. Đủ các thứ nhang trầm từ các quốc gia láng giềng do các nhà tơ lụa mang sang. Đó là chưa kể các món nữ trang đẹp đẽ được bày bán trong các thùng kiếng nơi các hàng tạp hóa, nhập cảng từ Đức, từ Anh, từ Pháp đưa sang.
Có điều chúng tôi không biết chúng có được các bà, các cô đoái hoài đến không, vì ít khi được trông thấy mấy món trang sức sang trọng này trên tay các bà, các cô mang trên cổ hoặc trên tay khi đến Cửa Thiền lạy Phật!
Chúng tôi cùng đi vào cửa hàng bánh kẹo. Cửa hàng này toàn chưng bày kẹo bánh ngoại trông vừa đẹp, vừa ngon lành, hấp dẫn rồi lẩm nhẩm bảo nhau tên các loại bánh! Chúng tôi thuộc vanh vách tên các loại bánh như bánh "Bông Lan", bánh kem, bánh nướng bọc đường, đủ màu đủ sắc, bánh sâm nhung, trông mà thèm rỏ dãi.
Sự thèm thuồng của chúng tôi thuộc thành phần kinh niên, chẳng có gì là lạ cả, vì bọn tu hành chúng tôi có tiền đâu để được thưởng thức các thức ăn khoái khẩu ấy!
Thằng Yulgie cười bảo:
- Thôi thì mình đành ăn bằng con mắt vậy!
- Lỗ San này!
Yulgie bỗng đưa tay chỉ vào người đang đứng bên kia quày. Có phải anh chàng béo kia là Du không ? Hình như người đó từng chăm nom săn sóc mày.
Đưa mắt nhìn theo hướng hắn chỉ, tôi bật lên tiếng:
- Đúng, đúng... Anh ấy là anh Du của tao đấy.
Đáp xong lại lời của hắn, tôi đã lên tiếng gọi ngay:
- Anh Du đấy phải không ? Tôi là..
Trước kia mỗi lần nghe thấy tiếng tôi, anh ấy lộ vẻ vui mừng, nhưng lần này thì anh nhìn xuống các gói kẹo gói bằng loại giấy hoa xinh xắn, đoạn nói với người Ấn Độ đứng cạnh điều gì tôi không nghe thấy rõ, đoạn ngẩng mặt lên cau có nhìn tôi quát lớn lên:
- Đi chỗ khác chơi! Đừng đến đây quấy phá người người ta, nghe chưa!
Vừa nói dứt lời anh ta đã quay phắt người lại rảo bước ra lối khác.
Tôi cảm thấy bị chạm tự ái, mặt mày đỏ bừng cả lên. Mắt tôi rưng rưng lệ, nhưng kịp thời cầm lại không để cho nước mắt tuôn trào ra. Tôi không thể dùng nước mắt một cách hoang phí như vậy. Có thể anh ta nhất thời không nhận ra được tôi. Nhưng mà chẳng lẽ anh ấy chóng quên như tế sao?
Trong đám người thân, anh Du là một trong vài người bạn gần gũi nhiều nhất, có thể nói còn hơn hẳn chú Sĩ Cát, anh Hà Mịch hay chú Lâm Trần nữa là đàng khác. Anh Du đã dạy kèm tôi từ thuở mới lớn lên khi còn chưa được đưa vào Thiền Viện. Anh dạy tôi cưỡi con ngựa Kim (Nakkim) vàng ửng.
Sau này vào Thiền Viện anh cũng dạy tôi các môn đô vật, kể cho tôi nghe nhiều chuyện cổ tích, nhiều dã sử, chuyện thần tiên. Tôi cũng vừa mới gặp anh ấy cách đây nửa năm mà nửa năm nào có phải lâu la gì cho lắm, tại sao anh ấy không thể nhìn ra tôi?!
Vừa suy nghĩ vừa cảm thấy xót xa thương hại cho thân phận mình, nếu quả thật anh ấy bạc bẽo với mình! Hai thằng Đề Mộng và Yulgie đứng cạnh tôi cũng ngẩn người ra im lặng. Chúng cũng cảm thấy ngượng ngùng thay cho tôi nên lên tiếng khuyên nhủ:
- Không phải chỉ mình mày bị sỉ nhục không thôi, bọn tôi cũng thấy bị xấu hổ lây với mày nữa. Thằng Đề Mộng rỉ vào tận bờ tai tao thủ thỉ như vậy.
Trong lúc đó bất giác tôi nhận thấy người Ấn Độ đứng tuổi trông hao hao như chú Sĩ Cát, lúc nãy anh Du đã thì thầm gì với ông ta, từ từ tiến về phía chúng tôi đang đứng.
- Này, người bạn trẻ yêu quý của ta!..- Giọng nói của ông ta như người Tây Tạng thuộc vùng biên giới hơi nặng khó nghe. Tất cả những gì đã diễn ra ta đều trông thấy. Nhưng thôi! Hãy quên đi như chẳng có việc gì xảy đến.
Và, ông ta nhìn bọn thằng Đề Mộng và Yulgie chỉ vào các món kẹo bánh bày bán trên ngăn tủ trước mặt.
- Cả các chú bé này nữa. Bây giờ tất cả các chú có quyền chọn lựa bất cứ món nào mình vừa ý.
Tuy thật vui mừng khi nghe ông ta cho phép, song cũng không tránh khỏi sự bẽn lẽn, nên mỗi đứa một món duy nhất, đoạn cúi đầu lí nhí cảm ơn trong miệng.
- Cám ơn ngài rất nhiều.
- Không! Chẳng có gì cám ơn cả. Một gói không đủ, các em cứ lấy thêm một món nữa mới được! Ta chỉ là người tuân theo lệnh của ông Du chẳng có gì phải để cho các em phải cám ơn cả..
Không khách khí, chúng tôi ngoan ngoãn làm theo. Xong xuôi người Ấn Độ này móc ví ra trả tiền cho người chủ tiệm đoạn gật đầu từ biệt chúng tôi rồi lặng lẽ bỏ ra bên ngoài biến mất theo dòng người đang ngang qua cửa tiệm.
THẦN GIAO CÁCH CẢM
Chuyện con thần miêu giữ kho tàng lưu trữ các châu báu vô giá của xứ sở Tây Tạng được xem là an toàn nhất. Vì vậy mà các chú thần miêu này được chăm nom săn sóc đặc biệt như cung cách đối xử với các bậc "Đại Tăng" về chế độ ăn uống.
Các thần miêu này được tuyển chọn cẩn thận, nhất là với điều kiện khỏe mạnh, hình dạng trông có vẻ bề thế, oai phong lẫm liệt như chúa sơn lâm, được giao cho các chuyên viên dạy dỗ các giống thú vật rèn luyện và giao sứ mệnh canh gác kho tàng báu vật vô giá của xứ sở Tây Tạng này.
Tuy nhiên, sau khi được hoàn tất một khóa huấn luyện, chúng được chuyển sang nhà khảo sát lần cuối về đức tính lanh lẹ, sự tài ba và lòng dũng cảm để được chuyển sang một nơi huấn luyện khác chuyên về "thần giao cách cảm".
(Gần đây, các nhà khoa học nêu ra sự cần thiết của những cuộc thí nghiệm để đo lường về "Thần Giao Cách Cảm" giữa con người và bất cứ loài động vật nào. Đặc biệt đối với loại mèo là một giống vật có đôi mắt chẳng khác nào như hai luồng điện cực mạnh, chúng thường dùng làm vũ khí bắt chuột.
Các nhà nghiên cứu biểu lộ sự tiếc rẻ là công cuộc tìm hiểu cặn kẽ này đã không được tiếp tục để có thể chứng minh, hay bác bỏ nếu xét là không thể có được về mối liên hệ về thần giao cách cảm của loài động vật. Có điều là trong mỗi người chúng ta đều có thể tự mình thử nghiệm lấy để biết " liệu có thực như vậy hay không).
Để chứng minh khả năng thần giao cách cảm giữa con người và động vật một số chuyên gia đã khuyên ta nên thử tiến hành một cuộc thí nghiệm như sau:
Nếu như trong gia đình bạn có một Con Mèo, bạn cần phải tập trung tinh thần trong vòng 15 đến 20 phút, cố gắng hình dung về việc có một con chó nào đâu đó đến ngồi bất động ở một góc phòng. Khi thử nghiệm nhớ là phải giữ chung quanh mình thật yên tĩnh, tránh làm cho sự tập trung tư tưởng của ta bị xao lãng bởi thiếu sự chú tâm.
Con mèo trước đó vẫn ngồi bình thản tại chỗ của mình, sẽ bắt đầu cảm thấy sự xuất hiện của một "con chó ảo" (do chính bạn tưởng tượng) và nó bắt đầu tỏ ra dấu hiệu không mấy hài lòng và lo sợ (chú chó ảo tưởng kia).
Thử nghiệm vừa nói thật đơn giản và bất cứ người nào cũng có thể tự làm để kiểm tra về sự thật "có hay không thần giao cách cảm giữa con người và động vật?" Tuy nhiên, cũng đôi khi có người không thể thực hiện theo như ý muốn, bởi khả năng trên còn phải phụ thuộc về nhiều yếu tố khác nhau nữa.
Những năm đầu của thế kỷ 21 này, các nhà khoa học đã tìm ra được các loài vật có Thần Giao Cách Cảm. Chuyện khó tin song đó là sự thật. Một bản tin được đăng tải trong mục Khoa Học & Đời Sống nói về vấn đề này, mà từ ngàn xưa người Tây Tạng đã biết sử dụng nơi các loại mèo và được gọi đó là Thần Miêu canh gác kho tàng quý báu của họ tại đất Phật Sống này.
Câu chuyện chú chó đã chạy bộ đến những 4.000 cây số dọc theo nước Mỹ suốt 8 tháng trường, khiến người chủ chẳng biết nó đã bị lạc nơi nào. Sau một thời gian tìm kiếm, người chủ đã phải bỏ rơi nó khi chuyển đến một nơi ở mới.
Nhưng sau đó không bao lâu ông ta lại tìm ra được chú chó thích ngao du này tại một nơi thật xa xăm nhờ nó đã dùng "thần giao cách cảm" báo tin cho chủ biết nó đang chờ ông ta tại nơi nào đó, hãy đến mang nó trở về.
Có nhiều trường hợp lạ lùng khác nữa, như chuyện chú chó Bonica, theo người chủ nuôi nó thuật lại rằng: Khi con chó bị lâm trọng bệnh họ đưa nó đến bệnh viện của một bác sĩ thú y để khám bệnh. Trong thời gian nằm ở phòng bác sĩ thú y, chú cho này được chạy chữa đúng mức song nó cũng không thể nào qua khỏi.
Nó đã chết. Đúng vào lúc 12 giờ kém 15 hôm ấy nó qua đời. Cũng vào thời gian này người chủ nó, một phụ nữ, đang ở nhà bỗng nghe có tiếng rên rỉ ai oán của con Bonica văng vẳng bên tai mình. Tiếng rên rỉ của con Bonica kéo dài một thời gian đủ để bà ngạc nhiên vì biết chắc chắn là đôi tai mình không thể bị nghe lầm lẫn được. Nó, chính là tiếng của con Boniaca, không thể nào sai được!
Thật ra, nhân loại từ lâu đã chú ý đến quan hệ thần giao cách cảm giữa con người và động vật. Ví như những cuộc thí nghiệm khá thú vị từng được ông V.L.Durov, một chuyên gia người Nga tiến hành với chú chó Mars của chính ông ta nuôi nấng nó.
Nguyên là, một vị giáo sư tại trường Đại học tổng hợp Mạc Tư Khoa, ông G.A. Kosevnikov đã giao cho Durov nhiệm vụ phải sai khiến sao cho con chó làm được những hành động khá phức tạp như: từ phòng khách đi ra phòng bên ngoài, đến chiếc bàn nhỏ, nơi có đặt điện thoại đồng thời dùng răng lấy cuốn sổ danh bạ mang trở lại phòng khách theo đúng như lệnh truyền.
Sau khi nhận nhiệm vụ, Durov dùng tay nắm lấy mõm con chó, chăm chú nhìn vào mắt nó trong vòng 30 giây và sau đó trong vòng 30 giây, ông ta thả con Mars ra, nó chạy ngay ra phòng bên ngoài.
Tại đây, con Mars chạy khắp các xó của căn phòng đánh hơi rồi cuối cùng nó tiến sát tới chiếc bàn nhỏ, nơi có đặt máy điện thoại, dùng hai chân sau đứng lên, mõm nó ngoạm lấy quyển danh bạ mang trở về phòng khách.
Khoa thần giao cách cảm không phải chỉ huấn luyện được loài chó mà có thể với tất cả các loài động vật nào, miễn rằng con vật đó có chút thông minh là được.
Một trường hợp thú vị khác về chuyện nhà văn cũng là nhà tự nhiên học, ông M.Zxerev đã thuật lại một trường hợp kỳ lạ như sau: Vào năm 1966, một ngư dân mang đi bán một con lợn con mới ra đời tròn một tháng cho một khách hàng.
Người chủ mới vừa mua này nhét nó vào trong một bao tải, bỏ xuống bên dưới lòng thuyền đưa nó về nhà. Căn nhà của ông nằm ở tận bên kia sông, cách chỗ ở của người ngư dân kia khoảng 4 cây số. Sau khi cẩn thận thả chú lợn con này vào trong chuồng, nhìn nó trong giây lát, đoạn ông ta leo lên giường ngủ thẳng một giấc ngon lành.
Sáng hôm sau, ông ra chuồng xem thử chú lợn con này để thăm dò sức khỏe nó, nhưng ông không khỏi ngạc nhiên thấy cái chuồng mà ông đã bỏ nó vào đêm rồi hiện chỉ còn là cái chuồng trống trơn, chẳng thấy bóng vía chú lợn bé bỏng kia nữa! Thì ra, trong suốt đêm hôm đó con lợn bé bỏng này một mình bơi qua sông và chạy thẳng về nhà người chủ cũ, nơi nó ra chào đời một tháng trước đây.
Trước sự kiện lạ lùng này, ông ta tiến hành một cuộc thử nghiệm đặc biệt là chở nó đến một nơi thật xa lạ, sau đó tháo bỏ nó ra khỏi bao tải, cẩn thận bỏ vào trong chuồng. Đợi sáng hôm sau, ra lại chuồng xem thử tình hình của nó có trùng hợp như đêm rồi không?
Thật lạ lùng thay, người ta không nhìn thấy tăm dạng nó ở đâu nữa. Có nghĩa là nó trốn thoát trong lúc mọi người đang an giấc. Nhưng, nó chẳng đi đâu lạc cả, mà trở về lại nơi chôn nhau cắt rốn của nó, tức nơi nó đã được sinh hạ.
Cũng vẫn câu chuyện về Thần Giao Cách Cảm mà nhà văn Mỹ có tên Dennis Barden mô tả trong một quyển sách của mình nói về những Nhà Thần Giao Cách Cảm Động Vật như sau: Một phụ nữ đứng tuổi tên là Flinn Rachel đi dạo dọc bờ biển rủi ro bị trượt chân ngã từ một sườn dốc cao và bị thương nặng.
Một lúc sau, bên cạnh người phụ nữ đang nằm đau đớn và tuyệt vọng này xuất hiện một con chim hải âu, con hải âu mà thường nhật bà Flinn hay lấy bánh mì cho nó ăn. Vào lối một phút sau khi đứng nhìn người bạn người tốt bụng này, con hải âu tung cánh lên cao và bay thẳng đến nhà của Rachel, đậu lên bệ cửa sổ và cố ra sức dùng mỏ mổ mạnh vào cửa kính.
Hành vi bất thường của chú chim này đã gây được sự chú ý cho người nhà bà Flinn. Người phụ nữ trong nhà này lờ mờ hiểu rằng con hải âu muốn dẫn bà đi đến một nơi nào đó, nên không còn chần chờ nữa, bà ta mặc vội áo quần chạy theo hải âu đến thẳng nơi xảy ra tai nạn."
Trong khả năng thần giao cách cảm của động vật, Mèo là động vật thường được nhắc tới nhiều nhất. Trong giới nghiên cứu mãi đến ngày nay vẫn còn nhắc tới một trường hợp điển hình.
Đó là câu chuyện khi một Bộ Trưởng Thương Mại Pháp, Moris Kokanovski bị chết trong một tai nạn máy bay vào đầu tháng 9 năm 1928, thì cũng đúng là lúc con mèo yêu quý của ông tại Paris nhằm thời điểm ông bị nạn nổi lên những cơn đau đớn vật vã, co giật rồi tru lên một hồi dài tợ như tiếng khóc than trước khi tắt thở.
Sau đó người ta đem con mèo này đến nhà thương thú y nhờ giải phẫu để tìm ra nguyên cớ đã đưa đến cái chết tức tưởi cho nó. Nhưng sau cuộc phẫu thuật vị bác sĩ thú y tuyên bố chẳng thấy gì cả, chú mèo xấu số này đã chết một cách bình thường. Có nghĩa là con mèo không bị nhiễm độc, không bị mắc phải bất cứ bệnh trạng gì có thể gây nên cái chết tức tưởi cho nó cả.
Nhưng, sau khi được tin chủ nó, vị bộ trưởng Thương Mại Pháp, bị chết bởi tai nạn máy bay cũng trùng hợp vào giờ giấc nó lăn lộn trên nền nhà trước thở hơi cuối cùng. Lúc bấy giờ mọi người xác nhận là nó đã chết theo cái chết của chủ nó.
Có những cuộc thử nghiệm về thần giao cách cảm cấp thấp, như con ốc sên chẳng hạn. Con vật bé bỏng này cũng có thể tự nó áp dụng khả năng thần giao cách cảm. Sau khi những con ốc sên xếp thành một chuỗi sao cho chúng có thể chạm vào nhau, người thử nghiệm tác động một dòng điện lên một trong các con sên xếp hàng này.
Ngay khi đó, ông ta nhìn thấy con sên cuối cùng cũng có phản ứng tương tự như chính nó đã bị điện giật. Tuy nhiên điều thú vị nhất chính ở chỗ, nếu như các con ốc sên này sau đó được tách ra và mang sang những phòng khác nhau, phản ứng tương tự của một cá thể khi một con khác bị kích thích bằng điện vẫn được duy trì như trước.
Cuộc thí nghiệm này tiến hành bởi Gugo Zaimann. Ông bảo rằng đem các loài vật được xem là chậm chạp nhất làm một công việc như người chạy tin hỏa tốc nhanh nhất, không gì hơn là truyền cho nó bằng phương pháp "thần giao cách cảm".
Về sau các nhà nghiên cứu như Allex và Beno của Pháp thực hiện như ông Gugo Zaimann đã làm. Họ lựa ra hai nhóm ốc sên, mỗi nhóm đều có số lượng bằng với số chữ cái có trong bảng chữ cái của Pháp có nghĩa với mỗi một chữ cái sẽ có một cặp ốc sên tương tự. Mỗi cặp này được cho tiếp xúc với nhau, nhờ đó mà chúng có khả năng sao chép nhau về mọi phản ứng.
Sau đó hai nhóm này được tách riêng ra, một nhóm ở lại Paris còn nhóm kia thì được chuyển sang bên kia bờ đại dương tức Nữu Ước. Khi cuộc thử nghiệm bắt đầu, người ta chọn ra một con ốc sên ở Paris tương ứng với một chữ cái nào đó và kích thích vào nó một dòng điện.
Theo tác giả công trình con ốc sên thứ hai tại Nữu Ước, mang chữ cái tương tự, cũng có phản ứng như bị điện giật. Bằng cách này, các nhà nghiên cứu có thể gửi các bức điện cho nhau bằng cách chọn ra những con ốc sên có chữ cái như nhau, từ các chữ cái có thể xác định được một câu hoàn chỉnh.
Ngày dì tôi qua đời, chú Sĩ Cát đã nghĩ ngay đến tôi và biết rằng tôi đang bị một nỗi buồn vô duyên cớ hành hạ. Và quả đúng như vậy, lần gặp gỡ sau cùng với tôi chú đã nói ngay về vấn đề thần giao cách cảm này cho tôi biết:
"Ta đã nhìn thấy chú qua ý tưởng. Ta biết một cách thật rõ ràng là lúc bấy giờ chú đang ngồi trên một mỏm đá ven sườn núi. Mặt mày chú ủ rũ. Trên tay chú cầm một con bướm hoa. Và chú đã thì thầm với con bướm xinh xắn ấy với lời lẽ đầy nỗi thống thiết. Rằng là:
"Bướm hoa ơi! Sao hôm nay lòng ta tràn ngập cả nỗi buồn man mác như thế! Ta nhớ dì ta. Ta đang hình dung bà đang âu yếm nhìn ta. Bướm hoa ơi! Mày có những phút giây tràn ngập nỗi buồn thế này như tao không? Mày có người dì nào để hình dung tưởng nhớ như tao không? Hở bướm!"
Tôi giật mình nhìn chú sửng sốt.
- Đừng ngạc nhiên gì cả. Đó là "thần giao cách cảm".
Hôm ấy, thằng Đề Mộng đòi chúng tôi theo nó ra phố dạo xem các cửa hàng. Thằng Yulgie cho hắn là một kẻ điên rồ :
- Ra phố giờ này? Cửa hàng đều đóng cả rồi biết không?
- Chúng bay cãi nhau cái gì? Im ngay. Giọng một ông giám thị đâu đó quát lên.
Chỉ trong chốc lát, ông giám thị này từ trong bóng tối lò dò đi ra, tiến thẳng đến thằng Đề Mộng đang đứng quạt cho một đấm ngã lăn quay ra giữa sàn. Chúng tôi quá sợ hãi, đứng trân người ra. Thì ra đó là một ông giám thị khổng lồ!
Ông ta có một thân hình đẫy đà cao gần xấp hai lần chúng tôi. Trước mặt ông, tôi có cảm tưởng như mình đang đứng trước một quả núi. Mắt ông trợn trừng hệt như hai cái ốc bươu trắng dã, quát tháo lên ầm ĩ bằng những lời dọa nạt:
- Tụi bây, đứa nào còn ngo ngoe là tao vứt cho con thần miêu kia nó xé xác ra. Nghe không?
Nói xong mặt ông hằm hằm cau lại, đưa mắt nhìn chúng tôi lần cuối rồi biến mất dạng vào con đường nhỏ phía trước.
Thế là chúng tôi không bảo nhau cúi xuống cởi bỏ cả dép đi chân không, se sẽ rút lui ra khỏi nơi đang đứng, đến độ không để gây ra một tiếng động nhỏ nào. Bên ngoài, tiếng gầm thét của gió bão đổ xuống tới tấp.
Chúng tôi đứng bên khung cửa sổ kính nhìn ra ngoài trời. Xa xa là những đỉnh núi tuyết phủ trắng xóa trông tựa như cánh buồm trắng phất phơ theo gió. Lưng trời màn mây đen bao phủ. Gió vẫn ào ạt thổi đến mang theo cả cát sỏi vung vãi vào các bờ tường và các cửa kính tạo nên những âm thanh đến đinh tai nhức óc.
Những cơn lốc bụi cuồn cuộn đổ lên con đường Thánh Lộ dẫn vào thành phố. Tiếng gió gào thét nghe như tiếng gắt gỏng của bầy quỷ sứ đang điên cuồng phát ra những điệu nhạc thác loạn khắp cả núi rừng. Những ánh chớp lóe lên rực sáng cả những lùm cây thấp lè tè ven lộ trông hệt như những bóng ma đang áng ngữ ven đường.
Chúng tôi đang dí mũi nhìn xem cảnh tượng bên ngoài, đếm những lằn chớp ngoằn ngoèo, những mảnh sao đổi ngôi trên nền trời đêm, tuy đã từng nhìn thấy, song cũng không khỏi khiếp hãi khi mỗi lần nghe tiếng giông kéo đến từng chuỗi dài gần như bất tận, tiếp theo đó là tiếng sét giáng xuống như trời long đất lở, cơ hồ làm rung chuyển cả ngôi Thiền Viện, nơi chúng tôi đang ở.
Đột nhiên, một sự kiện khá lạ lùng xảy ra trước mắt chúng tôi. Đó là một bầy thú xanh lè đang kéo nhau chạy trên con đường Thánh Lộ. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau và tiếp tục theo dõi từng bước đi của chúng. Phải chăng đó là một đàn bò ma? Nếu không thì làm sao tự nó phát ra ánh sáng ma quái như vậy?
(Gần đây trên một bản tin nói về việc tạo sinh heo và gà phát sáng. Các nhà khoa học cho biết họ vừa cải thiện được về kỹ thuật chuyển gene ở động vật. Các nhà khoa học Anh đã tạo ra heo và gà phát sáng trong bóng tối. Sở dĩ họ đã tạo ra được nhờ biết bổ sung gene phát sáng của sứa biển.
Hiện nay việc chuyển đổi gene động vật vẫn rất tốn kém nhưng cũng chỉ một trong 70 phôi thai được tiêm vật liệu di truyền là có thể tạo ra một động vật chuyển đổi gene. Kỹ thuật được cải tiến của các nhà khoa học tại viện Roslin (Tô Cách Lan,Anh Quốc) vay mượn liệu pháp gene ở con người.
Trong một cuộc thử nghiệm mới đây, phương pháp mới mẻ này đã tạo ra được 32 con heo phát sáng từ 42 phôi thai. Theo tiến sĩ Bruce Whitelaw và tiến sĩ Helen Sang thì tỷ lệ thành công 90% này có thể tạo ra một cuộc cách mạng trong việc ứng dụng chuyển đổi gene ở vật nuôi.
Heo và gà phát sáng được tạo ra ở Roslin bằng cách sử dụng lentivirus để mang gene protein huỳnh quang xanh (GFP) một gene được tìm thấy ở sứa. Có thể dò thấy cả ở gà và heo mang gene này trong ánh sáng bình thường do chúng có màu hơi xanh lục. Tuy nhiên, khi nhìn chúng trong ánh sáng xanh, tất cả mọi khu vực không có lông của chúng đều một loạt phát sáng như vậy cùng một lúc.
Chân và đầu gà phát sáng trong khi tai mũi, tinh hoàn và chân heo cũng cùng phát sáng như vậy. Một công trình nghiên cứu này đang tiếp tục tiến hành.Tiến sĩ Sang hiện đã sẵn sàng thử nghiệm tạo ra những con gà mái mang nhiều protein dược phẩm trong trứng của chúng.)
Minh Sư Minh Dà Đông Đạt nhắc nhở tôi không được xao nhãng khi bắt đầu áp dụng thần giao cách cảm:
- Đó là điều kiện duy nhất để thu đạt được kết quả theo như ý muốn. Chú nên nhớ rằng: "Theo các nhà tư tưởng Ấn Độ nói về đại thể thì Vũ Trụ này được cấu tạo bởi hai yếu tố căn bản. Đó là Akaska một hình thái nguyên thủy hay nói đúng hơn là cội nguồn của chất liệu phổ biến. Thế có nghĩa tất cả mọi vật thể của Vũ Trụ đều do sản phẩm từ Akaska hình thành.
Trước lời giảng giải này, thú thật tôi cảm thấy chưa được thấu đáo được cặn kẽ, nên nêu ra thắc mắc:
- Thưa Minh sư, nói như vậy chẳng lẽ cả Mặt Trời lẫn Mặt Trăng đều do Akaska cấu tạo cả hay sao?
- Đúng vậy, chẳng những chỉ có hai vầng nhật nguyệt không thôi mà luôn cả vòm trời này, trong đó có cả các vì tinh tú, dù là những vì sao giăng mắc khắp cả vòm trời cũng đều từ Akaska hình thành cả. Những cái gì hữu hình như con người chúng ta, các động, thực vật, các khoáng chất từ thể đặc đến thể lỏng, về hơi khí dưới mọi hình thức và các dạng của nó.
Có nghĩa ta muốn nói đến vô cơ hay hữu cơ, vô sinh hay hữu sinh đều có cùng một quy luật của Tạo Hóa. Akaska là tất cả hay tất cả đều từ Akaska mà ra. Nó hiện hữu và tràn ngập khắp bầu trời thế giới, bao trùm cả vũ trụ bao la, ta nhìn không hết, biết không trọn.
Nó vô cùng mà ta chắc chắn với bộ óc nhỏ bé của con người không bao giờ có thể khám phá ra được.
- Thế, thưa Minh sư, phải chăng Akaska là mối đầu của sự chuyển hóa ra Vũ trụ?
- Hả?! Thầy tôi ngạc nhiên hỏi lại. Chú biết? Ai bảo chú thế?
- Chẳng biết vì sao con hiểu nữa. Có thể là sự tình cờ từ trong tri thức đưa ra.
- Không phải chỉ mỗi một mình Akaska sinh ra Vũ trụ, mà là như chú vừa nói nó chỉ là mối đầu của chuyển hóa, mà cần phải có yếu tố thứ hai, đó chính là Prana. Nó không chỉ có chuyển động cơ học hay ở các dòng điện từ hoặc trường hấp dẫn như chúng ta nghĩ mà ngay cả trong các cơ bắp hoạt động thần kinh nữa.
Nói tóm lại tất cả tinh thần hay vật lý đều có chung một bản thể. Điều này có dịp ta sẽ cùng chú bàn thảo đến những yếu tố quan trọng khác. Kinh Vệ Đà đã ghi: "Cái gì nhờ biết nó, ta biết tất cả". Ta biết cái "nhất dĩ quán tri" đã khái quát hóa vũ trụ trong cái "Tồn Tại Tuyệt Đối Duy Nhất".
Chính nhờ lý thuyết này mà các nhà tư tưởng Yoga lấy đó điều khiển cái Prana có nghĩa điều khiển mọi thứ trong Vũ trụ này. Nếu chú biết sử dụng cái "nhất dĩ quán tri" ắt chú sẽ có một sức mạnh phi thường, sẽ điều khiển được mọi vật hiện hữu ngay trước mắt chú, mặc dù chú chỉ là một hạt cát bé nhỏ đối với cái vô cùng của vũ trụ.
Đến đây Minh Sư im lặng như để suy nghĩ điều gì, sau đó người nói tiếp:
- Ta chỉ là một con sóng bé nhỏ, yếu ớt ở giữa lòng đại dương mênh mông của Prana vũ trụ. Những người luyện Yoga cũng chẳng khác nào luyện thần giao cách cảm mà chế ngự được ngay trong bản thân, được xem là toàn hảo, toàn năng và toàn trí.
Những nhà thôi miên, các nhà thông thiên học có thể dùng tư tưởng và ý chí mình điều động được bất cứ người nào dù ờ cách xa ngàn vạn dặm. Chú phải thực hiện điều này, đây là niềm hoài vọng chẳng những của Đức Đạt Lai Lạt Ma Tối Cao mà là của toàn thể nhân dân xứ sở Tây Tạng.
Tôi bất giác bàng hoàng trước sự tiết lộ đột ngột của Minh Sư, định lên tiếng thoái thác vì tự cảm thấy mình không thể nào thực hiện được điều này, nhưng thầy tôi chặn ngay lại:
- Không. Chú đừng thoái thác. Đây là một chỉ thị. Chú phải học tập và phải thực hiện cho kỳ được. Tuy nhiên ngay bây giờ thì chú chưa vội phải ưu tư, hãy bình tĩnh. Việc gì cũng phải đi từ bước một.
Đến đây Minh sư nhìn trân trối vào mặt tôi trong chốc lát sau đó người thuật lại về kiếp trước của tôi:
- Chú có một tiền kiếp được Đức Tối Cao Đạt Lai Lạt Ma xác nhận. Chú có tin có tiền kiếp không?
- Tôi gật đầu:
- Điều này thì con tin!
- Vậy thì là chú đã nhận lấy nhiệm vụ cao cả do Đức Tối Cao Đạt Lai Lạt Ma giao phó. Tiền kiếp có thật. Ta tuyệt đối tin tưởng như chú đã tin tưởng. Theo sách Táng Thư của Quách Phác, có câu nhận định, nguyên văn như sau:
"Khí cảm nhi ứng, quỉ phúc cập nhân", hàm ý bảo rằng những vật đồng khí đồng chất với nhau có quan hệ cảm ứng lẫn nhau. Từ "quỉ" ở đây, sách Táng Thư muốn chỉ về
Về các đấng sinh thành, tổ tiên sau khi đã quá cố. Theo cổ tự cũng có nghĩa là "qui" tức về, như ta thường bảo về nơi Cửa Phật, với Non Bồng Nước Nhược hay nói cách khác là về với quê thật của mình. Theo thuyết "Phong Thủy" thì chết là về với đất, với "Đại Mẫu" để sửa soạn cho kiếp tái sinh.
Bên Tây Tạng người ta tôn kính các vị Lạt Ma vì tin tưởng rằng đây là người đã được những vị Lạt Ma qua đời báo mộng cho biết ai sẽ là hậu thân của mình.
Câu chuyện luân hồi trước kia chỉ có người Đông phương tin tưởng, nhưng ngày nay thì trên thế giới kể cả về lĩnh vực khoa học cũng không thể bác bỏ hoặc cho đó là huyền hoặc, mê tín nữa.
Ngay ở thế kỷ 21 này, trường hợp một người phụ nữ giải phẫu đầu cho biết, tuy bị nằm thiêm thiếp trên bàn mổ, nhưng trong trạng thái tâm linh, nhận thấy khi phần trên chiếc sọ của mình mở ra, đã nhìn thấy một người nào đó từ bên trong đầu mình nhảy ra.
Bà thuật lại như vậy với các Bác sĩ sau khi tỉnh lại. Vậy thì con người nào đó từ trong đầu của người đàn bà này nhảy ra bên ngoài khi phần trên chiếc sọ được mở ra đó phải chăng là linh hồn?! Câu chuyện tiền kiếp cũng xảy ra cũng tại Tây phương gần đây về một cậu bé thuật lại như sau: Cậu bé tên James 6 tuổi, rất say mê máy bay.
Nhưng khi cậu bắt đầu nói về chiếc hàng không mẫu hạm mà cậu đã phục vụ trên đó trong trận chiến với Nhật Bản cùng những người bạn trong thủy thủ đoàn, hiện là những ông già gần đất xa trời, đã khiến cho cha mẹ cậu sửng sốt đến cực độ.
Gần 60 năm trước, một phi công chiến đấu Hải quân 21 tuổi bị pháo binh Nhật Bản bắn rơi khi đang thi hành nhiệm vụ ngang qua Thái Bình Dương. Có lẽ tên anh bị rơi vào quên lãng nếu không vì cậu, James Leininger, vừa lên 6 tuổi nói lên sự kiện này.
Một số khá nhiều người kể cả những người từng quen biết viên phi công chiến đấu, đều nghĩ rằng James chính là viên phi công kia, nay đã đầu thai lại.
Cha mẹ của James là Andrea và Bruce cho rằng họ có lẽ là những người ít mong đợi một tình huống như vậy, nhất là xảy ra trong cuộc sống của mình. Họ, ông bà Andrea và Bruce thuộc về giới có trình độ học vấn cao, không muốn tin tưởng những chuyện có tính phản khoa học như vậy.
Nhưng cuối cùng họ bắt đầu tin đó là sự thật, có thể con trai của họ đã từng có một kiếp trước nào đó. Theo lời cha mẹ cậu James kể lại, ngay từ tuổi bé thơ James đã không chơi thứ gì khác ngoài máy bay. Khi mới lên 2 tuổi, những chiếc máy bay chơi mà cậu bé yêu thích lại đem đến cho cậu những cơn ác mộng liên tục.
"Tôi đánh thức nó dậy và nó kêu thét lên." ông Andrea nói với phóng viên báo chí như vậy. Khi hỏi cậu bé James đã mơ thấy gì thì được ông cho biết nó đã bảo máy bay của nó đang thi hành nhiệm vụ phát nổ, lúc bấy giờ nó đang tìm cách thoát ra.
James kể lại cho cha mẹ cậu ta biết là mình đã lái chiếc Corsair và nó đã nói: Trước kia lúc nào người ta cũng dùng cái lóp bẹp. Quả đúng như vậy các sử gia và phi công đều đồng ý rằng vỏ bánh xe máy bay thường chịu áp lực rất lớn khi hạ cánh.
Andrea còn kể cả tên của chiếc hàng không mẫu hạm nơi mà chiếc phi cơ của cậu cất cánh Natoma cùng tên của viên phi công bạn Jack Larson cùng bay chuyến bay định mệnh này.
Sau khi nghe con nói về tên của chiếc hàng không mẫu hạm và tên của người phi công bạn nó trong cùng chuyến bay, Bruce phát giác ra rằng Natoma lẫn Jack Larson đều có thật. Riêng Larson bạn của đứa con mình hiện còn sống tại Arkansas. Ôi! Chúa con! Bruce thảng thốt kêu lên Thật họa là có mà đi lộn ngược đầu xuống đất cũng không thể nào tin được.
Kể từ đó, Bruce bị ám ảnh, ông ta sục sạo Internet, rà soát các hồ sơ quân sự và hỏi thăm những người đã từng phục vụ trên hàng không mẫu hạm Natoma Bay. Anh cho biết James kể là cậu đã bị bắn tại Iowa Jima. Từ đây Bruce tìm ra sự thật tên người phi công bị tử trận là James M. Huston Jr. Bruce cũng nói James cho biết là chiếc máy bay của nó đã bị bắn một phát trúng ngay động cơ.
Bruce cho biết giờ thì ông tin rằng kiếp trước của con trai mình chính là James M. Huston Jr. "Anh ấy (tức đứa con mình) đã quay lại vì chưa hoàn thành một việc gì đó.")
Minh sư Minh Dà Đông Đạt khẽ gật đầu nói vừa đủ cho tôi nghe:
- Lỗ San! Chú đã có một tiền kiếp như những vị Đạt La Lạt Ma Tối Cao từ trước. Chú phải làm tròn trách vụ mà trước kia chú còn dang dở.
Trong lúc đó bầu trời bỗng dưng bị mây đen bao phủ. Nhờ các ánh chớp lóe lên nên có thể trông thấy các bụi rậm ven đường chẳng khác nào hình ảnh của những hồn ma hiện về từ lòng địa ngục. Tôi sực nhớ đến một đêm nào đó một ngôi sao chổi có cái đuôi dài lê thê tạo thành một vệt sáng hằn lên nền trời đen tối, đồng thời những thanh kiếm lửa xuất hiện giữa màn trời đêm.
Ánh chớp thi nhau rực sáng lên và cũng thi nhau tắt ngấm, mọi người nhìn thấy đều có cảm tưởng đó là những hình ảnh ma quái, đầu bỏ tóc xõa đang lang thang bước đi miệng đọc vang lên những lời sám hối. Cũng có lúc người ta còn trông thấy hình ảnh ấy y như những chiếc quan tài với hàng đống xác chết nằm la liệt khắp cả các lối đi.
Nhưng rồi các bóng đen mờ ảo đó lại biến đi thay vì là những hình ảnh của hằng hà sa số các bóng đen chen chúc nhau phía dưới chân đồi, trên tay họ cầm những bó đuốc, và đọc lên những lời kinh sám hối. Lúc bấy giờ tiếng gió rền rĩ đổ đến, nghe như tiếng kêu khóc của những oan hồn uổng tử.
Chúng tôi dán mũi vào cửa kính, phóng mắt nhìn ra bên ngoài hình ảnh các bóng đen vẫn tiếp tục chập chờn lướt ngang qua trước mắt, bỗng thằng Đề Mộng kêu lên thất thanh:
- Kìa, chúng đang tiến về phía chúng ta đang đứng. Chạy nhanh lên kẻo chết cả bọn bây giờ.
Hắn vừa nói vừa bỏ chạy vào bên trong, bất giác bị bàn tay ai nắm lấy cổ hắn nhấc bổng lên cao đoạn ném xuống trên mặt sàn gỗ. Chúng tôi quay lại nhìn gặp ngay ông Giám thị vừa rồi đã giáng cho hắn một đòn trí mạng, khiến hắn lăn lộn rên lên ư ử:
- Tôi làm gì mà ông nhẫn tâm đánh đập tôi mãi như vậy?!
- Mày liệu mà giữ lấy thân, còn làm ồn ào tao sẽ bỏ xuống hầm để xem mấy con rắn hoa bên dưới thử gan dạ mày đến bậc nào.
Ông ta vừa nói vừa bỏ đi vào bên trong. Chúng tôi nhìn theo lão Giám thị khổng lồ này với ánh mắt bất bình, nhưng chỉ đành thở dài cúi xuống đỡ hắn lên an ủi:
- Cũng tại cái miệng của mày.
Tuy hắn bị đau đến điếng cả người như vậy song vẫn cố gân cổ lên cãi lại:
- Tao có làm sao đâu ?
- Nhưng mày la lên tru tréo làm mất cả sự thanh tịnh nơi thờ phượng, không phải lỗi à?
Thằng Đề Mộng không đáp lại lời tôi nói, lần này hắn thốt ra lời nguyền rủa lão Giám thị khổng lồ vừa quật ngã hắn trên mặt sàn:
- Đồ ác ôn! Tao muốn "bỏ ngải" cho hắn chết đi cho rồi đời.
Đoạn quay lại phía chúng tôi lên tiếng:
- Tưởng tụi bây cũng nên "bỏ ngải" cái lão có bảng mặt "hà mô" ấy cho rảnh của nợ Chúng ta chịu tuân phục những kẻ hiền hòa chứ cái bản mặt tợ như con cóc chết như lão thì chuyện gì phải cả nể!
Hắn hích mặt lên nhìn tôi nói sang sảng:
- Tao nghĩ Ngài Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt của mày có thể bỏ ngải được hắn đấy, Lỗ San à! Mày làm sao thưa với thầy Lạt Ma mày "thư" cho hắn hóa ra con heo được không?
Nghe hắn nói vậy, cả bọn chúng tôi đều phá lên cười, nhưng vội ngưng ngay lại vì sợ lão Giám thị vẫn còn đâu đó nghe được quay lại thì chỉ còn có nước nhận lấy một trận đòn nên thân. Quy luật của Cửa Thiền quá nghiêm khắc, chỉ cần chú tiểu nào làm kinh động mất sự thanh tịnh thì thế nào cũng lãnh bản án như thằng Đề Mộng cả!
- Mày bảo "thư" ai? Tôi hỏi lại.
- Thì còn ai nữa? "Thư " cái thằng Giám thị ấy chứ còn ai vào đó nữa! Nhưng mày nhớ bảo là thầy mày phải thư làm sao cho hắn hóa ra anh chàng Trư Bát Giới mới được!
Rồi hắn hạ thấp giọng nói làm cho ra vẻ quan trọng:
- Lỗ San à! Nhưng mày nhớ là "thư " ra con "lợn lòi" mới được đó nha!
Thằng Yulgie chen vào:
- Theo tao thì muốn phải cho hắn hóa ra con cóc.
Nghe vậy, thằng Đề Mộng lại cười lên rũ rượi như tuồng ông Giám thị khổng lồ kia đã bị hóa thân thành Cậu Ông Trời rồi, hắn ngâm nga lên :
- "Con cóc trong hang. Con cóc nhảy ra. Con cóc nhảy ra. Con cóc đứng đó.
Thằng Yulgie vốn hay tếu bằng phụ họa với thằng Đề Mộng:
- Con cóc đứng đó. Con cóc nhảy đi. Con cóc nhảy đi. Rồi gì nữa hả Đề Mộng?
- Thì...Con cóc nhảy đi..."
Nghe hai đứa chúng nó đọc bài thơ "con cóc" tôi không thể nhịn nổi cũng phải cười theo, rồi lắc đầu đáp lại lời yêu câu của hắn:
- Tao chắc là thầy tao không làm như lời yêu cầu của mày đâu? Ngài chẳng bao giờ làm hại ai cả. Ngay cả các con vật bé tí ti như con kiến, Ngài cũng chẳng bao giờ động đến.
Thằng Đề Mộng bị hai trận đòn đau điếng cả châu thân, không chịu buông tha, song lần này hắn đề nghị trừng phạt lão nhẹ hơn:
- Nếu không thì mày xin Ngài biến lão Giám thị bất nhân ấy ra chiếc chiếu bông để bọn mình ngồi đè lên cho lão biết thân, hết lên mặt bắt nạt chúng mình.
Nghe hắn nói vậy chúng tôi cùng nhau ôm bụng cười quên cả qui luật của Cửa Thiền và quên luôn cả tiếng gió bên ngoài trời thốc lên từng cơn khiến cho các cánh cửa kiếng rung chuyển lên từng hồi.
Nhưng rồi, bão tố ngoài trời chấm dứt. Đám mây cuối cùng tan biến mất. Các vì sao lại xuất hiện lấp lánh trên nền trời xanh thẳm.
Chúng tôi bừng mắt dậy đã nhìn thấy ngoài trời đã sáng hẳn. Ánh Thái Dương xuyên qua cửa sổ trải mình lên nơi chúng tôi đang nằm trên mấy tấm ghế hoa cương. Rửa ráy mặt mày xong chúng tôi chạy ngay ra để xem cảnh trí bên ngoài sau đêm bão táp đã gây nên hậu quả như thế nào.
Tôi nghiệp cho ngôi nhà bà Paks (Phát Thị) bị thiệt hại nặng nề nhất. Các cánh cửa sổ đều bị thổi bật lên, có cánh treo lủng lẳng, có cánh nằm sóng soài trên mặt đất. Xứ Tây Tạng đa phần các cửa sổ đều dùng loại giấy dầu dán vào các khung thay vì các tấm kính. Giấy dầu màu vàng trong suốt, trong nhà lúc nào cũng có vẻ sáng sủa.
Trên đường đi đến Potala, quả như lời chú Sĩ Cát từng nói, nơi đây cảnh trí hữu tình. Gió mát. Trời xanh. Núi non trùng điệp. Xa xa rừng phong linh uốn mình theo chiều gió,từ xa trông đến tưởng chừng như sóng biển chập chùng khi thấp, khi cao. Thằng Đề Mộng bỗng lên tiếng hỏi:
- Tụi bây ơi! Các nhà buôn giờ này đã mở cửa hàng chưa? Tưởng bọn mình cũng nên đến đó xem một chút cho đỡ thèm.
Thoạt nghe, tôi và Yulgie còn tỏ ra ngần ngại, song cuối cùng cũng tò mò muốn biết thử xem họ bán những vật gì nơi ngôi chợ ấy, bèn đi theo chân hắn. Vào cửa hàng chúng tôi lóa cả mắt. Thật tha hồ mà ngắm nghía đủ các thứ hàng lạ mắt. Các loại trà thơm phưng phức được bày bán ngay trước quày hàng.
Các loại trà này đa phần từ xứ sở Ấn Độ, hoặc từ Trung Hoa du nhập vào. Mùi trà thoảng bay lên thơm phức. Đủ các thứ nhang trầm từ các quốc gia láng giềng do các nhà tơ lụa mang sang. Đó là chưa kể các món nữ trang đẹp đẽ được bày bán trong các thùng kiếng nơi các hàng tạp hóa, nhập cảng từ Đức, từ Anh, từ Pháp đưa sang.
Có điều chúng tôi không biết chúng có được các bà, các cô đoái hoài đến không, vì ít khi được trông thấy mấy món trang sức sang trọng này trên tay các bà, các cô mang trên cổ hoặc trên tay khi đến Cửa Thiền lạy Phật!
Chúng tôi cùng đi vào cửa hàng bánh kẹo. Cửa hàng này toàn chưng bày kẹo bánh ngoại trông vừa đẹp, vừa ngon lành, hấp dẫn rồi lẩm nhẩm bảo nhau tên các loại bánh! Chúng tôi thuộc vanh vách tên các loại bánh như bánh "Bông Lan", bánh kem, bánh nướng bọc đường, đủ màu đủ sắc, bánh sâm nhung, trông mà thèm rỏ dãi.
Sự thèm thuồng của chúng tôi thuộc thành phần kinh niên, chẳng có gì là lạ cả, vì bọn tu hành chúng tôi có tiền đâu để được thưởng thức các thức ăn khoái khẩu ấy!
Thằng Yulgie cười bảo:
- Thôi thì mình đành ăn bằng con mắt vậy!
- Lỗ San này!
Yulgie bỗng đưa tay chỉ vào người đang đứng bên kia quày. Có phải anh chàng béo kia là Du không ? Hình như người đó từng chăm nom săn sóc mày.
Đưa mắt nhìn theo hướng hắn chỉ, tôi bật lên tiếng:
- Đúng, đúng... Anh ấy là anh Du của tao đấy.
Đáp xong lại lời của hắn, tôi đã lên tiếng gọi ngay:
- Anh Du đấy phải không ? Tôi là..
Trước kia mỗi lần nghe thấy tiếng tôi, anh ấy lộ vẻ vui mừng, nhưng lần này thì anh nhìn xuống các gói kẹo gói bằng loại giấy hoa xinh xắn, đoạn nói với người Ấn Độ đứng cạnh điều gì tôi không nghe thấy rõ, đoạn ngẩng mặt lên cau có nhìn tôi quát lớn lên:
- Đi chỗ khác chơi! Đừng đến đây quấy phá người người ta, nghe chưa!
Vừa nói dứt lời anh ta đã quay phắt người lại rảo bước ra lối khác.
Tôi cảm thấy bị chạm tự ái, mặt mày đỏ bừng cả lên. Mắt tôi rưng rưng lệ, nhưng kịp thời cầm lại không để cho nước mắt tuôn trào ra. Tôi không thể dùng nước mắt một cách hoang phí như vậy. Có thể anh ta nhất thời không nhận ra được tôi. Nhưng mà chẳng lẽ anh ấy chóng quên như tế sao?
Trong đám người thân, anh Du là một trong vài người bạn gần gũi nhiều nhất, có thể nói còn hơn hẳn chú Sĩ Cát, anh Hà Mịch hay chú Lâm Trần nữa là đàng khác. Anh Du đã dạy kèm tôi từ thuở mới lớn lên khi còn chưa được đưa vào Thiền Viện. Anh dạy tôi cưỡi con ngựa Kim (Nakkim) vàng ửng.
Sau này vào Thiền Viện anh cũng dạy tôi các môn đô vật, kể cho tôi nghe nhiều chuyện cổ tích, nhiều dã sử, chuyện thần tiên. Tôi cũng vừa mới gặp anh ấy cách đây nửa năm mà nửa năm nào có phải lâu la gì cho lắm, tại sao anh ấy không thể nhìn ra tôi?!
Vừa suy nghĩ vừa cảm thấy xót xa thương hại cho thân phận mình, nếu quả thật anh ấy bạc bẽo với mình! Hai thằng Đề Mộng và Yulgie đứng cạnh tôi cũng ngẩn người ra im lặng. Chúng cũng cảm thấy ngượng ngùng thay cho tôi nên lên tiếng khuyên nhủ:
- Không phải chỉ mình mày bị sỉ nhục không thôi, bọn tôi cũng thấy bị xấu hổ lây với mày nữa. Thằng Đề Mộng rỉ vào tận bờ tai tao thủ thỉ như vậy.
Trong lúc đó bất giác tôi nhận thấy người Ấn Độ đứng tuổi trông hao hao như chú Sĩ Cát, lúc nãy anh Du đã thì thầm gì với ông ta, từ từ tiến về phía chúng tôi đang đứng.
- Này, người bạn trẻ yêu quý của ta!..- Giọng nói của ông ta như người Tây Tạng thuộc vùng biên giới hơi nặng khó nghe. Tất cả những gì đã diễn ra ta đều trông thấy. Nhưng thôi! Hãy quên đi như chẳng có việc gì xảy đến.
Và, ông ta nhìn bọn thằng Đề Mộng và Yulgie chỉ vào các món kẹo bánh bày bán trên ngăn tủ trước mặt.
- Cả các chú bé này nữa. Bây giờ tất cả các chú có quyền chọn lựa bất cứ món nào mình vừa ý.
Tuy thật vui mừng khi nghe ông ta cho phép, song cũng không tránh khỏi sự bẽn lẽn, nên mỗi đứa một món duy nhất, đoạn cúi đầu lí nhí cảm ơn trong miệng.
- Cám ơn ngài rất nhiều.
- Không! Chẳng có gì cám ơn cả. Một gói không đủ, các em cứ lấy thêm một món nữa mới được! Ta chỉ là người tuân theo lệnh của ông Du chẳng có gì phải để cho các em phải cám ơn cả..
Không khách khí, chúng tôi ngoan ngoãn làm theo. Xong xuôi người Ấn Độ này móc ví ra trả tiền cho người chủ tiệm đoạn gật đầu từ biệt chúng tôi rồi lặng lẽ bỏ ra bên ngoài biến mất theo dòng người đang ngang qua cửa tiệm.
#18
Gửi vào 06/06/2011 - 22:15
CHƯƠNG CHÍN
TỪ DU HỒN ĐẾN XUẤT HỒN
Ra khỏi cửa tiệm bán bánh kẹo, chúng tôi mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng tư của mình. Chẳng ai nói với ai câu nào nữa. Thằng Đề Mộng cũng như Yulgie, mặt mày đứa nào trông cũng lầm lì. Khi đến cuối phố bỗng thằng Yulgie lên tiếng phá tan bầu không khí nặng nề ấy bằng những lời lẽ chê trách về thói đời đen bạc.
- Lỗ San ơi! Mày đừng có buồn làm gì về cung cách của anh Du đối xử với mày như thế nữa. Tưởng mày cũng nên biết những kẻ lớn thường xem thường bọn nhỏ như chúng mình. Mày cứ tin lời tao đừng có buồn làm gì nữa.
Rồi một ngày kia mày sẽ thấy, tất cả đều đổi khác khi mà chúng mình trở thành Lạt Ma được giao phó giữ một trọng trách nào đó, sẽ thấy các anh "đầu đen" này thay đổi thái độ ngay. Họ sẽ cầu cạnh, nhờ vả hết chuyện này đến chuyện nọ! Không biết mày với thằng Đề Mộng thế nào, chứ tao lúc ấy bọn "đầu đen" đó đừng hòng được tao ngó mắt chiếu cố đến.
Thường tại Tây Tạng, người cư sĩ thì được gọi là "đầu đen" còn giữ nguyên vẹn mái tóc trên đầu, các tăng sĩ xuất gia tu hành thì đầu nhẵn láng không còn lấy một sợi tóc.
- Bây giờ thì mày nghĩ như vậy, song khi lớn lên, mày trở thành ông Lạt Ma rồi thì nhất định là mày cũng chẳng nhớ làm gì về cái chuyện của thời thơ ấu ấy nữa.
Đêm hôm ấy vì đã trải qua một ngày vất vả chúng tôi ngủ một giấc ngon lành! Nếu không nhờ thằng Đề Mộng đánh thức thì tôi có thể bị trễ mất khóa lễ sáng tại thiền viện. Ăn điểm tâm xong tôi ra khỏi phòng tìm gặp Minh Sư.
Vừa mới ra đến bên ngoài thì đã gặp ngay một nhà sư ú na ú nần lại lùn tịt, ước chừng đầu đuôi không hơn một thước, ăn vận quần áo xốc xếch túm lấy cổ tôi bóp chặt bảo:
- A ha! Chú mày đây rồi. Tao đi kiếm chú mày từ tờ mờ sáng đến giờ. Hà, mày định trốn chạy đi đâu hả? Đừng hòng, con ơi!
Nhà sư lùn tịt này lôi cổ tôi đến nhà bếp của thiền đường, đẩy mạnh tôi đến phía trái cạnh ảng nước, đoạn lớn tiếng ra lệnh:
- Việc làm đầu tiên của chú mày là phải quét dọn mọi nơi ở nhà bếp này rồi sau đó tao sẽ chỉ cho công việc khác.
Tôi vội trần tình về công việc tôi sắp phải làm buổi sáng hôm nay:
- Thưa đại sư.
- Chẳng thưa với thốt gì cả. Bắt tay làm công việc tao giao phó đó ngay bây giờ.
- Nhưng mà.
Lão sư lùn này trợn tròn mắt lên lớn tiếng :
- Hả? mày muốn cưỡng lại lời tao hả?
- Thưa.
- Thưa với thốt gì nữa? Tao đã bảo làm là phải làm ngay. Biết chưa?
- Thưa, tôi phải làm việc với Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt ngay bây giờ. Không thể làm bất cứ công việc nào khác nữa. Xin Đại sư lượng tình.
Tôi vừa nói vừa lách mình sang một bên định bụng bỏ chạy trốn ra khỏi khu nhà bếp, nhưng cánh tay hộ pháp của lão còn nhặm lẹ hơn. Lão tóm ngay cổ tôi lôi đến chiếc cối đá to tướng bên cạnh bờ giếng:
- Không được. Tao đã bảo không được là không được. Tao cóc cần biết mày sắp phải gặp bất cứ người nào. Bây giờ đây tao là tất cả. Mày biết không hỡi thằng nhóc con?
- Ông ta vừa nói vừa vặn trái cánh tay tôi đau đến đứt ruột đứt gan. Sự đau đớn chạy thẳng lên đến đỉnh đầu và cuối cùng biết không thể nào cưỡng được mệnh lệnh lão nên tôi đành ngoan ngoãn xin buông tha cho để thực hiện công việc của lão giao phó.
Tại Tây Tạng chúng tôi bắt buộc làm công việc nặng nhọc hoặc khuân vác, hoặc hầu hạ tạp dịch, hoặc rửa chén bát, quét dọn nhà chùa.. gọi đó là "học khổ hạnh". Mục đích của qui điều "khổ hạnh" này là để rèn luyện cho cả cơ thể con người cho quen đi sự khổ cực và đồng thời tu tập cho tinh thần được lành mạnh. Nhờ vậy mà giới trẻ chúng tôi tại xứ sở Tây Tạng thoát ra khỏi sự ngạo mạn tự cao, tự đại dễ bị sa vào vòng cạm bẫy!
Sau khi quét dọn đâu đó xong xuôi, tôi theo chân nhà sư lùn tịt này xuống hành lang, qua hai cây cầu mà các bậc thang là từng khúc gỗ tròn không lớn không nhỏ, buộc từng khúc vào hai thanh gỗ lớn hơn ép hai bên, dẫn thẳng xuống đến nhà bếp. Vừa xuống đến nơi tôi sực nhớ lại chính tại nơi này đã có lần tôi bị bỏng cả hai bàn chân đến nỗi suýt chút nữa trở thành kẻ tàn tật suốt đời!
Nhà sư này đẩy tôi đến cái cối đá to tướng đoạn dõng dọc lớn tiếng truyền lệnh:
- Đấy! Công việc của mày ngay trước mắt là phải cọ rửa cho thật sạch cái cối đá xanh này rồi sau đó sẽ nhận lãnh công việc khác, nghe rõ chưa? Hả?!
Tôi cầm lấy cái dùi nhọn cũng bằng đá, trèo vào bên trong lòng cái cối đá to tướng cạy ra từng mảng bột bị khớm bên trong các kẽ đá. Còn nhà sư này vừa đứng cầm cây tăm xỉa răng vừa chăm chú nhìn công việc tôi đang làm.
Trong lúc tôi đang cặm cụi làm, bỗng nghe có tiếng của một chú tiểu bên ngoài vọng vào hỏi:
- Lâm Bá ơi! Lỗ San có ở nhà bếp không? Ngài Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt muốn gặp hắn đấy.
Nghe thấy có người gọi tôi vội đứng ngay lên nói lớn cho kẻ nào đó tìm kiếm tôi nghe thấy:
- Có! Có, có tôi đây! Ai gọi đó?
Vừa nói vừa leo ra khỏi khỏi lòng chiếc cối đá tôi đang cọ rửa, định bụng bỏ chạy ra tìm người vừa gọi mình, bất thần bị một quả đấm thôi sơn trí mạng của lão Sư khổng lồ này vào ngay đỉnh đầu! Mặt mày tôi tối sầm hẳn lại và ngã lăn quay ngay trên mặt đất.
Vẫn chẳng buông tha, ông ta còn cúi xuống nắm lấy cổ tôi kéo dậy, nhấc bổng lên thảy mạnh vào ngay trong lòng chiếc cối đá bên cạnh, như tuồng ném một con gà choai choai vậy. Đầu tôi đập mạnh vào ngay cạnh của chiếc cối đá, nghe đánh "bụp" một tiếng, máu me đổ ra lênh láng! Trước mắt tôi lúc bây giờ thấy bừng lên muôn ngàn vì sao loáng thoáng rực sáng rồi từ từ tất cả tắt ngấm đi, thay vào đó là một thế giới đen ngòm trống rỗng.
Lạ lùng thay! Lúc bấy giờ tôi có cảm giác cả châu thân như bềnh bồng trôi nổi giữa khoảng không gian. Thoạt đầu hình như thân tôi nằm dài theo chiều ngang rồi bất thần đứng thẳng dậy. Văng vẳng bên tai từ đâu đó có tiếng vi vu như tiếng nhạc thoảng lại, và kết hợp với tiếng cồng vang lên rền rĩ kéo dài mãi ra, rồi cuối cùng chìm vào khoảng trống bao la mênh mông bất tận.
Vừa dứt tiếng nhạc như từ cõi u minh vọng đến thì một làn điện xẹt lên xanh rờn ngoằn ngoèo như con thanh xà chui ngay vào đầu tôi. Tức thời sau đó cả bầu trời trở nên sáng sủa, hiện lên loại ánh sáng vàng vọt không như màu váng sữa, mà là loại ánh sáng có thể nhìn thấy mọi vật thể nhỏ hơn thường lệ.
- Ôi chao ôi! Tôi lẩm bẩm phải chăng đó là linh hồn ta đã thoát ra khỏi bên ngoài thể xác? Mọi vật thể chung quanh ta sao mà lạ lùng như thế này?
Tôi bỗng nghĩ đến lời thầy tôi trong một dịp nào đó về sự "chọn lựa" cho mình một đời sống thực vĩnh viễn và trong lành như dòng nước suối chưa hề bị vẩn đục!
Tôi miên man suy nghĩ. Ta đang sống hay đang say vùi trong giấc ngủ? Không! Sự sống của ta bất thần bị nhà sư kia tước đoạt mất rồi! Thế có nghĩa ta đang đi vào "Cõi Chết"! Giờ phút này tôi đang đứng trước cảnh tượng bị các hình ảnh ma quái vây quanh bách hại.
Có điều trong sự nhút nhát tôi còn một chút can đảm là không hề biết sợ "Thần Chết" và cũng không hề nao núng trước cái "lưỡi hái" của ông ta đang cầm trong tay. Có điều thú thật là tôi đang ưu tư về việc đi đầu thai vào một kiếp khác đầy cả sự ân oán trái ngang! Sự kiện này tôi không thể nào tiên liệu được.
- Lỗ San! Lỗ San! Chú có làm sao không?
Ai gọi ta đó? Còn làm sao gì nữa? Tôi đang bay đây. Thật nhẹ nhàng chẳng khác nào chiếc bong bóng đong đưa theo chiều gió. Nhưng mà ừ, nhưng mà tại sao tôi không nhìn thấy có không gian. Trước mắt giờ phút này cả cái khoảng không gian mênh mông vô cùng đó toàn một vũng đen như mực.
Thân hình tôi bay bổng lơ lửng khắp nơi, thỉnh thoảng cũng có lúc gặp những vũng sáng rực lên từ những ánh hào quang rực rỡ. Chung quang vũng sáng này tôi chẳng còn trông thấy gì cả. Tất cả đều trống rỗng và chính những hình ảnh này khiến tôi cảm thấy mình đang bị cô đơn bơ vơ, lạc lõng.
Phải chăng ta đang chết? Đã biết mình đang chết thì rõ ràng là mình đang hiện hữu, còn gắn liền với đời sống. Tôi đang nhờ một ống dây dẫn thức. Thỉnh thoảng tôi còn nhận biết một cách mơ hồ là tuồng như có rất đông đảo người lố nhố đang vây chặt quanh tôi.
Phải chăng đó là bóng ma? Nhất định không phải rồi. Bởi trong đám đông người lố nhố đó, tôi thấy cả thầy tôi, trông vẻ mặt người lộ vẻ đau buồn ảm đạm. Tôi thấy cả anh Du, nhìn rõ cả thằng Đề Mộng, thằng Yulgie đang khóc sướt mướt bên ngoài cửa ra vào nhà bếp.
Chẳng lẽ tôi chết thật ư?! Thầy tôi bảo không có hình ảnh của cái chết mà chỉ có sự gặp gỡ cái chết. Đã không có hình ảnh thì làm sao có sự gặp gỡ được? Thầy tôi còn lập luận về tuổi thọ của con người, với người tuổi thọ không giới hạn, có nghĩa là con người có thể trường sinh bất lão nếu họ biết đến với chân lý một cách chân thành.
Chú Sĩ Cát có lần cũng đã từng nói về "cái chết" với lập luận "Cái chết" thực sự an nghỉ và nó chẳng hề quấy rầy ai. Nếu có sự khuấy động "cái chết" thì âu đó chỉ do sự quấy phá của người sống đối với "nó".
Họ gào khóc lên bảo là nó "chết". Họ bỏ nó vào áo quan. Họ chôn cất nó thật trịnh trọng và cho đó là nó đã đi vào thiên cổ, không còn ràng buộc "nó" với sự sống hiện hữu nữa. Nhưng thật ra họ quên rằng nó vẫn sống bằng một hình thức khác mà chính nó, nó cũng không hay biết nữa.
Không hiểu tại sao tôi cảm thấy mình nhẹ nhõm hẳn lên, phiêu diêu đây đó. Tôi không còn phải cực nhọc lê người bằng đôi chân mà thay vì bằng ý nghĩ! Như trường hợp vừa nghĩ đến chú Sĩ Cát, tôi đã bắt gặp ngay chú ấy.
Có điều tôi gọi chú, nhưng tuồng như chú chẳng nghe thấy. Tôi lại nghĩ đến thân mẫu tôi, và cũng như chú Sĩ Cát, bà chẳng thèm đoái hoài gì đến sự hiện diện của tôi cả! Lâu ngày xa cách, giờ trông mẹ tôi đầu tóc bạc phơ, đang nấu bữa ăn chiều.
Tức thì tôi lao người đến, chỉ trong nháy mắt, tôi đã quì ngay dưới chân người ôm chầm lấy khóc lên nức nở.
- Mẹ, mẹ ơi! Con đã về đây với mẹ.
Nhưng, như trên tôi đã nói lên sự kiện tôi gặp chú Sĩ Cát, mẹ tôi chẳng thèm để ý chút nào đến sự hiện diện của tôi. Mẹ tôi hết lảng đi nơi này lại đến nơi khác, tiếp tục làm công việc bếp núc, còn tôi thì bà chẳng hề lưu ý đến. Tại sao?
Phải chăng mẹ tôi đã buồn vì tôi trong bao nhiêu năm xa cách chưa có lần nào về thăm viếng! Nhưng làm sao được tôi đã được chính tay phụ thân tôi mang đến Thiền Viện phó thác cho các đức Lạt Ma trọn đời. Tôi không quyền được quay trở về cho dù cha mẹ tôi có mệnh hệ thế nào chăng nữa.
Có thể là tôi đã chết! Tôi đinh ninh như vậy! Chính nhà sư "hộ pháp" quật ngã tôi ngay vào cái cối đá to tướng bên cạnh. Lúc bấy giờ tôi có cảm giác tê rần cả châu thân nhưng tuyệt đối không có lấy cảm giác đau đớn nữa! Toàn thân tôi tê dại và đầu cổ tôi máu me dầm dề chảy khắp cả người.
Thoạt đầu chung quanh tôi chỉ toàn là một vũng đen phủ kín. Nhưng dần dà sau đó ánh sáng lờ mờ hiện ra, và tôi phiêu diêu bay đi đây đó. Tôi nhìn thấy ngay tử thi của mình đang nằm sóng soài bên trên tấm thớt của chiếc cối đá mà chính tôi đã kỳ rửa sạch sẽ.
Rõ ràng là tôi chết thật. Nhưng tại sao, tôi không trông thấy có "sinh vật ánh sáng" như Minh sư tôi đã nói. Có thể là tôi chưa chết chăng?
Trước đây, tôi đã có nhiều kinh nghiệm về du hồn trong tinh thể cảnh giới (Astral Travelling) mà thầy tôi đã truyền đạt. Tôi đã bay xa ra ngoài trái đất trong một cuộc thử nghiệm chìm sâu trong giấc ngủ và cũng đã từng đến viếng thăm các đô thị lớn. Nhưng đó chưa phải đúng nghĩa của sự "xuất hồn" ra khỏi xác thân.
Như tôi đã nói, trước đây tôi đã có nhiều kinh nghiệm về "Du Hồn" trong Tinh Thể Cảnh Giới. Tôi đã bay xa hơn ra ngoài trái đất, chu du trên cả các hành tinh lớn. Nhưng với trường hợp này, đây là lần đầu tiên mới được biết đến chuyện "xuất hồn" ra khỏi xác thân là thế nào?
Từ trên cao tôi đã nhìn thấy xác thân mình đang nằm co quắp trong chiếc cối đá, mặt mày bê bết cả máu. Tôi có cảm giác là mình đã thật sự không còn sống nữa, nhưng làm sao mà linh thể của tôi vẫn còn nối liền với cái xác thân bất động này?!
Tôi đứng sững sờ nhìn vết thương vỡ ra khá lớn ở thái dương, máu từ bên trong chảy ra lênh láng tợ như vòi nước đang phọt ra bên ngoài, chẳng những làm bê bết cả mặt mày, mà còn luôn cả đầu cổ, làm ướt đẫm tấm áo màu xám đậm và luôn cả cái cối xay mà tôi vừa mới hì hục rửa ráy kỳ cọ cho nó.
Chung quanh tôi lúc bấy giờ có nhiều người bao quanh lại. Tiếng huyên náo mỗi lúc một nhiều hơn. Rõ ràng là mọi người lúc bấy giờ đều tỏ ra tuyệt vọng. Tất cả đều có cùng ý nghĩ là tôi đã thật sự đã chết.
Nhưng bỗng dưng đám người này bỗng reo lên vui mừng khi nhìn thấy Minh Sư tôi đang từ ngoài vội vã đi vào. Khi đến trước xác thân tôi, Ngài quì ngay xuống, mặt mày tái xanh hẳn lại bởi một phần vì xúc động, và cũng một phần vì sự giận dữ kẻ đã gây ra cảnh này cho tôi.
Sau đó, Người đứng ngay dậy đi thẳng đến trước nhà sư bất nhân này nhìn trân trối vào mặt lão nhưng trong nhất thời chẳng thốt ra một lời nào thống trách!
Lúc bây giờ quang cảnh chung quanh tôi đều im lặng. Sự im lặng như thể đóng băng lại. Chuyện gì sẽ ra cho nhà sư hung bạo ấy? Mọi người hiện diện nơi đây đều cùng có ý nghĩ như vậy. Đôi mắt sáng quắc của Người phóng đến ngay nhà sư này một luồng điện cực mạnh như thể muốn đốt cháy và biến lão thành đống tro bụi.
Trông lão lúc bấy giờ thật thảm não! Lão đang run sợ. Toàn thân lão run lên như cầy sấy. Mọi người nghe cả tiếng thở dài não nuột của lão. Thật sự lão đang run sợ. Rồi sau đó như quả bóng xì hơi, lão ngã lăn xuống mặt đất! Mắt lão trợn trừng, miệng lão sùi cả bọt mép. Chẳng ai màng để ý đến lão chỉ vây quanh lại bên tôi và đặt tất cả hy vọng vào sự cứu chữa của Minh Sư tôi.
Ở ngay trên cao nhìn xuống cái "tứ đại cốt nhục" của chính mình, thú thật đây là một điều mới mẻ đem cho tôi một khoái cảm lạ lùng.
Giờ phút này tôi đang lơ lửng bay ngay bên trên đỉnh đầu của mọi người. Tôi nhìn thấy rõ ràng thằng Yulgie đang ôm mặt khóc lên rưng rức. Tôi thấy cả thằng Đề Mộng nó vừa khóc vừa rủa sả "bá ngọ" cái lão sư lùn tịt, vừa kêu gọi thầy tôi "bỏ ngải" cho lão già lùn tịt đó bỏ đời này luôn.
Thật tội nghiệp cho bọn nó! Tôi cảm thấy thương chúng nó vô hạn. Tôi sà xuống ngay nơi bọn chúng đang vây quanh tôi ôm chầm lấy, thế mà chúng vẫn trơ trơ ra kêu khóc luôn mồm, không thèm ngó ngàng gì đến tôi!
Tôi sực nghĩ đến anh Hà Mịch, bởi trong các lần gặp gỡ. Anh ta thường khi thảo luận về trạng thái của cái chết. Anh bảo những kẻ khuất mặt không ở xa với các người nơi cõi phàm này. Họ luôn luôn ở bên cạnh ta, như tôi trong tình huống này chẳng hạn. Anh Hà Mịch không sai! Chính người sống mới có quan niệm là có sự cách biệt hoàn toàn giữa cái sống và cái chết.
Có điều, anh Hà Mịch không lý giải được là thực sự người sống xa dần người chết. Tuy nhiên người chết thì chẳng bao giờ xa rời họ. Trong giờ phút này tôi đã nhìn thấy được điều này. Không ai nhìn thấy linh hồn ta nhưng ta thì dễ dàng trông thấy họ bất kỳ ở tình huống nào!
Không ai trao đổi với ta lời nào! Họ hoàn toàn im lặng để khóc và để thương. Trong lúc đó ta hoàn toàn chia xẻ niềm đau của họ. Bí mật của tạo hóa đã không cho họ phương tiện để nhận biết được những cái gì thiêng liêng nhất.
Còn ta, trong giờ phút chưa thoát hẳn khỏi cõi ta bà này, muốn bảo cho họ biết là chính mình đang đứng bên cạnh họ, đang chia xẻ với họ những gì mà họ đang đau khổ, nhưng không thể nào vượt thoát ra khỏi sự huyền nhiệm của tạo hóa được.
- Thế nào, thưa Đại Đức? Lỗ San có hy vọng cứu được không?
Tôi không buồn nghe đến câu trả lời của vị Đại Đức Y sĩ đó, mà vẫn tiếp tục nghĩ đến những điều anh Hà Mịch trước đã nói gì về cái chết. Anh Hà Mịch đúng. Anh bảo người khuất mặt ở bên cạnh ta. Như tôi bây giờ đang ở bên cạnh mọi người.
Theo lời giải thích của anh Hà Mịch "Hơï những người trần mắt thịt không thể thấy ta đặng vì linh hồn kẻ chết không phải là một thể đặc từ các tế bào kết tụ lại."
Thế có nghĩa là, anh Hà Mịch giải thích linh hồn của ta ở trong cái "vía", mà cái vía được cấu tạo bằng chất thanh khí khác hẳn với xác thân bằng xương bằng thịt. Hồn hay vía đều không kích thích được nhãn quan của ta thì làm sao người phàm mặt thịt có thể trông thấy được?
Vậy thì cái thân xác của mọi người đến một giai đoạn nào đó cũng bị mục nát để rồi trở về với cát bụi, trong lúc cái phần linh thiêng tức cái phần hồn thì vĩnh viễn tồn tại với không gian và thời gian.
Nghĩ đến đây tôi muốn hiện hình lên trước mắt mọi người, để chứng minh là sự sống của tất cả mọi người đều tồn tại, mà không bao giờ bị hủy diệt! Nhưng ý định của tôi đã bị một bàn tay vô hình chặn lại. Hình như có một mệnh lệnh từ một cõi xa xăm nào đó, đưa ra ngăn cản không cho phép tôi làm một điều sai trái như vậy!
Một giọng nói thật ngọt ngào văng vẳng bên tai tôi: "Rồi tất cả mọi người tức khắc phải biết điều ấy". Tôi vừa bay, vừa liên miên suy nghĩ. Tôi bay xuyên qua mái bếp và bỗng dưng tôi kêu lên ngạc nhiên khi đứng trước cảnh tượng lạ lùng hiện lên trước mắt.
- Hả?
Tôi giương mắt ra nhìn trân trối. Tôi nhìn thấy các vị Lạt Ma đang ngồi thiền định trước quả địa cầu tròn trĩnh khá lớn. Tôi nhìn rõ ràng từng thềm lục địa và các đại dương mênh mông rộng lớn.
Tôi không dừng lại nơi đây vì không muốn quấy rầy quý vị này đang cần sự yên tĩnh để ôn lại các bài học. Tôi cứ xuyên qua trần nhà, hết trần phòng này sang trần phòng khác. Khi đến lăng Tẩm Cung thì, thì tôi không còn bay đi đâu nữa. Chung quanh nơi đây là một bức tường lớn được sơn phết toàn vàng óng ánh. Phòng tại đây rất rộng, trưng bày các kim thân của các Đạt Lai Lạt Ma đã có từ bao nhiêu thế kỷ.
Tôi lặng lẽ đến chắp tay trước các pho kim thân này để tỏ lòng tôn kính. Được một lát tôi thả hồn thoát khỏi căn phòng này để lần lượt tiến sang các gian phòng khác kế cận. Khi bay lên khỏi nóc của viện Thiền Định, tôi nhìn thấy rõ ràng dinh Phổ Đà La vô cùng tráng lệ.
Mái ngói toàn thếp cả vàng ròng, long lanh dưới ánh mặt trời tỏa ra màu vàng rực trông chẳng khác nào ánh trăng lung linh trên dòng sông Kỳ Chu vào những đêm trăng tròn trên nền trời trong sáng. Các cột sơn son màu đỏ chói xen lẫn màu hồng diệp cùng với các bức tường trắng xóa và những thành đá được dựng lên thẳng tắp sừng sững trước cảnh núi non hùng vĩ.
Không biết nghĩ sao, tôi bỗng phóng mạnh lên giữa không trung, để nhìn xem những gì bên trên của cái vô cùng của trời đất. Chỉ thoáng trong chốc lát tôi chứng kiến cảnh đẹp của bên trên không gian vô cùng của vũ trụ. Tôi sực nhớ lại lời Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt đã có lần giảng giải cho tôi nghe về biển sao bên trên không gian, còn nhiều hơn cả cát của các sa mạc trên mặt địa cầu này gộp lại.
- Lỗ San!
Thầy tôi bắt đầu giảng giải. Con người cho dù giỏi đến đâu đi nữa vẫn cảm thấy mình bất lực trước cái vô cùng của vũ trụ. Ngoài dải Ngân Hà chúng ta đang ở còn có hằng hà sa số các dải Ngân Hà khác.
Đừng tự hào là trong vũ trụ này duy chỉ có chúng ta là vật linh thiêng nhất trong muôn loài, mà còn có cả hàng bao nhiêu đời sống khác, còn thông minh hơn loài người trên trái đất này hàng triệu triệu lần như vậy.
Ngày xa xưa, các bậc tổ tiên của chúng ta từng khám phá bằng trí tuệ và ngay cả bằng tuệ nhãn rằng là: họ đã từng biết qua tri thức và kiến thức của mình, là ngoài đời sống của chúng ta còn có các đời sống khác.
Họ ở rất xa với chúng ta, khó lòng giao dịch được với những con người hành tinh đó, nếu chúng ta cứ theo con đường mòn bằng vào các cơ khí để lần ra lối đi đến với họ.
Trước kia, tổ tiên chúng ta, đã biết được các nàng tiên bay lượn trên bầu trời hay các vị thần trên thượng tầng không khí biến hóa khôn lường. Các nàng tiên nữ tổ tiên ta bằng vào khả năng tri thức và kiến thức đưa ra, được các họa sĩ ngày xa xưa ban cho thêm đôi cánh.
Với người đời nay, cho đó là sự tưởng tượng thái quá, nếu không nói là chuyện thơ mộng của con người dưới cõi trần gian này. Tuy nhiên quan niệm này của người xưa nó là một sự thực bởi họ nhìn thấy được các bà tiên xinh đẹp đó, các vị linh thần đó bằng tri thức và kiến thức mà không thể nào giải thích.
Ngay cả thế kỷ 21 này, nền văn minh của con người đang đạt gần đến cực đỉnh, song vẫn cảm thấy mình chẳng làm sao thấu rõ sự bí mật của tạo hóa Càng khám phá càng thấy mình chẳng biết gì cả. Nhưng oái oăm thay, càng chẳng biết lại càng chối bỏ sự thiếu hiểu biết của mình.
Các nhà khoa học ấp a ấp úng bằng những lời lẽ vừa bác bỏ thuyết có đời sống bên ngoài hành tinh của chúng ta vừa bảo là mình đang lần mò tìm kiếm, liệu chuyện ấy có thật hay không?
Gần đây, theo Đài VOA một khám phá đã được thực hiện trong vụ quan sát một vùng tập trung các vì sao đang thành hình ở cách địa cầu chúng ta lối 14.000 năm ánh sáng.
Viễn vọng kính Spitzer quan sát sự ra đời của trên 300 vì tinh tú, trong số này có hai vì tinh tú có những vòng đai bụi tạo ra hành tinh bao quanh, đây cũng là các loại bụi đang kết lại trở thành các vì sao mới.
Theo nhà thiên văn Ed Churchwell của trường Đại học Wisconsin của Hoa Kỳ cho là Những phát hiện này vượt quá sự tưởng tượng của chúng tôi về số lượng các sao đang thành hình trong một khu vực riêng lẻ. Điều này thật vô cùng quan trọng. Vì rằng, việc tạo hóa thành lập các vì sao cũng giống như mạch máu của một thiên hà.
Nếu không có như vậy thì các thiên hà được dựng lên sẽ bị tàn lụi dần và cuối cùng chúng ta không còn trông thấy chúng nữa". Công trình hình thành các thiên thể cũng phải mất đến hàng triệu năm, chứ không là một sớm một chiều.
Nhờ các khám phá mới mẻ này mới biết "Sự Sống Khởi Đầu Trên Trái Đất Này như thế nào. Ông Dan Watson, nhà thiên văn học Đại Học Rochester - New York, nói rằng điều này có thể giúp giải thích nguồn gốc các thiên thể băng giá như các sao chổi và thiên thạch chẳng hạn. Ông nói:
"Quý vị nên nhớ chúng ta thường tin rằng các thiên thạch và sao chổi trong thái dương hệ của chúng ta đã mang nước và các chất liệu kiến tạo sự sống khác xuống Trái Đất như chúng ta có hiện nay, và lấp đầy đại dương."
Nhà thiên văn Alan Boss thuộc viện Carnegie, ba phát hiện mới mẻ của Viễn vọng kính không gian Spitzer có ý nghĩa sâu sắc đối với lý thuyết cho rằng có thể có nhiều hành tinh khác giống thái dương hệ của chúng ta.
Thế có nghĩa là các thái dương hệ đó có đời sống. Các đời sống đó có thể còn văn minh hơn nhiều so với nền văn minh của hành tinh chúng ta đang sinh sống.
Tôi đang bay lơ lửng háo hức với hiện tượng lạ lùng trên thượng tầng không khí, thì bỗng nghe văng vẳng bên tai có tiếng ai đó vọng lại. Tôi hạ thấp dần xuống và khẽ đưa mắt nhìn về phía tay phải, nhìn thấy làng So nằm sau lưng thành Lạt Sa tuyệt vời. Và xa xa hơn nữa là dãy núi xanh mờ ảo. Tôi lướt nhẹ hết nơi này đến nơi khác mới nhận thấy xứ sở Tây Tạng thật sự đẹp đẽ vô ngần và mênh mông vô tận.
Tại làng So có lần tôi ngẫu nhiên nhìn thấy pho kinh tối cổ, pho kinh mà có lần thầy tôi giảng giải nó ẩn chứa một năng lực mầu nhiệm phi thường. Dường như pho kinh này chỉ được truyền thụ cho các tín đồ Mật Tông, các hành giả sau khi thụ huấn qua tám phép Bát Định hay Bát Thiền Định mới được xem là thoát khỏi vòng "dục giới".
Trong lúc suy tư mà hồn tôi cứ phiêu diêu đây đó đến nỗi tôi không còn nhớ mình là ai nữa và đang làm gì nữa. Bất thần ngay lúc ấy tôi bị một sức hút vô hình giữ tôi lại. Tôi cố vùng vẫy nhưng vẫn không thể nào thoát ra khỏi trường hợp lạ lùng này.
Thế rồi, hồn tôi không còn cưỡng lại được nữa, cứ từ từ tụt xuống mãi, xuyên qua Phổ Đà La, qua luôn tất cả các phòng, luôn cả cái sàn ván trên gác, rồi đến nhà bếp nơi có xác thân tôi đang nằm mê man bất tỉnh!
Tôi bỗng nhận thấy hình ảnh thầy tôi, Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt đang nhẹ nhàng dùng khăn ướt lau nơi màng tai trái của tôi, và lấy ra mấy mảnh xương nhỏ trắng hêu hếu từ bên trong vết thương ra. Nhìn thấy vậy tôi lẩm bẩm tự nhủ:
- Làm sao thế này? Chẳng lẽ đầu tôi cứng đến nỗi đập vỡ cả mảng đá trắng của chiếc cối đá đó hay sao?
Tôi lặng người đứng trân ra nhìn xác của chính mình, nhuộm đỏ cả máu từ vết thương trên đầu tuôn ra xối xả! Linh thể tôi chăm chú theo dõi cảnh mọi người vây quanh thi thể tôi đang nằm yên bất động.
Ngài Minh Dà Đông Đạt đặt vào vết thương trên đầu tôi một miếng thuốc cao chính người đã làm bằng loại dược thảo Chingwa, đúng theo công thức chỉ dẫn trong một bộ kinh Tây Tạng. Minh sư đã có lần giảng giải về tính dược của loại cỏ Chingwa này, mà theo lời người nó có thể cải tử hoàn sinh được.
Ngài loay hoay băng bó cho tôi, xong xuôi ra lệnh cho hai vị sư đứng cạnh, dùng cái cáng nhẹ nhàng khiêng tôi theo ngài về phòng riêng để tiện việc chữa trị.
Nhưng bất thần quang cảnh quanh tôi bỗng dưng tối sầm lại. Tất cả mọi vật như bị chìm trong bóng đêm dày đặc. Tôi bâng khuâng tự hỏi đang vào đúng giữa trưa mà ánh sáng làm sao tắt biến ngay được, khi mà cả bầu trời còn đang trong sáng!
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy ánh hào quang từ trong cơ thể của chính mình phát ra một màu xanh êm dịu! Đang lơ mơ chiêm ngưỡng ánh hào quang của mình, tự nhiên tôi như bị một sức hút kéo mạnh xuống đến nỗi không thể nào cưỡng lại được.
Lúc bấy giờ văng vẳng bên tai tôi có nhiều tiếng reo lên, mặc dù tôi đang mệt mỏi xen lẫn sự nhức nhối đau đớn thi nhau hoành hành đến cực độ:
- Cậu ấy sống lại rồi!
- Im đi. Đừng làm ồn ào hãy để chờ xem.
Không như lúc linh thể còn nhẹ nhàng bay lơ lửng trên trần nhà, mà giờ đây toàn thân tôi bị ê ẩm đến độ không thể nào cử động được nữa. Sự cần thiết của tôi lúc bấy giờ là cố tìm lấy giấc ngủ, nhưng làm sao được khi mà châu thân tôi càng lúc càng đau đớn thêm hơn lên! Nhưng rồi cuối cùng, tôi từ từ rơi vào trạng thái hôn mê và thật sự không còn hay biết gì nữa!
Chẳng biết phải mất trong bao lâu nằm mê man bất tỉnh như vậy, chỉ biết khi giật mình tỉnh dậy thì mặt trời đã lên quá chặng con sào. Lúc ấy, tôi cảm thấy đầu cổ mình đau như búa bổ. Toàn thể châu thân tôi nóng rát ê ẩm.
Tôi chưa phân biệt được các hình ảnh cũng như màu sắc vây quanh mình, nơi nào tôi cũng nhìn thấy đủ các màu sắc lẫn lộn! Sự đau đớn lại bắt đầu kéo đến dằn vặt càng lúc càng thêm lên đến nỗi làm tôi muốn phát điên lên.
Trong lúc cơn đau đớn kéo đến hành hạ, tôi bỗng nghe có tiếng rầm trầm nhỏ nhẹ bảo khẽ bên bờ tai tôi:
- Đã qua cơn nguy hiểm rồi Lỗ San à! Chú cứ nằm yên thêm chốc lát nữa thì sẽ không còn đau đớn nữa.
Và, thật như vậy. Được một chốc tôi cảm thấy toàn thể châu thân mình không còn đau đớn nữa. Đầu của tôi như thể gối trên một chiếc gối được nhồi lông con thiên nga. Chiếc gối như quấn chặt lấy đầu cổ tôi, cho tôi hơi ấm và một cảm giác cực kỳ êm ái.
Đôi mắt tôi hấp háy mở ra, nhưng vội nhắm nghiền lại bởi ánh sáng bến ngoài chiếu vào. Nhưng dù chỉ nhìn thoáng qua cũng đã nhận thấy ngay thầy tôi đang ngồi bên cạnh! Tay người nắm lấy tay tôi.
Hơi ấm của người chuyền vào từng mạch máu và dẫn thẳng vào tận tim tôi. Những lúc như thế này tôi bỗng nhớ đến mẹ tôi kinh khủng! Giá gì trong những lúc này có mẹ tôi ngồi một bên, hỏi han chăm sóc cho tôi thì còn gì sung sướng hơn nữa!
Lần này tôi cố hết sức mình hé mở mắt ra và khẽ mỉm cười với người và Minh sư cũng vậy. Thầy tôi trao cho tôi ly nước có mùi thơm thơm rồi bảo:
- Uống đi! Đây là loại nước cam lồ, chú sẽ cảm thấy tỉnh táo hẳn ra ngay.
Rõ ràng uống xong ly nước cam lồ, tự nhiên sức sống mới tràn đầy trong cơ thể tôi. Việc đầu tiên là tôi thử nhấc cái đầu còn băng cả vải trắng lên, nhưng đã vội để rơi xuống gối ngay vì cảm thấy như tuồng bị cái chày đá nện xuống ngay nơi vết thương thêm lần nữa. Mắt tôi lại hoa lên trông như thể cả đàn đom đóm bay tỏa ra trước mặt mình.
- Không nên vội Lỗ San à! Đâu có phải là thuốc tiên khiến chú được lành lặn ngay được! Chú cần phải nghỉ ngơi thêm năm ba ngày nữa.
Nói đến đây, thầy tôi đứng lên khi nghe có tiếng cồng từ ngôi thiền viện vọng lại, nhìn tôi bảo:
- Giờ ta phải về thiền viện. Ngài Tối Cao truyền gọi ta gặp Ngài. Đừng lo sợ gì, ta cho thằng Đề Mộng cùng Yulgie canh chừng chú khi ta vắng mặt.
Nói đến đây, người siết nhẹ tay tôi rồi ra khỏi phòng. Đợi bóng Người vừa khuất sau cánh cửa, hai thằng bạn thiết cốt của tôi đã sà ngay đến cạnh giường rối rít bảo:
- Lỗ San! Tao mừng cho mày! Thằng Đề Mộng nói. Mày sống lại, tao mừng đến phát điên lên được. Nghe đâu thằng cha nhà sư đầu bếp quỉ sứ đó bị đuổi ra khỏi thiền viện đây rồi.
Yulgie cũng chen vào:
- Quả vậy! Nó đã bị tống cổ ra khỏi chùa ngay sau đó. Ôi cái thằng nhà sư lùn tịt ấy to đầu mà ngu xuẩn đến độ như vậy. Lúc ấy giá gì tao có phép "thư " ngay cho nó một ngải, hóa thân cho hắn thành con ngáo ộp đời đời kiếp kiếp sống mãi dưới tầng địa ngục.
Đề Mộng nắm lấy tay tôi:
- Tao tưởng mày chết rồi chứ! Máu mày chảy ra lênh láng như con bò bị chọc tiết.
Rồi hắn hạ thấp giọng khẽ hỏi:
- Này! Mày thử cho bọn tao biết lúc mày chết đó mày có gặp quỉ sứ không? Nó có nanh nhiều không? Tay nó có vuốt nhọn không? Ôi! Nếu sau này mà tao chết ắt là tao sợ lắm.
Tôi bật phì cười. Giọng nói của chúng chứa đựng cả sự thành thật tôi nhìn chúng với cả lòng thương cảm.
- Ngày còn sống tao có nghe đến khi chết ắt có tử thần cầm lưỡi hái đến kéo cổ mình đi.
- Ờ, tao cũng nghe như mày nói vậy! Thằng Yulgie cướp lời tôi nói.
Tao cũng nghe như Yulgie bảo vậy! Còn mày thì được nhìn tận mặt, trông nó như thế nào? Chắc là hệt như quỉ sứ, phải không?
- Nhưng mà, tao chưa chết thì làm sao trông thấy mặt con quỉ ấy được?
- Mày không chết là sau khi được thầy mày chữa trị, còn lúc mày nằm thẳng cẳng nín thở ấy là lúc mày đã xuống dưới cõi Âm Ty rồi. Thế nào mày cũng được nhìn thấy.
- Tao không nhìn thấy thần chết nào cả. Có lẽ là tao chưa đến số chết. Tuy nhiên trong khi cái thân xác tao nằm bất động thì linh thể tao được chu du đến bất cứ nơi nào tao muốn. Có lúc không hiểu sao tao muốn đến các vì tinh tú tận giữa bầu trời xa xăm kia.
- Và mày đã đến được?
- Tất nhiên. Ngay cả tao bay thẳng vào khoảng không gian tối tăm và lạnh lẽo nhất, nơi ấy tao nhìn thấy một vì sao nhỏ xinh xắn. Tao là là bay vào bên trong, đứng trong ngôi sao bé nhỏ này nhìn ra bên ngoài chỉ thấy toàn một màn đen nghịt bao bọc chug quanh, thỉnh thoảng mới nhìn thấy một vài tia cực tím loằng ngoằng hiện ra rồi tắt lịm ngay sau đó.
(Có thể hành tinh bé nhỏ này vừa được phát hiện theo như thông báo chính thức của Cơ Quan Không Gian Quốc Gia (NASA) của Hoa Kỳ vào hôm thứ Hai ngày 15-3 năm 2003.
Theo thông báo cho biết thiên thể vừa mới tìm thấy rất tối tăm và băng giá nhất trong Thái Dương Hệ. Nó nhỏ hơn Thiên Vương Tinh, chỉ vỏn vẹn 2.500 km.
Tiểu hành tinh vừa mới được khám phá này được đặt tên là Sedna, theo tên nữ thần Inuit, Người đã tạo ra các sinh vật trên Bắc Băng Dương ở cách Mặt Trời hơn 13 tỷ km và nhiệt độ của nó chưa bao giờ vượt quá 240 độ C.)
- Rồi mày có đi dạo quanh ngôi sao tí hon ấy để tìm các con người trên ấy chuyện trò không? Yulgie chòm lên hỏi tôi một cách gấp rút.
Tôi phì cười:
- Tao chẳng thấy có người nào cả.
- Nhưng mà mày ắt biết là nơi ngôi sao ấy có sinh vật hay không chứ.
- Tao thú thật là chẳng tìm thấy mống nào cả. Nhưng theo lời giảng giải của Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt, thì sự sống không phải chỉ những sinh vật ở địa cầu này giữ độc quyền. Có nghĩa là rất có thể là có đời sống ở những hành tinh xa xôi đó, song vì kỹ thuật khoa học của con người còn ấu trĩ so với cái vô cùng của Vũ Trụ nên chưa thể tìm thấy được mà thôi.
(Gần đây, theo nguồn tin từ Wellington ở Tân Tây Lan được đăng tải trên tờ New Scientist , thì cứ 10 vì sao trong dải Ngân Hà của chúng ta thì một có thể cung cấp những điều kiện sống cần thiết cho sinh vật bậc cao tồn tại.
Các nhà nghiên cứu Úc Đại Lợi cũng kết luận như vậy. Và hầu hết các vì sao này trung bình già hơn mặt trời một tỷ năm, trên lý thuyết đã quá đủ để bất cứ dạng sống nào tiến hóa.
Khái niệm vùng di trú thiên hà (GHZ) trong Milky Way lần đầu tiên được đưa ra vào năm 2001. Nay Charles Lineweaver thuộc Đại Học New Wales và cộng sự đã tìm ra một vùng GHZ thân thiện với sự sống, khi dùng mô hình tiến hóa của Milky Way để lập bản đồ sự phân bố trong không gian và thời gian của bốn nhân tố chính được xem là cần thiết cho dạng sống bậc cao.
Nhân tố đầu tiên là sự xuất hiện của các ngôi sao chủ trong một thái dương hệ. Tiếp đó là sự xuất hiện của các nguyên tố nặng đủ để hình thành nên các hành tinh đất đá. Nhân tố thứ ba là vùng này phải có một khoảng cách an toàn đối với những vụ nổ siêu tân tinh.
Và cuối cùng là phải có đủ thời gian để sự sống tiến hóa. Nhóm nghiên cứu đã xác định con số tối thiểu cho nhân tố thứ tư là 4 tỷ năm (đây là thời gian để các dạng sống phức tạp xuất hiện trên Trái Đất.)
Các phân tích cho ra kết quả là vùng GHZ có dạng đĩa, hình thành khoảng tám tỷ năm trước, nằm cách tâm Milky Way khoảng 25.000 năm ánh sáng. Nó mở rộng chậm chạp, chứa các ngôi sao có tuổi đến khoảng 4 tỷ năm trước, tức gần 10% tất cả các ngôi sao từng được sinh ra trong thiên hà này.
Nhưng theo một số nhà nghiên cứu khác, hiện chúng ta còn biết quá ít về những điều kiện cần cho sự sống (như nguồn gốc sự sống) và do đó rất khó để nói về vùng mà các dạng sống có thể cư trú.
Linewe aver nhấn mạnh nhóm của ông ngụ ý rằng các dạng sống phức tạp ngoài trái đất là có thể, hoặc tồn tại trong vùng GHZ, mà chỉ cho biết vùng này có tiềm năng nhất để hình thành các sinh vật sống bậc cao).
Nói đến đây, tôi chăm chú nhìn mặt chúng mỉm miệng cười lộ vẻ sung sướng đang dâng lên rào rạt trong tâm tư. Một lúc sau tôi lại cảm thấy quá mệt mỏi và lại một lần nữa tôi bị rơi vào giấc ngủ từ bao giờ cũng chẳng hay biết.
Liên miên nằm trên giường bệnh trong suốt cả tuần lễ như vậy và được Ngài Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt tận tay săn sóc. Thật là may mắn cho tôi, nếu không có Minh Sư chữa trị thì chắc chắn tôi không thể nào thoát khỏi tay thần chết.
Tôi vô cùng cảm kích lòng nhân từ của Minh Sư, người yêu thương tôi như con cái mình. Bất giác tôi liên tưởng đến công việc trọng đại mà mình sắp phải đảm nhiệm!
Không phải chỉ thuần túy Người cố giữ lấy mạng sống cho tôi, mà còn một lý do khác nữa. Đó là lý do Người phải dốc toàn sức lực của mình để cho "tôi phải sống" hầu chu toàn lấy sứ mạng đặc biệt do đất nước giao phó mà Đức Đại Lạt Ma Tối Cao đã truyền mệnh lệnh cho Người
Có hôm, tôi vừa ăn xong cháo buổi sáng, thằng Yulgie tò mò hỏi :
- Này, Lỗ San à! Có lần tao nghe lỏm được mầy là hiện thân của một Đức Đại Lạt Ma nào đó tái sinh. Có phải hay không?
- Ờ, tao cũng nghe như thằng Yulgie vừa bảo như vậy! Thế mày có thể tiết lộ cho bọn tao nghe thử được không?
Tôi đưa mắt nhìn chúng trong giây lát đoạn cất tiếng hỏi lại:
- Vậy chúng mày có tin điều đó hay không?
Chúng chỉ giương mắt trân trối nhìn tôi, mà chẳng có đứa nào đáp lại.
Tôi gật đầu:
- Có. Tao có một kiếp trước, từng là một nhân vật cao cấp trong hàng lãnh đạo của Tây Tạng. Thầy tao bảo như vậy. Các nhà Chiêm Tinh cũng bảo vậy. Kiếp trước của tao là ai, Minh sư của tao chưa tiết lộ.
- Nhưng mày có tin hay không?
- Tất nhiên là tao tin, bởi có những sự kiện của tiền kiếp, tao đều nhớ gần như nằm lòng. Tao đã đáp lại đúng những yêu cầu của chẳng những thầy tao mà còn luôn cả các vị Đại sư có bổn phận theo dõi và tìm hiểu kiếp trước của tao nữa.
(Gần đây có vị Đại Lão Lạt Ma Tái Sanh Lobsang Tenzing Rinpoche thuộc tu viện nổi tiếng Ganden Shartse tại Ấn Độ. Ngay từ thời còn ấu thơ, ngài đã được Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 13 công nhận là nhân vật tái sinh từ một vị thầy tôn kính quý báu nhất của dòng truyền thừa này.
Đó chính là ngài Lobsang Tenzing Rinpoche, cựu Viện Trưởng Tu Viện Ganden Shartse tại Tây Tạng. Ngài có những ấn chứng thần bí và khả năng siêu phàm như tiên đoán chính xác được các sự kiện sẽ xảy ra, chữa được các bệnh tật ngặt nghèo và thông suốt tự nhiên về các giáo lý nhà Phật.
Ngài đã được các vị thầy giỏi nhất thời bấy giờ giáo huấn như Đức Đạt Lai Lạt Ma đời 13, Pabongka Rinpoche, Ling Rinpoche, Trijan Rinpoche.
Ngài cũng thông suốt sâu xa các rừng kinh điển đại thừa đến các nghi thức cùng những mật pháp bí truyền và vì thế đã được cấp cả hai bằng Tiến Sĩ Phật Học (Lharampa) tại Lhasha và Tiến Sĩ Thần Học (Ngarampa) tại Đại Học Mật Tông Giuto thuộc Phật giáo Tây Tạng vào năm 1948 với điểm tối ưu hạng.
Năm 1963 ngài rời quê hương đến định cư tại Ấn Độ. Ngài là một tu sĩ thường xuyên nhập thất tịnh tu liên tục trong nhiều năm và hết lòng đào luyện tăng tài không ngưng nghỉ sau khi nhận nhiều chức vụ trọng đại do Đức Đạt Lai Lạt Ma đời 14 bổ nhiệm).
TỪ DU HỒN ĐẾN XUẤT HỒN
Ra khỏi cửa tiệm bán bánh kẹo, chúng tôi mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng tư của mình. Chẳng ai nói với ai câu nào nữa. Thằng Đề Mộng cũng như Yulgie, mặt mày đứa nào trông cũng lầm lì. Khi đến cuối phố bỗng thằng Yulgie lên tiếng phá tan bầu không khí nặng nề ấy bằng những lời lẽ chê trách về thói đời đen bạc.
- Lỗ San ơi! Mày đừng có buồn làm gì về cung cách của anh Du đối xử với mày như thế nữa. Tưởng mày cũng nên biết những kẻ lớn thường xem thường bọn nhỏ như chúng mình. Mày cứ tin lời tao đừng có buồn làm gì nữa.
Rồi một ngày kia mày sẽ thấy, tất cả đều đổi khác khi mà chúng mình trở thành Lạt Ma được giao phó giữ một trọng trách nào đó, sẽ thấy các anh "đầu đen" này thay đổi thái độ ngay. Họ sẽ cầu cạnh, nhờ vả hết chuyện này đến chuyện nọ! Không biết mày với thằng Đề Mộng thế nào, chứ tao lúc ấy bọn "đầu đen" đó đừng hòng được tao ngó mắt chiếu cố đến.
Thường tại Tây Tạng, người cư sĩ thì được gọi là "đầu đen" còn giữ nguyên vẹn mái tóc trên đầu, các tăng sĩ xuất gia tu hành thì đầu nhẵn láng không còn lấy một sợi tóc.
- Bây giờ thì mày nghĩ như vậy, song khi lớn lên, mày trở thành ông Lạt Ma rồi thì nhất định là mày cũng chẳng nhớ làm gì về cái chuyện của thời thơ ấu ấy nữa.
Đêm hôm ấy vì đã trải qua một ngày vất vả chúng tôi ngủ một giấc ngon lành! Nếu không nhờ thằng Đề Mộng đánh thức thì tôi có thể bị trễ mất khóa lễ sáng tại thiền viện. Ăn điểm tâm xong tôi ra khỏi phòng tìm gặp Minh Sư.
Vừa mới ra đến bên ngoài thì đã gặp ngay một nhà sư ú na ú nần lại lùn tịt, ước chừng đầu đuôi không hơn một thước, ăn vận quần áo xốc xếch túm lấy cổ tôi bóp chặt bảo:
- A ha! Chú mày đây rồi. Tao đi kiếm chú mày từ tờ mờ sáng đến giờ. Hà, mày định trốn chạy đi đâu hả? Đừng hòng, con ơi!
Nhà sư lùn tịt này lôi cổ tôi đến nhà bếp của thiền đường, đẩy mạnh tôi đến phía trái cạnh ảng nước, đoạn lớn tiếng ra lệnh:
- Việc làm đầu tiên của chú mày là phải quét dọn mọi nơi ở nhà bếp này rồi sau đó tao sẽ chỉ cho công việc khác.
Tôi vội trần tình về công việc tôi sắp phải làm buổi sáng hôm nay:
- Thưa đại sư.
- Chẳng thưa với thốt gì cả. Bắt tay làm công việc tao giao phó đó ngay bây giờ.
- Nhưng mà.
Lão sư lùn này trợn tròn mắt lên lớn tiếng :
- Hả? mày muốn cưỡng lại lời tao hả?
- Thưa.
- Thưa với thốt gì nữa? Tao đã bảo làm là phải làm ngay. Biết chưa?
- Thưa, tôi phải làm việc với Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt ngay bây giờ. Không thể làm bất cứ công việc nào khác nữa. Xin Đại sư lượng tình.
Tôi vừa nói vừa lách mình sang một bên định bụng bỏ chạy trốn ra khỏi khu nhà bếp, nhưng cánh tay hộ pháp của lão còn nhặm lẹ hơn. Lão tóm ngay cổ tôi lôi đến chiếc cối đá to tướng bên cạnh bờ giếng:
- Không được. Tao đã bảo không được là không được. Tao cóc cần biết mày sắp phải gặp bất cứ người nào. Bây giờ đây tao là tất cả. Mày biết không hỡi thằng nhóc con?
- Ông ta vừa nói vừa vặn trái cánh tay tôi đau đến đứt ruột đứt gan. Sự đau đớn chạy thẳng lên đến đỉnh đầu và cuối cùng biết không thể nào cưỡng được mệnh lệnh lão nên tôi đành ngoan ngoãn xin buông tha cho để thực hiện công việc của lão giao phó.
Tại Tây Tạng chúng tôi bắt buộc làm công việc nặng nhọc hoặc khuân vác, hoặc hầu hạ tạp dịch, hoặc rửa chén bát, quét dọn nhà chùa.. gọi đó là "học khổ hạnh". Mục đích của qui điều "khổ hạnh" này là để rèn luyện cho cả cơ thể con người cho quen đi sự khổ cực và đồng thời tu tập cho tinh thần được lành mạnh. Nhờ vậy mà giới trẻ chúng tôi tại xứ sở Tây Tạng thoát ra khỏi sự ngạo mạn tự cao, tự đại dễ bị sa vào vòng cạm bẫy!
Sau khi quét dọn đâu đó xong xuôi, tôi theo chân nhà sư lùn tịt này xuống hành lang, qua hai cây cầu mà các bậc thang là từng khúc gỗ tròn không lớn không nhỏ, buộc từng khúc vào hai thanh gỗ lớn hơn ép hai bên, dẫn thẳng xuống đến nhà bếp. Vừa xuống đến nơi tôi sực nhớ lại chính tại nơi này đã có lần tôi bị bỏng cả hai bàn chân đến nỗi suýt chút nữa trở thành kẻ tàn tật suốt đời!
Nhà sư này đẩy tôi đến cái cối đá to tướng đoạn dõng dọc lớn tiếng truyền lệnh:
- Đấy! Công việc của mày ngay trước mắt là phải cọ rửa cho thật sạch cái cối đá xanh này rồi sau đó sẽ nhận lãnh công việc khác, nghe rõ chưa? Hả?!
Tôi cầm lấy cái dùi nhọn cũng bằng đá, trèo vào bên trong lòng cái cối đá to tướng cạy ra từng mảng bột bị khớm bên trong các kẽ đá. Còn nhà sư này vừa đứng cầm cây tăm xỉa răng vừa chăm chú nhìn công việc tôi đang làm.
Trong lúc tôi đang cặm cụi làm, bỗng nghe có tiếng của một chú tiểu bên ngoài vọng vào hỏi:
- Lâm Bá ơi! Lỗ San có ở nhà bếp không? Ngài Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt muốn gặp hắn đấy.
Nghe thấy có người gọi tôi vội đứng ngay lên nói lớn cho kẻ nào đó tìm kiếm tôi nghe thấy:
- Có! Có, có tôi đây! Ai gọi đó?
Vừa nói vừa leo ra khỏi khỏi lòng chiếc cối đá tôi đang cọ rửa, định bụng bỏ chạy ra tìm người vừa gọi mình, bất thần bị một quả đấm thôi sơn trí mạng của lão Sư khổng lồ này vào ngay đỉnh đầu! Mặt mày tôi tối sầm hẳn lại và ngã lăn quay ngay trên mặt đất.
Vẫn chẳng buông tha, ông ta còn cúi xuống nắm lấy cổ tôi kéo dậy, nhấc bổng lên thảy mạnh vào ngay trong lòng chiếc cối đá bên cạnh, như tuồng ném một con gà choai choai vậy. Đầu tôi đập mạnh vào ngay cạnh của chiếc cối đá, nghe đánh "bụp" một tiếng, máu me đổ ra lênh láng! Trước mắt tôi lúc bây giờ thấy bừng lên muôn ngàn vì sao loáng thoáng rực sáng rồi từ từ tất cả tắt ngấm đi, thay vào đó là một thế giới đen ngòm trống rỗng.
Lạ lùng thay! Lúc bấy giờ tôi có cảm giác cả châu thân như bềnh bồng trôi nổi giữa khoảng không gian. Thoạt đầu hình như thân tôi nằm dài theo chiều ngang rồi bất thần đứng thẳng dậy. Văng vẳng bên tai từ đâu đó có tiếng vi vu như tiếng nhạc thoảng lại, và kết hợp với tiếng cồng vang lên rền rĩ kéo dài mãi ra, rồi cuối cùng chìm vào khoảng trống bao la mênh mông bất tận.
Vừa dứt tiếng nhạc như từ cõi u minh vọng đến thì một làn điện xẹt lên xanh rờn ngoằn ngoèo như con thanh xà chui ngay vào đầu tôi. Tức thời sau đó cả bầu trời trở nên sáng sủa, hiện lên loại ánh sáng vàng vọt không như màu váng sữa, mà là loại ánh sáng có thể nhìn thấy mọi vật thể nhỏ hơn thường lệ.
- Ôi chao ôi! Tôi lẩm bẩm phải chăng đó là linh hồn ta đã thoát ra khỏi bên ngoài thể xác? Mọi vật thể chung quanh ta sao mà lạ lùng như thế này?
Tôi bỗng nghĩ đến lời thầy tôi trong một dịp nào đó về sự "chọn lựa" cho mình một đời sống thực vĩnh viễn và trong lành như dòng nước suối chưa hề bị vẩn đục!
Tôi miên man suy nghĩ. Ta đang sống hay đang say vùi trong giấc ngủ? Không! Sự sống của ta bất thần bị nhà sư kia tước đoạt mất rồi! Thế có nghĩa ta đang đi vào "Cõi Chết"! Giờ phút này tôi đang đứng trước cảnh tượng bị các hình ảnh ma quái vây quanh bách hại.
Có điều trong sự nhút nhát tôi còn một chút can đảm là không hề biết sợ "Thần Chết" và cũng không hề nao núng trước cái "lưỡi hái" của ông ta đang cầm trong tay. Có điều thú thật là tôi đang ưu tư về việc đi đầu thai vào một kiếp khác đầy cả sự ân oán trái ngang! Sự kiện này tôi không thể nào tiên liệu được.
- Lỗ San! Lỗ San! Chú có làm sao không?
Ai gọi ta đó? Còn làm sao gì nữa? Tôi đang bay đây. Thật nhẹ nhàng chẳng khác nào chiếc bong bóng đong đưa theo chiều gió. Nhưng mà ừ, nhưng mà tại sao tôi không nhìn thấy có không gian. Trước mắt giờ phút này cả cái khoảng không gian mênh mông vô cùng đó toàn một vũng đen như mực.
Thân hình tôi bay bổng lơ lửng khắp nơi, thỉnh thoảng cũng có lúc gặp những vũng sáng rực lên từ những ánh hào quang rực rỡ. Chung quang vũng sáng này tôi chẳng còn trông thấy gì cả. Tất cả đều trống rỗng và chính những hình ảnh này khiến tôi cảm thấy mình đang bị cô đơn bơ vơ, lạc lõng.
Phải chăng ta đang chết? Đã biết mình đang chết thì rõ ràng là mình đang hiện hữu, còn gắn liền với đời sống. Tôi đang nhờ một ống dây dẫn thức. Thỉnh thoảng tôi còn nhận biết một cách mơ hồ là tuồng như có rất đông đảo người lố nhố đang vây chặt quanh tôi.
Phải chăng đó là bóng ma? Nhất định không phải rồi. Bởi trong đám đông người lố nhố đó, tôi thấy cả thầy tôi, trông vẻ mặt người lộ vẻ đau buồn ảm đạm. Tôi thấy cả anh Du, nhìn rõ cả thằng Đề Mộng, thằng Yulgie đang khóc sướt mướt bên ngoài cửa ra vào nhà bếp.
Chẳng lẽ tôi chết thật ư?! Thầy tôi bảo không có hình ảnh của cái chết mà chỉ có sự gặp gỡ cái chết. Đã không có hình ảnh thì làm sao có sự gặp gỡ được? Thầy tôi còn lập luận về tuổi thọ của con người, với người tuổi thọ không giới hạn, có nghĩa là con người có thể trường sinh bất lão nếu họ biết đến với chân lý một cách chân thành.
Chú Sĩ Cát có lần cũng đã từng nói về "cái chết" với lập luận "Cái chết" thực sự an nghỉ và nó chẳng hề quấy rầy ai. Nếu có sự khuấy động "cái chết" thì âu đó chỉ do sự quấy phá của người sống đối với "nó".
Họ gào khóc lên bảo là nó "chết". Họ bỏ nó vào áo quan. Họ chôn cất nó thật trịnh trọng và cho đó là nó đã đi vào thiên cổ, không còn ràng buộc "nó" với sự sống hiện hữu nữa. Nhưng thật ra họ quên rằng nó vẫn sống bằng một hình thức khác mà chính nó, nó cũng không hay biết nữa.
Không hiểu tại sao tôi cảm thấy mình nhẹ nhõm hẳn lên, phiêu diêu đây đó. Tôi không còn phải cực nhọc lê người bằng đôi chân mà thay vì bằng ý nghĩ! Như trường hợp vừa nghĩ đến chú Sĩ Cát, tôi đã bắt gặp ngay chú ấy.
Có điều tôi gọi chú, nhưng tuồng như chú chẳng nghe thấy. Tôi lại nghĩ đến thân mẫu tôi, và cũng như chú Sĩ Cát, bà chẳng thèm đoái hoài gì đến sự hiện diện của tôi cả! Lâu ngày xa cách, giờ trông mẹ tôi đầu tóc bạc phơ, đang nấu bữa ăn chiều.
Tức thì tôi lao người đến, chỉ trong nháy mắt, tôi đã quì ngay dưới chân người ôm chầm lấy khóc lên nức nở.
- Mẹ, mẹ ơi! Con đã về đây với mẹ.
Nhưng, như trên tôi đã nói lên sự kiện tôi gặp chú Sĩ Cát, mẹ tôi chẳng thèm để ý chút nào đến sự hiện diện của tôi. Mẹ tôi hết lảng đi nơi này lại đến nơi khác, tiếp tục làm công việc bếp núc, còn tôi thì bà chẳng hề lưu ý đến. Tại sao?
Phải chăng mẹ tôi đã buồn vì tôi trong bao nhiêu năm xa cách chưa có lần nào về thăm viếng! Nhưng làm sao được tôi đã được chính tay phụ thân tôi mang đến Thiền Viện phó thác cho các đức Lạt Ma trọn đời. Tôi không quyền được quay trở về cho dù cha mẹ tôi có mệnh hệ thế nào chăng nữa.
Có thể là tôi đã chết! Tôi đinh ninh như vậy! Chính nhà sư "hộ pháp" quật ngã tôi ngay vào cái cối đá to tướng bên cạnh. Lúc bấy giờ tôi có cảm giác tê rần cả châu thân nhưng tuyệt đối không có lấy cảm giác đau đớn nữa! Toàn thân tôi tê dại và đầu cổ tôi máu me dầm dề chảy khắp cả người.
Thoạt đầu chung quanh tôi chỉ toàn là một vũng đen phủ kín. Nhưng dần dà sau đó ánh sáng lờ mờ hiện ra, và tôi phiêu diêu bay đi đây đó. Tôi nhìn thấy ngay tử thi của mình đang nằm sóng soài bên trên tấm thớt của chiếc cối đá mà chính tôi đã kỳ rửa sạch sẽ.
Rõ ràng là tôi chết thật. Nhưng tại sao, tôi không trông thấy có "sinh vật ánh sáng" như Minh sư tôi đã nói. Có thể là tôi chưa chết chăng?
Trước đây, tôi đã có nhiều kinh nghiệm về du hồn trong tinh thể cảnh giới (Astral Travelling) mà thầy tôi đã truyền đạt. Tôi đã bay xa ra ngoài trái đất trong một cuộc thử nghiệm chìm sâu trong giấc ngủ và cũng đã từng đến viếng thăm các đô thị lớn. Nhưng đó chưa phải đúng nghĩa của sự "xuất hồn" ra khỏi xác thân.
Như tôi đã nói, trước đây tôi đã có nhiều kinh nghiệm về "Du Hồn" trong Tinh Thể Cảnh Giới. Tôi đã bay xa hơn ra ngoài trái đất, chu du trên cả các hành tinh lớn. Nhưng với trường hợp này, đây là lần đầu tiên mới được biết đến chuyện "xuất hồn" ra khỏi xác thân là thế nào?
Từ trên cao tôi đã nhìn thấy xác thân mình đang nằm co quắp trong chiếc cối đá, mặt mày bê bết cả máu. Tôi có cảm giác là mình đã thật sự không còn sống nữa, nhưng làm sao mà linh thể của tôi vẫn còn nối liền với cái xác thân bất động này?!
Tôi đứng sững sờ nhìn vết thương vỡ ra khá lớn ở thái dương, máu từ bên trong chảy ra lênh láng tợ như vòi nước đang phọt ra bên ngoài, chẳng những làm bê bết cả mặt mày, mà còn luôn cả đầu cổ, làm ướt đẫm tấm áo màu xám đậm và luôn cả cái cối xay mà tôi vừa mới hì hục rửa ráy kỳ cọ cho nó.
Chung quanh tôi lúc bấy giờ có nhiều người bao quanh lại. Tiếng huyên náo mỗi lúc một nhiều hơn. Rõ ràng là mọi người lúc bấy giờ đều tỏ ra tuyệt vọng. Tất cả đều có cùng ý nghĩ là tôi đã thật sự đã chết.
Nhưng bỗng dưng đám người này bỗng reo lên vui mừng khi nhìn thấy Minh Sư tôi đang từ ngoài vội vã đi vào. Khi đến trước xác thân tôi, Ngài quì ngay xuống, mặt mày tái xanh hẳn lại bởi một phần vì xúc động, và cũng một phần vì sự giận dữ kẻ đã gây ra cảnh này cho tôi.
Sau đó, Người đứng ngay dậy đi thẳng đến trước nhà sư bất nhân này nhìn trân trối vào mặt lão nhưng trong nhất thời chẳng thốt ra một lời nào thống trách!
Lúc bây giờ quang cảnh chung quanh tôi đều im lặng. Sự im lặng như thể đóng băng lại. Chuyện gì sẽ ra cho nhà sư hung bạo ấy? Mọi người hiện diện nơi đây đều cùng có ý nghĩ như vậy. Đôi mắt sáng quắc của Người phóng đến ngay nhà sư này một luồng điện cực mạnh như thể muốn đốt cháy và biến lão thành đống tro bụi.
Trông lão lúc bấy giờ thật thảm não! Lão đang run sợ. Toàn thân lão run lên như cầy sấy. Mọi người nghe cả tiếng thở dài não nuột của lão. Thật sự lão đang run sợ. Rồi sau đó như quả bóng xì hơi, lão ngã lăn xuống mặt đất! Mắt lão trợn trừng, miệng lão sùi cả bọt mép. Chẳng ai màng để ý đến lão chỉ vây quanh lại bên tôi và đặt tất cả hy vọng vào sự cứu chữa của Minh Sư tôi.
Ở ngay trên cao nhìn xuống cái "tứ đại cốt nhục" của chính mình, thú thật đây là một điều mới mẻ đem cho tôi một khoái cảm lạ lùng.
Giờ phút này tôi đang lơ lửng bay ngay bên trên đỉnh đầu của mọi người. Tôi nhìn thấy rõ ràng thằng Yulgie đang ôm mặt khóc lên rưng rức. Tôi thấy cả thằng Đề Mộng nó vừa khóc vừa rủa sả "bá ngọ" cái lão sư lùn tịt, vừa kêu gọi thầy tôi "bỏ ngải" cho lão già lùn tịt đó bỏ đời này luôn.
Thật tội nghiệp cho bọn nó! Tôi cảm thấy thương chúng nó vô hạn. Tôi sà xuống ngay nơi bọn chúng đang vây quanh tôi ôm chầm lấy, thế mà chúng vẫn trơ trơ ra kêu khóc luôn mồm, không thèm ngó ngàng gì đến tôi!
Tôi sực nghĩ đến anh Hà Mịch, bởi trong các lần gặp gỡ. Anh ta thường khi thảo luận về trạng thái của cái chết. Anh bảo những kẻ khuất mặt không ở xa với các người nơi cõi phàm này. Họ luôn luôn ở bên cạnh ta, như tôi trong tình huống này chẳng hạn. Anh Hà Mịch không sai! Chính người sống mới có quan niệm là có sự cách biệt hoàn toàn giữa cái sống và cái chết.
Có điều, anh Hà Mịch không lý giải được là thực sự người sống xa dần người chết. Tuy nhiên người chết thì chẳng bao giờ xa rời họ. Trong giờ phút này tôi đã nhìn thấy được điều này. Không ai nhìn thấy linh hồn ta nhưng ta thì dễ dàng trông thấy họ bất kỳ ở tình huống nào!
Không ai trao đổi với ta lời nào! Họ hoàn toàn im lặng để khóc và để thương. Trong lúc đó ta hoàn toàn chia xẻ niềm đau của họ. Bí mật của tạo hóa đã không cho họ phương tiện để nhận biết được những cái gì thiêng liêng nhất.
Còn ta, trong giờ phút chưa thoát hẳn khỏi cõi ta bà này, muốn bảo cho họ biết là chính mình đang đứng bên cạnh họ, đang chia xẻ với họ những gì mà họ đang đau khổ, nhưng không thể nào vượt thoát ra khỏi sự huyền nhiệm của tạo hóa được.
- Thế nào, thưa Đại Đức? Lỗ San có hy vọng cứu được không?
Tôi không buồn nghe đến câu trả lời của vị Đại Đức Y sĩ đó, mà vẫn tiếp tục nghĩ đến những điều anh Hà Mịch trước đã nói gì về cái chết. Anh Hà Mịch đúng. Anh bảo người khuất mặt ở bên cạnh ta. Như tôi bây giờ đang ở bên cạnh mọi người.
Theo lời giải thích của anh Hà Mịch "Hơï những người trần mắt thịt không thể thấy ta đặng vì linh hồn kẻ chết không phải là một thể đặc từ các tế bào kết tụ lại."
Thế có nghĩa là, anh Hà Mịch giải thích linh hồn của ta ở trong cái "vía", mà cái vía được cấu tạo bằng chất thanh khí khác hẳn với xác thân bằng xương bằng thịt. Hồn hay vía đều không kích thích được nhãn quan của ta thì làm sao người phàm mặt thịt có thể trông thấy được?
Vậy thì cái thân xác của mọi người đến một giai đoạn nào đó cũng bị mục nát để rồi trở về với cát bụi, trong lúc cái phần linh thiêng tức cái phần hồn thì vĩnh viễn tồn tại với không gian và thời gian.
Nghĩ đến đây tôi muốn hiện hình lên trước mắt mọi người, để chứng minh là sự sống của tất cả mọi người đều tồn tại, mà không bao giờ bị hủy diệt! Nhưng ý định của tôi đã bị một bàn tay vô hình chặn lại. Hình như có một mệnh lệnh từ một cõi xa xăm nào đó, đưa ra ngăn cản không cho phép tôi làm một điều sai trái như vậy!
Một giọng nói thật ngọt ngào văng vẳng bên tai tôi: "Rồi tất cả mọi người tức khắc phải biết điều ấy". Tôi vừa bay, vừa liên miên suy nghĩ. Tôi bay xuyên qua mái bếp và bỗng dưng tôi kêu lên ngạc nhiên khi đứng trước cảnh tượng lạ lùng hiện lên trước mắt.
- Hả?
Tôi giương mắt ra nhìn trân trối. Tôi nhìn thấy các vị Lạt Ma đang ngồi thiền định trước quả địa cầu tròn trĩnh khá lớn. Tôi nhìn rõ ràng từng thềm lục địa và các đại dương mênh mông rộng lớn.
Tôi không dừng lại nơi đây vì không muốn quấy rầy quý vị này đang cần sự yên tĩnh để ôn lại các bài học. Tôi cứ xuyên qua trần nhà, hết trần phòng này sang trần phòng khác. Khi đến lăng Tẩm Cung thì, thì tôi không còn bay đi đâu nữa. Chung quanh nơi đây là một bức tường lớn được sơn phết toàn vàng óng ánh. Phòng tại đây rất rộng, trưng bày các kim thân của các Đạt Lai Lạt Ma đã có từ bao nhiêu thế kỷ.
Tôi lặng lẽ đến chắp tay trước các pho kim thân này để tỏ lòng tôn kính. Được một lát tôi thả hồn thoát khỏi căn phòng này để lần lượt tiến sang các gian phòng khác kế cận. Khi bay lên khỏi nóc của viện Thiền Định, tôi nhìn thấy rõ ràng dinh Phổ Đà La vô cùng tráng lệ.
Mái ngói toàn thếp cả vàng ròng, long lanh dưới ánh mặt trời tỏa ra màu vàng rực trông chẳng khác nào ánh trăng lung linh trên dòng sông Kỳ Chu vào những đêm trăng tròn trên nền trời trong sáng. Các cột sơn son màu đỏ chói xen lẫn màu hồng diệp cùng với các bức tường trắng xóa và những thành đá được dựng lên thẳng tắp sừng sững trước cảnh núi non hùng vĩ.
Không biết nghĩ sao, tôi bỗng phóng mạnh lên giữa không trung, để nhìn xem những gì bên trên của cái vô cùng của trời đất. Chỉ thoáng trong chốc lát tôi chứng kiến cảnh đẹp của bên trên không gian vô cùng của vũ trụ. Tôi sực nhớ lại lời Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt đã có lần giảng giải cho tôi nghe về biển sao bên trên không gian, còn nhiều hơn cả cát của các sa mạc trên mặt địa cầu này gộp lại.
- Lỗ San!
Thầy tôi bắt đầu giảng giải. Con người cho dù giỏi đến đâu đi nữa vẫn cảm thấy mình bất lực trước cái vô cùng của vũ trụ. Ngoài dải Ngân Hà chúng ta đang ở còn có hằng hà sa số các dải Ngân Hà khác.
Đừng tự hào là trong vũ trụ này duy chỉ có chúng ta là vật linh thiêng nhất trong muôn loài, mà còn có cả hàng bao nhiêu đời sống khác, còn thông minh hơn loài người trên trái đất này hàng triệu triệu lần như vậy.
Ngày xa xưa, các bậc tổ tiên của chúng ta từng khám phá bằng trí tuệ và ngay cả bằng tuệ nhãn rằng là: họ đã từng biết qua tri thức và kiến thức của mình, là ngoài đời sống của chúng ta còn có các đời sống khác.
Họ ở rất xa với chúng ta, khó lòng giao dịch được với những con người hành tinh đó, nếu chúng ta cứ theo con đường mòn bằng vào các cơ khí để lần ra lối đi đến với họ.
Trước kia, tổ tiên chúng ta, đã biết được các nàng tiên bay lượn trên bầu trời hay các vị thần trên thượng tầng không khí biến hóa khôn lường. Các nàng tiên nữ tổ tiên ta bằng vào khả năng tri thức và kiến thức đưa ra, được các họa sĩ ngày xa xưa ban cho thêm đôi cánh.
Với người đời nay, cho đó là sự tưởng tượng thái quá, nếu không nói là chuyện thơ mộng của con người dưới cõi trần gian này. Tuy nhiên quan niệm này của người xưa nó là một sự thực bởi họ nhìn thấy được các bà tiên xinh đẹp đó, các vị linh thần đó bằng tri thức và kiến thức mà không thể nào giải thích.
Ngay cả thế kỷ 21 này, nền văn minh của con người đang đạt gần đến cực đỉnh, song vẫn cảm thấy mình chẳng làm sao thấu rõ sự bí mật của tạo hóa Càng khám phá càng thấy mình chẳng biết gì cả. Nhưng oái oăm thay, càng chẳng biết lại càng chối bỏ sự thiếu hiểu biết của mình.
Các nhà khoa học ấp a ấp úng bằng những lời lẽ vừa bác bỏ thuyết có đời sống bên ngoài hành tinh của chúng ta vừa bảo là mình đang lần mò tìm kiếm, liệu chuyện ấy có thật hay không?
Gần đây, theo Đài VOA một khám phá đã được thực hiện trong vụ quan sát một vùng tập trung các vì sao đang thành hình ở cách địa cầu chúng ta lối 14.000 năm ánh sáng.
Viễn vọng kính Spitzer quan sát sự ra đời của trên 300 vì tinh tú, trong số này có hai vì tinh tú có những vòng đai bụi tạo ra hành tinh bao quanh, đây cũng là các loại bụi đang kết lại trở thành các vì sao mới.
Theo nhà thiên văn Ed Churchwell của trường Đại học Wisconsin của Hoa Kỳ cho là Những phát hiện này vượt quá sự tưởng tượng của chúng tôi về số lượng các sao đang thành hình trong một khu vực riêng lẻ. Điều này thật vô cùng quan trọng. Vì rằng, việc tạo hóa thành lập các vì sao cũng giống như mạch máu của một thiên hà.
Nếu không có như vậy thì các thiên hà được dựng lên sẽ bị tàn lụi dần và cuối cùng chúng ta không còn trông thấy chúng nữa". Công trình hình thành các thiên thể cũng phải mất đến hàng triệu năm, chứ không là một sớm một chiều.
Nhờ các khám phá mới mẻ này mới biết "Sự Sống Khởi Đầu Trên Trái Đất Này như thế nào. Ông Dan Watson, nhà thiên văn học Đại Học Rochester - New York, nói rằng điều này có thể giúp giải thích nguồn gốc các thiên thể băng giá như các sao chổi và thiên thạch chẳng hạn. Ông nói:
"Quý vị nên nhớ chúng ta thường tin rằng các thiên thạch và sao chổi trong thái dương hệ của chúng ta đã mang nước và các chất liệu kiến tạo sự sống khác xuống Trái Đất như chúng ta có hiện nay, và lấp đầy đại dương."
Nhà thiên văn Alan Boss thuộc viện Carnegie, ba phát hiện mới mẻ của Viễn vọng kính không gian Spitzer có ý nghĩa sâu sắc đối với lý thuyết cho rằng có thể có nhiều hành tinh khác giống thái dương hệ của chúng ta.
Thế có nghĩa là các thái dương hệ đó có đời sống. Các đời sống đó có thể còn văn minh hơn nhiều so với nền văn minh của hành tinh chúng ta đang sinh sống.
Tôi đang bay lơ lửng háo hức với hiện tượng lạ lùng trên thượng tầng không khí, thì bỗng nghe văng vẳng bên tai có tiếng ai đó vọng lại. Tôi hạ thấp dần xuống và khẽ đưa mắt nhìn về phía tay phải, nhìn thấy làng So nằm sau lưng thành Lạt Sa tuyệt vời. Và xa xa hơn nữa là dãy núi xanh mờ ảo. Tôi lướt nhẹ hết nơi này đến nơi khác mới nhận thấy xứ sở Tây Tạng thật sự đẹp đẽ vô ngần và mênh mông vô tận.
Tại làng So có lần tôi ngẫu nhiên nhìn thấy pho kinh tối cổ, pho kinh mà có lần thầy tôi giảng giải nó ẩn chứa một năng lực mầu nhiệm phi thường. Dường như pho kinh này chỉ được truyền thụ cho các tín đồ Mật Tông, các hành giả sau khi thụ huấn qua tám phép Bát Định hay Bát Thiền Định mới được xem là thoát khỏi vòng "dục giới".
Trong lúc suy tư mà hồn tôi cứ phiêu diêu đây đó đến nỗi tôi không còn nhớ mình là ai nữa và đang làm gì nữa. Bất thần ngay lúc ấy tôi bị một sức hút vô hình giữ tôi lại. Tôi cố vùng vẫy nhưng vẫn không thể nào thoát ra khỏi trường hợp lạ lùng này.
Thế rồi, hồn tôi không còn cưỡng lại được nữa, cứ từ từ tụt xuống mãi, xuyên qua Phổ Đà La, qua luôn tất cả các phòng, luôn cả cái sàn ván trên gác, rồi đến nhà bếp nơi có xác thân tôi đang nằm mê man bất tỉnh!
Tôi bỗng nhận thấy hình ảnh thầy tôi, Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt đang nhẹ nhàng dùng khăn ướt lau nơi màng tai trái của tôi, và lấy ra mấy mảnh xương nhỏ trắng hêu hếu từ bên trong vết thương ra. Nhìn thấy vậy tôi lẩm bẩm tự nhủ:
- Làm sao thế này? Chẳng lẽ đầu tôi cứng đến nỗi đập vỡ cả mảng đá trắng của chiếc cối đá đó hay sao?
Tôi lặng người đứng trân ra nhìn xác của chính mình, nhuộm đỏ cả máu từ vết thương trên đầu tuôn ra xối xả! Linh thể tôi chăm chú theo dõi cảnh mọi người vây quanh thi thể tôi đang nằm yên bất động.
Ngài Minh Dà Đông Đạt đặt vào vết thương trên đầu tôi một miếng thuốc cao chính người đã làm bằng loại dược thảo Chingwa, đúng theo công thức chỉ dẫn trong một bộ kinh Tây Tạng. Minh sư đã có lần giảng giải về tính dược của loại cỏ Chingwa này, mà theo lời người nó có thể cải tử hoàn sinh được.
Ngài loay hoay băng bó cho tôi, xong xuôi ra lệnh cho hai vị sư đứng cạnh, dùng cái cáng nhẹ nhàng khiêng tôi theo ngài về phòng riêng để tiện việc chữa trị.
Nhưng bất thần quang cảnh quanh tôi bỗng dưng tối sầm lại. Tất cả mọi vật như bị chìm trong bóng đêm dày đặc. Tôi bâng khuâng tự hỏi đang vào đúng giữa trưa mà ánh sáng làm sao tắt biến ngay được, khi mà cả bầu trời còn đang trong sáng!
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy ánh hào quang từ trong cơ thể của chính mình phát ra một màu xanh êm dịu! Đang lơ mơ chiêm ngưỡng ánh hào quang của mình, tự nhiên tôi như bị một sức hút kéo mạnh xuống đến nỗi không thể nào cưỡng lại được.
Lúc bấy giờ văng vẳng bên tai tôi có nhiều tiếng reo lên, mặc dù tôi đang mệt mỏi xen lẫn sự nhức nhối đau đớn thi nhau hoành hành đến cực độ:
- Cậu ấy sống lại rồi!
- Im đi. Đừng làm ồn ào hãy để chờ xem.
Không như lúc linh thể còn nhẹ nhàng bay lơ lửng trên trần nhà, mà giờ đây toàn thân tôi bị ê ẩm đến độ không thể nào cử động được nữa. Sự cần thiết của tôi lúc bấy giờ là cố tìm lấy giấc ngủ, nhưng làm sao được khi mà châu thân tôi càng lúc càng đau đớn thêm hơn lên! Nhưng rồi cuối cùng, tôi từ từ rơi vào trạng thái hôn mê và thật sự không còn hay biết gì nữa!
Chẳng biết phải mất trong bao lâu nằm mê man bất tỉnh như vậy, chỉ biết khi giật mình tỉnh dậy thì mặt trời đã lên quá chặng con sào. Lúc ấy, tôi cảm thấy đầu cổ mình đau như búa bổ. Toàn thể châu thân tôi nóng rát ê ẩm.
Tôi chưa phân biệt được các hình ảnh cũng như màu sắc vây quanh mình, nơi nào tôi cũng nhìn thấy đủ các màu sắc lẫn lộn! Sự đau đớn lại bắt đầu kéo đến dằn vặt càng lúc càng thêm lên đến nỗi làm tôi muốn phát điên lên.
Trong lúc cơn đau đớn kéo đến hành hạ, tôi bỗng nghe có tiếng rầm trầm nhỏ nhẹ bảo khẽ bên bờ tai tôi:
- Đã qua cơn nguy hiểm rồi Lỗ San à! Chú cứ nằm yên thêm chốc lát nữa thì sẽ không còn đau đớn nữa.
Và, thật như vậy. Được một chốc tôi cảm thấy toàn thể châu thân mình không còn đau đớn nữa. Đầu của tôi như thể gối trên một chiếc gối được nhồi lông con thiên nga. Chiếc gối như quấn chặt lấy đầu cổ tôi, cho tôi hơi ấm và một cảm giác cực kỳ êm ái.
Đôi mắt tôi hấp háy mở ra, nhưng vội nhắm nghiền lại bởi ánh sáng bến ngoài chiếu vào. Nhưng dù chỉ nhìn thoáng qua cũng đã nhận thấy ngay thầy tôi đang ngồi bên cạnh! Tay người nắm lấy tay tôi.
Hơi ấm của người chuyền vào từng mạch máu và dẫn thẳng vào tận tim tôi. Những lúc như thế này tôi bỗng nhớ đến mẹ tôi kinh khủng! Giá gì trong những lúc này có mẹ tôi ngồi một bên, hỏi han chăm sóc cho tôi thì còn gì sung sướng hơn nữa!
Lần này tôi cố hết sức mình hé mở mắt ra và khẽ mỉm cười với người và Minh sư cũng vậy. Thầy tôi trao cho tôi ly nước có mùi thơm thơm rồi bảo:
- Uống đi! Đây là loại nước cam lồ, chú sẽ cảm thấy tỉnh táo hẳn ra ngay.
Rõ ràng uống xong ly nước cam lồ, tự nhiên sức sống mới tràn đầy trong cơ thể tôi. Việc đầu tiên là tôi thử nhấc cái đầu còn băng cả vải trắng lên, nhưng đã vội để rơi xuống gối ngay vì cảm thấy như tuồng bị cái chày đá nện xuống ngay nơi vết thương thêm lần nữa. Mắt tôi lại hoa lên trông như thể cả đàn đom đóm bay tỏa ra trước mặt mình.
- Không nên vội Lỗ San à! Đâu có phải là thuốc tiên khiến chú được lành lặn ngay được! Chú cần phải nghỉ ngơi thêm năm ba ngày nữa.
Nói đến đây, thầy tôi đứng lên khi nghe có tiếng cồng từ ngôi thiền viện vọng lại, nhìn tôi bảo:
- Giờ ta phải về thiền viện. Ngài Tối Cao truyền gọi ta gặp Ngài. Đừng lo sợ gì, ta cho thằng Đề Mộng cùng Yulgie canh chừng chú khi ta vắng mặt.
Nói đến đây, người siết nhẹ tay tôi rồi ra khỏi phòng. Đợi bóng Người vừa khuất sau cánh cửa, hai thằng bạn thiết cốt của tôi đã sà ngay đến cạnh giường rối rít bảo:
- Lỗ San! Tao mừng cho mày! Thằng Đề Mộng nói. Mày sống lại, tao mừng đến phát điên lên được. Nghe đâu thằng cha nhà sư đầu bếp quỉ sứ đó bị đuổi ra khỏi thiền viện đây rồi.
Yulgie cũng chen vào:
- Quả vậy! Nó đã bị tống cổ ra khỏi chùa ngay sau đó. Ôi cái thằng nhà sư lùn tịt ấy to đầu mà ngu xuẩn đến độ như vậy. Lúc ấy giá gì tao có phép "thư " ngay cho nó một ngải, hóa thân cho hắn thành con ngáo ộp đời đời kiếp kiếp sống mãi dưới tầng địa ngục.
Đề Mộng nắm lấy tay tôi:
- Tao tưởng mày chết rồi chứ! Máu mày chảy ra lênh láng như con bò bị chọc tiết.
Rồi hắn hạ thấp giọng khẽ hỏi:
- Này! Mày thử cho bọn tao biết lúc mày chết đó mày có gặp quỉ sứ không? Nó có nanh nhiều không? Tay nó có vuốt nhọn không? Ôi! Nếu sau này mà tao chết ắt là tao sợ lắm.
Tôi bật phì cười. Giọng nói của chúng chứa đựng cả sự thành thật tôi nhìn chúng với cả lòng thương cảm.
- Ngày còn sống tao có nghe đến khi chết ắt có tử thần cầm lưỡi hái đến kéo cổ mình đi.
- Ờ, tao cũng nghe như mày nói vậy! Thằng Yulgie cướp lời tôi nói.
Tao cũng nghe như Yulgie bảo vậy! Còn mày thì được nhìn tận mặt, trông nó như thế nào? Chắc là hệt như quỉ sứ, phải không?
- Nhưng mà, tao chưa chết thì làm sao trông thấy mặt con quỉ ấy được?
- Mày không chết là sau khi được thầy mày chữa trị, còn lúc mày nằm thẳng cẳng nín thở ấy là lúc mày đã xuống dưới cõi Âm Ty rồi. Thế nào mày cũng được nhìn thấy.
- Tao không nhìn thấy thần chết nào cả. Có lẽ là tao chưa đến số chết. Tuy nhiên trong khi cái thân xác tao nằm bất động thì linh thể tao được chu du đến bất cứ nơi nào tao muốn. Có lúc không hiểu sao tao muốn đến các vì tinh tú tận giữa bầu trời xa xăm kia.
- Và mày đã đến được?
- Tất nhiên. Ngay cả tao bay thẳng vào khoảng không gian tối tăm và lạnh lẽo nhất, nơi ấy tao nhìn thấy một vì sao nhỏ xinh xắn. Tao là là bay vào bên trong, đứng trong ngôi sao bé nhỏ này nhìn ra bên ngoài chỉ thấy toàn một màn đen nghịt bao bọc chug quanh, thỉnh thoảng mới nhìn thấy một vài tia cực tím loằng ngoằng hiện ra rồi tắt lịm ngay sau đó.
(Có thể hành tinh bé nhỏ này vừa được phát hiện theo như thông báo chính thức của Cơ Quan Không Gian Quốc Gia (NASA) của Hoa Kỳ vào hôm thứ Hai ngày 15-3 năm 2003.
Theo thông báo cho biết thiên thể vừa mới tìm thấy rất tối tăm và băng giá nhất trong Thái Dương Hệ. Nó nhỏ hơn Thiên Vương Tinh, chỉ vỏn vẹn 2.500 km.
Tiểu hành tinh vừa mới được khám phá này được đặt tên là Sedna, theo tên nữ thần Inuit, Người đã tạo ra các sinh vật trên Bắc Băng Dương ở cách Mặt Trời hơn 13 tỷ km và nhiệt độ của nó chưa bao giờ vượt quá 240 độ C.)
- Rồi mày có đi dạo quanh ngôi sao tí hon ấy để tìm các con người trên ấy chuyện trò không? Yulgie chòm lên hỏi tôi một cách gấp rút.
Tôi phì cười:
- Tao chẳng thấy có người nào cả.
- Nhưng mà mày ắt biết là nơi ngôi sao ấy có sinh vật hay không chứ.
- Tao thú thật là chẳng tìm thấy mống nào cả. Nhưng theo lời giảng giải của Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt, thì sự sống không phải chỉ những sinh vật ở địa cầu này giữ độc quyền. Có nghĩa là rất có thể là có đời sống ở những hành tinh xa xôi đó, song vì kỹ thuật khoa học của con người còn ấu trĩ so với cái vô cùng của Vũ Trụ nên chưa thể tìm thấy được mà thôi.
(Gần đây, theo nguồn tin từ Wellington ở Tân Tây Lan được đăng tải trên tờ New Scientist , thì cứ 10 vì sao trong dải Ngân Hà của chúng ta thì một có thể cung cấp những điều kiện sống cần thiết cho sinh vật bậc cao tồn tại.
Các nhà nghiên cứu Úc Đại Lợi cũng kết luận như vậy. Và hầu hết các vì sao này trung bình già hơn mặt trời một tỷ năm, trên lý thuyết đã quá đủ để bất cứ dạng sống nào tiến hóa.
Khái niệm vùng di trú thiên hà (GHZ) trong Milky Way lần đầu tiên được đưa ra vào năm 2001. Nay Charles Lineweaver thuộc Đại Học New Wales và cộng sự đã tìm ra một vùng GHZ thân thiện với sự sống, khi dùng mô hình tiến hóa của Milky Way để lập bản đồ sự phân bố trong không gian và thời gian của bốn nhân tố chính được xem là cần thiết cho dạng sống bậc cao.
Nhân tố đầu tiên là sự xuất hiện của các ngôi sao chủ trong một thái dương hệ. Tiếp đó là sự xuất hiện của các nguyên tố nặng đủ để hình thành nên các hành tinh đất đá. Nhân tố thứ ba là vùng này phải có một khoảng cách an toàn đối với những vụ nổ siêu tân tinh.
Và cuối cùng là phải có đủ thời gian để sự sống tiến hóa. Nhóm nghiên cứu đã xác định con số tối thiểu cho nhân tố thứ tư là 4 tỷ năm (đây là thời gian để các dạng sống phức tạp xuất hiện trên Trái Đất.)
Các phân tích cho ra kết quả là vùng GHZ có dạng đĩa, hình thành khoảng tám tỷ năm trước, nằm cách tâm Milky Way khoảng 25.000 năm ánh sáng. Nó mở rộng chậm chạp, chứa các ngôi sao có tuổi đến khoảng 4 tỷ năm trước, tức gần 10% tất cả các ngôi sao từng được sinh ra trong thiên hà này.
Nhưng theo một số nhà nghiên cứu khác, hiện chúng ta còn biết quá ít về những điều kiện cần cho sự sống (như nguồn gốc sự sống) và do đó rất khó để nói về vùng mà các dạng sống có thể cư trú.
Linewe aver nhấn mạnh nhóm của ông ngụ ý rằng các dạng sống phức tạp ngoài trái đất là có thể, hoặc tồn tại trong vùng GHZ, mà chỉ cho biết vùng này có tiềm năng nhất để hình thành các sinh vật sống bậc cao).
Nói đến đây, tôi chăm chú nhìn mặt chúng mỉm miệng cười lộ vẻ sung sướng đang dâng lên rào rạt trong tâm tư. Một lúc sau tôi lại cảm thấy quá mệt mỏi và lại một lần nữa tôi bị rơi vào giấc ngủ từ bao giờ cũng chẳng hay biết.
Liên miên nằm trên giường bệnh trong suốt cả tuần lễ như vậy và được Ngài Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt tận tay săn sóc. Thật là may mắn cho tôi, nếu không có Minh Sư chữa trị thì chắc chắn tôi không thể nào thoát khỏi tay thần chết.
Tôi vô cùng cảm kích lòng nhân từ của Minh Sư, người yêu thương tôi như con cái mình. Bất giác tôi liên tưởng đến công việc trọng đại mà mình sắp phải đảm nhiệm!
Không phải chỉ thuần túy Người cố giữ lấy mạng sống cho tôi, mà còn một lý do khác nữa. Đó là lý do Người phải dốc toàn sức lực của mình để cho "tôi phải sống" hầu chu toàn lấy sứ mạng đặc biệt do đất nước giao phó mà Đức Đại Lạt Ma Tối Cao đã truyền mệnh lệnh cho Người
Có hôm, tôi vừa ăn xong cháo buổi sáng, thằng Yulgie tò mò hỏi :
- Này, Lỗ San à! Có lần tao nghe lỏm được mầy là hiện thân của một Đức Đại Lạt Ma nào đó tái sinh. Có phải hay không?
- Ờ, tao cũng nghe như thằng Yulgie vừa bảo như vậy! Thế mày có thể tiết lộ cho bọn tao nghe thử được không?
Tôi đưa mắt nhìn chúng trong giây lát đoạn cất tiếng hỏi lại:
- Vậy chúng mày có tin điều đó hay không?
Chúng chỉ giương mắt trân trối nhìn tôi, mà chẳng có đứa nào đáp lại.
Tôi gật đầu:
- Có. Tao có một kiếp trước, từng là một nhân vật cao cấp trong hàng lãnh đạo của Tây Tạng. Thầy tao bảo như vậy. Các nhà Chiêm Tinh cũng bảo vậy. Kiếp trước của tao là ai, Minh sư của tao chưa tiết lộ.
- Nhưng mày có tin hay không?
- Tất nhiên là tao tin, bởi có những sự kiện của tiền kiếp, tao đều nhớ gần như nằm lòng. Tao đã đáp lại đúng những yêu cầu của chẳng những thầy tao mà còn luôn cả các vị Đại sư có bổn phận theo dõi và tìm hiểu kiếp trước của tao nữa.
(Gần đây có vị Đại Lão Lạt Ma Tái Sanh Lobsang Tenzing Rinpoche thuộc tu viện nổi tiếng Ganden Shartse tại Ấn Độ. Ngay từ thời còn ấu thơ, ngài đã được Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 13 công nhận là nhân vật tái sinh từ một vị thầy tôn kính quý báu nhất của dòng truyền thừa này.
Đó chính là ngài Lobsang Tenzing Rinpoche, cựu Viện Trưởng Tu Viện Ganden Shartse tại Tây Tạng. Ngài có những ấn chứng thần bí và khả năng siêu phàm như tiên đoán chính xác được các sự kiện sẽ xảy ra, chữa được các bệnh tật ngặt nghèo và thông suốt tự nhiên về các giáo lý nhà Phật.
Ngài đã được các vị thầy giỏi nhất thời bấy giờ giáo huấn như Đức Đạt Lai Lạt Ma đời 13, Pabongka Rinpoche, Ling Rinpoche, Trijan Rinpoche.
Ngài cũng thông suốt sâu xa các rừng kinh điển đại thừa đến các nghi thức cùng những mật pháp bí truyền và vì thế đã được cấp cả hai bằng Tiến Sĩ Phật Học (Lharampa) tại Lhasha và Tiến Sĩ Thần Học (Ngarampa) tại Đại Học Mật Tông Giuto thuộc Phật giáo Tây Tạng vào năm 1948 với điểm tối ưu hạng.
Năm 1963 ngài rời quê hương đến định cư tại Ấn Độ. Ngài là một tu sĩ thường xuyên nhập thất tịnh tu liên tục trong nhiều năm và hết lòng đào luyện tăng tài không ngưng nghỉ sau khi nhận nhiều chức vụ trọng đại do Đức Đạt Lai Lạt Ma đời 14 bổ nhiệm).
#19
Gửi vào 06/06/2011 - 22:17
CHƯƠNG CHÍN
ĐẦU TƯ KIẾN THỨC
Thời gian không bao lâu cuối cùng tôi hoàn toàn bình phục, bắt đầu trở lại với công việc tu hành. Thầy tôi đưa ra nhiều vấn đề thảo luận. Các vấn đề Người đưa ra không như nhau, có số thông thường và có số không phải thuộc loại thông thường.
Có lần nói về sự lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai của mình:
- Thưa Minh Sư, trong các nghề nghiệp con thích nhất không gì bằng nghề Quản Thủ Thư Viện.
- Tại sao chú lại thích công việc này? Thầy tôi hỏi lại.
- Vì đó là một kho tàng vô giá về tri thức và kiến thức của con người. Con sẽ được miên viễn học hỏi không bao giờ hết được.
Minh Sư mỉm cười nhìn tôi nói:
- Châm ngôn của Trung Hoa có câu: "Riêng mỗi một bức họa cũng giá trị bằng hàng ngàn câu nói" huống hồ là cả một kho tàng sách vở. Tuy nhiên với ta thì dù có đọc bao nhiêu sách hay chiêm ngưỡng bao nhiêu tranh đi nữa mà không biết phân biệt được cái đúng và cái sai để đầu tư cho sở học của mình thì cầm bằng như không vậy.
Đầu tư kiến thức cho mình là một điều cần thiết, nhưng sự thận trọng để khỏi phải bị sách vở đầu độc lại là một điều quan trọng hơn. Nếu không có ngày chú sẽ hóa thành một kẻ điên vì chữ nghĩa mất.
Lời nói này của Minh sư, làm tôi sực nhớ đến nhà sư Nhật Bản Kenji Tellenchi gần 70 tuổi, đã đọc qua biết bao nhiêu sách mà cuối cùng chẳng thực hành được gì mà còn trở thành một kẻ mất trí! Tôi có cảm tưởng nhà đại sư già này đã bị bội thực các tư tưởng trong các kho tàng sách vở mà ông đã ngấu nghiến trong suốt cả cuộc đời.
Đọc được ý nghĩ của tôi Minh Sư Minh Dà Đông Đạt gật đầu nói:
- Đúng là như vậy. Ông ta đâu có bị bệnh thần kinh?! Chỉ vì ông ta luôn luôn dồn nén các mớ tư tưởng trong sách vở khiến trí óc ông bị bội thực như chú nghĩ. Điều này đã khiến cho thần kinh ông bị tổn thương, lúc nào cũng xem mình là một vĩ nhân và tự phong là nhà siêu trí thức.
Có thể chú đã nhận thấy điều này qua những cuộc tiếp xúc với nhà sư già nua ấy! Ông đã tự thần thánh hóa và phô trương từng câu nói, từng lối viết lách, lúc nào cũng muốn mọi người phải tuân phục mình, coi như thế gian này chỉ có mỗi mình mình.
Thật tội nghiệp, ông ấy cứ mãi đinh ninh mình là cái rốn của vũ trụ. Nhưng thật ra nhà sư Kenji Tellenchi già nua này chẳng đánh lừa được ai, ngoài ông ta.
Nói đến đây, người đưa mắt nhìn các chiếc lá vàng rơi rụng đang lay bay theo gió ngoài song cửa sổ. Giây lát sau người đưa mắt nhìn tôi nói tiếp:
- Nhà sư già này bị vỡ nợ tinh thần. Tất cả những gì ông ta đã cố vơ vét dồn nén hết trong các kinh điển sách vở nơi các thư viện đã làm cho ông bị bệnh hoạn.
Ta có thể nói là nhà sư Kenji Tellenchi nghiến ngấu các kinh điển đến nỗi khiến đầu óc ông ta không còn chỗ để chứa nữa. Hiện nay đầu óc ông chẳng khác nào như kho thuốc súng không còn nện vào đâu được nữa và sẵn sàng nổ tung ra thành từng mảnh vụn.
- Thưa Minh Sư, đọc nhiều hữu ích nhiều, sao lại như vậy?
- Đúng. Nếu ông ta biết chọn sách mà đọc. Trái lại, tất cả các sách vở, cuốn nào vớ được ông đều nghiến ngấu đọc, không cần chọn lọc nữa. Ông ấy không cần biết, miễn sao có sách đọc là được, không cần biết thực, hư, hay, dở thế nào!
Ông đã đánh mất không biết bao nhiêu thời gian để đi nghiên cứu một mớ chữ nghĩa điên loạn đến độ khiến chính ông ta bị chữ nghĩa làm điên loạn đầu óc mình! Tai hại thay! Sở dĩ vì vậy đã tạo cho ông ta có những cao vọng hão huyền. Ông ta đọc được nhiều giáo lý của nhiều tôn giáo rồi vỗ ngực tự cho mình là một siêu nhân có một trí tuệ vô cùng vô tận.
- Thưa Minh Sư, vậy thì làm thế nào để phân loại được sách, sách nào nên và sách nào không nên đọc đến?
- Lỗ San! Không nên để cho sách vở làm cho trí óc ta bị mù quáng đánh mất đi sự phán đoán của mình. Đọc sách bao giờ cũng giúp cho trí óc ta mở mang, nhưng tuyệt đối tránh đừng để làm nô lệ nó. Sách vở kinh điển, dĩ nhiên là không thể thiếu được. Nó là một nhu cầu cần thiết như các thức ăn bồi dưỡng cho tinh thần.
Các thư viện trên khắp thế giới đều chứa đựng những kiến thức tối ưu của nhân loại trong các pho kinh điển vĩ đại cùng sách vở từ ngàn xưa lưu lại.
Nói đến đây Minh Sư ngưng lại trong chốc lát, đoạn tiếp tục giảng giải:
- Tất nhiên là chúng ta không làm sao học được khắp tất cả các danh sư trên thế gian này. Nhưng chúng ta nhờ phương tiện sách vở in ấn khắp mọi nơi giúp cho chúng ta có thể tìm đọc để mở rộng thêm tầm kiến thức.
Ta có quyền nhặt nhạnh những ý tưởng đẹp để đầu tư thêm cho kiến thức mình và có quyền vứt bỏ lại những gì ta cảm thấy không thích hợp với cuộc sống thánh thiện. Chú đừng ngại việc loại bỏ có thể làm xúc phạm đến tác giả của nó.
Chẳng có danh sư, tác giả nào bắt buộc chú phải tin những gì họ viết! Không! Chú có toàn quyền theo ý tưởng của mình. Ta muốn khuyến cáo chú là nên dùng trí phán đoán về bất cứ luồng tư tưởng nào mà chú đang nghiền ngẫm.
Minh Sư nhìn tôi và từ từ nâng chung trà thơm lên nhấm nháp.
- Có một điều ta khuyên Lỗ San là đừng nên vượt quá cái nghiệp quả thấp kém của mình để cố chạy đến cái đích cao cả ngoài tầm tay với. Làm như vậy chẳng khác nào rước lấy họa vào thân như ông bạn đại sư già Nhật Bản kia. Chú hiểu chứ! Lỗ San.
Đến giờ ăn, thầy tôi rung cái chuông bạc, liền sau đó chú tiểu mang thức ăn trưa bằng bánh Tsampa cùng bình trà thơm đến đặt ngay giữa bàn thầy trò chúng tôi đang ngồi đối diện nhau. Chúng tôi vừa ăn uống vừa thảo luận các vấn đề linh tinh, xem nhau như tân khách.
- Lỗ San! Chú còn nhớ có lần chú nhìn thấy một hành tinh nào đó thật xa xôi nơi màn ảnh trong Cổ Hiền Thạch Động đó không?
Tôi nhíu mày suy nghĩ và bỗng nhớ ra hình ảnh của những dải hành tinh xa xôi ở tận ngoài không gian mờ mịt.
- Vâng thưa Minh Sư. Có! Con nhớ là có. Con thấy rõ có đến gần cả trăm ngôi sao bé li ti quay quanh một ngôi sao sáng rực. Càng nhìn càng thấy trông giống như các trái đất quay chung quanh vầng Thái Dương vậy.
- Và chú hỏi ta điều gì đó, chú có nhớ chăng?
Tôi mỉm cười:
- Hôm ấy con hỏi Minh Sư do sự tò mò của mình là liệu trên các hành tinh nhỏ bé xa xôi ấy có sự sống như chúng ta chăng?
- Ừ, chú có hỏi ta điều ấy. Và chính ta đã khẳng định với chú là phải có sự sống, chứ chẳng lẽ chỉ mỗi mình trái đất ta có đặc quyền ấy không sao? Theo ta, vẫn còn giữ nguyên quan điểm là rất có thể trên các hành tinh này có sự sống hiện hữu như chúng ta. Có điều, các dạng sống xa lạ này khác nhiều so với dạng sống của chúng ta trên mặt địa cầu này.
- Hình dạng của chúng có khác với chúng ta không? Tôi hỏi.
- Ta không thể khẳng định điều này, tuy nhiên chắc chắn chúng là những sinh vật thông minh, có tay chân, đi đứng giống như loài người trên trái đất chúng ta và bằng cách nào đó trong cơ thể, họ nhận được thông tin về môi trường chung quanh họ. Biết đâu, họ cũng hít thở, cảm xúc chẳng khác nào như chúng ta vậy.
(Gần đây, các nhà khoa học nghiên cứu điều này, nếu có sinh vật ngoài hành tinh đặt ra nghi vấn biết đâu chúng cũng thở bằng Oxy hoặc một vài loại không khí khác?! Các nhà nghiên cứu sẽ áp dụng những điều mà họ đã khám phá về cuộc sống trên trái đất để làm cơ sở nghiên cứu về cuộc sống bên ngoài hành tinh của chúng ta.)
- Lỗ San, chú hiểu ý ta nói chứ ?
- Vâng. Con hiểu. Tuy nhiên, những điều mà thầy giảng giải dựa vào cơ sở nào? Con thật tình muốn biết điều này !
- Muốn tìm hiểu cuộc sống của các sinh vật xa lạ, người ta phải vận dụng kiến thức của bộ môn Sinh Vật Học Vũ Trụ. Chắc chú thừa hiểu đó là một ngành khoa học chuyên môn nghiên cứu về các dạng sống trong không gian.
(Lời giải này phù hợp với giới khoa học gần đây đã đưa ra là các các nhà Sinh Vật học tìm hiểu những nguyên tắc cơ bản về sự sống trên trái đất. Cuộc sống xuất hiện và tiến hóa trên trái đất như thế nào?
Điều gì ảnh hưởng, chi phối, xếp đặt trật tự cuộc sống này? Và quan trọng nhất, điều gì đã khiến trái đất trở thành nơi mà sự sống có thể duy trì được? Từ đó, họ suy ra một số nguyên tắc cơ bản mà các sinh vật xa lạ, nếu tồn tại, phải bắt buộc tuân thủ.)
- Thuyết này áp dụng cho tất cả?
- Cho tất cả. Các sinh vật của bất kỳ thế giới nào nếu có cũng sẽ phải tuân thủ như thế cả. Có nghĩa là tuân thủ theo những nguyên tắc vật lý hóa học.
Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt đã đưa ra đúng theo như lời giải thích của các khoa học gia ngày nay rằng là: Phải có chất hòa tan để duy trì sự sống. Trên trái đất, chất để hòa tan thường là dạng "nước". Một số hóa chất khác cũng có thể cần cho sự sống như Ammoniac, Methane, Hydro Sulfide Phải có nhiệt độ và áp suất thích hợp để các chất hòa tan tồn tại ở thể lỏng.
- Ngoài ra, nó còn có nhu cầu gì nữa không, thưa Minh Sư?
- Có chứ. Ngoài ra sự sống của những sinh vật lạ trong Vũ trụ cũng cần có sự tiến hóa và phải thích nghi với các điều kiện môi trường, chẳng hạn như nhiệt độ, cũng như độ ẩm và trọng lực của nó.
(Khoa học ngày nay cũng từng lý giải về điều kiện vận chuyển của sinh vật Vũ trụ này, như một vài phương cách để vận chuyển các chất rắn, chất lỏng và các loại khí trong cơ thể bài tiết các chất thải, vận chuyển các chất dinh dưỡng, đồng thời cũng phải có khả năng tiếp thu môi trường chung quanh nữa.)
- Chúng có cần trông thấy, nghe ngóng không
- Sao lại không? Chúng cũng phải có giác quan chứ! Dù ở dạng khác lạ với chúng ta, chúng cũng phải có mắt để nhìn, có tai để nghe, có mũi để thở.. chứ! Chúng cần phải tiếp xúc với nhau, để thu thập thông tin từ môi trường. Có một điều có khả năng khác với ta là có thể họ có một loại não bộ khác hoặc một hệ thần kinh không giống với ta, đi vào bằng những cửa ngỏ khác trên cơ thể.
- Thưa Minh Sư, con muốn tìm hiểu điều này nữa, nhưng có thể là hơi tò mò thái quá.
- Thì chú cứ đưa ra. Điều gì giải thích được, ta giải thích cho chú. Đừng ngại.
- Chúng có sinh sản hay không? Xin thầy thứ lỗi cho câu hỏi hơi vô duyên này.
Thầy tôi cười xòa.
- Sao gọi là vô duyên? Tất cả đều có duyên cả. Nếu không có duyên thì chú với ta ngày nay đâu có gặp nhau ở trên cõi đời này? Phải không?
Tôi e thẹn gật đầu.
- Thưa thầy quả như vậy.
- Đã là sinh vật, dù là sinh vật trên trái đất này hay sinh vật không gian cũng đều phải sinh sản cả. Sự sống của sinh vật dù như chúng ta hay trên vũ trụ phải có nhiệm vụ truyền giống để tồn tại và phát triển, dù theo giới tính hoặc vô tính.
Sự sống của sinh vật vũ trụ cũng chẳng khác gì ta đều phải dùng những dạng thức ăn bằng môi trường tự nhiên.
(Lời giải này trùng hợp với các nhà khoa học ngày nay là "Bất kỳ hình thức sống nào cũng bị ràng buộc chặt chẽ với môi trường của nó. Vì thế những đặc tính của hành tinh nơi chúng sinh sống sẽ cực kỳ quan trọng trong việc hình dung ra chúng")
ĐẦU TƯ KIẾN THỨC
Thời gian không bao lâu cuối cùng tôi hoàn toàn bình phục, bắt đầu trở lại với công việc tu hành. Thầy tôi đưa ra nhiều vấn đề thảo luận. Các vấn đề Người đưa ra không như nhau, có số thông thường và có số không phải thuộc loại thông thường.
Có lần nói về sự lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai của mình:
- Thưa Minh Sư, trong các nghề nghiệp con thích nhất không gì bằng nghề Quản Thủ Thư Viện.
- Tại sao chú lại thích công việc này? Thầy tôi hỏi lại.
- Vì đó là một kho tàng vô giá về tri thức và kiến thức của con người. Con sẽ được miên viễn học hỏi không bao giờ hết được.
Minh Sư mỉm cười nhìn tôi nói:
- Châm ngôn của Trung Hoa có câu: "Riêng mỗi một bức họa cũng giá trị bằng hàng ngàn câu nói" huống hồ là cả một kho tàng sách vở. Tuy nhiên với ta thì dù có đọc bao nhiêu sách hay chiêm ngưỡng bao nhiêu tranh đi nữa mà không biết phân biệt được cái đúng và cái sai để đầu tư cho sở học của mình thì cầm bằng như không vậy.
Đầu tư kiến thức cho mình là một điều cần thiết, nhưng sự thận trọng để khỏi phải bị sách vở đầu độc lại là một điều quan trọng hơn. Nếu không có ngày chú sẽ hóa thành một kẻ điên vì chữ nghĩa mất.
Lời nói này của Minh sư, làm tôi sực nhớ đến nhà sư Nhật Bản Kenji Tellenchi gần 70 tuổi, đã đọc qua biết bao nhiêu sách mà cuối cùng chẳng thực hành được gì mà còn trở thành một kẻ mất trí! Tôi có cảm tưởng nhà đại sư già này đã bị bội thực các tư tưởng trong các kho tàng sách vở mà ông đã ngấu nghiến trong suốt cả cuộc đời.
Đọc được ý nghĩ của tôi Minh Sư Minh Dà Đông Đạt gật đầu nói:
- Đúng là như vậy. Ông ta đâu có bị bệnh thần kinh?! Chỉ vì ông ta luôn luôn dồn nén các mớ tư tưởng trong sách vở khiến trí óc ông bị bội thực như chú nghĩ. Điều này đã khiến cho thần kinh ông bị tổn thương, lúc nào cũng xem mình là một vĩ nhân và tự phong là nhà siêu trí thức.
Có thể chú đã nhận thấy điều này qua những cuộc tiếp xúc với nhà sư già nua ấy! Ông đã tự thần thánh hóa và phô trương từng câu nói, từng lối viết lách, lúc nào cũng muốn mọi người phải tuân phục mình, coi như thế gian này chỉ có mỗi mình mình.
Thật tội nghiệp, ông ấy cứ mãi đinh ninh mình là cái rốn của vũ trụ. Nhưng thật ra nhà sư Kenji Tellenchi già nua này chẳng đánh lừa được ai, ngoài ông ta.
Nói đến đây, người đưa mắt nhìn các chiếc lá vàng rơi rụng đang lay bay theo gió ngoài song cửa sổ. Giây lát sau người đưa mắt nhìn tôi nói tiếp:
- Nhà sư già này bị vỡ nợ tinh thần. Tất cả những gì ông ta đã cố vơ vét dồn nén hết trong các kinh điển sách vở nơi các thư viện đã làm cho ông bị bệnh hoạn.
Ta có thể nói là nhà sư Kenji Tellenchi nghiến ngấu các kinh điển đến nỗi khiến đầu óc ông ta không còn chỗ để chứa nữa. Hiện nay đầu óc ông chẳng khác nào như kho thuốc súng không còn nện vào đâu được nữa và sẵn sàng nổ tung ra thành từng mảnh vụn.
- Thưa Minh Sư, đọc nhiều hữu ích nhiều, sao lại như vậy?
- Đúng. Nếu ông ta biết chọn sách mà đọc. Trái lại, tất cả các sách vở, cuốn nào vớ được ông đều nghiến ngấu đọc, không cần chọn lọc nữa. Ông ấy không cần biết, miễn sao có sách đọc là được, không cần biết thực, hư, hay, dở thế nào!
Ông đã đánh mất không biết bao nhiêu thời gian để đi nghiên cứu một mớ chữ nghĩa điên loạn đến độ khiến chính ông ta bị chữ nghĩa làm điên loạn đầu óc mình! Tai hại thay! Sở dĩ vì vậy đã tạo cho ông ta có những cao vọng hão huyền. Ông ta đọc được nhiều giáo lý của nhiều tôn giáo rồi vỗ ngực tự cho mình là một siêu nhân có một trí tuệ vô cùng vô tận.
- Thưa Minh Sư, vậy thì làm thế nào để phân loại được sách, sách nào nên và sách nào không nên đọc đến?
- Lỗ San! Không nên để cho sách vở làm cho trí óc ta bị mù quáng đánh mất đi sự phán đoán của mình. Đọc sách bao giờ cũng giúp cho trí óc ta mở mang, nhưng tuyệt đối tránh đừng để làm nô lệ nó. Sách vở kinh điển, dĩ nhiên là không thể thiếu được. Nó là một nhu cầu cần thiết như các thức ăn bồi dưỡng cho tinh thần.
Các thư viện trên khắp thế giới đều chứa đựng những kiến thức tối ưu của nhân loại trong các pho kinh điển vĩ đại cùng sách vở từ ngàn xưa lưu lại.
Nói đến đây Minh Sư ngưng lại trong chốc lát, đoạn tiếp tục giảng giải:
- Tất nhiên là chúng ta không làm sao học được khắp tất cả các danh sư trên thế gian này. Nhưng chúng ta nhờ phương tiện sách vở in ấn khắp mọi nơi giúp cho chúng ta có thể tìm đọc để mở rộng thêm tầm kiến thức.
Ta có quyền nhặt nhạnh những ý tưởng đẹp để đầu tư thêm cho kiến thức mình và có quyền vứt bỏ lại những gì ta cảm thấy không thích hợp với cuộc sống thánh thiện. Chú đừng ngại việc loại bỏ có thể làm xúc phạm đến tác giả của nó.
Chẳng có danh sư, tác giả nào bắt buộc chú phải tin những gì họ viết! Không! Chú có toàn quyền theo ý tưởng của mình. Ta muốn khuyến cáo chú là nên dùng trí phán đoán về bất cứ luồng tư tưởng nào mà chú đang nghiền ngẫm.
Minh Sư nhìn tôi và từ từ nâng chung trà thơm lên nhấm nháp.
- Có một điều ta khuyên Lỗ San là đừng nên vượt quá cái nghiệp quả thấp kém của mình để cố chạy đến cái đích cao cả ngoài tầm tay với. Làm như vậy chẳng khác nào rước lấy họa vào thân như ông bạn đại sư già Nhật Bản kia. Chú hiểu chứ! Lỗ San.
Đến giờ ăn, thầy tôi rung cái chuông bạc, liền sau đó chú tiểu mang thức ăn trưa bằng bánh Tsampa cùng bình trà thơm đến đặt ngay giữa bàn thầy trò chúng tôi đang ngồi đối diện nhau. Chúng tôi vừa ăn uống vừa thảo luận các vấn đề linh tinh, xem nhau như tân khách.
- Lỗ San! Chú còn nhớ có lần chú nhìn thấy một hành tinh nào đó thật xa xôi nơi màn ảnh trong Cổ Hiền Thạch Động đó không?
Tôi nhíu mày suy nghĩ và bỗng nhớ ra hình ảnh của những dải hành tinh xa xôi ở tận ngoài không gian mờ mịt.
- Vâng thưa Minh Sư. Có! Con nhớ là có. Con thấy rõ có đến gần cả trăm ngôi sao bé li ti quay quanh một ngôi sao sáng rực. Càng nhìn càng thấy trông giống như các trái đất quay chung quanh vầng Thái Dương vậy.
- Và chú hỏi ta điều gì đó, chú có nhớ chăng?
Tôi mỉm cười:
- Hôm ấy con hỏi Minh Sư do sự tò mò của mình là liệu trên các hành tinh nhỏ bé xa xôi ấy có sự sống như chúng ta chăng?
- Ừ, chú có hỏi ta điều ấy. Và chính ta đã khẳng định với chú là phải có sự sống, chứ chẳng lẽ chỉ mỗi mình trái đất ta có đặc quyền ấy không sao? Theo ta, vẫn còn giữ nguyên quan điểm là rất có thể trên các hành tinh này có sự sống hiện hữu như chúng ta. Có điều, các dạng sống xa lạ này khác nhiều so với dạng sống của chúng ta trên mặt địa cầu này.
- Hình dạng của chúng có khác với chúng ta không? Tôi hỏi.
- Ta không thể khẳng định điều này, tuy nhiên chắc chắn chúng là những sinh vật thông minh, có tay chân, đi đứng giống như loài người trên trái đất chúng ta và bằng cách nào đó trong cơ thể, họ nhận được thông tin về môi trường chung quanh họ. Biết đâu, họ cũng hít thở, cảm xúc chẳng khác nào như chúng ta vậy.
(Gần đây, các nhà khoa học nghiên cứu điều này, nếu có sinh vật ngoài hành tinh đặt ra nghi vấn biết đâu chúng cũng thở bằng Oxy hoặc một vài loại không khí khác?! Các nhà nghiên cứu sẽ áp dụng những điều mà họ đã khám phá về cuộc sống trên trái đất để làm cơ sở nghiên cứu về cuộc sống bên ngoài hành tinh của chúng ta.)
- Lỗ San, chú hiểu ý ta nói chứ ?
- Vâng. Con hiểu. Tuy nhiên, những điều mà thầy giảng giải dựa vào cơ sở nào? Con thật tình muốn biết điều này !
- Muốn tìm hiểu cuộc sống của các sinh vật xa lạ, người ta phải vận dụng kiến thức của bộ môn Sinh Vật Học Vũ Trụ. Chắc chú thừa hiểu đó là một ngành khoa học chuyên môn nghiên cứu về các dạng sống trong không gian.
(Lời giải này phù hợp với giới khoa học gần đây đã đưa ra là các các nhà Sinh Vật học tìm hiểu những nguyên tắc cơ bản về sự sống trên trái đất. Cuộc sống xuất hiện và tiến hóa trên trái đất như thế nào?
Điều gì ảnh hưởng, chi phối, xếp đặt trật tự cuộc sống này? Và quan trọng nhất, điều gì đã khiến trái đất trở thành nơi mà sự sống có thể duy trì được? Từ đó, họ suy ra một số nguyên tắc cơ bản mà các sinh vật xa lạ, nếu tồn tại, phải bắt buộc tuân thủ.)
- Thuyết này áp dụng cho tất cả?
- Cho tất cả. Các sinh vật của bất kỳ thế giới nào nếu có cũng sẽ phải tuân thủ như thế cả. Có nghĩa là tuân thủ theo những nguyên tắc vật lý hóa học.
Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt đã đưa ra đúng theo như lời giải thích của các khoa học gia ngày nay rằng là: Phải có chất hòa tan để duy trì sự sống. Trên trái đất, chất để hòa tan thường là dạng "nước". Một số hóa chất khác cũng có thể cần cho sự sống như Ammoniac, Methane, Hydro Sulfide Phải có nhiệt độ và áp suất thích hợp để các chất hòa tan tồn tại ở thể lỏng.
- Ngoài ra, nó còn có nhu cầu gì nữa không, thưa Minh Sư?
- Có chứ. Ngoài ra sự sống của những sinh vật lạ trong Vũ trụ cũng cần có sự tiến hóa và phải thích nghi với các điều kiện môi trường, chẳng hạn như nhiệt độ, cũng như độ ẩm và trọng lực của nó.
(Khoa học ngày nay cũng từng lý giải về điều kiện vận chuyển của sinh vật Vũ trụ này, như một vài phương cách để vận chuyển các chất rắn, chất lỏng và các loại khí trong cơ thể bài tiết các chất thải, vận chuyển các chất dinh dưỡng, đồng thời cũng phải có khả năng tiếp thu môi trường chung quanh nữa.)
- Chúng có cần trông thấy, nghe ngóng không
- Sao lại không? Chúng cũng phải có giác quan chứ! Dù ở dạng khác lạ với chúng ta, chúng cũng phải có mắt để nhìn, có tai để nghe, có mũi để thở.. chứ! Chúng cần phải tiếp xúc với nhau, để thu thập thông tin từ môi trường. Có một điều có khả năng khác với ta là có thể họ có một loại não bộ khác hoặc một hệ thần kinh không giống với ta, đi vào bằng những cửa ngỏ khác trên cơ thể.
- Thưa Minh Sư, con muốn tìm hiểu điều này nữa, nhưng có thể là hơi tò mò thái quá.
- Thì chú cứ đưa ra. Điều gì giải thích được, ta giải thích cho chú. Đừng ngại.
- Chúng có sinh sản hay không? Xin thầy thứ lỗi cho câu hỏi hơi vô duyên này.
Thầy tôi cười xòa.
- Sao gọi là vô duyên? Tất cả đều có duyên cả. Nếu không có duyên thì chú với ta ngày nay đâu có gặp nhau ở trên cõi đời này? Phải không?
Tôi e thẹn gật đầu.
- Thưa thầy quả như vậy.
- Đã là sinh vật, dù là sinh vật trên trái đất này hay sinh vật không gian cũng đều phải sinh sản cả. Sự sống của sinh vật dù như chúng ta hay trên vũ trụ phải có nhiệm vụ truyền giống để tồn tại và phát triển, dù theo giới tính hoặc vô tính.
Sự sống của sinh vật vũ trụ cũng chẳng khác gì ta đều phải dùng những dạng thức ăn bằng môi trường tự nhiên.
(Lời giải này trùng hợp với các nhà khoa học ngày nay là "Bất kỳ hình thức sống nào cũng bị ràng buộc chặt chẽ với môi trường của nó. Vì thế những đặc tính của hành tinh nơi chúng sinh sống sẽ cực kỳ quan trọng trong việc hình dung ra chúng")
#20
Gửi vào 06/06/2011 - 22:19
CHƯƠNG CUỐI
BÍ PHÁP XUẤT HỒN
Minh Sư lập lại lời giảng giải của Người về vấn đề đầu tư kiến thức mà tôi muốn được biết rõ ràng hơn:
- Thưa Minh Sư nếu ta quá sợ hãi về vấn đề bội thực chữ nghĩa trong kinh sách thì các nhà làm văn hóa in sách để làm gì?
- Ta không khuyên chú là không nên đọc sách quá nhiều mà chỉ nên chọn lọc sách để đọc. Trên thế giới này không nơi nào là không có kinh sách, có điều là làm sao biết chọn lấy những kinh sách nào có thể giúp ta mở mang trí tuệ một cách hữu ích hơn!
Điều ta khuyến cáo chú là không nên có tham vọng vượt quá nghiệp quả của mình để được đạt đến chánh quả nhanh hơn. Làm như vậy chẳng khác nào ta chuốt lấy hậu quả mang họa vào thân, như nhà sư già Nhật Bản kia chẳng hạn.
Và đến đây, thầy tôi cũng không quên nhắc lại là tôi có một cuộc đời thật đặc biệt, đòi hỏi tôi phải có một tầm kiến thức thâm sâu cần phải được phát triển trên mọi phương diện, nhất là vấn đề "Thần giao cách cảm":
- Chú cần phải được huấn luyện thật chu đáo bằng tất cả mọi phương pháp mà tôi đã truyền đạt cho chú! Chỉ trong vòng vài tháng nữa, chú sẽ được luyện "Cảm xạ lực" và "Phối họp thần nhãn" bằng phương pháp viễn thông đúng theo bí pháp của pho kinh vĩ đại nhất thế giới này.
Chính đó là một văn hóa phẩm do nhiều chân sư ghi chép tất cả các bí kiếp lưu lại cho loài người. Chú sẽ được huấn luyện theo các bí quyết trong pho kinh vĩ đại này một cách thuần thục. Ta biết trước sự quyết định này khiến chú hoang mang không ít, nhất là khi nhìn thấy các bí quyết đi ngoài đường hướng chủ trương của xứ sở chúng ta.
Nói đến đây thầy tôi hạ thấp giọng trấn an tôi:
- Chú yên lòng. Tất cả tuy mới mẻ nhưng đều nằm trong một nguyện vọng chung của nhân loại. Tất nhiên là những bí quyết ấy có khi phải dùng đến những ngoại ngữ mà nhiều danh từ của nó không thấy có trong các kinh sách tu hành của người Tây Tạng. Điều này, chú đừng ưu tư ta có bổ phận giảng giải cho chú.
Quả thật, tôi không khỏi phải hoang mang như Minh Sư đã nói. Làm sao tôi thấu triệt được một cách cặn kẽ một khi ngôn ngữ bất đồng?
- Lỗ San! Không nên quá ưu tư! Thầy tôi mỉm cười trấn an. Khi mà cảm xạ lực và thần nhãn của mình được phối hợp một cách thật chính xác thì chú có thể lĩnh hội được tư tưởng ở bất cứ sách vở nào chú muốn một cách dễ dàng.
Đây là một phương pháp ít người biết đến trong môn thần giao cách cảm. Có nhiều quốc gia trên thế giới có những bảo tàng viện hạn chế nghiêm ngặt hay nói cách khác cấm cản bất cứ ai không chứng minh được mình là một sinh viên do chính phủ nước họ gửi đến tham khảo các dữ kiện hay tài liệu lưu trữ tối mật của đất nước họ.
Tôi buột miệng hỏi :
- Vậy nếu con muốn đến những nơi ấy cần phải xin giấy giới thiệu của chính phủ ta mỗi khi muốn đến một quốc gia nào đó?!
- Thì đúng như vậy, song với chú theo ta nghĩ không cần thiết lắm.
Thấy tôi trố mắt ngạc nhiên, thầy tôi mỉm cười giải thích:
- Chú có khả năng ngoại lệ là có thể du hành trong "Tinh Thể" để học hỏi những gì chú cần biết. Ta sẽ truyền dạy cho chú sử dụng khoa "Thần Bí Học" này!
Minh Sư lại nâng chung trà lên nhấm nháp đoạn tiếp tục nói:
- Lỗ San! Chú nên nhớ rằng sử dụng sai lầm "Thần Lực" hoặc dùng thần lực đàn áp, khống chế bất cứ kẻ nào không cần thiết chú sẽ bị trừng phạt nặng nề. Những giáo pháp bí truyền, siêu hình thượng học, những linh cảm thần thức (ESP) chỉ để giúp đời, nói chung là giúp cho nhân loại và góp phần mở rộng tầm kiến thức cho loài người trên mặt địa cầu này.
Hành động bất cứ một điều gì cũng phải cần đến cái Tâm, như Lục Cửu Uyên (1139-1192) đã đưa ra cái lý mà ông đã chịu ảnh hưởng thuyết vạn vật duy thức của Phật học. Thuyết này cho rằng vũ trụ tức ngã tâm mà cái tâm của ta đó là vũ trụ. Vậy thì chú hiểu chứ, tâm tức là lý.
Lục Cửu Uyên cũng đã từng cùng Chu Hy tiến hành cuộc biện luận suốt cả mười ngày, được coi là cuộc biện luận nổi tiếng nhất nơi chùa Nga Hồ tại đất Tín Châu. Sau này Vương Thủ Nhân đời Minh (1472-1528) phát triển thành hệ thống triết học duy tâm chủ quan và được xem là hoàn thiện nhất.
- Vương Thủ Nhân lại khai triển thêm ra về lý luận chứng minh của mình rằng là tâm ngoại vô vật, tâm ngoại vô sự, tâm ngoại vô học. Ta sẽ truyền đạt cho chú về cái triết thuyết của Vương Thủ Nhân nói về thuyết "Trí lương tri" và "Tri hành hợp nhất" do ông đã đạt được trong hoàn cảnh.
"Bỗng nhiên nửa đêm giác ngộ ra tôn chỉ cách vật trí tri" vào thời kỳ ông bị đưa đi biếm trích tại vùng Thạch Thừa, Long Tường, tỉnh Quý Châu hoang vu, chung quanh mình chỉ là cây cối, núi non, khỉ ho cò gáy, chẳng có sách vở, ngày ngày chỉ suy tư về những cái đã nghe, những hiện tượng đã thấy.
Ông ấy có cần đến sách vở trong thời gian bị lưu đày này đâu mà vẫn thông đạt được cái lý thuận của trời đất hiểu được mọi việc trên đời!
Trở lại vấn đề xuất hồn, tôi hỏi Minh Sư:
- Thưa Lạt Ma! Con muốn biết rõ thêm vấn đề luyện phép "xuất hồn", Minh sư giảng giải cho con biết về sự lợi hay hại của nó.
- Có nhiều cách tu luyện phép xuất hồn, có cả bí pháp tự mình theo sách vở luyện tập mà không phải nhờ một chân sư nào hướng dẫn. Trong số này, có người dùng "rượu mạnh" hay "ma túy" hoặc sử dụng chất kích thích tố bằng một liều lượng cao khiến họ có khoái cảm đến tột độ và mê man bất tỉnh ngay khi đó!
Chính trong thời gian đê mê này, tinh thần họ hoàn toàn bị bại hoại, luôn luôn sống trong cơn hốt hoảng bởi bị ảo giác ám ảnh. Chú nên nhớ rằng "sự sợ hãi" là vấn đề ưu tư hàng đầu trong môn "Thần Bí Học".
Đó là điều tối kỵ! Người quang minh chính đại tinh thần luôn luôn minh mẫn, chẳng bao giờ ưu tư hay sợ hãi trước bất cứ một hiện tượng nào! Sự sợ hãi làm cho tinh thần ta suy sụp, đầu óc ta rối loạn, đó chính là lúc các "Hồn Ma, Tà Vạy" xâm nhập vào đàn áp phần hồn của ta.
Chính những người bị say rượu nhiều khi họ nhìn thấy chung quanh mình toàn là những hình ảnh của các giống sinh vật lạ lùng. Có người thuật lại trong cơn say túy lúy ấy, họ đã trông thấy cả voi xanh có sọc đỏ hoặc các giống thú quái đản khác mà họ không thể hình dung được chúng là sinh vật gì muốn xâm phạm đến mạng sống họ?
Chú còn nhớ hình ảnh trong "Cổ Hiền Thạch Động" ngày nào chúng ta đi vào bên trong ấy không? Nơi ấy chúng ta chính mắt trông thấy một giống vật nửa đá, nửa sinh vật mà hình ảnh của nó hệt như con kỳ nhông có cánh nằm kế cận một một con khủng long hóa thạch.
(Gần đây các nhà khoa học Trung Quốc phát hiện một khối đá hóa thạch 120 triệu năm tuổi chứa phôi thai của một con thằn lằn bay, thuộc loài bò sát có cánh sống cùng thời với loài khủng long. Hai nhà khoa học này là Wang Xiaolin và Zhou Zhonghe thuộc Viện Hàn Lâm Trung Quốc tại Bắc Kinh cho biết như vậy.
Phôi thai được tìm thấy trong lớp trầm tích của một cái hồ ở Liêu Ninh, địa danh khảo cổ nổi tiếng có nhiều hóa thạch thuộc vùng Đông Bắc Trung Hoa. Phôi thai được bao bọc trong lớp vỏ trứng gần như hoàn thiện bên ngoài.
Điều này cho thấy thằn lằn bay, loài động vật có xương sống đầu tiên trên trái đất, cũng thuộc loại động vật đẻ trứng, cánh nó rộng 10,6 inch (khoảng 27 cm). Những con thằn lằn bay đầu tiên xuất hiện trên trái đất cách đây khoảng 230 triệu năm và đã bị tiêu diệt cùng thời với khủng long cách nay khoảng 65 triệu năm.)
- Bây giờ thì chú hãy theo ta đến một nơi mà ta có thể luyện cho chú về phép "xuất hồn". Chú muốn thực hiện phép này không?
Tôi vui vẻ chấp nhận ngay:
- Vâng. Điều này con hằng mong đợi!
Hai thầy trò tôi cùng đi xuống một dải hành lang bằng đá, được một chốc thì quẹo sang bên phải, dẫn thẳng đến một lối rẽ sang bên trái. Theo lối này chúng tôi đến một căn phòng tối om ngửa lòng bàn tay cũng chẳng nhìn thấy được.
Thầy tôi tiến vào trước, đánh lửa lên châm vào cái đèn dầu bơ dựng ngay cạnh cửa. Người bảo tôi ngồi xuống dưới nền đá:
- Ngày nay chú có đủ thông minh để thu nhận kinh nghiệm của các âm hồn nơi âm cảnh. Ta sẽ truyền cho chú bí pháp xuất hồn và ta có bổn phận canh chừng không để lũ ma quái động chạm đến xác thân chú.
Đến đây người nhìn tôi mỉm cười bảo:
- Hãy nằm ngửa xuống nhắm mắt lại, không được nghĩ viển vông làm phân trí trong thời gian tập luyện này. Ta sẽ giúp cho "linh thức" chú thoát ra khỏi xác thân mình. Chú nhớ là hãy để mặc nó muốn bồng bềnh trôi đâu thì trôi, đừng cưỡng lại và chớ nên sợ hãi.
Chú nhớ là đừng để cho tâm trí mình suy tư điều gì. Cứ yên lặng để mặc cho linh thức đi đến bất cứ một nơi nào. Ta luôn luôn ở bên cạnh chú.
Nói xong, người tắt đèn và đóng kín cánh cửa ra vào đoạn quay vào ngồi xuống bên cạnh tôi! Tôi ngoan ngoãn nhắm nghiền mắt lại theo lời Minh Sư căn dặn. Trong giây lát tôi cảm thấy hơi ấm của người đang ngồi bên cạnh truyền sang và toàn thể châu thân tôi rung lên như người ngồi đồng cốt, đến độ không thể nào cưỡng lại được!
Một luồng ánh sáng xanh trong thân xác tôi từ ngay đỉnh đầu mình bỗng bay vụt lên. Tôi biết đó là linh thân của mình! Sợi ngân tuyến (Silver Cord) cột giữa thân xác tôi cùng linh thân của chính mình đang lơ lửng bay.
Rồi từ từ bay vút cao lên tận khoảng không gian vô tận. Từ trên không gian mờ mịt đó nhìn xuống, trông thấy bên dưới chỉ là một vũng đen mênh mông dày đặc.
Lúc bấy giờ tôi nghĩ đến ngọn Thiết Lĩnh, và tức khắc tôi đã lơ lửng ngay trên đỉnh cao của ngọn núi này. Rồi từ nơi ngọn Thiết Lĩnh tôi bay trở về lại dinh Phổ Đà La, lượn trên cánh đồng Lạt Sa rộng lớn cùng những nơi mà xưa nay tôi chưa bao giờ biết đến.
Chẳng bao lâu linh thức tôi bắt đầu mỏi mệt. Sợi ngân tuyến bỗng dưng rung dữ dội, đang từ màu xanh ngả sang màu vàng nhạt rồi biến sang màu váng sữa. Trong khi đó bất giác linh thân tôi từ trên không trung đột nhiên bị kéo tuột xuống không thể nào gượng lại được.
Rõ ràng là bọn "ác quỷ" kéo lôi linh thân tôi xuống chín từng địa ngục. Thú thật, lúc bấy giờ tôi vô cùng khủng khiếp, quang cảnh rùng rợn dưới cõi âm hiện ra trước mắt từ những hình thù quái đản như hình ảnh của những người say rượu kể lại.
Trong số các hình ảnh làm tôi khiếp hãi nhất là một con đỉa khổng lồ mang đầu người có một bảng mặt vô cùng kinh tởm. Màu sắc của nó thật lạ lùng. Da mặt đỏ ké. Mặt mày xanh tái. Mắt lồi và luôn luôn đảo lộn.
Ngoài ra, tôi còn nhìn thấy đủ các loại ma quái khác nữa, trông con nào cũng thật dữ dằn... Tất cả đều cùng nhất loạt phóng đến như muốn cắn đứt sợi "ngân tuyến" đang ràng buộc giữa xác thân cùng linh thân tôi.
Mấy hôm sau Minh Sư cho biết xuất hồn là một trong các bí pháp tu tiên của các đạo gia Trung Hoa về Lửa Tam Muội mà người Tây Tạng gọi là Toumo, ta gọi tâm nhiệt hay psychicheat.
Theo sách Chân tiên bí truyền, hỏa hậu pháp có đề cập đến "Lửa Tam Muội" đại ý "Tâm là quân hỏa được gọi là thượng muội; còn thận là thần hỏa gọi đó là trung muội, bàng quang là dân hỏa gọi là hạ muội. Ba khí này tụ lại mà sinh ra lửa, do đó mới gọi là Lửa Tam Muội".
Các Minh Sư Ấn Độ và Tây Tạng nói lên cách rút Prana và từ cái bình vô tận này của thiên nhiên nạp lại vào cơ thể từ đó biến thành năng lượng tinh tế, sinh ra một thứ tâm nhiệt thần diệu chuyển vận sưởi ấm toàn thân con người.
Tất cả đều dựa vào cách hô hấp có phương pháp tạo thành Prana, biến nó thành một thứ năng lượng vi diệu sưởi ấm toàn thân khiến từng tế bào trong cơ thể được kích thích. Xuất hồn cũng bằng bí pháp này mà ra.
- Con người có thể vượt bể cả không bằng thuyền bè, mà chỉ bằng một cành lau. Chú có thể tin không?
Tôi gật đầu song không đáp để khẳng định. Thầy tôi tiếp tục:
- Đó là sự thật. Sư Bồ Đề Đạt Ma từ Tây Trúc sang Trung Hoa truyền đạo, trụ trì tại chùa Thiếu Lâm trên ngọn núi "Thiếu Thất Sơn". Chính nơi này người đã dạy cho các Thiền sư Trung Hoa về cung cách luyện khí, phép quán tưởng cùng phép Thiền định.
Về sau người người chỉ dùng một cành lau mà vượt qua sóng cả trùng dương để trở về quê hương xứ sở. Bí pháp này chú cần phải biết, nó là một vấn đề cần thiết không thể thiếu được trong nhiệm vụ quan trọng sau này chú sẽ phải đảm trách.
Con người có thể vượt qua các đại dương mà không cần phải sử dụng đến thuyền bè, như Sư Bồ Đề Đạt Ma từ Tây Trúc sang Trung Hoa truyền dạy các phép quán tưởng cùng phép luyện khí, có thể làm cho con người mất hẳn trọng lực!
Ngày trở về nước, trước đám môn đồ, ngài thực hiện phép khinh thân đứng trên một cành lau nhẹ nhàng lướt đi trên mặt bể.
- Ta tin rằng phép khinh thân đối với chú chẳng có gì khó khăn cả. Chú chỉ cần thu thập chu đáo về các nguyên tắc căn bản là có thể thực hiện ngay được. Trong tương lai gần, nhiệm vụ mà chú sẽ được giao phó sẽ phải cần dùng đến pháp thuật khinh thân này!
- Thưa Minh Sư, có thể cho con biết nhiệm vụ của con sắp phải nhận lãnh đó không?
- Không! Thầy tôi lắc đầu nói. Công việc sắp giao cho chú là một vấn đề tối mật, ta không thể tiết lộ theo lời yêu cầu của chú. Nhưng chú đừng quá ưu tư, chúng ta còn đang trong thời kỳ chuẩn bị .Từ hôm nay đến ngày chú lên đường để hoàn thành sứ mệnh hãy còn lâu. Có gì khiến chú phải sợ hãi đâu?
Đến đây, Minh Sư Minh Dà Đông Đạt mỉm cười trấn an tôi:
- Không có điều gì phải lo lắng cả, Lỗ San ạ! Với chú thì mọi việc sẽ an lành. Chỉ có những người gây nên tội ác đem lại sự chết chóc cho mọi người mới cảm thấy run sợ!
Bên ngoài bóng hoàng hôn buông xuống một màu vàng vọt. Người đảo mắt chung quanh một lượt, đoạn quay lại nhìn tôi tiếp tục:
- Ma quái dưới Cõi Âm lúc nào cũng đem lại nỗi kinh hoàng cho những kẻ gây nên lắm điều tội ác! Họ hãi hùng run sợ chẳng những trong cơn ác mộng mà ngay cả ban ngày cũng không làm sao yên ổn được!
Tâm tư họ luôn luôn bị dằn vặt, bởi những hành động tội ác do chính họ đã gây ra. Lỗ San ạ! Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác, chú thừa rõ điều này. Làm điều thiện luôn luôn cảm thấy lòng mình thanh thản như vào chốn Đại Tự Du Khang tâm hồn lâng lâng thơ thới, Những kẻ làm điều ác đức khác nào lạc vào chốn lao ngục tù hình.
Nơi từng diễn ra những cảnh cực hình tràn đầy đau khổ, họ sẽ cảm thấy lòng mình quặn thắt lại, tưởng chừng như chính mình là những nạn nhân đang bị hành hạ trong cảnh tận cùng đau khổ đó. Chú hiểu điều này chứ? Với chú đâu có gây nên tội ác gieo rắc bao nỗi tang thương cho thiên hạ thì có gì phải sợ hãi?
Thầy tôi im lặng trong giây lát đoạn đưa tay chỉ ra bên ngoài phòng nơi Thiền Viện:
- Lỗ San! Chú hãy nhìn ra bên ngoài rặng núi kia, chú có trông thấy gì không?
Tôi phóng mắt nhìn theo hướng chỉ của Minh Sư :
- Đó là các đốm lửa đang bập bùng cháy.
- Không, chú hãy nhìn kỹ lại xem. Đó là những bóng đen chập chờn đi trong bóng đêm dày đặc. Chúng không phải là những đám lửa mà là những linh ảnh mà chú đã có lần nhìn thấy dạo nào nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn huyền nhiệm này.
- Vâng, con đã có lần trông thấy. Đó là những bóng ma. Thưa Minh sư, chúng cũng chẳng khác linh hồn, tại sao chúng không siêu thoát hoặc trở về Cõi Âm để hoàn thành những điều cần thiết, để được hóa thân hay đầu thai vào kiếp khác.
- Đó là hiện tượng của những người chưa muốn chết!
- Các linh hồn này còn lưu luyến với thế gian, có thể vì tình cảm, hoặc vì một sự tiếc nuối nào đó mà họ không thể nào dứt bỏ đi được. Họ đã trở thành những hồn ma vất vưởng như chú đã nhìn thấy đó. Chúng ta muốn giao tiếp với những linh hồn này chẳng có gì khó khăn cả.
Nhưng với các nhà khoa học thì không tin như vậy. Họ không tin có những sự huyền bí mà cho đó là những hiện tượng thuộc phạm vi khoa học chưa có lời giải thích! Nhưng khi được hỏi đến linh hồn, thì họ đã tự dối mình bằng sự im lặng.
Im lặng trong giây lâu, thầy tôi gật đầu chậm rãi nói tiếp:
- Họ giữ im lặng, không đồng nghĩa với sự chối bỏ.
- Như vậy chẳng hóa ra họ mâu thuẫn chính ngay với mình sao?
Minh Sư mỉm cười không đáp lại lời này của tôi.
(Cách đây 3 năm, Richard Wiseman được cấp phép tiến hành các thí nghiệm tại hai trong số các địa điểm bị ma ám nổi tiếng thế giới, đó là cung điện Hampton Court gần London và cây cầu Nam Edinbourg xứ Ecot.
Địa điểm đầu tiên là nơi ở cũ của Hoàng đế Henri Vlll, theo nhiều lời đồn đãi thường xuất hiện bóng ma của Hoàng hậu thứ V người đã bị kết án tử hình vào thế kỷ thứ 17 về tội ngoại tình. Còn về địa điểm thứ hai, dưới vòm cầu nơi có hàng trăm xác chết nạn nhân của bệnh dịch hạch vào thế kỷ thứ 17.
Bị lãng quên một thời gian, nhưng sau đó, những địa điểm ma quái này được mở cửa lại vào năm 1996. Và cũng kể từ đó người ta lại thấy các bóng ma bắt đầu lảng vảng.
Richar d Wiseman chọn ra 700 người tình nguyện tham gia quá trình nghiên cứu, với một số câu hỏi trong tay, họ được đưa vào những địa điểm Ma có nhiệm vụ ghi lại tất cả những gì khác thường trong mỗi một gian phòng.
Kết quả là một nửa số người tình nguyện có ít nhất một lần có một cảm xúc "kỳ quặc", thậm chí họ có cả cảm giác nhìn thấy sự hiện hình của những linh hồn mà họ không thể giải thích và họ vẫn quả quyết cho rằng thực sự những gì họ vừa nhìn thấy đó là những bóng ma.
Để khám phá những bí ẩn này, Richard Wiseman và nhóm của ông đã xem xét tỉ mỉ vài địa điểm được xem là nhiều ma nhất và một khu vực bình thường. Họ đã sử dụng những từ kế siêu chính xác để đo từ trường, thiết bị kiểm tra sự di chuyển của không khí và máy đo lường độ ánh sáng. "Những kẻ săn ma" nghiên cứu cả các lối đi khác nhau ở đường quanh và ở các độ cao khác nhau.
Kết quả đầu tiên: Trong những gian phòng bình thường ở Hampton Court, từ trường gần như tương đương với từ trường của Trái Đất, 50 microtesla (VT), nhưng trong các gian phòng Có Ma máy đo ghi nhận có những thay đổi đột ngột về từ trường, dao động một vài phần 10 microtesla trong vòng vài phút.
Những biến đổi này có thể liên quan đến hệ thống điện chiếu sáng trong lâu đài. Giả thiết từ trường của Richard Wiseman dường như không đi đúng hướng, vì lẽ rằng tại địa điểm thứ hai, cây cầu Edinbourg, người ta không đo được bất cứ một thay đổi nào của từ trường cả.
Thường ở những khúc quanh tối nhất, lớn nhất và có trần cao nhất thì những cảm giác kỳ lạ xuất hiện nhiều nhất.
Có thể đó là những khu vực mà người ta cảm thấy nhỏ bé và vô nghĩa nơi mà trò chơi của bóng tối phát huy nhiều nhất theo lời của Richard Wiseman bình luận. Và ông kết luận một gian phòng có bầu không khí u ám rất thuận lợi cho việc xuất hiện của các bóng ma).
Tuy nhiên sau đó, thầy tôi giải thích về "cái nhìn" của con người, không phải duy chỉ đối với các vật hữu hình mà luôn cả những hình ảnh vô hình mà ta thường gọi là bóng ma.
Đối với các nhà khoa học tự cho là mình hiểu biết tất cả về các hiện tượng, họ không tin tưởng những hình ảnh có tính huyền bí mà chúng ta nhìn thấy là sự thật.
- Thế, thưa Minh Sư, họ bảo đó là gì?
- Ảo giác. Họ nghĩ rằng những hình ảnh chúng ta nhìn thấy đó chỉ là ảo tưởng mà thôi.
Có lắm lúc ta nhắm nghiền mắt lại, vận dụng bằng cảm xúc, cũng có thể biết một cách rõ ràng những hình ảnh nào đang ở cạnh chúng ta! Lỗ San, chú có tin điều ấy hay không? Đó là sự thật. Có lẽ chú cho là tất cả mọi sinh vật trên thế gian này đều nhìn bằng mắt phải không?
- Thưa thầy, nếu không thì ngoài đôi mắt như loài người chúng ta, chẳng lẽ còn có sinh vật nào không nhìn bằng mắt nữa hay sao?
- Ta nghĩ chú còn nhớ trong Cổ Hiền Thạch Động mà dạo nào chú cùng ta đứng cạnh một hồ nước, trong đó có đàn cá đủ mọi hình dạng. Có những con như thể một quả bóng không mắt, không mang, không miệng ấy thế mà nó vẫn bơi lội và tránh được những chướng ngại chung quanh mình.
Nghe Minh Sư nhắc lại tôi sực nhớ ra, đúng là có loài cá này. Chẳng những vậy, mà còn có những loại cá hình thù khác thường, mới nhìn thoáng qua cứ nghĩ rằng nó không phải là một sinh vật.
- Vâng thưa thầy quả như lời Minh Sư dạy.
(Các nhà khoa học của thế kỷ 21 này đã khám phá ra là trong quá trình tiến hóa sinh giới, không phải loài động vật nào cũng có mắt.
Loài cá lưỡng tiêm kích thược bằng con dao nhỏ, thường sống ở ven biển hoặc ở giữa đại dương không hề có mắt riêng biệt mà chỉ có những tế bào cảm quang hiện diện dọc theo đường dây thần kinh.
Vì chúng có một cơ thể trong suốt như thủy tinh nên ánh sáng dễ dàng lọt vào để tác động trên các tế bào cảm thụ đó và giúp phân biệt được sáng và tối.
Trong môi trường đất, cơ thể động vật không thể trong suốt và những tế bào cảm quang kiểu cá lưỡng tiêm không phù hợp. Vì vậy động vật này phải nhìn bằng các tế bào cảm quang ở mặt ngoài cơ thể.
Chẳng hạn, giun đất đâu có mắt nhưng trên da của chúng lại có vô số tế bào cảm quang để tiếp nhận ánh sáng, đó là những con mắt nhỏ và vì loại mắt quá đơn giản nên chúng rất cần số lượng cảm quang rất lớn.
Tuy nhiên trong quá trình tiến hóa của sinh giới, nếu mắt cứ tồn tại rải rác ở trên da thì thật phiền phức và cũng chẳng thích hợp nữa.Vì vậy đến một mức độ phát triển, phần cao cấp nhất của hệ thần kinh tức là não phát triển mạnh thành hai mẫu nhỏ để tách riêng rồi chuyển đến da và từ đó tiến triển để tạo ra hai con mắt. Như vậy, chúng ta thấy mắt chỉ là một phần của não.
Đối với con người, mắt hình thành rất sớm vào khoảng tuần lễ thứ ba của thai kỳ. Khi đó phôi chỉ dài 3 m. Mắt bắt nguồn từ não dưới dạng hai túi thịt nguyên thủy, lồi dần ra phía trước để rồi cuối cùng tạo nên võng mạc.
Đây là phần nhạy cảm nhất của mắt đối với ánh sáng. Về sau, vào khoảng tháng thứ hai của thai kỳ, lớp da của thai mới tạo nên những thành phần khác với mắt như thủy tinh thể.
Hình ảnh đi vào mắt người trước tiên phải qua giác mạc. Đây là một màn mỏng giống như da nhưng không được trong suốt. Qua giác mạc, hình ảnh lọt vào tiền phòng của mắt, nơi chứa dịch thủy nước này có nhiệm vụ nuôi dưỡng thủy tinh thể đoạn lọt vào buồng tối chứa dịch kính. Qua dịch kính, hình vật hiển hiện trên võng mạc hệt như hình ảnh in trên phim của máy ảnh.
Đôi mắt chỉ là những bộ phận thu hình, còn não mới phân tích, tổng hợp những thông tin của hàng triệu tế bào cảm quang gửi về để tạo nên cảm nhận hình ảnh. Chính não mới tái hiện rõ rệt các hình thái sắc màu do hai mắt đã ghi nhận được.
Điều này khiến các nhà nghiên cứu đặt ra câu hỏi, phải chăng vì vậy, nhiều lúc con người chỉ "trông" mà không nhìn thấy. Nói cách khác mắt "trông" và não "nhìn".
Không hiểu làm sao tôi trở lại vấn đề của sự sợ hãi:
- Thưa Minh Sư, thật ra cái gì làm cho con người phải sợ hãi?
- Tâm hồn chú chẳng khác nào như tấm vải trắng không hề bợn lấy vết nhơ, tất nhiên là tâm hồn chú luôn luôn sống trong cảnh an lành. Vậy thì, chú chẳng có gì phải sợ hãi. Những kẻ gây nên điều tội lỗi, họ nhúng tay vào máu, tất nhiên họ phải trả nợ máu, lương tâm họ cắn rứt khi hồi tưởng lại những việc làm vô cùng tai hại của mình.
Minh Sư đặc biệt nhắc lại câu chuyện xuất hồn của tôi và cuối cùng Người khẳng định: "Linh Hồn chẳng bao giờ bị Tiêu Diệt! Nó là nguyên tắc của đời sống và cũng là nguyên nhân của cảm giác. Vũ trụ là một sức mạnh phi thường. Nó vừa là hiện thực mà cũng vừa vô hình vô ảnh.
Nó ngự trị ngay cả trong lục phủ ngũ tạng chúng ta và gắn bó mãi cho đến khi cái xác thân bị mục nát! Xác thân có mục nát và cuối cùng trở về với cát bụi, song linh hồn thì vẫn mãi mãi tồn tại! Linh hồn không đứng yên một chỗ, luôn luôn biến hóa một cách phi thường.
Những ai có trình độ nhiếp hồn đều biết chỉ có một thế giới tâm linh mới là thế giới trường cửu và bất biến. Nó là "một". Không phân biệt. Không phân hóa. Không tất định. Còn thế giới hiện hữu của chúng ta đang sinh sống chỉ là một cõi tạm bợ, nơi mà Đấng Tối Cao dành cho chúng sinh tu tập, ăn năn, sám hối.
Sau khi Minh Sư Minh Dà Đông Đạt châm lửa vào ngọn đèn dầu bơ, nhìn tôi cười nói:
- Thật vô cùng tuyệt diệu. Lỗ San ơi, lần đầu tiên chú thực hiện được một bí pháp vô cùng huyền nhiệm một cách trọn vẹn. Phép xuất hồn không phải bất kỳ ai cũng có thể thực hiện được, mà nó đòi hỏi phải có một trình độ tuyệt luân như chú chẳng hạn.
Nếu tư tưởng chú trong trắng và lòng chú không hề vướng mắc các hành động tội lỗi cùng những dục vọng tầm thường thì chẳng có gì có thể ngăn cản được chú. Sự sợ hãi phát xuất từ những con người phạm điều tội ác.
Ma quái dưới cõi Âm sống nhờ vào những kẻ sợ hãi mà môi trường sống của chúng được nuôi dưỡng bởi những kẻ bị lương tâm dày vò cắn rứt.
Thầy tôi nói đến một nhà sư người Miến Điện :
- Ông ấy có một tư tưởng thật điên rồ đến độ như ngu xuẩn. Ông ta là một tăng sĩ thuộc cấp dưới, chẳng có lấy chút kiến thức nào.
- Có phải là nhà sư mà con đã từng biết đó không ?
- Đúng là nhà sư đó!
Tôi ngạc nhiên gạn hỏi:
- Đã biết như vậy, tại sao chẳng những ông ta được núp dưới bóng Thiền Viện mà còn được cấp cho một am nhỏ để thiền định nữa?
- Vì cùng một dòng tu nên nhà sư này cũng hưởng được đặc quyền như các vị Lạt Ma khác.
- Vậy khi nhập am ông nhà sư ấy có thực lòng thiền định tu hành hay không?
- Không! Thay vì tu hành thì ông ta nghĩ đến quyền hành và dựa vào thế lực của một quốc gia hầu có được quyền bính trong tay để tự tung tự tác tại Miến Điện sau khi ông đã thành công.
- Có chứng minh gì mà chúng ta được biết ông ta có mưu tâm như vậy?
- Có chứ. Ông ta từng tuyên bố chính là Hoàng Tử xứ Miến. Thật ra, đó chỉ là lời lẽ tự phong mà thôi. Ông ta từng tuyên bố sẽ làm cho đất nước Miến Điện hùng mạnh dưới sự lãnh đạo của chính mình. Sau lời tuyên bố này, ông bắt đầu tập trung một số sư sãi bí mật ở dưới trướng mình với những lời lẽ hứa hẹn sẽ phong cho họ chức quyền để cai trị đất nước.
- Và những kẻ dưới trướng khứng chịu?
- Tất nhiên. Ông ta phong cho họ chức quyền, hứa cho họ tài sản ai lại chẳng thích? Và, cũng kể từ đó ông được tôn xưng là một Đại Hoàng đế trong am. Cũng từ đó nhà sư Miến Điện lén lút luyện các pháp thuật của tà giáo, cũng như biến các pháp thuật chính thống, chen lẫn với các phép ma quái biến thành một quyền phép vô cùng nguy hiểm.
Thời gian thấm thoát trôi qua, lâu ngày nhân thể quang của ông ta đổi ra màu sắc khác thường, không còn giống như những nhà sư của chúng ta. Tính nết và hành động của nhà sư Miến này hoàn toàn biến cải, ảo vọng của ông ta không còn là nhà tu khổ hạnh nữa mà trở thành một vị Hoàng Tử đầy hách dịch, tự tung tự tác, bất chấp cả nội qui của Thiền Viện.
Một hôm, vị đại Hoàng Tử tự phong nói với một vị trụ trì:
- Này tên nông nô trong vương quốc ta ơi! Hãy làm những việc gì ta phán bảo, vì ta là một Đại Hoàng Tử trong cõi đời này!
Tiếc thay cho vị đại Hoàng Tử tự phong là gặp nhằm vị trụ trì không phải là người điềm đạm, nên ra lệnh trừng phạt một cách nặng nề. Vì quá nhục nhã nên ông ta phát điên lên và cũng từ đó vị Đại Hoàng Đế ảo tưởng này biến thành một nhà sư khùng bất trị.
Đến đây Minh Sư nhìn tôi trong phút giây đoạn lên tiếng tiếp:
- Giáo lý nhân quả nhằm vào đạo đức. Chẳng những vậy, nó còn bao hàm luôn cả về trật tự luân lý nữa. Nếu không có nhân quả chắc chắn thế giới vật lý này sẽ bị đảo lộn. Luật nhân quả cho thấy những việc làm tốt của một cá nhân sẽ làm tăng thêm phần phước đức cho toàn thể mọi người.
Còn trái lại việc làm xấu chẳng những làm hỏng cho cá nhân mình như ông sư Miến Điện này, mà còn gây phương hại cho toàn thể nhân loại. Nhưng đó là chuyện ông nhà sư khùng, còn với chú thì không vậy. Điều cần thiết là lúc nào chú cũng phải bình tĩnh, dù gặp nguy hiểm đến đâu cũng vậy.
Đừng hốt hoảng, bằng không sự sợ hãi đó sẽ làm phương hại chẳng những đến công trình hoạt động trong cuộc sống hiện hữu mà còn ngăn chặn cả sự tiến hóa của linh hồn chú. Đó mới là vấn đề quan trọng. Mơ ước hão huyền, mộng ảo triền miên chỉ đưa con người đi vào con đường tà đạo.
Nếu cứ để tâm tư mình chìm đắm vào vòng mộng tưởng mông lung không tránh khỏi xa lìa thực tế, bỏ phế chánh đạo để chạy theo tà đạo gây nên bao cảnh đau thương tang tóc. Đừng bao giờ để lòng ham muốn của mình lạc lõng vào những mơ ước tầm thường khiến cho thể quang phải mờ ám.
Thế giới này đã là ảo ảnh thì mọi điều trên thế gian này đâu phải là thực? Không phải là thực thì mọi cám dỗ của nó không thể nào lôi cuốn ta đi vào con đường lầm lạc được. Có phải thế không Lỗ San?
Lời của Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt đã làm tôi suy nghĩ nhiều. Đối với nhà sư Miến Điện kia, ông ta muốn được cùng tu hành và chung sống dưới mái ấm của Thiền Viện, tại sao các bậc Lạt Ma Tối Cao không giúp đỡ ông ta tỉnh ngộ lại trở về với đạo hạnh?
Tôi ngẩng mặt lên nhìn Minh Sư lên tiếng:
- Thưa thầy, tại sao chúng ta lại làm ngơ trước sự lầm đường lạc lối của nhà sư Miến Điện này?
- Chúng ta chỉ được phép giúp đỡ những người nào đáng được sự giúp đỡ mà thôi.
- Con muốn được hiểu làm sao phân biệt được người nào cần được giúp đỡ và người nào lại không được hưởng ân huệ đó?
- Môn "Bí Pháp Thần Lực" đã ghi rõ ràng là đối với những người không muốn hưởng được sự giúp đỡ sẽ không đủ điều kiện để được chúng ta chu toàn. Chúng ta không dùng khả năng sử dụng bí pháp để hưởng nhận sự khen thưởng, mà chỉ áp dụng "Bí Pháp Thần Lực" để làm tăng trưởng trên đường tu hành hầu tiến đến sự "Thăng Hoa Viên Mãn".
Bí Pháp Thần Lực chẳng những giúp cho loài người thêm phần tăng trưởng mà còn bao gồm cả thế giới sinh vật trong khắp vũ trụ bao la này.
Đến đây, Minh Sư bỗng im lặng đưa mắt nhìn ra bên ngoài như tuồng để tiếp nhận luồng điện thần giao cách cảm nào đó đưa lại. Giây lâu sau, Minh Sư mới quay lại nhìn tôi tiếp tục giảng giải:
- Rồi đây, chú sẽ chứng kiến biết bao nhiều chuyện mà chú không ngờ tới. "Con Mắt Thứ Ba" của chú sẽ được mở rộng hơn lên. Chú sẽ được các vị Lạt Ma thuộc hàng siêu việt truyền đạt cho chú các bí pháp nhiệm mầu.
Chú sẽ nhìn tận mắt lắm cảnh tượng khiến chú chán ngán cho nhân tình thế thái. Chú sẽ thấy cảnh "ném tiền" để được gọi là lòng từ bi bác ái của những kẻ cao sang quyền quý, giàu tiền lắm bạc Và chú cũng sẽ được nhìn thấy những bào thai đang mang tật nguyền ngay trong lòng mẹ chúng, cùng những con người hiền lương đang sống trong cảnh an lành bỗng dưng điên cuồng đau khổ!
Người nắm lấy tay tôi hạ thấp giọng:
- Lỗ San à! Đời sống không bằng phẳng như mặt nước hồ thu mà nó đầy cả chông gai, cạm bẫy. Một ngày đẹp trời nào đó chú sẽ gặp được một y sĩ tài ba, nhưng chú sẽ làm cho người y sĩ này sẽ phải kinh hoàng vì chính ngay thần lực của chú.
Chú sẽ được nhìn tận mắt những bức tranh "kỳ bí". Chú sẽ được đưa đến "Mật Điện" để tham quan và cũng để thảo luận một vài vấn đề "Bí mật hơn những điều bí mật" về một nhà sư nổi tiếng tại nơi này.
Đó là Đức Marfata sẽ nói những gì về về tỉnh thành Calcutta của xứ Ấn. Cũng tại nơi này chú sẽ nhìn thấy tận mắt cái "Hố Đen" kỳ quái và chính chú trở thành vị tiên tri khiến cho mọi người phải sửng sốt. Chú ngạc nhiên ư ? Chẳng có gì đáng phải ngạc nhiên riêng đối với chú.
Đến đây, người nắm chặt lấy tay tôi:
- Ôi! Lỗ San ơi! Chú sẽ còn chứng kiến lắm sự bí ẩn ví như, chú sẽ thấy cái máy nhìn "nhân thể quang" máy này dùng cho những kẻ không có nhãn thông. Chú sẽ chứng kiến và học hỏi được lối áp dụng về nguyên tắc tha phách (Heterodyme) phối hợp.
Nhờ đó chú sẽ phân biệt được tính tình con người qua màu sắc của thể quang. Chú sẽ đo được sự rung chuyển của tất cả mọi cảnh giới hiện hữu trong vũ trụ kể cả tốc độ chuyển vận của một con người.
Chú sẽ nhìn thấy được các vị thần hộ mệnh cũng như những linh hồn đã thoát vòng u muội cùng những hình ảnh trong A Lại Da Tàng Thức. Đặc biệt là nơi này chú sẽ được giữ nhiệm vụ lau chùi kinh sách.
Chú sẽ biết lý luận về đường tình ái và sự cần thiết của đời sống con người. Chú sẽ nhìn được "Đức Ông và Đức Bà" ở trên Địa Cầu này cùng sự khắng khít giữa hai linh hồn luôn quấn quýt bên nhau giữa khoảng không gian vô định.
Minh Sư Minh Dà Đông Đạt thao thao bất tận. Còn tôi thì hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác mở mắt thao láo nhìn không bỏ sót một lời nói nào của người.
- Lỗ San! Quả thật chú có diễm phúc. Rồi đây, ta sẽ đưa chú đến Ngọc Báu Linh Nga (Norbu Linga) còn được gọi là Kim Ngọc Viên, nơi có muôn hồng nghìn sắc, có dòng sông hạnh phúc trong lành. Chú sẽ được lý luận về người đàn bà và sẽ nhận thấy ý thức của loài vật chẳng khác gì loài người chúng ta, cũng ưu tư, cũng nôn nóng, cũng biết sống bên nhau, cùng chia bùi xẻ ngọt, an ủi nhau khi vui buồn hay tủi hận.
Đến đây thầy tôi quay lại về vấn đề kinh kệ:
- Chú sẽ có một lý luận mới về Kinh Hoa Nghiêm và thuộc nó từng dòng, từng chữ. Chú sẽ nhìn thấy sự tàn nhẫn của nhà sư giáo sư dạy về tu luyện và chú sẽ có được một khoa thôi miên toàn hảo. Cuối cùng chú sẽ nhận thấy kỷ luật là con đường tốt nhất đưa ta đến chỗ thành công trọn vẹn.
Rồi một ngày không xa mấy, chú sẽ được đưa đến Trùng Khánh nơi mà ta có lần tiết lộ với chú trong những năm tháng sắp đến. Chú sẽ học được nhiều điều hay nơi đó.
Tôi cảm thấy như trước mắt mình là cả một phương trời tràn đầy ánh sáng. Niềm ước mơ càng lúc càng làm cho tôi rạo rực.
- Người ta tìm đến xứ sở Tây Tạng không phải chỉ để học nặn tượng, học đọc kinh, mà họ cần phải học những thứ gì trong tinh thể cảnh giới sau khi ta rời khỏi trái đất này. Như chú đã biết, thế giới mà chúng ta đang tạm trú này chỉ là ảo ảnh, nhưng chính ở chốn ảo ảnh này lại rất hữu ích cho việc học.
Càng học càng phải chịu đựng những cảnh khó khăn, và cũng vì vậy chúng ta phải học để thấu triệt những nỗi khó khăn đó.
Thầy tôi mỉm cười:
- Chú có ngại khó khăn không, hả Lỗ San?
- Thưa thầy, con đã chấp nhận ngay từ tấm bé thì mọi sự khó khăn đến mấy cũng chẳng dễ gì lay chuyển được ý chí tu hành của con được.
- Thầy rất khâm phục ý chí của chú. Chú hãy nhận nơi đây lời khen tặng chân thành của ta.
BÍ PHÁP XUẤT HỒN
Minh Sư lập lại lời giảng giải của Người về vấn đề đầu tư kiến thức mà tôi muốn được biết rõ ràng hơn:
- Thưa Minh Sư nếu ta quá sợ hãi về vấn đề bội thực chữ nghĩa trong kinh sách thì các nhà làm văn hóa in sách để làm gì?
- Ta không khuyên chú là không nên đọc sách quá nhiều mà chỉ nên chọn lọc sách để đọc. Trên thế giới này không nơi nào là không có kinh sách, có điều là làm sao biết chọn lấy những kinh sách nào có thể giúp ta mở mang trí tuệ một cách hữu ích hơn!
Điều ta khuyến cáo chú là không nên có tham vọng vượt quá nghiệp quả của mình để được đạt đến chánh quả nhanh hơn. Làm như vậy chẳng khác nào ta chuốt lấy hậu quả mang họa vào thân, như nhà sư già Nhật Bản kia chẳng hạn.
Và đến đây, thầy tôi cũng không quên nhắc lại là tôi có một cuộc đời thật đặc biệt, đòi hỏi tôi phải có một tầm kiến thức thâm sâu cần phải được phát triển trên mọi phương diện, nhất là vấn đề "Thần giao cách cảm":
- Chú cần phải được huấn luyện thật chu đáo bằng tất cả mọi phương pháp mà tôi đã truyền đạt cho chú! Chỉ trong vòng vài tháng nữa, chú sẽ được luyện "Cảm xạ lực" và "Phối họp thần nhãn" bằng phương pháp viễn thông đúng theo bí pháp của pho kinh vĩ đại nhất thế giới này.
Chính đó là một văn hóa phẩm do nhiều chân sư ghi chép tất cả các bí kiếp lưu lại cho loài người. Chú sẽ được huấn luyện theo các bí quyết trong pho kinh vĩ đại này một cách thuần thục. Ta biết trước sự quyết định này khiến chú hoang mang không ít, nhất là khi nhìn thấy các bí quyết đi ngoài đường hướng chủ trương của xứ sở chúng ta.
Nói đến đây thầy tôi hạ thấp giọng trấn an tôi:
- Chú yên lòng. Tất cả tuy mới mẻ nhưng đều nằm trong một nguyện vọng chung của nhân loại. Tất nhiên là những bí quyết ấy có khi phải dùng đến những ngoại ngữ mà nhiều danh từ của nó không thấy có trong các kinh sách tu hành của người Tây Tạng. Điều này, chú đừng ưu tư ta có bổ phận giảng giải cho chú.
Quả thật, tôi không khỏi phải hoang mang như Minh Sư đã nói. Làm sao tôi thấu triệt được một cách cặn kẽ một khi ngôn ngữ bất đồng?
- Lỗ San! Không nên quá ưu tư! Thầy tôi mỉm cười trấn an. Khi mà cảm xạ lực và thần nhãn của mình được phối hợp một cách thật chính xác thì chú có thể lĩnh hội được tư tưởng ở bất cứ sách vở nào chú muốn một cách dễ dàng.
Đây là một phương pháp ít người biết đến trong môn thần giao cách cảm. Có nhiều quốc gia trên thế giới có những bảo tàng viện hạn chế nghiêm ngặt hay nói cách khác cấm cản bất cứ ai không chứng minh được mình là một sinh viên do chính phủ nước họ gửi đến tham khảo các dữ kiện hay tài liệu lưu trữ tối mật của đất nước họ.
Tôi buột miệng hỏi :
- Vậy nếu con muốn đến những nơi ấy cần phải xin giấy giới thiệu của chính phủ ta mỗi khi muốn đến một quốc gia nào đó?!
- Thì đúng như vậy, song với chú theo ta nghĩ không cần thiết lắm.
Thấy tôi trố mắt ngạc nhiên, thầy tôi mỉm cười giải thích:
- Chú có khả năng ngoại lệ là có thể du hành trong "Tinh Thể" để học hỏi những gì chú cần biết. Ta sẽ truyền dạy cho chú sử dụng khoa "Thần Bí Học" này!
Minh Sư lại nâng chung trà lên nhấm nháp đoạn tiếp tục nói:
- Lỗ San! Chú nên nhớ rằng sử dụng sai lầm "Thần Lực" hoặc dùng thần lực đàn áp, khống chế bất cứ kẻ nào không cần thiết chú sẽ bị trừng phạt nặng nề. Những giáo pháp bí truyền, siêu hình thượng học, những linh cảm thần thức (ESP) chỉ để giúp đời, nói chung là giúp cho nhân loại và góp phần mở rộng tầm kiến thức cho loài người trên mặt địa cầu này.
Hành động bất cứ một điều gì cũng phải cần đến cái Tâm, như Lục Cửu Uyên (1139-1192) đã đưa ra cái lý mà ông đã chịu ảnh hưởng thuyết vạn vật duy thức của Phật học. Thuyết này cho rằng vũ trụ tức ngã tâm mà cái tâm của ta đó là vũ trụ. Vậy thì chú hiểu chứ, tâm tức là lý.
Lục Cửu Uyên cũng đã từng cùng Chu Hy tiến hành cuộc biện luận suốt cả mười ngày, được coi là cuộc biện luận nổi tiếng nhất nơi chùa Nga Hồ tại đất Tín Châu. Sau này Vương Thủ Nhân đời Minh (1472-1528) phát triển thành hệ thống triết học duy tâm chủ quan và được xem là hoàn thiện nhất.
- Vương Thủ Nhân lại khai triển thêm ra về lý luận chứng minh của mình rằng là tâm ngoại vô vật, tâm ngoại vô sự, tâm ngoại vô học. Ta sẽ truyền đạt cho chú về cái triết thuyết của Vương Thủ Nhân nói về thuyết "Trí lương tri" và "Tri hành hợp nhất" do ông đã đạt được trong hoàn cảnh.
"Bỗng nhiên nửa đêm giác ngộ ra tôn chỉ cách vật trí tri" vào thời kỳ ông bị đưa đi biếm trích tại vùng Thạch Thừa, Long Tường, tỉnh Quý Châu hoang vu, chung quanh mình chỉ là cây cối, núi non, khỉ ho cò gáy, chẳng có sách vở, ngày ngày chỉ suy tư về những cái đã nghe, những hiện tượng đã thấy.
Ông ấy có cần đến sách vở trong thời gian bị lưu đày này đâu mà vẫn thông đạt được cái lý thuận của trời đất hiểu được mọi việc trên đời!
Trở lại vấn đề xuất hồn, tôi hỏi Minh Sư:
- Thưa Lạt Ma! Con muốn biết rõ thêm vấn đề luyện phép "xuất hồn", Minh sư giảng giải cho con biết về sự lợi hay hại của nó.
- Có nhiều cách tu luyện phép xuất hồn, có cả bí pháp tự mình theo sách vở luyện tập mà không phải nhờ một chân sư nào hướng dẫn. Trong số này, có người dùng "rượu mạnh" hay "ma túy" hoặc sử dụng chất kích thích tố bằng một liều lượng cao khiến họ có khoái cảm đến tột độ và mê man bất tỉnh ngay khi đó!
Chính trong thời gian đê mê này, tinh thần họ hoàn toàn bị bại hoại, luôn luôn sống trong cơn hốt hoảng bởi bị ảo giác ám ảnh. Chú nên nhớ rằng "sự sợ hãi" là vấn đề ưu tư hàng đầu trong môn "Thần Bí Học".
Đó là điều tối kỵ! Người quang minh chính đại tinh thần luôn luôn minh mẫn, chẳng bao giờ ưu tư hay sợ hãi trước bất cứ một hiện tượng nào! Sự sợ hãi làm cho tinh thần ta suy sụp, đầu óc ta rối loạn, đó chính là lúc các "Hồn Ma, Tà Vạy" xâm nhập vào đàn áp phần hồn của ta.
Chính những người bị say rượu nhiều khi họ nhìn thấy chung quanh mình toàn là những hình ảnh của các giống sinh vật lạ lùng. Có người thuật lại trong cơn say túy lúy ấy, họ đã trông thấy cả voi xanh có sọc đỏ hoặc các giống thú quái đản khác mà họ không thể hình dung được chúng là sinh vật gì muốn xâm phạm đến mạng sống họ?
Chú còn nhớ hình ảnh trong "Cổ Hiền Thạch Động" ngày nào chúng ta đi vào bên trong ấy không? Nơi ấy chúng ta chính mắt trông thấy một giống vật nửa đá, nửa sinh vật mà hình ảnh của nó hệt như con kỳ nhông có cánh nằm kế cận một một con khủng long hóa thạch.
(Gần đây các nhà khoa học Trung Quốc phát hiện một khối đá hóa thạch 120 triệu năm tuổi chứa phôi thai của một con thằn lằn bay, thuộc loài bò sát có cánh sống cùng thời với loài khủng long. Hai nhà khoa học này là Wang Xiaolin và Zhou Zhonghe thuộc Viện Hàn Lâm Trung Quốc tại Bắc Kinh cho biết như vậy.
Phôi thai được tìm thấy trong lớp trầm tích của một cái hồ ở Liêu Ninh, địa danh khảo cổ nổi tiếng có nhiều hóa thạch thuộc vùng Đông Bắc Trung Hoa. Phôi thai được bao bọc trong lớp vỏ trứng gần như hoàn thiện bên ngoài.
Điều này cho thấy thằn lằn bay, loài động vật có xương sống đầu tiên trên trái đất, cũng thuộc loại động vật đẻ trứng, cánh nó rộng 10,6 inch (khoảng 27 cm). Những con thằn lằn bay đầu tiên xuất hiện trên trái đất cách đây khoảng 230 triệu năm và đã bị tiêu diệt cùng thời với khủng long cách nay khoảng 65 triệu năm.)
- Bây giờ thì chú hãy theo ta đến một nơi mà ta có thể luyện cho chú về phép "xuất hồn". Chú muốn thực hiện phép này không?
Tôi vui vẻ chấp nhận ngay:
- Vâng. Điều này con hằng mong đợi!
Hai thầy trò tôi cùng đi xuống một dải hành lang bằng đá, được một chốc thì quẹo sang bên phải, dẫn thẳng đến một lối rẽ sang bên trái. Theo lối này chúng tôi đến một căn phòng tối om ngửa lòng bàn tay cũng chẳng nhìn thấy được.
Thầy tôi tiến vào trước, đánh lửa lên châm vào cái đèn dầu bơ dựng ngay cạnh cửa. Người bảo tôi ngồi xuống dưới nền đá:
- Ngày nay chú có đủ thông minh để thu nhận kinh nghiệm của các âm hồn nơi âm cảnh. Ta sẽ truyền cho chú bí pháp xuất hồn và ta có bổn phận canh chừng không để lũ ma quái động chạm đến xác thân chú.
Đến đây người nhìn tôi mỉm cười bảo:
- Hãy nằm ngửa xuống nhắm mắt lại, không được nghĩ viển vông làm phân trí trong thời gian tập luyện này. Ta sẽ giúp cho "linh thức" chú thoát ra khỏi xác thân mình. Chú nhớ là hãy để mặc nó muốn bồng bềnh trôi đâu thì trôi, đừng cưỡng lại và chớ nên sợ hãi.
Chú nhớ là đừng để cho tâm trí mình suy tư điều gì. Cứ yên lặng để mặc cho linh thức đi đến bất cứ một nơi nào. Ta luôn luôn ở bên cạnh chú.
Nói xong, người tắt đèn và đóng kín cánh cửa ra vào đoạn quay vào ngồi xuống bên cạnh tôi! Tôi ngoan ngoãn nhắm nghiền mắt lại theo lời Minh Sư căn dặn. Trong giây lát tôi cảm thấy hơi ấm của người đang ngồi bên cạnh truyền sang và toàn thể châu thân tôi rung lên như người ngồi đồng cốt, đến độ không thể nào cưỡng lại được!
Một luồng ánh sáng xanh trong thân xác tôi từ ngay đỉnh đầu mình bỗng bay vụt lên. Tôi biết đó là linh thân của mình! Sợi ngân tuyến (Silver Cord) cột giữa thân xác tôi cùng linh thân của chính mình đang lơ lửng bay.
Rồi từ từ bay vút cao lên tận khoảng không gian vô tận. Từ trên không gian mờ mịt đó nhìn xuống, trông thấy bên dưới chỉ là một vũng đen mênh mông dày đặc.
Lúc bấy giờ tôi nghĩ đến ngọn Thiết Lĩnh, và tức khắc tôi đã lơ lửng ngay trên đỉnh cao của ngọn núi này. Rồi từ nơi ngọn Thiết Lĩnh tôi bay trở về lại dinh Phổ Đà La, lượn trên cánh đồng Lạt Sa rộng lớn cùng những nơi mà xưa nay tôi chưa bao giờ biết đến.
Chẳng bao lâu linh thức tôi bắt đầu mỏi mệt. Sợi ngân tuyến bỗng dưng rung dữ dội, đang từ màu xanh ngả sang màu vàng nhạt rồi biến sang màu váng sữa. Trong khi đó bất giác linh thân tôi từ trên không trung đột nhiên bị kéo tuột xuống không thể nào gượng lại được.
Rõ ràng là bọn "ác quỷ" kéo lôi linh thân tôi xuống chín từng địa ngục. Thú thật, lúc bấy giờ tôi vô cùng khủng khiếp, quang cảnh rùng rợn dưới cõi âm hiện ra trước mắt từ những hình thù quái đản như hình ảnh của những người say rượu kể lại.
Trong số các hình ảnh làm tôi khiếp hãi nhất là một con đỉa khổng lồ mang đầu người có một bảng mặt vô cùng kinh tởm. Màu sắc của nó thật lạ lùng. Da mặt đỏ ké. Mặt mày xanh tái. Mắt lồi và luôn luôn đảo lộn.
Ngoài ra, tôi còn nhìn thấy đủ các loại ma quái khác nữa, trông con nào cũng thật dữ dằn... Tất cả đều cùng nhất loạt phóng đến như muốn cắn đứt sợi "ngân tuyến" đang ràng buộc giữa xác thân cùng linh thân tôi.
Mấy hôm sau Minh Sư cho biết xuất hồn là một trong các bí pháp tu tiên của các đạo gia Trung Hoa về Lửa Tam Muội mà người Tây Tạng gọi là Toumo, ta gọi tâm nhiệt hay psychicheat.
Theo sách Chân tiên bí truyền, hỏa hậu pháp có đề cập đến "Lửa Tam Muội" đại ý "Tâm là quân hỏa được gọi là thượng muội; còn thận là thần hỏa gọi đó là trung muội, bàng quang là dân hỏa gọi là hạ muội. Ba khí này tụ lại mà sinh ra lửa, do đó mới gọi là Lửa Tam Muội".
Các Minh Sư Ấn Độ và Tây Tạng nói lên cách rút Prana và từ cái bình vô tận này của thiên nhiên nạp lại vào cơ thể từ đó biến thành năng lượng tinh tế, sinh ra một thứ tâm nhiệt thần diệu chuyển vận sưởi ấm toàn thân con người.
Tất cả đều dựa vào cách hô hấp có phương pháp tạo thành Prana, biến nó thành một thứ năng lượng vi diệu sưởi ấm toàn thân khiến từng tế bào trong cơ thể được kích thích. Xuất hồn cũng bằng bí pháp này mà ra.
- Con người có thể vượt bể cả không bằng thuyền bè, mà chỉ bằng một cành lau. Chú có thể tin không?
Tôi gật đầu song không đáp để khẳng định. Thầy tôi tiếp tục:
- Đó là sự thật. Sư Bồ Đề Đạt Ma từ Tây Trúc sang Trung Hoa truyền đạo, trụ trì tại chùa Thiếu Lâm trên ngọn núi "Thiếu Thất Sơn". Chính nơi này người đã dạy cho các Thiền sư Trung Hoa về cung cách luyện khí, phép quán tưởng cùng phép Thiền định.
Về sau người người chỉ dùng một cành lau mà vượt qua sóng cả trùng dương để trở về quê hương xứ sở. Bí pháp này chú cần phải biết, nó là một vấn đề cần thiết không thể thiếu được trong nhiệm vụ quan trọng sau này chú sẽ phải đảm trách.
Con người có thể vượt qua các đại dương mà không cần phải sử dụng đến thuyền bè, như Sư Bồ Đề Đạt Ma từ Tây Trúc sang Trung Hoa truyền dạy các phép quán tưởng cùng phép luyện khí, có thể làm cho con người mất hẳn trọng lực!
Ngày trở về nước, trước đám môn đồ, ngài thực hiện phép khinh thân đứng trên một cành lau nhẹ nhàng lướt đi trên mặt bể.
- Ta tin rằng phép khinh thân đối với chú chẳng có gì khó khăn cả. Chú chỉ cần thu thập chu đáo về các nguyên tắc căn bản là có thể thực hiện ngay được. Trong tương lai gần, nhiệm vụ mà chú sẽ được giao phó sẽ phải cần dùng đến pháp thuật khinh thân này!
- Thưa Minh Sư, có thể cho con biết nhiệm vụ của con sắp phải nhận lãnh đó không?
- Không! Thầy tôi lắc đầu nói. Công việc sắp giao cho chú là một vấn đề tối mật, ta không thể tiết lộ theo lời yêu cầu của chú. Nhưng chú đừng quá ưu tư, chúng ta còn đang trong thời kỳ chuẩn bị .Từ hôm nay đến ngày chú lên đường để hoàn thành sứ mệnh hãy còn lâu. Có gì khiến chú phải sợ hãi đâu?
Đến đây, Minh Sư Minh Dà Đông Đạt mỉm cười trấn an tôi:
- Không có điều gì phải lo lắng cả, Lỗ San ạ! Với chú thì mọi việc sẽ an lành. Chỉ có những người gây nên tội ác đem lại sự chết chóc cho mọi người mới cảm thấy run sợ!
Bên ngoài bóng hoàng hôn buông xuống một màu vàng vọt. Người đảo mắt chung quanh một lượt, đoạn quay lại nhìn tôi tiếp tục:
- Ma quái dưới Cõi Âm lúc nào cũng đem lại nỗi kinh hoàng cho những kẻ gây nên lắm điều tội ác! Họ hãi hùng run sợ chẳng những trong cơn ác mộng mà ngay cả ban ngày cũng không làm sao yên ổn được!
Tâm tư họ luôn luôn bị dằn vặt, bởi những hành động tội ác do chính họ đã gây ra. Lỗ San ạ! Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác, chú thừa rõ điều này. Làm điều thiện luôn luôn cảm thấy lòng mình thanh thản như vào chốn Đại Tự Du Khang tâm hồn lâng lâng thơ thới, Những kẻ làm điều ác đức khác nào lạc vào chốn lao ngục tù hình.
Nơi từng diễn ra những cảnh cực hình tràn đầy đau khổ, họ sẽ cảm thấy lòng mình quặn thắt lại, tưởng chừng như chính mình là những nạn nhân đang bị hành hạ trong cảnh tận cùng đau khổ đó. Chú hiểu điều này chứ? Với chú đâu có gây nên tội ác gieo rắc bao nỗi tang thương cho thiên hạ thì có gì phải sợ hãi?
Thầy tôi im lặng trong giây lát đoạn đưa tay chỉ ra bên ngoài phòng nơi Thiền Viện:
- Lỗ San! Chú hãy nhìn ra bên ngoài rặng núi kia, chú có trông thấy gì không?
Tôi phóng mắt nhìn theo hướng chỉ của Minh Sư :
- Đó là các đốm lửa đang bập bùng cháy.
- Không, chú hãy nhìn kỹ lại xem. Đó là những bóng đen chập chờn đi trong bóng đêm dày đặc. Chúng không phải là những đám lửa mà là những linh ảnh mà chú đã có lần nhìn thấy dạo nào nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn huyền nhiệm này.
- Vâng, con đã có lần trông thấy. Đó là những bóng ma. Thưa Minh sư, chúng cũng chẳng khác linh hồn, tại sao chúng không siêu thoát hoặc trở về Cõi Âm để hoàn thành những điều cần thiết, để được hóa thân hay đầu thai vào kiếp khác.
- Đó là hiện tượng của những người chưa muốn chết!
- Các linh hồn này còn lưu luyến với thế gian, có thể vì tình cảm, hoặc vì một sự tiếc nuối nào đó mà họ không thể nào dứt bỏ đi được. Họ đã trở thành những hồn ma vất vưởng như chú đã nhìn thấy đó. Chúng ta muốn giao tiếp với những linh hồn này chẳng có gì khó khăn cả.
Nhưng với các nhà khoa học thì không tin như vậy. Họ không tin có những sự huyền bí mà cho đó là những hiện tượng thuộc phạm vi khoa học chưa có lời giải thích! Nhưng khi được hỏi đến linh hồn, thì họ đã tự dối mình bằng sự im lặng.
Im lặng trong giây lâu, thầy tôi gật đầu chậm rãi nói tiếp:
- Họ giữ im lặng, không đồng nghĩa với sự chối bỏ.
- Như vậy chẳng hóa ra họ mâu thuẫn chính ngay với mình sao?
Minh Sư mỉm cười không đáp lại lời này của tôi.
(Cách đây 3 năm, Richard Wiseman được cấp phép tiến hành các thí nghiệm tại hai trong số các địa điểm bị ma ám nổi tiếng thế giới, đó là cung điện Hampton Court gần London và cây cầu Nam Edinbourg xứ Ecot.
Địa điểm đầu tiên là nơi ở cũ của Hoàng đế Henri Vlll, theo nhiều lời đồn đãi thường xuất hiện bóng ma của Hoàng hậu thứ V người đã bị kết án tử hình vào thế kỷ thứ 17 về tội ngoại tình. Còn về địa điểm thứ hai, dưới vòm cầu nơi có hàng trăm xác chết nạn nhân của bệnh dịch hạch vào thế kỷ thứ 17.
Bị lãng quên một thời gian, nhưng sau đó, những địa điểm ma quái này được mở cửa lại vào năm 1996. Và cũng kể từ đó người ta lại thấy các bóng ma bắt đầu lảng vảng.
Richar d Wiseman chọn ra 700 người tình nguyện tham gia quá trình nghiên cứu, với một số câu hỏi trong tay, họ được đưa vào những địa điểm Ma có nhiệm vụ ghi lại tất cả những gì khác thường trong mỗi một gian phòng.
Kết quả là một nửa số người tình nguyện có ít nhất một lần có một cảm xúc "kỳ quặc", thậm chí họ có cả cảm giác nhìn thấy sự hiện hình của những linh hồn mà họ không thể giải thích và họ vẫn quả quyết cho rằng thực sự những gì họ vừa nhìn thấy đó là những bóng ma.
Để khám phá những bí ẩn này, Richard Wiseman và nhóm của ông đã xem xét tỉ mỉ vài địa điểm được xem là nhiều ma nhất và một khu vực bình thường. Họ đã sử dụng những từ kế siêu chính xác để đo từ trường, thiết bị kiểm tra sự di chuyển của không khí và máy đo lường độ ánh sáng. "Những kẻ săn ma" nghiên cứu cả các lối đi khác nhau ở đường quanh và ở các độ cao khác nhau.
Kết quả đầu tiên: Trong những gian phòng bình thường ở Hampton Court, từ trường gần như tương đương với từ trường của Trái Đất, 50 microtesla (VT), nhưng trong các gian phòng Có Ma máy đo ghi nhận có những thay đổi đột ngột về từ trường, dao động một vài phần 10 microtesla trong vòng vài phút.
Những biến đổi này có thể liên quan đến hệ thống điện chiếu sáng trong lâu đài. Giả thiết từ trường của Richard Wiseman dường như không đi đúng hướng, vì lẽ rằng tại địa điểm thứ hai, cây cầu Edinbourg, người ta không đo được bất cứ một thay đổi nào của từ trường cả.
Thường ở những khúc quanh tối nhất, lớn nhất và có trần cao nhất thì những cảm giác kỳ lạ xuất hiện nhiều nhất.
Có thể đó là những khu vực mà người ta cảm thấy nhỏ bé và vô nghĩa nơi mà trò chơi của bóng tối phát huy nhiều nhất theo lời của Richard Wiseman bình luận. Và ông kết luận một gian phòng có bầu không khí u ám rất thuận lợi cho việc xuất hiện của các bóng ma).
Tuy nhiên sau đó, thầy tôi giải thích về "cái nhìn" của con người, không phải duy chỉ đối với các vật hữu hình mà luôn cả những hình ảnh vô hình mà ta thường gọi là bóng ma.
Đối với các nhà khoa học tự cho là mình hiểu biết tất cả về các hiện tượng, họ không tin tưởng những hình ảnh có tính huyền bí mà chúng ta nhìn thấy là sự thật.
- Thế, thưa Minh Sư, họ bảo đó là gì?
- Ảo giác. Họ nghĩ rằng những hình ảnh chúng ta nhìn thấy đó chỉ là ảo tưởng mà thôi.
Có lắm lúc ta nhắm nghiền mắt lại, vận dụng bằng cảm xúc, cũng có thể biết một cách rõ ràng những hình ảnh nào đang ở cạnh chúng ta! Lỗ San, chú có tin điều ấy hay không? Đó là sự thật. Có lẽ chú cho là tất cả mọi sinh vật trên thế gian này đều nhìn bằng mắt phải không?
- Thưa thầy, nếu không thì ngoài đôi mắt như loài người chúng ta, chẳng lẽ còn có sinh vật nào không nhìn bằng mắt nữa hay sao?
- Ta nghĩ chú còn nhớ trong Cổ Hiền Thạch Động mà dạo nào chú cùng ta đứng cạnh một hồ nước, trong đó có đàn cá đủ mọi hình dạng. Có những con như thể một quả bóng không mắt, không mang, không miệng ấy thế mà nó vẫn bơi lội và tránh được những chướng ngại chung quanh mình.
Nghe Minh Sư nhắc lại tôi sực nhớ ra, đúng là có loài cá này. Chẳng những vậy, mà còn có những loại cá hình thù khác thường, mới nhìn thoáng qua cứ nghĩ rằng nó không phải là một sinh vật.
- Vâng thưa thầy quả như lời Minh Sư dạy.
(Các nhà khoa học của thế kỷ 21 này đã khám phá ra là trong quá trình tiến hóa sinh giới, không phải loài động vật nào cũng có mắt.
Loài cá lưỡng tiêm kích thược bằng con dao nhỏ, thường sống ở ven biển hoặc ở giữa đại dương không hề có mắt riêng biệt mà chỉ có những tế bào cảm quang hiện diện dọc theo đường dây thần kinh.
Vì chúng có một cơ thể trong suốt như thủy tinh nên ánh sáng dễ dàng lọt vào để tác động trên các tế bào cảm thụ đó và giúp phân biệt được sáng và tối.
Trong môi trường đất, cơ thể động vật không thể trong suốt và những tế bào cảm quang kiểu cá lưỡng tiêm không phù hợp. Vì vậy động vật này phải nhìn bằng các tế bào cảm quang ở mặt ngoài cơ thể.
Chẳng hạn, giun đất đâu có mắt nhưng trên da của chúng lại có vô số tế bào cảm quang để tiếp nhận ánh sáng, đó là những con mắt nhỏ và vì loại mắt quá đơn giản nên chúng rất cần số lượng cảm quang rất lớn.
Tuy nhiên trong quá trình tiến hóa của sinh giới, nếu mắt cứ tồn tại rải rác ở trên da thì thật phiền phức và cũng chẳng thích hợp nữa.Vì vậy đến một mức độ phát triển, phần cao cấp nhất của hệ thần kinh tức là não phát triển mạnh thành hai mẫu nhỏ để tách riêng rồi chuyển đến da và từ đó tiến triển để tạo ra hai con mắt. Như vậy, chúng ta thấy mắt chỉ là một phần của não.
Đối với con người, mắt hình thành rất sớm vào khoảng tuần lễ thứ ba của thai kỳ. Khi đó phôi chỉ dài 3 m. Mắt bắt nguồn từ não dưới dạng hai túi thịt nguyên thủy, lồi dần ra phía trước để rồi cuối cùng tạo nên võng mạc.
Đây là phần nhạy cảm nhất của mắt đối với ánh sáng. Về sau, vào khoảng tháng thứ hai của thai kỳ, lớp da của thai mới tạo nên những thành phần khác với mắt như thủy tinh thể.
Hình ảnh đi vào mắt người trước tiên phải qua giác mạc. Đây là một màn mỏng giống như da nhưng không được trong suốt. Qua giác mạc, hình ảnh lọt vào tiền phòng của mắt, nơi chứa dịch thủy nước này có nhiệm vụ nuôi dưỡng thủy tinh thể đoạn lọt vào buồng tối chứa dịch kính. Qua dịch kính, hình vật hiển hiện trên võng mạc hệt như hình ảnh in trên phim của máy ảnh.
Đôi mắt chỉ là những bộ phận thu hình, còn não mới phân tích, tổng hợp những thông tin của hàng triệu tế bào cảm quang gửi về để tạo nên cảm nhận hình ảnh. Chính não mới tái hiện rõ rệt các hình thái sắc màu do hai mắt đã ghi nhận được.
Điều này khiến các nhà nghiên cứu đặt ra câu hỏi, phải chăng vì vậy, nhiều lúc con người chỉ "trông" mà không nhìn thấy. Nói cách khác mắt "trông" và não "nhìn".
Không hiểu làm sao tôi trở lại vấn đề của sự sợ hãi:
- Thưa Minh Sư, thật ra cái gì làm cho con người phải sợ hãi?
- Tâm hồn chú chẳng khác nào như tấm vải trắng không hề bợn lấy vết nhơ, tất nhiên là tâm hồn chú luôn luôn sống trong cảnh an lành. Vậy thì, chú chẳng có gì phải sợ hãi. Những kẻ gây nên điều tội lỗi, họ nhúng tay vào máu, tất nhiên họ phải trả nợ máu, lương tâm họ cắn rứt khi hồi tưởng lại những việc làm vô cùng tai hại của mình.
Minh Sư đặc biệt nhắc lại câu chuyện xuất hồn của tôi và cuối cùng Người khẳng định: "Linh Hồn chẳng bao giờ bị Tiêu Diệt! Nó là nguyên tắc của đời sống và cũng là nguyên nhân của cảm giác. Vũ trụ là một sức mạnh phi thường. Nó vừa là hiện thực mà cũng vừa vô hình vô ảnh.
Nó ngự trị ngay cả trong lục phủ ngũ tạng chúng ta và gắn bó mãi cho đến khi cái xác thân bị mục nát! Xác thân có mục nát và cuối cùng trở về với cát bụi, song linh hồn thì vẫn mãi mãi tồn tại! Linh hồn không đứng yên một chỗ, luôn luôn biến hóa một cách phi thường.
Những ai có trình độ nhiếp hồn đều biết chỉ có một thế giới tâm linh mới là thế giới trường cửu và bất biến. Nó là "một". Không phân biệt. Không phân hóa. Không tất định. Còn thế giới hiện hữu của chúng ta đang sinh sống chỉ là một cõi tạm bợ, nơi mà Đấng Tối Cao dành cho chúng sinh tu tập, ăn năn, sám hối.
Sau khi Minh Sư Minh Dà Đông Đạt châm lửa vào ngọn đèn dầu bơ, nhìn tôi cười nói:
- Thật vô cùng tuyệt diệu. Lỗ San ơi, lần đầu tiên chú thực hiện được một bí pháp vô cùng huyền nhiệm một cách trọn vẹn. Phép xuất hồn không phải bất kỳ ai cũng có thể thực hiện được, mà nó đòi hỏi phải có một trình độ tuyệt luân như chú chẳng hạn.
Nếu tư tưởng chú trong trắng và lòng chú không hề vướng mắc các hành động tội lỗi cùng những dục vọng tầm thường thì chẳng có gì có thể ngăn cản được chú. Sự sợ hãi phát xuất từ những con người phạm điều tội ác.
Ma quái dưới cõi Âm sống nhờ vào những kẻ sợ hãi mà môi trường sống của chúng được nuôi dưỡng bởi những kẻ bị lương tâm dày vò cắn rứt.
Thầy tôi nói đến một nhà sư người Miến Điện :
- Ông ấy có một tư tưởng thật điên rồ đến độ như ngu xuẩn. Ông ta là một tăng sĩ thuộc cấp dưới, chẳng có lấy chút kiến thức nào.
- Có phải là nhà sư mà con đã từng biết đó không ?
- Đúng là nhà sư đó!
Tôi ngạc nhiên gạn hỏi:
- Đã biết như vậy, tại sao chẳng những ông ta được núp dưới bóng Thiền Viện mà còn được cấp cho một am nhỏ để thiền định nữa?
- Vì cùng một dòng tu nên nhà sư này cũng hưởng được đặc quyền như các vị Lạt Ma khác.
- Vậy khi nhập am ông nhà sư ấy có thực lòng thiền định tu hành hay không?
- Không! Thay vì tu hành thì ông ta nghĩ đến quyền hành và dựa vào thế lực của một quốc gia hầu có được quyền bính trong tay để tự tung tự tác tại Miến Điện sau khi ông đã thành công.
- Có chứng minh gì mà chúng ta được biết ông ta có mưu tâm như vậy?
- Có chứ. Ông ta từng tuyên bố chính là Hoàng Tử xứ Miến. Thật ra, đó chỉ là lời lẽ tự phong mà thôi. Ông ta từng tuyên bố sẽ làm cho đất nước Miến Điện hùng mạnh dưới sự lãnh đạo của chính mình. Sau lời tuyên bố này, ông bắt đầu tập trung một số sư sãi bí mật ở dưới trướng mình với những lời lẽ hứa hẹn sẽ phong cho họ chức quyền để cai trị đất nước.
- Và những kẻ dưới trướng khứng chịu?
- Tất nhiên. Ông ta phong cho họ chức quyền, hứa cho họ tài sản ai lại chẳng thích? Và, cũng kể từ đó ông được tôn xưng là một Đại Hoàng đế trong am. Cũng từ đó nhà sư Miến Điện lén lút luyện các pháp thuật của tà giáo, cũng như biến các pháp thuật chính thống, chen lẫn với các phép ma quái biến thành một quyền phép vô cùng nguy hiểm.
Thời gian thấm thoát trôi qua, lâu ngày nhân thể quang của ông ta đổi ra màu sắc khác thường, không còn giống như những nhà sư của chúng ta. Tính nết và hành động của nhà sư Miến này hoàn toàn biến cải, ảo vọng của ông ta không còn là nhà tu khổ hạnh nữa mà trở thành một vị Hoàng Tử đầy hách dịch, tự tung tự tác, bất chấp cả nội qui của Thiền Viện.
Một hôm, vị đại Hoàng Tử tự phong nói với một vị trụ trì:
- Này tên nông nô trong vương quốc ta ơi! Hãy làm những việc gì ta phán bảo, vì ta là một Đại Hoàng Tử trong cõi đời này!
Tiếc thay cho vị đại Hoàng Tử tự phong là gặp nhằm vị trụ trì không phải là người điềm đạm, nên ra lệnh trừng phạt một cách nặng nề. Vì quá nhục nhã nên ông ta phát điên lên và cũng từ đó vị Đại Hoàng Đế ảo tưởng này biến thành một nhà sư khùng bất trị.
Đến đây Minh Sư nhìn tôi trong phút giây đoạn lên tiếng tiếp:
- Giáo lý nhân quả nhằm vào đạo đức. Chẳng những vậy, nó còn bao hàm luôn cả về trật tự luân lý nữa. Nếu không có nhân quả chắc chắn thế giới vật lý này sẽ bị đảo lộn. Luật nhân quả cho thấy những việc làm tốt của một cá nhân sẽ làm tăng thêm phần phước đức cho toàn thể mọi người.
Còn trái lại việc làm xấu chẳng những làm hỏng cho cá nhân mình như ông sư Miến Điện này, mà còn gây phương hại cho toàn thể nhân loại. Nhưng đó là chuyện ông nhà sư khùng, còn với chú thì không vậy. Điều cần thiết là lúc nào chú cũng phải bình tĩnh, dù gặp nguy hiểm đến đâu cũng vậy.
Đừng hốt hoảng, bằng không sự sợ hãi đó sẽ làm phương hại chẳng những đến công trình hoạt động trong cuộc sống hiện hữu mà còn ngăn chặn cả sự tiến hóa của linh hồn chú. Đó mới là vấn đề quan trọng. Mơ ước hão huyền, mộng ảo triền miên chỉ đưa con người đi vào con đường tà đạo.
Nếu cứ để tâm tư mình chìm đắm vào vòng mộng tưởng mông lung không tránh khỏi xa lìa thực tế, bỏ phế chánh đạo để chạy theo tà đạo gây nên bao cảnh đau thương tang tóc. Đừng bao giờ để lòng ham muốn của mình lạc lõng vào những mơ ước tầm thường khiến cho thể quang phải mờ ám.
Thế giới này đã là ảo ảnh thì mọi điều trên thế gian này đâu phải là thực? Không phải là thực thì mọi cám dỗ của nó không thể nào lôi cuốn ta đi vào con đường lầm lạc được. Có phải thế không Lỗ San?
Lời của Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt đã làm tôi suy nghĩ nhiều. Đối với nhà sư Miến Điện kia, ông ta muốn được cùng tu hành và chung sống dưới mái ấm của Thiền Viện, tại sao các bậc Lạt Ma Tối Cao không giúp đỡ ông ta tỉnh ngộ lại trở về với đạo hạnh?
Tôi ngẩng mặt lên nhìn Minh Sư lên tiếng:
- Thưa thầy, tại sao chúng ta lại làm ngơ trước sự lầm đường lạc lối của nhà sư Miến Điện này?
- Chúng ta chỉ được phép giúp đỡ những người nào đáng được sự giúp đỡ mà thôi.
- Con muốn được hiểu làm sao phân biệt được người nào cần được giúp đỡ và người nào lại không được hưởng ân huệ đó?
- Môn "Bí Pháp Thần Lực" đã ghi rõ ràng là đối với những người không muốn hưởng được sự giúp đỡ sẽ không đủ điều kiện để được chúng ta chu toàn. Chúng ta không dùng khả năng sử dụng bí pháp để hưởng nhận sự khen thưởng, mà chỉ áp dụng "Bí Pháp Thần Lực" để làm tăng trưởng trên đường tu hành hầu tiến đến sự "Thăng Hoa Viên Mãn".
Bí Pháp Thần Lực chẳng những giúp cho loài người thêm phần tăng trưởng mà còn bao gồm cả thế giới sinh vật trong khắp vũ trụ bao la này.
Đến đây, Minh Sư bỗng im lặng đưa mắt nhìn ra bên ngoài như tuồng để tiếp nhận luồng điện thần giao cách cảm nào đó đưa lại. Giây lâu sau, Minh Sư mới quay lại nhìn tôi tiếp tục giảng giải:
- Rồi đây, chú sẽ chứng kiến biết bao nhiều chuyện mà chú không ngờ tới. "Con Mắt Thứ Ba" của chú sẽ được mở rộng hơn lên. Chú sẽ được các vị Lạt Ma thuộc hàng siêu việt truyền đạt cho chú các bí pháp nhiệm mầu.
Chú sẽ nhìn tận mắt lắm cảnh tượng khiến chú chán ngán cho nhân tình thế thái. Chú sẽ thấy cảnh "ném tiền" để được gọi là lòng từ bi bác ái của những kẻ cao sang quyền quý, giàu tiền lắm bạc Và chú cũng sẽ được nhìn thấy những bào thai đang mang tật nguyền ngay trong lòng mẹ chúng, cùng những con người hiền lương đang sống trong cảnh an lành bỗng dưng điên cuồng đau khổ!
Người nắm lấy tay tôi hạ thấp giọng:
- Lỗ San à! Đời sống không bằng phẳng như mặt nước hồ thu mà nó đầy cả chông gai, cạm bẫy. Một ngày đẹp trời nào đó chú sẽ gặp được một y sĩ tài ba, nhưng chú sẽ làm cho người y sĩ này sẽ phải kinh hoàng vì chính ngay thần lực của chú.
Chú sẽ được nhìn tận mắt những bức tranh "kỳ bí". Chú sẽ được đưa đến "Mật Điện" để tham quan và cũng để thảo luận một vài vấn đề "Bí mật hơn những điều bí mật" về một nhà sư nổi tiếng tại nơi này.
Đó là Đức Marfata sẽ nói những gì về về tỉnh thành Calcutta của xứ Ấn. Cũng tại nơi này chú sẽ nhìn thấy tận mắt cái "Hố Đen" kỳ quái và chính chú trở thành vị tiên tri khiến cho mọi người phải sửng sốt. Chú ngạc nhiên ư ? Chẳng có gì đáng phải ngạc nhiên riêng đối với chú.
Đến đây, người nắm chặt lấy tay tôi:
- Ôi! Lỗ San ơi! Chú sẽ còn chứng kiến lắm sự bí ẩn ví như, chú sẽ thấy cái máy nhìn "nhân thể quang" máy này dùng cho những kẻ không có nhãn thông. Chú sẽ chứng kiến và học hỏi được lối áp dụng về nguyên tắc tha phách (Heterodyme) phối hợp.
Nhờ đó chú sẽ phân biệt được tính tình con người qua màu sắc của thể quang. Chú sẽ đo được sự rung chuyển của tất cả mọi cảnh giới hiện hữu trong vũ trụ kể cả tốc độ chuyển vận của một con người.
Chú sẽ nhìn thấy được các vị thần hộ mệnh cũng như những linh hồn đã thoát vòng u muội cùng những hình ảnh trong A Lại Da Tàng Thức. Đặc biệt là nơi này chú sẽ được giữ nhiệm vụ lau chùi kinh sách.
Chú sẽ biết lý luận về đường tình ái và sự cần thiết của đời sống con người. Chú sẽ nhìn được "Đức Ông và Đức Bà" ở trên Địa Cầu này cùng sự khắng khít giữa hai linh hồn luôn quấn quýt bên nhau giữa khoảng không gian vô định.
Minh Sư Minh Dà Đông Đạt thao thao bất tận. Còn tôi thì hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác mở mắt thao láo nhìn không bỏ sót một lời nói nào của người.
- Lỗ San! Quả thật chú có diễm phúc. Rồi đây, ta sẽ đưa chú đến Ngọc Báu Linh Nga (Norbu Linga) còn được gọi là Kim Ngọc Viên, nơi có muôn hồng nghìn sắc, có dòng sông hạnh phúc trong lành. Chú sẽ được lý luận về người đàn bà và sẽ nhận thấy ý thức của loài vật chẳng khác gì loài người chúng ta, cũng ưu tư, cũng nôn nóng, cũng biết sống bên nhau, cùng chia bùi xẻ ngọt, an ủi nhau khi vui buồn hay tủi hận.
Đến đây thầy tôi quay lại về vấn đề kinh kệ:
- Chú sẽ có một lý luận mới về Kinh Hoa Nghiêm và thuộc nó từng dòng, từng chữ. Chú sẽ nhìn thấy sự tàn nhẫn của nhà sư giáo sư dạy về tu luyện và chú sẽ có được một khoa thôi miên toàn hảo. Cuối cùng chú sẽ nhận thấy kỷ luật là con đường tốt nhất đưa ta đến chỗ thành công trọn vẹn.
Rồi một ngày không xa mấy, chú sẽ được đưa đến Trùng Khánh nơi mà ta có lần tiết lộ với chú trong những năm tháng sắp đến. Chú sẽ học được nhiều điều hay nơi đó.
Tôi cảm thấy như trước mắt mình là cả một phương trời tràn đầy ánh sáng. Niềm ước mơ càng lúc càng làm cho tôi rạo rực.
- Người ta tìm đến xứ sở Tây Tạng không phải chỉ để học nặn tượng, học đọc kinh, mà họ cần phải học những thứ gì trong tinh thể cảnh giới sau khi ta rời khỏi trái đất này. Như chú đã biết, thế giới mà chúng ta đang tạm trú này chỉ là ảo ảnh, nhưng chính ở chốn ảo ảnh này lại rất hữu ích cho việc học.
Càng học càng phải chịu đựng những cảnh khó khăn, và cũng vì vậy chúng ta phải học để thấu triệt những nỗi khó khăn đó.
Thầy tôi mỉm cười:
- Chú có ngại khó khăn không, hả Lỗ San?
- Thưa thầy, con đã chấp nhận ngay từ tấm bé thì mọi sự khó khăn đến mấy cũng chẳng dễ gì lay chuyển được ý chí tu hành của con được.
- Thầy rất khâm phục ý chí của chú. Chú hãy nhận nơi đây lời khen tặng chân thành của ta.
#21
Gửi vào 06/06/2011 - 22:23
CHƯƠNG CUỐI
NHỮNG THÂY MA TRONG LỖ ĐEN VŨ TRỤ
Rồi đây chú sẽ có dịp đến khu La Nhĩ Áp (Ragyab) Khu mà tất cả những xác chết được phân ra từng khúc vứt ra khắp mọi nẻo đường để cho đám kên kên kêu réo nhau đến cùng nhau xâu xé. Có lẽ chú không khỏi ngạc nhiên khi nghe ta nói đến câu chuyện khó tin nhưng có thật này.
- Đừng ngạc nhiên gì cả. Đây là một nhu cầu cần thiết như trăm nghìn các nhu cầu khác. Vùng Lạt Sa toàn sỏi đá, đất rắn đến độ khó lòng đào huyệt để chôn xác người chết được. Vả lại như chú biết, Tây Tạng là một xứ lạnh, thi thể con người khi được chôn xuống sẽ bị đông cứng lại, không thể nào tiêu đi được. Xác không tiêu hủy được là một điều tối kỵ.
Như chú biết đó, thi thể của con người là một cái vỏ được đắp lên bằng vật chất biểu hiện cho chiếc áo khoác bên ngoài của linh hồn. Tôi sực nhớ lại lời của người bạn Nhật, anh Ikuta đã nói anh từng nhìn thấy bóng dáng của linh hồn, và tôi kể đầu đuôi câu chuyện lại cho Minh Sư Minh Dà Đông Đạt:
- Bạn con, Ikuta có lần vui miệng thuật lại cho con nghe, chính mắt anh ấy đã từng nhìn thấy những hình ảnh của linh hồn hiện lên và xuyên qua các tường đá một cách chẳng có một mảy may nào khó khăn cả.
Anh ấy bảo các bức tường đá chỉ là sự cấu tạo của các tế bào rung chuyển. Một khi các tế bào di chuyển rung động tạo ra các kẽ hở ở giữa hai tế bào tách rời nhau ra. Nhờ vậy mà các linh hồn có thể xuyên qua tường đá một cách dễ dàng như ta ra vào các cửa nẻo của một ngôi nhà ta đang ở vậy.
- Đúng! Đúng thế Lỗ San ạ! Ikuta bạn của chú có lý. Nó là sự thật. Linh thể đi xuyên qua bức tường đá không có gì trở ngại cả. Rồi một ngày nào đó chú sẽ nhìn thấy hình dạng của tổ tiên ta sống hàng bao nhiêu thế kỷ trong Cổ Hiền Thạch Động, họ là những người sống thật bằng xương, bằng thịt chứ không phải là linh hồn.
Họ các bậc tổ tiên của chúng ta đó có thể xuyên qua các bức tường đá như các linh ảnh mà chú từng nhìn thấy. Chú sẽ thấy những bậc tổ tiên sống hàng bao nhiêu trăm năm ấy không như những ông cụ của chúng ta còn ở giữa trần gian này có những mái tóc bạc phơ, cùng những chòm râu bạc phếu, lưng còng gối mỏi, da dẻ nhăn nheo.
Mà các đấng tổ tiên này là những trang anh tuấn da dẻ hồng hào, có thể khiến chú có ý nghĩ họ còn nhỏ hơn cả chính chú nữa Không. Đó là các cụ tổ tiên của chúng ta đã từng sống hàng bao thế kỷ. Họ là những người không chết! Không bao giờ chết. Chú có tin không ?
Tôi ngắt ngang lời Minh sư hỏi:
- Các bậc tiền nhân ấy không bị lão hóa sao, thưa thầy?
- Không. Họ có bí pháp giữ nguyên được lớp vỏ vật chất bên ngoài.
- Bí pháp? Đó là bí pháp gì, thưa Minh sư?
- Bí Pháp Thần Lực. Chính bí pháp này đã giúp cho các bậc tiền nhân ấy sống mãi đến ngày nay trong Cổ Hiền Thạch Động và ngay cả trong Động Hoa Vàng có dịp ta sẽ giảng giải cho chú. Chú sẽ nhìn thấy các bậc tiền nhân hiếm hoi này chợt biến, chợt hiện và họ cũng sinh hoạt như những người ở giữa thế gian này.
Với các bậc tổ tiên đó không như các linh ảnh chập chờn biến hóa mà họ còn mang luôn cái vỏ được tạo dựng nên bằng các tế bào vật chật bên ngoài, nhưng đối với họ thì chẳng có gì có thể ngăn cản họ được trong khi di chuyển.
- Thưa Minh sư, chẳng lẽ người nào cũng tươi trẻ cùng một mức độ như nhau sao?
- Không. Mức độ già trẻ tùy theo ngày đắc đạo.
Đôi mắt thầy tôi đăm chiêu trong giây lâu, đoạn tiếp tục giảng giải :
- Không phải ở giữa khoảng không gian mênh mông kia chỉ là một khối trống rỗng, mà nó cũng là kết tinh của hằng hà sa số những tế bào khinh khí kếp hợp lại. Chú đừng nghĩ rằng các tế bào này hoàn toàn bí mật từ chiều rộng và luôn cả trọng lượng của nó khó lòng đo lường được
- Có nghĩa là họ có thể đo lường được cả linh ảnh sao?
- Đúng vậy. Người ta có thể đo đạt cũng như trắc lượng được về sự hiện hữu của các hồn ma đang lẩn quất ở giữa không gian này. Con người có thể làm được những gì trái với qui luật thiên nhiên mà không phạm điều tội lỗi.
Như ta đã từng giảng giải về vấn đề làm mất hẳn trọng lực của con người để bay đi đây đó, chẳng khác nào các linh ảnh mà chú đã từng gặp ở tại ngay dãy Hy Mã Lạp Sơn Huyền Nhiệm này.
Không phải đợi mãi đến cuối thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ 21, nền văn minh nhân loại mới đạt đến đỉnh cao chói lọi, mà nó đã có từ ngàn xưa, ngay trong thời đại con người còn nằm trong trạng huống gần như u muội.
Ta nói thế, không phải là quá quắt, mà đó là sự thật. Nền văn minh lúc bấy giờ đã âm thầm trải qua những bước nhảy vọt đột biến trên lĩnh vực khoa học một cách thần kỳ. Câu chuyện Phong Thần của Trung Quốc, không phải là chuyện giả tưởng, giàu sức tưởng tượng, mà ta có thể xác quyết rằng đó là sự thật.
Sở dĩ, sau một thời kỳ cực thịnh lúc bấy giờ thì tất cả những phát minh mặc dù là phát minh trên phương pháp lý thuyết chứ không bằng vào kỹ thuật. Loài người thời cổ đại đã phát hiện ra không ít các quy luật của tự nhiên tuần tự tiến triển với quy luật của xã hội cùng tư duy của con người.
Điều chắc chắn rằng không phải đợi đến thời đại tân tiến hiện đại con người mới phát giác ra giới động thực vật như từ loài khủng long khổng lồ có sức nặng đến hàng chục tấn đến những loài vi khuẩn cần phải phóng đại ra hàng vạn lần mới nhận diện được.
Hoặc giả phải chờ cho đến khi có vết chân của con người in dấu trên mặt nguyệt cầu, hay các phi thuyền không gian vượt thời gian và không gian để chiêm ngưỡng sao Hỏa, sao Thủy, sao Mộc .. mới biết được. Loài người cổ đại đã biết sử dụng bằng trí não và nguồn điện năng của chính bản thân mình để nhìn thấy và thực hiện được từng phần từ bao giờ rồi.
Hiện con người của thế kỷ 21 này đang còn liên tục khám phá các thiên
thể trong dải Ngân Hà. Loài người tuy bước tiến chậm chạp song vững chắc, thành công được trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, tiếc thay thế giới chung quanh chúng ta hiện hữu, các nhà khoa học vẫn còn ngỡ ngàng nhiều điều bí ẩn, hiện nay vẫn còn chưa lý giải được những khả năng tiềm tàng vĩ đại của con người.
Nói đến đây thầy tôi thở dài hạ thấp giọng:
- Thật thế, Lỗ San à! Con người từ ngàn xưa có thể tìm thấy và lần ra những bí ẩn của các phép Xuất Hồn, hoặc phép Khinh Thân qua các pho kinh sách vĩ đại như Kinh dịch,Thái Ất thần kinh của Trung Hoa, hoặc qua các môn phái Thiền học tĩnh tọa, Yoga xuất phát từ hàng ngàn năm trước tại Ấn Độ.
Các môn phái Thiền học này quả không hổ thẹn đã đưa con người đạt đến trình độ cực kỳ thâm hậu nhất của tư tưởng Samadhi và từ đó vươn đến mức thượng thừa đưa con người đến với các bí mật của vũ trụ.
- Thưa Minh sư, nói như vậy, hóa ra con người có thể sánh với thần thánh hay sao?
- Thần hay thánh đều từ con người xuất phát.
- Do đâu mà con người đạt đến trình độ đến như vậy được?
- Nếu con người quả có Nhân duyên, Nhân quả có thể đạt đến Bát thức và Vô lượng thức, do đó mà thân xác họ có thể hòa đồng được với Vũ trụ vô hình,vô ảnh.
Và, như ta đã nói vị Thiền sư đã vượt qua trùng dương, bể cả từ Trung Quốc trở về xứ sở của mình bằng bí pháp Phi Thân thoát khỏi sức hút của trái đất qua sự điều khiển thế giới chung quanh mình bằng linh giác và bằng trí năng thượng thừa của mình.
- Thưa thầy, nói như vậy thì đó là kho tàng di sản của nền văn hóa vĩ đại của con người thời xa xưa đã tích lũy được qua hàng vạn năm âm thầm vận động, chiêm nghiệm sao?
- Thì chính là như vậy.
Nói xong người đưa mắt nhìn ra ngoài trời. Bóng đêm đã hoàn toàn buông xuống. Trời tối đen như mực. Khẽ thở dài, người nói qua hơi thở:
- Lại một người ra đi. Tội nghiệp.
- Thưa thầy, ai thế?
Người không đáp lại chỉ lặng lẽ dắt tay tôi đến sườn đồi nhìn xuống chân núi. Qua thần giao cách cảm, tôi biết người vừa ra đi đó là ai. Hai mắt chan hòa cả lệ, nhưng tôi không dám khóc ra thành tiếng.
- Lại một người ra đi! Người đó là nhà sư Kenji Tekeuchi!
- Nói đến đây người lặng lẽ đưa tay chỉ đến nơi đang lố nhố một đám đông mà tôi không thể nhận rõ là họ đang làm gì.
- Đám đông người lố nhố phía dưới chân núi đó là đám tang của nhà sư Kenji Tekeuchi mà chú từng quen biết.
- Thầy tôi bỗng quì xuống, ngửa mặt nhìn lên trời. Tôi lập tức quì theo ngay xuống và làm y theo động tác của thầy tôi.
Bằng giọng trầm trầm thầy tôi thì thầm:
- Ôi! Hỡi ông Tekeuchi, xác ông đã được mang xuống núi, còn linh hồn ông đang phiêu diêu đây đó ở giữa khoảng không gian mênh mông vô tận. Bắt đầu từ nay hồn thiêng ông đang lặng lẽ bay trên con đường râm mát thơm tho lan tràn cùng khắp. Ông bạn ơi! Hãy quên đi những lỗi lầm đáng tiếc mà ông đã phạm phải
! Đấng Huyền Nhiệm sẽ tha thứ cho ông.
Tôi đăm đăm dõi theo đám tang đang được di chuyển quanh theo sườn núi. Nước mắt tôi vẫn tuôn trào và cuối cùng không còn cầm được nỗi xúc động nữa, tôi bật khóc thành tiếng.
Tiếng gió từ cánh rừng sâu thổi lại khiến hàng cây phong trước mắt tôi lay động phát ra âm thinh rì rào. Chẳng biết vì xúc động trước cái chết của nhà sư này hay mắt mình bị ảo giác tôi chợt nhìn thấy hình ảnh của người quá cố đang chập chờn hiện ra trước mắt. Chẳng những vậy, tôi còn nghe cả giọng tha thiết của nhà sư Tekeuchi vẳng vọng đến tai tôi:
- Lỗ San! Ta vâng theo định mệnh ra đi vĩnh viễn khỏi cuộc đời này. Ta cám ơn chú đã khóc thương cho số phận ta. Cảm ơn chú rất nhiều khi ta còn trên dương thế, chú và ta đã truyền cảm cho nhau. Chúng mình sẽ gặp nhau vào một kiếp khác cũng vào một ngày đẹp trời nào đó như hôm nay Thôi đừng khóc nữa Lỗ San.
Hôm sau, Minh Sư Minh Dà Đông Đạt lại đưa tôi đến ngay ngọn núi mà trước kia chúng tôi từng ngồi đưa mắt vọng nhìn qua bên kia rặng núi có Cổ Hiền Thạch Động:
- Ta nghĩ rằng nhà sư Nhật Bản kia đang đi vào cái lỗ đen ở tận khoảng không gian mênh mông vô cùng tận đó. Cái lỗ đen rộng lớn vô cùng kia chính là nghĩa địa của những linh hồn lầm lẫn. Linh hồn nhà sư sẽ vĩnh viễn ở nơi đây xoay chuyển liên hồi không bao giờ đứng nguyên một chỗ. Chú còn nhớ cái lỗ đen nơi tấm kiếng trong Cổ Hiền Thạch Động không?
Tôi ngẫm nghĩ trong giây lâu đoạn gật đầu:
- Thưa thầy con nhớ. Đó là một lỗ hổng đen như mực mài.
Thầy tôi gật đầu:
- Đúng như vậy.
(Các nhà thiên văn của Viện Thiên Văn Học Cambridge (Anh) đã có dịp quan sát vật chất ở tâm của thiên hà cách chúng ta 100 triệu năm ánh sáng bị hút về một lỗ đen cực kỳ to lớn. Khoảng cách từ các vật chất đến lỗ đen bằng cả khoảng cách từ hành tinh chúng ta đến mặt trời.
Thông thường phải mất cả một năm các vật chất bị hút mới đến được lỗ đen, nhưng với sức hút của lỗ đen chỉ mất có 6 tiếng đồng hồ vì lực hút cực mạnh của lỗ đen này đã tăng thêm đến ba phần tư tốc độ.
Các nhà khoa học có thể tính toán được khối lượng của lỗ đen này bằng kết hợp các phép tính năng lượng của ánh sáng, khoảng cách của các vật chất đến lỗ đen và thời gian chúng bị hút về rồi quay quanh lỗ đen, sự kết hợp giữa thuyết tương đối của Einstein và các thuyết vật lý của Keplerian.
Thiên hà này có tên là NGC 3516, cách chúng ta khoảng 100 triệu năm ánh sáng. Bên sau thiên hà là một lỗ đen cực kỳ rộng lớn. Các luồng khí nóng ở vùng trung tâm bức xạ ra các tia X như thể chúng nóng đến hàng triệu độ dưới tác động của lực hấp dẫn của lỗ đen.
Tàu vũ trụ XMM-NEWTON đã bắt được các quang phổ từ ánh sáng phát ra quanh lỗ đen và cũng ghi nhận được rằng các luồng khí bị kích thích quay quanh lỗ đen 4 lần. Đây là một thông tin thiết yếu để tính được khối lượng của lỗ đen biểu tượng của cái nghĩa địa ở ngoài không gian.
Dựa vào các thông tin khác về khoảng cách, thời gian quay chung quanh mà các nhà khoa học đã tính được khối lượng của lỗ đen này nó gấp từ 10 đến 50 triệu lần khối lượng của mặt trời.)
Quên cả thầy tôi đang ngồi bên cạnh, tôi áp dụng bí pháp Xuất Hồn để cho Linh Thân mình thoát ra phần thể xác. Tôi nhẹ nhàng băng xuống chân núi rồi nối đuôi theo đám người đang lặng lẽ đi theo áo quan của nhà sư Tekeuchi.
Chẳng có tiếng động nào, duy chỉ tiếng của những bước chân đi. Chẳng một ai biết có tôi đang theo dòng người của họ.
Tôi lắp bắp trong miệng: Ông Kenji Tekeuchi ơi! Ông có gặp các vị thần có nhiệm vụ trông nom những người đang quằn quại đau thương ở cõi trần này không? Nếu có xin ông nhắn hộ lời tôi đến với các vị thần linh ấy rằng, họ vẫn chưa làm tròn trọng trách của mình, vì chưng thế gian này vẫn còn dẫy đầy nỗi tang thương và còn ngập tràn khổ hạnh.
NHỮNG THÂY MA TRONG LỖ ĐEN VŨ TRỤ
Rồi đây chú sẽ có dịp đến khu La Nhĩ Áp (Ragyab) Khu mà tất cả những xác chết được phân ra từng khúc vứt ra khắp mọi nẻo đường để cho đám kên kên kêu réo nhau đến cùng nhau xâu xé. Có lẽ chú không khỏi ngạc nhiên khi nghe ta nói đến câu chuyện khó tin nhưng có thật này.
- Đừng ngạc nhiên gì cả. Đây là một nhu cầu cần thiết như trăm nghìn các nhu cầu khác. Vùng Lạt Sa toàn sỏi đá, đất rắn đến độ khó lòng đào huyệt để chôn xác người chết được. Vả lại như chú biết, Tây Tạng là một xứ lạnh, thi thể con người khi được chôn xuống sẽ bị đông cứng lại, không thể nào tiêu đi được. Xác không tiêu hủy được là một điều tối kỵ.
Như chú biết đó, thi thể của con người là một cái vỏ được đắp lên bằng vật chất biểu hiện cho chiếc áo khoác bên ngoài của linh hồn. Tôi sực nhớ lại lời của người bạn Nhật, anh Ikuta đã nói anh từng nhìn thấy bóng dáng của linh hồn, và tôi kể đầu đuôi câu chuyện lại cho Minh Sư Minh Dà Đông Đạt:
- Bạn con, Ikuta có lần vui miệng thuật lại cho con nghe, chính mắt anh ấy đã từng nhìn thấy những hình ảnh của linh hồn hiện lên và xuyên qua các tường đá một cách chẳng có một mảy may nào khó khăn cả.
Anh ấy bảo các bức tường đá chỉ là sự cấu tạo của các tế bào rung chuyển. Một khi các tế bào di chuyển rung động tạo ra các kẽ hở ở giữa hai tế bào tách rời nhau ra. Nhờ vậy mà các linh hồn có thể xuyên qua tường đá một cách dễ dàng như ta ra vào các cửa nẻo của một ngôi nhà ta đang ở vậy.
- Đúng! Đúng thế Lỗ San ạ! Ikuta bạn của chú có lý. Nó là sự thật. Linh thể đi xuyên qua bức tường đá không có gì trở ngại cả. Rồi một ngày nào đó chú sẽ nhìn thấy hình dạng của tổ tiên ta sống hàng bao nhiêu thế kỷ trong Cổ Hiền Thạch Động, họ là những người sống thật bằng xương, bằng thịt chứ không phải là linh hồn.
Họ các bậc tổ tiên của chúng ta đó có thể xuyên qua các bức tường đá như các linh ảnh mà chú từng nhìn thấy. Chú sẽ thấy những bậc tổ tiên sống hàng bao nhiêu trăm năm ấy không như những ông cụ của chúng ta còn ở giữa trần gian này có những mái tóc bạc phơ, cùng những chòm râu bạc phếu, lưng còng gối mỏi, da dẻ nhăn nheo.
Mà các đấng tổ tiên này là những trang anh tuấn da dẻ hồng hào, có thể khiến chú có ý nghĩ họ còn nhỏ hơn cả chính chú nữa Không. Đó là các cụ tổ tiên của chúng ta đã từng sống hàng bao thế kỷ. Họ là những người không chết! Không bao giờ chết. Chú có tin không ?
Tôi ngắt ngang lời Minh sư hỏi:
- Các bậc tiền nhân ấy không bị lão hóa sao, thưa thầy?
- Không. Họ có bí pháp giữ nguyên được lớp vỏ vật chất bên ngoài.
- Bí pháp? Đó là bí pháp gì, thưa Minh sư?
- Bí Pháp Thần Lực. Chính bí pháp này đã giúp cho các bậc tiền nhân ấy sống mãi đến ngày nay trong Cổ Hiền Thạch Động và ngay cả trong Động Hoa Vàng có dịp ta sẽ giảng giải cho chú. Chú sẽ nhìn thấy các bậc tiền nhân hiếm hoi này chợt biến, chợt hiện và họ cũng sinh hoạt như những người ở giữa thế gian này.
Với các bậc tổ tiên đó không như các linh ảnh chập chờn biến hóa mà họ còn mang luôn cái vỏ được tạo dựng nên bằng các tế bào vật chật bên ngoài, nhưng đối với họ thì chẳng có gì có thể ngăn cản họ được trong khi di chuyển.
- Thưa Minh sư, chẳng lẽ người nào cũng tươi trẻ cùng một mức độ như nhau sao?
- Không. Mức độ già trẻ tùy theo ngày đắc đạo.
Đôi mắt thầy tôi đăm chiêu trong giây lâu, đoạn tiếp tục giảng giải :
- Không phải ở giữa khoảng không gian mênh mông kia chỉ là một khối trống rỗng, mà nó cũng là kết tinh của hằng hà sa số những tế bào khinh khí kếp hợp lại. Chú đừng nghĩ rằng các tế bào này hoàn toàn bí mật từ chiều rộng và luôn cả trọng lượng của nó khó lòng đo lường được
- Có nghĩa là họ có thể đo lường được cả linh ảnh sao?
- Đúng vậy. Người ta có thể đo đạt cũng như trắc lượng được về sự hiện hữu của các hồn ma đang lẩn quất ở giữa không gian này. Con người có thể làm được những gì trái với qui luật thiên nhiên mà không phạm điều tội lỗi.
Như ta đã từng giảng giải về vấn đề làm mất hẳn trọng lực của con người để bay đi đây đó, chẳng khác nào các linh ảnh mà chú đã từng gặp ở tại ngay dãy Hy Mã Lạp Sơn Huyền Nhiệm này.
Không phải đợi mãi đến cuối thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ 21, nền văn minh nhân loại mới đạt đến đỉnh cao chói lọi, mà nó đã có từ ngàn xưa, ngay trong thời đại con người còn nằm trong trạng huống gần như u muội.
Ta nói thế, không phải là quá quắt, mà đó là sự thật. Nền văn minh lúc bấy giờ đã âm thầm trải qua những bước nhảy vọt đột biến trên lĩnh vực khoa học một cách thần kỳ. Câu chuyện Phong Thần của Trung Quốc, không phải là chuyện giả tưởng, giàu sức tưởng tượng, mà ta có thể xác quyết rằng đó là sự thật.
Sở dĩ, sau một thời kỳ cực thịnh lúc bấy giờ thì tất cả những phát minh mặc dù là phát minh trên phương pháp lý thuyết chứ không bằng vào kỹ thuật. Loài người thời cổ đại đã phát hiện ra không ít các quy luật của tự nhiên tuần tự tiến triển với quy luật của xã hội cùng tư duy của con người.
Điều chắc chắn rằng không phải đợi đến thời đại tân tiến hiện đại con người mới phát giác ra giới động thực vật như từ loài khủng long khổng lồ có sức nặng đến hàng chục tấn đến những loài vi khuẩn cần phải phóng đại ra hàng vạn lần mới nhận diện được.
Hoặc giả phải chờ cho đến khi có vết chân của con người in dấu trên mặt nguyệt cầu, hay các phi thuyền không gian vượt thời gian và không gian để chiêm ngưỡng sao Hỏa, sao Thủy, sao Mộc .. mới biết được. Loài người cổ đại đã biết sử dụng bằng trí não và nguồn điện năng của chính bản thân mình để nhìn thấy và thực hiện được từng phần từ bao giờ rồi.
Hiện con người của thế kỷ 21 này đang còn liên tục khám phá các thiên
thể trong dải Ngân Hà. Loài người tuy bước tiến chậm chạp song vững chắc, thành công được trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, tiếc thay thế giới chung quanh chúng ta hiện hữu, các nhà khoa học vẫn còn ngỡ ngàng nhiều điều bí ẩn, hiện nay vẫn còn chưa lý giải được những khả năng tiềm tàng vĩ đại của con người.
Nói đến đây thầy tôi thở dài hạ thấp giọng:
- Thật thế, Lỗ San à! Con người từ ngàn xưa có thể tìm thấy và lần ra những bí ẩn của các phép Xuất Hồn, hoặc phép Khinh Thân qua các pho kinh sách vĩ đại như Kinh dịch,Thái Ất thần kinh của Trung Hoa, hoặc qua các môn phái Thiền học tĩnh tọa, Yoga xuất phát từ hàng ngàn năm trước tại Ấn Độ.
Các môn phái Thiền học này quả không hổ thẹn đã đưa con người đạt đến trình độ cực kỳ thâm hậu nhất của tư tưởng Samadhi và từ đó vươn đến mức thượng thừa đưa con người đến với các bí mật của vũ trụ.
- Thưa Minh sư, nói như vậy, hóa ra con người có thể sánh với thần thánh hay sao?
- Thần hay thánh đều từ con người xuất phát.
- Do đâu mà con người đạt đến trình độ đến như vậy được?
- Nếu con người quả có Nhân duyên, Nhân quả có thể đạt đến Bát thức và Vô lượng thức, do đó mà thân xác họ có thể hòa đồng được với Vũ trụ vô hình,vô ảnh.
Và, như ta đã nói vị Thiền sư đã vượt qua trùng dương, bể cả từ Trung Quốc trở về xứ sở của mình bằng bí pháp Phi Thân thoát khỏi sức hút của trái đất qua sự điều khiển thế giới chung quanh mình bằng linh giác và bằng trí năng thượng thừa của mình.
- Thưa thầy, nói như vậy thì đó là kho tàng di sản của nền văn hóa vĩ đại của con người thời xa xưa đã tích lũy được qua hàng vạn năm âm thầm vận động, chiêm nghiệm sao?
- Thì chính là như vậy.
Nói xong người đưa mắt nhìn ra ngoài trời. Bóng đêm đã hoàn toàn buông xuống. Trời tối đen như mực. Khẽ thở dài, người nói qua hơi thở:
- Lại một người ra đi. Tội nghiệp.
- Thưa thầy, ai thế?
Người không đáp lại chỉ lặng lẽ dắt tay tôi đến sườn đồi nhìn xuống chân núi. Qua thần giao cách cảm, tôi biết người vừa ra đi đó là ai. Hai mắt chan hòa cả lệ, nhưng tôi không dám khóc ra thành tiếng.
- Lại một người ra đi! Người đó là nhà sư Kenji Tekeuchi!
- Nói đến đây người lặng lẽ đưa tay chỉ đến nơi đang lố nhố một đám đông mà tôi không thể nhận rõ là họ đang làm gì.
- Đám đông người lố nhố phía dưới chân núi đó là đám tang của nhà sư Kenji Tekeuchi mà chú từng quen biết.
- Thầy tôi bỗng quì xuống, ngửa mặt nhìn lên trời. Tôi lập tức quì theo ngay xuống và làm y theo động tác của thầy tôi.
Bằng giọng trầm trầm thầy tôi thì thầm:
- Ôi! Hỡi ông Tekeuchi, xác ông đã được mang xuống núi, còn linh hồn ông đang phiêu diêu đây đó ở giữa khoảng không gian mênh mông vô tận. Bắt đầu từ nay hồn thiêng ông đang lặng lẽ bay trên con đường râm mát thơm tho lan tràn cùng khắp. Ông bạn ơi! Hãy quên đi những lỗi lầm đáng tiếc mà ông đã phạm phải
! Đấng Huyền Nhiệm sẽ tha thứ cho ông.
Tôi đăm đăm dõi theo đám tang đang được di chuyển quanh theo sườn núi. Nước mắt tôi vẫn tuôn trào và cuối cùng không còn cầm được nỗi xúc động nữa, tôi bật khóc thành tiếng.
Tiếng gió từ cánh rừng sâu thổi lại khiến hàng cây phong trước mắt tôi lay động phát ra âm thinh rì rào. Chẳng biết vì xúc động trước cái chết của nhà sư này hay mắt mình bị ảo giác tôi chợt nhìn thấy hình ảnh của người quá cố đang chập chờn hiện ra trước mắt. Chẳng những vậy, tôi còn nghe cả giọng tha thiết của nhà sư Tekeuchi vẳng vọng đến tai tôi:
- Lỗ San! Ta vâng theo định mệnh ra đi vĩnh viễn khỏi cuộc đời này. Ta cám ơn chú đã khóc thương cho số phận ta. Cảm ơn chú rất nhiều khi ta còn trên dương thế, chú và ta đã truyền cảm cho nhau. Chúng mình sẽ gặp nhau vào một kiếp khác cũng vào một ngày đẹp trời nào đó như hôm nay Thôi đừng khóc nữa Lỗ San.
Hôm sau, Minh Sư Minh Dà Đông Đạt lại đưa tôi đến ngay ngọn núi mà trước kia chúng tôi từng ngồi đưa mắt vọng nhìn qua bên kia rặng núi có Cổ Hiền Thạch Động:
- Ta nghĩ rằng nhà sư Nhật Bản kia đang đi vào cái lỗ đen ở tận khoảng không gian mênh mông vô cùng tận đó. Cái lỗ đen rộng lớn vô cùng kia chính là nghĩa địa của những linh hồn lầm lẫn. Linh hồn nhà sư sẽ vĩnh viễn ở nơi đây xoay chuyển liên hồi không bao giờ đứng nguyên một chỗ. Chú còn nhớ cái lỗ đen nơi tấm kiếng trong Cổ Hiền Thạch Động không?
Tôi ngẫm nghĩ trong giây lâu đoạn gật đầu:
- Thưa thầy con nhớ. Đó là một lỗ hổng đen như mực mài.
Thầy tôi gật đầu:
- Đúng như vậy.
(Các nhà thiên văn của Viện Thiên Văn Học Cambridge (Anh) đã có dịp quan sát vật chất ở tâm của thiên hà cách chúng ta 100 triệu năm ánh sáng bị hút về một lỗ đen cực kỳ to lớn. Khoảng cách từ các vật chất đến lỗ đen bằng cả khoảng cách từ hành tinh chúng ta đến mặt trời.
Thông thường phải mất cả một năm các vật chất bị hút mới đến được lỗ đen, nhưng với sức hút của lỗ đen chỉ mất có 6 tiếng đồng hồ vì lực hút cực mạnh của lỗ đen này đã tăng thêm đến ba phần tư tốc độ.
Các nhà khoa học có thể tính toán được khối lượng của lỗ đen này bằng kết hợp các phép tính năng lượng của ánh sáng, khoảng cách của các vật chất đến lỗ đen và thời gian chúng bị hút về rồi quay quanh lỗ đen, sự kết hợp giữa thuyết tương đối của Einstein và các thuyết vật lý của Keplerian.
Thiên hà này có tên là NGC 3516, cách chúng ta khoảng 100 triệu năm ánh sáng. Bên sau thiên hà là một lỗ đen cực kỳ rộng lớn. Các luồng khí nóng ở vùng trung tâm bức xạ ra các tia X như thể chúng nóng đến hàng triệu độ dưới tác động của lực hấp dẫn của lỗ đen.
Tàu vũ trụ XMM-NEWTON đã bắt được các quang phổ từ ánh sáng phát ra quanh lỗ đen và cũng ghi nhận được rằng các luồng khí bị kích thích quay quanh lỗ đen 4 lần. Đây là một thông tin thiết yếu để tính được khối lượng của lỗ đen biểu tượng của cái nghĩa địa ở ngoài không gian.
Dựa vào các thông tin khác về khoảng cách, thời gian quay chung quanh mà các nhà khoa học đã tính được khối lượng của lỗ đen này nó gấp từ 10 đến 50 triệu lần khối lượng của mặt trời.)
Quên cả thầy tôi đang ngồi bên cạnh, tôi áp dụng bí pháp Xuất Hồn để cho Linh Thân mình thoát ra phần thể xác. Tôi nhẹ nhàng băng xuống chân núi rồi nối đuôi theo đám người đang lặng lẽ đi theo áo quan của nhà sư Tekeuchi.
Chẳng có tiếng động nào, duy chỉ tiếng của những bước chân đi. Chẳng một ai biết có tôi đang theo dòng người của họ.
Tôi lắp bắp trong miệng: Ông Kenji Tekeuchi ơi! Ông có gặp các vị thần có nhiệm vụ trông nom những người đang quằn quại đau thương ở cõi trần này không? Nếu có xin ông nhắn hộ lời tôi đến với các vị thần linh ấy rằng, họ vẫn chưa làm tròn trọng trách của mình, vì chưng thế gian này vẫn còn dẫy đầy nỗi tang thương và còn ngập tràn khổ hạnh.
Hết
Thinh Quang
#22
Gửi vào 07/06/2011 - 03:30
XỨ PHẬT HUYỀN BÍ
Quyển Hồi Ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ, không phải được viết ra bởi một ký giả hay văn sĩ ngoại quốc, mà bởi một tác giả nòi giống và cùng một nền giáo dục tâm linh với những người mà ông diễn tả. Nói tóm lại, đây là một quyển sách của một người Yogi viết về những người Yogi.
Dưới hình thức một truyện trường thuật của một nhân vật tiết lộ cho chúng ta biết cuộc đời và những quyền năng lạ lùng của những bậc hiền giả của xứ Ấn. Quyển sách này có một tầm quan trọng rất lớn trong thời gian và ngoài không gian...
Phương Pháp Môn Kriyâ Yoga
Chương Một
Pháp môn Kriyâ Yoga, thường được đề cập đến trong quyển sách này, đã từng được phổ biến rộng rãi ở xứ Ấn Độ nhờ bởi đức Lahiri Mahasaya, vị tôn sư của thầy tôi. Danh từ Kriyâ do Phạm Ngữ Kri, có nghĩa là hành động, và cùng một gốc rễ với danh từ Karma, nguyên lý tự nhiên về nhân quả. Kriyâ Yoga có nghĩa là "Hợp nhất với đấng Vô Cùng do sự trung gian của một nghi thức hay hành động". Người Yogi thực hành đúng đắn pháp môn này sẽ lần lần tự giải thoát khỏi sự trói buộc của nghiệp quả.
Theo một nguyên tắc cổ xưa có tự nghìn đời về trước, tôi không thể tiết lộ trọn cả pháp môn Kriyâ Yoga trong một quyển sách dành cho đại chúng. Chỉ có người đạo sĩ Kriyâ Yogi mới có thẩm quyền truyền dạy pháp môn này, mà tôi sẽ trình bày dưới những nét đại cương.
Pháp môn Kriyâ Yoga là một phương pháp giản dị về cả hai mặt tâm linh và thể chất, giúp cho con người bài tiết chất thán khí của cơ thể ra ngoài và tiếp thêm dưỡng khí vào máu. Những nguyên tử dưỡng khí phụ trội sẽ chuyển thành một luồng sinh khí phục hồi sinh lực cho bộ phận kinh tủy não. (Bác sĩ George W. Crile, nhà Bác học Mỹ nổi tiếng, năm 1940 có trình bày trong một phiên họp của Hội Phát Triển Khoa Học Mỹ, những cuộc thí nghiệm đã giúp cho ông chứng minh rằng tất cả những tế bào trong cơ thể con người đều chứa âm điện, trừ ra những tế bào của óc và thần kinh hệ chứa dương điện bởi vì những tế bào này tiêu thụ chất dưỡng khí mau lẹ hơn.)
Người Yogi có thể trì hoãn, hoặc ngăn ngừa sự già cỗi của các tế bào bằng cách ngăn chặn sự tích tụ của máu đen, những nhà đạo sĩ tiến hóa cao có thể thay đổi các tế bào của họ thành chất tinh lực thuần túy. Elie, Jesus, Kabir và các nhà tiên tri khác đều biết rõ pháp môn Kriyâ hay một pháp môn tương tự có thể giúp các ngài biến thể hay tàng hình tùy theo ý muốn.
Kriya Yoga là một pháp môn rất cổ, mà Lahiri Mahasaya đã thụ giáo của tôn sư Babaji, vị này đã phát hiện và chấn chỉnh lại pháp môn ấy sau nhiều thế kỷ bịđắm chìm trong quên lãng. Babaji đã nói với Lahiri Mahaysaya.
- Pháp môn Kriya Yoga mà Thầy dùng con làm trung gian để truyền bá cho đời vào giữa thế kỷ mười chín này, chính là cái pháp môn mà cách đây nhiều ngàn năm, đức Krishna đã truyền dạy cho Arjuna. Đạo sư Pantanjali, đấng Christ, thánh Jean, thánh Paul và những vị thánh tông đồ khác cũng đã từng biết rõ pháp môn ấy. Krishna, đấng tiên tri lớn nhất Ấn Độ, đã đề cập đến pháp môn Kriyâ Yoga trong một câu thánh kinh Bhhagavad Gita: "Những người khác vận chuyển luồng sinh khí bằng cách điều chỉnh hơi thở ra hít vào, và tập luyện phép khí công Pranâyama".
Câu ấy có nghĩa là: "Người Yogi ngăn chận sự già nua của thể xác bằng cách tiếp thêm luồn sinh khí, và ngăn sự trưởng thành bằng phương tiện bài tiết. Bằng cách hóa giải sự già nua và trưởng thành của thể xác, và điều hòa nhịp độ của quả tim, người Yogi nắm vững cái bí quyết của vấn đề sanh tử".
Krishna cũng nói rằng trong một tiền kiếp, ngài đã truyền dạy pháp môn Yoga bất tử này cho Vivasvat, bật giác ngộ của thời đại cổ, việc này truyền lại cho đức Manu, nhà sáng lập nên luật pháp Ấn Độ. Đức Manu truyền lại cho Ixvâku, nhà sáng lập nên triều đại vương tướng của Ấn Độ. Được truyền khẩu từ thể kỷ này qua thế kỷ khác, pháp môn Yoga này được các đấng Chân Sư gìn giữ trải qua thời gian cho đến kỷ nguyên duy vật. Nhưng vì các vị tăng lữ thời xưa bao trùm nó trong một bức màn bí mật và cũng do bởi sự thản nhiên của người đời, nên rốt cuộc khoa pháp môn thiêng liêng này đã lần lần biến mất.
Đạo sư Pâtanjali viết như sau: "Pháp môn Kriyâ Yoga gồm có: Kỷ luật của xác thân, kiểm soát tư tưởng, và tham thiền về thánh ngữ AUM". Pâtanjali cho rằng Thượng Đế, tức là sự rung động trong vũ trụ của tháng ngữ AUM mà người hành giả nghe được trong cơn tham thiền. AUM tức là danh từ sáng tạo, là tiếng động cơ của vũ trụ. Người hành giả tu luyện Yoga sẽ có lúc nghe được âm thanh văng vẳng của thánh ngữ AUM vang lên từ chỗ sâu thẳm của nội tâm mình. Trong khi y nhận được một sự khích lệ tâm linh như thế, người hành giả biết rằng y đã tiếp xúc với cõi thiêng liêng.
Trong trạng thái tiếp xúc sơ khởi với Thiêng Liêng như vừa kể trên (Savikalpa Samâdkhi), tâm thức của người hành giả đắm chìm trong tâm thức của vũ trụ, nguyền sinh lực thoát ra khỏi xác thân y, làm cho xác thân y có vẻ như chết, cứng đơ, bất động. Người Yogi hoàn toàn ý thức được sự sống chậm lại của thể xác y. Khi y đạt tới trạng thái cao siêu hơn (Nirvikalpa samâdlhi), tâm thức của y hòa hợp với Thiêng Liêng trong khi y vẫn tỉnh táo và hoàn toàn ý thức được mọi việc xảy ra chung quanh mình.
Sri Yukteswar giảng giải cho các đệ tử như sau:
- Pháp môn Kriyâ Yôga là một phương pháp hối thúc sự tiến hóa của con người. Từ thời cổ xưa, các nhà đạo sĩ Yogi đã khám phá ra điều bí mật này, là tâm thức vũ trụ được nối liền chặt chẽ với sự kiểm soát hơi thở, đó là sự góp phần bất hủ và độc đáo của Ấn Độ vào cái kho tàng kiến thức của nhân loại. Nguồn sinh lực của con người, lúc bình thường bị hao tán do bởi sự náo động hằng ngày, phải được gom lại để dùng trong những hoạt động tâm linh cao siêu hơn bằng cách thực hiện hành pháp Yoga làm lắng dịu nhịp độ của hơi thở.
Người Yogi dùng tư tưởng dẫn luồng sinh lực đi theo một đường vòng xuyên qua sáu bí huyệt của tủy xương sống (từ bí huyệt trên đỉnh đầu xuống các bí huyệt ở cuống họng, ở tim, ở rún, ở lá lách và xương mông), rồi đi ngược trở lên, để khép một vòng tròn tương đương với mười hai cung Hoàng Đạo, tượng trưng vũ trụ trong con người (Tiểu thiên địa). Một lần công phu chừng nửa phút đồng hồ vòng quanh xương sống theo pháp môn kriyâ, giúp cho con người thực hiện một sự tiến bộ bằng một năm tiến hóa tâm linh thông thường.
Một lần phép công phu Kriyâ thực hiện trong vòng một ngày đem đến cho người Yogi một sự tiến hóa tâm linh tương đương với một ngàn năm tiến hóa tự nhiên, và công phụ của một năm tu luyện sẽ đưa kết quả bằng 365.000 năm. Như thế, pháp môn Kriyâ Yoga giúp cho người hành giả thực hiện trong ba năm tu luyện công phu, một sự tiến bộ vượt bực mà theo đà tiến hóa tự nhiên, nó phải cần đến 10.000 thế kỷ. Tuy nhiên, muốn theo con đường tắt của pháp môn Kriyâ Yoga, chỉ có những người Yogi đã được huấn luyện thuần thục dưới sự chỉ dẫn của các vị chân sư, nhờ đó học chuẩn bị thể xác lẫn tinh thần đến mức tuyệt đỉnh, khả dĩ tiếp nhận cái quyền năng pháp triển bằng sự công phu tu luyện thường xuyên.
Người sơ cơ mới tập luyện pháp môn Kriyâ chỉ nên tu luyện từ 14 đến hai mươi 28 vào mỗi thời công phu, mỗi ngày hai thời. Thường thì các nhà đạo sĩ Yogi chỉ hoàn tất công phu tu luyện của học trong sáu năm, mười hai năm, hai mươi bốn năm, hay bốn mươi tám năm. Người Yogi chết trước khi đạt được mục đích tối cao sẽ đem theo một căn quả tốt do nơi công phu tu luyện trong quá khứ, và trong kiếp sau, y sẽ có điều kiện tốt để tiếp tục tu luyện cho đến lúc thành công.
Thể xác của một người thường cũng ví như một ngọn đèn 50 Watt, không thể chịu nổi một điện thế một triệu volt gây ra bởi sự thực hành quá mức pháp mô Kriyâ Yoga. Sự gia tăng một cách tuần tự và hợp lý số lượng công phu Kriyâ sẽ từ từ thay đổi xác thân đến mức có thể chịu đựng nổi luồng thần lực mãnh mẽ của vũ trụ, tức là sự biểu lộ đầu tiên của Tinh Thần.
Sự bồi dưỡng sinh lực trong giấc ngủ là do bởi sự kiện rằng con người tạm thời mất đi cái ý thức xác thân và hơi thở của mình. Trong khi ngủ, người ta vô tình trở nên một người Yogi; mỗi đêm, vô tình và không hề hay biết y thực hiện pháp môn Yoga là thoát ra ngoài mọi ý thứ về xác thân, và để cho nguyồn sinh lực thấm nhuần vào bộ óc và sáu trung tâm bí yếu phụ thuộc trong tủy xương sống. Như vậy, trong giấc ngủ, người ta đắm chìm một các vô ý thức trong cái kho dự trữ tinh lực của vụ trụ, nguồn gốc của mọi sự sinh tồn.
Trái hẳn với người ngủ, người Yogi áp dụng có ý thúc một phương pháp giản dị và tự nhiên cùng một loại. Người Yogi dùng pháp môn Kriyâ Yoga để đem Ánh Sáng bất diệt thấm nhuần và nuôi dưỡng các tế bào của thể xác, và duy trì chúng trong một trạng thái thấm nhuần từ điển một các thường xuyên. Y khiến cho sự hô hấp trở nên không còn cần thiết, nhưng không vì thế mà đưa giấc ngủ hay sự hôn mê bất tỉnh.
Nhờ luyện pháp môn Kriyâ, nguồn sinh lực của con người không bị hao tán, hay lãng phí bởi sự loạn động của giác quan, mà được gom về những trung tâm bí yếu trên tủy xương sống để được thấm nhuần một thứ thần lực tinh anh. Chính bởi đó mà thể xác và những tế bào trong óc của người Yogi được truyền vào một sức mạnh tâm linh nó tăng cường sự sống. Khi đó, người Yogi không còn phải tuân theo chặt chẽ những định luật thiên nhiên, như là ăn uống thanh đạm, sống gần thiên nhiên, với ánh nắng và khí trời, nuôi tư tưởng tốt lành... là những phương tiện quanh co nó chỉ có thể đưa y đến mục đích trong một thời kỳ lâu dài là mười ngàn thế kỷ. Một người thường, có sức khỏe tốt, phải mất mười hai năm tu luyện mới gây nên một sự thay đổi khả quan trong cơ cấu của bộ óc, và cần đến một triệu năm để tinh luyện bộ óc cho đến mức có thể khai triển tâm thức vũ trụ (Consicience cosmique)
Cuộc đời của người đạo sĩ Kriyâ Yoga không còn tùy thuộc vào những nghiệp quả của quá khứ, mà chỉ tùy thuộc nơi những mệnh lệnh của linh hồn. Do đó, người hành động tốt hay xấu của cuộc đời hằng ngày, chẳng khác nào như sự tiến triển thô sơ của con ốc, không còn phù hạp với đôi cánh bay xa của con chim phụng hoàng.
Một phương pháp sinh hoạt tâm linh rất cao siêu giúp cho người Yogi thoát ra khỏi các ngục tù của bản ngã để thở bầu không khí tự do của trạng thái siêu thức. Cuộc đời thế gian, trái lại, đưa con người vào một ngõ bí không có lối thoát. Dẫu cho con người noi theo con đường tiến hóa, y cũng phải chịu lệ thuộc những định luật thiên nhiên, dù cho y không vi phạm một định luật nào về vật chất hay tinh thần, y cũng không khỏi mắc kẹt trong vòng luân hồi sinh tử trải qua một thời gian mười ngàn thế kỷ trước khi đạt tới sự giải thoát cuối cùng.
Để thoát ra khỏi cái vòng lẩn quẩn đó, pháp môn Kriyâ Yoga là cái bí quyết để trả lời cho những người nào bất mãn với cái chu kỳ một triệu năm. Cái chu kỳ đó còn kéo dài hơn nữa đối với những người, tuy có thức tỉnh đổi chút để nghĩ đến sự sống tâm linh, nhưng hãy còn theo đuổi những thú vui phàm tục, và làm tổn thương đến tính chất thiêng liêng của họ bằng hành động và tư tưởng. Đối với họ, thì hai triệu năm cũng còn chưa đủ để tự giải thoát!
Con người tự lầm lộn mình với cái phàm ngũ, y tưởng rằng chính y suy tư, cảm xúc, mong muốn, ước vọng, hay hành động việc nọ việc kia, chứ không
biết rằng trong cuộc đời hằng ngày, y chỉ là một kẻ bù nhìn bị cai quản bởi những nghiệp quả của quá khứ, và bởi hoàn cảnh chung quanh. Tuy nhiên, những khả năng trí thực, những khuynh hướng, tập quán, thói quen.... đều tùy thuộc một các chặt chẽ nơi những nguyên nhân trong quá khứ mà nguồn gốc có thể truy ra hoặc trong kiếp này, hoặc ở một tiền kiếp. Thoát khỏi sự lệ thuộc chặt chẽ đó, chỉ có linh hồn, một thực thể bất biến mà pháp môn Kriyâ Yoga có sứ mạng giải thoát bằng cách xé tan bức màn vô minh, nguồn gốc của mọi sự chướng ngại và trái buộc Linh hồn vào vòng luân hồi sinh tử.
Đức Giáo Chủ Shankara viết trong quyển sách bất hủ "Những thế kỷ" (Centuries) của ngài như sau:
"Những nghi thức lễ bái bề ngoài không thể dẹp tan sự vô minh, hai điều đó có khi lại còn đi đôi với nhau. Chỉ có sự hiểu biết mới có thể dẹp tan được sự vô minh. Sự hiểu biết hay kiến thức, chỉ có thể đạt tới được bằng sự tìm tòi, tọc mạch về lý trí. Tôi là ai? Tôi từ đâu đến? Vũ trụ từ đâu mà có? Ai sáng tạo ra nó? Nguồn gốc nó do đâu mà ra?... Đó là sự tọc mạch tìm tòi mà tôi muốn nói đến".
Trí óc con người đành chịu bất lực không thể giải đáp những câu hỏi đó. Bởi đó, các đấng Chân Sư thời cổ mới đem đến cho chúng ta pháp môn Yoga để làm cho ta thỏa mãn sự khát khao hiểu biết.
Quyển Hồi Ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ, không phải được viết ra bởi một ký giả hay văn sĩ ngoại quốc, mà bởi một tác giả nòi giống và cùng một nền giáo dục tâm linh với những người mà ông diễn tả. Nói tóm lại, đây là một quyển sách của một người Yogi viết về những người Yogi.
Dưới hình thức một truyện trường thuật của một nhân vật tiết lộ cho chúng ta biết cuộc đời và những quyền năng lạ lùng của những bậc hiền giả của xứ Ấn. Quyển sách này có một tầm quan trọng rất lớn trong thời gian và ngoài không gian...
Phương Pháp Môn Kriyâ Yoga
Chương Một
Pháp môn Kriyâ Yoga, thường được đề cập đến trong quyển sách này, đã từng được phổ biến rộng rãi ở xứ Ấn Độ nhờ bởi đức Lahiri Mahasaya, vị tôn sư của thầy tôi. Danh từ Kriyâ do Phạm Ngữ Kri, có nghĩa là hành động, và cùng một gốc rễ với danh từ Karma, nguyên lý tự nhiên về nhân quả. Kriyâ Yoga có nghĩa là "Hợp nhất với đấng Vô Cùng do sự trung gian của một nghi thức hay hành động". Người Yogi thực hành đúng đắn pháp môn này sẽ lần lần tự giải thoát khỏi sự trói buộc của nghiệp quả.
Theo một nguyên tắc cổ xưa có tự nghìn đời về trước, tôi không thể tiết lộ trọn cả pháp môn Kriyâ Yoga trong một quyển sách dành cho đại chúng. Chỉ có người đạo sĩ Kriyâ Yogi mới có thẩm quyền truyền dạy pháp môn này, mà tôi sẽ trình bày dưới những nét đại cương.
Pháp môn Kriyâ Yoga là một phương pháp giản dị về cả hai mặt tâm linh và thể chất, giúp cho con người bài tiết chất thán khí của cơ thể ra ngoài và tiếp thêm dưỡng khí vào máu. Những nguyên tử dưỡng khí phụ trội sẽ chuyển thành một luồng sinh khí phục hồi sinh lực cho bộ phận kinh tủy não. (Bác sĩ George W. Crile, nhà Bác học Mỹ nổi tiếng, năm 1940 có trình bày trong một phiên họp của Hội Phát Triển Khoa Học Mỹ, những cuộc thí nghiệm đã giúp cho ông chứng minh rằng tất cả những tế bào trong cơ thể con người đều chứa âm điện, trừ ra những tế bào của óc và thần kinh hệ chứa dương điện bởi vì những tế bào này tiêu thụ chất dưỡng khí mau lẹ hơn.)
Người Yogi có thể trì hoãn, hoặc ngăn ngừa sự già cỗi của các tế bào bằng cách ngăn chặn sự tích tụ của máu đen, những nhà đạo sĩ tiến hóa cao có thể thay đổi các tế bào của họ thành chất tinh lực thuần túy. Elie, Jesus, Kabir và các nhà tiên tri khác đều biết rõ pháp môn Kriyâ hay một pháp môn tương tự có thể giúp các ngài biến thể hay tàng hình tùy theo ý muốn.
Kriya Yoga là một pháp môn rất cổ, mà Lahiri Mahasaya đã thụ giáo của tôn sư Babaji, vị này đã phát hiện và chấn chỉnh lại pháp môn ấy sau nhiều thế kỷ bịđắm chìm trong quên lãng. Babaji đã nói với Lahiri Mahaysaya.
- Pháp môn Kriya Yoga mà Thầy dùng con làm trung gian để truyền bá cho đời vào giữa thế kỷ mười chín này, chính là cái pháp môn mà cách đây nhiều ngàn năm, đức Krishna đã truyền dạy cho Arjuna. Đạo sư Pantanjali, đấng Christ, thánh Jean, thánh Paul và những vị thánh tông đồ khác cũng đã từng biết rõ pháp môn ấy. Krishna, đấng tiên tri lớn nhất Ấn Độ, đã đề cập đến pháp môn Kriyâ Yoga trong một câu thánh kinh Bhhagavad Gita: "Những người khác vận chuyển luồng sinh khí bằng cách điều chỉnh hơi thở ra hít vào, và tập luyện phép khí công Pranâyama".
Câu ấy có nghĩa là: "Người Yogi ngăn chận sự già nua của thể xác bằng cách tiếp thêm luồn sinh khí, và ngăn sự trưởng thành bằng phương tiện bài tiết. Bằng cách hóa giải sự già nua và trưởng thành của thể xác, và điều hòa nhịp độ của quả tim, người Yogi nắm vững cái bí quyết của vấn đề sanh tử".
Krishna cũng nói rằng trong một tiền kiếp, ngài đã truyền dạy pháp môn Yoga bất tử này cho Vivasvat, bật giác ngộ của thời đại cổ, việc này truyền lại cho đức Manu, nhà sáng lập nên luật pháp Ấn Độ. Đức Manu truyền lại cho Ixvâku, nhà sáng lập nên triều đại vương tướng của Ấn Độ. Được truyền khẩu từ thể kỷ này qua thế kỷ khác, pháp môn Yoga này được các đấng Chân Sư gìn giữ trải qua thời gian cho đến kỷ nguyên duy vật. Nhưng vì các vị tăng lữ thời xưa bao trùm nó trong một bức màn bí mật và cũng do bởi sự thản nhiên của người đời, nên rốt cuộc khoa pháp môn thiêng liêng này đã lần lần biến mất.
Đạo sư Pâtanjali viết như sau: "Pháp môn Kriyâ Yoga gồm có: Kỷ luật của xác thân, kiểm soát tư tưởng, và tham thiền về thánh ngữ AUM". Pâtanjali cho rằng Thượng Đế, tức là sự rung động trong vũ trụ của tháng ngữ AUM mà người hành giả nghe được trong cơn tham thiền. AUM tức là danh từ sáng tạo, là tiếng động cơ của vũ trụ. Người hành giả tu luyện Yoga sẽ có lúc nghe được âm thanh văng vẳng của thánh ngữ AUM vang lên từ chỗ sâu thẳm của nội tâm mình. Trong khi y nhận được một sự khích lệ tâm linh như thế, người hành giả biết rằng y đã tiếp xúc với cõi thiêng liêng.
Trong trạng thái tiếp xúc sơ khởi với Thiêng Liêng như vừa kể trên (Savikalpa Samâdkhi), tâm thức của người hành giả đắm chìm trong tâm thức của vũ trụ, nguyền sinh lực thoát ra khỏi xác thân y, làm cho xác thân y có vẻ như chết, cứng đơ, bất động. Người Yogi hoàn toàn ý thức được sự sống chậm lại của thể xác y. Khi y đạt tới trạng thái cao siêu hơn (Nirvikalpa samâdlhi), tâm thức của y hòa hợp với Thiêng Liêng trong khi y vẫn tỉnh táo và hoàn toàn ý thức được mọi việc xảy ra chung quanh mình.
Sri Yukteswar giảng giải cho các đệ tử như sau:
- Pháp môn Kriyâ Yôga là một phương pháp hối thúc sự tiến hóa của con người. Từ thời cổ xưa, các nhà đạo sĩ Yogi đã khám phá ra điều bí mật này, là tâm thức vũ trụ được nối liền chặt chẽ với sự kiểm soát hơi thở, đó là sự góp phần bất hủ và độc đáo của Ấn Độ vào cái kho tàng kiến thức của nhân loại. Nguồn sinh lực của con người, lúc bình thường bị hao tán do bởi sự náo động hằng ngày, phải được gom lại để dùng trong những hoạt động tâm linh cao siêu hơn bằng cách thực hiện hành pháp Yoga làm lắng dịu nhịp độ của hơi thở.
Người Yogi dùng tư tưởng dẫn luồng sinh lực đi theo một đường vòng xuyên qua sáu bí huyệt của tủy xương sống (từ bí huyệt trên đỉnh đầu xuống các bí huyệt ở cuống họng, ở tim, ở rún, ở lá lách và xương mông), rồi đi ngược trở lên, để khép một vòng tròn tương đương với mười hai cung Hoàng Đạo, tượng trưng vũ trụ trong con người (Tiểu thiên địa). Một lần công phu chừng nửa phút đồng hồ vòng quanh xương sống theo pháp môn kriyâ, giúp cho con người thực hiện một sự tiến bộ bằng một năm tiến hóa tâm linh thông thường.
Một lần phép công phu Kriyâ thực hiện trong vòng một ngày đem đến cho người Yogi một sự tiến hóa tâm linh tương đương với một ngàn năm tiến hóa tự nhiên, và công phụ của một năm tu luyện sẽ đưa kết quả bằng 365.000 năm. Như thế, pháp môn Kriyâ Yoga giúp cho người hành giả thực hiện trong ba năm tu luyện công phu, một sự tiến bộ vượt bực mà theo đà tiến hóa tự nhiên, nó phải cần đến 10.000 thế kỷ. Tuy nhiên, muốn theo con đường tắt của pháp môn Kriyâ Yoga, chỉ có những người Yogi đã được huấn luyện thuần thục dưới sự chỉ dẫn của các vị chân sư, nhờ đó học chuẩn bị thể xác lẫn tinh thần đến mức tuyệt đỉnh, khả dĩ tiếp nhận cái quyền năng pháp triển bằng sự công phu tu luyện thường xuyên.
Người sơ cơ mới tập luyện pháp môn Kriyâ chỉ nên tu luyện từ 14 đến hai mươi 28 vào mỗi thời công phu, mỗi ngày hai thời. Thường thì các nhà đạo sĩ Yogi chỉ hoàn tất công phu tu luyện của học trong sáu năm, mười hai năm, hai mươi bốn năm, hay bốn mươi tám năm. Người Yogi chết trước khi đạt được mục đích tối cao sẽ đem theo một căn quả tốt do nơi công phu tu luyện trong quá khứ, và trong kiếp sau, y sẽ có điều kiện tốt để tiếp tục tu luyện cho đến lúc thành công.
Thể xác của một người thường cũng ví như một ngọn đèn 50 Watt, không thể chịu nổi một điện thế một triệu volt gây ra bởi sự thực hành quá mức pháp mô Kriyâ Yoga. Sự gia tăng một cách tuần tự và hợp lý số lượng công phu Kriyâ sẽ từ từ thay đổi xác thân đến mức có thể chịu đựng nổi luồng thần lực mãnh mẽ của vũ trụ, tức là sự biểu lộ đầu tiên của Tinh Thần.
Sự bồi dưỡng sinh lực trong giấc ngủ là do bởi sự kiện rằng con người tạm thời mất đi cái ý thức xác thân và hơi thở của mình. Trong khi ngủ, người ta vô tình trở nên một người Yogi; mỗi đêm, vô tình và không hề hay biết y thực hiện pháp môn Yoga là thoát ra ngoài mọi ý thứ về xác thân, và để cho nguyồn sinh lực thấm nhuần vào bộ óc và sáu trung tâm bí yếu phụ thuộc trong tủy xương sống. Như vậy, trong giấc ngủ, người ta đắm chìm một các vô ý thức trong cái kho dự trữ tinh lực của vụ trụ, nguồn gốc của mọi sự sinh tồn.
Trái hẳn với người ngủ, người Yogi áp dụng có ý thúc một phương pháp giản dị và tự nhiên cùng một loại. Người Yogi dùng pháp môn Kriyâ Yoga để đem Ánh Sáng bất diệt thấm nhuần và nuôi dưỡng các tế bào của thể xác, và duy trì chúng trong một trạng thái thấm nhuần từ điển một các thường xuyên. Y khiến cho sự hô hấp trở nên không còn cần thiết, nhưng không vì thế mà đưa giấc ngủ hay sự hôn mê bất tỉnh.
Nhờ luyện pháp môn Kriyâ, nguồn sinh lực của con người không bị hao tán, hay lãng phí bởi sự loạn động của giác quan, mà được gom về những trung tâm bí yếu trên tủy xương sống để được thấm nhuần một thứ thần lực tinh anh. Chính bởi đó mà thể xác và những tế bào trong óc của người Yogi được truyền vào một sức mạnh tâm linh nó tăng cường sự sống. Khi đó, người Yogi không còn phải tuân theo chặt chẽ những định luật thiên nhiên, như là ăn uống thanh đạm, sống gần thiên nhiên, với ánh nắng và khí trời, nuôi tư tưởng tốt lành... là những phương tiện quanh co nó chỉ có thể đưa y đến mục đích trong một thời kỳ lâu dài là mười ngàn thế kỷ. Một người thường, có sức khỏe tốt, phải mất mười hai năm tu luyện mới gây nên một sự thay đổi khả quan trong cơ cấu của bộ óc, và cần đến một triệu năm để tinh luyện bộ óc cho đến mức có thể khai triển tâm thức vũ trụ (Consicience cosmique)
Cuộc đời của người đạo sĩ Kriyâ Yoga không còn tùy thuộc vào những nghiệp quả của quá khứ, mà chỉ tùy thuộc nơi những mệnh lệnh của linh hồn. Do đó, người hành động tốt hay xấu của cuộc đời hằng ngày, chẳng khác nào như sự tiến triển thô sơ của con ốc, không còn phù hạp với đôi cánh bay xa của con chim phụng hoàng.
Một phương pháp sinh hoạt tâm linh rất cao siêu giúp cho người Yogi thoát ra khỏi các ngục tù của bản ngã để thở bầu không khí tự do của trạng thái siêu thức. Cuộc đời thế gian, trái lại, đưa con người vào một ngõ bí không có lối thoát. Dẫu cho con người noi theo con đường tiến hóa, y cũng phải chịu lệ thuộc những định luật thiên nhiên, dù cho y không vi phạm một định luật nào về vật chất hay tinh thần, y cũng không khỏi mắc kẹt trong vòng luân hồi sinh tử trải qua một thời gian mười ngàn thế kỷ trước khi đạt tới sự giải thoát cuối cùng.
Để thoát ra khỏi cái vòng lẩn quẩn đó, pháp môn Kriyâ Yoga là cái bí quyết để trả lời cho những người nào bất mãn với cái chu kỳ một triệu năm. Cái chu kỳ đó còn kéo dài hơn nữa đối với những người, tuy có thức tỉnh đổi chút để nghĩ đến sự sống tâm linh, nhưng hãy còn theo đuổi những thú vui phàm tục, và làm tổn thương đến tính chất thiêng liêng của họ bằng hành động và tư tưởng. Đối với họ, thì hai triệu năm cũng còn chưa đủ để tự giải thoát!
Con người tự lầm lộn mình với cái phàm ngũ, y tưởng rằng chính y suy tư, cảm xúc, mong muốn, ước vọng, hay hành động việc nọ việc kia, chứ không
biết rằng trong cuộc đời hằng ngày, y chỉ là một kẻ bù nhìn bị cai quản bởi những nghiệp quả của quá khứ, và bởi hoàn cảnh chung quanh. Tuy nhiên, những khả năng trí thực, những khuynh hướng, tập quán, thói quen.... đều tùy thuộc một các chặt chẽ nơi những nguyên nhân trong quá khứ mà nguồn gốc có thể truy ra hoặc trong kiếp này, hoặc ở một tiền kiếp. Thoát khỏi sự lệ thuộc chặt chẽ đó, chỉ có linh hồn, một thực thể bất biến mà pháp môn Kriyâ Yoga có sứ mạng giải thoát bằng cách xé tan bức màn vô minh, nguồn gốc của mọi sự chướng ngại và trái buộc Linh hồn vào vòng luân hồi sinh tử.
Đức Giáo Chủ Shankara viết trong quyển sách bất hủ "Những thế kỷ" (Centuries) của ngài như sau:
"Những nghi thức lễ bái bề ngoài không thể dẹp tan sự vô minh, hai điều đó có khi lại còn đi đôi với nhau. Chỉ có sự hiểu biết mới có thể dẹp tan được sự vô minh. Sự hiểu biết hay kiến thức, chỉ có thể đạt tới được bằng sự tìm tòi, tọc mạch về lý trí. Tôi là ai? Tôi từ đâu đến? Vũ trụ từ đâu mà có? Ai sáng tạo ra nó? Nguồn gốc nó do đâu mà ra?... Đó là sự tọc mạch tìm tòi mà tôi muốn nói đến".
Trí óc con người đành chịu bất lực không thể giải đáp những câu hỏi đó. Bởi đó, các đấng Chân Sư thời cổ mới đem đến cho chúng ta pháp môn Yoga để làm cho ta thỏa mãn sự khát khao hiểu biết.
#23
Gửi vào 07/06/2011 - 03:35
Một Trường Yoga Tại Ranchi
Chương Hai
Khi tôi xuất gia theo dòng tu sĩ Swâmi, một hôm Sri Yukteswar có nói với tôi chuyện khá bất ngờ:
- Con có cảm thấy thiếu một người vợ hiền để săn sóc con trong lúc tuổi già chăng? Con nghĩ rằng một người gia trưởng làm một công việc hữu ích để nuôi dưỡng vợ cọn, há lại không được đẹp lòng Thượng Đế sao?
Tôi phản kháng trong sự kinh ngạc:
- Bạch sư phụ, Sư phụ đã biết rằng ước vọng duy nhất của con trong kiếp này là xuất gia tầm đạo kia mà!
Sri Yukteswar cười lớn một cách cởi mở đến nỗi tôi hiểu rằng người chỉ muốn thử thách tôi mà thôi. Đoạn, Sư phụ nói một cách chậm trãi:
- Con hãy nhớ rằng người nào từ bỏ những bổn phận thế gian, phải biện minh cho thái độ của mình bằng cách đảm đương những trách nhiệm nặng nề đối với một gia đình đông hơn nhiều, đó tức là đại gia đình nhân loại.
Tôi vẫn thường nôi cái lý tưởng giáo dục có thể phát triển tất cả mọi khía cạnh của nền giáo dục thông thường, nó chỉ phát triển xác thể và trí tuệ. Những giá trị tinh thần và tâm linh là những điều kiện thiết yếu của hạnh phục, lại hoàn toàn thiếu hẳn trong những chương trình giáo dục chính thức.
Tôi bèn quyết định thành lập một trường học đem cho họ trở nên những người tài đức, vẹn toàn. Tôi bắt đầu thâu nhận bảy thiếu sinh ở Dihika, một thành phố nhỏ ở tỉnh Bengale.
Sau đó một năm, nhờ lòng hào hiệp giúp đỡ của vị quốc vương Kasimbaxar, tôi đã có thể dời lớp hợc của tôi đến Ranchi, và lớp học càng ngày càng đông học trò. Ranchi, thành phố của tỉnh Bihar cách Calcutta độ hai trăm dặm, có một khí hậu tốt lành được liệt vào hàng những nơi khí hậu lành mạnh nhất ở Ấn Độ.
Hoàng cung Kasimabzar ở Ranchi được đổi thành học đường mới của tôi, mà tôi đặt tên là Thiếu Sinh Học Đường. Theo lý tưởng giáo dục của các vị chân sư thời cổ xưa ở Ấn Độ, các đạo viện giữa vườn trung tâm giáo dục ban bố cả hai nên học vấn thế tục và giáo dục tâm linh.
Tại Ranchi, để dạy ban tiểu học và trung học, tôi thiết lập những chương trình gồm cả các môn canh nông, kỹ nghệ và thương mại, không kể những môn kỹ luật thông thường. Các học sinh cũng học những phương pháp Yoga về tập trung tư tưởng và tham thiền và một môn thể dục mệnh danh Yogada, mà tôi đã khám phá những nguyên tắc đại cương vào năm 1916.
Sau khi năm học đầu tiên mãn khóa, những đơn xin gia nhập học năm sau lên đến số hai nghìn thiếu sinh. Nhưng trường học chỉ có đủ chổ nội trú cho độ một trăm học sinh và những lớp mới cho học sinh ngoại trú được tổ chức thêm sau đó.
Tại học đường, tôi phải lo săn sóc những trẻ thiếu nhi và giải quyết những vấn đề gay go về phương diện tổ chức. Những lời nói của đức Christ thường trở lại trí nhớ của tôi: "Ta nói thật cho các ngươi biết, người nào vì ta và chánh nghĩa của ta mà từ bỏ nhà cửa, hay anh em, chị em, cha mẹ, con cái, hay đất vườn của họ sẽ nhận được ngay trong đời này nhiều gấp trăm lần những nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái, đất ruộng cùng với những sự khủng bố ngược đãi của thế gian, và trong đời sau họ sẽ được sự sống trường cửu muôn đời".
Sri Yukteswar bình luận những lời ấy như sau:
- Người hành giả đã từ bỏ hôn nhân và cuộc sống gia đình sẽ đổi những nỗi lo âu phiền lụy của một tiểu gia đình và của những hoạt động trần gian để đảm đương lấy một trách nhiệm lớn lao hơn, là phụng sự nhân loại, trong công trình này y thường đụng chạm với sự hiểu lầm của người đời, những trái lại, y sẽ nhận được phần thưởng là một sự an lạc bên trong thuộc về tính chất thiêng liêng.
Có lần cha tôi đến Ran chi để thăm tôi sau một thời gian im lặng kéo dài, vì tôi đã làm trái ý cha tôi khi tôi từ chối không nhận một địa vị của người dành cho tôi trong Công ty Hỏa Xa. Cha tôi nói:
- Con hỡi, cha đã thông cảm sự chọn lựa của con. Cha sung sướng mà thấy con hoạt động giữa những thiếu nhi vui tươi và hồn nhiên. Cha nhìn nhận đó mới là chí hướng của con, thay vì những văn phòng của Công ty với những bản đồ vô tri bất động.
Cha tôi chỉ một nhóm độ mười hai thiếu nhi đang quanh quẩn bên cạnh tôi:
- Cha chỉ có tám người con, nhưng cha hiểu những gì con đang kinh nghiệm!
Trường có một khu vườn độ hai mươi sáu mẫu, tại đây các giáo viên và học trò cùng làm việc trong những lớp học lộ thiên, dưới bóng mát của các cây cổ thụ giữa một khung cảnh thiên nhiên đầy thú vị.Vào năm 1946, trường đã sống được hai mươi tám năm.
Một trong những quan khách tai mắt đến viếng trường, trong năm đầu tiên, là tu sĩ Pranabâ, "vị tu phân thân" ở Bénarès. Tu sĩ lấy làm vô cùng cảm động mà thấy những lớp học lộ thiên dưới bóng mát của cây cối sầm uất, và những thiếu nhi tật ngồi tham thiền mỗi buổi chiều dưới gốc cây giữa cảnh thanh u tịch mịch. Tu sĩ nói:
- Tôi lấy làm sung sướng mà thấy lý tưởng giáo dục thanh thiếu niên do đức Lahiri Mahâysaya chủ trương, được đem ra thực hành tại trường này. Cầu xin ân huệ của sư phụ ta đến với con.
Một thiếu niên đứng gần bên tôi lúc ấy bèn hỏi vị tu sĩ:
- Bạch đại đức, sau này con có thể trở nên một tu sĩ chăng? Con có thể hiến dâng cuộc đời con cho Thượng Đế chăng?
Tu sĩ Pranabâ mỉm cười một cách nhẹ nhàng, và phóng tầm nhãn quang nhìn về tương lai:
- Con hỡi, khi con trưởng thành, có một vị hôn thê rất đẹp sẽ chờ đợi con.
Quả thật, người thiếu sinh về sau đã thành gia thất say nhiều năm ước nguyện xuất gia để theo dòng tu sĩ Swâmi.
Ít lâu sau cuộc viếng thăm của tu sĩ Pranabâ, tôi theo cha tôi đến tịnh thất của tu sĩ ở Calcutta. Khi đó, lời tiên tri của tu sĩ thốt ra từ nhiều năm trước mới trở lại ký ức của tôi. Hồi đó người đã nói rằng:
- Tôi sẽ gặp lại con và cha con một ngày về sau.
Khi cha tôi bước vào phòng của tu sĩ, người liền đứng dậy và ôm chầm lấy cha tôi một cách rất trọng hậu và quý mến.
- Bhagabati, anh nên tự hào về cái phước lớn của anh. Anh há chẳng rằng con anh đang lao mình vào lòng của đấng Vô cùng?
Tôi ngượng thầm vì được khen tặng dường ấy trước mặt cha tôi. Tu sĩ Pranabâ mà tôi đã gặp với một vóc dáng mạnh khỏe lực lưỡng trong cuộc viếng thăm lần đầu ở Bénarès trước đây, nay đã có vẻ già nhiều, tuy người vẫn còn đi đứng ngay thẳng. Tôi hỏi và nhìn tu sĩ ngay vào tận mắt:
- Bạch đại đức, đại đức có cảm thấy sự già nua đến gần hay chăng? Khi xác thân yếu dần, sự chiêm ngưỡng Thiêng Liêng có bị thương tổn chút nào hay chăng?
Tu sĩ mỉm cười một cách êm ái:
- Đấng Thiêng Liêng còn gần tôi hơn bất cứ lúc nào!
Sự quả quyết mãnh liệt này gây một ấn tượng mạnh mẽ trong tâm hồn tôi. Người nói tiếp:
- Tôi vẫn thụ hưởng hai món hưu bổng: một của Bhagabati và một của Thượng Đế!
Vừa đưa một ngón tay chỉ lên trời, tu sĩ liền rơi vào trạng thái xuất thần đại định và gương mặt người chiếu diệu một vầng ánh sáng thiêng liêng huy hoàng: thật là một cách trả lời hùng biện nhất.Nhận thấy phòng của tu sĩ Pranabâ chứa đầy những chậu cây, và những hột giống, tôi hỏi những thứ ấy để dùng làm gì? Tu sĩ giải thích:
- Tôi sẽ rời khỏi Bénarès một cách vĩnh viễn để lên dãy Tuyết Sơn, tại đó tôi sẽ lập một đạo viện cho các đệ tử tôi. Những hột giống này là để sản xuất các loại rau trái. Các đệ tử tôi sống rất giản dị, và dành hết tất cả thời giờ cho việc tu luyện. Ở đời còn gì cần hơn nữa?
Cha tôi hỏi tu sĩ có định trở về Calcutta một ngày gần đây không? Tu sĩ đáp:
- Không bao giờ. Theo lời tiên đoán của Đức Lahiri Mahâsaya, năm nay là năm mà tôi phải rời khỏi đất Bénarès mến yêu của tôi đển lên dãy Tuyết Sơn, tại đó tôi sẽ bỏ xác trong kiếp này.
Nghe đến đó, tôi rưng rưng hai giòng nước mắt, nhưng tu sĩ vẫn mỉm cười trong yên lặng. Người có vẻ rất ung dung tự tại như một con người con yêu của Được Phật Mẫu, đặt vận mạng mình trong bàn tay của ngài. Một người Yogi chân chính, đã đạt tới sự giác ngộ tâm linh, không còn sợ những năm tàn tháng lụn.
Người có thể đổi mới những tế bào trong thân thể mình tùy ý, tuy nhiên, đôi khi người cũng không màng trì hoãn sự tàn phá của thời gian mà cứ để cho nghiệp quả tự do hành động và dứt tuyệt ngay trong kiếp sống hiện tại, để không còn phải lo trả trong một kiếp khác.
Vài tháng sau đó, tôi gặp một người bạn cũ tên là Sanandan, đệ tử của tu sĩ Pranabâ. Y vừa khóc vừa nói:
- Sư phụ tôi không còn nữa. Sau khi đã thành lập đạo viện gần Rishikesh, người dạy chúng tôi trong tình thương. Khi chúng tôi đã yên nơi chỗ và đang tiến bộ mau chóng dưới sự hướng dẫn của người, thì một ngày nọ Sư phụ mở tiệc lớn đãi một số đông người ở Rishikesh. Tôi mới hỏi lý do vì sao Sư phụ lại làm như vậy thì người nói:
- Đó sẽ là một dịp long trọng cuối cùng của Thầy. Lúc đó, tôi không hiểu hết ý nghĩa những lời nói của Sư Phụ. Ngày đại nhật hôm ấy, Sư phụ tôi dặn mua rất nhiều lương thực. Chúng tôi đãi ăn hơn hai ngàn người. Kế đó, sư phụ ngồi lên một bật thềm cao và ứng khẩu thuyết pháp về đấng Tuyệt đối. Thuyết pháp xong, trước mặt mọi người, Sư phụ day qua phía tôi lúc ấy đang đứng bên cạnh người và nói với một giọng mạnh mẽ lạ thường:
- Con hãy sẵn sàng, Sanandan, Thầy sắp bỏ xác.
Sau một cơn im lặng vì ngạc nhiên, tôi la lên:
- Bạch sư phụ, đừng, sư phụ đừng làm thế!
Đám quần chúng, ngạc nhiên trước câu chuyện lạ lùng đó, trố mắt nhìn chúng tôi một cách tò mò. Sư phụ mỉm cười nhìn tôi, nhưng nhãn quang của người đã hướng về cõi vô cùng. Người đáp:
- Con đừng ích kỷ, và đừng nên sầu thảm vì sự ra đi của Thầy. Bây giờ con hãy vui lên vì Thầy sắp trở về với đấng Tuyệt đối!
Trong một hơi thở dài, sư phụ nói thêm:
- Thầy sẽ tái sinh trở lại một ngày gần đây. Sau khi đã trải qua một thời kỳ ngắn ngủi trong một niềm Phúc Lạc vô biên, Thầy sẽ trở lại thế gian để theo đức Bâbâji. Không bao lâu, con sẽ được biết Thầy chuyển kiếp ở đâu và vào lúc nào linh hồn Thầy lại khoác lấy một thể xác mới.
Sư phụ lại kêu lên:
- Sanadan con hỡi, Thầy từ giã thể xác bằng đệ nhị pháp môn Kriyâ Yoga!
(Pháp môn Kriyâ Yoga cấp đẳng thứ nhì, do đức Lahiri Mahâysaya truyền dạy, giúp cho người hành giả rời khỏi và trở về thể xác tùy ý muốn. Những tu sĩ Yogi tiến hóa cao dùng pháp môn này để bỏ xác một cách có ý thức vào lúc từ trần, mà họ luôn luôn biết trước)
Khi ấy, Sư phụ mới nhìn về đám đông người và đưa tay làm một cử chỉ ban ân huệ. Sau khi đã thu thập tinh thần nhìn về bên trong theo phép hồi quang phản chiếu, người bèn ngồi yên bất động.
Chính vào lúc mà quần chúng tưởng rằng người đang lọt vào trạng thái đại định xuất thần, thì Sư phụ đã bỏ xác và hòa hợp linh hồn với Đại Thể vô biên của vũ trụ. Các đệ tử đến sờ vào thân mình sư phụ, vẫn còn giữ tư thế liên hoa, nhưng xác thân đã lạnh, linh hồn người đã thoát lên cõi giới trường tồn bất diệt.
Tôi bèn hỏi Sanandan về địa điểm tại đó Sư phụ y sẽ tái sinh trở lại. Y đáp:
- Đó là một điều bí mật mà tôi không đước tiết lộ cho bất người nào. Sau này có lẽ anh sẽ tự mình biết được điều đó bằng cách này hay cách khác.
Về sau, tu sĩ Keshabâ cho tôi biết rằng tu sĩ Pranabâ ít năm sau khi tái sinh trở lại, đã đến Badrinârayan, trên dãy Tuyết Sơn, để gia nhập nhóm đệ tử cao cấp của đức Bâhâji.
- Các em đừng lội xuống ao. Các em hãy tắm bằng các lấy gáo dội nước lên mình mà thôi.
Tôi dặn các thiếu sinh trường học Ranchi của tôi, khi các em cùng với tôi đi dạo lên một ngọn đồi gần bên, cách đó độ mười hai cây số.
Trên đồi có một cái ao đầy nước vó vẻ hấp dẫn, nhưng khi nhìn thấy ao, tôi có cảm giá rờn rợn một cách bí mật, không thể giải thích lý do. Phần đông các thiếu sinh nghe theo lời khuyên của tôi, nhưng có vài em bị quyết rũ bởi nước trong và mát, khi các em vừa lặn xuống ao thì những con rắn liền vây phủ chung quanh, để thoát thân các em phải hối hả nhảy vọt lên bờ một cách thật buồn cười.
Tắm xong, tôi đưa các thiếu sinh lên đồi và chúng tôi dùng bữa ăn trưa trên bãi cõ. Ngồi dưới bóng mát của một cây to, tôi bị các em vấn nan với nhiều câu hỏi, và các em tưởng rằng tôi có nhiều linh cảm thiêng liêng sau vụ bị rắn rượt dưới ao. Một em hỏi tôi:
- Bạch Thầy, sau này con có thể nào xuất gia tu hành theo Thầy được không?
- Không, tôi đáp. Cha mẹ em sẽ bắt em về, và sau này em sẽ lập gia đình.
Em không tin, và liền phản đối kịch liệt:
- Con chỉ bị bắt về khi nào con chết.
Nhưng sau đó vài tháng, cha mẹ em tới trường bắt em về, mặc dầu em kháng cự mãnh liệt. Về sau, em ấy đã lập gia đình.
Sau khi tôi đã trả lời nhiều câu hỏi, một thiếu sinh tên là Kashi độ mười hai tuổi, mối bắt đầu hỏi tôi. Em là một học trò giỏi và được mọi người thương mến.
- Bạch Thầy, số mạng của con sau này ra sao?
- Em sẽ qua đời một ngày gần đây.
Câu trả lời này vô tình từ miệng tôi thốt ra mà tôi không cưỡng lại được. lời tiên tri bất ngờ và chẳng lành đó làm cho tất cả nhóm thiếu sinh đều xúc đô ng và buồn thảm. Tôi hối hận trong âm thầm và từ chối không trả lời thêm những câu hỏi khác nữa.
Khi trở về trường, Kashi đến tìm tôi trong phòng riêng.
- Bạch Thầy, nếu con chết, Thầy có tìm lại con chăng khi con tái sinh trở lại, để dìu dắt con trên đường đạo?
Em vừa nói vừa khóc nức nở.
Tôi bắt buộc phải từ chối việc nhận lãnh một trách nhiệm nặng nề như thế về phương diện huyền linh. Nhưng trong những tuần lễ sau đó, Kashi cứ theo nài van xin tôi một cách khẩn thiết đến nỗi tôi phải bằng lòng chấp thuận để an ủi em. Tôi nói:
- Được rồi, nếu Thượng Đế chịu giúp Thầy, Thầy hứa sẽ cố gắng hết sức để tìm lại em.
Trong những tháng nghỉ hè, tôi phải đi một chuyến du lịch ngắn hạn. Rất buồn vì không đem Kashi đi theo, tôi gọi em vào phòng và căn dặn em đừng bỏ trườngđi đâu, mà phải ở lại trong bầu không khí tâm linh tốt lành của trường. Tôi cảm thấy rằng nếu em đừng về nhà trong những tháng hè, em có thể tránh khỏi điều tai họa đang chờ đợi em.
Khi tôi vừa rời khỏi Ranchi, thì cha của Kashi đã đến trường. Trong suốt hai tuần lễ, y cố gắng thuyết phục Kashi hãy trở về nhà thăm mẹ ở Calcutta trong bốn ngày, và hứa sẽ đem em trở lại trường. Kashi từ chối không chịu đi. Sau cùng người cha nói rằng y sẽ nhờ cảnh sát can thiệp để bắt em trở về. Lời hăm dọa đó làm cho Kashi phân vân, và sợ rằng điều đó sẽ gây tai tiếng không tốt cho trường, em đành phải chịu vâng lời.
Vài ngày sau, tôi trở về trường và khi tôi nghe nói Kashi đã bị cha đến bắt đi, tôi liền hối hả đáp chuyến xe lửa đi Calcutta. Khi đến nơi, tôi thuê một chiếc xe ngựa. Khi cỗ xe đi qua cầu Howrah trên sông Hằng, thì... lạ thay, tôi thấy cha của Kashi đang mặc đồ tang. Tôi bảo người phu xe ngừng lại, tôi nhảy vọt ra ngoài xe và phóng đến trước mặt người cha vô phước.
- Kìa, ông già sát nhân! Tôi kêu lên với một giọng hơi vô lý, ông đã giết chết học trò của tôi!
Người cha đã hiểu sự lỗi lầm của mình khi cưỡng bách con y trở về Calcuta. Trong những ngày đầu tiên về ở thành phố này, Kashi đã ăn nhằm thức ăn bị nhiễm trùng, làm cho em mắc bịnh thời khí và đã trút linh hồn.
Tình thương của tôi đối với Kashi và lời hứa của tôi sẽ tìm lại em khi em đầu thai trở lại, ám ảnh tôi ngày đêm. Bất cứ tôi đi đâu, tôi đều thấy gương mặt của em hiện ra trước mắt tôi. Tôi bắt đầu cuộc tìm kiếm một cách sốt sắn tuyệt vọng cũng như tôi đi tìm mẹ tôi vậy.
Tôi cảm thấy rằng, nếu Thượng Đế đã cho tôi có một lý trí, tôi có thể xử dụng nó theo một chiều hướng nhằm mục đích khám phá những luật huyền bí cai quản sự tác động của một linh hồn ở bên kia cửa Tử, như vậy để trắc nghiệm cái khả năng và bản lĩnh mà tôi đã thu thập được nhờ pháp môn Yoga.
Từ nay Kashi là một linh hồn, rung động với những ước vọng chưa được thỏa mãn, một điểm linh quang phưởng phất trong số hằng triệu những linh hồn khác trên cõi Trung giới. Giữa tất cả những âm ba rung động toát ra từ vô số linh hồn khác, tôi làm cách nào để có thể tiếp nhận sự rung động của linh hồn Kashi?
Sử dụng một bí thuật Yoga, tôi tập trung tất cả tình thường của tôi đến linh hồn Kashi xuyên qua bí huyệt của Linh Nhãn nằm ở giữa hai chân mày. Dùng hai bàn tay và các ngón tay làm những dây "ăng ten", tôi đi xoay vòng ở một chỗ trên hai bàn chân để định phương hướng do đó tôi phải tìm ra linh hồn đã nhận được thông điệp của tôi.
Bằng cách đó tôi hy vọng nhận được một sự trả lời, trong trường hợp này, tôi dùng bí huyệt ở quả tim làm cái trạm thu thanh vô tuyến.
(Các nhà đạo sĩ Yogi đã từng biết rằng ý chí con người, phóng ra từ chỗ bí huyệt ở giữa hai chân mày, có thể dùng làm phương tiện di chuyển cho những luồng sóng tư tưởng. Khi cảm giác được tập trung một cách nhẹ nhàng vào bí huyệt ở quả tim, bí huyệt này sẽ có tác động như một trạm vô tuyến thu thanh có thể tiếp nhận những thông điệp của những người khác, dầu họ ở gần hay ở cách xa.
Trong trường hợp thần giao cách cảm, những rung động tinh vi của tư tưởng được truyển đi từ bộ óc này sang bộ óc khác xuyên qua chất dĩ thái cõi trung giới (tế nhị hơn nhiều), và chất dĩ thái hồng trần (nặng trọc hơn), tạo nên những luồng sóng từ điển và kế đó đổi thành những luồng sóng tư tưởng trong trí của tiếp nhận thông điệp này).
Trực giác cho tôi biết rằng Kashi không bao lâu sẽ đầu thai trở lại thế gian, và nếu tôi cứ tiếp tục kêu gọi không ngừng, thì linh hồn em sẽ đáp ứng. Tôi biết rằng tôi sẽ cảm xúc được một cách chắn chắn mọi phản ứng của Kashi trên những ngón tay, bàn tay, trên lưng và thần kinh hệ của tôi.
Không hề nản chí, tôi kiên tâm thực hành bí thuật Yoga kể trên suốt sáu tháng trường kể từ ngày Kashi qua đời. Một buổi sáng, tôi cùng với vài người bạn đi chơi ở khu Bowbazar tại Calcutta là một khu rất đông người. Như thường lệ, tôi đưa bàn tay lên và lần đầu tiên, tôi cảm thấy có sự trả lời. Một sự rung cảm truyền khắp thân mình tôi khi tôi phát hiện ra một luồng điện chạy trong mấy ngón tay và hai bàn tay tôi. Luồn điện ấy liền truyền lên óc tôi thành một tư tưởng cụ thể và kêu gọi liên tiếp:
- Con là Kashi, con là Kashi đây. Thầy hãy đến với con!
Khi tôi thu thập tinh thần vào chỗ bí huyệt ở quả tim, thì cái tư tưởng ấy trở nên rõ ràng gần như có thể nghe được. Tôi nghe giọng nói hơi khàn khàn đặc biệt của Kashi lập đi lập lại lời kêu gọi của em luôn luôn không ngừng. Tôi nắm lấy cánh tay của một người bạn trong nhóm, là Prokash Das, và mỉm cười với y một cách hứng khởi.
- Hình như tôi đã tìm ra chỗ đầu thai của Kashi!
(Một linh hồn trong trạng thái tinh khiết, có thể biết rõ tất cả. Linh hồn Kashi nhớ rõ mọi đặc điểm của mình hồi còn sống và bắt chước giọng nói khàn khàn của em thuở xưa để cho tôi dễ nhận ra).
Tôi bèn xòe mười ngón tay và đi xoay vòng ở một chỗ trên hai bàn chân tôi để định hướng. Các bạn tôi và người đi đường thấy thế đều buồn cười. Khi tôi vừa đi rẽ vào một con đường nhỏ, thì tôi cảm giác được luồng điện giật nhè nhẹ lăn tăn trong những ngón tay tôi. Tôi thử quay đầu đi ngược chiều để qua một lối khác, thì nguồn điện lại ngưng bặt. Tôi bất giác kêu lên:
- A! Linh hồn Kashi chắc là nằm trong bụng một người mẹ cư ngụ tại con đường này!
Khi chúng tôi đến gần con đường nhỏ nói trên, thì những rung động lăn tăn của luồng điện mỗi lúc càng mạnh thêm và càng rõ rệt hơn trong hai bàn tay tôi. Tôi có cảm giác dường như một viên đá nam châm hấp dẫn tôi từ phía tay mặt của con đường nhỏ này. Khi đi vừa tới cửa một nhà nọ, một sự xúc cảm thình lình xâm chiếm lấy tôi. Tim đập mạnh vì hồi hộp, tôi vừa nín thở vừa gõ cửa với ý nghĩ rằng sự tìm kiếm kiên nhẫn và lạ kỳ của tôi sắp sửa thành công!
Một người gia nô ra mở cửa, và cho biết có chủ y ở nhà, ngay lúc ấy người chủ nhà cũng vừa bước ra để gặp tôi. Tôi không biết phải mở lời như thế nào cho tiện, vì câu hỏi của tôi trong trường hợp này có vẻ như một sự tò mò.
- Thưa ông, có phải bà có thai độ chừng sáu tháng nay?
- Thưa phải.
Nhìn thấy tôi là một tu sĩ xuất gia khoác bộ áo vàng sậm, chủ nhà lễ phép hỏi:
- Xin đại đức cho biết vì sao đại đức biết như vậy?
Tôi bèn kể chuyện về Kashi, và lời hứa của tôi. Người chủ nhà lấy làm ngạc nhiên, và tin lời tôi nói.
- Bà nhà sẽ sinh ra một con trai, nước da trắng, gương mặt hơi rộng bề ngang, và có những khả năng tâm linh khá phát triển.
Tôi nói thế vì tôi chắc rằng đứa bé sẽ giống Kashi như đúc!
Về sau, tôi đến thăm đứa bé, mà cha mẹ nó đặt tên là Kashi. Em bé này giống một cách lạ thường người thiếu sinh yêu mến của tôi ở Ranchi. Khi em vừa thấy tôi, em liền có cảm tình ngay, tình yêu mến thuở xưa lại bộc lộ một cách mãnh liệt hơn trước.
Năm em lên mười tuổi, em bé ấy viết thơ cho tôi, lúc ấy đang ở bên Mỹ, và bày tỏ sự mong ước nồng nhiệt của em là theo con đường tu hành. Tôi liền gửi gấm em cho một vị minh sư trên dãy Tuyết Sơn, vị này hiện nay đang hướng dẫn Kashi tái sinh, và huấn luyện em trên đường Đạo.
Chương Hai
Khi tôi xuất gia theo dòng tu sĩ Swâmi, một hôm Sri Yukteswar có nói với tôi chuyện khá bất ngờ:
- Con có cảm thấy thiếu một người vợ hiền để săn sóc con trong lúc tuổi già chăng? Con nghĩ rằng một người gia trưởng làm một công việc hữu ích để nuôi dưỡng vợ cọn, há lại không được đẹp lòng Thượng Đế sao?
Tôi phản kháng trong sự kinh ngạc:
- Bạch sư phụ, Sư phụ đã biết rằng ước vọng duy nhất của con trong kiếp này là xuất gia tầm đạo kia mà!
Sri Yukteswar cười lớn một cách cởi mở đến nỗi tôi hiểu rằng người chỉ muốn thử thách tôi mà thôi. Đoạn, Sư phụ nói một cách chậm trãi:
- Con hãy nhớ rằng người nào từ bỏ những bổn phận thế gian, phải biện minh cho thái độ của mình bằng cách đảm đương những trách nhiệm nặng nề đối với một gia đình đông hơn nhiều, đó tức là đại gia đình nhân loại.
Tôi vẫn thường nôi cái lý tưởng giáo dục có thể phát triển tất cả mọi khía cạnh của nền giáo dục thông thường, nó chỉ phát triển xác thể và trí tuệ. Những giá trị tinh thần và tâm linh là những điều kiện thiết yếu của hạnh phục, lại hoàn toàn thiếu hẳn trong những chương trình giáo dục chính thức.
Tôi bèn quyết định thành lập một trường học đem cho họ trở nên những người tài đức, vẹn toàn. Tôi bắt đầu thâu nhận bảy thiếu sinh ở Dihika, một thành phố nhỏ ở tỉnh Bengale.
Sau đó một năm, nhờ lòng hào hiệp giúp đỡ của vị quốc vương Kasimbaxar, tôi đã có thể dời lớp hợc của tôi đến Ranchi, và lớp học càng ngày càng đông học trò. Ranchi, thành phố của tỉnh Bihar cách Calcutta độ hai trăm dặm, có một khí hậu tốt lành được liệt vào hàng những nơi khí hậu lành mạnh nhất ở Ấn Độ.
Hoàng cung Kasimabzar ở Ranchi được đổi thành học đường mới của tôi, mà tôi đặt tên là Thiếu Sinh Học Đường. Theo lý tưởng giáo dục của các vị chân sư thời cổ xưa ở Ấn Độ, các đạo viện giữa vườn trung tâm giáo dục ban bố cả hai nên học vấn thế tục và giáo dục tâm linh.
Tại Ranchi, để dạy ban tiểu học và trung học, tôi thiết lập những chương trình gồm cả các môn canh nông, kỹ nghệ và thương mại, không kể những môn kỹ luật thông thường. Các học sinh cũng học những phương pháp Yoga về tập trung tư tưởng và tham thiền và một môn thể dục mệnh danh Yogada, mà tôi đã khám phá những nguyên tắc đại cương vào năm 1916.
Sau khi năm học đầu tiên mãn khóa, những đơn xin gia nhập học năm sau lên đến số hai nghìn thiếu sinh. Nhưng trường học chỉ có đủ chổ nội trú cho độ một trăm học sinh và những lớp mới cho học sinh ngoại trú được tổ chức thêm sau đó.
Tại học đường, tôi phải lo săn sóc những trẻ thiếu nhi và giải quyết những vấn đề gay go về phương diện tổ chức. Những lời nói của đức Christ thường trở lại trí nhớ của tôi: "Ta nói thật cho các ngươi biết, người nào vì ta và chánh nghĩa của ta mà từ bỏ nhà cửa, hay anh em, chị em, cha mẹ, con cái, hay đất vườn của họ sẽ nhận được ngay trong đời này nhiều gấp trăm lần những nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái, đất ruộng cùng với những sự khủng bố ngược đãi của thế gian, và trong đời sau họ sẽ được sự sống trường cửu muôn đời".
Sri Yukteswar bình luận những lời ấy như sau:
- Người hành giả đã từ bỏ hôn nhân và cuộc sống gia đình sẽ đổi những nỗi lo âu phiền lụy của một tiểu gia đình và của những hoạt động trần gian để đảm đương lấy một trách nhiệm lớn lao hơn, là phụng sự nhân loại, trong công trình này y thường đụng chạm với sự hiểu lầm của người đời, những trái lại, y sẽ nhận được phần thưởng là một sự an lạc bên trong thuộc về tính chất thiêng liêng.
Có lần cha tôi đến Ran chi để thăm tôi sau một thời gian im lặng kéo dài, vì tôi đã làm trái ý cha tôi khi tôi từ chối không nhận một địa vị của người dành cho tôi trong Công ty Hỏa Xa. Cha tôi nói:
- Con hỡi, cha đã thông cảm sự chọn lựa của con. Cha sung sướng mà thấy con hoạt động giữa những thiếu nhi vui tươi và hồn nhiên. Cha nhìn nhận đó mới là chí hướng của con, thay vì những văn phòng của Công ty với những bản đồ vô tri bất động.
Cha tôi chỉ một nhóm độ mười hai thiếu nhi đang quanh quẩn bên cạnh tôi:
- Cha chỉ có tám người con, nhưng cha hiểu những gì con đang kinh nghiệm!
Trường có một khu vườn độ hai mươi sáu mẫu, tại đây các giáo viên và học trò cùng làm việc trong những lớp học lộ thiên, dưới bóng mát của các cây cổ thụ giữa một khung cảnh thiên nhiên đầy thú vị.Vào năm 1946, trường đã sống được hai mươi tám năm.
Một trong những quan khách tai mắt đến viếng trường, trong năm đầu tiên, là tu sĩ Pranabâ, "vị tu phân thân" ở Bénarès. Tu sĩ lấy làm vô cùng cảm động mà thấy những lớp học lộ thiên dưới bóng mát của cây cối sầm uất, và những thiếu nhi tật ngồi tham thiền mỗi buổi chiều dưới gốc cây giữa cảnh thanh u tịch mịch. Tu sĩ nói:
- Tôi lấy làm sung sướng mà thấy lý tưởng giáo dục thanh thiếu niên do đức Lahiri Mahâysaya chủ trương, được đem ra thực hành tại trường này. Cầu xin ân huệ của sư phụ ta đến với con.
Một thiếu niên đứng gần bên tôi lúc ấy bèn hỏi vị tu sĩ:
- Bạch đại đức, sau này con có thể trở nên một tu sĩ chăng? Con có thể hiến dâng cuộc đời con cho Thượng Đế chăng?
Tu sĩ Pranabâ mỉm cười một cách nhẹ nhàng, và phóng tầm nhãn quang nhìn về tương lai:
- Con hỡi, khi con trưởng thành, có một vị hôn thê rất đẹp sẽ chờ đợi con.
Quả thật, người thiếu sinh về sau đã thành gia thất say nhiều năm ước nguyện xuất gia để theo dòng tu sĩ Swâmi.
Ít lâu sau cuộc viếng thăm của tu sĩ Pranabâ, tôi theo cha tôi đến tịnh thất của tu sĩ ở Calcutta. Khi đó, lời tiên tri của tu sĩ thốt ra từ nhiều năm trước mới trở lại ký ức của tôi. Hồi đó người đã nói rằng:
- Tôi sẽ gặp lại con và cha con một ngày về sau.
Khi cha tôi bước vào phòng của tu sĩ, người liền đứng dậy và ôm chầm lấy cha tôi một cách rất trọng hậu và quý mến.
- Bhagabati, anh nên tự hào về cái phước lớn của anh. Anh há chẳng rằng con anh đang lao mình vào lòng của đấng Vô cùng?
Tôi ngượng thầm vì được khen tặng dường ấy trước mặt cha tôi. Tu sĩ Pranabâ mà tôi đã gặp với một vóc dáng mạnh khỏe lực lưỡng trong cuộc viếng thăm lần đầu ở Bénarès trước đây, nay đã có vẻ già nhiều, tuy người vẫn còn đi đứng ngay thẳng. Tôi hỏi và nhìn tu sĩ ngay vào tận mắt:
- Bạch đại đức, đại đức có cảm thấy sự già nua đến gần hay chăng? Khi xác thân yếu dần, sự chiêm ngưỡng Thiêng Liêng có bị thương tổn chút nào hay chăng?
Tu sĩ mỉm cười một cách êm ái:
- Đấng Thiêng Liêng còn gần tôi hơn bất cứ lúc nào!
Sự quả quyết mãnh liệt này gây một ấn tượng mạnh mẽ trong tâm hồn tôi. Người nói tiếp:
- Tôi vẫn thụ hưởng hai món hưu bổng: một của Bhagabati và một của Thượng Đế!
Vừa đưa một ngón tay chỉ lên trời, tu sĩ liền rơi vào trạng thái xuất thần đại định và gương mặt người chiếu diệu một vầng ánh sáng thiêng liêng huy hoàng: thật là một cách trả lời hùng biện nhất.Nhận thấy phòng của tu sĩ Pranabâ chứa đầy những chậu cây, và những hột giống, tôi hỏi những thứ ấy để dùng làm gì? Tu sĩ giải thích:
- Tôi sẽ rời khỏi Bénarès một cách vĩnh viễn để lên dãy Tuyết Sơn, tại đó tôi sẽ lập một đạo viện cho các đệ tử tôi. Những hột giống này là để sản xuất các loại rau trái. Các đệ tử tôi sống rất giản dị, và dành hết tất cả thời giờ cho việc tu luyện. Ở đời còn gì cần hơn nữa?
Cha tôi hỏi tu sĩ có định trở về Calcutta một ngày gần đây không? Tu sĩ đáp:
- Không bao giờ. Theo lời tiên đoán của Đức Lahiri Mahâsaya, năm nay là năm mà tôi phải rời khỏi đất Bénarès mến yêu của tôi đển lên dãy Tuyết Sơn, tại đó tôi sẽ bỏ xác trong kiếp này.
Nghe đến đó, tôi rưng rưng hai giòng nước mắt, nhưng tu sĩ vẫn mỉm cười trong yên lặng. Người có vẻ rất ung dung tự tại như một con người con yêu của Được Phật Mẫu, đặt vận mạng mình trong bàn tay của ngài. Một người Yogi chân chính, đã đạt tới sự giác ngộ tâm linh, không còn sợ những năm tàn tháng lụn.
Người có thể đổi mới những tế bào trong thân thể mình tùy ý, tuy nhiên, đôi khi người cũng không màng trì hoãn sự tàn phá của thời gian mà cứ để cho nghiệp quả tự do hành động và dứt tuyệt ngay trong kiếp sống hiện tại, để không còn phải lo trả trong một kiếp khác.
Vài tháng sau đó, tôi gặp một người bạn cũ tên là Sanandan, đệ tử của tu sĩ Pranabâ. Y vừa khóc vừa nói:
- Sư phụ tôi không còn nữa. Sau khi đã thành lập đạo viện gần Rishikesh, người dạy chúng tôi trong tình thương. Khi chúng tôi đã yên nơi chỗ và đang tiến bộ mau chóng dưới sự hướng dẫn của người, thì một ngày nọ Sư phụ mở tiệc lớn đãi một số đông người ở Rishikesh. Tôi mới hỏi lý do vì sao Sư phụ lại làm như vậy thì người nói:
- Đó sẽ là một dịp long trọng cuối cùng của Thầy. Lúc đó, tôi không hiểu hết ý nghĩa những lời nói của Sư Phụ. Ngày đại nhật hôm ấy, Sư phụ tôi dặn mua rất nhiều lương thực. Chúng tôi đãi ăn hơn hai ngàn người. Kế đó, sư phụ ngồi lên một bật thềm cao và ứng khẩu thuyết pháp về đấng Tuyệt đối. Thuyết pháp xong, trước mặt mọi người, Sư phụ day qua phía tôi lúc ấy đang đứng bên cạnh người và nói với một giọng mạnh mẽ lạ thường:
- Con hãy sẵn sàng, Sanandan, Thầy sắp bỏ xác.
Sau một cơn im lặng vì ngạc nhiên, tôi la lên:
- Bạch sư phụ, đừng, sư phụ đừng làm thế!
Đám quần chúng, ngạc nhiên trước câu chuyện lạ lùng đó, trố mắt nhìn chúng tôi một cách tò mò. Sư phụ mỉm cười nhìn tôi, nhưng nhãn quang của người đã hướng về cõi vô cùng. Người đáp:
- Con đừng ích kỷ, và đừng nên sầu thảm vì sự ra đi của Thầy. Bây giờ con hãy vui lên vì Thầy sắp trở về với đấng Tuyệt đối!
Trong một hơi thở dài, sư phụ nói thêm:
- Thầy sẽ tái sinh trở lại một ngày gần đây. Sau khi đã trải qua một thời kỳ ngắn ngủi trong một niềm Phúc Lạc vô biên, Thầy sẽ trở lại thế gian để theo đức Bâbâji. Không bao lâu, con sẽ được biết Thầy chuyển kiếp ở đâu và vào lúc nào linh hồn Thầy lại khoác lấy một thể xác mới.
Sư phụ lại kêu lên:
- Sanadan con hỡi, Thầy từ giã thể xác bằng đệ nhị pháp môn Kriyâ Yoga!
(Pháp môn Kriyâ Yoga cấp đẳng thứ nhì, do đức Lahiri Mahâysaya truyền dạy, giúp cho người hành giả rời khỏi và trở về thể xác tùy ý muốn. Những tu sĩ Yogi tiến hóa cao dùng pháp môn này để bỏ xác một cách có ý thức vào lúc từ trần, mà họ luôn luôn biết trước)
Khi ấy, Sư phụ mới nhìn về đám đông người và đưa tay làm một cử chỉ ban ân huệ. Sau khi đã thu thập tinh thần nhìn về bên trong theo phép hồi quang phản chiếu, người bèn ngồi yên bất động.
Chính vào lúc mà quần chúng tưởng rằng người đang lọt vào trạng thái đại định xuất thần, thì Sư phụ đã bỏ xác và hòa hợp linh hồn với Đại Thể vô biên của vũ trụ. Các đệ tử đến sờ vào thân mình sư phụ, vẫn còn giữ tư thế liên hoa, nhưng xác thân đã lạnh, linh hồn người đã thoát lên cõi giới trường tồn bất diệt.
Tôi bèn hỏi Sanandan về địa điểm tại đó Sư phụ y sẽ tái sinh trở lại. Y đáp:
- Đó là một điều bí mật mà tôi không đước tiết lộ cho bất người nào. Sau này có lẽ anh sẽ tự mình biết được điều đó bằng cách này hay cách khác.
Về sau, tu sĩ Keshabâ cho tôi biết rằng tu sĩ Pranabâ ít năm sau khi tái sinh trở lại, đã đến Badrinârayan, trên dãy Tuyết Sơn, để gia nhập nhóm đệ tử cao cấp của đức Bâhâji.
- Các em đừng lội xuống ao. Các em hãy tắm bằng các lấy gáo dội nước lên mình mà thôi.
Tôi dặn các thiếu sinh trường học Ranchi của tôi, khi các em cùng với tôi đi dạo lên một ngọn đồi gần bên, cách đó độ mười hai cây số.
Trên đồi có một cái ao đầy nước vó vẻ hấp dẫn, nhưng khi nhìn thấy ao, tôi có cảm giá rờn rợn một cách bí mật, không thể giải thích lý do. Phần đông các thiếu sinh nghe theo lời khuyên của tôi, nhưng có vài em bị quyết rũ bởi nước trong và mát, khi các em vừa lặn xuống ao thì những con rắn liền vây phủ chung quanh, để thoát thân các em phải hối hả nhảy vọt lên bờ một cách thật buồn cười.
Tắm xong, tôi đưa các thiếu sinh lên đồi và chúng tôi dùng bữa ăn trưa trên bãi cõ. Ngồi dưới bóng mát của một cây to, tôi bị các em vấn nan với nhiều câu hỏi, và các em tưởng rằng tôi có nhiều linh cảm thiêng liêng sau vụ bị rắn rượt dưới ao. Một em hỏi tôi:
- Bạch Thầy, sau này con có thể nào xuất gia tu hành theo Thầy được không?
- Không, tôi đáp. Cha mẹ em sẽ bắt em về, và sau này em sẽ lập gia đình.
Em không tin, và liền phản đối kịch liệt:
- Con chỉ bị bắt về khi nào con chết.
Nhưng sau đó vài tháng, cha mẹ em tới trường bắt em về, mặc dầu em kháng cự mãnh liệt. Về sau, em ấy đã lập gia đình.
Sau khi tôi đã trả lời nhiều câu hỏi, một thiếu sinh tên là Kashi độ mười hai tuổi, mối bắt đầu hỏi tôi. Em là một học trò giỏi và được mọi người thương mến.
- Bạch Thầy, số mạng của con sau này ra sao?
- Em sẽ qua đời một ngày gần đây.
Câu trả lời này vô tình từ miệng tôi thốt ra mà tôi không cưỡng lại được. lời tiên tri bất ngờ và chẳng lành đó làm cho tất cả nhóm thiếu sinh đều xúc đô ng và buồn thảm. Tôi hối hận trong âm thầm và từ chối không trả lời thêm những câu hỏi khác nữa.
Khi trở về trường, Kashi đến tìm tôi trong phòng riêng.
- Bạch Thầy, nếu con chết, Thầy có tìm lại con chăng khi con tái sinh trở lại, để dìu dắt con trên đường đạo?
Em vừa nói vừa khóc nức nở.
Tôi bắt buộc phải từ chối việc nhận lãnh một trách nhiệm nặng nề như thế về phương diện huyền linh. Nhưng trong những tuần lễ sau đó, Kashi cứ theo nài van xin tôi một cách khẩn thiết đến nỗi tôi phải bằng lòng chấp thuận để an ủi em. Tôi nói:
- Được rồi, nếu Thượng Đế chịu giúp Thầy, Thầy hứa sẽ cố gắng hết sức để tìm lại em.
Trong những tháng nghỉ hè, tôi phải đi một chuyến du lịch ngắn hạn. Rất buồn vì không đem Kashi đi theo, tôi gọi em vào phòng và căn dặn em đừng bỏ trườngđi đâu, mà phải ở lại trong bầu không khí tâm linh tốt lành của trường. Tôi cảm thấy rằng nếu em đừng về nhà trong những tháng hè, em có thể tránh khỏi điều tai họa đang chờ đợi em.
Khi tôi vừa rời khỏi Ranchi, thì cha của Kashi đã đến trường. Trong suốt hai tuần lễ, y cố gắng thuyết phục Kashi hãy trở về nhà thăm mẹ ở Calcutta trong bốn ngày, và hứa sẽ đem em trở lại trường. Kashi từ chối không chịu đi. Sau cùng người cha nói rằng y sẽ nhờ cảnh sát can thiệp để bắt em trở về. Lời hăm dọa đó làm cho Kashi phân vân, và sợ rằng điều đó sẽ gây tai tiếng không tốt cho trường, em đành phải chịu vâng lời.
Vài ngày sau, tôi trở về trường và khi tôi nghe nói Kashi đã bị cha đến bắt đi, tôi liền hối hả đáp chuyến xe lửa đi Calcutta. Khi đến nơi, tôi thuê một chiếc xe ngựa. Khi cỗ xe đi qua cầu Howrah trên sông Hằng, thì... lạ thay, tôi thấy cha của Kashi đang mặc đồ tang. Tôi bảo người phu xe ngừng lại, tôi nhảy vọt ra ngoài xe và phóng đến trước mặt người cha vô phước.
- Kìa, ông già sát nhân! Tôi kêu lên với một giọng hơi vô lý, ông đã giết chết học trò của tôi!
Người cha đã hiểu sự lỗi lầm của mình khi cưỡng bách con y trở về Calcuta. Trong những ngày đầu tiên về ở thành phố này, Kashi đã ăn nhằm thức ăn bị nhiễm trùng, làm cho em mắc bịnh thời khí và đã trút linh hồn.
Tình thương của tôi đối với Kashi và lời hứa của tôi sẽ tìm lại em khi em đầu thai trở lại, ám ảnh tôi ngày đêm. Bất cứ tôi đi đâu, tôi đều thấy gương mặt của em hiện ra trước mắt tôi. Tôi bắt đầu cuộc tìm kiếm một cách sốt sắn tuyệt vọng cũng như tôi đi tìm mẹ tôi vậy.
Tôi cảm thấy rằng, nếu Thượng Đế đã cho tôi có một lý trí, tôi có thể xử dụng nó theo một chiều hướng nhằm mục đích khám phá những luật huyền bí cai quản sự tác động của một linh hồn ở bên kia cửa Tử, như vậy để trắc nghiệm cái khả năng và bản lĩnh mà tôi đã thu thập được nhờ pháp môn Yoga.
Từ nay Kashi là một linh hồn, rung động với những ước vọng chưa được thỏa mãn, một điểm linh quang phưởng phất trong số hằng triệu những linh hồn khác trên cõi Trung giới. Giữa tất cả những âm ba rung động toát ra từ vô số linh hồn khác, tôi làm cách nào để có thể tiếp nhận sự rung động của linh hồn Kashi?
Sử dụng một bí thuật Yoga, tôi tập trung tất cả tình thường của tôi đến linh hồn Kashi xuyên qua bí huyệt của Linh Nhãn nằm ở giữa hai chân mày. Dùng hai bàn tay và các ngón tay làm những dây "ăng ten", tôi đi xoay vòng ở một chỗ trên hai bàn chân để định phương hướng do đó tôi phải tìm ra linh hồn đã nhận được thông điệp của tôi.
Bằng cách đó tôi hy vọng nhận được một sự trả lời, trong trường hợp này, tôi dùng bí huyệt ở quả tim làm cái trạm thu thanh vô tuyến.
(Các nhà đạo sĩ Yogi đã từng biết rằng ý chí con người, phóng ra từ chỗ bí huyệt ở giữa hai chân mày, có thể dùng làm phương tiện di chuyển cho những luồng sóng tư tưởng. Khi cảm giác được tập trung một cách nhẹ nhàng vào bí huyệt ở quả tim, bí huyệt này sẽ có tác động như một trạm vô tuyến thu thanh có thể tiếp nhận những thông điệp của những người khác, dầu họ ở gần hay ở cách xa.
Trong trường hợp thần giao cách cảm, những rung động tinh vi của tư tưởng được truyển đi từ bộ óc này sang bộ óc khác xuyên qua chất dĩ thái cõi trung giới (tế nhị hơn nhiều), và chất dĩ thái hồng trần (nặng trọc hơn), tạo nên những luồng sóng từ điển và kế đó đổi thành những luồng sóng tư tưởng trong trí của tiếp nhận thông điệp này).
Trực giác cho tôi biết rằng Kashi không bao lâu sẽ đầu thai trở lại thế gian, và nếu tôi cứ tiếp tục kêu gọi không ngừng, thì linh hồn em sẽ đáp ứng. Tôi biết rằng tôi sẽ cảm xúc được một cách chắn chắn mọi phản ứng của Kashi trên những ngón tay, bàn tay, trên lưng và thần kinh hệ của tôi.
Không hề nản chí, tôi kiên tâm thực hành bí thuật Yoga kể trên suốt sáu tháng trường kể từ ngày Kashi qua đời. Một buổi sáng, tôi cùng với vài người bạn đi chơi ở khu Bowbazar tại Calcutta là một khu rất đông người. Như thường lệ, tôi đưa bàn tay lên và lần đầu tiên, tôi cảm thấy có sự trả lời. Một sự rung cảm truyền khắp thân mình tôi khi tôi phát hiện ra một luồng điện chạy trong mấy ngón tay và hai bàn tay tôi. Luồn điện ấy liền truyền lên óc tôi thành một tư tưởng cụ thể và kêu gọi liên tiếp:
- Con là Kashi, con là Kashi đây. Thầy hãy đến với con!
Khi tôi thu thập tinh thần vào chỗ bí huyệt ở quả tim, thì cái tư tưởng ấy trở nên rõ ràng gần như có thể nghe được. Tôi nghe giọng nói hơi khàn khàn đặc biệt của Kashi lập đi lập lại lời kêu gọi của em luôn luôn không ngừng. Tôi nắm lấy cánh tay của một người bạn trong nhóm, là Prokash Das, và mỉm cười với y một cách hứng khởi.
- Hình như tôi đã tìm ra chỗ đầu thai của Kashi!
(Một linh hồn trong trạng thái tinh khiết, có thể biết rõ tất cả. Linh hồn Kashi nhớ rõ mọi đặc điểm của mình hồi còn sống và bắt chước giọng nói khàn khàn của em thuở xưa để cho tôi dễ nhận ra).
Tôi bèn xòe mười ngón tay và đi xoay vòng ở một chỗ trên hai bàn chân tôi để định hướng. Các bạn tôi và người đi đường thấy thế đều buồn cười. Khi tôi vừa đi rẽ vào một con đường nhỏ, thì tôi cảm giác được luồng điện giật nhè nhẹ lăn tăn trong những ngón tay tôi. Tôi thử quay đầu đi ngược chiều để qua một lối khác, thì nguồn điện lại ngưng bặt. Tôi bất giác kêu lên:
- A! Linh hồn Kashi chắc là nằm trong bụng một người mẹ cư ngụ tại con đường này!
Khi chúng tôi đến gần con đường nhỏ nói trên, thì những rung động lăn tăn của luồng điện mỗi lúc càng mạnh thêm và càng rõ rệt hơn trong hai bàn tay tôi. Tôi có cảm giác dường như một viên đá nam châm hấp dẫn tôi từ phía tay mặt của con đường nhỏ này. Khi đi vừa tới cửa một nhà nọ, một sự xúc cảm thình lình xâm chiếm lấy tôi. Tim đập mạnh vì hồi hộp, tôi vừa nín thở vừa gõ cửa với ý nghĩ rằng sự tìm kiếm kiên nhẫn và lạ kỳ của tôi sắp sửa thành công!
Một người gia nô ra mở cửa, và cho biết có chủ y ở nhà, ngay lúc ấy người chủ nhà cũng vừa bước ra để gặp tôi. Tôi không biết phải mở lời như thế nào cho tiện, vì câu hỏi của tôi trong trường hợp này có vẻ như một sự tò mò.
- Thưa ông, có phải bà có thai độ chừng sáu tháng nay?
- Thưa phải.
Nhìn thấy tôi là một tu sĩ xuất gia khoác bộ áo vàng sậm, chủ nhà lễ phép hỏi:
- Xin đại đức cho biết vì sao đại đức biết như vậy?
Tôi bèn kể chuyện về Kashi, và lời hứa của tôi. Người chủ nhà lấy làm ngạc nhiên, và tin lời tôi nói.
- Bà nhà sẽ sinh ra một con trai, nước da trắng, gương mặt hơi rộng bề ngang, và có những khả năng tâm linh khá phát triển.
Tôi nói thế vì tôi chắc rằng đứa bé sẽ giống Kashi như đúc!
Về sau, tôi đến thăm đứa bé, mà cha mẹ nó đặt tên là Kashi. Em bé này giống một cách lạ thường người thiếu sinh yêu mến của tôi ở Ranchi. Khi em vừa thấy tôi, em liền có cảm tình ngay, tình yêu mến thuở xưa lại bộc lộ một cách mãnh liệt hơn trước.
Năm em lên mười tuổi, em bé ấy viết thơ cho tôi, lúc ấy đang ở bên Mỹ, và bày tỏ sự mong ước nồng nhiệt của em là theo con đường tu hành. Tôi liền gửi gấm em cho một vị minh sư trên dãy Tuyết Sơn, vị này hiện nay đang hướng dẫn Kashi tái sinh, và huấn luyện em trên đường Đạo.
#24
Gửi vào 07/06/2011 - 03:38
Định Luật Phép Lạ
Chương Ba
Văn hào Leon Tolstoi có viết một chuyện lý thú nhan đề: "Ba người Ẩn Sỉ, The Three Hermits" như sau:
"Có ba người ẩn sĩ già sống trên một hòn đảo. Họ sống rất đơn giản và chỉ thốt lên lời cầu nguyện duy nhất này: "Chúa trời có Ba Ngôi, chúng con có Ba người, xin Ngài thương xót chúng con!" Những phép mầu thường xuất hiện trong khi họ thốt lên lời cầu nguyện đơn sơ đó. Vị giám mục địa phương nghe nói về ba người ẩn sĩ và lời cầu nguyện khó nghe ấy, mới quyết định tìm đến nơi để dạy cho họ biết cầu nguyện đúng theo nghi thức tôi giáo.
(Chuyện này dường như có một nguồn gốc lịch sử: Vị giám mục gặp ba người ẩn sĩ trên đường biển từ Archangel đến tu viện Slovetsky, ở cửa sông Dvian).
Ông bèn đi thuyền đến đảo, nói cho ba người ẩn sĩ biết rằng lời cầu nguyện của họ không đúng phép, và dạy họ nhiều bài cầu nguyện thông thường theo nghi lễ ở giáo đường. Kế đó, ông giám mục mới bước lên thuyền và rời khỏi bến. Nhưng độ một lúc, ông quay đầu lại thì thấy một ánh sáng rạng ngời nhấp nhô trên mặt nước và đến mỗi lúc càng gần. Khi ấy, ông bèn nhận ra ba người ẩn sĩ đang cùng nắm tay nhau lướt trên mặt biển gợn sóng và cố gắng đuổi theo kịp thuyền của ông.
Khi họ vừa đến nơi, họ kêu lên:
- Thưa giám mục, chúng tôi quên mất những bài kinh cầu nguyện mà ngài đã dạy chúng tôi, và đến xin ngài dạy lại cho nghe một lần nữa!
Vị giám mục lấy làm kinh dị, bèn lắc đầu đáp rất khiêm tốn:
- Hỡi các bạn, các bạn hãy tiếp tục sống với bài cầu nguyện cũ của các bạn trước kia!
Bằng cách nào ba người ẩn sĩ có thể đi trên mặt nước?
Bằng cách nào đấng Ki Tô đã phục sinh sau khi bị đóng đinh trên Thánh giá?
Bằng cách nào các vị đạo sư Ấn Độ đã làm được những điều huyền diệu, lạ thường?
Cho đến nay, khoa học vẫn chưa tìm ra sự giải đáo, tuy rằng với thế hệ nguyên tử, trước thông minh của loài người đã tiến bộ vượt bức, và danh từ "bất khả" càng ngàng càng bớt áp dụng trong ngôn ngữ của họ.
Thánh kinh Vệ Đà của Ấn Độ dạy rằng cõi thế giới vật chất hữu hình tác động theo định luật căn bản của Ảo Giác, thay Maya, tức là định luật tương đối, Nhị Nguyện. Thượng Đế hay Nguồn sống Duy Nhất, vốn Tuyệt Đối, độc nhất vô nhị, nhưng để biểu lộ ra thiên hình vạn trạng trong cơ sáng tạo vũ trụ càn khôn, ngài phải khoác lấy một bức màn hư ảo giả tạo. Bức màn ảo ảnh ảo giác có tính chất nhị nguyên tương đối đó, gọi là Maya. Nhiều phát minh khoa học vĩ đại của thời buổi hiện nay đã xác nhận lời tuyên bố giản dị trên đây của các bậc đạo sư Ấn Độ thời cổ.
Định luật tác động vận chuyển của Newton là một định luật của ảo giác (Maya): "Mỗi tác động đều luôn luôn gây nên một sức phản ứng tương đương và ngược chiều. Những tác động hỗ tương của bất cứ hai vật thể nào đều luôn luôn ngang sức và đối nghịch nhau". Như vậy, tác động và phản ứng đều ngang bằng sức mạnh với nhau luôn luôn. "không thể có một sức mạnh đơn phương và một chiều, mà luôn luôn phải có một cặp lưỡng nguyên, gồm hai đối tượng song đôi và mâu thuẫn".
Tất cả những sức mạnh thiên nhiên đều có tính chất nhịn nguyên tương đối, tức phản ảnh cái nguyên lý ảo giảc hay Maya. Thí dụ như điện lực là một hiện tượng xô đẩy và hấp dẫn, âm điện tử và dương điện tử là những đối cức lữơng nguyên của điện lực.
Một nguyên tử vật chất cũng giống như quả địa cầu, là một từ thạch với hai đối cực âm và tác động của luật âm dương lưỡng cực nhị nguyên. Không một định luật vật lý, hóa học, hay khoa học nào mà không theo những nguyên tắc bất dịch bao hàm những sức mạnh mâu thuẫn hay đối tượng lưỡng cực nhị nguyên đó.
Như vậy, khoa vật lý học không thể đặt ra những định luật nào ngoài vòng hư ảo (Maya): đó chính là cái thực chất căn bản của cơ Sáng Tạo. Chính cõi thiên nhiên vốn là Hư Ảo, khoa học tự nhiên, cố hữu của nó. Trên lãnh vực riêng tự của nó, nó vốn vô cùng vô tận.
Các nhà bác học tương lai không thể làm gì hơn là thăm dò hết khía cạnh này đến khía cạnh khác của cõi thiên nhiên thiên hình vạn trạng. Như thế, khoa học vẫn luôn luôn dò dẫm không ngừng, nhưng không thể nào đạt tới chỗ tuyệt đích, toàn mỹ.
Thật vậy, khoa học có thể khám phá ra những định luật của một vũ trụ đã có sẵn và đang hoạt động, nhưng lại bất lực không thể tìm ra dấu vết của đấng Sáng Tạo và Chủ Tể của vũ trụ càn khôn. Người ta đã nhận xét những tác động vĩ đại của hấp dẫn lực và điện lực, nhưng hấp dẫn lực và điện lực là gì, thì không ai biết được.
Nhà bác học Marconi cũng đã thú nhận sự bất lực của khoa học trong việc tìm hiểu cái nguyên nhân cùng tột của vạn vật. Ông nói: "Khoa học hoàn toàn không thể giải đáp những bí quyết của Sự Sống. Đó là một điều tuyệt vọng đáng sợ nếu người ta không có đức tin. Sự bí mật của Đời sống con người và vạn vật là một bài toán khó khăn vĩ đại nhất mà người ta còn phải tìm ra sự giải đáp"
Vướt qua bức màn ảo giác (Maya) là cái công trình mà các bậc thánh nhân từ nghìn xưa đã từng đặt ra cho loài người. Thoát lên khỏi cảnh giới nhị nguyên tương đối và đạt tới cõi nhất nguyên của con người. Những ai còn bám lấy hư ảo của vũ trụ phải chấp nhận định luật tương đối nhị nguyên của nó:
Sinh tử, thịnh suy, thăng giáng, vui buồn, sướng khổ, thiện ác, thị phi, vinh nhục. Cái vòng lẩn quẩn đó sẽ trở nên vô vị, nhàm chán sau khi con người đã trải qua vài ngàn kiếp sinh tử luân hồi. Chừng đó, con người mới bắt đầu tìm kiếm những gì ở bên ngoài vòng trói buộc của Hư Ảo (Maya).
Dẹp tan bức màn Hư Ảo, tức là khám phá được bí quyết của đời sống. Chỉ co người nào thoát ra khỏi cớn ảo giác để tìm thấy chân tướng của vũ trụ, mới là người đã hợp nhất với Thượng Đế. Trái lại, tất cả những người khác đều hãy còn chấp mê hình thức sắc tướng. Bao giờ mà con người còn bị lệ thuộc những ảo giác của cõi giới nhị nguyên thì y hãy còn tôn thờ thần nữ Maya đa hình đa dạng, y không thể biết được Thượng đế hay Chân Lý tuyệt đối.
Ảo Giác (Maya) trong con người được biểu hiện dưới hình thức Vô Minh (Avidya). Ảo Giác hay Vô Minh không bao giờ tiêu diệt được bằng sự phân tích hay khẳng định của lý trí, mà chỉ bằng sự đạt tới trại thái tâm thức đại định gọi là Nirvikalpa samadhi. Các nhà tiên tri thời cổ, các bậc thánh nhân hiền triết của tất cả mọi thế hệ và mọi địa phương, đều đã từng phát ngôn từ trạng thái tâm thức siêu đẳng đó...
Nhà tiên tri Exekiel nói: "Sau đó, ngài đưa tôi đến cổng vào, cổng này hướng về phương đông, hãy biết rằng sự huy hoàng của Chúa Trời đến từ phương đông, và giọng nói của ngài như âm thanh của nhiều giòng nước, và trái đất chói rạng với sự huy hoàng của ngài".
Xuyên qua thiên nhãn ở giữa trán (phương đông), người đạo sị đưa tâm thức của mình vào trạng thái toàn thông, lắng nghe tiếng Diệu Âm (Aum), tức âm thanh huyền diệu của nhiều "giòng nước", những chấn động của ánh sáng hợp thành sự thật duy nhất của cơ Sáng Táo.
Trong số tỷ ức những bí mật của vũ trụ, thì hiện tượng huyền diệu nhất là ánh sáng. Không như những làn sóng âm thanh, mà sự di chuyển phải cần đến không khí hay một chất trung gian nào đó, những âm ba của ánh sáng di chuyển tự do xuyên qua những khoảng trống của không gian vô tận. Ánh sáng luôn luôn vẫn là một sức mạnh của thiên nhiên tế nhị nhất và tự do nhất không bị lệ thuốc vật chất.
Theo quan niệm của Einstein, tốc lực của ánh sáng (ba trăm ngàn cây số trong một giây đồng hồ) cai quản toàn thể Thuyết tương đối. Ông chứng minh bằng số học rằng đối với tâm trí hữu hạn của con người, tốc lực của ánh sáng là yếu tố cố định duy nhất của một vũ trụ luôn luôn biến dịch.
Tất cả những quan niệm của con người về thời gian và Không gian đều tùy thuộc nơi yếu tố cố định là tốc lực của ánh sáng. Thời gian và không gian vốn không phải là vô cùng, trường cửu như người ta vẫn tưởng từ trước đến nay, mà là những yếu tố tương đối và hữu hạn.
Với những phương trình của ông, Einstein đã loại bỏ ra khỏi vũ trụ tất cả mọi sự thật cố hữu, trừ ra sự thật cố hữu của ánh sáng. Trong thuyết Từ Trường Hợp Nhất (Unified Field Theory), nhà bác học này đã thể hiện trong một công thức toán học những định luật hấp dẫn và điện từ.
Đúc kết cơ cấu của vũ trụ lại thành những trạng thái khác biệt của một định luật duy nhất, Einstein đã cùng đồng quan điểm với các bậc thánh nhân thờ cổ, các ngài đã từng tuyên bố rằng bản chất duy nhất của vũ trụ vốn là một ảo giác (Maya) đa hình đa dạng.
Từ Thuyết Tương Đối của Einstein, mới xuất hiện những khả năng thám hiểm hột nguyên tử bằng phương pháp toán học. Những nhà bác học lỗi lạc hiện nay đã mạnh dạn quả quyết rằng không những hột nguyên tử chỉ là tinh lực chứ không phải là vật chất, mà thực chất của nguyên tử lực cũng chỉ là trí lực hay tư tưởng mà thôi.
Sir James Jeans viết trong quyển "Vũ trụ huyền bí": "Trào lưu tư tưởng hiện đại đang hướng về một sự thật trừu tượng này, là bản chất của vũ trụ có vẻ giống như một tư tưởng lớn, thay vì là một guồng máy vĩ đại".
Như vậy, khoa học cận đại của thế kỷ 20 đã nói không khác với kinh Vệt Đà thời thượng cổ! Bắt nguồn từ lập luận khoa học, người ta hãy lãnh hội lấy cái chân lý này, là vũ trụ vật chất vốn không có thật, mà bản chất của nó vốn là Maysa, hay Ảo Giác. Dưới sự phân tích tỉ mỉ, tất cả những ảo tưởng về sự thật của vũ trụ đều tiêu tan.
Trong phương trình bất hủ E = MC2 của ông cho thấy sự tương được của trọng lượng và năng lượng, Einstein chứng minh rằng năng lực chứa đựng trong mọi phân tử vật chất vốn bằng trọng lượng của nó nhân với bình phương của tốc lực ánh sáng. Sự giải tỏa nguyên tử lực được thực hiện bằng sự hủy diệt những phân tử vật chất. Chính sự thực hiện này đã khai sinh ra một Thế hệ Nguyên Tử.
Tốc lực ánh sáng là một tiêu chuẩn số học cố định, không phải bởi vì có một giá trị tuyệt đối trong ba trăm ngàn cây số một giây đồng hồ, mà bởi vì không một vật thể nào, mà trọng lượng gia tăng vói tốc lực di chuyển của nó, có thể đạt tới tốc lực của ánh sáng. Nói cách khác: chỉ những vật thể nào có một trọng lượng vô hạn định mới có thể di chuyển với tốc lực của ánh sáng.
Quan niệm đó đưa chúng ta đến Định luật của Phép lạ.
Những bậc Chân Sư có thể hiện hình, hay tàng hình, cùng làm cho những đồ vật bỗng dưng xuất hiện hay giải thể, và có thể di chuyển trong không gian với tốc lực ánh sáng, đều đã thực hiện cái điều kiện căn bản đó, tức là: trọng lượng của các ngài vốn vô giới hạn.
Tâm thực của một người đạo sĩ thượng thặng luôn luôn đồng hóa một cách dễ dàng, không phải với một thể xác chật hẹp, trọng trược, mà với toàn diện cơ cấu của vũ trụ. Sức hấp dẫn tự nhiên vốn bất bất lực không thể bắt buộc một vị đạo sĩ biểu lộ đặc tính của trọng lượng, nó vốn là cái sức nặng làm cho mọi vật thể bị trì kéo xuống mặt đất.
Người nào tự biết mình như một Chân Ngã thiêng liêng, không còn bị lệ thuộc những giới hạn gò bó của một xác thân trong thời gian và không gian. Cái ngục tù của thể xác đã bị tan rã trước tâm thức siêu đẳng của Chân Ngã, vốn tự biết rằng: Ta là Ngài.
Một vị đạo sĩ trong cơn đại định đã hỗn hợp tâm thứ mình với đấng Tạo Hóa, nhận thức được tinh hoa của vũ trụ vốn là ánh sáng. Đối với y, vốn không có sự khác biệt giữa những tia ánh sáng của chất nước và những quang tuyến của đất.
Nhờ vượt thoát khỏi tâm thức vật chất, không còn bị lệ thuộc ba chiều đo của không gian và chiều đo thức tư của thời gian, một vị Chân Sư di chuyển cái thể chất ánh sáng của ngài một cách dễ dàng lên trên hay xuyên qua những tia ánh sáng của đất, nước, lửa và không khí.
Kinh thánh nói: "Bởi vậy, nếu mắt ngươi trụ vào một chỗ, toàn thân ngươi sẽ tràn đầy ánh sáng". (Mathieu 6 - 22). Câu ấy có nghĩa là: Sự tập trung tinh thần vào nhãn quang tâm linh giúp cho người đạo sĩ tiêu diệt tất cả những ảo giác về vật chất và trọng lượng của nó. Y nhìn thấy vũ trụ như Thượng Đế đã sáng tạo, tức là một khối ánh sáng tiên thiên, chưa phân hóa thành hình thể sắc tướng.
Định luật phép lạ có thể thực hiện được bởi bất cứ người nào đã nhận thức rằng tinh hoa của vũ trụ là ánh sáng.
Một vị Chân Sư có thể sử dụng sự hiểu biết siêu đẳng của mình về hiện tượng ánh sáng để phóng phát ra trong khoảnh khắc trước mắt mọi người những nguyên tử ánh sáng vốn bàng bạc khắp nơi trong không gian. Cái hình thức của sự phóng phát ấy, dù đó là một cái cây, một thể xác con người, hay bất cứ một vật gì, được quyết định bởi ý muốn, mãnh lực ý chí và sức tưởng tượng của người đạo sĩ.
Ban đêm, con người bước vào trạng thái tâm thức mộng mơ và thoát ra khỏi những giới hạn chật hẹp của phàm ngã thường ngày vẫn trói buộc y trong vòng lẩn quẩn. Trong giấc ngủ y luôn luôn được chứng minh cho thấy cái trí lực toàn năng của mình.
Trong giấc mơ, y lại xuất hiện những bạn bè thân thuộc đã chết từ lâu, những xứ lạ xa xôi không hề quen biết, cùng những cảnh tượng của những thời xa xưa hồi tuổi ấu thơ lại tái diễn trở lại.
Cái tâm thức tự do khoáng đạt vô chướng ngại đó mà tất cả mọi người đôi khi có kinh nghiệm trong giây lát, trong những giấc mộng của mình, vốn là cái tâm linh với đấng tạo hóa. Hoàn toàn vô dục, vô cầu, và sử dụng ý chí sáng tạo mà đấng Hóa Công đã ban cho họ, một vị đạo sĩ có quyền năng phối hợp lại những nguyên tử ánh sáng của vũ trụ để thỏa mãn mọi lời cầu nguyện thành thật của các tín đồ.
Chính vì mục đích đó mà con người và muôn loài vạn vật được sáng tạo: y phải vươn mình tiến lên để chinh phục Maya (Ảo Giác), vì y tự biết rằng mình có quyền năng ngự trị của vũ trụ.
"Và Chúa Trời phán rằng: Ta hãy tạo nên con người theo hình ảnh của Ta, cũng giống như ta vậy. Chúng nó hãy có quyền ngự trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời, loài gia súc thú cầm, và tất cả mọi chúng sinh bò bay máy cựa trên mặt đất". (Chương Sáng Thế I:26)
Năm 1915, ít lâu sau khi tôi bước vào dòng tu sĩ xuất gia, tôi có một linh ảnh lạ thường. Nhờ đó tôi được hiểu sự tương đối của tâm thức con người, và nhận thức rõ ràng sự đồng nhất của Ánh Sáng Trường Cửu đằng sau những đối tượng nhị nguyên hư ảo của Maya.
Linh ảnh đó đến với tôi một buổi sớm mai trong khi tôi đang ngồi thiền trong gian phòng nhỏ trên gác nhà cha tôi ở đường Gurpar. Từ nhiều tháng qua, trận Đệ Nhất Thế Chiến đã diễn ra ác liệt bên trời Âu, tôi ngậm ngùi buồn bã mà nghĩ đến số đông người đã bỏ mình trên trận địa.
Khi tôi nhắm mắt định thần trong cơn nhập thiền, tâm thức tôi thình lình được chuyển qua thể xác của một viên đại úy hải quân chỉ huy một thiết giáp hạm. Tiếng đại bác nổ long trời trong những cuộc giao tranh giữa những giàn trọng pháp trên bờ biển và những khẩu đại bác trên tàu. Một trái phá cỡ lớn rơi nhằm kho thuốc đạn và làm bổ tung chiếc chiến hạm của tôi.
Tôi nhảy xuống biển cùng với vài người thủy thủ còn sống sót sau tiếng nổ. Tim đập mạnh, tôi lội vào bờ một cách an toàn. Nhưng than ôi! Một viên đạn lạc từ đâu đến trúng vào ngực tôi. Tôi ngả xuống và nằm rên siết trên mặt đất. Toàn thân tôi bị tê liệt, tuy thế tôi vẫn ý thức được nó, cũng như người ta còn ý thức được vào một cái chân đã bị tê cứng.
Tôi nghĩ: "Thế là mình ắp đi vào cõi chết đây". Vừa trút một hơi thở cuối cùng, tôi đã sắp sửa đắm chìm trong côn vô thức thì... ơ kìa, tôi lại thấy mình đang ngồi tĩnh tọa trong gian phòng nhỏ trên gác ở đường Gurpar.
Hai hàng lệ tuôn rơi, vì mừng rỡ quá đỗi, trong khi tôi còn lấy tay đập và véo trên da thịt mình. Quả thật, xác thân tôi vẫn còn nguyên vẹn và không bị đạn xuyên qua ngực. Tôi lắc lư thân mình, đảo qua đảo lại, rồi thở ra hít vào từng hơi dài để biết chắc rằng tôi còn sống.
Trong khi tôi làm những động tác đó, một lần nữa tôi lại thấy tâm thức tôi chuyển sang cái xác chết của viên đại úy nằm sóng sượt trên bãi biển. Tâm trí tôi hoàn toàn hỗn loạn, không còn phân biệt thật hư, chân giả.
Tôi bèn thốt lên lời thỉnh cầu đấng Thiêng Liêng: "Hỡi Thượng Đế, con còn sống hay đã chết?"
Một vầng ánh sáng chói lòa bao trùm khắp chân trời. Một tràng âm thanh chấn động vang lên thành những lời nói êm dịu ngọt ngào: "Sự sống hay sự chết có can hệ gì đến ánh sáng? Theo hình ảnh Ánh Sáng của Ta, Ta đã tạo ra con. Những quan hệ tương đối của vấn đề sinh và tử thuộc về ảo giác của vũ trụ.
Con hãy nhớ con là một chân linh trường tồn bất diệt. Thôi, hãy thức tỉnh lại, con hỡi!" Để thức tỉnh con người từng giai đoạn, Thượng Đế giúp cảm hứng cho các nhà khoa học khám phá vào đúng chỗ và đúng lúc những bí mật trong cơ Sáng Tạo của Ngài.
Nhiều phát minh của khoa học cận đại giúp cho con người nhận thức được vụ trụ như sự biển hiện đa dạng của một quyền năng: đó là ánh sáng, được hướng dẫn bởi một Trí lực toàn thông. Những phát minh kỳ diệu như điện ảnh, máy truyền thanh, truyền hình, máy radar, tế bào điện tự, nguyên tử lực, tất cả đều căn cứ trên hiện tượng điện tử lực của ánh sáng.
Nghệ thuật điện ảnh có thể là một thí dụ điển hình cho mọi phép mầu. Với ảo thuật điện ảnh, người ta có thể làm tất cả mọi hiện tượng giả tạo. Trên màn ảnh, người ta có thể nhìn thấy những cảnh giả tạo độc đáo, chẳng hạn như thấy một Thể Vía mờ ảo trong suốt của một người từ từ xuất ra từ cái xác phàm của y.
Người ấy có thể đi trên mặt nước, làm cho người chết sống lại, làm đảo lộn sự liên hệ tự nhiên của mọi diễn biến, bất chấp cả thời gian và không gian. Nhà chuyên môn có thể xếp đặt những hình ảnh cũng giống như những phép màu mà một vị đạo sĩ thực hiện với những tia ánh sáng trong không gian.
Nghệ thuật điện ảnh, với những hình ảnh sống động như thật có thể diễn tả những chân lý về cơ sáng tạo. Thượng Đế, ví như nhà sản xuất điện ảnh của vũ trụ, đã viết ra những truyện phim của Ngài, quy tựu những nhà dàn cảnh và diễn viên độc đáo để quay những cuốn phim vĩ đại của từng thế kỷ.
Từ trong phòng tối của thời gian vô cùng, Ngài rọi áng sáng qua những cuốn phia của những thế hệ liên tục, và những hình bóng được chiếu rọi lên màn ảnh của không gian.
Cũng như những hình bóng chiếu trên màn ảnh có vẻ sống động như thật, nhưng tựu trung chỉ là một sự phối hợp của ánh sáng và bóng tối, thì mọi sự diễn biến trong vũ trụ cũng chỉ là những mà ảo giác và ảo ảnh. Những tinh cầu trong không gian, với vô số những hình thức sinh vật sống trên đó, không gì khác hơn là những hình ảnh trong một cuốn phim vĩ đại của vũ trụ.
Tạm thời có thật đối với giác quan con người những mà kịch diễn biến vô thường được chiếu lên tấm "phông" ảnh tâm thức của nhân loại bởi ngọn đèn rọi sáng tạo trừng kỳ của đấng Hóa Công.
Với một xảo thuật vô cùng kỳ diệu. Thượng Đế tạo dựng nên một trò chơi siêu đẳng cho những đứa con của ngài, ngài dùng chúng làm diễn viên, lại vừa làm khán giả trong cái hí trường siêu nhiên vĩ đại đó.
Một ngày nọ, tôi bước vào một rạp chiếu bóng để xem một phim thời sự về chiến cuộc Âu Châu. Đệ Nhất Thế Chiến đang diễn ra bên trời Âu, cuốn phia trình bày thảo họa chiến tranh với một sự tả chân sống động làm cho tôi rời khỏi rạp hát với một tinh thần hoang mang xáo trộn. Tôi thốt lên lời cầu nguyện: "Hỡi Thượng Đế, tại sao Ngài lại dung túng để cho bao nhiêu những nỗi thống khổ đó xảy ra?"
Tôi lấy làm vô cùng ngạc nhiên mà được sự giải đáp tức thời dưới hình thức một linh ảnh của chiến trường Âu Châu. Những cảnh tượng sát phạt, chết chóc, rùng rợn bi thương vượt rất xa những gì được chiếu lên màn ảnh.
"Hãy nhìn xem!" Một giọng nói vô thinh dịu dàng vang lên trong tâm thực của tôi. "Con sẽ thấy rằng những cảnh tượng hiện đang diễn ra bên nước Pháp, không gì khác hơn là một cuốn phim chiếu bóng. Đó là một phim ảnh của vũ trụ, tuy thật mà cũng không thật như cuốn phim thời sự mà con vừa xem trong rạp hát: một màn ngắn trong vở kịch đó thôi!"
Tôi vẫn chưa nguôi cơn sầu muộn. Giọng nói vô thinh kia lại tiếp tục: Cơ Sáng Tạo vừa là ánh sáng vừa là bóng tối, nếu không vậy thi không thể nào có hình thể sắc tướng. Dưới tác động của Maya (Ảo Giác) thiện và ác phải luôn luôn ngự trị thế gian. Nếu cõi đời này chỉ là một niềm vui vô tận, thì có bao giờ loài người mong muốn một cõi giới khác?
Nếu không có đau khổ, con người sẽ không bao giờ thức tỉnh mà biết rằng y đã quên mất con đường về nơi quê xưa chốn cũ. Khổ đau là một sự trợ duyên để nhắc nhở cho y đừng quên. Chỉ có sự minh triết, giác ngộ là con đường giải thoát.
Cái chết chỉ là hư ảo, người sợ chết cũng giống như một diễn viên dốt nát hoảng sợ điếng hồn trên sân khấu, khi một tài tử đồng nghiệp bắn y bằng một phát súng giả. Những đứa con của Ta đều là con của ánh sáng, chúng nó sẽ không mãi ngủ mê trong vòng ảo giác".
Tuy tôi đã có đọc nhiều đoạn thánh kinh nói về Ảo Giác (Maya), nhưng những kinh sách đó chưa hề đem đến cho tôi sự hiểu biết sâu xa thâm trầm như những linh ảnh đã xuất hiện đến với tôi kèm với những lời an ủi của Giọng Nói Vô Thinh ấy.
Những quan niệm cố hữu của con người về cuộc đời sẽ hoàn toàn thay đổi khi mà y nhận thức rằng toàn thể vũ trụ chỉ là một cuốn phim ảnh vĩ đại, và chỉ khi nào tâm thức con người vượt hẳn ra ngoài vũ trụ càn khôn, người ta mới nhìn thấy chân tướng của nó.
Sau khi tôi vừa viết xong chương này, tôi ngồi tĩnh tọa trên giường nằm cua tôi, dưới ánh sáng lu mờ của hai ngọn đèn che khuất. Ngước mắt nhìn lên, tôi thấy trên trần nhà xuất hiện vô số những điểm ánh sáng nhỏ màu hột cải, chớp sáng lung linh như chất quang tuyến. Vô số tia sáng giống như những giọt mưa hợp thành một khối tinh quang từ trên rơi tua tủa xuống thân mình tôi một cách âm thầm lặng lẽ.
Ngay khi đó, toàn thân tôi mất cả tính chất thô kệch, nặng nề của nó và biến thể thành một khói mỏng như sương. Tôi có cảm giác như bay bổng phất phơ trong không khí, và thân mình nhẹ bỗng của tôi lắc lư qua lại nhẹ nhàng mà không còn ngồi trên mặt giường. Tôi nhìn quanh phòng, bàn ghế và tường vách vẫn như cũ, như khối tinh quang ấy đã lan rộng và che khuất cả trần nhà. Tôi lấy làm vô cùng kinh ngạc.
Một giọng nói dường như thốt ra từ bên trong khối tinh quang: "Đây là cái động cơ phim ảnh của vũ trụ, phóng ánh đèn rọi của nó lên tấm phông vải trắng trên giường nằm của con, nó tạo nên hình ảnh của thể xác con. Hãy xem đó, thể xác con không gì khác hơn là ánh sáng mà thôi!"
Tôi nhìn hai cánh tay tôi và thử cử động tới lui vài cái, nhưng không thể cảm giác được sức nặng của chúng. Tôi cảm thấy một niềm phúc lạc tuyệt với khôn tả. Khối tinh quang của vũ trụ, kết tinh lại thành cái thể xác của tôi, tác động giống như sự phóng phát ánh đèn rọi từ phòng điện ảnh của một rạp chiếu bóng làm nổi bật những hình trên màn ảnh.
Tôi kinh nghiệm trong một thời gian rất lâu cái phim ảnh của thể xác tôi chiếu lên trong phòng chiếu bóng nhỏ dưới ánh đèn lu mờ, tức gian buồng ngủ của tôi. Tuy tôi đã từng có nhiều cơn linh ảnh, nhưng không có một linh ảnh nào lạ lùng như lần này.
Trong khi cái ảo giác của một xác phàm nặng trọc đã hoàn toàn biến mất, và trong khi tôi càng nhận thức một cách sâu xa thâm trần rằng tinh hoa của tất cả mọi vật vốn là ánh sáng, tôi ngước mắt lên nhìn lên khối tinh quang gồm vô số những điểm chớp li ti sáng lòe trên trần nhà và thỉnh nguyện trong âm thầm:
"Hỡi ánh sáng Thiêng liêng của Thượng Đế, xin Ngài hãy thâu hồi cái hình ảnh thể xác kém hèn này trở về Ngài, cũng như Elijah xưa kia được thu hút lên trời trong một chiếc linh xa bằng lửa!" (II King 2 - 11)
Lời cầu nguyện của tôi hiển nhiên là có hiệu lực, khối tinh quang đã biến mất. Thể xác tôi trở lại trạng thái bình thường với sức nặng thô kệch của nó và rơi phịch trên giường. Những điểm sáng nhỏ li ti trên trần vụt tắt và biến mất. Dường như chưa đến lúc tôi phải từ giã cõi đời trần thế này.
Tôi bèn tự nhủ với một tinh thần triết lý: "Vả lại, nhà tiên tri Elijah có thể lấy làm bất mãn vì sự tự phụ của tôi!"
Chương Ba
Văn hào Leon Tolstoi có viết một chuyện lý thú nhan đề: "Ba người Ẩn Sỉ, The Three Hermits" như sau:
"Có ba người ẩn sĩ già sống trên một hòn đảo. Họ sống rất đơn giản và chỉ thốt lên lời cầu nguyện duy nhất này: "Chúa trời có Ba Ngôi, chúng con có Ba người, xin Ngài thương xót chúng con!" Những phép mầu thường xuất hiện trong khi họ thốt lên lời cầu nguyện đơn sơ đó. Vị giám mục địa phương nghe nói về ba người ẩn sĩ và lời cầu nguyện khó nghe ấy, mới quyết định tìm đến nơi để dạy cho họ biết cầu nguyện đúng theo nghi thức tôi giáo.
(Chuyện này dường như có một nguồn gốc lịch sử: Vị giám mục gặp ba người ẩn sĩ trên đường biển từ Archangel đến tu viện Slovetsky, ở cửa sông Dvian).
Ông bèn đi thuyền đến đảo, nói cho ba người ẩn sĩ biết rằng lời cầu nguyện của họ không đúng phép, và dạy họ nhiều bài cầu nguyện thông thường theo nghi lễ ở giáo đường. Kế đó, ông giám mục mới bước lên thuyền và rời khỏi bến. Nhưng độ một lúc, ông quay đầu lại thì thấy một ánh sáng rạng ngời nhấp nhô trên mặt nước và đến mỗi lúc càng gần. Khi ấy, ông bèn nhận ra ba người ẩn sĩ đang cùng nắm tay nhau lướt trên mặt biển gợn sóng và cố gắng đuổi theo kịp thuyền của ông.
Khi họ vừa đến nơi, họ kêu lên:
- Thưa giám mục, chúng tôi quên mất những bài kinh cầu nguyện mà ngài đã dạy chúng tôi, và đến xin ngài dạy lại cho nghe một lần nữa!
Vị giám mục lấy làm kinh dị, bèn lắc đầu đáp rất khiêm tốn:
- Hỡi các bạn, các bạn hãy tiếp tục sống với bài cầu nguyện cũ của các bạn trước kia!
Bằng cách nào ba người ẩn sĩ có thể đi trên mặt nước?
Bằng cách nào đấng Ki Tô đã phục sinh sau khi bị đóng đinh trên Thánh giá?
Bằng cách nào các vị đạo sư Ấn Độ đã làm được những điều huyền diệu, lạ thường?
Cho đến nay, khoa học vẫn chưa tìm ra sự giải đáo, tuy rằng với thế hệ nguyên tử, trước thông minh của loài người đã tiến bộ vượt bức, và danh từ "bất khả" càng ngàng càng bớt áp dụng trong ngôn ngữ của họ.
Thánh kinh Vệ Đà của Ấn Độ dạy rằng cõi thế giới vật chất hữu hình tác động theo định luật căn bản của Ảo Giác, thay Maya, tức là định luật tương đối, Nhị Nguyện. Thượng Đế hay Nguồn sống Duy Nhất, vốn Tuyệt Đối, độc nhất vô nhị, nhưng để biểu lộ ra thiên hình vạn trạng trong cơ sáng tạo vũ trụ càn khôn, ngài phải khoác lấy một bức màn hư ảo giả tạo. Bức màn ảo ảnh ảo giác có tính chất nhị nguyên tương đối đó, gọi là Maya. Nhiều phát minh khoa học vĩ đại của thời buổi hiện nay đã xác nhận lời tuyên bố giản dị trên đây của các bậc đạo sư Ấn Độ thời cổ.
Định luật tác động vận chuyển của Newton là một định luật của ảo giác (Maya): "Mỗi tác động đều luôn luôn gây nên một sức phản ứng tương đương và ngược chiều. Những tác động hỗ tương của bất cứ hai vật thể nào đều luôn luôn ngang sức và đối nghịch nhau". Như vậy, tác động và phản ứng đều ngang bằng sức mạnh với nhau luôn luôn. "không thể có một sức mạnh đơn phương và một chiều, mà luôn luôn phải có một cặp lưỡng nguyên, gồm hai đối tượng song đôi và mâu thuẫn".
Tất cả những sức mạnh thiên nhiên đều có tính chất nhịn nguyên tương đối, tức phản ảnh cái nguyên lý ảo giảc hay Maya. Thí dụ như điện lực là một hiện tượng xô đẩy và hấp dẫn, âm điện tử và dương điện tử là những đối cức lữơng nguyên của điện lực.
Một nguyên tử vật chất cũng giống như quả địa cầu, là một từ thạch với hai đối cực âm và tác động của luật âm dương lưỡng cực nhị nguyên. Không một định luật vật lý, hóa học, hay khoa học nào mà không theo những nguyên tắc bất dịch bao hàm những sức mạnh mâu thuẫn hay đối tượng lưỡng cực nhị nguyên đó.
Như vậy, khoa vật lý học không thể đặt ra những định luật nào ngoài vòng hư ảo (Maya): đó chính là cái thực chất căn bản của cơ Sáng Tạo. Chính cõi thiên nhiên vốn là Hư Ảo, khoa học tự nhiên, cố hữu của nó. Trên lãnh vực riêng tự của nó, nó vốn vô cùng vô tận.
Các nhà bác học tương lai không thể làm gì hơn là thăm dò hết khía cạnh này đến khía cạnh khác của cõi thiên nhiên thiên hình vạn trạng. Như thế, khoa học vẫn luôn luôn dò dẫm không ngừng, nhưng không thể nào đạt tới chỗ tuyệt đích, toàn mỹ.
Thật vậy, khoa học có thể khám phá ra những định luật của một vũ trụ đã có sẵn và đang hoạt động, nhưng lại bất lực không thể tìm ra dấu vết của đấng Sáng Tạo và Chủ Tể của vũ trụ càn khôn. Người ta đã nhận xét những tác động vĩ đại của hấp dẫn lực và điện lực, nhưng hấp dẫn lực và điện lực là gì, thì không ai biết được.
Nhà bác học Marconi cũng đã thú nhận sự bất lực của khoa học trong việc tìm hiểu cái nguyên nhân cùng tột của vạn vật. Ông nói: "Khoa học hoàn toàn không thể giải đáp những bí quyết của Sự Sống. Đó là một điều tuyệt vọng đáng sợ nếu người ta không có đức tin. Sự bí mật của Đời sống con người và vạn vật là một bài toán khó khăn vĩ đại nhất mà người ta còn phải tìm ra sự giải đáp"
Vướt qua bức màn ảo giác (Maya) là cái công trình mà các bậc thánh nhân từ nghìn xưa đã từng đặt ra cho loài người. Thoát lên khỏi cảnh giới nhị nguyên tương đối và đạt tới cõi nhất nguyên của con người. Những ai còn bám lấy hư ảo của vũ trụ phải chấp nhận định luật tương đối nhị nguyên của nó:
Sinh tử, thịnh suy, thăng giáng, vui buồn, sướng khổ, thiện ác, thị phi, vinh nhục. Cái vòng lẩn quẩn đó sẽ trở nên vô vị, nhàm chán sau khi con người đã trải qua vài ngàn kiếp sinh tử luân hồi. Chừng đó, con người mới bắt đầu tìm kiếm những gì ở bên ngoài vòng trói buộc của Hư Ảo (Maya).
Dẹp tan bức màn Hư Ảo, tức là khám phá được bí quyết của đời sống. Chỉ co người nào thoát ra khỏi cớn ảo giác để tìm thấy chân tướng của vũ trụ, mới là người đã hợp nhất với Thượng Đế. Trái lại, tất cả những người khác đều hãy còn chấp mê hình thức sắc tướng. Bao giờ mà con người còn bị lệ thuộc những ảo giác của cõi giới nhị nguyên thì y hãy còn tôn thờ thần nữ Maya đa hình đa dạng, y không thể biết được Thượng đế hay Chân Lý tuyệt đối.
Ảo Giác (Maya) trong con người được biểu hiện dưới hình thức Vô Minh (Avidya). Ảo Giác hay Vô Minh không bao giờ tiêu diệt được bằng sự phân tích hay khẳng định của lý trí, mà chỉ bằng sự đạt tới trại thái tâm thức đại định gọi là Nirvikalpa samadhi. Các nhà tiên tri thời cổ, các bậc thánh nhân hiền triết của tất cả mọi thế hệ và mọi địa phương, đều đã từng phát ngôn từ trạng thái tâm thức siêu đẳng đó...
Nhà tiên tri Exekiel nói: "Sau đó, ngài đưa tôi đến cổng vào, cổng này hướng về phương đông, hãy biết rằng sự huy hoàng của Chúa Trời đến từ phương đông, và giọng nói của ngài như âm thanh của nhiều giòng nước, và trái đất chói rạng với sự huy hoàng của ngài".
Xuyên qua thiên nhãn ở giữa trán (phương đông), người đạo sị đưa tâm thức của mình vào trạng thái toàn thông, lắng nghe tiếng Diệu Âm (Aum), tức âm thanh huyền diệu của nhiều "giòng nước", những chấn động của ánh sáng hợp thành sự thật duy nhất của cơ Sáng Táo.
Trong số tỷ ức những bí mật của vũ trụ, thì hiện tượng huyền diệu nhất là ánh sáng. Không như những làn sóng âm thanh, mà sự di chuyển phải cần đến không khí hay một chất trung gian nào đó, những âm ba của ánh sáng di chuyển tự do xuyên qua những khoảng trống của không gian vô tận. Ánh sáng luôn luôn vẫn là một sức mạnh của thiên nhiên tế nhị nhất và tự do nhất không bị lệ thuốc vật chất.
Theo quan niệm của Einstein, tốc lực của ánh sáng (ba trăm ngàn cây số trong một giây đồng hồ) cai quản toàn thể Thuyết tương đối. Ông chứng minh bằng số học rằng đối với tâm trí hữu hạn của con người, tốc lực của ánh sáng là yếu tố cố định duy nhất của một vũ trụ luôn luôn biến dịch.
Tất cả những quan niệm của con người về thời gian và Không gian đều tùy thuộc nơi yếu tố cố định là tốc lực của ánh sáng. Thời gian và không gian vốn không phải là vô cùng, trường cửu như người ta vẫn tưởng từ trước đến nay, mà là những yếu tố tương đối và hữu hạn.
Với những phương trình của ông, Einstein đã loại bỏ ra khỏi vũ trụ tất cả mọi sự thật cố hữu, trừ ra sự thật cố hữu của ánh sáng. Trong thuyết Từ Trường Hợp Nhất (Unified Field Theory), nhà bác học này đã thể hiện trong một công thức toán học những định luật hấp dẫn và điện từ.
Đúc kết cơ cấu của vũ trụ lại thành những trạng thái khác biệt của một định luật duy nhất, Einstein đã cùng đồng quan điểm với các bậc thánh nhân thờ cổ, các ngài đã từng tuyên bố rằng bản chất duy nhất của vũ trụ vốn là một ảo giác (Maya) đa hình đa dạng.
Từ Thuyết Tương Đối của Einstein, mới xuất hiện những khả năng thám hiểm hột nguyên tử bằng phương pháp toán học. Những nhà bác học lỗi lạc hiện nay đã mạnh dạn quả quyết rằng không những hột nguyên tử chỉ là tinh lực chứ không phải là vật chất, mà thực chất của nguyên tử lực cũng chỉ là trí lực hay tư tưởng mà thôi.
Sir James Jeans viết trong quyển "Vũ trụ huyền bí": "Trào lưu tư tưởng hiện đại đang hướng về một sự thật trừu tượng này, là bản chất của vũ trụ có vẻ giống như một tư tưởng lớn, thay vì là một guồng máy vĩ đại".
Như vậy, khoa học cận đại của thế kỷ 20 đã nói không khác với kinh Vệt Đà thời thượng cổ! Bắt nguồn từ lập luận khoa học, người ta hãy lãnh hội lấy cái chân lý này, là vũ trụ vật chất vốn không có thật, mà bản chất của nó vốn là Maysa, hay Ảo Giác. Dưới sự phân tích tỉ mỉ, tất cả những ảo tưởng về sự thật của vũ trụ đều tiêu tan.
Trong phương trình bất hủ E = MC2 của ông cho thấy sự tương được của trọng lượng và năng lượng, Einstein chứng minh rằng năng lực chứa đựng trong mọi phân tử vật chất vốn bằng trọng lượng của nó nhân với bình phương của tốc lực ánh sáng. Sự giải tỏa nguyên tử lực được thực hiện bằng sự hủy diệt những phân tử vật chất. Chính sự thực hiện này đã khai sinh ra một Thế hệ Nguyên Tử.
Tốc lực ánh sáng là một tiêu chuẩn số học cố định, không phải bởi vì có một giá trị tuyệt đối trong ba trăm ngàn cây số một giây đồng hồ, mà bởi vì không một vật thể nào, mà trọng lượng gia tăng vói tốc lực di chuyển của nó, có thể đạt tới tốc lực của ánh sáng. Nói cách khác: chỉ những vật thể nào có một trọng lượng vô hạn định mới có thể di chuyển với tốc lực của ánh sáng.
Quan niệm đó đưa chúng ta đến Định luật của Phép lạ.
Những bậc Chân Sư có thể hiện hình, hay tàng hình, cùng làm cho những đồ vật bỗng dưng xuất hiện hay giải thể, và có thể di chuyển trong không gian với tốc lực ánh sáng, đều đã thực hiện cái điều kiện căn bản đó, tức là: trọng lượng của các ngài vốn vô giới hạn.
Tâm thực của một người đạo sĩ thượng thặng luôn luôn đồng hóa một cách dễ dàng, không phải với một thể xác chật hẹp, trọng trược, mà với toàn diện cơ cấu của vũ trụ. Sức hấp dẫn tự nhiên vốn bất bất lực không thể bắt buộc một vị đạo sĩ biểu lộ đặc tính của trọng lượng, nó vốn là cái sức nặng làm cho mọi vật thể bị trì kéo xuống mặt đất.
Người nào tự biết mình như một Chân Ngã thiêng liêng, không còn bị lệ thuộc những giới hạn gò bó của một xác thân trong thời gian và không gian. Cái ngục tù của thể xác đã bị tan rã trước tâm thức siêu đẳng của Chân Ngã, vốn tự biết rằng: Ta là Ngài.
Một vị đạo sĩ trong cơn đại định đã hỗn hợp tâm thứ mình với đấng Tạo Hóa, nhận thức được tinh hoa của vũ trụ vốn là ánh sáng. Đối với y, vốn không có sự khác biệt giữa những tia ánh sáng của chất nước và những quang tuyến của đất.
Nhờ vượt thoát khỏi tâm thức vật chất, không còn bị lệ thuộc ba chiều đo của không gian và chiều đo thức tư của thời gian, một vị Chân Sư di chuyển cái thể chất ánh sáng của ngài một cách dễ dàng lên trên hay xuyên qua những tia ánh sáng của đất, nước, lửa và không khí.
Kinh thánh nói: "Bởi vậy, nếu mắt ngươi trụ vào một chỗ, toàn thân ngươi sẽ tràn đầy ánh sáng". (Mathieu 6 - 22). Câu ấy có nghĩa là: Sự tập trung tinh thần vào nhãn quang tâm linh giúp cho người đạo sĩ tiêu diệt tất cả những ảo giác về vật chất và trọng lượng của nó. Y nhìn thấy vũ trụ như Thượng Đế đã sáng tạo, tức là một khối ánh sáng tiên thiên, chưa phân hóa thành hình thể sắc tướng.
Định luật phép lạ có thể thực hiện được bởi bất cứ người nào đã nhận thức rằng tinh hoa của vũ trụ là ánh sáng.
Một vị Chân Sư có thể sử dụng sự hiểu biết siêu đẳng của mình về hiện tượng ánh sáng để phóng phát ra trong khoảnh khắc trước mắt mọi người những nguyên tử ánh sáng vốn bàng bạc khắp nơi trong không gian. Cái hình thức của sự phóng phát ấy, dù đó là một cái cây, một thể xác con người, hay bất cứ một vật gì, được quyết định bởi ý muốn, mãnh lực ý chí và sức tưởng tượng của người đạo sĩ.
Ban đêm, con người bước vào trạng thái tâm thức mộng mơ và thoát ra khỏi những giới hạn chật hẹp của phàm ngã thường ngày vẫn trói buộc y trong vòng lẩn quẩn. Trong giấc ngủ y luôn luôn được chứng minh cho thấy cái trí lực toàn năng của mình.
Trong giấc mơ, y lại xuất hiện những bạn bè thân thuộc đã chết từ lâu, những xứ lạ xa xôi không hề quen biết, cùng những cảnh tượng của những thời xa xưa hồi tuổi ấu thơ lại tái diễn trở lại.
Cái tâm thức tự do khoáng đạt vô chướng ngại đó mà tất cả mọi người đôi khi có kinh nghiệm trong giây lát, trong những giấc mộng của mình, vốn là cái tâm linh với đấng tạo hóa. Hoàn toàn vô dục, vô cầu, và sử dụng ý chí sáng tạo mà đấng Hóa Công đã ban cho họ, một vị đạo sĩ có quyền năng phối hợp lại những nguyên tử ánh sáng của vũ trụ để thỏa mãn mọi lời cầu nguyện thành thật của các tín đồ.
Chính vì mục đích đó mà con người và muôn loài vạn vật được sáng tạo: y phải vươn mình tiến lên để chinh phục Maya (Ảo Giác), vì y tự biết rằng mình có quyền năng ngự trị của vũ trụ.
"Và Chúa Trời phán rằng: Ta hãy tạo nên con người theo hình ảnh của Ta, cũng giống như ta vậy. Chúng nó hãy có quyền ngự trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời, loài gia súc thú cầm, và tất cả mọi chúng sinh bò bay máy cựa trên mặt đất". (Chương Sáng Thế I:26)
Năm 1915, ít lâu sau khi tôi bước vào dòng tu sĩ xuất gia, tôi có một linh ảnh lạ thường. Nhờ đó tôi được hiểu sự tương đối của tâm thức con người, và nhận thức rõ ràng sự đồng nhất của Ánh Sáng Trường Cửu đằng sau những đối tượng nhị nguyên hư ảo của Maya.
Linh ảnh đó đến với tôi một buổi sớm mai trong khi tôi đang ngồi thiền trong gian phòng nhỏ trên gác nhà cha tôi ở đường Gurpar. Từ nhiều tháng qua, trận Đệ Nhất Thế Chiến đã diễn ra ác liệt bên trời Âu, tôi ngậm ngùi buồn bã mà nghĩ đến số đông người đã bỏ mình trên trận địa.
Khi tôi nhắm mắt định thần trong cơn nhập thiền, tâm thức tôi thình lình được chuyển qua thể xác của một viên đại úy hải quân chỉ huy một thiết giáp hạm. Tiếng đại bác nổ long trời trong những cuộc giao tranh giữa những giàn trọng pháp trên bờ biển và những khẩu đại bác trên tàu. Một trái phá cỡ lớn rơi nhằm kho thuốc đạn và làm bổ tung chiếc chiến hạm của tôi.
Tôi nhảy xuống biển cùng với vài người thủy thủ còn sống sót sau tiếng nổ. Tim đập mạnh, tôi lội vào bờ một cách an toàn. Nhưng than ôi! Một viên đạn lạc từ đâu đến trúng vào ngực tôi. Tôi ngả xuống và nằm rên siết trên mặt đất. Toàn thân tôi bị tê liệt, tuy thế tôi vẫn ý thức được nó, cũng như người ta còn ý thức được vào một cái chân đã bị tê cứng.
Tôi nghĩ: "Thế là mình ắp đi vào cõi chết đây". Vừa trút một hơi thở cuối cùng, tôi đã sắp sửa đắm chìm trong côn vô thức thì... ơ kìa, tôi lại thấy mình đang ngồi tĩnh tọa trong gian phòng nhỏ trên gác ở đường Gurpar.
Hai hàng lệ tuôn rơi, vì mừng rỡ quá đỗi, trong khi tôi còn lấy tay đập và véo trên da thịt mình. Quả thật, xác thân tôi vẫn còn nguyên vẹn và không bị đạn xuyên qua ngực. Tôi lắc lư thân mình, đảo qua đảo lại, rồi thở ra hít vào từng hơi dài để biết chắc rằng tôi còn sống.
Trong khi tôi làm những động tác đó, một lần nữa tôi lại thấy tâm thức tôi chuyển sang cái xác chết của viên đại úy nằm sóng sượt trên bãi biển. Tâm trí tôi hoàn toàn hỗn loạn, không còn phân biệt thật hư, chân giả.
Tôi bèn thốt lên lời thỉnh cầu đấng Thiêng Liêng: "Hỡi Thượng Đế, con còn sống hay đã chết?"
Một vầng ánh sáng chói lòa bao trùm khắp chân trời. Một tràng âm thanh chấn động vang lên thành những lời nói êm dịu ngọt ngào: "Sự sống hay sự chết có can hệ gì đến ánh sáng? Theo hình ảnh Ánh Sáng của Ta, Ta đã tạo ra con. Những quan hệ tương đối của vấn đề sinh và tử thuộc về ảo giác của vũ trụ.
Con hãy nhớ con là một chân linh trường tồn bất diệt. Thôi, hãy thức tỉnh lại, con hỡi!" Để thức tỉnh con người từng giai đoạn, Thượng Đế giúp cảm hứng cho các nhà khoa học khám phá vào đúng chỗ và đúng lúc những bí mật trong cơ Sáng Tạo của Ngài.
Nhiều phát minh của khoa học cận đại giúp cho con người nhận thức được vụ trụ như sự biển hiện đa dạng của một quyền năng: đó là ánh sáng, được hướng dẫn bởi một Trí lực toàn thông. Những phát minh kỳ diệu như điện ảnh, máy truyền thanh, truyền hình, máy radar, tế bào điện tự, nguyên tử lực, tất cả đều căn cứ trên hiện tượng điện tử lực của ánh sáng.
Nghệ thuật điện ảnh có thể là một thí dụ điển hình cho mọi phép mầu. Với ảo thuật điện ảnh, người ta có thể làm tất cả mọi hiện tượng giả tạo. Trên màn ảnh, người ta có thể nhìn thấy những cảnh giả tạo độc đáo, chẳng hạn như thấy một Thể Vía mờ ảo trong suốt của một người từ từ xuất ra từ cái xác phàm của y.
Người ấy có thể đi trên mặt nước, làm cho người chết sống lại, làm đảo lộn sự liên hệ tự nhiên của mọi diễn biến, bất chấp cả thời gian và không gian. Nhà chuyên môn có thể xếp đặt những hình ảnh cũng giống như những phép màu mà một vị đạo sĩ thực hiện với những tia ánh sáng trong không gian.
Nghệ thuật điện ảnh, với những hình ảnh sống động như thật có thể diễn tả những chân lý về cơ sáng tạo. Thượng Đế, ví như nhà sản xuất điện ảnh của vũ trụ, đã viết ra những truyện phim của Ngài, quy tựu những nhà dàn cảnh và diễn viên độc đáo để quay những cuốn phim vĩ đại của từng thế kỷ.
Từ trong phòng tối của thời gian vô cùng, Ngài rọi áng sáng qua những cuốn phia của những thế hệ liên tục, và những hình bóng được chiếu rọi lên màn ảnh của không gian.
Cũng như những hình bóng chiếu trên màn ảnh có vẻ sống động như thật, nhưng tựu trung chỉ là một sự phối hợp của ánh sáng và bóng tối, thì mọi sự diễn biến trong vũ trụ cũng chỉ là những mà ảo giác và ảo ảnh. Những tinh cầu trong không gian, với vô số những hình thức sinh vật sống trên đó, không gì khác hơn là những hình ảnh trong một cuốn phim vĩ đại của vũ trụ.
Tạm thời có thật đối với giác quan con người những mà kịch diễn biến vô thường được chiếu lên tấm "phông" ảnh tâm thức của nhân loại bởi ngọn đèn rọi sáng tạo trừng kỳ của đấng Hóa Công.
Với một xảo thuật vô cùng kỳ diệu. Thượng Đế tạo dựng nên một trò chơi siêu đẳng cho những đứa con của ngài, ngài dùng chúng làm diễn viên, lại vừa làm khán giả trong cái hí trường siêu nhiên vĩ đại đó.
Một ngày nọ, tôi bước vào một rạp chiếu bóng để xem một phim thời sự về chiến cuộc Âu Châu. Đệ Nhất Thế Chiến đang diễn ra bên trời Âu, cuốn phia trình bày thảo họa chiến tranh với một sự tả chân sống động làm cho tôi rời khỏi rạp hát với một tinh thần hoang mang xáo trộn. Tôi thốt lên lời cầu nguyện: "Hỡi Thượng Đế, tại sao Ngài lại dung túng để cho bao nhiêu những nỗi thống khổ đó xảy ra?"
Tôi lấy làm vô cùng ngạc nhiên mà được sự giải đáp tức thời dưới hình thức một linh ảnh của chiến trường Âu Châu. Những cảnh tượng sát phạt, chết chóc, rùng rợn bi thương vượt rất xa những gì được chiếu lên màn ảnh.
"Hãy nhìn xem!" Một giọng nói vô thinh dịu dàng vang lên trong tâm thực của tôi. "Con sẽ thấy rằng những cảnh tượng hiện đang diễn ra bên nước Pháp, không gì khác hơn là một cuốn phim chiếu bóng. Đó là một phim ảnh của vũ trụ, tuy thật mà cũng không thật như cuốn phim thời sự mà con vừa xem trong rạp hát: một màn ngắn trong vở kịch đó thôi!"
Tôi vẫn chưa nguôi cơn sầu muộn. Giọng nói vô thinh kia lại tiếp tục: Cơ Sáng Tạo vừa là ánh sáng vừa là bóng tối, nếu không vậy thi không thể nào có hình thể sắc tướng. Dưới tác động của Maya (Ảo Giác) thiện và ác phải luôn luôn ngự trị thế gian. Nếu cõi đời này chỉ là một niềm vui vô tận, thì có bao giờ loài người mong muốn một cõi giới khác?
Nếu không có đau khổ, con người sẽ không bao giờ thức tỉnh mà biết rằng y đã quên mất con đường về nơi quê xưa chốn cũ. Khổ đau là một sự trợ duyên để nhắc nhở cho y đừng quên. Chỉ có sự minh triết, giác ngộ là con đường giải thoát.
Cái chết chỉ là hư ảo, người sợ chết cũng giống như một diễn viên dốt nát hoảng sợ điếng hồn trên sân khấu, khi một tài tử đồng nghiệp bắn y bằng một phát súng giả. Những đứa con của Ta đều là con của ánh sáng, chúng nó sẽ không mãi ngủ mê trong vòng ảo giác".
Tuy tôi đã có đọc nhiều đoạn thánh kinh nói về Ảo Giác (Maya), nhưng những kinh sách đó chưa hề đem đến cho tôi sự hiểu biết sâu xa thâm trầm như những linh ảnh đã xuất hiện đến với tôi kèm với những lời an ủi của Giọng Nói Vô Thinh ấy.
Những quan niệm cố hữu của con người về cuộc đời sẽ hoàn toàn thay đổi khi mà y nhận thức rằng toàn thể vũ trụ chỉ là một cuốn phim ảnh vĩ đại, và chỉ khi nào tâm thức con người vượt hẳn ra ngoài vũ trụ càn khôn, người ta mới nhìn thấy chân tướng của nó.
Sau khi tôi vừa viết xong chương này, tôi ngồi tĩnh tọa trên giường nằm cua tôi, dưới ánh sáng lu mờ của hai ngọn đèn che khuất. Ngước mắt nhìn lên, tôi thấy trên trần nhà xuất hiện vô số những điểm ánh sáng nhỏ màu hột cải, chớp sáng lung linh như chất quang tuyến. Vô số tia sáng giống như những giọt mưa hợp thành một khối tinh quang từ trên rơi tua tủa xuống thân mình tôi một cách âm thầm lặng lẽ.
Ngay khi đó, toàn thân tôi mất cả tính chất thô kệch, nặng nề của nó và biến thể thành một khói mỏng như sương. Tôi có cảm giác như bay bổng phất phơ trong không khí, và thân mình nhẹ bỗng của tôi lắc lư qua lại nhẹ nhàng mà không còn ngồi trên mặt giường. Tôi nhìn quanh phòng, bàn ghế và tường vách vẫn như cũ, như khối tinh quang ấy đã lan rộng và che khuất cả trần nhà. Tôi lấy làm vô cùng kinh ngạc.
Một giọng nói dường như thốt ra từ bên trong khối tinh quang: "Đây là cái động cơ phim ảnh của vũ trụ, phóng ánh đèn rọi của nó lên tấm phông vải trắng trên giường nằm của con, nó tạo nên hình ảnh của thể xác con. Hãy xem đó, thể xác con không gì khác hơn là ánh sáng mà thôi!"
Tôi nhìn hai cánh tay tôi và thử cử động tới lui vài cái, nhưng không thể cảm giác được sức nặng của chúng. Tôi cảm thấy một niềm phúc lạc tuyệt với khôn tả. Khối tinh quang của vũ trụ, kết tinh lại thành cái thể xác của tôi, tác động giống như sự phóng phát ánh đèn rọi từ phòng điện ảnh của một rạp chiếu bóng làm nổi bật những hình trên màn ảnh.
Tôi kinh nghiệm trong một thời gian rất lâu cái phim ảnh của thể xác tôi chiếu lên trong phòng chiếu bóng nhỏ dưới ánh đèn lu mờ, tức gian buồng ngủ của tôi. Tuy tôi đã từng có nhiều cơn linh ảnh, nhưng không có một linh ảnh nào lạ lùng như lần này.
Trong khi cái ảo giác của một xác phàm nặng trọc đã hoàn toàn biến mất, và trong khi tôi càng nhận thức một cách sâu xa thâm trần rằng tinh hoa của tất cả mọi vật vốn là ánh sáng, tôi ngước mắt lên nhìn lên khối tinh quang gồm vô số những điểm chớp li ti sáng lòe trên trần nhà và thỉnh nguyện trong âm thầm:
"Hỡi ánh sáng Thiêng liêng của Thượng Đế, xin Ngài hãy thâu hồi cái hình ảnh thể xác kém hèn này trở về Ngài, cũng như Elijah xưa kia được thu hút lên trời trong một chiếc linh xa bằng lửa!" (II King 2 - 11)
Lời cầu nguyện của tôi hiển nhiên là có hiệu lực, khối tinh quang đã biến mất. Thể xác tôi trở lại trạng thái bình thường với sức nặng thô kệch của nó và rơi phịch trên giường. Những điểm sáng nhỏ li ti trên trần vụt tắt và biến mất. Dường như chưa đến lúc tôi phải từ giã cõi đời trần thế này.
Tôi bèn tự nhủ với một tinh thần triết lý: "Vả lại, nhà tiên tri Elijah có thể lấy làm bất mãn vì sự tự phụ của tôi!"
#25
Gửi vào 07/06/2011 - 03:40
Đạo Sư Mahasaya
Chương Bốn
Sư Mẫu, chính lịnh tôn sư đã làm phép truyền Đạo cho con. Tôi sư là Thầy của cha mẹ con và của sư phụ con, tức là Sri Yuteswar. Xin Sư mẫu hãy cho con có hân hạnh được nghe Sư mẫu kể lại cuộc đời của Tôn sư?
Tôi thưa những lời trên với Sư mẫu Kashi Moni, phu nhân của đức Lahiri Mahâsaya. Nhân dịp đi ngang qua Bénarès, tôi quyết định thỏa mãn ước mơ mà tôi hằng ôm ấp từ lâu, là thăm viếng Sư mẫu. Bà tiếp tôi một cách khả ái tại ngôi nhà cổ của gia đình bà.
Tuy tuổi tác đã cao, bà có một gương mặt hồng hào tươi tỉnh, bao trùm bởi một bầu không khí tâm linh. Vóc dáng trung bình, bà có một nước da trắng, đôi mắt lớn trong sáng làm dịu hẳn gương mặt của một bậc hiền phụ. Bà nói với tôi:
- Chúc lành cho con, con hãy bước vào.
Sư mẫu Kashi Moni đưa tôi vào một nơi tịnh thất tại đây bà từng sống chung với đức phu quân của bà. Thật làm một sự hân hạnh cho tôi khi tôi được viếng nơi tịnh thất của vị Tôn sư độc đáo, tại đây người đã từng đóng vai trò của một người chủ gia đình như mội người thế gian. Sư mẫu chỉ chỗ cho tôi ngồi trên một ghế lót nệm, ở bên cạnh bà. Sư mẫu bắt đầu nói:
- Nhiều năm đã trôi qua trước khi tôi biết được tính chất thiêng liêng của phu quân tôi. Một đêm nọ, chính trong phòng này, tôi nằm mơ thấy một linh ảnh nhiệm mầu. Các vị thiên thần bay lượn nhẹ nhàng trên đầu tôi. Phu quân tôi, ngồi trong tư thế liên hoa, cũng lơ lửng trên không, với các vị thiên thần bao vây chung quanh. Vô cùng ngạc nhiên khôn tả, tôi vẫn không biết là tôi đang mơ. Lahiri Mahâsaya nói:
- Em hỡi, em không mơ đâu. Em hãy từ bỏ sự ngủ mê của linh hồn em.
Lúc ấy, phu quân tôi mới từ từ hạ xuống đất, tôi liền quỳ lạy dưới chân người, và nói:
- Bạch Tôn sư, xin người hãy tha thứ cho tôi sự điên rồ đến mức vẫn coi như người là chồng tôi. Tôi hổ thẹn xiết bao mà thấy rằng tôi vẫn ngủ mê trong sự vô minh bên cạnh một người đã thức tỉnh trong cõi thiêng liêng. Kể từ đêm nay, người sẽ không còn là chồng tôi nữa, mà là Thầy tôi. Tôn sư có vui lòng nhận kẻ hèn này làm đệ tử chăng?
Tôn sư bảo tôi:
- Hỡi linh căn thánh thiện, hãy đứng dậy. Tôi bằng lòng nhận.
Người chỉ các vị thiên thần:
- Em hãy nghiêng mình trước mỗi vị thiên thần này.
Khi tôi đã nghiêng mình kính cẩn chào mừng hết tất cả các vị, những giọng nói của các thiên thần đồng thinh vang rền:
- Hỡi phu nhân cao cả! Chúng tôi xin chào mừng phu nhân!
Các vị liền cúi chào dưới chân tôi và biến mất. Linh ảnh ấy rõ ràng thật sự đến nỗi làm cho tôi thức dậy liền khi đó, một ánh sáng rạng ngời tràn ngập khắp phòng. Tôn sư bèn dạy tôi hãy làm lễ nhập môn theo pháp môn Kriyâ Yoga.
Tôi nói:
- Tôi tiếc là không được biết pháp môn này sớm hơn để thánh hóa cuộc đời tôi.
Lahiri Mahâsaya nói với một nụ cười an ủi:
- Đó là bởi vì thời giờ chưa đến. Tôi đã âm thầm cứu chuộc trong vòng bí mật một phần lớn nghiệp quả của em. Bây giờ, em đã chuẩn bị sẵn sàng và đãng bằng lòng, thì nay mới đúng lúc.
Tôn sư bèn đặt bàn tay lên trán tôi. Một vầng ánh sáng xoay vòng hình trôn ốc xuất hiện và lần lần biến thành một ngôi sao năm nhánh.
- Cầu cho tâm thức của em hòa hợp với cõi Thiêng Liêng Tuyệt Đối xuyên qua ngôi sao này.
Giọng nói của Tôn Sư vọng lại như một khúc nhạc văng vẳng từ đằng xa. Những linh ảnh nối tiếp theo sau những linh ảnh cũng như các đợt sóng ngoài biện cả, diễn ra trước nhãn quang tâm linh của tôi.
Kế đó, những chân trời sáng chói đổi thành một biển tràn đầy một niềm phúc lạc nó lôi cuốn lấy tôi và làm cho tôi ngất lịm đi không còn ý thức về ngoại cảnh. Khi tôi tỉnh dậy vài giờ sau đó, Tôn sư truyền thụ cho tôi bí thuật của môn Kriyâ Yoga.
Kể từ đêm đó, Tôn sư không còn ngủ trong phòng tôi nữa, vả lại người có cần ngủ đâu, và chỉ ở gian nhà tầng dưới cùng với các đệ tử, ngày cũng như đêm".
Sư mẫu Kashi Moni đắm chìm trong cơn im lặng, và tôi phải xin bà kể lại những kỹ niệm khác về cuộc đời của Tôn sư.
Sư mẫu mỉm cười và nói:
- Tôi phải thú nhận tội lỗi đối với Tôn sư. Vài tháng sau lễ nhập môn, tôi bắt đầu cảm thấy bị bỏ rơi và cảm thấy cô đơn. Một buổi sáng Tôn sư bước vào hòng. Sẵn bất mãn trong lòng, tôi liền trách móc: "Ông dành hết tất cả thời giờ cho các đệ tử ông, và hoàn toàn bỏ phế trách nhiệm đối với vợ con. Tôi rất tiếc rằng ông không hề lo nghĩ gì đến việc trợ cấp thêm ít tiền bạc để chi dụng trong gia đình".
Tôi sư nhìn tôi một lúc và thình lình, không hề rời khỏi chỗ, người đã tàng hình biến mất. Kinh hoảng, tôi nghe tiếng người vang rền trong gian phòng trống trơn:
- Em thấy chăng, tất cả đều là hư không. Làm sao một vật hư không như tôi có thể đem tiền bạc cho em?
- Bạch Tôn sư, em xin lỗi, muôn vàn lần xin người thứ lỗi! Đôi mắt tội lỗi của em không còn nhìn thấy Tôn sư nữa. Xin tôn sư hãy hiện hình trở lại trong thánh thể của người!
- Có ta đây!
Những lời này vang rền ở phía trên đầu tôi. Tôi ngẩng đầu nhìn lên thì thấy Tôn sư hiện hình trong khoảng không, đầu đụng tới trần nhà. Đôi mắt người phóng ra những tia chớp sáng lòe làm chóa mắt tôi. Kinh sợ thất thần, tôi bèn sụp lạy, vừa úp mặt xuống đất vừa khóc nức nở khi Tôn sư bình tĩnh hạ xuống đất. Người nói:
- Em hỡi, hãy tìm kiếm sự phong phú tâm linh thay vì những của cải vật chất bỉ ổi của trần gian. Khi em sở đắc được cái kho tàng tâm linh đó, em sẽ thấy rằng những lợi lộc vật chất tự nhiên sẽ đến.
Người lại nói: "Một trong các người con tâm linh của ta sẽ đáp ứng mọi nhu cầu vật chất của em".
Những lời nói của tôn sư đã được thực hiện, một vị đệ tử cúng dường một số tiền lớn để trợ cấp cho gia đình chúng tôi.
Tôi cám ơn Sư mẫu Kashi Moni đã thuật lại cho tôi nghe những kỷ niệm quý báu. Ngày hôm sau tôi lại đến nhà Sư mẫu và có dịp đàm luận về triết lý với Tincuri và Ducuri, hai người con trai của đức Lahiri Mahâsaya. Hai anh em đều cao lớn, mạnh khỏe, có một bộ râu đen dầy, giọng nói êm dịu, và những dáng điệu lịch sự, theo lối cổ. Cả hai đều đang tu học để nối nghiệp cha mình.
Kashi Moni không phải là nữ đệ tử duy nhất của đức Lahiri Mahâsaya. Tôn sư còn có đến hằng trăm nữ đệ tử khác, trong số đó có mẹ tôi. Một vị nữ đệ tử tên là Abhoya cũng đã gặp đức Mahâsaya trong một dịp đáng ghi nhớ. Ngày nọ, bà ấy thưa với Tôn sư:
- Xin tôn sư cứu mạng cho đứa con thứ chín của con! Con có tám đứa đều chết yểu chỉ ít lâu sau khi sinh ra đời.
Tôn sư mỉm cười, thương hại:
- Đứa con sắp tới của con sẽ được sống. Con hãy tuân theo một cách chặt chẽ những lời dặn của Thầy. Đó là một đứa con gái sẽ sinh ra trong đêm nay. Con hãy giữ cho cái đèn dầu còn cháy cho đến sáng, nhất là đừng để cho nó tắt trong khi con ngủ mê.
Con gái của Abhoya sinh ra trong đêm, đúng như đức Tôn sư đã tiên đoán. Bà dặn người nữ trợ tá hãy châm đèn cho đầy dầu. Hai người đàn bà thức như vậy cho đến khuya, nhưng sau cùng thì ngủ thiếp đi. Cái đèn cạn dầu chỉ còn cháy leo lét và sắp sửa tắt.
Thiếu trang 43, 44 Tôi mới hiểu ý nghĩa lời nói úp mở của Sư Phụ về việc không thể thu nhận ông ta.
Lahiri Mahâsaya có một người bạn đồng môn bản lĩnh rất cao cường, là Tôn sư Trailinga, mà người ta nói rằng đã già đến gần ba trăm tuổi. Hai vị Yoga này thường tham thiền chung với nhau. Tôn sư Trailinga nổi tiếng đến nỗi ít người Ấn Độ nghi ngờ những phép lạ của người làm.
Nếu đấng Christ tái sinh và đi dạo trên các đường phố ở New York, điều ấy cũng không gây xúc động mạnh và sôi nổi trong dân chúng như việc xuất hiện của Trailing ở Bérarès cách đây khoảng vài chục năm.
Người ta thường thấy Tôn sư nuốt nhiều thứ thuốc độc rất mạnh mà không sao cả. Hằng ngàn người, trong số đó hiện nay có nhiều người còn sống, đã từng thấy Trailinga ở Bénarès nổi trên mặt nước sông Hằng. Trong nhiều ngày, tôn sư nằm trên mặt nước, hoặc lặn xuống nước trong một thời gian rất lâu.
Người ta thường thấy, trên bờ sông Hằng, tôn sư ngồi yên bất động trên bực thềm đá nóng như thiêu đốt dưới ánh nắng mặt trời Ấn Độ. Bằng những việc lạ lùng đó, Trailinga định chứng tỏ rằng một người Yogi thoát khỏi sự trói buộc của vật chất, chẳng hạn như sự nhu cầu dưỡng khí và những thứ khác.
Dầu ở trên mặt nước, hay ở dưới nước, dưới bóng mát hay dưới ánh nắng gắt của mặt trời, tôn sư chỉ sống bằng sức mạnh thiêng liêng: sự chết không còn xâm phạm đến người được nữa.
Quyền năng của tôn sư Trailinga không phải chỉ trên địa hạt tâm linh mà còn trên địa hạt vật chất. Người cân nặng trên 300 lbs, tính trung bình mỗi tuổi một pound! Ngoài ra người chỉ ăn rất ít và lâu lắm mới ăn một lần. Như thế một vị minh sư bất chấp mọi luật lê khi nào điều đó có một lý do bí ẩn, mà chỉ có vị ấy biết mà thôi. Tôn sư thường giữ giời tịnh khẩu.
Tuy có một gương mặt tròn và bụng hơi lớn, Tôn sư Trailinga ít khi ăn uống, như đã nói ở trên. Sau khi không ăn uống gì trong nhiều tuần, người chỉ gián đoạn cơn tuyệt thực bằng vài chén sữa chua của các đệ tử đem cúng dường. Có một lần, một kẻ hoài nghi định dùng một cách thử để y chứng minh rằng Tôn sư Trailinga chỉ là một tay đại bợm. Y đặt trước mặt Tôn sư một bình nước vôi để quét tường, làm bộ kính cần cúi đầu và nói:
- Bạch Tôn sư, con xin cúng dường Tôn sư một bình sữa tươi để ngài dùng.
Không do dự chút nào, Tôn sư Trailinga cầm bình nước vôi uống hết sạch đến giọt cuối cùng. Trong giây lát kẻ đùa nghịch ác độc kia nhào lăn xuống đất và ôm bụng kêu trời:
- Bạch Tôn sư, xin Tôn sư cứu con! Bao tử con nóng như lửa cháy, xin Tôn sư tha tội cho con!
Tôn sư bèn từ bỏ cơn im lặng thường nhật và nói:
- Con há chẳng biết rằng khi con đưa chất độc cho ta uống, mạng sống của ta và con chỉ là một. Nếu ta không biết rằng Thượng Đế vốn hiện diện khắp nơi, ở trong bao tử của ta cũng như tiềm tàng trong mỗi hột nguyên tử của vũ trụ, thì ta đã bỏ mạng vì bình nước vôi ấy rồi. Bây giờ, con đã hiểu ý nghĩa thiêng liêng của quả báo dội ngược, con hãy đứng dậy và từ nay đừng gây nghiệp ác với bất cứ một người nào!
Kẻ đùa ác bị trừng phạt đích đáng, được chữa khỏi bởi lời nói của Tôn sư Trailinga, bèn cúi đầu lủi thủi ra đi.
Việc đảo ngược sự đau đớn trở về cho người tác họa này không phải là do ý chí của Tôn sư khiến ra như thế mà là do luật công bằng nó cai quản mọi sự sinh hoạt theo định luật chu kỳ của vũ trụ. Đối với một người đã có sự giác ngộ thiêng liêng như Tôn sư Trailinga, định luật đó hành động một cách đương nhiên vì người đã hoàn toàn chinh phục được phàm ngã.
Luật công bằng thiêng liêng tác động một cách máy móc trong trường hợp Trailinga và kẻ đùa bỡn độc ác đó, an ủi chúng ta về mọi sự bất công trong xã hội loài người. Chúa trời đã nói: "Sự báo thù là ở trong tay Ta, hãy để cho Ta phát lạc mọi việc ân đền oán trả".
Ta có cần gì phải nghĩ đến sự trả thù khi mà luật công bình của Trời Đất sớm muộn gì cũng giải quyết mọi sự vay trả, trả vay? Những người bất minh phủ báng sự công bằng, tìm bác ái và sự toàn tri thiêng liêng, họ cho rằng những điều đó đều là không tưởng, bịa đặt. Quan điểm thiển cận đó thật ra là sai lầm, và sự thật đã chứng minh trái ngược lại.
Ân huệ của Tôn sư Trailinga cũng đã được ban rải cho người cậu tôi. Một buổi sáng, cậu tôi gặp Tôn sư và một nhóm đệ tử nơi những bực thềm đá trên bờ sông Hằng ở Bénarè. Cậu tôi vạch một lối di xuyên qua đám đông để đến gần Tôn sư Trailinga, cúi xuống làm lễ và sờ hai bàn chân của Tôn sư, ngay tức khắc cậu tôi lấy làm vui mừng mà cảm thấy được chữa khỏi một chứng bịnh kinh niên làm cho người rất đau đớn khổ sở lúc bình thường.
Có một lần, tôn sư Trailinga quên sự im lặng thường nhật của mình để làm lễ trước đứa Lahiri Mahâsaya giữa chốn công cộng. Một đệ tử phản kháng:
- Bạch tôn sư, với tư cách một bậc tu sĩ khổ hạnh và xuất gia, tại sao tôi sư lại làm lễ một cách quá tôn kính đối với người tu sĩ tại gia?
Trailinga đáp:
- Con hỡi, Lahiri Mahâysaya là người nắm giữ một vai trò thiêng liêng và một sứ mạng đặc biệt trong Thiên Cơ. Xét bề ngoài, người làm tròn những bổn phận của người gia trưởng, nhưng đồng thời người cũng có một sự giác ngộ tâm linh, là điều mà vì đó ta đã từ bỏ hết tất cả mọi sự chiếm hữu của cải vật chất của trần gian.
Chương Bốn
Sư Mẫu, chính lịnh tôn sư đã làm phép truyền Đạo cho con. Tôi sư là Thầy của cha mẹ con và của sư phụ con, tức là Sri Yuteswar. Xin Sư mẫu hãy cho con có hân hạnh được nghe Sư mẫu kể lại cuộc đời của Tôn sư?
Tôi thưa những lời trên với Sư mẫu Kashi Moni, phu nhân của đức Lahiri Mahâsaya. Nhân dịp đi ngang qua Bénarès, tôi quyết định thỏa mãn ước mơ mà tôi hằng ôm ấp từ lâu, là thăm viếng Sư mẫu. Bà tiếp tôi một cách khả ái tại ngôi nhà cổ của gia đình bà.
Tuy tuổi tác đã cao, bà có một gương mặt hồng hào tươi tỉnh, bao trùm bởi một bầu không khí tâm linh. Vóc dáng trung bình, bà có một nước da trắng, đôi mắt lớn trong sáng làm dịu hẳn gương mặt của một bậc hiền phụ. Bà nói với tôi:
- Chúc lành cho con, con hãy bước vào.
Sư mẫu Kashi Moni đưa tôi vào một nơi tịnh thất tại đây bà từng sống chung với đức phu quân của bà. Thật làm một sự hân hạnh cho tôi khi tôi được viếng nơi tịnh thất của vị Tôn sư độc đáo, tại đây người đã từng đóng vai trò của một người chủ gia đình như mội người thế gian. Sư mẫu chỉ chỗ cho tôi ngồi trên một ghế lót nệm, ở bên cạnh bà. Sư mẫu bắt đầu nói:
- Nhiều năm đã trôi qua trước khi tôi biết được tính chất thiêng liêng của phu quân tôi. Một đêm nọ, chính trong phòng này, tôi nằm mơ thấy một linh ảnh nhiệm mầu. Các vị thiên thần bay lượn nhẹ nhàng trên đầu tôi. Phu quân tôi, ngồi trong tư thế liên hoa, cũng lơ lửng trên không, với các vị thiên thần bao vây chung quanh. Vô cùng ngạc nhiên khôn tả, tôi vẫn không biết là tôi đang mơ. Lahiri Mahâsaya nói:
- Em hỡi, em không mơ đâu. Em hãy từ bỏ sự ngủ mê của linh hồn em.
Lúc ấy, phu quân tôi mới từ từ hạ xuống đất, tôi liền quỳ lạy dưới chân người, và nói:
- Bạch Tôn sư, xin người hãy tha thứ cho tôi sự điên rồ đến mức vẫn coi như người là chồng tôi. Tôi hổ thẹn xiết bao mà thấy rằng tôi vẫn ngủ mê trong sự vô minh bên cạnh một người đã thức tỉnh trong cõi thiêng liêng. Kể từ đêm nay, người sẽ không còn là chồng tôi nữa, mà là Thầy tôi. Tôn sư có vui lòng nhận kẻ hèn này làm đệ tử chăng?
Tôn sư bảo tôi:
- Hỡi linh căn thánh thiện, hãy đứng dậy. Tôi bằng lòng nhận.
Người chỉ các vị thiên thần:
- Em hãy nghiêng mình trước mỗi vị thiên thần này.
Khi tôi đã nghiêng mình kính cẩn chào mừng hết tất cả các vị, những giọng nói của các thiên thần đồng thinh vang rền:
- Hỡi phu nhân cao cả! Chúng tôi xin chào mừng phu nhân!
Các vị liền cúi chào dưới chân tôi và biến mất. Linh ảnh ấy rõ ràng thật sự đến nỗi làm cho tôi thức dậy liền khi đó, một ánh sáng rạng ngời tràn ngập khắp phòng. Tôn sư bèn dạy tôi hãy làm lễ nhập môn theo pháp môn Kriyâ Yoga.
Tôi nói:
- Tôi tiếc là không được biết pháp môn này sớm hơn để thánh hóa cuộc đời tôi.
Lahiri Mahâsaya nói với một nụ cười an ủi:
- Đó là bởi vì thời giờ chưa đến. Tôi đã âm thầm cứu chuộc trong vòng bí mật một phần lớn nghiệp quả của em. Bây giờ, em đã chuẩn bị sẵn sàng và đãng bằng lòng, thì nay mới đúng lúc.
Tôn sư bèn đặt bàn tay lên trán tôi. Một vầng ánh sáng xoay vòng hình trôn ốc xuất hiện và lần lần biến thành một ngôi sao năm nhánh.
- Cầu cho tâm thức của em hòa hợp với cõi Thiêng Liêng Tuyệt Đối xuyên qua ngôi sao này.
Giọng nói của Tôn Sư vọng lại như một khúc nhạc văng vẳng từ đằng xa. Những linh ảnh nối tiếp theo sau những linh ảnh cũng như các đợt sóng ngoài biện cả, diễn ra trước nhãn quang tâm linh của tôi.
Kế đó, những chân trời sáng chói đổi thành một biển tràn đầy một niềm phúc lạc nó lôi cuốn lấy tôi và làm cho tôi ngất lịm đi không còn ý thức về ngoại cảnh. Khi tôi tỉnh dậy vài giờ sau đó, Tôn sư truyền thụ cho tôi bí thuật của môn Kriyâ Yoga.
Kể từ đêm đó, Tôn sư không còn ngủ trong phòng tôi nữa, vả lại người có cần ngủ đâu, và chỉ ở gian nhà tầng dưới cùng với các đệ tử, ngày cũng như đêm".
Sư mẫu Kashi Moni đắm chìm trong cơn im lặng, và tôi phải xin bà kể lại những kỹ niệm khác về cuộc đời của Tôn sư.
Sư mẫu mỉm cười và nói:
- Tôi phải thú nhận tội lỗi đối với Tôn sư. Vài tháng sau lễ nhập môn, tôi bắt đầu cảm thấy bị bỏ rơi và cảm thấy cô đơn. Một buổi sáng Tôn sư bước vào hòng. Sẵn bất mãn trong lòng, tôi liền trách móc: "Ông dành hết tất cả thời giờ cho các đệ tử ông, và hoàn toàn bỏ phế trách nhiệm đối với vợ con. Tôi rất tiếc rằng ông không hề lo nghĩ gì đến việc trợ cấp thêm ít tiền bạc để chi dụng trong gia đình".
Tôi sư nhìn tôi một lúc và thình lình, không hề rời khỏi chỗ, người đã tàng hình biến mất. Kinh hoảng, tôi nghe tiếng người vang rền trong gian phòng trống trơn:
- Em thấy chăng, tất cả đều là hư không. Làm sao một vật hư không như tôi có thể đem tiền bạc cho em?
- Bạch Tôn sư, em xin lỗi, muôn vàn lần xin người thứ lỗi! Đôi mắt tội lỗi của em không còn nhìn thấy Tôn sư nữa. Xin tôn sư hãy hiện hình trở lại trong thánh thể của người!
- Có ta đây!
Những lời này vang rền ở phía trên đầu tôi. Tôi ngẩng đầu nhìn lên thì thấy Tôn sư hiện hình trong khoảng không, đầu đụng tới trần nhà. Đôi mắt người phóng ra những tia chớp sáng lòe làm chóa mắt tôi. Kinh sợ thất thần, tôi bèn sụp lạy, vừa úp mặt xuống đất vừa khóc nức nở khi Tôn sư bình tĩnh hạ xuống đất. Người nói:
- Em hỡi, hãy tìm kiếm sự phong phú tâm linh thay vì những của cải vật chất bỉ ổi của trần gian. Khi em sở đắc được cái kho tàng tâm linh đó, em sẽ thấy rằng những lợi lộc vật chất tự nhiên sẽ đến.
Người lại nói: "Một trong các người con tâm linh của ta sẽ đáp ứng mọi nhu cầu vật chất của em".
Những lời nói của tôn sư đã được thực hiện, một vị đệ tử cúng dường một số tiền lớn để trợ cấp cho gia đình chúng tôi.
Tôi cám ơn Sư mẫu Kashi Moni đã thuật lại cho tôi nghe những kỷ niệm quý báu. Ngày hôm sau tôi lại đến nhà Sư mẫu và có dịp đàm luận về triết lý với Tincuri và Ducuri, hai người con trai của đức Lahiri Mahâsaya. Hai anh em đều cao lớn, mạnh khỏe, có một bộ râu đen dầy, giọng nói êm dịu, và những dáng điệu lịch sự, theo lối cổ. Cả hai đều đang tu học để nối nghiệp cha mình.
Kashi Moni không phải là nữ đệ tử duy nhất của đức Lahiri Mahâsaya. Tôn sư còn có đến hằng trăm nữ đệ tử khác, trong số đó có mẹ tôi. Một vị nữ đệ tử tên là Abhoya cũng đã gặp đức Mahâsaya trong một dịp đáng ghi nhớ. Ngày nọ, bà ấy thưa với Tôn sư:
- Xin tôn sư cứu mạng cho đứa con thứ chín của con! Con có tám đứa đều chết yểu chỉ ít lâu sau khi sinh ra đời.
Tôn sư mỉm cười, thương hại:
- Đứa con sắp tới của con sẽ được sống. Con hãy tuân theo một cách chặt chẽ những lời dặn của Thầy. Đó là một đứa con gái sẽ sinh ra trong đêm nay. Con hãy giữ cho cái đèn dầu còn cháy cho đến sáng, nhất là đừng để cho nó tắt trong khi con ngủ mê.
Con gái của Abhoya sinh ra trong đêm, đúng như đức Tôn sư đã tiên đoán. Bà dặn người nữ trợ tá hãy châm đèn cho đầy dầu. Hai người đàn bà thức như vậy cho đến khuya, nhưng sau cùng thì ngủ thiếp đi. Cái đèn cạn dầu chỉ còn cháy leo lét và sắp sửa tắt.
Thiếu trang 43, 44 Tôi mới hiểu ý nghĩa lời nói úp mở của Sư Phụ về việc không thể thu nhận ông ta.
Lahiri Mahâsaya có một người bạn đồng môn bản lĩnh rất cao cường, là Tôn sư Trailinga, mà người ta nói rằng đã già đến gần ba trăm tuổi. Hai vị Yoga này thường tham thiền chung với nhau. Tôn sư Trailinga nổi tiếng đến nỗi ít người Ấn Độ nghi ngờ những phép lạ của người làm.
Nếu đấng Christ tái sinh và đi dạo trên các đường phố ở New York, điều ấy cũng không gây xúc động mạnh và sôi nổi trong dân chúng như việc xuất hiện của Trailing ở Bérarès cách đây khoảng vài chục năm.
Người ta thường thấy Tôn sư nuốt nhiều thứ thuốc độc rất mạnh mà không sao cả. Hằng ngàn người, trong số đó hiện nay có nhiều người còn sống, đã từng thấy Trailinga ở Bénarès nổi trên mặt nước sông Hằng. Trong nhiều ngày, tôn sư nằm trên mặt nước, hoặc lặn xuống nước trong một thời gian rất lâu.
Người ta thường thấy, trên bờ sông Hằng, tôn sư ngồi yên bất động trên bực thềm đá nóng như thiêu đốt dưới ánh nắng mặt trời Ấn Độ. Bằng những việc lạ lùng đó, Trailinga định chứng tỏ rằng một người Yogi thoát khỏi sự trói buộc của vật chất, chẳng hạn như sự nhu cầu dưỡng khí và những thứ khác.
Dầu ở trên mặt nước, hay ở dưới nước, dưới bóng mát hay dưới ánh nắng gắt của mặt trời, tôn sư chỉ sống bằng sức mạnh thiêng liêng: sự chết không còn xâm phạm đến người được nữa.
Quyền năng của tôn sư Trailinga không phải chỉ trên địa hạt tâm linh mà còn trên địa hạt vật chất. Người cân nặng trên 300 lbs, tính trung bình mỗi tuổi một pound! Ngoài ra người chỉ ăn rất ít và lâu lắm mới ăn một lần. Như thế một vị minh sư bất chấp mọi luật lê khi nào điều đó có một lý do bí ẩn, mà chỉ có vị ấy biết mà thôi. Tôn sư thường giữ giời tịnh khẩu.
Tuy có một gương mặt tròn và bụng hơi lớn, Tôn sư Trailinga ít khi ăn uống, như đã nói ở trên. Sau khi không ăn uống gì trong nhiều tuần, người chỉ gián đoạn cơn tuyệt thực bằng vài chén sữa chua của các đệ tử đem cúng dường. Có một lần, một kẻ hoài nghi định dùng một cách thử để y chứng minh rằng Tôn sư Trailinga chỉ là một tay đại bợm. Y đặt trước mặt Tôn sư một bình nước vôi để quét tường, làm bộ kính cần cúi đầu và nói:
- Bạch Tôn sư, con xin cúng dường Tôn sư một bình sữa tươi để ngài dùng.
Không do dự chút nào, Tôn sư Trailinga cầm bình nước vôi uống hết sạch đến giọt cuối cùng. Trong giây lát kẻ đùa nghịch ác độc kia nhào lăn xuống đất và ôm bụng kêu trời:
- Bạch Tôn sư, xin Tôn sư cứu con! Bao tử con nóng như lửa cháy, xin Tôn sư tha tội cho con!
Tôn sư bèn từ bỏ cơn im lặng thường nhật và nói:
- Con há chẳng biết rằng khi con đưa chất độc cho ta uống, mạng sống của ta và con chỉ là một. Nếu ta không biết rằng Thượng Đế vốn hiện diện khắp nơi, ở trong bao tử của ta cũng như tiềm tàng trong mỗi hột nguyên tử của vũ trụ, thì ta đã bỏ mạng vì bình nước vôi ấy rồi. Bây giờ, con đã hiểu ý nghĩa thiêng liêng của quả báo dội ngược, con hãy đứng dậy và từ nay đừng gây nghiệp ác với bất cứ một người nào!
Kẻ đùa ác bị trừng phạt đích đáng, được chữa khỏi bởi lời nói của Tôn sư Trailinga, bèn cúi đầu lủi thủi ra đi.
Việc đảo ngược sự đau đớn trở về cho người tác họa này không phải là do ý chí của Tôn sư khiến ra như thế mà là do luật công bằng nó cai quản mọi sự sinh hoạt theo định luật chu kỳ của vũ trụ. Đối với một người đã có sự giác ngộ thiêng liêng như Tôn sư Trailinga, định luật đó hành động một cách đương nhiên vì người đã hoàn toàn chinh phục được phàm ngã.
Luật công bằng thiêng liêng tác động một cách máy móc trong trường hợp Trailinga và kẻ đùa bỡn độc ác đó, an ủi chúng ta về mọi sự bất công trong xã hội loài người. Chúa trời đã nói: "Sự báo thù là ở trong tay Ta, hãy để cho Ta phát lạc mọi việc ân đền oán trả".
Ta có cần gì phải nghĩ đến sự trả thù khi mà luật công bình của Trời Đất sớm muộn gì cũng giải quyết mọi sự vay trả, trả vay? Những người bất minh phủ báng sự công bằng, tìm bác ái và sự toàn tri thiêng liêng, họ cho rằng những điều đó đều là không tưởng, bịa đặt. Quan điểm thiển cận đó thật ra là sai lầm, và sự thật đã chứng minh trái ngược lại.
Ân huệ của Tôn sư Trailinga cũng đã được ban rải cho người cậu tôi. Một buổi sáng, cậu tôi gặp Tôn sư và một nhóm đệ tử nơi những bực thềm đá trên bờ sông Hằng ở Bénarè. Cậu tôi vạch một lối di xuyên qua đám đông để đến gần Tôn sư Trailinga, cúi xuống làm lễ và sờ hai bàn chân của Tôn sư, ngay tức khắc cậu tôi lấy làm vui mừng mà cảm thấy được chữa khỏi một chứng bịnh kinh niên làm cho người rất đau đớn khổ sở lúc bình thường.
Có một lần, tôn sư Trailinga quên sự im lặng thường nhật của mình để làm lễ trước đứa Lahiri Mahâsaya giữa chốn công cộng. Một đệ tử phản kháng:
- Bạch tôn sư, với tư cách một bậc tu sĩ khổ hạnh và xuất gia, tại sao tôi sư lại làm lễ một cách quá tôn kính đối với người tu sĩ tại gia?
Trailinga đáp:
- Con hỡi, Lahiri Mahâysaya là người nắm giữ một vai trò thiêng liêng và một sứ mạng đặc biệt trong Thiên Cơ. Xét bề ngoài, người làm tròn những bổn phận của người gia trưởng, nhưng đồng thời người cũng có một sự giác ngộ tâm linh, là điều mà vì đó ta đã từ bỏ hết tất cả mọi sự chiếm hữu của cải vật chất của trần gian.
#26
Gửi vào 07/06/2011 - 03:42
Một Chuyện Hồi Sinh
Chương Năm
Buổi sáng đẹp trời, Sri Yukteswar bình luận Thánh kinh Gia Tô tại đạo viện ở Setampore. Ngoài ra vài đệ tử khác, tôi cũng có mặt với một nhóm thiếu sinh của tôi ở trường học Ranchi.
Sư phụ bình luận đến đoạn phục sinh nhiệm mầu của thánh Lazare. Xong rồi, người xếp quyển thánh kinh đạt trên đầu gối và đắm chìm trong im lặng. Một lúc sau, Sư phụ nói một cách trịnh trọng:
- Thầy cũng đã từng chứng kiến một phép mầu tương tự, đức Lahiri Mahâsaya đã làm cho một người bạn của Thầy sau khi đã chết rồi, được hồi sinh trở lại.
Sự tò mò hiện trong đôi mắt của những thiếu sinh đứng chung quanh tôi. Phần tôi, tôi luôn luôn thích thú được nghe những câu chuyện kinh nghiệm của Sri Yukteswar về đức Tôn sư của người. Sư phụ bắt đầu nói:
- Râma với Thầy là hai người bạn thiết không hề rời nhau. Nhút nhát và thích sống cô đơn, y chỉ đến tịnh thất của sư phụ vào lúc sáng sớm, là những giờ ít có những đệ tử ở gần bên. Vì thầy là người bạn thân nhất, nên Râma thường tâm sự cho Thầy biết những tiến bộ tâm linh củ mình và nhờ đó Thầy cũng hưởng thụ được nhiều sự ích lợi.
Gương mặt của Dri Yukteswar dịu hẳn lại vì kỷ niệm đó.
- Thình lình, Râma bị một cơn thử thách rất nặng. Y mắc bịnh thời khí Á Châu. Vì sư phụ thầy không bao giờ quên kêu gọi đến các bác sĩ trong mọi trường hợp trọng bịnh, nên hai vị y sĩ chuyên khoa được mời đến một cách khẩn cấp.
trong khi hai vị đang săn sóc người bịnh, Thầy hết lòng cầu nguyện Thượng Đế để cho sư phụ ra tay cứu giúp. Thầy bèn hối hả đến gặp Sư phụ và vừa khóc vừa thuật chuyện lại. Sư phụ nói với một nụ cười khích lệ: "Các vị y sĩ đang lo chữa cho Râma. Nó sẽ hết bịnh".
Thầy vui mừng trở về giường bịnh của Râma, lúc ấy đang nằm trong cơn bất tỉnh! Một trong hai vị y sĩ nói với thầy, với một cử chỉ thất vọng: "Y chỉ còn sống chừng vài giờ nữa thôi".
Thầy lại chạy đến gặp sư phụ. Người vẫn vui vẻ nói: "Các y sĩ đều là những người có lương tâm. Thầy chắc là Râma sẽ bình phục".
Thầy lại trở về chỗ cũ, thì các vị y sĩ không còn trực bên giường bịnh nữa, một vị để lại cho Thầy ít chữ: "Chúng tôi đã cố gắng hết sức mình, nhưng trường hợp này đã tuyệt vọng!"
Râma dường như đã sắp trút hơi thở cuối cùng. Thầy không hề nghi ngờ lời nói của Sư phụ, tuy vậy nhìn thấy bịnh trạng của Râma mỗi lúc càng suy sụp dần, Thầy đã nghĩ rằng: "Thôi, thế là hết!" Thầy rán săn sóc y với hết sức mình. Bỗng y mở mắt kêu lên:
- Yukteswar, anh hãy chạy mau cho sư phụ hay rằng tôi sắp chết. Yêu cầu người ban ân huệ cho thể xác tôi trước khi làm lễ hỏa táng.
Nói vừa dứt lời, Râma thở dài một tiếng và trút linh hồn.
Thầy khóc trọn một giờ trên xác chết của Râma. Luôn luôn ôn hòa yên tịnh lúc sinh thời, y đã đạt tới sự yên tĩnh hoàn toàn trong lúc chết. Một đệ tử vừa bước vào, Thầy yêu cầu y hãy trực tại đó cho đến khi Thầy trở về. Hoàn toàn thất vọng, thầy đi đến tịnh thất của sư phụ. Sư phụ vừa mỉm cười vừa hỏi:
- Râma mạnh giỏi thế nào?
Thầy đáp một cách run rẩy:
- Bạch sư phụ, sư phụ sẽ thấy y trong giây lát! Trong vài giờ nữa, sư phụ sẽ có thể chiêm ngưỡng xác chết của y trước khi đem đi hỏa táng ở nghĩa địa!
Nói đến đó, thầy ngường bặt và khóc sướt mướt. Sư phụ nói:
- Con hãy bình tĩnh, Yukteswar. Hãy ngồi xuống để tham thiền.
Sư phụ liền đắm chìm trong cơn đại định. Trong buổi tối và đêm hôm đó diễn ra trong sự im lặng hoàn toàn, Thầy cố gắng lấy sự bình tĩnh những vô hiệu quả. Đến sáng, Sư phụ nhìn Thầy, an ủi:
- Ta thấy con hãy còn xúc động. Tại sao hôm qua con không nói rõ là con ước mong thầy cứu giúp cho Râma một cách cụ thể, dưới hình thức một phương thuốc nào đó chẳng hạn?
Sư phụ bèn chỉ một cái đèn dầu phộng, tim bấc để nằm trong một cái bình đựng dầu hình giống như cái chén.
- Con hãy rót dầu từ trong bình đó ra một cái lọ, rồi con hãy rót đúng bảy giọt vào trong miệng của Râma.
Thầy phản đối:
- Bạch sư phụ, y đã chết từ trưa ngày hôm qua, dầu này nay còn dùng để làm gì?
- Không sao! Con hãy làm như lời Thầy dặn!
Sự vui vẻ của Sư phụ thật không hiểu nổi. Thầy lấy làm buồn bực vô cùng, tuy vậy Thầy cũng lấy một ít dầu và trở về nhà của Râma.
Thầy thấy thân mình y đã cứng đơ trong trạng thái của xác chết. Tuy vậy, Thầy cũng lấy một ngón tay cậy miệng y và nhỏ dầu vào giữa hai hàm răng cắn chặt của y.
Khi đã nhỏ đu bảy giọt dầu vào miệng y. Râma cử động mạnh. Những bắp thịt của y run lên từ đầu đến chân, y liền ngồi nhỏm dậy và nói:
- Tôi thấy sư phụ mình bao bọc hào quang sáng rỡ như mặt trời, chung quanh có những tia chớp. Người ra lịnh cho tôi: "Con hãy ngồi dậy và hãy quên đi giấc ngủ của con. Hãy cùng với Yukteswar đến đây với Thầy!"
Thầy còn chưa tin những gì đang diễn ra trước mắt, thì Râma đã ngồi dậy và tỏ ra có đủ sức để cùng đi với Thầy đến nhà sư phụ. Đi đến nơi, y cúi lạy dưới chân sư phụ và vừa khóc vừa tạ ơn.
Sư phụ không còn cảm thấy cái vui nào hơn. Đôi mắt người long lanh sáng nhìn Thầy với một cái nhìn có ý nghĩa. Người nói:
- Yukteswat, thầy chắc rằng từ nay con sẽ không bao giờ rời khỏi chai dầu phộng! Khi con vừa thấy một xác chết, con chỉ cần đổ bảy giọt dầu là có thể đẩy lui được Thần Chết!
- Bạch Sư phụ, sư phụ chế diễu con và con chưa hiểu tại sao, xin Sư phụ giải thích rõ về sự lầm lạc của con".
Đức Lahiri Mahâsaya bèn giải thích:
- Thầy đã nói lập lại hai lần rằng Râma sẽ khỏi bịnh, nhưng con vẫn chưa hoàn toàn tin lời Thầy. Thầy không hề nói rằng các y sĩ sẽ cứu y khỏi chết, mà chỉ nói rằng học đang săn sóc y. Giữa hai điều đó, không hề có một sự liên hệ về nhân quả. Thầy không muốn can thiệt vào việc làm của các y sĩ, họ cũng cần phải sống!
Sư phụ vui vẻ nói tiếp:
- Con hãy biết rằng Chân Như Đại Ngã (Paramatman) có thể chữa khỏi bất cứ người bịnh nào, dù rằng có hay không có thầy thuốc ở gần bên.
Thầy thú nhận một cách bẽn lẽn:
- Bạch sư phụ, con đã thấy lỗi của con. Kể từ nay con biết rằng lời nói của sư phụ cũng đủ làm đảo lộn cả vũ trụ!
KhiSri Yukteswar vừa kể xong câu chuyện bi kịch lạ lùng ấy, một trong những thiếu sinh của tôi đưa ra một câu hỏi thật ngây thơ:
- Bạch Tôn sư, tại sao đức sư tổ lại cho uống dầu phộng?
- Con hỡi, chất dầu phộng không có quan hệ gì cả, vì ta trong mong ở sư phụ một hành động cụ thể nào đó, nên người lấy bất cứ vật gì nằm trong tầm tay, như một tượng trưng để khêu gợi nơi ta một đức tin mãnh liệt. Sư phụ để cho Râma chết bởi vì ta đã có sự nghi ngờ.
Nhưng Sư phụ biết rằng, khi người đã tuyên bố rằng Râma sẽ khỏi bịnh, thì việc đó phải xảy ra đúng y như vậy, dẫu rằng phải làm cho Râma hồi sinh sau khi đã chết, vì bịnh thời khí này thường làm chết người!
Sri Yukteswar cho nhóm thiếu sinh đi về, người bảo tôi ngồi trên nệm gần bên, và nói với một giọng nghiêm trọng khác thường:
- Yogânanda con hỡi, từ thuở lọt lòng mẹ, con đã luôn luôn sống với những vị đệ tử của đức Lahiri Mahâsaya ở chung quanh con. Sư phụ ta đã sống cuộc đời siêu việc của người trong sự ẩn dật, và nhiệt liệt từ chối không cho phép các đệ tử thành lập một cơ quan tinh thần nào căn cứ trên những giáo lý của người. Tuy nhiên, người đã đưa ra một lời tiên tri có ý nghĩa:
"Vào khoảng năm chục năm sau khi Thầy từ trần, cuộc đời Thầy sẽ được ghi chép lại vì pháp môn Yoga sẽ gây nên một sự thích thú sâu xa ở phương Tây. Tiểu sử Thầy sẽ là một thông điệp Yoga lưu truyền đi khắp thế giới để giúp cho việc thiết lập một nền thân hữu đại đồng trong nhân loại".
Sri Yukteswar nói:
- Yogânanda con hởi, con phải thực hiện việc lưu truyền bức thông điệp đó bằng cách viết tiểu sử của sư phụ ta.
Lahiri Mahâsaya từ trần năm 1895 và quyển sách này được viết xong vào năm 1945. Tôi phải lưu ý đến sự kiện này là năm 1945, lại trùng hợp với năm mở màn cho một kỷ nguyên mới, đó là kỷ nguyên của nguyên tử lực.
Hơn bất cứ lúc nào hết, vấn đề hòa bình và tình thương trong nhân loại lại được nêu ra, vì nếu không có hai điều này thì việc lạm dụng nguyên tử lực sẽ tiêu diệt nhân loại trên mặt quả đia cầu, với tất cả những vấn đề khó khăn của họ.
Lòng bác ái, tương trợ lẫn nhau, tức là những phương thuốc để hàn gắn những vết thương của nhân loại, không thể nẩy sinh ra từ những sự tranh luận lý trí giữa người đời, mà do sự ý thức được tính đồng nhất giữ mọi loài vạn vật, vì là cùng xuất xứ từ một nguồn gốc duy nhất tức là Thượng Đế.
Mong rằng pháp môn Yoga, được phổ biến rộng rãi trên thế gian không phân biệt chủng tộc và tín ngưỡng, sẽ là cái khí cụ để thể hiện lý tưởng bác ái đại đồng trong nhân loại.
Ít có sử gia nào đã vạch rõ sự kiện này, là sự tồn tại của nền văn minh Ấn Độ như một quốc gia cổ nhất thế giới, không phải là một việc ngẫu nhiên tình cờ, mà là cái hậu quả hợp lý của lòng sùng thượng của dân tộc Ấn đối với những chân lý trường cửu muôn đời.
Những chân lý này, nền văn minh cổ Ấn Độ đã từng nêu cao và làm sáng tỏ trải qua các thời đại do bởi các bậc thánh nhân hiền triết. Chính điều ấy đã làm cho nền văn minh Ấn Độ có thể thách thức thời gian, trong khi thời gian đã tiêu diệt các nền văn minh khác.
Trong Thánh kinh Buble có thuật chuyện Abraham cầu nguyện đấng Thiêng Liêng che chở cho dân tộc Sodome, và được câu trả lời của đấng Vô cùng: "Dân tộc ấy sẽ không bị tiêu diệt, nhờ bởi mười bị hiền giả của họ".
Câu chuyện này gieo một tia ánh sáng mới để giúp cho ta hiểu lý do vì sao xứ Ấn Độ đã thoát khỏi cái số phận của Babylone, Ai Cập và những nước lớn khác của đấng Thiêng Liêng chỉ rõ ràng một dân tộc được tồn tại không phải nhờ sự tiến bộ vật chất, mà là nhờ bởi sống thuận theo đạo lý.
Mong sao nhân loại ngày nay có thể nghe lời cảnh cáo thiêng liêng đó, trong một thế kỷ đã từng trải qua hai cuộc Thế Chiến đẫm máu. Một quốc gia nào không đếm được ít nhất là mười người hiền đức chắc chắn là sẽ đi vào những bậc thánh nhân hiền triết của nó.
Từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, những bậc sứ giả của Thiêng Liêng đã từng thánh hóa xứ Ấn Độ. Những bậc hiền giả hiện kim như Lahiri Mahâsaya và vị đệ tử người là Sri Yukteswar đã xuất hiện để tuyên bố rằng pháp môn Yoga là cần thiết cho nền hạnh phúc và sự sinh tồn của một quốc gia, một dân tộc, hơn cả những thành quả tiến bộ vật chất, kỹ thuật.
Cho đến nay, chỉ có rất ít tài liệu được công bố về đời sống của đức Lahiri Mahâsaya và giáo lý của người. Trong khoảng ba mươi năm, tôi đã gặp ở Ấn Độ, Mỹ quốc và Âu châu một sự thích thú nồng nhiệt về pháp môn Yoga qua sự diễn đạt và phổ biến của Tôn sư.
Do đó, ngày nay người ta cảm thấy cần công bố một bản tiểu sử của đức Tôn sư ở bên các nước Tây Phương, là nơi người ta chỉ biết rất ít về đời sống của các nhà đạo sĩ Yogi hiện đại.
Lahiri Mahâsaya sinh ngày Ba Mươi tháng Chín năm 1828 tại làng Ghurni, quận Nadia, gần Krishnagar, tỉnh Bengale, Ấn Độ. Sinh trưởng trong một gia đình Bà La Môn đạo hạnh, ông là con út của bà Muktakashi, vợ kế Gaua Mohan Lahiri. Bà mẹ từ trần từ ngày ông còn thơ ấu.
Người thiếu niên tên gọi Shyama Charan Lahiri trải qua thời kỳ thơ ấu tại nhà cha mẹ tại quận Nadia. Hồi mới lên ba bốn tuổi, Lahiri đã biết ngồi thiền theo tư thế Yoga.
Tài sản của gia đình Lahiri bị tàn phá vào mùa đông năm 1833, khi con sông Jalangi ở gần nhà thình lình đổi giòng nước và đổ vào sông Hằng. Một ngôi đền thờ thần Shiva do gia đình Lahiri dựng lên cùng với ngôi nhà đều bị giòng nước cuốn đi mất.
Tôn ông Gaur Mohan Lahiri và gia đình bèn rời khỏi Nadia và định cư tại Bénarès, tại đây ông mới xây dựng một ngôi đền Shiva khác. Tôn ông điều khiển gia đình theo giới luận Phệ Đà, gồm có những nghi thức lễ bái, thực hành hạnh bố thí, và học thánh kinh. Tâm hồn ngay chính và khoáng đạt, tôn ông vẫn không xa cách trào lưu tư tưởng cận đại.
Thuở nhỏ Lahiri theo học các môn Phạn ngữ và sinh ngữ, thánh kinh Phệ Đà, và từng tham dự một cách say mê những cuộc thảo luận triết lý giữa các nhà bác học Bà La Môn.
Lahiri là một thanh niên tốt bụng, dễ thương và được các bạn hữu mến chuộng. Thân hình cân đối và khỏe mạnh, chàng rất giỏi về môn bơi lội và các môn thể dục khác.
Năm 1846, chàng Lahiri cưới Kashi Moni, con gái của một vị nhân sĩ khả kính trong vùng. Là một hiền phụ gương mẫu, Kashi Moni đảm trách mọi việc nội trợ một cách hoàn hảo theo truyền thống cổ Ấn Độ. Trong vài năm sau, gia đình Lahiri sinh được hai người con trai, là Tincuri và Ducuri.
Năm 1851, vào năm hai mươi tuổi, Lahiri Mahâsaya làm kế toán viên sở quản trị hành chánh trong quân đội Anh và đã được thăng chức nhiều lần trong thời gian phục vụ. Như thế, Người không phải chỉ là một vị tôn sư có sứ mạng Thiêng Liêng mà còn làm tròn những bổn phận thế gian trong đời sống hằng ngày mà người có một vai trò phải đóng góp.
Khi các công sở được chỉnh đốn lại, Lahiri Mahâsaya được thuyên chuyển lần lượt đến nhiều thị trấn khác nhau. Khi lịnh tôn qua đời, Lahiri phải hoàn toàn đảm lấy trách nhiệm coi sóc gia đình, lúc ấy đang cư ngụ tại một khu vực yên tĩnh gần Bénarès.
Chính vào năm ba mươi ba tuổi là lúc mà Lahiri Mahâsaya mới biết rõ cái định mệnh nó dắt dẫn người đầu thai chuyển kiếp xuống thế gian. Ngọn lửa tàn âm ỉ dưới lớp tro thình lình bốc cháy phừng lên thành một ngọn lửa hồng rực rỡ sáng chói.
Một định luật thiêng liêng, ẩn dấu đối với mắt phàm của người đời, hành động một cách bí mật để biểu lệ mọi sự mọi việc vào đúng lúc, khi ngày giờ đã điểm. Lahiri đã gặp gỡ sư phụ của người, đức Bâjia, ở gần Ranikhent trên dãy Tuyết Sơn, và được thụ giáo pháp môn Kriyâ Yoga.
Cơ hội tốt lành ấy xảy ra không phải vì sự tiến hóa riêng của Lahiri, mà toàn thể nhân loại sẽ được hưởng thụ có kho tàng kiến thức và minh triết thâm sâu của pháp môn Kriyâ Yoga.
Mất đi từ nhiều thế kỷ, và sau cùng được đưa ra ánh sáng trở lại, pháp môn Kriyâ Yoga, ví như ngọn suối nước cam lồ để giải khát cho những linh hồn khát khao đạo lý đi tìm sự hợp nhất với thiêng liêng, phải là vật sở hữu chung cho tất cả mọi người trần gian đau khổ đi tìm sự giải thoát.
Chương Năm
Buổi sáng đẹp trời, Sri Yukteswar bình luận Thánh kinh Gia Tô tại đạo viện ở Setampore. Ngoài ra vài đệ tử khác, tôi cũng có mặt với một nhóm thiếu sinh của tôi ở trường học Ranchi.
Sư phụ bình luận đến đoạn phục sinh nhiệm mầu của thánh Lazare. Xong rồi, người xếp quyển thánh kinh đạt trên đầu gối và đắm chìm trong im lặng. Một lúc sau, Sư phụ nói một cách trịnh trọng:
- Thầy cũng đã từng chứng kiến một phép mầu tương tự, đức Lahiri Mahâsaya đã làm cho một người bạn của Thầy sau khi đã chết rồi, được hồi sinh trở lại.
Sự tò mò hiện trong đôi mắt của những thiếu sinh đứng chung quanh tôi. Phần tôi, tôi luôn luôn thích thú được nghe những câu chuyện kinh nghiệm của Sri Yukteswar về đức Tôn sư của người. Sư phụ bắt đầu nói:
- Râma với Thầy là hai người bạn thiết không hề rời nhau. Nhút nhát và thích sống cô đơn, y chỉ đến tịnh thất của sư phụ vào lúc sáng sớm, là những giờ ít có những đệ tử ở gần bên. Vì thầy là người bạn thân nhất, nên Râma thường tâm sự cho Thầy biết những tiến bộ tâm linh củ mình và nhờ đó Thầy cũng hưởng thụ được nhiều sự ích lợi.
Gương mặt của Dri Yukteswar dịu hẳn lại vì kỷ niệm đó.
- Thình lình, Râma bị một cơn thử thách rất nặng. Y mắc bịnh thời khí Á Châu. Vì sư phụ thầy không bao giờ quên kêu gọi đến các bác sĩ trong mọi trường hợp trọng bịnh, nên hai vị y sĩ chuyên khoa được mời đến một cách khẩn cấp.
trong khi hai vị đang săn sóc người bịnh, Thầy hết lòng cầu nguyện Thượng Đế để cho sư phụ ra tay cứu giúp. Thầy bèn hối hả đến gặp Sư phụ và vừa khóc vừa thuật chuyện lại. Sư phụ nói với một nụ cười khích lệ: "Các vị y sĩ đang lo chữa cho Râma. Nó sẽ hết bịnh".
Thầy vui mừng trở về giường bịnh của Râma, lúc ấy đang nằm trong cơn bất tỉnh! Một trong hai vị y sĩ nói với thầy, với một cử chỉ thất vọng: "Y chỉ còn sống chừng vài giờ nữa thôi".
Thầy lại chạy đến gặp sư phụ. Người vẫn vui vẻ nói: "Các y sĩ đều là những người có lương tâm. Thầy chắc là Râma sẽ bình phục".
Thầy lại trở về chỗ cũ, thì các vị y sĩ không còn trực bên giường bịnh nữa, một vị để lại cho Thầy ít chữ: "Chúng tôi đã cố gắng hết sức mình, nhưng trường hợp này đã tuyệt vọng!"
Râma dường như đã sắp trút hơi thở cuối cùng. Thầy không hề nghi ngờ lời nói của Sư phụ, tuy vậy nhìn thấy bịnh trạng của Râma mỗi lúc càng suy sụp dần, Thầy đã nghĩ rằng: "Thôi, thế là hết!" Thầy rán săn sóc y với hết sức mình. Bỗng y mở mắt kêu lên:
- Yukteswar, anh hãy chạy mau cho sư phụ hay rằng tôi sắp chết. Yêu cầu người ban ân huệ cho thể xác tôi trước khi làm lễ hỏa táng.
Nói vừa dứt lời, Râma thở dài một tiếng và trút linh hồn.
Thầy khóc trọn một giờ trên xác chết của Râma. Luôn luôn ôn hòa yên tịnh lúc sinh thời, y đã đạt tới sự yên tĩnh hoàn toàn trong lúc chết. Một đệ tử vừa bước vào, Thầy yêu cầu y hãy trực tại đó cho đến khi Thầy trở về. Hoàn toàn thất vọng, thầy đi đến tịnh thất của sư phụ. Sư phụ vừa mỉm cười vừa hỏi:
- Râma mạnh giỏi thế nào?
Thầy đáp một cách run rẩy:
- Bạch sư phụ, sư phụ sẽ thấy y trong giây lát! Trong vài giờ nữa, sư phụ sẽ có thể chiêm ngưỡng xác chết của y trước khi đem đi hỏa táng ở nghĩa địa!
Nói đến đó, thầy ngường bặt và khóc sướt mướt. Sư phụ nói:
- Con hãy bình tĩnh, Yukteswar. Hãy ngồi xuống để tham thiền.
Sư phụ liền đắm chìm trong cơn đại định. Trong buổi tối và đêm hôm đó diễn ra trong sự im lặng hoàn toàn, Thầy cố gắng lấy sự bình tĩnh những vô hiệu quả. Đến sáng, Sư phụ nhìn Thầy, an ủi:
- Ta thấy con hãy còn xúc động. Tại sao hôm qua con không nói rõ là con ước mong thầy cứu giúp cho Râma một cách cụ thể, dưới hình thức một phương thuốc nào đó chẳng hạn?
Sư phụ bèn chỉ một cái đèn dầu phộng, tim bấc để nằm trong một cái bình đựng dầu hình giống như cái chén.
- Con hãy rót dầu từ trong bình đó ra một cái lọ, rồi con hãy rót đúng bảy giọt vào trong miệng của Râma.
Thầy phản đối:
- Bạch sư phụ, y đã chết từ trưa ngày hôm qua, dầu này nay còn dùng để làm gì?
- Không sao! Con hãy làm như lời Thầy dặn!
Sự vui vẻ của Sư phụ thật không hiểu nổi. Thầy lấy làm buồn bực vô cùng, tuy vậy Thầy cũng lấy một ít dầu và trở về nhà của Râma.
Thầy thấy thân mình y đã cứng đơ trong trạng thái của xác chết. Tuy vậy, Thầy cũng lấy một ngón tay cậy miệng y và nhỏ dầu vào giữa hai hàm răng cắn chặt của y.
Khi đã nhỏ đu bảy giọt dầu vào miệng y. Râma cử động mạnh. Những bắp thịt của y run lên từ đầu đến chân, y liền ngồi nhỏm dậy và nói:
- Tôi thấy sư phụ mình bao bọc hào quang sáng rỡ như mặt trời, chung quanh có những tia chớp. Người ra lịnh cho tôi: "Con hãy ngồi dậy và hãy quên đi giấc ngủ của con. Hãy cùng với Yukteswar đến đây với Thầy!"
Thầy còn chưa tin những gì đang diễn ra trước mắt, thì Râma đã ngồi dậy và tỏ ra có đủ sức để cùng đi với Thầy đến nhà sư phụ. Đi đến nơi, y cúi lạy dưới chân sư phụ và vừa khóc vừa tạ ơn.
Sư phụ không còn cảm thấy cái vui nào hơn. Đôi mắt người long lanh sáng nhìn Thầy với một cái nhìn có ý nghĩa. Người nói:
- Yukteswat, thầy chắc rằng từ nay con sẽ không bao giờ rời khỏi chai dầu phộng! Khi con vừa thấy một xác chết, con chỉ cần đổ bảy giọt dầu là có thể đẩy lui được Thần Chết!
- Bạch Sư phụ, sư phụ chế diễu con và con chưa hiểu tại sao, xin Sư phụ giải thích rõ về sự lầm lạc của con".
Đức Lahiri Mahâsaya bèn giải thích:
- Thầy đã nói lập lại hai lần rằng Râma sẽ khỏi bịnh, nhưng con vẫn chưa hoàn toàn tin lời Thầy. Thầy không hề nói rằng các y sĩ sẽ cứu y khỏi chết, mà chỉ nói rằng học đang săn sóc y. Giữa hai điều đó, không hề có một sự liên hệ về nhân quả. Thầy không muốn can thiệt vào việc làm của các y sĩ, họ cũng cần phải sống!
Sư phụ vui vẻ nói tiếp:
- Con hãy biết rằng Chân Như Đại Ngã (Paramatman) có thể chữa khỏi bất cứ người bịnh nào, dù rằng có hay không có thầy thuốc ở gần bên.
Thầy thú nhận một cách bẽn lẽn:
- Bạch sư phụ, con đã thấy lỗi của con. Kể từ nay con biết rằng lời nói của sư phụ cũng đủ làm đảo lộn cả vũ trụ!
KhiSri Yukteswar vừa kể xong câu chuyện bi kịch lạ lùng ấy, một trong những thiếu sinh của tôi đưa ra một câu hỏi thật ngây thơ:
- Bạch Tôn sư, tại sao đức sư tổ lại cho uống dầu phộng?
- Con hỡi, chất dầu phộng không có quan hệ gì cả, vì ta trong mong ở sư phụ một hành động cụ thể nào đó, nên người lấy bất cứ vật gì nằm trong tầm tay, như một tượng trưng để khêu gợi nơi ta một đức tin mãnh liệt. Sư phụ để cho Râma chết bởi vì ta đã có sự nghi ngờ.
Nhưng Sư phụ biết rằng, khi người đã tuyên bố rằng Râma sẽ khỏi bịnh, thì việc đó phải xảy ra đúng y như vậy, dẫu rằng phải làm cho Râma hồi sinh sau khi đã chết, vì bịnh thời khí này thường làm chết người!
Sri Yukteswar cho nhóm thiếu sinh đi về, người bảo tôi ngồi trên nệm gần bên, và nói với một giọng nghiêm trọng khác thường:
- Yogânanda con hỡi, từ thuở lọt lòng mẹ, con đã luôn luôn sống với những vị đệ tử của đức Lahiri Mahâsaya ở chung quanh con. Sư phụ ta đã sống cuộc đời siêu việc của người trong sự ẩn dật, và nhiệt liệt từ chối không cho phép các đệ tử thành lập một cơ quan tinh thần nào căn cứ trên những giáo lý của người. Tuy nhiên, người đã đưa ra một lời tiên tri có ý nghĩa:
"Vào khoảng năm chục năm sau khi Thầy từ trần, cuộc đời Thầy sẽ được ghi chép lại vì pháp môn Yoga sẽ gây nên một sự thích thú sâu xa ở phương Tây. Tiểu sử Thầy sẽ là một thông điệp Yoga lưu truyền đi khắp thế giới để giúp cho việc thiết lập một nền thân hữu đại đồng trong nhân loại".
Sri Yukteswar nói:
- Yogânanda con hởi, con phải thực hiện việc lưu truyền bức thông điệp đó bằng cách viết tiểu sử của sư phụ ta.
Lahiri Mahâsaya từ trần năm 1895 và quyển sách này được viết xong vào năm 1945. Tôi phải lưu ý đến sự kiện này là năm 1945, lại trùng hợp với năm mở màn cho một kỷ nguyên mới, đó là kỷ nguyên của nguyên tử lực.
Hơn bất cứ lúc nào hết, vấn đề hòa bình và tình thương trong nhân loại lại được nêu ra, vì nếu không có hai điều này thì việc lạm dụng nguyên tử lực sẽ tiêu diệt nhân loại trên mặt quả đia cầu, với tất cả những vấn đề khó khăn của họ.
Lòng bác ái, tương trợ lẫn nhau, tức là những phương thuốc để hàn gắn những vết thương của nhân loại, không thể nẩy sinh ra từ những sự tranh luận lý trí giữa người đời, mà do sự ý thức được tính đồng nhất giữ mọi loài vạn vật, vì là cùng xuất xứ từ một nguồn gốc duy nhất tức là Thượng Đế.
Mong rằng pháp môn Yoga, được phổ biến rộng rãi trên thế gian không phân biệt chủng tộc và tín ngưỡng, sẽ là cái khí cụ để thể hiện lý tưởng bác ái đại đồng trong nhân loại.
Ít có sử gia nào đã vạch rõ sự kiện này, là sự tồn tại của nền văn minh Ấn Độ như một quốc gia cổ nhất thế giới, không phải là một việc ngẫu nhiên tình cờ, mà là cái hậu quả hợp lý của lòng sùng thượng của dân tộc Ấn đối với những chân lý trường cửu muôn đời.
Những chân lý này, nền văn minh cổ Ấn Độ đã từng nêu cao và làm sáng tỏ trải qua các thời đại do bởi các bậc thánh nhân hiền triết. Chính điều ấy đã làm cho nền văn minh Ấn Độ có thể thách thức thời gian, trong khi thời gian đã tiêu diệt các nền văn minh khác.
Trong Thánh kinh Buble có thuật chuyện Abraham cầu nguyện đấng Thiêng Liêng che chở cho dân tộc Sodome, và được câu trả lời của đấng Vô cùng: "Dân tộc ấy sẽ không bị tiêu diệt, nhờ bởi mười bị hiền giả của họ".
Câu chuyện này gieo một tia ánh sáng mới để giúp cho ta hiểu lý do vì sao xứ Ấn Độ đã thoát khỏi cái số phận của Babylone, Ai Cập và những nước lớn khác của đấng Thiêng Liêng chỉ rõ ràng một dân tộc được tồn tại không phải nhờ sự tiến bộ vật chất, mà là nhờ bởi sống thuận theo đạo lý.
Mong sao nhân loại ngày nay có thể nghe lời cảnh cáo thiêng liêng đó, trong một thế kỷ đã từng trải qua hai cuộc Thế Chiến đẫm máu. Một quốc gia nào không đếm được ít nhất là mười người hiền đức chắc chắn là sẽ đi vào những bậc thánh nhân hiền triết của nó.
Từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, những bậc sứ giả của Thiêng Liêng đã từng thánh hóa xứ Ấn Độ. Những bậc hiền giả hiện kim như Lahiri Mahâsaya và vị đệ tử người là Sri Yukteswar đã xuất hiện để tuyên bố rằng pháp môn Yoga là cần thiết cho nền hạnh phúc và sự sinh tồn của một quốc gia, một dân tộc, hơn cả những thành quả tiến bộ vật chất, kỹ thuật.
Cho đến nay, chỉ có rất ít tài liệu được công bố về đời sống của đức Lahiri Mahâsaya và giáo lý của người. Trong khoảng ba mươi năm, tôi đã gặp ở Ấn Độ, Mỹ quốc và Âu châu một sự thích thú nồng nhiệt về pháp môn Yoga qua sự diễn đạt và phổ biến của Tôn sư.
Do đó, ngày nay người ta cảm thấy cần công bố một bản tiểu sử của đức Tôn sư ở bên các nước Tây Phương, là nơi người ta chỉ biết rất ít về đời sống của các nhà đạo sĩ Yogi hiện đại.
Lahiri Mahâsaya sinh ngày Ba Mươi tháng Chín năm 1828 tại làng Ghurni, quận Nadia, gần Krishnagar, tỉnh Bengale, Ấn Độ. Sinh trưởng trong một gia đình Bà La Môn đạo hạnh, ông là con út của bà Muktakashi, vợ kế Gaua Mohan Lahiri. Bà mẹ từ trần từ ngày ông còn thơ ấu.
Người thiếu niên tên gọi Shyama Charan Lahiri trải qua thời kỳ thơ ấu tại nhà cha mẹ tại quận Nadia. Hồi mới lên ba bốn tuổi, Lahiri đã biết ngồi thiền theo tư thế Yoga.
Tài sản của gia đình Lahiri bị tàn phá vào mùa đông năm 1833, khi con sông Jalangi ở gần nhà thình lình đổi giòng nước và đổ vào sông Hằng. Một ngôi đền thờ thần Shiva do gia đình Lahiri dựng lên cùng với ngôi nhà đều bị giòng nước cuốn đi mất.
Tôn ông Gaur Mohan Lahiri và gia đình bèn rời khỏi Nadia và định cư tại Bénarès, tại đây ông mới xây dựng một ngôi đền Shiva khác. Tôn ông điều khiển gia đình theo giới luận Phệ Đà, gồm có những nghi thức lễ bái, thực hành hạnh bố thí, và học thánh kinh. Tâm hồn ngay chính và khoáng đạt, tôn ông vẫn không xa cách trào lưu tư tưởng cận đại.
Thuở nhỏ Lahiri theo học các môn Phạn ngữ và sinh ngữ, thánh kinh Phệ Đà, và từng tham dự một cách say mê những cuộc thảo luận triết lý giữa các nhà bác học Bà La Môn.
Lahiri là một thanh niên tốt bụng, dễ thương và được các bạn hữu mến chuộng. Thân hình cân đối và khỏe mạnh, chàng rất giỏi về môn bơi lội và các môn thể dục khác.
Năm 1846, chàng Lahiri cưới Kashi Moni, con gái của một vị nhân sĩ khả kính trong vùng. Là một hiền phụ gương mẫu, Kashi Moni đảm trách mọi việc nội trợ một cách hoàn hảo theo truyền thống cổ Ấn Độ. Trong vài năm sau, gia đình Lahiri sinh được hai người con trai, là Tincuri và Ducuri.
Năm 1851, vào năm hai mươi tuổi, Lahiri Mahâsaya làm kế toán viên sở quản trị hành chánh trong quân đội Anh và đã được thăng chức nhiều lần trong thời gian phục vụ. Như thế, Người không phải chỉ là một vị tôn sư có sứ mạng Thiêng Liêng mà còn làm tròn những bổn phận thế gian trong đời sống hằng ngày mà người có một vai trò phải đóng góp.
Khi các công sở được chỉnh đốn lại, Lahiri Mahâsaya được thuyên chuyển lần lượt đến nhiều thị trấn khác nhau. Khi lịnh tôn qua đời, Lahiri phải hoàn toàn đảm lấy trách nhiệm coi sóc gia đình, lúc ấy đang cư ngụ tại một khu vực yên tĩnh gần Bénarès.
Chính vào năm ba mươi ba tuổi là lúc mà Lahiri Mahâsaya mới biết rõ cái định mệnh nó dắt dẫn người đầu thai chuyển kiếp xuống thế gian. Ngọn lửa tàn âm ỉ dưới lớp tro thình lình bốc cháy phừng lên thành một ngọn lửa hồng rực rỡ sáng chói.
Một định luật thiêng liêng, ẩn dấu đối với mắt phàm của người đời, hành động một cách bí mật để biểu lệ mọi sự mọi việc vào đúng lúc, khi ngày giờ đã điểm. Lahiri đã gặp gỡ sư phụ của người, đức Bâjia, ở gần Ranikhent trên dãy Tuyết Sơn, và được thụ giáo pháp môn Kriyâ Yoga.
Cơ hội tốt lành ấy xảy ra không phải vì sự tiến hóa riêng của Lahiri, mà toàn thể nhân loại sẽ được hưởng thụ có kho tàng kiến thức và minh triết thâm sâu của pháp môn Kriyâ Yoga.
Mất đi từ nhiều thế kỷ, và sau cùng được đưa ra ánh sáng trở lại, pháp môn Kriyâ Yoga, ví như ngọn suối nước cam lồ để giải khát cho những linh hồn khát khao đạo lý đi tìm sự hợp nhất với thiêng liêng, phải là vật sở hữu chung cho tất cả mọi người trần gian đau khổ đi tìm sự giải thoát.
#27
Gửi vào 07/06/2011 - 03:44
Tôn Sư Babaji Đấng Cứu Thế Của Ấn Độ Cận Đại
Chương Sáu
Vùng cao nguyên miền bắc dãy Tuyết Sơn đến ngày nay đã được thánh hóa bởi sự hiện diện của Babâji, Sư phụ của Lahiri Mahâsaya. Vị tôi sư ấy vẫn giữ gìn nguyên vẹn một thể xác từ nhiều thế kỷ, hoặc có thể từ nhiều ngàn năm. Đức Babâji trường sinh bất tử đó vốn là một đấng "lâm phàm" (avatar) một danh từ Phạn ngữ có nghĩa là "hạ giáng, gián phàm" tức là đấng thiêng liên hạ xuống cõi vật chất.
Sir Yukestwar giải thích cho tôi nghe rằng:
- Trình độ tâm linh của Babâji vượt khỏi tầm hiểu biết của con người. Tầm nhãn quang thiển cận của con người không thể nhìn thấu suốt vầng hào quang tâm linh cao cả thiêng liêng của ngài. Người ta không thể dùng trí phàm của mình để diễn tả tánh chất của đấng "lâm phàm", mà con người không thể quan niệm được một cách rõ rệt.
Kinh Ưu Bà Ni Tát (Upanished) của Ấn Độ có phân loại tỉ mỉ những trạng thái sở đắc tăm linh khách nhau. Một bậc toàn thiện (siddha) đã tiến hóa từ trạng thái Jivanmukta (giả thoát trong khi còn sống ngoài thế gian) đến trạng thái Paramukta (tự do tối thượng, tuyệt đối chế ngự được sự chết):
Vị này đã vĩnh viễn chấm dứt mọi sự trói buộc của nghiệp quả và hoàn toàn thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Đấng Paramukta ít khi đầu thai vào một thể xác vật chất và, nếu trường hợp này xảy ra, thì người trở nên một đấng "lâm phàm", được giao phó một sứ mạng cứu thế lớn lao trên thế gian.
Như vậy, một đấng "lâm phàm" là một ngoại lệ trong cái guồng máy kinh tế của vũ trụ. Thể xác của ngài, hoàn toàn tinh khiết, là một sự kết tinh ánh sáng và không bị lệ thuộc bởi sự vay trả vật chất với thiên nhiên. Mới nhìn thoáng qua, thể xác ấy không có gì khác thường, nhưng nó không tỏa ra một cái bóng và không để dấu vết trên mặt đất trong khi đi đứng.
Nói theo ý nghĩa tượng trưng, thì đó là những bằng chứng chỉ rằng trong con người ấy không hề có bóng tối của sự vô minh hay những sự trói buộc vật chất. Một bậc Siêu Nhân như thế đã thấu triệt mọi vấn đề sinh tử và đạt tới chân lý cùng tột.
Krishna, Râma, Phật Thích Ca, và Patânjali đều là những vị trong số các đấng "lâm phàm" của xứ Ấn Độ thời cổ. Ngoài ra, người ta đã để lại rất nhiều tài liệu văn chương nói về đức Chân Sư Agastya, một đấng lâm phàm của miền Nam Ấn Độ, đã từng làm nhiều phép lạ trong những thế kỷ trước và sau kỷ nguyên Thiên Chúa. Người ta nói rằng đức Agastya vẫn giữ thể xác ngài cho đến bây giờ.
Ở Ấn Độ, vai trò của Babâji là trợ giúp những bậc sứ giả tiên tri trong sứ mạng của các ngài. Bằng cách đó, ngài xứng đáng với danh hiệu Mahâvatar (đại lâm phàm) như được diễn tả trong các kinh thánh. Truyền thuyết cho rằng ngài đã đích thân làm phép điểm đạp cho vị giáp chủ Shankara, nhà sáng lập ra dòng tu sĩ xuất gia Qwâmi, và cho vị thánh nhân Hồi giáo Kabir.
Ở thế kỷ 19, vị đệ tử chính của ngài là Lahiri Mahâsaya đã từng làm sống lại và chấn chỉnh pháp môn Kriyâ Yoga, sau khi pháp môn này đã bị mất đi và đắm chìm trong quên lãng trải qua bằng mấy nghìn năm.
Vị đại lâm phàm (Mahâvatar) này giao cảm tâm thức với đấng Christ, cả hai cùng ban rải ân huệ thiêng liêng và thiết lập nên một phép tu cứu rỗi cho nhân loại.
Công trình của hai đấng Tôn sư cao cả này, một vị còn giữ thể xác, và một vị chỉ còn là Tinh Thần, nhằm gây nên cho người đời cái cảm hứng chán ghét chiến tranh, những sự tranh chất xã hội, sự chia rẽ thù nghịch tôn giáo và chủ nghĩa duy vật. Đức Babâji hoàn toàn biết rõ ngài muốn truyền bà đạo giải thoát của Yoga sang Phương Tây cũng như ở Phương Đông.
Nếu lịch sử không nói gì đến Babâji, điều không nên làm cho ta ngạc nhiên. Tôn sư không hề xuất hiện dưới thế gian bất cứ ở vào thời đại nào, vấn đề làm cho người đời biết danh là một điều không hề có trong kế hoạch trường cửu nghìn đời của ngài! Cũng như đấng Sáng tạo, sinh hóa vạn vật trong im lặng và ẩn khuất, Babâji vẫn hoạt động âm thầm và trong vòng bí mật.
Những bậc Đại giáo chủ như đấng Christ và Krishna chỉ xuất hiện trên thế gian vì một mục đích nhất định, với một sứ mạng to tát vĩ đại, rồi tịch diệt sau khi mục đích của các ngài đã được hoàn thành.
Trái lại những đấng "lâm phàm" khác như Babâji đảm nhiệm một công trình nhằm mục đích tiến bộ tuần tự lâu dài trải qua hàng nhiều thế kỷ, hơn là một công trình lớn lao phải được thành tựu vào một thời kỳ nhất định trong lịch sử văn minh nhân loại. Những vị tôn sư ấy ẩn dấu cuộc đời mình trước mắt của kẻ thế nhân phàm tục và có quyền năng tàng hình tùy ý muốn.
Bởi đó, và cũng bởi vì các ngài chỉ huấn luyện đệ tử trong vòng bí mật, nên một số các đấng cao cả không được người đời biết đến. Trong những trang sách này, tôi chỉ tường thuật vắn tắt cuộc đời của đức Babâji, với vài sự việc mà tôi nghĩ rằng có thể được tiết lộ một cách hữu ích cho công chúng.
Người ta không biết gì cả về gia đình hoặc về nơi sinh trưởng của Babâji. Ngài thường nói tiếng Hindi, thổ ngữ miền bắc Ấn, nhưng cũng nói chuyện trôi chảy bằng tất cả mọi thứ sinh ngữ.
Đức Tôn sư Babâji không mang dấu vết gì của sự già nua, ngài có hình dáng của một thanh niên độ hai mươi lăm tuổi. Nước da trắng, dáng vóc trung bình, lực lưỡng và đẹp đẽ, thân mình của ngài phóng ra những tia sáng có thể nhìn thấy được bằng cặp mắt phàm.
Đôi mắt đen huyền, yên lặng và dịu hiền, tóc dài và bóng, óng ánh màu đồng đỏ. Một điều lạ lùng là Babâji giống đệ tử Lahiri Mahâsaya y như đúc: giống đến nỗi khi trở về già người ta lầm tưởng Lahiri là cha của Babâji.
Tu sĩ Kebalâ, vị Thầy dạy Phạn ngữ của tôi, đã từng trải qua một thời gian sống bến bên đức Babâji trên dãy Tuyết Sơn. Tu sĩ thuật chuyện như sau:
- Tôn sư thường đi ta bà khắp chốn trên các vùng cao nguyên dãy Tuyết Sơn cùng với một nhóm đệ tử, trong số đó có hai vị đệ tử người Mỹ đã tiến hóa rất cao. Ngài không bao giờ ở lâu một chỗ.
Ngài thường cầm một cây gậy tre nơi tay, và mỗi khi ngài ra hiệu lịnh di chuyển, thì cả nhóm đều biến mất trong nháy mắt để xuất hiện ở một chỗ khác. Tuy nhiên, không phải lúc nào ngài cũng dùng phương pháp thần thông đó để di chuyển, đôi khi ngài cũng vui lòng đi bằng hai chân.
Người ta chỉ có thể nhìn thấy và nhận ra đức Babâji khi nào ngài muốn. Truyền thuyết cho rằng ngài đã từng xuất hiện trước đám môn đồ dưới một hình thức mỗi lần mỗi khác, đôi khi có râu cằm và râu mép, đôi khi lại không.
Thể xác bất biến của ngài không cần dùng đến đồ vật thực, tôn sư rất ít khi ăn uống. Tuy vậy, vì lịch sự, đôi khi ngài cũng nhận trái cây, cơm nấu với sữa hoặc bơ, của các đệ tử đem dâng.
Tu sĩ Kebalâ nói tiếp:
- Tôi được biết hai việc lạ lùng xảy ra trong đời của đức Babâji. Một đêm nọ, ngài và các đệ tử lên nhân dịp cử hành một cuộc lễ tôn giáo Phệ Đà. Thình lình, Tôn sư rút ra một khúc gỗ đang cháy trong đám lửa và đánh một cái trên vai của một đệ tử đang ngồi gần bên.
Lahiri Mahâsaya lúc bấy ấy cũng có mặt, thấy vậy lấy làm ngạc ngạc nhiên, bèn hỏi: "Bạch sư phụ, sau sư phụ lại chơi ác như thế?" Tôn sư đáp: "Con muốn thấy y bị chết cháy ngay trước mắt con chăng, theo nghiệp quả mà y phải trả?"
Nói xong, Babâji đưa bàn tay vuốt nhẹ lên vai bị phỏng lửa của người đệ tử, và người này liền hết đau. Tôn sư giải thích:
- Đêm nay, thầy đã cứu con thoát khỏi bị chết cháy do nơi quả báo của con. Cán cân nhân quả đã được lập lại thăng bằng do bởi cái vết phỏng trên vai này!
Một lần khác, tron khi cả đoàn thầy trò đang tựu họp ở một chỗ hẻo lánh trên dãy Tuyết Sơn, bỗng có một người lạ mặt thình lình xuất hiện, sau khi y đã lần mò vượt qua vùng núi non hiểm trở dựng lên như vách và đột nhập vào chỗ cắm trại của Babâji.
- Bạch Tôn sư, chắc hẳn ngài là đức Babâji?
Người lạ mặt vừa hỏi vừa biểu lộ một vẻ tôn kính vô biên trên nét mặt. Y nói tiếp:
- Từ nhiều tháng nay, con đã tìm kiếm Tôn sư không hề biết mệt giữa những vách núi đá cheo leo này. Cầu xin Tôn sư hãy ban cho con cái hân hạnh là được ngài thu nhận làm đệ tử.
Thấy Tôn sư không đáp lại, người ấy chỉ vực thẳm gần bên:
- Nếu Tôn sư từ chối không nhận, con sẽ lao mình xuống vực sâu. cuộc đời không còn giá trị đối với con nữa, nếu con không xứng đáng được nhập môn học Đạo dưới sự dìu dắt tâm linh của Tôn sư.
Babâji lạnh lùng đáp:
- Nếu vậy, ngươi hãy nhảy xuống vực nếu ngươi muốn! Ta không thể chấp nhận một người với trình độ tiến hóa của ngươi hiện nay.
Không nói một lời, người kia tức khắc lao mình xuống vực thẳm, trước sự hoang mang ngơ ngác của mọi người. Babâji bèn ra lịnh cho các đệ tử đi vớt xác người ấy lên. Khi họ trở về với cái xác không hồn đã bị dập nát, Tôn sư bèn đưa hai bàn tay đặt nhẹ lên xác chết, người ấy liền mở hai mắt ngồi dậy và cúi lạy dưới chân đức Tôn sư.
- Bây giờ, thì con đã sẵn sàng để trở thành đệ tử của ta.
Babâji mỉm cười một cách trìu mến với người đệ tử mới hồi sinh:
- Con vừa mới vượt qua một cơn thử thách kinh khủng. Kể từ nay, sự chết không còn có thể xâm phạm đến con được nữa: con sẽ có chân trong nhóm bất tử của chúng ta.
Nói xong, ngài ra hiệu lịnh di chuyển đi chỗ khác, và cả đoàn đều biến mất dạng".
Trong thời gian tôi ở tại nhà của tu sĩ Ram Gopal, vị "tu sĩ không ngủ" ở Tanbajpur, tu sĩ đã thuật lại cho tôi nghe câu chuyện gặp gỡ mầu nhiệm của người với Babâji như sau:
- Đôi khi tôi đã rời khỏi động đá thâm u của tôi để đến ngồi dưới chân của đức Lahiri Mahâsaya ở Bénarès. Có một lần vào lúc nửa đêm, trong khi tôi đang ngồi thiền trong im lặng giữa các đệ tử khác, Tôn sư Lahiri nói với tôi một câu lạ lùng: "Ram Gopal, con hãy lập tức đi ngay đến những bực thềm đá trên bờ sông Hằng ở khu Dasasamedh".
Tôi vâng lời và trong giây lát tôi đến nơi hẻo lánh đó. Giữa lúc đêm thanh trăng tỏ ngồi im lặng trong một lúc, khi ấy một tấm đá lớn dưới thềm làm cho tôi chú ý. Phiến đá rộng và vuông nhấc lên từ từ, và để lộ cái miệng hang sâu thẳm. Kế đó, phiến đá chuyển động một cách dị kỳ và một người đàn bà đẹp tuyệt trần từ trong hang xuất hiện và khinh thân nhẹ bổng lên trên không!
Bao phủ trong một vầng hào quang sáng dịu, vị giai nhân từ từ hạ xuống trước mặt tôi rồi ngồi im lặng, đắm chìm trong một cơn đại định. Sau cùng, giai nhân cử động và nói với tôi những lời này: "Ta là Matâji, hiền muội của Babâji. Ta đã hãy đến viếng động của ta để thảo luận về một vấn đề tối quan trọng".
Lúc ấy, một vầng ánh sáng nhạt mờ như sương bay lơ lửng trên sông Hằng, và phản chiếu ánh sáng dị kỳ của nó dưới mặt nước. Vầng hào quang ấy từ từ tiến lại gần, mỗi lúc càng mau hơn và sau cùng nó phóng ra một tia sáng rạng ngời và xuất hiện bên cạnh Nitâji dười hình thể của một người: đó là Lahiri Mahâsaya. Lahiri bèn cúi đầu làm lễ một cách rất tôn kính dưới hình thể của vị nữ thánh.
Trước khi tôi định tĩnh tinh thần sau cơn kinh ngạc vừa qua, tôi lại thấy một khối hào quang rạng rỡ trên nền trời. Trong nháy mắt, vầng ánh sáng ấy xoay tít thành một cơn trốt lửa và hiện ra dưới hình thể của một người thanh niên dung mạo khôi ngô, cốt cách thanh kỳ, và tôi liền hiểu rằng đó là đức Babâji. Ngài coi giống Lahiri Mahâsaya một cách lạ thường, duy có khác là Ngài có vẻ trẻ hơn nhiều và có những lọn tóc vàng óng ánh. Ngài nói:
- "Này đạo muội, ta có ý định rời bỏ xác thân để hòa hợp với Nguồn sống vô cùng".
- Thưa đạo huynh, em đã đoán biết ý nghĩ ấy. Chính vì đó mà đêm nay em muốn cùng đạo huynh thảo luận lại vấn đề ấy. Tại sao đạo huynh định bỏ xác?
Vị nữ thánh vừa nhìn anh vừa nói với một giọng cầu khẩn. Babâji nói:
- Tinh thần ta ví như biển cả. Dẫn ta có khoác bên ngoài một lớp sóng hữu hình hay vô hình, thì điều ấy có khác chi?
Nhân một lúc cảm hứng, Matâji liền đáp:
- Thưa đạo huynh, nếu điều ấy không có gì khác biệt, vậy tại sao đạo huynh lại muốn rời khỏi xác phàm?
(Câu chuyện này làm cho ta nhớ lại chuyện Thalès. Vị triết gia Hy Lạp dạy rằng vốn không có gì khác nhau giữa sự sinh và sự tử. Một người nọ hỏi: "Nếu vậy, tại sao ông lại không chết đi?" Thalès đáp: "Chính vì lý do đó, là bởi vì không có gì khác biệt cả!")
Babâji trịnh trọng nói:
- Nếu vậy, ta sẽ y theo lời ấy, và sẽ không bao giờ từ bỏ xác phàm. Thể xác của ta sẽ có thể nhìn thấy được, ít nhất bởi một thiểu số người được chọn lọc. Thượng đế đã phán quyết qua giọng nói hiền muội đó.
Trong khi tôi nghe câu chuyện đối thoại giữa hai đấng cao cả ấy, đức Babâji quay lại phía tôi và nói một cách đầy hảo ý:
- Con đường sợ gì cả, Ram Gopal, con có phước lành mà được chứng kiến câu chuyện hi hữu ngày hôm nay!
Babâji nói vừa dứt lời, hình dáng của ngài và của Lahiri Mahâsaya từ từ thăng lên không trung phía trên sông Hằng. Một vầng hào quang như ánh lửa bao phú lấy thân mình của hai vị và cả hai đều biến mất dạng trong đêm tối. Vị nữ thánh Matâji cũng biến mất trong hang động, phiến đá lớn đóng sập lại lấp mất cửa hang dường như một cánh cửa bí mật.
Trong cơn say sưa ngây ngất, tôi trở về tịnh thất của đức Lahiri Mahâysaya. Lúc trời hừng sáng, khi tôi về đến nơi và quỳ dưới chân người, thì Sư phụ vừa mỉm cười vừa nói với tấm lòng ưu ái:
- Thầy mừng cho con, Ram Gopal. Con thường mong muốn được gặp Babâji và Matâji, nay điều ước vọng của con đã được thỏa mãn rồi đó.
Các bạn đồng môn của tôi cho tôi biết rằng sư phụ không hề bước ra khỏi tịnh thất từ chiều hôm qua. Một vị đệ tử nói với tôi:
- Sau khi sư huynh vừa ra đi để tới các bậc thềm đá ở Dasasamedh, thì sư phụ có nói một bài thuyết pháp hùng hồn về sự bất tử của linh hồn.
Lần đầu tiên, tôi mới hiểu những đoạn trong Thánh Kinh nói rằng một người đã đạt tới sự giác ngộ thiêng liêng có thể đồng thời xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. ra Gopal kết luận:
- Về sau, đức Lahiri Mahâsaya có giải thích cho tôi rõ nhiều điểm thiên cơ huyền bí liên quan đến quả địa cầu này. Thượng Đế đã chọn Babâji để xuất hiện xuyên qua cái thể xác bằng xương thịt của ngài trong suốt chu kỳ hiện tại của bầu thế giới. Các thế kỷ sẽ nối tiếp theo nhau trải qua giòng thời gian vô tận, nhưng đức Tôn sư bất diệt, chứng kiến màn bi kịch của trần gian, sẽ luôn luôn tồn tại, bất biến.
Chương Sáu
Vùng cao nguyên miền bắc dãy Tuyết Sơn đến ngày nay đã được thánh hóa bởi sự hiện diện của Babâji, Sư phụ của Lahiri Mahâsaya. Vị tôi sư ấy vẫn giữ gìn nguyên vẹn một thể xác từ nhiều thế kỷ, hoặc có thể từ nhiều ngàn năm. Đức Babâji trường sinh bất tử đó vốn là một đấng "lâm phàm" (avatar) một danh từ Phạn ngữ có nghĩa là "hạ giáng, gián phàm" tức là đấng thiêng liên hạ xuống cõi vật chất.
Sir Yukestwar giải thích cho tôi nghe rằng:
- Trình độ tâm linh của Babâji vượt khỏi tầm hiểu biết của con người. Tầm nhãn quang thiển cận của con người không thể nhìn thấu suốt vầng hào quang tâm linh cao cả thiêng liêng của ngài. Người ta không thể dùng trí phàm của mình để diễn tả tánh chất của đấng "lâm phàm", mà con người không thể quan niệm được một cách rõ rệt.
Kinh Ưu Bà Ni Tát (Upanished) của Ấn Độ có phân loại tỉ mỉ những trạng thái sở đắc tăm linh khách nhau. Một bậc toàn thiện (siddha) đã tiến hóa từ trạng thái Jivanmukta (giả thoát trong khi còn sống ngoài thế gian) đến trạng thái Paramukta (tự do tối thượng, tuyệt đối chế ngự được sự chết):
Vị này đã vĩnh viễn chấm dứt mọi sự trói buộc của nghiệp quả và hoàn toàn thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Đấng Paramukta ít khi đầu thai vào một thể xác vật chất và, nếu trường hợp này xảy ra, thì người trở nên một đấng "lâm phàm", được giao phó một sứ mạng cứu thế lớn lao trên thế gian.
Như vậy, một đấng "lâm phàm" là một ngoại lệ trong cái guồng máy kinh tế của vũ trụ. Thể xác của ngài, hoàn toàn tinh khiết, là một sự kết tinh ánh sáng và không bị lệ thuộc bởi sự vay trả vật chất với thiên nhiên. Mới nhìn thoáng qua, thể xác ấy không có gì khác thường, nhưng nó không tỏa ra một cái bóng và không để dấu vết trên mặt đất trong khi đi đứng.
Nói theo ý nghĩa tượng trưng, thì đó là những bằng chứng chỉ rằng trong con người ấy không hề có bóng tối của sự vô minh hay những sự trói buộc vật chất. Một bậc Siêu Nhân như thế đã thấu triệt mọi vấn đề sinh tử và đạt tới chân lý cùng tột.
Krishna, Râma, Phật Thích Ca, và Patânjali đều là những vị trong số các đấng "lâm phàm" của xứ Ấn Độ thời cổ. Ngoài ra, người ta đã để lại rất nhiều tài liệu văn chương nói về đức Chân Sư Agastya, một đấng lâm phàm của miền Nam Ấn Độ, đã từng làm nhiều phép lạ trong những thế kỷ trước và sau kỷ nguyên Thiên Chúa. Người ta nói rằng đức Agastya vẫn giữ thể xác ngài cho đến bây giờ.
Ở Ấn Độ, vai trò của Babâji là trợ giúp những bậc sứ giả tiên tri trong sứ mạng của các ngài. Bằng cách đó, ngài xứng đáng với danh hiệu Mahâvatar (đại lâm phàm) như được diễn tả trong các kinh thánh. Truyền thuyết cho rằng ngài đã đích thân làm phép điểm đạp cho vị giáp chủ Shankara, nhà sáng lập ra dòng tu sĩ xuất gia Qwâmi, và cho vị thánh nhân Hồi giáo Kabir.
Ở thế kỷ 19, vị đệ tử chính của ngài là Lahiri Mahâsaya đã từng làm sống lại và chấn chỉnh pháp môn Kriyâ Yoga, sau khi pháp môn này đã bị mất đi và đắm chìm trong quên lãng trải qua bằng mấy nghìn năm.
Vị đại lâm phàm (Mahâvatar) này giao cảm tâm thức với đấng Christ, cả hai cùng ban rải ân huệ thiêng liêng và thiết lập nên một phép tu cứu rỗi cho nhân loại.
Công trình của hai đấng Tôn sư cao cả này, một vị còn giữ thể xác, và một vị chỉ còn là Tinh Thần, nhằm gây nên cho người đời cái cảm hứng chán ghét chiến tranh, những sự tranh chất xã hội, sự chia rẽ thù nghịch tôn giáo và chủ nghĩa duy vật. Đức Babâji hoàn toàn biết rõ ngài muốn truyền bà đạo giải thoát của Yoga sang Phương Tây cũng như ở Phương Đông.
Nếu lịch sử không nói gì đến Babâji, điều không nên làm cho ta ngạc nhiên. Tôn sư không hề xuất hiện dưới thế gian bất cứ ở vào thời đại nào, vấn đề làm cho người đời biết danh là một điều không hề có trong kế hoạch trường cửu nghìn đời của ngài! Cũng như đấng Sáng tạo, sinh hóa vạn vật trong im lặng và ẩn khuất, Babâji vẫn hoạt động âm thầm và trong vòng bí mật.
Những bậc Đại giáo chủ như đấng Christ và Krishna chỉ xuất hiện trên thế gian vì một mục đích nhất định, với một sứ mạng to tát vĩ đại, rồi tịch diệt sau khi mục đích của các ngài đã được hoàn thành.
Trái lại những đấng "lâm phàm" khác như Babâji đảm nhiệm một công trình nhằm mục đích tiến bộ tuần tự lâu dài trải qua hàng nhiều thế kỷ, hơn là một công trình lớn lao phải được thành tựu vào một thời kỳ nhất định trong lịch sử văn minh nhân loại. Những vị tôn sư ấy ẩn dấu cuộc đời mình trước mắt của kẻ thế nhân phàm tục và có quyền năng tàng hình tùy ý muốn.
Bởi đó, và cũng bởi vì các ngài chỉ huấn luyện đệ tử trong vòng bí mật, nên một số các đấng cao cả không được người đời biết đến. Trong những trang sách này, tôi chỉ tường thuật vắn tắt cuộc đời của đức Babâji, với vài sự việc mà tôi nghĩ rằng có thể được tiết lộ một cách hữu ích cho công chúng.
Người ta không biết gì cả về gia đình hoặc về nơi sinh trưởng của Babâji. Ngài thường nói tiếng Hindi, thổ ngữ miền bắc Ấn, nhưng cũng nói chuyện trôi chảy bằng tất cả mọi thứ sinh ngữ.
Đức Tôn sư Babâji không mang dấu vết gì của sự già nua, ngài có hình dáng của một thanh niên độ hai mươi lăm tuổi. Nước da trắng, dáng vóc trung bình, lực lưỡng và đẹp đẽ, thân mình của ngài phóng ra những tia sáng có thể nhìn thấy được bằng cặp mắt phàm.
Đôi mắt đen huyền, yên lặng và dịu hiền, tóc dài và bóng, óng ánh màu đồng đỏ. Một điều lạ lùng là Babâji giống đệ tử Lahiri Mahâsaya y như đúc: giống đến nỗi khi trở về già người ta lầm tưởng Lahiri là cha của Babâji.
Tu sĩ Kebalâ, vị Thầy dạy Phạn ngữ của tôi, đã từng trải qua một thời gian sống bến bên đức Babâji trên dãy Tuyết Sơn. Tu sĩ thuật chuyện như sau:
- Tôn sư thường đi ta bà khắp chốn trên các vùng cao nguyên dãy Tuyết Sơn cùng với một nhóm đệ tử, trong số đó có hai vị đệ tử người Mỹ đã tiến hóa rất cao. Ngài không bao giờ ở lâu một chỗ.
Ngài thường cầm một cây gậy tre nơi tay, và mỗi khi ngài ra hiệu lịnh di chuyển, thì cả nhóm đều biến mất trong nháy mắt để xuất hiện ở một chỗ khác. Tuy nhiên, không phải lúc nào ngài cũng dùng phương pháp thần thông đó để di chuyển, đôi khi ngài cũng vui lòng đi bằng hai chân.
Người ta chỉ có thể nhìn thấy và nhận ra đức Babâji khi nào ngài muốn. Truyền thuyết cho rằng ngài đã từng xuất hiện trước đám môn đồ dưới một hình thức mỗi lần mỗi khác, đôi khi có râu cằm và râu mép, đôi khi lại không.
Thể xác bất biến của ngài không cần dùng đến đồ vật thực, tôn sư rất ít khi ăn uống. Tuy vậy, vì lịch sự, đôi khi ngài cũng nhận trái cây, cơm nấu với sữa hoặc bơ, của các đệ tử đem dâng.
Tu sĩ Kebalâ nói tiếp:
- Tôi được biết hai việc lạ lùng xảy ra trong đời của đức Babâji. Một đêm nọ, ngài và các đệ tử lên nhân dịp cử hành một cuộc lễ tôn giáo Phệ Đà. Thình lình, Tôn sư rút ra một khúc gỗ đang cháy trong đám lửa và đánh một cái trên vai của một đệ tử đang ngồi gần bên.
Lahiri Mahâsaya lúc bấy ấy cũng có mặt, thấy vậy lấy làm ngạc ngạc nhiên, bèn hỏi: "Bạch sư phụ, sau sư phụ lại chơi ác như thế?" Tôn sư đáp: "Con muốn thấy y bị chết cháy ngay trước mắt con chăng, theo nghiệp quả mà y phải trả?"
Nói xong, Babâji đưa bàn tay vuốt nhẹ lên vai bị phỏng lửa của người đệ tử, và người này liền hết đau. Tôn sư giải thích:
- Đêm nay, thầy đã cứu con thoát khỏi bị chết cháy do nơi quả báo của con. Cán cân nhân quả đã được lập lại thăng bằng do bởi cái vết phỏng trên vai này!
Một lần khác, tron khi cả đoàn thầy trò đang tựu họp ở một chỗ hẻo lánh trên dãy Tuyết Sơn, bỗng có một người lạ mặt thình lình xuất hiện, sau khi y đã lần mò vượt qua vùng núi non hiểm trở dựng lên như vách và đột nhập vào chỗ cắm trại của Babâji.
- Bạch Tôn sư, chắc hẳn ngài là đức Babâji?
Người lạ mặt vừa hỏi vừa biểu lộ một vẻ tôn kính vô biên trên nét mặt. Y nói tiếp:
- Từ nhiều tháng nay, con đã tìm kiếm Tôn sư không hề biết mệt giữa những vách núi đá cheo leo này. Cầu xin Tôn sư hãy ban cho con cái hân hạnh là được ngài thu nhận làm đệ tử.
Thấy Tôn sư không đáp lại, người ấy chỉ vực thẳm gần bên:
- Nếu Tôn sư từ chối không nhận, con sẽ lao mình xuống vực sâu. cuộc đời không còn giá trị đối với con nữa, nếu con không xứng đáng được nhập môn học Đạo dưới sự dìu dắt tâm linh của Tôn sư.
Babâji lạnh lùng đáp:
- Nếu vậy, ngươi hãy nhảy xuống vực nếu ngươi muốn! Ta không thể chấp nhận một người với trình độ tiến hóa của ngươi hiện nay.
Không nói một lời, người kia tức khắc lao mình xuống vực thẳm, trước sự hoang mang ngơ ngác của mọi người. Babâji bèn ra lịnh cho các đệ tử đi vớt xác người ấy lên. Khi họ trở về với cái xác không hồn đã bị dập nát, Tôn sư bèn đưa hai bàn tay đặt nhẹ lên xác chết, người ấy liền mở hai mắt ngồi dậy và cúi lạy dưới chân đức Tôn sư.
- Bây giờ, thì con đã sẵn sàng để trở thành đệ tử của ta.
Babâji mỉm cười một cách trìu mến với người đệ tử mới hồi sinh:
- Con vừa mới vượt qua một cơn thử thách kinh khủng. Kể từ nay, sự chết không còn có thể xâm phạm đến con được nữa: con sẽ có chân trong nhóm bất tử của chúng ta.
Nói xong, ngài ra hiệu lịnh di chuyển đi chỗ khác, và cả đoàn đều biến mất dạng".
Trong thời gian tôi ở tại nhà của tu sĩ Ram Gopal, vị "tu sĩ không ngủ" ở Tanbajpur, tu sĩ đã thuật lại cho tôi nghe câu chuyện gặp gỡ mầu nhiệm của người với Babâji như sau:
- Đôi khi tôi đã rời khỏi động đá thâm u của tôi để đến ngồi dưới chân của đức Lahiri Mahâsaya ở Bénarès. Có một lần vào lúc nửa đêm, trong khi tôi đang ngồi thiền trong im lặng giữa các đệ tử khác, Tôn sư Lahiri nói với tôi một câu lạ lùng: "Ram Gopal, con hãy lập tức đi ngay đến những bực thềm đá trên bờ sông Hằng ở khu Dasasamedh".
Tôi vâng lời và trong giây lát tôi đến nơi hẻo lánh đó. Giữa lúc đêm thanh trăng tỏ ngồi im lặng trong một lúc, khi ấy một tấm đá lớn dưới thềm làm cho tôi chú ý. Phiến đá rộng và vuông nhấc lên từ từ, và để lộ cái miệng hang sâu thẳm. Kế đó, phiến đá chuyển động một cách dị kỳ và một người đàn bà đẹp tuyệt trần từ trong hang xuất hiện và khinh thân nhẹ bổng lên trên không!
Bao phủ trong một vầng hào quang sáng dịu, vị giai nhân từ từ hạ xuống trước mặt tôi rồi ngồi im lặng, đắm chìm trong một cơn đại định. Sau cùng, giai nhân cử động và nói với tôi những lời này: "Ta là Matâji, hiền muội của Babâji. Ta đã hãy đến viếng động của ta để thảo luận về một vấn đề tối quan trọng".
Lúc ấy, một vầng ánh sáng nhạt mờ như sương bay lơ lửng trên sông Hằng, và phản chiếu ánh sáng dị kỳ của nó dưới mặt nước. Vầng hào quang ấy từ từ tiến lại gần, mỗi lúc càng mau hơn và sau cùng nó phóng ra một tia sáng rạng ngời và xuất hiện bên cạnh Nitâji dười hình thể của một người: đó là Lahiri Mahâsaya. Lahiri bèn cúi đầu làm lễ một cách rất tôn kính dưới hình thể của vị nữ thánh.
Trước khi tôi định tĩnh tinh thần sau cơn kinh ngạc vừa qua, tôi lại thấy một khối hào quang rạng rỡ trên nền trời. Trong nháy mắt, vầng ánh sáng ấy xoay tít thành một cơn trốt lửa và hiện ra dưới hình thể của một người thanh niên dung mạo khôi ngô, cốt cách thanh kỳ, và tôi liền hiểu rằng đó là đức Babâji. Ngài coi giống Lahiri Mahâsaya một cách lạ thường, duy có khác là Ngài có vẻ trẻ hơn nhiều và có những lọn tóc vàng óng ánh. Ngài nói:
- "Này đạo muội, ta có ý định rời bỏ xác thân để hòa hợp với Nguồn sống vô cùng".
- Thưa đạo huynh, em đã đoán biết ý nghĩ ấy. Chính vì đó mà đêm nay em muốn cùng đạo huynh thảo luận lại vấn đề ấy. Tại sao đạo huynh định bỏ xác?
Vị nữ thánh vừa nhìn anh vừa nói với một giọng cầu khẩn. Babâji nói:
- Tinh thần ta ví như biển cả. Dẫn ta có khoác bên ngoài một lớp sóng hữu hình hay vô hình, thì điều ấy có khác chi?
Nhân một lúc cảm hứng, Matâji liền đáp:
- Thưa đạo huynh, nếu điều ấy không có gì khác biệt, vậy tại sao đạo huynh lại muốn rời khỏi xác phàm?
(Câu chuyện này làm cho ta nhớ lại chuyện Thalès. Vị triết gia Hy Lạp dạy rằng vốn không có gì khác nhau giữa sự sinh và sự tử. Một người nọ hỏi: "Nếu vậy, tại sao ông lại không chết đi?" Thalès đáp: "Chính vì lý do đó, là bởi vì không có gì khác biệt cả!")
Babâji trịnh trọng nói:
- Nếu vậy, ta sẽ y theo lời ấy, và sẽ không bao giờ từ bỏ xác phàm. Thể xác của ta sẽ có thể nhìn thấy được, ít nhất bởi một thiểu số người được chọn lọc. Thượng đế đã phán quyết qua giọng nói hiền muội đó.
Trong khi tôi nghe câu chuyện đối thoại giữa hai đấng cao cả ấy, đức Babâji quay lại phía tôi và nói một cách đầy hảo ý:
- Con đường sợ gì cả, Ram Gopal, con có phước lành mà được chứng kiến câu chuyện hi hữu ngày hôm nay!
Babâji nói vừa dứt lời, hình dáng của ngài và của Lahiri Mahâsaya từ từ thăng lên không trung phía trên sông Hằng. Một vầng hào quang như ánh lửa bao phú lấy thân mình của hai vị và cả hai đều biến mất dạng trong đêm tối. Vị nữ thánh Matâji cũng biến mất trong hang động, phiến đá lớn đóng sập lại lấp mất cửa hang dường như một cánh cửa bí mật.
Trong cơn say sưa ngây ngất, tôi trở về tịnh thất của đức Lahiri Mahâysaya. Lúc trời hừng sáng, khi tôi về đến nơi và quỳ dưới chân người, thì Sư phụ vừa mỉm cười vừa nói với tấm lòng ưu ái:
- Thầy mừng cho con, Ram Gopal. Con thường mong muốn được gặp Babâji và Matâji, nay điều ước vọng của con đã được thỏa mãn rồi đó.
Các bạn đồng môn của tôi cho tôi biết rằng sư phụ không hề bước ra khỏi tịnh thất từ chiều hôm qua. Một vị đệ tử nói với tôi:
- Sau khi sư huynh vừa ra đi để tới các bậc thềm đá ở Dasasamedh, thì sư phụ có nói một bài thuyết pháp hùng hồn về sự bất tử của linh hồn.
Lần đầu tiên, tôi mới hiểu những đoạn trong Thánh Kinh nói rằng một người đã đạt tới sự giác ngộ thiêng liêng có thể đồng thời xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. ra Gopal kết luận:
- Về sau, đức Lahiri Mahâsaya có giải thích cho tôi rõ nhiều điểm thiên cơ huyền bí liên quan đến quả địa cầu này. Thượng Đế đã chọn Babâji để xuất hiện xuyên qua cái thể xác bằng xương thịt của ngài trong suốt chu kỳ hiện tại của bầu thế giới. Các thế kỷ sẽ nối tiếp theo nhau trải qua giòng thời gian vô tận, nhưng đức Tôn sư bất diệt, chứng kiến màn bi kịch của trần gian, sẽ luôn luôn tồn tại, bất biến.
#28
Gửi vào 07/06/2011 - 03:47
Một Cung Điện Trên Dãy Tuyết Sơn
Chương Bảy
Gặp gỡ giữa Lahiri Mahâsaya và Babâji là một truyện thần tiên, một huyền thoại phàm thật xứng đáng với tác phong của vị Tôn sư bất tử.
Chính bởi những lời này mà tu sĩ Kebalâ bắt đầu câu chuyện tường thuật của ông. Lần đầu tiên tôi nghe câu chuyện này, tôi đã thật sự giật mình vì kinh ngạc. Sau đó, tôi đã nhiều lần yêu cầu tu sĩ, thầy dạy Phạn ngữ của tôi, hãy lập lại cho tôi nghe câu chuyện ấy, mà về sau Sri Yukteswar đã kể lại cho tôi nghe cũng đại khái giống y như thế.
Hai vị đều là đệ tử của đức Lahiri Mahâsaya, và đều đã được nghe Tôn sư trực tiếp kể lại câu chuyện ấy. Đức Lahiri Mahâsaya thuật chuyện như sau:
- Cuộc gặp gỡ lần đầu tiên của tôi ới đức Babâji xảy ra hồi năm tôi ba mươi ba tuổi. Mùa thu năm 1861, tôi đang làm kế toán viên của sở Hành chánh quân đội Anh ở Danapar. Một buổi sáng, ông trưởng phòng cho mời tôi đến và nói:
- Lahiri, chúng tôi vừa nhận được một bức điện tín của văn phòng Trung ương. Anh sẽ được thuyên chuyển đi Ranikhet, tại đây tiền đồn quân sự vừa mới được thiết lập.
Tôi bèn cùng với một người gia nô bắt đầu một chuyến viễn du dài năm trăm dặm đường. Khi thì đi ngựa, khi đi xe, sau một tháng trường chúng tôi đã đến Ranikhet, dưới chân dãy núi Tuyết Sơn. Công việc của tôi tại đây cũng nhàn, nên tôi có nhiều thời giờ rảnh để đi chơi trên núi.
Người ta đồn rằng vùng này được thánh hóa bởi sự hiện diện của nhiều bậc hiền giả, chân tu đã đắc Đạo. Tôi cảm thấy một sự mong ước mãnh liệt là được gặp các ngài. Một buổi chiều, trong một chuyến đi ngao du trên núi, tôi ngạc nhiên mà nghe thấy có một giọng nói từ đàng xa gọi tên tôi.
Tôi đang cố gắng leo lên sườn núi cheo leo như vách của ngọn núi Drongiri, và hơi e ngại rằng có thể tôi không kịp về nhà trước khi trời tối. Sau cùng, tôi đến một khoảng trống và hẹp giữa hai bên vách núi có những hang động thâm u, ở trước một hang động này tôi thấy một dị nhân gương mặt trẻ như một thanh niên, vừa mỉm cười vừa đưa một tay vẫy tôi như một cử chỉ đón tiếp. Tôi lấy làm ngạc nhiên mà thấy người ấy giống tôi như đúc, chỉ trừ ra mái tóc của người như màu đồng đó.
- Lahiri, con đây rồi!
Dị nhân nói với tôi một cách trìu mến bằng tiếng thổ ngữ Bắc Ấn.
- Con hãy nghỉ ngơi trong động này. Chính ta đã gọi con đến đây.
Tôi bước vào động và nhìn thấy có những nệm, chăn bông và vài cái bình bát khất thực.
- Lahiri, con có nhớ chỗ ngồi này không?
Dị nhân vừa nói vừa chỉ một nệm vuông ở một góc.
- Bạch ngài, tôi không nhớ.
Hơi ngạc nhiên vì cuộc gặp gỡ lạ lùng này, tôi nói thêm:
- Bây giờ, tôi phải trở về trước khi trời tối. Sáng mai, tôi còn phải có mặt tại sở làm!
Dị nhân nói một câu bằng tiếng Anh rất trôi chảy:
- Sở làm được tạo ra cho con, chứ không phải con được tạo ra cho sở làm!
Tôi lấy làm king ngạc mà thấy dị nhân không những nói được tiếng Anh, mà còn chú thích cả lời nói của đấng Christ: "Ngày lễ Chúa Nhật được đặt ra cho con người, chứ không phải con người được sinh ra cho cuộc lễ ngày Chúa Nhật" (marc, II:27).
- Ta thấy rằng bức điện tín của ta đã có hiệu quả.
Câu nói đó đối với tôi là một điều bí hiểm. Tôi xin dị nhân giải thích rõ. Người đáp:
- Ta nói về bức điện tín nó đã kêu gọi con đến nơi thị trấn hẻo lánh này. Chính ta đã dùng thần giao cách cảm để gợi ý cho thượng cấp của con thuyên chuyển con đến Tanikhet. Đối với người nào đã đạt tới sự hợp nhất tâm linh với toàn thể nhân loại, thì tất cả những linh hồn đều là những trạm thu thanh vô tuyến sẵn sàng tiếp nhận mệnh lệnh của y.
Dị nhân nói thêm với tấm lòng ưu ái:
- Lahiri, chắc hẳn con đã từng quen thuộc với chốn hang động này?
Tôi còn đang hoang mang trong sự thầm lặng, dị nhân bèn bước đến gần và vỗ nhẹ một cái trên trán tôi. Ngay khi đó, một luồng từ điện chạy xuyên qua óc tôi, làm cho tôi nhớ lại những kỷ niệm đã bị che lấp về tiền kiếp của tôi.
- À, con nhớ ra rồi!
Giọng nói tôi đứt quảng vì xúc động, xen lẫn với những giọt lệ sung sướng:
- Ngài tức là Babâji, Sư phụ con! Cũng như tự thuở nào!
Những hình ảnh của quá khứ diễn ra rõ ràng trong trí tôi! Chính tại đây, trong động núi thâm u này, tôi đã từng sống trong nhiều năm trải qua nhiều tiền kiếp! Những kỷ niệm đó mỗi lúc càng hiển hiện ra trong ký ức tôi, tôi bèn cúi xuống hôn hai bàn chân của sư phụ thiêng liêng...
- Ta đã đợi con ở đây từ trên ba mươi năm nay, ta hy vọng con sẽ trở lại!
Một tình thương bao la biểu lộ trong giọng nói của Babâji:
- Con đã từ biệt ta, và biến mất dạng giữa những cảnh giới bên kia cửa Tử. Sự hành động của nghiệp quả mầu nhiệm như chiếc đũa thần, đã khiến cho con từ giã cõi trần, và con đã biến mất. Tầm nhãn quang của con không còn nhìn thấy ta nữa, nhưng còn ta, thì trái lại, không khi nào!
Ta đã theo dõi con trên những làn sóng hào quang dập dồn của biển trung giới, là nơi mà các vị thiên thần bay lượn thung dung. Xuyên qua bóng tối dày đặc, xuyên qua bão bùng, mưa gió, ánh sáng, ta đã theo dõi con như một người mẹ tìm con. Khi con đầu thai vào lòng mẹ trong kiếp này, ta đã chú ý đến con.
Khi còn nhỏ, con tập ngồi thiền trong tư thế liên hoa, ta đã có mặt một bên, tuy rằng vô hình vô ảnh. Trải qua bao nhiêu năm tháng dập dồn, ta luôn luôn để ý theo dõi con, và trông đợi đến ngày tốt lành mà con sẽ trở lại sống gần bên ta. Đây là cái động đá thân yêu của con khi xưa. Ta vẫn giữ nó được sạch sẽ, sẵn sàng tiếp đón ngày con trở về.
Đây là tấm nệm con vẫn ngồi thiền định. Kìa, con hãy nhìn xem, đây là cái bình bát khất thực, trong đó con đã bao lần uống cạn nước cam lồ mà ta rót cho con. Con có nhận thấy chăng nó vẫn trơn tru, bóng láng, sáng chói, chờ đợi đến ngày nó sẽ phục vụ con như thuở nào. Con hỡi, bây giờ con đã hiểu chưa?
- Bạch sư phụ, con còn biết nói gì hơn?
Tôi nói thì thầm, giọng nói đứt đoạn vì xúc động, Chưa bao giờ con được nghe nói đến một thứ tình thương sâu rộng bao la như thế, tình ấy còn mạnh hơn cả bất cứ một mãnh lực nào trên thế gian này!
Tôi rơi vào một trạng thái say sưa ngây ngất trong một lúc rất lâu, và chiêm ngưỡng đức sư phụ mến yêu của tôi, thầy của tôi trong cõi sống và cả trong cõi chết.
- Lahiri, con phải tinh luyện xác thân con. Con hãy uống chất dầu đựng trong cái chén này, rồi đi ra tắm rửa dưới giòng sông ở trước mặt.
Tôi thầm nghĩ:
- Sư minh triết của Babâji cũng vẫn như độ nào!
Tôi bèn tuân theo các chỉ thị đó. Tuy rằng đêm lạnh như băng của vùng Tuyết sơn đã đến, một nhiệt độ tốt lành, dễ chịu, phát sinh từ những rung động thầm kín bên trong nội tâm, đã thấm nhuần khắp cả những tế bào trong thân thể tôi. Hay là chất dầu mà tôi vừa uống đã đem lại sự công hiệu nhiệm mầu?
Một ngọn gió lạnh như cắt thổi rít lên chung quanh tôi, và tung hoành như vũ bão trong đêm tối. Những ngọn sóng nhấp nhô của con sông Gogash lạnh như băng đập vàp mình tôi, trong khi tôi bám chặt lấy những tảng đá lớn.
Những tiếng gầm thét của chúa sơn lâm vang dội gần bên, nhưng lòng tôi không cảm thấy sợ sệt, một nguồn thần lực vô hình xâm chiếm lấy tôi và đem cho tôi một sự dũng cảm phi thường không thể lay chuyển.
Thời gian trôi qua rất mau. Những kỷ niệm xa vời của một tiền kiếp trở lại dồn dập trong trí tôi, xen lẫn với niềm hạnh phúc vừa được gặp lại vị sư phụ thiêng liêng của tôi.
Thình lình, giữa cơn vắng lặng của núi rừng tôi nghe có tiếng chân người bước đến gần. Trong bóng tối, một bàn tay ưu ái đỡ tôi đứng dậy và cầm đưa cho tôi một bộ áo quần khô ráo.
- Sư huynh hãy trở về động. Sư phụ đang chờ đấy!
Người ấy đưa đường cho tôi xuyên qua rừng. Từ đàng xa, một ánh sáng rực rỡ chọc thủng màn đêm u tối một cách đột ngột. Ngạc nhiên, tôi hỏi:
- Trời đã sáng rồi chăng? Sao mà mau lắm vậy, vì tôi tưởng là đêm hãy còn lâu mới hết!
- Mới vừa nửa đêm thôi, sư huynh ạ.
Người hướng dẫn tôi mỉm cười:
- Ánh sáng đó toát ra từ một tòa cung điện bằng vàng khối mà đức sư phụ toàn năng vừa tạo ra. Trong một tiền kiếp, sư huynh đã bày tỏ lòng mong ước có một tòa lâu đài bằng vàng. Sư phụ đã làm thỏa mãn điều ước vọng đó để cho sư huynh giải tỏa khỏi sợi dậy trói buộc của nghiệp quả.
(Luật nhân quả định rằng mọi điều ước vọng của con người rốt cuộc sẽ được thực hiện. Bởi đó, mọi điều ham muốn, dục vọng là sợi dây trói buộc con người vào vòng luân hồi sinh tử)
Người lại nói thêm:
- Tòa cung điện này sẽ là nơi sư huynh làm lễ nhập môn theo đạo pháp Kriyâ Yoga. Tất cả các huynh đệ đều vui mừng chào đón sư huynh sau một thời gian vắng mặt lâu dài. Kìa, sư huynh hãy nhìn xem!
Một tòa cung điện nguy nga đồ sộ bằng vàng chói sáng rực rỡ hiện ra trước mắt tôi. Lâu đài có cẩn muôn nghìn viên ngọc quý đủ màu, và dựng lên giữa một khung cảnh vườn tược rộng rãi, cây cối sầm uất, thật là một cảnh tượng có một không hai trên thế gian này.
Những vị tu sĩ thánh đức, gương mặt hiền hòa, đứng túc trực nơi các cửa vàng có chạm những viên ngọc lưu ly màu đỏ thắm chói lòa. Các cổng ngoài, cửa trong, và khung cửa lớn, cửa nhỏ, thảy đều cẩn ngọc trai, trân châu, kim cương, ngọc bích, ngọc thạch... huy hoàng, lộng lẫy, sang trọng vô cùng.
Tôi đi theo người hướng dẫn viên vào tòa sảnh đường. Một mùi hương trầm và mùi thơm của hoa hường đượm trong không khí, hàng nghìn ngọn hoa đăng muôn màu nghìn sắc chiếu một ánh sáng nhạt mờ huyền ảo. Từng nhóm tu sĩ hoặc môn đồ da trắng hoặc nâu sậm, ngồi rải rác đó đây, hoặc hát thánh ca, hoặc ngồi thiền theo tư thế liên hoa, đắm chìm trong cơn yên tĩnh của nội tâm.
Một niềm vui tươi phảng phất trong không khí. Ngươi hướng dẫn viên mỉm cười một cách thân tình với tôi, trong khi tôi thốt ra những tiếng kêu ngạc nhiên và thán phục. Y nói:
- Sư huynh hãy chiêm ngưỡng cho thỏa lòng sự huy hoàng lộng lẫy của tòa lâu đài này, vì nó được tạo lập nên để chào mừng sư huynh đấy!
Tôi đáp:
- Sư huynh hỡi, những công trình kiến trúc nguy nga tráng lệ này thật là vượt khỏi sự tưởng tượng của con người. Xin sư huynh hãy vui lòng tiết lộ cho biết sự bí mật về nguồn gốc của nó.
- Tôi xin sẵn lòng!
Một tia minh triết chiếu sáng trong cặp mắt người bạn đồng môn của tôi, người bắt đầu nói:
- Trong cõi thiên nhiên, không có gì là khó giải thích. Toàn thể vũ trụ chỉ là sự kết tinh tư tưởng của đấng Tạo Hóa. Chính quả địa cầu này cũng là sự thể hiện cái giấc mơ của đấng Hóa Công. Ngài sáng tạo mọi vật từ trong ý thức hệ của ngài, cũng y như con người lập lại trong giấc ngủ những gì y đã thấy thật sự trong khi thức tỉnh.
Lúc khởi thủy, Thượng đế sáng tạo nên trời đất bằng cách phác họa hình ảnh vũ trụ trong trí của ngài, kế đó ngài mới kết tinh lại thành hình: những nguyên tử tinh lực mới phát sinh và kết cấu lại thành những quả tinh cầm đông đặc. Tất cả những phân tử hóa chất đều kết hợp lại do bởi Ý chí thiêng liêng.
Khi thượng đế rút lại cái Ý Chí đó, quả địa cầu lại tan rã thành tin lực vô hình vô ảnh, và thậm chí đến tinh lực này cũng tan biến để hoàn nguyên trở lại thành ý thức của Thượng đế. Chừng đó, quả địa cầu dưới hình thức một ý nghĩ cũa Thượng đế, đã mất hẳn sự tồn tại của nó trong không gian.
Nhờ hợp nhất làm một với Ý chí sáng tạo thiêng liêng, đức Babâji có cái quyền năng kết cấu, phối hợp những nguyên tử vật chất lại thành vô số hình thể biến hóa đến vô cùng tận. Tòa cung điện bằng vàng khối này, được dự ng lên trong nháy mắt, cũng có thật như quả địa cầu của chúng ta đây.
Sư phụ đã phác họa sẵn trong trí cái hình ảnh tòa lâu đài bằng vàng và dùng quyền năng của ý chí kết tinh các nguyên tử vật chất trong không gian theo kiểu mẫu cái khuôn đã đúc sẵn trong trí để cho nó thể hiện ra thành sự thật. Điều này cũng giống y như khi Thượng Đế sáng tạo nên Trời đất và các bầu thế giới, và duy trì các quả tinh cầu thành hình trong một thời gian nhất định.
Người bạn tôi nói thêm:
- Khi tòa lâu đài đã thực hiện xong vai trò của nó, Babâji sẽ làm cho nó tan rã và trở về kho tinh lực vật chất trong thiên nhiên.
Tôi lặng người vì ngạc nhiên trước sự mầu nhiệm đó, người bạn tôi nói tiếp:
- Tòa cung điện nguy nga lát vàng cẩn ngọc này không phải xây dựng nên bằng sức lao động. Người đã đạt tới cái quả vị thiêng liêng cao quý như Babâji có thể thực hiện bất cứ việc nhiệm mầu nào do bởi nguồn thần lực vô biên ẩn tàng trong Chân Ngã của Ngài.
Một cục đá có tiềm năng chứa đựng cả một kho nguyên tử lực vô tận. Chính cũng bởi đó mà một người phàm có cái tiềm lực hàm xúc một quyền năng vô biên: ấy là nguồn gốc thiêng liêng ẩn tàng của y.
Vị tu sĩ day qua một bàn gần bên và cầm lấy một lọ lộc bình rất quý, cái quai có cẩn kim cương lóng lánh, và nói tiếp:
- Sư phụ đã tạo nên tòa cung điện này bằng hằng hà sa số những vũ trụ tuyến đã kết tinh đông đặc lại. Sư huynh hãy cầm cái lộc bình này, hãy sờ mó những hột kim cương này để nhận xét rằng đó là sự thật chứ không phải ảo ảnh.
Tôi quan sát lọ lộc bình, và đưa tay tay sờ lên vách tường đúc bằng vàng khối! Một sự thỏa mãn thâm trầm đã tràn ngập cõi lòng tôi: một ước vọng thầm kín chôn chặt dưới đáy lòng từ bao nhiêu kiếp trở về trước, nay vừa mới được thực hiện!
Xuyên qua những cánh cửa chạm trổ tinh vi, những hành lang dài thăm thẳm, những gian phòng trang hoàng lộng lẫy theo một cách điệu sang trọng của bậc đế vương, vị tu sĩ đưa tôi vào một nơi cung thất to rộng vô cùng.
Nơi chính giữa, có đặt một chiếc ngai vàng cẩn ngọc chớp sáng loè muôn màu nghìn sắc. Trên ngai vàng, đức Babâji ngồi tĩnh tọa trên thế liên hoa. Tôi bèn cúi đầu làm lễ dưới chân ngài trên sàn gạch đánh bóng. Sư phụ cất tiếng hỏi:
- Lahari, con vẫn còn nuôi cái mộng sở hữu một cung vàng điện ngọc nữa chăng?
Đôi mắt của sư phụ chiếu sáng như những viên ngọc quý trong cung điện.
- Con hãy thức tỉnh. Tất cả những dục vọng trần gian của con nay đã gần phủi sạch!
Sư phụ bèn thì thầm một câu châm ngôn bí mật. Kế đó người nói:
- Con hãy đứng dậy để làm lễ nhập môn vào cõi giới của Thượng Đế do đạo pháp Kriyâ Yoga.
Babâji đưa hai tay ra trước một bàn thờ: một ngọn lửa hy sinh (homa) xuất hiện một cách mầu nhiệm, giữa những bông hoa và trái cây. Tôi bèn làm lễ thụ pháp giải thoát của pháp môn Yoga trước bàn thờ khói hương nghi ngút.
Lúc trời hừng sáng, cuộc lễ đã chấm dứt. Không cảm thấy buồn ngủ chút nào, tôi đi dạo thẩn thơ trong cung điện và ngắm nhìn những đồ mỹ nghệ quý giá cùng những kho tàng bảo vật, chỉ có trong những truyện huyền thoại hoang đường. Trong những khu vườn hoa đẹp như bồng lai tiên cảnh, tôi nhìn thấy những khối đá tảng của hang núi: mới ngày hôm qua đây, chưa có một tòa lâu đài nào ở vùng chung quanh.
Trở về cung thất, chiếu rạng ngời những ánh vàng lộng lẫy trước những tia nắng bình minh, tôi đưa mắt nhìn quanh để tìm sư phụ. Người vẫn ngồi tĩnh tọa trên ngai, giữa bầu không khí yên lặng có các vị đệ tử đứng vây chung. Kế đó, Babâji nói:
- Lahiri, chắc con đã đói bụng. Con hãy nhắm mắt lại.
Khi tôi mở mắt ra, tòa lâu đài cung điện và những cảnh hoa viên xinh đẹp như mộng đã biến mắt! Babâji, các đệ tử và tôi thảy đều ngồi dưới đất, ở ngay chỗ tọa lạc của tòa lâu đài khi nãy, cách hang động của Sư phụ không xa.
Tôi mới nhớ lại lời nói của vị hướng dẫn tôi từ lúc đầu rằng tòa cung điện sẽ được giải thể (làm cho tan rã, dématérialiser) sau khi đã hoàn thành sứ mạng của nó, những nguyên tử kết hợp sẽ được giải tỏa và tiêu tan trong kho tinh lực của trời đất. Kinh ngạc vô cùng, nhưng tôi nhìn sư phụ một cách tin tưởng, và tự hỏi không biết ngày ấy sẽ còn dành cho tôi những sự bất ngờ nào nữa chăng. Babâji giải thích:
- Mục đích việc thiết lập nên tòa cung điện này đã đạt được.
Ngài lấy một chén lớn bằng đất đưa cho tôi và nói:
- Con hãy cầm lấy cái chén này và con sẽ có đủ những vật thực mà con muốn ăn.
Khi tôi vừa cầm lấy cái chén lớn, nó liền chứa đầy những khoanh bánh bột mì chiên bơ, cari, và những cao lương mỹ vị khác. Tôi ăn ngon lành, và nhận thấy rằng cái chén không bao giờ cạn thức ăn. Khi đã ăn no, tôi mới đi tìm nước uống. Sư phụ chỉ cái chén mà tôi vừa dùng xong, và thức ăn được thay thế bằng nước suối mát trong lành. Babâji nói:
- Người thế gian ít ai ngờ rằng. Cõi trời là cõi mà mọi điều ước vọng đều được thỏa mãn. Cõi ấy cũng nới rộng đến quả địa cầu này, tuy rằng thế gian chỉ là hư ảo và không có gì chân thật.
- Bạch sư phụ, đêm nay Sư đã đưa con vào một lãnh vực tuy ở cõi thế nhưng lại rất gần với Cõi trời!
Tôi mỉm cười mà nhớ đến lâu đài thần diệu, có người tu sĩ nào lại làm lễ nhập môn học Đạo ở giữa một khung cảnh cực kỳ xa hoa lộng lẫy như thế? Từ này tôi có thế chiêm ngưỡng trong yên lặng cái khung cảnh một mạc giản dị, tương phản một cách rõ rệt với tòa cung điện lúc nãy. Núi rừng, hang động, suối chảy, thông reo, tất cả đều hợp thành một nơi cư ngụ lý tưởng cho những tu sĩ đang ở chung quanh tôi.
Ngày hôm ấy, tôi đắm chìm trong những cơn thiền định, và những sở đắc tâm linh mà tôi đã thực hiện trong những tiền kiếp đã trở lại với tôi. Sư phụ bước đến gần đưa bàn tay đặt nhẹ lên đỉnh đầu tôi, và tôi liền lọt vào cơn đại định nirvikalpa samadhi, trạng thái ấy tiếp tục kéo dài suốt bảy ngày không dứt.
Trong trạng thái đó, tôi đã vượt qua các lớp chướng ngại để thực hiện Chân Ngã, tôi đã vượt qua ngưỡng cửa của cõi giới siêu linh để bước vào cõi Đạo diệu huyền. Những bức màn ảo ảnh, những tham vọng phù du giả tạm thảy đềy lần lượt tiêu tan.
Linh hồn tôi đã bước vào cõi Vô cùng và hợp nhất làm một với Chân Như Đại Ngã, tức Đại Hồn của Vũ Trụ. Bắt đầu qua ngày thứ tám, tôi quỳ dưới chân Sư phụ và cần xin ngài hãy giữ tôi lại một bên ngài mãi, giữa chốn núi rừng cô tịch. Sư phụ ôm lấy tôi một cách rất mến yêu và nói:
- Con hỡi, trong kiếp này, con phải đóng vai trò của con trên sân khấu của cuộc đời thế tục. Con đã được thánh hóa nhờ công phu tu luyện mà con đã thực hành trong bao nhiêu tiền kiếp, bây giờ con phải sống lẫn lộn với người thế gian.
Sự kiện rằng con chỉ gặp ta sau khi đã lập gia đình và có một chức vụ khiêm tốn, có hàm xúc một ý nghĩa xâu xa. Con phải từ bỏ hy vọng gia nhập với nhóm đệ tử của ta trên dãy Tuyết Sơn. Vai trò của con sẽ sống chung lộn với người đời, để nêu một tấm gương cao quý về những sở đắc tâm linh mà một người gia trưởng sống ngoài thế gian có thể đạt được nhờ thực hành pháp môn Yoga.
Thượng Đế không hề làm ngơ trước những lời cầu nguyện thiết tha của những kẻ khát khao tìm đạo và còn sống ngoài thế tục. Con đã được chọn lựa để phổ biến đạo pháp Kriyâ Yoga trong quần chúng. Những kẻ có trách nhiệm gia đình và những bổn phận hằng ngày sẽ nhận được giáo lý ấy dễ dàng hơn ở nơi con, vì con cũng ở vào một hoàn cảnh giống như họ.
Vai trò của con sẽ là nêu một tấm gương sống động để chứng minh rằng những thành quả tối cao của sự thực hành đạo pháp Yoga không phải là hạn chế đối với những người còn có trách nhiệm gia đình. Dẫu cho sống ngoài thế gian, người hành giả làm tròn các bổn phận mình một cách vị tha, vô kỷ, chắc chắn sẽ đạt tới sự giác ngộ tâm linh.
Từ này, không có gì bắt buộc con phải từ bỏ thế gian, vì con đã cắt đứt mọi sợi dây trói buộc của nghiệp quả. Tuy sống trong trần thế, nhưng con không còn hệ lụy cõi trần. Con còn phải trải qua nhiều năm dành cho những bổn phận gia đình, xã hội và tâm linh.
Niềm hy vọng thiêng liêng từ nay sẽ thức động những tâm hồn đau khổ của người đời đang sống trong thế kỷ này. Cuộc đời hoàn toàn sống theo kỷ luật tâm linh của con sẽ giúp cho họ hiểu rằng sự giải thoát là tùy nơi những sự dứt bỏ thâm sâu từ bên trong, chứ không phải từ bên ngoài.
Gia đình, sở làm, toàn cõi thế gian đối với tôi lúc ấy có vẻ xa với biết bao nhiêu trong khi tôi lắng nghe những lời dạy đó của Sư phụ tôi trong vùng Tuyết Sơn hẻo lánh hoang vu. Tuy nhiên, chân lý đã do cửa miệng của ngài thoát ra, hang động yên tịnh này. Đức Babâji bèn dạy cho tôi biết những luật lệ cổ xưa và bất biến về việc truyền pháp Yoga giữa Tôn sư và đệ tử. Sư phụ nói:
- Con chỉ nên truyền bí thuật Kriyâ Yoga cho những môn đệ xứng đáng. Người nào sẵn sàng từ bỏ và hy sinh tất cả để tìm đạo, mới thật xứng đáng được truyền thụ những bí pháp giúp cho y thâu triệt được vấn đề sinh tử bằng cách tham thiền.
- Bạch sư phụ, sư phụ đã ban cho thế gian bằng cách phụ hồi đạo pháp Kriyâ Yoga đã bị mất đi trong quên lãng, thì nay cũng xin Sư phụ hãy mở lượng từ bi mà làm dịu bớt những luật lệt khắt khe về việc chọn lọc đệ tử.
Tôi nhìn Babâji với đôi mắt khẩn cầu:
- Con xin sư phụ cho phép cho truyền pháp Kriyâ Yoga cho tất cả những kẻ tầm Đạo, dẫu rằng họ vẫn chưa sẵn sàng đạt tới sự dứt bỏ hoàn toàn từ bên trong. Người thế gian, cả nam lẫn nữ, đều đang bị dày vò trong đau khổ cả thể chất lẫn tinh thần, phải cần được nâng đỡ và khuyến khích. Họ sẽ không bao giờ tìm thấy chính đạo nếu họ bị từ chối không được truyền thụ Đạo Pháp Kriyâ Yoga.
- Ta chuẩn y lời cần xin đó. Thiên Ý được biểu lộ qua cửa miệng của con.
Bằng những lời đó, sư phụ đã đánh đổ những bức rào ngăn cách từ muôn đời vẫn che dấu đạo pháp Kriyâ Yoga trước mắt người thế gian.
- Con hãy truyền pháp Kriyâ cho tất cả những người tầm Đạo với tấm lòng khiêm tốn.
Sau một lúc im lặng, Babâji nói tiếp:
- Con hãy lập lại cho mỗi đệ tử lời hứa hẹn này trong kinh Bhagavad Gita: "Dẫu chỉ có một ít biết về pháp môn này cũng đủ giúp cho ta tránh được nhiều nỗi đau khổ rất lớn".
Sáng ngày hôm sau, khi tôi làm lễ kiếu từ Sư phụ để xin ngài ban ân huệ trước khi lên đường, ngài cảm thấy nỗi thất vọng buồn rầu của tôi phải từ giã ngài ra đi. Ngài nói,
- Sự biệt ly vốn không có giữa chúng ta, con ạ! Dầu cho con ở nơi nào, con chỉ cần gọi đến ta là ta sẽ xuất hiện ngay tức khắc.
Được an ủi bởi lời hứa hẹn huyền diệu đó, tôi lên đường trở về nhà. Về đến sợ làm sau mười mấy ngày vắng mặt, tôi được các bạn đồng nghiệp đón tiếp nồng nàn vì họ tưởng rằng tôi đã đi lạc vào núi trên dãy Tuyết Sơn. Kế đó, tôi nhận được một bức thơ của viên trưởng phòng.
Trong thơ nói rằng: "Lahiri phải trở về văn phòng Hành Chánh ở Danapur. Việc thuyên chuyển y đến Ranikhet là một sự sai lầm. Một nhân viên khác sẽ được gửi đến Ranikhet để thay thế cho y".
Sự "sai lầm" nó đã đưa tôi lên tận dãy Tuyết Sơn, làm cho tôi mỉm cười. Trước khi trở về Danapur, tôi đến tạm trú vài ngày tại nhà của một gia đình quen thuộc ở Moradabad. Tại đây, có sáu người bạn hữu đến thăm tôi. Trong khi tôi hướng câu chuyện đến những vấn đề tâm linh người chủ nhà tỏ ý buồn rầu và nói:
- Than ôi! Các vị Chân sư của Ấn Độ ngày nay đã biến mất không còn nữa!
Tôi phản đối mãnh liệt để cải chính:
- Thưa ông, các vị chân sư vẫn còn thánh hóa xứ sở chúng ta bởi gót chân của các ngài!
Trong cơn hứng khởi tôi cảm thấy cần thuật lại kinh nghiệm độc đáo của tôi vừa rồi trên dãy Tuyết Sơn. Các bạn tôi tỏ vẻ hoài nghi, nhưng chỉ lễ phép mỉm cười. Một bạn bèn kết luận:
- Lahiri, có lẽ không khí miền sơ cước đã làm cho bạn say sưa ngây ngất, và chắc là bạn đã có một cơn mơ!
Vì muốn làm sáng tỏ sự thật, tôi đáp không do dự:
- Sư phụ tôi sẽ xuất hiên tại ngay chỗ này, bằng xương bằng thịt, để đáp lại lời kêu gọi của tôi!
Lần này, tôi đã làm cho họ chú ý, thật không phải là một chuyện lạ nếu mỗi người đều mong muốn chiêm ngưỡng một vị thánh nhân hiện hình ra một cách bất ngờ như thế. Tôi yêu cầu chủ nhà sắp đặt cho tôi một gian phòng và hai tấm nệm mới. Tôi nói:
- Sư phụ tôi sẽ xuất hiện từ không gian. Các bạn hãy đứng im lặng phía sau cánh cửa, trong chốc lát tôi sẽ mời các bạn vào.
Tôi bèn ngồi tĩnh tọa nhập thiền, và kêu gọi sư phụ tôi bằng tư tưởng. Trong giây lát, một ánh sáng huyền ảo và êm dịu như ánh trăng le lói trong gian phòng, và hình dáng đức Babâji từ từ xuất hiện.
- Lahiri, tại sao con lại kêu gọi đến ta vì một mục đích nhỏ mọn, vô nghĩa?
Cặp mắt sư phụ được một vẻ nghiêm khắc.
- Chân lý chỉ đến với những kẻ thật lòng tìm đạo, chứ không phải để cho những kẻ tò mò. Thật rất dễ mà tin tưởng nơi những điều tai nghe mắt thấy, vì chừng đó sự thật đã hiển nhiên, không còn phải chối cãi gì nữa. Chỉ có người nào thắng được sự hoài nghi mới khám phá được chân lý thâm diệu và vô hình vô ảnh.
Kế đó, người nói với một giọng nghiêm nghị:
- Hãy để ta đi!
Tôi bèn quỳ xuống chân sư phụ và nài nỉ:
- Bạch sư phụ, con xin sư phụ tha lỗi cho con. Chính vì con muốn gây đức tin cho những kẻ hãy còn mù quáng về phương diện tâm linh, mà con đã kêu gọi đến sư phụ. Sư phụ đã chiếu cố mà xuất hiện trước lời cầu xin của con thì con cũng xin sư phụ hãy vui lòng ban ân huệ cho các bạn con trước khi ra về. Tuy họ thiếu đức tin, nhưng ít nhất họ cũng khát khao được biết sự thật về kinh nghiệm lạ lùng của con.
- Được ta sẽ ở lại, vì ta không muốn cho các bạn con nghi ngờ lời nói của con.
Babâji dịu giọng, nhưng còn nói thến:
- Từ rày về sau, ta sẽ không xuất hiện trước lời kêu gọi của con nữa, trừ ra khi nào sự có mặt của ta là tối cần thiết.
Khi tôi bước ra mở cửa, thì các bạn tôi đang chờ đợi trong một sự im lặng hoàn toàn. Hãy còn ngờ vực nới giác quan của họ, họ đứng sững, miệng há hốc, giương hai mắt to lên để chiêm ngưỡng dung nhan đức Babâji đang ngồi ung dung tự tại trên tấm nệm.
- "Đó là phép thôi miên tập thể", một nhân chứng vừa nói vừa cười. "Không ai có thể bước vào gian phòng này mà chúng tôi không biết!"
Babâji vừa mỉm cười vừa ra lịnh cho mỗi người hãy đến gần và sờ mó vào mình ngài để kiểm chứng sự thật. Khi họ không còn nghi ngờ gì nữa, họ bèn quỳ lạy dưới chân sư phụ tôi một cách cung kính và tỏ ra ăn năn sám hối vì đã có bụng hoài nghi.
- Hãy nấu cháo cho các vị dùng đỡ lót dạ. Babâji ra lịnh để đưa thêm một bằng chứng về sự thật của ngài. Trong khi nồi cháo đang sôi, sư phụ đàm thoại với tấm lòng ưu ái cởi mở với tất cả mọi người. Những kẻ hoài nghi lúc nãy nay đã trở thành những người sùng tín rất mực, không còn nghi ngờ gì nữa.
Khi chúng tôi đã dùng cháo xong, Babâji đưa tay ban ân huệ cho từng người. Một tia chớp xuất hiện thình lình xẹt ngang qua gian phòng: chúng tôi chứng kiến tận mắt sự giải thể mau như chớp nhoáng của sư phụ: những nguyên tử, tế bào hợp thành thể xác của ngài bỗng nhiên tan rã mau lẹ trong chớp mắt, và phát ra một vầng hào quang mỗi lúc càng mờ dần.
Quyền năng của Babâji vốn hòa hợp với Thựơng đế, đã giải tỏa bằng hà sa số những phân tử dĩ thái đã được kết cấu lại thành hình thể xác của ngài, những nguồn tinh lực được giải tỏa bèn trở về hòa lẫn với cái kho tinh lực vô biên của vũ trụ.
- Tôi đã thấy tận mắt người chiến thắng Tử thần!
Một nhân chứng trong nhóm bạn tôi, tên là Maitra đã nói như trên. Gương mặt y đổi sắc y chứng kiến điều nhiệm màu của sư phụ. Y nói tiếp:
- Tôn sư bất chấp mọi giới hạn của thời gian và khong gian và hành động mọi sự một cách dễ dành như trò trẻ. Tôi vừa chứng kiến một bậc siêu nhân nắm giữ chìa khóa mở các cõi huyền vi của trời đất.
Sau đó tôi trở về Danapur và tiếp tục công việc ở sở làm cùng làm tròn bổn phận người gia trưởng.
Lahiri Mahâsaya cũng thuật cho tu sĩ Kebalâ và Sru Yukteswar nghe chuyện một cuộc gặp gỡ khác với Babâji trong trường hợp hứa hẹp của sư phụ: "Ta sẽ xuất hiện khi nào cần thiết". Lahiri Mahâsaya kể chuyện như sau:
- Việc ấy xảy ra trong một cuộc thánh lễ Kumbha Mela ở Allahabad, thành phố tại đó tôi trải qua những tháng nghĩ hè. Trong khi tôi trà trộn trong đám đông những tu sĩ và khất sĩ từ khắp nởi ở Ấn Đô đến đây để dự lễ, tôi nhìn thấy một tu sĩ khổ hạnh mình đầy bụi bặm cầm một cái bình bát khất thực. Tôi có ý nghĩ rằng người này chỉ là một kẻ bịp bợm, giả vờ khoác lấy cái bề ngoài của kẻ tu hành chứ không phải là một người chân tu.
Khi tôi vừa đi qua khỏi người ấy thì tôi ngạc nhiên mà thấy Babâji đang quỳ gối trước mặt một tu sĩ khác râu tóc xồm xoàm. Tôi bèn chạy tới trước và kêu lên: - Bạch sư phụ, sư phụ làm gì vậy?
- Ta rửa chân cho người tu sĩ này, và sau đó ta sẽ lau chùi cái bình bát khất thực của y.
Babâji cười với tôi một cách hồn nhiên như một đứa trẻ nhỏ. Tôi hiểu rằng ngài muốn dạy tôi không nên chỉ trích kẻ khác, mà phải nhìn thấy hình ảnh của Thượng Đế ở bên trong mỗi người, bất luận lớn nhỏ, sang hèn. Sư phụ nói thêm:
- Khi ta phục vụ những tu sĩ khất thực, bất luận đó là những tu sĩ thánh thiện hay ngu dốt, ta học thực hành cái đức tính cao cả mà Thượng đế quý hơn tất cả mọi đức tính khác, đó là: đức khiêm tốn.
Chương Bảy
Gặp gỡ giữa Lahiri Mahâsaya và Babâji là một truyện thần tiên, một huyền thoại phàm thật xứng đáng với tác phong của vị Tôn sư bất tử.
Chính bởi những lời này mà tu sĩ Kebalâ bắt đầu câu chuyện tường thuật của ông. Lần đầu tiên tôi nghe câu chuyện này, tôi đã thật sự giật mình vì kinh ngạc. Sau đó, tôi đã nhiều lần yêu cầu tu sĩ, thầy dạy Phạn ngữ của tôi, hãy lập lại cho tôi nghe câu chuyện ấy, mà về sau Sri Yukteswar đã kể lại cho tôi nghe cũng đại khái giống y như thế.
Hai vị đều là đệ tử của đức Lahiri Mahâsaya, và đều đã được nghe Tôn sư trực tiếp kể lại câu chuyện ấy. Đức Lahiri Mahâsaya thuật chuyện như sau:
- Cuộc gặp gỡ lần đầu tiên của tôi ới đức Babâji xảy ra hồi năm tôi ba mươi ba tuổi. Mùa thu năm 1861, tôi đang làm kế toán viên của sở Hành chánh quân đội Anh ở Danapar. Một buổi sáng, ông trưởng phòng cho mời tôi đến và nói:
- Lahiri, chúng tôi vừa nhận được một bức điện tín của văn phòng Trung ương. Anh sẽ được thuyên chuyển đi Ranikhet, tại đây tiền đồn quân sự vừa mới được thiết lập.
Tôi bèn cùng với một người gia nô bắt đầu một chuyến viễn du dài năm trăm dặm đường. Khi thì đi ngựa, khi đi xe, sau một tháng trường chúng tôi đã đến Ranikhet, dưới chân dãy núi Tuyết Sơn. Công việc của tôi tại đây cũng nhàn, nên tôi có nhiều thời giờ rảnh để đi chơi trên núi.
Người ta đồn rằng vùng này được thánh hóa bởi sự hiện diện của nhiều bậc hiền giả, chân tu đã đắc Đạo. Tôi cảm thấy một sự mong ước mãnh liệt là được gặp các ngài. Một buổi chiều, trong một chuyến đi ngao du trên núi, tôi ngạc nhiên mà nghe thấy có một giọng nói từ đàng xa gọi tên tôi.
Tôi đang cố gắng leo lên sườn núi cheo leo như vách của ngọn núi Drongiri, và hơi e ngại rằng có thể tôi không kịp về nhà trước khi trời tối. Sau cùng, tôi đến một khoảng trống và hẹp giữa hai bên vách núi có những hang động thâm u, ở trước một hang động này tôi thấy một dị nhân gương mặt trẻ như một thanh niên, vừa mỉm cười vừa đưa một tay vẫy tôi như một cử chỉ đón tiếp. Tôi lấy làm ngạc nhiên mà thấy người ấy giống tôi như đúc, chỉ trừ ra mái tóc của người như màu đồng đó.
- Lahiri, con đây rồi!
Dị nhân nói với tôi một cách trìu mến bằng tiếng thổ ngữ Bắc Ấn.
- Con hãy nghỉ ngơi trong động này. Chính ta đã gọi con đến đây.
Tôi bước vào động và nhìn thấy có những nệm, chăn bông và vài cái bình bát khất thực.
- Lahiri, con có nhớ chỗ ngồi này không?
Dị nhân vừa nói vừa chỉ một nệm vuông ở một góc.
- Bạch ngài, tôi không nhớ.
Hơi ngạc nhiên vì cuộc gặp gỡ lạ lùng này, tôi nói thêm:
- Bây giờ, tôi phải trở về trước khi trời tối. Sáng mai, tôi còn phải có mặt tại sở làm!
Dị nhân nói một câu bằng tiếng Anh rất trôi chảy:
- Sở làm được tạo ra cho con, chứ không phải con được tạo ra cho sở làm!
Tôi lấy làm king ngạc mà thấy dị nhân không những nói được tiếng Anh, mà còn chú thích cả lời nói của đấng Christ: "Ngày lễ Chúa Nhật được đặt ra cho con người, chứ không phải con người được sinh ra cho cuộc lễ ngày Chúa Nhật" (marc, II:27).
- Ta thấy rằng bức điện tín của ta đã có hiệu quả.
Câu nói đó đối với tôi là một điều bí hiểm. Tôi xin dị nhân giải thích rõ. Người đáp:
- Ta nói về bức điện tín nó đã kêu gọi con đến nơi thị trấn hẻo lánh này. Chính ta đã dùng thần giao cách cảm để gợi ý cho thượng cấp của con thuyên chuyển con đến Tanikhet. Đối với người nào đã đạt tới sự hợp nhất tâm linh với toàn thể nhân loại, thì tất cả những linh hồn đều là những trạm thu thanh vô tuyến sẵn sàng tiếp nhận mệnh lệnh của y.
Dị nhân nói thêm với tấm lòng ưu ái:
- Lahiri, chắc hẳn con đã từng quen thuộc với chốn hang động này?
Tôi còn đang hoang mang trong sự thầm lặng, dị nhân bèn bước đến gần và vỗ nhẹ một cái trên trán tôi. Ngay khi đó, một luồng từ điện chạy xuyên qua óc tôi, làm cho tôi nhớ lại những kỷ niệm đã bị che lấp về tiền kiếp của tôi.
- À, con nhớ ra rồi!
Giọng nói tôi đứt quảng vì xúc động, xen lẫn với những giọt lệ sung sướng:
- Ngài tức là Babâji, Sư phụ con! Cũng như tự thuở nào!
Những hình ảnh của quá khứ diễn ra rõ ràng trong trí tôi! Chính tại đây, trong động núi thâm u này, tôi đã từng sống trong nhiều năm trải qua nhiều tiền kiếp! Những kỷ niệm đó mỗi lúc càng hiển hiện ra trong ký ức tôi, tôi bèn cúi xuống hôn hai bàn chân của sư phụ thiêng liêng...
- Ta đã đợi con ở đây từ trên ba mươi năm nay, ta hy vọng con sẽ trở lại!
Một tình thương bao la biểu lộ trong giọng nói của Babâji:
- Con đã từ biệt ta, và biến mất dạng giữa những cảnh giới bên kia cửa Tử. Sự hành động của nghiệp quả mầu nhiệm như chiếc đũa thần, đã khiến cho con từ giã cõi trần, và con đã biến mất. Tầm nhãn quang của con không còn nhìn thấy ta nữa, nhưng còn ta, thì trái lại, không khi nào!
Ta đã theo dõi con trên những làn sóng hào quang dập dồn của biển trung giới, là nơi mà các vị thiên thần bay lượn thung dung. Xuyên qua bóng tối dày đặc, xuyên qua bão bùng, mưa gió, ánh sáng, ta đã theo dõi con như một người mẹ tìm con. Khi con đầu thai vào lòng mẹ trong kiếp này, ta đã chú ý đến con.
Khi còn nhỏ, con tập ngồi thiền trong tư thế liên hoa, ta đã có mặt một bên, tuy rằng vô hình vô ảnh. Trải qua bao nhiêu năm tháng dập dồn, ta luôn luôn để ý theo dõi con, và trông đợi đến ngày tốt lành mà con sẽ trở lại sống gần bên ta. Đây là cái động đá thân yêu của con khi xưa. Ta vẫn giữ nó được sạch sẽ, sẵn sàng tiếp đón ngày con trở về.
Đây là tấm nệm con vẫn ngồi thiền định. Kìa, con hãy nhìn xem, đây là cái bình bát khất thực, trong đó con đã bao lần uống cạn nước cam lồ mà ta rót cho con. Con có nhận thấy chăng nó vẫn trơn tru, bóng láng, sáng chói, chờ đợi đến ngày nó sẽ phục vụ con như thuở nào. Con hỡi, bây giờ con đã hiểu chưa?
- Bạch sư phụ, con còn biết nói gì hơn?
Tôi nói thì thầm, giọng nói đứt đoạn vì xúc động, Chưa bao giờ con được nghe nói đến một thứ tình thương sâu rộng bao la như thế, tình ấy còn mạnh hơn cả bất cứ một mãnh lực nào trên thế gian này!
Tôi rơi vào một trạng thái say sưa ngây ngất trong một lúc rất lâu, và chiêm ngưỡng đức sư phụ mến yêu của tôi, thầy của tôi trong cõi sống và cả trong cõi chết.
- Lahiri, con phải tinh luyện xác thân con. Con hãy uống chất dầu đựng trong cái chén này, rồi đi ra tắm rửa dưới giòng sông ở trước mặt.
Tôi thầm nghĩ:
- Sư minh triết của Babâji cũng vẫn như độ nào!
Tôi bèn tuân theo các chỉ thị đó. Tuy rằng đêm lạnh như băng của vùng Tuyết sơn đã đến, một nhiệt độ tốt lành, dễ chịu, phát sinh từ những rung động thầm kín bên trong nội tâm, đã thấm nhuần khắp cả những tế bào trong thân thể tôi. Hay là chất dầu mà tôi vừa uống đã đem lại sự công hiệu nhiệm mầu?
Một ngọn gió lạnh như cắt thổi rít lên chung quanh tôi, và tung hoành như vũ bão trong đêm tối. Những ngọn sóng nhấp nhô của con sông Gogash lạnh như băng đập vàp mình tôi, trong khi tôi bám chặt lấy những tảng đá lớn.
Những tiếng gầm thét của chúa sơn lâm vang dội gần bên, nhưng lòng tôi không cảm thấy sợ sệt, một nguồn thần lực vô hình xâm chiếm lấy tôi và đem cho tôi một sự dũng cảm phi thường không thể lay chuyển.
Thời gian trôi qua rất mau. Những kỷ niệm xa vời của một tiền kiếp trở lại dồn dập trong trí tôi, xen lẫn với niềm hạnh phúc vừa được gặp lại vị sư phụ thiêng liêng của tôi.
Thình lình, giữa cơn vắng lặng của núi rừng tôi nghe có tiếng chân người bước đến gần. Trong bóng tối, một bàn tay ưu ái đỡ tôi đứng dậy và cầm đưa cho tôi một bộ áo quần khô ráo.
- Sư huynh hãy trở về động. Sư phụ đang chờ đấy!
Người ấy đưa đường cho tôi xuyên qua rừng. Từ đàng xa, một ánh sáng rực rỡ chọc thủng màn đêm u tối một cách đột ngột. Ngạc nhiên, tôi hỏi:
- Trời đã sáng rồi chăng? Sao mà mau lắm vậy, vì tôi tưởng là đêm hãy còn lâu mới hết!
- Mới vừa nửa đêm thôi, sư huynh ạ.
Người hướng dẫn tôi mỉm cười:
- Ánh sáng đó toát ra từ một tòa cung điện bằng vàng khối mà đức sư phụ toàn năng vừa tạo ra. Trong một tiền kiếp, sư huynh đã bày tỏ lòng mong ước có một tòa lâu đài bằng vàng. Sư phụ đã làm thỏa mãn điều ước vọng đó để cho sư huynh giải tỏa khỏi sợi dậy trói buộc của nghiệp quả.
(Luật nhân quả định rằng mọi điều ước vọng của con người rốt cuộc sẽ được thực hiện. Bởi đó, mọi điều ham muốn, dục vọng là sợi dây trói buộc con người vào vòng luân hồi sinh tử)
Người lại nói thêm:
- Tòa cung điện này sẽ là nơi sư huynh làm lễ nhập môn theo đạo pháp Kriyâ Yoga. Tất cả các huynh đệ đều vui mừng chào đón sư huynh sau một thời gian vắng mặt lâu dài. Kìa, sư huynh hãy nhìn xem!
Một tòa cung điện nguy nga đồ sộ bằng vàng chói sáng rực rỡ hiện ra trước mắt tôi. Lâu đài có cẩn muôn nghìn viên ngọc quý đủ màu, và dựng lên giữa một khung cảnh vườn tược rộng rãi, cây cối sầm uất, thật là một cảnh tượng có một không hai trên thế gian này.
Những vị tu sĩ thánh đức, gương mặt hiền hòa, đứng túc trực nơi các cửa vàng có chạm những viên ngọc lưu ly màu đỏ thắm chói lòa. Các cổng ngoài, cửa trong, và khung cửa lớn, cửa nhỏ, thảy đều cẩn ngọc trai, trân châu, kim cương, ngọc bích, ngọc thạch... huy hoàng, lộng lẫy, sang trọng vô cùng.
Tôi đi theo người hướng dẫn viên vào tòa sảnh đường. Một mùi hương trầm và mùi thơm của hoa hường đượm trong không khí, hàng nghìn ngọn hoa đăng muôn màu nghìn sắc chiếu một ánh sáng nhạt mờ huyền ảo. Từng nhóm tu sĩ hoặc môn đồ da trắng hoặc nâu sậm, ngồi rải rác đó đây, hoặc hát thánh ca, hoặc ngồi thiền theo tư thế liên hoa, đắm chìm trong cơn yên tĩnh của nội tâm.
Một niềm vui tươi phảng phất trong không khí. Ngươi hướng dẫn viên mỉm cười một cách thân tình với tôi, trong khi tôi thốt ra những tiếng kêu ngạc nhiên và thán phục. Y nói:
- Sư huynh hãy chiêm ngưỡng cho thỏa lòng sự huy hoàng lộng lẫy của tòa lâu đài này, vì nó được tạo lập nên để chào mừng sư huynh đấy!
Tôi đáp:
- Sư huynh hỡi, những công trình kiến trúc nguy nga tráng lệ này thật là vượt khỏi sự tưởng tượng của con người. Xin sư huynh hãy vui lòng tiết lộ cho biết sự bí mật về nguồn gốc của nó.
- Tôi xin sẵn lòng!
Một tia minh triết chiếu sáng trong cặp mắt người bạn đồng môn của tôi, người bắt đầu nói:
- Trong cõi thiên nhiên, không có gì là khó giải thích. Toàn thể vũ trụ chỉ là sự kết tinh tư tưởng của đấng Tạo Hóa. Chính quả địa cầu này cũng là sự thể hiện cái giấc mơ của đấng Hóa Công. Ngài sáng tạo mọi vật từ trong ý thức hệ của ngài, cũng y như con người lập lại trong giấc ngủ những gì y đã thấy thật sự trong khi thức tỉnh.
Lúc khởi thủy, Thượng đế sáng tạo nên trời đất bằng cách phác họa hình ảnh vũ trụ trong trí của ngài, kế đó ngài mới kết tinh lại thành hình: những nguyên tử tinh lực mới phát sinh và kết cấu lại thành những quả tinh cầm đông đặc. Tất cả những phân tử hóa chất đều kết hợp lại do bởi Ý chí thiêng liêng.
Khi thượng đế rút lại cái Ý Chí đó, quả địa cầu lại tan rã thành tin lực vô hình vô ảnh, và thậm chí đến tinh lực này cũng tan biến để hoàn nguyên trở lại thành ý thức của Thượng đế. Chừng đó, quả địa cầu dưới hình thức một ý nghĩ cũa Thượng đế, đã mất hẳn sự tồn tại của nó trong không gian.
Nhờ hợp nhất làm một với Ý chí sáng tạo thiêng liêng, đức Babâji có cái quyền năng kết cấu, phối hợp những nguyên tử vật chất lại thành vô số hình thể biến hóa đến vô cùng tận. Tòa cung điện bằng vàng khối này, được dự ng lên trong nháy mắt, cũng có thật như quả địa cầu của chúng ta đây.
Sư phụ đã phác họa sẵn trong trí cái hình ảnh tòa lâu đài bằng vàng và dùng quyền năng của ý chí kết tinh các nguyên tử vật chất trong không gian theo kiểu mẫu cái khuôn đã đúc sẵn trong trí để cho nó thể hiện ra thành sự thật. Điều này cũng giống y như khi Thượng Đế sáng tạo nên Trời đất và các bầu thế giới, và duy trì các quả tinh cầu thành hình trong một thời gian nhất định.
Người bạn tôi nói thêm:
- Khi tòa lâu đài đã thực hiện xong vai trò của nó, Babâji sẽ làm cho nó tan rã và trở về kho tinh lực vật chất trong thiên nhiên.
Tôi lặng người vì ngạc nhiên trước sự mầu nhiệm đó, người bạn tôi nói tiếp:
- Tòa cung điện nguy nga lát vàng cẩn ngọc này không phải xây dựng nên bằng sức lao động. Người đã đạt tới cái quả vị thiêng liêng cao quý như Babâji có thể thực hiện bất cứ việc nhiệm mầu nào do bởi nguồn thần lực vô biên ẩn tàng trong Chân Ngã của Ngài.
Một cục đá có tiềm năng chứa đựng cả một kho nguyên tử lực vô tận. Chính cũng bởi đó mà một người phàm có cái tiềm lực hàm xúc một quyền năng vô biên: ấy là nguồn gốc thiêng liêng ẩn tàng của y.
Vị tu sĩ day qua một bàn gần bên và cầm lấy một lọ lộc bình rất quý, cái quai có cẩn kim cương lóng lánh, và nói tiếp:
- Sư phụ đã tạo nên tòa cung điện này bằng hằng hà sa số những vũ trụ tuyến đã kết tinh đông đặc lại. Sư huynh hãy cầm cái lộc bình này, hãy sờ mó những hột kim cương này để nhận xét rằng đó là sự thật chứ không phải ảo ảnh.
Tôi quan sát lọ lộc bình, và đưa tay tay sờ lên vách tường đúc bằng vàng khối! Một sự thỏa mãn thâm trầm đã tràn ngập cõi lòng tôi: một ước vọng thầm kín chôn chặt dưới đáy lòng từ bao nhiêu kiếp trở về trước, nay vừa mới được thực hiện!
Xuyên qua những cánh cửa chạm trổ tinh vi, những hành lang dài thăm thẳm, những gian phòng trang hoàng lộng lẫy theo một cách điệu sang trọng của bậc đế vương, vị tu sĩ đưa tôi vào một nơi cung thất to rộng vô cùng.
Nơi chính giữa, có đặt một chiếc ngai vàng cẩn ngọc chớp sáng loè muôn màu nghìn sắc. Trên ngai vàng, đức Babâji ngồi tĩnh tọa trên thế liên hoa. Tôi bèn cúi đầu làm lễ dưới chân ngài trên sàn gạch đánh bóng. Sư phụ cất tiếng hỏi:
- Lahari, con vẫn còn nuôi cái mộng sở hữu một cung vàng điện ngọc nữa chăng?
Đôi mắt của sư phụ chiếu sáng như những viên ngọc quý trong cung điện.
- Con hãy thức tỉnh. Tất cả những dục vọng trần gian của con nay đã gần phủi sạch!
Sư phụ bèn thì thầm một câu châm ngôn bí mật. Kế đó người nói:
- Con hãy đứng dậy để làm lễ nhập môn vào cõi giới của Thượng Đế do đạo pháp Kriyâ Yoga.
Babâji đưa hai tay ra trước một bàn thờ: một ngọn lửa hy sinh (homa) xuất hiện một cách mầu nhiệm, giữa những bông hoa và trái cây. Tôi bèn làm lễ thụ pháp giải thoát của pháp môn Yoga trước bàn thờ khói hương nghi ngút.
Lúc trời hừng sáng, cuộc lễ đã chấm dứt. Không cảm thấy buồn ngủ chút nào, tôi đi dạo thẩn thơ trong cung điện và ngắm nhìn những đồ mỹ nghệ quý giá cùng những kho tàng bảo vật, chỉ có trong những truyện huyền thoại hoang đường. Trong những khu vườn hoa đẹp như bồng lai tiên cảnh, tôi nhìn thấy những khối đá tảng của hang núi: mới ngày hôm qua đây, chưa có một tòa lâu đài nào ở vùng chung quanh.
Trở về cung thất, chiếu rạng ngời những ánh vàng lộng lẫy trước những tia nắng bình minh, tôi đưa mắt nhìn quanh để tìm sư phụ. Người vẫn ngồi tĩnh tọa trên ngai, giữa bầu không khí yên lặng có các vị đệ tử đứng vây chung. Kế đó, Babâji nói:
- Lahiri, chắc con đã đói bụng. Con hãy nhắm mắt lại.
Khi tôi mở mắt ra, tòa lâu đài cung điện và những cảnh hoa viên xinh đẹp như mộng đã biến mắt! Babâji, các đệ tử và tôi thảy đều ngồi dưới đất, ở ngay chỗ tọa lạc của tòa lâu đài khi nãy, cách hang động của Sư phụ không xa.
Tôi mới nhớ lại lời nói của vị hướng dẫn tôi từ lúc đầu rằng tòa cung điện sẽ được giải thể (làm cho tan rã, dématérialiser) sau khi đã hoàn thành sứ mạng của nó, những nguyên tử kết hợp sẽ được giải tỏa và tiêu tan trong kho tinh lực của trời đất. Kinh ngạc vô cùng, nhưng tôi nhìn sư phụ một cách tin tưởng, và tự hỏi không biết ngày ấy sẽ còn dành cho tôi những sự bất ngờ nào nữa chăng. Babâji giải thích:
- Mục đích việc thiết lập nên tòa cung điện này đã đạt được.
Ngài lấy một chén lớn bằng đất đưa cho tôi và nói:
- Con hãy cầm lấy cái chén này và con sẽ có đủ những vật thực mà con muốn ăn.
Khi tôi vừa cầm lấy cái chén lớn, nó liền chứa đầy những khoanh bánh bột mì chiên bơ, cari, và những cao lương mỹ vị khác. Tôi ăn ngon lành, và nhận thấy rằng cái chén không bao giờ cạn thức ăn. Khi đã ăn no, tôi mới đi tìm nước uống. Sư phụ chỉ cái chén mà tôi vừa dùng xong, và thức ăn được thay thế bằng nước suối mát trong lành. Babâji nói:
- Người thế gian ít ai ngờ rằng. Cõi trời là cõi mà mọi điều ước vọng đều được thỏa mãn. Cõi ấy cũng nới rộng đến quả địa cầu này, tuy rằng thế gian chỉ là hư ảo và không có gì chân thật.
- Bạch sư phụ, đêm nay Sư đã đưa con vào một lãnh vực tuy ở cõi thế nhưng lại rất gần với Cõi trời!
Tôi mỉm cười mà nhớ đến lâu đài thần diệu, có người tu sĩ nào lại làm lễ nhập môn học Đạo ở giữa một khung cảnh cực kỳ xa hoa lộng lẫy như thế? Từ này tôi có thế chiêm ngưỡng trong yên lặng cái khung cảnh một mạc giản dị, tương phản một cách rõ rệt với tòa cung điện lúc nãy. Núi rừng, hang động, suối chảy, thông reo, tất cả đều hợp thành một nơi cư ngụ lý tưởng cho những tu sĩ đang ở chung quanh tôi.
Ngày hôm ấy, tôi đắm chìm trong những cơn thiền định, và những sở đắc tâm linh mà tôi đã thực hiện trong những tiền kiếp đã trở lại với tôi. Sư phụ bước đến gần đưa bàn tay đặt nhẹ lên đỉnh đầu tôi, và tôi liền lọt vào cơn đại định nirvikalpa samadhi, trạng thái ấy tiếp tục kéo dài suốt bảy ngày không dứt.
Trong trạng thái đó, tôi đã vượt qua các lớp chướng ngại để thực hiện Chân Ngã, tôi đã vượt qua ngưỡng cửa của cõi giới siêu linh để bước vào cõi Đạo diệu huyền. Những bức màn ảo ảnh, những tham vọng phù du giả tạm thảy đềy lần lượt tiêu tan.
Linh hồn tôi đã bước vào cõi Vô cùng và hợp nhất làm một với Chân Như Đại Ngã, tức Đại Hồn của Vũ Trụ. Bắt đầu qua ngày thứ tám, tôi quỳ dưới chân Sư phụ và cần xin ngài hãy giữ tôi lại một bên ngài mãi, giữa chốn núi rừng cô tịch. Sư phụ ôm lấy tôi một cách rất mến yêu và nói:
- Con hỡi, trong kiếp này, con phải đóng vai trò của con trên sân khấu của cuộc đời thế tục. Con đã được thánh hóa nhờ công phu tu luyện mà con đã thực hành trong bao nhiêu tiền kiếp, bây giờ con phải sống lẫn lộn với người thế gian.
Sự kiện rằng con chỉ gặp ta sau khi đã lập gia đình và có một chức vụ khiêm tốn, có hàm xúc một ý nghĩa xâu xa. Con phải từ bỏ hy vọng gia nhập với nhóm đệ tử của ta trên dãy Tuyết Sơn. Vai trò của con sẽ sống chung lộn với người đời, để nêu một tấm gương cao quý về những sở đắc tâm linh mà một người gia trưởng sống ngoài thế gian có thể đạt được nhờ thực hành pháp môn Yoga.
Thượng Đế không hề làm ngơ trước những lời cầu nguyện thiết tha của những kẻ khát khao tìm đạo và còn sống ngoài thế tục. Con đã được chọn lựa để phổ biến đạo pháp Kriyâ Yoga trong quần chúng. Những kẻ có trách nhiệm gia đình và những bổn phận hằng ngày sẽ nhận được giáo lý ấy dễ dàng hơn ở nơi con, vì con cũng ở vào một hoàn cảnh giống như họ.
Vai trò của con sẽ là nêu một tấm gương sống động để chứng minh rằng những thành quả tối cao của sự thực hành đạo pháp Yoga không phải là hạn chế đối với những người còn có trách nhiệm gia đình. Dẫu cho sống ngoài thế gian, người hành giả làm tròn các bổn phận mình một cách vị tha, vô kỷ, chắc chắn sẽ đạt tới sự giác ngộ tâm linh.
Từ này, không có gì bắt buộc con phải từ bỏ thế gian, vì con đã cắt đứt mọi sợi dây trói buộc của nghiệp quả. Tuy sống trong trần thế, nhưng con không còn hệ lụy cõi trần. Con còn phải trải qua nhiều năm dành cho những bổn phận gia đình, xã hội và tâm linh.
Niềm hy vọng thiêng liêng từ nay sẽ thức động những tâm hồn đau khổ của người đời đang sống trong thế kỷ này. Cuộc đời hoàn toàn sống theo kỷ luật tâm linh của con sẽ giúp cho họ hiểu rằng sự giải thoát là tùy nơi những sự dứt bỏ thâm sâu từ bên trong, chứ không phải từ bên ngoài.
Gia đình, sở làm, toàn cõi thế gian đối với tôi lúc ấy có vẻ xa với biết bao nhiêu trong khi tôi lắng nghe những lời dạy đó của Sư phụ tôi trong vùng Tuyết Sơn hẻo lánh hoang vu. Tuy nhiên, chân lý đã do cửa miệng của ngài thoát ra, hang động yên tịnh này. Đức Babâji bèn dạy cho tôi biết những luật lệ cổ xưa và bất biến về việc truyền pháp Yoga giữa Tôn sư và đệ tử. Sư phụ nói:
- Con chỉ nên truyền bí thuật Kriyâ Yoga cho những môn đệ xứng đáng. Người nào sẵn sàng từ bỏ và hy sinh tất cả để tìm đạo, mới thật xứng đáng được truyền thụ những bí pháp giúp cho y thâu triệt được vấn đề sinh tử bằng cách tham thiền.
- Bạch sư phụ, sư phụ đã ban cho thế gian bằng cách phụ hồi đạo pháp Kriyâ Yoga đã bị mất đi trong quên lãng, thì nay cũng xin Sư phụ hãy mở lượng từ bi mà làm dịu bớt những luật lệt khắt khe về việc chọn lọc đệ tử.
Tôi nhìn Babâji với đôi mắt khẩn cầu:
- Con xin sư phụ cho phép cho truyền pháp Kriyâ Yoga cho tất cả những kẻ tầm Đạo, dẫu rằng họ vẫn chưa sẵn sàng đạt tới sự dứt bỏ hoàn toàn từ bên trong. Người thế gian, cả nam lẫn nữ, đều đang bị dày vò trong đau khổ cả thể chất lẫn tinh thần, phải cần được nâng đỡ và khuyến khích. Họ sẽ không bao giờ tìm thấy chính đạo nếu họ bị từ chối không được truyền thụ Đạo Pháp Kriyâ Yoga.
- Ta chuẩn y lời cần xin đó. Thiên Ý được biểu lộ qua cửa miệng của con.
Bằng những lời đó, sư phụ đã đánh đổ những bức rào ngăn cách từ muôn đời vẫn che dấu đạo pháp Kriyâ Yoga trước mắt người thế gian.
- Con hãy truyền pháp Kriyâ cho tất cả những người tầm Đạo với tấm lòng khiêm tốn.
Sau một lúc im lặng, Babâji nói tiếp:
- Con hãy lập lại cho mỗi đệ tử lời hứa hẹn này trong kinh Bhagavad Gita: "Dẫu chỉ có một ít biết về pháp môn này cũng đủ giúp cho ta tránh được nhiều nỗi đau khổ rất lớn".
Sáng ngày hôm sau, khi tôi làm lễ kiếu từ Sư phụ để xin ngài ban ân huệ trước khi lên đường, ngài cảm thấy nỗi thất vọng buồn rầu của tôi phải từ giã ngài ra đi. Ngài nói,
- Sự biệt ly vốn không có giữa chúng ta, con ạ! Dầu cho con ở nơi nào, con chỉ cần gọi đến ta là ta sẽ xuất hiện ngay tức khắc.
Được an ủi bởi lời hứa hẹn huyền diệu đó, tôi lên đường trở về nhà. Về đến sợ làm sau mười mấy ngày vắng mặt, tôi được các bạn đồng nghiệp đón tiếp nồng nàn vì họ tưởng rằng tôi đã đi lạc vào núi trên dãy Tuyết Sơn. Kế đó, tôi nhận được một bức thơ của viên trưởng phòng.
Trong thơ nói rằng: "Lahiri phải trở về văn phòng Hành Chánh ở Danapur. Việc thuyên chuyển y đến Ranikhet là một sự sai lầm. Một nhân viên khác sẽ được gửi đến Ranikhet để thay thế cho y".
Sự "sai lầm" nó đã đưa tôi lên tận dãy Tuyết Sơn, làm cho tôi mỉm cười. Trước khi trở về Danapur, tôi đến tạm trú vài ngày tại nhà của một gia đình quen thuộc ở Moradabad. Tại đây, có sáu người bạn hữu đến thăm tôi. Trong khi tôi hướng câu chuyện đến những vấn đề tâm linh người chủ nhà tỏ ý buồn rầu và nói:
- Than ôi! Các vị Chân sư của Ấn Độ ngày nay đã biến mất không còn nữa!
Tôi phản đối mãnh liệt để cải chính:
- Thưa ông, các vị chân sư vẫn còn thánh hóa xứ sở chúng ta bởi gót chân của các ngài!
Trong cơn hứng khởi tôi cảm thấy cần thuật lại kinh nghiệm độc đáo của tôi vừa rồi trên dãy Tuyết Sơn. Các bạn tôi tỏ vẻ hoài nghi, nhưng chỉ lễ phép mỉm cười. Một bạn bèn kết luận:
- Lahiri, có lẽ không khí miền sơ cước đã làm cho bạn say sưa ngây ngất, và chắc là bạn đã có một cơn mơ!
Vì muốn làm sáng tỏ sự thật, tôi đáp không do dự:
- Sư phụ tôi sẽ xuất hiên tại ngay chỗ này, bằng xương bằng thịt, để đáp lại lời kêu gọi của tôi!
Lần này, tôi đã làm cho họ chú ý, thật không phải là một chuyện lạ nếu mỗi người đều mong muốn chiêm ngưỡng một vị thánh nhân hiện hình ra một cách bất ngờ như thế. Tôi yêu cầu chủ nhà sắp đặt cho tôi một gian phòng và hai tấm nệm mới. Tôi nói:
- Sư phụ tôi sẽ xuất hiện từ không gian. Các bạn hãy đứng im lặng phía sau cánh cửa, trong chốc lát tôi sẽ mời các bạn vào.
Tôi bèn ngồi tĩnh tọa nhập thiền, và kêu gọi sư phụ tôi bằng tư tưởng. Trong giây lát, một ánh sáng huyền ảo và êm dịu như ánh trăng le lói trong gian phòng, và hình dáng đức Babâji từ từ xuất hiện.
- Lahiri, tại sao con lại kêu gọi đến ta vì một mục đích nhỏ mọn, vô nghĩa?
Cặp mắt sư phụ được một vẻ nghiêm khắc.
- Chân lý chỉ đến với những kẻ thật lòng tìm đạo, chứ không phải để cho những kẻ tò mò. Thật rất dễ mà tin tưởng nơi những điều tai nghe mắt thấy, vì chừng đó sự thật đã hiển nhiên, không còn phải chối cãi gì nữa. Chỉ có người nào thắng được sự hoài nghi mới khám phá được chân lý thâm diệu và vô hình vô ảnh.
Kế đó, người nói với một giọng nghiêm nghị:
- Hãy để ta đi!
Tôi bèn quỳ xuống chân sư phụ và nài nỉ:
- Bạch sư phụ, con xin sư phụ tha lỗi cho con. Chính vì con muốn gây đức tin cho những kẻ hãy còn mù quáng về phương diện tâm linh, mà con đã kêu gọi đến sư phụ. Sư phụ đã chiếu cố mà xuất hiện trước lời cầu xin của con thì con cũng xin sư phụ hãy vui lòng ban ân huệ cho các bạn con trước khi ra về. Tuy họ thiếu đức tin, nhưng ít nhất họ cũng khát khao được biết sự thật về kinh nghiệm lạ lùng của con.
- Được ta sẽ ở lại, vì ta không muốn cho các bạn con nghi ngờ lời nói của con.
Babâji dịu giọng, nhưng còn nói thến:
- Từ rày về sau, ta sẽ không xuất hiện trước lời kêu gọi của con nữa, trừ ra khi nào sự có mặt của ta là tối cần thiết.
Khi tôi bước ra mở cửa, thì các bạn tôi đang chờ đợi trong một sự im lặng hoàn toàn. Hãy còn ngờ vực nới giác quan của họ, họ đứng sững, miệng há hốc, giương hai mắt to lên để chiêm ngưỡng dung nhan đức Babâji đang ngồi ung dung tự tại trên tấm nệm.
- "Đó là phép thôi miên tập thể", một nhân chứng vừa nói vừa cười. "Không ai có thể bước vào gian phòng này mà chúng tôi không biết!"
Babâji vừa mỉm cười vừa ra lịnh cho mỗi người hãy đến gần và sờ mó vào mình ngài để kiểm chứng sự thật. Khi họ không còn nghi ngờ gì nữa, họ bèn quỳ lạy dưới chân sư phụ tôi một cách cung kính và tỏ ra ăn năn sám hối vì đã có bụng hoài nghi.
- Hãy nấu cháo cho các vị dùng đỡ lót dạ. Babâji ra lịnh để đưa thêm một bằng chứng về sự thật của ngài. Trong khi nồi cháo đang sôi, sư phụ đàm thoại với tấm lòng ưu ái cởi mở với tất cả mọi người. Những kẻ hoài nghi lúc nãy nay đã trở thành những người sùng tín rất mực, không còn nghi ngờ gì nữa.
Khi chúng tôi đã dùng cháo xong, Babâji đưa tay ban ân huệ cho từng người. Một tia chớp xuất hiện thình lình xẹt ngang qua gian phòng: chúng tôi chứng kiến tận mắt sự giải thể mau như chớp nhoáng của sư phụ: những nguyên tử, tế bào hợp thành thể xác của ngài bỗng nhiên tan rã mau lẹ trong chớp mắt, và phát ra một vầng hào quang mỗi lúc càng mờ dần.
Quyền năng của Babâji vốn hòa hợp với Thựơng đế, đã giải tỏa bằng hà sa số những phân tử dĩ thái đã được kết cấu lại thành hình thể xác của ngài, những nguồn tinh lực được giải tỏa bèn trở về hòa lẫn với cái kho tinh lực vô biên của vũ trụ.
- Tôi đã thấy tận mắt người chiến thắng Tử thần!
Một nhân chứng trong nhóm bạn tôi, tên là Maitra đã nói như trên. Gương mặt y đổi sắc y chứng kiến điều nhiệm màu của sư phụ. Y nói tiếp:
- Tôn sư bất chấp mọi giới hạn của thời gian và khong gian và hành động mọi sự một cách dễ dành như trò trẻ. Tôi vừa chứng kiến một bậc siêu nhân nắm giữ chìa khóa mở các cõi huyền vi của trời đất.
Sau đó tôi trở về Danapur và tiếp tục công việc ở sở làm cùng làm tròn bổn phận người gia trưởng.
Lahiri Mahâsaya cũng thuật cho tu sĩ Kebalâ và Sru Yukteswar nghe chuyện một cuộc gặp gỡ khác với Babâji trong trường hợp hứa hẹp của sư phụ: "Ta sẽ xuất hiện khi nào cần thiết". Lahiri Mahâsaya kể chuyện như sau:
- Việc ấy xảy ra trong một cuộc thánh lễ Kumbha Mela ở Allahabad, thành phố tại đó tôi trải qua những tháng nghĩ hè. Trong khi tôi trà trộn trong đám đông những tu sĩ và khất sĩ từ khắp nởi ở Ấn Đô đến đây để dự lễ, tôi nhìn thấy một tu sĩ khổ hạnh mình đầy bụi bặm cầm một cái bình bát khất thực. Tôi có ý nghĩ rằng người này chỉ là một kẻ bịp bợm, giả vờ khoác lấy cái bề ngoài của kẻ tu hành chứ không phải là một người chân tu.
Khi tôi vừa đi qua khỏi người ấy thì tôi ngạc nhiên mà thấy Babâji đang quỳ gối trước mặt một tu sĩ khác râu tóc xồm xoàm. Tôi bèn chạy tới trước và kêu lên: - Bạch sư phụ, sư phụ làm gì vậy?
- Ta rửa chân cho người tu sĩ này, và sau đó ta sẽ lau chùi cái bình bát khất thực của y.
Babâji cười với tôi một cách hồn nhiên như một đứa trẻ nhỏ. Tôi hiểu rằng ngài muốn dạy tôi không nên chỉ trích kẻ khác, mà phải nhìn thấy hình ảnh của Thượng Đế ở bên trong mỗi người, bất luận lớn nhỏ, sang hèn. Sư phụ nói thêm:
- Khi ta phục vụ những tu sĩ khất thực, bất luận đó là những tu sĩ thánh thiện hay ngu dốt, ta học thực hành cái đức tính cao cả mà Thượng đế quý hơn tất cả mọi đức tính khác, đó là: đức khiêm tốn.
#29
Gửi vào 07/06/2011 - 03:50
Gương Thánh Thiện
Chương Tám
Sợi dây liên lạc trường cửu giữ Tôn Sư và đệ tử đã nối liền Babâji với Lahiri Mahâsaya. Với một sự chăm sóc đầy trìu mến, vị tôn sư bất tử đã không quản âm dương cách biệt mà theo dõi người đệ tử trong cõi vô hình bên kia cửa Tử, và tiếp tục dìu dắt y trong vòng bí mật lúc y mới tái sinh trở lại cho đến khi trưởng thành.
Khi người đệ tử được ba mươi ba tuổi, Babâji mới thấy rằng thời giờ đã điểm để công khai nối lại sự liên lạc trong quá khứ. Sau cuộc tiếp xúc ngắn ngủi tại Ranikhet, tôn sư mới cho đệ tử mến yêu hạ sơn và lãnh một sứ mạng cứu độ trần gian.
"Con hỡi, ta sẽ có mặt một bên con khi nào con cần đến ta". Thử hỏi, có thứ tình nào của thế gian có thể bảo đảm một lời hứa hẹn long trọng như thế? Trong sự âm thầm mà thế gian không hề biết đến, một sự phục sinh tâm linh vĩ đại đang được chuẩn bị nơi một địa điểm hẻo lánh ở ngoại ô thành Bénerès.
Cũng như một cái hoa có hương thơm không thể bị mai một trong quên lãng, Lahiri Mahâsaya mặc dầu sống cuộc đời người gia trưởng, vẫn không thể dấu sự cao cả tâm linh của mình trước mắt người đời. Không bao lâu, những kẻ tầm sư học đạo từ bốn phương đã tìm đến để được thấm nhuần ân huệ thiêng liêng mà người ban rải cho họ.
Tại sở làm, viên trưởng phòng người Anh là người đầu tiên đã nhận thấy sự thay đổi lạ kỳ nơi Lahiri, mà ông ta gọi là "Tiên sinh trầm lặng". Một hôm, Lahiri Mahâsaya hỏi thăm ông trưởng phòng của mình:
- Thưa ông, hôm nay tôi thấy hình như ông không được vui. Xin ông cho biết lý do tại sao?
- Tôi đang lo buồn vì vợ tôi ở bên Anh quốc đang đau nặng.
- Để tôi thử dọ tin tức của bà giùm cho ông.
Lahiri Mahâsaya liền rời khỏi văn phòng, tìm nơi hẻo lánh và ngồi tham thiền trong một lúc. Một chập sau, người trở lại trạng thái bình thường và nói với nụ cười an ủi:
"Bà đã khá nhiều, trong lúc này bà đang ngồi viết thơ cho ông.
Kế đó, Lahiri kể sơ vài đoạn trong bức thơ bà ấy đang viết. Ông trưởng phòng sáng mắt lên:
- À, "tiên sinh trầm lặng", tôi biết ông không phải là một người thường. Tuy vậy, tôi vẫn không tin rằng ông có thể chế ngự được không gian và thời gian tùy ý muốn!
Bức thơ Anh quốc đã đến. Ông trưởng phòng rất đổi ngạc nhiên mà được biết rằng không những bà vợ ông đã khỏi bệnh, mà còn viết trong thơ chính những câu mà Lahiri Mahâsaya đã đọc cho ông nghe từ mấy tuần lễ trước!
Sau đó vài tháng, bà trưởng phòng đáp tàu sang Ấn Độ. Bà đến viếng sở Hỏa Xa nơi văn phòng của Lahiri Mahâsaya đang làm việc. Vừa thấy Tôn sư, ba ta bước đến chào một cách rất cung kính:
- Thưa ông, chính ông đã xuất hiện với một vầng hào quang sáng rỡ bên giường của tôi ở Luân Đôn. Sau khi đó, tôi đã hoàn toàn khỏi bịnh! Nhờ đó mà tôi có đủ sức chịu đựng cuộc hành trình lâu dài bằng đường biển để sang Ấn Độ.
Ngày nào cũng có một hai người mộ đạo đến khẩn cầu Tôn sư cho họ làm lễ nhập môn theo đạo pháp Kriyâ Yoga. Ngoài những bổn phận tâm linh và công việc ở sở làm, tôn sư còn chú trọng đến vấn đề giáo dục.
Người thành lập nhiều nhóm học sinh và đóng một vai trò hoạt động trong việc truyền bá nền giáo dục ban trung học trong khu vực người Bengali ở Bénarès. Những buổi thuyết pháp thường xuyên của tôn sư về các thánh kinh Ấn Độ đã hấp dẫn một số đông thính giả mộ đạo.
Ý thức được sự hợp nhất của mình với Thượng đế, Tôn sư quý trọng tất cả mọi người, bất luận lớn nhỏ, cao thấp. Khi một đệ tử kính cẩn chào ngài, ngài luôn luôn đáp lễ. Với một sự thành thật khiêm tốn, ngài thường nắm chân những khách đến viếng và ít khi để cho họ đáp lễ một cách tương tự, tuy rằng sự kính trọng một vị tôn sư là một phong tục rất cổ ở phương Đông.
Ngài thường nói với các đệ tử:
- Con hãy luôn luôn nhớ rằng con không là sở hữu của một người nào, và cũng không ai là sở hữu của con. Con hãy nghĩ rằng có ngày con sẽ phải từ bỏ hết tất cả ở thế gian này, vậy các con nên hành đạo ngay từ bây giờ. Con hãy chuẩn bị đời sống ngay từ bây giờ bằng cách nâng tâm hồn lên tận Thượng đế do sự tham thiền.
Cái thể xác bằng xương thịt này là nguồn gốc của mọi sự phiền não. Hãy cố gắng tham thiền để sớm nhận thức cái Tinh hoa bất diệt của chân ngã tiềm tàng ở nơi con, chính cái đó mới là thoát khải mọi điều đau khổ, nghiệp chướng. Vậy con đừng làm nô lệ của xác thân: pháp môn Kriyâ là cái chìa khóa bí mật sẽ mở cửa cho con lọt vào cõi giới Tinh thần.
Một ngày nọ, sư phụ đang giảng lý kinh Bhagavad Gita cho một nhóm đệ tử ngồi vây chung quanh, họ có dịp nhận thấy một bằng chứng trực tiếp về sự toàn thông của người. Khi sư phụ đang giải thích đoạn kinh nói về Tâm thức Bồ Đề giữa cảnh giời trần duyên vọng động, thình lình người thốt lên một tiếng kêu:
- Có một đám đông linh hồn đang bị chết đuối ở ngoài khơi biển Nhật Bổn!
Sáng ngày hôm sau, các đệ tử xem báo thấy có bài tường thuật một vụ đắm tàu làm cho một số đông người bị chết chìm ngoài khơi quần đảo Nhật.
Những đệ tử ở cách xa Lahiri Mahâsaya thường cảm thấy có ý thức về sự hiện diện vô hình của sư phụ. Người thường nói để an ủi những đệ tử vì ở xa không thể sống gần bên thầy:
- Ta luôn luôn ở bên cạnh những người thực hành pháp môn Kriyâ Yoga. Ta sẽ dắt dẫn họ đến mục đích nhờ công phu tu luyện để nới rộng tâm thức của họ.
Tu sĩ Sâtyânanda thuật chuyện một đệ tử ở xa không thể đến tận Bénarès, tuy vậy cũng được truyền pháp Kriyâ Yoga trong giấc mộng. Lahiri Mahâsaya đã xuất hiện đến với người đệ tử trên, đáp lại lời thỉnh cầu của y.
Lahiri Mahâsaya đã phân chia đạo pháp Kriyâ Yoga làm bốn cấp đẳng, từ đệ nhất đến tứ pháp môn. Ba cấp đẳng trên chỉ được truyền thụ cho những đệ tử đã thực hiện được những tiến bộ tâm linh khả quan và rõ rệt. Có lần một vị đệ tử sơ cơ, cho rằng mình đã tiến bộ nhưng không được thừa nhận đúng mức, bèn tỏ sự bất mãn và nói:
- Bạch sư phụ, con hẳn là đã sẵn sàng được truyền thụ đệ nhị pháp môn!
Ngau khi đó, cánh cửa mở hoát: Người bước vào là một đệ tử sơ cơ rất khiêm tốn, tên là Brinda Bhagat, làm thư tín viên sở bưu điện Bénarès.
Sư phụ nở một nụ cười thương mến và nói:
- Brinda, con hãy ngồi an tọa, và nói cho ta biết con đã sẵn sàng muốn được truyền thụ đệ nhị pháp môn hay chưa?
Người đệ tử kinh hoảng, chắp tay vái lia lịa và nói:
- Bạch sư phụ, xin sư phụ đừng cho con thụ pháp nữa. Con đã xứng đáng được thụ pháp ở cấp cao hơn chăng? Hôm nay con đến đây xin sư phụ ban ân huệ vì đệ nhất pháp môn Kriyâ cũng đã làm cho con quá say sưa ngây ngất đến nỗi con không thể phát thơ tín bưu điện được nữa!
- Brinda đã nhẹ bước phiêu diêu trên cỡi giới Tinh thần rồi đó!
Nghe sư phụ nói đến đó, người đệ tử kia lẳng lặng cúi đầu không nói gì. Kế đó y nói:
- Bạch sư phụ, con thấy rằng con chỉ là một người thợ dốt mà lại đi chê đồ khí cụ của mình là dở.
Người thư tín viên, hoàn toàn thất học, đã phát triển những khả năng siêu linh của mình bằng pháp môn Kriyâ đến nỗi những nhà bác học phải nhờ đến y để diễn đạt những đoạn khó khăn trong Kinh thánh. Xuất thân là một người dốt, Brinda lại nổi tiếng là thông minh xuất chúng trong giời các nhà học giả uyên bác.
Ngoài ra những đệ tử rất đông ở vùng Bénarès, còn có một số đệ tử khác đến vài trăm người từ bốn phương ở Ấn Độ tìm đến học Đạo dưới chân sư phụ.
Trong số những tu sĩ được nhập môn thụ pháp Kriyâ Yoga, có vài vị về say này trở nên những bậc thánh nhân đắc đạo. Trong một thời gian, Lahira Mahâsaya đã làm đạo sư cho hoàng tử Đông cung của vị Quốc vương ở Bénarès.
Biết rõ sự cao cả tâm linh của tôn sư, Quốc vương và hoàng tử đều xin thụ pháp Kriyâ Yoga, cùng với vị quốc vương Jotindra Mohan Thakur.
Một số đệ tử có địa vị khả quan và thế lực ở ngoài đời muốn truyền bá đạo pháp Kriyâ Yoga bằng phương tiện quảng cáo. Tôn sư bèn triệt để ngăn cấm việc ấy. Một đệ tử khác có thế lực muốn cho tôn sư được suy tôn trong quảng đại quần chúng như là vị thánh sống của Bénarès, nhưng tôn sư cũng từ chối không chịu. Người nói:
- Đạo pháp Kriyâ ví như một cái hoa, mùi thơ của nó phải được truyền đi một cách tự nhiên, không giả tạo. Những hột giống của nó sẽ nẩy mầm trong mảnh đất phì nhiêu của những tâm hồn đã có sự thức tỉnh tâm linh.
Tôn sư không muốn dùng những phương tiện quảng cáo hiện đại như báo chí hay hội hè, vì người biết rằng thông điệp mạnh mẽ của đạo pháp Kriyâ Yoga sẽ tự nó truyền đi trong thế gian như một làn sóng vô hình để tinh luyện những linh hồn mộ đạo. Những đệ tử gương mẫu phải tự họ chứng minh cho nguồn sinh khí bất tử của pháp môn Kriyâ Yoga.
Lahiri Mahâsaya về hưu năm 1886, từ hai mươi lăm năm sau khi nhập môn tại Ranikhet và sau ba mươi lăm năm làm việc như một công chức. Từ ngày quy điền, người có nhiều thời giờ rảnh rang, nên càng ngày càng có nhiều đệ tử hơn.
Ngồi tĩnh tọa trên thế liên hoa, tôn sư giữ im lặng hầu như suốt ngày. Người ít khi rời khỏi tịnh thất, dầu cho để dạo một vòng trong vườn nhà. Những đệ tử luôn luôn đến viếng tịnh xá để chiêm ngưỡng tôn sư.
Những quan khách đến viếng tịnh thất đều kinh ngạc mà thấy Tôn sư biểu lộ những dấu hiệu đáng lo ngại: người không thở, không ngủ, các mạch máu và quả tim đều ngừng đập. Đôi mắt người đứng tròng trong nhiều giờ, toàn thân bất động của người đều bao trùm một niềm an tịnh thiêng liêng.
Không một người đệ tử nào đến chiêm ngưỡng tôn sư mà không cảm thấy tâm hồn họ được yên tĩnh, thanh cao khi họ ra về: mỗi người đều nhìn nhận rằng bằng cách đó họ thọ lãnh luồng ân huệ bí mật của tôn sư, một vị sứ giả của Trời.
Lahiri Mahâsaya có thể được người đời suy tôn dưới cái danh hiệu Yogâvatar, có nghĩa là hiện thân của Yoga. Có lòng từ ái đối với tất cả, Tôn sư đã nâng cao trình độ tâm linh của xã hội loài người. Quyền năng của tôn sư biến đổi vài vị đệ tử cao cấp trở thành các bậc thánh, và sự truyền bá đạo pháp Yoga trong quảng đại quần chúng, đã đặt Lahiri Mahâsaya vào hàng các bậc cứu độ thế gian.
Với tư cách một vị giáo chủ, tôn sư đã mở rộng cửa đạo giải thoát cho tất cả mọi người bằng một phường pháp nhất định, đó là pháp môn Kriyâ Yoga.
Trong cuộc đời của tôn sư, người đã làm nhiều điều mầu nhiệm, nhưng điều lớn nhất là đã giản dị hóa đạo pháp Yoga, để cho mọi người thành tâm thiện chí học Đạo có thể lãnh hội được một cách dễ dàng.
Lahiri Mahâsaya thường nói về các điều mầu nhiệm như sau:
- Sự tác động của những định luật huyền bí, thường không được người đời biết rõ, không nên đem ra làm một đầu thảo luận ở chốn công cộng hoặc ấn hành một cách bừa bãi.
Nếu trong những trang sách này, tôi có vẻ vi phạm những lời trên đây, thì đó là bởi vì một sự chắc chắn từ bên trong do sư phụ truyền sang cho tôi, đã cho phép tôi bàn đến những chuyện ấy. Tuy nhiên, khi tôi kể lại cuộc đời của Babâji, Lahiri Mahâsaya và Sri Yukteswar, tôi thấy cần phải bỏ qua không nói đến một vài chuyện nhiệm mầu mà muốn giải thích rõ, có lẽ phải cần đến nhiều pho sách dày.
Bằng pháp môn Kriyâ Yoga, những người nào không thể cố gắng nhìn thấy hình ảnh của Thượng đế nơi kẻ khác, ít nhất sẽ khám phá ra ngài trong tận chốn thâm sâu bí ẩn nhất của lòng mình.
- Bạch sư phụ, sư phụ có bao giờ gặp đức Bâbâji chưa?
Một buổi chiều mùa hè yên tĩnh, tôi ngồi gần bên Sri Yukteswar trên bao lơn đạo viện, dưới ánh sao vằng vặc của vùng nhiệt đới chói rạng trên đỉnh đầu chúng tôi.
- Có.
Sư phụ mỉm cười trả lời câu hỏi của tôi với một niềm tôn kính khôn tả hiện ra trong cặp mắt:
- Thầy đã có hân hạnh được chiêm ngưỡng tôn sư ba lần. Lần thứ nhất là trong dịp thánh lễ Kumbha Mela ở Alahabad. Thánh lễ Kumbha Mela là cuộc lễ tôn giáo long trọng được cử hành tại Ấn Độ từ nghìn xưa, và vẫn còn giữ được tính cách thu hút đối với quần chúng cho đến ngay nay.
Hằng triệu tín đồ Ấn giáo đều quy tựu đông đảo trong dịp đó để chiêm ngưỡng hàng nghìn những tu sĩ, đạo sĩ, khất sĩ ta bà, và các nhà tu khổ hạnh từ bốn phương đến đây, trong số đó có vài người chỉ rời khỏi am thất hay hang động vào dịp Thánh Lễ này để ban ân huệ cho các tín đồ và bá tánh thập phương. Sri Yukteswar nói tiếp:
- Vào lúc Thầy gặp đại đức Babâji, Thầy chưa phải là tu sĩ xuất gia, nhưng Thầy đã nhập môn với đức Lahiri Mahâsaya để được thụ pháp Kriyâ Yoga. Sư phụ khuyên Thầy nên đến dự Thánh Lễ Kumbha Mela ở Allahabad vào tháng giêng năm 1894, và đó là lần đầu tiên mà Thầy dự cuộc lễ.
Thầy chỉ nghe tiếng động ồn ào của đám quần chúng, nhưng Thầy không gặp một bậc danh sư nào đáng kể. Thầy đi ngang qua cầu Bắc trên sông Hằng, và nhìn thấy một gương mặt quen đang ngồi bên cầu với chiếc bình bát khuất thực.
Thầy thầm nghĩ trong cơn thất vọng "Cuộc Thánh Lễ này chỉ là một nơi ồn ào tiếng động và một ổ ăn mày" Thầy tự hỏi những nhà bác học Tây phương kiên nhẫn tìm tòi khảo cứu và nới rộng tầm kiến thức vì sự ích lợi vật chất của nhân loại, há lại chẳng được đẹp lòng Thượng Đế hơn là những kẻ biếng nhác ăn hại này, bề ngoài làm ra vẻ đạo đức, nhưng chỉ sống nhờ của bố thí?
Khi đó một vị tu sĩ xuất gia tác người cao lớn bước đến gần và nói với Thầy:
- Có một vị tu sĩ muốn mời ông.
- Ai vậy?
- Ông hãy đến gặp, rồi ông sẽ biết.
Thầy còn do dự, rồi cất bước đi đến một gốc cây lớn đang che bóng mát cho một vị tôn sư và các đệ tử ngồi vây chung. Vị tôn sư ấy, có một vẻ tiên phong đạo cốt khác thường, bèn đứng dậy khi Thầy vừa đến gần, rồi đưa tôi ôm lấy Thầy và nói một cách trìu mến:
- Chào đại đức Swami!
Thầy đáp:
- Bạch ngài, tôi chưa phải là tu sĩ xuất gia.
- Người nào mà do bởi nguồn cảm hứng thiêng liêng, khiến ta đã phán cho cái danh hiệu ấy, sẽ không thể từ chối được nữa!
Vị tôn sư thốt ra những lời ấy một cách rất giản dị, nhưng một giọng quả quyết cứng rắn rung động trong những lời nói của ngài, đột nhiên tôi cảm thấy tràn ngập một niềm say sưa mùi Đạo làm cho tôi ngây ngất. Mỉm cười vì đột nhiên tôi lại được đưa lên hàng tu sĩ xuất gia của dòng tu Swami, tôi nghiêng mình cúi đầu làm lễ trước vị tôn sư đã ban cho tôi cái danh dự ấy.
Đức Babâji (vì đó chính là ngài mà lúc ấy Thầy còn chưa biết) chỉ chỗ Thầy ngồi một bên. Tác cao lớn, gương mặt trẻ trung, ngài giống Đức Lahiri Mahâsaya một cách lạ thường, như Thầy đã từng nghe nói nhưng bây giờ mới nhìn thấy tận mặt. Hiển nhiên là Tôn sư muốn rằng Thầy được hoàn toàn tự nhiên trước mặt ngài. Ngài hỏi:
- Con nghĩ sao về Thánh Lễ Kumbha Mela?
- Bạch Tôn sư, con hoàn toàn thất vọng cho đến khi con được gặp tôn sư. Sự Thánh linh và tất cả những sự ngu xuẩn động ồn ào đó thật không đi đôi với nhau chút nào!
Tôn sư nói:
- Con hỡi, con không nên xét đoán sự vô minh lầm lạc của người khác. Trên thế gian tất cả đều lẫn lộn cả tốt lẫn xấu, cũng như cát trộn với đường. Con hãy làm như bậc hiền giả chỉ lọc lấy chất đường mà loại bỏ chất cát. Tuy rằng một số tu sĩ hãy còn đắm chìm trong ảo vọng, vô minh, nhưng cuộc lễ cũng được thánh hóa bởi sự hiện diện của những người đã đạt tới sự giác ngộ thiêng liêng.
Thầy liền nhìn nhận Tôn sư nói đúng, vì chính Thầy đã được gặp ngài tại cuộc Thánh lễ này.
- Bạch Tôn sư, con đang nghĩ đến những nhà bác học Tây phương là những người có trí óc thông minh hơn nhiều đối với phần đông những tu sĩ dự cuộc Thánh Lễ. Họ sống bên các nước Âu Mỹ, có những tín ngưỡng khác và không biết có gì là cao cả trong những cuộc Thánh lễ vĩ đại như cuộc lễ này.
Gặp được các vị chân sư Ấn Độ sẽ là một điều lợi ích rất lớn đối với họ. Tuy rằng họ có một khối óc rất thông minh, nhưng phần đông người Tây phương đều thiên về chủ nghĩa duy vật.
Những người khác tuy lỗi lạc về các ngành khoa học hay triết học, lại không nhìn nhận tính cách đồng nhất căn bản của tất cả mọi tôn giáo, Sự mù quáng của họ là một bức rào chướng ngại nó hăm dọa một sự chia rẽ đời đời kiếp kiếp giữa Đông phương và Tây phương.
Tôn sư nói với một giọng chấp thuận:
- Ta thấy rằng con chú trọng đến Tây phương cũng như Đông phương. Ta cảm thấy lòng con bao quát cả hai chủng tộc lớn trên thế giới, vì vậy nên ta đã cho mời con đến đây.
Tôn sư nói tiếp:
Đông phương và Tây phương sẽ phải đi đến sự hợp nhất về mọi ngành sinh hoạt vật chất và tâm linh. Xứ Ấn Độ có nhiều điều cần phải học của phương Tây về phương diện tiến bộ kỹ thuật và văn minh vật chất. Trái lại, Ấn Độ sẽ dạy cho các nước phương Tây về các pháp môn Yoga là những phương pháp tiến bộ tâm linh bao quát đại đồng cho toàn thể nhân loại, và nguồn gốc của mọi tôn giáo.
- Hỡi đại đức Swamiji, con sẽ phải đóng vai trò của con trong việc thiết lập những mối liên lạc điều hòa giữa Đông phương và Tây phương. Trong vài năm nữa, ta sẽ gởi đến cho con một người đệ tử để con huấn luyện nhằm mục đích truyền bá pháp môn Yoga sang Tây phương.
Những linh hồn khát khao chân lý đang đòi hỏi một sự giác ngộ tâm linh. Ta nhận thấy có nhiều vị thánh tương lai ở Âu Mỹ đang đợi chờ sự giác ngộ đó.
Kể đến đoạn này của câu chuyện, Sri Yukteswar nhìn tôi với một cách nhìn thâm sâu, và nói với một nụ cười dưới ánh trăng:
- Con hỡi, chính con là người đệ tử mà đức Babâji đã hứa gửi đến cho thầy từ nhiều năm về trước.
Tôi lấy làm sung sướng mà được biết rằng đức Babâji đã dìu dắt những bước chân của tôi đến gặp Sri Yukteswar. Tuy vậy, tôi cũng cảm thấy buồn mà phải đi sang Tây phương, từ biệt sư phụ mến yêu và chốn đạo viện êm dềm.
Sri Yukteswar nói tiếp:
- Kế đó, tôn sư nhắn với thầy một thông điệp để chuyển giao cho Lahiri Mahâsaya. Thầy kính cẩn cúi đầu từ giã tôn sư. Ngài hứa sẽ gặp lại ầy sau nầy. Sáng ngày hôm sau, thầy rời Allahabad đáp xe lửa đi Bénarès.
Đến nơi tịnh thất của Lahiri Mahâsaya, Thầy mới kể lại cho sư phụ nghe câu chuyển gặp gỡ một vị Tôn sư trong cuộc Thánh lễ Kumbaha Mela. Sư phụ cười nói: "Chắc là con không nhìn ra ngài! Đó là sư phụ của ta, đức Babâyji thiêng liêng!"
Thầy bất giác kêu lên với một lòng sùng kính vô biên:
- Đức Babâji! Đấng đại giáo chủ Babaji! Vị cứu thế vừa hữu tình vừa vô hình! Tiếc thay, nếu con có thể được gặp ngài lần nữa để quỳ lạy dưới chân thiêng liêng của ngài!
Sư phụ nói để an ủi Thầy:
- Không sao, ngài đã hứa sẽ gặp lại con sau này.
- Bạch sư phụ, tôn sư có dặn con nhắn lại với sư phụ những lời này: "Hãy nói với Lahiri rằng nguồn sinh khí dự trữ trong kiếp này đã cạn khô và trống rỗng!"
Vừa nghe câu nói bí hiểm đó, Lahiri Mahâsaya run lên như bị điện giật, và kế đó liền đắm chìm trong một cơn im lặng thâm trầm. Người ngồi yên như pho tượng gỗ, nét mặt sa sầm, và dường như mất hết sinh khí.
Tôi lấy làm ngạc nhiên và lo ngại. Tôi không hề thấy người nào bình nhật vui vẻ như Tôn sư mà lại có sự thay đổi tâm trạng đột ngột như vậy. Những vị đệ tử có mặt đều nhìn Tôn sư với một vẻ lo ngại.
Ba giờ đồng hồ trôi qua trong một cơn im lặng hoàn toàn. Kế đó tôn sư trở lại trạng thái vui vẻ bình thường và nói chuyện một cách thân tình với mỗi vị đệ tử, làm cho họ thốt ra những tiếng thở dài nhẹ nhõm.
Nhìn thấy những phản ứng đó của Sư phụ, Thầy hiểu rằng thông điệp của đức Babâji đã cho sư phụ biết rằng không bao lâu người sẽ phải rời bỏ xác phàm. Cơn im rằng đáng sợ vừa rồi có nghĩa là sư phụ đã tự đặt mình dưới sự kiểm soát của ý chí, và cắt đứt mọi sợi dây liên lạc lên cõi Tinh Thần. Những lời nói của Babâji cũng có nghĩa là: "Ta sẽ luôn luôn có mặt bên cạnh con".
Tuy rằng Babâji và Lahiri cả hai vị đều đắc pháp thần thông và có thể giao cảm với nhau bằng tư tưởng mà không cần đến người trung gian, hai vị đôi khi cũng xử sự theo lối thương tình.
Có những trường hợp mà hai vị Tôn sư chuyển đạt những lời tiên tri bằng lối thông thường, qua một người truyền tin để cho sự thực hiện lời tiên tri đó được lan truyền và giúp thêm một đức tin mới cho những người được nghe câu chuyện ấy về sau này.
- Đó là một trong những lần viếng thăm cuối cùng của thầy tại nhà sư phụ. Sri Yukteswar kết luận.
Như Babâji đã tiên đoán, cuộc đời Lahiri Mahâsaya trong vai trò gia trưởng ở kiếp này đã gần chấm dứt. Mùa đông năm 1895, sư phụ bị một cái ung nhọt ở phía sau lưng. Người từ chối không chịu giải phẩu, và như vậy người đảm nhận việc trả quả báo xấu của các đệ tử trên xác thân mình. Ít lâu sau đó, sư phụ trút linh hồn tại Bénarès. Suốt cuộc đời Thầy đều được nguồn cảm hứng tâm linh của đức sư phụ toàn năng...
Chương Tám
Sợi dây liên lạc trường cửu giữ Tôn Sư và đệ tử đã nối liền Babâji với Lahiri Mahâsaya. Với một sự chăm sóc đầy trìu mến, vị tôn sư bất tử đã không quản âm dương cách biệt mà theo dõi người đệ tử trong cõi vô hình bên kia cửa Tử, và tiếp tục dìu dắt y trong vòng bí mật lúc y mới tái sinh trở lại cho đến khi trưởng thành.
Khi người đệ tử được ba mươi ba tuổi, Babâji mới thấy rằng thời giờ đã điểm để công khai nối lại sự liên lạc trong quá khứ. Sau cuộc tiếp xúc ngắn ngủi tại Ranikhet, tôn sư mới cho đệ tử mến yêu hạ sơn và lãnh một sứ mạng cứu độ trần gian.
"Con hỡi, ta sẽ có mặt một bên con khi nào con cần đến ta". Thử hỏi, có thứ tình nào của thế gian có thể bảo đảm một lời hứa hẹn long trọng như thế? Trong sự âm thầm mà thế gian không hề biết đến, một sự phục sinh tâm linh vĩ đại đang được chuẩn bị nơi một địa điểm hẻo lánh ở ngoại ô thành Bénerès.
Cũng như một cái hoa có hương thơm không thể bị mai một trong quên lãng, Lahiri Mahâsaya mặc dầu sống cuộc đời người gia trưởng, vẫn không thể dấu sự cao cả tâm linh của mình trước mắt người đời. Không bao lâu, những kẻ tầm sư học đạo từ bốn phương đã tìm đến để được thấm nhuần ân huệ thiêng liêng mà người ban rải cho họ.
Tại sở làm, viên trưởng phòng người Anh là người đầu tiên đã nhận thấy sự thay đổi lạ kỳ nơi Lahiri, mà ông ta gọi là "Tiên sinh trầm lặng". Một hôm, Lahiri Mahâsaya hỏi thăm ông trưởng phòng của mình:
- Thưa ông, hôm nay tôi thấy hình như ông không được vui. Xin ông cho biết lý do tại sao?
- Tôi đang lo buồn vì vợ tôi ở bên Anh quốc đang đau nặng.
- Để tôi thử dọ tin tức của bà giùm cho ông.
Lahiri Mahâsaya liền rời khỏi văn phòng, tìm nơi hẻo lánh và ngồi tham thiền trong một lúc. Một chập sau, người trở lại trạng thái bình thường và nói với nụ cười an ủi:
"Bà đã khá nhiều, trong lúc này bà đang ngồi viết thơ cho ông.
Kế đó, Lahiri kể sơ vài đoạn trong bức thơ bà ấy đang viết. Ông trưởng phòng sáng mắt lên:
- À, "tiên sinh trầm lặng", tôi biết ông không phải là một người thường. Tuy vậy, tôi vẫn không tin rằng ông có thể chế ngự được không gian và thời gian tùy ý muốn!
Bức thơ Anh quốc đã đến. Ông trưởng phòng rất đổi ngạc nhiên mà được biết rằng không những bà vợ ông đã khỏi bệnh, mà còn viết trong thơ chính những câu mà Lahiri Mahâsaya đã đọc cho ông nghe từ mấy tuần lễ trước!
Sau đó vài tháng, bà trưởng phòng đáp tàu sang Ấn Độ. Bà đến viếng sở Hỏa Xa nơi văn phòng của Lahiri Mahâsaya đang làm việc. Vừa thấy Tôn sư, ba ta bước đến chào một cách rất cung kính:
- Thưa ông, chính ông đã xuất hiện với một vầng hào quang sáng rỡ bên giường của tôi ở Luân Đôn. Sau khi đó, tôi đã hoàn toàn khỏi bịnh! Nhờ đó mà tôi có đủ sức chịu đựng cuộc hành trình lâu dài bằng đường biển để sang Ấn Độ.
Ngày nào cũng có một hai người mộ đạo đến khẩn cầu Tôn sư cho họ làm lễ nhập môn theo đạo pháp Kriyâ Yoga. Ngoài những bổn phận tâm linh và công việc ở sở làm, tôn sư còn chú trọng đến vấn đề giáo dục.
Người thành lập nhiều nhóm học sinh và đóng một vai trò hoạt động trong việc truyền bá nền giáo dục ban trung học trong khu vực người Bengali ở Bénarès. Những buổi thuyết pháp thường xuyên của tôn sư về các thánh kinh Ấn Độ đã hấp dẫn một số đông thính giả mộ đạo.
Ý thức được sự hợp nhất của mình với Thượng đế, Tôn sư quý trọng tất cả mọi người, bất luận lớn nhỏ, cao thấp. Khi một đệ tử kính cẩn chào ngài, ngài luôn luôn đáp lễ. Với một sự thành thật khiêm tốn, ngài thường nắm chân những khách đến viếng và ít khi để cho họ đáp lễ một cách tương tự, tuy rằng sự kính trọng một vị tôn sư là một phong tục rất cổ ở phương Đông.
Ngài thường nói với các đệ tử:
- Con hãy luôn luôn nhớ rằng con không là sở hữu của một người nào, và cũng không ai là sở hữu của con. Con hãy nghĩ rằng có ngày con sẽ phải từ bỏ hết tất cả ở thế gian này, vậy các con nên hành đạo ngay từ bây giờ. Con hãy chuẩn bị đời sống ngay từ bây giờ bằng cách nâng tâm hồn lên tận Thượng đế do sự tham thiền.
Cái thể xác bằng xương thịt này là nguồn gốc của mọi sự phiền não. Hãy cố gắng tham thiền để sớm nhận thức cái Tinh hoa bất diệt của chân ngã tiềm tàng ở nơi con, chính cái đó mới là thoát khải mọi điều đau khổ, nghiệp chướng. Vậy con đừng làm nô lệ của xác thân: pháp môn Kriyâ là cái chìa khóa bí mật sẽ mở cửa cho con lọt vào cõi giới Tinh thần.
Một ngày nọ, sư phụ đang giảng lý kinh Bhagavad Gita cho một nhóm đệ tử ngồi vây chung quanh, họ có dịp nhận thấy một bằng chứng trực tiếp về sự toàn thông của người. Khi sư phụ đang giải thích đoạn kinh nói về Tâm thức Bồ Đề giữa cảnh giời trần duyên vọng động, thình lình người thốt lên một tiếng kêu:
- Có một đám đông linh hồn đang bị chết đuối ở ngoài khơi biển Nhật Bổn!
Sáng ngày hôm sau, các đệ tử xem báo thấy có bài tường thuật một vụ đắm tàu làm cho một số đông người bị chết chìm ngoài khơi quần đảo Nhật.
Những đệ tử ở cách xa Lahiri Mahâsaya thường cảm thấy có ý thức về sự hiện diện vô hình của sư phụ. Người thường nói để an ủi những đệ tử vì ở xa không thể sống gần bên thầy:
- Ta luôn luôn ở bên cạnh những người thực hành pháp môn Kriyâ Yoga. Ta sẽ dắt dẫn họ đến mục đích nhờ công phu tu luyện để nới rộng tâm thức của họ.
Tu sĩ Sâtyânanda thuật chuyện một đệ tử ở xa không thể đến tận Bénarès, tuy vậy cũng được truyền pháp Kriyâ Yoga trong giấc mộng. Lahiri Mahâsaya đã xuất hiện đến với người đệ tử trên, đáp lại lời thỉnh cầu của y.
Lahiri Mahâsaya đã phân chia đạo pháp Kriyâ Yoga làm bốn cấp đẳng, từ đệ nhất đến tứ pháp môn. Ba cấp đẳng trên chỉ được truyền thụ cho những đệ tử đã thực hiện được những tiến bộ tâm linh khả quan và rõ rệt. Có lần một vị đệ tử sơ cơ, cho rằng mình đã tiến bộ nhưng không được thừa nhận đúng mức, bèn tỏ sự bất mãn và nói:
- Bạch sư phụ, con hẳn là đã sẵn sàng được truyền thụ đệ nhị pháp môn!
Ngau khi đó, cánh cửa mở hoát: Người bước vào là một đệ tử sơ cơ rất khiêm tốn, tên là Brinda Bhagat, làm thư tín viên sở bưu điện Bénarès.
Sư phụ nở một nụ cười thương mến và nói:
- Brinda, con hãy ngồi an tọa, và nói cho ta biết con đã sẵn sàng muốn được truyền thụ đệ nhị pháp môn hay chưa?
Người đệ tử kinh hoảng, chắp tay vái lia lịa và nói:
- Bạch sư phụ, xin sư phụ đừng cho con thụ pháp nữa. Con đã xứng đáng được thụ pháp ở cấp cao hơn chăng? Hôm nay con đến đây xin sư phụ ban ân huệ vì đệ nhất pháp môn Kriyâ cũng đã làm cho con quá say sưa ngây ngất đến nỗi con không thể phát thơ tín bưu điện được nữa!
- Brinda đã nhẹ bước phiêu diêu trên cỡi giới Tinh thần rồi đó!
Nghe sư phụ nói đến đó, người đệ tử kia lẳng lặng cúi đầu không nói gì. Kế đó y nói:
- Bạch sư phụ, con thấy rằng con chỉ là một người thợ dốt mà lại đi chê đồ khí cụ của mình là dở.
Người thư tín viên, hoàn toàn thất học, đã phát triển những khả năng siêu linh của mình bằng pháp môn Kriyâ đến nỗi những nhà bác học phải nhờ đến y để diễn đạt những đoạn khó khăn trong Kinh thánh. Xuất thân là một người dốt, Brinda lại nổi tiếng là thông minh xuất chúng trong giời các nhà học giả uyên bác.
Ngoài ra những đệ tử rất đông ở vùng Bénarès, còn có một số đệ tử khác đến vài trăm người từ bốn phương ở Ấn Độ tìm đến học Đạo dưới chân sư phụ.
Trong số những tu sĩ được nhập môn thụ pháp Kriyâ Yoga, có vài vị về say này trở nên những bậc thánh nhân đắc đạo. Trong một thời gian, Lahira Mahâsaya đã làm đạo sư cho hoàng tử Đông cung của vị Quốc vương ở Bénarès.
Biết rõ sự cao cả tâm linh của tôn sư, Quốc vương và hoàng tử đều xin thụ pháp Kriyâ Yoga, cùng với vị quốc vương Jotindra Mohan Thakur.
Một số đệ tử có địa vị khả quan và thế lực ở ngoài đời muốn truyền bá đạo pháp Kriyâ Yoga bằng phương tiện quảng cáo. Tôn sư bèn triệt để ngăn cấm việc ấy. Một đệ tử khác có thế lực muốn cho tôn sư được suy tôn trong quảng đại quần chúng như là vị thánh sống của Bénarès, nhưng tôn sư cũng từ chối không chịu. Người nói:
- Đạo pháp Kriyâ ví như một cái hoa, mùi thơ của nó phải được truyền đi một cách tự nhiên, không giả tạo. Những hột giống của nó sẽ nẩy mầm trong mảnh đất phì nhiêu của những tâm hồn đã có sự thức tỉnh tâm linh.
Tôn sư không muốn dùng những phương tiện quảng cáo hiện đại như báo chí hay hội hè, vì người biết rằng thông điệp mạnh mẽ của đạo pháp Kriyâ Yoga sẽ tự nó truyền đi trong thế gian như một làn sóng vô hình để tinh luyện những linh hồn mộ đạo. Những đệ tử gương mẫu phải tự họ chứng minh cho nguồn sinh khí bất tử của pháp môn Kriyâ Yoga.
Lahiri Mahâsaya về hưu năm 1886, từ hai mươi lăm năm sau khi nhập môn tại Ranikhet và sau ba mươi lăm năm làm việc như một công chức. Từ ngày quy điền, người có nhiều thời giờ rảnh rang, nên càng ngày càng có nhiều đệ tử hơn.
Ngồi tĩnh tọa trên thế liên hoa, tôn sư giữ im lặng hầu như suốt ngày. Người ít khi rời khỏi tịnh thất, dầu cho để dạo một vòng trong vườn nhà. Những đệ tử luôn luôn đến viếng tịnh xá để chiêm ngưỡng tôn sư.
Những quan khách đến viếng tịnh thất đều kinh ngạc mà thấy Tôn sư biểu lộ những dấu hiệu đáng lo ngại: người không thở, không ngủ, các mạch máu và quả tim đều ngừng đập. Đôi mắt người đứng tròng trong nhiều giờ, toàn thân bất động của người đều bao trùm một niềm an tịnh thiêng liêng.
Không một người đệ tử nào đến chiêm ngưỡng tôn sư mà không cảm thấy tâm hồn họ được yên tĩnh, thanh cao khi họ ra về: mỗi người đều nhìn nhận rằng bằng cách đó họ thọ lãnh luồng ân huệ bí mật của tôn sư, một vị sứ giả của Trời.
Lahiri Mahâsaya có thể được người đời suy tôn dưới cái danh hiệu Yogâvatar, có nghĩa là hiện thân của Yoga. Có lòng từ ái đối với tất cả, Tôn sư đã nâng cao trình độ tâm linh của xã hội loài người. Quyền năng của tôn sư biến đổi vài vị đệ tử cao cấp trở thành các bậc thánh, và sự truyền bá đạo pháp Yoga trong quảng đại quần chúng, đã đặt Lahiri Mahâsaya vào hàng các bậc cứu độ thế gian.
Với tư cách một vị giáo chủ, tôn sư đã mở rộng cửa đạo giải thoát cho tất cả mọi người bằng một phường pháp nhất định, đó là pháp môn Kriyâ Yoga.
Trong cuộc đời của tôn sư, người đã làm nhiều điều mầu nhiệm, nhưng điều lớn nhất là đã giản dị hóa đạo pháp Yoga, để cho mọi người thành tâm thiện chí học Đạo có thể lãnh hội được một cách dễ dàng.
Lahiri Mahâsaya thường nói về các điều mầu nhiệm như sau:
- Sự tác động của những định luật huyền bí, thường không được người đời biết rõ, không nên đem ra làm một đầu thảo luận ở chốn công cộng hoặc ấn hành một cách bừa bãi.
Nếu trong những trang sách này, tôi có vẻ vi phạm những lời trên đây, thì đó là bởi vì một sự chắc chắn từ bên trong do sư phụ truyền sang cho tôi, đã cho phép tôi bàn đến những chuyện ấy. Tuy nhiên, khi tôi kể lại cuộc đời của Babâji, Lahiri Mahâsaya và Sri Yukteswar, tôi thấy cần phải bỏ qua không nói đến một vài chuyện nhiệm mầu mà muốn giải thích rõ, có lẽ phải cần đến nhiều pho sách dày.
Bằng pháp môn Kriyâ Yoga, những người nào không thể cố gắng nhìn thấy hình ảnh của Thượng đế nơi kẻ khác, ít nhất sẽ khám phá ra ngài trong tận chốn thâm sâu bí ẩn nhất của lòng mình.
- Bạch sư phụ, sư phụ có bao giờ gặp đức Bâbâji chưa?
Một buổi chiều mùa hè yên tĩnh, tôi ngồi gần bên Sri Yukteswar trên bao lơn đạo viện, dưới ánh sao vằng vặc của vùng nhiệt đới chói rạng trên đỉnh đầu chúng tôi.
- Có.
Sư phụ mỉm cười trả lời câu hỏi của tôi với một niềm tôn kính khôn tả hiện ra trong cặp mắt:
- Thầy đã có hân hạnh được chiêm ngưỡng tôn sư ba lần. Lần thứ nhất là trong dịp thánh lễ Kumbha Mela ở Alahabad. Thánh lễ Kumbha Mela là cuộc lễ tôn giáo long trọng được cử hành tại Ấn Độ từ nghìn xưa, và vẫn còn giữ được tính cách thu hút đối với quần chúng cho đến ngay nay.
Hằng triệu tín đồ Ấn giáo đều quy tựu đông đảo trong dịp đó để chiêm ngưỡng hàng nghìn những tu sĩ, đạo sĩ, khất sĩ ta bà, và các nhà tu khổ hạnh từ bốn phương đến đây, trong số đó có vài người chỉ rời khỏi am thất hay hang động vào dịp Thánh Lễ này để ban ân huệ cho các tín đồ và bá tánh thập phương. Sri Yukteswar nói tiếp:
- Vào lúc Thầy gặp đại đức Babâji, Thầy chưa phải là tu sĩ xuất gia, nhưng Thầy đã nhập môn với đức Lahiri Mahâsaya để được thụ pháp Kriyâ Yoga. Sư phụ khuyên Thầy nên đến dự Thánh Lễ Kumbha Mela ở Allahabad vào tháng giêng năm 1894, và đó là lần đầu tiên mà Thầy dự cuộc lễ.
Thầy chỉ nghe tiếng động ồn ào của đám quần chúng, nhưng Thầy không gặp một bậc danh sư nào đáng kể. Thầy đi ngang qua cầu Bắc trên sông Hằng, và nhìn thấy một gương mặt quen đang ngồi bên cầu với chiếc bình bát khuất thực.
Thầy thầm nghĩ trong cơn thất vọng "Cuộc Thánh Lễ này chỉ là một nơi ồn ào tiếng động và một ổ ăn mày" Thầy tự hỏi những nhà bác học Tây phương kiên nhẫn tìm tòi khảo cứu và nới rộng tầm kiến thức vì sự ích lợi vật chất của nhân loại, há lại chẳng được đẹp lòng Thượng Đế hơn là những kẻ biếng nhác ăn hại này, bề ngoài làm ra vẻ đạo đức, nhưng chỉ sống nhờ của bố thí?
Khi đó một vị tu sĩ xuất gia tác người cao lớn bước đến gần và nói với Thầy:
- Có một vị tu sĩ muốn mời ông.
- Ai vậy?
- Ông hãy đến gặp, rồi ông sẽ biết.
Thầy còn do dự, rồi cất bước đi đến một gốc cây lớn đang che bóng mát cho một vị tôn sư và các đệ tử ngồi vây chung. Vị tôn sư ấy, có một vẻ tiên phong đạo cốt khác thường, bèn đứng dậy khi Thầy vừa đến gần, rồi đưa tôi ôm lấy Thầy và nói một cách trìu mến:
- Chào đại đức Swami!
Thầy đáp:
- Bạch ngài, tôi chưa phải là tu sĩ xuất gia.
- Người nào mà do bởi nguồn cảm hứng thiêng liêng, khiến ta đã phán cho cái danh hiệu ấy, sẽ không thể từ chối được nữa!
Vị tôn sư thốt ra những lời ấy một cách rất giản dị, nhưng một giọng quả quyết cứng rắn rung động trong những lời nói của ngài, đột nhiên tôi cảm thấy tràn ngập một niềm say sưa mùi Đạo làm cho tôi ngây ngất. Mỉm cười vì đột nhiên tôi lại được đưa lên hàng tu sĩ xuất gia của dòng tu Swami, tôi nghiêng mình cúi đầu làm lễ trước vị tôn sư đã ban cho tôi cái danh dự ấy.
Đức Babâji (vì đó chính là ngài mà lúc ấy Thầy còn chưa biết) chỉ chỗ Thầy ngồi một bên. Tác cao lớn, gương mặt trẻ trung, ngài giống Đức Lahiri Mahâsaya một cách lạ thường, như Thầy đã từng nghe nói nhưng bây giờ mới nhìn thấy tận mặt. Hiển nhiên là Tôn sư muốn rằng Thầy được hoàn toàn tự nhiên trước mặt ngài. Ngài hỏi:
- Con nghĩ sao về Thánh Lễ Kumbha Mela?
- Bạch Tôn sư, con hoàn toàn thất vọng cho đến khi con được gặp tôn sư. Sự Thánh linh và tất cả những sự ngu xuẩn động ồn ào đó thật không đi đôi với nhau chút nào!
Tôn sư nói:
- Con hỡi, con không nên xét đoán sự vô minh lầm lạc của người khác. Trên thế gian tất cả đều lẫn lộn cả tốt lẫn xấu, cũng như cát trộn với đường. Con hãy làm như bậc hiền giả chỉ lọc lấy chất đường mà loại bỏ chất cát. Tuy rằng một số tu sĩ hãy còn đắm chìm trong ảo vọng, vô minh, nhưng cuộc lễ cũng được thánh hóa bởi sự hiện diện của những người đã đạt tới sự giác ngộ thiêng liêng.
Thầy liền nhìn nhận Tôn sư nói đúng, vì chính Thầy đã được gặp ngài tại cuộc Thánh lễ này.
- Bạch Tôn sư, con đang nghĩ đến những nhà bác học Tây phương là những người có trí óc thông minh hơn nhiều đối với phần đông những tu sĩ dự cuộc Thánh Lễ. Họ sống bên các nước Âu Mỹ, có những tín ngưỡng khác và không biết có gì là cao cả trong những cuộc Thánh lễ vĩ đại như cuộc lễ này.
Gặp được các vị chân sư Ấn Độ sẽ là một điều lợi ích rất lớn đối với họ. Tuy rằng họ có một khối óc rất thông minh, nhưng phần đông người Tây phương đều thiên về chủ nghĩa duy vật.
Những người khác tuy lỗi lạc về các ngành khoa học hay triết học, lại không nhìn nhận tính cách đồng nhất căn bản của tất cả mọi tôn giáo, Sự mù quáng của họ là một bức rào chướng ngại nó hăm dọa một sự chia rẽ đời đời kiếp kiếp giữa Đông phương và Tây phương.
Tôn sư nói với một giọng chấp thuận:
- Ta thấy rằng con chú trọng đến Tây phương cũng như Đông phương. Ta cảm thấy lòng con bao quát cả hai chủng tộc lớn trên thế giới, vì vậy nên ta đã cho mời con đến đây.
Tôn sư nói tiếp:
Đông phương và Tây phương sẽ phải đi đến sự hợp nhất về mọi ngành sinh hoạt vật chất và tâm linh. Xứ Ấn Độ có nhiều điều cần phải học của phương Tây về phương diện tiến bộ kỹ thuật và văn minh vật chất. Trái lại, Ấn Độ sẽ dạy cho các nước phương Tây về các pháp môn Yoga là những phương pháp tiến bộ tâm linh bao quát đại đồng cho toàn thể nhân loại, và nguồn gốc của mọi tôn giáo.
- Hỡi đại đức Swamiji, con sẽ phải đóng vai trò của con trong việc thiết lập những mối liên lạc điều hòa giữa Đông phương và Tây phương. Trong vài năm nữa, ta sẽ gởi đến cho con một người đệ tử để con huấn luyện nhằm mục đích truyền bá pháp môn Yoga sang Tây phương.
Những linh hồn khát khao chân lý đang đòi hỏi một sự giác ngộ tâm linh. Ta nhận thấy có nhiều vị thánh tương lai ở Âu Mỹ đang đợi chờ sự giác ngộ đó.
Kể đến đoạn này của câu chuyện, Sri Yukteswar nhìn tôi với một cách nhìn thâm sâu, và nói với một nụ cười dưới ánh trăng:
- Con hỡi, chính con là người đệ tử mà đức Babâji đã hứa gửi đến cho thầy từ nhiều năm về trước.
Tôi lấy làm sung sướng mà được biết rằng đức Babâji đã dìu dắt những bước chân của tôi đến gặp Sri Yukteswar. Tuy vậy, tôi cũng cảm thấy buồn mà phải đi sang Tây phương, từ biệt sư phụ mến yêu và chốn đạo viện êm dềm.
Sri Yukteswar nói tiếp:
- Kế đó, tôn sư nhắn với thầy một thông điệp để chuyển giao cho Lahiri Mahâsaya. Thầy kính cẩn cúi đầu từ giã tôn sư. Ngài hứa sẽ gặp lại ầy sau nầy. Sáng ngày hôm sau, thầy rời Allahabad đáp xe lửa đi Bénarès.
Đến nơi tịnh thất của Lahiri Mahâsaya, Thầy mới kể lại cho sư phụ nghe câu chuyển gặp gỡ một vị Tôn sư trong cuộc Thánh lễ Kumbaha Mela. Sư phụ cười nói: "Chắc là con không nhìn ra ngài! Đó là sư phụ của ta, đức Babâyji thiêng liêng!"
Thầy bất giác kêu lên với một lòng sùng kính vô biên:
- Đức Babâji! Đấng đại giáo chủ Babaji! Vị cứu thế vừa hữu tình vừa vô hình! Tiếc thay, nếu con có thể được gặp ngài lần nữa để quỳ lạy dưới chân thiêng liêng của ngài!
Sư phụ nói để an ủi Thầy:
- Không sao, ngài đã hứa sẽ gặp lại con sau này.
- Bạch sư phụ, tôn sư có dặn con nhắn lại với sư phụ những lời này: "Hãy nói với Lahiri rằng nguồn sinh khí dự trữ trong kiếp này đã cạn khô và trống rỗng!"
Vừa nghe câu nói bí hiểm đó, Lahiri Mahâsaya run lên như bị điện giật, và kế đó liền đắm chìm trong một cơn im lặng thâm trầm. Người ngồi yên như pho tượng gỗ, nét mặt sa sầm, và dường như mất hết sinh khí.
Tôi lấy làm ngạc nhiên và lo ngại. Tôi không hề thấy người nào bình nhật vui vẻ như Tôn sư mà lại có sự thay đổi tâm trạng đột ngột như vậy. Những vị đệ tử có mặt đều nhìn Tôn sư với một vẻ lo ngại.
Ba giờ đồng hồ trôi qua trong một cơn im lặng hoàn toàn. Kế đó tôn sư trở lại trạng thái vui vẻ bình thường và nói chuyện một cách thân tình với mỗi vị đệ tử, làm cho họ thốt ra những tiếng thở dài nhẹ nhõm.
Nhìn thấy những phản ứng đó của Sư phụ, Thầy hiểu rằng thông điệp của đức Babâji đã cho sư phụ biết rằng không bao lâu người sẽ phải rời bỏ xác phàm. Cơn im rằng đáng sợ vừa rồi có nghĩa là sư phụ đã tự đặt mình dưới sự kiểm soát của ý chí, và cắt đứt mọi sợi dây liên lạc lên cõi Tinh Thần. Những lời nói của Babâji cũng có nghĩa là: "Ta sẽ luôn luôn có mặt bên cạnh con".
Tuy rằng Babâji và Lahiri cả hai vị đều đắc pháp thần thông và có thể giao cảm với nhau bằng tư tưởng mà không cần đến người trung gian, hai vị đôi khi cũng xử sự theo lối thương tình.
Có những trường hợp mà hai vị Tôn sư chuyển đạt những lời tiên tri bằng lối thông thường, qua một người truyền tin để cho sự thực hiện lời tiên tri đó được lan truyền và giúp thêm một đức tin mới cho những người được nghe câu chuyện ấy về sau này.
- Đó là một trong những lần viếng thăm cuối cùng của thầy tại nhà sư phụ. Sri Yukteswar kết luận.
Như Babâji đã tiên đoán, cuộc đời Lahiri Mahâsaya trong vai trò gia trưởng ở kiếp này đã gần chấm dứt. Mùa đông năm 1895, sư phụ bị một cái ung nhọt ở phía sau lưng. Người từ chối không chịu giải phẩu, và như vậy người đảm nhận việc trả quả báo xấu của các đệ tử trên xác thân mình. Ít lâu sau đó, sư phụ trút linh hồn tại Bénarès. Suốt cuộc đời Thầy đều được nguồn cảm hứng tâm linh của đức sư phụ toàn năng...
#30
Gửi vào 07/06/2011 - 03:51
Cuộc Hành Trình Sang Mỹ Quốc
Chương Chín
A ! Đây là Mỹ Quốc ! Những người này chắc hẳn là người Mỹ ! Đó là ý nghĩa đầu tiên đến với tôi trong một cơn linh ảnh diễn ra mau lẹ trước nhãn quang siêu linh của tôi. Đắm chìm trong cơn thiền định, tôi ngồi trong một gian phòng trống tại trường học của tôi Ranchi.
Cơn linh ảnh vẫn tiếp tục, trong tầm nhãn quang, tôi thấy một đám đông người da trắng mặc Âu phục đang chăm chú nhìn tôi. (Sau khi đến Mỹ quốc, tôi đã nhận diện được vài người trong số những gương mặt đã xuất hiện trong cơn linh ảnh đó.)
Cánh cửa phòng tự nhiên mở, một thiếu sinh đã tìm ra nơi trú ẩn của tôi! Tôi gọi em ấy và nói:
-Bimal, em lại đây, tôi cho em hay một tin lạ. Thượng Đế đã gọi tôi sang Mỹ Quốc!
-Mỹ Quốc?
Em thiếu sinh lập lại hai chữ ấy với một vẻ kinh ngạc chẳng khác nào như nghe tôi sắp sửa đi lên mặt trăng!
-Phải ! Tôi sẽ khám phá Châu Mỹ, theo gương Kha Luân Bố khi ông ta vượt biển định tìm ra xứ Ấn Độ. Hẳn là phải có một sợi dây nhân duyên liên hệ giữa hai xứ sở ấy!
Bimal liền chạy đi và trong giay lát cả trường đều biết rõ tin ấy. Không kéo dài thời giờ, tôi bèn tập hợp các vị giáo viên còn đang ngơ ngác vì cái tin bất ngờ đó, và phú thác trường học cho họ trông nom. Tôi nói:
-Tôi biết rằng các vị sẽ giữ vững lý tưởng giáo dục của đức Lahari Mahasaya tại trường này. Tôi sẽ thơ từ liên lạc thường xuyên tới quý vị. Nếu Thượng Đế muốn, có ngày tôi sẽ trở lại.
Tôi rưng rưng giọt lệ khi tôi nhìn các em học sinh thân yêu và các lớp học nhà trường dưới ánh nắng mặt trời trong sáng của tỉnh Ranchi. Cả một giai đoạn trong cuộc đời vừa chấm dứt. Kể từ nay, tôi phải sống ở ngoại quốc, cách biệt xa xứ nhà.
Vài giờ sau cơn linh ảnh vừa rồi, tôi đã ngồi trên chiếc xe lửa đi Calcutta. Qua ngày hôm sau, tôi nhận được thư mời làm đại biểu xứ Ấn Độ để tham dự Đại hội Tôn Giáo Hoàn Cầu bên Mỹ Quốc tổ chức tại Boston vào năm 1920, dưới sự bảo trợ của Hội Tôn Giáo Thống Nhất Hoa Kỳ.
Trong lòng còn đang phân vân, tôi bèn đến đạo viện Serampore để hỏi ý kiến Sư Phụ:
-Bạch Sư Phụ, con vừa được chỉđịnh làm đại biểu dự một cuộc họp Đại Hội Tôn Giáo Bên Mỹ. Vậy con có nên nhận lời chăng?
-Đó là dịp may hiếm có, một cơ hội ngàn năm một thuở.
-Nhưng thưa Sư Phụ, con không biết nói chuyện trước công chúng! Con không quen thuyết pháp trên diễn đàn, nhất là bằng Anh Ngữ!
-Anh Ngữ hay không, những buổi giảng của con về đạo pháp Yoga sẽ được hoan nghinh bên Phương Tây.
Tôi bật cười:
-Bạch Sư Phụ, con không tin rằng người Mỹ sẽ học tiếng Bengali. Xin Sư Phụ hãy giúp sức cho con để vượt qua những chướng ngại về văn phạm Anh Ngữ.
Khi tôi đem chuyện này nói với cha tôi, người lấy làm hoàn toàn kinh ngạc. Mỹ Quốc đối với người dường như quá xa xôi, và cha tôi sợ rằng người sẽ không bao giờ gặp tôi trở lại nữa. Cha tôi hỏi:
-Con đi bằng cách nào? Và ai sẽ đài thọ công cuộc này?
Cha tôi hy vọng rằng vấn đề đó sẽ làm cho tôi bị trở ngại để tôi đừng đi. Tôi đáp:
-Thượng Đế sẽ lo cho con!
Việc này làm tôi nhớ lại một câu trả lời tương tự của tôi cho Ananta, anh cả tôi, tại Agra cách đây nhiều năm về trước. Tôi nói thêm:
-Thưa cha, có lẽ Thượng Đế sẽ xui khiến cho cha giúp con?
Tôi chỉ nói cầu may mà thôi, không ngờ ngày hôm sau, cha tôi làm tôi ngạc nhiên khi người đưa cho tôi một ngân phiếu với số bạc khá lớn, và nói:
-Cha cho tôi số tiền này không phải do bổn phận của người cha, mà của một đệ tử trung thành của đức Lahiri Mahasaya. Con hãy sang Tây Phương để truyền bá giáo lý thâm sâu của đạo pháp Kriya Yoga.
Sự hy sinh mà cha tôi đã chứng tỏ bằng cách đè nén những xúc cảm của lòng mình, làm cho tôi vô cùng cảm động. Trong đêm vừa qua, người đã hiểu rằng cuộc hành trình của tôi không phải việc mục đích di du lịch ngoạn cảnh mà thôi.
- Có thể cha con ta sẽ không còn gặp nhau lại trong kiếp này.
Cha tôi lúc ấy đã sáu mươi bảy tuổi, nói với một giọng băn khoăn. Tôi đáp theo linh cảm của tôi:
-Nhờ trời, con sẽ gặp cha trở lại.
Trong khi chuẩn bị từ giã Sư Phụ và xứ sở mến yêu của tôi, tôi không khỏi bị xâm chiếm bởi một sự lo ngại. Tôi thường nghe nói về chủ nghĩa duy vật ở Phương Tây, nơi mà người ta sống dưới một bầu không khí khác hẳn với bầu không khí đạo vị thâm trầm của xứ Ấn Độ. Tôi nghĩ rằng: "Thở bầu không khí của Phương Tây, đòi hỏi nhiều can đảm hơn là chịu đựng những cơn rét lạnh kinh khủng trên dãy Tuyết Sơn!"
Một buổi sáng tôi thức dậy sớm ngồi câu nguyện, với lòng cương quyết sẽ tiếp tục cho đến khi tôi nhận được sự trả lời, dẫu cho tôi phải ngồi chết tại chỗ. Tôi muốn được sự ân huệ và bảo đảm thiêng liêng rằng tôi sẽ không bịđi vào chốn mê đồ của nền văn minh vật chất. Tôi đã quyết định đi sang Mỹ, nhưng tôi cũng không muốn nhận được sự chấp nhận của Thiêng Liêng.
Tôi cầu nguyện với hết cả tâm hồn, và đè nén cơn xúc động của lòng tôi. Sự trả lời vẫn chưa đến. Sự khẩn cầu thầm lặng của tôi tăng gia ráo riết đến nỗi vào lúc trưa, khối óc của tôi đã quá căng thẳng đến mức không còn chịu nỗi sự cố gắng: tôi có cảm tưởng rằng óc tôi sẽ nổ tung nếu tôi phát ra thêm một lời cầu nguyện nữa. Ngay khi đó tôi nghe có tiếng gõ cửa.
Tôi đứng dậy mở cửa và thấy một người gương mặt còn trẻ mặc áo mào vàng sậm của giới tu sĩ xuất gia. Người ấy bước vào, từ chối không chịu ngồi ghế, và ra hiệu ám chỉ rằng người muốn đứng nói chuyện mà thôi. Tôi ngạc nhiên và nghĩ thầm rằng vị tu sĩ này có lẽ là đức Babaji, vì người ấy giống đức Lahiri Mahasaya như đúc, tuy gương mặt trông trẻ hơn.
Người ấy liền đáp ngay tư tưởng của tôi:
-Phải, ta là Babaji.
Ngài nói tiếng Hindi, thổ ngữ miền Bắc Ấn, với một giọng du dương trong trẻo.
-Thượng Đế đã nghe lời cầu nguyện của con. Ngài nói cho con biết rằng: con hãy tuân tuân lệnh Sư Phụ con và hãy đi sang Mỹ Quốc. Con đừng sợ gì cả vì con sẽ được che chở. Sau khi ngừng một lúc, đức Babaji nói tiếp:
-Con là người ta đã chọn lựa để truyền bá đạo pháp Kriya Yoga sang Tây Phương. Nhiều năm về trước, ta đã gặp Sư Phụ con tại Thánh Lễ Kumbha Mela, và đã cho Sư Phụ con biết rằng ta sẽ gởi con đến cho người huấn luyện.
Tôi câm lặng vì ngạc nhiên, và lấy làm cảm động vô cùng mà dược nghe từ cửa miệng của Sư Tổ nói rằng chính ngài đã dìu dắt tôi đến gặp Sư Phụ tôi.
Tôi bèn quỳ lạy dưới chân thiêng liêng của Sư Tổ và ngài đỡ tôi đứng dậy với đầy hảo ý. Ngài tiết lộ cho tôi biết nhiều điều về cuộc đời của tôi, đưa ra cho tôi vài chỉ thị và thốt ra vài điều tiên tri bí mật.
Sau cùng, ngài nói một cách trịnh trọng:
-Đạo pháp Kriya Yoga, một phương pháp khoa học để tiếp xúc với Thượng Đế, sẽ được truyền bá khắp thế giới và giúp vào việc thiết lập điều hòa giữa các quốc gia, khi con người biết cảm thông một cách trực tiếp với Thượng Đế.
Với một cách nhìn im lặng, Sư Tổ bèn truyền cho tôi một linh ảnh về tâm thức diêu đẳng của ngài. Trong chốc lát, ngài đã bước đến cửa, và nói:
-Con đừng đi theo ta. Vả lại con cũng không thể theo được đâu.
Tôi khẩn cầu ngài liên tiếp:
-Bạch Sư Tổ, xin ngài đừng đi mất! Xin Sư Tổ hãy đem con theo với.
Babaji quay lại và nói:
-Bây giờ con không đi được. Hãy để lần khác.
Trong cơn xúc cảm, tôi không nghe lời cảnh cáo đó. Tôi thử chạy theo ngài, thì thấy rằng hai chân tôi dính chặt dưới đất. Đức Babaji còn quay lại nhìn tôi với cái nhìn trìu mến, đưa tay ban ân huệ và lẳng lặng đi thẳng.
Sau một lúc hai chân tôi đã cử động được. Tôi ngồi xuống và đắm chìm trong cơn thiền định. Tôi tạ ơn Thượng Đế không những đã đáp lời cầu nguyện của tôi, mà còn ban cho tôi cái diễm phúc được gặp đức Babaji. Toàn thân tôi dường như được thánh hóa bởi cuộc tiếp xúc với đức Sư Tổ luôn luôn trẻ mãi không già. Từ lâu tôi hằng mong ước được chiêm ngưỡng dung nhan của ngài, thì nay lòng tôi đã thỏa nguyện.
Cho đến nay, tôi không hề thố lộ với ai về cuộc gặp gỡ này, đó là một cơ hội nhiệm màu nhất trong đời tôi, mà tôi mãi mãi chôn chặt dưới tận đáy lòng. Nhưng tôi nghĩ rằng độc giả sẽ tin tưởng một cách dễ dàng hơn về sự hiện diện của đức Babaji và những trách nhiệm cao cả của ngài đối với vận mạng của thế giới, nếu tôi quả quyết đã nhìn thấy ngài tận mắt, tôi đã giúp ý kiến cho một họa sĩ vẽ lại bức chân dung của ngài, một vị sư tổ về đạo pháp Yoga của xứ Ấn Độ hiện kim.
Trước ngày tôi lên đường sang Mỹ Quốc, tôi đến viếng Sư Phụ tôi. Người dặn dò tôi mấy lời sau đây:
- Con nên có một thái độ cởi mở, đừng quá thiên lệch về phía Ấn Độ, nhưng cũng đường trở nên quá "Mỹ" vì lẽ đó. Con hãy dung hòa những đức tính tốt của hai chủng tộc. Con hãy luôn luôn giữ cái vị thế của mình là một đứa con của Thượng Đế, một sứ giả của thiêng liêng.
Kế đó Sư Phụ ban ân huệ cho tôi, và nói:
-Tất cả những người mộ đạo tìm đến con với một đức tin, sẽ được giúp đỡ. Dưới cái nhìn của con, luồng điển lực tâm linh toát ra từ đôi mắt con sẽ thấm nhuần vào trí óc của họ, làm cho họ thay đổi cuộc đời, và thức tỉnh nơi họ cái tâm thức của Thượng Đế.
Sư Phụ nói tiếp:
-Con sẽ gây một ảnh hưởng rất lớn đối với những linh hồn thành thật tìm Chân Lý. Bất cứ nơi nào con đi đến, dẫu cho ở những nơi hẻo lánh, con cũng sẽ thu hút nhiều bạn tốt.
Hai điều tiên tri đó đã được thực hiện. Tôi đến Mỹ Quốc có một mình, không bàn bè thân thuộc, nhưng tôi đã tìm thấy hàng nghìn linh hồn sẵn sàng thụ giáo đạo pháp Yoga cổ truyền tự muôn đời.
Tôi từ giã Ấn Độ vào tháng 8, năm 1920, do chuyến tàu "City of Sparta", tức chuyến tàu đầu tiên vượt biển sang Mỹ quốc từ khi trận Đệ Nhất Thứ Chiến chấm dứt. Tôi đã trải qua rất nhiều khó khăn mới mua được vé tàu với tấm thẻ thông hành của tôi.
Trong thời gian hành trình trên mặt biển, một hành khách dưới tàu phát hiện rằng tôi là viên đại biểu Ấn Độ tại Đại Hội Tôn Giáo ở Boston.
Y bèn gợi chuyện:
-Bạch đại đức, xin đại đức vui lòng thuyết pháp cho các vị hành khách dưới tàu nghe vào tối ngày thứ năm tới đây, về một đề tài nào đó, như "Cuộc Đấu Tranh Tìm Sống" chẳng hạn.
Than ôi! Đó thật là một cuộc đấu tranh để vớt vát thanh danh và sự sống của tôi trong buổi thuyết pháp tối thứ năm, như tôi đã nhận thấy ngay sau khi đó! Sau những cố gắng vất vả để soạn bài thuyết pháp của tôi bằng tiếng Anh, nhưng vô hiệu quả, sau cùng tôi phải bỏ cuộc vì những tư tưởng của tôi không chịu uốn nắn dễ dàng theo những mẹo luật rất rối kinh khủng của văn phạm Anh Ngữ !
Tin tưởng nơi những lời nói của Sư Phụ, tôi xuất hiện buổi tối ngày thứ năm trong phòng khách của chiếc tàu. Nhưng tôi không thể thốt ra một lời nào, mà vẫn im lặng đứng yên một chỗ trong khoảng trên hai mươi phút đồng hồ, sau cùng cả cử tọa đều nhận thấy rằng tình trạng lúng túng của tôi, bèn bất giác cười ầm lên.
Riêng tôi, tôi không cảm thấy muốn cười chút nào, tôi bèn âm thầm cầu nguyện xin Sư Phụ tôi hãy giúp đỡ tôi.
-Con phải nói!
Giọng nói của Sư Phụ vang rền trong chỗ bí ẩn của tiềm thức tôi, sau khi tôi cầu nguyện đến người. Kế đó những tư tưởng của tôi liền hòa điệu ngay tức khắc với những mẹo luật khó khăn của Anh Ngữ. Tôi nói thao thao bất tuyệt trong 45 phút đồng hồ, làm cho cử tọa chăm chú nghe muốn đứng hơi thở Nhờ bài thuyết pháp này mà về sau tôi nhận được nhiều lời mời của nhiều hiệp hội tôn giáo Hoa Kỳ để đi thuyết pháp tại các giảng đường của họ.
Tuy vậy, tôi không còn nhớ một chữ nào về những gì tôi vừa mới nói. Một cuộc thăm dò kín đáo trong giới hành khách trên tàu cho biết rằng tôi đã giảng "một thời pháp đầy cảm hứng bằng một thứ tiếng Anh rất trôi chảy". Được nghe tin tốt lành đó, tôi thầm tạ ơn Sư Phụ tôi về sự giúp đỡ của người, lại một lần nữa tôi lại biết chắc chắn rằng những chướng ngại về thời gian và không gian không bao giờ có đối với Sư Phụ tôi, và người luôn luôn ở một bên tôi.
Trong khi hành trình, thỉnh thoảng tôi lại cảm thấy băn khoăn sợ sệt với ý nghĩ rằng tôi phải thuyết trình trước một cử tọa gồm những thính giả Anh và Mỹ tạ Đại Hội Tôn Giáo ở Boston. Tôi cầu nguyện Thượng Đế hãy giúp nguồn cảm hứng cho tôi, nhưng không phải ở giữa những tiếng cười của toàn thể cử tọa!
Chuyến tàu "City of Sparta" đến Boston vào cuối thánh 9. Ngày 6 tháng 10, tô thuyết pháp lần đầu tiên trên đất Mỹ, tại Đại Hội Tôn Giáo. Buổi thuyết trình được hoan nghinh và tôi thở dài một tiếng nhẹ nhỏm. Viên bí thơ của Hiệp Hộ Tôn Giáo Thống Nhất Hoa Kỳ có viết bài tường thuật về buổi thuyết pháp của tôi.
Nhờ cái ngân phiếu dồi dào của cha tôi, tôi có thể ở lại Mỹ sau ngày bế mạc Đại Hội. Tôi đã ở lại 4 năm ở Boston, trong thời gian đó tôi đi thuyết pháp mở lớp giảng pháp môn Yoga, và xuất bản một tập thi thơ về đạo lý nhan đề "Tiếng Hát của Linh Hồn".
Mùa hè năm 1924, tôi thực hiện một chuyến đi vòng quanh Mỹ Quốc, và thuyết pháp ở mỗi thành phố lớn trước hàng nghìn khán giả. Năm 1925, nhờ sự trợ cấp tài chính của những học viên hảo tâm, tôi thiết lập văn phòng của tôi trên một sườn đồi ở Los Angeles.
Dinh thự này là ngôi kiến trúc đã xuất hiện trong một linh ảnh của tôi từ nhiều năm trước ở Kashmir. Tôi đã gởi ngay cho Sư Phụ tôi một tập hình ảnh và người đã trả lời cho tôi trên một tấm bưu thiếp viết bằng tiếng Bengali, mà tôi xin dịch ra dưới đây:
Serampore, ngày 10 một tháng 8 năm 1926.
Yogananda, con yêu quý của Thầy,
Thầy nhìn xem các bức ảnh đạo viện và các môn đệ Yoga của con, mà lòng Thầy tràn ngập một niềm vui khôn tả. Thầy lấy làm sung sướng mà nhìn thấy trong đó những môn sinh Yoga của nhiều thành phố khác nhau bên Mỹ Quốc.
Thầy nhìn tấm ảnh đạo viện với cái cổng ngoài, con đường đi lên sườn đồi và cái viễn cảnh cùng cảnh vật chung quanh nhìn từ trên đồi mà lòng Thầy chỉ mơ ước một điều: là có ngài Thầy sẽ ngắm nhìn những cảnh ấy tận mắt.
Bên này, mọi sự đều tốt lành. Cầu xin ơn phước thiêng liêng được ban xuống cho con mãi mãi.
Sri Yukteswar Giri.
Thời gian trôi qua đã ghi dấu những hoạt động của tôi ở rãi rác khắp mọi nơi bên Mỹ Quốc. Tôi đi thuyết pháp tại hàng trăm các câu lạc bộ, trường học, giảng đường các nhà thờ và những tổ chức tinh thần khác nhau. Hàng muôn hàng nghìn người Mỹ đã được nhập môn để thụ giáo về đạo pháp Yoga, và đã có dịp thấm nhuần nền minh triết thâm sâu cổ truyền của xứ Ấn Độ muôn đời bất diệt.
Chương Chín
A ! Đây là Mỹ Quốc ! Những người này chắc hẳn là người Mỹ ! Đó là ý nghĩa đầu tiên đến với tôi trong một cơn linh ảnh diễn ra mau lẹ trước nhãn quang siêu linh của tôi. Đắm chìm trong cơn thiền định, tôi ngồi trong một gian phòng trống tại trường học của tôi Ranchi.
Cơn linh ảnh vẫn tiếp tục, trong tầm nhãn quang, tôi thấy một đám đông người da trắng mặc Âu phục đang chăm chú nhìn tôi. (Sau khi đến Mỹ quốc, tôi đã nhận diện được vài người trong số những gương mặt đã xuất hiện trong cơn linh ảnh đó.)
Cánh cửa phòng tự nhiên mở, một thiếu sinh đã tìm ra nơi trú ẩn của tôi! Tôi gọi em ấy và nói:
-Bimal, em lại đây, tôi cho em hay một tin lạ. Thượng Đế đã gọi tôi sang Mỹ Quốc!
-Mỹ Quốc?
Em thiếu sinh lập lại hai chữ ấy với một vẻ kinh ngạc chẳng khác nào như nghe tôi sắp sửa đi lên mặt trăng!
-Phải ! Tôi sẽ khám phá Châu Mỹ, theo gương Kha Luân Bố khi ông ta vượt biển định tìm ra xứ Ấn Độ. Hẳn là phải có một sợi dây nhân duyên liên hệ giữa hai xứ sở ấy!
Bimal liền chạy đi và trong giay lát cả trường đều biết rõ tin ấy. Không kéo dài thời giờ, tôi bèn tập hợp các vị giáo viên còn đang ngơ ngác vì cái tin bất ngờ đó, và phú thác trường học cho họ trông nom. Tôi nói:
-Tôi biết rằng các vị sẽ giữ vững lý tưởng giáo dục của đức Lahari Mahasaya tại trường này. Tôi sẽ thơ từ liên lạc thường xuyên tới quý vị. Nếu Thượng Đế muốn, có ngày tôi sẽ trở lại.
Tôi rưng rưng giọt lệ khi tôi nhìn các em học sinh thân yêu và các lớp học nhà trường dưới ánh nắng mặt trời trong sáng của tỉnh Ranchi. Cả một giai đoạn trong cuộc đời vừa chấm dứt. Kể từ nay, tôi phải sống ở ngoại quốc, cách biệt xa xứ nhà.
Vài giờ sau cơn linh ảnh vừa rồi, tôi đã ngồi trên chiếc xe lửa đi Calcutta. Qua ngày hôm sau, tôi nhận được thư mời làm đại biểu xứ Ấn Độ để tham dự Đại hội Tôn Giáo Hoàn Cầu bên Mỹ Quốc tổ chức tại Boston vào năm 1920, dưới sự bảo trợ của Hội Tôn Giáo Thống Nhất Hoa Kỳ.
Trong lòng còn đang phân vân, tôi bèn đến đạo viện Serampore để hỏi ý kiến Sư Phụ:
-Bạch Sư Phụ, con vừa được chỉđịnh làm đại biểu dự một cuộc họp Đại Hội Tôn Giáo Bên Mỹ. Vậy con có nên nhận lời chăng?
-Đó là dịp may hiếm có, một cơ hội ngàn năm một thuở.
-Nhưng thưa Sư Phụ, con không biết nói chuyện trước công chúng! Con không quen thuyết pháp trên diễn đàn, nhất là bằng Anh Ngữ!
-Anh Ngữ hay không, những buổi giảng của con về đạo pháp Yoga sẽ được hoan nghinh bên Phương Tây.
Tôi bật cười:
-Bạch Sư Phụ, con không tin rằng người Mỹ sẽ học tiếng Bengali. Xin Sư Phụ hãy giúp sức cho con để vượt qua những chướng ngại về văn phạm Anh Ngữ.
Khi tôi đem chuyện này nói với cha tôi, người lấy làm hoàn toàn kinh ngạc. Mỹ Quốc đối với người dường như quá xa xôi, và cha tôi sợ rằng người sẽ không bao giờ gặp tôi trở lại nữa. Cha tôi hỏi:
-Con đi bằng cách nào? Và ai sẽ đài thọ công cuộc này?
Cha tôi hy vọng rằng vấn đề đó sẽ làm cho tôi bị trở ngại để tôi đừng đi. Tôi đáp:
-Thượng Đế sẽ lo cho con!
Việc này làm tôi nhớ lại một câu trả lời tương tự của tôi cho Ananta, anh cả tôi, tại Agra cách đây nhiều năm về trước. Tôi nói thêm:
-Thưa cha, có lẽ Thượng Đế sẽ xui khiến cho cha giúp con?
Tôi chỉ nói cầu may mà thôi, không ngờ ngày hôm sau, cha tôi làm tôi ngạc nhiên khi người đưa cho tôi một ngân phiếu với số bạc khá lớn, và nói:
-Cha cho tôi số tiền này không phải do bổn phận của người cha, mà của một đệ tử trung thành của đức Lahiri Mahasaya. Con hãy sang Tây Phương để truyền bá giáo lý thâm sâu của đạo pháp Kriya Yoga.
Sự hy sinh mà cha tôi đã chứng tỏ bằng cách đè nén những xúc cảm của lòng mình, làm cho tôi vô cùng cảm động. Trong đêm vừa qua, người đã hiểu rằng cuộc hành trình của tôi không phải việc mục đích di du lịch ngoạn cảnh mà thôi.
- Có thể cha con ta sẽ không còn gặp nhau lại trong kiếp này.
Cha tôi lúc ấy đã sáu mươi bảy tuổi, nói với một giọng băn khoăn. Tôi đáp theo linh cảm của tôi:
-Nhờ trời, con sẽ gặp cha trở lại.
Trong khi chuẩn bị từ giã Sư Phụ và xứ sở mến yêu của tôi, tôi không khỏi bị xâm chiếm bởi một sự lo ngại. Tôi thường nghe nói về chủ nghĩa duy vật ở Phương Tây, nơi mà người ta sống dưới một bầu không khí khác hẳn với bầu không khí đạo vị thâm trầm của xứ Ấn Độ. Tôi nghĩ rằng: "Thở bầu không khí của Phương Tây, đòi hỏi nhiều can đảm hơn là chịu đựng những cơn rét lạnh kinh khủng trên dãy Tuyết Sơn!"
Một buổi sáng tôi thức dậy sớm ngồi câu nguyện, với lòng cương quyết sẽ tiếp tục cho đến khi tôi nhận được sự trả lời, dẫu cho tôi phải ngồi chết tại chỗ. Tôi muốn được sự ân huệ và bảo đảm thiêng liêng rằng tôi sẽ không bịđi vào chốn mê đồ của nền văn minh vật chất. Tôi đã quyết định đi sang Mỹ, nhưng tôi cũng không muốn nhận được sự chấp nhận của Thiêng Liêng.
Tôi cầu nguyện với hết cả tâm hồn, và đè nén cơn xúc động của lòng tôi. Sự trả lời vẫn chưa đến. Sự khẩn cầu thầm lặng của tôi tăng gia ráo riết đến nỗi vào lúc trưa, khối óc của tôi đã quá căng thẳng đến mức không còn chịu nỗi sự cố gắng: tôi có cảm tưởng rằng óc tôi sẽ nổ tung nếu tôi phát ra thêm một lời cầu nguyện nữa. Ngay khi đó tôi nghe có tiếng gõ cửa.
Tôi đứng dậy mở cửa và thấy một người gương mặt còn trẻ mặc áo mào vàng sậm của giới tu sĩ xuất gia. Người ấy bước vào, từ chối không chịu ngồi ghế, và ra hiệu ám chỉ rằng người muốn đứng nói chuyện mà thôi. Tôi ngạc nhiên và nghĩ thầm rằng vị tu sĩ này có lẽ là đức Babaji, vì người ấy giống đức Lahiri Mahasaya như đúc, tuy gương mặt trông trẻ hơn.
Người ấy liền đáp ngay tư tưởng của tôi:
-Phải, ta là Babaji.
Ngài nói tiếng Hindi, thổ ngữ miền Bắc Ấn, với một giọng du dương trong trẻo.
-Thượng Đế đã nghe lời cầu nguyện của con. Ngài nói cho con biết rằng: con hãy tuân tuân lệnh Sư Phụ con và hãy đi sang Mỹ Quốc. Con đừng sợ gì cả vì con sẽ được che chở. Sau khi ngừng một lúc, đức Babaji nói tiếp:
-Con là người ta đã chọn lựa để truyền bá đạo pháp Kriya Yoga sang Tây Phương. Nhiều năm về trước, ta đã gặp Sư Phụ con tại Thánh Lễ Kumbha Mela, và đã cho Sư Phụ con biết rằng ta sẽ gởi con đến cho người huấn luyện.
Tôi câm lặng vì ngạc nhiên, và lấy làm cảm động vô cùng mà dược nghe từ cửa miệng của Sư Tổ nói rằng chính ngài đã dìu dắt tôi đến gặp Sư Phụ tôi.
Tôi bèn quỳ lạy dưới chân thiêng liêng của Sư Tổ và ngài đỡ tôi đứng dậy với đầy hảo ý. Ngài tiết lộ cho tôi biết nhiều điều về cuộc đời của tôi, đưa ra cho tôi vài chỉ thị và thốt ra vài điều tiên tri bí mật.
Sau cùng, ngài nói một cách trịnh trọng:
-Đạo pháp Kriya Yoga, một phương pháp khoa học để tiếp xúc với Thượng Đế, sẽ được truyền bá khắp thế giới và giúp vào việc thiết lập điều hòa giữa các quốc gia, khi con người biết cảm thông một cách trực tiếp với Thượng Đế.
Với một cách nhìn im lặng, Sư Tổ bèn truyền cho tôi một linh ảnh về tâm thức diêu đẳng của ngài. Trong chốc lát, ngài đã bước đến cửa, và nói:
-Con đừng đi theo ta. Vả lại con cũng không thể theo được đâu.
Tôi khẩn cầu ngài liên tiếp:
-Bạch Sư Tổ, xin ngài đừng đi mất! Xin Sư Tổ hãy đem con theo với.
Babaji quay lại và nói:
-Bây giờ con không đi được. Hãy để lần khác.
Trong cơn xúc cảm, tôi không nghe lời cảnh cáo đó. Tôi thử chạy theo ngài, thì thấy rằng hai chân tôi dính chặt dưới đất. Đức Babaji còn quay lại nhìn tôi với cái nhìn trìu mến, đưa tay ban ân huệ và lẳng lặng đi thẳng.
Sau một lúc hai chân tôi đã cử động được. Tôi ngồi xuống và đắm chìm trong cơn thiền định. Tôi tạ ơn Thượng Đế không những đã đáp lời cầu nguyện của tôi, mà còn ban cho tôi cái diễm phúc được gặp đức Babaji. Toàn thân tôi dường như được thánh hóa bởi cuộc tiếp xúc với đức Sư Tổ luôn luôn trẻ mãi không già. Từ lâu tôi hằng mong ước được chiêm ngưỡng dung nhan của ngài, thì nay lòng tôi đã thỏa nguyện.
Cho đến nay, tôi không hề thố lộ với ai về cuộc gặp gỡ này, đó là một cơ hội nhiệm màu nhất trong đời tôi, mà tôi mãi mãi chôn chặt dưới tận đáy lòng. Nhưng tôi nghĩ rằng độc giả sẽ tin tưởng một cách dễ dàng hơn về sự hiện diện của đức Babaji và những trách nhiệm cao cả của ngài đối với vận mạng của thế giới, nếu tôi quả quyết đã nhìn thấy ngài tận mắt, tôi đã giúp ý kiến cho một họa sĩ vẽ lại bức chân dung của ngài, một vị sư tổ về đạo pháp Yoga của xứ Ấn Độ hiện kim.
Trước ngày tôi lên đường sang Mỹ Quốc, tôi đến viếng Sư Phụ tôi. Người dặn dò tôi mấy lời sau đây:
- Con nên có một thái độ cởi mở, đừng quá thiên lệch về phía Ấn Độ, nhưng cũng đường trở nên quá "Mỹ" vì lẽ đó. Con hãy dung hòa những đức tính tốt của hai chủng tộc. Con hãy luôn luôn giữ cái vị thế của mình là một đứa con của Thượng Đế, một sứ giả của thiêng liêng.
Kế đó Sư Phụ ban ân huệ cho tôi, và nói:
-Tất cả những người mộ đạo tìm đến con với một đức tin, sẽ được giúp đỡ. Dưới cái nhìn của con, luồng điển lực tâm linh toát ra từ đôi mắt con sẽ thấm nhuần vào trí óc của họ, làm cho họ thay đổi cuộc đời, và thức tỉnh nơi họ cái tâm thức của Thượng Đế.
Sư Phụ nói tiếp:
-Con sẽ gây một ảnh hưởng rất lớn đối với những linh hồn thành thật tìm Chân Lý. Bất cứ nơi nào con đi đến, dẫu cho ở những nơi hẻo lánh, con cũng sẽ thu hút nhiều bạn tốt.
Hai điều tiên tri đó đã được thực hiện. Tôi đến Mỹ Quốc có một mình, không bàn bè thân thuộc, nhưng tôi đã tìm thấy hàng nghìn linh hồn sẵn sàng thụ giáo đạo pháp Yoga cổ truyền tự muôn đời.
Tôi từ giã Ấn Độ vào tháng 8, năm 1920, do chuyến tàu "City of Sparta", tức chuyến tàu đầu tiên vượt biển sang Mỹ quốc từ khi trận Đệ Nhất Thứ Chiến chấm dứt. Tôi đã trải qua rất nhiều khó khăn mới mua được vé tàu với tấm thẻ thông hành của tôi.
Trong thời gian hành trình trên mặt biển, một hành khách dưới tàu phát hiện rằng tôi là viên đại biểu Ấn Độ tại Đại Hội Tôn Giáo ở Boston.
Y bèn gợi chuyện:
-Bạch đại đức, xin đại đức vui lòng thuyết pháp cho các vị hành khách dưới tàu nghe vào tối ngày thứ năm tới đây, về một đề tài nào đó, như "Cuộc Đấu Tranh Tìm Sống" chẳng hạn.
Than ôi! Đó thật là một cuộc đấu tranh để vớt vát thanh danh và sự sống của tôi trong buổi thuyết pháp tối thứ năm, như tôi đã nhận thấy ngay sau khi đó! Sau những cố gắng vất vả để soạn bài thuyết pháp của tôi bằng tiếng Anh, nhưng vô hiệu quả, sau cùng tôi phải bỏ cuộc vì những tư tưởng của tôi không chịu uốn nắn dễ dàng theo những mẹo luật rất rối kinh khủng của văn phạm Anh Ngữ !
Tin tưởng nơi những lời nói của Sư Phụ, tôi xuất hiện buổi tối ngày thứ năm trong phòng khách của chiếc tàu. Nhưng tôi không thể thốt ra một lời nào, mà vẫn im lặng đứng yên một chỗ trong khoảng trên hai mươi phút đồng hồ, sau cùng cả cử tọa đều nhận thấy rằng tình trạng lúng túng của tôi, bèn bất giác cười ầm lên.
Riêng tôi, tôi không cảm thấy muốn cười chút nào, tôi bèn âm thầm cầu nguyện xin Sư Phụ tôi hãy giúp đỡ tôi.
-Con phải nói!
Giọng nói của Sư Phụ vang rền trong chỗ bí ẩn của tiềm thức tôi, sau khi tôi cầu nguyện đến người. Kế đó những tư tưởng của tôi liền hòa điệu ngay tức khắc với những mẹo luật khó khăn của Anh Ngữ. Tôi nói thao thao bất tuyệt trong 45 phút đồng hồ, làm cho cử tọa chăm chú nghe muốn đứng hơi thở Nhờ bài thuyết pháp này mà về sau tôi nhận được nhiều lời mời của nhiều hiệp hội tôn giáo Hoa Kỳ để đi thuyết pháp tại các giảng đường của họ.
Tuy vậy, tôi không còn nhớ một chữ nào về những gì tôi vừa mới nói. Một cuộc thăm dò kín đáo trong giới hành khách trên tàu cho biết rằng tôi đã giảng "một thời pháp đầy cảm hứng bằng một thứ tiếng Anh rất trôi chảy". Được nghe tin tốt lành đó, tôi thầm tạ ơn Sư Phụ tôi về sự giúp đỡ của người, lại một lần nữa tôi lại biết chắc chắn rằng những chướng ngại về thời gian và không gian không bao giờ có đối với Sư Phụ tôi, và người luôn luôn ở một bên tôi.
Trong khi hành trình, thỉnh thoảng tôi lại cảm thấy băn khoăn sợ sệt với ý nghĩ rằng tôi phải thuyết trình trước một cử tọa gồm những thính giả Anh và Mỹ tạ Đại Hội Tôn Giáo ở Boston. Tôi cầu nguyện Thượng Đế hãy giúp nguồn cảm hứng cho tôi, nhưng không phải ở giữa những tiếng cười của toàn thể cử tọa!
Chuyến tàu "City of Sparta" đến Boston vào cuối thánh 9. Ngày 6 tháng 10, tô thuyết pháp lần đầu tiên trên đất Mỹ, tại Đại Hội Tôn Giáo. Buổi thuyết trình được hoan nghinh và tôi thở dài một tiếng nhẹ nhỏm. Viên bí thơ của Hiệp Hộ Tôn Giáo Thống Nhất Hoa Kỳ có viết bài tường thuật về buổi thuyết pháp của tôi.
Nhờ cái ngân phiếu dồi dào của cha tôi, tôi có thể ở lại Mỹ sau ngày bế mạc Đại Hội. Tôi đã ở lại 4 năm ở Boston, trong thời gian đó tôi đi thuyết pháp mở lớp giảng pháp môn Yoga, và xuất bản một tập thi thơ về đạo lý nhan đề "Tiếng Hát của Linh Hồn".
Mùa hè năm 1924, tôi thực hiện một chuyến đi vòng quanh Mỹ Quốc, và thuyết pháp ở mỗi thành phố lớn trước hàng nghìn khán giả. Năm 1925, nhờ sự trợ cấp tài chính của những học viên hảo tâm, tôi thiết lập văn phòng của tôi trên một sườn đồi ở Los Angeles.
Dinh thự này là ngôi kiến trúc đã xuất hiện trong một linh ảnh của tôi từ nhiều năm trước ở Kashmir. Tôi đã gởi ngay cho Sư Phụ tôi một tập hình ảnh và người đã trả lời cho tôi trên một tấm bưu thiếp viết bằng tiếng Bengali, mà tôi xin dịch ra dưới đây:
Serampore, ngày 10 một tháng 8 năm 1926.
Yogananda, con yêu quý của Thầy,
Thầy nhìn xem các bức ảnh đạo viện và các môn đệ Yoga của con, mà lòng Thầy tràn ngập một niềm vui khôn tả. Thầy lấy làm sung sướng mà nhìn thấy trong đó những môn sinh Yoga của nhiều thành phố khác nhau bên Mỹ Quốc.
Thầy nhìn tấm ảnh đạo viện với cái cổng ngoài, con đường đi lên sườn đồi và cái viễn cảnh cùng cảnh vật chung quanh nhìn từ trên đồi mà lòng Thầy chỉ mơ ước một điều: là có ngài Thầy sẽ ngắm nhìn những cảnh ấy tận mắt.
Bên này, mọi sự đều tốt lành. Cầu xin ơn phước thiêng liêng được ban xuống cho con mãi mãi.
Sri Yukteswar Giri.
Thời gian trôi qua đã ghi dấu những hoạt động của tôi ở rãi rác khắp mọi nơi bên Mỹ Quốc. Tôi đi thuyết pháp tại hàng trăm các câu lạc bộ, trường học, giảng đường các nhà thờ và những tổ chức tinh thần khác nhau. Hàng muôn hàng nghìn người Mỹ đã được nhập môn để thụ giáo về đạo pháp Yoga, và đã có dịp thấm nhuần nền minh triết thâm sâu cổ truyền của xứ Ấn Độ muôn đời bất diệt.
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Truyện thần tiên- Cát Hồng |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | danhkiem |
|
||
Túc Kê Linh Quái (Phương pháp coi giò gà bí truyền) - Hồ Quang |
Tủ Sách | administrator |
|
||
Michelle Obama BẢO VỆ Gus Walz sau Khoảnh khắc DNC lan truyền với Bố Tim Walz |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
||
Tử vi Nam Phái chân truyền tiếng Trung quốc, bên trung quốc truyền, rất hiếm |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Elohim |
|
||
Dòng Họ (dòng di truyền) |
Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Elohim |
|
|
|
Tả Ao chân truyền địa lý - 左.眞傳地理 - 0442 |
Sách Phong Thuỷ | administrator |
|
13 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 13 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |