

Truyện ngắn huyền bí - hiendde
Viết bởi Manager, 05/06/11 02:02
1072 replies to this topic
#991
Gửi vào 17/06/2014 - 04:51
NHỮNG LÁ BUÀ TRỪ MA CUẢ THẦY PHÙ THUỶ
(Phần sáu)
Thế nhưng, qua những câu chuyện dân làng kể lại, và qua những lời mà con cháu họ Hà cung cấp, chúng tôi mới nhận ra những hiện tượng trên không hề đơn giản chút nào. Bất chợt, tôi nhớ lại khuôn mặt đầy lo lắng của ông Triệu hôm đó, ông bảo:
- Đời trước ông Quản là những người cao tay, họ có thể khống chế được tà ma yêu quỷ, nên yên thân. Còn về đời sau thì... mình không trị ma, ma sẽ trị mình, đặc biệt việc ông Quản không truyền lại cho ai lại càng là mối lo. Không biết, người được truyền lại kế tiếp có thể thay đổi số phận của dòng họ này không.
Sau khi tiếp nhận sách, chúng tôi có đến một số nhà hàng xóm của ông Quản, để hỏi thông tin. Mọi người trong làng đều truyền tai nhau, về số phận buồn của hai người con trai sinh đôi của ông Quản, là Hà Kim Văn và Hà Kim Võ. Bà Mùi, ông Thúy, bà Hà, đều là hàng xóm của ông Quản, và họ đều chứng kiến những việc làm khác thường của anh em họ Hà Kim.
Theo ông Bùi Văn Năng, sau khi ông Quản mất một vài năm, anh Văn và anh Võ thay đổi tính cách luôn. Với anh Võ, anh trở nên điên dại thẩn thơ cả ngày, nhiều lúc như ma ám, thậm chí quẳng cả mẹ (vợ ông Quản) xuống giếng, cũng may nhiều phen có dân làng đến cứu.
Còn anh Văn trở nên hung hăng rượu chè bê tha, cuối cùng giờ đang phải ngồi ở tù vì tội hại người.
- Tuy rằng mỗi người có một số phận, song dân làng đều truyền tai nhau rằng, nguyên nhân dẫn đến những kết cục như thế là do sự trả thù của ma quỷ. Ông Năng nói thêm.
Để hiểu rõ hơn về bản chất sự việc, chúng tôi được chị Hà Thị Hoa đưa đến trại giam Ninh Khánh, Ninh Bình, để thăm gặp bố chị Hoa là phạm nhân Hà Kim Văn. Tại phòng thăm gặp đối diện với chúng tôi là một con người nhỏ thó khuôn mặt hiện rõ là một người hiền khô, nếu không biết sẽ không có ai nghĩ con người ấy lại là kẻ từng có mưu đồ.
Về tính chất vụ án chúng tôi không bàn sâu, qua lời kể của chị Hoa thì vụ án xảy ra vào tháng 12/2010. Do biết vợ lăng nhăng với ông hàng xóm Văn đã khuyên nhủ, nhưng ngựa quen đường cũ nên Văn đã hắt xăng vào gã hàng xóm, lúc đó cả Văn và gã kia đều bị bỏng nặng. Cái giá mà Văn phải trả cho hành động của mình là mức án chín năm tù giam.
Khi chúng tôi đề cập về những cuốn sách của ông Quản để lại, Văn mừng rỡ bảo:
- Tôi thấy an lòng khi anh là người tiếp nhận số sách kia của thầy tôi, tôi mong rằng anh có thể sử dụng hoặc có thể cất giữ, để sau này có người nhận lại, kế nghiệp truyền đời của gia đình tôi.
(Phần sáu)
Thế nhưng, qua những câu chuyện dân làng kể lại, và qua những lời mà con cháu họ Hà cung cấp, chúng tôi mới nhận ra những hiện tượng trên không hề đơn giản chút nào. Bất chợt, tôi nhớ lại khuôn mặt đầy lo lắng của ông Triệu hôm đó, ông bảo:
- Đời trước ông Quản là những người cao tay, họ có thể khống chế được tà ma yêu quỷ, nên yên thân. Còn về đời sau thì... mình không trị ma, ma sẽ trị mình, đặc biệt việc ông Quản không truyền lại cho ai lại càng là mối lo. Không biết, người được truyền lại kế tiếp có thể thay đổi số phận của dòng họ này không.
Sau khi tiếp nhận sách, chúng tôi có đến một số nhà hàng xóm của ông Quản, để hỏi thông tin. Mọi người trong làng đều truyền tai nhau, về số phận buồn của hai người con trai sinh đôi của ông Quản, là Hà Kim Văn và Hà Kim Võ. Bà Mùi, ông Thúy, bà Hà, đều là hàng xóm của ông Quản, và họ đều chứng kiến những việc làm khác thường của anh em họ Hà Kim.
Theo ông Bùi Văn Năng, sau khi ông Quản mất một vài năm, anh Văn và anh Võ thay đổi tính cách luôn. Với anh Võ, anh trở nên điên dại thẩn thơ cả ngày, nhiều lúc như ma ám, thậm chí quẳng cả mẹ (vợ ông Quản) xuống giếng, cũng may nhiều phen có dân làng đến cứu.
Còn anh Văn trở nên hung hăng rượu chè bê tha, cuối cùng giờ đang phải ngồi ở tù vì tội hại người.
- Tuy rằng mỗi người có một số phận, song dân làng đều truyền tai nhau rằng, nguyên nhân dẫn đến những kết cục như thế là do sự trả thù của ma quỷ. Ông Năng nói thêm.
Để hiểu rõ hơn về bản chất sự việc, chúng tôi được chị Hà Thị Hoa đưa đến trại giam Ninh Khánh, Ninh Bình, để thăm gặp bố chị Hoa là phạm nhân Hà Kim Văn. Tại phòng thăm gặp đối diện với chúng tôi là một con người nhỏ thó khuôn mặt hiện rõ là một người hiền khô, nếu không biết sẽ không có ai nghĩ con người ấy lại là kẻ từng có mưu đồ.
Về tính chất vụ án chúng tôi không bàn sâu, qua lời kể của chị Hoa thì vụ án xảy ra vào tháng 12/2010. Do biết vợ lăng nhăng với ông hàng xóm Văn đã khuyên nhủ, nhưng ngựa quen đường cũ nên Văn đã hắt xăng vào gã hàng xóm, lúc đó cả Văn và gã kia đều bị bỏng nặng. Cái giá mà Văn phải trả cho hành động của mình là mức án chín năm tù giam.
Khi chúng tôi đề cập về những cuốn sách của ông Quản để lại, Văn mừng rỡ bảo:
- Tôi thấy an lòng khi anh là người tiếp nhận số sách kia của thầy tôi, tôi mong rằng anh có thể sử dụng hoặc có thể cất giữ, để sau này có người nhận lại, kế nghiệp truyền đời của gia đình tôi.
#992
Gửi vào 17/06/2014 - 05:37
NHỮNG LÁ BUÀ TRỪ MA CUẢ THẦY PHÙ THUỶ
(Phần kết)
Hôm nay, ngồi trò chuyện với những người phụ nữ họ Hà, ngoài những bí ẩn về kho sách, chúng tôi cũng ôm không ít khúc mắc xoay quanh chuyện ma quỷ báo thù mà cụ thể là trường hợp hai anh em họ Hà Kim.
Bà Tuất tâm sự:
- Tôi không biết có phải ma quỷ báo thù như dân làng đồn đoán hay không, nhưng nghe người ta nói cái nghiệp của ông cụ nhà tôi cần người kế vị. Với hai cậu em, đúng là họ đáng thương hơn là đáng trách.
Đúng dịp này mười năm trước, tức là năm 2003, vừa tròn mười năm sau khi ông Quản mất, ngoài Ninh Bình điện vào nói:
- Anh Võ có nhiều dấu hiệu lạ của bệnh ma quỷ nhập thân. Có lúc, Võ ngồi cặm cụi, miệt mài cầm bút vẽ hổ, vẽ ngựa, rồi lẩm bẩm suốt ngày, mọi người trông thấy tưởng rằng ông Quản đang truyền dạy cho anh ấy.
Nhiều hôm cậu ấy không ăn, không uống, không cười nói khiến ai cũng lo. Đến nửa đêm thì cậu ấy bỏ đi đâu không một ai biết. Mọi người đã cất công đi tìm kiếm nhưng đều bặt vô âm tín. Mấy tháng sau, cậu ấy tìm đến nhà tôi. Gặp mặt, cậu ấy bảo:
- Tôi không nhớ đường vào nhà chị. Tôi ở Vạn Thành (một làng cách nhà bà Tuất đang ở chừng 5km) suốt một tháng nay, nhưng không sao vào nhà chị được. Bà Tuấn kể.
Võ kể lại cho mọi người nghe rằng anh đã đi lang thang khắp nơi, từ Ninh Bình đi bộ vào đến Bình Định, Phú Yên. Trong túi không có một xu, toàn ăn muối trắng, uống nước lã rồi lọc cọc suốt chặng đường dài từ Bắc vào Nam như vậy.
Anh bảo:
- Không đi không chịu được, mọi hành vi đều có ai đó chỉ đường. Đầu trần, chân đất cứ thế là đi, đến mấy tháng nay thì về đây.
Vào nhà bà Tuất được một thời gian, thấy tỉnh táo nên anh Võ bắt xe về Ninh Bình. Nhưng từ khi đặt chân xuống đất, bệnh trúng tà lại bắt đầu tái phát. Được một thời gian sau thì Võ mất, khi đó anh mới ba mươi bốn tuổi. Nghĩ về người em kém may mắn của mình, giọng bà Tuất trầm xuống, ngắt quãng. Không giấu được xúc động, bà Sửu tiếp lời:
- Cậu Võ đã mất, xem như đã hết. Còn cậu Văn cũng chẳng khá hơn, ngẫm mà thêm sầu thêm tủi. Khi thầy tôi mất được một thời gian, cậu Văn vào Gia Lai làm ăn. Vào được mấy ngày thì bị gỗ đè, chân, tay, xương sườn đều gãy hết, toàn thân bó bột, bất động, phải về đây để chị em tôi và bà cô đây chăm sóc. Khi các vết thương lành lặn, Văn trở về Ninh Bình và dần dần thành kẻ rượu chè bê tha. Cuối cùng thì bản án chín năm tù giam là một cái giá mà Văn phải trả, nhưng còn đó bao nỗi đau, nỗi ưu phiền chưa dứt. Bà Sửu nghẹn ngào.
Hôm nay, trò chuyện với những người phụ nữ mang họ Hà, thuộc dòng Hà Kim, chúng tôi mới biết thêm chút ít. Tôi biết bà Chúc đã ngoài bảy mươi nhưng vẫn ở một mình, không chồng, con, nguyên nhân vì sao thì cũng không nằm ngoài lời đồn đoán của thiên hạ. Còn những người phụ nữ khác như bà Tuất, bà Sửu thì cũng chẳng khấm khá chút nào, hay đúng như người đời thường nói ăn vay cả đời.
Làm phản hay trả thù đều có chung một mục đích. Nhưng ai làm phản, ai trả thù? Hướng thứ nhất cho rằng những thầy phù thủy Hà Kim, trước đó là những người có thể sai thần khiển tướng, truy bắt ma quỷ nên ma quỷ ôm hận, nhân lúc không có người kế nghiệp quản ngục, nên quay về báo thù. Hướng thứ hai cho rằng, họ là những bậc cao siêu có thể thay đổi vận mệnh, số phận con người, việc họ cứu giúp người khác thoát khỏi kiếp nạn là đã làm trái với nguyên tắc, thế nên thần thánh tứ phương mới trừng phạt như vậy.
Trở về Hà Nội, ngồi lật dở từng trang sách, vừa lật vừa nghĩ, thật chẳng hiểu dụng ý của ông Quản là gì, vì sao những người lớn tuổi, những người có kinh nghiệm, có đam mê, có hiểu biết về tướng số... đều không tìm thấy sách, mà chỉ có mình tôi.. một thanh niên chưa có vợ con, kiến thức hạn hẹp lại trông thấy?
Ông ấy “chỉ” sách cho tôi với mục đích gì? Vì sao ông Triệu lại nói, cháu đồng ý mang những cuốn sách này đi, ông mừng lắm, ít nhất thì nó đã không bị thất truyền rồi và xem ra những người còn lại của dòng họ Hà có thể được cứu…!!! Không ít những lời kể, nhưng lời đoán xoay quanh việc giải mã những hình vẽ, những con chữ trong kho sách, để có một câu trả lời cụ thể, đòi hỏi chúng tôi tiếp tục lên đường đi tìm câu trả lời.
Pháp Lý
(Phần kết)
Hôm nay, ngồi trò chuyện với những người phụ nữ họ Hà, ngoài những bí ẩn về kho sách, chúng tôi cũng ôm không ít khúc mắc xoay quanh chuyện ma quỷ báo thù mà cụ thể là trường hợp hai anh em họ Hà Kim.
Bà Tuất tâm sự:
- Tôi không biết có phải ma quỷ báo thù như dân làng đồn đoán hay không, nhưng nghe người ta nói cái nghiệp của ông cụ nhà tôi cần người kế vị. Với hai cậu em, đúng là họ đáng thương hơn là đáng trách.
Đúng dịp này mười năm trước, tức là năm 2003, vừa tròn mười năm sau khi ông Quản mất, ngoài Ninh Bình điện vào nói:
- Anh Võ có nhiều dấu hiệu lạ của bệnh ma quỷ nhập thân. Có lúc, Võ ngồi cặm cụi, miệt mài cầm bút vẽ hổ, vẽ ngựa, rồi lẩm bẩm suốt ngày, mọi người trông thấy tưởng rằng ông Quản đang truyền dạy cho anh ấy.
Nhiều hôm cậu ấy không ăn, không uống, không cười nói khiến ai cũng lo. Đến nửa đêm thì cậu ấy bỏ đi đâu không một ai biết. Mọi người đã cất công đi tìm kiếm nhưng đều bặt vô âm tín. Mấy tháng sau, cậu ấy tìm đến nhà tôi. Gặp mặt, cậu ấy bảo:
- Tôi không nhớ đường vào nhà chị. Tôi ở Vạn Thành (một làng cách nhà bà Tuất đang ở chừng 5km) suốt một tháng nay, nhưng không sao vào nhà chị được. Bà Tuấn kể.
Võ kể lại cho mọi người nghe rằng anh đã đi lang thang khắp nơi, từ Ninh Bình đi bộ vào đến Bình Định, Phú Yên. Trong túi không có một xu, toàn ăn muối trắng, uống nước lã rồi lọc cọc suốt chặng đường dài từ Bắc vào Nam như vậy.
Anh bảo:
- Không đi không chịu được, mọi hành vi đều có ai đó chỉ đường. Đầu trần, chân đất cứ thế là đi, đến mấy tháng nay thì về đây.
Vào nhà bà Tuất được một thời gian, thấy tỉnh táo nên anh Võ bắt xe về Ninh Bình. Nhưng từ khi đặt chân xuống đất, bệnh trúng tà lại bắt đầu tái phát. Được một thời gian sau thì Võ mất, khi đó anh mới ba mươi bốn tuổi. Nghĩ về người em kém may mắn của mình, giọng bà Tuất trầm xuống, ngắt quãng. Không giấu được xúc động, bà Sửu tiếp lời:
- Cậu Võ đã mất, xem như đã hết. Còn cậu Văn cũng chẳng khá hơn, ngẫm mà thêm sầu thêm tủi. Khi thầy tôi mất được một thời gian, cậu Văn vào Gia Lai làm ăn. Vào được mấy ngày thì bị gỗ đè, chân, tay, xương sườn đều gãy hết, toàn thân bó bột, bất động, phải về đây để chị em tôi và bà cô đây chăm sóc. Khi các vết thương lành lặn, Văn trở về Ninh Bình và dần dần thành kẻ rượu chè bê tha. Cuối cùng thì bản án chín năm tù giam là một cái giá mà Văn phải trả, nhưng còn đó bao nỗi đau, nỗi ưu phiền chưa dứt. Bà Sửu nghẹn ngào.
Hôm nay, trò chuyện với những người phụ nữ mang họ Hà, thuộc dòng Hà Kim, chúng tôi mới biết thêm chút ít. Tôi biết bà Chúc đã ngoài bảy mươi nhưng vẫn ở một mình, không chồng, con, nguyên nhân vì sao thì cũng không nằm ngoài lời đồn đoán của thiên hạ. Còn những người phụ nữ khác như bà Tuất, bà Sửu thì cũng chẳng khấm khá chút nào, hay đúng như người đời thường nói ăn vay cả đời.
Làm phản hay trả thù đều có chung một mục đích. Nhưng ai làm phản, ai trả thù? Hướng thứ nhất cho rằng những thầy phù thủy Hà Kim, trước đó là những người có thể sai thần khiển tướng, truy bắt ma quỷ nên ma quỷ ôm hận, nhân lúc không có người kế nghiệp quản ngục, nên quay về báo thù. Hướng thứ hai cho rằng, họ là những bậc cao siêu có thể thay đổi vận mệnh, số phận con người, việc họ cứu giúp người khác thoát khỏi kiếp nạn là đã làm trái với nguyên tắc, thế nên thần thánh tứ phương mới trừng phạt như vậy.
Trở về Hà Nội, ngồi lật dở từng trang sách, vừa lật vừa nghĩ, thật chẳng hiểu dụng ý của ông Quản là gì, vì sao những người lớn tuổi, những người có kinh nghiệm, có đam mê, có hiểu biết về tướng số... đều không tìm thấy sách, mà chỉ có mình tôi.. một thanh niên chưa có vợ con, kiến thức hạn hẹp lại trông thấy?
Ông ấy “chỉ” sách cho tôi với mục đích gì? Vì sao ông Triệu lại nói, cháu đồng ý mang những cuốn sách này đi, ông mừng lắm, ít nhất thì nó đã không bị thất truyền rồi và xem ra những người còn lại của dòng họ Hà có thể được cứu…!!! Không ít những lời kể, nhưng lời đoán xoay quanh việc giải mã những hình vẽ, những con chữ trong kho sách, để có một câu trả lời cụ thể, đòi hỏi chúng tôi tiếp tục lên đường đi tìm câu trả lời.
Pháp Lý
Thanked by 1 Member:
|
|
#993
Gửi vào 17/06/2014 - 10:01
HỒN MA TRONG CHUÀ
Đời sống này cái quan trọng nhất là sinh tử. Thời gian trôi qua như chớp, thoáng một cái đã bạc đầu. Sống chết thực sự là chuyện lớn lao vô cùng. Mọi nỗ lực mưu cầu của chúng ta đều nằm trong sanh tử. Nếu chẳng may vô thường đến thì bao nhiêu sự nghiệp tạo tác đều phải bỏ lại. Tại sao con người không biết lợi dụng thời gian ngắn ngủi từ sanh tới tử này để học hỏi trí tuệ, mà lại tạo ác nghiệp!
Than ôi! Chỉ một phút lầm lỡ còn hận đến thiên thu huống chi là cả một đời tạo khẩu nghiệp thử hỏi Phật nào cứu chúng ta được..! Đương nhiên kiếp lai sinh là phải bị thảm nạn Câm, Điếc, Mù lòa. Vì anh nói tầm bậy nhiều quá thì phải tái sanh làm kẻ Câm cho chừa cái tật nói bậy. Vì anh thích nghe tiếng đường mật hoa mỹ thì cho anh Điếc để bớt nghe những lời không cần thiết nữa.
Vì anh học đạo mà không tiêu hóa được đạo hoặc anh không thích nhìn thấy con đường đạo lý tốt đẹp thì cho anh Đui mù để khỏi mang tiếng có mắt mà không thấy đường. Đây là những quả báo mà nhà Phật đã nêu ra, là luật nhân quả tự nhiên của cuộc đời. Nhân quả này đã tuần hoàn trong đời sống nhân sinh mà ít ai để ý đến.
Con người sinh ra là do nghiệp lực thúc đẩy, chỉ có một thiểu số là Bồ Tát vì nguyện lực ra đời với xứ mạng cứu độ chúng sanh. Như vậy chúng ta hãy nên tự hiểu rằng sức mạnh thúc đẩy mình tái sanh nơi cuộc đời này chính là do Nghiệp tạo tác ở quá khứ.Vì lẽ đó mà con người phải trả lời những nhân quả nghiệp báo mà họ đã tạo. Nếu may mắn tạo nghiệp lành thì họ được tái sanh trong một cuộc đời hạnh phúc. Nếu tạo nghiệp ác thì đương nhiên họ sẽ tái sanh nơi khổ cảnh.
Kiếp sống hiện tại của con người là chứng tích họ đã có một quá khứ như thế nào. Tuy nhiên điều này không quan trọng. Cái quan trọng là anh có thừa nhận lý nhân quả nghiệp báo của Phật giáo hay không? Nếu anh không công nhận nó thì cuộc đời anh sẽ biến chuyển giống y như định luật nhân quả đã ấn định. Nếu anh công nhận nó và phát tâm tu tập điều thiện lành thì do ước nguyện làm thiện sẽ giúp anh tiêu trừ một số ác nghiệp quá khứ mà lẽ ra anh phải thọ báo một cách nặng nề.
Những việc làm tốt như bố thí cúng dường kính trọng Tam Bảo của một người sẽ gắn bó với họ trong dòng sinh mạng tiếp nối và đó là lý do tại sao có nhiều người hưởng thụ được một đời sống thoải mái và hạnh phúc hơn những người khác. Đó là ý nghĩa của sự tu hành.
Tu hành xuất gia là con đường cao nhất mà một người có thể chọn lựa. Chỉ tiếc một điều sau khi chọn lựa con đường xuất gia rồi có người vẫn không đánh giá được con đường mình đi cao cả như thế nào và trách vụ mình đã chọn là tu hành và hóa độ chúng sanh. Vì lẽ đó họ đã làm mai một cái đời sống cao thượng đáng quý để đi tìm kiếm sự tiện nghi và những tình cảm thân ái tầm thường giữa những tín đồ.
Họ không dám mạnh dạn sống thật với lòng mình, với giáo pháp giải thoát tối hậu mà họ đã ngộ nhập được. Đó là lý do tại sao có người tu hành nhiều năm mà chẳng đạt được một tí thành quả tâm linh gì đáng kể ngoài một mớ kinh giáo thuộc lòng. Ấy là do không dụng công tu tập các pháp hành mà chỉ chú trọng các pháp sự trong phạm vi ứng phó đạo tràng.
Thật sự đời sống tu hành trong điều kiện của xã hội hiện tại cũng là một trở ngại rất lớn cho việc siêu xuất sanh tử, nói chi đến việc buông lung tâm ý. Ngày xưa đức Phật tu hành thiền định chỉ sáu năm là chứng quả vô thượng bồ đề. Xét về mặt tư cách tu hành thì đức Phật đã thành tựu được đạo quả do chỗ khổ hạnh công phu diệt dục, khắc chế nội tâm.
Sự tu hành của giới xuất gia ngày nay quá sung sướng về mặt vật chất tiện nghi lại thêm sự ưu ái cúng dường của tín đồ thì đương nhiên kết quả thành đạo khó lòng đạt được. Vì vậy người xuất gia trong thời đại này cần phải phát tâm dũng mãnh, phát nguyện làm một cái gì đó lợi ích cho đại thể hay chịu khổ hạnh công phu thì họa may mới đủ công đức giải thoát. Chỉ có một điều có thể an ủi là trong một thời đại văn minh cơ khí tiện nghi vật chất mà một người có thể từ bỏ thế tục để sống cuộc đời xuất trần thượng sĩ.
Có những hạng người tu hành với tâm trí bệ rạc chỉ muốn an nhàn thoái mái trong cuộc sống tu tập, không bao giờ thích nghịch cảnh. Ban đầu họ cũng dũng mãnh xuất gia, nhưng thiếu sự học hỏi giáo lý từ các bậc thầy thiện hữu trí thức nên dần dà họ quên mất sứ mạng cao cả, bèn tách ra khỏi tăng đoàn trở về nhà sống tự do an dưỡng bên cạnh đàn con cháu thọ nhận sự nuôi nấng đùm bộc của những người thân quyến này.
Họ lý luận rằng: “Tuổi già sức yếu, tôi không muốn làm phiền các huynh đệ trong chùa và thọ lãnh sự cúng dường của đàn việt” Họ quên rằng con cháu họ cũng là một hình thức đàn việt. Bỏ sự thọ lãnh của đàn việt trong Chùa để thọ lãnh của đàn việt là con cháu mình ở nhà thì có khi còn nguy hiểm hơn. Từ sự thọ lãnh này hun đúc thêm mối dây nhợ ái dục giữa con cái thì sự giải thoát làm sao thực hiện được?
Trải qua gần một năm khi dời Chùa về địa điểm mới, mọi người ra sức tu bổ biến khu nhà rộng lớn này thành một đạo tràng tương đối hoàn chỉnh. Tôi bắt đầu tổ chức những khóa tu học bát quan trai rồi những khóa Phật thất hàng tuần. Tín đồ bắt đầu quy tụ về tu học và gieo được niềm tin vào sự Vãng sanh Cực Lạc.
Trong thời gian đại chúng tu tập trú ngụ trong Chùa mới phát hiện ra những hiện tượng ma quỷ kỳ lạ.
Tôi giấu nhẹm tin tức này và bí mật tìm hiểu tại sao có hiện tượng những linh hồn mặc áo đen ban đêm thường hiện ra xua đuổi những đệ tử trú ngụ trong Chùa. Đối với tôi họ rất nể trọng không dám có thái độ gì nhưng những đệ tử của tôi thì thường bị những hiện tượng ma ám. Ví dụ như đang ngủ thì bị giựt chăn mền và có người đang ngủ nghe tiếng nói từ trong tường vang ra: “hãy đi đi! đi khỏi nơi này ngay!”.
Có những lúc tôi thấy rõ ràng hai nữ nhân mặc đồ trắng toát đi vào phòng tôi và xuyên qua ngả lò sưởi rồi biến mất trong hư không. Có lần một vị đệ tử nhìn thấy một người lạ hoắc đứng gần cây chuối rồi tự nhiên biến mất. Nhiều lần khác ở ngoài vườn Sư cô Trí Ấn nhìn thấy rõ ràng một người nữ còn rất trẻ đi dạo trong vườn một cách rất tự nhiên rồi đột nhiên biến mất dạng.
Ở xứ Anh này nổi tiếng là nhiều ma quỷ, nhưng không hiểu sao lần nào tôi chọn mua Chùa cũng đều bị lọt vào những ngôi nhà có Ma. Có lẽ tôi có số độ cho ma quỷ tu hành?? Tôi bắt đầu thiền định mỗi đêm và những gì tôi chứng kiến được đều không dám nói cho đệ tử nghe. Nếu bọn nó nghe được thì chắc không đứa nào dám ở đây tu.
Ngôi nhà này nguyên thủy là một villas sang trọng có 10 phòng ngủ 3 phòng khách và nhiều phòng linh tinh khác của Bá tước Bernard xây dựng hồi năm 1891. Bà vợ của Bá tước bị chết trong căn phòng bên trái của tầng lầu thứ hai (sau này làm phòng ăn cho chư tăng). Đến năm 1917 căn nhà này được bán lại cho một người Do Thái.
Đến năm 1941 chiến tranh đệ nhị thế chiến xảy ra. Gia đình người Do Thái bị thảm sát ngay tại căn nhà này. Chính phủ đã niêm phong căn nhà suốt thời gian chiến tranh và chỉ dùng để chứa xác chết của các quân nhân tử trận (nơi căn hầm mà tôi thường dùng để chứa máy móc in kinh). Lúc đó khu vực này là một ngọn đồi còn rất hoang vu và là nơi xảy ra nhiều trận dội bom kinh hồn.
Sau khi chiến tranh chấm dứt một thời gian dài ngôi nhà này mới được bán lại cho một hội thánh Tin Lành và sau đó bán lại cho một người Anh. Gia đình người Anh này bị linh hồn của bà Bá Tước và nhiều hồn ma của các người Do Thái bị giết trong chiến tranh phá phách, nên bán lại cho một gia đình người Ý vào năm 1979. Từ năm này gia đình người Ý sửa lại căn nhà cho thuê. Do ảnh hưởng của Ma quỷ nên không ai dám thuê ở lâu dài vì thường bị ma đuổi đi.
Đến năm 1995 thì rao bán căn nhà này nhưng mãi hai năm sau Chùa mới mua tức là năm 1997. Sau đó có hai thanh niên trẻ tình cờ trở lại ngôi Chùa cho biết ngày xưa khi họ còn là sinh viên từng trú ngụ ở căn nhà này nơi căn phòng nhìn ra sau vườn. Họ kể rất rùng rợn là mỗi đêm thường bị các hồn ma lay dậy và tống ra khỏi phòng, họ sợ đến nổi mà không bao giờ dám có mặt trong phòng một người dù là ban ngày, lúc nào cũng đợi có đủ hai người mới dám bước vào phòng. Và cuối cùng họ dọn đi, chủ nhà cũng không thể cho ai thuê căn phòng đó và đành để làm nhà kho.
Ban đầu những linh hồn cư ngụ trong căn nhà này đều không thích có sự hiện diện của những người tu hành như chúng tôi nên thường tạo ra những rắc rối và khích động lạ lùng. Sau nhiều thời gian tụng kinh trì chú cầu siêu thoát cho những hồn ma chết oan thì hiện tượng ma quỷ phá phách đã thực sự chấm dứt 100% (mỗi đêm tôi thường trì chú Phật đảnh tôn Thắng và hồi hướng cho các linh hồn chết oan).
Nhưng khổ thay! Những linh hồn ở đây cùng với những linh hồn thờ phượng trong Chùa nó đã quen tiếng kinh kệ và bây giờ chúng lại không muốn chúng tôi dọn đi. Thật là lạ lùng khó hiểu làm sao??!! Đã ba lần chùa bị Chánh quyền địa phương tuyên bố ngừng chỉ sự sinh hoạt, nhưng không hiểu sao cả ba lần đều được một lực bí mật vô hình giúp cho sự sinh hoạt trở lại bình thường. Chắc chắn có sự can thiệp của những hồn ma về việc sinh hoạt ở đây. Có một số linh hồn chưa chịu đi khỏi nơi đây, và ngấm ngầm ủng hộ chùa. Họ khiến cho Council làm ngơ không nói năng gì về việc sinh hoạt bất hợp pháp nữa.
Các hồn ma không hiện hình hay gây những ấn tượng mạnh như hồi xưa và như thế chúng tôi vẫn tiếp tục sinh hoạt cho đến ngày hôm nay, mặc dù Chùa đã bị đưa ra tòa kết án nhiều lần.
Những câu chuyện về hồn ma hiện lên ở sau vườn trong những lúc tôi ngồi thiền định được dấu kín suốt thời gian qua. Vì sợ nói ra thì các phật tử hoang mang không ai dám đến Chùa. Lúc đó các linh ảnh về các trận chiến đẫm máu tại ngọn đồi Beulah (BEULAH HILL) diễn lại đúng y như lịch sử hồi năm 1941 khi phát xít Đức tấn công nước Anh. Hàng ngày xác chết của lính Anh được mang đến lưu giữ tại sau vườn và trong căn hầm của tòa nhà trước khi mang đi chôn cất.
Phía sau chùa lúc đó chưa có nhà cửa và thông với một công viên rộng lớn, con đường chạy ngang công viên chưa được đặt tên. Cảnh tượng gia đình người Do Thái bị giết một cách dã man bởi gián điệp Đức được diễn lại một cách linh động giống y như sự thật đang xảy ra. Một thiếu nữ con của gia đình này bị làm nhục quá đau đớn đã chết ngay dưới gốc cây chỗ đặt đức Phật nằm. Và linh hồn cô này tồn tại đến hơn 65 năm sau.
Tôi hiểu cảnh giới ma quỷ là một hiện tượng có thật nhưng vì không có ai nhìn thấy nên cho đó là những chuyện hoang đường. Thật sự đó là những chúng sanh sau khi chết linh hồn còn quyến luyến cõi trần. Họ bám chặt những nơi chốn cũ và sinh hoạt y như hồi họ còn sống. Vì không có ai cúng kiến hay khai thị cho họ hiểu rằng họ đã chết và môi trường họ đang sống đã thay đổi với những con người mới không cùng nghiệp trong cảnh giới của họ.
Con người đã tái sinh trong dòng sinh mạng vô tận không gián đoạn này không biết bao nhiêu lần. Mỗi một kiếp sống như vậy, thay vì họ học hỏi và thực hành những điều hay tốt thiện lành để tiến hóa về mặt tâm linh thì họ lại xu hướng vào những lối sống ích kỷ của tự thân với những đam mê đầy dục nhiễm về danh vọng và sự nghiệp cá nhân.
Bởi vậy khi chết linh hồn họ không siêu thoát lên các cảnh giới trên cao được. Thực sự mỗi kiếp sống là một cơ hội để chúng ta học hỏi sự tiến hóa. Những bài học trong cuộc đời này có khi là những sự đau khổ cùng cực nào đó hay một chướng duyên nghịch cảnh thử thách v.v...
Tuy nhiên làm sao con người có thể hiểu được điều này một cách dễ dàng, vì thế hầu hết đều xây dựng cuộc đời mình với những vọng tưởng u ám và dục vọng vô bờ. Cuối cùng họ ra đi với hai bàn tay trắng với một nghiệp thức đầy tội lỗi. Kinh giáo của đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vấn đề tu tập thiện lành.
Chùa chiền mở ra đều có mục đích khai ngộ và hướng dẫn đời sống tâm linh cho chúng sanh, nhưng than ôi! Số người đến với Phật giáo vẫn còn quá ít ỏi. Đôi khi có người vào đến cửa Chùa rồi cũng không chịu để hết tâm tu tập Phật pháp, vẫn còn tiếp diễn những thái độ vô minh bằng cách gây rắc rối đến nhiều người khác, tranh chấp nhau y như một kẻ không biết đạo lý.
Đây cũng là một hình thức oan báo tương quan, có nghĩa là nhiều đời trươc ở quá khứ con người từng có những mối oán hận gì đó và họ đã tái sanh lại để trả lời những oan báo đó và điều này có lẽ cũng cần thiết để khích lệ những người chân chánh hiểu họ cần tu hành trong nghịch cảnh như thế nào, nỗ lực hơn nữa trong cuộc sống tu tập để giải thoát.
Thượng Tọa Thích Trí Như
Đời sống này cái quan trọng nhất là sinh tử. Thời gian trôi qua như chớp, thoáng một cái đã bạc đầu. Sống chết thực sự là chuyện lớn lao vô cùng. Mọi nỗ lực mưu cầu của chúng ta đều nằm trong sanh tử. Nếu chẳng may vô thường đến thì bao nhiêu sự nghiệp tạo tác đều phải bỏ lại. Tại sao con người không biết lợi dụng thời gian ngắn ngủi từ sanh tới tử này để học hỏi trí tuệ, mà lại tạo ác nghiệp!
Than ôi! Chỉ một phút lầm lỡ còn hận đến thiên thu huống chi là cả một đời tạo khẩu nghiệp thử hỏi Phật nào cứu chúng ta được..! Đương nhiên kiếp lai sinh là phải bị thảm nạn Câm, Điếc, Mù lòa. Vì anh nói tầm bậy nhiều quá thì phải tái sanh làm kẻ Câm cho chừa cái tật nói bậy. Vì anh thích nghe tiếng đường mật hoa mỹ thì cho anh Điếc để bớt nghe những lời không cần thiết nữa.
Vì anh học đạo mà không tiêu hóa được đạo hoặc anh không thích nhìn thấy con đường đạo lý tốt đẹp thì cho anh Đui mù để khỏi mang tiếng có mắt mà không thấy đường. Đây là những quả báo mà nhà Phật đã nêu ra, là luật nhân quả tự nhiên của cuộc đời. Nhân quả này đã tuần hoàn trong đời sống nhân sinh mà ít ai để ý đến.
Con người sinh ra là do nghiệp lực thúc đẩy, chỉ có một thiểu số là Bồ Tát vì nguyện lực ra đời với xứ mạng cứu độ chúng sanh. Như vậy chúng ta hãy nên tự hiểu rằng sức mạnh thúc đẩy mình tái sanh nơi cuộc đời này chính là do Nghiệp tạo tác ở quá khứ.Vì lẽ đó mà con người phải trả lời những nhân quả nghiệp báo mà họ đã tạo. Nếu may mắn tạo nghiệp lành thì họ được tái sanh trong một cuộc đời hạnh phúc. Nếu tạo nghiệp ác thì đương nhiên họ sẽ tái sanh nơi khổ cảnh.
Kiếp sống hiện tại của con người là chứng tích họ đã có một quá khứ như thế nào. Tuy nhiên điều này không quan trọng. Cái quan trọng là anh có thừa nhận lý nhân quả nghiệp báo của Phật giáo hay không? Nếu anh không công nhận nó thì cuộc đời anh sẽ biến chuyển giống y như định luật nhân quả đã ấn định. Nếu anh công nhận nó và phát tâm tu tập điều thiện lành thì do ước nguyện làm thiện sẽ giúp anh tiêu trừ một số ác nghiệp quá khứ mà lẽ ra anh phải thọ báo một cách nặng nề.
Những việc làm tốt như bố thí cúng dường kính trọng Tam Bảo của một người sẽ gắn bó với họ trong dòng sinh mạng tiếp nối và đó là lý do tại sao có nhiều người hưởng thụ được một đời sống thoải mái và hạnh phúc hơn những người khác. Đó là ý nghĩa của sự tu hành.
Tu hành xuất gia là con đường cao nhất mà một người có thể chọn lựa. Chỉ tiếc một điều sau khi chọn lựa con đường xuất gia rồi có người vẫn không đánh giá được con đường mình đi cao cả như thế nào và trách vụ mình đã chọn là tu hành và hóa độ chúng sanh. Vì lẽ đó họ đã làm mai một cái đời sống cao thượng đáng quý để đi tìm kiếm sự tiện nghi và những tình cảm thân ái tầm thường giữa những tín đồ.
Họ không dám mạnh dạn sống thật với lòng mình, với giáo pháp giải thoát tối hậu mà họ đã ngộ nhập được. Đó là lý do tại sao có người tu hành nhiều năm mà chẳng đạt được một tí thành quả tâm linh gì đáng kể ngoài một mớ kinh giáo thuộc lòng. Ấy là do không dụng công tu tập các pháp hành mà chỉ chú trọng các pháp sự trong phạm vi ứng phó đạo tràng.
Thật sự đời sống tu hành trong điều kiện của xã hội hiện tại cũng là một trở ngại rất lớn cho việc siêu xuất sanh tử, nói chi đến việc buông lung tâm ý. Ngày xưa đức Phật tu hành thiền định chỉ sáu năm là chứng quả vô thượng bồ đề. Xét về mặt tư cách tu hành thì đức Phật đã thành tựu được đạo quả do chỗ khổ hạnh công phu diệt dục, khắc chế nội tâm.
Sự tu hành của giới xuất gia ngày nay quá sung sướng về mặt vật chất tiện nghi lại thêm sự ưu ái cúng dường của tín đồ thì đương nhiên kết quả thành đạo khó lòng đạt được. Vì vậy người xuất gia trong thời đại này cần phải phát tâm dũng mãnh, phát nguyện làm một cái gì đó lợi ích cho đại thể hay chịu khổ hạnh công phu thì họa may mới đủ công đức giải thoát. Chỉ có một điều có thể an ủi là trong một thời đại văn minh cơ khí tiện nghi vật chất mà một người có thể từ bỏ thế tục để sống cuộc đời xuất trần thượng sĩ.
Có những hạng người tu hành với tâm trí bệ rạc chỉ muốn an nhàn thoái mái trong cuộc sống tu tập, không bao giờ thích nghịch cảnh. Ban đầu họ cũng dũng mãnh xuất gia, nhưng thiếu sự học hỏi giáo lý từ các bậc thầy thiện hữu trí thức nên dần dà họ quên mất sứ mạng cao cả, bèn tách ra khỏi tăng đoàn trở về nhà sống tự do an dưỡng bên cạnh đàn con cháu thọ nhận sự nuôi nấng đùm bộc của những người thân quyến này.
Họ lý luận rằng: “Tuổi già sức yếu, tôi không muốn làm phiền các huynh đệ trong chùa và thọ lãnh sự cúng dường của đàn việt” Họ quên rằng con cháu họ cũng là một hình thức đàn việt. Bỏ sự thọ lãnh của đàn việt trong Chùa để thọ lãnh của đàn việt là con cháu mình ở nhà thì có khi còn nguy hiểm hơn. Từ sự thọ lãnh này hun đúc thêm mối dây nhợ ái dục giữa con cái thì sự giải thoát làm sao thực hiện được?
Trải qua gần một năm khi dời Chùa về địa điểm mới, mọi người ra sức tu bổ biến khu nhà rộng lớn này thành một đạo tràng tương đối hoàn chỉnh. Tôi bắt đầu tổ chức những khóa tu học bát quan trai rồi những khóa Phật thất hàng tuần. Tín đồ bắt đầu quy tụ về tu học và gieo được niềm tin vào sự Vãng sanh Cực Lạc.
Trong thời gian đại chúng tu tập trú ngụ trong Chùa mới phát hiện ra những hiện tượng ma quỷ kỳ lạ.
Tôi giấu nhẹm tin tức này và bí mật tìm hiểu tại sao có hiện tượng những linh hồn mặc áo đen ban đêm thường hiện ra xua đuổi những đệ tử trú ngụ trong Chùa. Đối với tôi họ rất nể trọng không dám có thái độ gì nhưng những đệ tử của tôi thì thường bị những hiện tượng ma ám. Ví dụ như đang ngủ thì bị giựt chăn mền và có người đang ngủ nghe tiếng nói từ trong tường vang ra: “hãy đi đi! đi khỏi nơi này ngay!”.
Có những lúc tôi thấy rõ ràng hai nữ nhân mặc đồ trắng toát đi vào phòng tôi và xuyên qua ngả lò sưởi rồi biến mất trong hư không. Có lần một vị đệ tử nhìn thấy một người lạ hoắc đứng gần cây chuối rồi tự nhiên biến mất. Nhiều lần khác ở ngoài vườn Sư cô Trí Ấn nhìn thấy rõ ràng một người nữ còn rất trẻ đi dạo trong vườn một cách rất tự nhiên rồi đột nhiên biến mất dạng.
Ở xứ Anh này nổi tiếng là nhiều ma quỷ, nhưng không hiểu sao lần nào tôi chọn mua Chùa cũng đều bị lọt vào những ngôi nhà có Ma. Có lẽ tôi có số độ cho ma quỷ tu hành?? Tôi bắt đầu thiền định mỗi đêm và những gì tôi chứng kiến được đều không dám nói cho đệ tử nghe. Nếu bọn nó nghe được thì chắc không đứa nào dám ở đây tu.
Ngôi nhà này nguyên thủy là một villas sang trọng có 10 phòng ngủ 3 phòng khách và nhiều phòng linh tinh khác của Bá tước Bernard xây dựng hồi năm 1891. Bà vợ của Bá tước bị chết trong căn phòng bên trái của tầng lầu thứ hai (sau này làm phòng ăn cho chư tăng). Đến năm 1917 căn nhà này được bán lại cho một người Do Thái.
Đến năm 1941 chiến tranh đệ nhị thế chiến xảy ra. Gia đình người Do Thái bị thảm sát ngay tại căn nhà này. Chính phủ đã niêm phong căn nhà suốt thời gian chiến tranh và chỉ dùng để chứa xác chết của các quân nhân tử trận (nơi căn hầm mà tôi thường dùng để chứa máy móc in kinh). Lúc đó khu vực này là một ngọn đồi còn rất hoang vu và là nơi xảy ra nhiều trận dội bom kinh hồn.
Sau khi chiến tranh chấm dứt một thời gian dài ngôi nhà này mới được bán lại cho một hội thánh Tin Lành và sau đó bán lại cho một người Anh. Gia đình người Anh này bị linh hồn của bà Bá Tước và nhiều hồn ma của các người Do Thái bị giết trong chiến tranh phá phách, nên bán lại cho một gia đình người Ý vào năm 1979. Từ năm này gia đình người Ý sửa lại căn nhà cho thuê. Do ảnh hưởng của Ma quỷ nên không ai dám thuê ở lâu dài vì thường bị ma đuổi đi.
Đến năm 1995 thì rao bán căn nhà này nhưng mãi hai năm sau Chùa mới mua tức là năm 1997. Sau đó có hai thanh niên trẻ tình cờ trở lại ngôi Chùa cho biết ngày xưa khi họ còn là sinh viên từng trú ngụ ở căn nhà này nơi căn phòng nhìn ra sau vườn. Họ kể rất rùng rợn là mỗi đêm thường bị các hồn ma lay dậy và tống ra khỏi phòng, họ sợ đến nổi mà không bao giờ dám có mặt trong phòng một người dù là ban ngày, lúc nào cũng đợi có đủ hai người mới dám bước vào phòng. Và cuối cùng họ dọn đi, chủ nhà cũng không thể cho ai thuê căn phòng đó và đành để làm nhà kho.
Ban đầu những linh hồn cư ngụ trong căn nhà này đều không thích có sự hiện diện của những người tu hành như chúng tôi nên thường tạo ra những rắc rối và khích động lạ lùng. Sau nhiều thời gian tụng kinh trì chú cầu siêu thoát cho những hồn ma chết oan thì hiện tượng ma quỷ phá phách đã thực sự chấm dứt 100% (mỗi đêm tôi thường trì chú Phật đảnh tôn Thắng và hồi hướng cho các linh hồn chết oan).
Nhưng khổ thay! Những linh hồn ở đây cùng với những linh hồn thờ phượng trong Chùa nó đã quen tiếng kinh kệ và bây giờ chúng lại không muốn chúng tôi dọn đi. Thật là lạ lùng khó hiểu làm sao??!! Đã ba lần chùa bị Chánh quyền địa phương tuyên bố ngừng chỉ sự sinh hoạt, nhưng không hiểu sao cả ba lần đều được một lực bí mật vô hình giúp cho sự sinh hoạt trở lại bình thường. Chắc chắn có sự can thiệp của những hồn ma về việc sinh hoạt ở đây. Có một số linh hồn chưa chịu đi khỏi nơi đây, và ngấm ngầm ủng hộ chùa. Họ khiến cho Council làm ngơ không nói năng gì về việc sinh hoạt bất hợp pháp nữa.
Các hồn ma không hiện hình hay gây những ấn tượng mạnh như hồi xưa và như thế chúng tôi vẫn tiếp tục sinh hoạt cho đến ngày hôm nay, mặc dù Chùa đã bị đưa ra tòa kết án nhiều lần.
Những câu chuyện về hồn ma hiện lên ở sau vườn trong những lúc tôi ngồi thiền định được dấu kín suốt thời gian qua. Vì sợ nói ra thì các phật tử hoang mang không ai dám đến Chùa. Lúc đó các linh ảnh về các trận chiến đẫm máu tại ngọn đồi Beulah (BEULAH HILL) diễn lại đúng y như lịch sử hồi năm 1941 khi phát xít Đức tấn công nước Anh. Hàng ngày xác chết của lính Anh được mang đến lưu giữ tại sau vườn và trong căn hầm của tòa nhà trước khi mang đi chôn cất.
Phía sau chùa lúc đó chưa có nhà cửa và thông với một công viên rộng lớn, con đường chạy ngang công viên chưa được đặt tên. Cảnh tượng gia đình người Do Thái bị giết một cách dã man bởi gián điệp Đức được diễn lại một cách linh động giống y như sự thật đang xảy ra. Một thiếu nữ con của gia đình này bị làm nhục quá đau đớn đã chết ngay dưới gốc cây chỗ đặt đức Phật nằm. Và linh hồn cô này tồn tại đến hơn 65 năm sau.
Tôi hiểu cảnh giới ma quỷ là một hiện tượng có thật nhưng vì không có ai nhìn thấy nên cho đó là những chuyện hoang đường. Thật sự đó là những chúng sanh sau khi chết linh hồn còn quyến luyến cõi trần. Họ bám chặt những nơi chốn cũ và sinh hoạt y như hồi họ còn sống. Vì không có ai cúng kiến hay khai thị cho họ hiểu rằng họ đã chết và môi trường họ đang sống đã thay đổi với những con người mới không cùng nghiệp trong cảnh giới của họ.
Con người đã tái sinh trong dòng sinh mạng vô tận không gián đoạn này không biết bao nhiêu lần. Mỗi một kiếp sống như vậy, thay vì họ học hỏi và thực hành những điều hay tốt thiện lành để tiến hóa về mặt tâm linh thì họ lại xu hướng vào những lối sống ích kỷ của tự thân với những đam mê đầy dục nhiễm về danh vọng và sự nghiệp cá nhân.
Bởi vậy khi chết linh hồn họ không siêu thoát lên các cảnh giới trên cao được. Thực sự mỗi kiếp sống là một cơ hội để chúng ta học hỏi sự tiến hóa. Những bài học trong cuộc đời này có khi là những sự đau khổ cùng cực nào đó hay một chướng duyên nghịch cảnh thử thách v.v...
Tuy nhiên làm sao con người có thể hiểu được điều này một cách dễ dàng, vì thế hầu hết đều xây dựng cuộc đời mình với những vọng tưởng u ám và dục vọng vô bờ. Cuối cùng họ ra đi với hai bàn tay trắng với một nghiệp thức đầy tội lỗi. Kinh giáo của đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vấn đề tu tập thiện lành.
Chùa chiền mở ra đều có mục đích khai ngộ và hướng dẫn đời sống tâm linh cho chúng sanh, nhưng than ôi! Số người đến với Phật giáo vẫn còn quá ít ỏi. Đôi khi có người vào đến cửa Chùa rồi cũng không chịu để hết tâm tu tập Phật pháp, vẫn còn tiếp diễn những thái độ vô minh bằng cách gây rắc rối đến nhiều người khác, tranh chấp nhau y như một kẻ không biết đạo lý.
Đây cũng là một hình thức oan báo tương quan, có nghĩa là nhiều đời trươc ở quá khứ con người từng có những mối oán hận gì đó và họ đã tái sanh lại để trả lời những oan báo đó và điều này có lẽ cũng cần thiết để khích lệ những người chân chánh hiểu họ cần tu hành trong nghịch cảnh như thế nào, nỗ lực hơn nữa trong cuộc sống tu tập để giải thoát.
Thượng Tọa Thích Trí Như
Thanked by 1 Member:
|
|
#994
Gửi vào 21/06/2014 - 21:27
VƯỜN DỨA BỊ YỂM BUÀ
Năm 1999, nhiều bản làng ở huyện Cao Lộc, Lạng Sơn trong cơn khát cháy họng vì hạn hán kéo dài. Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Lạng Sơn và huyện Cao Lộc kiên quyết tìm cách đưa nước sạch về để cứu các bản làng. Dự án dẫn nước lên vùng cao được vạch ra. Một đội thi công đường ống dẫn nước sạch toàn là những trai trẻ dưới xuôi, được điều lên làm nhiệm vụ.
- Lúc ấy bọn mình là một cánh thợ tư nhân được chủ thầu thuê lại. Anh em chủ yếu là người Phú Xuyên, Hà Tây, do mình lãnh đội. Trước khi đi, mẹ mình có bảo là lên trên ấy có nhiều người dân tộc. Đi xa phải giữ mình, cái kim sợi chỉ của người ta cũng không được tự ý lấy. Muốn cái gì phải xin, phải hỏi, họ có cho mới được động vào. Bà còn dặn rằng: bùa của người dân tộc linh lắm, nếu có chót làm gì không phải thì nên xin lỗi người ta ngay và thật tâm mới được. Nhưng lúc ấy, anh em thanh niên ruột để ngoài da. Bà nói mà chẳng đứa nào nghe lời cả. Anh Toàn nói.
Đội thi công của anh Toàn có hơn hai chục anh em, hầu hết đều chưa vợ, cá tính nghịch ngợm lại chơi chung với nhau từ thuở nhỏ. Trong số đó có anh Nguyễn Viết Minh, gần nhà anh Toàn.
- Lên đến Cao Lộc, anh em hạ trại ngay chân núi...Ăn uống anh em phải tự nấu lấy. Đường xa, núi dốc, gạo phải cõng bộ hàng chục km mới vào đến nơi. Thực phẩm còn đỡ nhưng rau xanh thì thiếu quá nên anh em phải ăn rau rừng nhiều bữa ai cũng xót ruột đành phải tìm cách kiếm rau. Bữa ấy đi bộ bốn km, anh em mới tìm được một nhà dân để hỏi mua rau. Không có nhiều loại nhưng gia chủ người dân tộc Nùng cũng hiếu khách mà anh em lại làm việc giúp bà con dân bản nên ông quý lắm. Ông cho cả một tải rau với hơn chục quả dứa nhà ông trồng được.
Trước khi về, ông chỉ cho cách đi tắt qua một vườn dứa và dặn :
- Không được lấy dù một quả. Vườn dứa của một thầy mo đã yểm bùa ác rồi. Vào chỉ có chết.
Nhưng anh em chỉ cười mà không ai tin. Anh Tùng, bạn của anh Minh và anh Toàn kể lại. Đi qua vườn dứa của thầy mo nọ thấy bạt ngàn toàn quả to, vàng ươm, mấy thanh niên xuôi nhìn mà thèm chảy nước dãi.
- Ông chủ cho hơn chục quả rồi, nhưng nếu có thêm một ít để anh em nhâm nhi với rượu thì ngon quá. Thế nên thằng Minh hiến kế anh em vào trộm một tải về ăn dần. Vào đông sẽ bị lộ, nên Minh xung phong vào đó lấy đầy tải rồi sẽ về sau. Nào ngờ lời dặn dò của ông chủ vườn rau anh em bỏ ngoài tai, nên hậu quả đến thật đau lòng. Anh Tùng nói mà giọng hối hận.
Hai người về trước nấu cơm, anh Minh khẽ lách rào vào vườn dứa. Rút dao chém ngọn quả dứa đầu tiên, anh Minh nghe tiếng đếm: Một! Tưởng có người đến, anh dáo dác nhìn xung quanh. Không có bóng ai. Minh rướn người chém thêm quả nữa. Lại có tiếng đếm: Hai! Thất thần, anh quay đi quay lại nhìn ngó. Cũng chẳng có một bóng người.
Lần này thì anh hoảng thật sự. Ngồi sụp xuống để định thần. Nào ngờ cả tiếng chỉ thấy nắng càng gắt, tất cả im phăng phắc chỉ có con bù nhìn rơm giữa vườn dứa mà chủ vườn để đó dọa chim là phất phơ. Vững tâm hơn, anh Minh chém dứa đủ một tải mới dừng lại mặc kệ số đếm cứ vang lên sau mỗi lần chém.
Nhưng đợi cơm mãi không thấy anh Minh về, đến bốn giờ chiều, mấy người bạn anh mới tá hỏa, không khéo bị chủ vườn bắt rồi phạt vạ cũng nên, rồi đổ xô đi tìm. Ra đến vườn dứa, nhóm bạn hãi hùng anh Minh ngã gục trên mặt đất tắt thở từ lúc nào. Nghe tin có người chết ở vườn dứa nhà thầy mo, ông chủ cho rau chạy ra xem thấy có tải dứa lăn lóc bên cạnh người chết, ông buông tiếng thở dài:
- Tôi dặn các anh như thế nào rồi mà còn cả gan thế?
Ông thầy mo có mặt ở đấy cũng tỏ vẻ khinh khỉnh:
- Chết là đáng đời!
Càng làm nhiều người nghi ngờ. Cái chết của anh Minh được khám nghiệm mà không rõ nguyên nhân. Có người nói anh cảm. Có người nói anh trúng gió độc nhưng pháp y kết luận không có biểu hiện của những nguyên nhân đó. Càng không có dấu hiệu ai ra tay sát hại anh Minh hay buộc tội ông thầy mo nên cho đưa thi thể anh về quên an táng. Sau đám tang của anh Minh, nhóm thợ không dám quay lại thi công nốt công trình dang dở. Chỉ có anh Toàn lặn lội lên làm lễ cầu siêu cho bạn trên Cao Lộc, rồi quay lại hỏi cặn kẽ ông chủ vườn rau, người biết rõ nhất sự việc sau ông thầy mo có vườn dứa.
- Thứ bùa mà thầy mo bỏ là bùa ác có tên là khẳm pen, thường bỏ để bảo vệ tài sản của người chủ. Con bù nhìn rơm như ma xó giữ lá bùa đó. Ai tham tâm sẽ bị làm cho điên loạn, thần trí mất tỉnh táo. Nhẹ thì thất thần sau bốn mươi chín ngày. Nặng thì có thể chết luôn. Cũng tùy tài sản mà người bỏ bùa sẽ định tội cho người ăn cắp. Bạn cậu là chết lạc, chết khát giữa vườn dứa đã bị bỏ bùa. Anh Toàn kể lại lời ông chủ vườn rau.
Đình Tú
Năm 1999, nhiều bản làng ở huyện Cao Lộc, Lạng Sơn trong cơn khát cháy họng vì hạn hán kéo dài. Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Lạng Sơn và huyện Cao Lộc kiên quyết tìm cách đưa nước sạch về để cứu các bản làng. Dự án dẫn nước lên vùng cao được vạch ra. Một đội thi công đường ống dẫn nước sạch toàn là những trai trẻ dưới xuôi, được điều lên làm nhiệm vụ.
- Lúc ấy bọn mình là một cánh thợ tư nhân được chủ thầu thuê lại. Anh em chủ yếu là người Phú Xuyên, Hà Tây, do mình lãnh đội. Trước khi đi, mẹ mình có bảo là lên trên ấy có nhiều người dân tộc. Đi xa phải giữ mình, cái kim sợi chỉ của người ta cũng không được tự ý lấy. Muốn cái gì phải xin, phải hỏi, họ có cho mới được động vào. Bà còn dặn rằng: bùa của người dân tộc linh lắm, nếu có chót làm gì không phải thì nên xin lỗi người ta ngay và thật tâm mới được. Nhưng lúc ấy, anh em thanh niên ruột để ngoài da. Bà nói mà chẳng đứa nào nghe lời cả. Anh Toàn nói.
Đội thi công của anh Toàn có hơn hai chục anh em, hầu hết đều chưa vợ, cá tính nghịch ngợm lại chơi chung với nhau từ thuở nhỏ. Trong số đó có anh Nguyễn Viết Minh, gần nhà anh Toàn.
- Lên đến Cao Lộc, anh em hạ trại ngay chân núi...Ăn uống anh em phải tự nấu lấy. Đường xa, núi dốc, gạo phải cõng bộ hàng chục km mới vào đến nơi. Thực phẩm còn đỡ nhưng rau xanh thì thiếu quá nên anh em phải ăn rau rừng nhiều bữa ai cũng xót ruột đành phải tìm cách kiếm rau. Bữa ấy đi bộ bốn km, anh em mới tìm được một nhà dân để hỏi mua rau. Không có nhiều loại nhưng gia chủ người dân tộc Nùng cũng hiếu khách mà anh em lại làm việc giúp bà con dân bản nên ông quý lắm. Ông cho cả một tải rau với hơn chục quả dứa nhà ông trồng được.
Trước khi về, ông chỉ cho cách đi tắt qua một vườn dứa và dặn :
- Không được lấy dù một quả. Vườn dứa của một thầy mo đã yểm bùa ác rồi. Vào chỉ có chết.
Nhưng anh em chỉ cười mà không ai tin. Anh Tùng, bạn của anh Minh và anh Toàn kể lại. Đi qua vườn dứa của thầy mo nọ thấy bạt ngàn toàn quả to, vàng ươm, mấy thanh niên xuôi nhìn mà thèm chảy nước dãi.
- Ông chủ cho hơn chục quả rồi, nhưng nếu có thêm một ít để anh em nhâm nhi với rượu thì ngon quá. Thế nên thằng Minh hiến kế anh em vào trộm một tải về ăn dần. Vào đông sẽ bị lộ, nên Minh xung phong vào đó lấy đầy tải rồi sẽ về sau. Nào ngờ lời dặn dò của ông chủ vườn rau anh em bỏ ngoài tai, nên hậu quả đến thật đau lòng. Anh Tùng nói mà giọng hối hận.
Hai người về trước nấu cơm, anh Minh khẽ lách rào vào vườn dứa. Rút dao chém ngọn quả dứa đầu tiên, anh Minh nghe tiếng đếm: Một! Tưởng có người đến, anh dáo dác nhìn xung quanh. Không có bóng ai. Minh rướn người chém thêm quả nữa. Lại có tiếng đếm: Hai! Thất thần, anh quay đi quay lại nhìn ngó. Cũng chẳng có một bóng người.
Lần này thì anh hoảng thật sự. Ngồi sụp xuống để định thần. Nào ngờ cả tiếng chỉ thấy nắng càng gắt, tất cả im phăng phắc chỉ có con bù nhìn rơm giữa vườn dứa mà chủ vườn để đó dọa chim là phất phơ. Vững tâm hơn, anh Minh chém dứa đủ một tải mới dừng lại mặc kệ số đếm cứ vang lên sau mỗi lần chém.
Nhưng đợi cơm mãi không thấy anh Minh về, đến bốn giờ chiều, mấy người bạn anh mới tá hỏa, không khéo bị chủ vườn bắt rồi phạt vạ cũng nên, rồi đổ xô đi tìm. Ra đến vườn dứa, nhóm bạn hãi hùng anh Minh ngã gục trên mặt đất tắt thở từ lúc nào. Nghe tin có người chết ở vườn dứa nhà thầy mo, ông chủ cho rau chạy ra xem thấy có tải dứa lăn lóc bên cạnh người chết, ông buông tiếng thở dài:
- Tôi dặn các anh như thế nào rồi mà còn cả gan thế?
Ông thầy mo có mặt ở đấy cũng tỏ vẻ khinh khỉnh:
- Chết là đáng đời!
Càng làm nhiều người nghi ngờ. Cái chết của anh Minh được khám nghiệm mà không rõ nguyên nhân. Có người nói anh cảm. Có người nói anh trúng gió độc nhưng pháp y kết luận không có biểu hiện của những nguyên nhân đó. Càng không có dấu hiệu ai ra tay sát hại anh Minh hay buộc tội ông thầy mo nên cho đưa thi thể anh về quên an táng. Sau đám tang của anh Minh, nhóm thợ không dám quay lại thi công nốt công trình dang dở. Chỉ có anh Toàn lặn lội lên làm lễ cầu siêu cho bạn trên Cao Lộc, rồi quay lại hỏi cặn kẽ ông chủ vườn rau, người biết rõ nhất sự việc sau ông thầy mo có vườn dứa.
- Thứ bùa mà thầy mo bỏ là bùa ác có tên là khẳm pen, thường bỏ để bảo vệ tài sản của người chủ. Con bù nhìn rơm như ma xó giữ lá bùa đó. Ai tham tâm sẽ bị làm cho điên loạn, thần trí mất tỉnh táo. Nhẹ thì thất thần sau bốn mươi chín ngày. Nặng thì có thể chết luôn. Cũng tùy tài sản mà người bỏ bùa sẽ định tội cho người ăn cắp. Bạn cậu là chết lạc, chết khát giữa vườn dứa đã bị bỏ bùa. Anh Toàn kể lại lời ông chủ vườn rau.
Đình Tú
#995
Gửi vào 21/06/2014 - 23:14
KỲ ÁN XUẤT PHÁT TỪ LÁ BUÀ
Tròn mười lăm ngày, kể từ ngày cụ Nguyễn Thị Trác được chôn cất tại nghĩa trang thôn Vĩnh Bảo, Vĩnh Khúc, Văn Giang, Hưng Yên. Ông Đỗ Văn Huấn, người cùng làng chôn một số thứ xuống khu vực mộ cụ Nguyễn Thị Trác. Người nhà cụ Trác thấy có dấu hiệu nghi ngờ liền đào chỗ đó lên xem, thì thấy một cảnh tượng hãi hùng.
Đến độ sâu khoảng bốn mươi cm, thì gia đình cụ Trác phát hiện một đầu chó màu vàng sẫm, trong miệng chó ngậm một tờ giấy được viết chữ Nho, ba nắm nhang, một nắm muối trộn gạo, chín tờ tiền âm phủ, ba quả trứng, ba chiếc đinh. Vụ án gây xôn xao một miền quê yên bình nhiều tháng nay.
Trung tá Nguyễn Hồng Quân, Phó trưởng Công an huyện Văn Giang, Hưng Yên cho biết, ngay trong ngày 17.4.12 nhận được thông tin từ địa phương, Công an huyện Văn Giang đã cử người về xem xét hiện trường. Ngay sau đó, cơ quan công an đã triệu tập ông Huấn và người nhà cụ Trác đến làm việc. Ban đầu, Đỗ Văn Huấn không khai nhận hành vi. Nhưng sau đó cho biết, chính mình là thủ phạm vụ chôn đầu chó xuống mộ bà mẹ liệt sĩ Nguyễn Thị Trác.
Huấn cho biết, ngày 16.4, tức một ngày trước khi chôn đầu chó, Huấn đã đánh mười nghìn đồng tiền lô đề, sau đó trúng được tám trăm nghìn đồng. Nhưng để có thể trúng tiếp lần sau, bắt buộc Huấn phải chôn đầu chó và những vật dụng khác xuống mộ người mới mất.
Tuy nhiên, ông Quân không cho biết, từ đâu, Huấn có thông tin mang màu sắc mê tín dị đoan này. Theo lời bà Trần Thị Phấn, thân nhân của cụ Trần Thị Trác, những chữ trong giấy được người nhà bà mang đi dịch có nghĩa là: Ngọc Hoàng lệnh hãm ngục hình quỷ. Do đó bà cho rằng mộ của mẹ bà đã bị yểm bùa. Được biết, xã Vĩnh Khúc, Văn Giang, Hưng Yên, xưa nay nổi tiếng là quê hương của các thầy bói. Bởi lẽ khó có nơi nào có nhiều thầy bói, mà các thầy bói đều đắt khách như vậy.
Nhà nghiên cứu Bùi Quốc Hùng nói:
- Loại bùa này đã được nhắc tới trong cuốn sách “Tam giáo chính tông - Truyền độ chư phù chú bí quyết”. Đây là tài liệu của các Pháp sư, Phù thủy miền Bắc có nguồn gốc từ Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Phòng, Nam Định. Bùa này thuộc ngành Lỗ Ban Sát. Xin được nói thêm, Lỗ Ban Sát là một trong ba tông phái của Lỗ Ban Phái. Môn phái có xuất xứ từ Trung Hoa, được một người thợ mộc rất giỏi về các loại bùa chú chữa bệnh, trừ tà sáng lập. Khi du nhập vào Việt Nam, Lỗ Ban Phái theo chân các Thầy bùa, Phù thủy Bắc Bộ trong các nghi lễ yểm sát, trừ bệnh...
Nhà nghiên cứu này nói:
- Và gây nên sự hoang mang sợ hãi cho nhiều người. Mặc dù chưa có những hậu quả nghiêm trọng, nhưng khiến nhiều người trong gia đình người đã khuất hoang mang sợ hãi.
Đình Tú
Tròn mười lăm ngày, kể từ ngày cụ Nguyễn Thị Trác được chôn cất tại nghĩa trang thôn Vĩnh Bảo, Vĩnh Khúc, Văn Giang, Hưng Yên. Ông Đỗ Văn Huấn, người cùng làng chôn một số thứ xuống khu vực mộ cụ Nguyễn Thị Trác. Người nhà cụ Trác thấy có dấu hiệu nghi ngờ liền đào chỗ đó lên xem, thì thấy một cảnh tượng hãi hùng.
Đến độ sâu khoảng bốn mươi cm, thì gia đình cụ Trác phát hiện một đầu chó màu vàng sẫm, trong miệng chó ngậm một tờ giấy được viết chữ Nho, ba nắm nhang, một nắm muối trộn gạo, chín tờ tiền âm phủ, ba quả trứng, ba chiếc đinh. Vụ án gây xôn xao một miền quê yên bình nhiều tháng nay.
Trung tá Nguyễn Hồng Quân, Phó trưởng Công an huyện Văn Giang, Hưng Yên cho biết, ngay trong ngày 17.4.12 nhận được thông tin từ địa phương, Công an huyện Văn Giang đã cử người về xem xét hiện trường. Ngay sau đó, cơ quan công an đã triệu tập ông Huấn và người nhà cụ Trác đến làm việc. Ban đầu, Đỗ Văn Huấn không khai nhận hành vi. Nhưng sau đó cho biết, chính mình là thủ phạm vụ chôn đầu chó xuống mộ bà mẹ liệt sĩ Nguyễn Thị Trác.
Huấn cho biết, ngày 16.4, tức một ngày trước khi chôn đầu chó, Huấn đã đánh mười nghìn đồng tiền lô đề, sau đó trúng được tám trăm nghìn đồng. Nhưng để có thể trúng tiếp lần sau, bắt buộc Huấn phải chôn đầu chó và những vật dụng khác xuống mộ người mới mất.
Tuy nhiên, ông Quân không cho biết, từ đâu, Huấn có thông tin mang màu sắc mê tín dị đoan này. Theo lời bà Trần Thị Phấn, thân nhân của cụ Trần Thị Trác, những chữ trong giấy được người nhà bà mang đi dịch có nghĩa là: Ngọc Hoàng lệnh hãm ngục hình quỷ. Do đó bà cho rằng mộ của mẹ bà đã bị yểm bùa. Được biết, xã Vĩnh Khúc, Văn Giang, Hưng Yên, xưa nay nổi tiếng là quê hương của các thầy bói. Bởi lẽ khó có nơi nào có nhiều thầy bói, mà các thầy bói đều đắt khách như vậy.
Nhà nghiên cứu Bùi Quốc Hùng nói:
- Loại bùa này đã được nhắc tới trong cuốn sách “Tam giáo chính tông - Truyền độ chư phù chú bí quyết”. Đây là tài liệu của các Pháp sư, Phù thủy miền Bắc có nguồn gốc từ Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Phòng, Nam Định. Bùa này thuộc ngành Lỗ Ban Sát. Xin được nói thêm, Lỗ Ban Sát là một trong ba tông phái của Lỗ Ban Phái. Môn phái có xuất xứ từ Trung Hoa, được một người thợ mộc rất giỏi về các loại bùa chú chữa bệnh, trừ tà sáng lập. Khi du nhập vào Việt Nam, Lỗ Ban Phái theo chân các Thầy bùa, Phù thủy Bắc Bộ trong các nghi lễ yểm sát, trừ bệnh...
Nhà nghiên cứu này nói:
- Và gây nên sự hoang mang sợ hãi cho nhiều người. Mặc dù chưa có những hậu quả nghiêm trọng, nhưng khiến nhiều người trong gia đình người đã khuất hoang mang sợ hãi.
Đình Tú
Thanked by 2 Members:
|
|
#996
Gửi vào 22/06/2014 - 00:14
CHIẾC NÓN LÀM NGƯỜI CƯỜI KHÓC
Mới đây, người dân ở xóm Tròn, Tốt Động, Chương Mỹ, Hà Nội, lại rộ lên câu chuyện bỏ bùa bằng chiếc nón, khiến nạn nhân dở khóc, dở cười, đúng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Chuyện là ông Nguyễn Văn M. ở xóm Tròn, có thuê hai người phụ nữ cấy thuê. Sau khi cấy xong, chiều hôm đó họ đòi tiền công là 130 nghìn đồng một người, theo như hai bên đã thỏa thuận từ trước. Với lý do hai người cấy thưa không đúng tiêu chuẩn, lại xong sớm, nên ông M. nói chỉ trả 110 nghìn đồng một người.
Hai bên đã to tiếng, dằng co về chuyện công sá, cuối cùng hai người phụ nữ bỏ về và không quên đe dọa lại một câu:
- Bố con ông sẽ biết tay tôi.
Hai, ba ngày sau thì một sự lạ xảy ra là ông M. và người con trai là Nguyễn Viết S. cứ ôm khư khư hai chiếc cột nhà, mà nhìn nhau cười hềnh hệch. Xâu chuỗi mọi sự việc người ta đổ dồn mọi nghi ngờ về chiếc nón bỏ quên của cô thợ cấy và đồn đoán rằng chiếc nón trên đã bị...yểm bùa.
Hoảng quá, cả nhà nhốn nháo đi tìm thầy về làm lễ hai ngày để giải câu niệm chú, đến nay ông M. trở lại bình thường, nhưng anh S. thì vẫn lầm lì không tinh nhanh như trước. Sau đại nạn ông M. kể với chúng tôi:
- Không hiểu sao lúc đó tôi chỉ thích cười, cười cả ngày không chán, không muốn ăn dù người đói mệt lả đi. Bùa ngải gì đó tôi không tin lắm nhưng thấy chuyện rành rành như thế nên cũng sợ.
Đình Tú
Mới đây, người dân ở xóm Tròn, Tốt Động, Chương Mỹ, Hà Nội, lại rộ lên câu chuyện bỏ bùa bằng chiếc nón, khiến nạn nhân dở khóc, dở cười, đúng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Chuyện là ông Nguyễn Văn M. ở xóm Tròn, có thuê hai người phụ nữ cấy thuê. Sau khi cấy xong, chiều hôm đó họ đòi tiền công là 130 nghìn đồng một người, theo như hai bên đã thỏa thuận từ trước. Với lý do hai người cấy thưa không đúng tiêu chuẩn, lại xong sớm, nên ông M. nói chỉ trả 110 nghìn đồng một người.
Hai bên đã to tiếng, dằng co về chuyện công sá, cuối cùng hai người phụ nữ bỏ về và không quên đe dọa lại một câu:
- Bố con ông sẽ biết tay tôi.
Hai, ba ngày sau thì một sự lạ xảy ra là ông M. và người con trai là Nguyễn Viết S. cứ ôm khư khư hai chiếc cột nhà, mà nhìn nhau cười hềnh hệch. Xâu chuỗi mọi sự việc người ta đổ dồn mọi nghi ngờ về chiếc nón bỏ quên của cô thợ cấy và đồn đoán rằng chiếc nón trên đã bị...yểm bùa.
Hoảng quá, cả nhà nhốn nháo đi tìm thầy về làm lễ hai ngày để giải câu niệm chú, đến nay ông M. trở lại bình thường, nhưng anh S. thì vẫn lầm lì không tinh nhanh như trước. Sau đại nạn ông M. kể với chúng tôi:
- Không hiểu sao lúc đó tôi chỉ thích cười, cười cả ngày không chán, không muốn ăn dù người đói mệt lả đi. Bùa ngải gì đó tôi không tin lắm nhưng thấy chuyện rành rành như thế nên cũng sợ.
Đình Tú
Thanked by 1 Member:
|
|
#997
Gửi vào 23/06/2014 - 22:03
NOI DUY NHẤT THỜ "CHUÁ BÓI"
"Ai lên tới trung du Hà Bắc, hỏi thăm đền chúa Nguyệt nơi nao? Ghé hỏi thăm phố Kép đi vào, ngã tư Bố Hạ có con đường vào mỏ than, ngôi đền thờ chúa có miếu cậu, lầu cô, xung đá mọc lô xô con đường vào”... Lời hát văn ca ngợi phong cảnh đền Nguyệt Hồ xã Hương Vĩ, huyện Yên Thế, Bắc Giang, đã khá quen thuộc với nhân dân quanh vùng.
Nằm giữa những triền núi non trùng điệp, từ lâu, hát văn đã trở thành “đặc sản” tại đền Nguyệt Hồ. Cách địa phận huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn, chỉ vài cây số, các sinh hoạt, tập quán của đồng bào quanh vùng mang đậm dấu ấn vùng núi. Bà Nguyễn Thị Chắt, bảy mươi chín tuổi, thủ nhang tại đền kể rằng:
- Cả nước duy chỉ có đền này thờ “chúa Bói”, theo quan niệm, những thầy chiêm tinh, địa lý, thanh đồng khi trình đồng mở phủ đều lên đây dâng văn, xin lộc. Trong đó một trong những hoạt động không thể thiếu là hát văn.
Truyền thuyết kể rằng:
“Bà Nguyệt Nga là người vùng Yên Thế, từ nhỏ sống trong cảnh cơ hàn nhưng có lòng nhân hậu, lão tổ Quỷ Cốc Tử tiên sinh đã thương tình và truyền dạy cho bà pháp thuật chiêm tinh, tướng số và đặt tên hiệu là Nguyệt Hồ.
Để ghi nhớ công lao và cuộc đời của chúa, người đời sau dâng văn rằng:
“Sống âm thầm mồ côi cha mẹ
Gặp được thầy Quỷ Cốc tiên sinh
Một đời người đi làm phúc cứu dân
Tiên sinh ban phép đặt tên Nguyệt Hồ.
Sau khi học được phép của Tiên Sinh, bà dành cả đời mình làm phúc giúp dân lành. Chẳng bao lâu, danh thơm ấy đã lan truyền tới kinh đô, đức vua bèn mời chúa về, mỗi lần ra trận chống giặc xâm lăng, vua đều cho người đến thỉnh cầu, nhờ bà xem lành dữ và hỏi chuyện quân cơ, mưu lược.
Sau khi mất, chúa bà vẫn hiển linh xem bói giúp dân lành trừ diệt tai ương. Giới thanh đồng thường bảo rằng:
- Bà chúa Nguyệt Hồ khi ngự đồng thường mặc áo xanh, múa mồi, đôi khi “chúa ngự” về còn dùng lá trầu, quả cau để xem bói, phán bảo trần gian. Ngày lễ tại đền Nguyệt Hồ vào 15-2 âm lịch, tại đây phần tế được tiến hành với những nghi lễ độc đáo là lễ hát dâng văn. Người được chọn diễn xướng hát văn phải có giọng hát hay, đàn giỏi, đức tài trọn vẹn và gia đình không có tang bụi.
Tiếng trống từ từ vang lên, âm thanh nỉ non của sáo trúc, đàn nguyệt hòa quyện giữa núi rừng khiến cho buổi lễ có sức hút lạ kỳ. Trên ban thờ, lễ vật đã tươm tất bánh kẹo, hoa quả. Phía dưới chiếu, thanh đồng, cung văn và người đi lễ trang nghiêm chắp tay thành kính, một canh hát văn tại đền Nguyệt Hồ được bắt đầu như vậy.
Những ai đến đây đều mê đắm những điệu hát văn trầm lắng, sâu sắc và bay bổng như nghiêng ngả đất trời. Lời văn hát mừng chúa bản đền không chỉ mang âm hưởng núi rừng, bản sắc văn hóa của địa phương mà còn thể hiện được phong cách, cuộc đời chúa. Khi diễn xướng, mỗi thanh đồng, cung văn như một diễn viên thể hiện say sưa trong từng bản nhạc, điệu múa.
Những câu chuyện huyền thoại của các nhân vật lịch sử trong mỗi giá hầu đồng lần lượt được “kể” nối tiếp nhau bằng màn diễn xướng nghệ thuật qua điệu bộ, cử chỉ của thanh đồng và lời ca của cung văn một cách đầy hưng phấn. Âm nhạc khi bổng, khi trầm đã khiến cho những ai chứng kiến buổi lễ đều thấy phấn chấn, vui tươi và chắc chắn dư âm ấy sẽ còn lắng đọng với nhiều người.
“Tiếng lành đồn xa”, hằng năm đặc biệt vào mùa xuân, có tới hàng ngàn lượt khách từ khắp các địa phương trong nước hành hương về đền Nguyệt Hồ để xin lộc, cầu tài, cầu bình an. Đây còn là một trong những không gian chung của tín ngưỡng thờ Tứ phủ như: Đền Suối Mỡ (Lục Nam), Bắc Lệ (Lạng Sơn), Phủ Dầy (Nam Định), phủ Tây Hồ (Hà Nội), Bảo Hà (Lào Cai)...
Nghi lễ hát văn, hầu đồng đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, hiện đang được xây dựng hồ sơ trình UNESCO công nhận là di sản phi vật thể đại diện của nhân loại. Tuy nhiên bên cạnh những nét đẹp vẫn còn một số người lợi dụng gây biến tướng. Do đó mỗi thanh đồng, cung văn cần có ý thức tích cực giữ gìn sự trong sáng trong nghi lễ này.
Nguyễn Hưởng
"Ai lên tới trung du Hà Bắc, hỏi thăm đền chúa Nguyệt nơi nao? Ghé hỏi thăm phố Kép đi vào, ngã tư Bố Hạ có con đường vào mỏ than, ngôi đền thờ chúa có miếu cậu, lầu cô, xung đá mọc lô xô con đường vào”... Lời hát văn ca ngợi phong cảnh đền Nguyệt Hồ xã Hương Vĩ, huyện Yên Thế, Bắc Giang, đã khá quen thuộc với nhân dân quanh vùng.
Nằm giữa những triền núi non trùng điệp, từ lâu, hát văn đã trở thành “đặc sản” tại đền Nguyệt Hồ. Cách địa phận huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn, chỉ vài cây số, các sinh hoạt, tập quán của đồng bào quanh vùng mang đậm dấu ấn vùng núi. Bà Nguyễn Thị Chắt, bảy mươi chín tuổi, thủ nhang tại đền kể rằng:
- Cả nước duy chỉ có đền này thờ “chúa Bói”, theo quan niệm, những thầy chiêm tinh, địa lý, thanh đồng khi trình đồng mở phủ đều lên đây dâng văn, xin lộc. Trong đó một trong những hoạt động không thể thiếu là hát văn.
Truyền thuyết kể rằng:
“Bà Nguyệt Nga là người vùng Yên Thế, từ nhỏ sống trong cảnh cơ hàn nhưng có lòng nhân hậu, lão tổ Quỷ Cốc Tử tiên sinh đã thương tình và truyền dạy cho bà pháp thuật chiêm tinh, tướng số và đặt tên hiệu là Nguyệt Hồ.
Để ghi nhớ công lao và cuộc đời của chúa, người đời sau dâng văn rằng:
“Sống âm thầm mồ côi cha mẹ
Gặp được thầy Quỷ Cốc tiên sinh
Một đời người đi làm phúc cứu dân
Tiên sinh ban phép đặt tên Nguyệt Hồ.
Sau khi học được phép của Tiên Sinh, bà dành cả đời mình làm phúc giúp dân lành. Chẳng bao lâu, danh thơm ấy đã lan truyền tới kinh đô, đức vua bèn mời chúa về, mỗi lần ra trận chống giặc xâm lăng, vua đều cho người đến thỉnh cầu, nhờ bà xem lành dữ và hỏi chuyện quân cơ, mưu lược.
Sau khi mất, chúa bà vẫn hiển linh xem bói giúp dân lành trừ diệt tai ương. Giới thanh đồng thường bảo rằng:
- Bà chúa Nguyệt Hồ khi ngự đồng thường mặc áo xanh, múa mồi, đôi khi “chúa ngự” về còn dùng lá trầu, quả cau để xem bói, phán bảo trần gian. Ngày lễ tại đền Nguyệt Hồ vào 15-2 âm lịch, tại đây phần tế được tiến hành với những nghi lễ độc đáo là lễ hát dâng văn. Người được chọn diễn xướng hát văn phải có giọng hát hay, đàn giỏi, đức tài trọn vẹn và gia đình không có tang bụi.
Tiếng trống từ từ vang lên, âm thanh nỉ non của sáo trúc, đàn nguyệt hòa quyện giữa núi rừng khiến cho buổi lễ có sức hút lạ kỳ. Trên ban thờ, lễ vật đã tươm tất bánh kẹo, hoa quả. Phía dưới chiếu, thanh đồng, cung văn và người đi lễ trang nghiêm chắp tay thành kính, một canh hát văn tại đền Nguyệt Hồ được bắt đầu như vậy.
Những ai đến đây đều mê đắm những điệu hát văn trầm lắng, sâu sắc và bay bổng như nghiêng ngả đất trời. Lời văn hát mừng chúa bản đền không chỉ mang âm hưởng núi rừng, bản sắc văn hóa của địa phương mà còn thể hiện được phong cách, cuộc đời chúa. Khi diễn xướng, mỗi thanh đồng, cung văn như một diễn viên thể hiện say sưa trong từng bản nhạc, điệu múa.
Những câu chuyện huyền thoại của các nhân vật lịch sử trong mỗi giá hầu đồng lần lượt được “kể” nối tiếp nhau bằng màn diễn xướng nghệ thuật qua điệu bộ, cử chỉ của thanh đồng và lời ca của cung văn một cách đầy hưng phấn. Âm nhạc khi bổng, khi trầm đã khiến cho những ai chứng kiến buổi lễ đều thấy phấn chấn, vui tươi và chắc chắn dư âm ấy sẽ còn lắng đọng với nhiều người.
“Tiếng lành đồn xa”, hằng năm đặc biệt vào mùa xuân, có tới hàng ngàn lượt khách từ khắp các địa phương trong nước hành hương về đền Nguyệt Hồ để xin lộc, cầu tài, cầu bình an. Đây còn là một trong những không gian chung của tín ngưỡng thờ Tứ phủ như: Đền Suối Mỡ (Lục Nam), Bắc Lệ (Lạng Sơn), Phủ Dầy (Nam Định), phủ Tây Hồ (Hà Nội), Bảo Hà (Lào Cai)...
Nghi lễ hát văn, hầu đồng đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, hiện đang được xây dựng hồ sơ trình UNESCO công nhận là di sản phi vật thể đại diện của nhân loại. Tuy nhiên bên cạnh những nét đẹp vẫn còn một số người lợi dụng gây biến tướng. Do đó mỗi thanh đồng, cung văn cần có ý thức tích cực giữ gìn sự trong sáng trong nghi lễ này.
Nguyễn Hưởng
Thanked by 1 Member:
|
|
#998
Gửi vào 23/06/2014 - 23:04
TRUYỆN MA CÓ THẬT Ở VĨNH LONG
Vũng Liêm là một huyện đất đai cũng màu mỡ, sông rạch chằng chịt. Người dân ở vùng ven sông Cổ Chiên này phần đông sống bằng nghề trồng vườn, cho nên cây trái ở đây cũng rất xum xuê. Phương tiện di chuyển ở đây chủ yếu bằng xuồng, ghe.
Năm 2007, tôi (sư huynh Than)có ghé đến vùng đất này để trị bệnh cho một người bạn là anh Nguyễn Thanh Ch. sống bằng nghề làm vuờn. Anh Ch. bị một chứng bệnh hơi lạ lùng hơn những người khác. Nguyên nhân của căn bệnh này có mang tính chất huyền linh, nên tôi xin mạn phép được chia sẻ cùng quý bạn đạo xa gần, để cùng nhau tạo dựng con đường tu học.
Năm 2006, vào tiết đông tháng mười, anh Ch. tự nhiên cảm thấy trong tâm thức anh hình như có gì hơi khác khác, lạ thường, anh thích trầm tư mặc tuởng. Lâu ngày như vậy, anh lại phát hiện cứ khoảng chiều về vào lúc 6:30 tối đến mười hai giờ đêm, bên tai anh thuờng hay nghe mọi nguời nói, có khi không biết tiếng nói từ đâu phát ra.
Cứ hết người này nói đến người khác, đàn ông, đàn bà, già trẻ lẫn lộn, nói rất nhiều chuyện. Trong đó có những chuyện anh đã được nghe kể qua, nhưng có khác là những người kể chuyện hiện nay chính là những nhân vật trong những câu chuyện đó. Hiện tượng này kéo dài vài tháng và những gì anh nghe vào lần cuối cùng là nguyên nhân khiến anh mang bệnh.
Một buổi tối khoảng tam, chín giờ, lúc đó anh ra kiểm tra ghe máy của anh. Từ nhà đến bến cột ghe máy độ khoảng hai trăm mét. Khi anh đến gần bờ sông, gần nhà ghe của anh, thì tai anh nghe một giọng nói của một người nữ
- Con ráng chịu lạnh chút nữa nha, ngày mai đây mình sẽ được đi chỗ khác. Ở chỗ đó mình sẽ được ấm no. Còn ở đây, vào ngày mai sẽ có hai mẹ con của bà kia đến thế chỗ cho mình. Con lại đây để mẹ ôm con cho bớt lạnh. Tội nghiệp con tôi quá. Bà con nội ngoại gì cũng bỏ chúng ta không ai lo cho mình gì cả. Sao mẹ con mình khổ quá.
Khi nghe như vậy anh núp vào lùm cây thì nhìn thấy hai nguời lạ, trước giờ anh không hề biết. Một nguời phụ nữ và một cô con gái khoảng bảy tuổi. Mình mẩy hai người ướt sũng. Người đàn bà vừa nói vừa ôm chầm lấy đứa con khóc nức nở, cứ nhắc mãi câu nói là ngày mai sẽ có người thay thế. Hai mẹ con nói chuyện một hồi rồi chính mắt anh thấy họ nắm tay nhau đi thẳng xuống sông và mất hút luôn!
Khi nghe xong những lời nói trên, anh Ch. trong đêm đó không sao ngủ đuợc, cứ trằn trọc suy nghĩ mãi và nghĩ về đủ thứ chuyện. Tâm thức như vậy kéo dài cho đến khi gà gáy sáng anh mới chợp mắt đuợc một chút. Khi anh giật mình tỉnh dậy thì đã chín giờ sáng. Anh vội vàng ăn sáng qua loa rồi chạy sang nhà nguời bạn tên B. ở gần đó và kể cho anh B. nghe hết tất cả những lời nói, mà anh đã nghe được tối hôm qua.
Rồi hai anh em cùng nhau ra bến ghe coi ai là người thế mạng cho hai mẹ con người đó. Khi đi, hai anh em cũng rất sợ, họ bèn đốt nhang bàn thờ Phật và xin dời cốt tuợng Quan Âm đi theo. Vừa đi vừa niệm chú “Úm Ma Ni Pad Mê Hum” thầm trong miệng (anh Ch. đã được tôi điểm đạo và chỉ được nhận câu thần chú Úm Ma Ni Pad Mê Hum).
Chuẩn bị như thế khi đi đến nơi, hai anh em liền trải một tấm bạt bằng nhựa xuống đất phía trong nhà ghe và ngồi chờ đợi. Chờ mãi cho đến hơn mười một giờ mà vẫn không thấy ai đến đây cả. Khoảng hơn 11:40 trưa hôm đó, bất thần hai người nghe tiếng kêu:
- Cứu tôi, cứu tôi với...
Từ bên kia con rạch nhỏ. Do đã chuẩn bị sẵn sàng, khi nghe tiếng kêu cứu, hai anh em liền vụt đứng dậy chạy và lội qua con rạch rất nhanh. Khi qua đó họ thấy có một người ở duới sông hụp lên hụp xuống, trong khi đó nguời con gái thì ở trên bờ nhảy xuống vì thấy mẹ mình sắp sửa chết đuối, nên bất chấp mạng sống nhảy ùm xuống cứu mẹ. Thế là hai mẹ con hụp xuống trôi theo dòng nước chảy.
Anh Ch. thấy vậy lính quýnh, vội cầm cái tuợng Quan Âm vừa la lên:
- Úm Ma Ni Pad Mê Hum...
Vừa chọi cái tượng xuống hướng về phía hai mẹ con người đó. Tâm nguyện anh Ch. trong lúc tinh thần bối rối, hoang mang cứ nghĩ là chọi cái tượng bằng sành xuống để đánh những hồn ma đang chuẩn bị bắt người. Vì trong lúc khẩn cấp anh chọi cái tượng không trúng ma mà lại trúng ngay chân m*y của người mẹ đang bấu đeo chặt vào người con, làm cho nguời con không lội đuợc, điều đó khiến cho cả hai nguời sắp chết đuối.
Nhờ anh Ch. chọi cái tượng trúng đầu người mẹ chảy máu làm bà ta bất tỉnh không ôm người con được nữa. Do đó người con lội được và đỡ người mẹ vừa kịp lúc, đợi anh Ch. và anh B. đến cứu giúp. Thế là hai người phụ nữ được cứu. Sau khi tỉnh lại, họ kể nguyên nhân của chuyện chết hụt vừa qua.
Nguời mẹ giặt đồ ngồi duới mặt nuớc, đột nhiên thấy ớn lạnh, nổi da gà phía sau lưng, rùng mình rất nhiều lần, thình lình cảm thấy toàn thân và chân bên mình lạnh tê cứng làm như có một lực kéo chân xuống nước, không có sức lực chống cự lại và cuối cùng là hụt chân. Lúc đó chỉ biết la hoảng và câu chuyện tiếp diễn như anh Ch. và bạn anh đã thấy.
Sau khi được cứu thoát và được anh Ch. kể chuyện thay đổi người, thì tinh thần mẹ con của chị H. ngày càng lún sâu vào trạng thái hoảng sợ, lo âu. Không riêng gì mẹ con chị H. mà anh Ch. cũng mắc bệnh luôn. Ban đêm hay buổi chiều anh thường thấy những người đàn bà chết đuối khóc lóc, đi tới đi lui ở bờ sông. Những hiện tượng trên xảy ra càng lúc càng phức tạp cho nên vợ anh Ch. đã đến nhờ tôi qua xem bệnh tình giúp anh Ch.
Khi gặp anh Ch. tôi dùng phương pháp bấm huyệt, châm cứu, đốt thuốc cứu những huyệt an thần và cho những loại thuốc bổ an thần. Đồng thời tôi dùng thần chú Chuẩn Đề quán tưởng, vẽ những linh phù vào những vùng huyệt có tính chất an thần trên. Tôi đã điểm đạo và trao thần chú cho mẹ con chị H.
Tôi khuyên chị nên phát nguyện thọ trì thần chú suốt đời, truyền trao lại cho gia đình và mọi người xung quanh mình để tạo dựng phước báu, hồi hướng công đức làm đạo của mình nhằm cắt đứt nghiệp lực oan nghiệt của mình. Sau khi thọ nhận thần chú tu trì, hai mẹ con chị H. cũng hết dần cơn bệnh.
Wapchoi
Vũng Liêm là một huyện đất đai cũng màu mỡ, sông rạch chằng chịt. Người dân ở vùng ven sông Cổ Chiên này phần đông sống bằng nghề trồng vườn, cho nên cây trái ở đây cũng rất xum xuê. Phương tiện di chuyển ở đây chủ yếu bằng xuồng, ghe.
Năm 2007, tôi (sư huynh Than)có ghé đến vùng đất này để trị bệnh cho một người bạn là anh Nguyễn Thanh Ch. sống bằng nghề làm vuờn. Anh Ch. bị một chứng bệnh hơi lạ lùng hơn những người khác. Nguyên nhân của căn bệnh này có mang tính chất huyền linh, nên tôi xin mạn phép được chia sẻ cùng quý bạn đạo xa gần, để cùng nhau tạo dựng con đường tu học.
Năm 2006, vào tiết đông tháng mười, anh Ch. tự nhiên cảm thấy trong tâm thức anh hình như có gì hơi khác khác, lạ thường, anh thích trầm tư mặc tuởng. Lâu ngày như vậy, anh lại phát hiện cứ khoảng chiều về vào lúc 6:30 tối đến mười hai giờ đêm, bên tai anh thuờng hay nghe mọi nguời nói, có khi không biết tiếng nói từ đâu phát ra.
Cứ hết người này nói đến người khác, đàn ông, đàn bà, già trẻ lẫn lộn, nói rất nhiều chuyện. Trong đó có những chuyện anh đã được nghe kể qua, nhưng có khác là những người kể chuyện hiện nay chính là những nhân vật trong những câu chuyện đó. Hiện tượng này kéo dài vài tháng và những gì anh nghe vào lần cuối cùng là nguyên nhân khiến anh mang bệnh.
Một buổi tối khoảng tam, chín giờ, lúc đó anh ra kiểm tra ghe máy của anh. Từ nhà đến bến cột ghe máy độ khoảng hai trăm mét. Khi anh đến gần bờ sông, gần nhà ghe của anh, thì tai anh nghe một giọng nói của một người nữ
- Con ráng chịu lạnh chút nữa nha, ngày mai đây mình sẽ được đi chỗ khác. Ở chỗ đó mình sẽ được ấm no. Còn ở đây, vào ngày mai sẽ có hai mẹ con của bà kia đến thế chỗ cho mình. Con lại đây để mẹ ôm con cho bớt lạnh. Tội nghiệp con tôi quá. Bà con nội ngoại gì cũng bỏ chúng ta không ai lo cho mình gì cả. Sao mẹ con mình khổ quá.
Khi nghe như vậy anh núp vào lùm cây thì nhìn thấy hai nguời lạ, trước giờ anh không hề biết. Một nguời phụ nữ và một cô con gái khoảng bảy tuổi. Mình mẩy hai người ướt sũng. Người đàn bà vừa nói vừa ôm chầm lấy đứa con khóc nức nở, cứ nhắc mãi câu nói là ngày mai sẽ có người thay thế. Hai mẹ con nói chuyện một hồi rồi chính mắt anh thấy họ nắm tay nhau đi thẳng xuống sông và mất hút luôn!
Khi nghe xong những lời nói trên, anh Ch. trong đêm đó không sao ngủ đuợc, cứ trằn trọc suy nghĩ mãi và nghĩ về đủ thứ chuyện. Tâm thức như vậy kéo dài cho đến khi gà gáy sáng anh mới chợp mắt đuợc một chút. Khi anh giật mình tỉnh dậy thì đã chín giờ sáng. Anh vội vàng ăn sáng qua loa rồi chạy sang nhà nguời bạn tên B. ở gần đó và kể cho anh B. nghe hết tất cả những lời nói, mà anh đã nghe được tối hôm qua.
Rồi hai anh em cùng nhau ra bến ghe coi ai là người thế mạng cho hai mẹ con người đó. Khi đi, hai anh em cũng rất sợ, họ bèn đốt nhang bàn thờ Phật và xin dời cốt tuợng Quan Âm đi theo. Vừa đi vừa niệm chú “Úm Ma Ni Pad Mê Hum” thầm trong miệng (anh Ch. đã được tôi điểm đạo và chỉ được nhận câu thần chú Úm Ma Ni Pad Mê Hum).
Chuẩn bị như thế khi đi đến nơi, hai anh em liền trải một tấm bạt bằng nhựa xuống đất phía trong nhà ghe và ngồi chờ đợi. Chờ mãi cho đến hơn mười một giờ mà vẫn không thấy ai đến đây cả. Khoảng hơn 11:40 trưa hôm đó, bất thần hai người nghe tiếng kêu:
- Cứu tôi, cứu tôi với...
Từ bên kia con rạch nhỏ. Do đã chuẩn bị sẵn sàng, khi nghe tiếng kêu cứu, hai anh em liền vụt đứng dậy chạy và lội qua con rạch rất nhanh. Khi qua đó họ thấy có một người ở duới sông hụp lên hụp xuống, trong khi đó nguời con gái thì ở trên bờ nhảy xuống vì thấy mẹ mình sắp sửa chết đuối, nên bất chấp mạng sống nhảy ùm xuống cứu mẹ. Thế là hai mẹ con hụp xuống trôi theo dòng nước chảy.
Anh Ch. thấy vậy lính quýnh, vội cầm cái tuợng Quan Âm vừa la lên:
- Úm Ma Ni Pad Mê Hum...
Vừa chọi cái tượng xuống hướng về phía hai mẹ con người đó. Tâm nguyện anh Ch. trong lúc tinh thần bối rối, hoang mang cứ nghĩ là chọi cái tượng bằng sành xuống để đánh những hồn ma đang chuẩn bị bắt người. Vì trong lúc khẩn cấp anh chọi cái tượng không trúng ma mà lại trúng ngay chân m*y của người mẹ đang bấu đeo chặt vào người con, làm cho nguời con không lội đuợc, điều đó khiến cho cả hai nguời sắp chết đuối.
Nhờ anh Ch. chọi cái tượng trúng đầu người mẹ chảy máu làm bà ta bất tỉnh không ôm người con được nữa. Do đó người con lội được và đỡ người mẹ vừa kịp lúc, đợi anh Ch. và anh B. đến cứu giúp. Thế là hai người phụ nữ được cứu. Sau khi tỉnh lại, họ kể nguyên nhân của chuyện chết hụt vừa qua.
Nguời mẹ giặt đồ ngồi duới mặt nuớc, đột nhiên thấy ớn lạnh, nổi da gà phía sau lưng, rùng mình rất nhiều lần, thình lình cảm thấy toàn thân và chân bên mình lạnh tê cứng làm như có một lực kéo chân xuống nước, không có sức lực chống cự lại và cuối cùng là hụt chân. Lúc đó chỉ biết la hoảng và câu chuyện tiếp diễn như anh Ch. và bạn anh đã thấy.
Sau khi được cứu thoát và được anh Ch. kể chuyện thay đổi người, thì tinh thần mẹ con của chị H. ngày càng lún sâu vào trạng thái hoảng sợ, lo âu. Không riêng gì mẹ con chị H. mà anh Ch. cũng mắc bệnh luôn. Ban đêm hay buổi chiều anh thường thấy những người đàn bà chết đuối khóc lóc, đi tới đi lui ở bờ sông. Những hiện tượng trên xảy ra càng lúc càng phức tạp cho nên vợ anh Ch. đã đến nhờ tôi qua xem bệnh tình giúp anh Ch.
Khi gặp anh Ch. tôi dùng phương pháp bấm huyệt, châm cứu, đốt thuốc cứu những huyệt an thần và cho những loại thuốc bổ an thần. Đồng thời tôi dùng thần chú Chuẩn Đề quán tưởng, vẽ những linh phù vào những vùng huyệt có tính chất an thần trên. Tôi đã điểm đạo và trao thần chú cho mẹ con chị H.
Tôi khuyên chị nên phát nguyện thọ trì thần chú suốt đời, truyền trao lại cho gia đình và mọi người xung quanh mình để tạo dựng phước báu, hồi hướng công đức làm đạo của mình nhằm cắt đứt nghiệp lực oan nghiệt của mình. Sau khi thọ nhận thần chú tu trì, hai mẹ con chị H. cũng hết dần cơn bệnh.
Wapchoi
Thanked by 3 Members:
|
|
#999
Gửi vào 24/06/2014 - 06:44
ÁM ẢNH BÓNG MA PHỤ NỮ XUẤT HIỆN TRONG NHÀ TÙ ALCATRAZ
Có thể thấy, bóng ma phụ nữ này đang nhìn thẳng vào ô cửa kính đối diện với người chụp.
Trong chuyến tham quan Nhà tù liên bang Alcatraz, Mỹ mới đây, cặp đôi đến từ Anh Quốc đã được một phen rợn tóc gáy, khi phát hiện ra một bóng phụ nữ vô tình, xuất hiện trên màn hình điện thoại của mình.
Vào tháng 4/2014 vừa qua, ông Paul Rice, 50 tuổi và cô Sheila Sillery Walsh, 48 tuổi, sống tại thành phố Birmingham, Anh Quốc đã có một chuyến ghé thăm Nhà tù Alcatraz, khi du lịch tới thành phố San Francisco, bang California.
Cô Sheila cho biết đã dùng chiếc điện thoại Iphone 5c để chụp lại bức ảnh lưu niệm, khi đi qua một phòng chờ thăm nuôi. Khi nhìn vào màn hình điện thoại, cô Sheila rất hoang mang khi nhìn thấy bóng đen của một phụ nữ đang nhìn thẳng vào camera, thông qua cửa sổ nơi cô chụp.
Trong khi trước đó, không có một ai được vào căn phòng đó. Ngay lập tức, cô Sheila nhận ra, người phụ nữ xuất hiện trong bức ảnh chính là một hồn ma. Kể từ đó trở đi, cô không còn yêu thích tour tham quan tới nhà tù Alcatraz nữa.
Ông Paul, bạn trai của cô Sheila vốn là một người không tin vào ma quỷ. Nhưng sau khi nhìn kỹ bức ảnh, ông nhận thấy mái tóc và trang phục của người phụ nữ trong bức ảnh không giống thời hiện đại, mà mang xu hướng của những năm 1930 hoặc 1940. Vì vậy, ông Paul cũng một mực khẳng định, người phụ nữ đó chắc hẳn là một hồn ma.
Cũng theo lời kể của cô Sheila, ngay từ lúc mới bước chân vào khu di tích, cô đã có cảm giác rùng rợn và không thoải mái. Được biết, Nhà tù Alcatraz từ lâu đã được biết đến như là một trong những địa danh ma ám nổi tiếng của nước Mỹ. Nơi đây từng là nơi trú ngụ của hàng trăm kẻ sát nhân, cướp bóc khét tiếng.
Chi Mai
Có thể thấy, bóng ma phụ nữ này đang nhìn thẳng vào ô cửa kính đối diện với người chụp.
Trong chuyến tham quan Nhà tù liên bang Alcatraz, Mỹ mới đây, cặp đôi đến từ Anh Quốc đã được một phen rợn tóc gáy, khi phát hiện ra một bóng phụ nữ vô tình, xuất hiện trên màn hình điện thoại của mình.
Vào tháng 4/2014 vừa qua, ông Paul Rice, 50 tuổi và cô Sheila Sillery Walsh, 48 tuổi, sống tại thành phố Birmingham, Anh Quốc đã có một chuyến ghé thăm Nhà tù Alcatraz, khi du lịch tới thành phố San Francisco, bang California.
Cô Sheila cho biết đã dùng chiếc điện thoại Iphone 5c để chụp lại bức ảnh lưu niệm, khi đi qua một phòng chờ thăm nuôi. Khi nhìn vào màn hình điện thoại, cô Sheila rất hoang mang khi nhìn thấy bóng đen của một phụ nữ đang nhìn thẳng vào camera, thông qua cửa sổ nơi cô chụp.
Trong khi trước đó, không có một ai được vào căn phòng đó. Ngay lập tức, cô Sheila nhận ra, người phụ nữ xuất hiện trong bức ảnh chính là một hồn ma. Kể từ đó trở đi, cô không còn yêu thích tour tham quan tới nhà tù Alcatraz nữa.
Ông Paul, bạn trai của cô Sheila vốn là một người không tin vào ma quỷ. Nhưng sau khi nhìn kỹ bức ảnh, ông nhận thấy mái tóc và trang phục của người phụ nữ trong bức ảnh không giống thời hiện đại, mà mang xu hướng của những năm 1930 hoặc 1940. Vì vậy, ông Paul cũng một mực khẳng định, người phụ nữ đó chắc hẳn là một hồn ma.
Cũng theo lời kể của cô Sheila, ngay từ lúc mới bước chân vào khu di tích, cô đã có cảm giác rùng rợn và không thoải mái. Được biết, Nhà tù Alcatraz từ lâu đã được biết đến như là một trong những địa danh ma ám nổi tiếng của nước Mỹ. Nơi đây từng là nơi trú ngụ của hàng trăm kẻ sát nhân, cướp bóc khét tiếng.
Chi Mai
Thanked by 1 Member:
|
|
#1000
Gửi vào 27/06/2014 - 12:43
LẦN ĐẦU TIÊN TOÀ ÁN MỸ "CÔNG KHAI THỪA NHẬN LÀ CÓ MA"
Gần đây, Tòa án Mỹ đã niêm phong văn phòng và dán thông báo “CHÚ Ý CÓ MA.”
Nghĩa là “thông báo là có ma thường lui tới” để cảnh báo mọi người không bị ma làm cho quá sợ hãi.
Vào ngày 14 tháng 6 vừa qua, cả CNN và Reuters đều đưa tin về một đoạn video quay được từ camera an ninh ở một văn phòng của Tòa án Mỹ. Trong đoạn video, chúng ta có thể nhìn thấy rõ hình một người phụ nữ tóc dài, đang cầm một cái bảng và đứng viết.
Có người cho rằng, đó là hình ảnh phản chiếu của một người nào đó trong phòng. Tuy nhiên, phóng viên của CNN đã đến tận nơi để điều tra, nhưng không có bất kỳ đồ vật gì phản chiếu được ở trong căn phòng này.
Nhân viên bảo vệ của tòa nhà nói rằng, ông thường nghe thấy tiếng bước chân và những tiếng động lạ từ trong căn phòng.
Sưu tầm
Gần đây, Tòa án Mỹ đã niêm phong văn phòng và dán thông báo “CHÚ Ý CÓ MA.”
Nghĩa là “thông báo là có ma thường lui tới” để cảnh báo mọi người không bị ma làm cho quá sợ hãi.
Vào ngày 14 tháng 6 vừa qua, cả CNN và Reuters đều đưa tin về một đoạn video quay được từ camera an ninh ở một văn phòng của Tòa án Mỹ. Trong đoạn video, chúng ta có thể nhìn thấy rõ hình một người phụ nữ tóc dài, đang cầm một cái bảng và đứng viết.
Có người cho rằng, đó là hình ảnh phản chiếu của một người nào đó trong phòng. Tuy nhiên, phóng viên của CNN đã đến tận nơi để điều tra, nhưng không có bất kỳ đồ vật gì phản chiếu được ở trong căn phòng này.
Nhân viên bảo vệ của tòa nhà nói rằng, ông thường nghe thấy tiếng bước chân và những tiếng động lạ từ trong căn phòng.
Sưu tầm
Thanked by 1 Member:
|
|
#1001
Gửi vào 27/06/2014 - 13:12
NHỮNG CHUYỆN KỲ BÍ QUANH NGÔI ĐỀN NHÀ BÀ
Trải qua nhiều biến cố của lịch sử, ngôi đền Nhà Bà tại xóm Động Cầu, xã Lăng Thành, huyện Yên Thành, đã tồn tại hằng trăm đến nay hiện đã được tu sửa nhiều lần. Xung quanh ngôi đền linh thiêng này, người dân nơi đây vẫn truyền tai nhau về những câu chuyện kỳ bí, nhưng lại khiến cho họ phải kính trọng, bởi vị thần được thờ là một trong năm vị thành hoàng của làng.
Từ trung tâm xã miền núi Lăng Thành, huyện Yên Thành Nghệ An, vượt qua quảng đường gần năm km theo hướng Tây Bắc với đường đồi núi rậm rạp, sau đó vượt qua con dốc Cầu với những đường cua gấp tay áo thì đến xóm Động Cầu. Lăng Thành là xã trung du, chỉ riêng xóm Động Cầu nằm cách biệt với trung tâm xã, nơi đây vốn được xem là chốn khỉ ho cò gáy.
Xóm Động Cầu gắn cho mình với những nét đặc trưng riêng biệt về địa lý, tự nhiên của một vùng rừng núi rậm rạp. Đặc biệt tại đây có nhiều ngôi đền thiêng nhưng qua thời gian hiện đền không còn giữ được nguyên hiện trạng. Chỉ duy nhất ngôi đền Nhà Bà linh thiêng vẫn được người dân nơi đây tôn tạo và thờ phụng, với mong muốn đem đến sự yên bình cho ngôi làng, vốn được xem là nơi rừng thiêng nước độc.
Đền Nhà Bà nằm trên một khu đất khá bằng phẳng có khuôn viên khoảng hơn 200 m2. Không ai biết đền được xây dựng vào năm nào, chỉ biết vào năm 1996, khi ngôi đền bị mối mọt hư hỏng nặng, nên người dân địa phương đã dỡ ra để tôn tạo lại, thì phát hiện trên xà nhà của ngôi đền có ghi một dòng chữ Nho.
Sau đó, các vị cao niên đã dịch ra là đền được xây dựng vào năm “Bính Tý”. Tuy nhiên, ngôi đền cũng không để lại tư liệu gì khác, nên không rõ đền được xậy dựng vào thời kỳ nào cả. Đến năm 2008, do bị mối mọt ăn hư hỏng lần nữa, nên đền được tôn tạo lại với kinh phí gần năm chục triệu đồng, do nhân dân địa phương tự nguyện cúng công đức và có hiện trạng như bây giờ.
Đền có Thượng điện là nơi thờ Bạch y công chúa; Hạ điện để làm bàn thờ thắp hương cho bà con và du khách thập phương đến cúng viếng; ngoài ra còn có sân vào ghế ngồi xung quanh sân và vườn.
Ông Nguyễn Đình Thụ sáu mươi bốn tuổi cho biết: Ông là hậu duệ thứ chín của dòng họ sinh sống ở đây và hiện ông vẫn còn giữ được sắc phong thần của ngôi đền và chỉ có dòng họ Nguyễn Đình được giữ bản sắc phong ấy. Hiện trên bàn thờ dòng họ đặt tại nhà ông Thụ vẫn còn lưu giữ bản gốc sắc phong ấy bằng chữ Nho.
Hàng năm vào ngày rằm tháng Giêng ông Thụ đều có nhiệm vụ đưa bản dịch tiếng việt từ bản gốc ấy ra để tế lễ thần linh. Từ ngày còn nhỏ, ông đã nghe nội kể lại ngôi đền Nhà Bà vốn linh thiêng và có nhiều câu chuyện mang tính tâm linh, nên đám trẻ con trong làng không ai dám tới gần.
Lúc bấy giờ, ngôi đền Nhà Bà vẫn được làm bằng gỗ và mái được lợp bằng tranh. Ngồi đền không chỉ là nơi cầu phúc, cầu tài, cầu lộc giữ bình yên cho người dân địa phương, mà có rất nhiều du khách thập phương khi nghe tin sự linh thiêng của ngôi đền, cũng đã đến đây để cúng viếng.
Ông Đào Sơn sáu mươi sáu tuổi, là hậu duệ đời thứ hai mươi lăm của dòng họ Đào, một trong 4 dòng họ đầu tiên (Nguyễn, Đào, Hoàng, Thái) lên vùng đất này khai hoang lập dân cho biết: Hiện không có tư liệu nào ghi chép cụ thể về sự hình thành của ngồi đền, tuy nhiên dựa vào lịch sử vùng đất này thì khoảng trên 500 năm trước, đã có người lên đây khai phá, lập dân. Như vậy, ngôi đền có thể cũng được xây dựng vào thời gian này để mong sự bình an, yên ấm nơi vùng đất vốn được xem là chốn rừng thiêng nước độc này.
Mặc dầu không có những tư liệu ghi chép lại nhưng những câu chuyện về ngôi đền thiêng này vẫn được người dân nơi đây truyền miệng từ đời này qua đời khác. Qua hàng trăm năm, trải qua nhiều mưa nắng, gió bão thiên nhiên nhưng ngôi đền vẫn không hề hấn gì. Có những trận bão sau khi qua đi thì phát hiện có rất nhiều nhánh, cây cối ngã đổ rạp ra xung quanh mà không ngã đè lên ngôi đền.
Chính điều này, người dân địa phương cho rằng đó là một sự trùng lặp ngẫu nhiên hay có sức mạnh siêu nhiên nào đó?. Hiện xung quanh ngôi đền có rất nhiều cây cổ thụ hai, ba người ôm nhưng không một người dân nào dám đụng đến.
Ngôi đền cũng là vị cứu tinh của nhiều người dân địa phương nơi đây. Với tính chất địa hình đồi núi nên trâu bò được thả rông trên các sườn đồi và thường xuyên bị mất lạc. Khi đó, người dân thường đến đền Nhà Bà để thắp hương cầu khấn và lạ kỳ là không lâu sau đó đều tìm thấy. Nhiều người đi qua đây, vạ miệng văng tục đều bị Thánh quở trách, có người méo miệng, có người bị ốm, bệnh tật không rõ nguyên nhân.
Người nhà phải đến đền Nhà Bà xin dược mới khỏi bệnh. Hay như trẻ con trong làng bị đau yếu, bị quấy khóc ban đêm thì đều đến ngôi để khấn làm lễ. Mặc dầu với y học hiện đại nhưng người dân nơi đây vẫn quen với việc này. Việc đi lại khó khăn, đường xá cách trở, ngồi đền giường như là vị cứu tinh của dân làng nơi đây.
Một câu chuyện truyền miệng về sự linh thiêng của ngôi đền, mà người dân ở đây vẫn truyền tai nhau, đó là sự mất đi của hai cây lim to ba, bốn người ôm, vốn là hai cột cổng của ngôi đền bỗng nhiên bị chặt bỏ.
Ông Đào Sơn kể lại:
- Tôi được ông tôi kể lại rằng, vào năm 1918 xã Lăng Thành có chủ trương làm một số cầu trên địa bàn và quyết định chặt hai cây lim trước cổng đền cưa ra làm ván đóng cầu. Hôm chặt cây, chỉ có ba người tham gia và rất đông người dân đến xem, nhưng không ai dám phụ giúp bởi họ sợ Thần linh quở phạt.
Không hiểu là một điều trùng lặp ngẫu nhiên hay sự quở phạt của Thần linh, mà không lâu sau đó, hai trong ba người trực tiếp vào chặt cây lim đã bị gặp nạn. Một người bị chết tức tưởi khi tuổi đời còn trẻ, một người khác bị mù mắt, không lâu sau đó cũng chết, còn người kia chỉ phụ giúp nên may mắn không gặp nạn. Ông Sơn kể lại.
Bên cạnh câu chuyện linh thiêng xung quanh hai cây lim bị chặt bỏ thì gần đây, người dân địa phương lại xôn xao về chuyện rắn thần bỗng nhiên xuất hiện với tần suất nhiều hơn quanh khu vực đền. Anh Trần Văn Truyền, người đã tận mắt nhìn thấy rắn thần kể lại:
- Vào sáng ngày 4-5 năm 2012, anh cùng với bảy người khác (đều là anh em trai) đi vào đền Nhà Bà để dọn dẹp và phát quang chuẩn bị cúng ngày 5-5 âm lịch. Khi vừa bước vào cửa thượng điện thì hốt hoảng phát hiện một con rắn hổ mang đang nằm khoảng tròn bên góc cửa. Khi thấy người, con rắn liền ngóc đầu lên nhìn và không di chuyển. Con rắn dài khoảng ba, bốn m, nặng khoảng năm, sáu kg và nhiều người khẳng định đây là con rắn thần, đã gặp trước đó quanh khu vực ngôi đền.
- Con rắn này xuất hiện nhiều lần rồi nhưng vì là rắn thần của ngôi đền Nhà Bà, nên không ai dám bắt. Mấy anh em chúng tôi vốn là những người chuyên đi bắt rắn, nếu hôm đó không phải là gặp ở đền Nhà Bà chúng tôi đã tóm ngay. Khi chúng tôi thay nhau vào thắp hương ở thượng điện, con rắn vẫn nằm dưới chân. Hổ mang là loài rắn ác và hiếu chiến, nếu là rắn bình thường khi thấy người nó sẽ lao vào căn ngay. Anh Truyền khẳng định.
Nhiều câu chuyện kỳ bí xung quanh ngôi đền Nhà Bà, vẫn được người dân nơi đây truyền tai nhau. Những câu chuyện ly kỳ trùng lặp không ai có thể cắt nghĩa được và cũng không chứng minh được có thật hay không. Tuy nhiên, họ xem ngôi đền như là một vị cứu tinh mỗi khi xảy ra chuyện chẳng lành.
Và mỗi lần như thế họ lại ra đây làm lễ cúng viếng, mong đem đến sự bình an hạnh phúc cho gia đình và cả ngôi làng. Đứng về mặt này, đó là điều tốt cho dân làng giữ gìn gia phong, loại bỏ những điều mê tín.
Xuân Lê
Trải qua nhiều biến cố của lịch sử, ngôi đền Nhà Bà tại xóm Động Cầu, xã Lăng Thành, huyện Yên Thành, đã tồn tại hằng trăm đến nay hiện đã được tu sửa nhiều lần. Xung quanh ngôi đền linh thiêng này, người dân nơi đây vẫn truyền tai nhau về những câu chuyện kỳ bí, nhưng lại khiến cho họ phải kính trọng, bởi vị thần được thờ là một trong năm vị thành hoàng của làng.
Từ trung tâm xã miền núi Lăng Thành, huyện Yên Thành Nghệ An, vượt qua quảng đường gần năm km theo hướng Tây Bắc với đường đồi núi rậm rạp, sau đó vượt qua con dốc Cầu với những đường cua gấp tay áo thì đến xóm Động Cầu. Lăng Thành là xã trung du, chỉ riêng xóm Động Cầu nằm cách biệt với trung tâm xã, nơi đây vốn được xem là chốn khỉ ho cò gáy.
Xóm Động Cầu gắn cho mình với những nét đặc trưng riêng biệt về địa lý, tự nhiên của một vùng rừng núi rậm rạp. Đặc biệt tại đây có nhiều ngôi đền thiêng nhưng qua thời gian hiện đền không còn giữ được nguyên hiện trạng. Chỉ duy nhất ngôi đền Nhà Bà linh thiêng vẫn được người dân nơi đây tôn tạo và thờ phụng, với mong muốn đem đến sự yên bình cho ngôi làng, vốn được xem là nơi rừng thiêng nước độc.
Đền Nhà Bà nằm trên một khu đất khá bằng phẳng có khuôn viên khoảng hơn 200 m2. Không ai biết đền được xây dựng vào năm nào, chỉ biết vào năm 1996, khi ngôi đền bị mối mọt hư hỏng nặng, nên người dân địa phương đã dỡ ra để tôn tạo lại, thì phát hiện trên xà nhà của ngôi đền có ghi một dòng chữ Nho.
Sau đó, các vị cao niên đã dịch ra là đền được xây dựng vào năm “Bính Tý”. Tuy nhiên, ngôi đền cũng không để lại tư liệu gì khác, nên không rõ đền được xậy dựng vào thời kỳ nào cả. Đến năm 2008, do bị mối mọt ăn hư hỏng lần nữa, nên đền được tôn tạo lại với kinh phí gần năm chục triệu đồng, do nhân dân địa phương tự nguyện cúng công đức và có hiện trạng như bây giờ.
Đền có Thượng điện là nơi thờ Bạch y công chúa; Hạ điện để làm bàn thờ thắp hương cho bà con và du khách thập phương đến cúng viếng; ngoài ra còn có sân vào ghế ngồi xung quanh sân và vườn.
Ông Nguyễn Đình Thụ sáu mươi bốn tuổi cho biết: Ông là hậu duệ thứ chín của dòng họ sinh sống ở đây và hiện ông vẫn còn giữ được sắc phong thần của ngôi đền và chỉ có dòng họ Nguyễn Đình được giữ bản sắc phong ấy. Hiện trên bàn thờ dòng họ đặt tại nhà ông Thụ vẫn còn lưu giữ bản gốc sắc phong ấy bằng chữ Nho.
Hàng năm vào ngày rằm tháng Giêng ông Thụ đều có nhiệm vụ đưa bản dịch tiếng việt từ bản gốc ấy ra để tế lễ thần linh. Từ ngày còn nhỏ, ông đã nghe nội kể lại ngôi đền Nhà Bà vốn linh thiêng và có nhiều câu chuyện mang tính tâm linh, nên đám trẻ con trong làng không ai dám tới gần.
Lúc bấy giờ, ngôi đền Nhà Bà vẫn được làm bằng gỗ và mái được lợp bằng tranh. Ngồi đền không chỉ là nơi cầu phúc, cầu tài, cầu lộc giữ bình yên cho người dân địa phương, mà có rất nhiều du khách thập phương khi nghe tin sự linh thiêng của ngôi đền, cũng đã đến đây để cúng viếng.
Ông Đào Sơn sáu mươi sáu tuổi, là hậu duệ đời thứ hai mươi lăm của dòng họ Đào, một trong 4 dòng họ đầu tiên (Nguyễn, Đào, Hoàng, Thái) lên vùng đất này khai hoang lập dân cho biết: Hiện không có tư liệu nào ghi chép cụ thể về sự hình thành của ngồi đền, tuy nhiên dựa vào lịch sử vùng đất này thì khoảng trên 500 năm trước, đã có người lên đây khai phá, lập dân. Như vậy, ngôi đền có thể cũng được xây dựng vào thời gian này để mong sự bình an, yên ấm nơi vùng đất vốn được xem là chốn rừng thiêng nước độc này.
Mặc dầu không có những tư liệu ghi chép lại nhưng những câu chuyện về ngôi đền thiêng này vẫn được người dân nơi đây truyền miệng từ đời này qua đời khác. Qua hàng trăm năm, trải qua nhiều mưa nắng, gió bão thiên nhiên nhưng ngôi đền vẫn không hề hấn gì. Có những trận bão sau khi qua đi thì phát hiện có rất nhiều nhánh, cây cối ngã đổ rạp ra xung quanh mà không ngã đè lên ngôi đền.
Chính điều này, người dân địa phương cho rằng đó là một sự trùng lặp ngẫu nhiên hay có sức mạnh siêu nhiên nào đó?. Hiện xung quanh ngôi đền có rất nhiều cây cổ thụ hai, ba người ôm nhưng không một người dân nào dám đụng đến.
Ngôi đền cũng là vị cứu tinh của nhiều người dân địa phương nơi đây. Với tính chất địa hình đồi núi nên trâu bò được thả rông trên các sườn đồi và thường xuyên bị mất lạc. Khi đó, người dân thường đến đền Nhà Bà để thắp hương cầu khấn và lạ kỳ là không lâu sau đó đều tìm thấy. Nhiều người đi qua đây, vạ miệng văng tục đều bị Thánh quở trách, có người méo miệng, có người bị ốm, bệnh tật không rõ nguyên nhân.
Người nhà phải đến đền Nhà Bà xin dược mới khỏi bệnh. Hay như trẻ con trong làng bị đau yếu, bị quấy khóc ban đêm thì đều đến ngôi để khấn làm lễ. Mặc dầu với y học hiện đại nhưng người dân nơi đây vẫn quen với việc này. Việc đi lại khó khăn, đường xá cách trở, ngồi đền giường như là vị cứu tinh của dân làng nơi đây.
Một câu chuyện truyền miệng về sự linh thiêng của ngôi đền, mà người dân ở đây vẫn truyền tai nhau, đó là sự mất đi của hai cây lim to ba, bốn người ôm, vốn là hai cột cổng của ngôi đền bỗng nhiên bị chặt bỏ.
Ông Đào Sơn kể lại:
- Tôi được ông tôi kể lại rằng, vào năm 1918 xã Lăng Thành có chủ trương làm một số cầu trên địa bàn và quyết định chặt hai cây lim trước cổng đền cưa ra làm ván đóng cầu. Hôm chặt cây, chỉ có ba người tham gia và rất đông người dân đến xem, nhưng không ai dám phụ giúp bởi họ sợ Thần linh quở phạt.
Không hiểu là một điều trùng lặp ngẫu nhiên hay sự quở phạt của Thần linh, mà không lâu sau đó, hai trong ba người trực tiếp vào chặt cây lim đã bị gặp nạn. Một người bị chết tức tưởi khi tuổi đời còn trẻ, một người khác bị mù mắt, không lâu sau đó cũng chết, còn người kia chỉ phụ giúp nên may mắn không gặp nạn. Ông Sơn kể lại.
Bên cạnh câu chuyện linh thiêng xung quanh hai cây lim bị chặt bỏ thì gần đây, người dân địa phương lại xôn xao về chuyện rắn thần bỗng nhiên xuất hiện với tần suất nhiều hơn quanh khu vực đền. Anh Trần Văn Truyền, người đã tận mắt nhìn thấy rắn thần kể lại:
- Vào sáng ngày 4-5 năm 2012, anh cùng với bảy người khác (đều là anh em trai) đi vào đền Nhà Bà để dọn dẹp và phát quang chuẩn bị cúng ngày 5-5 âm lịch. Khi vừa bước vào cửa thượng điện thì hốt hoảng phát hiện một con rắn hổ mang đang nằm khoảng tròn bên góc cửa. Khi thấy người, con rắn liền ngóc đầu lên nhìn và không di chuyển. Con rắn dài khoảng ba, bốn m, nặng khoảng năm, sáu kg và nhiều người khẳng định đây là con rắn thần, đã gặp trước đó quanh khu vực ngôi đền.
- Con rắn này xuất hiện nhiều lần rồi nhưng vì là rắn thần của ngôi đền Nhà Bà, nên không ai dám bắt. Mấy anh em chúng tôi vốn là những người chuyên đi bắt rắn, nếu hôm đó không phải là gặp ở đền Nhà Bà chúng tôi đã tóm ngay. Khi chúng tôi thay nhau vào thắp hương ở thượng điện, con rắn vẫn nằm dưới chân. Hổ mang là loài rắn ác và hiếu chiến, nếu là rắn bình thường khi thấy người nó sẽ lao vào căn ngay. Anh Truyền khẳng định.
Nhiều câu chuyện kỳ bí xung quanh ngôi đền Nhà Bà, vẫn được người dân nơi đây truyền tai nhau. Những câu chuyện ly kỳ trùng lặp không ai có thể cắt nghĩa được và cũng không chứng minh được có thật hay không. Tuy nhiên, họ xem ngôi đền như là một vị cứu tinh mỗi khi xảy ra chuyện chẳng lành.
Và mỗi lần như thế họ lại ra đây làm lễ cúng viếng, mong đem đến sự bình an hạnh phúc cho gia đình và cả ngôi làng. Đứng về mặt này, đó là điều tốt cho dân làng giữ gìn gia phong, loại bỏ những điều mê tín.
Xuân Lê
Sửa bởi hiendde: 27/06/2014 - 13:27
#1002
Gửi vào 15/07/2014 - 10:10
CHIẾC XE NGỰA MA QUÁI
Đây là chuyện có thật 100%.
Vào một ngày nọ tôi đi săn cả ngày trên những ngọn đồi cô quạnh nằm ở miền bắc nước Anh, nhưng không thành công mấy. Một ngọn gió đông tháng mười hai thổi đến, thế là tuyết bắt đầu rụng từ bầu trời xám xịt. Trời tối dần đi thế là tôi lạc đường. Tôi nhìn chung quanh không có dấu hiệu của sự sống.
“ Oh, Mình phải tiếp tục đi có lẽ sẽ tìm thấy ai đó ngay thôi “
Tôi vắt súng lên vai rồi cứ đi mãi. Tuyết rụng như mít rụng lạnh cóng lên, màn đêm sập xuống nhanh như thổi. Tôi bắt đầu “ phê ” và đói cồn cào vì tôi không có gì bỏ bụng từ sáng đến giờ. Tôi nghĩ đến bà vợ trẻ đẹp của tôi, đang ở trong một khách sạn làng quê chờ tôi.
“ Nàng sẽ lo lắng cho mình, mình đã hứa với nàng là sẽ về nhà trước tối ước gì có thể giữ được lời hứa đó “
Tôi và nàng mới cưới được bốn tháng chúng tôi yêu nhau và thật hạnh phúc bên nhau. Tuyết vẫn rơi trời càng đen kịt. Cứ bước vài bước là tôi lại dừng để gào lên “ cứu tôi với ” nhưng âm thanh duy nhất ở cái nơi cô quạnh này chỉ là tiếng gió rít lên từng hồi thật ảm đạm. Tôi bắt đầu sợ hãi. Tôi đã từng nhiều truyện kể về những người thợ săn lạc lối trong tuyết, họ chỉ đi mãi như vậy, cho đến khi kiệt sức và gục xuống tuyết, họ ngủ rồi không bao giờ thức dậy nữa. Tôi tự nhủ :
“ Điều đó sẽ không phải xảy đến cho mình, mình không thể chết, trong lúc đang tràn trề sức sống như vầy, đẹp trai con nhà giàu.. “
Tôi cố gắng quên đi nỗi sợ hãi. Tôi rống to hơn “ cứu tôi với ” rồi lắng nghe tiếng trả lời. A, ngoài tiếng gió gào thét ra, tôi nghĩ rằng tôi có nghe một tiếng gì đó ở xa xa. Tôi gào lên lần nữa rồi lại tưởng tượng mình có nghe một tiếng trả lời. Và… xa xa trong màn đêm, xuất hiện một đốm sáng trắng nó từ từ đến gần hơn và sáng hơn. Tôi vắt giò lên cổ chạy thẳng ngay đến đó, rồi trông thấy một ông già cầm cái đèn bão.
- Cám ơn Chúa !
Tôi hét, thật sự tôi vô cùng sung sướng khi thấy ông ta. Ông ấy có vẻ không vui khi gặp tôi, ông nhấc đèn bão trong tay lên nhìn trừng trừng vào tôi :
- Anh cám ơn Chúa vì cái gì ?
- Ồ, tôi cám ơn Chúa vì ông đấy, tôi e là tôi đã bị lạc.
- Thế anh cố gắng lết đi đâu vậy ?
- Dwolding, thị trấn đó cách đây mấy dặm ?
- Hai mươi dặm, vậy là anh đã bị lạc đường.
- Thế làng gần đây nhất cách đây mấy dặm ?
- Làng gần đây nhất là làng Wyke, cách đây mười hai dặm.
Tôi hỏi :
- Ông sống ở đâu ?
Ông ta nói :
- Đằng kia.
Rồi chĩa cây đèn bão ra. Tôi mới hỏi:
- Ông về nhà hả ?
Ổng trả lời:
- Chắc vậy.
Tôi nói:
- Làm ơn dắt tôi về với ông nhé !
Ông già lắc đầu.
- Không được, ông ấy sẽ không để cậu vào nhà đâu.
- Ồ, cháu cá là ông ấy sẽ cho mà. À mà " ông ấy " là ai vậy ? Tôi hỏi.
- Ông chủ tôi.
- Ông chủ ông là ai ?
- Không phải việc của anh. Ông già thô lỗ đáp lại
- Hừm, ông hãy dẫn tôi đến gặp lão chủ của ông. Tui cá là ổng sẽ cho tui chỗ ngủ và bữa ăn tối.
- Hừ, ta không nghĩ vậy đâu, nhưng anh cứ việc xin ông ấy đi.
Ông già lắc đầu lần nữa rồi bước đi. Tôi bám theo ánh đèn bão băng qua tuyết dầy đặc. Đi được một lúc nữa, khá lâu sau đó..
Bất thình lình tôi trông thấy một hình thù to lớn trong đêm tối, một con chó khổng lồ phóng lại đến bên tôi nó sủa um sùm.
- Thôi nào King. Ông già quát lên.
Trước mặt tôi hiện ra một toà nhà mờ mờ ảo ảo.
- Ngôi nhà ông đây hả ? Tôi hỏi.
- Ừ.. thôi nào King !
Rồi ông già móc chìa khoá ra. Ngôi nhà có một cánh cửa thật là to lớn, giống như cửa nhà tù vậy. Lão già tra chìa vào ổ khoá, mở cửa vào bước vào nhà. Tôi nhanh chóng bám sát ông ta. Tôi nhìn quanh bốn bức tường to lớn, một tiếng chuông vang lên.
- Phòng ông chủ tôi ở đằng kia kìa.
Ông già chỉ tay vào một cánh cửa thấp màu đen. Tôi liền bước đến và gõ cửa thật to. Sau đó tôi bước ngay vào căn phòng mà không đợi mời. Có một người đàn ông tóc bạc đang ngồi trên bàn đầy giấy tờ sách vở. Ông ta đứng lên và nhìn tôi chằm chặp và hỏi :
- Anh là ai ? Làm sao anh vào đây được ? Và anh muốn gì ?
- Tên tôi là James Murray tôi là bác sĩ. Tôi đã đi băng qua đồi tuyết và đến đây. Tôi cần thức ăn thức uống và chỗ ngủ. tôi nói.
- Đây đâu phải là khách sạn ?
Rồi ông quay qua lão già
- Jacop, tại sao ông dẫn người lạ mặt này vào nhà tôi ?
- Tôi đâu có dẫn hắn vô đây. Lão già la lớn:
- Hắn bám theo tôi về nhà, tôi không thể ngăn hắn được, hắn bự con hơn tôi mà.
Sau đó ông chủ quay sang tôi rồi hỏi:
- Và tại sao ông lại vào đây thưa ông ?
- Để khỏi phải chết. Tôi trả lời.
- Để khỏi chết à ?
- Tuyết dày lắm, nó sâu đến nổi có thể chôn vùi tôi trước khi trời sáng mất.
Đoạn ông ta đi thẳng ra cửa sổ và nhìn ra ngoài trời đang đổ tuyết. Cuối cùng ông nói:
- Quả thật là tuyết quá dày..ok ông có thể ở lại đây tới sáng mai nếu ông muốn. Jacob mang bửa tối lên đây. Xin mời ông ngồi.
Ông ấy lại ngồi xuống và bắt đầu đọc sách. Tôi đặt súng vào một góc phòng. Sau đó tôi ngồi xuống cạnh đống lửa và nhìn xung quanh. Căn phòng này nhỏ bé hơn đại sảnh ở bên ngoài, nhưng có nhiều thứ trông bất bình thường và thú vị lắm: sách vở thì đầy trên bàn ghế, bản đồ giấy tờ vất đầy ra sàn nhà.
“ Căn phòng tuyệt thật “ Tôi tự nhủ
“ Một nơi ở thật kỳ lạ, căn nhà nằm giữa ngọn đồi tối tăm “
Tôi nhìn ngắm khắp phòng và sau đó quay sang người đàn ông ấy. Tôi tự hỏi.
“ Ông ta là ai nhĩ ? Ông ta làm nghề gì ? Ông ta có một cái đầu to, được bao phủ bởi một lớp tóc bạc thưa thớt. Bộ mặt ông ta thật nghiêm nghị, thông minh và mạnh mẽ. Trên trán ông có vài nếp nhăn và những nếp nhăn ấy cũng tập trung vòng quanh đôi môi buồn tẻ của ông "
Jacob mang thức ăn ra, ông chủ bèn gấp sách lại và mời tôi lên bàn ăn. Trên bàn có một đĩa thịt, trứng bánh mì và cà phê. Ông nói:
- Tôi hy vọng rằng anh đang đói, tôi chẳng có gì ngon để phục vụ anh.
Nhưng lúc đó miệng tôi đang ngốn đầy bánh mì và thịt, tôi cũng ráng nói một cách đầy biết ơn:
- Ngon lắm xin cám ơn ông thật nhiều.
- Có gì đâu.
Ông lễ độ nói nhưng lời nói đó thật là lạnh lùng. Phần ăn của ông ấy tôi thấy chỉ có bánh mì và sữa. Chúng tôi ăn mà không nói một lời, ông ấy có vẻ buồn. Tôi thử tưởng tượng xem tại sao ông ấy lại sống một cuộc đời âm thầm đơn độc tại một nơi như thế này. Khi dùng xong bữa tối, Jacop dọn dẹp chén đĩa đi. Ông chủ thì đứng dậy tiến ra ngoài cửa sổ. Ông nói :
- Tuyết đã ngừng rơi.
- Hết tuyết rồi à ? Tôi gào lên:
- Có lẽ tôi sẽ phải… ờ mà thôi, làm sao có thể cuốc bộ hai mươi dặm về nhà đêm nay được.
- Cuốc bộ hai mươi dặm hả ? ông ấy ngạc nhiên hỏi :
- Ý anh nói gì ?
- Vợ tôi đang đợi ở nhà. Tôi nói:
- Cô ấy không biết tôi đang ở đâu, chắc là cô ấy sẽ lo lắng lắm.
- Cô ấy ở đâu ?
- Dwolding, cách đây hai mươi dặm.
- Dwolding. Ông ta chậm rãi nói:
- Ừ đúng nó cách đây hai mươi dặm. Nhưng anh phải về đó ngay sao ?
- Ừ. Tôi trả lời:
- Cô ấy sẽ tuyệt vọng lo lắng, tôi phải làm bất cứ cái gì để trở về bên cô ấy.
- Umm.. Ông ta nói sau một lúc do dự:
- Có một chuyến xe ngựa đi dọc theo một con đường cũ vào mỗi đêm, và nó luôn dừng lại ở Dwolding.
Ông ấy nhìn lên đồng hồ và nói:
- Một giờ mười lăm phút nữa, xe ngựa sẽ dừng ở trạm cách đây chừng năm dặm. Jacop sẽ đi với anh và chỉ cho anh con đường dẫn đến trạm. Đến lúc đó anh có thể tự mình đi đến trạm được không ?
- Dễ mà cám ơn ông.
Ông ta mĩm cười rồi rung chuông, ông ra lệnh cho Jacop và quay sang tôi:
- Anh phải nhanh lên nếu anh muốn kịp thời đón được xe.
Tôi rối rít cám ơn ông ấy, tôi còn muốn bắt tay ông ta nhưng ông đã vội vàng quay đi khỏi. Sau đó Jacob và tôi đi ra ngoài những ngọn đồi phủ tuyết cô quạnh. Mặc dù gió thổi nhẹ hơn nhưng trời vẫn rất lạnh. Bầu trời không có sao, tiếng động duy nhất trên chốn hoang vu này là tiếng từng bước chân lê trên tuyết.
Jacob không nói một lời lão ta lẵng lặng đi trước tôi, tay cầm ngọn đèn bão. Tôi lẽo đẽo theo sau với cây súng trên tay. Tôi cũng im lặng bởi vì tôi đang nghĩ về ông chủ già ấy, giọng nói của ông vẫn văng vẳng quanh tai… Tôi vẫn nhớ rõ từng lời nói của ông ấy cho đến tận bây giờ. Bất thình lình Jacob dừng chân và chỉ tay ra xa.
- Con đường ấy đấy, cứ đi dọc theo bức tường đá ở bên tay phải là khỏi bị lạc.
- Con đường xe ngựa đi đó sao ?
- Ừ !
- Cháu đang cách trạm xe bao xa ?
- Khoảng ba dặm, cứ đi men theo con đường là không bị lạc đâu.
Lão ấy bỗng dưng trở nên thân thiện tốt bụng hơn.
- Đây là một con đường dễ đi đối với những người đi bộ, nhưng nó rất hẹp và dốc đối với xe ngựa. Cậu hãy cẩn thận, bức tường đá bị vỡ gần trạm, nó vẫn chưa được sửa lại sau tai nạn.
- Tai nạn gì ạ ?
- Chiếc xe ngựa bị trượt ra khỏi con đường và rơi xuống dưới bờ vực thẳm của thung lũng sâu trên năm mươi bộ đấy. Phần xấu nhất của con đường là ở chỗ đó.
- Thật kinh khủng. Tôi gào lên:
- Thế có bao nhiêu người đã chết ?
- Tất cả. Bốn hành khách đều chết tại chỗ, người xà ích chết vào sáng hôm sau.
- Tai nạn đó xảy ra bao lâu rồi ?
- Hai Mươi năm rồi. Ông chủ của tôi tan vỡ kể từ ngày ấy, đứa con trai độc nhất của ông chủ là một trong bốn người hành khách đó. Đó là lý do tại sao ông chủ lại ẩn mình vào chốn hoang vu này.
- Bức tường bị vỡ gần trạm ? Cám ơn ông cháu sẽ nhớ điều đó. Chúc ông ngủ ngon.
Tôi đưa một bảng Anh cho lão ta. Lão nói:
- Chúc một buổi tối tốt lành và cám ơn cậu.
Sau đó ông ta quay lưng đi thẳng. Tôi nhìn theo ánh đèn bão mập mờ cho đến khi nó mờ dần rồi khuất hẳn. Sau đó tôi bắt đầu đi dọc men theo con đường mòn. Điều này không khó, mặc dù trời tối, tôi vẫn có thể thấy được bức tường đá dài bên bờ con đường.
- Mình an toàn rồi.
Tôi tự nhủ nhưng tôi cảm thấy cô độc và hơi sợ. Tôi cố gắng quên đi nỗi cô đơn và sự sợ hãi, tôi vừa đi vừa hát và huýt gió. Tôi nghĩ về vợ tôi thế là tôi cảm thấy tốt hơn một chút.
Nhưng ban đêm trên đồi trời thật lạnh, mặc dù tôi bước nhanh nhưng vẫn không thể nào ấm hơn. Tay chân tôi đông cứng lại. Ngực tôi lạnh cóng lên và cảm thấy khó thở, cây súng sao mà nặng gớm, tôi mệt mỏi đờ đẫn người ra. Phải nghĩ chân một lát thôi.
Một lúc sau tôi trông thấy một quầng sáng đằng xa xa, giống như ánh đèn bão. Thoạt đầu tôi nghĩ rằng Jacob quay lại để xem tôi sống chết ra sao. Nhưng sau đó tôi trông thấy một ánh đèn thứ hai bên cạnh cái đầu. Tôi nhận ra đó chính là hai tia đèn của một chiếc xe ngựa.
“ Nhưng kỳ lạ chưa “. Tôi nghĩ
“ Con đường mòn nguy hiểm này, Jacob đã nói không ai dám sử dụng nó từ khi tai nạn khủng khiếp ấy xảy ra “. Nhưng tôi lại nghĩ
" Hay là mình đã đi qua trạm xe trong đêm tối. Chiếc xe này đi thẳng đến Dwolding chăng ? “
Trong lúc ấy chiếc xe ngựa đi dọc theo con đường, nó đi thật nhanh, thật êm trên con đường phủ tuyết. Tôi trông thấy hình dạng to lớn của chiếc xe, có một xà ích ngồi ở trên đỉnh, và bốn con ngựa xám khỏe mạnh. Tôi nhảy ra đằng trước la lớn và vẫy tay. Chiếc xe ngựa đi xẹt ngang qua tôi, tôi cứ nghĩ thôi rồi nó không dừng lại. Thế nhưng nó đã dừng.
Người xà ích không buồn nhìn tôi, còn người bảo vệ thì có vẻ đờ đẫn gì đó… Tất cả đều im lặng. Tôi chạy đến bên xe, không ai giúp tôi tự tôi phải mở cửa xe bằng bàn tay lạnh cứng.
“ Trống trơn “. Tôi nghĩ.
Nhưng trong xe có ba hành khách. Không ai trong số họ buồn nhìn tôi họ không hề nhúc nhích. Họ trông có vẻ lờ đờ. Tôi vào trong xe và ngồi xuống. Bên trong xe ngựa còn lạnh lẽo hơn bên ngoài trời nhiều. Xe bắt đầu chuyển bánh. Không khí trong xe có mùi gì đó rất nặng, ẩm ướt chết chóc thế nào ấy. Tôi quay đầu nhìn những hành khách xung quanh tôi và cố gợi chuyện để nói.
- Đêm nay trời lạnh quá.
Tôi lịch sự nói với người ngồi đối diện tôi. Anh ta từ từ quay đầu lại nhưng không trả lời.
- Tôi nghĩ mùa đông thực sự đến rồi.
Tôi tiếp tục huyên thuyên. Người hành khách ngồi ở một góc tối trong xe mà tôi không thấy mặt, nhưng tôi trông thấy đôi mắt anh ta đang nhìn thẳng vào tôi, nhưng vẫn tuyệt nhiên không nói một lời.
“ Tại sao anh ta không trả lời mình nhỉ ? “ Tôi nghĩ.
Nhưng tôi thực sự chưa cảm thấy bực bội. Tôi đã quá mệt mỏi và lạnh cóng, cái mùi ẩm ướt chết chóc trong xe làm tôi muốn buồn nôn. Tôi lạnh rung lên tôi nói với người hành khách ngồi bên trái tôi :
“ Tôi được phép đóng cửa sổ chứ ? “
Anh ta không nói gì cả cũng chẳng nhúc nhích. Tôi hỏi lại lớn tiếng hơn, nhưng anh ta vẫn không trả lời. Sau đó tôi đã hết kiên nhẫn. Tôi cố gắng đóng cánh cửa sổ thì thấy khung kính bám đầy bụi bẩn.
“ Trời ơi, họ không lau chùi cửa kính chắc mấy chục năm rồi “. Tôi tự nhủ.
Tôi nhìn quanh và bất thần tôi hiểu ra lý do tại sao trong xe có cái mùi kinh khiếp ấy. Mọi thứ đều dơ bẩn cũ kỹ và ẩm ướt. Sàn gỗ dưới chân tôi đều vỡ ra từng mảng. Tôi quay sang người hành khách thứ ba và nói :
- Cái xe này sắp vỡ vụn ra rồi, chắc là công ty xe muốn sử dụng xe này thay thế cho xe chính đang sửa chữa.
Anh ta từ từ quay đầu lại… và vẫn cứ im lặng nhìn tôi. Cái nhìn đó… tôi sẽ không bao giờ quên. Đôi mắt hắn ta sáng lên một thứ ánh sáng hoang dã bất thường, sắc mặt anh ta trắng xanh.
“ Giống như người chết vậy “ . Tôi tự nhủ.
Sau đó tôi thấy đôi môi tái nhợt của hắn ta từ từ mở ra, để lộ hàm răng to lớn… Tôi sợ hãi run lên cầm cập. Sau đó tôi nhìn qua người hành khách ngồi đối diện tôi, hắn ta cũng đang trừng mắt nhìn tôi. Gương mặt hắn trắng bệt tái nhợt, còn đôi mắt hắn lóe lên thứ ánh sáng kỳ quái. Tôi lại nhìn sang người ngồi bên trái tôi. Tôi thấy… ồ làm sao tôi có thể mô tả được đây… Tôi thấy bộ mặt của một xác chết. Tất cả ba người hành khách này đều là những người đã chết.
Gương mặt họ xanh rợn người, mái tóc lưa thưa của họ bốc mùi ẩm ướt, những bộ quần áo họ mặt đều tỏa mùi đất ! Chỉ có những đôi mắt của họ là như đang sống. Và tất cả bọn họ đều đang nhìn chằm chặp vào tôi. Quá kinh sợ tôi thét lớn… tôi phải rời khỏi đây ngay lập tức. Tôi dùng thân mình tống mạnh vào cánh cửa, và cố sức mở nó ra trong tuyệt vọng. Ngay lúc đó mặt trăng ló dạng khỏi đám mây mù. Ánh sáng lấp loáng của nó làm tôi chợt nhìn thấy rõ mọi thứ. Tôi thấy bảng chỉ dẫn dọc theo con đường giống như một dấu hiệu cảnh báo.
Tôi thấy bức tường bị vỡ ngay bờ thềm con đường. Tôi nghe bầy ngựa sợ hãi hý vang lao trượt xuống bờ dốc đá. Tôi thấy thung lũng sâu năm mươi bộ bên dưới… Toàn bộ xe rung chuyển dữ dội giống như một con tàu trên biển gặp bão. Một tiếng thét kinh khủng, một tiếng ngựa hý vang trời. Kế đó là tiếng vỡ vụng của chiếc xe, một cảm giác đau đớn khủng khiếp và sau đó là bóng tối bao trùm …
… Một thời gian sau tôi tỉnh dậy, vợ tôi ở ngay bên tôi. Tôi hỏi :
- Chuyện gì… chuyện gì đã xảy ra ?
- Anh đã bị té.. Cô ấy nói:
- Bức tường bị vỡ ở bờ thềm của con đường, và anh rơi xuống vực thẳm thung lũng sâu năm mươi bộ, nhưng anh đã gặp may, có nhiều tuyết dày đặc ở đáy thung lũng thế là anh thoát chết.
- Anh không còn nhớ gì cả, làm sao anh đến đây được ?
- Có hai người nông dân đi tìm cừu lạc vào buổi sáng. Họ đã tìm thấy anh trên tuyết và mang anh về nơi trú ẩn gần nhất. Họ đã gọi bác sĩ lúc đó anh yếu lắm, tay gãy và đầu chấn thương rất nặng. Anh đã không hề hay biết gì cả. Vị bác sĩ lục tìm trong túi anh tên và địa chỉ. Thế là em đã săn sóc cho anh từ lúc ấy. Anh không phải lo lắng gì cả, anh cần tập trung nghĩ ngơi và bồi dưỡng sức khỏe.
Tôi còn trẻ khỏe và đã sớm thoát khỏi hiểm nguy. Nhưng tôi luôn nghĩ về tai nạn đó. Tôi không bao giờ kể cho vợ tôi nghe về chuyện này. Tôi đã kể với ông bác sĩ, nhưng ông ta nói rằng tất cả những chuyện phiêu lưu ấy chỉ là ảo tưởng, là kết quả của sự mệt mõi, của cú chạm mạch ở đầu.
Tôi cố nói cho ông ta hiểu, nhưng ông ta không nghe. Điều này không làm tôi giận dữ, chuyện ông ta tin hay không thật sự không thành vấn đề. Nhưng điều mà tôi biết đó là: tôi chính là một hành khách trong chuyến xe ngựa ma hai mươi năm về trước.
ST
Đây là chuyện có thật 100%.
Vào một ngày nọ tôi đi săn cả ngày trên những ngọn đồi cô quạnh nằm ở miền bắc nước Anh, nhưng không thành công mấy. Một ngọn gió đông tháng mười hai thổi đến, thế là tuyết bắt đầu rụng từ bầu trời xám xịt. Trời tối dần đi thế là tôi lạc đường. Tôi nhìn chung quanh không có dấu hiệu của sự sống.
“ Oh, Mình phải tiếp tục đi có lẽ sẽ tìm thấy ai đó ngay thôi “
Tôi vắt súng lên vai rồi cứ đi mãi. Tuyết rụng như mít rụng lạnh cóng lên, màn đêm sập xuống nhanh như thổi. Tôi bắt đầu “ phê ” và đói cồn cào vì tôi không có gì bỏ bụng từ sáng đến giờ. Tôi nghĩ đến bà vợ trẻ đẹp của tôi, đang ở trong một khách sạn làng quê chờ tôi.
“ Nàng sẽ lo lắng cho mình, mình đã hứa với nàng là sẽ về nhà trước tối ước gì có thể giữ được lời hứa đó “
Tôi và nàng mới cưới được bốn tháng chúng tôi yêu nhau và thật hạnh phúc bên nhau. Tuyết vẫn rơi trời càng đen kịt. Cứ bước vài bước là tôi lại dừng để gào lên “ cứu tôi với ” nhưng âm thanh duy nhất ở cái nơi cô quạnh này chỉ là tiếng gió rít lên từng hồi thật ảm đạm. Tôi bắt đầu sợ hãi. Tôi đã từng nhiều truyện kể về những người thợ săn lạc lối trong tuyết, họ chỉ đi mãi như vậy, cho đến khi kiệt sức và gục xuống tuyết, họ ngủ rồi không bao giờ thức dậy nữa. Tôi tự nhủ :
“ Điều đó sẽ không phải xảy đến cho mình, mình không thể chết, trong lúc đang tràn trề sức sống như vầy, đẹp trai con nhà giàu.. “
Tôi cố gắng quên đi nỗi sợ hãi. Tôi rống to hơn “ cứu tôi với ” rồi lắng nghe tiếng trả lời. A, ngoài tiếng gió gào thét ra, tôi nghĩ rằng tôi có nghe một tiếng gì đó ở xa xa. Tôi gào lên lần nữa rồi lại tưởng tượng mình có nghe một tiếng trả lời. Và… xa xa trong màn đêm, xuất hiện một đốm sáng trắng nó từ từ đến gần hơn và sáng hơn. Tôi vắt giò lên cổ chạy thẳng ngay đến đó, rồi trông thấy một ông già cầm cái đèn bão.
- Cám ơn Chúa !
Tôi hét, thật sự tôi vô cùng sung sướng khi thấy ông ta. Ông ấy có vẻ không vui khi gặp tôi, ông nhấc đèn bão trong tay lên nhìn trừng trừng vào tôi :
- Anh cám ơn Chúa vì cái gì ?
- Ồ, tôi cám ơn Chúa vì ông đấy, tôi e là tôi đã bị lạc.
- Thế anh cố gắng lết đi đâu vậy ?
- Dwolding, thị trấn đó cách đây mấy dặm ?
- Hai mươi dặm, vậy là anh đã bị lạc đường.
- Thế làng gần đây nhất cách đây mấy dặm ?
- Làng gần đây nhất là làng Wyke, cách đây mười hai dặm.
Tôi hỏi :
- Ông sống ở đâu ?
Ông ta nói :
- Đằng kia.
Rồi chĩa cây đèn bão ra. Tôi mới hỏi:
- Ông về nhà hả ?
Ổng trả lời:
- Chắc vậy.
Tôi nói:
- Làm ơn dắt tôi về với ông nhé !
Ông già lắc đầu.
- Không được, ông ấy sẽ không để cậu vào nhà đâu.
- Ồ, cháu cá là ông ấy sẽ cho mà. À mà " ông ấy " là ai vậy ? Tôi hỏi.
- Ông chủ tôi.
- Ông chủ ông là ai ?
- Không phải việc của anh. Ông già thô lỗ đáp lại
- Hừm, ông hãy dẫn tôi đến gặp lão chủ của ông. Tui cá là ổng sẽ cho tui chỗ ngủ và bữa ăn tối.
- Hừ, ta không nghĩ vậy đâu, nhưng anh cứ việc xin ông ấy đi.
Ông già lắc đầu lần nữa rồi bước đi. Tôi bám theo ánh đèn bão băng qua tuyết dầy đặc. Đi được một lúc nữa, khá lâu sau đó..
Bất thình lình tôi trông thấy một hình thù to lớn trong đêm tối, một con chó khổng lồ phóng lại đến bên tôi nó sủa um sùm.
- Thôi nào King. Ông già quát lên.
Trước mặt tôi hiện ra một toà nhà mờ mờ ảo ảo.
- Ngôi nhà ông đây hả ? Tôi hỏi.
- Ừ.. thôi nào King !
Rồi ông già móc chìa khoá ra. Ngôi nhà có một cánh cửa thật là to lớn, giống như cửa nhà tù vậy. Lão già tra chìa vào ổ khoá, mở cửa vào bước vào nhà. Tôi nhanh chóng bám sát ông ta. Tôi nhìn quanh bốn bức tường to lớn, một tiếng chuông vang lên.
- Phòng ông chủ tôi ở đằng kia kìa.
Ông già chỉ tay vào một cánh cửa thấp màu đen. Tôi liền bước đến và gõ cửa thật to. Sau đó tôi bước ngay vào căn phòng mà không đợi mời. Có một người đàn ông tóc bạc đang ngồi trên bàn đầy giấy tờ sách vở. Ông ta đứng lên và nhìn tôi chằm chặp và hỏi :
- Anh là ai ? Làm sao anh vào đây được ? Và anh muốn gì ?
- Tên tôi là James Murray tôi là bác sĩ. Tôi đã đi băng qua đồi tuyết và đến đây. Tôi cần thức ăn thức uống và chỗ ngủ. tôi nói.
- Đây đâu phải là khách sạn ?
Rồi ông quay qua lão già
- Jacop, tại sao ông dẫn người lạ mặt này vào nhà tôi ?
- Tôi đâu có dẫn hắn vô đây. Lão già la lớn:
- Hắn bám theo tôi về nhà, tôi không thể ngăn hắn được, hắn bự con hơn tôi mà.
Sau đó ông chủ quay sang tôi rồi hỏi:
- Và tại sao ông lại vào đây thưa ông ?
- Để khỏi phải chết. Tôi trả lời.
- Để khỏi chết à ?
- Tuyết dày lắm, nó sâu đến nổi có thể chôn vùi tôi trước khi trời sáng mất.
Đoạn ông ta đi thẳng ra cửa sổ và nhìn ra ngoài trời đang đổ tuyết. Cuối cùng ông nói:
- Quả thật là tuyết quá dày..ok ông có thể ở lại đây tới sáng mai nếu ông muốn. Jacob mang bửa tối lên đây. Xin mời ông ngồi.
Ông ấy lại ngồi xuống và bắt đầu đọc sách. Tôi đặt súng vào một góc phòng. Sau đó tôi ngồi xuống cạnh đống lửa và nhìn xung quanh. Căn phòng này nhỏ bé hơn đại sảnh ở bên ngoài, nhưng có nhiều thứ trông bất bình thường và thú vị lắm: sách vở thì đầy trên bàn ghế, bản đồ giấy tờ vất đầy ra sàn nhà.
“ Căn phòng tuyệt thật “ Tôi tự nhủ
“ Một nơi ở thật kỳ lạ, căn nhà nằm giữa ngọn đồi tối tăm “
Tôi nhìn ngắm khắp phòng và sau đó quay sang người đàn ông ấy. Tôi tự hỏi.
“ Ông ta là ai nhĩ ? Ông ta làm nghề gì ? Ông ta có một cái đầu to, được bao phủ bởi một lớp tóc bạc thưa thớt. Bộ mặt ông ta thật nghiêm nghị, thông minh và mạnh mẽ. Trên trán ông có vài nếp nhăn và những nếp nhăn ấy cũng tập trung vòng quanh đôi môi buồn tẻ của ông "
Jacob mang thức ăn ra, ông chủ bèn gấp sách lại và mời tôi lên bàn ăn. Trên bàn có một đĩa thịt, trứng bánh mì và cà phê. Ông nói:
- Tôi hy vọng rằng anh đang đói, tôi chẳng có gì ngon để phục vụ anh.
Nhưng lúc đó miệng tôi đang ngốn đầy bánh mì và thịt, tôi cũng ráng nói một cách đầy biết ơn:
- Ngon lắm xin cám ơn ông thật nhiều.
- Có gì đâu.
Ông lễ độ nói nhưng lời nói đó thật là lạnh lùng. Phần ăn của ông ấy tôi thấy chỉ có bánh mì và sữa. Chúng tôi ăn mà không nói một lời, ông ấy có vẻ buồn. Tôi thử tưởng tượng xem tại sao ông ấy lại sống một cuộc đời âm thầm đơn độc tại một nơi như thế này. Khi dùng xong bữa tối, Jacop dọn dẹp chén đĩa đi. Ông chủ thì đứng dậy tiến ra ngoài cửa sổ. Ông nói :
- Tuyết đã ngừng rơi.
- Hết tuyết rồi à ? Tôi gào lên:
- Có lẽ tôi sẽ phải… ờ mà thôi, làm sao có thể cuốc bộ hai mươi dặm về nhà đêm nay được.
- Cuốc bộ hai mươi dặm hả ? ông ấy ngạc nhiên hỏi :
- Ý anh nói gì ?
- Vợ tôi đang đợi ở nhà. Tôi nói:
- Cô ấy không biết tôi đang ở đâu, chắc là cô ấy sẽ lo lắng lắm.
- Cô ấy ở đâu ?
- Dwolding, cách đây hai mươi dặm.
- Dwolding. Ông ta chậm rãi nói:
- Ừ đúng nó cách đây hai mươi dặm. Nhưng anh phải về đó ngay sao ?
- Ừ. Tôi trả lời:
- Cô ấy sẽ tuyệt vọng lo lắng, tôi phải làm bất cứ cái gì để trở về bên cô ấy.
- Umm.. Ông ta nói sau một lúc do dự:
- Có một chuyến xe ngựa đi dọc theo một con đường cũ vào mỗi đêm, và nó luôn dừng lại ở Dwolding.
Ông ấy nhìn lên đồng hồ và nói:
- Một giờ mười lăm phút nữa, xe ngựa sẽ dừng ở trạm cách đây chừng năm dặm. Jacop sẽ đi với anh và chỉ cho anh con đường dẫn đến trạm. Đến lúc đó anh có thể tự mình đi đến trạm được không ?
- Dễ mà cám ơn ông.
Ông ta mĩm cười rồi rung chuông, ông ra lệnh cho Jacop và quay sang tôi:
- Anh phải nhanh lên nếu anh muốn kịp thời đón được xe.
Tôi rối rít cám ơn ông ấy, tôi còn muốn bắt tay ông ta nhưng ông đã vội vàng quay đi khỏi. Sau đó Jacob và tôi đi ra ngoài những ngọn đồi phủ tuyết cô quạnh. Mặc dù gió thổi nhẹ hơn nhưng trời vẫn rất lạnh. Bầu trời không có sao, tiếng động duy nhất trên chốn hoang vu này là tiếng từng bước chân lê trên tuyết.
Jacob không nói một lời lão ta lẵng lặng đi trước tôi, tay cầm ngọn đèn bão. Tôi lẽo đẽo theo sau với cây súng trên tay. Tôi cũng im lặng bởi vì tôi đang nghĩ về ông chủ già ấy, giọng nói của ông vẫn văng vẳng quanh tai… Tôi vẫn nhớ rõ từng lời nói của ông ấy cho đến tận bây giờ. Bất thình lình Jacob dừng chân và chỉ tay ra xa.
- Con đường ấy đấy, cứ đi dọc theo bức tường đá ở bên tay phải là khỏi bị lạc.
- Con đường xe ngựa đi đó sao ?
- Ừ !
- Cháu đang cách trạm xe bao xa ?
- Khoảng ba dặm, cứ đi men theo con đường là không bị lạc đâu.
Lão ấy bỗng dưng trở nên thân thiện tốt bụng hơn.
- Đây là một con đường dễ đi đối với những người đi bộ, nhưng nó rất hẹp và dốc đối với xe ngựa. Cậu hãy cẩn thận, bức tường đá bị vỡ gần trạm, nó vẫn chưa được sửa lại sau tai nạn.
- Tai nạn gì ạ ?
- Chiếc xe ngựa bị trượt ra khỏi con đường và rơi xuống dưới bờ vực thẳm của thung lũng sâu trên năm mươi bộ đấy. Phần xấu nhất của con đường là ở chỗ đó.
- Thật kinh khủng. Tôi gào lên:
- Thế có bao nhiêu người đã chết ?
- Tất cả. Bốn hành khách đều chết tại chỗ, người xà ích chết vào sáng hôm sau.
- Tai nạn đó xảy ra bao lâu rồi ?
- Hai Mươi năm rồi. Ông chủ của tôi tan vỡ kể từ ngày ấy, đứa con trai độc nhất của ông chủ là một trong bốn người hành khách đó. Đó là lý do tại sao ông chủ lại ẩn mình vào chốn hoang vu này.
- Bức tường bị vỡ gần trạm ? Cám ơn ông cháu sẽ nhớ điều đó. Chúc ông ngủ ngon.
Tôi đưa một bảng Anh cho lão ta. Lão nói:
- Chúc một buổi tối tốt lành và cám ơn cậu.
Sau đó ông ta quay lưng đi thẳng. Tôi nhìn theo ánh đèn bão mập mờ cho đến khi nó mờ dần rồi khuất hẳn. Sau đó tôi bắt đầu đi dọc men theo con đường mòn. Điều này không khó, mặc dù trời tối, tôi vẫn có thể thấy được bức tường đá dài bên bờ con đường.
- Mình an toàn rồi.
Tôi tự nhủ nhưng tôi cảm thấy cô độc và hơi sợ. Tôi cố gắng quên đi nỗi cô đơn và sự sợ hãi, tôi vừa đi vừa hát và huýt gió. Tôi nghĩ về vợ tôi thế là tôi cảm thấy tốt hơn một chút.
Nhưng ban đêm trên đồi trời thật lạnh, mặc dù tôi bước nhanh nhưng vẫn không thể nào ấm hơn. Tay chân tôi đông cứng lại. Ngực tôi lạnh cóng lên và cảm thấy khó thở, cây súng sao mà nặng gớm, tôi mệt mỏi đờ đẫn người ra. Phải nghĩ chân một lát thôi.
Một lúc sau tôi trông thấy một quầng sáng đằng xa xa, giống như ánh đèn bão. Thoạt đầu tôi nghĩ rằng Jacob quay lại để xem tôi sống chết ra sao. Nhưng sau đó tôi trông thấy một ánh đèn thứ hai bên cạnh cái đầu. Tôi nhận ra đó chính là hai tia đèn của một chiếc xe ngựa.
“ Nhưng kỳ lạ chưa “. Tôi nghĩ
“ Con đường mòn nguy hiểm này, Jacob đã nói không ai dám sử dụng nó từ khi tai nạn khủng khiếp ấy xảy ra “. Nhưng tôi lại nghĩ
" Hay là mình đã đi qua trạm xe trong đêm tối. Chiếc xe này đi thẳng đến Dwolding chăng ? “
Trong lúc ấy chiếc xe ngựa đi dọc theo con đường, nó đi thật nhanh, thật êm trên con đường phủ tuyết. Tôi trông thấy hình dạng to lớn của chiếc xe, có một xà ích ngồi ở trên đỉnh, và bốn con ngựa xám khỏe mạnh. Tôi nhảy ra đằng trước la lớn và vẫy tay. Chiếc xe ngựa đi xẹt ngang qua tôi, tôi cứ nghĩ thôi rồi nó không dừng lại. Thế nhưng nó đã dừng.
Người xà ích không buồn nhìn tôi, còn người bảo vệ thì có vẻ đờ đẫn gì đó… Tất cả đều im lặng. Tôi chạy đến bên xe, không ai giúp tôi tự tôi phải mở cửa xe bằng bàn tay lạnh cứng.
“ Trống trơn “. Tôi nghĩ.
Nhưng trong xe có ba hành khách. Không ai trong số họ buồn nhìn tôi họ không hề nhúc nhích. Họ trông có vẻ lờ đờ. Tôi vào trong xe và ngồi xuống. Bên trong xe ngựa còn lạnh lẽo hơn bên ngoài trời nhiều. Xe bắt đầu chuyển bánh. Không khí trong xe có mùi gì đó rất nặng, ẩm ướt chết chóc thế nào ấy. Tôi quay đầu nhìn những hành khách xung quanh tôi và cố gợi chuyện để nói.
- Đêm nay trời lạnh quá.
Tôi lịch sự nói với người ngồi đối diện tôi. Anh ta từ từ quay đầu lại nhưng không trả lời.
- Tôi nghĩ mùa đông thực sự đến rồi.
Tôi tiếp tục huyên thuyên. Người hành khách ngồi ở một góc tối trong xe mà tôi không thấy mặt, nhưng tôi trông thấy đôi mắt anh ta đang nhìn thẳng vào tôi, nhưng vẫn tuyệt nhiên không nói một lời.
“ Tại sao anh ta không trả lời mình nhỉ ? “ Tôi nghĩ.
Nhưng tôi thực sự chưa cảm thấy bực bội. Tôi đã quá mệt mỏi và lạnh cóng, cái mùi ẩm ướt chết chóc trong xe làm tôi muốn buồn nôn. Tôi lạnh rung lên tôi nói với người hành khách ngồi bên trái tôi :
“ Tôi được phép đóng cửa sổ chứ ? “
Anh ta không nói gì cả cũng chẳng nhúc nhích. Tôi hỏi lại lớn tiếng hơn, nhưng anh ta vẫn không trả lời. Sau đó tôi đã hết kiên nhẫn. Tôi cố gắng đóng cánh cửa sổ thì thấy khung kính bám đầy bụi bẩn.
“ Trời ơi, họ không lau chùi cửa kính chắc mấy chục năm rồi “. Tôi tự nhủ.
Tôi nhìn quanh và bất thần tôi hiểu ra lý do tại sao trong xe có cái mùi kinh khiếp ấy. Mọi thứ đều dơ bẩn cũ kỹ và ẩm ướt. Sàn gỗ dưới chân tôi đều vỡ ra từng mảng. Tôi quay sang người hành khách thứ ba và nói :
- Cái xe này sắp vỡ vụn ra rồi, chắc là công ty xe muốn sử dụng xe này thay thế cho xe chính đang sửa chữa.
Anh ta từ từ quay đầu lại… và vẫn cứ im lặng nhìn tôi. Cái nhìn đó… tôi sẽ không bao giờ quên. Đôi mắt hắn ta sáng lên một thứ ánh sáng hoang dã bất thường, sắc mặt anh ta trắng xanh.
“ Giống như người chết vậy “ . Tôi tự nhủ.
Sau đó tôi thấy đôi môi tái nhợt của hắn ta từ từ mở ra, để lộ hàm răng to lớn… Tôi sợ hãi run lên cầm cập. Sau đó tôi nhìn qua người hành khách ngồi đối diện tôi, hắn ta cũng đang trừng mắt nhìn tôi. Gương mặt hắn trắng bệt tái nhợt, còn đôi mắt hắn lóe lên thứ ánh sáng kỳ quái. Tôi lại nhìn sang người ngồi bên trái tôi. Tôi thấy… ồ làm sao tôi có thể mô tả được đây… Tôi thấy bộ mặt của một xác chết. Tất cả ba người hành khách này đều là những người đã chết.
Gương mặt họ xanh rợn người, mái tóc lưa thưa của họ bốc mùi ẩm ướt, những bộ quần áo họ mặt đều tỏa mùi đất ! Chỉ có những đôi mắt của họ là như đang sống. Và tất cả bọn họ đều đang nhìn chằm chặp vào tôi. Quá kinh sợ tôi thét lớn… tôi phải rời khỏi đây ngay lập tức. Tôi dùng thân mình tống mạnh vào cánh cửa, và cố sức mở nó ra trong tuyệt vọng. Ngay lúc đó mặt trăng ló dạng khỏi đám mây mù. Ánh sáng lấp loáng của nó làm tôi chợt nhìn thấy rõ mọi thứ. Tôi thấy bảng chỉ dẫn dọc theo con đường giống như một dấu hiệu cảnh báo.
Tôi thấy bức tường bị vỡ ngay bờ thềm con đường. Tôi nghe bầy ngựa sợ hãi hý vang lao trượt xuống bờ dốc đá. Tôi thấy thung lũng sâu năm mươi bộ bên dưới… Toàn bộ xe rung chuyển dữ dội giống như một con tàu trên biển gặp bão. Một tiếng thét kinh khủng, một tiếng ngựa hý vang trời. Kế đó là tiếng vỡ vụng của chiếc xe, một cảm giác đau đớn khủng khiếp và sau đó là bóng tối bao trùm …
… Một thời gian sau tôi tỉnh dậy, vợ tôi ở ngay bên tôi. Tôi hỏi :
- Chuyện gì… chuyện gì đã xảy ra ?
- Anh đã bị té.. Cô ấy nói:
- Bức tường bị vỡ ở bờ thềm của con đường, và anh rơi xuống vực thẳm thung lũng sâu năm mươi bộ, nhưng anh đã gặp may, có nhiều tuyết dày đặc ở đáy thung lũng thế là anh thoát chết.
- Anh không còn nhớ gì cả, làm sao anh đến đây được ?
- Có hai người nông dân đi tìm cừu lạc vào buổi sáng. Họ đã tìm thấy anh trên tuyết và mang anh về nơi trú ẩn gần nhất. Họ đã gọi bác sĩ lúc đó anh yếu lắm, tay gãy và đầu chấn thương rất nặng. Anh đã không hề hay biết gì cả. Vị bác sĩ lục tìm trong túi anh tên và địa chỉ. Thế là em đã săn sóc cho anh từ lúc ấy. Anh không phải lo lắng gì cả, anh cần tập trung nghĩ ngơi và bồi dưỡng sức khỏe.
Tôi còn trẻ khỏe và đã sớm thoát khỏi hiểm nguy. Nhưng tôi luôn nghĩ về tai nạn đó. Tôi không bao giờ kể cho vợ tôi nghe về chuyện này. Tôi đã kể với ông bác sĩ, nhưng ông ta nói rằng tất cả những chuyện phiêu lưu ấy chỉ là ảo tưởng, là kết quả của sự mệt mõi, của cú chạm mạch ở đầu.
Tôi cố nói cho ông ta hiểu, nhưng ông ta không nghe. Điều này không làm tôi giận dữ, chuyện ông ta tin hay không thật sự không thành vấn đề. Nhưng điều mà tôi biết đó là: tôi chính là một hành khách trong chuyến xe ngựa ma hai mươi năm về trước.
ST
Thanked by 2 Members:
|
|
#1003
Gửi vào 18/07/2014 - 08:37
BÍ ẨN NGÔI HUYỆT PHÁT KẾT NGHIỆP ĐẾ VƯƠNG HỌ TRẦN
Nhà Trần là một trong những triều đại lừng lẫy bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam với nhiều chiến công hiển hách. Vì thế, khi triều Trần bị diệt vong đã để lại niềm tiếc nuối sâu sắc trong tâm thức của con dân Đại Việt. Nhiều huyền tích về triều Trần được dân gian kể lại.
Ngôi huyệt này từ xưa tới nay được bao phủ bởi một hệ thống huyền tích dày đặc. Cũng do vị trí đắc địa của nó nên cả người đương thời lẫn hậu thế đều không biết chính xác ngôi huyệt nằm ở đâu. Những tài liệu ghi chép còn tới ngày nay cũng như truyền thuyết dân gian ở Thái Đường, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, chỉ giúp ta phần nào trong việc xác định ngôi huyệt quý đó mà thôi.
Từ câu chuyện được chép gần ba trăm năm trước.
Những tài liệu còn giữ được tới nay đều cho rằng, tổ tiên họ Trần ở xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Sau họ Trần di cư về xã Thái Đường, huyện Ngự Thiên, phủ Long Hưng, nay là xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, và làm nghề chài lưới để mưu sinh.
Cũng nhờ cơ duyên lạ lùng, mà họ Trần đạt được ngôi huyệt đế vương và sau này tạo nên một vương triều lừng lẫy bậc nhất Việt Nam. Cách đây gần ba trăm năm, cụ Vũ Phương Đề đã nói tới chuyện này trong sách Công Dư Tiệp Ký tiền biên, chép năm 1755, như sau:
“Lúc bấy giờ, một thầy địa lý Tàu sang nước ta xem đất. Người này cứ chú theo long mạch chạy từ núi Tam đảo đi xuống, qua Thăng long, Cổ Bi, đều thuộc Hà Nội ngày nay, đến các xã Kệ Châu và Cao Xá, thuộc huyện Kim Động, Hưng Yên, thì thấy có nhiều đống đất hoàn tụ, bèn cười nói rằng:
- Đây quả là một nơi tốt để dấy nghiệp.
Thế nhưng, được một đoạn thì khi không thấy dấu tích long mạch ở đâu nữa. Sau một hồi lâu, thầy địa lý Tàu phán đoán rằng:
- Nước sông chảy mạnh, không lẽ huyệt lại ẩn tàng dưới đáy sông.
Nói rồi, người này bèn sang sông đi đến Huyện Hà Liễu, Huyện Ngự Thiên, thuộc huyện Hưng Hà, Thái Bình, thấy các gò cao vươn thẳng dậy liền mừng rỡ mà reo lên rằng:
- Chỗ cất đầu lên ở đây, cứ xem mạch tụ ở xã Thái Đường thì huyệt đế vương tất nằm ở đây chứ không sai.
Cũng theo ghi chép của cụ Vũ Phương Đề, thì sau khi phán đoán như vậy, thầy địa lý Tàu hạ la bàn để xem xét và cứ say mê, quanh quẩn mãi ở đấy không đi đâu. Lúc đó, có người tên Nguyễn Cố chợt đi đến đấy, thấy sự lạ bèn hỏi thầy địa lý Tàu rằng:
- Ông cứ dùng la bàn đo quanh quẩn ở chỗ này, phải chăng nơi đây có ngôi huyệt kết hay sao?
Thầy địa lý nghe vậy không nói, sau thấy Nguyễn Cố khẩn khoản nên than thở:
- Nơi bình địa thế này mà có ngôi huyệt đế vương thật quả là hiếm có. Tiếc rằng, thầy địa lý ngày nay không có nhãn lực.
Nguyễn Cố nghe xong, bèn hứa tặng cho thầy địa lý Tàu một trăm quan tiền để tạ ơn. Nếu sau này lấy được nước rồi thì sẽ tặng cho người này một nửa đất nước. Hai bên thỏa thuận và Nguyễn Cố đem mộ cha mình táng vào ngôi huyệt quý đó.
Nhưng sợ Nguyễn Cố phản trắc, thầy địa lý Tàu bảo:
- Táng xong tất có điềm lành. Nhưng trong hạn trăm ngày, thỉnh thoảng phải đến thăm nom. Nếu sau cơn mưa gió, sấm sét, thấy máu từ huyệt chảy ra thì lành ít, dữ nhiều, phải táng đi chỗ khác ngay.
Mấy ngày sau, quả có một tiếng sét rất to làm kinh động nhân dân và súc vật ở vùng ấy. Sáng hôm sau, Nguyễn Cố đi xem thì thấy ở các xã xung quanh ngôi huyệt có nhiều hòn đá nhô lên, gọi là đá tai mèo chứ không có máu chảy ra nên Cố biết là được đất rồi, rất lấy làm mừng rỡ.
Ấy thế nhưng, khi được đất rồi thì vợ chồng Nguyễn Cố sinh lòng phản trắc. Vợ Cố bảo rằng:
- Ngôi đất ấy dầu cho là phát phúc nhưng hiện nay thì làm thế nào lo được trăm quan tiền. Vả lại, sau này chia đôi thiên hạ thì còn được bao nhiêu.
Cố thấy vợ nói thế, thì định bụng không tạ lễ cho người thầy địa lý Tàu kia nữa. Khi thầy Tàu đến hỏi thì Nguyễn Cố bèn bắt trói lại, rồi đang đêm đem vứt xuống sông. Nguyên chỗ Nguyễn Cố vứt thầy Tàu xuống là một bãi phù sa, nước thủy triều dâng lên ngập cả bãi.
Nhưng khi nước rút thì trơ lại một bãi đất khô. Lúc bấy giờ, có một chiếc thuyền đánh cá của Trần Hấp đi ngang qua đấy, nghe thấy tiếng kêu cứu của thầy Tàu liền tới cứu lên thuyền. Cảm tạ ơn cứu mạng, thầy địa lý Tàu bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Trần Hấp nghe và tỏ ý muốn đem ngôi huyệt đó cho Trần Hấp để tạ ơn.
Trần Hấp nghe xong trong lòng không vui vì ngôi huyệt đã táng rồi, sợ rằng táng lại sẽ không còn linh nữa. Thế nhưng, người thầy kia bèn nói:
- Tôi đã có cách, ngôi đất ấy thế nào nhà ông cũng được.
Quả nhiên, sau Trần Hấp được ngôi huyệt đó và họ Trần khởi phát nhanh chóng. Mấy chục năm sau thì nhà Trấn lấy được nước từ nhà Lý."
Đến những truyền thuyết.
Khi chúng tôi về đền Trần ở Thái Bình để tìm hiểu thực hư câu chuyện, ông Cao Thanh Bốn, nguyên Giám đốc trung tâm văn hóa thông tin thể thao, huyện Hưng Hà, phó trưởng ban khu di tích đền Trần Thái Bình cho biết:
- Vùng đất này khi xưa là vùng bãi bồi của ngã ba sông Hồng và sông Luộc.
Người Việt cổ đã dựa vào những vùng đất nổi hay còn gọi là gò, để sinh sống bằng nghề đánh cá và trồng lúa. Các cụ già trong làng ngày xưa vẫn bảo rằng, đây là đất mả sao, thiêng lắm. Đất đó chính là các gò đống nổi lên, ở trên có các chòm cỏ xanh hình tròn, trông từ xa chẳng khác gì những ngôi sao trên trời cả.
Vì thế mà nơi đây còn có tên gọi là hương Tinh Cương, nghĩa là những ngôi sao nổi lên. Điều đặc biệt là vùng đất này có hình thế rất lạ, được gọi là thế đất: "Tiền tam thai, hậu thất tinh, ý nói đây là vùng đất phát đế vương”.
Cũng theo ông Bốn, truyền thuyết của người dân trong vùng kể lại rằng, ngày ấy có một thầy địa lý tài ba dành cả đời đi khắp nơi, tới cả chốn sơn cùng, biển tận để tìm đất có vị thế đẹp cho các nhà quyền quý táng mộ.
Khi đến vùng Tinh Cương, làng Tam Đường, xã Tiến Đức, Hưng Hà ngày nay, thấy có một gò hoả tinh nổi lên trên mặt nước, xung quanh có nhiều gò nhỏ, thầy địa lý đã ngạc nhiên mà thốt lên:
- Giữa vùng sông nước sát với đất bằng mà có những gò đống nổi lên, hẳn không phải là hoang địa.
Sau vì ơn cứu mạng mà ngôi huyệt đó được tặng cho người đánh cá tên Trần Hấp. Theo chỉ dẫn của thầy địa lý, Trần Hấp di mộ cha từ Tức Mặc về đặt tại gò Hỏa Tinh, tiền của tốn rất nhiều. Mộ đặt tại hướng Càn (hướng Bắc) nhìn ra ngã ba sông Hồng, tục gọi là cửa Vàng.
Phía sau gối lên cổ bi phục tượng, tả hữu la liệt cờ trống. Huyệt lại ở vị trí “Thổ phúc tàng Kim” (trong đất giấu vàng) nên sau khi táng xong, thầy địa lý bèn bảo với Trần Hấp rằng:
- Phấn đại liên hoa đối diện sinh, hẳn sẽ lấy được thiên hạ. (ý nói sau này nhờ phụ nữ mà lấy được thiên hạ).
Truyền thuyết của dân vùng này về ngôi huyệt quý là như vậy. Sách An Nam chí lược của Lê Tắc (đây được coi là cuốn sử cổ nhất do con cháu họ Trần sống lưu vong ở Trung Quốc đầu thế kỳ XIV viết) cũng chép như sau:
"Phủ Long Hưng tên cũ là hương Đa Cương, tổ tiên nhà Trần lúc còn hàn vi ban đêm đi qua một cái cầu khe. Khi đi qua rồi ngoảnh lại không thấy cầu đâu nữa nên lấy làm sự lạ bèn di chuyển sang đất Thái Đường sinh sống, được gò hỏa tinh đắc địa mà sau này được nước. Khi lấy được nước rồi thì đổi tên Đa Cương thành Long Hưng phủ”.
Sau khi được nước rồi, nhà Trần coi Thái Đường là tông miếu, là nơi xây dựng lăng miếu cho những vị vua khi qua đời. Tương truyền rằng, sau khi đánh đuổi giặc Mông, Nguyên xâm lược lần thứ ba, thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông đã đưa những tên tướng giặc bị bắt như: Nguyên soái Ô Mã Nhi, Tham chính Sầm Đoạn, Phàn Tiếp... đến đây làm lễ mừng chiến thắng.
Cũng tại nơi này, vua Trần Nhân Tông đã đọc hai câu thơ nổi tiếng:
“Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, Sơn hà thiên cổ điện kim âu” (xã tắc hai phen chồn ngựa đá, non sông nghìn thưở vững âu vàng”.
Thầy địa lý Tàu phá huyệt của Nguyễn Cố
Thầy địa lý Tàu bèn bày cho Trần Hấp lấy đồng đỏ đúc lưỡi tầm sét và lấy cây vang nấu nước để dùng. Một đêm mưa to gió lớn, tiếng sét ấm trời. Thầy địa lý tàu đợi đến khi mưa tạnh, cùng Trần Hấp mang lưỡi tầm sét cắm xuống mộ tổ của Nguyễn Cố, xuyên thủng đến quan tài, rồi lấy nước vang tưới vào mộ. Sáng hôm sau Nguyễn Cố ra thăm, cho là mộ bị sét đánh, có máu chảy ra, vội vàng rời mộ ra chỗ khác. Trần Hấp liền màn hài cốt của cha táng vào đó.
Phạm Thiệu
Nhà Trần là một trong những triều đại lừng lẫy bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam với nhiều chiến công hiển hách. Vì thế, khi triều Trần bị diệt vong đã để lại niềm tiếc nuối sâu sắc trong tâm thức của con dân Đại Việt. Nhiều huyền tích về triều Trần được dân gian kể lại.
Ngôi huyệt này từ xưa tới nay được bao phủ bởi một hệ thống huyền tích dày đặc. Cũng do vị trí đắc địa của nó nên cả người đương thời lẫn hậu thế đều không biết chính xác ngôi huyệt nằm ở đâu. Những tài liệu ghi chép còn tới ngày nay cũng như truyền thuyết dân gian ở Thái Đường, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, chỉ giúp ta phần nào trong việc xác định ngôi huyệt quý đó mà thôi.
Từ câu chuyện được chép gần ba trăm năm trước.
Những tài liệu còn giữ được tới nay đều cho rằng, tổ tiên họ Trần ở xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Sau họ Trần di cư về xã Thái Đường, huyện Ngự Thiên, phủ Long Hưng, nay là xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, và làm nghề chài lưới để mưu sinh.
Cũng nhờ cơ duyên lạ lùng, mà họ Trần đạt được ngôi huyệt đế vương và sau này tạo nên một vương triều lừng lẫy bậc nhất Việt Nam. Cách đây gần ba trăm năm, cụ Vũ Phương Đề đã nói tới chuyện này trong sách Công Dư Tiệp Ký tiền biên, chép năm 1755, như sau:
“Lúc bấy giờ, một thầy địa lý Tàu sang nước ta xem đất. Người này cứ chú theo long mạch chạy từ núi Tam đảo đi xuống, qua Thăng long, Cổ Bi, đều thuộc Hà Nội ngày nay, đến các xã Kệ Châu và Cao Xá, thuộc huyện Kim Động, Hưng Yên, thì thấy có nhiều đống đất hoàn tụ, bèn cười nói rằng:
- Đây quả là một nơi tốt để dấy nghiệp.
Thế nhưng, được một đoạn thì khi không thấy dấu tích long mạch ở đâu nữa. Sau một hồi lâu, thầy địa lý Tàu phán đoán rằng:
- Nước sông chảy mạnh, không lẽ huyệt lại ẩn tàng dưới đáy sông.
Nói rồi, người này bèn sang sông đi đến Huyện Hà Liễu, Huyện Ngự Thiên, thuộc huyện Hưng Hà, Thái Bình, thấy các gò cao vươn thẳng dậy liền mừng rỡ mà reo lên rằng:
- Chỗ cất đầu lên ở đây, cứ xem mạch tụ ở xã Thái Đường thì huyệt đế vương tất nằm ở đây chứ không sai.
Cũng theo ghi chép của cụ Vũ Phương Đề, thì sau khi phán đoán như vậy, thầy địa lý Tàu hạ la bàn để xem xét và cứ say mê, quanh quẩn mãi ở đấy không đi đâu. Lúc đó, có người tên Nguyễn Cố chợt đi đến đấy, thấy sự lạ bèn hỏi thầy địa lý Tàu rằng:
- Ông cứ dùng la bàn đo quanh quẩn ở chỗ này, phải chăng nơi đây có ngôi huyệt kết hay sao?
Thầy địa lý nghe vậy không nói, sau thấy Nguyễn Cố khẩn khoản nên than thở:
- Nơi bình địa thế này mà có ngôi huyệt đế vương thật quả là hiếm có. Tiếc rằng, thầy địa lý ngày nay không có nhãn lực.
Nguyễn Cố nghe xong, bèn hứa tặng cho thầy địa lý Tàu một trăm quan tiền để tạ ơn. Nếu sau này lấy được nước rồi thì sẽ tặng cho người này một nửa đất nước. Hai bên thỏa thuận và Nguyễn Cố đem mộ cha mình táng vào ngôi huyệt quý đó.
Nhưng sợ Nguyễn Cố phản trắc, thầy địa lý Tàu bảo:
- Táng xong tất có điềm lành. Nhưng trong hạn trăm ngày, thỉnh thoảng phải đến thăm nom. Nếu sau cơn mưa gió, sấm sét, thấy máu từ huyệt chảy ra thì lành ít, dữ nhiều, phải táng đi chỗ khác ngay.
Mấy ngày sau, quả có một tiếng sét rất to làm kinh động nhân dân và súc vật ở vùng ấy. Sáng hôm sau, Nguyễn Cố đi xem thì thấy ở các xã xung quanh ngôi huyệt có nhiều hòn đá nhô lên, gọi là đá tai mèo chứ không có máu chảy ra nên Cố biết là được đất rồi, rất lấy làm mừng rỡ.
Ấy thế nhưng, khi được đất rồi thì vợ chồng Nguyễn Cố sinh lòng phản trắc. Vợ Cố bảo rằng:
- Ngôi đất ấy dầu cho là phát phúc nhưng hiện nay thì làm thế nào lo được trăm quan tiền. Vả lại, sau này chia đôi thiên hạ thì còn được bao nhiêu.
Cố thấy vợ nói thế, thì định bụng không tạ lễ cho người thầy địa lý Tàu kia nữa. Khi thầy Tàu đến hỏi thì Nguyễn Cố bèn bắt trói lại, rồi đang đêm đem vứt xuống sông. Nguyên chỗ Nguyễn Cố vứt thầy Tàu xuống là một bãi phù sa, nước thủy triều dâng lên ngập cả bãi.
Nhưng khi nước rút thì trơ lại một bãi đất khô. Lúc bấy giờ, có một chiếc thuyền đánh cá của Trần Hấp đi ngang qua đấy, nghe thấy tiếng kêu cứu của thầy Tàu liền tới cứu lên thuyền. Cảm tạ ơn cứu mạng, thầy địa lý Tàu bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Trần Hấp nghe và tỏ ý muốn đem ngôi huyệt đó cho Trần Hấp để tạ ơn.
Trần Hấp nghe xong trong lòng không vui vì ngôi huyệt đã táng rồi, sợ rằng táng lại sẽ không còn linh nữa. Thế nhưng, người thầy kia bèn nói:
- Tôi đã có cách, ngôi đất ấy thế nào nhà ông cũng được.
Quả nhiên, sau Trần Hấp được ngôi huyệt đó và họ Trần khởi phát nhanh chóng. Mấy chục năm sau thì nhà Trấn lấy được nước từ nhà Lý."
Đến những truyền thuyết.
Khi chúng tôi về đền Trần ở Thái Bình để tìm hiểu thực hư câu chuyện, ông Cao Thanh Bốn, nguyên Giám đốc trung tâm văn hóa thông tin thể thao, huyện Hưng Hà, phó trưởng ban khu di tích đền Trần Thái Bình cho biết:
- Vùng đất này khi xưa là vùng bãi bồi của ngã ba sông Hồng và sông Luộc.
Người Việt cổ đã dựa vào những vùng đất nổi hay còn gọi là gò, để sinh sống bằng nghề đánh cá và trồng lúa. Các cụ già trong làng ngày xưa vẫn bảo rằng, đây là đất mả sao, thiêng lắm. Đất đó chính là các gò đống nổi lên, ở trên có các chòm cỏ xanh hình tròn, trông từ xa chẳng khác gì những ngôi sao trên trời cả.
Vì thế mà nơi đây còn có tên gọi là hương Tinh Cương, nghĩa là những ngôi sao nổi lên. Điều đặc biệt là vùng đất này có hình thế rất lạ, được gọi là thế đất: "Tiền tam thai, hậu thất tinh, ý nói đây là vùng đất phát đế vương”.
Cũng theo ông Bốn, truyền thuyết của người dân trong vùng kể lại rằng, ngày ấy có một thầy địa lý tài ba dành cả đời đi khắp nơi, tới cả chốn sơn cùng, biển tận để tìm đất có vị thế đẹp cho các nhà quyền quý táng mộ.
Khi đến vùng Tinh Cương, làng Tam Đường, xã Tiến Đức, Hưng Hà ngày nay, thấy có một gò hoả tinh nổi lên trên mặt nước, xung quanh có nhiều gò nhỏ, thầy địa lý đã ngạc nhiên mà thốt lên:
- Giữa vùng sông nước sát với đất bằng mà có những gò đống nổi lên, hẳn không phải là hoang địa.
Sau vì ơn cứu mạng mà ngôi huyệt đó được tặng cho người đánh cá tên Trần Hấp. Theo chỉ dẫn của thầy địa lý, Trần Hấp di mộ cha từ Tức Mặc về đặt tại gò Hỏa Tinh, tiền của tốn rất nhiều. Mộ đặt tại hướng Càn (hướng Bắc) nhìn ra ngã ba sông Hồng, tục gọi là cửa Vàng.
Phía sau gối lên cổ bi phục tượng, tả hữu la liệt cờ trống. Huyệt lại ở vị trí “Thổ phúc tàng Kim” (trong đất giấu vàng) nên sau khi táng xong, thầy địa lý bèn bảo với Trần Hấp rằng:
- Phấn đại liên hoa đối diện sinh, hẳn sẽ lấy được thiên hạ. (ý nói sau này nhờ phụ nữ mà lấy được thiên hạ).
Truyền thuyết của dân vùng này về ngôi huyệt quý là như vậy. Sách An Nam chí lược của Lê Tắc (đây được coi là cuốn sử cổ nhất do con cháu họ Trần sống lưu vong ở Trung Quốc đầu thế kỳ XIV viết) cũng chép như sau:
"Phủ Long Hưng tên cũ là hương Đa Cương, tổ tiên nhà Trần lúc còn hàn vi ban đêm đi qua một cái cầu khe. Khi đi qua rồi ngoảnh lại không thấy cầu đâu nữa nên lấy làm sự lạ bèn di chuyển sang đất Thái Đường sinh sống, được gò hỏa tinh đắc địa mà sau này được nước. Khi lấy được nước rồi thì đổi tên Đa Cương thành Long Hưng phủ”.
Sau khi được nước rồi, nhà Trần coi Thái Đường là tông miếu, là nơi xây dựng lăng miếu cho những vị vua khi qua đời. Tương truyền rằng, sau khi đánh đuổi giặc Mông, Nguyên xâm lược lần thứ ba, thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông đã đưa những tên tướng giặc bị bắt như: Nguyên soái Ô Mã Nhi, Tham chính Sầm Đoạn, Phàn Tiếp... đến đây làm lễ mừng chiến thắng.
Cũng tại nơi này, vua Trần Nhân Tông đã đọc hai câu thơ nổi tiếng:
“Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, Sơn hà thiên cổ điện kim âu” (xã tắc hai phen chồn ngựa đá, non sông nghìn thưở vững âu vàng”.
Thầy địa lý Tàu phá huyệt của Nguyễn Cố
Thầy địa lý Tàu bèn bày cho Trần Hấp lấy đồng đỏ đúc lưỡi tầm sét và lấy cây vang nấu nước để dùng. Một đêm mưa to gió lớn, tiếng sét ấm trời. Thầy địa lý tàu đợi đến khi mưa tạnh, cùng Trần Hấp mang lưỡi tầm sét cắm xuống mộ tổ của Nguyễn Cố, xuyên thủng đến quan tài, rồi lấy nước vang tưới vào mộ. Sáng hôm sau Nguyễn Cố ra thăm, cho là mộ bị sét đánh, có máu chảy ra, vội vàng rời mộ ra chỗ khác. Trần Hấp liền màn hài cốt của cha táng vào đó.
Phạm Thiệu
#1004
Gửi vào 19/07/2014 - 21:51
PHO TƯỢNG CỔ
Tiến sĩ Phúc, bạn của bố tôi là một chuyên gia bảo tàng nổi tiếng, nhưng cách đây ít lâu, ông bị thân bại danh liệt cũng vì cái nghiệp này.
Chuyện thoạt nghe rất đơn giản: Một buổi chiều trên đường về nhà, vào lúc sẩm tối, ông phát hiện bên bờ mương có hai pho tượng hình thù cổ quái, lông m*y dựng ngược, tay cầm chuỳ, ngồi trên hai con sư tử bằng gỗ. Tiến sĩ Phúc dừng xe, chiếu đèn pha vào hai pho tượng, rõ ràng là bọn buôn thần bán thánh mang hàng về đến đây rồi bỏ của chạy lấy người.
Tiến sĩ Phúc vội rút điện thoại ra gọi cho chủ tịch xã, trưởng công an xã, trưởng công an huyện, rồi phó chủ tịch tỉnh phụ trách văn xã. Lời lẽ thống thiết. Ba mươi phút sau, xe cảnh sát đến, nhân dân kéo ra xem ùn ùn, hoan hô tiến sĩ Phúc cứu được tượng cổ. Đứng trước đám đông, tiến sĩ Phúc phát biểu rất hăng hái, người ta vỗ tay rào rào, hò nhau mang chăn đệm gấm lụa ra bọc lót cho hai pho tượng đưa lên xe về tỉnh. Từ bờ mương đến quốc lộ, hương khói nghi ngút, khấn vái xì xụp...
Nào ngờ một người dày dạn kinh nghiệm như tiến sĩ Phúc cũng quá bất cẩn. Về đến tỉnh thì một anh công an viên tình cờ phát hiện ra tượng là đồ rởm, bởi sau lớp sơn son thiếp vàng rỉ tróc bên ngoài chỉ là khối thạch cao rẻ tiền. Hỏi ra mới biết đó là tượng vứt đi từ xưởng điêu khắc của hoạ sĩ Vĩnh Thành. Thế nhưng lúc phát hiện ra thì đã muộn.
Chín giờ tối hôm đó, tiến sĩ Phúc đã lên toạ đàm về hai pho tượng cổ trên Đài truyền hình tỉnh cùng với phó chủ tịch tỉnh, giám đốc Công an tỉnh. Cô phóng viên truyền hình xinh đẹp Phan Trinh, hai mươi sáu tuổi, luôn miệng khen ngợi: chiến công vang dội của người dân và đồng chí phó chủ tịch tỉnh ta, nếu cả nước đều phát huy tinh thần cảnh giác và ý thức trách nhiệm như thế này thì nạn chảy máu cổ vật chắc chắn sẽ bị chặn đứng..
Mười một giờ đêm hôm đó, một cơ quan truyền thông trung ương điểm lại tin này. Cả nước đều biết...
Phát hiện tượng rởm. Phó chủ tịch tỉnh bàng hoàng. Sai lầm nối tiếp sai lầm. Cứ vứt quách một chỗ, rồi tuyên bố chờ giám định, dăm ba tháng là người ta quên ngay. Đằng này phó chủ tịch tỉnh nổi giận mất khôn, truyền bảo đem tượng vứt ngay đi. Cảnh sát dong xe ra đường, không biết vứt tượng đi đâu, nhân qua bờ mương, vứt luôn xuống đó. Hai pho tượng trở về gần đúng vị trí cũ, chỉ có điều bị đổ lộn vộc, cặp lông m*y dựng ngược cứ ngửa lên nhìn trời...
Chuyện bại lộ ra cả xã, cả huyện. Thế là tiến sĩ Phúc bị mất mặt. Người ta khịt mũi vào trình độ chuyên môn của ông. Phó chủ tịch tỉnh gọi ông lên mắng cho một trận. Trưởng công an huyện còn vu cho tội cố tình báo tin giả cho công an. Kết cục tiến sĩ Phúc bị cho thôi việc ở Bảo tàng tỉnh, thân bại danh liệt, còn hai pho tượng thì vẫn vứt lăn lóc ở bờ mương như ban đầu, ai đi qua cũng cười tiến sĩ Phúc.
Không chịu nổi, một đêm mưa gió, tiến sĩ Phúc phải thuê bốn anh cửu vạn khiêng tượng vứt đi. Nhưng vứt đi đâu cho khuất mắt bây giờ. Cách cổ truyền là chôn xuống đất (hạ thổ), nhưng ở thành phố này đào đâu ra đất để chôn, người chết còn phải đặt trước sinh phần cơ mà. Thôi thì cho các ngài tắm mát ở ngoài sông Cái gọi là hạ thuỷ cũng được.
Hai pho tượng rơi tùm xuống sông, mất tăm.
Dân làng quên đi, nhưng tiến sĩ Phúc thì không quên được cái nhục đó. Mấy tháng sau ông vẫn như người mất hồn. Năm sau nữa thì đổ bệnh. Thuốc thang mãi không khỏi. Có người mách qua bên kia sông có đền thờ Kim Tân độ này thiêng lắm, xin chân nhang ở đó về hoà nước uống, bệnh gì cũng khỏi.
Tiến sĩ Phúc chỉ cười trừ. Đời ông dù thân bại danh liệt, nhưng còn tỉnh táo đến lúc chết, sao lại có thể đi chữa bệnh một cách hồ đồ như vậy được. Vả lại, ông nghiên cứu về mỹ thuật cổ, tượng nào dù thiêng đến mấy, ông cũng mang xuống vật ra lau chùi, ngắm nghía, bình phẩm dưới góc độ khoa học. Ông biết tỏng các ngài sự thực là thế nào rồi.
Dù tiến sĩ Phúc gạt đi, nhưng người nhà cứ sang xin thuốc về. Tiến sĩ uống thuốc thế nào mà hết bệnh, qua mấy hôm đã phong độ như ngày nào. Tự nhiên ngộ ra lẽ sinh tử ở đời. Bèn sang sông để cảm tạ. Ông Từ đền Kim Tân từng nghe danh tiến sĩ Phúc đón tiếp rất cẩn trọng, lại nhờ giám định cho các cổ vật trong đền.
Cơm no, rượu say, tiến sĩ Phúc bỗng lấy lại được hứng thú ngày nào với cái nghiệp đồ cổ. Ông Từ quá cẩn thận, đợi đến tối, mới dẫn tiến sĩ Phúc vào hậu cung, nơi để báu vật của đền, vì nó mà đền bỗng nổi linh khắp cả nước. Hậu cung tối quá, tiến sĩ Phúc bảo phải thắp đèn lên mới khảo cứu được. Đèn vừa thắp lên, tiến sĩ Phúc đã choáng người: Chính giữa điện là hai ông tướng, lông m*y xếch ngược, tay cầm chuỳ, cưỡi trên con sư tử gỗ.
Giọng ông Từ bên tai tiến sĩ Phúc như có tiếng vang:
- Năm ngoái, nhằm ngày lành tháng tốt, các Ngài từ đâu ngao du theo dòng thuỷ lưu về an tọa trước đền, không chịu đi. Bốn mươi tám lực đinh chúng tôi, làm lễ rước Ngài vào đó. Từ đó đền mới có linh thánh. Chân nhang chữa được bách bệnh... Chúng tôi muốn ông khảo cứu xem các Ngài từ đâu mà mang linh thánh đến đền chúng tôi?
Đỗ Doãn Phương
Tiến sĩ Phúc, bạn của bố tôi là một chuyên gia bảo tàng nổi tiếng, nhưng cách đây ít lâu, ông bị thân bại danh liệt cũng vì cái nghiệp này.
Chuyện thoạt nghe rất đơn giản: Một buổi chiều trên đường về nhà, vào lúc sẩm tối, ông phát hiện bên bờ mương có hai pho tượng hình thù cổ quái, lông m*y dựng ngược, tay cầm chuỳ, ngồi trên hai con sư tử bằng gỗ. Tiến sĩ Phúc dừng xe, chiếu đèn pha vào hai pho tượng, rõ ràng là bọn buôn thần bán thánh mang hàng về đến đây rồi bỏ của chạy lấy người.
Tiến sĩ Phúc vội rút điện thoại ra gọi cho chủ tịch xã, trưởng công an xã, trưởng công an huyện, rồi phó chủ tịch tỉnh phụ trách văn xã. Lời lẽ thống thiết. Ba mươi phút sau, xe cảnh sát đến, nhân dân kéo ra xem ùn ùn, hoan hô tiến sĩ Phúc cứu được tượng cổ. Đứng trước đám đông, tiến sĩ Phúc phát biểu rất hăng hái, người ta vỗ tay rào rào, hò nhau mang chăn đệm gấm lụa ra bọc lót cho hai pho tượng đưa lên xe về tỉnh. Từ bờ mương đến quốc lộ, hương khói nghi ngút, khấn vái xì xụp...
Nào ngờ một người dày dạn kinh nghiệm như tiến sĩ Phúc cũng quá bất cẩn. Về đến tỉnh thì một anh công an viên tình cờ phát hiện ra tượng là đồ rởm, bởi sau lớp sơn son thiếp vàng rỉ tróc bên ngoài chỉ là khối thạch cao rẻ tiền. Hỏi ra mới biết đó là tượng vứt đi từ xưởng điêu khắc của hoạ sĩ Vĩnh Thành. Thế nhưng lúc phát hiện ra thì đã muộn.
Chín giờ tối hôm đó, tiến sĩ Phúc đã lên toạ đàm về hai pho tượng cổ trên Đài truyền hình tỉnh cùng với phó chủ tịch tỉnh, giám đốc Công an tỉnh. Cô phóng viên truyền hình xinh đẹp Phan Trinh, hai mươi sáu tuổi, luôn miệng khen ngợi: chiến công vang dội của người dân và đồng chí phó chủ tịch tỉnh ta, nếu cả nước đều phát huy tinh thần cảnh giác và ý thức trách nhiệm như thế này thì nạn chảy máu cổ vật chắc chắn sẽ bị chặn đứng..
Mười một giờ đêm hôm đó, một cơ quan truyền thông trung ương điểm lại tin này. Cả nước đều biết...
Phát hiện tượng rởm. Phó chủ tịch tỉnh bàng hoàng. Sai lầm nối tiếp sai lầm. Cứ vứt quách một chỗ, rồi tuyên bố chờ giám định, dăm ba tháng là người ta quên ngay. Đằng này phó chủ tịch tỉnh nổi giận mất khôn, truyền bảo đem tượng vứt ngay đi. Cảnh sát dong xe ra đường, không biết vứt tượng đi đâu, nhân qua bờ mương, vứt luôn xuống đó. Hai pho tượng trở về gần đúng vị trí cũ, chỉ có điều bị đổ lộn vộc, cặp lông m*y dựng ngược cứ ngửa lên nhìn trời...
Chuyện bại lộ ra cả xã, cả huyện. Thế là tiến sĩ Phúc bị mất mặt. Người ta khịt mũi vào trình độ chuyên môn của ông. Phó chủ tịch tỉnh gọi ông lên mắng cho một trận. Trưởng công an huyện còn vu cho tội cố tình báo tin giả cho công an. Kết cục tiến sĩ Phúc bị cho thôi việc ở Bảo tàng tỉnh, thân bại danh liệt, còn hai pho tượng thì vẫn vứt lăn lóc ở bờ mương như ban đầu, ai đi qua cũng cười tiến sĩ Phúc.
Không chịu nổi, một đêm mưa gió, tiến sĩ Phúc phải thuê bốn anh cửu vạn khiêng tượng vứt đi. Nhưng vứt đi đâu cho khuất mắt bây giờ. Cách cổ truyền là chôn xuống đất (hạ thổ), nhưng ở thành phố này đào đâu ra đất để chôn, người chết còn phải đặt trước sinh phần cơ mà. Thôi thì cho các ngài tắm mát ở ngoài sông Cái gọi là hạ thuỷ cũng được.
Hai pho tượng rơi tùm xuống sông, mất tăm.
Dân làng quên đi, nhưng tiến sĩ Phúc thì không quên được cái nhục đó. Mấy tháng sau ông vẫn như người mất hồn. Năm sau nữa thì đổ bệnh. Thuốc thang mãi không khỏi. Có người mách qua bên kia sông có đền thờ Kim Tân độ này thiêng lắm, xin chân nhang ở đó về hoà nước uống, bệnh gì cũng khỏi.
Tiến sĩ Phúc chỉ cười trừ. Đời ông dù thân bại danh liệt, nhưng còn tỉnh táo đến lúc chết, sao lại có thể đi chữa bệnh một cách hồ đồ như vậy được. Vả lại, ông nghiên cứu về mỹ thuật cổ, tượng nào dù thiêng đến mấy, ông cũng mang xuống vật ra lau chùi, ngắm nghía, bình phẩm dưới góc độ khoa học. Ông biết tỏng các ngài sự thực là thế nào rồi.
Dù tiến sĩ Phúc gạt đi, nhưng người nhà cứ sang xin thuốc về. Tiến sĩ uống thuốc thế nào mà hết bệnh, qua mấy hôm đã phong độ như ngày nào. Tự nhiên ngộ ra lẽ sinh tử ở đời. Bèn sang sông để cảm tạ. Ông Từ đền Kim Tân từng nghe danh tiến sĩ Phúc đón tiếp rất cẩn trọng, lại nhờ giám định cho các cổ vật trong đền.
Cơm no, rượu say, tiến sĩ Phúc bỗng lấy lại được hứng thú ngày nào với cái nghiệp đồ cổ. Ông Từ quá cẩn thận, đợi đến tối, mới dẫn tiến sĩ Phúc vào hậu cung, nơi để báu vật của đền, vì nó mà đền bỗng nổi linh khắp cả nước. Hậu cung tối quá, tiến sĩ Phúc bảo phải thắp đèn lên mới khảo cứu được. Đèn vừa thắp lên, tiến sĩ Phúc đã choáng người: Chính giữa điện là hai ông tướng, lông m*y xếch ngược, tay cầm chuỳ, cưỡi trên con sư tử gỗ.
Giọng ông Từ bên tai tiến sĩ Phúc như có tiếng vang:
- Năm ngoái, nhằm ngày lành tháng tốt, các Ngài từ đâu ngao du theo dòng thuỷ lưu về an tọa trước đền, không chịu đi. Bốn mươi tám lực đinh chúng tôi, làm lễ rước Ngài vào đó. Từ đó đền mới có linh thánh. Chân nhang chữa được bách bệnh... Chúng tôi muốn ông khảo cứu xem các Ngài từ đâu mà mang linh thánh đến đền chúng tôi?
Đỗ Doãn Phương
Thanked by 2 Members:
|
|
#1005
Gửi vào 01/08/2014 - 19:51
LY KỲ CHUYỆN ĐỒ VẬT BAY LÊN KHÔNG TRUNG Ở ANH QUỐC
Tiếng nói phát ra từ cơ thể, đồ vật tự động di chuyển và bay lên không trung, là những sự việc kỳ quái mà không ai có thể giải thích, ở ngôi nhà trên khu phố Enfield Poltergeist.
Một giọng nam ớn lạnh vang lên khắp căn phòng. Kinh hoàng nhất đó là tiếng nói phát ra từ cơ thể của cô bé mười một tuổi, Janet Hodgson. Nó giống như một cảnh trong bộ phim The Exorcist, nhưng lại hiện hữu ngay trong cuộc sống thực.
Ngoài giọng nói kỳ lạ, ở ngôi nhà trong khu phố Enfield Poltergeist, Anh quốc, những năm thập niên bảy mươi, còn xảy ra nhiều câu chuyện, hiện tượng kỳ quái khác. Những đồ vật tự dưng bay lên và di chuyển trong không khí, xoay về phía các nhân chứng. Những cơn gió lạnh, những bức tranh đột nhiên vẽ lên tường, nước xuất hiện trên sàn nhà và thổi bùng thành ngọn lửa...
Câu chuyện về gia đình Hodgson ở thời điểm những năm 1977, liên tiếp xảy ra những sự việc không bình thường. Thời điểm đó, Peggy Hodgson là một người mẹ đơn thân của bốn đứa trẻ: Margaret 12 tuổi, Janet 11 tuổi, Johnny 10 tuổi và Billy 7 tuổi.
Vào buổi tối ngày 30/8/1977, khi Hodgson đi kiểm tra xem những đứa con của mình đã lên gường đi ngủ chưa, thì nghe thấy Janer phàn nàn rằng giường của anh em chúng đang lắc lư. Cô đã không tin và yêu cầu các con hãy đi ngủ. Tuy nhiên, đã có một sự xáo trộn vô cùng kỳ quái vào tối hôm sau.
Hodgson nghe thấy tiếng động mạnh ở trên lầu và bà đi lên để nhắc nhở các con ổn định giấc ngủ. Khi bước vào phòng, cô thấy tấm áp phích Starsky & Hutch của Janet, bình thường treo trên tường đang bay lơ lửng trên không trung, những ngăn kéo thì tự động di chuyển. Cô đẩy nó trở lại nhưng sửng sốt khi nó lại được đẩy mạnh về phía, cửa bởi một lực vô hình.
Có vẻ như có một năng lượng siêu nhiên nào đó đã xuất hiện ở trong phòng ngủ của gia đình họ. Nhiều năm sau, trong một phim tài liệu của kênh Channel 4, Janet nói:
- Hiện tượng kỳ lạ đó xuất hiện trong phòng ngủ, đồ vật thì bay lên không trung, ngăn kéo tự động di chuyển và bạn có thể nghe thấy những tiếng xáo trộn. Chúng tôi nói với mẹ những điều đang diễn ra và bà ấy cũng đã nhìn thấy nó.
Mẹ thấy những ngăn kéo tự động di chuyển và bà ấy cố gắng để đẩy nó trở lại nhưng không thể. Margaret giải thích. Cũng rất nhiều những tiếng ồn lạ trong nhà và chúng tôi không thể hiểu những gì đang xảy ra. Không ai trong chúng tôi có thể ngủ nổi.
Điều gì đã xảy ra từ ba mươi năm trước, mà tới nay các tổ chức, cảnh sát, nhà tâm linh vẫn không tìm được lời giải đáp?
Coolinterestingstuff
Hiểu Nhân
Tiếng nói phát ra từ cơ thể, đồ vật tự động di chuyển và bay lên không trung, là những sự việc kỳ quái mà không ai có thể giải thích, ở ngôi nhà trên khu phố Enfield Poltergeist.
Một giọng nam ớn lạnh vang lên khắp căn phòng. Kinh hoàng nhất đó là tiếng nói phát ra từ cơ thể của cô bé mười một tuổi, Janet Hodgson. Nó giống như một cảnh trong bộ phim The Exorcist, nhưng lại hiện hữu ngay trong cuộc sống thực.
Ngoài giọng nói kỳ lạ, ở ngôi nhà trong khu phố Enfield Poltergeist, Anh quốc, những năm thập niên bảy mươi, còn xảy ra nhiều câu chuyện, hiện tượng kỳ quái khác. Những đồ vật tự dưng bay lên và di chuyển trong không khí, xoay về phía các nhân chứng. Những cơn gió lạnh, những bức tranh đột nhiên vẽ lên tường, nước xuất hiện trên sàn nhà và thổi bùng thành ngọn lửa...
Câu chuyện về gia đình Hodgson ở thời điểm những năm 1977, liên tiếp xảy ra những sự việc không bình thường. Thời điểm đó, Peggy Hodgson là một người mẹ đơn thân của bốn đứa trẻ: Margaret 12 tuổi, Janet 11 tuổi, Johnny 10 tuổi và Billy 7 tuổi.
Vào buổi tối ngày 30/8/1977, khi Hodgson đi kiểm tra xem những đứa con của mình đã lên gường đi ngủ chưa, thì nghe thấy Janer phàn nàn rằng giường của anh em chúng đang lắc lư. Cô đã không tin và yêu cầu các con hãy đi ngủ. Tuy nhiên, đã có một sự xáo trộn vô cùng kỳ quái vào tối hôm sau.
Hodgson nghe thấy tiếng động mạnh ở trên lầu và bà đi lên để nhắc nhở các con ổn định giấc ngủ. Khi bước vào phòng, cô thấy tấm áp phích Starsky & Hutch của Janet, bình thường treo trên tường đang bay lơ lửng trên không trung, những ngăn kéo thì tự động di chuyển. Cô đẩy nó trở lại nhưng sửng sốt khi nó lại được đẩy mạnh về phía, cửa bởi một lực vô hình.
Có vẻ như có một năng lượng siêu nhiên nào đó đã xuất hiện ở trong phòng ngủ của gia đình họ. Nhiều năm sau, trong một phim tài liệu của kênh Channel 4, Janet nói:
- Hiện tượng kỳ lạ đó xuất hiện trong phòng ngủ, đồ vật thì bay lên không trung, ngăn kéo tự động di chuyển và bạn có thể nghe thấy những tiếng xáo trộn. Chúng tôi nói với mẹ những điều đang diễn ra và bà ấy cũng đã nhìn thấy nó.
Mẹ thấy những ngăn kéo tự động di chuyển và bà ấy cố gắng để đẩy nó trở lại nhưng không thể. Margaret giải thích. Cũng rất nhiều những tiếng ồn lạ trong nhà và chúng tôi không thể hiểu những gì đang xảy ra. Không ai trong chúng tôi có thể ngủ nổi.
Điều gì đã xảy ra từ ba mươi năm trước, mà tới nay các tổ chức, cảnh sát, nhà tâm linh vẫn không tìm được lời giải đáp?
Coolinterestingstuff
Hiểu Nhân
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
![]() Các Gia Tộc Lớn Ở Châu Á Đâu Hết Cả Rồi, Nói Chuyện Với Ta Cứu Thế Chủ Trong Truyền Thuyết Đi Nào |
Linh Tinh | SaviorGodLegend |
|
![]() |
|
![]() ![]() Dự đoán phối hợp nhiều môn huyền học cho chính trị & kinh tế thế giới |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
![]() |
|
![]() ![]() những góc nhìn khác nhau về chuyện cưới xin, xung - hợp vợ chồng |
Tử Bình | hieuthuyloi |
|
![]() |
|
![]() Câu chuyện hy hữu mà có trên đời nầy |
Nguồn Sống Tươi Đẹp | Đinh Văn Tân |
|
![]()
|
|
![]() Thiên Đạo Mộng Huyễn![]() |
Linh Tinh | T0ny99 |
|
![]()
|
|
![]() Lời khuyên cho những ai có cách Thạch trung ẩn ngọc |
Tử Vi | thancumon |
|
![]()
|
1 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:
An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |
Quỷ Cốc Toán Mệnh |
Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |
Quẻ Mai Hoa Dịch Số |
Bát Tự Hà Lạc |
Thái Ât Thần Số |
Căn Duyên Tiền Định |
Cao Ly Đầu Hình |
Âm Lịch |
Xem Ngày |
Lịch Vạn Niên |
So Tuổi Vợ Chồng |
Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:












