1
Truyện ngắn huyền bí - hiendde
Viết bởi Manager, 05/06/11 02:02
1072 replies to this topic
#91
Gửi vào 19/06/2011 - 08:14
BÀN VỀ CHUYỆN QUỶ MA
Như một thông lệ không thể thiếu ở nước Hoa kỳ cực kỳ văn minh vật chất này, là đến mùa lễ Halloween thì ma quỷ có dịp đi đầy đường dưới hoá trang! Và cũng ở Hoa kỳ, vẫn có đạo Quỷ vương làm chuyện quái đản như đào trộm thây người.
Xem như vậy nói chuyện ma đâu phải lỗi thời! Nhưng vấn đề là nói chuyện ma khó hay dễ ? Có người hỏi một hoạ sĩ vẽ ma khó hay dễ thì được trả lời:
- Vẽ người khó vì người có thực vẽ sai biết ngay. Còn ma quỷ thì vô hình vẽ sao cũng được.
Tuy thế nói câu chuyện ma không đơn giản chút nào cả. Hình bóng ma vẫn ám ảnh đầu óc con người, kẻ nói có người nói không! Một điều ai cũng đồng ý là quan niệm người ta chết thì đều thành ma cả, như phong tục Việt gọi đám xác chôn người chết là “đám ma” còn hình thể của ma nó ra sao thì mỗi người tin một cách.
Trường hợp Đức Khổng Tử khi người ta hỏi về chuyện siêu hình sống chết thì ngài bảo rằng:
- Vị tri sinh, yên tri tử (nghĩa là chưa hiểu biết về sự sống, làm sao đã biết đến việc chết). Nhưng có người lại hỏi có ma quỷ hay thần thánh không, thì ngài bảo rằng :
- Quỷ thần kính nhi viễn chi (Quỷ thần thì nên kính, mà ở xa không nói đến).
Nếu có ai hỏi rằng quỷ thần có linh thiêng không, thì ngài lại bảo:
- Linh tại ngã, bất linh tại ngã (Linh hay không linh đều do mình thôi).
Vậy thấy nếu áp dụng vào câu chuyện của chúng ta, ta có thể nói chuyện ma quỷ trên đời này, chỉ có một mẫu số chung duy nhất, đó là một điều bí hiểm chưa ai giải được.
Nhưng trong cái nhìn chung này lại có rất nhiều cái nhìn riêng khác nhau, mà mỗi người mỗi dân tộc hay mỗi văn hoá, thì quan niệm mỗi khác thôi. Trước hết chúng ta cần hiểu về quan niệm của con người biến thành ma ra sao trong văn hoá Việt Nam.
Dân Lạc Việt mình vào đời thượng cổ hoang sơ đã có niềm tin về chuyện linh hồn. Nhưng sau khi tiếp xúc với văn hoá Trung Hoa và Ấn độ với ba nguồn tư tưởng là Nho, Lão, Phật, quan niệm về thế giới siêu hình của dân Việt, là một hình thức dung hợp thể hiện qua phong tục và tín ngưỡng.
Con người sống gồm hai phần là hồn và thể phách. Sau khi chết thì thể phách sẽ mất và hồn sẽ ra ma, như câu Kiều vậy:
"Thác là thể phách còn là tinh anh"
Nói chi tiết thì con người có “ba hồn bảy phách (hay vía) Ba hồn kể ra là:
1 - Sinh hồn là cái hồn sống vì nó chứa nguồn sinh lực cho sự sống.
2 - Giác hồn là cái hồn biết vì nó điều khiền nhận thức của các giác quan; nhìn, nghe, sờ, nếm, ngửi.
3 - Linh hồn là cái hồn thiêng vì nó không tan mất.
Thất phách (vía) là thất tình: hỉ nộ ai cụ ái ố dục (vui, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, tham)
Nhìn vào phong tục Việt Nam khi một người vừa chết thì có tục lệ chiêu hô (Một người con cầm cái áo của người chết rồi leo lên mái nhà, tay trái cầm cổ áo, tay phải cầm vạt lưng áo rồi gọi tên ba lần: Ba hồn chín vía cha (mẹ) ở đâu về với con. Với tục chiêu hô, người ta hy vọng người chết động lòng sống lại. Cái hồn phục sinh trước tiên là cái Sinh Hồn vậy.
Trong khi sống người ta đôi lúc bị kinh sợ quá mà mất hồn mất vía "hồn siêu phách lạc" hoặc bất tỉnh nhân sự lâu gọi là “hồn bất phụ thể” thì cái hồn này là cái Giác Hồn. Còn người bị thực sự hôn mê tức là vẫn sống mà không biết (còn Sinh Hồn nhưng mất Giác Hồn).
Khi người bệnh đã thực sư chết thì người nhà lấy một miếng lụa, hoặc vải trắng dài bảy thước ta để lên trên mặt, sau kết lại thành hình người gọi là “Hồn Bạch” để hồn thiêng người chết nhập vào đấy. Hồn Bạch dùng để thờ cúng trên linh toạ hay bàn thờ. Người ta lại có tục phủ mặt người chết bằng một tờ giấy bản. Tờ giấy này cất đi mà soi ngó lên bàn thờ sẽ thấy hồn ma về ăn giỗ.
Người Việt Nam cũng tục canh giữ không cho mèo nhẩy qua người chết vì sợ thi thể hút cái tinh lực của mèo mà nhổm lên thành "quỷ nhập tràng” Bây giờ ta hãy tìm hiểu tiếp về hành trình của hồn người chết đi vào cõi chết ra sao?
Sau khi chết thì phần phách sẽ tiêu theo xác thịt, còn lại phần linh hồn tinh túy như câu Kiều mô tả: Thác là thể phách còn là tinh anh. Đối với những người tầm thường, sau khi chết linh hồn sẽ trở thành những ma, rồi về sau này ma lại chết đi để trở thành những mị nằm ẩn náu trong đất đá cỏ cây.
Những người già cả, chết tốt lành đúng số, nói chữ là khảo chung mệnh, thì hồn ma không hiện về. Trái lại người chết dữ dằn, chết oan thì thành vong hồn uổng tử.
Còn đối với các bậc siêu nhân thì linh hồn sẽ thăng hoa và hiển thánh, hiển thần để thành Tiên, Thánh, Thần, Phật, như trường hợp các danh nhân lịch sử: Thánh Gióng, Đức Thánh Trần...
Theo Phật giáo qua tục cúng thất Thất Lai Tuần, chúng ta có thể hiểu chuyện người sống khi chết biến ra ma ra sao? Vừa mới chết hồn người chết bị Thành Hoàng là vị thần cầm sổ bộ điạ phương phái hai tên ngưu đầu và mã diện, áp tải đến tra án trong bốn mưoi chín ngày, về những hành vi thuở sinh còn sống.
Hồn sẽ tự do hay bị gông cùm tuỳ theo tội trạng. Đến ngày ba mươi lăm sau khi chết, hồn được phép về thăm nhà, rồi sau đó có hai trường hợp:
1 - Siêu linh là lên thuyền Bát Nhã qua miền Tịnh thổ nếu được sư tăng tụng niệm. Ở Huế tang gia có tục hát “hò đưa linh” với ý niệm này.
2 - Hoặc sau bốn mươi chín ngày, bị xuống Thập Điện Diêm Vương và ở đây hai mươi tám tháng, để chờ đi đầu thai kiếp khác. Thời gian này tương đương với thời gian thân nhân để tang. Đi đầu thai rồi hay được cúng giỗ, thì hồn ma không hiện ra hoặc báo mộng cho người sống nữa.
Người Việt thường phân loại những hồn ma tùy theo nghiệp chết. Chết trôi thì thành ma rà, chết thắt cổ thì thành ma vòng, chết bị cọp ăn thì thành ma trành, chết bị chém đầu thì thành ma cụt, chết bệnh dịch thì thành ma ôn.
Những con ma rà, ma vòng, ma trành, ma ôn thường phải lôi kéo những người sống phải chết giống như chúng để thế chúng thì hồn chúng mơí có thể đi đầu thai được.
Theo danh từ Hán Việt, hồn ma người chết thường gọi chung là “ma” hay “quỷ" như câu của Trần Bình Trọng trước khi bị quân Tàu chém: "Thà làm Quỷ nước Nam hơn làm Vương đất Bắc” nhưng theo tin tưởng dân gian thì quỷ dữ hơn ma .
Phong tục Việt vẫn tin rằng những hồn ma chết oan thường không siêu thoát, mà chỉ luẩn quẩn tại nơi chốn bị chết. Do đó có tục lập am miễu ở dọc đường, bờ sông, sau bệnh viện. Ví dụ như miễu âm hồn ở Huế cho dân chạy giặc ngày thất thủ kinh đô Huế, miễu vợ chàng Trương mà vua Lê Thánh Tông đã vịnh qua câu thơ:
Nghi ngút đầu ghềnh khói toả hương
Miễu ai như miễu vợ chàng Trương.
Người Việt thường có tục cúng chiêu hồn cho những người bị chết đuối hay tự tử ngoài bờ sông như trường hợp Thúy Kiều gieo mình trên sông Tiền Đường được gia đình lập bài vị và cúng vớt hồn:
Chiêu hồn thiết vị lễ thường,
Giải oan lập một đàn tràng bên sông.
Thông thường trong lễ vớt hồn, thì vị sư cầm một “cành phướn” ra bờ sông làm phép rồi khua khắp phía để thu hồn người chết đuối vô phướn, xong hướng dẫn vào huyệt mộ sẽ chôn.
Nếu không làm thế thì nơi sông này sẽ có “huông” nghĩa là có ma rà ở dưới rình rập những người ra sông tắm giặt, để kéo chân cho chết mà thế mạng cho nó. Để tránh “huông” có tục quăng hình nộm người giả xuống gọi là “hình nhân thế mạng”.
Theo tín ngưỡng của dân gian, hồn ma thường được gọi tên khác nhau tùy nguyên nhân cái chết, theo cấp độ tác quái tác yêu cho người sống, chẳng hạn như ma rà, ma trành, ma chẹt, ma lai rút ruột, ma mộc, ma xó... hoặc như những mụ cô ông trạng là hồn những đồng nam đồng nữ còn trong trắng, chết oan khuất vào giờ thiêng. Những cô hồn, tinh ma, yêu quái trong thế giới siêu hình thường có hai thái độ:
Một là phá quấy làm đau ốm, hay bắt người ta chết nếu người sống tỏ ra khinh thường, vô lễ xâm phạm mồ mả hay lơ là quên đèn nhang cúng cấp lễ vật.
Hai là trở nên cứu nạn độ trì, phò hộ nếu được lập miễu thờ cúng thường xuyên. Vai trò của pháp sư và những bùa chú là để trừ khử những loài quỷ dữ.
Việt Nam có phong tục Ngũ Đại mai thần chủ, nghĩa là đối với tổ tiên trên năm đời thì đem chôn bài vị, những vị trên thế hệ ông Sơ, bà Sơ mà không còn cúng cấp nữa vì linh hồn của họ đã siêu thoát hay đầu thai kiếp khác.
Người Việt thường tin rằng những hồn ma của các sắc dân thiểu số rất đáng sợ: Những ai lên rừng núi mạn ngược làm ăn phải coi chừng những ma mọi, ma mường, ma hời, ma đàng thổ vì chúng có thể trả thù làm bụng báng nước, vàng da mà chết, theo khoa học đó chỉ là chứng sốt rét ngã nước. Sau đây là vài câu chuyện ma đặc thù:
Ở thượng du miền Bắc có loại ma cà rồng” thường nhập vào người đi hút máu người khác. Người Mường có tục nuôi “ma xó” nghĩa là dựng xác người chết trong xó nhà để canh nhà.
Chẳng hạn có chuyện người Việt đi vô rừng, đói bụng quá bèn ghé vào một cái quán nước nhưng vắng vẻ không có người. Người này bèn lấy một cái bánh bóc ra ăn thì bỗng nghe một tiếng người nói ra từ trong xó nhà vọng ra:
“Một, trả năm tiền”
Vô tình người này tiếp tục rót một bát nước uống thì lại nghe tiếng đếm:
“Hai, trả một trinh”
Nếu không biết móc tiền ra trả thì về nhà thế nào cũng bị chướng bụng mà chết.
Dân quê thường cho những đốm lân tinh bay trong bãi tha ma là những con “ma trơi”. Các bà đi chợ lúc trời còn tối đất nhá nhem chưa sáng, có thể gặp người lạ làm quen, mà mình mời ăn trầu và người đó bỗng lè luỡi thật dài ra để lấy miếng trầu: đó là “ma le”.
Lại có trường hợp một người ban đêm ngủ trong nhà bỗng mất tích, sáng ra thấy người đó nằm trong một bụi tre gai rất khó vô, miệng bị nhét đầy đất sét: đó là bị "ma dấu”. Người nhà quê lại kể khi thấy một cơn gió cuốn tròn, lấy nón lá úp lại thì thấy một cục máu thì đó là “ma trốt”
Trong mắt người dân quê hầu như ma ở khắp nơi nhưng vô hình, ngoài ma người chết còn có những ma súc vật, ma mộc. Truyện Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh góp nhặt nhiều chuyện ma trong dân gian Trung Quốc, trong đó có chuyện những con hồ ly tu luyện lâu năm, hay chuyện những cây đào cây liễu thành “tinh”. Người Việt cũng tin có ma chó, ma heo ở quanh lò sát sinh.
Họ còn tin những gốc cây cổ thụ trong rừng rú hoang vu là nơi ẩn náu của những loài tinh quái, nên gỗ của những cây này xẻ ra làm giường phản hay quan tài thường có "mộc tinh”.
Ngủ trưa mà thấy ngực bị đè khó thở thì dân quê nói là bị “mộc đè” sinh ra ác mộng. Trước khi khâm liệm thi thể người chết vào cỗ quan tài, thì thường phãi rước thầy làm lễ “phạt mộc” nghĩa là cầm hương đọc chú rồi cầm dao chém vào gỗ để đuổi tinh ra.
Khi khâm liệm lại có tục bỏ một cuốn Lịch có dấu kiềm Khâm Thiên Giám để trừ tà, vì thần linh và yêu ma trong một nước cũng dưới quyền của vua.
Cũng nói thêm khi đưa đám ma, trên đường cũng có nhiều hồn ma lần quẩn trì kéo lại, nên ta có tục rải giấy vàng bạc cho chúng để lót, và khi hạ quan tài xuống huyệt, người ta cũng phải yểm khứ tà ma.
Hằng năm vào dịp Rằm Vu Lan là dịp cầu cho linh hồn cha mẹ, tổ tiên được siêu sinh miền Tịnh thổ và cũng là dịp cúng thí thực những cô hồn bằng cháo lỏng bồ đài, cốm nỗ, áo binh và tiền giấy…
Đêm giao thừa ở Việt Nam là thời điểm đón linh hồn ông bà tổ tiên về ăn tết, để rồi đến mùng ba thì đưa tiễn các cụ trở về âm giới. Cây nêu trồng trước cửa nhà với chuông khánh leng keng là dấu hiệu chỉ lãnh thổ của nhà Phật, để quỷ ma không dám quấy nhiễu.
Một điều nên biết là đối với xương cốt của người chết nhất là xương sọ, người Việt có một tin tưởng sợ hãi hồn người chết sẽ hiện lên đòi lại! Bởi thế trong tục cúng đất ở Huế, người ta phải van vái những hài cốt vô danh còn chôn dấu trên đất của nhà mình. Những chuyện về hài cốt và thủ cấp người chết ra sao?
Ở Trung hoa và Việt Nam ngày xưa, di hài người chết được coi là thiêng liêng nhất là cái đầu lâu. Câu chửi "đào mồ cuốc mả ” là một sự nguyền rủa ghê gớm. Dân gian tin tưởng rằng người chết không toàn thây thì linh hồn không siêu thoát như câu:
"Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa" (Chiêu hồn ca). Đầu lâu gọi là “hoa cái” có nhiều chuyện “ma cụt" hiện lên đòi lại đầu. Và lại có chuyện thầy bùa đào mộ lấy đầu gái đồng trinh luyện "Thiên linh cái”.
Trong lịch sử Việt Nam, có vài vụ liên quan đến hài cốt của người chết và hiện hồn như sau:
Vào năm 1790, quân Tây Sơn đào mả cha của Nguyển Ánh rồi đem vất hài cốt xuống thượng nguồn sông Hương. Về sau khi Nguyễn Ánh trở thành vua Gia Long thì một người chài cá vớt được cái sọ lên.
Nhà vua bèn khảo nghiệm tìm phụ hệ bằng cách trích huyết của mình rồi nhỏ vào xương sọ này thì thấy đúng là của cha mình, bèn xây một cái lăng để chôn gọi là Lăng Sọ.
Vào năm 1802, vua Gia Long lên ngôi bèn trả thù mà ra lệnh đào mả lấy hài cốt của anh em Tây sơn Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ lên lấy chầy giã ra rồi rảy ngoài gió, chỉ giữ lại hai cái sọ bỏ vào ngục thất bỏ trong vò, rồi xiềng lại trong một phòng kín được niêm phong.
Những người lính canh ngục thường kính sợ gọi những vò này là ông Vò hay chuá Ngụy nên thường hương đèn van vái. Về sau những vò sọ này đã biến mất, người ta phõng đoán là vào thời điểm triều đình Huế đánh úp Tây ở đồn Măng cá năm 1885, những người tù ngục thất phá ngục chạy trốn đã mang theo những vò trên.
Dân Huế tin tưởng rằng di cốt đầu lâu của chúa Ngụy Tây sơn rất linh qua những việc sau:
Thứ nhất là theo đám phi tần trong cung cấm kể lại, một cái sọ trên đã hiện lên thành con hổ miêu cho vua Đồng Khánh. Nhà vua vốn là một thiện xạ bèn nhắm bắn bằng súng. Hổ miêu bèn hoá thành con gà trống vàng, bay một vòng quanh trên bàn ghế trong cung điện rồi biến mất.
Sự ma hiện hình này khiến vua Đồng Khánh trở bịnh và từ trần rất chóng. Chuyện thứ hai là vua Thành Thái hồi còn bé có thể một lần nào đó thấy những vò Sọ trên bèn ám ảnh về sự trả thù chúa Ngụy nên đâm ra điên điên khùng khùng.
Chúng ta có thể nói trong nhiều văn hoá ở những dân tộc khác nhau đều có lắm chuyện ma hiện hình về báo oán cả. Người ta càng tin tưỡng là những sinh vật gì lúc sống có một sức sống mãnh liệt, thì khi chết ra ma, hồn của chúng cũng vô cùng khủng khiếp.
Hồn ma của người là đáng sợ hơn cả vì con người là loại tối thông minh trong vạn vật. Còn trong những loài thú thì con thú nào khôn ngoan thì cũng có hồn ma như người Á Đông thường tin tưởng:
Nào là chuyện ma rắn Thị Lộ báo oán ông Nguyễn Trãi, nào là bao nhiêu chuyện về thần hổ, về ma chó hay nhiều chuyện hồ ly tinh tu luyện nhiều năm trong tập truyện Liêu Trai của Bồ Tùng Linh. Thậm chí một gốc cây cổ thụ lâu năm trong rừng cũng có thể chứa mộc tinh, một cây sứ Mộc Lan cũng chứa hồn thiêng để tác quái tác yêu!
Riêng về người ta thì một người càng nhiều uất ức, hận thù thì hồn ma khó mà siêu thoát tiêu diêu. Điều này được coi như là một xác tín mà ngay cả nền công lý của người sống trong xã hội xưa cũng công nhận thành tục lệ.
Ngày xưa ở Việt Nam, trước khi mở trường thi cho sĩ tữ vô ứng thí đều có nghi lễ chính thức là Tế những hồn ma ân oán rồi sau đó có tục gọi loa như sau: Báo oán tiên nhập, báo ân thứ nhập, sĩ tử thứ thứ nhập.
Chuyện ân oán của những kiếp người khi còn sống vốn là những màn kịch không bao giờ dứt, vì càng tham sống một cách u mê, là càng phải cạnh tranh và trừ diệt nhau. Chết dứt khoát không phải là hết, do đó mới có chuyện hồn ma! Có lẽ chính vì vậy mà Phật giáo thường chủ trương là nên hoá giải, vì Lấy ân trả oán thì oán nọ tiêu tan, Lấy oán mà trả oán, oán oán trập trùng.
Bởi thế, chúng ta bây giờ mới hiểu tại sao trong nghi lễ Phật giáo, thường có tụng kinh sám hối cho người sống và cầu siêu giải oan cho người chết:
Nhờ Phật lực siêu linh tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ
Khắp trong Tứ Hải quần chu
Não phần quét sạch oán thù rửa trong.
Lê Văn Lân
CÁC THIÊN THẦN TRÊN NHỮNG VƯỜN NHO
Cathy, Kentuckey
Một buổi chiều mùa Thu trong tháng chín năm 2005. Tôi đang ngồi uống càfé ở bàn ăn, sau khi chờ điện thoại của chồng tôi gọi qua từ Mỹ.
Cha Donald Calloway, vị linh hướng của một nhóm từ Hoa Kỳ, bước vô ngôi nhà Pansion Nada, nơi mà cha và nhóm của cha đang trú ngụ trong những ngày hành hương, và cũng là nơi tôi thường ngụ tại đó mỗi lần tới Mễdu.
Cha Callaway nhìn tôi nói:
“Xin lỗi bà có thể ra ngoài với tôi một phút được không?”
Tôi trả lời:
“Dạ được.”
Không hiểu chuyện gì nhưng tôi cũng theo ra ngoài cửa về phía chỗ đậu xe, nơi này đối diện với những vườn nho và ngọn núi Krizevac.
Cha chỉ lên bầu trời và nói:
“Bà thấy gì không?”
Tôi nhìn lên kinh ngạc lẫn sửng sốt:
“Ồ, các Thiên Thần.”
Họ đang bay vòng tròn trên không trung, phía trên các vườn nho, hình như họ đang chơi trò đuổi bắt. Thình lình một luồng ánh sáng chớp lên và sấm sét dội vang trên bầu trời.
Các linh mục và đám người hành hương đều tuôn ra khỏi phòng, xúm lại để ngắm cảnh lạ thường của Thiên Đàng đang biểu diễn trên trần thế.
Các Thiên Thần vẫn thản nhiên rượt bắt nhau làm như không hề biết đến sự hiện diện của đám người trần gian đang sửng sốt ngắm như xuất thần. Phía vòng ngoài là một lớp Thiên Thần lớn, vòng trong cũng có một lớp Thiên Thần, nhưng các ngài bé nhỏ như trẻ thơ, cũng bay vòng tròn như vậy.
Khoảng mười phút sau, lại một làn chớp lóe lên, và tiếp theo là một tiếng sét thật lớn. Tất cả những người đang hiện diện đều la lên với sự thích thú.
Mọi người đều kêu lên những tiếng.. ô.. a’ và nói:
“Nhìn coi các Thiên Thần.”
Những tạo vật thần thiêng của Đấng Tác Tạo muôn loài muôn vật đang chơi trò đuổi bắt nhau trên những vườn nho của vùng đất Mễdu linh thiêng thánh thiện.
Nơi đây, Mẹ Thiên Chúa đã không ngại đặt chân tới nhiều lần huống chi các Thiên Thần. Thường thì Mẹ đi đâu các Thiên Thần cũng đi đó. Bất chợt giọng các Thiên Thần đùa nghịch vang lên không khác chi những con người trần thế:
“Ráng bắt tôi coi có được không?”
Chứng kiến cảnh này không ai không thích thú. Thật ngoạn mục. Sau mười phút thần tiên trôi qua, sấm chớp lại vang lên. Hiện tượng xảy ra như bao trùm cả thôn Bikacivic.
Và tiếng sét quá lớn đó có cảm tưởng làm rung chuyển cả trái đất nhưng không ai sợ hãi cả. Ai nấy đều vui mừng và cảm động.
Sau đó các Thiên Thần biến mất trong vùng trời cao thẳm. Bầu trời trở nên đen tối. Mọi người đều im lặng, ngẩn ngơ, nuối tiếc, đến nỗi một cây kim rớt xuống cũng có thể nghe thấy được.
Biến cố này giống như Thiên Đàng mở cửa cho các Thiên Thần sổ lồng rong chơi chốc lát, sau đó lại trở về Thiên Quốc, nơi có tòa Thiên Chúa cao sang ngự trị.
Tại sao xảy ra như vậy? Tôi tự hỏi mình. Tôi nhớ là Ivan đã gọi chúng tôi lên đồi “Hiển Linh” tối đó để nghe sứ điệp của Đức Mẹ, nhưngtôi không đi vì biến cố đặc biệt chiều nay.
Bình thường, tôi chưa bao giờ vắng một lần nào khi Đức Mẹ gọi tới nghe sứ điệp của Mẹ. Nhưng tôi hiểu rằng vì mất cú điện thoại của chồng tôi đêm trước nên hôm nay Đức Mẹ muốn tôi ở nhà để chờ điện thoại này. Thật tình tôi rất vui khi phải ở lại để chờ điện thoại của chồng tôi, nhờ vậy tôi mới được diễm phúc chứng kiến cảnh thiên đường này.
Đức Mẹ gọi tôi tới Mễdu, tôi đều chấp nhận và được bao chúc lành của Mẹ. Tôi đã chứng kiến cảnh mặt trời quay nhiều lần, xâu chuỗi của tôi đã biến thành vàng, biết bao phép lạ xảy ra cho tôi nhưng chưa bao giờ thấy được phép lạ nào như cảnh Thiên Thần bay lượn đuổi nhau trên không trung như vậy.
Đức Mẹ đã ban cho tôi nhiều ơn lành và phép lạ của Con Mẹ nhưng chưa bao giờ thấy cảnh sấm chớp lạ lùng như lần này.
Đây là một món quà vĩ đại cho chúng tôi. Tôi tin rằng, trong cuộc sống này luôn luôn có phép lạ xảy ra, chúng tới từ nhiều hình dạng nhưng chúng ta phải mở lòng ra đón nhận.
Thánh địa Mễdu quả thật quý giá mà Thiên Chúa đã ban tặng cho thế giới. Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, Người đã ban Mẹ của Người xuống cho chúng ta nhiều năm nay để giúp đỡ chúng ta trở về với Con của Người.
Mảnh đất này thật sự đã ghi dấu chân tôi nhiều lần, và cả triệu người hành hương tới đây nữa. Sự hiện diện của Mẹ ở đó, chúng ta có thể cảm nghiệm được sự bao che của Mẹ trong vòng tay yêu thương của Người. Cám ơn tình yêu cao vời của Chúa và của Mẹ.
Thuận Hà
Như một thông lệ không thể thiếu ở nước Hoa kỳ cực kỳ văn minh vật chất này, là đến mùa lễ Halloween thì ma quỷ có dịp đi đầy đường dưới hoá trang! Và cũng ở Hoa kỳ, vẫn có đạo Quỷ vương làm chuyện quái đản như đào trộm thây người.
Xem như vậy nói chuyện ma đâu phải lỗi thời! Nhưng vấn đề là nói chuyện ma khó hay dễ ? Có người hỏi một hoạ sĩ vẽ ma khó hay dễ thì được trả lời:
- Vẽ người khó vì người có thực vẽ sai biết ngay. Còn ma quỷ thì vô hình vẽ sao cũng được.
Tuy thế nói câu chuyện ma không đơn giản chút nào cả. Hình bóng ma vẫn ám ảnh đầu óc con người, kẻ nói có người nói không! Một điều ai cũng đồng ý là quan niệm người ta chết thì đều thành ma cả, như phong tục Việt gọi đám xác chôn người chết là “đám ma” còn hình thể của ma nó ra sao thì mỗi người tin một cách.
Trường hợp Đức Khổng Tử khi người ta hỏi về chuyện siêu hình sống chết thì ngài bảo rằng:
- Vị tri sinh, yên tri tử (nghĩa là chưa hiểu biết về sự sống, làm sao đã biết đến việc chết). Nhưng có người lại hỏi có ma quỷ hay thần thánh không, thì ngài bảo rằng :
- Quỷ thần kính nhi viễn chi (Quỷ thần thì nên kính, mà ở xa không nói đến).
Nếu có ai hỏi rằng quỷ thần có linh thiêng không, thì ngài lại bảo:
- Linh tại ngã, bất linh tại ngã (Linh hay không linh đều do mình thôi).
Vậy thấy nếu áp dụng vào câu chuyện của chúng ta, ta có thể nói chuyện ma quỷ trên đời này, chỉ có một mẫu số chung duy nhất, đó là một điều bí hiểm chưa ai giải được.
Nhưng trong cái nhìn chung này lại có rất nhiều cái nhìn riêng khác nhau, mà mỗi người mỗi dân tộc hay mỗi văn hoá, thì quan niệm mỗi khác thôi. Trước hết chúng ta cần hiểu về quan niệm của con người biến thành ma ra sao trong văn hoá Việt Nam.
Dân Lạc Việt mình vào đời thượng cổ hoang sơ đã có niềm tin về chuyện linh hồn. Nhưng sau khi tiếp xúc với văn hoá Trung Hoa và Ấn độ với ba nguồn tư tưởng là Nho, Lão, Phật, quan niệm về thế giới siêu hình của dân Việt, là một hình thức dung hợp thể hiện qua phong tục và tín ngưỡng.
Con người sống gồm hai phần là hồn và thể phách. Sau khi chết thì thể phách sẽ mất và hồn sẽ ra ma, như câu Kiều vậy:
"Thác là thể phách còn là tinh anh"
Nói chi tiết thì con người có “ba hồn bảy phách (hay vía) Ba hồn kể ra là:
1 - Sinh hồn là cái hồn sống vì nó chứa nguồn sinh lực cho sự sống.
2 - Giác hồn là cái hồn biết vì nó điều khiền nhận thức của các giác quan; nhìn, nghe, sờ, nếm, ngửi.
3 - Linh hồn là cái hồn thiêng vì nó không tan mất.
Thất phách (vía) là thất tình: hỉ nộ ai cụ ái ố dục (vui, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, tham)
Nhìn vào phong tục Việt Nam khi một người vừa chết thì có tục lệ chiêu hô (Một người con cầm cái áo của người chết rồi leo lên mái nhà, tay trái cầm cổ áo, tay phải cầm vạt lưng áo rồi gọi tên ba lần: Ba hồn chín vía cha (mẹ) ở đâu về với con. Với tục chiêu hô, người ta hy vọng người chết động lòng sống lại. Cái hồn phục sinh trước tiên là cái Sinh Hồn vậy.
Trong khi sống người ta đôi lúc bị kinh sợ quá mà mất hồn mất vía "hồn siêu phách lạc" hoặc bất tỉnh nhân sự lâu gọi là “hồn bất phụ thể” thì cái hồn này là cái Giác Hồn. Còn người bị thực sự hôn mê tức là vẫn sống mà không biết (còn Sinh Hồn nhưng mất Giác Hồn).
Khi người bệnh đã thực sư chết thì người nhà lấy một miếng lụa, hoặc vải trắng dài bảy thước ta để lên trên mặt, sau kết lại thành hình người gọi là “Hồn Bạch” để hồn thiêng người chết nhập vào đấy. Hồn Bạch dùng để thờ cúng trên linh toạ hay bàn thờ. Người ta lại có tục phủ mặt người chết bằng một tờ giấy bản. Tờ giấy này cất đi mà soi ngó lên bàn thờ sẽ thấy hồn ma về ăn giỗ.
Người Việt Nam cũng tục canh giữ không cho mèo nhẩy qua người chết vì sợ thi thể hút cái tinh lực của mèo mà nhổm lên thành "quỷ nhập tràng” Bây giờ ta hãy tìm hiểu tiếp về hành trình của hồn người chết đi vào cõi chết ra sao?
Sau khi chết thì phần phách sẽ tiêu theo xác thịt, còn lại phần linh hồn tinh túy như câu Kiều mô tả: Thác là thể phách còn là tinh anh. Đối với những người tầm thường, sau khi chết linh hồn sẽ trở thành những ma, rồi về sau này ma lại chết đi để trở thành những mị nằm ẩn náu trong đất đá cỏ cây.
Những người già cả, chết tốt lành đúng số, nói chữ là khảo chung mệnh, thì hồn ma không hiện về. Trái lại người chết dữ dằn, chết oan thì thành vong hồn uổng tử.
Còn đối với các bậc siêu nhân thì linh hồn sẽ thăng hoa và hiển thánh, hiển thần để thành Tiên, Thánh, Thần, Phật, như trường hợp các danh nhân lịch sử: Thánh Gióng, Đức Thánh Trần...
Theo Phật giáo qua tục cúng thất Thất Lai Tuần, chúng ta có thể hiểu chuyện người sống khi chết biến ra ma ra sao? Vừa mới chết hồn người chết bị Thành Hoàng là vị thần cầm sổ bộ điạ phương phái hai tên ngưu đầu và mã diện, áp tải đến tra án trong bốn mưoi chín ngày, về những hành vi thuở sinh còn sống.
Hồn sẽ tự do hay bị gông cùm tuỳ theo tội trạng. Đến ngày ba mươi lăm sau khi chết, hồn được phép về thăm nhà, rồi sau đó có hai trường hợp:
1 - Siêu linh là lên thuyền Bát Nhã qua miền Tịnh thổ nếu được sư tăng tụng niệm. Ở Huế tang gia có tục hát “hò đưa linh” với ý niệm này.
2 - Hoặc sau bốn mươi chín ngày, bị xuống Thập Điện Diêm Vương và ở đây hai mươi tám tháng, để chờ đi đầu thai kiếp khác. Thời gian này tương đương với thời gian thân nhân để tang. Đi đầu thai rồi hay được cúng giỗ, thì hồn ma không hiện ra hoặc báo mộng cho người sống nữa.
Người Việt thường phân loại những hồn ma tùy theo nghiệp chết. Chết trôi thì thành ma rà, chết thắt cổ thì thành ma vòng, chết bị cọp ăn thì thành ma trành, chết bị chém đầu thì thành ma cụt, chết bệnh dịch thì thành ma ôn.
Những con ma rà, ma vòng, ma trành, ma ôn thường phải lôi kéo những người sống phải chết giống như chúng để thế chúng thì hồn chúng mơí có thể đi đầu thai được.
Theo danh từ Hán Việt, hồn ma người chết thường gọi chung là “ma” hay “quỷ" như câu của Trần Bình Trọng trước khi bị quân Tàu chém: "Thà làm Quỷ nước Nam hơn làm Vương đất Bắc” nhưng theo tin tưởng dân gian thì quỷ dữ hơn ma .
Phong tục Việt vẫn tin rằng những hồn ma chết oan thường không siêu thoát, mà chỉ luẩn quẩn tại nơi chốn bị chết. Do đó có tục lập am miễu ở dọc đường, bờ sông, sau bệnh viện. Ví dụ như miễu âm hồn ở Huế cho dân chạy giặc ngày thất thủ kinh đô Huế, miễu vợ chàng Trương mà vua Lê Thánh Tông đã vịnh qua câu thơ:
Nghi ngút đầu ghềnh khói toả hương
Miễu ai như miễu vợ chàng Trương.
Người Việt thường có tục cúng chiêu hồn cho những người bị chết đuối hay tự tử ngoài bờ sông như trường hợp Thúy Kiều gieo mình trên sông Tiền Đường được gia đình lập bài vị và cúng vớt hồn:
Chiêu hồn thiết vị lễ thường,
Giải oan lập một đàn tràng bên sông.
Thông thường trong lễ vớt hồn, thì vị sư cầm một “cành phướn” ra bờ sông làm phép rồi khua khắp phía để thu hồn người chết đuối vô phướn, xong hướng dẫn vào huyệt mộ sẽ chôn.
Nếu không làm thế thì nơi sông này sẽ có “huông” nghĩa là có ma rà ở dưới rình rập những người ra sông tắm giặt, để kéo chân cho chết mà thế mạng cho nó. Để tránh “huông” có tục quăng hình nộm người giả xuống gọi là “hình nhân thế mạng”.
Theo tín ngưỡng của dân gian, hồn ma thường được gọi tên khác nhau tùy nguyên nhân cái chết, theo cấp độ tác quái tác yêu cho người sống, chẳng hạn như ma rà, ma trành, ma chẹt, ma lai rút ruột, ma mộc, ma xó... hoặc như những mụ cô ông trạng là hồn những đồng nam đồng nữ còn trong trắng, chết oan khuất vào giờ thiêng. Những cô hồn, tinh ma, yêu quái trong thế giới siêu hình thường có hai thái độ:
Một là phá quấy làm đau ốm, hay bắt người ta chết nếu người sống tỏ ra khinh thường, vô lễ xâm phạm mồ mả hay lơ là quên đèn nhang cúng cấp lễ vật.
Hai là trở nên cứu nạn độ trì, phò hộ nếu được lập miễu thờ cúng thường xuyên. Vai trò của pháp sư và những bùa chú là để trừ khử những loài quỷ dữ.
Việt Nam có phong tục Ngũ Đại mai thần chủ, nghĩa là đối với tổ tiên trên năm đời thì đem chôn bài vị, những vị trên thế hệ ông Sơ, bà Sơ mà không còn cúng cấp nữa vì linh hồn của họ đã siêu thoát hay đầu thai kiếp khác.
Người Việt thường tin rằng những hồn ma của các sắc dân thiểu số rất đáng sợ: Những ai lên rừng núi mạn ngược làm ăn phải coi chừng những ma mọi, ma mường, ma hời, ma đàng thổ vì chúng có thể trả thù làm bụng báng nước, vàng da mà chết, theo khoa học đó chỉ là chứng sốt rét ngã nước. Sau đây là vài câu chuyện ma đặc thù:
Ở thượng du miền Bắc có loại ma cà rồng” thường nhập vào người đi hút máu người khác. Người Mường có tục nuôi “ma xó” nghĩa là dựng xác người chết trong xó nhà để canh nhà.
Chẳng hạn có chuyện người Việt đi vô rừng, đói bụng quá bèn ghé vào một cái quán nước nhưng vắng vẻ không có người. Người này bèn lấy một cái bánh bóc ra ăn thì bỗng nghe một tiếng người nói ra từ trong xó nhà vọng ra:
“Một, trả năm tiền”
Vô tình người này tiếp tục rót một bát nước uống thì lại nghe tiếng đếm:
“Hai, trả một trinh”
Nếu không biết móc tiền ra trả thì về nhà thế nào cũng bị chướng bụng mà chết.
Dân quê thường cho những đốm lân tinh bay trong bãi tha ma là những con “ma trơi”. Các bà đi chợ lúc trời còn tối đất nhá nhem chưa sáng, có thể gặp người lạ làm quen, mà mình mời ăn trầu và người đó bỗng lè luỡi thật dài ra để lấy miếng trầu: đó là “ma le”.
Lại có trường hợp một người ban đêm ngủ trong nhà bỗng mất tích, sáng ra thấy người đó nằm trong một bụi tre gai rất khó vô, miệng bị nhét đầy đất sét: đó là bị "ma dấu”. Người nhà quê lại kể khi thấy một cơn gió cuốn tròn, lấy nón lá úp lại thì thấy một cục máu thì đó là “ma trốt”
Trong mắt người dân quê hầu như ma ở khắp nơi nhưng vô hình, ngoài ma người chết còn có những ma súc vật, ma mộc. Truyện Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh góp nhặt nhiều chuyện ma trong dân gian Trung Quốc, trong đó có chuyện những con hồ ly tu luyện lâu năm, hay chuyện những cây đào cây liễu thành “tinh”. Người Việt cũng tin có ma chó, ma heo ở quanh lò sát sinh.
Họ còn tin những gốc cây cổ thụ trong rừng rú hoang vu là nơi ẩn náu của những loài tinh quái, nên gỗ của những cây này xẻ ra làm giường phản hay quan tài thường có "mộc tinh”.
Ngủ trưa mà thấy ngực bị đè khó thở thì dân quê nói là bị “mộc đè” sinh ra ác mộng. Trước khi khâm liệm thi thể người chết vào cỗ quan tài, thì thường phãi rước thầy làm lễ “phạt mộc” nghĩa là cầm hương đọc chú rồi cầm dao chém vào gỗ để đuổi tinh ra.
Khi khâm liệm lại có tục bỏ một cuốn Lịch có dấu kiềm Khâm Thiên Giám để trừ tà, vì thần linh và yêu ma trong một nước cũng dưới quyền của vua.
Cũng nói thêm khi đưa đám ma, trên đường cũng có nhiều hồn ma lần quẩn trì kéo lại, nên ta có tục rải giấy vàng bạc cho chúng để lót, và khi hạ quan tài xuống huyệt, người ta cũng phải yểm khứ tà ma.
Hằng năm vào dịp Rằm Vu Lan là dịp cầu cho linh hồn cha mẹ, tổ tiên được siêu sinh miền Tịnh thổ và cũng là dịp cúng thí thực những cô hồn bằng cháo lỏng bồ đài, cốm nỗ, áo binh và tiền giấy…
Đêm giao thừa ở Việt Nam là thời điểm đón linh hồn ông bà tổ tiên về ăn tết, để rồi đến mùng ba thì đưa tiễn các cụ trở về âm giới. Cây nêu trồng trước cửa nhà với chuông khánh leng keng là dấu hiệu chỉ lãnh thổ của nhà Phật, để quỷ ma không dám quấy nhiễu.
Một điều nên biết là đối với xương cốt của người chết nhất là xương sọ, người Việt có một tin tưởng sợ hãi hồn người chết sẽ hiện lên đòi lại! Bởi thế trong tục cúng đất ở Huế, người ta phải van vái những hài cốt vô danh còn chôn dấu trên đất của nhà mình. Những chuyện về hài cốt và thủ cấp người chết ra sao?
Ở Trung hoa và Việt Nam ngày xưa, di hài người chết được coi là thiêng liêng nhất là cái đầu lâu. Câu chửi "đào mồ cuốc mả ” là một sự nguyền rủa ghê gớm. Dân gian tin tưởng rằng người chết không toàn thây thì linh hồn không siêu thoát như câu:
"Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa" (Chiêu hồn ca). Đầu lâu gọi là “hoa cái” có nhiều chuyện “ma cụt" hiện lên đòi lại đầu. Và lại có chuyện thầy bùa đào mộ lấy đầu gái đồng trinh luyện "Thiên linh cái”.
Trong lịch sử Việt Nam, có vài vụ liên quan đến hài cốt của người chết và hiện hồn như sau:
Vào năm 1790, quân Tây Sơn đào mả cha của Nguyển Ánh rồi đem vất hài cốt xuống thượng nguồn sông Hương. Về sau khi Nguyễn Ánh trở thành vua Gia Long thì một người chài cá vớt được cái sọ lên.
Nhà vua bèn khảo nghiệm tìm phụ hệ bằng cách trích huyết của mình rồi nhỏ vào xương sọ này thì thấy đúng là của cha mình, bèn xây một cái lăng để chôn gọi là Lăng Sọ.
Vào năm 1802, vua Gia Long lên ngôi bèn trả thù mà ra lệnh đào mả lấy hài cốt của anh em Tây sơn Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ lên lấy chầy giã ra rồi rảy ngoài gió, chỉ giữ lại hai cái sọ bỏ vào ngục thất bỏ trong vò, rồi xiềng lại trong một phòng kín được niêm phong.
Những người lính canh ngục thường kính sợ gọi những vò này là ông Vò hay chuá Ngụy nên thường hương đèn van vái. Về sau những vò sọ này đã biến mất, người ta phõng đoán là vào thời điểm triều đình Huế đánh úp Tây ở đồn Măng cá năm 1885, những người tù ngục thất phá ngục chạy trốn đã mang theo những vò trên.
Dân Huế tin tưởng rằng di cốt đầu lâu của chúa Ngụy Tây sơn rất linh qua những việc sau:
Thứ nhất là theo đám phi tần trong cung cấm kể lại, một cái sọ trên đã hiện lên thành con hổ miêu cho vua Đồng Khánh. Nhà vua vốn là một thiện xạ bèn nhắm bắn bằng súng. Hổ miêu bèn hoá thành con gà trống vàng, bay một vòng quanh trên bàn ghế trong cung điện rồi biến mất.
Sự ma hiện hình này khiến vua Đồng Khánh trở bịnh và từ trần rất chóng. Chuyện thứ hai là vua Thành Thái hồi còn bé có thể một lần nào đó thấy những vò Sọ trên bèn ám ảnh về sự trả thù chúa Ngụy nên đâm ra điên điên khùng khùng.
Chúng ta có thể nói trong nhiều văn hoá ở những dân tộc khác nhau đều có lắm chuyện ma hiện hình về báo oán cả. Người ta càng tin tưỡng là những sinh vật gì lúc sống có một sức sống mãnh liệt, thì khi chết ra ma, hồn của chúng cũng vô cùng khủng khiếp.
Hồn ma của người là đáng sợ hơn cả vì con người là loại tối thông minh trong vạn vật. Còn trong những loài thú thì con thú nào khôn ngoan thì cũng có hồn ma như người Á Đông thường tin tưởng:
Nào là chuyện ma rắn Thị Lộ báo oán ông Nguyễn Trãi, nào là bao nhiêu chuyện về thần hổ, về ma chó hay nhiều chuyện hồ ly tinh tu luyện nhiều năm trong tập truyện Liêu Trai của Bồ Tùng Linh. Thậm chí một gốc cây cổ thụ lâu năm trong rừng cũng có thể chứa mộc tinh, một cây sứ Mộc Lan cũng chứa hồn thiêng để tác quái tác yêu!
Riêng về người ta thì một người càng nhiều uất ức, hận thù thì hồn ma khó mà siêu thoát tiêu diêu. Điều này được coi như là một xác tín mà ngay cả nền công lý của người sống trong xã hội xưa cũng công nhận thành tục lệ.
Ngày xưa ở Việt Nam, trước khi mở trường thi cho sĩ tữ vô ứng thí đều có nghi lễ chính thức là Tế những hồn ma ân oán rồi sau đó có tục gọi loa như sau: Báo oán tiên nhập, báo ân thứ nhập, sĩ tử thứ thứ nhập.
Chuyện ân oán của những kiếp người khi còn sống vốn là những màn kịch không bao giờ dứt, vì càng tham sống một cách u mê, là càng phải cạnh tranh và trừ diệt nhau. Chết dứt khoát không phải là hết, do đó mới có chuyện hồn ma! Có lẽ chính vì vậy mà Phật giáo thường chủ trương là nên hoá giải, vì Lấy ân trả oán thì oán nọ tiêu tan, Lấy oán mà trả oán, oán oán trập trùng.
Bởi thế, chúng ta bây giờ mới hiểu tại sao trong nghi lễ Phật giáo, thường có tụng kinh sám hối cho người sống và cầu siêu giải oan cho người chết:
Nhờ Phật lực siêu linh tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ
Khắp trong Tứ Hải quần chu
Não phần quét sạch oán thù rửa trong.
Lê Văn Lân
CÁC THIÊN THẦN TRÊN NHỮNG VƯỜN NHO
Cathy, Kentuckey
Một buổi chiều mùa Thu trong tháng chín năm 2005. Tôi đang ngồi uống càfé ở bàn ăn, sau khi chờ điện thoại của chồng tôi gọi qua từ Mỹ.
Cha Donald Calloway, vị linh hướng của một nhóm từ Hoa Kỳ, bước vô ngôi nhà Pansion Nada, nơi mà cha và nhóm của cha đang trú ngụ trong những ngày hành hương, và cũng là nơi tôi thường ngụ tại đó mỗi lần tới Mễdu.
Cha Callaway nhìn tôi nói:
“Xin lỗi bà có thể ra ngoài với tôi một phút được không?”
Tôi trả lời:
“Dạ được.”
Không hiểu chuyện gì nhưng tôi cũng theo ra ngoài cửa về phía chỗ đậu xe, nơi này đối diện với những vườn nho và ngọn núi Krizevac.
Cha chỉ lên bầu trời và nói:
“Bà thấy gì không?”
Tôi nhìn lên kinh ngạc lẫn sửng sốt:
“Ồ, các Thiên Thần.”
Họ đang bay vòng tròn trên không trung, phía trên các vườn nho, hình như họ đang chơi trò đuổi bắt. Thình lình một luồng ánh sáng chớp lên và sấm sét dội vang trên bầu trời.
Các linh mục và đám người hành hương đều tuôn ra khỏi phòng, xúm lại để ngắm cảnh lạ thường của Thiên Đàng đang biểu diễn trên trần thế.
Các Thiên Thần vẫn thản nhiên rượt bắt nhau làm như không hề biết đến sự hiện diện của đám người trần gian đang sửng sốt ngắm như xuất thần. Phía vòng ngoài là một lớp Thiên Thần lớn, vòng trong cũng có một lớp Thiên Thần, nhưng các ngài bé nhỏ như trẻ thơ, cũng bay vòng tròn như vậy.
Khoảng mười phút sau, lại một làn chớp lóe lên, và tiếp theo là một tiếng sét thật lớn. Tất cả những người đang hiện diện đều la lên với sự thích thú.
Mọi người đều kêu lên những tiếng.. ô.. a’ và nói:
“Nhìn coi các Thiên Thần.”
Những tạo vật thần thiêng của Đấng Tác Tạo muôn loài muôn vật đang chơi trò đuổi bắt nhau trên những vườn nho của vùng đất Mễdu linh thiêng thánh thiện.
Nơi đây, Mẹ Thiên Chúa đã không ngại đặt chân tới nhiều lần huống chi các Thiên Thần. Thường thì Mẹ đi đâu các Thiên Thần cũng đi đó. Bất chợt giọng các Thiên Thần đùa nghịch vang lên không khác chi những con người trần thế:
“Ráng bắt tôi coi có được không?”
Chứng kiến cảnh này không ai không thích thú. Thật ngoạn mục. Sau mười phút thần tiên trôi qua, sấm chớp lại vang lên. Hiện tượng xảy ra như bao trùm cả thôn Bikacivic.
Và tiếng sét quá lớn đó có cảm tưởng làm rung chuyển cả trái đất nhưng không ai sợ hãi cả. Ai nấy đều vui mừng và cảm động.
Sau đó các Thiên Thần biến mất trong vùng trời cao thẳm. Bầu trời trở nên đen tối. Mọi người đều im lặng, ngẩn ngơ, nuối tiếc, đến nỗi một cây kim rớt xuống cũng có thể nghe thấy được.
Biến cố này giống như Thiên Đàng mở cửa cho các Thiên Thần sổ lồng rong chơi chốc lát, sau đó lại trở về Thiên Quốc, nơi có tòa Thiên Chúa cao sang ngự trị.
Tại sao xảy ra như vậy? Tôi tự hỏi mình. Tôi nhớ là Ivan đã gọi chúng tôi lên đồi “Hiển Linh” tối đó để nghe sứ điệp của Đức Mẹ, nhưngtôi không đi vì biến cố đặc biệt chiều nay.
Bình thường, tôi chưa bao giờ vắng một lần nào khi Đức Mẹ gọi tới nghe sứ điệp của Mẹ. Nhưng tôi hiểu rằng vì mất cú điện thoại của chồng tôi đêm trước nên hôm nay Đức Mẹ muốn tôi ở nhà để chờ điện thoại này. Thật tình tôi rất vui khi phải ở lại để chờ điện thoại của chồng tôi, nhờ vậy tôi mới được diễm phúc chứng kiến cảnh thiên đường này.
Đức Mẹ gọi tôi tới Mễdu, tôi đều chấp nhận và được bao chúc lành của Mẹ. Tôi đã chứng kiến cảnh mặt trời quay nhiều lần, xâu chuỗi của tôi đã biến thành vàng, biết bao phép lạ xảy ra cho tôi nhưng chưa bao giờ thấy được phép lạ nào như cảnh Thiên Thần bay lượn đuổi nhau trên không trung như vậy.
Đức Mẹ đã ban cho tôi nhiều ơn lành và phép lạ của Con Mẹ nhưng chưa bao giờ thấy cảnh sấm chớp lạ lùng như lần này.
Đây là một món quà vĩ đại cho chúng tôi. Tôi tin rằng, trong cuộc sống này luôn luôn có phép lạ xảy ra, chúng tới từ nhiều hình dạng nhưng chúng ta phải mở lòng ra đón nhận.
Thánh địa Mễdu quả thật quý giá mà Thiên Chúa đã ban tặng cho thế giới. Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, Người đã ban Mẹ của Người xuống cho chúng ta nhiều năm nay để giúp đỡ chúng ta trở về với Con của Người.
Mảnh đất này thật sự đã ghi dấu chân tôi nhiều lần, và cả triệu người hành hương tới đây nữa. Sự hiện diện của Mẹ ở đó, chúng ta có thể cảm nghiệm được sự bao che của Mẹ trong vòng tay yêu thương của Người. Cám ơn tình yêu cao vời của Chúa và của Mẹ.
Thuận Hà
#92
Gửi vào 19/06/2011 - 08:24
CHIẾC XE NGỰA MA QUÁI
Đây là chuyện có thật 100%.
Vào một ngày nọ tôi đi săn cả ngày trên những ngọn đồi cô quạnh nằm ở miền bắc nước Anh, nhưng không thành công mấy. Một ngọn gió đông tháng mười hai thổi đến, thế là tuyết bắt đầu rụng từ bầu trời xám xịt. Trời tối dần đi thế là tôi lạc đường. Tôi nhìn chung quanh không có dấu hiệu của sự sống.
“ Oh, Mình phải tiếp tục đi có lẽ sẽ tìm thấy ai đó ngay thôi “
Tôi vắt súng lên vai rồi cứ đi mãi.
Tuyết rụng như mít rụng lạnh cóng lên, màn đêm sập xuống nhanh như thổi. Tôi bắt đầu “ phê ” và đói cồn cào vì tôi không có gì bỏ bụng từ sáng đến giờ. Tôi nghĩ đến bà vợ trẻ đẹp của tôi, đang ở trong một khách sạn làng quê chờ tôi.
“ Nàng sẽ lo lắng cho mình, mình đã hứa với nàng là sẽ về nhà trước tối ước gì có thể giữ được lời hứa đó “
Tôi và nàng mới cưới được bốn tháng chúng tôi yêu nhau và thật hạnh phúc bên nhau.
Tuyết vẫn rơi trời càng đen kịt. Cứ bước vài bước là tôi lại dừng để gào lên “ cứu tôi với ” nhưng âm thanh duy nhất ở cái nơi cô quạnh này chỉ là tiếng gió rít lên từng hồi thật ảm đạm. Tôi bắt đầu sợ hãi.
Tôi đã từng nhiều truyện kể về những người thợ săn lạc lối trong tuyết, họ chỉ đi mãi như vậy, cho đến khi kiệt sức và gục xuống tuyết, họ ngủ rồi không bao giờ thức dậy nữa. Tôi tự nhủ :
“ Điều đó sẽ không phải xảy đến cho mình, mình không thể chết, trong lúc đang tràn trề sức sống như vầy, đẹp trai con nhà giàu.. “
Tôi cố gắng quên đi nỗi sợ hãi. Tôi rống to hơn “ cứu tôi với ” rồi lắng nghe tiếng trả lời. A, ngoài tiếng gió gào thét ra, tôi nghĩ rằng tôi có nghe một tiếng gì đó ở xa xa. Tôi gào lên lần nữa rồi lại tưởng tượng mình có nghe một tiếng trả lời.
Và… xa xa trong màn đêm, xuất hiện một đốm sáng trắng nó từ từ đến gần hơn và sáng hơn. Tôi vắt giò lên cổ chạy thẳng ngay đến đó, rồi trông thấy một ông già cầm cái đèn bão.
- Cám ơn Chúa !
Tôi hét, thật sự tôi vô cùng sung sướng khi thấy ông ta. Ông ấy có vẻ không vui khi gặp tôi, ông nhấc đèn bão trong tay lên nhìn trừng trừng vào tôi :
- Anh cám ơn Chúa vì cái gì ?
- Ồ, tôi cám ơn Chúa vì ông đấy, tôi e là tôi đã bị lạc.
- Thế anh cố gắng lết đi đâu vậy ?
- Dwolding, thị trấn đó cách đây mấy dặm ?
- Hai mươi dặm, vậy là anh đã bị lạc đường.
- Thế làng gần đây nhất cách đây mấy dặm ?
- Làng gần đây nhất là làng Wyke, cách đây mười hai dặm.
Tôi hỏi :
- Ông sống ở đâu ?
Ông ta nói :
- Đằng kia.
Rồi chĩa cây đèn bão ra. Tôi mới hỏi:
- Ông về nhà hả ?
Ổng trả lời:
- Chắc vậy.
Tôi nói:
- Làm ơn dắt tôi về với ông nhé !
Ông già lắc đầu.
- Không được, ông ấy sẽ không để cậu vào nhà đâu.
- Ồ, cháu cá là ông ấy sẽ cho mà. À mà " ông ấy " là ai vậy ? Tôi hỏi.
- Ông chủ tôi.
- Ông chủ ông là ai ?
- Không phải việc của anh. Ông già thô lỗ đáp lại
- Hừm, ông hãy dẫn tôi đến gặp lão chủ của ông. Tui cá là ổng sẽ cho tui chỗ ngủ và bữa ăn tối.
- Hừ, ta không nghĩ vậy đâu, nhưng anh cứ việc xin ông ấy đi.
Ông già lắc đầu lần nữa rồi bước đi. Tôi bám theo ánh đèn bão băng qua tuyết dầy đặc. Đi được một lúc nữa, khá lâu sau đó..
Bất thình lình tôi trông thấy một hình thù to lớn trong đêm tối, một con chó khổng lồ phóng lại đến bên tôi nó sủa um sùm.
- Thôi nào King. Ông già quát lên.
Trước mặt tôi hiện ra một toà nhà mờ mờ ảo ảo.
- Ngôi nhà ông đây hả ? Tôi hỏi.
- Ừ.. thôi nào King !
Rồi ông già móc chìa khoá ra. Ngôi nhà có một cánh cửa thật là to lớn, giống như cửa nhà tù vậy. Lão già tra chìa vào ổ khoá, mở cửa vào bước vào nhà. Tôi nhanh chóng bám sát ông ta. Tôi nhìn quanh bốn bức tường to lớn, một tiếng chuông vang lên.
- Phòng ông chủ tôi ở đằng kia kìa.
Ông già chỉ tay vào một cánh cửa thấp màu đen. Tôi liền bước đến và gõ cửa thật to. Sau đó tôi bước ngay vào căn phòng mà không đợi mời.
Có một người đàn ông tóc bạc đang ngồi trên bàn đầy giấy tờ sách vở. Ông ta đứng lên và nhìn tôi chằm chặp và hỏi :
- Anh là ai ? Làm sao anh vào đây được ? Và anh muốn gì ?
- Tên tôi là James Murray tôi là bác sĩ. Tôi đã đi băng qua đồi tuyết và đến đây. Tôi cần thức ăn thức uống và chỗ ngủ. tôi nói.
- Đây đâu phải là khách sạn ?
Rồi ông quay qua lão già
- Jacop, tại sao ông dẫn người lạ mặt này vào nhà tôi ?
- Tôi đâu có dẫn hắn vô đây. Lão già la lớn:
- Hắn bám theo tôi về nhà, tôi không thể ngăn hắn được, hắn bự con hơn tôi mà.
Sau đó ông chủ quay sang tôi rồi hỏi:
- Và tại sao ông lại vào đây thưa ông ?
- Để khỏi phải chết. Tôi trả lời.
- Để khỏi chết à ?
- Tuyết dày lắm, nó sâu đến nổi có thể chôn vùi tôi trước khi trời sáng mất.
Đoạn ông ta đi thẳng ra cửa sổ và nhìn ra ngoài trời đang đổ tuyết. Cuối cùng ông nói:
- Quả thật là tuyết quá dày..ok ông có thể ở lại đây tới sáng mai nếu ông muốn. Jacob mang bửa tối lên đây. Xin mời ông ngồi.
Ông ấy lại ngồi xuống và bắt đầu đọc sách. Tôi đặt súng vào một góc phòng. Sau đó tôi ngồi xuống cạnh đống lửa và nhìn xung quanh. Căn phòng này nhỏ bé hơn đại sảnh ở bên ngoài, nhưng có nhiều thứ trông bất bình thường và thú vị lắm: sách vở thì đầy trên bàn ghế, bản đồ giấy tờ vất đầy ra sàn nhà.
“ Căn phòng tuyệt thật “ Tôi tự nhủ
“ Một nơi ở thật kỳ lạ, căn nhà nằm giữa ngọn đồi tối tăm “
Tôi nhìn ngắm khắp phòng và sau đó quay sang người đàn ông ấy. Tôi tự hỏi.
“ Ông ta là ai nhĩ ? Ông ta làm nghề gì ? Ông ta có một cái đầu to, được bao phủ bởi một lớp tóc bạc thưa thớt. Bộ mặt ông ta thật nghiêm nghị, thông minh và mạnh mẽ. Trên trán ông có vài nếp nhăn và những nếp nhăn ấy cũng tập trung vòng quanh đôi môi buồn tẻ của ông "
Jacob mang thức ăn ra, ông chủ bèn gấp sách lại và mời tôi lên bàn ăn. Trên bàn có một đĩa thịt, trứng bánh mì và cà phê. Ông nói:
- Tôi hy vọng rằng anh đang đói, tôi chẳng có gì ngon để phục vụ anh.
Nhưng lúc đó miệng tôi đang ngốn đầy bánh mì và thịt, tôi cũng ráng nói một cách đầy biết ơn:
- Ngon lắm xin cám ơn ông thật nhiều.
- Có gì đâu.
Ông lễ độ nói nhưng lời nói đó thật là lạnh lùng. Phần ăn của ông ấy tôi thấy chỉ có bánh mì và sữa. Chúng tôi ăn mà không nói một lời, ông ấy có vẻ buồn. Tôi thử tưởng tượng xem tại sao ông ấy lại sống một cuộc đời âm thầm đơn độc tại một nơi như thế này.
Khi dùng xong bữa tối, Jacop dọn dẹp chén đĩa đi. Ông chủ thì đứng dậy tiến ra ngoài cửa sổ. Ông nói :
- Tuyết đã ngừng rơi.
- Hết tuyết rồi à ? Tôi gào lên:
- Có lẽ tôi sẽ phải… ờ mà thôi, làm sao có thể cuốc bộ hai mươi dặm về nhà đêm nay được.
- Cuốc bộ hai mươi dặm hả ? ông ấy ngạc nhiên hỏi :
- Ý anh nói gì ?
- Vợ tôi đang đợi ở nhà. Tôi nói:
- Cô ấy không biết tôi đang ở đâu, chắc là cô ấy sẽ lo lắng lắm.
- Cô ấy ở đâu ?
- Dwolding, cách đây hai mươi dặm.
- Dwolding. Ông ta chậm rãi nói:
- Ừ đúng nó cách đây hai mươi dặm. Nhưng anh phải về đó ngay sao ?
- Ừ. Tôi trả lời:
- Cô ấy sẽ tuyệt vọng lo lắng, tôi phải làm bất cứ cái gì để trở về bên cô ấy.
- Umm.. Ông ta nói sau một lúc do dự:
- Có một chuyến xe ngựa đi dọc theo một con đường cũ vào mỗi đêm, và nó luôn dừng lại ở Dwolding.
Ông ấy nhìn lên đồng hồ và nói:
- Một giờ mười lăm phút nữa, xe ngựa sẽ dừng ở trạm cách đây chừng năm dặm. Jacop sẽ đi với anh và chỉ cho anh con đường dẫn đến trạm. Đến lúc đó anh có thể tự mình đi đến trạm được không ?
- Dễ mà cám ơn ông.
Ông ta mĩm cười rồi rung chuông, ông ra lệnh cho Jacop và quay sang tôi:
- Anh phải nhanh lên nếu anh muốn kịp thời đón được xe.
Tôi rối rít cám ơn ông ấy, tôi còn muốn bắt tay ông ta nhưng ông đã vội vàng quay đi khỏi. Sau đó Jacob và tôi đi ra ngoài những ngọn đồi phủ tuyết cô quạnh. Mặc dù gió thổi nhẹ hơn nhưng trời vẫn rất lạnh. Bầu trời không có sao, tiếng động duy nhất trên chốn hoang vu này là tiếng từng bước chân lê trên tuyết.
Jacob không nói một lời lão ta lẵng lặng đi trước tôi, tay cầm ngọn đèn bão. Tôi lẽo đẽo theo sau với cây súng trên tay. Tôi cũng im lặng bởi vì tôi đang nghĩ về ông chủ già ấy, giọng nói của ông vẫn văng vẳng quanh tai… Tôi vẫn nhớ rõ từng lời nói của ông ấy cho đến tận bây giờ.
Bất thình lình Jacob dừng chân và chỉ tay ra xa.
- Con đường ấy đấy, cứ đi dọc theo bức tường đá ở bên tay phải là khỏi bị lạc.
- Con đường xe ngựa đi đó sao ?
- Ừ !
- Cháu đang cách trạm xe bao xa ?
- Khoảng ba dặm, cứ đi men theo con đường là không bị lạc đâu.
Lão ấy bỗng dưng trở nên thân thiện tốt bụng hơn.
- Đây là một con đường dễ đi đối với những người đi bộ, nhưng nó rất hẹp và dốc đối với xe ngựa. Cậu hãy cẩn thận, bức tường đá bị vỡ gần trạm, nó vẫn chưa được sửa lại sau tai nạn.
- Tai nạn gì ạ ?
- Chiếc xe ngựa bị trượt ra khỏi con đường và rơi xuống dưới bờ vực thẳm của thung lũng sâu trên năm mươi bộ đấy. Phần xấu nhất của con đường là ở chỗ đó.
- Thật kinh khủng. Tôi gào lên:
- Thế có bao nhiêu người đã chết ?
- Tất cả. Bốn hành khách đều chết tại chỗ, người xà ích chết vào sáng hôm sau.
- Tai nạn đó xảy ra bao lâu rồi ?
- Hai Mươi năm rồi. Ông chủ của tôi tan vỡ kể từ ngày ấy, đứa con trai độc nhất của ông chủ là một trong bốn người hành khách đó. Đó là lý do tại sao ông chủ lại ẩn mình vào chốn hoang vu này.
- Bức tường bị vỡ gần trạm ? Cám ơn ông cháu sẽ nhớ điều đó. Chúc ông ngủ ngon.
Tôi đưa một bảng Anh cho lão ta. Lão nói:
- Chúc một buổi tối tốt lành và cám ơn cậu.
Sau đó ông ta quay lưng đi thẳng. Tôi nhìn theo ánh đèn bão mập mờ cho đến khi nó mờ dần rồi khuất hẳn. Sau đó tôi bắt đầu đi dọc men theo con đường mòn. Điều này không khó, mặc dù trời tối, tôi vẫn có thể thấy được bức tường đá dài bên bờ con đường.
- Mình an toàn rồi.
Tôi tự nhủ nhưng tôi cảm thấy cô độc và hơi sợ. Tôi cố gắng quên đi nỗi cô đơn và sự sợ hãi, tôi vừa đi vừa hát và huýt gió. Tôi nghĩ về vợ tôi thế là tôi cảm thấy tốt hơn một chút.
Nhưng ban đêm trên đồi trời thật lạnh, mặc dù tôi bước nhanh nhưng vẫn không thể nào ấm hơn. Tay chân tôi đông cứng lại. Ngực tôi lạnh cóng lên và cảm thấy khó thở, cây súng sao mà nặng gớm, tôi mệt mỏi đờ đẫn người ra. Phải nghĩ chân một lát thôi.
Một lúc sau tôi trông thấy một quầng sáng đằng xa xa, giống như ánh đèn bão. Thoạt đầu tôi nghĩ rằng Jacob quay lại để xem tôi sống chết ra sao. Nhưng sau đó tôi trông thấy một ánh đèn thứ hai bên cạnh cái đầu. Tôi nhận ra đó chính là hai tia đèn của một chiếc xe ngựa.
“ Nhưng kỳ lạ chưa “. Tôi nghĩ
“ Con đường mòn nguy hiểm này, Jacob đã nói không ai dám sử dụng nó từ khi tai nạn khủng khiếp ấy xảy ra “. Nhưng tôi lại nghĩ
" Hay là mình đã đi qua trạm xe trong đêm tối. Chiếc xe này đi thẳng đến Dwolding chăng ? “
Trong lúc ấy chiếc xe ngựa đi dọc theo con đường, nó đi thật nhanh, thật êm trên con đường phủ tuyết. Tôi trông thấy hình dạng to lớn của chiếc xe, có một xà ích ngồi ở trên đỉnh, và bốn con ngựa xám khỏe mạnh.
Tôi nhảy ra đằng trước la lớn và vẫy tay. Chiếc xe ngựa đi xẹt ngang qua tôi, tôi cứ nghĩ thôi rồi nó không dừng lại. Thế nhưng nó đã dừng.
Người xà ích không buồn nhìn tôi, còn người bảo vệ thì có vẻ đờ đẫn gì đó… Tất cả đều im lặng. Tôi chạy đến bên xe, không ai giúp tôi tự tôi phải mở cửa xe bằng bàn tay lạnh cứng.
“ Trống trơn “. Tôi nghĩ.
Nhưng trong xe có ba hành khách. Không ai trong số họ buồn nhìn tôi họ không hề nhúc nhích. Họ trông có vẻ lờ đờ. Tôi vào trong xe và ngồi xuống. Bên trong xe ngựa còn lạnh lẽo hơn bên ngoài trời nhiều. Xe bắt đầu chuyển bánh. Không khí trong xe có mùi gì đó rất nặng, ẩm ướt chết chóc thế nào ấy.
Tôi quay đầu nhìn những hành khách xung quanh tôi và cố gợi chuyện để nói.
- Đêm nay trời lạnh quá.
Tôi lịch sự nói với người ngồi đối diện tôi. Anh ta từ từ quay đầu lại nhưng không trả lời.
- Tôi nghĩ mùa đông thực sự đến rồi.
Tôi tiếp tục huyên thuyên. Người hành khách ngồi ở một góc tối trong xe mà tôi không thấy mặt, nhưng tôi trông thấy đôi mắt anh ta đang nhìn thẳng vào tôi, nhưng vẫn tuyệt nhiên không nói một lời.
“ Tại sao anh ta không trả lời mình nhỉ ? “ Tôi nghĩ.
Nhưng tôi thực sự chưa cảm thấy bực bội. Tôi đã quá mệt mỏi và lạnh cóng, cái mùi ẩm ướt chết chóc trong xe làm tôi muốn buồn nôn. Tôi lạnh rung lên tôi nói với người hành khách ngồi bên trái tôi :
“ Tôi được phép đóng cửa sổ chứ ? “
Anh ta không nói gì cả cũng chẳng nhúc nhích. Tôi hỏi lại lớn tiếng hơn, nhưng anh ta vẫn không trả lời. Sau đó tôi đã hết kiên nhẫn. Tôi cố gắng đóng cánh cửa sổ thì thấy khung kính bám đầy bụi bẩn.
“ Trời ơi, họ không lau chùi cửa kính chắc mấy chục năm rồi “. Tôi tự nhủ.
Tôi nhìn quanh và bất thần tôi hiểu ra lý do tại sao trong xe có cái mùi kinh khiếp ấy. Mọi thứ đều dơ bẩn cũ kỹ và ẩm ướt. Sàn gỗ dưới chân tôi đều vỡ ra từng mảng. Tôi quay sang người hành khách thứ ba và nói :
- Cái xe này sắp vỡ vụn ra rồi, chắc là công ty xe muốn sử dụng xe này thay thế cho xe chính đang sửa chữa.
Anh ta từ từ quay đầu lại… và vẫn cứ im lặng nhìn tôi. Cái nhìn đó… tôi sẽ không bao giờ quên. Đôi mắt hắn ta sáng lên một thứ ánh sáng hoang dã bất thường, sắc mặt anh ta trắng xanh.
“ Giống như người chết vậy “ . Tôi tự nhủ.
Sau đó tôi thấy đôi môi tái nhợt của hắn ta từ từ mở ra, để lộ hàm răng to lớn… Tôi sợ hãi run lên cầm cập.
Sau đó tôi nhìn qua người hành khách ngồi đối diện tôi, hắn ta cũng đang trừng mắt nhìn tôi. Gương mặt hắn trắng bệt tái nhợt, còn đôi mắt hắn lóe lên thứ ánh sáng kỳ quái.
Tôi lại nhìn sang người ngồi bên trái tôi. Tôi thấy… ồ làm sao tôi có thể mô tả được đây… Tôi thấy bộ mặt của một xác chết. Tất cả ba người hành khách này đều là những người đã chết.
Gương mặt họ xanh rợn người, mái tóc lưa thưa của họ bốc mùi ẩm ướt, những bộ quần áo họ mặt đều tỏa mùi đất ! Chỉ có những đôi mắt của họ là như đang sống. Và tất cả bọn họ đều đang nhìn chằm chặp vào tôi.
Quá kinh sợ tôi thét lớn… tôi phải rời khỏi đây ngay lập tức. Tôi dùng thân mình tống mạnh vào cánh cửa, và cố sức mở nó ra trong tuyệt vọng.
Ngay lúc đó mặt trăng ló dạng khỏi đám mây mù. Ánh sáng lấp loáng của nó làm tôi chợt nhìn thấy rõ mọi thứ. Tôi thấy bảng chỉ dẫn dọc theo con đường giống như một dấu hiệu cảnh báo.
Tôi thấy bức tường bị vỡ ngay bờ thềm con đường. Tôi nghe bầy ngựa sợ hãi hý vang lao trượt xuống bờ dốc đá. Tôi thấy thung lũng sâu năm mươi bộ bên dưới…
Toàn bộ xe rung chuyển dữ dội giống như một con tàu trên biển gặp bão. Một tiếng thét kinh khủng, một tiếng ngựa hý vang trời. Kế đó là tiếng vỡ vụng của chiếc xe, một cảm giác đau đớn khủng khiếp và sau đó là bóng tối bao trùm …
… Một thời gian sau tôi tỉnh dậy, vợ tôi ở ngay bên tôi. Tôi hỏi :
- Chuyện gì… chuyện gì đã xảy ra ?
- Anh đã bị té.. Cô ấy nói:
- Bức tường bị vỡ ở bờ thềm của con đường, và anh rơi xuống vực thẳm thung lũng sâu năm mươi bộ, nhưng anh đã gặp may, có nhiều tuyết dày đặc ở đáy thung lũng thế là anh thoát chết.
- Anh không còn nhớ gì cả, làm sao anh đến đây được ?
- Có hai người nông dân đi tìm cừu lạc vào buổi sáng. Họ đã tìm thấy anh trên tuyết và mang anh về nơi trú ẩn gần nhất. Họ đã gọi bác sĩ lúc đó anh yếu lắm, tay gãy và đầu chấn thương rất nặng. Anh đã không hề hay biết gì cả. Vị bác sĩ lục tìm trong túi anh tên và địa chỉ. Thế là em đã săn sóc cho anh từ lúc ấy. Anh không phải lo lắng gì cả, anh cần tập trung nghĩ ngơi và bồi dưỡng sức khỏe.
Tôi còn trẻ khỏe và đã sớm thoát khỏi hiểm nguy. Nhưng tôi luôn nghĩ về tai nạn đó. Tôi không bao giờ kể cho vợ tôi nghe về chuyện này. Tôi đã kể với ông bác sĩ, nhưng ông ta nói rằng tất cả những chuyện phiêu lưu ấy chỉ là ảo tưởng, là kết quả của sự mệt mõi, của cú chạm mạch ở đầu. Tôi cố nói cho ông ta hiểu, nhưng ông ta không nghe.
Điều này không làm tôi giận dữ, chuyện ông ta tin hay không thật sự không thành vấn đề. Nhưng điều mà tôi biết đó là: tôi chính là một hành khách trong chuyến xe ngựa ma hai mươi năm về trước.
ST
ĐOÀN QUAY PHIM "108 ANH HÙNG LƯƠNG SƠN BẠC"
Theo Chân Đoàn Làm Phim "108 Anh hùng Lương Sơn Bạc" theo lời kể của anh Tống Giang, giám đốc sản xuất của Trung tâm nói về những hiện tượng tâm linh xảy ra cho đoàn làm phim trong lúc thực hiện cuốn DVD này. Câu chuyện có thật 100% sẽ là một kinh nghiệm quý cho những ai tin tưởng vào sự phò trợ của thế giới thứ ba.
VW: Thưa anh Tống Giang, trong dịp quay hình cho DVD “108 Anh Hùng Lương Sơn Bạc” tại Việt Nam, ở thác Hang Cọp, xin anh kể lại câu chuyện đã xảy ra tại thác “Hang Cọp”?
TG: Khu du lịch thác Hang Cọp ở Đà Lạt, là một cái thác có thể nói là tương đối khá nguy hiểm. Thác này rất là sâu so với mặt đất, cho nên rất ít người biết thác này và sự di chuyển khó khăn. Cho nên khi mà đến thác Hang Cọp, chúng ta thấy sự huyền bí của thác, thiên nhiên huyền bí quá, có cả một cái tượng cọp xây để tưởng niệm ông Ba Mươi, có thể nói là ông Ba Mươi cuối cùng của khu rừng đã bị sát hại.
Từ tượng cọp lớn, chiều dài mười mấy hai mươi mét, đi theo con đường xuống thác Hang Cọp. Theo truyền thuyết khi ông Ba Mươi bị sát hại đã lết về đây, trước khi trút hơi thở cuối cùng, đó là cái hang đó thông ra thác.
Thác nước chảy xiết và rất là trơn trợt nguy hiểm, những du khách đến đây thường bị trợt té và rất là nhiều người đã mang thương tích. Thác Hang Cọp rất là nhỏ, khi quay hình chúng tôi phải cố làm sao để cho đem hết tất cả nghệ sĩ vào hang, để người đạo diễn lấy hình, cho nên rất khó khăn.
Chúng tôi phải xin phép với ban quản lý của khu du lịch để dọp dẹp hang sạch sẽ, đường đi xuống cho rộng rãi, để đạo diễn lấy được những hình ảnh đẹp từ thác Hang Cọp.
Khi chúng tôi di chuyển từ trên xuống, thời tiết rất là ấm, Đà Lạt sương mù nhiều mà ít nắng, xuống sâu quá, thác rồi nước, đoàn phim gặp rất nhiều trở ngại, rất là khó hiểu, giống như là máy đang chạy tự dưng bị đứng không chạy nữa mà không phải do hết pin, kiểm tra lại pin vẫn còn, battery vẫn còn đầy đủ, mà không biết tại sao tự nhiên máy lại đứng, cứ quay khoảng chừng độ mươi, mười lăm phút, máy lại đứng, đó là lý do không thể nào hiểu nổi.
Có lời giải thích từ đạo diễn rằng, có thể là do áp suất nhiệt đới quá thấp, điều kiện thời tiết lúc đó làm ảnh hưởng ống kính, đột ngột thời tiết lạnh quá nên ống kính bị đứng hình, đó là những lời giải thích từ đạo diễn.
Tuy nhiên anh em trong đoàn phim thấy nhiều sự hoang mang lắm. Những điều nghe được từ những du khách, cũng như những người dân địa phương, cho hay là thác rất thiêng.
Rất nhiều người cảnh báo chúng tôi là không nên ở lại khi mà mặt trời đã lặn, khi trời về đêm, ở đây có những chuyện huyền bí xảy ra và rất là nhiều những người đã từng gặp những thế giới vô hình ở trong Hang Cọp.
Sau khi tìm hiểu chúng tôi được cô quản lý cho hay rằng, trước đây có những đoàn cải lương đến quay hình những tuồng giả sử, họ gặp rất nhiều những sự cố mà họ không chịu nói ra, cho nên khuyên chúng tôi nên thu xếp quay càng sớm càng tốt để về.
Chúng tôi cũng cố gắng lắm nhưng không về được, tại vì công việc quay rất là nhiều những phân đoạn. Lúc đó khoảng 7 giờ trời đã tối rồi, đoàn phim đang chuẩn bị quay, bỗng có một tiếng la của một anh trong đoàn phim, chúng tôi hỏi chuyện gì xảy ra, anh nói là cứu người.
Có người tự nhiên đi thẳng xuống thác. Thác thẳng đứng mà rất là trơn, chúng tôi mới pha đèn xuống, tập trung đèn quay phim để xuống tìm người đó, xuống tới thác không thấy ai hết.
Anh vừa là cứu người mặt mày tái mét, nói là rõ ràng thấy một người đi cà khiêng, lướt qua trước mặt ảnh và đi thẳng xuống thác, anh ta nghĩ là một người trong đoàn phim bị say rượu, nhưng mà tìm không thấy người đó.
Lúc đó khoảng 7 giờ hơn trời sập tối, trời tối rất là sớm, nhá nhem chỉ nhìn thấy mờ mờ thôi, đèn đã lên để chuẩn bị quay, ai cũng sợ, anh em lo sợ thế giới vô hình, tại vì đã nghe nói thác Hang Cọp thiêng lắm, một số cứ xầm xì, bóng đêm đã bao phủ hết thác Hang Cọp, không khí huyền bí lắm, chỉ có tiếng nước chảy đổ xuống ào áo và tiếng gió vi vu.
Đà Lạt lạnh như cắt, mà gặp những hiện tượng như thế nên đoàn phim rất là hoang mang, nhưng vì DVD “108 Anh Hùng Lương Sơn Bạc”, chúng tôi động viên, năn nỉ tất cả các anh chị em nghệ sĩ, trấn an mọi người.
Một người nhìn ra sự việc là nghệ sĩ Hoài Linh, một người đã lên đồng, rất là tin tưởng chuyện huyền bí, đến nói nhỏ với chúng tôi, nói là sẽ đại diện cho tất cả anh em, xin phép khấn vái.
Lúc đó Hoài Linh đến người quản lý xin nhang, Hoài Linh mới đưa chúng tôi đến ngay thác Hang Cọp, khoảng 8 giờ tối, chúng tôi quỳ xuống để khấn vái đốt nắm nhang cắm vào lư hương và vái tất cả những thần linh, thần cọp ở đó và tất cả những vong linh, những kẻ khuất mặt, khuất mày ở đó, nếu có linh thiêng hãy phù hộ cho DVD “108 Anh Hùng Lương Sơn Bạc” được quay xong đêm nay.
Chúng tôi biết ơn biết nơi đây là chỗ thiêng linh, mà chúng tôi quấy phá đêm hôm, chúng tôi có lỗi, nhưng mà vì quay phim dở dang mà phải đi về, ngày mai trở lại quay nữa, cực khổ quá cho nên thông cảm giùm.
Xong rồi tự nhiên anh em tin tưởng, Hoài Linh trấn an tất cả đoàn phim là đã xin phép và đã được thần linh cho phép quay rồi. Sau đó anh em hồ hởi bắt đầu tiến hành quay trời lại mưa lâm râm.
Lúc đầu khi chúng tôi xuống thác, rất nhiều người thấy hiện tượng là có rất là nhiều rắn, nhưng mà chúng tôi không dám nói ra, rất là nhiều anh em thấy rắn ai cũng sợ, nhưng mà cũng nghĩ là không sao hết.
Chúng tôi cố tình xua đuổi hết đi và dọn dẹp sạch sẽ để cho có chỗ để anh em nghệ sĩ đứng cách Hang Cọp, khoảng chừng chu vi độ 4 thước vuông thôi mà chứa mấy chục người, đứng xúm xít vô đó trật chân là ra ngoài.
Trời mưa trơn trợt, thác nước chảy cuốn trên đá trợt té liền. Điều khó khăn là đặt máy để quay được Hang Cọp, đặt máy dưới thác các anh em rất là cực khổ phải vịn máy, giữ máy cho thăng bằng để quay được những hình ảnh trong một cái hang rất là hẹp, bé thời tiết lạnh lẽo, trong không khí huyền bí như vậy. Chúng tôi tạo tuyết rơi nữa. Một số anh em kỹ thuật ở trên đã leo lên những cành cây cao làm tuyết rơi, tuyết giả.
Khi trên xe về lại khách sạn, một anh mới kể chuyện là, trong lúc đang leo trên cây tự nhiên gió thổi đến, anh thấy có cái gì bay bay ở trên đầu, anh tưởng là giông gió tới, anh nhìn lên thấy là cây khô hoàn toàn, trụi lủi là tại vì họ làm sạch sẽ cây đó, không để cho lá rơi xuống thác Hang Cọp làm ô nhiễm tượng cọp, cho nên cây đó là một cây khô, họ đã cố tình làm cho cây đó chết đi, để làm cho cây ở trong núi mọc ra gốc cây thôi, như cây Bonsai vậy đó, cho nên cây đó hoàn toàn không có một cái lá nào hết.
Nhưng mà tại sao, anh này nghe gió thổi phần phật, nhìn lên thấy cây khô cho nên anh rất là sợ, anh biết là có những điềm bất thường xảy ra, đạo diễn chưa quay tuyết chưa rơi, anh ta không dám bỏ xuống, khi quay xong rồi anh ta cứ ngồi ở trên đó vái hoài.
Còn một sự việc khá ly kỳ nữa, đó là khi đoàn phim đi qua cây cầu treo, trên bảng có đề rõ ràng là tối đa chỉ được 6 người mà thôi, để cho tránh tình trạng qua nhiều. Những người địa phương và ban quản lý cho chúng tôi biết là, cây cầu treo này được làm bằng sắt, làm dã chiến bằng những cây sắt kết dài lại, rồi họ kết mây rồi kết gỗ, rồi họ làm cây treo qua tháp, cho nên nếu đi đông người, nó sẽ gẫy đứt dây kẽm và sẽ rớt xuống thác, rất là nguy hiểm tại vì thác nước đang chảy mà thác rất là cao.
Khi mà chúng tôi đi qua cây cầu treo, chúng tôi chia đều đội hình để quay cho đẹp. Khoảng cách cố gắng đi cho đều để trên cầu lúc nào cũng 6 người, nhưng mà như vậy rất là khó, tại vì rất là chậm, tiết tấu chậm quá, “108 Anh Hùng Lương Sơn Bạc” đi qua cây cầu, mà mỗi lần qua có 6 người, biết bao lâu mới hết, cho nên đạo diễn ra lịnh qua loa phóng thanh là phải đi thật nhanh, lúc đó trên 20 chục người trên cây cầu treo.
Người cuối cùng đi qua cây cầu, mới kể cho chúng tôi rằng, họ thấy còn hai ba người đang ngồi lố nhố đằng xa để coi, hai ba bóng đen ngồi đằng xa để mà coi.
Lúc đó, đoàn phim nghĩ rằng là những anh em thiết kế qua bên đó để mà lo về đuốc, mỗi một người nghệ sĩ đều cầm cây đuốc qua cầu. Khi nghe người cuối cùng qua nói là còn mấy người ở bên đó, đừng có tắt máy đèn, phải để máy đèn họ mới thấy đường để đi qua, lúc đó dưới thác tối thui, chúng tôi mới gọi loa, nhưng không có nghe ai trả lời hết.
Chúng tôi mới kiểm tra đoàn phim, nghệ sĩ đầy đủ và tất cả những chuyên viên kỹ thuật đầy đủ người. Chúng tôi kêu gọi khoảng 15 phút, mà không có một tiếng động nào xảy ra hết hầu như im bặt.
Người mà phát hiện thấy mấy cái bóng đen đó, lúc đó mặt mày không còn một chút máu nào hết, từ lúc đó cho tới khi về đến khách sạn, rồi qua tới ngày hôm sau người đó chưa hoàn hồn.
Họ nói là chính mắt họ thấy lố nhố ba bốn bóng đen ngồi đó, tại vì họ là người đi sau cùng, mà qua ánh đuốc họ giơ lên là họ thấy có bóng đen ở đó.
Những điều đó trùng hợp với tất cả những người địa phương đã kể là, khi màn đêm màn sương buông xuống, có rất là nhiều bóng đen ở trong thác xuất hiện, những bóng đen lởn vởn là những thế giới vô hình. Nhiều người đã chứng kiến chuyện đó.
VW: Thưa anh, những chuyện đường rừng của nhà văn Thế Lữ cho thấy những oan hồn, thần rừng, ma, mà đoàn làm phim Thủy Hử lần này gặp phải. Xin anh cho biết rằng sự khó khăn để mà đoàn làm phim vượt qua, anh có tin về vấn đề tâm linh không?
TG: Tôi chắc chắn phải tin rồi. Tôi có niềm tin mãnh liệt. Chúng tôi tin tưởng và tôn trọng những người khuất mặt khuất mày, chắc chắn là họ sẽ tôn trọng chúng tôi, mà điều đó là họ đang phù hộ chúng tôi.
Chúng tôi cảm thấy tin tưởng mãnh liệt vào thế giới vô hình. Chúng tôi không quản ngại thời tiết khó khăn, tới 10 giờ rưỡi mà vẫn còn quay ở dưới thác Hang Cọp, trong khi rắn và những hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy mà chúng tôi vẫn làm.
Nguyễn Văn
Đây là chuyện có thật 100%.
Vào một ngày nọ tôi đi săn cả ngày trên những ngọn đồi cô quạnh nằm ở miền bắc nước Anh, nhưng không thành công mấy. Một ngọn gió đông tháng mười hai thổi đến, thế là tuyết bắt đầu rụng từ bầu trời xám xịt. Trời tối dần đi thế là tôi lạc đường. Tôi nhìn chung quanh không có dấu hiệu của sự sống.
“ Oh, Mình phải tiếp tục đi có lẽ sẽ tìm thấy ai đó ngay thôi “
Tôi vắt súng lên vai rồi cứ đi mãi.
Tuyết rụng như mít rụng lạnh cóng lên, màn đêm sập xuống nhanh như thổi. Tôi bắt đầu “ phê ” và đói cồn cào vì tôi không có gì bỏ bụng từ sáng đến giờ. Tôi nghĩ đến bà vợ trẻ đẹp của tôi, đang ở trong một khách sạn làng quê chờ tôi.
“ Nàng sẽ lo lắng cho mình, mình đã hứa với nàng là sẽ về nhà trước tối ước gì có thể giữ được lời hứa đó “
Tôi và nàng mới cưới được bốn tháng chúng tôi yêu nhau và thật hạnh phúc bên nhau.
Tuyết vẫn rơi trời càng đen kịt. Cứ bước vài bước là tôi lại dừng để gào lên “ cứu tôi với ” nhưng âm thanh duy nhất ở cái nơi cô quạnh này chỉ là tiếng gió rít lên từng hồi thật ảm đạm. Tôi bắt đầu sợ hãi.
Tôi đã từng nhiều truyện kể về những người thợ săn lạc lối trong tuyết, họ chỉ đi mãi như vậy, cho đến khi kiệt sức và gục xuống tuyết, họ ngủ rồi không bao giờ thức dậy nữa. Tôi tự nhủ :
“ Điều đó sẽ không phải xảy đến cho mình, mình không thể chết, trong lúc đang tràn trề sức sống như vầy, đẹp trai con nhà giàu.. “
Tôi cố gắng quên đi nỗi sợ hãi. Tôi rống to hơn “ cứu tôi với ” rồi lắng nghe tiếng trả lời. A, ngoài tiếng gió gào thét ra, tôi nghĩ rằng tôi có nghe một tiếng gì đó ở xa xa. Tôi gào lên lần nữa rồi lại tưởng tượng mình có nghe một tiếng trả lời.
Và… xa xa trong màn đêm, xuất hiện một đốm sáng trắng nó từ từ đến gần hơn và sáng hơn. Tôi vắt giò lên cổ chạy thẳng ngay đến đó, rồi trông thấy một ông già cầm cái đèn bão.
- Cám ơn Chúa !
Tôi hét, thật sự tôi vô cùng sung sướng khi thấy ông ta. Ông ấy có vẻ không vui khi gặp tôi, ông nhấc đèn bão trong tay lên nhìn trừng trừng vào tôi :
- Anh cám ơn Chúa vì cái gì ?
- Ồ, tôi cám ơn Chúa vì ông đấy, tôi e là tôi đã bị lạc.
- Thế anh cố gắng lết đi đâu vậy ?
- Dwolding, thị trấn đó cách đây mấy dặm ?
- Hai mươi dặm, vậy là anh đã bị lạc đường.
- Thế làng gần đây nhất cách đây mấy dặm ?
- Làng gần đây nhất là làng Wyke, cách đây mười hai dặm.
Tôi hỏi :
- Ông sống ở đâu ?
Ông ta nói :
- Đằng kia.
Rồi chĩa cây đèn bão ra. Tôi mới hỏi:
- Ông về nhà hả ?
Ổng trả lời:
- Chắc vậy.
Tôi nói:
- Làm ơn dắt tôi về với ông nhé !
Ông già lắc đầu.
- Không được, ông ấy sẽ không để cậu vào nhà đâu.
- Ồ, cháu cá là ông ấy sẽ cho mà. À mà " ông ấy " là ai vậy ? Tôi hỏi.
- Ông chủ tôi.
- Ông chủ ông là ai ?
- Không phải việc của anh. Ông già thô lỗ đáp lại
- Hừm, ông hãy dẫn tôi đến gặp lão chủ của ông. Tui cá là ổng sẽ cho tui chỗ ngủ và bữa ăn tối.
- Hừ, ta không nghĩ vậy đâu, nhưng anh cứ việc xin ông ấy đi.
Ông già lắc đầu lần nữa rồi bước đi. Tôi bám theo ánh đèn bão băng qua tuyết dầy đặc. Đi được một lúc nữa, khá lâu sau đó..
Bất thình lình tôi trông thấy một hình thù to lớn trong đêm tối, một con chó khổng lồ phóng lại đến bên tôi nó sủa um sùm.
- Thôi nào King. Ông già quát lên.
Trước mặt tôi hiện ra một toà nhà mờ mờ ảo ảo.
- Ngôi nhà ông đây hả ? Tôi hỏi.
- Ừ.. thôi nào King !
Rồi ông già móc chìa khoá ra. Ngôi nhà có một cánh cửa thật là to lớn, giống như cửa nhà tù vậy. Lão già tra chìa vào ổ khoá, mở cửa vào bước vào nhà. Tôi nhanh chóng bám sát ông ta. Tôi nhìn quanh bốn bức tường to lớn, một tiếng chuông vang lên.
- Phòng ông chủ tôi ở đằng kia kìa.
Ông già chỉ tay vào một cánh cửa thấp màu đen. Tôi liền bước đến và gõ cửa thật to. Sau đó tôi bước ngay vào căn phòng mà không đợi mời.
Có một người đàn ông tóc bạc đang ngồi trên bàn đầy giấy tờ sách vở. Ông ta đứng lên và nhìn tôi chằm chặp và hỏi :
- Anh là ai ? Làm sao anh vào đây được ? Và anh muốn gì ?
- Tên tôi là James Murray tôi là bác sĩ. Tôi đã đi băng qua đồi tuyết và đến đây. Tôi cần thức ăn thức uống và chỗ ngủ. tôi nói.
- Đây đâu phải là khách sạn ?
Rồi ông quay qua lão già
- Jacop, tại sao ông dẫn người lạ mặt này vào nhà tôi ?
- Tôi đâu có dẫn hắn vô đây. Lão già la lớn:
- Hắn bám theo tôi về nhà, tôi không thể ngăn hắn được, hắn bự con hơn tôi mà.
Sau đó ông chủ quay sang tôi rồi hỏi:
- Và tại sao ông lại vào đây thưa ông ?
- Để khỏi phải chết. Tôi trả lời.
- Để khỏi chết à ?
- Tuyết dày lắm, nó sâu đến nổi có thể chôn vùi tôi trước khi trời sáng mất.
Đoạn ông ta đi thẳng ra cửa sổ và nhìn ra ngoài trời đang đổ tuyết. Cuối cùng ông nói:
- Quả thật là tuyết quá dày..ok ông có thể ở lại đây tới sáng mai nếu ông muốn. Jacob mang bửa tối lên đây. Xin mời ông ngồi.
Ông ấy lại ngồi xuống và bắt đầu đọc sách. Tôi đặt súng vào một góc phòng. Sau đó tôi ngồi xuống cạnh đống lửa và nhìn xung quanh. Căn phòng này nhỏ bé hơn đại sảnh ở bên ngoài, nhưng có nhiều thứ trông bất bình thường và thú vị lắm: sách vở thì đầy trên bàn ghế, bản đồ giấy tờ vất đầy ra sàn nhà.
“ Căn phòng tuyệt thật “ Tôi tự nhủ
“ Một nơi ở thật kỳ lạ, căn nhà nằm giữa ngọn đồi tối tăm “
Tôi nhìn ngắm khắp phòng và sau đó quay sang người đàn ông ấy. Tôi tự hỏi.
“ Ông ta là ai nhĩ ? Ông ta làm nghề gì ? Ông ta có một cái đầu to, được bao phủ bởi một lớp tóc bạc thưa thớt. Bộ mặt ông ta thật nghiêm nghị, thông minh và mạnh mẽ. Trên trán ông có vài nếp nhăn và những nếp nhăn ấy cũng tập trung vòng quanh đôi môi buồn tẻ của ông "
Jacob mang thức ăn ra, ông chủ bèn gấp sách lại và mời tôi lên bàn ăn. Trên bàn có một đĩa thịt, trứng bánh mì và cà phê. Ông nói:
- Tôi hy vọng rằng anh đang đói, tôi chẳng có gì ngon để phục vụ anh.
Nhưng lúc đó miệng tôi đang ngốn đầy bánh mì và thịt, tôi cũng ráng nói một cách đầy biết ơn:
- Ngon lắm xin cám ơn ông thật nhiều.
- Có gì đâu.
Ông lễ độ nói nhưng lời nói đó thật là lạnh lùng. Phần ăn của ông ấy tôi thấy chỉ có bánh mì và sữa. Chúng tôi ăn mà không nói một lời, ông ấy có vẻ buồn. Tôi thử tưởng tượng xem tại sao ông ấy lại sống một cuộc đời âm thầm đơn độc tại một nơi như thế này.
Khi dùng xong bữa tối, Jacop dọn dẹp chén đĩa đi. Ông chủ thì đứng dậy tiến ra ngoài cửa sổ. Ông nói :
- Tuyết đã ngừng rơi.
- Hết tuyết rồi à ? Tôi gào lên:
- Có lẽ tôi sẽ phải… ờ mà thôi, làm sao có thể cuốc bộ hai mươi dặm về nhà đêm nay được.
- Cuốc bộ hai mươi dặm hả ? ông ấy ngạc nhiên hỏi :
- Ý anh nói gì ?
- Vợ tôi đang đợi ở nhà. Tôi nói:
- Cô ấy không biết tôi đang ở đâu, chắc là cô ấy sẽ lo lắng lắm.
- Cô ấy ở đâu ?
- Dwolding, cách đây hai mươi dặm.
- Dwolding. Ông ta chậm rãi nói:
- Ừ đúng nó cách đây hai mươi dặm. Nhưng anh phải về đó ngay sao ?
- Ừ. Tôi trả lời:
- Cô ấy sẽ tuyệt vọng lo lắng, tôi phải làm bất cứ cái gì để trở về bên cô ấy.
- Umm.. Ông ta nói sau một lúc do dự:
- Có một chuyến xe ngựa đi dọc theo một con đường cũ vào mỗi đêm, và nó luôn dừng lại ở Dwolding.
Ông ấy nhìn lên đồng hồ và nói:
- Một giờ mười lăm phút nữa, xe ngựa sẽ dừng ở trạm cách đây chừng năm dặm. Jacop sẽ đi với anh và chỉ cho anh con đường dẫn đến trạm. Đến lúc đó anh có thể tự mình đi đến trạm được không ?
- Dễ mà cám ơn ông.
Ông ta mĩm cười rồi rung chuông, ông ra lệnh cho Jacop và quay sang tôi:
- Anh phải nhanh lên nếu anh muốn kịp thời đón được xe.
Tôi rối rít cám ơn ông ấy, tôi còn muốn bắt tay ông ta nhưng ông đã vội vàng quay đi khỏi. Sau đó Jacob và tôi đi ra ngoài những ngọn đồi phủ tuyết cô quạnh. Mặc dù gió thổi nhẹ hơn nhưng trời vẫn rất lạnh. Bầu trời không có sao, tiếng động duy nhất trên chốn hoang vu này là tiếng từng bước chân lê trên tuyết.
Jacob không nói một lời lão ta lẵng lặng đi trước tôi, tay cầm ngọn đèn bão. Tôi lẽo đẽo theo sau với cây súng trên tay. Tôi cũng im lặng bởi vì tôi đang nghĩ về ông chủ già ấy, giọng nói của ông vẫn văng vẳng quanh tai… Tôi vẫn nhớ rõ từng lời nói của ông ấy cho đến tận bây giờ.
Bất thình lình Jacob dừng chân và chỉ tay ra xa.
- Con đường ấy đấy, cứ đi dọc theo bức tường đá ở bên tay phải là khỏi bị lạc.
- Con đường xe ngựa đi đó sao ?
- Ừ !
- Cháu đang cách trạm xe bao xa ?
- Khoảng ba dặm, cứ đi men theo con đường là không bị lạc đâu.
Lão ấy bỗng dưng trở nên thân thiện tốt bụng hơn.
- Đây là một con đường dễ đi đối với những người đi bộ, nhưng nó rất hẹp và dốc đối với xe ngựa. Cậu hãy cẩn thận, bức tường đá bị vỡ gần trạm, nó vẫn chưa được sửa lại sau tai nạn.
- Tai nạn gì ạ ?
- Chiếc xe ngựa bị trượt ra khỏi con đường và rơi xuống dưới bờ vực thẳm của thung lũng sâu trên năm mươi bộ đấy. Phần xấu nhất của con đường là ở chỗ đó.
- Thật kinh khủng. Tôi gào lên:
- Thế có bao nhiêu người đã chết ?
- Tất cả. Bốn hành khách đều chết tại chỗ, người xà ích chết vào sáng hôm sau.
- Tai nạn đó xảy ra bao lâu rồi ?
- Hai Mươi năm rồi. Ông chủ của tôi tan vỡ kể từ ngày ấy, đứa con trai độc nhất của ông chủ là một trong bốn người hành khách đó. Đó là lý do tại sao ông chủ lại ẩn mình vào chốn hoang vu này.
- Bức tường bị vỡ gần trạm ? Cám ơn ông cháu sẽ nhớ điều đó. Chúc ông ngủ ngon.
Tôi đưa một bảng Anh cho lão ta. Lão nói:
- Chúc một buổi tối tốt lành và cám ơn cậu.
Sau đó ông ta quay lưng đi thẳng. Tôi nhìn theo ánh đèn bão mập mờ cho đến khi nó mờ dần rồi khuất hẳn. Sau đó tôi bắt đầu đi dọc men theo con đường mòn. Điều này không khó, mặc dù trời tối, tôi vẫn có thể thấy được bức tường đá dài bên bờ con đường.
- Mình an toàn rồi.
Tôi tự nhủ nhưng tôi cảm thấy cô độc và hơi sợ. Tôi cố gắng quên đi nỗi cô đơn và sự sợ hãi, tôi vừa đi vừa hát và huýt gió. Tôi nghĩ về vợ tôi thế là tôi cảm thấy tốt hơn một chút.
Nhưng ban đêm trên đồi trời thật lạnh, mặc dù tôi bước nhanh nhưng vẫn không thể nào ấm hơn. Tay chân tôi đông cứng lại. Ngực tôi lạnh cóng lên và cảm thấy khó thở, cây súng sao mà nặng gớm, tôi mệt mỏi đờ đẫn người ra. Phải nghĩ chân một lát thôi.
Một lúc sau tôi trông thấy một quầng sáng đằng xa xa, giống như ánh đèn bão. Thoạt đầu tôi nghĩ rằng Jacob quay lại để xem tôi sống chết ra sao. Nhưng sau đó tôi trông thấy một ánh đèn thứ hai bên cạnh cái đầu. Tôi nhận ra đó chính là hai tia đèn của một chiếc xe ngựa.
“ Nhưng kỳ lạ chưa “. Tôi nghĩ
“ Con đường mòn nguy hiểm này, Jacob đã nói không ai dám sử dụng nó từ khi tai nạn khủng khiếp ấy xảy ra “. Nhưng tôi lại nghĩ
" Hay là mình đã đi qua trạm xe trong đêm tối. Chiếc xe này đi thẳng đến Dwolding chăng ? “
Trong lúc ấy chiếc xe ngựa đi dọc theo con đường, nó đi thật nhanh, thật êm trên con đường phủ tuyết. Tôi trông thấy hình dạng to lớn của chiếc xe, có một xà ích ngồi ở trên đỉnh, và bốn con ngựa xám khỏe mạnh.
Tôi nhảy ra đằng trước la lớn và vẫy tay. Chiếc xe ngựa đi xẹt ngang qua tôi, tôi cứ nghĩ thôi rồi nó không dừng lại. Thế nhưng nó đã dừng.
Người xà ích không buồn nhìn tôi, còn người bảo vệ thì có vẻ đờ đẫn gì đó… Tất cả đều im lặng. Tôi chạy đến bên xe, không ai giúp tôi tự tôi phải mở cửa xe bằng bàn tay lạnh cứng.
“ Trống trơn “. Tôi nghĩ.
Nhưng trong xe có ba hành khách. Không ai trong số họ buồn nhìn tôi họ không hề nhúc nhích. Họ trông có vẻ lờ đờ. Tôi vào trong xe và ngồi xuống. Bên trong xe ngựa còn lạnh lẽo hơn bên ngoài trời nhiều. Xe bắt đầu chuyển bánh. Không khí trong xe có mùi gì đó rất nặng, ẩm ướt chết chóc thế nào ấy.
Tôi quay đầu nhìn những hành khách xung quanh tôi và cố gợi chuyện để nói.
- Đêm nay trời lạnh quá.
Tôi lịch sự nói với người ngồi đối diện tôi. Anh ta từ từ quay đầu lại nhưng không trả lời.
- Tôi nghĩ mùa đông thực sự đến rồi.
Tôi tiếp tục huyên thuyên. Người hành khách ngồi ở một góc tối trong xe mà tôi không thấy mặt, nhưng tôi trông thấy đôi mắt anh ta đang nhìn thẳng vào tôi, nhưng vẫn tuyệt nhiên không nói một lời.
“ Tại sao anh ta không trả lời mình nhỉ ? “ Tôi nghĩ.
Nhưng tôi thực sự chưa cảm thấy bực bội. Tôi đã quá mệt mỏi và lạnh cóng, cái mùi ẩm ướt chết chóc trong xe làm tôi muốn buồn nôn. Tôi lạnh rung lên tôi nói với người hành khách ngồi bên trái tôi :
“ Tôi được phép đóng cửa sổ chứ ? “
Anh ta không nói gì cả cũng chẳng nhúc nhích. Tôi hỏi lại lớn tiếng hơn, nhưng anh ta vẫn không trả lời. Sau đó tôi đã hết kiên nhẫn. Tôi cố gắng đóng cánh cửa sổ thì thấy khung kính bám đầy bụi bẩn.
“ Trời ơi, họ không lau chùi cửa kính chắc mấy chục năm rồi “. Tôi tự nhủ.
Tôi nhìn quanh và bất thần tôi hiểu ra lý do tại sao trong xe có cái mùi kinh khiếp ấy. Mọi thứ đều dơ bẩn cũ kỹ và ẩm ướt. Sàn gỗ dưới chân tôi đều vỡ ra từng mảng. Tôi quay sang người hành khách thứ ba và nói :
- Cái xe này sắp vỡ vụn ra rồi, chắc là công ty xe muốn sử dụng xe này thay thế cho xe chính đang sửa chữa.
Anh ta từ từ quay đầu lại… và vẫn cứ im lặng nhìn tôi. Cái nhìn đó… tôi sẽ không bao giờ quên. Đôi mắt hắn ta sáng lên một thứ ánh sáng hoang dã bất thường, sắc mặt anh ta trắng xanh.
“ Giống như người chết vậy “ . Tôi tự nhủ.
Sau đó tôi thấy đôi môi tái nhợt của hắn ta từ từ mở ra, để lộ hàm răng to lớn… Tôi sợ hãi run lên cầm cập.
Sau đó tôi nhìn qua người hành khách ngồi đối diện tôi, hắn ta cũng đang trừng mắt nhìn tôi. Gương mặt hắn trắng bệt tái nhợt, còn đôi mắt hắn lóe lên thứ ánh sáng kỳ quái.
Tôi lại nhìn sang người ngồi bên trái tôi. Tôi thấy… ồ làm sao tôi có thể mô tả được đây… Tôi thấy bộ mặt của một xác chết. Tất cả ba người hành khách này đều là những người đã chết.
Gương mặt họ xanh rợn người, mái tóc lưa thưa của họ bốc mùi ẩm ướt, những bộ quần áo họ mặt đều tỏa mùi đất ! Chỉ có những đôi mắt của họ là như đang sống. Và tất cả bọn họ đều đang nhìn chằm chặp vào tôi.
Quá kinh sợ tôi thét lớn… tôi phải rời khỏi đây ngay lập tức. Tôi dùng thân mình tống mạnh vào cánh cửa, và cố sức mở nó ra trong tuyệt vọng.
Ngay lúc đó mặt trăng ló dạng khỏi đám mây mù. Ánh sáng lấp loáng của nó làm tôi chợt nhìn thấy rõ mọi thứ. Tôi thấy bảng chỉ dẫn dọc theo con đường giống như một dấu hiệu cảnh báo.
Tôi thấy bức tường bị vỡ ngay bờ thềm con đường. Tôi nghe bầy ngựa sợ hãi hý vang lao trượt xuống bờ dốc đá. Tôi thấy thung lũng sâu năm mươi bộ bên dưới…
Toàn bộ xe rung chuyển dữ dội giống như một con tàu trên biển gặp bão. Một tiếng thét kinh khủng, một tiếng ngựa hý vang trời. Kế đó là tiếng vỡ vụng của chiếc xe, một cảm giác đau đớn khủng khiếp và sau đó là bóng tối bao trùm …
… Một thời gian sau tôi tỉnh dậy, vợ tôi ở ngay bên tôi. Tôi hỏi :
- Chuyện gì… chuyện gì đã xảy ra ?
- Anh đã bị té.. Cô ấy nói:
- Bức tường bị vỡ ở bờ thềm của con đường, và anh rơi xuống vực thẳm thung lũng sâu năm mươi bộ, nhưng anh đã gặp may, có nhiều tuyết dày đặc ở đáy thung lũng thế là anh thoát chết.
- Anh không còn nhớ gì cả, làm sao anh đến đây được ?
- Có hai người nông dân đi tìm cừu lạc vào buổi sáng. Họ đã tìm thấy anh trên tuyết và mang anh về nơi trú ẩn gần nhất. Họ đã gọi bác sĩ lúc đó anh yếu lắm, tay gãy và đầu chấn thương rất nặng. Anh đã không hề hay biết gì cả. Vị bác sĩ lục tìm trong túi anh tên và địa chỉ. Thế là em đã săn sóc cho anh từ lúc ấy. Anh không phải lo lắng gì cả, anh cần tập trung nghĩ ngơi và bồi dưỡng sức khỏe.
Tôi còn trẻ khỏe và đã sớm thoát khỏi hiểm nguy. Nhưng tôi luôn nghĩ về tai nạn đó. Tôi không bao giờ kể cho vợ tôi nghe về chuyện này. Tôi đã kể với ông bác sĩ, nhưng ông ta nói rằng tất cả những chuyện phiêu lưu ấy chỉ là ảo tưởng, là kết quả của sự mệt mõi, của cú chạm mạch ở đầu. Tôi cố nói cho ông ta hiểu, nhưng ông ta không nghe.
Điều này không làm tôi giận dữ, chuyện ông ta tin hay không thật sự không thành vấn đề. Nhưng điều mà tôi biết đó là: tôi chính là một hành khách trong chuyến xe ngựa ma hai mươi năm về trước.
ST
ĐOÀN QUAY PHIM "108 ANH HÙNG LƯƠNG SƠN BẠC"
Theo Chân Đoàn Làm Phim "108 Anh hùng Lương Sơn Bạc" theo lời kể của anh Tống Giang, giám đốc sản xuất của Trung tâm nói về những hiện tượng tâm linh xảy ra cho đoàn làm phim trong lúc thực hiện cuốn DVD này. Câu chuyện có thật 100% sẽ là một kinh nghiệm quý cho những ai tin tưởng vào sự phò trợ của thế giới thứ ba.
VW: Thưa anh Tống Giang, trong dịp quay hình cho DVD “108 Anh Hùng Lương Sơn Bạc” tại Việt Nam, ở thác Hang Cọp, xin anh kể lại câu chuyện đã xảy ra tại thác “Hang Cọp”?
TG: Khu du lịch thác Hang Cọp ở Đà Lạt, là một cái thác có thể nói là tương đối khá nguy hiểm. Thác này rất là sâu so với mặt đất, cho nên rất ít người biết thác này và sự di chuyển khó khăn. Cho nên khi mà đến thác Hang Cọp, chúng ta thấy sự huyền bí của thác, thiên nhiên huyền bí quá, có cả một cái tượng cọp xây để tưởng niệm ông Ba Mươi, có thể nói là ông Ba Mươi cuối cùng của khu rừng đã bị sát hại.
Từ tượng cọp lớn, chiều dài mười mấy hai mươi mét, đi theo con đường xuống thác Hang Cọp. Theo truyền thuyết khi ông Ba Mươi bị sát hại đã lết về đây, trước khi trút hơi thở cuối cùng, đó là cái hang đó thông ra thác.
Thác nước chảy xiết và rất là trơn trợt nguy hiểm, những du khách đến đây thường bị trợt té và rất là nhiều người đã mang thương tích. Thác Hang Cọp rất là nhỏ, khi quay hình chúng tôi phải cố làm sao để cho đem hết tất cả nghệ sĩ vào hang, để người đạo diễn lấy hình, cho nên rất khó khăn.
Chúng tôi phải xin phép với ban quản lý của khu du lịch để dọp dẹp hang sạch sẽ, đường đi xuống cho rộng rãi, để đạo diễn lấy được những hình ảnh đẹp từ thác Hang Cọp.
Khi chúng tôi di chuyển từ trên xuống, thời tiết rất là ấm, Đà Lạt sương mù nhiều mà ít nắng, xuống sâu quá, thác rồi nước, đoàn phim gặp rất nhiều trở ngại, rất là khó hiểu, giống như là máy đang chạy tự dưng bị đứng không chạy nữa mà không phải do hết pin, kiểm tra lại pin vẫn còn, battery vẫn còn đầy đủ, mà không biết tại sao tự nhiên máy lại đứng, cứ quay khoảng chừng độ mươi, mười lăm phút, máy lại đứng, đó là lý do không thể nào hiểu nổi.
Có lời giải thích từ đạo diễn rằng, có thể là do áp suất nhiệt đới quá thấp, điều kiện thời tiết lúc đó làm ảnh hưởng ống kính, đột ngột thời tiết lạnh quá nên ống kính bị đứng hình, đó là những lời giải thích từ đạo diễn.
Tuy nhiên anh em trong đoàn phim thấy nhiều sự hoang mang lắm. Những điều nghe được từ những du khách, cũng như những người dân địa phương, cho hay là thác rất thiêng.
Rất nhiều người cảnh báo chúng tôi là không nên ở lại khi mà mặt trời đã lặn, khi trời về đêm, ở đây có những chuyện huyền bí xảy ra và rất là nhiều những người đã từng gặp những thế giới vô hình ở trong Hang Cọp.
Sau khi tìm hiểu chúng tôi được cô quản lý cho hay rằng, trước đây có những đoàn cải lương đến quay hình những tuồng giả sử, họ gặp rất nhiều những sự cố mà họ không chịu nói ra, cho nên khuyên chúng tôi nên thu xếp quay càng sớm càng tốt để về.
Chúng tôi cũng cố gắng lắm nhưng không về được, tại vì công việc quay rất là nhiều những phân đoạn. Lúc đó khoảng 7 giờ trời đã tối rồi, đoàn phim đang chuẩn bị quay, bỗng có một tiếng la của một anh trong đoàn phim, chúng tôi hỏi chuyện gì xảy ra, anh nói là cứu người.
Có người tự nhiên đi thẳng xuống thác. Thác thẳng đứng mà rất là trơn, chúng tôi mới pha đèn xuống, tập trung đèn quay phim để xuống tìm người đó, xuống tới thác không thấy ai hết.
Anh vừa là cứu người mặt mày tái mét, nói là rõ ràng thấy một người đi cà khiêng, lướt qua trước mặt ảnh và đi thẳng xuống thác, anh ta nghĩ là một người trong đoàn phim bị say rượu, nhưng mà tìm không thấy người đó.
Lúc đó khoảng 7 giờ hơn trời sập tối, trời tối rất là sớm, nhá nhem chỉ nhìn thấy mờ mờ thôi, đèn đã lên để chuẩn bị quay, ai cũng sợ, anh em lo sợ thế giới vô hình, tại vì đã nghe nói thác Hang Cọp thiêng lắm, một số cứ xầm xì, bóng đêm đã bao phủ hết thác Hang Cọp, không khí huyền bí lắm, chỉ có tiếng nước chảy đổ xuống ào áo và tiếng gió vi vu.
Đà Lạt lạnh như cắt, mà gặp những hiện tượng như thế nên đoàn phim rất là hoang mang, nhưng vì DVD “108 Anh Hùng Lương Sơn Bạc”, chúng tôi động viên, năn nỉ tất cả các anh chị em nghệ sĩ, trấn an mọi người.
Một người nhìn ra sự việc là nghệ sĩ Hoài Linh, một người đã lên đồng, rất là tin tưởng chuyện huyền bí, đến nói nhỏ với chúng tôi, nói là sẽ đại diện cho tất cả anh em, xin phép khấn vái.
Lúc đó Hoài Linh đến người quản lý xin nhang, Hoài Linh mới đưa chúng tôi đến ngay thác Hang Cọp, khoảng 8 giờ tối, chúng tôi quỳ xuống để khấn vái đốt nắm nhang cắm vào lư hương và vái tất cả những thần linh, thần cọp ở đó và tất cả những vong linh, những kẻ khuất mặt, khuất mày ở đó, nếu có linh thiêng hãy phù hộ cho DVD “108 Anh Hùng Lương Sơn Bạc” được quay xong đêm nay.
Chúng tôi biết ơn biết nơi đây là chỗ thiêng linh, mà chúng tôi quấy phá đêm hôm, chúng tôi có lỗi, nhưng mà vì quay phim dở dang mà phải đi về, ngày mai trở lại quay nữa, cực khổ quá cho nên thông cảm giùm.
Xong rồi tự nhiên anh em tin tưởng, Hoài Linh trấn an tất cả đoàn phim là đã xin phép và đã được thần linh cho phép quay rồi. Sau đó anh em hồ hởi bắt đầu tiến hành quay trời lại mưa lâm râm.
Lúc đầu khi chúng tôi xuống thác, rất nhiều người thấy hiện tượng là có rất là nhiều rắn, nhưng mà chúng tôi không dám nói ra, rất là nhiều anh em thấy rắn ai cũng sợ, nhưng mà cũng nghĩ là không sao hết.
Chúng tôi cố tình xua đuổi hết đi và dọn dẹp sạch sẽ để cho có chỗ để anh em nghệ sĩ đứng cách Hang Cọp, khoảng chừng chu vi độ 4 thước vuông thôi mà chứa mấy chục người, đứng xúm xít vô đó trật chân là ra ngoài.
Trời mưa trơn trợt, thác nước chảy cuốn trên đá trợt té liền. Điều khó khăn là đặt máy để quay được Hang Cọp, đặt máy dưới thác các anh em rất là cực khổ phải vịn máy, giữ máy cho thăng bằng để quay được những hình ảnh trong một cái hang rất là hẹp, bé thời tiết lạnh lẽo, trong không khí huyền bí như vậy. Chúng tôi tạo tuyết rơi nữa. Một số anh em kỹ thuật ở trên đã leo lên những cành cây cao làm tuyết rơi, tuyết giả.
Khi trên xe về lại khách sạn, một anh mới kể chuyện là, trong lúc đang leo trên cây tự nhiên gió thổi đến, anh thấy có cái gì bay bay ở trên đầu, anh tưởng là giông gió tới, anh nhìn lên thấy là cây khô hoàn toàn, trụi lủi là tại vì họ làm sạch sẽ cây đó, không để cho lá rơi xuống thác Hang Cọp làm ô nhiễm tượng cọp, cho nên cây đó là một cây khô, họ đã cố tình làm cho cây đó chết đi, để làm cho cây ở trong núi mọc ra gốc cây thôi, như cây Bonsai vậy đó, cho nên cây đó hoàn toàn không có một cái lá nào hết.
Nhưng mà tại sao, anh này nghe gió thổi phần phật, nhìn lên thấy cây khô cho nên anh rất là sợ, anh biết là có những điềm bất thường xảy ra, đạo diễn chưa quay tuyết chưa rơi, anh ta không dám bỏ xuống, khi quay xong rồi anh ta cứ ngồi ở trên đó vái hoài.
Còn một sự việc khá ly kỳ nữa, đó là khi đoàn phim đi qua cây cầu treo, trên bảng có đề rõ ràng là tối đa chỉ được 6 người mà thôi, để cho tránh tình trạng qua nhiều. Những người địa phương và ban quản lý cho chúng tôi biết là, cây cầu treo này được làm bằng sắt, làm dã chiến bằng những cây sắt kết dài lại, rồi họ kết mây rồi kết gỗ, rồi họ làm cây treo qua tháp, cho nên nếu đi đông người, nó sẽ gẫy đứt dây kẽm và sẽ rớt xuống thác, rất là nguy hiểm tại vì thác nước đang chảy mà thác rất là cao.
Khi mà chúng tôi đi qua cây cầu treo, chúng tôi chia đều đội hình để quay cho đẹp. Khoảng cách cố gắng đi cho đều để trên cầu lúc nào cũng 6 người, nhưng mà như vậy rất là khó, tại vì rất là chậm, tiết tấu chậm quá, “108 Anh Hùng Lương Sơn Bạc” đi qua cây cầu, mà mỗi lần qua có 6 người, biết bao lâu mới hết, cho nên đạo diễn ra lịnh qua loa phóng thanh là phải đi thật nhanh, lúc đó trên 20 chục người trên cây cầu treo.
Người cuối cùng đi qua cây cầu, mới kể cho chúng tôi rằng, họ thấy còn hai ba người đang ngồi lố nhố đằng xa để coi, hai ba bóng đen ngồi đằng xa để mà coi.
Lúc đó, đoàn phim nghĩ rằng là những anh em thiết kế qua bên đó để mà lo về đuốc, mỗi một người nghệ sĩ đều cầm cây đuốc qua cầu. Khi nghe người cuối cùng qua nói là còn mấy người ở bên đó, đừng có tắt máy đèn, phải để máy đèn họ mới thấy đường để đi qua, lúc đó dưới thác tối thui, chúng tôi mới gọi loa, nhưng không có nghe ai trả lời hết.
Chúng tôi mới kiểm tra đoàn phim, nghệ sĩ đầy đủ và tất cả những chuyên viên kỹ thuật đầy đủ người. Chúng tôi kêu gọi khoảng 15 phút, mà không có một tiếng động nào xảy ra hết hầu như im bặt.
Người mà phát hiện thấy mấy cái bóng đen đó, lúc đó mặt mày không còn một chút máu nào hết, từ lúc đó cho tới khi về đến khách sạn, rồi qua tới ngày hôm sau người đó chưa hoàn hồn.
Họ nói là chính mắt họ thấy lố nhố ba bốn bóng đen ngồi đó, tại vì họ là người đi sau cùng, mà qua ánh đuốc họ giơ lên là họ thấy có bóng đen ở đó.
Những điều đó trùng hợp với tất cả những người địa phương đã kể là, khi màn đêm màn sương buông xuống, có rất là nhiều bóng đen ở trong thác xuất hiện, những bóng đen lởn vởn là những thế giới vô hình. Nhiều người đã chứng kiến chuyện đó.
VW: Thưa anh, những chuyện đường rừng của nhà văn Thế Lữ cho thấy những oan hồn, thần rừng, ma, mà đoàn làm phim Thủy Hử lần này gặp phải. Xin anh cho biết rằng sự khó khăn để mà đoàn làm phim vượt qua, anh có tin về vấn đề tâm linh không?
TG: Tôi chắc chắn phải tin rồi. Tôi có niềm tin mãnh liệt. Chúng tôi tin tưởng và tôn trọng những người khuất mặt khuất mày, chắc chắn là họ sẽ tôn trọng chúng tôi, mà điều đó là họ đang phù hộ chúng tôi.
Chúng tôi cảm thấy tin tưởng mãnh liệt vào thế giới vô hình. Chúng tôi không quản ngại thời tiết khó khăn, tới 10 giờ rưỡi mà vẫn còn quay ở dưới thác Hang Cọp, trong khi rắn và những hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy mà chúng tôi vẫn làm.
Nguyễn Văn
#93
Gửi vào 19/06/2011 - 08:27
THẦY TÀO VÀ CÂU CHUYỆN THẦN LINH NGƯỜI TÀY
Trong cuộc sống tinh thần của người Tày, thầy Tào ở đẳng cấp cao nhất. Họ là những người có khả năng liên thông với thế giới linh hồn và thần thánh.
Thầy Tào có rất nhiều công việc, nhưng công việc quan trọng bậc nhất, đưa linh hồn người chết về nơi yên nghỉ. Từ những nghi lễ của hình thức, chúng ta sẽ tìm thấy những ý nghĩa sâu xa hơn của thầy Tào.
Họ cho rằng, linh hồn của con người tồn tại như ý nghĩ. Nếu ý nghĩ của bạn chân thành, trong sáng… khi chết đi, linh hồn bạn sẽ rực rỡ ánh hào quan, bay lượn ở tầng cao nhất của thế giới thần linh.
Còn khi sống bạn có ý nghĩ xấu xa, cũng có nghĩa linh hồn bạn nặng nề, đen tối và bị chìm xuống tầng thấp nhất của thế giới linh hồn. Và cái thế giới tối tăm đó rất gần với thế giới vật chất của con người vì thế nó luôn đau đớn...
Ông nội tôi là thầy Tào nên từ bé tôi đã quen với cảnh cúng bái, bùa chú, làm phép… Và trong bản mệnh tôi cũng có duyên với cái nghề đặc biệt ấy, thế nên tôi thường được đi theo ông mình trong những buổi hành lễ. Nhiệm vụ của tôi rất đơn giản: gõ não bạt.
Đó là hai lá đồng có hình như cái đĩa, chúng phát ra tiếng kêu khá dày và ngân dài theo từng nhát gõ. Ngày đó tôi mới chỉ là đứa trẻ nên chưa hiểu lắm về nghề thầy Tào. Tôi chỉ thấy ông tôi được người trong vùng kính trọng, họ luôn cúi chào mỗi khi nhìn thấy ông tôi.
Hằng đêm, tôi thường được ngủ với ông và nghe những bài giảng về pháp thuật của thầy Tào. Đó là những câu chuyện liên quan đến linh hồn người chết. Ông tôi bảo, muốn trở thành thầy Tào cần học khoảng 12 năm, đọc thuộc mười vạn bài cúng, viết được mười vạn lá bùa…
Nói chung rất trường kỳ chỉ có những người kiên nhẫn và có duyên mới theo được. Trong họ Hoàng nhà mình, nếu tính tướng số, chỉ cháu có duyên với nghề này, ông tôi bảo thế.
Có lần tôi hỏi con ma là cái gì? Ông tôi cười rồi nói, con ma là linh hồn của vạn vật khi chết đi. Vạn vật trên thế giới này đều có linh hồn, khi chết đi linh hồn ấy được gọi là con ma. Và trong vạn vật ấy, linh hồn con người là quan trọng nhất, cũng phức tạp nhất, vì thế mới sinh ra thầy Tào. Hồi đó, tôi chưa hiểu những câu nói đầy ý tứ sâu xa của ông tôi.
Nhưng bây giờ tôi thấy những lời của ông mình thật có lý. Quả đúng thế, linh hồn của một cái cây sẽ rất hiền từ như chính cái cây kia vậy, nó vẫn sẽ rì rào tỏa bóng mát, nở những bông hoa thơm ngát, hát những khúc ca riêng của nó, vẻ đẹp của nó làm sao loài người có được?
Nó đẹp và đơn giản như chính bản thân nó mà thôi! Con ma người, linh hồn người có cái gì liên quan đến nhau? Và tại sao phải xuất hiện thầy Tào chỉ vì sự phức tạp của con người? Tất cả những câu hỏi đó phải cho đến bây giờ tôi mới lờ mờ nhận ra.
Nói cách khác, nếu trên thế giới này không có con người, cũng có nghĩa không còn sự phức tạp và đương nhiên chẳng cần thầy Tào làm gì. Còn trước kia, khi theo ông nội đi hành lễ cho người chết, tôi chỉ nhận được những bài giảng đơn giản của thầy mình.
Ông tôi giảng, khi người mới chết, linh hồn chưa dám thoát ra, nó vẫn chưa tin thân xác đã chết, nó nằm im trong lồng ngực và thỉnh thoảng thử bay ra ngoài. Nhưng bên ngoài cái thế giới của riêng nó thật hãi hùng. Ở đó đã có vô vàn những linh hồn khác đang rình rập. Những linh hồn đó luôn sẵn sàng lao vào cái thân xác mới chết kia để trở lại trần gian.
Tất cả những linh hồn xấu xa đều muốn quay lại trần gian vì sự tiếc nuối cuộc sống trần tục, hoặc còn nhiều việc mà chúng chưa làm xong. Hơn nữa chúng bị đày xuống tầng thấp nhất của thế giới linh hồn, vì thế nặng nề và đau đớn.
Và nhiệm vụ của thầy Tào là đưa những linh hồn yếu ớt ấy rời khỏi thân xác, đến một nơi an toàn. Để làm được việc đó cần có hai nhãn thần nhìn rõ thế giới linh hồn, hát chính xác những bài ca bùa chú… chỉ khi ấy mới đủ sức đưa linh hồn đi đúng hướng, nếu không linh hồn kia sẽ không có cơ hội đầu thai.
Khi tôi tò mò muốn nhìn thấy linh hồn có hình thù như thế nào? Ông tôi cười rồi nói: “… Cứ học đi, đến bao giờ khai mở được nhãn thần sẽ thấy. Linh hồn không có hình thù cụ thể, nó chỉ lờ mờ như một làn khói, nó như ý nghĩ của con người vậy, nghĩ thế nào sẽ có hình thế nấy…”. Rồi ông tôi kết luận, đại loại cũng như đứa trẻ mới sinh ra, cần một bà đỡ, nếu không sẽ rất nguy hiểm.
Những bài học kiểu thế diễn ra hàng đêm, nhưng rất tiếc sau này tôi đã không theo học vì nhiều lý do. Trong đó có sự sai lầm của tôi, khi tiếp xúc với nền văn hóa khác, đó là sai lầm thật đáng tiếc. Nhưng cho đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ như in tất cả những nghi thức và lý giải một cách chi tiết về cách thức đưa linh hồn của người chết về nơi cần đến.
1. Khâm liệm và nhập quan
Người Tày quê tôi, mỗi khi có người chết, nhất thiết họ phải mời thầy Tào đến nhà. Việc đầu tiên là khâm liệm cho người chết. Công việc này cực kỳ quan trọng, nếu để xảy ra sơ xuất sẽ vô cùng khó khăn cho thầy Tào và linh hồn yếu ớt kia.
Người con trưởng trong nhà phải đi cõng nước từ một cái mỏ thật sạch sẽ, sau đó đun sôi cùng lá bưởi. Khi nước đã chuẩn bị xong, thầy Tào bắt đầu làm phép với những bài hát thần bí.
Nội dung của những bài hát đó khuyên nhủ linh hồn đừng nên luyến ái cuộc sống trần tục, hãy đi về với thế giới riêng của mình, cái thân xác này cần được gột rửa và cất kỹ trong áo quan để những linh hồn xấu xa bên ngoài không thể xâm nhập… Thầy Tào cần hát để linh hồn tin rằng, cái thân xác kia đã chết, không còn gì để luyến ái nữa.
Người nhà sẽ phải thay quần áo mới cho người chết, lau rửa sạch sẽ bằng nước là bưởi. Sau đó sửa lại tư thế cho thật ngay ngắn. Đặc biệt miệng phải được ngậm bạc trắng do thầy Tào yểm bùa, nếu không sẽ là nơi rất dễ bị linh hồn xấu xa xâm nhập. Tiếp sau, thầy Tào cần vẽ một bài vị, nó như một cái nôi đón linh hồn của người chết và bảo vệ nó khỏi sự phiền nhiễu của những linh hồn bên ngoài.
Thầy Tào một tay cầm bài vị, tay kia cầm kiếm, miệng niệm thần chú, nhãn thần rực rỡ, tỏa hết hào quang… xua đuổi những con ma xấu đang vật vờ rình rập. Theo sau ba đệ tử: một cầm chiêng, một cầm não bạt, một cầm cờ phướn (cờ hiệu riêng của thầy Tào), theo sau nữa là đám người nhà. Họ không được phép khóc, nếu chưa có lệnh của thầy Tào.
Có lần tôi đã hỏi, tại sao người nhà không được phép khóc, nếu như thầy Tào chưa cho phép? Ông tôi giải thích: tiếng khóc của người nhà có một sức mạnh ghê gớm, nó như một lực hút cực mạnh, càng làm linh hồn tiếc nuối, khi đó linh hồn sẽ không còn nghe theo lời hát của thầy Tào, có những lúc nó bay ra khỏi bài vị muốn trở lại thân xác vì sự luyến ái trần gian.
Và khi ấy tất cả những linh hồn xấu xa bên ngoài sẽ lao vào nó, lợi dụng sự yếu ớt của nó để quay lại thân xác. Nếu thầy Tào không kịp xoay sở, linh hồn yếu ớt ấy có thể tan ra và không bao giờ có cơ hội đầu thai.
Thầy Tào bắt đầu vòng quanh áo quan. Mỗi bước đi là một câu hát, kiếm vung lên đầy uy lực, đám đệ tử cần gõ các nhạc cụ theo đúng nhịp đưa của lưỡi kiếm. Âm thanh lúc này thường chầm chậm, êm ái như một bài ru của người mẹ.
Tiếng não bạt phải thật dài như gió chạy qua hang núi, tiếng chiêng cũng ngân lên thật ấm áp. Âm điệu của bài hát thật chậm rãi, tỉ tê, dỗ dành. Cũng có lúc thật dứt khoát với tiếng thét đầy uy lực, cùng nhát kiếm vung lên sáng ngời .
Tiếng não bạt phải căng ra để thị uy trước đám ma quỷ bay lượn bên ngoài.Sau khi đã vòng áo quan đủ 36 lượt, làm nên một vòng hào quang đủ sức xua đuổi đám ma quỷ quấy nhiễu, thầy Tào dừng lại và ra lệnh cho người nhà được khóc.
Lúc này tiếng khóc lại có sức mạnh thật huyền diệu. Tiếng khóc ấy (tất nhiên phải khóc thực lòng) sẽ như một đám mây êm ái, bao bọc lấy linh hồn yếu ớt kia, nó như một cái áo mềm mại che phủ lên linh hồn.
Và bốn người đàn ông được phép nhấc cái thân xác không còn linh hồn ấy vào trong áo quan. Sau khi đã sửa sang tư thế nằm cho thân xác, người ta phải lấy bốn viên ngói trên mái nhà, kê hai bên đầu thân xác, cấm kỵ việc đầu người chết bị nghiêng.
Hơn nữa người ta rất sợ khi chôn thân xác ấy xuống đất, cùng năm tháng rễ cây có thể ăn sâu vào áo quan, chui vào lỗ tai của người chết, sẽ làm đau đớn linh hồn và ảnh hưởng đến con cháu.
Khi đã hoàn thành việc đưa thân xác vào áo quan, tất cả người nhà phải lùi ra xa, thầy Tào ngậm một bát nước bùa, thổi ba lần lên thân xác kia rồi lệnh đóng nắp áo quan lại.
Và tại sao thầy Tào lại thổi ba lần nước bùa lên thân xác? Đây cũng là điểm quan trọng khi hành nghề thầy Tào. Việc thổi nước bùa ấy không chỉ mang tính hình thức, cũng không hẳn là gột rửa thân xác.
Cái bát nước bùa ấy là cả một bí quyết mà chỉ những thầy Tào có đủ nhãn thần mới tinh luyện được nó. Vì khi thổi bát nước đó lên thân xác người chết, cũng có nghĩa thầy Tào đã đưa một phần linh hồn được gọi là “hen mo” (trông mộ).
Nếu không đưa được một phần linh hồn này vào áo quan cũng có nghĩa cái thân xác kia và cả ngôi mộ sau này không còn ý nghĩa. Linh hồn này được giao nhiệm vụ ở lại thân xác, chăm bẵm ngôi mộ và liên lạc với con cháu thông qua những giấc mơ...
2. Bước qua sông lửa để sinh ra lần nữa
Khi đã nhập quan xong, coi như linh hồn được an toàn. Tuy nhiên, có những người khi mới chết, người nhà không chú ý, hoặc sơ xuất như khóc quá nhiều, nước mắt rơi vào thân xác, để nhiều người đụng chạm, linh hồn phát tán ra ngoài, hoặc mời thầy Tào quá chậm…
Vì thế khi lập bài vị không gom đủ linh hồn. Trường hợp này, thầy Tào cần bước vào giới âm, gom đủ linh hồn người chết. Đây là giai đoạn rất khó khăn, cũng chứng tỏ được đẳng cấp và khả năng pháp thuật của thầy Tào. Việc này thường được gọi là phá ngục.
Đã rất nhiều lần tôi chứng kiến cảnh ông tôi đi phá ngục. Thông thường ông tôi ngồi thiền, mắt nhắm nghiền, khai mở hết nhãn thần để linh hồn thoát ra khỏi thân xác và bước vào giới âm.
Mỗi lần như thế, những đệ tử đi theo cần hết sức thận trọng, tiếng chiêng, tiếng trống thật dũng mãnh, đặc biệt não bạt phải được đánh liên hồi, đến khi thầy Tào mở mắt, nói rằng đã gom được linh hồn mới được phép dừng lại.
Cũng rất nhiều lần tôi hỏi, khi bước ra khỏi thân xác thì cái thế giới linh hồn trông như thế nào? Ông tôi vẫn chỉ cười và nói đại loại rằng: khi bước ra khỏi thân xác, thầy Tào cần đem theo mình hai thứ: vũ khí và tiền bạc. Nếu linh hồn cần tìm đang bị chìm ở tầng thấp nhất cũng có nghĩa thầy Tào phải đối mặt với đám linh hồn xấu xa.
Chúng luôn vây quanh những linh hồn mới đến, vì thế việc mang theo vũ khí là để xua đuổi chúng. Nếu thầy Tào không đủ pháp thuật sẽ rất khó khăn gom được linh hồn cần tìm. Còn nếu linh hồn cần tìm đang ở tầng rất cao của giới âm, thì việc rải tiền dọc đường được coi như một cách chuộc lại linh hồn cần tìm ấy.
Nhưng ông tôi vẫn khuyên rằng, tốt nhất không nên phá ngục vì điều này cần có bản lĩnh và kinh nghiệm. Trong trường hợp, không thể gom đủ linh hồn ngay lúc người mới chết, có thể chờ cho đến khi làm lễ 49 ngày cũng không sao. Vì khi đó, linh hồn ấy đã bắt đầu quen với giới âm, có thể nghe theo tiếng hát của thầy Tào mà về.
Tuy nhiên, có những người chết không phải do tuổi tác, hoặc bệnh tật, cái chết của họ do ngoại cảnh tác động như: bị giết, tai nạn… Đặc biệt cái chết ấy lại diễn ra bên ngoài, mà thông thường người ta vẫn gọi: “chết đường, chết chợ”.
Những cái chết kiểu này rất khó làm ma cho họ. Hơn nữa thể xác của người chết đã không còn nguyên vẹn nên việc khâm liệm, nhập quan rất khó khăn. Và chỉ những thầy Tào thật cao tay như ông tôi mới làm được.
Cho đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ như in cách làm sông lửa của ông nội tôi. Người nhà cần đào một cái rãnh dài chừng hai sải tay người lớn, dưới đó chất đầy than củi, tôi đảm nhiệm việc quạt cho than cháy thật to.
Những hòn than đỏ rừng rực, rồi ông tôi bắt đầu làm phép: miệng đọc thần chú, tay trái cầm kiếm, tay phải bắt quyết, bước đi nhịp nhàng, cứ thế ông tôi đi lại bên cái “sông lửa” và càng lúc bước đi càng nhanh, câu thần chú cũng đọc to hơn, cho đến khi những lửa trong sông chuyển màu xanh biếc.
Khi đã làm phép xong, ông tôi bỏ dép, cứ thế bước qua “sông lửa” ba lần. Rồi lệnh cho con trưởng của người chết tay cầm bài vị đi đầu, theo sau là đám người nhà, họ lần lượt cởi bỏ hết giày dép, cứ thế chân trần bước qua những hòn than đỏ rực kia. Điều kỳ lạ, họ không hề bị bỏng.
Nếu ai đó quá sợ, dẫm trượt lên mép cái rãnh lập tức bị bỏng, còn cứ theo bước chân thầy Tào thì những cục than đỏ rực ấy chỉ mang lại cảm giác âm ấm ở gan bàn chân mà thôi.
Về mặt hình thức, đây như một trò ảo thuật, tất cả những người chứng kiến cảnh này đều thót tim vì sợ. Nhưng đây là công đoạn không thể thiếu với những người chết bên ngoài vì khi bài vị được con cháu đưa qua sông lửa, cũng có nghĩa người chết kia được sinh ra một lần nữa.
Linh hồn người ấy sẽ tinh khôi như một đứa trẻ, mọi tội lỗi, mọi linh hồn vẩn đục đang bám xung quanh sẽ được gột rửa. Như thế mới đủ điều kiện để trở về với tổ tiên và không còn đau đớn!
Những đám ma thầy Tào làm sông lửa có rất nhiều người đến xem. Họ đến đa phần vì sự tò mò, nhưng cũng có người đến để tình nguyện được bước theo. Những người tình nguyện bước theo ấy thường là những phụ nữ hiếm muộn con cái, hoặc khó sinh nở.
Vì khi họ đi qua khúc sông lửa ấy, mọi tội lỗi của tiền kiếp, hay những âm khí bám quanh họ được gột rửa như thế họ có thể dễ dàng sinh con hơn.
Có người sẽ cho rằng tôi bịa đặt khi kể chuyện này, nhưng đó là sự thật, sự thật ấy nhiều người ở quê tôi được chứng kiến. Việc bước qua than hồng mà không bị bỏng nghe có vẻ vô lý, nhưng đó là một bí quyết trung hòa nhiệt độ.
Ông tôi bảo, than càng hồng, nhiệt độ càng cao thì càng dễ để trung hòa sức nóng để người bước qua không bị bỏng. Chỉ cần một chút “bua”, thực chất là một loại thuốc được chiết xuất từ mỡ lợn trộn đều với diêm sinh rắc lên đám than hồng và khi bàn chân đặt thật chặt xuống hòn than lập tức nhiệt độ được trung hòa, chỉ mang cảm giác âm ấm.
Và cứ thế thoải mái bước qua, nhưng nó chỉ giữ được vài phút sẽ bay hết thuốc và nóng trở lại. Phải thật khéo léo nhắc đám người nhà đi đúng với vết bàn chân của thầy Tào mới không bị bỏng.
Việc làm sông lửa và những thủ pháp nghe có vẻ đơn giản như vậy, nhưng không phải thầy Tào nào cũng dám làm. Bài thuốc trung hòa nhiệt độ kia cũng không phải ai cũng làm được, chỉ những người lâu năm trong nghề, biết cách chế tác những gói “bua” như ông tôi mới đủ tự tin để dẫn một đoàn người bước qua những viên than nóng bỏng ấy.
Về hình thức như đã nói, nó như một trò ảo thuật, nhưng ở đó mang một triết lý rất sâu xa của dân tộc Tày. Sau này tôi có tham khảo một số tài liệu của Ấn Độ giáo cũng có những tiết mục đi qua lửa để gột lửa linh hồn và làm sạch những tội lỗi.
Họ cho rằng, linh hồn của người chết vì ngoại cảnh bị một cú sốc rất mạnh, chẳng bao giờ linh hồn ấy tin mình đã chết, vì vậy cách tốt nhất hãy “làm mới” họ bằng cách qua sông lửa. Chỉ khi ấy linh hồn kia mới yên tâm rời bỏ thế giới trần tục về nơi vĩnh hằng.
Nhưng ông tôi lại đưa ra một triết lý rất riêng của mình rằng, việc một người chết vì ngoại cảnh cũng sẽ gây một cú sốc rất lớn với những người thân. Sự đau khổ ấy không chỉ nằm ở việc xót thương người chết, trong sâu thẳm của họ vẫn nghĩ rằng, người chết có thể đã mắc những sai lầm rất lớn nào đó, hoặc đã làm một điều ác mà bị trừng phạt…
Chính những suy nghĩ ấy sẽ dày vò, càng làm họ đau khổ. Và nhiệm vụ của thầy Tào không chỉ là đưa linh hồn người chết về nơi yên nghỉ mà còn phải làm vơi đi nỗi đau của người thân, nhẹ nhõm về tinh thần, tin tưởng vào cuộc sống…
Ông tôi bảo, đối với thầy Tào việc làm cho người còn sống thấy yên bình cũng quan trọng không kém việc đưa linh hồn người chết về với tổ tiên. Vì rằng, người chết họ sẽ có cuộc sống riêng của họ.
Nếu ta làm đúng cách, dẫn họ đi đến nơi cần đến, hát cho họ hiểu được rằng từ nay họ sẽ có một cuộc sống mới thì tất cả sẽ êm đẹp. Nhưng với những người còn sống, đặc biệt là người thân sẽ còn rất đau khổ. Vì thế, hình thức bước qua sông lửa là cách làm tốt nhất để làm dịu nỗi đau kia.
3. Mỗi lứa tuổi sẽ có cách làm ma riêng cho họ
Những người chết đã qua bảy mươi tuổi, việc đưa họ về tổ tiên rất nhẹ nhõm, giản đơn. Đám ma kiểu thế cũng rất ít âm khí vây quanh, những linh hồn nặng nề và còn nhiều luyến ái với trần tục cũng không thể làm gì người chết.
Bởi họ đã qua bảy mươi tuổi, thân xác kiệt khô, linh hồn cũng không non nớt nên chẳng ai dám làm phiền nhiễu. Kỳ thực những người lớn tuổi, linh hồn của họ thường đã ra khỏi thân xác rất nhiều lần ngay cả khi người ấy còn sống.
Đó chính là những giấc mơ, người lớn tuổi thường mộng mị rất nhiều, họ mơ thấy anh em, bè bạn, cha mẹ… chủ yếu là những người đã chết. Chính trong thời khắc đó, hay còn được hiểu suy nghĩ của họ, cũng có nghĩa linh hồn họ đã thoát ra ngoài, bay lượn ở giới âm, gặp gỡ những người thân, cha mẹ, bạn bè… vì thế khi chết đi, linh hồn họ chẳng xa lạ gì với thế giới linh hồn.
Mỗi lần đến những đám ma kiểu thế, ông tôi thường hát những bài bùa chú mang nội dung chúc tụng, ngợi ca người chết, kể cho họ nghe những công đức mà khi còn sống họ đã làm được… nói chung rất nhẹ nhõm.
Chỉ có những người chết dưới bốn mươi tuổi, mà họ đã lập gia đình, có con cái mới thật sự căng thẳng. Cũng dễ hiểu bởi, những người chết trẻ kia họ đã đủ “tiêu chuẩn” để làm ma vì đã có con cái, nhưng về thể xác lẫn tinh thần của họ còn rất trẻ, chưa bao giờ tinh thần của họ nghĩ đến cái chết, vì vậy sự luyến ái rất nặng nề. Lại thêm đám cô hồn xấu xa bên ngoài luôn rình rập, quấy nhiễu nên âm khí nặng nề.
Để làm ma cho họ, ông tôi thường viết rất nhiều lá bùa, bảo đám đệ tử dán khắp nơi. Đám người nhà không được phép khóc nhiều, đặc biệt người vợ (hoặc chồng) phải lánh xa thân xác người chết.
Những kẻ nhẹ vía, ốm đau không được đến đám ma vì những người như thế, cái “vách ngăn” của họ với giới âm rất mỏng, họ chỉ cần khóc nhiều sẽ bị mở “vách ngăn”, chẳng hạn như: ngất xỉu, ngủ quên, mệt lả… Chỉ đợi có thế những linh hồn đầy luyến ái sẽ xâm nhập vào họ, quấy nhiễu đời sống trần tục, làm loạn quy luật của âm dương.
Những đám ma như thế thường được ông tôi tiến hành các thủ tục rất nhanh, mọi công đoạn sẽ được rút ngắn. Và sau khi đã chôn cất xong người chết, người nhà cần gom tất cả đồ vật của người chết, mọi khăn tang, áo xô, cờ phướn, bùa chú… đều phải hóa.
Trong thời gian 49 ngày cũng không có bài vị để thờ vì khi làm ma ông tôi đã lập cho họ một bài vị riêng được gọi là trung giới. Nó được gọi là trung giới vì không được đặt ở trần gian, cũng chẳng ở giới âm mà ở một tầng khác. Sau 49 ngày cái bài vị ấy sẽ được ông tôi cải hóa và linh hồn sẽ bay về với tổ tiên.
Mục đích của việc “xóa sạch dấu vết” ấy là để người còn sống quên hẳn người chết. Ông tôi giải thích rằng, những người chết ở lứa tuổi ấy, sẽ để lại cho người sống nỗi nhớ nhung khôn nguôi. Nhưng người sống không thể đau khổ mãi được, vì thế việc để tang sẽ chẳng tốt lành gì.
Đặc biệt người vợ (hoặc chồng) có thể sẽ đi bước nữa, tiếp tục phần đời còn lại. Nếu cứ để tang, khóc thương, ám ảnh… những suy nghĩ ấy sẽ đi xuyên qua “vách ngăn” và linh hồn người chết dễ dàng “bắt được”. Như thế làm cho người chết cũng không yên nghỉ mà người sống càng buồn bã hơn.
Có những người vợ (hoặc chồng) vì quá đau khổ, lại mời phải thầy Tào không cao tay, làm ẩu mọi công đoạn nên sau đám tang thường mông mị gặp người chết, sự ám ảnh của những giấc mơ làm người còn sống luôn hoảng loạn và có thể phát điên.
Cũng rất nhiều lần nhiều người tìm đến ông tôi để xin được cắt mộng. Họ đều nói rằng nếu cứ mộng mị như thế sẽ không thể sống nổi.
4. Linh hồn không thể làm gì ở thế giới trần tục
Sau những đám ma, nếu người nhà còn mơ thấy người chết, chứng tỏ khả năng pháp thuật của thầy Tào chưa cao. Hoặc, khi thực hiện các nghi lễ đã mắc những sai sót nào đó. Và việc người nhà thường nằm mơ thấy người đã chết hiện về là một điều không tốt.
Ông tôi vẫn nói, nếu người nhà còn mơ gặp người đã chết, cũng có nghĩa linh hồn ấy chưa thực sự siêu thoát. Nhưng cũng không hẳn những giấc mơ kia đều do linh hồn của người thân ám ảnh.
Điều này phần nhiều phụ thuộc vào người còn sống. Tất nhiên, trong giấc mơ, mọi “thông tin” mà người còn sống nhận được đều không rõ ràng, thậm chí rất vô lý… Nhưng thế nào đi nữa, việc thường xuyên mơ thấy người mới chết chẳng tốt lành gì, đặc biệt với người đang sống.
Và việc cắt mộng cho họ vừa đơn giản, vừa phức tạp. Thông thường những người đến xin cắt mộng đều được chấp nhận sau khi đã kể tất cả những giấc mơ thường thấy cho ông tôi nghe. Cũng có trường hợp, sau khi kể lại sự mộng mị của mình, ông tôi bảo cứ về sống bình thường rồi mọi chuyện sẽ kết thúc.
Với những trường hợp cần cắt mộng, ông tôi lập một bàn cúng, bảo người cần cắt mộng đọc theo những lời ông nói. Tiếp sau, họ cần ngồi xếp tròn (thiền) khá lâu, để ông tôi nói gì đó bên cạnh. Hết bài cúng người đó được mời lại ăn cơm và đêm đó ngủ lại nhà của tôi. Trước khi đi ngủ, họ được uống một bát nước bùa do ông tôi pha chế.
Tất cả những người đến xin cắt mộng, hôm sau đều vui vẻ ra về, họ đều nói đêm qua ngủ rất ngon và chẳng mộng mị gì. Cũng từ đó tinh thần họ rất tốt, mọi ám ảnh, u sầu đều biến mất.
Theo ông tôi, giấc mộng của một người còn sống giống như một cái hồ nước. Ở đó những linh hồn có thể bơi vào và nhắn những “thông tin” cần thiết với hy vọng chuyển tải nó đến thế giới trần tục.
Bởi khi ta ngủ say, cái “vách ngăn” âm dương thường không được kiểm soát, tùy thuộc vào độ mỏng dày của từng người. Nếu vách ngăn ấy quá mỏng, hoặc mở toang, sẽ rất nhiều linh hồn đi vào để “nhắn” thông tin thông qua ngôn ngữ, hay hình ảnh mà ta thường mơ thấy.
Đó cũng là mấu chốt của việc những giấc mộng thường không rõ ràng, lộn xộn, đôi khi vô lý. Vì ông tôi cho rằng, chưa hẳn những “thông tin” trong giấc mơ đó là của người thân mình ở thế giới linh hồn.
Rất có thể những thông tin ấy là của các âm hồn khác. Đó là những âm hồn còn quá nặng nề với trần tục, họ luôn luôn muốn quay trở lại trần gian, hoặc chưa bao giờ tin mình đã chết.
Cũng có thể họ muốn mượn người đang còn sống làm giúp những việc ở trần gian (chẳng hạn như những oan hồn). Điều này chẳng lợi cho ai, cả người còn sống lẫn linh hồn. Người sống sẽ hoang mang lo sợ, còn linh hồn cũng chẳng bao giờ thực hiện được điều mong muốn.
Vì thế, cắt mộng cũng đồng nghĩa với việc kiểm soát được “vách ngăn” âm dương của người còn sống. Để kiểm soát được nó, cách tốt nhất ông tôi vẫn thường làm: tạo cho họ một độ vững cần thiết của thần kinh.
Ở đây không có gì thần bí, cũng chẳng dùng đến phép thuật cao cường nào. Bài thần chú, ông tôi vẫn đọc cho người cần cắt mộng nghe thường là một bài hát bằng tiếng Tày cổ, có âm điệu du dương như ru người ta ngủ.
Sau đó, cho họ uống bát nước bùa, thực chất là một loại thảo dược có tác dụng làm dịu thần kinh, kéo độ sâu của giấc ngủ xuống mức độ cần thiết. Nếu ai đó vì quá căng thẳng vẫn bị mộng mị thì uống nhiều lần trước khi đi ngủ, chỉ một thời gian sẽ chẳng còn mộng mị nữa.
Có lần tôi hỏi rằng, nếu linh hồn có thể đi vào giấc mơ của mình, thì tại sao không để cho linh hồn đi vào, biết đâu họ sẽ nói được với người còn sống những điều oan uổng mà khi còn sống họ phải gánh chịu? Ông tôi bảo, điều này là tối kỵ.
Âm dương không thể lẫn lộn. Điều quan trọng với các linh hồn là đi đúng đường, tới nơi cần tới, hay vẫn gọi là về với tổ tiên. Ngoài ra họ không cần thiết phải làm gì, cũng như một đứa trẻ, cần ăn uống cho tốt, học hành cho tốt vì đích đến là làm một con người tử tế và có ích.
Thông thường oan hồn vẫn được hiểu là linh hồn bị phát tán, bay vật vờ trong giới âm, họ đau đớn, tuyệt vọng, xót thương… chẳng khác nào đứa bé còi cọc, yếu về thể chất, kém về tinh thần sẽ khó trở thành người có ích. Vì thế cách tốt nhất vẫn là khuyên nhủ họ, cầu khấn cho họ, thực sự xót thương họ, cầu cho họ yên nghỉ…
Chỉ có những ý nghĩ chân thành, yêu thương ấy mới đủ sức mạnh xuyên qua “vách ngăn” tới được linh hồn, gom linh hồn lại, làm nhẹ mọi luyến ái, đưa họ bay lên tầng cao hơn, về với nơi cần về. Việc mở “vách ngăn” ấy để cho họ đi vào giấc ngủ của mình chẳng khác nào làm cho họ ngày càng nặng nề hơn, đau đớn, chẳng bao giờ đi đúng hướng (siêu thoát).
Ông tôi còn khẳng định: chỉ có người sống mới làm yên lòng linh hồn (người đã chết), còn linh hồn hay giới âm hoàn toàn không thể làm gì cho người sống. Còn những câu chuyện đại loại như linh hồn báo mộng để người còn sống tìm được một kho vàng nào đó thì không bao giờ có thật.
Những câu chuyện đại loại như thế, đều xuất phát từ tham vọng thô thiển của người còn sống. Nếu những linh hồn ấy có biết nơi cất giấu của cải, họ cũng không bao giờ chỉ cho người còn sống.
Vì họ tồn tại như ý nghĩ, cái ý nghĩ ấy không bao giờ muốn của cải bị chiếm đoạt bởi người khác, đơn giản vì bản thân linh hồn ấy đã bao giờ tin mình chết đâu! Còn với những linh hồn đã đi đúng hướng, mọi vật chất ở thế giới trần tục không còn quan trọng với họ nữa, điều họ cần ở người còn sống là những ý nghĩ chân thành dành cho họ, chỉ với sức mạnh của lòng từ tâm mới có ích cho họ ở thế giới xa xôi kia.
Nếu chiểu theo những quan điểm của ông tôi, mới thấy những linh hồn khác xa với suy nghĩ bình thường của chúng ta. Việc hy vọng vào sự phù trợ của những linh hồn, hay thần thánh ở cuộc sống trần tục sẽ chẳng bao giờ xảy ra. Sự hy vọng này chỉ xuất phát từ dục vọng của người đời.
Mục đích tối thượng của thầy Tào: cho linh hồn yên nghỉ bằng suy nghĩ chân thành. Nếu linh hồn ấy vẫn vật vờ “bay” vào giấc mơ của chúng ta cũng có nghĩa linh hồn ấy chưa tin mình đã chết, họ vẫn tưởng tượng rằng họ là con người, sống ngay cạnh chúng ta, họ vẫn ăn vẫn uống, vẫn làm việc (dù chỉ là lầm tưởng)…
Và như vậy họ sẽ không thể làm gì cho người sống, nếu có muốn cũng không thể vì khi đó họ chỉ tồn tại như ý nghĩ và ở một thế giới hoàn toàn khác biệt với thế giới trần tục này.
5. Qua thời gian, thân xác hoàn toàn không quan trọng với linh hồn
Gần đây nhiều nhà ngoại cảm xuất hiện. Họ không trải qua bất cứ hình thức luyện tập nào để khai mở nhãn thần. Có chăng chỉ là những chuyện mang tính huyền bí. Chẳng hạn như bị tai nạn, rồi thoát chết tự nhiên nhìn thấy thế giới linh hồn.
Việc gọi hồn người chết, được hiểu họ có thể “đối thoại” với một linh hồn nào đó, để chỉ ra những bộ hài cốt của mình bị thất lạc đâu đó trong trần gian. Khả năng đó ngoài tính huyền bí và vô lý còn mang tính vụ lợi, cái tính vụ lợi ở đây thể hiện rất rõ trong hành động có xu hướng chiếm đoạt vật chất.
Còn với linh hồn, cái đích cuối cùng và ở nền văn hóa nào cũng chỉ mong họ được yên nghỉ, được đi đến nơi họ cần đến. Ngoài điều đó linh hồn chẳng cần thiết đem theo cái gì để đến thế giới của họ.
Việc tìm lại những bộ hài cốt, được hiểu đó là những gì còn lại của thân xác cũng rất quan trọng, nhưng không quyết định sự siêu thoát của linh hồn. Hiểu một cách khác, đó là những vật chất còn lại ở trần gian của linh hồn.
Theo quan điểm của thầy Tào, nếu một linh hồn có mồ mả hẳn hoi, sẽ có một phần linh hồn như đã nói được gọi là “Hén Mo”(trông mộ), phần linh hồn này có nhiệm vụ trông coi ngôi mộ và liên lạc với người thân thông qua những giấc mơ. Nhưng đó chỉ có ích khi linh hồn mới lìa khỏi thân xác.
Theo thời gian cái “vách ngăn” của người còn sống đã ổn định, cũng đồng nghĩa với việc liên lạc ấy không còn, hoặc rất ít. Thực tế chỉ ra rằng, chúng ta sẽ hiếm hoi mơ thấy cha mẹ, hoặc ông bà khi những người ấy mất khá lâu.
Cái bộ hài cốt (thân xác còn lại) nằm ở ngôi mộ là nơi để chúng ta dễ nhớ đến họ, vào những dịp tết lễ chúng ta đến đó thắp hương, cầu khấn, chính khi đó nếu thật thành tâm, hội tụ đủ sức mạnh, ý nghĩ sẽ xuyên qua “vách ngăn” để linh hồn ở giới âm nhận được.
Và càng nhiều ý nghĩ chân thành thì linh hồn càng nhẹ nhõm, bay lượn ở tầng cao của thế giới vĩnh hằng ấy. Ở chừng mực nào đó, có thể hiểu ngôi mộ (chứa hài cốt) là nơi để ý nghĩ (sự thành tâm) xuất phát đi xuyên qua “vách ngăn” tới được linh hồn. Ngoài ra không còn ý nghĩa quan trọng nào khác.
Nhưng, ý nghĩ của chúng ta, có thể xuất phát bất cứ lúc nào, ở mọi hoàn cảnh đều có thể nghĩ đến người thân đã mất. Vì thế việc có bộ hài cốt, hay ngôi mộ không quyết định đến sự siêu thoát của linh hồn. Nó chỉ mang nhiều ý nghĩa với người còn sống.
Chỉ vì người còn sống vẫn quan niệm: thân xác ở đâu, linh hồn ở đó. Nên họ mong muốn tìm được thân xác người thân, chôn cất cẩn thận và thờ cúng để linh hồn được yên nghỉ. Điều này không sai, nhưng hoàn toàn không quan trọng và cần thiết.
Với những trường hợp chết không biết thân xác ở đâu, ông tôi vẫn làm ma cho họ một cách bình thường. Và bao giờ cũng làm cho họ một ngôi mộ giả. Ở đó chỉ cần chôn theo một di ảnh, hay một đồ vật nào đó của người chết.
Bởi khi làm ma, những phương pháp của thầy Tào đã gom đủ linh hồn, đưa vào bài vị, dẫn đi đúng đường, đến nơi cần đến. Thế nên ngôi mộ giả ấy chỉ mang tính chất tượng trưng, và sau này nếu tìm thấy thấy hài cốt (thân xác) có thể chôn xuống chính ngôi mộ ấy, chẳng ảnh hưởng đến linh hồn ở giới âm.
Không nên hiểu linh hồn cũng như con người. Có thể thân xác của người chết ở tận đâu đó rất xa, nhưng linh hồn họ khi ấy tồn tại như ý nghĩ, vì vậy không gian, thời gian chẳng còn ý nghĩa gì. Thân xác có thể ở tận nước ngoài, nhưng chỉ cần ta nghĩ đến họ, lập tức họ ở ngay cạnh ta vì họ là ý nghĩ.
Chỉ tiếc, thời nay có quá nhiều “thầy” không biết khả năng khai mở nhãn thần đến đâu, nhưng họ rất biết lợi dụng vào tâm lý của người còn sống để khoa trương thanh thế và trục lợi. Cũng có trường hợp, luyện tập chưa xong, hiểu biết còn ít đã nhảy ra làm thầy nên làm sai lệch những quy luật của âm dương.
Có vị “ngoại cảm” đã khăng khăng miêu tả rằng, nhìn thấy linh hồn và trò chuyện được với họ. Và theo như vị đó miêu tả, linh hồn đó mờ ảo có hình như con người, thậm chí còn miêu tả dung mạo của linh hồn ấy.
Điều này chứng tỏ, sức tưởng tượng của vị “ngoại cảm” rất nghèo nàn. Thế giới linh hồn không có hình thù nào cụ thể, đó là ý nghĩ: không hình, không màu, không mùi vị, không âm thanh, không vật chất… chỉ có ý nghĩ, rất trừu tượng, rất mơ hồ ngoài sức tưởng tượng của con người.
Sự quả quyết của vị “ngoại cảm” ấy, chẳng qua chỉ liên tưởng từ thế giới trần tục rồi áp đặt vào giới âm. Như thế thật thô thiển và lộ rõ sự lòe bịp.
Hơn nữa, khi bước vào giới âm, có vô vàn linh hồn, ở nhiều tầng khác nhau, làm sao có thể nhận ra một linh hồn cụ thể nếu như chỉ dựa vào tên tuổi, quê quán, hay một số di vật mà người còn sống đưa cho.
Ở đây cũng thấy rõ họ “bắt chước” thế giới trần tục, theo kiểu tra hồ sơ. Đừng ngây thơ nghĩ rằng, nhắm mắt rồi đọc tên tuổi của họ thì họ sẽ hiện ra, hoặc đưa những di vật (quần áo, đồ đạc...) của linh hồn khi còn sống thì họ cũng hiện về.
Nếu hiểu như thế chứng tỏ vị “ngoại cảm” đó chẳng biết gì về giới âm, cũng có nghĩa khả năng “giao tiếp” với linh hồn là sự bịa đặt. Nên nhớ linh hồn chỉ liên thông với thế giới trần tục bằng một “kênh” duy nhất, đó là ý nghĩ!
Những “thầy” kiểu ấy không chỉ riêng thời nay mới có, từ rất xa xưa vẫn cứ tồn tại những vị như vậy. Ông tôi bảo, thầy Tào cũng có nhiều trường phái, mỗi trường phái đều có cách thức riêng của mình để hiểu biết về linh hồn.
Nhưng cái quan trọng bậc nhất vẫn phải đưa được linh hồn về nơi cần đến. Còn tất cả những ai không đi theo quan niệm này đều là tà giáo. Để phân biệt tà giáo hay chính giáo trong thế giới tinh thần con người rất khó khăn. Chỉ có điều, cho đến một ngày tất cả chúng ta đều trở thành linh hồn (chết đi), chỉ khi đó mới thực sự biết cái gì đang đợi linh hồn của mình.
6. Lời kết: Hãy chân thành, trong sáng để bay lượn ở
tầng cao nhất của thế giới linh hồn.
…Và khi còn sống nếu ý nghĩ của chúng ta chân thành, trong sáng, hành động của chúng ta cao đẹp cũng có nghĩa linh hồn chúng ta sẽ nhẹ nhõm, dễ dàng siêu thoát.
Còn ai đó xấu xa trong ý nghĩ, nặng nề với dục vọng, nhiều hành động sai trái, tất nhiên linh hồn nặng nề nằm ở tầng thấp nhất của giới âm.
Và khi đó sự đau đớn sẽ đến, cái tầng thấp nhất ấy nằm rất gần với thế giới vật chất phàm tục của con người. Ông tôi, một thầy Tào, bảo thế!
A Sáng
Trong cuộc sống tinh thần của người Tày, thầy Tào ở đẳng cấp cao nhất. Họ là những người có khả năng liên thông với thế giới linh hồn và thần thánh.
Thầy Tào có rất nhiều công việc, nhưng công việc quan trọng bậc nhất, đưa linh hồn người chết về nơi yên nghỉ. Từ những nghi lễ của hình thức, chúng ta sẽ tìm thấy những ý nghĩa sâu xa hơn của thầy Tào.
Họ cho rằng, linh hồn của con người tồn tại như ý nghĩ. Nếu ý nghĩ của bạn chân thành, trong sáng… khi chết đi, linh hồn bạn sẽ rực rỡ ánh hào quan, bay lượn ở tầng cao nhất của thế giới thần linh.
Còn khi sống bạn có ý nghĩ xấu xa, cũng có nghĩa linh hồn bạn nặng nề, đen tối và bị chìm xuống tầng thấp nhất của thế giới linh hồn. Và cái thế giới tối tăm đó rất gần với thế giới vật chất của con người vì thế nó luôn đau đớn...
Ông nội tôi là thầy Tào nên từ bé tôi đã quen với cảnh cúng bái, bùa chú, làm phép… Và trong bản mệnh tôi cũng có duyên với cái nghề đặc biệt ấy, thế nên tôi thường được đi theo ông mình trong những buổi hành lễ. Nhiệm vụ của tôi rất đơn giản: gõ não bạt.
Đó là hai lá đồng có hình như cái đĩa, chúng phát ra tiếng kêu khá dày và ngân dài theo từng nhát gõ. Ngày đó tôi mới chỉ là đứa trẻ nên chưa hiểu lắm về nghề thầy Tào. Tôi chỉ thấy ông tôi được người trong vùng kính trọng, họ luôn cúi chào mỗi khi nhìn thấy ông tôi.
Hằng đêm, tôi thường được ngủ với ông và nghe những bài giảng về pháp thuật của thầy Tào. Đó là những câu chuyện liên quan đến linh hồn người chết. Ông tôi bảo, muốn trở thành thầy Tào cần học khoảng 12 năm, đọc thuộc mười vạn bài cúng, viết được mười vạn lá bùa…
Nói chung rất trường kỳ chỉ có những người kiên nhẫn và có duyên mới theo được. Trong họ Hoàng nhà mình, nếu tính tướng số, chỉ cháu có duyên với nghề này, ông tôi bảo thế.
Có lần tôi hỏi con ma là cái gì? Ông tôi cười rồi nói, con ma là linh hồn của vạn vật khi chết đi. Vạn vật trên thế giới này đều có linh hồn, khi chết đi linh hồn ấy được gọi là con ma. Và trong vạn vật ấy, linh hồn con người là quan trọng nhất, cũng phức tạp nhất, vì thế mới sinh ra thầy Tào. Hồi đó, tôi chưa hiểu những câu nói đầy ý tứ sâu xa của ông tôi.
Nhưng bây giờ tôi thấy những lời của ông mình thật có lý. Quả đúng thế, linh hồn của một cái cây sẽ rất hiền từ như chính cái cây kia vậy, nó vẫn sẽ rì rào tỏa bóng mát, nở những bông hoa thơm ngát, hát những khúc ca riêng của nó, vẻ đẹp của nó làm sao loài người có được?
Nó đẹp và đơn giản như chính bản thân nó mà thôi! Con ma người, linh hồn người có cái gì liên quan đến nhau? Và tại sao phải xuất hiện thầy Tào chỉ vì sự phức tạp của con người? Tất cả những câu hỏi đó phải cho đến bây giờ tôi mới lờ mờ nhận ra.
Nói cách khác, nếu trên thế giới này không có con người, cũng có nghĩa không còn sự phức tạp và đương nhiên chẳng cần thầy Tào làm gì. Còn trước kia, khi theo ông nội đi hành lễ cho người chết, tôi chỉ nhận được những bài giảng đơn giản của thầy mình.
Ông tôi giảng, khi người mới chết, linh hồn chưa dám thoát ra, nó vẫn chưa tin thân xác đã chết, nó nằm im trong lồng ngực và thỉnh thoảng thử bay ra ngoài. Nhưng bên ngoài cái thế giới của riêng nó thật hãi hùng. Ở đó đã có vô vàn những linh hồn khác đang rình rập. Những linh hồn đó luôn sẵn sàng lao vào cái thân xác mới chết kia để trở lại trần gian.
Tất cả những linh hồn xấu xa đều muốn quay lại trần gian vì sự tiếc nuối cuộc sống trần tục, hoặc còn nhiều việc mà chúng chưa làm xong. Hơn nữa chúng bị đày xuống tầng thấp nhất của thế giới linh hồn, vì thế nặng nề và đau đớn.
Và nhiệm vụ của thầy Tào là đưa những linh hồn yếu ớt ấy rời khỏi thân xác, đến một nơi an toàn. Để làm được việc đó cần có hai nhãn thần nhìn rõ thế giới linh hồn, hát chính xác những bài ca bùa chú… chỉ khi ấy mới đủ sức đưa linh hồn đi đúng hướng, nếu không linh hồn kia sẽ không có cơ hội đầu thai.
Khi tôi tò mò muốn nhìn thấy linh hồn có hình thù như thế nào? Ông tôi cười rồi nói: “… Cứ học đi, đến bao giờ khai mở được nhãn thần sẽ thấy. Linh hồn không có hình thù cụ thể, nó chỉ lờ mờ như một làn khói, nó như ý nghĩ của con người vậy, nghĩ thế nào sẽ có hình thế nấy…”. Rồi ông tôi kết luận, đại loại cũng như đứa trẻ mới sinh ra, cần một bà đỡ, nếu không sẽ rất nguy hiểm.
Những bài học kiểu thế diễn ra hàng đêm, nhưng rất tiếc sau này tôi đã không theo học vì nhiều lý do. Trong đó có sự sai lầm của tôi, khi tiếp xúc với nền văn hóa khác, đó là sai lầm thật đáng tiếc. Nhưng cho đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ như in tất cả những nghi thức và lý giải một cách chi tiết về cách thức đưa linh hồn của người chết về nơi cần đến.
1. Khâm liệm và nhập quan
Người Tày quê tôi, mỗi khi có người chết, nhất thiết họ phải mời thầy Tào đến nhà. Việc đầu tiên là khâm liệm cho người chết. Công việc này cực kỳ quan trọng, nếu để xảy ra sơ xuất sẽ vô cùng khó khăn cho thầy Tào và linh hồn yếu ớt kia.
Người con trưởng trong nhà phải đi cõng nước từ một cái mỏ thật sạch sẽ, sau đó đun sôi cùng lá bưởi. Khi nước đã chuẩn bị xong, thầy Tào bắt đầu làm phép với những bài hát thần bí.
Nội dung của những bài hát đó khuyên nhủ linh hồn đừng nên luyến ái cuộc sống trần tục, hãy đi về với thế giới riêng của mình, cái thân xác này cần được gột rửa và cất kỹ trong áo quan để những linh hồn xấu xa bên ngoài không thể xâm nhập… Thầy Tào cần hát để linh hồn tin rằng, cái thân xác kia đã chết, không còn gì để luyến ái nữa.
Người nhà sẽ phải thay quần áo mới cho người chết, lau rửa sạch sẽ bằng nước là bưởi. Sau đó sửa lại tư thế cho thật ngay ngắn. Đặc biệt miệng phải được ngậm bạc trắng do thầy Tào yểm bùa, nếu không sẽ là nơi rất dễ bị linh hồn xấu xa xâm nhập. Tiếp sau, thầy Tào cần vẽ một bài vị, nó như một cái nôi đón linh hồn của người chết và bảo vệ nó khỏi sự phiền nhiễu của những linh hồn bên ngoài.
Thầy Tào một tay cầm bài vị, tay kia cầm kiếm, miệng niệm thần chú, nhãn thần rực rỡ, tỏa hết hào quang… xua đuổi những con ma xấu đang vật vờ rình rập. Theo sau ba đệ tử: một cầm chiêng, một cầm não bạt, một cầm cờ phướn (cờ hiệu riêng của thầy Tào), theo sau nữa là đám người nhà. Họ không được phép khóc, nếu chưa có lệnh của thầy Tào.
Có lần tôi đã hỏi, tại sao người nhà không được phép khóc, nếu như thầy Tào chưa cho phép? Ông tôi giải thích: tiếng khóc của người nhà có một sức mạnh ghê gớm, nó như một lực hút cực mạnh, càng làm linh hồn tiếc nuối, khi đó linh hồn sẽ không còn nghe theo lời hát của thầy Tào, có những lúc nó bay ra khỏi bài vị muốn trở lại thân xác vì sự luyến ái trần gian.
Và khi ấy tất cả những linh hồn xấu xa bên ngoài sẽ lao vào nó, lợi dụng sự yếu ớt của nó để quay lại thân xác. Nếu thầy Tào không kịp xoay sở, linh hồn yếu ớt ấy có thể tan ra và không bao giờ có cơ hội đầu thai.
Thầy Tào bắt đầu vòng quanh áo quan. Mỗi bước đi là một câu hát, kiếm vung lên đầy uy lực, đám đệ tử cần gõ các nhạc cụ theo đúng nhịp đưa của lưỡi kiếm. Âm thanh lúc này thường chầm chậm, êm ái như một bài ru của người mẹ.
Tiếng não bạt phải thật dài như gió chạy qua hang núi, tiếng chiêng cũng ngân lên thật ấm áp. Âm điệu của bài hát thật chậm rãi, tỉ tê, dỗ dành. Cũng có lúc thật dứt khoát với tiếng thét đầy uy lực, cùng nhát kiếm vung lên sáng ngời .
Tiếng não bạt phải căng ra để thị uy trước đám ma quỷ bay lượn bên ngoài.Sau khi đã vòng áo quan đủ 36 lượt, làm nên một vòng hào quang đủ sức xua đuổi đám ma quỷ quấy nhiễu, thầy Tào dừng lại và ra lệnh cho người nhà được khóc.
Lúc này tiếng khóc lại có sức mạnh thật huyền diệu. Tiếng khóc ấy (tất nhiên phải khóc thực lòng) sẽ như một đám mây êm ái, bao bọc lấy linh hồn yếu ớt kia, nó như một cái áo mềm mại che phủ lên linh hồn.
Và bốn người đàn ông được phép nhấc cái thân xác không còn linh hồn ấy vào trong áo quan. Sau khi đã sửa sang tư thế nằm cho thân xác, người ta phải lấy bốn viên ngói trên mái nhà, kê hai bên đầu thân xác, cấm kỵ việc đầu người chết bị nghiêng.
Hơn nữa người ta rất sợ khi chôn thân xác ấy xuống đất, cùng năm tháng rễ cây có thể ăn sâu vào áo quan, chui vào lỗ tai của người chết, sẽ làm đau đớn linh hồn và ảnh hưởng đến con cháu.
Khi đã hoàn thành việc đưa thân xác vào áo quan, tất cả người nhà phải lùi ra xa, thầy Tào ngậm một bát nước bùa, thổi ba lần lên thân xác kia rồi lệnh đóng nắp áo quan lại.
Và tại sao thầy Tào lại thổi ba lần nước bùa lên thân xác? Đây cũng là điểm quan trọng khi hành nghề thầy Tào. Việc thổi nước bùa ấy không chỉ mang tính hình thức, cũng không hẳn là gột rửa thân xác.
Cái bát nước bùa ấy là cả một bí quyết mà chỉ những thầy Tào có đủ nhãn thần mới tinh luyện được nó. Vì khi thổi bát nước đó lên thân xác người chết, cũng có nghĩa thầy Tào đã đưa một phần linh hồn được gọi là “hen mo” (trông mộ).
Nếu không đưa được một phần linh hồn này vào áo quan cũng có nghĩa cái thân xác kia và cả ngôi mộ sau này không còn ý nghĩa. Linh hồn này được giao nhiệm vụ ở lại thân xác, chăm bẵm ngôi mộ và liên lạc với con cháu thông qua những giấc mơ...
2. Bước qua sông lửa để sinh ra lần nữa
Khi đã nhập quan xong, coi như linh hồn được an toàn. Tuy nhiên, có những người khi mới chết, người nhà không chú ý, hoặc sơ xuất như khóc quá nhiều, nước mắt rơi vào thân xác, để nhiều người đụng chạm, linh hồn phát tán ra ngoài, hoặc mời thầy Tào quá chậm…
Vì thế khi lập bài vị không gom đủ linh hồn. Trường hợp này, thầy Tào cần bước vào giới âm, gom đủ linh hồn người chết. Đây là giai đoạn rất khó khăn, cũng chứng tỏ được đẳng cấp và khả năng pháp thuật của thầy Tào. Việc này thường được gọi là phá ngục.
Đã rất nhiều lần tôi chứng kiến cảnh ông tôi đi phá ngục. Thông thường ông tôi ngồi thiền, mắt nhắm nghiền, khai mở hết nhãn thần để linh hồn thoát ra khỏi thân xác và bước vào giới âm.
Mỗi lần như thế, những đệ tử đi theo cần hết sức thận trọng, tiếng chiêng, tiếng trống thật dũng mãnh, đặc biệt não bạt phải được đánh liên hồi, đến khi thầy Tào mở mắt, nói rằng đã gom được linh hồn mới được phép dừng lại.
Cũng rất nhiều lần tôi hỏi, khi bước ra khỏi thân xác thì cái thế giới linh hồn trông như thế nào? Ông tôi vẫn chỉ cười và nói đại loại rằng: khi bước ra khỏi thân xác, thầy Tào cần đem theo mình hai thứ: vũ khí và tiền bạc. Nếu linh hồn cần tìm đang bị chìm ở tầng thấp nhất cũng có nghĩa thầy Tào phải đối mặt với đám linh hồn xấu xa.
Chúng luôn vây quanh những linh hồn mới đến, vì thế việc mang theo vũ khí là để xua đuổi chúng. Nếu thầy Tào không đủ pháp thuật sẽ rất khó khăn gom được linh hồn cần tìm. Còn nếu linh hồn cần tìm đang ở tầng rất cao của giới âm, thì việc rải tiền dọc đường được coi như một cách chuộc lại linh hồn cần tìm ấy.
Nhưng ông tôi vẫn khuyên rằng, tốt nhất không nên phá ngục vì điều này cần có bản lĩnh và kinh nghiệm. Trong trường hợp, không thể gom đủ linh hồn ngay lúc người mới chết, có thể chờ cho đến khi làm lễ 49 ngày cũng không sao. Vì khi đó, linh hồn ấy đã bắt đầu quen với giới âm, có thể nghe theo tiếng hát của thầy Tào mà về.
Tuy nhiên, có những người chết không phải do tuổi tác, hoặc bệnh tật, cái chết của họ do ngoại cảnh tác động như: bị giết, tai nạn… Đặc biệt cái chết ấy lại diễn ra bên ngoài, mà thông thường người ta vẫn gọi: “chết đường, chết chợ”.
Những cái chết kiểu này rất khó làm ma cho họ. Hơn nữa thể xác của người chết đã không còn nguyên vẹn nên việc khâm liệm, nhập quan rất khó khăn. Và chỉ những thầy Tào thật cao tay như ông tôi mới làm được.
Cho đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ như in cách làm sông lửa của ông nội tôi. Người nhà cần đào một cái rãnh dài chừng hai sải tay người lớn, dưới đó chất đầy than củi, tôi đảm nhiệm việc quạt cho than cháy thật to.
Những hòn than đỏ rừng rực, rồi ông tôi bắt đầu làm phép: miệng đọc thần chú, tay trái cầm kiếm, tay phải bắt quyết, bước đi nhịp nhàng, cứ thế ông tôi đi lại bên cái “sông lửa” và càng lúc bước đi càng nhanh, câu thần chú cũng đọc to hơn, cho đến khi những lửa trong sông chuyển màu xanh biếc.
Khi đã làm phép xong, ông tôi bỏ dép, cứ thế bước qua “sông lửa” ba lần. Rồi lệnh cho con trưởng của người chết tay cầm bài vị đi đầu, theo sau là đám người nhà, họ lần lượt cởi bỏ hết giày dép, cứ thế chân trần bước qua những hòn than đỏ rực kia. Điều kỳ lạ, họ không hề bị bỏng.
Nếu ai đó quá sợ, dẫm trượt lên mép cái rãnh lập tức bị bỏng, còn cứ theo bước chân thầy Tào thì những cục than đỏ rực ấy chỉ mang lại cảm giác âm ấm ở gan bàn chân mà thôi.
Về mặt hình thức, đây như một trò ảo thuật, tất cả những người chứng kiến cảnh này đều thót tim vì sợ. Nhưng đây là công đoạn không thể thiếu với những người chết bên ngoài vì khi bài vị được con cháu đưa qua sông lửa, cũng có nghĩa người chết kia được sinh ra một lần nữa.
Linh hồn người ấy sẽ tinh khôi như một đứa trẻ, mọi tội lỗi, mọi linh hồn vẩn đục đang bám xung quanh sẽ được gột rửa. Như thế mới đủ điều kiện để trở về với tổ tiên và không còn đau đớn!
Những đám ma thầy Tào làm sông lửa có rất nhiều người đến xem. Họ đến đa phần vì sự tò mò, nhưng cũng có người đến để tình nguyện được bước theo. Những người tình nguyện bước theo ấy thường là những phụ nữ hiếm muộn con cái, hoặc khó sinh nở.
Vì khi họ đi qua khúc sông lửa ấy, mọi tội lỗi của tiền kiếp, hay những âm khí bám quanh họ được gột rửa như thế họ có thể dễ dàng sinh con hơn.
Có người sẽ cho rằng tôi bịa đặt khi kể chuyện này, nhưng đó là sự thật, sự thật ấy nhiều người ở quê tôi được chứng kiến. Việc bước qua than hồng mà không bị bỏng nghe có vẻ vô lý, nhưng đó là một bí quyết trung hòa nhiệt độ.
Ông tôi bảo, than càng hồng, nhiệt độ càng cao thì càng dễ để trung hòa sức nóng để người bước qua không bị bỏng. Chỉ cần một chút “bua”, thực chất là một loại thuốc được chiết xuất từ mỡ lợn trộn đều với diêm sinh rắc lên đám than hồng và khi bàn chân đặt thật chặt xuống hòn than lập tức nhiệt độ được trung hòa, chỉ mang cảm giác âm ấm.
Và cứ thế thoải mái bước qua, nhưng nó chỉ giữ được vài phút sẽ bay hết thuốc và nóng trở lại. Phải thật khéo léo nhắc đám người nhà đi đúng với vết bàn chân của thầy Tào mới không bị bỏng.
Việc làm sông lửa và những thủ pháp nghe có vẻ đơn giản như vậy, nhưng không phải thầy Tào nào cũng dám làm. Bài thuốc trung hòa nhiệt độ kia cũng không phải ai cũng làm được, chỉ những người lâu năm trong nghề, biết cách chế tác những gói “bua” như ông tôi mới đủ tự tin để dẫn một đoàn người bước qua những viên than nóng bỏng ấy.
Về hình thức như đã nói, nó như một trò ảo thuật, nhưng ở đó mang một triết lý rất sâu xa của dân tộc Tày. Sau này tôi có tham khảo một số tài liệu của Ấn Độ giáo cũng có những tiết mục đi qua lửa để gột lửa linh hồn và làm sạch những tội lỗi.
Họ cho rằng, linh hồn của người chết vì ngoại cảnh bị một cú sốc rất mạnh, chẳng bao giờ linh hồn ấy tin mình đã chết, vì vậy cách tốt nhất hãy “làm mới” họ bằng cách qua sông lửa. Chỉ khi ấy linh hồn kia mới yên tâm rời bỏ thế giới trần tục về nơi vĩnh hằng.
Nhưng ông tôi lại đưa ra một triết lý rất riêng của mình rằng, việc một người chết vì ngoại cảnh cũng sẽ gây một cú sốc rất lớn với những người thân. Sự đau khổ ấy không chỉ nằm ở việc xót thương người chết, trong sâu thẳm của họ vẫn nghĩ rằng, người chết có thể đã mắc những sai lầm rất lớn nào đó, hoặc đã làm một điều ác mà bị trừng phạt…
Chính những suy nghĩ ấy sẽ dày vò, càng làm họ đau khổ. Và nhiệm vụ của thầy Tào không chỉ là đưa linh hồn người chết về nơi yên nghỉ mà còn phải làm vơi đi nỗi đau của người thân, nhẹ nhõm về tinh thần, tin tưởng vào cuộc sống…
Ông tôi bảo, đối với thầy Tào việc làm cho người còn sống thấy yên bình cũng quan trọng không kém việc đưa linh hồn người chết về với tổ tiên. Vì rằng, người chết họ sẽ có cuộc sống riêng của họ.
Nếu ta làm đúng cách, dẫn họ đi đến nơi cần đến, hát cho họ hiểu được rằng từ nay họ sẽ có một cuộc sống mới thì tất cả sẽ êm đẹp. Nhưng với những người còn sống, đặc biệt là người thân sẽ còn rất đau khổ. Vì thế, hình thức bước qua sông lửa là cách làm tốt nhất để làm dịu nỗi đau kia.
3. Mỗi lứa tuổi sẽ có cách làm ma riêng cho họ
Những người chết đã qua bảy mươi tuổi, việc đưa họ về tổ tiên rất nhẹ nhõm, giản đơn. Đám ma kiểu thế cũng rất ít âm khí vây quanh, những linh hồn nặng nề và còn nhiều luyến ái với trần tục cũng không thể làm gì người chết.
Bởi họ đã qua bảy mươi tuổi, thân xác kiệt khô, linh hồn cũng không non nớt nên chẳng ai dám làm phiền nhiễu. Kỳ thực những người lớn tuổi, linh hồn của họ thường đã ra khỏi thân xác rất nhiều lần ngay cả khi người ấy còn sống.
Đó chính là những giấc mơ, người lớn tuổi thường mộng mị rất nhiều, họ mơ thấy anh em, bè bạn, cha mẹ… chủ yếu là những người đã chết. Chính trong thời khắc đó, hay còn được hiểu suy nghĩ của họ, cũng có nghĩa linh hồn họ đã thoát ra ngoài, bay lượn ở giới âm, gặp gỡ những người thân, cha mẹ, bạn bè… vì thế khi chết đi, linh hồn họ chẳng xa lạ gì với thế giới linh hồn.
Mỗi lần đến những đám ma kiểu thế, ông tôi thường hát những bài bùa chú mang nội dung chúc tụng, ngợi ca người chết, kể cho họ nghe những công đức mà khi còn sống họ đã làm được… nói chung rất nhẹ nhõm.
Chỉ có những người chết dưới bốn mươi tuổi, mà họ đã lập gia đình, có con cái mới thật sự căng thẳng. Cũng dễ hiểu bởi, những người chết trẻ kia họ đã đủ “tiêu chuẩn” để làm ma vì đã có con cái, nhưng về thể xác lẫn tinh thần của họ còn rất trẻ, chưa bao giờ tinh thần của họ nghĩ đến cái chết, vì vậy sự luyến ái rất nặng nề. Lại thêm đám cô hồn xấu xa bên ngoài luôn rình rập, quấy nhiễu nên âm khí nặng nề.
Để làm ma cho họ, ông tôi thường viết rất nhiều lá bùa, bảo đám đệ tử dán khắp nơi. Đám người nhà không được phép khóc nhiều, đặc biệt người vợ (hoặc chồng) phải lánh xa thân xác người chết.
Những kẻ nhẹ vía, ốm đau không được đến đám ma vì những người như thế, cái “vách ngăn” của họ với giới âm rất mỏng, họ chỉ cần khóc nhiều sẽ bị mở “vách ngăn”, chẳng hạn như: ngất xỉu, ngủ quên, mệt lả… Chỉ đợi có thế những linh hồn đầy luyến ái sẽ xâm nhập vào họ, quấy nhiễu đời sống trần tục, làm loạn quy luật của âm dương.
Những đám ma như thế thường được ông tôi tiến hành các thủ tục rất nhanh, mọi công đoạn sẽ được rút ngắn. Và sau khi đã chôn cất xong người chết, người nhà cần gom tất cả đồ vật của người chết, mọi khăn tang, áo xô, cờ phướn, bùa chú… đều phải hóa.
Trong thời gian 49 ngày cũng không có bài vị để thờ vì khi làm ma ông tôi đã lập cho họ một bài vị riêng được gọi là trung giới. Nó được gọi là trung giới vì không được đặt ở trần gian, cũng chẳng ở giới âm mà ở một tầng khác. Sau 49 ngày cái bài vị ấy sẽ được ông tôi cải hóa và linh hồn sẽ bay về với tổ tiên.
Mục đích của việc “xóa sạch dấu vết” ấy là để người còn sống quên hẳn người chết. Ông tôi giải thích rằng, những người chết ở lứa tuổi ấy, sẽ để lại cho người sống nỗi nhớ nhung khôn nguôi. Nhưng người sống không thể đau khổ mãi được, vì thế việc để tang sẽ chẳng tốt lành gì.
Đặc biệt người vợ (hoặc chồng) có thể sẽ đi bước nữa, tiếp tục phần đời còn lại. Nếu cứ để tang, khóc thương, ám ảnh… những suy nghĩ ấy sẽ đi xuyên qua “vách ngăn” và linh hồn người chết dễ dàng “bắt được”. Như thế làm cho người chết cũng không yên nghỉ mà người sống càng buồn bã hơn.
Có những người vợ (hoặc chồng) vì quá đau khổ, lại mời phải thầy Tào không cao tay, làm ẩu mọi công đoạn nên sau đám tang thường mông mị gặp người chết, sự ám ảnh của những giấc mơ làm người còn sống luôn hoảng loạn và có thể phát điên.
Cũng rất nhiều lần nhiều người tìm đến ông tôi để xin được cắt mộng. Họ đều nói rằng nếu cứ mộng mị như thế sẽ không thể sống nổi.
4. Linh hồn không thể làm gì ở thế giới trần tục
Sau những đám ma, nếu người nhà còn mơ thấy người chết, chứng tỏ khả năng pháp thuật của thầy Tào chưa cao. Hoặc, khi thực hiện các nghi lễ đã mắc những sai sót nào đó. Và việc người nhà thường nằm mơ thấy người đã chết hiện về là một điều không tốt.
Ông tôi vẫn nói, nếu người nhà còn mơ gặp người đã chết, cũng có nghĩa linh hồn ấy chưa thực sự siêu thoát. Nhưng cũng không hẳn những giấc mơ kia đều do linh hồn của người thân ám ảnh.
Điều này phần nhiều phụ thuộc vào người còn sống. Tất nhiên, trong giấc mơ, mọi “thông tin” mà người còn sống nhận được đều không rõ ràng, thậm chí rất vô lý… Nhưng thế nào đi nữa, việc thường xuyên mơ thấy người mới chết chẳng tốt lành gì, đặc biệt với người đang sống.
Và việc cắt mộng cho họ vừa đơn giản, vừa phức tạp. Thông thường những người đến xin cắt mộng đều được chấp nhận sau khi đã kể tất cả những giấc mơ thường thấy cho ông tôi nghe. Cũng có trường hợp, sau khi kể lại sự mộng mị của mình, ông tôi bảo cứ về sống bình thường rồi mọi chuyện sẽ kết thúc.
Với những trường hợp cần cắt mộng, ông tôi lập một bàn cúng, bảo người cần cắt mộng đọc theo những lời ông nói. Tiếp sau, họ cần ngồi xếp tròn (thiền) khá lâu, để ông tôi nói gì đó bên cạnh. Hết bài cúng người đó được mời lại ăn cơm và đêm đó ngủ lại nhà của tôi. Trước khi đi ngủ, họ được uống một bát nước bùa do ông tôi pha chế.
Tất cả những người đến xin cắt mộng, hôm sau đều vui vẻ ra về, họ đều nói đêm qua ngủ rất ngon và chẳng mộng mị gì. Cũng từ đó tinh thần họ rất tốt, mọi ám ảnh, u sầu đều biến mất.
Theo ông tôi, giấc mộng của một người còn sống giống như một cái hồ nước. Ở đó những linh hồn có thể bơi vào và nhắn những “thông tin” cần thiết với hy vọng chuyển tải nó đến thế giới trần tục.
Bởi khi ta ngủ say, cái “vách ngăn” âm dương thường không được kiểm soát, tùy thuộc vào độ mỏng dày của từng người. Nếu vách ngăn ấy quá mỏng, hoặc mở toang, sẽ rất nhiều linh hồn đi vào để “nhắn” thông tin thông qua ngôn ngữ, hay hình ảnh mà ta thường mơ thấy.
Đó cũng là mấu chốt của việc những giấc mộng thường không rõ ràng, lộn xộn, đôi khi vô lý. Vì ông tôi cho rằng, chưa hẳn những “thông tin” trong giấc mơ đó là của người thân mình ở thế giới linh hồn.
Rất có thể những thông tin ấy là của các âm hồn khác. Đó là những âm hồn còn quá nặng nề với trần tục, họ luôn luôn muốn quay trở lại trần gian, hoặc chưa bao giờ tin mình đã chết.
Cũng có thể họ muốn mượn người đang còn sống làm giúp những việc ở trần gian (chẳng hạn như những oan hồn). Điều này chẳng lợi cho ai, cả người còn sống lẫn linh hồn. Người sống sẽ hoang mang lo sợ, còn linh hồn cũng chẳng bao giờ thực hiện được điều mong muốn.
Vì thế, cắt mộng cũng đồng nghĩa với việc kiểm soát được “vách ngăn” âm dương của người còn sống. Để kiểm soát được nó, cách tốt nhất ông tôi vẫn thường làm: tạo cho họ một độ vững cần thiết của thần kinh.
Ở đây không có gì thần bí, cũng chẳng dùng đến phép thuật cao cường nào. Bài thần chú, ông tôi vẫn đọc cho người cần cắt mộng nghe thường là một bài hát bằng tiếng Tày cổ, có âm điệu du dương như ru người ta ngủ.
Sau đó, cho họ uống bát nước bùa, thực chất là một loại thảo dược có tác dụng làm dịu thần kinh, kéo độ sâu của giấc ngủ xuống mức độ cần thiết. Nếu ai đó vì quá căng thẳng vẫn bị mộng mị thì uống nhiều lần trước khi đi ngủ, chỉ một thời gian sẽ chẳng còn mộng mị nữa.
Có lần tôi hỏi rằng, nếu linh hồn có thể đi vào giấc mơ của mình, thì tại sao không để cho linh hồn đi vào, biết đâu họ sẽ nói được với người còn sống những điều oan uổng mà khi còn sống họ phải gánh chịu? Ông tôi bảo, điều này là tối kỵ.
Âm dương không thể lẫn lộn. Điều quan trọng với các linh hồn là đi đúng đường, tới nơi cần tới, hay vẫn gọi là về với tổ tiên. Ngoài ra họ không cần thiết phải làm gì, cũng như một đứa trẻ, cần ăn uống cho tốt, học hành cho tốt vì đích đến là làm một con người tử tế và có ích.
Thông thường oan hồn vẫn được hiểu là linh hồn bị phát tán, bay vật vờ trong giới âm, họ đau đớn, tuyệt vọng, xót thương… chẳng khác nào đứa bé còi cọc, yếu về thể chất, kém về tinh thần sẽ khó trở thành người có ích. Vì thế cách tốt nhất vẫn là khuyên nhủ họ, cầu khấn cho họ, thực sự xót thương họ, cầu cho họ yên nghỉ…
Chỉ có những ý nghĩ chân thành, yêu thương ấy mới đủ sức mạnh xuyên qua “vách ngăn” tới được linh hồn, gom linh hồn lại, làm nhẹ mọi luyến ái, đưa họ bay lên tầng cao hơn, về với nơi cần về. Việc mở “vách ngăn” ấy để cho họ đi vào giấc ngủ của mình chẳng khác nào làm cho họ ngày càng nặng nề hơn, đau đớn, chẳng bao giờ đi đúng hướng (siêu thoát).
Ông tôi còn khẳng định: chỉ có người sống mới làm yên lòng linh hồn (người đã chết), còn linh hồn hay giới âm hoàn toàn không thể làm gì cho người sống. Còn những câu chuyện đại loại như linh hồn báo mộng để người còn sống tìm được một kho vàng nào đó thì không bao giờ có thật.
Những câu chuyện đại loại như thế, đều xuất phát từ tham vọng thô thiển của người còn sống. Nếu những linh hồn ấy có biết nơi cất giấu của cải, họ cũng không bao giờ chỉ cho người còn sống.
Vì họ tồn tại như ý nghĩ, cái ý nghĩ ấy không bao giờ muốn của cải bị chiếm đoạt bởi người khác, đơn giản vì bản thân linh hồn ấy đã bao giờ tin mình chết đâu! Còn với những linh hồn đã đi đúng hướng, mọi vật chất ở thế giới trần tục không còn quan trọng với họ nữa, điều họ cần ở người còn sống là những ý nghĩ chân thành dành cho họ, chỉ với sức mạnh của lòng từ tâm mới có ích cho họ ở thế giới xa xôi kia.
Nếu chiểu theo những quan điểm của ông tôi, mới thấy những linh hồn khác xa với suy nghĩ bình thường của chúng ta. Việc hy vọng vào sự phù trợ của những linh hồn, hay thần thánh ở cuộc sống trần tục sẽ chẳng bao giờ xảy ra. Sự hy vọng này chỉ xuất phát từ dục vọng của người đời.
Mục đích tối thượng của thầy Tào: cho linh hồn yên nghỉ bằng suy nghĩ chân thành. Nếu linh hồn ấy vẫn vật vờ “bay” vào giấc mơ của chúng ta cũng có nghĩa linh hồn ấy chưa tin mình đã chết, họ vẫn tưởng tượng rằng họ là con người, sống ngay cạnh chúng ta, họ vẫn ăn vẫn uống, vẫn làm việc (dù chỉ là lầm tưởng)…
Và như vậy họ sẽ không thể làm gì cho người sống, nếu có muốn cũng không thể vì khi đó họ chỉ tồn tại như ý nghĩ và ở một thế giới hoàn toàn khác biệt với thế giới trần tục này.
5. Qua thời gian, thân xác hoàn toàn không quan trọng với linh hồn
Gần đây nhiều nhà ngoại cảm xuất hiện. Họ không trải qua bất cứ hình thức luyện tập nào để khai mở nhãn thần. Có chăng chỉ là những chuyện mang tính huyền bí. Chẳng hạn như bị tai nạn, rồi thoát chết tự nhiên nhìn thấy thế giới linh hồn.
Việc gọi hồn người chết, được hiểu họ có thể “đối thoại” với một linh hồn nào đó, để chỉ ra những bộ hài cốt của mình bị thất lạc đâu đó trong trần gian. Khả năng đó ngoài tính huyền bí và vô lý còn mang tính vụ lợi, cái tính vụ lợi ở đây thể hiện rất rõ trong hành động có xu hướng chiếm đoạt vật chất.
Còn với linh hồn, cái đích cuối cùng và ở nền văn hóa nào cũng chỉ mong họ được yên nghỉ, được đi đến nơi họ cần đến. Ngoài điều đó linh hồn chẳng cần thiết đem theo cái gì để đến thế giới của họ.
Việc tìm lại những bộ hài cốt, được hiểu đó là những gì còn lại của thân xác cũng rất quan trọng, nhưng không quyết định sự siêu thoát của linh hồn. Hiểu một cách khác, đó là những vật chất còn lại ở trần gian của linh hồn.
Theo quan điểm của thầy Tào, nếu một linh hồn có mồ mả hẳn hoi, sẽ có một phần linh hồn như đã nói được gọi là “Hén Mo”(trông mộ), phần linh hồn này có nhiệm vụ trông coi ngôi mộ và liên lạc với người thân thông qua những giấc mơ. Nhưng đó chỉ có ích khi linh hồn mới lìa khỏi thân xác.
Theo thời gian cái “vách ngăn” của người còn sống đã ổn định, cũng đồng nghĩa với việc liên lạc ấy không còn, hoặc rất ít. Thực tế chỉ ra rằng, chúng ta sẽ hiếm hoi mơ thấy cha mẹ, hoặc ông bà khi những người ấy mất khá lâu.
Cái bộ hài cốt (thân xác còn lại) nằm ở ngôi mộ là nơi để chúng ta dễ nhớ đến họ, vào những dịp tết lễ chúng ta đến đó thắp hương, cầu khấn, chính khi đó nếu thật thành tâm, hội tụ đủ sức mạnh, ý nghĩ sẽ xuyên qua “vách ngăn” để linh hồn ở giới âm nhận được.
Và càng nhiều ý nghĩ chân thành thì linh hồn càng nhẹ nhõm, bay lượn ở tầng cao của thế giới vĩnh hằng ấy. Ở chừng mực nào đó, có thể hiểu ngôi mộ (chứa hài cốt) là nơi để ý nghĩ (sự thành tâm) xuất phát đi xuyên qua “vách ngăn” tới được linh hồn. Ngoài ra không còn ý nghĩa quan trọng nào khác.
Nhưng, ý nghĩ của chúng ta, có thể xuất phát bất cứ lúc nào, ở mọi hoàn cảnh đều có thể nghĩ đến người thân đã mất. Vì thế việc có bộ hài cốt, hay ngôi mộ không quyết định đến sự siêu thoát của linh hồn. Nó chỉ mang nhiều ý nghĩa với người còn sống.
Chỉ vì người còn sống vẫn quan niệm: thân xác ở đâu, linh hồn ở đó. Nên họ mong muốn tìm được thân xác người thân, chôn cất cẩn thận và thờ cúng để linh hồn được yên nghỉ. Điều này không sai, nhưng hoàn toàn không quan trọng và cần thiết.
Với những trường hợp chết không biết thân xác ở đâu, ông tôi vẫn làm ma cho họ một cách bình thường. Và bao giờ cũng làm cho họ một ngôi mộ giả. Ở đó chỉ cần chôn theo một di ảnh, hay một đồ vật nào đó của người chết.
Bởi khi làm ma, những phương pháp của thầy Tào đã gom đủ linh hồn, đưa vào bài vị, dẫn đi đúng đường, đến nơi cần đến. Thế nên ngôi mộ giả ấy chỉ mang tính chất tượng trưng, và sau này nếu tìm thấy thấy hài cốt (thân xác) có thể chôn xuống chính ngôi mộ ấy, chẳng ảnh hưởng đến linh hồn ở giới âm.
Không nên hiểu linh hồn cũng như con người. Có thể thân xác của người chết ở tận đâu đó rất xa, nhưng linh hồn họ khi ấy tồn tại như ý nghĩ, vì vậy không gian, thời gian chẳng còn ý nghĩa gì. Thân xác có thể ở tận nước ngoài, nhưng chỉ cần ta nghĩ đến họ, lập tức họ ở ngay cạnh ta vì họ là ý nghĩ.
Chỉ tiếc, thời nay có quá nhiều “thầy” không biết khả năng khai mở nhãn thần đến đâu, nhưng họ rất biết lợi dụng vào tâm lý của người còn sống để khoa trương thanh thế và trục lợi. Cũng có trường hợp, luyện tập chưa xong, hiểu biết còn ít đã nhảy ra làm thầy nên làm sai lệch những quy luật của âm dương.
Có vị “ngoại cảm” đã khăng khăng miêu tả rằng, nhìn thấy linh hồn và trò chuyện được với họ. Và theo như vị đó miêu tả, linh hồn đó mờ ảo có hình như con người, thậm chí còn miêu tả dung mạo của linh hồn ấy.
Điều này chứng tỏ, sức tưởng tượng của vị “ngoại cảm” rất nghèo nàn. Thế giới linh hồn không có hình thù nào cụ thể, đó là ý nghĩ: không hình, không màu, không mùi vị, không âm thanh, không vật chất… chỉ có ý nghĩ, rất trừu tượng, rất mơ hồ ngoài sức tưởng tượng của con người.
Sự quả quyết của vị “ngoại cảm” ấy, chẳng qua chỉ liên tưởng từ thế giới trần tục rồi áp đặt vào giới âm. Như thế thật thô thiển và lộ rõ sự lòe bịp.
Hơn nữa, khi bước vào giới âm, có vô vàn linh hồn, ở nhiều tầng khác nhau, làm sao có thể nhận ra một linh hồn cụ thể nếu như chỉ dựa vào tên tuổi, quê quán, hay một số di vật mà người còn sống đưa cho.
Ở đây cũng thấy rõ họ “bắt chước” thế giới trần tục, theo kiểu tra hồ sơ. Đừng ngây thơ nghĩ rằng, nhắm mắt rồi đọc tên tuổi của họ thì họ sẽ hiện ra, hoặc đưa những di vật (quần áo, đồ đạc...) của linh hồn khi còn sống thì họ cũng hiện về.
Nếu hiểu như thế chứng tỏ vị “ngoại cảm” đó chẳng biết gì về giới âm, cũng có nghĩa khả năng “giao tiếp” với linh hồn là sự bịa đặt. Nên nhớ linh hồn chỉ liên thông với thế giới trần tục bằng một “kênh” duy nhất, đó là ý nghĩ!
Những “thầy” kiểu ấy không chỉ riêng thời nay mới có, từ rất xa xưa vẫn cứ tồn tại những vị như vậy. Ông tôi bảo, thầy Tào cũng có nhiều trường phái, mỗi trường phái đều có cách thức riêng của mình để hiểu biết về linh hồn.
Nhưng cái quan trọng bậc nhất vẫn phải đưa được linh hồn về nơi cần đến. Còn tất cả những ai không đi theo quan niệm này đều là tà giáo. Để phân biệt tà giáo hay chính giáo trong thế giới tinh thần con người rất khó khăn. Chỉ có điều, cho đến một ngày tất cả chúng ta đều trở thành linh hồn (chết đi), chỉ khi đó mới thực sự biết cái gì đang đợi linh hồn của mình.
6. Lời kết: Hãy chân thành, trong sáng để bay lượn ở
tầng cao nhất của thế giới linh hồn.
…Và khi còn sống nếu ý nghĩ của chúng ta chân thành, trong sáng, hành động của chúng ta cao đẹp cũng có nghĩa linh hồn chúng ta sẽ nhẹ nhõm, dễ dàng siêu thoát.
Còn ai đó xấu xa trong ý nghĩ, nặng nề với dục vọng, nhiều hành động sai trái, tất nhiên linh hồn nặng nề nằm ở tầng thấp nhất của giới âm.
Và khi đó sự đau đớn sẽ đến, cái tầng thấp nhất ấy nằm rất gần với thế giới vật chất phàm tục của con người. Ông tôi, một thầy Tào, bảo thế!
A Sáng
#94
Gửi vào 19/06/2011 - 08:30
CÕI ÂM LÀ CÓ THẬT
Các nhà khoa học Nga cho biết họ đã liên lạc được với thế giới của người chết, và đang dần đi đến một khẳng định rằng cõi âm là có thật
Một vụ tai nạn kinh hoàng xảy ra tại Nga vào tháng 8/2004, hai chiếc máy bay đã rơi cùng một lúc tại hai địa điểm cách nhau khoảng 720km, cướp đi mạng sống của 90 người gồm cả phi hành đoàn và hành khách.
Trong khi cơ quan điều tra liên bang Nga đang có mặt tại hiện trường ở khu vực Rostov và Tula để điều tra, phân tích nguyên nhân gây ra tai nạn, thì các nhà khoa học tại thành phố Saint Peterburg đã biết được rằng, đó là một vụ khủng bố.
Họ đã thu được những âm thanh lạ phát đi ở dạng sóng cực ngắn, sau khi giải mã họ đã vô cùng bàng hoàng khi nghe được giọng nói:
- Đó là một tên khủng bố.
Đây thực sự là một tin gây chấn động đối với người dân, và những lời nói kể trên đã được chính thức phát lại trên đài phát thanh Saint Petersburg. Những người vốn trước đây không tin, cuối cùng đã phải công nhận rằng thế giới âm thực sự tồn tại.
Từ thời xa xưa, người ta đã có ý thức và cố gắng liên lạc với thế giới âm bằng cách này hay cách khác. Các thầy tế và pháp sư đã dùng biện pháp thôi miên để có thể nghe được những giọng nói phát đi từ những hành tinh khác.
Rồi đến những nhà thần linh học (spiritists) cũng đã nỗ lực không ngừng để đọc được những thông điệp từ âm ty bằng cách quay tròn một chiếc đĩa nhỏ. Tất cả họ đều nhận thấy rằng thỉnh thoảng những linh hồn có thể tiết lộ những thông tin bí mật về một số người, nơi chốn nào đó hoặc thậm chí có thể dự đoán trước được những sự kiện sắp xảy ra.
Vyachelsav Mesherakov, một chuyên gia nghiên cứu về lịch sử của thuyết duy linh, tuyên bố rằng một số thầy phù thủy còn có khả năng làm cho những người đã chết sống lại trong một thời gian ngắn.
Những thây ma được làm cho sống lại này có những hành động ma quái, mặc dù hình dạng vẫn giống như khi còn sống. Những người phản đối thuyết duy linh thì cho rằng những bức tranh về những thây ma bị phù phép là giả mạo.
Từ khi phát minh về sóng vô tuyến ra đời, người ta đã thấy những tiếng nói lạ xuất hiện trên nền sóng phát thanh. Vào năm 1949 một người Ý có tên Marcelo Becky đã thu lại những tiếng nói đó, và phát hiện ra rằng người ta có thể hồi đáp lại chúng.
Giáo sư Artem Mikheev thuộc Đại học kỹ thuật vô tuyến đã quan tâm đến vấn đề này. Ông đã thành lập ra tổ chức Russian Instrumental Transcommunication (Tổ chức linh thông học phương tiện Nga) với mục tiêu hợp tác với thế giới âm.
Những thí nghiệm của các đồng nghiệp nước ngoài đã thôi thúc Artem Mikheev tự tiến hành những thí nghiệm của riêng mình vào năm 2002. Ông phát hiện ra rằng mình vẫn có thể nhận được những câu trả lời của các hồn ma ngay cả khi micro đã được tắt đi.
Mikheev kể lại rằng ngay trong cái ngày xảy ra vụ tai nạn máy bay kể trên, ông đã tiến hành liên lạc với thế giới bên kia, mong được cho biết về nguyên nhân của thảm kịch.
Lời đáp ông nhận được ở trạng thái rất nhanh và lộn xộn. Sau khi giảm tốc độ của lời nói đó xuống 2,5 lần, Artem đã cuối cùng đã có thể nghe được câu trả lời là: "Đó là một tên khủng bố".
Một vài ngày sau đó, thông tin này đã chính thức được xác nhận là đúng. Artem Mikheev thực sự tin rằng cuộc sống sau khi chết là có thật.
Trong một cuộc nói chuyện với các linh hồn, Artem đã hỏi rằng liệu con người và các loài động vật sau khi chết đi có duy trì được nguyên kích thước của mình hay không, giọng nói trả lời:
- Bạn tồn tại giống như sóng điện.
Vitinfor
Các nhà khoa học Nga cho biết họ đã liên lạc được với thế giới của người chết, và đang dần đi đến một khẳng định rằng cõi âm là có thật
Một vụ tai nạn kinh hoàng xảy ra tại Nga vào tháng 8/2004, hai chiếc máy bay đã rơi cùng một lúc tại hai địa điểm cách nhau khoảng 720km, cướp đi mạng sống của 90 người gồm cả phi hành đoàn và hành khách.
Trong khi cơ quan điều tra liên bang Nga đang có mặt tại hiện trường ở khu vực Rostov và Tula để điều tra, phân tích nguyên nhân gây ra tai nạn, thì các nhà khoa học tại thành phố Saint Peterburg đã biết được rằng, đó là một vụ khủng bố.
Họ đã thu được những âm thanh lạ phát đi ở dạng sóng cực ngắn, sau khi giải mã họ đã vô cùng bàng hoàng khi nghe được giọng nói:
- Đó là một tên khủng bố.
Đây thực sự là một tin gây chấn động đối với người dân, và những lời nói kể trên đã được chính thức phát lại trên đài phát thanh Saint Petersburg. Những người vốn trước đây không tin, cuối cùng đã phải công nhận rằng thế giới âm thực sự tồn tại.
Từ thời xa xưa, người ta đã có ý thức và cố gắng liên lạc với thế giới âm bằng cách này hay cách khác. Các thầy tế và pháp sư đã dùng biện pháp thôi miên để có thể nghe được những giọng nói phát đi từ những hành tinh khác.
Rồi đến những nhà thần linh học (spiritists) cũng đã nỗ lực không ngừng để đọc được những thông điệp từ âm ty bằng cách quay tròn một chiếc đĩa nhỏ. Tất cả họ đều nhận thấy rằng thỉnh thoảng những linh hồn có thể tiết lộ những thông tin bí mật về một số người, nơi chốn nào đó hoặc thậm chí có thể dự đoán trước được những sự kiện sắp xảy ra.
Vyachelsav Mesherakov, một chuyên gia nghiên cứu về lịch sử của thuyết duy linh, tuyên bố rằng một số thầy phù thủy còn có khả năng làm cho những người đã chết sống lại trong một thời gian ngắn.
Những thây ma được làm cho sống lại này có những hành động ma quái, mặc dù hình dạng vẫn giống như khi còn sống. Những người phản đối thuyết duy linh thì cho rằng những bức tranh về những thây ma bị phù phép là giả mạo.
Từ khi phát minh về sóng vô tuyến ra đời, người ta đã thấy những tiếng nói lạ xuất hiện trên nền sóng phát thanh. Vào năm 1949 một người Ý có tên Marcelo Becky đã thu lại những tiếng nói đó, và phát hiện ra rằng người ta có thể hồi đáp lại chúng.
Giáo sư Artem Mikheev thuộc Đại học kỹ thuật vô tuyến đã quan tâm đến vấn đề này. Ông đã thành lập ra tổ chức Russian Instrumental Transcommunication (Tổ chức linh thông học phương tiện Nga) với mục tiêu hợp tác với thế giới âm.
Những thí nghiệm của các đồng nghiệp nước ngoài đã thôi thúc Artem Mikheev tự tiến hành những thí nghiệm của riêng mình vào năm 2002. Ông phát hiện ra rằng mình vẫn có thể nhận được những câu trả lời của các hồn ma ngay cả khi micro đã được tắt đi.
Mikheev kể lại rằng ngay trong cái ngày xảy ra vụ tai nạn máy bay kể trên, ông đã tiến hành liên lạc với thế giới bên kia, mong được cho biết về nguyên nhân của thảm kịch.
Lời đáp ông nhận được ở trạng thái rất nhanh và lộn xộn. Sau khi giảm tốc độ của lời nói đó xuống 2,5 lần, Artem đã cuối cùng đã có thể nghe được câu trả lời là: "Đó là một tên khủng bố".
Một vài ngày sau đó, thông tin này đã chính thức được xác nhận là đúng. Artem Mikheev thực sự tin rằng cuộc sống sau khi chết là có thật.
Trong một cuộc nói chuyện với các linh hồn, Artem đã hỏi rằng liệu con người và các loài động vật sau khi chết đi có duy trì được nguyên kích thước của mình hay không, giọng nói trả lời:
- Bạn tồn tại giống như sóng điện.
Vitinfor
#95
Gửi vào 19/06/2011 - 08:33
NHÀ QUAY PHIM PHẠM KHẮC ĐÀM KỂ CHYỆN RÙNG RỢN
Chuyện ma quỷ có người tin có người không. Nói như thiền sư Vũ Công Lý “vấn đề anh tin hay không mặc xác anh. Có những chuyện không cần anh tin nó vẫn có”.
Trong tinh thần đó câu chuyện của của nhà quay phim Phạm Khắc Đàm, nói về “cây súng bị ma đòi”.. cũng làm những người yếu bóng vía phải xanh mặt.
Tuy nhiên như đã thưa ở trên, vấn đề tâm linh không ai bắt ai tin được. Và chuyện ma cỏ không phải ai cũng thấy. Tất cả những câu chuyện do các nhân vật có thật kể ra trên, không nhằm mục đích tạo sự hoang mang cho mọi người.
Đơn giản là những câu chuyện đã được không riêng gì một người, mà nhiều người đã nói tới trong thời gian qua… Đây là những kinh nghiệm tâm linh cá nhân kể cho nhau nghe nhân mùa lễ tết.
VW: Anh Phạm Khắc Đàm kể một câu chuyện anh chứng kiến hoặc là anh nghe kể lại chuyện ma quỷ như thế nào?
PKĐ: Đây là một câu chuyện thực mà sau đó tôi đã kiểm chứng. Năm đó là năm bảy mươi hai. Mùa Hè Đỏ Lửa tôi ra trường với cấp bực Chuẩn Úy.
Ngày tôi trình diện đơn vị, hôm đó đơn vị tôi đóng trong cổng Mỹ trên đồi Con Eùn, trong xã Cầm Mỹ, cách Long Khánh khoảng hai mươi bảy cây số. Đoạn đường đó một ngày có một chuyến xe thôi.
Năm bảy mươi hai không được an ninh. Tôi nhớ rằng buổi chiều hôm đó, hậu cứ của tiểu đoàn có một chiếc xe Dodge, tôi quá gian chiếc xe Dodge đó đi vô trong đơn vị, vào khoảng độ hơn năm giờ chiều.
Khi tôi bước chân khỏi xe Dodge, đang còn ngồi trên ba lô, ông Đại úy Nhơn ra gặp. Tôi ngắn gọn, cho biết tôi là sĩ quan mới ra trường đến trình diện đơn vị.
Ông vô kêu Thiếu tá Tiểu đoàn Trưởng ra, Thiếu tá Tiểu đoàn Trưởng nói là, tối rồi vào Bộ chỉ Huy Tiểu đoàn ngày mai tính, tức là sẽ đưa tôi ra Đại đội nào đó. Một đơn vị nằm trên một ngọn đồi đêm không có đèn, Tiểu đoàn Trưởng nói tôi đi lên trên đồi.
Đêm hôm đó tôi ngủ tại phòng Trung Úy Lâm A Si, Đại đội Trưởng đại đội yểm trợ chỉ huy. Trung úy ngủ ở trên tấm ván đóng bằng thùng đạn 105 ly, còn dư cái võng, Trung úy nói là cho tôi nằm.
Đó là đêm đầu tiên, tôi không biết gì về đơn vị mới và tôi không biết gì về căn hầm đó cả. Tối tôi ngủ mơ mơ màng màng, ba lần trong đêm, tôi cứ nghe có ai đó nói, ông làm ơn trả lại cho tôi khẩu súng, ông làm ơn trả lại cho tôi khẩu súng…
Sự thực tôi mới trình diện đơn vị, chưa lãnh một khẩu súng nào hết, từ M-16 đến Colt. Đến lần thứ ba như vậy, tôi nhớ mắt tôi còn mở nhìn qua cửa của căn hầm thấy ánh trăng, tôi vẫn nghe câu trả lại cho tôi khẩu súng…
Lúc đó giống như có cái gì đè ở trên ngực, tôi nằm gần như là bất động, cố gắng lắm chân của tôi vẫn còn mang đôi giày bốt đờ sô, rời khỏi thành võng rớt xuống cái rầm.
Trung úy Lâm A Si, Đại đội Trưởng yểm trợ, chỉ huy Đại đội của Tiểu đoàn hỏi tôi chuyện gì đó. Tôi nói không có gì cả, trời cũng gần sáng.
Đến sáng, năm sĩ quan Tiểu đoàn trong đó có Trưởng ban ba, Trưởng phòng Truyền tin, Trưởng ban năm, Trưởng ban hai ra ngoài sân. Tiểu đoàn mới nói: quan nhỏ đâu trình diện coi, đi uống cà phê.
Tất cả đều kéo xuống quán cà phê ở dưới chân đồi trong xã Cầm Mỹ, tại đó tôi mới thắc mắc, hỏi mấy xếp là tại sao kỳ vậy, tôi mới ra đơn vị, chưa nhận một khẩu súng nào cả, mà trong đêm, cả ba lần có người cứ đòi súng.
Mấy ổng mới cười lên nói rằng: Trung úy Tới nó đòi súng cậu. Tôi mới nói: lạ nhỉ tôi chưa nhận khẩu súng nào cả tại sao đòi.
Thế là sau cữ cà phê đó, lúc trở về tôi mới tìm hiểu. Câu chuyện là như vầy. Ở đầu võng của tôi có đóng một cây đinh, mục đích treo cái dây ba chạc, mà trong dây ba chạc đó, có một cái khẩu súng trước kia của Trung úy Tới.
Khi ông chết ông nằm úp, khẩu súng nằm ở dưới bụng, sau tai nạn đó khẩu súng cứ đưa đến tay ai, người đó đều bị ông về đòi súng.
Đó là câu chuyện mà tôi chứng kiến trong cuộc đời cách đây vào khoảng độ ba mươi lăm năm. Khẩu súng hình như có linh hồn của một người bạn cùng đơn vị của tôi.
Lê La
Chuyện ma quỷ có người tin có người không. Nói như thiền sư Vũ Công Lý “vấn đề anh tin hay không mặc xác anh. Có những chuyện không cần anh tin nó vẫn có”.
Trong tinh thần đó câu chuyện của của nhà quay phim Phạm Khắc Đàm, nói về “cây súng bị ma đòi”.. cũng làm những người yếu bóng vía phải xanh mặt.
Tuy nhiên như đã thưa ở trên, vấn đề tâm linh không ai bắt ai tin được. Và chuyện ma cỏ không phải ai cũng thấy. Tất cả những câu chuyện do các nhân vật có thật kể ra trên, không nhằm mục đích tạo sự hoang mang cho mọi người.
Đơn giản là những câu chuyện đã được không riêng gì một người, mà nhiều người đã nói tới trong thời gian qua… Đây là những kinh nghiệm tâm linh cá nhân kể cho nhau nghe nhân mùa lễ tết.
VW: Anh Phạm Khắc Đàm kể một câu chuyện anh chứng kiến hoặc là anh nghe kể lại chuyện ma quỷ như thế nào?
PKĐ: Đây là một câu chuyện thực mà sau đó tôi đã kiểm chứng. Năm đó là năm bảy mươi hai. Mùa Hè Đỏ Lửa tôi ra trường với cấp bực Chuẩn Úy.
Ngày tôi trình diện đơn vị, hôm đó đơn vị tôi đóng trong cổng Mỹ trên đồi Con Eùn, trong xã Cầm Mỹ, cách Long Khánh khoảng hai mươi bảy cây số. Đoạn đường đó một ngày có một chuyến xe thôi.
Năm bảy mươi hai không được an ninh. Tôi nhớ rằng buổi chiều hôm đó, hậu cứ của tiểu đoàn có một chiếc xe Dodge, tôi quá gian chiếc xe Dodge đó đi vô trong đơn vị, vào khoảng độ hơn năm giờ chiều.
Khi tôi bước chân khỏi xe Dodge, đang còn ngồi trên ba lô, ông Đại úy Nhơn ra gặp. Tôi ngắn gọn, cho biết tôi là sĩ quan mới ra trường đến trình diện đơn vị.
Ông vô kêu Thiếu tá Tiểu đoàn Trưởng ra, Thiếu tá Tiểu đoàn Trưởng nói là, tối rồi vào Bộ chỉ Huy Tiểu đoàn ngày mai tính, tức là sẽ đưa tôi ra Đại đội nào đó. Một đơn vị nằm trên một ngọn đồi đêm không có đèn, Tiểu đoàn Trưởng nói tôi đi lên trên đồi.
Đêm hôm đó tôi ngủ tại phòng Trung Úy Lâm A Si, Đại đội Trưởng đại đội yểm trợ chỉ huy. Trung úy ngủ ở trên tấm ván đóng bằng thùng đạn 105 ly, còn dư cái võng, Trung úy nói là cho tôi nằm.
Đó là đêm đầu tiên, tôi không biết gì về đơn vị mới và tôi không biết gì về căn hầm đó cả. Tối tôi ngủ mơ mơ màng màng, ba lần trong đêm, tôi cứ nghe có ai đó nói, ông làm ơn trả lại cho tôi khẩu súng, ông làm ơn trả lại cho tôi khẩu súng…
Sự thực tôi mới trình diện đơn vị, chưa lãnh một khẩu súng nào hết, từ M-16 đến Colt. Đến lần thứ ba như vậy, tôi nhớ mắt tôi còn mở nhìn qua cửa của căn hầm thấy ánh trăng, tôi vẫn nghe câu trả lại cho tôi khẩu súng…
Lúc đó giống như có cái gì đè ở trên ngực, tôi nằm gần như là bất động, cố gắng lắm chân của tôi vẫn còn mang đôi giày bốt đờ sô, rời khỏi thành võng rớt xuống cái rầm.
Trung úy Lâm A Si, Đại đội Trưởng yểm trợ, chỉ huy Đại đội của Tiểu đoàn hỏi tôi chuyện gì đó. Tôi nói không có gì cả, trời cũng gần sáng.
Đến sáng, năm sĩ quan Tiểu đoàn trong đó có Trưởng ban ba, Trưởng phòng Truyền tin, Trưởng ban năm, Trưởng ban hai ra ngoài sân. Tiểu đoàn mới nói: quan nhỏ đâu trình diện coi, đi uống cà phê.
Tất cả đều kéo xuống quán cà phê ở dưới chân đồi trong xã Cầm Mỹ, tại đó tôi mới thắc mắc, hỏi mấy xếp là tại sao kỳ vậy, tôi mới ra đơn vị, chưa nhận một khẩu súng nào cả, mà trong đêm, cả ba lần có người cứ đòi súng.
Mấy ổng mới cười lên nói rằng: Trung úy Tới nó đòi súng cậu. Tôi mới nói: lạ nhỉ tôi chưa nhận khẩu súng nào cả tại sao đòi.
Thế là sau cữ cà phê đó, lúc trở về tôi mới tìm hiểu. Câu chuyện là như vầy. Ở đầu võng của tôi có đóng một cây đinh, mục đích treo cái dây ba chạc, mà trong dây ba chạc đó, có một cái khẩu súng trước kia của Trung úy Tới.
Khi ông chết ông nằm úp, khẩu súng nằm ở dưới bụng, sau tai nạn đó khẩu súng cứ đưa đến tay ai, người đó đều bị ông về đòi súng.
Đó là câu chuyện mà tôi chứng kiến trong cuộc đời cách đây vào khoảng độ ba mươi lăm năm. Khẩu súng hình như có linh hồn của một người bạn cùng đơn vị của tôi.
Lê La
#96
Gửi vào 19/06/2011 - 08:38
BÍ MẬT VỀ CHAI NƯỚC TRONG VÀ BỆNH ĐIÊN KỲ DỊ
Cho đến tận bây giờ, tôi cũng chưa biết đích xác cha tôi chữa "bệnh điên" cho người ta ra làm sao, bằng cách gì, dùng phương thuốc đặc trị nào? Đó là một căn bệnh khó chữa vào hàng bậc nhất nhì từ xưa nay, cho dù đó chỉ là một thứ bệnh lý về tâm thần, mất năng lực tự chủ, và không kiềm chế được hành vi.
Ở quê tôi, nhiều người mắc căn bệnh này đã vào viện, hoặc chuyên khoa tâm thần khám và điều trị. Nhưng mãi không khỏi. Họ đành quay lại tìm đến cha tôi.
Không chỉ chữa bệnh cho người, cha tôi còn có thể cầm máu, bắt giòi cho trâu bò. Khi chúng bị vắt rừng cắn, bị ngã xuống vực, đá đâm thủng ruột… Nếu không cứu chữa kịp thời, chỗ bị thương sẽ nhiễm trùng. Máu chảy mãi đến khi kiệt sức. Con giòi đục mãi vào thịt. Trâu bò sẽ lăn ra mà chết.
Phải có đến sáu bảy chục năm, dù cha tôi không chuyên hành nghề nhưng vẫn thường xuyên đi chữa bệnh. Những người dân truyền tin cho nhau về khả năng kỳ lạ này, ngày một lan rộng.
Cha tôi sẵn lòng giúp mà không kèm theo bất cứ một đòi hỏi vật chất nào. Những người bị điên được cha tôi chữa đều khỏi hẳn. Hiện nay họ đã thành ông thành bà, đang có cuộc sống bình thường và yên ổn như mọi người dân khác. Và họ vẫn quan hệ thân tình với người nhà tôi, suốt từ mấy chục năm nay. Hầu hết mọi người đều nhận làm con nuôi của cha tôi.
Ngày cha tôi mất, khắp cánh đồng Bo Păn trước nhà tôi rợp một màu khăn tang trắng xóa. Người gánh gạo. Người gánh rượu. Người vác củi… nườm nượp mang đến giúp cho nhà tôi làm lễ tang cha. Một bầu không khí đau thương nặng nề trùm xuống. Nhưng bù lại, tình cảm mọi người dành cho chúng tôi thật thân tình, ấm áp. Nên nỗi buồn mất cha cũng dịu đi được phần nào.
Có thể nói đây là một đám tang kỳ lạ nhất mà tôi được chứng kiến (Tôi từng được cha cho đi theo đánh trống đám ma từ lúc lên tám tuổi). Có ba ông thày tào. Sáu bà bụt luông. Họ đều là những học trò xuất sắc và tin cẩn của cha tôi.
Năm ngày bảy đêm tưng bừng nhảy múa và ca hát. Trống chiêng não bạt ầm vang. Tiếng soóc nhạc. Tiếng pí lè. Tiếng con ốc cạn. Tiếng sừng trâu út út vọng vào vách núi, không lúc nào ngưng nghỉ. Làm át đi những tiếng khóc thương cha thống thiết não nùng. Cây cỏ trên rừng cũng dỏng lá lên nghe. Chim chóc đậu đầy trên nóc nhà. Chúng ngừng im tiếng hót. Đá trên núi ngồi buồn xám ngoét. Mây trên trời vần vũ đớn đau. Chiều kéo ngày đi lằng lặng tối. Người người đi lại trong màn đêm đen như keo đặc.
Chốc chốc lại có người đòi mang thóc ra cho ngựa. Gọi là ngựa nhưng kỳ thực đó là một con hổ lông xám. Gọi chệch đi cho đỡ sợ. Phải là người nhẹ vía thì mới trông thấy. Nó nhai thóc rau ráu. Ăn xong hổ lên quả đồi sau lưng nhà tôi choãi chân nằm phủ phục. Nó hít hà hương khói. Lắc lắc cái đầu. Ve vẩy cái đuôi. Lim dim đôi mắt. Khi vầng dương ánh lên le lói, ông ba mươi lẹ làng tan biến vào làn sương mỏng. Làn sương bay lên trời, cuốn theo một con hổ đang biến hình.
Trong khi đó, các thày tào bà bụt vẫn miệt mài diễn tả lại toàn bộ cảnh sinh hoạt thường ngày khi cha tôi còn sống. Họ bắt chước ông giống y như thật. Từ giọng nói, tiếng cười, kiểu ngồi, dáng đi… đều là hình bóng cha tôi. Chứ không phải họ nhập vai theo một kịch bản nào.
Đây rồi. Lũ người điên bắt đầu xuất hiện. Có người nuốt cả một hòn than đang hồng rực vào trong cuống họng. Có người đi chân không trên lưỡi dao mài sắc. Thế mà không cứa đứt một giọt máu tươi. Có người ngồi trên một mâm gai nhọn. Trên gai nhọn có phủ một tờ giấy mỏng. Họ khoanh chân ngồi theo kiểu kiết dzà. Không những ngồi im mà họ còn nảy cong cả người lên, lấy đà rơi xuống. Phập!
Lại có người nhảy vào một đống than lửa đang cháy rực. Dùng cả hai tay bới lửa lên tung tóe. Nhưng tuyệt nhiên trên người họ không hề có vết bỏng. Chỉ thấy trên tóc, trên vai áo có bụi tro và tàn lửa rơi lốm đốm. Khi người đóng vai cha tôi xuất hiện.
Ông lừng lững bước vào khuôn cửa. Những người điên nhất loạt đứng đâu ở yên đó. Không ai dám ho he nhúc nhích. Cha tôi cất tiếng gọi từng người. Họ khoanh tay vâng dạ. Ba mươi phút sau, họ hoàn hồn. Thu hết thần cuốn hết vía. Các ông thày tào bà bụt lại ngồi đàng hoàng uống rượu, bỏm bẻm nhai trầu và nói chuyện mùa màng.
Lúc còn sống. Cả đời cha tôi chỉ biết thở và cười. Gặp ai cũng cười. Mở miệng là cười. Nuôi con từ bé đến lớn, ông không hề đánh mắng con cái. Không hề nặng lời với bất cứ ai. Ông bảo, ta được sống thảnh thơi ở trên đời này là một chữ phúc nhỏ. Được sống cùng với bao con người khác, giữa vạn vật và muôn loài, mới là chữ phúc to.
Hãy biết quý rừng xanh mây trắng, sông suối hiền hòa. Bởi đó là nơi chốn đi về cả phần hồn lẫn thể xác. Hễ trông thấy đàn kiến đang đi, hãy nhường đường cho chúng. Mỗi con kiến là một sinh mạng. Thấy chữ rơi không được bước qua, mà phải thành kính cúi xuống nhặt lên và đem đốt đi.
Chữ thánh hiền không được bỗ bã xúc phạm. Nhờ có chữ mà ta biết vì sao hạt thóc nhọn hai đầu. Trên đời này chỉ có hai thứ đen. Mắt người đen và chữ viết đen. Biết trọng chữ nghĩa mới là người có nhân cách.
Thấy ai rách rưới, không được xem thường. Bởi vì chẳng may họ gặp vận hạn. Người ăn xin ăn mày đến nhà, phải mời người ta ở lại. Ta có gì thì cho họ ăn, cho họ uống và cho họ cái mặc. Ăn xin ăn mày cũng là ta. Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày.
Ông nói rằng trên đời này không có ai là xấu. Chỉ có lòng tham, thói ích kỷ, sự hận thù là xấu. Hãy chuyển hóa những thứ đó thành phân, để bón tốt cho lúa đồng.
Đã có nhiều người hỏi ông chữa bệnh điên bằng gì? Cha tôi chỉ cười mà chưa bao giờ nói. Phù phép chăng? Ai cũng cho rằng ông chữa bằng phù phép. Tôi cũng nghĩ thế. Ông vẫn chỉ cười. Khi tôi đã lập gia đình và sinh hai cháu nhỏ. Có lần tôi hỏi dùng thuốc gì mà chữa được bệnh điên.
Ông trầm ngâm, lặng đi một lúc lâu. “Con là người nóng tính. Ham hố nhiều như tóc. Riêng điều này con không thể học và làm được.” Ông giảng giải “Cha không chữa bằng thuốc. Mà bằng trái tim. Con hiểu không.
Trái tim yêu thương con người. Trái tim phải rộng lớn mới mong làm được điều đó.” Thấy có vẻ sách vở lý thuyết và mông lung xa vời quá, tôi bèn thưa lại. “Mọi người vẫn cho rằng cha có phù phép. Hồi nhỏ cha được đi học với ông thầy Vườn Luông?”
Cha nhỏ nhẹ. “Đúng là có học. Học từ năm mười hai đến hai lăm tuổi cha mới về quê cưới mẹ con. Nhưng chỉ học chữ nho để về làm thày tào. Ông Vườn Luông là một ông thầy cao tay. Không chỉ giỏi chữ mà còn giỏi cả phù phép.”
Tôi vội vàng. “Cha có học phù phép không?”. “Có! Nhưng phù phép chỉ để trừng trị yêu quái. Sao có thể chữa cho người được.”.
Tôi còn được nghe mẹ kể nhiều lần về ông thầy Vườn Luông. Đó là một người tài cao đức dày. Không mấy học trò theo được. Chỉ có cha tôi là người hiền lành nhất, trung thực nhất và rất sáng dạ. Nên ông Vườn Luông tin yêu cha tôi hơn cả trong đám học trò. Kể từ đấy ông Vườn Luông truyền hết bí mật ngón nghề cho riêng cha tôi.
Biết rằng tôi chưa tin chuyện đó là có thật. Một lần ông cho tôi xem cách bốc thuốc chữa bệnh. Thuốc là một chai nước lã trong vắt. Cha tôi múc từ dưới mỏ nước mang về. Rồi gọi người nhà đốt ba nén nhang mang lên cho ông.
Ba nén nhang kẹp vào mang tai. Ông ngồi thẳng lưng thẳng cổ như kiểu ngồi tòa sen. Chỉ thấy ông nhắm hờ hai mắt, bất động toàn thân. Bây giờ tôi mới biết đó là tư thế ngồi Thiền.
Tôi căng mắt theo dõi từ đầu. Không thấy ông bỏ bất cứ vật gì vào chai nước. Khoảng nửa tiếng sau, ba nén nhang cháy vừa hết, ông lấy hơi từ lồng ngực sẽ sàng thổi vào chai. Vẫn thế. Chỉ có chai nước trong suốt. Không màu. Không mùi. Không vị. Nhưng mang cho người điên uống, dăm ngày sau họ không còn quậy phá nữa. Nói năng từ tốn hơn. Cử chỉ hành tung trở lại bình thường.
Thật khó tin! Nhưng đó là điều có thật. Người điên uống vài ba chai nước là khỏi, nhưng sau đó chủ nhà còn phải sắm sửa một đêm cúng Trời Phật. Cha tôi ngồi hát từ mờ đêm đến sáng. Bài mo chỉ nói về hồ nước. Hồ nước đục. Vì sao hồ nước đục. Bây giờ ta phải làm cho hồ nước trong. Hãy giữ cho hồ nước trong. Hồ nước trong sẽ nhìn thấy đáy…
Chẳng cần chạy chữa gì cả, vì tâm có sẵn ta rồi. Hãy buông bỏ mọi ham muốn buồn phiền. Hãy thảnh thơi vui tươi như hoa trái… Lời văn giản dị dễ hiểu. Đi liền với giai điệu, tiết tấu của tiếng chập cheng choong nào.
Trong ánh nến lung linh mờ ảo. Một không gian huyền bí mà cha tôi đưa người đời đi từ bờ ảo sang bến thực. Rõ ràng ông đã cảm hóa cái xấu bằng cái đẹp. Cảm hóa cái ác bằng cái thiện. Chuyển hóa cái rối tinh mù mịt bằng cái trật tự và lắng đọng. Chuyện rõ ràng như ban ngày, chẳng hề liên quan đến thần linh mê tín.
Hứa Hiếu Lễ
ĐÊM BƯỚM MA
Cõi ma vẫn từ xưa tới nay là một thách đố lớn với trí tuệ và cả tâm linh con người. Thật và ảo tin và ngờ, tất cả in hằn trong mỗi câu chuyện về ma.
Thuở bé vẫn thường nghe những người Tàu chôn của thần giữ của, rồi thì thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề. Ðêm mưa mấy đứa trẻ con ngồi trong nhà chơi với nhau, có gì mừng quá thường vỗ tay, tức khắc bị người lớn mắng "Chúng mày vỗ tay gọi ma vào nhà hả?".
Cả lũ mặt xám lại ngồi im thin thít. Ðược một lúc mãi chơi nguôi nguôi cơn sợ lúc nãy, mấy đứa xoay ra thi huýt sáo to. Người lớn quát: "Huýt sáo rủ ma đi chơi có phải không?".
Thế là tàn chuyện chẳng đứa nào còn muốn chơi gì nữa, thế là kéo nhau đi ngủ. Nào đã yên một cô nào đỏm dáng ra soi gương chải đầu chẳng qua sợ tóc ngày mai bị rối, đột nhiên chạy vội vào giường trùm chăn kín mít vì nghe người lớn nói "chải đầu cho ma xem".
Cứ như thế ngày này qua ngày khác, chẳng biết ma nó như thế nào mà người lớn lại phải kiêng đủ thứ để tránh ma...
Lớn dần lên đêm đã biết chạy nhong nhong ra ngoài vườn nghịch. Thấy đom đóm lập loè lại sợ lửa ma trơi. Bắt đầu ngồi nghe người lớn kể chuyện ma, càng sợ lại càng thích, nghe rồi ban đêm chẳng dám ra ngoài sân.
Vậy mà vẫn háo hức làm sao, hấp dẫn làm sao cái cảnh ngồi quanh đống lửa đun bánh chưng mà nói chuyện rùng mình. Thế rồi lại càng lớn lên nữa, bắt đầu vớ phải quyển sách gì thì đọc quyển ấy. Và.. ở trong đó cũng thấy có ma...
Tôi không thể nhớ tôi đọc truyện ma lần đầu tiên vào năm bao nhiêu tuổi, nhưng tôi nhớ rất rõ đó là truyện Mẹ ranh càn sát trong cuốn Tang thương ngày lụt. Câu chuyện ám ảnh tới mức mãi sau này cả chục năm tôi vẫn nhớ cái kết cục thập phần chua xót của nó.
Cái sự chia tay của mẹ con nhà "mẹ ranh" dẫu có thế nào cũng vẫn là một cuộc khốc liệt giữa hai cõi âm dương. Một "đứa con ma" phải gửi ở trần gian, một "mẹ ranh" ngồi ở gốc cây đêm đêm chỉ nhắc con chớ ăn cá chép, ba ba.
Họ nói với nhau về cái hạn nợ của cõi ấy... Có một cái gì đó giữa Mẹ ranh càn sát và những câu chuyện kể truyền miệng vẫn cứ âm thầm trôi nổi trong dân gian. Nó cũng mông lung, cũng huyễn ảo nhưng lại rất gần với đời sống hàng ngày của mỗi người.
Xóm nào chẳng có một vài cái gò, một vài cái mả hoang, cây gạo già xù xì ung bướu tới mùa chỉ rụng xuống dăm ba cái hoa mà màu thì cũng phai đi không còn được đỏ tươi như những hoa của cây khác. Nỗi sợ bắt đầu từ đó và dường như những câu chuyện ma cũng từ đó mà trôi nổi...
Kể từ cái ngày định mệnh đầu tiên ấy, chẳng biết có ăn phải bùa bả gì không mà tôi cứ lăn vào tìm đọc những truyện ma. Càng đọc lại càng mê. Trung Hoa thì vời vợi một cụ Bồ Tùng Linh với Liêu Trai mà ma trong đó thì quá "người", còn người thì có khi lại "ma" hơn cả ma...
Còn ở ta thì ông "trùm làng" ắt phải là Nguyễn Dữ, sau rồi thì tới TCHYA, rồi nữa thì vô thiên lủng. Văn nhân trong thiên hạ, hỏi ra ai cũng có lưng vốn dăm ba cái truyện ma. Từ một ông vua như Lê Thánh Tông cho đến ông đốc bồng Vũ Phương Ðề, từ người văn chương truân chuyên như Nguyễn Tuân cho đến lãng mạn và "Tây học" như Nhất Linh... tất thảy đều mắc vào cái "nghiệp" viết truyện ma.
Nhưng mà muôn hình vạn trạng nhất thì chẳng có ai bằng nổi dân gian, những câu chuyện cứ truyền từ tai người này sang tai người kia, mỗi lần lại thấy đổi đi một chút và vì thế dường như mỗi lần càng "thật" hơn một chút, dễ tin hơn một chút.
Chỉ có điều nó cứ bồng bềnh, phù du như những gì mà nó nhắc tới. Ma trong dân gian luôn ở ngay cạnh người đẹp, dễ gặp và dễ làm người ta sợ. Khi thì một anh chàng về khuya gặp phải cô gái đi nhờ xe, càng đạp càng thấy nặng, ngoảnh lại hoá ra chở một cái bia đá đã lên rêu.
Khi thì một người đi đêm gặp phải "ma mặt thớt" thứ ma có mặt phẳng lì như cái thớt! chạy một thôi dài mới gặp được chiếc xích lô, dọc đường bất giác nhắc lại chuyện vừa trải qua thì người đạp xích lô hỏi "Có phải mặt giống thế này không?".
Thử trông xem hoá ra mặt của "người ấy" nào có mắt mũi gì đâu... Ngủ đêm trong bệnh viện thường nghe tới chuyện ma dựng giường, đi ngang nhà xác thì lại nhớ chuyện xác bị chó mèo nhảy qua tự nhiên chạy đuổi người.
Có anh mua một căn nhà rẻ, sau về mới biết nhà có ma, đêm đêm vẫn thường rì rầm than khóc, lại còn hiện lên thành những bóng trắng đứng ở đầu giường, gọi tên, đòi nhà... Những câu chuyện như thế có thể nghe được ở bất cứ đâu, nhưng lạ thay người ta cứ kể ở chỗ này chỗ nọ mà cấm có khi nào được nhìn tận mắt cả, thành thử lại càng nửa tin nửa ngờ, càng sợ.
Ðọc truyện về ma, nghe chuyện về ma, viết về ma, ấy vẫn là những sự mà nhân thế thường làm. Vậy thì có ma không, người bảo có người bảo không, cứ u u minh minh đến lạ. Nhưng mà những thứ như thế lại cứ mê hoặc người ta ghê lắm.
Vẫn biết đức Khổng có dạy "Quỷ thần nên kính, không nên gần" thế mà rồi thì người ta vẫn đọc truyện ma, vẫn kể chuyện ma cho nhau nghe, và cứ lâu lâu lại tìm thấy một truyện ma mới viết.
Ðành làm một cái việc chẳng đặng đừng là tập hợp cả những chuyện đó lại, biết cái nào thì nhặt cái đó, cứ hay là được. Ðâu phải có ý đua chen, mà chẳng qua chỉ vì trót đã quá yêu Liêu Trai, quá say sưa Truyền kỳ mạn lục mà nên.
Gọi là chơi thì chẳng ra chơi, gọi là việc cũng không ra việc. Tỉ mà tỉ mẩn nhặt nhạnh chỗ này chỗ kia, gặp gì cũng phải ngắm nghía, cứ tựa như ngồi trong lòng suối mà đếm cát. Thế mà cũng thấy nhiều sự linh ứng lạ.
Vừa mới nghe một nhà văn già nói rằng ông Nhất Linh có cái truyện hay lắm, tự nghĩ chẳng biết tìm đâu ra; tối về tiện tay giở cuốn sách vừa được nhận lúc chiều là thấy truyện đó ngay lập tức.
Lại tới lúc lặn lội tìm vào trong nhà một tác giả để lấy bằng được truyện của anh, đương dở chén nước thì bướm đen bay vào nhà chập chờn vài vòng rồi như đã trở thành vô ảnh.
Rồi thì khi viết những dòng đầu của lời mở đầu này, nhện trắng sa xuống trước mặt, cứ luẩn quẩn mãi không đi. Viết tới đoạn không được vừa lòng thì gió thổi rèm cửa tung lên, trùm kím trang giấy... Chao ôi, dẫu chẳng phải có những kỳ ngộ như chuyện ở Trại Tây thì cũng là một sự lạ không thể không nhắc tới.
Viết tới đây thì gió lại chợt yên, mà khí chiều đã lạnh, tấm màn lộng lên lúc nãy giờ khe khẽ buông trùm xuống cửa sổ, tự biết đã tới lúc dừng bút. Cõi huyền hồ không phải là nơi để nấn ná lâu. Vài lời nói chơi cũng là một lời tựa cho chủ đề các truyện Ðêm Bướm Ma này.
Lưu Sơn Minh
NGÔI NHÀ QUỶ ÁM TẠI BEVERLY HILLS
Câu chuyện "Căn nhà quỷ ám" sau đây là truyện có thực đã xảy ra tại một căn nhà ở vùng Beverly Hills, California.
Elke Sommer là nữ tài tử người Đức 23 tuổi. Cô có một người chồng rất tài hoa làm nghề ký giả tên là Joe Hyams. Năm 1964, khi cô trở thành một tài tử nổi tiếng tại Hoa Lệ Ước thì hai vợ chồng quyết định mua một căn nhà ở vùng Beverly Hills, California.
Ngay đêm đầu mọi người đang ngồi quây quần ngắm ngôi nhà mới để thử xem mình phải trang trí như thế nào, cần phải mua những gì cho phù hợp với phòng khách, phòng ăn, phòng ngủ v.v... thì bỗng nghe có tiếng động tại phòng ăn.
Tiếng động quá mạnh, khiến mọi người đang ngồi không bảo nhau đều bật đứng dậy. Tiếng động đó dường như giống hệt như người xô bàn ghế. Khi mọi người chạy ra phòng ăn, thì quả có thấy ghế bàn bị lệch lạc, song chẳng thấy có bóng dáng người nào.
Và không phải chỉ đêm đầu, mà liên tiếp mấy đêm sau cũng nghe thấy có những tiếng động như vậy. Thế là, Joe liền đi mua ngay khẩu súng ngắn 38, ba cái máy ghi âm loại nhỏ xíu, ít dây điện và ba cặp tai mắt điện tử và máy ghi âm ở cửa bếp, cửa phòng ăn và cửa ra vào.
Về đến nhà, Joe lấy phấn đánh dấu vị trí của các chân ghế, chân bàn. Đêm hôm ấy, ngay khi nghe thấy những tiếng động quen thuộc trên phòng ăn, Joe lấy súng, rồi lặng lẽ bò lên phòng ăn.
Vừa đến cửa phòng này đột nhiên anh không còn nghe tiếng động nữa. Một tay cầm súng, một tay bật đèn, Joe nhanh chóng lao vào phòng ngay khi đèn vừa sáng. Nhìn quanh phòng ăn Joe không thấy một bóng người hay bất cứ điều gì khả nghi. Tất cả đều gọn gàng, ngăn nắp, ngay cả các chân ghế, chân bàn vẫn nằm nguyên ở vị trí Joe đã đánh dấu.
Sáng hôm sau, Joe mang ba chiếc máy ghi âm trở lại phòng ngủ và bật từng máy lên nghe. Hai chiếc gắn ở cửa và nhà bếp đều không có bất cứ âm thanh gì lạ. Riêng chiếc gắn trong phòng ăn, Joe nghe rõ ràng âm thanh của tiếng ghế bị xô đẩy trên sàn gỗ một hồi lâu, kế đến là sự yên lặng rợn người rồi tiếng bật công tắc điện, tiếng chân của Joe bước vào phòng ăn.
Sau khi Joe đi khỏi một lúc thì tiếng xô ghế bàn lại ào ào trở lại như cũ. Đến khi kiểm lại các máy hình tự động gắn liền với các mắt điện tử, anh cũng không thấy máy chụp được bất cứ hình ảnh nào.
Trong những tuần lễ kế tiếp, Joe đã mời kiến trúc sư và thám tử tư đến nhà trình bày sự kiện và yêu cầu họ kiểm tra lại xem nhà một cách kỷ lưởng, xem có lối ra vô hay phòng ốc nào bí mật trong nhà hay không.
Sau hai ngày tìm kiếm thật kỹ, kiến trúc sư khẳng định tòa nhà đã kiến trúc đúng như họa đồ. Tuyệt không có phòng ốc hay đường hầm bí mật nào. Điều kỳ lạ hơn nữa là có một số khách khứa của hai vợ chồng khi ghé thăm lúc ban ngày cũng như khi nghỉ đêm, mọi người đều đề cập đến những âm thanh lạ và hình ảnh người đàn ông mặc áo đen ba sọc trắng.
Cho đến lúc đó, Joe vẫn không tin trong nhà của anh có ma quỷ. Tuy nhiên, anh cũng nghe theo lời khuyên của vợ thay màn cửa, quét sơn lại phòng ăn và mua bộ bàn ăn mới để "ma quỷ thấy khung cảnh lạ sẽ không bén mảng đến phá đám" như lời nhiều người khuyên nhủ.
Quả nhiên, ngay đêm đó tiếng động im bặt trả lại cho căn nhà sự yên tĩnh đầu tiên kể từ khi hai vợ chồng dọn vô. Nhưng chỉ được đúng hai đêm, đến đêm thứ ba, tiếng động kỳ lạ lại vang lên như cũ.
Trong hai tuần lễ kế tiếp Joe đã sơn, thay màn cửa và bàn ăn tất cả ba lần nữa. Nhưng lần này hai vợ chồng chỉ được có mỗi một lần yên tĩnh. Sang đến đêm thứ hai lại ầm ĩ như cũ.
Một buổi chiều tháng mười, trời trở lạnh, ngoài trời mưa lâm râm. Cả nhà gồm hai vợ chồng và bà mẹ của Elke đang ngồi ăn và con chó Hasi cũng đang thưởng thức một mình một chén để ăn riêng, thì bỗng nhiên họ nghe thấy có tiếng cửa mở và tiếng cửa khép thật thong thả.
Cả ba người đều nhìn nhau im lặng trong khi con chó Hasi thì ngừng ăn rồi quay ra cửa gầm gừ... Kế đó mọi người nghe thấy có tiếng chân bước cà nhắc lên cầu thang gỗ nghe rõ mồn một...
Rồi đột nhiên im lặng một cách ghê rợn. Khoảng hai phút đồng hồ sau, con chó Hasi rít lên rồi cụp đuôi chạy lại phía Elki. Khi nàng bồng nó lên tay, nó mới quay cửa sổ sủa, cả ba cùng có cảm tưởng rõ ràng có một người vô hình vừa bước vô phòng ăn và thong thả đi xuống chiếc ghế ở cuối của bàn ăn và ngồi xuống.
Vì bàn ăn hình bầu dục và dài đũ chỗ cho mười hai người ngồi, nên khi bao giờ ăn hai vợ chồng và bà mẹ cũng ngồi gọn ở một đầu, còn đầu kia để trống. Nghe tiếng chó sủa, thấy vẻ mặt hoảng hốt của vợ và mẹ vợ, Joe bực tức đứng dậy bước thẳng về phía cuối bàn ăn kéo chiếc ghế đổ nghiêng ra sàn.
Cả ba người chờ đợi có chuyện lạ xảy ra nhưng tất cả đều bình thường và lạ lùng thay, con chó Hasi cũng im bặt không sủa thêm một tiếng nào. Nhìn xuống chiếc ghế, Joe ngạc nhiên khi thấy mặt ghế ướt sũng nước mưa và một vũng nước lênh láng ngay trên sàn gỗ...
Một chiều nọ khi hai vợ chồng về đến nhà, hai con chó của họ bỗng trở chứng nhất định không chịu vô nhà cứ đứng ngoài cổng chỏ mõm và sủa ầm ĩ, sủa đến khi khản cả tiếng vẫn còn sủa. Thấy vậy,hai vợ chồng đành phải mang hai con chó đi bác sĩ thú y, sau khi khám nghiệm vị bác sĩ này tuyên bố cả hai chú chó đều ở trong trạng thái bình thường.
Có người khuyên hai vợ chồng Joe nên mua bộ bàn ăn mới và mua các màn cửa mới treo thay vì những cái cũ, có thể có hơi hám của vong hồn ma còn quấn quít ở đâu đây tìm đến để... đòi lại.
Cũng có người khuyên Joe là phải sơn phết toàn diện ngôi nhà, làm như thể nhà mới vị chi là các hồn ma ấy sẽ bỏ đi nơi khác. Joe làm theo chỉ trong một ngày.
Quả nhiên, ngay đêm đó tiếng động của ma gây nên không còn nữa, trả lại sự yên tĩnh đầu tiên kể từ ngày hai vợ chồng Joe dọn đến ở. Nhưng... chỉ được đúng chỉ hai đêm, đến đêm thứ ba tiếng động kỳ lạ lại vang lên như cũ.
Lần này còn có vẻ dữ dội hơn. Đêm ấy trời mưa như cầm chỉnh, tiếng sấm sét liên tục vang lên. Gió càng lúc càng thổi mạnh làm lay động cả đồ đạc treo trong nhà. Joe khép kín cửa lại. Nhưng lạ lùng thay gió không biết từ khe nào mà cứ lồng vào liên tục.
Đèn điện trong nhà bỗng tắt ngấm. Joe phải chạy kiếm trong bóng đêm tìm đèn cầy và máy quẹt thắp lên. Khi ánh nến vừa tỏa sáng thì... họ đều trông thấy rõ ràng một người đàn ông đứng bên ngoài cửa sổ nhìn vào.
Và không bao lâu bóng người đàn ông lạ đó biến mất. Cả ba quay lại nhìn nhau và đều xác nhận cùng một hình ảnh giống hệt như nhau. Tất nhiên đây không phải là ảo giác, vì cả ba đều mô tả giống hệt hình dáng, lối ăn mặc luôn cả nét mặt của "người ma" đó.
Ngay sau đó Joe lấy đèn bấm lại gần khung cửa sổ tìm kiếm thì nhận ra cửa sổ vẫn đóng chặt. Bên ngoài mưa vẫn như trút và gió vẫn gào thét, cây cối vẫn vật vã từng hồi không ngớt. Tuy nhiên không thấy có bóng dáng của ai bên ngoài. Điều lạ lùng là ngay dưới cửa sổ, trên sàn gỗ bóng loáng còn nguyên một vũng nước mưa không hiểu từ đâu chảy vào?!
Nhìn lên trần Joe thấy trần khô ráo. Đưa tay sờ vào khung sổ vào tường, anh không tìm thấy một dấu hiệu gì chứng tỏ có nước hắt vô hay thấm vô. Là người can đảm có nghị lực, không hề biết sợ hãi là gì nên Joe vội khoác áo mưa lấy dù, rồi mở cửa đi ra ngoài.
Trong thâm tâm lúc đó, anh đinh ninh người đàn ông lạ mặt mà ba người thấy, chỉ là một người bình thường đứng bên ngoài cửa sổ, rình mò một chuyện gì đó chứ không thể nào có chuyện ma quái trên cõi đời này.
Tự tin như vậy nên khi đến bên cửa sổ, Joe có ý định dùng đèn bấm tìm kiếm thật kỷ dấu vết người đàn ông để lại. Nhưng khi rọi đèn đến vùng đất dưới cửa sổ, Joe bàng hoàng ngạc nhiên khi thấy đó là một vùng đất cát xốp, trải rộng cả khu gần chục thước vuông. Tất cả đều nguyên vẹn dưới làn nước mưa, tuyệt nhiên không hề thấy bất cứ có dấu chân nào.
Sau sự kiện kỳ bí này, cả Joe lẫn Elke và bà mẹ vợ đều giật mình và tin rằng, căn nhà họ đang ở chắc chắn có chứa đựng một chuyện gì ghê gớm lắm.
Ngay đêm đó Elke đề nghị báo nội vụ cho cảnh sát, còn mẹ của Elke thì đề nghị đi mời thầy pháp về làm phép trừ tà trừ quỷ. Nhưng Joe tin tưởng, dù có chuyện gì xảy ra chăng nữa thì trên dương thế, người sống bao giờ cũng làm chủ nên anh tính cứ chờ xem chuyện thế nào rồi tính sau.
Trong những tuần lễ kế tiếp gia đình Joe tiếp tục chứng kiến những hiện tượng lạ lùng, như những tiếng thở khò khè như người nghẹn thở, thỉnh thoảng vang lên trong đêm. Có người khuyên hai vợ chồng Joe nên tìm sự giúp đở của Hiệp Hội Nghiên Cứu Tâm Thần ASPR (American Society for Psychal Research) Hoa Kỳ tại Los Angeles để nhờ giúp đỡ.
Vợ chồng Joe tìm đến. Sau khi trò chuyện với chuyên viên của Hội hai vợ chồng mới biết, trước đây tại căn nhà họ ở cũng đã xảy ra những chuyện tương tự và hai người chủ cũ đã phải bán vội vàng, ngay sau khi dọn đến ở không bao lâu.
Theo lời của những người chủ cũ, thì họ cũng đã từng bị người đàn ông mặc áo rằn sọc trắng như gia đình Joe đã thấy. Người này cho biết là người mà gia đình Joe trông thấy mặc áo đen ba sọc trắng, nguyên là người chủ đầu tiên của căn nhà, nhưng không hiểu sao bỗng nhiên bị mất tích cách đó cả nửa thế kỷ.
Sau khi nghe chuyện hai vợ chồng Joe đồng ý để cho Hội cử một chuyên viên nổi tiếng về trừ ma đuổi quỷ đến nhà làm phép. Chuyên viên đó là bà Lotte Von Strahl. Nghi lễ đuổi ma quỷ của bà Lotte rất đơn giản. Bà đến ngồi gọn gàng ở đầu một bàn ăn và mời hai vợ chồng Elke ngồi ở đầu bàn bên kia.
Sau vài phút im lặng nhắm mắt nhập thần, bà Lotte lạnh lùng tuyên bố:
"Ồ ! Đúng rồi... tôi thấy nó rồi. Bây giờ thì con quỷ ghê gớm đó đang ngồi cạnh tôi. Vậy tôi xin mời hai ông bà cùng tôi đọc một đoạn kinh cầu nguyện..."
Sau khi ba người đọc kinh xong, bà Lotte quay sang bên trịnh trọng tuyên bố:
"Nhân danh Thượng Đế, ta ra lệnh cho ngươi rời khỏi căn nhà này ngay từ bây giờ. Hãy để cho những người lương thiện sống yên ổn và từ nay ngươi hãy chấm dứt trò quấy rầy những người sống trong căn nhà này."
Tuyên bố xong, bà Lotte nhắm mắt im lặng một lúc nhập định rồi mở mắt tuyên bố giọng vui mừng:
"Ông bà yên trí. Nó cút khỏi căn nhà này rồi. Từ nay trở đi ông bà sẽ sống thoải mái, không lo sợ điều gì nữa."
Ngay tối hôm đó hai vợ chồng đóng cổng, khóa cửa sổ và lên giường ngủ thật sớm. Đến chín giờ tối khi Joe vừa thiu thiu ngủ, bỗng nhiên những tiếng động thường lệ lại nổi lên. Lần này có cả tiếng vật vã, rên rỉ nghe không rõ là của người hay thú.
Sau này trong một tác phẩm ghi lại những sự kiện xảy ra trong căn nhà ở Beverly Hills, Joe đã phải thú nhận:
"Dù không bao giờ tin chuyện ma quỷ, cuối cùng trước những hiện tượng mà chính tôi nhìn thấy, nghe thấy, tôi đành phải tin trong nhà mình ở quả thật có ít nhất là một con quỷ hay một con vật vô hình nào đó đại loại như quỷ".
Nhưng dù đã có phần nào tin có quỷ trong nhà, Joe vẫn nhất định không chịu bán nhà. Joe bướng bỉnh tuyên bố:
"Với tôi, người sống còn không làm cho tôi sợ huống chi người chết. Tôi sẽ ở lại căn nhà này cho đến khi nào tôi chết thì thôi."
Nhưng cuối cùng lòng dũng cảm của Joe bị đánh gục vào buổi sáng hôm ấy. Sáng sớm hôm ấy bỗng dưng có tiếng đấm cửa thật lớn. Joe vội vã với khẩu súng chạy xuống và mở cửa.
Không thấy ai, Joe ngạc nhiên chạy ra ngoài coi thì thấy đường vắng ngắt. Khi quay vô Joe giật mình thấy khói và lửa bốc lên ngùn ngụt từ phòng ăn.
Hoảng hốt, Joe chạy vội lên phòng gọi vợ và mẹ vợ. Khi cả ba chạy thoát ra đến ngoài đường thì thần hỏa biến cả căn nhà thành một biển lửa. Hai tuần lễ sau, Joe đành phải ký giấy cho phép địa ốc treo bản bán khoảnh đất còn lại này.
Nửa năm sau, người chủ mới cho san bằng những căn nhà còn lại để xây một dinh thự mới to hơn. Khi đào móng xây nhà, người ta phát hiện thấy dưới căn nhà có một căn hầm cao ra rộng gần một trăm mét vuông.
Ngay giữa hầm có một người đàn ông mặc áo đen ba nẹp trắng quần sọc, cổ bị treo trong một chiếc thòng lọng, còn chân thì một chân cặm vào cây sắt đóng sâu dưới sàn xi măng, một chân khác tuy lơ lửng trên không nhưng cũng bị thủng nhiều lổ, máu chảy đầm đìa.
Đầu của cây cọc sắt tuy không nhọn nhưng có lẽ vì phải chịu đựng cả một thân thể trong một thời gian quá lâu, nên cây cọc sắt tầy đầu đã xuyên qua bàn chân, để lại trên sàn xi măng một vũng máu khô cứng.
Nhìn cảnh tượng người đàn ông bị treo cổ, người ta đoán được người đàn ông đã phải trải qua một cực hình đầy ghê rợn, nếu không chịu đứng trên cọc sắt thì dây thòng lọng sẽ xiết sâu vào cổ làm cho y nghẹt thở. Điều lạ lùng là không biết người đàn ông đó chết trong bao lâu, nhưng cả người và máu loang lổ đều khô quánh lại.
Không thấy người viết tả lại mặt mày và thân thể người đàn ông này có bị rữa nát không? Chỉ thấy người ghi lại câu chuyện này đưa ra câu hỏi:
"Phải chăng vì chiếc chân bị dính cọc sắt và cổ bị siết chặt như vậy nên mỗi khi xuất hiện, hồn ma của người đàn ông đều bước đi khập khễnh và hơi thỏ khò khè như người bị bóp cổ?"
ST
Cho đến tận bây giờ, tôi cũng chưa biết đích xác cha tôi chữa "bệnh điên" cho người ta ra làm sao, bằng cách gì, dùng phương thuốc đặc trị nào? Đó là một căn bệnh khó chữa vào hàng bậc nhất nhì từ xưa nay, cho dù đó chỉ là một thứ bệnh lý về tâm thần, mất năng lực tự chủ, và không kiềm chế được hành vi.
Ở quê tôi, nhiều người mắc căn bệnh này đã vào viện, hoặc chuyên khoa tâm thần khám và điều trị. Nhưng mãi không khỏi. Họ đành quay lại tìm đến cha tôi.
Không chỉ chữa bệnh cho người, cha tôi còn có thể cầm máu, bắt giòi cho trâu bò. Khi chúng bị vắt rừng cắn, bị ngã xuống vực, đá đâm thủng ruột… Nếu không cứu chữa kịp thời, chỗ bị thương sẽ nhiễm trùng. Máu chảy mãi đến khi kiệt sức. Con giòi đục mãi vào thịt. Trâu bò sẽ lăn ra mà chết.
Phải có đến sáu bảy chục năm, dù cha tôi không chuyên hành nghề nhưng vẫn thường xuyên đi chữa bệnh. Những người dân truyền tin cho nhau về khả năng kỳ lạ này, ngày một lan rộng.
Cha tôi sẵn lòng giúp mà không kèm theo bất cứ một đòi hỏi vật chất nào. Những người bị điên được cha tôi chữa đều khỏi hẳn. Hiện nay họ đã thành ông thành bà, đang có cuộc sống bình thường và yên ổn như mọi người dân khác. Và họ vẫn quan hệ thân tình với người nhà tôi, suốt từ mấy chục năm nay. Hầu hết mọi người đều nhận làm con nuôi của cha tôi.
Ngày cha tôi mất, khắp cánh đồng Bo Păn trước nhà tôi rợp một màu khăn tang trắng xóa. Người gánh gạo. Người gánh rượu. Người vác củi… nườm nượp mang đến giúp cho nhà tôi làm lễ tang cha. Một bầu không khí đau thương nặng nề trùm xuống. Nhưng bù lại, tình cảm mọi người dành cho chúng tôi thật thân tình, ấm áp. Nên nỗi buồn mất cha cũng dịu đi được phần nào.
Có thể nói đây là một đám tang kỳ lạ nhất mà tôi được chứng kiến (Tôi từng được cha cho đi theo đánh trống đám ma từ lúc lên tám tuổi). Có ba ông thày tào. Sáu bà bụt luông. Họ đều là những học trò xuất sắc và tin cẩn của cha tôi.
Năm ngày bảy đêm tưng bừng nhảy múa và ca hát. Trống chiêng não bạt ầm vang. Tiếng soóc nhạc. Tiếng pí lè. Tiếng con ốc cạn. Tiếng sừng trâu út út vọng vào vách núi, không lúc nào ngưng nghỉ. Làm át đi những tiếng khóc thương cha thống thiết não nùng. Cây cỏ trên rừng cũng dỏng lá lên nghe. Chim chóc đậu đầy trên nóc nhà. Chúng ngừng im tiếng hót. Đá trên núi ngồi buồn xám ngoét. Mây trên trời vần vũ đớn đau. Chiều kéo ngày đi lằng lặng tối. Người người đi lại trong màn đêm đen như keo đặc.
Chốc chốc lại có người đòi mang thóc ra cho ngựa. Gọi là ngựa nhưng kỳ thực đó là một con hổ lông xám. Gọi chệch đi cho đỡ sợ. Phải là người nhẹ vía thì mới trông thấy. Nó nhai thóc rau ráu. Ăn xong hổ lên quả đồi sau lưng nhà tôi choãi chân nằm phủ phục. Nó hít hà hương khói. Lắc lắc cái đầu. Ve vẩy cái đuôi. Lim dim đôi mắt. Khi vầng dương ánh lên le lói, ông ba mươi lẹ làng tan biến vào làn sương mỏng. Làn sương bay lên trời, cuốn theo một con hổ đang biến hình.
Trong khi đó, các thày tào bà bụt vẫn miệt mài diễn tả lại toàn bộ cảnh sinh hoạt thường ngày khi cha tôi còn sống. Họ bắt chước ông giống y như thật. Từ giọng nói, tiếng cười, kiểu ngồi, dáng đi… đều là hình bóng cha tôi. Chứ không phải họ nhập vai theo một kịch bản nào.
Đây rồi. Lũ người điên bắt đầu xuất hiện. Có người nuốt cả một hòn than đang hồng rực vào trong cuống họng. Có người đi chân không trên lưỡi dao mài sắc. Thế mà không cứa đứt một giọt máu tươi. Có người ngồi trên một mâm gai nhọn. Trên gai nhọn có phủ một tờ giấy mỏng. Họ khoanh chân ngồi theo kiểu kiết dzà. Không những ngồi im mà họ còn nảy cong cả người lên, lấy đà rơi xuống. Phập!
Lại có người nhảy vào một đống than lửa đang cháy rực. Dùng cả hai tay bới lửa lên tung tóe. Nhưng tuyệt nhiên trên người họ không hề có vết bỏng. Chỉ thấy trên tóc, trên vai áo có bụi tro và tàn lửa rơi lốm đốm. Khi người đóng vai cha tôi xuất hiện.
Ông lừng lững bước vào khuôn cửa. Những người điên nhất loạt đứng đâu ở yên đó. Không ai dám ho he nhúc nhích. Cha tôi cất tiếng gọi từng người. Họ khoanh tay vâng dạ. Ba mươi phút sau, họ hoàn hồn. Thu hết thần cuốn hết vía. Các ông thày tào bà bụt lại ngồi đàng hoàng uống rượu, bỏm bẻm nhai trầu và nói chuyện mùa màng.
Lúc còn sống. Cả đời cha tôi chỉ biết thở và cười. Gặp ai cũng cười. Mở miệng là cười. Nuôi con từ bé đến lớn, ông không hề đánh mắng con cái. Không hề nặng lời với bất cứ ai. Ông bảo, ta được sống thảnh thơi ở trên đời này là một chữ phúc nhỏ. Được sống cùng với bao con người khác, giữa vạn vật và muôn loài, mới là chữ phúc to.
Hãy biết quý rừng xanh mây trắng, sông suối hiền hòa. Bởi đó là nơi chốn đi về cả phần hồn lẫn thể xác. Hễ trông thấy đàn kiến đang đi, hãy nhường đường cho chúng. Mỗi con kiến là một sinh mạng. Thấy chữ rơi không được bước qua, mà phải thành kính cúi xuống nhặt lên và đem đốt đi.
Chữ thánh hiền không được bỗ bã xúc phạm. Nhờ có chữ mà ta biết vì sao hạt thóc nhọn hai đầu. Trên đời này chỉ có hai thứ đen. Mắt người đen và chữ viết đen. Biết trọng chữ nghĩa mới là người có nhân cách.
Thấy ai rách rưới, không được xem thường. Bởi vì chẳng may họ gặp vận hạn. Người ăn xin ăn mày đến nhà, phải mời người ta ở lại. Ta có gì thì cho họ ăn, cho họ uống và cho họ cái mặc. Ăn xin ăn mày cũng là ta. Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày.
Ông nói rằng trên đời này không có ai là xấu. Chỉ có lòng tham, thói ích kỷ, sự hận thù là xấu. Hãy chuyển hóa những thứ đó thành phân, để bón tốt cho lúa đồng.
Đã có nhiều người hỏi ông chữa bệnh điên bằng gì? Cha tôi chỉ cười mà chưa bao giờ nói. Phù phép chăng? Ai cũng cho rằng ông chữa bằng phù phép. Tôi cũng nghĩ thế. Ông vẫn chỉ cười. Khi tôi đã lập gia đình và sinh hai cháu nhỏ. Có lần tôi hỏi dùng thuốc gì mà chữa được bệnh điên.
Ông trầm ngâm, lặng đi một lúc lâu. “Con là người nóng tính. Ham hố nhiều như tóc. Riêng điều này con không thể học và làm được.” Ông giảng giải “Cha không chữa bằng thuốc. Mà bằng trái tim. Con hiểu không.
Trái tim yêu thương con người. Trái tim phải rộng lớn mới mong làm được điều đó.” Thấy có vẻ sách vở lý thuyết và mông lung xa vời quá, tôi bèn thưa lại. “Mọi người vẫn cho rằng cha có phù phép. Hồi nhỏ cha được đi học với ông thầy Vườn Luông?”
Cha nhỏ nhẹ. “Đúng là có học. Học từ năm mười hai đến hai lăm tuổi cha mới về quê cưới mẹ con. Nhưng chỉ học chữ nho để về làm thày tào. Ông Vườn Luông là một ông thầy cao tay. Không chỉ giỏi chữ mà còn giỏi cả phù phép.”
Tôi vội vàng. “Cha có học phù phép không?”. “Có! Nhưng phù phép chỉ để trừng trị yêu quái. Sao có thể chữa cho người được.”.
Tôi còn được nghe mẹ kể nhiều lần về ông thầy Vườn Luông. Đó là một người tài cao đức dày. Không mấy học trò theo được. Chỉ có cha tôi là người hiền lành nhất, trung thực nhất và rất sáng dạ. Nên ông Vườn Luông tin yêu cha tôi hơn cả trong đám học trò. Kể từ đấy ông Vườn Luông truyền hết bí mật ngón nghề cho riêng cha tôi.
Biết rằng tôi chưa tin chuyện đó là có thật. Một lần ông cho tôi xem cách bốc thuốc chữa bệnh. Thuốc là một chai nước lã trong vắt. Cha tôi múc từ dưới mỏ nước mang về. Rồi gọi người nhà đốt ba nén nhang mang lên cho ông.
Ba nén nhang kẹp vào mang tai. Ông ngồi thẳng lưng thẳng cổ như kiểu ngồi tòa sen. Chỉ thấy ông nhắm hờ hai mắt, bất động toàn thân. Bây giờ tôi mới biết đó là tư thế ngồi Thiền.
Tôi căng mắt theo dõi từ đầu. Không thấy ông bỏ bất cứ vật gì vào chai nước. Khoảng nửa tiếng sau, ba nén nhang cháy vừa hết, ông lấy hơi từ lồng ngực sẽ sàng thổi vào chai. Vẫn thế. Chỉ có chai nước trong suốt. Không màu. Không mùi. Không vị. Nhưng mang cho người điên uống, dăm ngày sau họ không còn quậy phá nữa. Nói năng từ tốn hơn. Cử chỉ hành tung trở lại bình thường.
Thật khó tin! Nhưng đó là điều có thật. Người điên uống vài ba chai nước là khỏi, nhưng sau đó chủ nhà còn phải sắm sửa một đêm cúng Trời Phật. Cha tôi ngồi hát từ mờ đêm đến sáng. Bài mo chỉ nói về hồ nước. Hồ nước đục. Vì sao hồ nước đục. Bây giờ ta phải làm cho hồ nước trong. Hãy giữ cho hồ nước trong. Hồ nước trong sẽ nhìn thấy đáy…
Chẳng cần chạy chữa gì cả, vì tâm có sẵn ta rồi. Hãy buông bỏ mọi ham muốn buồn phiền. Hãy thảnh thơi vui tươi như hoa trái… Lời văn giản dị dễ hiểu. Đi liền với giai điệu, tiết tấu của tiếng chập cheng choong nào.
Trong ánh nến lung linh mờ ảo. Một không gian huyền bí mà cha tôi đưa người đời đi từ bờ ảo sang bến thực. Rõ ràng ông đã cảm hóa cái xấu bằng cái đẹp. Cảm hóa cái ác bằng cái thiện. Chuyển hóa cái rối tinh mù mịt bằng cái trật tự và lắng đọng. Chuyện rõ ràng như ban ngày, chẳng hề liên quan đến thần linh mê tín.
Hứa Hiếu Lễ
ĐÊM BƯỚM MA
Cõi ma vẫn từ xưa tới nay là một thách đố lớn với trí tuệ và cả tâm linh con người. Thật và ảo tin và ngờ, tất cả in hằn trong mỗi câu chuyện về ma.
Thuở bé vẫn thường nghe những người Tàu chôn của thần giữ của, rồi thì thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề. Ðêm mưa mấy đứa trẻ con ngồi trong nhà chơi với nhau, có gì mừng quá thường vỗ tay, tức khắc bị người lớn mắng "Chúng mày vỗ tay gọi ma vào nhà hả?".
Cả lũ mặt xám lại ngồi im thin thít. Ðược một lúc mãi chơi nguôi nguôi cơn sợ lúc nãy, mấy đứa xoay ra thi huýt sáo to. Người lớn quát: "Huýt sáo rủ ma đi chơi có phải không?".
Thế là tàn chuyện chẳng đứa nào còn muốn chơi gì nữa, thế là kéo nhau đi ngủ. Nào đã yên một cô nào đỏm dáng ra soi gương chải đầu chẳng qua sợ tóc ngày mai bị rối, đột nhiên chạy vội vào giường trùm chăn kín mít vì nghe người lớn nói "chải đầu cho ma xem".
Cứ như thế ngày này qua ngày khác, chẳng biết ma nó như thế nào mà người lớn lại phải kiêng đủ thứ để tránh ma...
Lớn dần lên đêm đã biết chạy nhong nhong ra ngoài vườn nghịch. Thấy đom đóm lập loè lại sợ lửa ma trơi. Bắt đầu ngồi nghe người lớn kể chuyện ma, càng sợ lại càng thích, nghe rồi ban đêm chẳng dám ra ngoài sân.
Vậy mà vẫn háo hức làm sao, hấp dẫn làm sao cái cảnh ngồi quanh đống lửa đun bánh chưng mà nói chuyện rùng mình. Thế rồi lại càng lớn lên nữa, bắt đầu vớ phải quyển sách gì thì đọc quyển ấy. Và.. ở trong đó cũng thấy có ma...
Tôi không thể nhớ tôi đọc truyện ma lần đầu tiên vào năm bao nhiêu tuổi, nhưng tôi nhớ rất rõ đó là truyện Mẹ ranh càn sát trong cuốn Tang thương ngày lụt. Câu chuyện ám ảnh tới mức mãi sau này cả chục năm tôi vẫn nhớ cái kết cục thập phần chua xót của nó.
Cái sự chia tay của mẹ con nhà "mẹ ranh" dẫu có thế nào cũng vẫn là một cuộc khốc liệt giữa hai cõi âm dương. Một "đứa con ma" phải gửi ở trần gian, một "mẹ ranh" ngồi ở gốc cây đêm đêm chỉ nhắc con chớ ăn cá chép, ba ba.
Họ nói với nhau về cái hạn nợ của cõi ấy... Có một cái gì đó giữa Mẹ ranh càn sát và những câu chuyện kể truyền miệng vẫn cứ âm thầm trôi nổi trong dân gian. Nó cũng mông lung, cũng huyễn ảo nhưng lại rất gần với đời sống hàng ngày của mỗi người.
Xóm nào chẳng có một vài cái gò, một vài cái mả hoang, cây gạo già xù xì ung bướu tới mùa chỉ rụng xuống dăm ba cái hoa mà màu thì cũng phai đi không còn được đỏ tươi như những hoa của cây khác. Nỗi sợ bắt đầu từ đó và dường như những câu chuyện ma cũng từ đó mà trôi nổi...
Kể từ cái ngày định mệnh đầu tiên ấy, chẳng biết có ăn phải bùa bả gì không mà tôi cứ lăn vào tìm đọc những truyện ma. Càng đọc lại càng mê. Trung Hoa thì vời vợi một cụ Bồ Tùng Linh với Liêu Trai mà ma trong đó thì quá "người", còn người thì có khi lại "ma" hơn cả ma...
Còn ở ta thì ông "trùm làng" ắt phải là Nguyễn Dữ, sau rồi thì tới TCHYA, rồi nữa thì vô thiên lủng. Văn nhân trong thiên hạ, hỏi ra ai cũng có lưng vốn dăm ba cái truyện ma. Từ một ông vua như Lê Thánh Tông cho đến ông đốc bồng Vũ Phương Ðề, từ người văn chương truân chuyên như Nguyễn Tuân cho đến lãng mạn và "Tây học" như Nhất Linh... tất thảy đều mắc vào cái "nghiệp" viết truyện ma.
Nhưng mà muôn hình vạn trạng nhất thì chẳng có ai bằng nổi dân gian, những câu chuyện cứ truyền từ tai người này sang tai người kia, mỗi lần lại thấy đổi đi một chút và vì thế dường như mỗi lần càng "thật" hơn một chút, dễ tin hơn một chút.
Chỉ có điều nó cứ bồng bềnh, phù du như những gì mà nó nhắc tới. Ma trong dân gian luôn ở ngay cạnh người đẹp, dễ gặp và dễ làm người ta sợ. Khi thì một anh chàng về khuya gặp phải cô gái đi nhờ xe, càng đạp càng thấy nặng, ngoảnh lại hoá ra chở một cái bia đá đã lên rêu.
Khi thì một người đi đêm gặp phải "ma mặt thớt" thứ ma có mặt phẳng lì như cái thớt! chạy một thôi dài mới gặp được chiếc xích lô, dọc đường bất giác nhắc lại chuyện vừa trải qua thì người đạp xích lô hỏi "Có phải mặt giống thế này không?".
Thử trông xem hoá ra mặt của "người ấy" nào có mắt mũi gì đâu... Ngủ đêm trong bệnh viện thường nghe tới chuyện ma dựng giường, đi ngang nhà xác thì lại nhớ chuyện xác bị chó mèo nhảy qua tự nhiên chạy đuổi người.
Có anh mua một căn nhà rẻ, sau về mới biết nhà có ma, đêm đêm vẫn thường rì rầm than khóc, lại còn hiện lên thành những bóng trắng đứng ở đầu giường, gọi tên, đòi nhà... Những câu chuyện như thế có thể nghe được ở bất cứ đâu, nhưng lạ thay người ta cứ kể ở chỗ này chỗ nọ mà cấm có khi nào được nhìn tận mắt cả, thành thử lại càng nửa tin nửa ngờ, càng sợ.
Ðọc truyện về ma, nghe chuyện về ma, viết về ma, ấy vẫn là những sự mà nhân thế thường làm. Vậy thì có ma không, người bảo có người bảo không, cứ u u minh minh đến lạ. Nhưng mà những thứ như thế lại cứ mê hoặc người ta ghê lắm.
Vẫn biết đức Khổng có dạy "Quỷ thần nên kính, không nên gần" thế mà rồi thì người ta vẫn đọc truyện ma, vẫn kể chuyện ma cho nhau nghe, và cứ lâu lâu lại tìm thấy một truyện ma mới viết.
Ðành làm một cái việc chẳng đặng đừng là tập hợp cả những chuyện đó lại, biết cái nào thì nhặt cái đó, cứ hay là được. Ðâu phải có ý đua chen, mà chẳng qua chỉ vì trót đã quá yêu Liêu Trai, quá say sưa Truyền kỳ mạn lục mà nên.
Gọi là chơi thì chẳng ra chơi, gọi là việc cũng không ra việc. Tỉ mà tỉ mẩn nhặt nhạnh chỗ này chỗ kia, gặp gì cũng phải ngắm nghía, cứ tựa như ngồi trong lòng suối mà đếm cát. Thế mà cũng thấy nhiều sự linh ứng lạ.
Vừa mới nghe một nhà văn già nói rằng ông Nhất Linh có cái truyện hay lắm, tự nghĩ chẳng biết tìm đâu ra; tối về tiện tay giở cuốn sách vừa được nhận lúc chiều là thấy truyện đó ngay lập tức.
Lại tới lúc lặn lội tìm vào trong nhà một tác giả để lấy bằng được truyện của anh, đương dở chén nước thì bướm đen bay vào nhà chập chờn vài vòng rồi như đã trở thành vô ảnh.
Rồi thì khi viết những dòng đầu của lời mở đầu này, nhện trắng sa xuống trước mặt, cứ luẩn quẩn mãi không đi. Viết tới đoạn không được vừa lòng thì gió thổi rèm cửa tung lên, trùm kím trang giấy... Chao ôi, dẫu chẳng phải có những kỳ ngộ như chuyện ở Trại Tây thì cũng là một sự lạ không thể không nhắc tới.
Viết tới đây thì gió lại chợt yên, mà khí chiều đã lạnh, tấm màn lộng lên lúc nãy giờ khe khẽ buông trùm xuống cửa sổ, tự biết đã tới lúc dừng bút. Cõi huyền hồ không phải là nơi để nấn ná lâu. Vài lời nói chơi cũng là một lời tựa cho chủ đề các truyện Ðêm Bướm Ma này.
Lưu Sơn Minh
NGÔI NHÀ QUỶ ÁM TẠI BEVERLY HILLS
Câu chuyện "Căn nhà quỷ ám" sau đây là truyện có thực đã xảy ra tại một căn nhà ở vùng Beverly Hills, California.
Elke Sommer là nữ tài tử người Đức 23 tuổi. Cô có một người chồng rất tài hoa làm nghề ký giả tên là Joe Hyams. Năm 1964, khi cô trở thành một tài tử nổi tiếng tại Hoa Lệ Ước thì hai vợ chồng quyết định mua một căn nhà ở vùng Beverly Hills, California.
Ngay đêm đầu mọi người đang ngồi quây quần ngắm ngôi nhà mới để thử xem mình phải trang trí như thế nào, cần phải mua những gì cho phù hợp với phòng khách, phòng ăn, phòng ngủ v.v... thì bỗng nghe có tiếng động tại phòng ăn.
Tiếng động quá mạnh, khiến mọi người đang ngồi không bảo nhau đều bật đứng dậy. Tiếng động đó dường như giống hệt như người xô bàn ghế. Khi mọi người chạy ra phòng ăn, thì quả có thấy ghế bàn bị lệch lạc, song chẳng thấy có bóng dáng người nào.
Và không phải chỉ đêm đầu, mà liên tiếp mấy đêm sau cũng nghe thấy có những tiếng động như vậy. Thế là, Joe liền đi mua ngay khẩu súng ngắn 38, ba cái máy ghi âm loại nhỏ xíu, ít dây điện và ba cặp tai mắt điện tử và máy ghi âm ở cửa bếp, cửa phòng ăn và cửa ra vào.
Về đến nhà, Joe lấy phấn đánh dấu vị trí của các chân ghế, chân bàn. Đêm hôm ấy, ngay khi nghe thấy những tiếng động quen thuộc trên phòng ăn, Joe lấy súng, rồi lặng lẽ bò lên phòng ăn.
Vừa đến cửa phòng này đột nhiên anh không còn nghe tiếng động nữa. Một tay cầm súng, một tay bật đèn, Joe nhanh chóng lao vào phòng ngay khi đèn vừa sáng. Nhìn quanh phòng ăn Joe không thấy một bóng người hay bất cứ điều gì khả nghi. Tất cả đều gọn gàng, ngăn nắp, ngay cả các chân ghế, chân bàn vẫn nằm nguyên ở vị trí Joe đã đánh dấu.
Sáng hôm sau, Joe mang ba chiếc máy ghi âm trở lại phòng ngủ và bật từng máy lên nghe. Hai chiếc gắn ở cửa và nhà bếp đều không có bất cứ âm thanh gì lạ. Riêng chiếc gắn trong phòng ăn, Joe nghe rõ ràng âm thanh của tiếng ghế bị xô đẩy trên sàn gỗ một hồi lâu, kế đến là sự yên lặng rợn người rồi tiếng bật công tắc điện, tiếng chân của Joe bước vào phòng ăn.
Sau khi Joe đi khỏi một lúc thì tiếng xô ghế bàn lại ào ào trở lại như cũ. Đến khi kiểm lại các máy hình tự động gắn liền với các mắt điện tử, anh cũng không thấy máy chụp được bất cứ hình ảnh nào.
Trong những tuần lễ kế tiếp, Joe đã mời kiến trúc sư và thám tử tư đến nhà trình bày sự kiện và yêu cầu họ kiểm tra lại xem nhà một cách kỷ lưởng, xem có lối ra vô hay phòng ốc nào bí mật trong nhà hay không.
Sau hai ngày tìm kiếm thật kỹ, kiến trúc sư khẳng định tòa nhà đã kiến trúc đúng như họa đồ. Tuyệt không có phòng ốc hay đường hầm bí mật nào. Điều kỳ lạ hơn nữa là có một số khách khứa của hai vợ chồng khi ghé thăm lúc ban ngày cũng như khi nghỉ đêm, mọi người đều đề cập đến những âm thanh lạ và hình ảnh người đàn ông mặc áo đen ba sọc trắng.
Cho đến lúc đó, Joe vẫn không tin trong nhà của anh có ma quỷ. Tuy nhiên, anh cũng nghe theo lời khuyên của vợ thay màn cửa, quét sơn lại phòng ăn và mua bộ bàn ăn mới để "ma quỷ thấy khung cảnh lạ sẽ không bén mảng đến phá đám" như lời nhiều người khuyên nhủ.
Quả nhiên, ngay đêm đó tiếng động im bặt trả lại cho căn nhà sự yên tĩnh đầu tiên kể từ khi hai vợ chồng dọn vô. Nhưng chỉ được đúng hai đêm, đến đêm thứ ba, tiếng động kỳ lạ lại vang lên như cũ.
Trong hai tuần lễ kế tiếp Joe đã sơn, thay màn cửa và bàn ăn tất cả ba lần nữa. Nhưng lần này hai vợ chồng chỉ được có mỗi một lần yên tĩnh. Sang đến đêm thứ hai lại ầm ĩ như cũ.
Một buổi chiều tháng mười, trời trở lạnh, ngoài trời mưa lâm râm. Cả nhà gồm hai vợ chồng và bà mẹ của Elke đang ngồi ăn và con chó Hasi cũng đang thưởng thức một mình một chén để ăn riêng, thì bỗng nhiên họ nghe thấy có tiếng cửa mở và tiếng cửa khép thật thong thả.
Cả ba người đều nhìn nhau im lặng trong khi con chó Hasi thì ngừng ăn rồi quay ra cửa gầm gừ... Kế đó mọi người nghe thấy có tiếng chân bước cà nhắc lên cầu thang gỗ nghe rõ mồn một...
Rồi đột nhiên im lặng một cách ghê rợn. Khoảng hai phút đồng hồ sau, con chó Hasi rít lên rồi cụp đuôi chạy lại phía Elki. Khi nàng bồng nó lên tay, nó mới quay cửa sổ sủa, cả ba cùng có cảm tưởng rõ ràng có một người vô hình vừa bước vô phòng ăn và thong thả đi xuống chiếc ghế ở cuối của bàn ăn và ngồi xuống.
Vì bàn ăn hình bầu dục và dài đũ chỗ cho mười hai người ngồi, nên khi bao giờ ăn hai vợ chồng và bà mẹ cũng ngồi gọn ở một đầu, còn đầu kia để trống. Nghe tiếng chó sủa, thấy vẻ mặt hoảng hốt của vợ và mẹ vợ, Joe bực tức đứng dậy bước thẳng về phía cuối bàn ăn kéo chiếc ghế đổ nghiêng ra sàn.
Cả ba người chờ đợi có chuyện lạ xảy ra nhưng tất cả đều bình thường và lạ lùng thay, con chó Hasi cũng im bặt không sủa thêm một tiếng nào. Nhìn xuống chiếc ghế, Joe ngạc nhiên khi thấy mặt ghế ướt sũng nước mưa và một vũng nước lênh láng ngay trên sàn gỗ...
Một chiều nọ khi hai vợ chồng về đến nhà, hai con chó của họ bỗng trở chứng nhất định không chịu vô nhà cứ đứng ngoài cổng chỏ mõm và sủa ầm ĩ, sủa đến khi khản cả tiếng vẫn còn sủa. Thấy vậy,hai vợ chồng đành phải mang hai con chó đi bác sĩ thú y, sau khi khám nghiệm vị bác sĩ này tuyên bố cả hai chú chó đều ở trong trạng thái bình thường.
Có người khuyên hai vợ chồng Joe nên mua bộ bàn ăn mới và mua các màn cửa mới treo thay vì những cái cũ, có thể có hơi hám của vong hồn ma còn quấn quít ở đâu đây tìm đến để... đòi lại.
Cũng có người khuyên Joe là phải sơn phết toàn diện ngôi nhà, làm như thể nhà mới vị chi là các hồn ma ấy sẽ bỏ đi nơi khác. Joe làm theo chỉ trong một ngày.
Quả nhiên, ngay đêm đó tiếng động của ma gây nên không còn nữa, trả lại sự yên tĩnh đầu tiên kể từ ngày hai vợ chồng Joe dọn đến ở. Nhưng... chỉ được đúng chỉ hai đêm, đến đêm thứ ba tiếng động kỳ lạ lại vang lên như cũ.
Lần này còn có vẻ dữ dội hơn. Đêm ấy trời mưa như cầm chỉnh, tiếng sấm sét liên tục vang lên. Gió càng lúc càng thổi mạnh làm lay động cả đồ đạc treo trong nhà. Joe khép kín cửa lại. Nhưng lạ lùng thay gió không biết từ khe nào mà cứ lồng vào liên tục.
Đèn điện trong nhà bỗng tắt ngấm. Joe phải chạy kiếm trong bóng đêm tìm đèn cầy và máy quẹt thắp lên. Khi ánh nến vừa tỏa sáng thì... họ đều trông thấy rõ ràng một người đàn ông đứng bên ngoài cửa sổ nhìn vào.
Và không bao lâu bóng người đàn ông lạ đó biến mất. Cả ba quay lại nhìn nhau và đều xác nhận cùng một hình ảnh giống hệt như nhau. Tất nhiên đây không phải là ảo giác, vì cả ba đều mô tả giống hệt hình dáng, lối ăn mặc luôn cả nét mặt của "người ma" đó.
Ngay sau đó Joe lấy đèn bấm lại gần khung cửa sổ tìm kiếm thì nhận ra cửa sổ vẫn đóng chặt. Bên ngoài mưa vẫn như trút và gió vẫn gào thét, cây cối vẫn vật vã từng hồi không ngớt. Tuy nhiên không thấy có bóng dáng của ai bên ngoài. Điều lạ lùng là ngay dưới cửa sổ, trên sàn gỗ bóng loáng còn nguyên một vũng nước mưa không hiểu từ đâu chảy vào?!
Nhìn lên trần Joe thấy trần khô ráo. Đưa tay sờ vào khung sổ vào tường, anh không tìm thấy một dấu hiệu gì chứng tỏ có nước hắt vô hay thấm vô. Là người can đảm có nghị lực, không hề biết sợ hãi là gì nên Joe vội khoác áo mưa lấy dù, rồi mở cửa đi ra ngoài.
Trong thâm tâm lúc đó, anh đinh ninh người đàn ông lạ mặt mà ba người thấy, chỉ là một người bình thường đứng bên ngoài cửa sổ, rình mò một chuyện gì đó chứ không thể nào có chuyện ma quái trên cõi đời này.
Tự tin như vậy nên khi đến bên cửa sổ, Joe có ý định dùng đèn bấm tìm kiếm thật kỷ dấu vết người đàn ông để lại. Nhưng khi rọi đèn đến vùng đất dưới cửa sổ, Joe bàng hoàng ngạc nhiên khi thấy đó là một vùng đất cát xốp, trải rộng cả khu gần chục thước vuông. Tất cả đều nguyên vẹn dưới làn nước mưa, tuyệt nhiên không hề thấy bất cứ có dấu chân nào.
Sau sự kiện kỳ bí này, cả Joe lẫn Elke và bà mẹ vợ đều giật mình và tin rằng, căn nhà họ đang ở chắc chắn có chứa đựng một chuyện gì ghê gớm lắm.
Ngay đêm đó Elke đề nghị báo nội vụ cho cảnh sát, còn mẹ của Elke thì đề nghị đi mời thầy pháp về làm phép trừ tà trừ quỷ. Nhưng Joe tin tưởng, dù có chuyện gì xảy ra chăng nữa thì trên dương thế, người sống bao giờ cũng làm chủ nên anh tính cứ chờ xem chuyện thế nào rồi tính sau.
Trong những tuần lễ kế tiếp gia đình Joe tiếp tục chứng kiến những hiện tượng lạ lùng, như những tiếng thở khò khè như người nghẹn thở, thỉnh thoảng vang lên trong đêm. Có người khuyên hai vợ chồng Joe nên tìm sự giúp đở của Hiệp Hội Nghiên Cứu Tâm Thần ASPR (American Society for Psychal Research) Hoa Kỳ tại Los Angeles để nhờ giúp đỡ.
Vợ chồng Joe tìm đến. Sau khi trò chuyện với chuyên viên của Hội hai vợ chồng mới biết, trước đây tại căn nhà họ ở cũng đã xảy ra những chuyện tương tự và hai người chủ cũ đã phải bán vội vàng, ngay sau khi dọn đến ở không bao lâu.
Theo lời của những người chủ cũ, thì họ cũng đã từng bị người đàn ông mặc áo rằn sọc trắng như gia đình Joe đã thấy. Người này cho biết là người mà gia đình Joe trông thấy mặc áo đen ba sọc trắng, nguyên là người chủ đầu tiên của căn nhà, nhưng không hiểu sao bỗng nhiên bị mất tích cách đó cả nửa thế kỷ.
Sau khi nghe chuyện hai vợ chồng Joe đồng ý để cho Hội cử một chuyên viên nổi tiếng về trừ ma đuổi quỷ đến nhà làm phép. Chuyên viên đó là bà Lotte Von Strahl. Nghi lễ đuổi ma quỷ của bà Lotte rất đơn giản. Bà đến ngồi gọn gàng ở đầu một bàn ăn và mời hai vợ chồng Elke ngồi ở đầu bàn bên kia.
Sau vài phút im lặng nhắm mắt nhập thần, bà Lotte lạnh lùng tuyên bố:
"Ồ ! Đúng rồi... tôi thấy nó rồi. Bây giờ thì con quỷ ghê gớm đó đang ngồi cạnh tôi. Vậy tôi xin mời hai ông bà cùng tôi đọc một đoạn kinh cầu nguyện..."
Sau khi ba người đọc kinh xong, bà Lotte quay sang bên trịnh trọng tuyên bố:
"Nhân danh Thượng Đế, ta ra lệnh cho ngươi rời khỏi căn nhà này ngay từ bây giờ. Hãy để cho những người lương thiện sống yên ổn và từ nay ngươi hãy chấm dứt trò quấy rầy những người sống trong căn nhà này."
Tuyên bố xong, bà Lotte nhắm mắt im lặng một lúc nhập định rồi mở mắt tuyên bố giọng vui mừng:
"Ông bà yên trí. Nó cút khỏi căn nhà này rồi. Từ nay trở đi ông bà sẽ sống thoải mái, không lo sợ điều gì nữa."
Ngay tối hôm đó hai vợ chồng đóng cổng, khóa cửa sổ và lên giường ngủ thật sớm. Đến chín giờ tối khi Joe vừa thiu thiu ngủ, bỗng nhiên những tiếng động thường lệ lại nổi lên. Lần này có cả tiếng vật vã, rên rỉ nghe không rõ là của người hay thú.
Sau này trong một tác phẩm ghi lại những sự kiện xảy ra trong căn nhà ở Beverly Hills, Joe đã phải thú nhận:
"Dù không bao giờ tin chuyện ma quỷ, cuối cùng trước những hiện tượng mà chính tôi nhìn thấy, nghe thấy, tôi đành phải tin trong nhà mình ở quả thật có ít nhất là một con quỷ hay một con vật vô hình nào đó đại loại như quỷ".
Nhưng dù đã có phần nào tin có quỷ trong nhà, Joe vẫn nhất định không chịu bán nhà. Joe bướng bỉnh tuyên bố:
"Với tôi, người sống còn không làm cho tôi sợ huống chi người chết. Tôi sẽ ở lại căn nhà này cho đến khi nào tôi chết thì thôi."
Nhưng cuối cùng lòng dũng cảm của Joe bị đánh gục vào buổi sáng hôm ấy. Sáng sớm hôm ấy bỗng dưng có tiếng đấm cửa thật lớn. Joe vội vã với khẩu súng chạy xuống và mở cửa.
Không thấy ai, Joe ngạc nhiên chạy ra ngoài coi thì thấy đường vắng ngắt. Khi quay vô Joe giật mình thấy khói và lửa bốc lên ngùn ngụt từ phòng ăn.
Hoảng hốt, Joe chạy vội lên phòng gọi vợ và mẹ vợ. Khi cả ba chạy thoát ra đến ngoài đường thì thần hỏa biến cả căn nhà thành một biển lửa. Hai tuần lễ sau, Joe đành phải ký giấy cho phép địa ốc treo bản bán khoảnh đất còn lại này.
Nửa năm sau, người chủ mới cho san bằng những căn nhà còn lại để xây một dinh thự mới to hơn. Khi đào móng xây nhà, người ta phát hiện thấy dưới căn nhà có một căn hầm cao ra rộng gần một trăm mét vuông.
Ngay giữa hầm có một người đàn ông mặc áo đen ba nẹp trắng quần sọc, cổ bị treo trong một chiếc thòng lọng, còn chân thì một chân cặm vào cây sắt đóng sâu dưới sàn xi măng, một chân khác tuy lơ lửng trên không nhưng cũng bị thủng nhiều lổ, máu chảy đầm đìa.
Đầu của cây cọc sắt tuy không nhọn nhưng có lẽ vì phải chịu đựng cả một thân thể trong một thời gian quá lâu, nên cây cọc sắt tầy đầu đã xuyên qua bàn chân, để lại trên sàn xi măng một vũng máu khô cứng.
Nhìn cảnh tượng người đàn ông bị treo cổ, người ta đoán được người đàn ông đã phải trải qua một cực hình đầy ghê rợn, nếu không chịu đứng trên cọc sắt thì dây thòng lọng sẽ xiết sâu vào cổ làm cho y nghẹt thở. Điều lạ lùng là không biết người đàn ông đó chết trong bao lâu, nhưng cả người và máu loang lổ đều khô quánh lại.
Không thấy người viết tả lại mặt mày và thân thể người đàn ông này có bị rữa nát không? Chỉ thấy người ghi lại câu chuyện này đưa ra câu hỏi:
"Phải chăng vì chiếc chân bị dính cọc sắt và cổ bị siết chặt như vậy nên mỗi khi xuất hiện, hồn ma của người đàn ông đều bước đi khập khễnh và hơi thỏ khò khè như người bị bóp cổ?"
ST
#97
Gửi vào 19/06/2011 - 08:52
NGÔI NHÀ MA TRÊN VÙNG BIỂN VẮNG
Một buổi tối tháng chín sau một ngày lang thang, tôi rời bờ biển đi vào đất liền. Xa xa tôi thấy một ngôi nhà nhỏ nằm sau một cánh đồng hoang vu dưới ánh trăng non.
Từ trong ngôi nhà một ánh đèn hiu hắt tỏa ra và tôi hướng về ngôi nhà rảo bước. Như con thiêu thân bị hút bởi ánh đèn. Tuy nhiên là nơi lý tưởng cho bất cứ ai vừa đói, vừa mệt lại vừa lạc đường như tôi lúc đó.
Trông thì gần nhưng thực ra tôi phải đi bộ tới gần mười lăm phút mới đến nơi. Quanh nhà là những bụi cây rậm rạp và cho tới bây giờ tôi cũng không biết làm sao tôi có thể nhìn thấy được ánh đèn.
Nhưng lúc đó vừa đói vừa mệt, mệt nhiều hơn đói, tôi không suy nghĩ gì hết mà chỉ đưa tay gõ cửa. Sau khi gõ mấy lần mà không ai ra mở cửa hoặc trả lời, tôi đánh liều xô nhẹ cánh cửa. Cánh cửa cũ kỹ với cái bản lề sét rỉ kêu lên ken két như muốn kháng cự nhưng vẫn từ từ mở ra.
Tôi bước vào một căn phòng thật rộng, dường như chạy dài suốt cả ngôi nhà. Một cây đèn dầu lớn cháy sáng trên một mặt bàn lớn. Trên tường là một cái đồng hồ quả lắc cũ kỹ. Quanh phòng là mấy cái cửa sổ long lanh ánh cỏ.
Tôi vừa toan lên tiếng hỏi xem có ai trong nhà hay không thì từ phía cuối phòng, một người đàn bà xuất hiện tiến về phía tôi. Đó là một người đàn bà mập mạp nhưng di chuyển thật lẹ làng và nhất là không gây một tiếng động nào. Trong sự im lặng đó, tôi chỉ nghe những tiếng tích tắc của cái đồng hồ trên tường.
Tôi lên tiếng:
- Chào bà. Tôi là một du khách bị lạc đường. Thấy ánh đèn nhà bà nên tôi tới đây xin bà vui lòng cho ở tạm một đêm. Thưa bà, có phiền gì không ạ?
Người đàn bà không đáp mà chỉ mỉm cười lắc đầu. Tôi hơi rùng mình khi thấy nụ cười của bà ta khiến đôi môi nhỏ xíu như bị chôn vùi trong cái lỗ miệng đen ngòm. Tuy nhiên, điều khiến tôi kinh hoàng hơn là hình như tóc tai bà ta dính đầy đất cát.
Tôi chưa bao giờ thấy một người đàn bà phốp pháp như thế. Bà ta thở phì phò những hơi ngắn và chính tiếng thở của bà khiến tôi cảm thấy an tâm hơn khi biết rằng bà ta là một người bằng xương bằng thịt, nếu không, có lẽ tôi đã bỏ chạy ra ngoài rồi. Lý do đơn giản là căn nhà nhìn từ xa đã có vẻ ma quái, bây giờ ở bên trong bầu không khí lại lạnh lẽo như một nhà mồ.
Vẫn không nói một lời, người đàn bà to béo mở một cái tủ nhỏ ở góc nhà, lấy ra một khúc bánh mì, một miếng phó mát và một chai nước táo. Đặt tất cả những đồ ăn thức uống đó lên bàn, bà ngồi xuống cái ghế đối diện quan sát trong khi tôi làm công việc phục vụ bao tử.
Tuy ruột gan cồn cào, tôi cảm thấy khúc bánh mì cứng như khúc gỗ, miếng phó mát lụn vụn hình như hơi mốc và hơi chua. Tôi cố nhai trệu trạo rồi đưa chúng xuống bao tử bằng những ngụm nước táo hình như đã lên men từ lâu rồi.
Trong lúc ăn uống thỉnh thoảng tôi lại liếc nhìn người đối diện, và lần nào cũng thấy bà ta nhìn tôi chăm chăm với ánh mắt thích thú và nụ cười ma quái.
Rồi bà ta đứng lên đi quanh phòng, kéo những tấm màn cửa sổ ra kêu xoèn xoẹt. Xong đâu đấy bà biến mất. Vừa ăn nốt những miếng cuối cùng tôi vừa nghĩ rằng có lẽ bà ta chuẩn bị phòng ngủ cho tôi, một người khách bất ngờ và bất đắc dĩ.
Tôi không nhớ khi đó tôi có ý nghĩ là bà ta sẽ đòi tiền phòng hay không. Tôi chỉ nhớ là sự tiếp đãi nồng hậu trong im lìm của chủ nhân khiến tôi hơi thắc mắc, có lẽ phải nói là hơi chột dạ mới đúng. Tại sao, tôi không biết. Tôi chỉ nhớ là mình tự hỏi có nên chạy ra khỏi ngôi nhà này hay không khi còn có thì giờ ?
Nói ra thì có vẻ hơi kỳ cục, nhưng thực ra đó là ý nghĩ của tôi lúc đó, có lẽ bị thúc đẩy một phần sau khi có cảm tưởng là bà ta vừa cho tôi ăn mấy cục đất khô. Nhưng rồi tôi quyết định ở lại. Trong khi chờ đợi tôi quan sát căn phòng. Đó đây những cây xà ngang xệ xuống thật thấp khiến những ai vô ý có thể bị đụng đầu.
Mạng nhện giăng hầu như khắp nơi khiến tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao chủ nhân lại có thể để như vậy được. Rồi tôi nhìn cái đồng hồ quả lắc trên tường. Đó là loại đồng hồ mà trước đó tôi chưa hề nhìn thấy bao giờ vì là loại đồng hồ rất cổ.
Tôi biết nó sẽ đổ chuông bất cứ lúc nào vì lúc đó đã gần mười giờ. Tuy nhiên tôi không được nghe tiếng chuông đồng hồ vì bà ta đã trở lại không lâu sau đó và ra hiệu cho tôi đi theo.
Tôi nghe những tiếng tích tắc cuối cùng khi đi qua một khung cửa cuối phòng, trước khi theo người đàn bà mập mạp đi quanh co qua không biết bao nhiêu hành lang nhỏ trong căn nhà lạ lùng này.
Nhìn bà ta đi phía trước, tôi có cảm tưởng như đó là một khối sương mù dầy đặc tròn trịa đang lăn. Cuối cùng bà ta đưa tôi vào một căn phòng rộng, bên trong đã có sẵn sáu bảy cây nến cháy sáng. Ba cây nến lớn được gắn trên một cái bàn rộng rãi nằm ở giữa phòng. Hai cây nến nhỏ hơn gắn trên một cái tủ nhiều ngăn và một cây nữa được đặt trên một cái ghế ở một góc phòng, gần một cái giường đôi bằng gỗ có lẽ còn lớn hơn cả loại giường king size.
Đặc điểm của căn phòng này là tất cả đồ đạc đều lớn một cách bất thường, có lẽ cũng bất thường như người đàn bà to béo. Một điểm lạ lùng khác nữa là cả tường phòng, đồ đạc, chăn mền và màn cửa đều có chung một màu cỏ úa khiến căn phòng coi có vẻ trống trải và đặc biệt là khiến tôi cảm thấy buồn ngủ.
Sau khi người đàn bà bước ra, tôi ngồi trên một cạnh giường, cố làm quen với căn phòng lạ và tự nhiên tôi có cảm tưởng rằng đó là một căn phòng dành cho trẻ con. Không hiểu tại sao tôi biết chắc rằng căn phòng này là nơi từng có rất nhiều trẻ con. Có thể là một trung tâm giữ trẻ. Cũng có thể chúng chỉ là những đứa con của bà ta.
Và một cảm giác kinh hoàng đột nhiên kéo đến khiến tôi rùng mình, khi nghĩ rằng tất cả những đứa trẻ từng ở đây đã chết từ lâu, lâu lắm. Tại sao tôi có cảm giác đó, tôi không biết.
Rồi tôi cởi đôi giầy nặng nề ra và nằm xuống. Suốt từ sáng đến giờ mới được ngả lưng lần đầu tiên, tôi cảm thấy vô cùng khoan khoái. Một luồng hơi lạnh ở đâu chợt đến khiến tôi vội vàng kéo cái mền dầy lên tận cổ. Tôi không tắt nến vì không hiểu sao tôi không dám nhắm mắt, sợ mình ngủ thiếp đi.
Tôi nhìn chòng chọc lên trần nhà, tưởng tượng đó là một bức tranh đồng quê. Không hiểu tại sao tôi có cảm tưởng là tất cả đồ đạc trong căn phòng này đều có những đôi mắt bí mật đang theo dõi nhất cử nhất động của tôi. Ý nghĩ này khiến tôi nổi gai ốc.
Tôi cố lắng tai nghe tiếng sóng biển rì rào từ một nơi thật xa vọng lại, như từ một thế giới khác. Rồi trong sự yên lặng nặng nề đó, tôi chợt nghe những tiếng chuông leng teng nho nhỏ, tiếng kêu của loại chuông được treo trên những cây Giáng Sinh.
Tiếng chuông nghe thật rõ ngay trong phòng. Tôi tung mền ngồi bật dậy, nhảy xuống giường đi quanh phòng lắng nghe xem tiếng chuông phát xuất từ đâu.
Cuối cùng tôi đứng lại trước một tủ chén cao không khóa, không ngăn và trống rỗng.
Dưới đáy tủ qua ánh nến bập bùng, tôi nhìn thấy một cái chuông nhỏ lấp lánh. Cái chuông nằm yên và những tiếng leng keng không còn nữa. Nhưng rõ rệt trước đó nó đã kêu. Tôi mở tủ lượm cái chuông nhỏ lên, cầm trong tay lắc nhẹ "leng teng leng teng". Đây đúng là một món đồ chơi của trẻ con và căn phòng này đúng là căn phòng của trẻ con như tôi nghĩ.
Tôi cầm cái chuông tới ngồi trên một cái bàn nhỏ, cái bàn của trẻ con, đối diện tủ chén và nhìn vào tủ suy nghĩ. Đột nhiên tôi thấy có hai ánh mắt long lanh của một con chuột lắt xuất hiện từ một cái lỗ nhỏ sau lưng tủ. Tôi thở dài nhẹ nhõm, không ngờ mình có thể tìm ra nguyên nhân của tiếng chuông rung một cách lẹ làng như thế.
Trong khi tôi ngồi yên theo dõi, con chuột nhỏ từ từ bò ra cửa tủ chạy ra ngoài. Tôi la lên:
"Ê ông bạn đi đâu vậy?
Trước khi đứng lên rượt theo nó. Khi tới một góc phòng, con chuột nhỏ biến mất và tôi thấy mình đang đứng trước một cái cửa mà từ xa tôi không thấy. Hơi ngạc nhiên tôi đưa tay lên gõ. Từ phiá sau cánh cửa một giọng nói thật cao, thật mỏng như tiếng gió vang lên:
"cứ vào tự nhiên".
Tôi đẩy cửa bước vào và dưới ánh trăng lọt qua khung cửa sổ, tôi thấy một người đàn ông đang đứng sững nhìn thẳng vào mặt tôi. Tôi giật mình lui lại. Người đàn ông cũng lui lại cùng một lúc. Tới lúc đó tôi mới biết mình đang nhìn vào một tấm gương lớn.
Sau cơn hoảng hốt tôi quay nhìn cái mà tôi muốn thấy. Đó là người đàn bà to béo. Bà ta đang nằm trên một cái giường rộng, hai bàn tay chuối mắn đang mân mê cái mền. Đôi mắt bà ta nhìn tôi trừng trừng khiến tôi cảm thấy toàn thân lạnh toát.
Tôi liếc nhìn sang bên cạnh và thấy một thanh gỗ lớn, dài khoảng hơn một thước, có lẽ là cây chặn cửa. Không hiểu sao, tôi cầm thanh gỗ lên và cảm thấy tự tin hơn. Ít nhất tôi cũng có vũ khí trong tay. Rồi tôi liếc nhìn lại phía người đàn bà. Bà ta đang chờn vờn ngồi dậy với một khuôn mặt hoàn toàn thay đổi.
Mái tóc dính đầy đất cát của bà ta rũ rượi một cách ghê rợn, đôi mắt bà đỏ rực như mắt chó rừng trong đêm tối, đôi môi nhỏ của bà hoàn toàn biến mất trong cái lỗ miệng đen ngòm, thay thế bằng một cái lưỡi đỏ chóe giữa những cái răng nanh nhọn hoắt. Từ cái lỗ miệng khủng khiếp đó, những tiếng cười ằng ặc như người bị bóp cổ vọng ra.
Bây giờ người đàn bà đã ngồi dậy, đôi mắt đỏ ngầu của bà ta nhìn tôi nửa như chế diễu nửa như thèm thuồng. Rồi cái khối thịt khổng lồ và tròn trịa đó bước xuống đất và lần đầu tiên tôi nhận thấy đôi chân bà ta không chạm đất, rồi như một trái banh bằng hơi sương, người đàn bà với khuôn mặt ma quái từ từ lăn tới chỗ tôi đứng trong khi cái lưỡi đỏ hỏn dài chừng hai tấc của bà ta thè ra thụt vào.
Phản ứng của tôi là giơ thanh gỗ lên đập xuống khối sương ma quái đó. Tôi đập liên hồi tới khi người đàn bà gục xuống không cựa quậy. Khi những tiếng động tắt hẳn, dù tôi còn cảm thấy nhịp cổ tay bà ta đập nhẹ khi cúi xuống kiểm soát, tôi bước thẳng tới cánh cửa thứ nhì trong phòng, đối diện với cánh cửa mà tôi bước vào.
Một tấm bảng nhỏ "cửa vườn" viết bằng nét chữ trẻ con nguệch ngoạc được dán ở phía trên. Tôi đẩy bung cánh cửa vườn này ra và nhìn vào một khu vườn như bị bỏ hoang từ hàng chục năm qua, với những đám cỏ hoang cao bằng đầu người, nằm sau một khoảng sân trống chừng mười lăm thước.
Suy nghĩ trong giây lát tôi quay trở vào nhấc người đàn bà to béo lên, và điều khiến tôi ngạc nhiên là bà ta không nặng hơn một đứa bé. Tuy nhiên vì cái khối lượng thân hình khổng lồ của bà, phải vất vả lắm tôi mới lôi được bà ta qua khỏi những đám cỏ hoang rậm rạp nằm giữa những hàng cây khô tới tận cuối vườn.
Trong khoảng hai tiếng đồng hồ sau đó, tôi liên tục ghim mũi cuốc xuống đất để tạo cho bà ta một nấm mồ rộng rãi, ít nhất cũng bằng cái giường của bà ta. Cuối cùng tôi xoa hai bàn tay một cách thỏa mãn.
Dưới ánh trăng một cái hố rộng bằng cái giường, sâu khoảng một thước rưỡi đã hoàn tất. Ném cái cuốc và cái xẻng lên mặt đất, tôi leo lên miệng hố, nhưng hai chân tôi như bị gắn chặt xuống nấm mộ mà tôi mới đào.
Trong cơn hoảng hốt, tôi liếc nhìn xác người đàn bà to béo và có cảm tưởng như bà ta đang cựa quậy. Nhưng không đó chỉ là một cơn gió khiến tà áo của bà bay lên nhè nhẹ. Cuối cùng với một nỗ lực phi thường có lẽ vì quá mệt mỏi, tôi cũng leo lên được mặt đất và ngồi thở dốc.
Rồi tôi lăn xác người đàn bà to béo đó xuống ngôi mộ mới và lấy xẻng lấp đất lên. Khi công việc kết thúc, dưới ánh trăng vằng vặc, tôi liếc nhìn đồng hồ và thấy mới gần ba giờ sáng. Đứng nhìn ngôi mộ mới giữa lớp cỏ cao, tôi xoa tay một cách hài lòng trước khi lững thững bước vào nhà.
Chui qua cánh cửa với hai chữ "cửa vườn", tôi vô cùng kinh ngạc khi thấy mình đang đứng giữa một căn phòng với sáu ngọn nến còn cháy sáng. Phòng ngủ của tôi chứ không phải căn phòng của người đàn bà to béo!
Tôi lắc đầu mấy cái xem mình mơ hay tỉnh. Không, tôi hoàn toàn tỉnh táo. Tôi bước trở lại trước cánh "cửa vườn" thì không còn thấy tấm bảng "cửa vườn" đâu nữa. Tôi chăm chú nhìn cánh cửa và nhận thấy đó chính là cánh cửa mở vào phòng người đàn bà.
Có thể nào sau khi làm việc mệt mỏi, tôi đã mở cánh "cửa vườn" vào phòng bà ta rồi mở cánh cửa thông sang phòng của tôi mà không nhớ ? Thật là vô lý vì tôi hoàn toàn tỉnh táo.
Không biết vì lý do nào thúc đẩy, tôi đưa tay lên gõ cửa mấy cái và giật bắn mình khi từ phía sau cánh cửa im lìm, một giọng nói thật cao, thật mỏng như tiếng gió vang lên:
"cứ vào tự nhiên".
Không tin ở tai mình tôi xô cửa nhìn vào, lần này tôi không bước vào. Căn phòng và cái giường hoàn toàn trống rỗng. Nhiều khi quá mỏi mệt bạn có thể không kiểm soát được cả thính giác của chính bạn nữa!
Tôi trở lại ngồi trên cái bàn nhỏ đối diện với tủ chén. Tôi không nhớ là đã bỏ cái chuông nhỏ mà tôi lấy ra từ tủ chén ở đâu. Đột nhiên tôi lại nghe những tiếng leng keng nho nhỏ khiến tôi nổi gai ốc.
Nhìn kỹ vào cái tủ chén trống rỗng với hai cánh cửa mở toang, tôi thấy con chuột lắt đang đùa giỡn với cái chuông nhỏ. Không hiểu sao một cơn giận bất thần chợt đến với tôi. Tôi rút một chiếc giầy liệng vào con chuột nhưng chiếc giầy bị cửa tủ chăn lại, rơi xuống.
Tuy nhiên con chuột nhỏ cũng giật mình bỏ cái chuông, chạy tụt vào một cái lỗ sau lưng tủ. Tôi bước tới cửa tủ, cúi xuống lượm cái chuông nhỏ lên bỏ vào túi. Tôi quyết định phải rời khỏi căn nhà ma quái này ngay dù không biết đường và dù trời còn tối.
Sau khi cột giày tôi cầm theo một cây nến mở cửa bước ra. Cố nhớ lại những hành lang nhỏ mà người đàn bà to béo đưa tôi đi qua trên đường tới phòng ngủ, tôi đi quanh quất một hồi trong căn nhà lạ và thấy mình trở lại trước căn phòng ngủ với năm ngọn đèn cầy cháy sáng!
Một ý nghĩ chợt đến với tôi "hay là mình mở cánh cửa ăn thông sang phòng ngủ của người đàn bà rồi đi ra vườn. Từ ngoài vườn mình chỉ việc đi quanh nhà là ra tới phía trước. Từ đó mình có thể bước ra đường một cách dễ dàng".
Nghĩ như vậy tôi bước tới đẩy cánh cửa ăn thông sang căn phòng người đàn bà. Trước sự ngạc nhiên của tôi, trước mắt tôi là cánh vườn hoang mà tôi đã lôi xác người đàn bà ra trước đó. Căn phòng ngủ của bà ta hoàn toàn biến mất như chưa bao giờ hiện diện trên trái đất!
Trong khi tôi còn đang ngỡ ngàng chưa biết có nên bước ra hay không thì từ phía cuối vườn, nơi tôi mới chôn người đàn bà to béo, tôi thấy như có một cái gì lay động giữa đám cỏ cao. Định thần nhìn kỹ tôi thấy những đầu ngọn cỏ khởi sự chuyển động, và tiến lần về phía ngôi nhà như bị một cơn gió thổi thật chậm.
Khi những đầu ngọn cỏ ngưng chuyển động, từ trong đám cỏ cao vút, người đàn bà to béo xuất hiện, bước vào khoảng sân trống. Đôi mắt bà ta vẫn đỏ ngầu và bây giờ đầy vẻ giận dữ. Cái miệng bà ta chỉ còn là một hàm răng nhọn hoắt trắng nhởn đang nhe ra. Bà ta lướt về phía tôi như lăn trên bánh xe.
Tôi hoảng hốt đóng sập cánh cửa lại, lao mình chạy quanh những hành lang tăm tối, đầu bị những kèo nhà đập trúng bôm bốp. Có lúc tôi ngã xuống nhưng lại cố đứng ngay dậy tiếp tục trốn chạy.
Cuối cùng tôi thấy mình đang chạy trên đường hướng về biển cả. Tới bờ biển lúc này không còn một ngọn gió, không còn một lượn sóng, tôi vục hai tay xuống làn nước biển lạnh buốt rồi đổ lên đầu lên mặt.
Chất muối khiến tôi nhăn mặt khi cảm thấy rát ở trên đầu, và hơi nước lạnh khiến tôi như khoẻ lại. Ngồi thở một lúc trên bãi biển vắng tênh, tôi đứng dậy loạng choạng bước lên mặt đường nhìn về phía ngôi nhà quái gỡ. Bây giờ tôi mới nhận ra những nét ma quái dễ sợ của căn nhà, cũng vẫn với ánh đèn hiu hắt tỏa ra. Nếu tôi đã có cảm giác này vào buổi tối, có lẽ tôi đã không tìm đến đó.
Lúc đó tôi nghĩ rằng có thể những gì vừa xẩy ra chỉ là một giấc mơ, một cơn ác mộng, nhưng khi sờ vào những cục u trên đầu, tôi biết rằng mình vẫn tỉnh táo và những gì xẩy ra là sự thật.
Ngay cả bây giờ, nhiều khi tôi muốn nghĩ rằng đó chỉ là một cơn ác mộng, nhưng không, tất cả những gì tôi vừa kể lại hoàn toàn là sự thật, cũng thật như cái chuông nhỏ mà tôi vẫn để trên bàn viết của tôi.
NKCM
Một buổi tối tháng chín sau một ngày lang thang, tôi rời bờ biển đi vào đất liền. Xa xa tôi thấy một ngôi nhà nhỏ nằm sau một cánh đồng hoang vu dưới ánh trăng non.
Từ trong ngôi nhà một ánh đèn hiu hắt tỏa ra và tôi hướng về ngôi nhà rảo bước. Như con thiêu thân bị hút bởi ánh đèn. Tuy nhiên là nơi lý tưởng cho bất cứ ai vừa đói, vừa mệt lại vừa lạc đường như tôi lúc đó.
Trông thì gần nhưng thực ra tôi phải đi bộ tới gần mười lăm phút mới đến nơi. Quanh nhà là những bụi cây rậm rạp và cho tới bây giờ tôi cũng không biết làm sao tôi có thể nhìn thấy được ánh đèn.
Nhưng lúc đó vừa đói vừa mệt, mệt nhiều hơn đói, tôi không suy nghĩ gì hết mà chỉ đưa tay gõ cửa. Sau khi gõ mấy lần mà không ai ra mở cửa hoặc trả lời, tôi đánh liều xô nhẹ cánh cửa. Cánh cửa cũ kỹ với cái bản lề sét rỉ kêu lên ken két như muốn kháng cự nhưng vẫn từ từ mở ra.
Tôi bước vào một căn phòng thật rộng, dường như chạy dài suốt cả ngôi nhà. Một cây đèn dầu lớn cháy sáng trên một mặt bàn lớn. Trên tường là một cái đồng hồ quả lắc cũ kỹ. Quanh phòng là mấy cái cửa sổ long lanh ánh cỏ.
Tôi vừa toan lên tiếng hỏi xem có ai trong nhà hay không thì từ phía cuối phòng, một người đàn bà xuất hiện tiến về phía tôi. Đó là một người đàn bà mập mạp nhưng di chuyển thật lẹ làng và nhất là không gây một tiếng động nào. Trong sự im lặng đó, tôi chỉ nghe những tiếng tích tắc của cái đồng hồ trên tường.
Tôi lên tiếng:
- Chào bà. Tôi là một du khách bị lạc đường. Thấy ánh đèn nhà bà nên tôi tới đây xin bà vui lòng cho ở tạm một đêm. Thưa bà, có phiền gì không ạ?
Người đàn bà không đáp mà chỉ mỉm cười lắc đầu. Tôi hơi rùng mình khi thấy nụ cười của bà ta khiến đôi môi nhỏ xíu như bị chôn vùi trong cái lỗ miệng đen ngòm. Tuy nhiên, điều khiến tôi kinh hoàng hơn là hình như tóc tai bà ta dính đầy đất cát.
Tôi chưa bao giờ thấy một người đàn bà phốp pháp như thế. Bà ta thở phì phò những hơi ngắn và chính tiếng thở của bà khiến tôi cảm thấy an tâm hơn khi biết rằng bà ta là một người bằng xương bằng thịt, nếu không, có lẽ tôi đã bỏ chạy ra ngoài rồi. Lý do đơn giản là căn nhà nhìn từ xa đã có vẻ ma quái, bây giờ ở bên trong bầu không khí lại lạnh lẽo như một nhà mồ.
Vẫn không nói một lời, người đàn bà to béo mở một cái tủ nhỏ ở góc nhà, lấy ra một khúc bánh mì, một miếng phó mát và một chai nước táo. Đặt tất cả những đồ ăn thức uống đó lên bàn, bà ngồi xuống cái ghế đối diện quan sát trong khi tôi làm công việc phục vụ bao tử.
Tuy ruột gan cồn cào, tôi cảm thấy khúc bánh mì cứng như khúc gỗ, miếng phó mát lụn vụn hình như hơi mốc và hơi chua. Tôi cố nhai trệu trạo rồi đưa chúng xuống bao tử bằng những ngụm nước táo hình như đã lên men từ lâu rồi.
Trong lúc ăn uống thỉnh thoảng tôi lại liếc nhìn người đối diện, và lần nào cũng thấy bà ta nhìn tôi chăm chăm với ánh mắt thích thú và nụ cười ma quái.
Rồi bà ta đứng lên đi quanh phòng, kéo những tấm màn cửa sổ ra kêu xoèn xoẹt. Xong đâu đấy bà biến mất. Vừa ăn nốt những miếng cuối cùng tôi vừa nghĩ rằng có lẽ bà ta chuẩn bị phòng ngủ cho tôi, một người khách bất ngờ và bất đắc dĩ.
Tôi không nhớ khi đó tôi có ý nghĩ là bà ta sẽ đòi tiền phòng hay không. Tôi chỉ nhớ là sự tiếp đãi nồng hậu trong im lìm của chủ nhân khiến tôi hơi thắc mắc, có lẽ phải nói là hơi chột dạ mới đúng. Tại sao, tôi không biết. Tôi chỉ nhớ là mình tự hỏi có nên chạy ra khỏi ngôi nhà này hay không khi còn có thì giờ ?
Nói ra thì có vẻ hơi kỳ cục, nhưng thực ra đó là ý nghĩ của tôi lúc đó, có lẽ bị thúc đẩy một phần sau khi có cảm tưởng là bà ta vừa cho tôi ăn mấy cục đất khô. Nhưng rồi tôi quyết định ở lại. Trong khi chờ đợi tôi quan sát căn phòng. Đó đây những cây xà ngang xệ xuống thật thấp khiến những ai vô ý có thể bị đụng đầu.
Mạng nhện giăng hầu như khắp nơi khiến tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao chủ nhân lại có thể để như vậy được. Rồi tôi nhìn cái đồng hồ quả lắc trên tường. Đó là loại đồng hồ mà trước đó tôi chưa hề nhìn thấy bao giờ vì là loại đồng hồ rất cổ.
Tôi biết nó sẽ đổ chuông bất cứ lúc nào vì lúc đó đã gần mười giờ. Tuy nhiên tôi không được nghe tiếng chuông đồng hồ vì bà ta đã trở lại không lâu sau đó và ra hiệu cho tôi đi theo.
Tôi nghe những tiếng tích tắc cuối cùng khi đi qua một khung cửa cuối phòng, trước khi theo người đàn bà mập mạp đi quanh co qua không biết bao nhiêu hành lang nhỏ trong căn nhà lạ lùng này.
Nhìn bà ta đi phía trước, tôi có cảm tưởng như đó là một khối sương mù dầy đặc tròn trịa đang lăn. Cuối cùng bà ta đưa tôi vào một căn phòng rộng, bên trong đã có sẵn sáu bảy cây nến cháy sáng. Ba cây nến lớn được gắn trên một cái bàn rộng rãi nằm ở giữa phòng. Hai cây nến nhỏ hơn gắn trên một cái tủ nhiều ngăn và một cây nữa được đặt trên một cái ghế ở một góc phòng, gần một cái giường đôi bằng gỗ có lẽ còn lớn hơn cả loại giường king size.
Đặc điểm của căn phòng này là tất cả đồ đạc đều lớn một cách bất thường, có lẽ cũng bất thường như người đàn bà to béo. Một điểm lạ lùng khác nữa là cả tường phòng, đồ đạc, chăn mền và màn cửa đều có chung một màu cỏ úa khiến căn phòng coi có vẻ trống trải và đặc biệt là khiến tôi cảm thấy buồn ngủ.
Sau khi người đàn bà bước ra, tôi ngồi trên một cạnh giường, cố làm quen với căn phòng lạ và tự nhiên tôi có cảm tưởng rằng đó là một căn phòng dành cho trẻ con. Không hiểu tại sao tôi biết chắc rằng căn phòng này là nơi từng có rất nhiều trẻ con. Có thể là một trung tâm giữ trẻ. Cũng có thể chúng chỉ là những đứa con của bà ta.
Và một cảm giác kinh hoàng đột nhiên kéo đến khiến tôi rùng mình, khi nghĩ rằng tất cả những đứa trẻ từng ở đây đã chết từ lâu, lâu lắm. Tại sao tôi có cảm giác đó, tôi không biết.
Rồi tôi cởi đôi giầy nặng nề ra và nằm xuống. Suốt từ sáng đến giờ mới được ngả lưng lần đầu tiên, tôi cảm thấy vô cùng khoan khoái. Một luồng hơi lạnh ở đâu chợt đến khiến tôi vội vàng kéo cái mền dầy lên tận cổ. Tôi không tắt nến vì không hiểu sao tôi không dám nhắm mắt, sợ mình ngủ thiếp đi.
Tôi nhìn chòng chọc lên trần nhà, tưởng tượng đó là một bức tranh đồng quê. Không hiểu tại sao tôi có cảm tưởng là tất cả đồ đạc trong căn phòng này đều có những đôi mắt bí mật đang theo dõi nhất cử nhất động của tôi. Ý nghĩ này khiến tôi nổi gai ốc.
Tôi cố lắng tai nghe tiếng sóng biển rì rào từ một nơi thật xa vọng lại, như từ một thế giới khác. Rồi trong sự yên lặng nặng nề đó, tôi chợt nghe những tiếng chuông leng teng nho nhỏ, tiếng kêu của loại chuông được treo trên những cây Giáng Sinh.
Tiếng chuông nghe thật rõ ngay trong phòng. Tôi tung mền ngồi bật dậy, nhảy xuống giường đi quanh phòng lắng nghe xem tiếng chuông phát xuất từ đâu.
Cuối cùng tôi đứng lại trước một tủ chén cao không khóa, không ngăn và trống rỗng.
Dưới đáy tủ qua ánh nến bập bùng, tôi nhìn thấy một cái chuông nhỏ lấp lánh. Cái chuông nằm yên và những tiếng leng keng không còn nữa. Nhưng rõ rệt trước đó nó đã kêu. Tôi mở tủ lượm cái chuông nhỏ lên, cầm trong tay lắc nhẹ "leng teng leng teng". Đây đúng là một món đồ chơi của trẻ con và căn phòng này đúng là căn phòng của trẻ con như tôi nghĩ.
Tôi cầm cái chuông tới ngồi trên một cái bàn nhỏ, cái bàn của trẻ con, đối diện tủ chén và nhìn vào tủ suy nghĩ. Đột nhiên tôi thấy có hai ánh mắt long lanh của một con chuột lắt xuất hiện từ một cái lỗ nhỏ sau lưng tủ. Tôi thở dài nhẹ nhõm, không ngờ mình có thể tìm ra nguyên nhân của tiếng chuông rung một cách lẹ làng như thế.
Trong khi tôi ngồi yên theo dõi, con chuột nhỏ từ từ bò ra cửa tủ chạy ra ngoài. Tôi la lên:
"Ê ông bạn đi đâu vậy?
Trước khi đứng lên rượt theo nó. Khi tới một góc phòng, con chuột nhỏ biến mất và tôi thấy mình đang đứng trước một cái cửa mà từ xa tôi không thấy. Hơi ngạc nhiên tôi đưa tay lên gõ. Từ phiá sau cánh cửa một giọng nói thật cao, thật mỏng như tiếng gió vang lên:
"cứ vào tự nhiên".
Tôi đẩy cửa bước vào và dưới ánh trăng lọt qua khung cửa sổ, tôi thấy một người đàn ông đang đứng sững nhìn thẳng vào mặt tôi. Tôi giật mình lui lại. Người đàn ông cũng lui lại cùng một lúc. Tới lúc đó tôi mới biết mình đang nhìn vào một tấm gương lớn.
Sau cơn hoảng hốt tôi quay nhìn cái mà tôi muốn thấy. Đó là người đàn bà to béo. Bà ta đang nằm trên một cái giường rộng, hai bàn tay chuối mắn đang mân mê cái mền. Đôi mắt bà ta nhìn tôi trừng trừng khiến tôi cảm thấy toàn thân lạnh toát.
Tôi liếc nhìn sang bên cạnh và thấy một thanh gỗ lớn, dài khoảng hơn một thước, có lẽ là cây chặn cửa. Không hiểu sao, tôi cầm thanh gỗ lên và cảm thấy tự tin hơn. Ít nhất tôi cũng có vũ khí trong tay. Rồi tôi liếc nhìn lại phía người đàn bà. Bà ta đang chờn vờn ngồi dậy với một khuôn mặt hoàn toàn thay đổi.
Mái tóc dính đầy đất cát của bà ta rũ rượi một cách ghê rợn, đôi mắt bà đỏ rực như mắt chó rừng trong đêm tối, đôi môi nhỏ của bà hoàn toàn biến mất trong cái lỗ miệng đen ngòm, thay thế bằng một cái lưỡi đỏ chóe giữa những cái răng nanh nhọn hoắt. Từ cái lỗ miệng khủng khiếp đó, những tiếng cười ằng ặc như người bị bóp cổ vọng ra.
Bây giờ người đàn bà đã ngồi dậy, đôi mắt đỏ ngầu của bà ta nhìn tôi nửa như chế diễu nửa như thèm thuồng. Rồi cái khối thịt khổng lồ và tròn trịa đó bước xuống đất và lần đầu tiên tôi nhận thấy đôi chân bà ta không chạm đất, rồi như một trái banh bằng hơi sương, người đàn bà với khuôn mặt ma quái từ từ lăn tới chỗ tôi đứng trong khi cái lưỡi đỏ hỏn dài chừng hai tấc của bà ta thè ra thụt vào.
Phản ứng của tôi là giơ thanh gỗ lên đập xuống khối sương ma quái đó. Tôi đập liên hồi tới khi người đàn bà gục xuống không cựa quậy. Khi những tiếng động tắt hẳn, dù tôi còn cảm thấy nhịp cổ tay bà ta đập nhẹ khi cúi xuống kiểm soát, tôi bước thẳng tới cánh cửa thứ nhì trong phòng, đối diện với cánh cửa mà tôi bước vào.
Một tấm bảng nhỏ "cửa vườn" viết bằng nét chữ trẻ con nguệch ngoạc được dán ở phía trên. Tôi đẩy bung cánh cửa vườn này ra và nhìn vào một khu vườn như bị bỏ hoang từ hàng chục năm qua, với những đám cỏ hoang cao bằng đầu người, nằm sau một khoảng sân trống chừng mười lăm thước.
Suy nghĩ trong giây lát tôi quay trở vào nhấc người đàn bà to béo lên, và điều khiến tôi ngạc nhiên là bà ta không nặng hơn một đứa bé. Tuy nhiên vì cái khối lượng thân hình khổng lồ của bà, phải vất vả lắm tôi mới lôi được bà ta qua khỏi những đám cỏ hoang rậm rạp nằm giữa những hàng cây khô tới tận cuối vườn.
Trong khoảng hai tiếng đồng hồ sau đó, tôi liên tục ghim mũi cuốc xuống đất để tạo cho bà ta một nấm mồ rộng rãi, ít nhất cũng bằng cái giường của bà ta. Cuối cùng tôi xoa hai bàn tay một cách thỏa mãn.
Dưới ánh trăng một cái hố rộng bằng cái giường, sâu khoảng một thước rưỡi đã hoàn tất. Ném cái cuốc và cái xẻng lên mặt đất, tôi leo lên miệng hố, nhưng hai chân tôi như bị gắn chặt xuống nấm mộ mà tôi mới đào.
Trong cơn hoảng hốt, tôi liếc nhìn xác người đàn bà to béo và có cảm tưởng như bà ta đang cựa quậy. Nhưng không đó chỉ là một cơn gió khiến tà áo của bà bay lên nhè nhẹ. Cuối cùng với một nỗ lực phi thường có lẽ vì quá mệt mỏi, tôi cũng leo lên được mặt đất và ngồi thở dốc.
Rồi tôi lăn xác người đàn bà to béo đó xuống ngôi mộ mới và lấy xẻng lấp đất lên. Khi công việc kết thúc, dưới ánh trăng vằng vặc, tôi liếc nhìn đồng hồ và thấy mới gần ba giờ sáng. Đứng nhìn ngôi mộ mới giữa lớp cỏ cao, tôi xoa tay một cách hài lòng trước khi lững thững bước vào nhà.
Chui qua cánh cửa với hai chữ "cửa vườn", tôi vô cùng kinh ngạc khi thấy mình đang đứng giữa một căn phòng với sáu ngọn nến còn cháy sáng. Phòng ngủ của tôi chứ không phải căn phòng của người đàn bà to béo!
Tôi lắc đầu mấy cái xem mình mơ hay tỉnh. Không, tôi hoàn toàn tỉnh táo. Tôi bước trở lại trước cánh "cửa vườn" thì không còn thấy tấm bảng "cửa vườn" đâu nữa. Tôi chăm chú nhìn cánh cửa và nhận thấy đó chính là cánh cửa mở vào phòng người đàn bà.
Có thể nào sau khi làm việc mệt mỏi, tôi đã mở cánh "cửa vườn" vào phòng bà ta rồi mở cánh cửa thông sang phòng của tôi mà không nhớ ? Thật là vô lý vì tôi hoàn toàn tỉnh táo.
Không biết vì lý do nào thúc đẩy, tôi đưa tay lên gõ cửa mấy cái và giật bắn mình khi từ phía sau cánh cửa im lìm, một giọng nói thật cao, thật mỏng như tiếng gió vang lên:
"cứ vào tự nhiên".
Không tin ở tai mình tôi xô cửa nhìn vào, lần này tôi không bước vào. Căn phòng và cái giường hoàn toàn trống rỗng. Nhiều khi quá mỏi mệt bạn có thể không kiểm soát được cả thính giác của chính bạn nữa!
Tôi trở lại ngồi trên cái bàn nhỏ đối diện với tủ chén. Tôi không nhớ là đã bỏ cái chuông nhỏ mà tôi lấy ra từ tủ chén ở đâu. Đột nhiên tôi lại nghe những tiếng leng keng nho nhỏ khiến tôi nổi gai ốc.
Nhìn kỹ vào cái tủ chén trống rỗng với hai cánh cửa mở toang, tôi thấy con chuột lắt đang đùa giỡn với cái chuông nhỏ. Không hiểu sao một cơn giận bất thần chợt đến với tôi. Tôi rút một chiếc giầy liệng vào con chuột nhưng chiếc giầy bị cửa tủ chăn lại, rơi xuống.
Tuy nhiên con chuột nhỏ cũng giật mình bỏ cái chuông, chạy tụt vào một cái lỗ sau lưng tủ. Tôi bước tới cửa tủ, cúi xuống lượm cái chuông nhỏ lên bỏ vào túi. Tôi quyết định phải rời khỏi căn nhà ma quái này ngay dù không biết đường và dù trời còn tối.
Sau khi cột giày tôi cầm theo một cây nến mở cửa bước ra. Cố nhớ lại những hành lang nhỏ mà người đàn bà to béo đưa tôi đi qua trên đường tới phòng ngủ, tôi đi quanh quất một hồi trong căn nhà lạ và thấy mình trở lại trước căn phòng ngủ với năm ngọn đèn cầy cháy sáng!
Một ý nghĩ chợt đến với tôi "hay là mình mở cánh cửa ăn thông sang phòng ngủ của người đàn bà rồi đi ra vườn. Từ ngoài vườn mình chỉ việc đi quanh nhà là ra tới phía trước. Từ đó mình có thể bước ra đường một cách dễ dàng".
Nghĩ như vậy tôi bước tới đẩy cánh cửa ăn thông sang căn phòng người đàn bà. Trước sự ngạc nhiên của tôi, trước mắt tôi là cánh vườn hoang mà tôi đã lôi xác người đàn bà ra trước đó. Căn phòng ngủ của bà ta hoàn toàn biến mất như chưa bao giờ hiện diện trên trái đất!
Trong khi tôi còn đang ngỡ ngàng chưa biết có nên bước ra hay không thì từ phía cuối vườn, nơi tôi mới chôn người đàn bà to béo, tôi thấy như có một cái gì lay động giữa đám cỏ cao. Định thần nhìn kỹ tôi thấy những đầu ngọn cỏ khởi sự chuyển động, và tiến lần về phía ngôi nhà như bị một cơn gió thổi thật chậm.
Khi những đầu ngọn cỏ ngưng chuyển động, từ trong đám cỏ cao vút, người đàn bà to béo xuất hiện, bước vào khoảng sân trống. Đôi mắt bà ta vẫn đỏ ngầu và bây giờ đầy vẻ giận dữ. Cái miệng bà ta chỉ còn là một hàm răng nhọn hoắt trắng nhởn đang nhe ra. Bà ta lướt về phía tôi như lăn trên bánh xe.
Tôi hoảng hốt đóng sập cánh cửa lại, lao mình chạy quanh những hành lang tăm tối, đầu bị những kèo nhà đập trúng bôm bốp. Có lúc tôi ngã xuống nhưng lại cố đứng ngay dậy tiếp tục trốn chạy.
Cuối cùng tôi thấy mình đang chạy trên đường hướng về biển cả. Tới bờ biển lúc này không còn một ngọn gió, không còn một lượn sóng, tôi vục hai tay xuống làn nước biển lạnh buốt rồi đổ lên đầu lên mặt.
Chất muối khiến tôi nhăn mặt khi cảm thấy rát ở trên đầu, và hơi nước lạnh khiến tôi như khoẻ lại. Ngồi thở một lúc trên bãi biển vắng tênh, tôi đứng dậy loạng choạng bước lên mặt đường nhìn về phía ngôi nhà quái gỡ. Bây giờ tôi mới nhận ra những nét ma quái dễ sợ của căn nhà, cũng vẫn với ánh đèn hiu hắt tỏa ra. Nếu tôi đã có cảm giác này vào buổi tối, có lẽ tôi đã không tìm đến đó.
Lúc đó tôi nghĩ rằng có thể những gì vừa xẩy ra chỉ là một giấc mơ, một cơn ác mộng, nhưng khi sờ vào những cục u trên đầu, tôi biết rằng mình vẫn tỉnh táo và những gì xẩy ra là sự thật.
Ngay cả bây giờ, nhiều khi tôi muốn nghĩ rằng đó chỉ là một cơn ác mộng, nhưng không, tất cả những gì tôi vừa kể lại hoàn toàn là sự thật, cũng thật như cái chuông nhỏ mà tôi vẫn để trên bàn viết của tôi.
NKCM
#98
Gửi vào 19/06/2011 - 09:44
NHẬN DIỆN MA ÁM
Các bạn thân mến.
Tôi viết bài này với mục đích trình bày một sự thật đau lòng đã và đang xảy đến cho gia đình tôi, và mong bạn đọc nếu có thể được, thì phổ biến tin tức này cho người thân quen dùm, để tránh những đau thương tuơng tự có thể xảy đến cho người khác.
Tôi không mong mỏi bạn tin tưởng một phần, hay hoàn toàn vào những điều tôi viết sau đây, vì những điều này quả thật khó tin. Tôi cũng không có đủ khả năng, thời gian và công sức để dấn thân vào một cuộc tranh luận, về những điều tôi viết là sự thật hay mê tín, là một vấn đề về thuộc bệnh tâm thần, chứ chẳng phải vấn đề tâm linh.
Tôi chỉ là một người băn khoăn với sự an nguy, của hai đứa em gái thân yêu trong gia đình, hiện đang phải đối phó với những kẻ thù ma mãnh, có hồn mà chẳng có thân xác, đang chiếm ngự thân xác của hai em.
Tôi cũng rất quan tâm đến sự an nguy của những người có thể là nạn nhân tương lai, của việc học nhân điện khoa tự động, mà đánh liều viết bài này với tất cả tâm thành.
Tôi cố gắng trình bày chuyện đã xảy ra trong gia đình, hy vọng bạn đọc qua kinh nghiệm đau thương của gia đình tôi, mà không bước vào vết xe đổ này nữa. Những chuyện tôi viết sau đây là chuyện thật sự xảy ra, không một lời thêm bớt theo trí hiểu biết hạn hẹp của tôi.
Khoảng đầu tháng tư năm 2007, qua lời giới thiệu của một người cháu ruột, hai em gái của tôi tạm gọi là em An và em Bình, đã đến thọ giáo với thầy Mai viết Nhự, địa chỉ 151/31 C khu phố hai Phường Tam Hòa, Biên Hòa tỉnh Đồng Nai, điện thọai 061-3811-956.
Thầy Nhự dạy học trò môn Nhân Điện Khoa Tự Đông, thầy không có tính tiền học phí gì cả. Thầy chỉ dạy học trò trong sáu ngày, chứ không như các môn phái nhân điện khác, thường phải mất nhiều thời gian hơn có thể đến sáu tháng.
Khi đến học thầy sẽ để tay lên đầu lên trán, để mở luân xa số bảy và số sáu, bằng nhân điện của chính thầy. Thầy cũng mở những luân xa năm, bốn, ba, hai và một, bằng cách để tay lên vị trí những luân xa này trên sống lưng.
Quý vị có thể tìm hiểu thêm về những luân xa này qua quyển Journey to the East, của giáo sư Spalding. Bản dịch rất hay của Nguyên Phong là Hành Trình Về Phương Đông, chương chín nói về Cõi Giới Vô Hình. Thầy Hằng Trường cũng có giảng về những luân xa này, trong số các băng giảng của thầy mà tôi không nhớ được tên.
Luân xa số sáu và số bảy là cửa ngõ để thể xác của con người, có thể tiếp xúc được với thế giới tâm linh và cõi giới vô hình, mà mình không thấy được. Theo tôi hiểu đó cũng là cánh cửa bảo vệ những người đang sống trong thế giới này, khỏi phải tiếp xúc với những hồn ma bóng quế, của thế giới những người đã chết.
Trong trường hợp em Bình của tôi, chỉ năm phút sau khi thầy Nhự dùng nhân điện của thầy để mở luân xa cho em, Bình rùng mình một cái rồi hai tay Bình tự động chắp lại, không hề theo sự điều khiển của Bình, vái lạy tứ phương và Bình có thể quay người dẻo dai như người lên đồng, múa lên những động tác mà Bình một người thường bị đau lưng kinh niên, không bao giờ có thể làm được.
Bệnh đau lưng mệt mỏi trong Bình do đi làm vất vả, lại thêm cuộc hành trình xuống nhà thầy Nhự từ Saigon trên cái xe không êm ái, trên đoạn đường kẹt xe như nêm như cối thốt nhiên biến sạch. Còn em An, thì sau bốn ngày tập luyện, sang đến ngày thứ năm thì em cũng thấy tự nhiên hai tay em chắp lại, vái lạy tứ phương rồi đi vào những điệu múa mà dù em đang tỉnh táo 100% vẫn không sao chủ động ngừng lại được.
Cần nhắc lại là em An của tôi đã bị mổ gai cột sống vài tháng trước và hai tay đang bị hiện tượng như Carpel Tunnel Syndrome và Tennis Elbow, không cử động được hai bàn tay và hai cổ tay, đau nhức dần lan tới hai vai, bác sĩ Tây Y đã đề nghị phải mổ cả hai tay rồi.
Với nhân điện học được, cả hai em gái tôi tuy mới đầu cùng cảm thấy lạnh tóc gáy, sởn gai ốc vì việc vái lạy tự động cùng các động tác siêu nhiên mà hai em không làm chủ được, nhưng vẫn đủ sáng suốt để tự quan sát những động tác quái lạ này, vẫn cảm thấy rất hài lòng với những kết quả y học thần kỳ trên cơ thể của hai em.
Hai em rất vui vẻ sung sướng nghe lời thầy Nhự dạy bảo là, khi muốn chữa bệnh cho mình hoặc người khác là chỉ cần kêu "sáu, bảy hãy chữa bệnh này đi!" là luân xa sáu và bảy sẽ làm đúng y như vậy.
Em An còn hân hoan khoe với tôi qua điện thọai là sáu, bảy của em rất giỏi, có một hôm em sơ ý bị một hộp thịt đã mở cắt đứt tay rất sâu, máu chảy dầm dề. Em bèn kêu sáu, bảy cầm máu lại, là máu ngưng chảy liền.
Em kể cho tôi nghe rất hăng hái, khuyên tôi nên về Việt Nam để đi học nhân điện ở thầy Nhự, để chữa bệnh tiểu đường vốn đã làm bạn đồng hành với tôi từ lâu năm.
Thú thật với các bạn tôi nghe những thông tin này, mà chỉ cười thầm là sao hai em tôi có ăn học tử tế, là những người tốt nghiệp đại học hoặc tương đương, rất thành công trong công ăn việc làm với chủ nhân, là những công ty nước ngoài, lại có thể nói những chuyện không tưởng như thế này.
Nhưng tôi biết cả hai em tôi là những người rất thẳng thắn, không nói trăng nói cuội, không mê tín dị đoan, do đó tôi không bài bác gì cả, chỉ im lặng lắng nghe và nghĩ thầm "Muốn chữa bệnh hoạn thì phải thay đổi lối sống của mình, phải ăn đồ ăn tốt, nhiều rau cỏ bớt thịt đỏ mỡ màng, tập thể dục đều đặn, đi bác sĩ khám định kỳ, chứ sao lại có cái vụ Nhân Điện Khoa Tự Động, cứ như chuyện Liêu Trai Chí Dị thế này!"
Bẵng đi đến khoảng cuối tháng sáu năm 2007, em trai tôi ở Saigon bỗng gởi email cho cả đại gia đình bên Mỹ rằng, em An và em Bình nay đã phát hiện ra rằng sáu, bảy của hai em, thực chất ra là hai hồn ma vất vưởng vốn đã chết từ mấy chục năm nay, qua sự mở luân xa sáu, bảy của thầy Nhự, mà xâm nhập thân thể của hai em, và đang mở chiến dịch chiếm hữu đầu óc, rồi dần dần thân xác của hai em.
Em Bình hiện đang rất vất vả đối phó với con ma trong em, còn con ma trong An thì êm ả hơn nhưng dùng chiến dịch nói ngọt như mía lùi, để chiếm hữu lòng tin của em An.
Đọc thơ em trai mà tôi ngỡ như trong mơ. Ông xã và tôi lập tức xin nghỉ phép ở sở, và mua vé về Việt Nam để xem tình hình thế nào. Trong lúc chờ đợi visa và vé máy bay, tôi vào internet và đọc tất cả các tài liệu hoặc nghe băng giảng của các thầy Hằng Trường về Thân Trung Hữu, thầy Nhật Từ về Quyết Nghi về Ngọai Cảm và Cõi Âm.
Cận Tử Nghiệp của thầy Tâm Thiện, những bài nói chuyện của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, sách Hành Trình Về Phương Đông của Nguyên Phong dịch từ cuốn Journey To The East như đã nói ở phần trên.
Sau này về tới Saigon tôi đọc thêm sách Hiệu Ứng Sinh Học của Kỹ Sư Đỗ Thanh Hải, tôi xin lỗi không nhớ rõ tên lót của Kỹ Sư Hải, một kỹ sư tài ba và dồi dào kiến thức về vấn đề này, sách con Người Thoát Thai Từ Đâu của một nhà khoa học Nga tôi không nhớ tên.. để tìm hiểu về thế giới của những nguời đã khuất và hồn ma bóng quế là gì.
Theo những gì tôi góp nhặt được từ những nguồn tài liệu vừa nêu, thì con người chúng ta được câu tạo bởi phần xác, physical body hay khung cộng hưởng sinh học theo chữ dùng của Kỹ Sư Hải và phần hồn mind sóng sinh học theo Kỹ Sư Hải. Khi chúng ta chết đi thì chỉ có phần xác tan rã thôi, nhưng phần sóng sinh học vẫn còn hiện diện dưới dạng các sóng năng lượng.
Với những người khi chết đi với tấm lòng thanh thản, không có gì nuối tiếc lưu luyến với cõi trần vừa tạm sống, các sóng sinh học của người mới chết sẽ dễ dàng siêu thoát để đi đầu thai kiếp khác, hay lên cõi thiên Đàng, cõi Trời nào đó.
Còn những người chết oan ức, chết bất đắc kỳ tử, chết trong đau đớn hay lo sợ, trong tiếc nuối về những công chuyện còn dở dang trên trần thế thì sóng sinh học của họ sẽ không bay cao được mà cứ là là trên mặt đất, thành những hồn ma vất vưởng lang thang, thân xác đã mất mà lòng ham muốn, tham sân si, ngã, mạn vẫn còn đó.
Cho đến khi các sóng sinh học hay vong linh này hiểu ra rằng mình đã chết, và tất cả các mong muốn trần tục của mình chỉ là không, thì họ sẽ bay cao lên các tầng trên, để trở lại đầu thai cho kiếp mới.
Thế nhưng cũng có những vong linh dù đã chết hàng trăm năm, hay vài chục thế kỷ vẫn không giác ngộ được lý vô thường của cuộc đời, lại muốn tìm đuờng tắt mà đi, bèn tìm cách nhập vào thân xác của những người còn sống đã bị mở luân xa sáu, bảy như hai cô em của tôi.
Hoặc có vong linh có sóng sinh học cộng hưởng với sóng sinh học của người còn sống, thì sẽ nhập vào thân xác của những người này, và tìm cách chiếm hữu trí não của người bị xâm nhập trước, rồi từ đó sẽ sai khiến các hành động của người này theo ý của vong linh.
Các vong linh này là ma ác, rất khó giác ngộ và người bị xâm nhập sẽ rất vất vả để đánh đuổi quân xâm lược này ra khỏi cơ thể của họ. Các vong linh có tính khí hệt như tính khí của họ lúc còn sống, dù đã chết cách đây bao nhiêu năm.
Đa số các vong linh thì hiền lành hơn, không hề có ý định xâm nhập cơ thể của bất kỳ ai. Cũng có những vong linh, nếu có xâm nhập một cơ thể người sống nào, thì cũng chỉ ở tạm trong một thời gian rất ngắn để nhờ người này giúp mình hoàn thành tâm nguyện, mà vong linh đã không hoàn thành được khi còn sống, rồi vui vẻ ra đi khi tâm nguyện đã thành.
Khi về Saigon tôi quan sát cả hai cô em, và hiểu rõ ràng rằng mỗi em đã bị một hồn ma xâm nhập. Trong môi trường làm việc bên Mỹ của tôi, tôi cũng đã có dịp tiếp xúc với một số bệnh nhân có bệnh tâm thần, do đó đây là điều tôi để ý trước khi làm việc với hai em của tôi, để xem coi hai em có bị chứng Disassociative Identity Disorder (formerly Multiple Personality Disorder) dường như dịch sang tiếng Việt là bệnh tâm thần phân liệt dạng hoang tưởng hay sao đó?
Một trong những criteria của bệnh này theo DSM IV (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders Fourth Edition) là bệnh nhân không nhớ được những gì mình đã làm, khi nhân cách thứ hai chiếm hữu thần trí và cơ thể họ.
Thí dụ chị Jane có hai nhân cách trong người chị, mà thường xuất hiện nhiều lần:
Một là chị Jane hiền lành nhút nhát không thích đi shopping, và nhân cách thứ hai là anh John thì rất ư là kiêu ngạo, thích sắm đồ thể thao.
Khi John xuất hiện trong thể xác của chị Jane, thì John đi Big 5 sắm nào là quần áo bơi, kiếng lặn, ống lặn... Đến khi chị Jane trở lại làm chủ bản thân của chị thì chị cứ ngẩn ngơ ra, không thể hiểu tại sao tự nhiên trong nhà mình lại có mấy cái đồ mua từ Big 5 như vậy.
Cá nhân chị Jane thường xuyên bị những lúc quên đi, không nhớ nổi những chuyện mình đã làm, khi hành động với nhân cách thứ hai của mình (Inability to recall important personal information that is too extensive to be explained by ordinary forgetfulness).
Trường hợp của hai em tôi thì khác hẳn, cả hai đều biết rất rõ mình là ai, không hề bị lẫn lộn nhân cách ngay cả khi người âm trong hai em, nói chuyện với hai em bằng tư tưởng.
Xin nói rõ hơn là nguời âm trong hai em tôi, không hề lên tiếng nói được trong đầu (no voice), mà họ chỉ gởi tư tưởng chạy trong đầu như kiểu email, tôi gọi là E thoughts (electrical thoughts) cho hai em hiểu, con ma trong em Bình thi rất lắm mồm, nói huyên thuyên suốt ngày toàn chuyện hắn ta và gia đình bị giết như thế nào ở Cambodia, trong thời kỳ Khmer Đỏ 1975 và cũng dùng những ngôn ngữ thô tục để sách nhiễu em Bình.
Em Bình rất cương quyết chống đối lại những sách nhiễu này, và cương quyết không tham dự vào bất cứ cuộc nói chuyện nào của con ma trong em.
Do đó hắn ta rất giận dữ và thường phản ứng lại bằng cách, gởi những luồng điện mạnh vào khoảng 1.5 volt, để châm chích vào những huyệt đạo trong người em Bình, để tạo những cảm giác nhức nhối như bị kiến cắn trong vòng 1/2 tới một giây đồng hồ.
Sau đó hắn ta cũng hết điện phải recharge lại khoảng vài giờ sau, mới có thể tấn công tiếp. Qua thông tin của hắn, em Bình kể lại cho tôi biết rằng, con ma này bị bè lũ PonPot bắn chết hoặc cắt cổ chết, hắn không nhớ rõ được hắn chết như thế nào, vì có lẽ quá kinh hoàng khi bị giết năm 1975, khi mới hai mươi bốn tuổi, cùng với người vợ khi đó đang có thai bốn tháng.
Trong ba mươi hai năm qua, hắn đã nhập vào bảy nguời, trong đó em Bình tôi là nạn nhân thứ bảy. Chúng tôi đã nhờ nhiều sư tăng, ni sư và cả một cha bên Công giáo nói chuyện với hắn bằng bút đàm, để khuyên nhủ và hỏi xem chúng tôi có thể làm gì để giúp hắn siêu thoát.
Thoạt đầu hắn còn đóng vai trò tử tế nào xin lễ cầu siêu ở chùa, rồi lễ rửa tội ở nhà thờ. Chúng tôi đã thực hiện đầy đủ các yêu cầu này cho hắn, thì cuối cùng hắn tuyên bố là hắn chỉ đòi hỏi thế để câu giờ mà thôi, chứ hắn hoàn toàn không có ý định nào để xuất ra khỏi người em Bình cả.
Hiện nay chúng tôi đang nhờ chị Khánh theo Công giáo ở Houston Texas, hàng đêm gọi điện thọai trừ tà qua phone, theo lời giới thiệu của một vị linh mục khả kính chuyên lo việc trừ tà. Linh mục này tên là T. Cha T. sống và làm việc ở một nhà thờ Việt Nam
nhưng cha hiện đang công tác dài ngày bên Mỹ.
Khi chúng tôi liên lạc được với cha để nhờ giúp đỡ, thì cha giới thiệu chị Khánh sẽ giúp em Bình hàng đêm qua phone. Thực tình khi nghe cha T. nói như thế, tôi rất thất vọng và lẩm bẩm làm sao mà có thể trừ tà qua phone được, nghe cứ như chuyện hoang đường. Ấy thế mà lại là sự thực đấy các bạn ạ.
Chị Khánh đã giúp em Bình qua phone bằng cầu nguyện, đọc kinh Tân Ước, xức dầu thánh, uống nuớc thánh và con ma trong Bình ngày càng yếu dần đi, đến độ không thể gởi E thoughts cùng như năng lượng của hắn, cũng như số lần châm chích em Bình ngày càng giảm dần đi.
Chị Khánh tin tuởng rằng em Bình sẽ đánh bật kẻ xâm lược, ra khỏi cơ thể em trong một thời gian ngắn, hy vọng thời gian chữa trị không quá hai mươi ngày. Chị Khánh cũng cho tôi biết rằng thời gian vừa qua, có một số nữ tu công giáo từ Mỹ về Việt Nam, cũng đến học nhân điện với thầy Nhự ở Biên Hòa.
Khi về tới Mỹ tất cả các nữ tu này đều có hiện tượng ma nhập, từ chối vào giáo đường, la hét ói mửa khi đọc kinh hoặc lên cơn động kinh, múa may những động tác supernatural trong nhà thờ. Cha T. Chị Khánh và một người nữa, có khả năng trừ tà đã và đang giúp số nữ tu này bình phục trở lại.
Do đó chi Khánh có rất nhiều kinh nghiệm đối phó với những hồn ma, không hiểu vô tình hay cố ý mà thầy Nhự đã tạo cơ hội cho những hồn ma này, nhập vào các nạn nhân ngây thơ đến nộp mình cho quỷ, mà lúc đầu các nạn nhân này tưởng rằng chỉ đi học nhân điện, để mong tự trị bịnh cho mình.
Xin Chúa ban phuớc lành cho những người như chị Khánh. Chúng tôi rất cảm kích trước sự giúp đỡ nhiệt thành của chi Khánh và cha T.
Về phần em An thì chúng tôi có khó khăn hơn nhiều so với em Bình. Lý do là con ma nhập vào em An tự xưng là một vong nữ có tên rất đẹp, tôi không tiện nêu lên ở đây. Con ma này nói rằng cô ta sinh năm 1901 là con một của một gia đình gốc Việt giàu có bên Cam Bốt.
Cô ta là nữ sinh trường Marie Curie, nói tiếng Pháp rất giỏi. Thuở sinh tiền cô thuộc loại con gái nhà giàu hư hỏng, dùng tiền cha mẹ ăn chơi nhảy đầm trác táng, cuối cùng chết vì bịnh hen suyễn hay ho lao năm 1943, trong sự tiếc thương của cha mẹ cô.
Cô ta nói chuyện hết sức ngọt ngào, rất nịnh hót em An của tôi, nào là em An tử tế tốt bụng, nào là các con của em thông minh học giỏi ngoan ngõan, lại hết sức chăm sóc sức khoẻ cho em An mỗi khi trái nắng trở trời.
Khi tôi về Saigon cô ta cũng dùng bút đàm khen tôi nào là hay là tốt đủ kiểu. Cô ta ngọt ngào đến nỗi em rể của tôi chồng của An, cũng thấy rằng sự hiện diện của cô trong em An, chỉ là điều tốt cho gia đình vì sức khoẻ của An rõ ràng được cải thiện.
Rất khó cho tôi để thuyết phục em An, là em đang bị con ma nữ này dùng chiến thuật mật ngọt chết ruồi, để dần dần chiếm trọn đầu óc An, rồi một ngày nào đó các con của An, sẽ chỉ có cái xác là mẹ An mà hồn và hành động sẽ là của con ma ấy.
Mỗi lần nói chuyện này với em An là em lại nổi nóng lênn cho rằng em hoàn toàn làm chủ thân xác và ý tưởng của em, còn con ma thì hiền lành giống như một bà tiên vậy. Nhìn em và nghe em nói như thế, tôi chỉ âm thầm khóc và lo sợ mà chả biết làm gì, khi cả gia đình riêng của em tôi, không hề coi đó là chuyện quan trọng.
Em An rất thương và lo lắng cho em Bình, trong việc đánh đuổi kẻ xâm lược trong Bình, nhưng chưa hề có ý định nào, để đánh đuổi cái vong nữ trong người của chính em An cả.
Phước nhà còn dày cho nên vào khoảng đêm thứ bốn, sau khi chị Khánh từ Texas bắt đầu giúp em Bình đánh đuổi tà ma trong người em, chị Khánh than phiền với gia đình tôi là tại sao qua phone, chị đã đánh con ma trong Bình tơi tả, và nó đang yếu đi rõ ràng, thì tự nhiên lại có một sức mạnh ngoại nhập ở đâu giúp con ma trong Bình mạnh trở lại.
Chúng tôi bèn dùng phương pháp loại suy xem những người nào hiện diện với em Bình, khi em đang nhận điện thọai từ chi Khánh. Chúng tôi phát hiện ra rằng, khi con ma trong Bình kêu rên khóc lóc, tức là em Bình kêu khóc một chút xíu, rồi em Bình lại trở lại là em Bình 100%
Tức thì em An lại lo đấm bóp cho Bình một cách không bình thường như kiểu ma nhập, tức là mặt An hơi dại đi, tay chân dẻo quẹo xoa bóp cho Bình.
Lúc đó tôi có bảo sao An lại làm vậy, thì em trả lời là sáu, bảy của em ghét con ma trong Bình lắm, và muốn xoa bóp giúp Bình đỡ mệt.
Chúng tôi có ngờ đâu là con ma nữ này đang truyền nhân điện giúp con ma trong Bình hồi phục lại.
Khi nghe chi Khánh than phiền, tôi bèn nói An không được phép ở trong phòng Bình và đụng chạm vào nguời Bình nữa.
Em An bực mình bèn hạch hỏi con ma nữ trong em. Con ma này bèn viết một lá thư dài hai trang giấy xin lỗi cả gia đình tôi, là quả thật nó có giúp đỡ con ma trong Bình, vì thấy con ma này bị chị Khánh đánh tả tơi, nó cầm lòng không đậu nên ra tay tiếp thêm nội lực cho nó.
Con ma nữ xin lỗi cả nhà tôi đặc biệt là với tôi, vì nó nói tôi vẫn đối xử với nó lich sự lắm, không ngờ nó lại làm tôi thất vọng như vậy. Nó cũng hứa là sẽ xuất khỏi An nếu chúng tôi đưa nó lên tịnh xá Linh Quang ở 40/60 Nguyễn Khoái, Quận bốn Saigon để nó xuất gia đầu Phật vào thứ Bảy July 28, 2007 hai ngày sau đó.
Em trai tôi cho biết là trước đó, con ma nữ này cũng đã hứa nhăng hứa cuội nhiều lần, là đưa nó lên chùa này chùa nọ để nó xuất ra, mà lần nào cùng chỉ toàn dối trá.
Nhưng vấn đề là em An của tôi vẫn một mực tin yêu và cho rằng con ma này có tâm hồn nhân hậu, chỉ một phút yếu lòng mà giúp đỡ con ma trong Bình thôi.
Tôi bèn nhân cơ hội này bảo với em An rằng, thôi được rồi, tôi tin lời hứa của con ma, tôi vẫn tiếp tục đối xử tử tế với nó, sẽ tha thứ lỗi lầm của nó nếu như nó giữ đúng lời hứa là sẽ ra đi vào thứ Bảy July 28.
Riêng bản thân tôi, tôi hứa sẽ trọn đời cầu nguyện cho linh hồn của cô ta hàng đêm, sau khi cô ta thực hiện lời hứa của cô. Nhưng nếu đến thứ Bảy đó, sau khi mình đã làm đủ theo yêu câu của cô ta, mà cô ta cũng không đi, thì em An phải quyết tâm đánh đuổi con ma ra và cắt đứt mọi liên lạc với nó.
Em An bằng lòng như thế với tôi. Còn con ma cũng ra vẻ rất nhiệt tình và rất cảm động truớc lời hứa này.
Hai ngày sa, tôi đua em An lên chùa Linh Quang. Chúng tôi đến từ lúc 10g30 sáng, dự lễ cầu an cho người sống tới 11 giờ rồi ăn cơm chay tại chùa.
Rất nhiều người đến chùa để được chữa bệnh, có người thì bệnh vật lý như ung thư, nhức mỏi, có người bị bệnh tâm thần nhưng cũng có rất nhiều người bị ma ám như em An, thái độ của người bị ma ám rất khác với người bệnh tâm thần, tôi cảm nhận được nhưng không diễn tả đuợc.
Đến 12g30 trưa, người có bệnh đã xếp hàng ngồi thành hai hàng trong đại điện dài đằng dặc, dễ có đến hơn một trăm năm chục người chứ không ít.
Tôi quỳ ngay sau lưng em An, đợi khoảng hơn nửa tiếng đồng hồ thì tới phiên em An được vị sư già mặc áo tăng bào vàng hơi đỏ, vai áo bên phải để trần, chắc là vị sư này thuộc phái Nam Tông, chữa bệnh. Tôi quỳ ngay sau lưng em An, nghe loáng thoáng em vắn tắt thưa với thầy là có một vong nữ trong em, có nhờ em đưa lên chùa này hôm nay, vì vong nữ này muốn xuất khỏi người em hôm nay, mong thầy giúp đỡ.
Vị sư này bèn để ba ngón tay lên đầu em, miệng lâm râm niệm chú, rồi để một cái mõ nhỏ lên đầu em, gõ lóc cóc vài cái. Xong thầy quay sang bên cạnh, lấy một ly nước nhỏ do người đệ tử bên cạnh trao cho, co mấy ngón tay lại trên miệng cốc, lẩm nhẩm chú niệm gì đó trong miệng, rồi đưa cốc nước cho em tôi uống.
Thế là xong em tôi ra khỏi hàng, đến quỳ ngay truớc bàn thờ Phật Bà Quan Âm ngay cạnh đó. Tôi bèn nhảy ra khỏi hàng, hỏi em An là chuyện gì xảy ra vậy, con ma đã xuất ra chưa?
Thốt nhiên tôi thấy em tôi xoè bàn tay phải ra, giơ thẳng bàn tay ra trước mặt, rồi dùng hết sức lực đấm thình thịch vào ngực, đỉnh đầu và trán của em liên tiếp mấy chục cái.
Sức đấm mạnh đến nỗi người em tôi lảo đảo sau từng cú đấm. Tôi kinh hoàng hỏi em:
- Em ơi chuyện gì vậy, sao em lại tự đánh em như thế ?
Em trả lời tôi:
- Bà ấy muốn ra em đang làm thế để giúp bà ấy ra.
Nhìn nét mặt của em, tôi thật tình không biết lúc đó em là em tôi hay là con ma nữa. Tôi chỉ cảm thấy toàn thân tôi đau đớn như đang bị đánh, những cú đánh của em tôi mạnh mẽ vang lên trong tim trong óc tôi.
Cả bao nhiêu người trong đại điện, cả vị sư già ngồi cách em tôi chừng nửa thước, chả ai thèm để ý đến em cả, dường như những sự việc ma nhập, tự hành hạ thân xác như thế đã diễn ra quá thường xuyên ở đây.
Không biết làm gì, tôi nhảy trở vào hàng người đang xếp hàng, bây giờ đã ngắn đi rất nhiều để hỏi vị sư già trị bịnh đầu đuôi câu chuyện.
Chỉ khoảng năm phút sau đã đến phiên tôi, tôi bèn quỳ chắp tay hỏi rằng:
- thưa thầy, em gái của con vừa rồi có thưa với thầy là, cái vong nữ trong người nó có nói rằng, nhờ đưa lên chùa hôm nay để vong nữ này xuất ra, em của con đã được gặp thầy và đang ngồi kia, tôi chỉ tay về phía em An, xin thầy giảng cho con biết chuyện gì đang xảy ra vậy?
Vị thầy nhìn tôi cười, tôi không thể xác định đó là nụ cười thương hại hay mai mỉa, bảo tôi rằng:
- Cô không biết là người ta đã nói là nói dối như ma à ? Người ta đã nói dối với cô và đang lừa dối em cô đó. Muốn chữa khỏi bệnh này, em cô phải đi chùa rất nhiều lần, chứ một lần làm sao hết.
Nói xong thầy quay qua chữa bệnh cho người kế tôi.
Tôi quay sang em tôi và hỏi:
- Em có nghe thầy nói chưa, mình lại bị lừa dối nữa đó.
Nhìn vẻ mặt đau đớn của em, tôi không cầm được nước mắt, tôi biết em tôi vừa cảm nhận được sự thật phũ phàng là bà tiên trong nó, thực chất chỉ là một ma nữ thâm trầm nham hiểm, nói dối như cuội và vừa rồi, con ma nữ đã lợi dụng lòng tin của em tôi để đánh em tôi một trận nhừ tử bằng chính bàn tay của em.
Cầm tay tôi em An bảo:
- Chị đừng lo, em sẽ quyết đánh cho con ma nữ giảo họat, dối trá ra khỏi người em. Em sẽ nhất quyết không cho nó nói chuyện hay viết lách gì cho em nữa.
Nhìn vẻ mặt của em, tôi biết em đã cương quyết lập chí dành lại độc lập cho thân xác mình. Tôi vừa đau đớn vừa mừng rỡ rằng, ít nhất em tôi đã vượt qua được một giai đọan khó khăn, trong cuộc chiến tranh với ma quỷ này, là lập quyết tâm đánh đuổi quân thù.
Hiện nay em tôi hàng ngày lên chùa Linh Quang để con ma có cơ hội nghe kinh kệ, và nhờ thần lực tín tâm của sư tăng trong chùa và trong chính em, để kêu gọi con ma xuất khỏi em tôi.
Em An cũng hứa rằng nếu sau ba tuần đi chùa, mà con ma vẫn không nhúc nhích di chuyển gì cả, thì em sẽ đổi qua biện pháp mạnh hơn để trục ma.
Tôi xin tóm lược những ý chính tôi muốn nêu lên trong bài này, mà trong lúc xúc động tôi đã không viết đuợc rõ ràng và mạch lạc như sau:
1. Xin hết sức cẩn thận khi đi học nhân điện khoa tự động, ở những người thầy như thầy Mai Viết Nhự. Tôi không đủ dữ kiện để kết luận, là thầy Nhự có liên quan trực tiếp đến vấn đề, tạo cầu nối giúp các hồn ma nhập vào cơ thể các học viên của thầy hay không ?
Tôi chỉ biết là hai cô em gái của tôi đều bị ma nhập, ngay trong lúc đang học nhân điện với thầy, sau khi thầy mở luân xa số sáu và bảy cho hai em.
Chị Khánh cũng cho tôi biết là một số nữ tu Công giáo, cùng bị hiện tuợng ma nhập sau chuyến du hành từ Mỹ về Việt Nam, sau khi cũng học khóa nhân điện với thầy Nhự. Sao lại có sự trùng lặp đặc biệt như thế ?
2. Tôi sẽ không bao giờ để ai sờ lên đầu lên cổ của mình, ai biết được là họ có khả năng mở luân xa sáu, bảy hay không ?
3. Đến thời điểm mình phải lìa cõi trần ra đi, xin hãy ra đi với lòng thanh thản, dù có còn bổn phận trách nhiệm với người còn sống, cũng hãy xin hiểu rằng phận sự của mình đến thời điểm đó là hết, đừng nuối tiếc gì cả, để phần tâm linh của mình có thể nhẹ nhàng siêu thoát, không trở thành vong linh vất vưởng lang thang.
Phần người sống, xin đừng khóc than níu kéo người đã ra đi, xin hãy nói cho người hấp hối biết, là họ đã làm xong nhiệm vụ của họ trên trần thế, mình là người ở lại cũng sẽ OK, để nguời chết yên tâm mà đi.
4. Xin hãy đối xử với những người bị ma nhập tử tế, đừng xa lánh họ. Con ma chẳng có nhiều quyền lực gì cả, trừ trường hợp người bị ma nhập không hiểu được bản chất của ma, thì sẽ rất sợ hãi trước những lời hăm dọa của ma, chẳng hạn như:
- Tao sẽ giết mày nếu mày không nghe lời tao.
Những lời hăm dọa đó chỉ là lời hăm dọa xuông, con ma vốn chỉ là những sóng sinh học âm, sức lực chỉ bằng cục pin rechargeable 1.5 volt.
Con ma sẽ rất mạnh mẽ khi tâm hồn và thể xác của người bị nhập yếu đuối, sợ hãi và không có được sự giúp đỡ thương yêu của gia đình và bạn bè.
Con ma sẽ dùng chiến thuật tâm lý, ngọt bùi cay đắng có cả để thoạt đầu mua chuộc lòng tin của người bị nhập, để dần dần chiếm toàn bộ lý trí của họ và tiến đến khống chế thể xác, vì bản thân con ma chỉ là phần tinh thần của người đã chết, nay mong muốn chiếm đoạt thân xác và tâm trí của người còn sống, để hành xử theo ý riêng của mình.
Con ma cũng sẽ nhăn răng múa vuốt, qua cử chỉ của người bị nhập như kiểu trong phim Exorcist, nhưng cường độ yếu hơn nhiều chứ không như kỹ xảo Hollywood, để hăm dọa người chung quanh, làm cho họ cảm thấy sợ hãi mà xa lánh người bị ma nhập.
Những kỹ xảo này của con ma chỉ làm tôi bật cười, thương hại cho kẻ lực bất tòng tâm, và yêu thương em tôi hơn.
5. Phải có lòng tin nơi Thượng Đế, Chúa hay Phật để đối phó với các thế lực đen tối của thế giới bên kia. Chính nghĩa bao giờ cũng thắng tà ma, tôi đã mục kích con ma trong em Bình, rất sợ những câu trong Kinh thánh, cũng như các câu niệm Phật Bà Quan Âm hay mật chú Tây tạng.
Hy vọng các bạn đọc bài viết này của tôi và rút tỉa được vài điều nào đó, mà có thể giúp ích cho bạn bè hay người thân, thêm ít thông tin về thế giới bên kia, một thế giới mà ta không hiểu rõ.
Tôi mong bài viết này có thể đóng góp chút nào trong việc ngăn ngừa, những trường hợp không may có thể xảy ra, sau khi học nhân điện khoa tự đông.
Xin các bạn nếu có thể, post bài viết này của tôi ở bất cứ website hay báo chí nào, trong hoặc ngoài nước để hy vọng thông tin này sẽ giúp ích cho người đọc chút nào chăng.
Xin cảm ơn các bạn.
Bác Mù
LÁI XE VỀ QUÁ KHỨ
Khi nhắc đến vấn đề đi vào quá khứ, người ta không thể quên những chuyện lạ có thật do Hans Holzer, một nhà nghiên cứu về các hiện tượng siêu tâm lý kể lại như sau:
Năm 1964, một người đàn ông tên là Robert Cory, một con người khá nổi tiếng trong làng văn học nghệ thuật tại Hoa Kỳ, đã lái xe trên đường đến Los Angeles. Hôm đó trời quang đãng. Vì đường xa nên khi đến địa phận Oregon thì trời vừa tối, nhưng ông Cory vẫn tiếp tục cuộc hành trình.
Bỗng nhiên một trận bão tuyết nổi lên lại gặp lúc xe ông đang trên dốc núi. Ông buộc lòng phải ngưng xe lại để quan sát tình hình vì tuyết đổ liên tục và đường lại cheo leo.
Ông vừa xuống xe thì thấy từ xa có ánh sáng chiếu như có đèn ai đang mở dò đường. Ông Cory liền cho xe chạy đến đó xem thử. Tại đây chẳng có ai. Mọi vật hoàn toàn yên lặng. Chỉ có bảng chỉ đường sáng lóa như được chiếu sáng bởi một nguồn sáng nào từ đám mây.
Theo bảng chỉ đường, ông Cory cho xe chạy xuống núi và cuối cùng ông thấy trước mặt, một vùng có nhà cửa mà đường sá thì có vẻ cũ kỹ, đầy ổ gà trồi sụp. Ông dừng xe lại trước một ngôi nhà bằng gỗ rộng lớn mà ông nghĩ đó là khách sạn. Ông Cory quyết định nghỉ tại đây vì trời còn xấu.
Ông bước vào ngôi nhà lớn ấy. Dọc hành lang ngôi nhà lớn ấy được trang hoàng bằng những chiếc đầu các loại thú. Có những tấm bảng gỗ tróc sơn nứt nẻ có ghi các năm 1800.
Ðiều kỳ dị ngôi nhà vắng vẻ lạ lùng không một bóng người. Ông định trở ra nhưng lại thấy có lửa cháy bập bùng ở lò sưởi phòng khách lớn, nên lại đẩy cửa bước vào. Trời lạnh như cắt nên ông phải cần được sưởi ấm. Ông đến bên lò sưởi và ngồi lên chiếc ghế dài.
Cạnh đó ông thấy cái bàn nhỏ, trên bàn đặt cái điện thoại mà nhìn kỹ, thì đây là loại điện thoại quá xưa cũ, mà hầu hết các cơ sở làm ăn khắp nước Mỹ chẳng bao giờ tìm thấy có, đó là loại điện thoại phải quay số rườm rà trước khi gọi.
Tuy nhiên ông Cory cũng phải dùng đến cái điện thoại này để gọi về nhà báo tin cho người thân. Nhưng cái máy hình như không còn hoạt động nữa. Ông Cory cảm thấy mõi mệt và buồn ngủ. Bỗng nhiên cái vắng vẻ yên lặng ấy ông bỗng nghe có tiếng động, tiếng động rất nhẹ và ông thấy một ông già đang từ tầng lầu trên đi xuống.
Ông Cory tưởng đó là người quản thủ khách sạn. Nhưng khi nhìn kỹ lại, ông cụ giống một người nông dân ở vùng quê xa xôi nào đó, vì nhìn lối ăn mặc và cử chỉ thấy ông ta thật vụng về thô lỗ cục mịch vô cùng. Ông cụ lầm lì đi đến bên lò sưởi và coi sự xuất hiện của ông Cory là tự nhiên. Có lẽ vì đây là một khách sạn. Thế rồi ông Cory ngủ thiếp đi trên cái ghế dài.
Sáng hôm sau, ánh nắng xuyên qua cửa kính chiếu vào mắt khiến ông Cory chợt tỉnh. Ông thấy có nhiều người xuất hiện trong khách sạn, mà phần lớn là những người già. Nhiều người nhìn ông nhưng có vẻ lơ đảng không quan tâm. Ông Cory đã đến bên những người ấy để hỏi về ngôi làng xa lạ này, và luôn tiện hỏi thăm có trạm xăng nào ở gần đây không?
Ông mơ màng như thấy ít người đáp lời, và nếu có thì những lời nói của họ không có mạch lạc, hoặc chẳng có ăn nhập gì với câu hỏi mà ông đã nêu ra cả.
Ông Cory cảm thấy hoang mang trong lòng. Cái cảm giác trống vắng, lẻ loi, lạ lùng bỗng đến với ông thật nhanh theo dòng linh cảm. Ông hỏi: Ðây là đâu xin các ông vui lòng cho biết ? Hiện tôi đang ở đâu đây ? Có vài người bước tới nhìn ông và hình như có người cầm tay ông, ân cần vỗ về và chỉ đường cho ông rồi sau cùng nói: Ông đừng sợ! Chẳng có gì phải sợ cả.
Ông Cory chợt nhớ đến chiếc xe, ông chạy ra khỏi khách sạn. Chiếc xe ông vẫn còn đó. Ông mở cửa xe và nổ máy chiếc xe chuyển động và ông Cory vội vã như muốn thoát khỏi một nơi thâm trầm kỳ bí chưa từng thấy này.
Chiếc xe băng qua những con đường gập ghềnh. Ông Cory thấy một vài người lầm lũi bước đi hai bên đường. Những người này ăn mặc những áo quần mà hình như chỉ thấy đâu đó trong sách vở, tự điển. Ông Cory có cảm tưởng như đó là những kiểu áo quần ở thời đại xa xưa nào đó. Ðiều kỳ dị hơn nữa là trong khi lái xe ra khỏi vùng này, ông có cảm giác như xe đang di chuyển trong lớp sương mờ.
Về sau, câu chuyện có thật mà ông Cory đã trải qua được nhiều nhóm nghiên cứu về những vấn đề không thể giải thích ghi nhận. Người ta không loại bỏ việc xác định lại vùng hoang dã, nơi ông Cory lái xe đến đó và vùng dân cư cùng ngôi nhà lớn mà ông đã bước vào như qua một đêm.
Tài liệu lưu trữ tại thư viện lớn ở đây cho biết xưa kia đây là vùng thưa dân, nhưng có ngôi nhà Bưu Ðiện Quốc gia lớn tên là US Post Office National, Indiana. Ðó là khoảng những năm 1850, 1851.. Rồi tám mươi năm sau đó, nghĩa là vào năm 1930 thì nơi đây biến thành bệnh viện lớn dành cho các cựu chiến binh.
Vậy rõ ràng ông Cory đã tình cờ đi ngược dòng thời gian và vào quá vãng cách thời đại ông đến hơn cả trăm năm.
Một hiện tượng tương tự cũng không kém lạ lùng đã xảy ra, khi hai nhà leo núi kỳ cựu là Donald Watt và George Bruce trong chuyến leo núi tháng năm năm 1987, cả hai đều thấy rõ ràng có một ngôi nhà hai tầng nằm bên bờ hồ Mullardoch gần Cannich xứ Scotland rất nên thơ.
Nhà có vách xây bằng đá Hoa Cương (Granite) và trông khá bề thế đầy tiện nghi. Trước đó hai người này đã nghiên cứu kỹ qua bản đồ chi tiết của vùng mà họ sẽ đến, và không có dấu vết gì ghi chú về căn nhà nói trên.
Khi cả hai thấy ngôi nhà đó họ vô cùng ngạc nhiên, và tưởng như là một chuyện kỳ khôi vì không thể nào có ngôi nhà xuất hiện, ở một nơi hoang vu lạ lùng như thế được. Tuy nhiên sự kiện xảy ra sau đó càng làm họ ngạc nhiên nữa, khi cả hai sau một hồi leo núi quay lại nhìn thì không thấy ngôi nhà ấy đâu nữa.
Khi trở xuống, họ đi vòng khắp hồ nhưng ngôi nhà đã hoàn toàn biến mất. Cả hai nhà leo núi ghi lại những gì mình thấy vào nhật ký. Sau đó, các tài liệu tra cứu có liên hệ về vùng này được các nhà sưu tập nghiên cứu phân tích, và kết quả người ta được biết rằng khoảng những năm 1950, ở đây có một số nhà cửa được dựng lên, trong đó có một cơ sở nghiên cứu của nhà nước.
Rồi vì một vụ ngập nước làm ngôi nhà bị chôn vùi xuống đáy hồ. Khi hai nhà leo núi trông thấy lại ngôi nhà, thì rõ ràng ngôi nhà ấy là hình ảnh của quá khứ, một hình ảnh mà trước đó khoảng ba mươi năm năm nó là sự thật. Như vậy hai nhà leo núi George Bruce và Donald Watt đã thấy được hình ảnh của quá khứ...
Tâm Linh
Các bạn thân mến.
Tôi viết bài này với mục đích trình bày một sự thật đau lòng đã và đang xảy đến cho gia đình tôi, và mong bạn đọc nếu có thể được, thì phổ biến tin tức này cho người thân quen dùm, để tránh những đau thương tuơng tự có thể xảy đến cho người khác.
Tôi không mong mỏi bạn tin tưởng một phần, hay hoàn toàn vào những điều tôi viết sau đây, vì những điều này quả thật khó tin. Tôi cũng không có đủ khả năng, thời gian và công sức để dấn thân vào một cuộc tranh luận, về những điều tôi viết là sự thật hay mê tín, là một vấn đề về thuộc bệnh tâm thần, chứ chẳng phải vấn đề tâm linh.
Tôi chỉ là một người băn khoăn với sự an nguy, của hai đứa em gái thân yêu trong gia đình, hiện đang phải đối phó với những kẻ thù ma mãnh, có hồn mà chẳng có thân xác, đang chiếm ngự thân xác của hai em.
Tôi cũng rất quan tâm đến sự an nguy của những người có thể là nạn nhân tương lai, của việc học nhân điện khoa tự động, mà đánh liều viết bài này với tất cả tâm thành.
Tôi cố gắng trình bày chuyện đã xảy ra trong gia đình, hy vọng bạn đọc qua kinh nghiệm đau thương của gia đình tôi, mà không bước vào vết xe đổ này nữa. Những chuyện tôi viết sau đây là chuyện thật sự xảy ra, không một lời thêm bớt theo trí hiểu biết hạn hẹp của tôi.
Khoảng đầu tháng tư năm 2007, qua lời giới thiệu của một người cháu ruột, hai em gái của tôi tạm gọi là em An và em Bình, đã đến thọ giáo với thầy Mai viết Nhự, địa chỉ 151/31 C khu phố hai Phường Tam Hòa, Biên Hòa tỉnh Đồng Nai, điện thọai 061-3811-956.
Thầy Nhự dạy học trò môn Nhân Điện Khoa Tự Đông, thầy không có tính tiền học phí gì cả. Thầy chỉ dạy học trò trong sáu ngày, chứ không như các môn phái nhân điện khác, thường phải mất nhiều thời gian hơn có thể đến sáu tháng.
Khi đến học thầy sẽ để tay lên đầu lên trán, để mở luân xa số bảy và số sáu, bằng nhân điện của chính thầy. Thầy cũng mở những luân xa năm, bốn, ba, hai và một, bằng cách để tay lên vị trí những luân xa này trên sống lưng.
Quý vị có thể tìm hiểu thêm về những luân xa này qua quyển Journey to the East, của giáo sư Spalding. Bản dịch rất hay của Nguyên Phong là Hành Trình Về Phương Đông, chương chín nói về Cõi Giới Vô Hình. Thầy Hằng Trường cũng có giảng về những luân xa này, trong số các băng giảng của thầy mà tôi không nhớ được tên.
Luân xa số sáu và số bảy là cửa ngõ để thể xác của con người, có thể tiếp xúc được với thế giới tâm linh và cõi giới vô hình, mà mình không thấy được. Theo tôi hiểu đó cũng là cánh cửa bảo vệ những người đang sống trong thế giới này, khỏi phải tiếp xúc với những hồn ma bóng quế, của thế giới những người đã chết.
Trong trường hợp em Bình của tôi, chỉ năm phút sau khi thầy Nhự dùng nhân điện của thầy để mở luân xa cho em, Bình rùng mình một cái rồi hai tay Bình tự động chắp lại, không hề theo sự điều khiển của Bình, vái lạy tứ phương và Bình có thể quay người dẻo dai như người lên đồng, múa lên những động tác mà Bình một người thường bị đau lưng kinh niên, không bao giờ có thể làm được.
Bệnh đau lưng mệt mỏi trong Bình do đi làm vất vả, lại thêm cuộc hành trình xuống nhà thầy Nhự từ Saigon trên cái xe không êm ái, trên đoạn đường kẹt xe như nêm như cối thốt nhiên biến sạch. Còn em An, thì sau bốn ngày tập luyện, sang đến ngày thứ năm thì em cũng thấy tự nhiên hai tay em chắp lại, vái lạy tứ phương rồi đi vào những điệu múa mà dù em đang tỉnh táo 100% vẫn không sao chủ động ngừng lại được.
Cần nhắc lại là em An của tôi đã bị mổ gai cột sống vài tháng trước và hai tay đang bị hiện tượng như Carpel Tunnel Syndrome và Tennis Elbow, không cử động được hai bàn tay và hai cổ tay, đau nhức dần lan tới hai vai, bác sĩ Tây Y đã đề nghị phải mổ cả hai tay rồi.
Với nhân điện học được, cả hai em gái tôi tuy mới đầu cùng cảm thấy lạnh tóc gáy, sởn gai ốc vì việc vái lạy tự động cùng các động tác siêu nhiên mà hai em không làm chủ được, nhưng vẫn đủ sáng suốt để tự quan sát những động tác quái lạ này, vẫn cảm thấy rất hài lòng với những kết quả y học thần kỳ trên cơ thể của hai em.
Hai em rất vui vẻ sung sướng nghe lời thầy Nhự dạy bảo là, khi muốn chữa bệnh cho mình hoặc người khác là chỉ cần kêu "sáu, bảy hãy chữa bệnh này đi!" là luân xa sáu và bảy sẽ làm đúng y như vậy.
Em An còn hân hoan khoe với tôi qua điện thọai là sáu, bảy của em rất giỏi, có một hôm em sơ ý bị một hộp thịt đã mở cắt đứt tay rất sâu, máu chảy dầm dề. Em bèn kêu sáu, bảy cầm máu lại, là máu ngưng chảy liền.
Em kể cho tôi nghe rất hăng hái, khuyên tôi nên về Việt Nam để đi học nhân điện ở thầy Nhự, để chữa bệnh tiểu đường vốn đã làm bạn đồng hành với tôi từ lâu năm.
Thú thật với các bạn tôi nghe những thông tin này, mà chỉ cười thầm là sao hai em tôi có ăn học tử tế, là những người tốt nghiệp đại học hoặc tương đương, rất thành công trong công ăn việc làm với chủ nhân, là những công ty nước ngoài, lại có thể nói những chuyện không tưởng như thế này.
Nhưng tôi biết cả hai em tôi là những người rất thẳng thắn, không nói trăng nói cuội, không mê tín dị đoan, do đó tôi không bài bác gì cả, chỉ im lặng lắng nghe và nghĩ thầm "Muốn chữa bệnh hoạn thì phải thay đổi lối sống của mình, phải ăn đồ ăn tốt, nhiều rau cỏ bớt thịt đỏ mỡ màng, tập thể dục đều đặn, đi bác sĩ khám định kỳ, chứ sao lại có cái vụ Nhân Điện Khoa Tự Động, cứ như chuyện Liêu Trai Chí Dị thế này!"
Bẵng đi đến khoảng cuối tháng sáu năm 2007, em trai tôi ở Saigon bỗng gởi email cho cả đại gia đình bên Mỹ rằng, em An và em Bình nay đã phát hiện ra rằng sáu, bảy của hai em, thực chất ra là hai hồn ma vất vưởng vốn đã chết từ mấy chục năm nay, qua sự mở luân xa sáu, bảy của thầy Nhự, mà xâm nhập thân thể của hai em, và đang mở chiến dịch chiếm hữu đầu óc, rồi dần dần thân xác của hai em.
Em Bình hiện đang rất vất vả đối phó với con ma trong em, còn con ma trong An thì êm ả hơn nhưng dùng chiến dịch nói ngọt như mía lùi, để chiếm hữu lòng tin của em An.
Đọc thơ em trai mà tôi ngỡ như trong mơ. Ông xã và tôi lập tức xin nghỉ phép ở sở, và mua vé về Việt Nam để xem tình hình thế nào. Trong lúc chờ đợi visa và vé máy bay, tôi vào internet và đọc tất cả các tài liệu hoặc nghe băng giảng của các thầy Hằng Trường về Thân Trung Hữu, thầy Nhật Từ về Quyết Nghi về Ngọai Cảm và Cõi Âm.
Cận Tử Nghiệp của thầy Tâm Thiện, những bài nói chuyện của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, sách Hành Trình Về Phương Đông của Nguyên Phong dịch từ cuốn Journey To The East như đã nói ở phần trên.
Sau này về tới Saigon tôi đọc thêm sách Hiệu Ứng Sinh Học của Kỹ Sư Đỗ Thanh Hải, tôi xin lỗi không nhớ rõ tên lót của Kỹ Sư Hải, một kỹ sư tài ba và dồi dào kiến thức về vấn đề này, sách con Người Thoát Thai Từ Đâu của một nhà khoa học Nga tôi không nhớ tên.. để tìm hiểu về thế giới của những nguời đã khuất và hồn ma bóng quế là gì.
Theo những gì tôi góp nhặt được từ những nguồn tài liệu vừa nêu, thì con người chúng ta được câu tạo bởi phần xác, physical body hay khung cộng hưởng sinh học theo chữ dùng của Kỹ Sư Hải và phần hồn mind sóng sinh học theo Kỹ Sư Hải. Khi chúng ta chết đi thì chỉ có phần xác tan rã thôi, nhưng phần sóng sinh học vẫn còn hiện diện dưới dạng các sóng năng lượng.
Với những người khi chết đi với tấm lòng thanh thản, không có gì nuối tiếc lưu luyến với cõi trần vừa tạm sống, các sóng sinh học của người mới chết sẽ dễ dàng siêu thoát để đi đầu thai kiếp khác, hay lên cõi thiên Đàng, cõi Trời nào đó.
Còn những người chết oan ức, chết bất đắc kỳ tử, chết trong đau đớn hay lo sợ, trong tiếc nuối về những công chuyện còn dở dang trên trần thế thì sóng sinh học của họ sẽ không bay cao được mà cứ là là trên mặt đất, thành những hồn ma vất vưởng lang thang, thân xác đã mất mà lòng ham muốn, tham sân si, ngã, mạn vẫn còn đó.
Cho đến khi các sóng sinh học hay vong linh này hiểu ra rằng mình đã chết, và tất cả các mong muốn trần tục của mình chỉ là không, thì họ sẽ bay cao lên các tầng trên, để trở lại đầu thai cho kiếp mới.
Thế nhưng cũng có những vong linh dù đã chết hàng trăm năm, hay vài chục thế kỷ vẫn không giác ngộ được lý vô thường của cuộc đời, lại muốn tìm đuờng tắt mà đi, bèn tìm cách nhập vào thân xác của những người còn sống đã bị mở luân xa sáu, bảy như hai cô em của tôi.
Hoặc có vong linh có sóng sinh học cộng hưởng với sóng sinh học của người còn sống, thì sẽ nhập vào thân xác của những người này, và tìm cách chiếm hữu trí não của người bị xâm nhập trước, rồi từ đó sẽ sai khiến các hành động của người này theo ý của vong linh.
Các vong linh này là ma ác, rất khó giác ngộ và người bị xâm nhập sẽ rất vất vả để đánh đuổi quân xâm lược này ra khỏi cơ thể của họ. Các vong linh có tính khí hệt như tính khí của họ lúc còn sống, dù đã chết cách đây bao nhiêu năm.
Đa số các vong linh thì hiền lành hơn, không hề có ý định xâm nhập cơ thể của bất kỳ ai. Cũng có những vong linh, nếu có xâm nhập một cơ thể người sống nào, thì cũng chỉ ở tạm trong một thời gian rất ngắn để nhờ người này giúp mình hoàn thành tâm nguyện, mà vong linh đã không hoàn thành được khi còn sống, rồi vui vẻ ra đi khi tâm nguyện đã thành.
Khi về Saigon tôi quan sát cả hai cô em, và hiểu rõ ràng rằng mỗi em đã bị một hồn ma xâm nhập. Trong môi trường làm việc bên Mỹ của tôi, tôi cũng đã có dịp tiếp xúc với một số bệnh nhân có bệnh tâm thần, do đó đây là điều tôi để ý trước khi làm việc với hai em của tôi, để xem coi hai em có bị chứng Disassociative Identity Disorder (formerly Multiple Personality Disorder) dường như dịch sang tiếng Việt là bệnh tâm thần phân liệt dạng hoang tưởng hay sao đó?
Một trong những criteria của bệnh này theo DSM IV (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders Fourth Edition) là bệnh nhân không nhớ được những gì mình đã làm, khi nhân cách thứ hai chiếm hữu thần trí và cơ thể họ.
Thí dụ chị Jane có hai nhân cách trong người chị, mà thường xuất hiện nhiều lần:
Một là chị Jane hiền lành nhút nhát không thích đi shopping, và nhân cách thứ hai là anh John thì rất ư là kiêu ngạo, thích sắm đồ thể thao.
Khi John xuất hiện trong thể xác của chị Jane, thì John đi Big 5 sắm nào là quần áo bơi, kiếng lặn, ống lặn... Đến khi chị Jane trở lại làm chủ bản thân của chị thì chị cứ ngẩn ngơ ra, không thể hiểu tại sao tự nhiên trong nhà mình lại có mấy cái đồ mua từ Big 5 như vậy.
Cá nhân chị Jane thường xuyên bị những lúc quên đi, không nhớ nổi những chuyện mình đã làm, khi hành động với nhân cách thứ hai của mình (Inability to recall important personal information that is too extensive to be explained by ordinary forgetfulness).
Trường hợp của hai em tôi thì khác hẳn, cả hai đều biết rất rõ mình là ai, không hề bị lẫn lộn nhân cách ngay cả khi người âm trong hai em, nói chuyện với hai em bằng tư tưởng.
Xin nói rõ hơn là nguời âm trong hai em tôi, không hề lên tiếng nói được trong đầu (no voice), mà họ chỉ gởi tư tưởng chạy trong đầu như kiểu email, tôi gọi là E thoughts (electrical thoughts) cho hai em hiểu, con ma trong em Bình thi rất lắm mồm, nói huyên thuyên suốt ngày toàn chuyện hắn ta và gia đình bị giết như thế nào ở Cambodia, trong thời kỳ Khmer Đỏ 1975 và cũng dùng những ngôn ngữ thô tục để sách nhiễu em Bình.
Em Bình rất cương quyết chống đối lại những sách nhiễu này, và cương quyết không tham dự vào bất cứ cuộc nói chuyện nào của con ma trong em.
Do đó hắn ta rất giận dữ và thường phản ứng lại bằng cách, gởi những luồng điện mạnh vào khoảng 1.5 volt, để châm chích vào những huyệt đạo trong người em Bình, để tạo những cảm giác nhức nhối như bị kiến cắn trong vòng 1/2 tới một giây đồng hồ.
Sau đó hắn ta cũng hết điện phải recharge lại khoảng vài giờ sau, mới có thể tấn công tiếp. Qua thông tin của hắn, em Bình kể lại cho tôi biết rằng, con ma này bị bè lũ PonPot bắn chết hoặc cắt cổ chết, hắn không nhớ rõ được hắn chết như thế nào, vì có lẽ quá kinh hoàng khi bị giết năm 1975, khi mới hai mươi bốn tuổi, cùng với người vợ khi đó đang có thai bốn tháng.
Trong ba mươi hai năm qua, hắn đã nhập vào bảy nguời, trong đó em Bình tôi là nạn nhân thứ bảy. Chúng tôi đã nhờ nhiều sư tăng, ni sư và cả một cha bên Công giáo nói chuyện với hắn bằng bút đàm, để khuyên nhủ và hỏi xem chúng tôi có thể làm gì để giúp hắn siêu thoát.
Thoạt đầu hắn còn đóng vai trò tử tế nào xin lễ cầu siêu ở chùa, rồi lễ rửa tội ở nhà thờ. Chúng tôi đã thực hiện đầy đủ các yêu cầu này cho hắn, thì cuối cùng hắn tuyên bố là hắn chỉ đòi hỏi thế để câu giờ mà thôi, chứ hắn hoàn toàn không có ý định nào để xuất ra khỏi người em Bình cả.
Hiện nay chúng tôi đang nhờ chị Khánh theo Công giáo ở Houston Texas, hàng đêm gọi điện thọai trừ tà qua phone, theo lời giới thiệu của một vị linh mục khả kính chuyên lo việc trừ tà. Linh mục này tên là T. Cha T. sống và làm việc ở một nhà thờ Việt Nam
nhưng cha hiện đang công tác dài ngày bên Mỹ.
Khi chúng tôi liên lạc được với cha để nhờ giúp đỡ, thì cha giới thiệu chị Khánh sẽ giúp em Bình hàng đêm qua phone. Thực tình khi nghe cha T. nói như thế, tôi rất thất vọng và lẩm bẩm làm sao mà có thể trừ tà qua phone được, nghe cứ như chuyện hoang đường. Ấy thế mà lại là sự thực đấy các bạn ạ.
Chị Khánh đã giúp em Bình qua phone bằng cầu nguyện, đọc kinh Tân Ước, xức dầu thánh, uống nuớc thánh và con ma trong Bình ngày càng yếu dần đi, đến độ không thể gởi E thoughts cùng như năng lượng của hắn, cũng như số lần châm chích em Bình ngày càng giảm dần đi.
Chị Khánh tin tuởng rằng em Bình sẽ đánh bật kẻ xâm lược, ra khỏi cơ thể em trong một thời gian ngắn, hy vọng thời gian chữa trị không quá hai mươi ngày. Chị Khánh cũng cho tôi biết rằng thời gian vừa qua, có một số nữ tu công giáo từ Mỹ về Việt Nam, cũng đến học nhân điện với thầy Nhự ở Biên Hòa.
Khi về tới Mỹ tất cả các nữ tu này đều có hiện tượng ma nhập, từ chối vào giáo đường, la hét ói mửa khi đọc kinh hoặc lên cơn động kinh, múa may những động tác supernatural trong nhà thờ. Cha T. Chị Khánh và một người nữa, có khả năng trừ tà đã và đang giúp số nữ tu này bình phục trở lại.
Do đó chi Khánh có rất nhiều kinh nghiệm đối phó với những hồn ma, không hiểu vô tình hay cố ý mà thầy Nhự đã tạo cơ hội cho những hồn ma này, nhập vào các nạn nhân ngây thơ đến nộp mình cho quỷ, mà lúc đầu các nạn nhân này tưởng rằng chỉ đi học nhân điện, để mong tự trị bịnh cho mình.
Xin Chúa ban phuớc lành cho những người như chị Khánh. Chúng tôi rất cảm kích trước sự giúp đỡ nhiệt thành của chi Khánh và cha T.
Về phần em An thì chúng tôi có khó khăn hơn nhiều so với em Bình. Lý do là con ma nhập vào em An tự xưng là một vong nữ có tên rất đẹp, tôi không tiện nêu lên ở đây. Con ma này nói rằng cô ta sinh năm 1901 là con một của một gia đình gốc Việt giàu có bên Cam Bốt.
Cô ta là nữ sinh trường Marie Curie, nói tiếng Pháp rất giỏi. Thuở sinh tiền cô thuộc loại con gái nhà giàu hư hỏng, dùng tiền cha mẹ ăn chơi nhảy đầm trác táng, cuối cùng chết vì bịnh hen suyễn hay ho lao năm 1943, trong sự tiếc thương của cha mẹ cô.
Cô ta nói chuyện hết sức ngọt ngào, rất nịnh hót em An của tôi, nào là em An tử tế tốt bụng, nào là các con của em thông minh học giỏi ngoan ngõan, lại hết sức chăm sóc sức khoẻ cho em An mỗi khi trái nắng trở trời.
Khi tôi về Saigon cô ta cũng dùng bút đàm khen tôi nào là hay là tốt đủ kiểu. Cô ta ngọt ngào đến nỗi em rể của tôi chồng của An, cũng thấy rằng sự hiện diện của cô trong em An, chỉ là điều tốt cho gia đình vì sức khoẻ của An rõ ràng được cải thiện.
Rất khó cho tôi để thuyết phục em An, là em đang bị con ma nữ này dùng chiến thuật mật ngọt chết ruồi, để dần dần chiếm trọn đầu óc An, rồi một ngày nào đó các con của An, sẽ chỉ có cái xác là mẹ An mà hồn và hành động sẽ là của con ma ấy.
Mỗi lần nói chuyện này với em An là em lại nổi nóng lênn cho rằng em hoàn toàn làm chủ thân xác và ý tưởng của em, còn con ma thì hiền lành giống như một bà tiên vậy. Nhìn em và nghe em nói như thế, tôi chỉ âm thầm khóc và lo sợ mà chả biết làm gì, khi cả gia đình riêng của em tôi, không hề coi đó là chuyện quan trọng.
Em An rất thương và lo lắng cho em Bình, trong việc đánh đuổi kẻ xâm lược trong Bình, nhưng chưa hề có ý định nào, để đánh đuổi cái vong nữ trong người của chính em An cả.
Phước nhà còn dày cho nên vào khoảng đêm thứ bốn, sau khi chị Khánh từ Texas bắt đầu giúp em Bình đánh đuổi tà ma trong người em, chị Khánh than phiền với gia đình tôi là tại sao qua phone, chị đã đánh con ma trong Bình tơi tả, và nó đang yếu đi rõ ràng, thì tự nhiên lại có một sức mạnh ngoại nhập ở đâu giúp con ma trong Bình mạnh trở lại.
Chúng tôi bèn dùng phương pháp loại suy xem những người nào hiện diện với em Bình, khi em đang nhận điện thọai từ chi Khánh. Chúng tôi phát hiện ra rằng, khi con ma trong Bình kêu rên khóc lóc, tức là em Bình kêu khóc một chút xíu, rồi em Bình lại trở lại là em Bình 100%
Tức thì em An lại lo đấm bóp cho Bình một cách không bình thường như kiểu ma nhập, tức là mặt An hơi dại đi, tay chân dẻo quẹo xoa bóp cho Bình.
Lúc đó tôi có bảo sao An lại làm vậy, thì em trả lời là sáu, bảy của em ghét con ma trong Bình lắm, và muốn xoa bóp giúp Bình đỡ mệt.
Chúng tôi có ngờ đâu là con ma nữ này đang truyền nhân điện giúp con ma trong Bình hồi phục lại.
Khi nghe chi Khánh than phiền, tôi bèn nói An không được phép ở trong phòng Bình và đụng chạm vào nguời Bình nữa.
Em An bực mình bèn hạch hỏi con ma nữ trong em. Con ma này bèn viết một lá thư dài hai trang giấy xin lỗi cả gia đình tôi, là quả thật nó có giúp đỡ con ma trong Bình, vì thấy con ma này bị chị Khánh đánh tả tơi, nó cầm lòng không đậu nên ra tay tiếp thêm nội lực cho nó.
Con ma nữ xin lỗi cả nhà tôi đặc biệt là với tôi, vì nó nói tôi vẫn đối xử với nó lich sự lắm, không ngờ nó lại làm tôi thất vọng như vậy. Nó cũng hứa là sẽ xuất khỏi An nếu chúng tôi đưa nó lên tịnh xá Linh Quang ở 40/60 Nguyễn Khoái, Quận bốn Saigon để nó xuất gia đầu Phật vào thứ Bảy July 28, 2007 hai ngày sau đó.
Em trai tôi cho biết là trước đó, con ma nữ này cũng đã hứa nhăng hứa cuội nhiều lần, là đưa nó lên chùa này chùa nọ để nó xuất ra, mà lần nào cùng chỉ toàn dối trá.
Nhưng vấn đề là em An của tôi vẫn một mực tin yêu và cho rằng con ma này có tâm hồn nhân hậu, chỉ một phút yếu lòng mà giúp đỡ con ma trong Bình thôi.
Tôi bèn nhân cơ hội này bảo với em An rằng, thôi được rồi, tôi tin lời hứa của con ma, tôi vẫn tiếp tục đối xử tử tế với nó, sẽ tha thứ lỗi lầm của nó nếu như nó giữ đúng lời hứa là sẽ ra đi vào thứ Bảy July 28.
Riêng bản thân tôi, tôi hứa sẽ trọn đời cầu nguyện cho linh hồn của cô ta hàng đêm, sau khi cô ta thực hiện lời hứa của cô. Nhưng nếu đến thứ Bảy đó, sau khi mình đã làm đủ theo yêu câu của cô ta, mà cô ta cũng không đi, thì em An phải quyết tâm đánh đuổi con ma ra và cắt đứt mọi liên lạc với nó.
Em An bằng lòng như thế với tôi. Còn con ma cũng ra vẻ rất nhiệt tình và rất cảm động truớc lời hứa này.
Hai ngày sa, tôi đua em An lên chùa Linh Quang. Chúng tôi đến từ lúc 10g30 sáng, dự lễ cầu an cho người sống tới 11 giờ rồi ăn cơm chay tại chùa.
Rất nhiều người đến chùa để được chữa bệnh, có người thì bệnh vật lý như ung thư, nhức mỏi, có người bị bệnh tâm thần nhưng cũng có rất nhiều người bị ma ám như em An, thái độ của người bị ma ám rất khác với người bệnh tâm thần, tôi cảm nhận được nhưng không diễn tả đuợc.
Đến 12g30 trưa, người có bệnh đã xếp hàng ngồi thành hai hàng trong đại điện dài đằng dặc, dễ có đến hơn một trăm năm chục người chứ không ít.
Tôi quỳ ngay sau lưng em An, đợi khoảng hơn nửa tiếng đồng hồ thì tới phiên em An được vị sư già mặc áo tăng bào vàng hơi đỏ, vai áo bên phải để trần, chắc là vị sư này thuộc phái Nam Tông, chữa bệnh. Tôi quỳ ngay sau lưng em An, nghe loáng thoáng em vắn tắt thưa với thầy là có một vong nữ trong em, có nhờ em đưa lên chùa này hôm nay, vì vong nữ này muốn xuất khỏi người em hôm nay, mong thầy giúp đỡ.
Vị sư này bèn để ba ngón tay lên đầu em, miệng lâm râm niệm chú, rồi để một cái mõ nhỏ lên đầu em, gõ lóc cóc vài cái. Xong thầy quay sang bên cạnh, lấy một ly nước nhỏ do người đệ tử bên cạnh trao cho, co mấy ngón tay lại trên miệng cốc, lẩm nhẩm chú niệm gì đó trong miệng, rồi đưa cốc nước cho em tôi uống.
Thế là xong em tôi ra khỏi hàng, đến quỳ ngay truớc bàn thờ Phật Bà Quan Âm ngay cạnh đó. Tôi bèn nhảy ra khỏi hàng, hỏi em An là chuyện gì xảy ra vậy, con ma đã xuất ra chưa?
Thốt nhiên tôi thấy em tôi xoè bàn tay phải ra, giơ thẳng bàn tay ra trước mặt, rồi dùng hết sức lực đấm thình thịch vào ngực, đỉnh đầu và trán của em liên tiếp mấy chục cái.
Sức đấm mạnh đến nỗi người em tôi lảo đảo sau từng cú đấm. Tôi kinh hoàng hỏi em:
- Em ơi chuyện gì vậy, sao em lại tự đánh em như thế ?
Em trả lời tôi:
- Bà ấy muốn ra em đang làm thế để giúp bà ấy ra.
Nhìn nét mặt của em, tôi thật tình không biết lúc đó em là em tôi hay là con ma nữa. Tôi chỉ cảm thấy toàn thân tôi đau đớn như đang bị đánh, những cú đánh của em tôi mạnh mẽ vang lên trong tim trong óc tôi.
Cả bao nhiêu người trong đại điện, cả vị sư già ngồi cách em tôi chừng nửa thước, chả ai thèm để ý đến em cả, dường như những sự việc ma nhập, tự hành hạ thân xác như thế đã diễn ra quá thường xuyên ở đây.
Không biết làm gì, tôi nhảy trở vào hàng người đang xếp hàng, bây giờ đã ngắn đi rất nhiều để hỏi vị sư già trị bịnh đầu đuôi câu chuyện.
Chỉ khoảng năm phút sau đã đến phiên tôi, tôi bèn quỳ chắp tay hỏi rằng:
- thưa thầy, em gái của con vừa rồi có thưa với thầy là, cái vong nữ trong người nó có nói rằng, nhờ đưa lên chùa hôm nay để vong nữ này xuất ra, em của con đã được gặp thầy và đang ngồi kia, tôi chỉ tay về phía em An, xin thầy giảng cho con biết chuyện gì đang xảy ra vậy?
Vị thầy nhìn tôi cười, tôi không thể xác định đó là nụ cười thương hại hay mai mỉa, bảo tôi rằng:
- Cô không biết là người ta đã nói là nói dối như ma à ? Người ta đã nói dối với cô và đang lừa dối em cô đó. Muốn chữa khỏi bệnh này, em cô phải đi chùa rất nhiều lần, chứ một lần làm sao hết.
Nói xong thầy quay qua chữa bệnh cho người kế tôi.
Tôi quay sang em tôi và hỏi:
- Em có nghe thầy nói chưa, mình lại bị lừa dối nữa đó.
Nhìn vẻ mặt đau đớn của em, tôi không cầm được nước mắt, tôi biết em tôi vừa cảm nhận được sự thật phũ phàng là bà tiên trong nó, thực chất chỉ là một ma nữ thâm trầm nham hiểm, nói dối như cuội và vừa rồi, con ma nữ đã lợi dụng lòng tin của em tôi để đánh em tôi một trận nhừ tử bằng chính bàn tay của em.
Cầm tay tôi em An bảo:
- Chị đừng lo, em sẽ quyết đánh cho con ma nữ giảo họat, dối trá ra khỏi người em. Em sẽ nhất quyết không cho nó nói chuyện hay viết lách gì cho em nữa.
Nhìn vẻ mặt của em, tôi biết em đã cương quyết lập chí dành lại độc lập cho thân xác mình. Tôi vừa đau đớn vừa mừng rỡ rằng, ít nhất em tôi đã vượt qua được một giai đọan khó khăn, trong cuộc chiến tranh với ma quỷ này, là lập quyết tâm đánh đuổi quân thù.
Hiện nay em tôi hàng ngày lên chùa Linh Quang để con ma có cơ hội nghe kinh kệ, và nhờ thần lực tín tâm của sư tăng trong chùa và trong chính em, để kêu gọi con ma xuất khỏi em tôi.
Em An cũng hứa rằng nếu sau ba tuần đi chùa, mà con ma vẫn không nhúc nhích di chuyển gì cả, thì em sẽ đổi qua biện pháp mạnh hơn để trục ma.
Tôi xin tóm lược những ý chính tôi muốn nêu lên trong bài này, mà trong lúc xúc động tôi đã không viết đuợc rõ ràng và mạch lạc như sau:
1. Xin hết sức cẩn thận khi đi học nhân điện khoa tự động, ở những người thầy như thầy Mai Viết Nhự. Tôi không đủ dữ kiện để kết luận, là thầy Nhự có liên quan trực tiếp đến vấn đề, tạo cầu nối giúp các hồn ma nhập vào cơ thể các học viên của thầy hay không ?
Tôi chỉ biết là hai cô em gái của tôi đều bị ma nhập, ngay trong lúc đang học nhân điện với thầy, sau khi thầy mở luân xa số sáu và bảy cho hai em.
Chị Khánh cũng cho tôi biết là một số nữ tu Công giáo, cùng bị hiện tuợng ma nhập sau chuyến du hành từ Mỹ về Việt Nam, sau khi cũng học khóa nhân điện với thầy Nhự. Sao lại có sự trùng lặp đặc biệt như thế ?
2. Tôi sẽ không bao giờ để ai sờ lên đầu lên cổ của mình, ai biết được là họ có khả năng mở luân xa sáu, bảy hay không ?
3. Đến thời điểm mình phải lìa cõi trần ra đi, xin hãy ra đi với lòng thanh thản, dù có còn bổn phận trách nhiệm với người còn sống, cũng hãy xin hiểu rằng phận sự của mình đến thời điểm đó là hết, đừng nuối tiếc gì cả, để phần tâm linh của mình có thể nhẹ nhàng siêu thoát, không trở thành vong linh vất vưởng lang thang.
Phần người sống, xin đừng khóc than níu kéo người đã ra đi, xin hãy nói cho người hấp hối biết, là họ đã làm xong nhiệm vụ của họ trên trần thế, mình là người ở lại cũng sẽ OK, để nguời chết yên tâm mà đi.
4. Xin hãy đối xử với những người bị ma nhập tử tế, đừng xa lánh họ. Con ma chẳng có nhiều quyền lực gì cả, trừ trường hợp người bị ma nhập không hiểu được bản chất của ma, thì sẽ rất sợ hãi trước những lời hăm dọa của ma, chẳng hạn như:
- Tao sẽ giết mày nếu mày không nghe lời tao.
Những lời hăm dọa đó chỉ là lời hăm dọa xuông, con ma vốn chỉ là những sóng sinh học âm, sức lực chỉ bằng cục pin rechargeable 1.5 volt.
Con ma sẽ rất mạnh mẽ khi tâm hồn và thể xác của người bị nhập yếu đuối, sợ hãi và không có được sự giúp đỡ thương yêu của gia đình và bạn bè.
Con ma sẽ dùng chiến thuật tâm lý, ngọt bùi cay đắng có cả để thoạt đầu mua chuộc lòng tin của người bị nhập, để dần dần chiếm toàn bộ lý trí của họ và tiến đến khống chế thể xác, vì bản thân con ma chỉ là phần tinh thần của người đã chết, nay mong muốn chiếm đoạt thân xác và tâm trí của người còn sống, để hành xử theo ý riêng của mình.
Con ma cũng sẽ nhăn răng múa vuốt, qua cử chỉ của người bị nhập như kiểu trong phim Exorcist, nhưng cường độ yếu hơn nhiều chứ không như kỹ xảo Hollywood, để hăm dọa người chung quanh, làm cho họ cảm thấy sợ hãi mà xa lánh người bị ma nhập.
Những kỹ xảo này của con ma chỉ làm tôi bật cười, thương hại cho kẻ lực bất tòng tâm, và yêu thương em tôi hơn.
5. Phải có lòng tin nơi Thượng Đế, Chúa hay Phật để đối phó với các thế lực đen tối của thế giới bên kia. Chính nghĩa bao giờ cũng thắng tà ma, tôi đã mục kích con ma trong em Bình, rất sợ những câu trong Kinh thánh, cũng như các câu niệm Phật Bà Quan Âm hay mật chú Tây tạng.
Hy vọng các bạn đọc bài viết này của tôi và rút tỉa được vài điều nào đó, mà có thể giúp ích cho bạn bè hay người thân, thêm ít thông tin về thế giới bên kia, một thế giới mà ta không hiểu rõ.
Tôi mong bài viết này có thể đóng góp chút nào trong việc ngăn ngừa, những trường hợp không may có thể xảy ra, sau khi học nhân điện khoa tự đông.
Xin các bạn nếu có thể, post bài viết này của tôi ở bất cứ website hay báo chí nào, trong hoặc ngoài nước để hy vọng thông tin này sẽ giúp ích cho người đọc chút nào chăng.
Xin cảm ơn các bạn.
Bác Mù
LÁI XE VỀ QUÁ KHỨ
Khi nhắc đến vấn đề đi vào quá khứ, người ta không thể quên những chuyện lạ có thật do Hans Holzer, một nhà nghiên cứu về các hiện tượng siêu tâm lý kể lại như sau:
Năm 1964, một người đàn ông tên là Robert Cory, một con người khá nổi tiếng trong làng văn học nghệ thuật tại Hoa Kỳ, đã lái xe trên đường đến Los Angeles. Hôm đó trời quang đãng. Vì đường xa nên khi đến địa phận Oregon thì trời vừa tối, nhưng ông Cory vẫn tiếp tục cuộc hành trình.
Bỗng nhiên một trận bão tuyết nổi lên lại gặp lúc xe ông đang trên dốc núi. Ông buộc lòng phải ngưng xe lại để quan sát tình hình vì tuyết đổ liên tục và đường lại cheo leo.
Ông vừa xuống xe thì thấy từ xa có ánh sáng chiếu như có đèn ai đang mở dò đường. Ông Cory liền cho xe chạy đến đó xem thử. Tại đây chẳng có ai. Mọi vật hoàn toàn yên lặng. Chỉ có bảng chỉ đường sáng lóa như được chiếu sáng bởi một nguồn sáng nào từ đám mây.
Theo bảng chỉ đường, ông Cory cho xe chạy xuống núi và cuối cùng ông thấy trước mặt, một vùng có nhà cửa mà đường sá thì có vẻ cũ kỹ, đầy ổ gà trồi sụp. Ông dừng xe lại trước một ngôi nhà bằng gỗ rộng lớn mà ông nghĩ đó là khách sạn. Ông Cory quyết định nghỉ tại đây vì trời còn xấu.
Ông bước vào ngôi nhà lớn ấy. Dọc hành lang ngôi nhà lớn ấy được trang hoàng bằng những chiếc đầu các loại thú. Có những tấm bảng gỗ tróc sơn nứt nẻ có ghi các năm 1800.
Ðiều kỳ dị ngôi nhà vắng vẻ lạ lùng không một bóng người. Ông định trở ra nhưng lại thấy có lửa cháy bập bùng ở lò sưởi phòng khách lớn, nên lại đẩy cửa bước vào. Trời lạnh như cắt nên ông phải cần được sưởi ấm. Ông đến bên lò sưởi và ngồi lên chiếc ghế dài.
Cạnh đó ông thấy cái bàn nhỏ, trên bàn đặt cái điện thoại mà nhìn kỹ, thì đây là loại điện thoại quá xưa cũ, mà hầu hết các cơ sở làm ăn khắp nước Mỹ chẳng bao giờ tìm thấy có, đó là loại điện thoại phải quay số rườm rà trước khi gọi.
Tuy nhiên ông Cory cũng phải dùng đến cái điện thoại này để gọi về nhà báo tin cho người thân. Nhưng cái máy hình như không còn hoạt động nữa. Ông Cory cảm thấy mõi mệt và buồn ngủ. Bỗng nhiên cái vắng vẻ yên lặng ấy ông bỗng nghe có tiếng động, tiếng động rất nhẹ và ông thấy một ông già đang từ tầng lầu trên đi xuống.
Ông Cory tưởng đó là người quản thủ khách sạn. Nhưng khi nhìn kỹ lại, ông cụ giống một người nông dân ở vùng quê xa xôi nào đó, vì nhìn lối ăn mặc và cử chỉ thấy ông ta thật vụng về thô lỗ cục mịch vô cùng. Ông cụ lầm lì đi đến bên lò sưởi và coi sự xuất hiện của ông Cory là tự nhiên. Có lẽ vì đây là một khách sạn. Thế rồi ông Cory ngủ thiếp đi trên cái ghế dài.
Sáng hôm sau, ánh nắng xuyên qua cửa kính chiếu vào mắt khiến ông Cory chợt tỉnh. Ông thấy có nhiều người xuất hiện trong khách sạn, mà phần lớn là những người già. Nhiều người nhìn ông nhưng có vẻ lơ đảng không quan tâm. Ông Cory đã đến bên những người ấy để hỏi về ngôi làng xa lạ này, và luôn tiện hỏi thăm có trạm xăng nào ở gần đây không?
Ông mơ màng như thấy ít người đáp lời, và nếu có thì những lời nói của họ không có mạch lạc, hoặc chẳng có ăn nhập gì với câu hỏi mà ông đã nêu ra cả.
Ông Cory cảm thấy hoang mang trong lòng. Cái cảm giác trống vắng, lẻ loi, lạ lùng bỗng đến với ông thật nhanh theo dòng linh cảm. Ông hỏi: Ðây là đâu xin các ông vui lòng cho biết ? Hiện tôi đang ở đâu đây ? Có vài người bước tới nhìn ông và hình như có người cầm tay ông, ân cần vỗ về và chỉ đường cho ông rồi sau cùng nói: Ông đừng sợ! Chẳng có gì phải sợ cả.
Ông Cory chợt nhớ đến chiếc xe, ông chạy ra khỏi khách sạn. Chiếc xe ông vẫn còn đó. Ông mở cửa xe và nổ máy chiếc xe chuyển động và ông Cory vội vã như muốn thoát khỏi một nơi thâm trầm kỳ bí chưa từng thấy này.
Chiếc xe băng qua những con đường gập ghềnh. Ông Cory thấy một vài người lầm lũi bước đi hai bên đường. Những người này ăn mặc những áo quần mà hình như chỉ thấy đâu đó trong sách vở, tự điển. Ông Cory có cảm tưởng như đó là những kiểu áo quần ở thời đại xa xưa nào đó. Ðiều kỳ dị hơn nữa là trong khi lái xe ra khỏi vùng này, ông có cảm giác như xe đang di chuyển trong lớp sương mờ.
Về sau, câu chuyện có thật mà ông Cory đã trải qua được nhiều nhóm nghiên cứu về những vấn đề không thể giải thích ghi nhận. Người ta không loại bỏ việc xác định lại vùng hoang dã, nơi ông Cory lái xe đến đó và vùng dân cư cùng ngôi nhà lớn mà ông đã bước vào như qua một đêm.
Tài liệu lưu trữ tại thư viện lớn ở đây cho biết xưa kia đây là vùng thưa dân, nhưng có ngôi nhà Bưu Ðiện Quốc gia lớn tên là US Post Office National, Indiana. Ðó là khoảng những năm 1850, 1851.. Rồi tám mươi năm sau đó, nghĩa là vào năm 1930 thì nơi đây biến thành bệnh viện lớn dành cho các cựu chiến binh.
Vậy rõ ràng ông Cory đã tình cờ đi ngược dòng thời gian và vào quá vãng cách thời đại ông đến hơn cả trăm năm.
Một hiện tượng tương tự cũng không kém lạ lùng đã xảy ra, khi hai nhà leo núi kỳ cựu là Donald Watt và George Bruce trong chuyến leo núi tháng năm năm 1987, cả hai đều thấy rõ ràng có một ngôi nhà hai tầng nằm bên bờ hồ Mullardoch gần Cannich xứ Scotland rất nên thơ.
Nhà có vách xây bằng đá Hoa Cương (Granite) và trông khá bề thế đầy tiện nghi. Trước đó hai người này đã nghiên cứu kỹ qua bản đồ chi tiết của vùng mà họ sẽ đến, và không có dấu vết gì ghi chú về căn nhà nói trên.
Khi cả hai thấy ngôi nhà đó họ vô cùng ngạc nhiên, và tưởng như là một chuyện kỳ khôi vì không thể nào có ngôi nhà xuất hiện, ở một nơi hoang vu lạ lùng như thế được. Tuy nhiên sự kiện xảy ra sau đó càng làm họ ngạc nhiên nữa, khi cả hai sau một hồi leo núi quay lại nhìn thì không thấy ngôi nhà ấy đâu nữa.
Khi trở xuống, họ đi vòng khắp hồ nhưng ngôi nhà đã hoàn toàn biến mất. Cả hai nhà leo núi ghi lại những gì mình thấy vào nhật ký. Sau đó, các tài liệu tra cứu có liên hệ về vùng này được các nhà sưu tập nghiên cứu phân tích, và kết quả người ta được biết rằng khoảng những năm 1950, ở đây có một số nhà cửa được dựng lên, trong đó có một cơ sở nghiên cứu của nhà nước.
Rồi vì một vụ ngập nước làm ngôi nhà bị chôn vùi xuống đáy hồ. Khi hai nhà leo núi trông thấy lại ngôi nhà, thì rõ ràng ngôi nhà ấy là hình ảnh của quá khứ, một hình ảnh mà trước đó khoảng ba mươi năm năm nó là sự thật. Như vậy hai nhà leo núi George Bruce và Donald Watt đã thấy được hình ảnh của quá khứ...
Tâm Linh
#99
Gửi vào 19/06/2011 - 09:48
THIÊN NHẢN VÀ ÂM DƯƠNG NHẢN
Trong kinh Phật gọi Thiên Nhản là Thiên Nhản Trí Thí Thông, có nghĩa là năng lực của Thiên Nhản là sự biểu hiện của trí huệ, có được năng lực thần thông vạn năng.
Tuy nhiên trong mắt của người tu trì Thiên Nhản là do bẩm sinh mà có, chớ không phải có được nhờ sự tu hành.
Thiên Nhản Thông chỉ có những vị Thần Tiên trong chuyện thần thoại mới có được, thật ra khả năng có Thiên Nhản chỉ là một hư cấu trong trí tưởng tượng của con người mà thôi, bởi vì xưa nay không có một người nào có được thiên nhản và thấy được thiên nhản là như thế nào?
Âm Dương Nhản, tức cặp mắt âm dương thì có nhiều người bẩm sanh đả có được hoặc, người ta đả thấy được và nghe được, nhiều người đả có được âm dương nhản.
Những người có được âm dương nhản, có thể thấy được ảnh vô hình của linh giới như quỷ thần, hoặc họ có thể tiên liệu sự việc có thể sẻ xảy ra trong tương lai, họ còn có thể xem trong mình người khác đả có bệnh gì xảy ra.
Nhưng sự thủ đắc cặp mắt âm dương được hình thành, thông thường nhờ thông qua sự tìm thầy học đạo, tập luyện thần thông, hoặc có người sau một thời gian tập luyện khí công, và không biết làm sao mà tự nhiên, đả làm khơi hoạt được cặp mắt âm dương nhản này.
Có người sau một cơn trọng bệnh, hoặc bị thương tích nào đó, thì liền có được cặp mắt âm dương, có người thì đả có từ nhỏ, có người thì tự nhiên trong một lúc bần thần xáo trộn nào đó, tự nhiên có được cặp mắt âm dương.
Những người khi thủ đắc được âm dương nhản , mặc dù là có thị lực hơn người thường, nhưng bản thân họ cũng không thể giải thích được hiện tượng này?
Do đó hiện nay có rất nhiều người khai mở được âm dương nhản, có thể xem thấy được những linh thể vô hình.. nên đả tự xưng là có được thiên nhản thông, và mở lớp thu nhập học viên để giảng dạy cách khai mở thiên nhản này.
Theo sự nhìn nhận của đại đa số, thì thật ra không thể phân biệt được sự khác nhau giửa thiên nhản và âm dương nhản là như thế nào?
Bởi vì những người đả có được âm dương nhản, tự thân cũng không biết là thiên nhản hay là âm dương nhản, nên đả có người tự nhận rằng mình có thiên nhản, và âm dương nhản và thiên nhản là giống nhau.
Trên thực tế, thiên nhản và âm dương nhản có nhiều chổ khác nhau:
Tùy theo năng lực khác nhau, tổng quát có năm loại mắt là: Thứ nhất là mắt thường.
Nhục nhản nhìn thấy được các vật hữu hình.
Âm dương nhản là mắt thứ hai.
Thiên nhản là mắt thứ ba.
Pháp nhản là mắt thứ tư.
Phật nhản là mắt thứ năm.
Trừ những người bị mù còn cặp mắt thịt thì mọi người sanh ra đả có, còn lại các loại mắt khác thì cần phải thông qua sự tu trì bí pháp đặc biệt, thì mới có thể sở đắc được.
Từ xưa đến nay chỉ có Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, Phật Thích Ca Như Lai và Đức Chúa Jesus mới có được những loại mắt này.
Ở đây chúng ta chỉ nói đến sự khác biệt giữa âm dương nhản và thiên nhản mà thôi.
1. Âm Dương Nhản: Là do sự tu trì bí pháp linh giới mà thụ đắc, có người do sự tu hành trong tôn giáo mà có được, có người do thần linh nhập thể mà có được, có người do một phút boàng hoàng hốt hoảng nào đó cũng có được mắt âm dương.
Có một số người khi có được âm dương nhản thì rất mừng vui, vì có thể nhìn thấy được linh khí, linh thể hoặc thấy được những việc có thể xảy ra trong tương lai hoặc xem bệnh..
Nhưng có một số người khi có được cặp mắt âm dương, nhưng trí huệ và kiến thức về cỏi linh giới hay tâm linh không có nhiều, nên cảm thấy sự có được cặp mắt âm dương mang đến sự phiền phức và khổ nảo cho họ.
Nhiều khi những cái họ muốn nhìn thấy thì không thể nhìn thấy, còn những cái họ không muốn nhìn thấy thì lại bổng nhiên hiện ra trước mắt, có khi họ nhìn thấy những hình ảnh kinh dị của linh khí hoặc linh thể, làm họ hoảng hốt và những hiện tượng này xảy ra tùy thời gian và nơi chốn khác nhau không nhất định, nên cặp mắt âm dương nầy đả làm xáo trộn cuộc sống hằng ngày của họ.
Nên những người này cần phải biết rằng, dù thấy hay không thấy, kinh dị ghê sợ hay đẹp đẻ thì cũng đừng chú ý đến chúng, vì chúng dù sao cũng là hình ảnh mà thôi, nếu ta không chú ý đến chúng nó và không sợ nó thì ta không bị nó ảnh hưởng.
Chúng ta chỉ bị hại nếu chúng ta tin nó là thật, rồi sinh ra tâm loạn động, rồi từ đó sanh ra tâm trí bất thường thì dể đi đến điên loạn, còn nếu chúng ta thấy sự vật quái dị, nhưng tâm ta xem là bình thường, ta làm việc của ta nó làm việc của nó, đường ai nấy đi thì mọi việc sẻ an toàn tự nhiên.
Nếu có, ta chỉ thu nhận những hình ảnh hay thông tin nào, có chất lượng xây dựng và hiền lành, giúp thân tâm ta và mọi người được an lạc thịnh vượng, khõe mạnh và hạnh phúc, thì ta có thể tham khảo mà thực hành và tin theo mà thôi.
Do đó, ngoại trừ những người mở được cặp mắt âm dương nhờ sự chỉ dẩn của minh sư, qua sự chuyên tu để mở âm dương nhản, thì họ có thể sử dụng một cách tùy ý thích.
Còn đại đa số những trường hợp khác, do sự bột phát tự nhiên hay do thương tật, tai nạn, bệnh tật mà làm khai phát cặp mắt âm dương, thì họ không biết cách sử dụng khả năng này một cách tùy ý thích, và thường không có sự chuẩn bị tâm lý cho việc sử dụng khả nầy này, nên thường bị hoảng sợ khi thấy được những cảnh của cỏi linh giới.
Nên có một số người cảm thấy không thích, khi họ bổng nhiên có được khả năng này, nhưng không biết làm sao cho nó mất đi, để có được cuộc sống an lạc khi xưa.
Chỉ còn một cách là học hỏi và tìm hiểu thêm, những kiến thức về âm dương nhản, thiên nhản hay những kiến thức về tâm linh, nay đả có rất nhiều ở sách vở và trên các mạng lưới internet tâm linh, mổi ngày đều cập nhật hóa và phong phú hơn.
2. Còn cách thức hai là dù có nhìn thấy hay không thấy những hình ảnh hay cảnh vật kinh dị, ghê sợ hay đẹp đẻ thì ta cũng đừng chú ý đến chúng, vì chúng dù sao cũng là hình ảnh hay chỉ là ảo ảnh mà thôi, nếu ta không chú ý đến chúng nó và không sợ nó thì ta không bị nó ảnh hưởng.
THẤY QUÁI DỊ MÀ KHÔNG CHO LÀ QUÁI DỊ, THÌ SỰ QUÁI DỊ ĐÓ SẺ TỰ TAN BIẾN.
Chúng ta chỉ bị hại nếu chúng ta tin nó là thật, rồi sinh ra tâm loạn động, rồi từ đó sanh ra tâm trí bất thường thì dể đi đến xáo trộn sinh hoạt thường ngày.
Còn nếu chúng ta thấy sự vật quái dị, nhưng tâm ta xem là bình thường, ta làm việc của ta, nó làm việc của nó, đường ai nấy đi, thì mọi việc sẻ an toàn tự nhiên.
Nếu có, ta chỉ thu nhận chọn lọc những hình ảnh hay thông tin nào, có chất lượng xây dựng và hiền lành giúp thân tâm ta và mọi người được an lạc thịnh vượng, khõe mạnh và hạnh phúc thì ta có thể tham khảo mà thực hành và tin theo mà thôi .
Còn những thông tin mà không phù hợp đạo đức luân thường của con người, thì không nên tin và làm theo, nếu không thì sẻ bị quả báo nhản tiền cho thân tâm ngay trong kiếp nà̀y.
Nên cần cẩn thận mà sớm tránh xa nó, để thân tâm luôn được an lạc và hưởng được những quả lành, của sự thủ đắc khả năng của cặp mắt âm dương này.
ÁNH SÁNG T2
BÍ ẨN TRONG PHÚT HẤP HỐI
Con người đã và đang tìm kiếm các dấu hiệu tin cậy về cái chết để tránh xảy ra những trường hợp đáng tiếc. Bên cạnh đó, các nhà khoa học thực sự lúng túng khi một số người đã kể lại cái chết cho biết những gì mà họ cảm nhận được trong thời gian hoàn toàn bất tỉnh hoặc mất hết hy vọng được cứu sống.
Vào năm 1957, tại một sân bay nhỏ của Anh đã xảy ra tai nạn khi máy bay hạ cánh. Một bác sĩ ngồi ghế phía sau bị văng khỏi máy bay, ngất đi và không có dấu hiệu sống. Từ nơi mà ông ngã gục không thể nào nhìn được quang cảnh xung quanh, nhưng thật lạ lùng là người đó thấy rõ tất cả những gì xảy ra ở sân bay.
Nạn nhân thấy thân thể của ông ta nằm bất động ở phía dưới mình khoảng 60m, thấy cả người hoa tiêu và phi công dính máu đang chạy về phía mình. Việc những người đó biểu lộ sự chú ý đối với thân thể của ông đã làm bác sĩ ngạc nhiên và bực tức. Ông muốn được yên tĩnh.
Sau đó, nạn nhân thấy một ôtô cứu thương từ nhà để xe đi ra và một bác sĩ nhảy vào. Xe chở nạn nhân dừng lại một trạm xá và lấy theo một thiết bị. Tiếp đó, nạn nhân theo dõi thấy xe chạy với vận tốc lớn, mang "thi thể" của ông tới bệnh viện thành phố. Thân thể nạn nhân được đặt lên một cái bàn trắng, mọi người cúi xuống làm việc.
Ông ta cảm thấy mùi khó chịu của clorua amonium. Vào đúng thời điểm đó, ý thức rõ ràng và bình thản của nạn nhân đột nhiên mờ hẳn và lại quay vào "trong" thân thể bị thương, kèm theo cảm giác đau đớn. Sau này do tò mò, người đó đã phục hồi tỉ mỉ các sự việc ấy và những điều mô tả hoàn toàn khớp với thực tế.
Vào năm 1892, một nhà địa chất người Thụy Sĩ tên là Enbơ Hem bị trượt ngã xuống vực sâu, nhưng may mắn thoát chết. Quan tâm đến những cảm nhận của mình trong khoảnh khoắc hoàn toàn thất vọng, nhà địa chất đã thu thập được 32 trường hợp tương tự. Ông nhận thấy rằng, tất cả các "đồng sự" của mình đều trải qua một cái gì đó giống nhau ở ngưỡng cửa của cái chết khó tránh khỏi. Những quan sát đó của E. Hem đã được bổ sung đáng kể, đặc biệt là vào những năm gần đây, khi công việc hồi sinh đã có nhiều kết quả.
Khi rơi từ độ cao lớn, ở thời điểm đầu tiên, con người trải qua sự sợ hãi mạnh mẽ, tìm kiếm một cách vô vọng các khả năng cứu thoát. Giai đoạn thứ hai xuất hiện sự nhận thức đầy đủ về cái chết không tránh khỏi và các ý định thoát thân đã rời khỏi não bộ. Cái chết không còn làm kinh hoàng và phiền muộn, nhưng những điều vụn vặt ngớ ngẩn lại làm lo lắng: xót xa vì rách bộ quần áo đang mặc, vỡ vụn cặp kính đang đeo hoặc hỏng mất cái máy ảnh...
Nếu thời gian rơi đủ dài thì sẽ xuất hiện giai đoạn thứ ba, hồi tưởng quá khứ. Các thời điểm quan trọng nhất của cuộc đời hiện ra thành các mảng hình ảnh, giống như quan sát chúng từ tầng trên của rạp hát. Tuy nhiên, những hình ảnh ấy mãnh liệt đến mức nào còn tuỳ thuộc vào đặc điểm cá nhân của mỗi con người.
Vào năm 1972, một người trượt tuyết 19 tuổi bị ngã từ độ cao hàng ngàn mét và thoát chết với cái mũi dập nát. Nạn nhân kể lại: "Khi bắt đầu rơi, tôi gào thét thảm thiết, nhưng sau đó, tôi hiểu rằng tôi đã chết. Cả cuộc đời hiện ra trước mắt tôi như một ánh chớp. Tôi thấy khuôn mặt mẹ tôi, thấy ngôi nhà mà trong đó tôi sống, thấy các bạn bè ...".
Còn Hem lại mô tả bức tranh quá khứ như sau: "Tôi thấy mình là đứa bé bảy tuổi đi đến trường học, rồi thấy mình hồi lớp bốn cùng với thầy giáo yêu quý".
Các cảm xúc hồi tưởng quá khứ kéo dài không lâu và chuyển qua một trạng thái thần bí. Khi một người rơi xuống vực thẳm thì người đó hiểu được rằng, thân thể của mình sẽ va vào đá và bị hủy hoại, xương sẽ gãy vụn và dập nát. Nhưng sự hồi tưởng về bản thân hoàn toàn không liên quan tới cơ thể nữa. Bắt đầu từ một thời điểm nào đó, nạn nhân không hề lưu tâm đến "thân xác" của mình.
Sự cảm nhận của nạn nhân bị xâm chiếm bởi các ý nghĩ tuyệt đẹp và xen lẫn những nốt nhạc du dương. Một trạng thái tinh thần thanh thản, nạn nhân bay qua các bầu trời mày hồng và màu lam lộng lẫy, ở trạng thái siêu việt đó, nạn nhân cảm thấy dễ chịu đến nỗi nảy sinh sự phản kháng rõ rệt chống lại những cố gắng đưa cơ thể về với sự sống.
Tuy nhiên, đôi khi con người cũng có thể rơi vào trạng thái đặc biệt do quá sợ hãi. Trường hợp như vậy đã xảy ra với nhà du lịch nổi tiếng Đevit Lêvingxtơn tại một vùng rừng Phi Châu. Một con sư tử nhảy đến sau lưng ông và bắt đầu cắn xé. Nạn nhân ngã sấp, cảm thấy rơi vào trạng thái thiêm thiếp, không hề thấy đau và hoảng hốt. Nạn nhân không thể và không muốn cử động, phản kháng. Con sư tử chấm dứt hành hạ cơ thể nạn nhân và ngồi cạnh ông. Khi đó sức lực của nhà du lịch đột nhiên trở lại. Ông bật dậy và phóng chạy thoát thân.
Trong những năm gần đây, các cảm nhận của những người chết lâm sàng đã được phân tích tỉ mỉ trong cuốn sách của R.Mouđi: Cuộc sống sau cái chết. Những người như vậy trải qua một cái gì đó giống nhau, mặc dù độ rõ nét có thể khác nhau. Họ rời bỏ "thân xác" và dễ dàng bay bổng lên không trung, quan sát hành vi của mọi người khác từ phía trên. Sau đó một quầng sáng xuất hiện, giúp họ nhớ lại các sự cố của cuộc đời. Quầng sáng có thể thúc giục họ trở lại với "thân xác" vì còn chưa tới lúc "chuyển tiếp"...
Một câu hỏi hay được đặt ra là làm thế nào để phân biệt một người bất tỉnh nhân sự với một người vừa mới chết?
Lịch sử y học đã chứng kiến nhiều trường hợp mà trong đó các bác sĩ giàu kinh nghiệm nhất cũng mắc phải sai lầm. Vào thế kỷ XI, Anđrei Vazali bị kết án tử hình vì đã giải phẫu thân thể một nhà quý tộc Tây Ban Nha. Người này đã tỉnh lại trên bàn mổ và bình phục trở lại. Tuy thế, bản án đối với AVazali vẫn được thi hành. Một điều trùng hợp kỳ lạ là chính viên quan toà đã dựng lên án đó, chẳng bao lâu cũng hồi tỉnh trên bàn mổ tử thi, nhưng sau đó ông ta không qua khỏi.
Vào năm 1964, tại một trong các nhà xác ở New York có một "tử thi" sống lại, đã nắm chặt lấy cổ và tay nhà phẫu thuật bệnh lý khi ông ta vừa thao tác dao mổ. Một nhà thơ tên là Patrarka đã hồi tỉnh trước khi đưa đi mai táng 4 giờ và còn sống thêm được 30 năm nữa.
Một người phục vụ ở Vatican được coi là đã chết do bệnh hen. Trong số các bác sĩ làm nhiệm vụ có một người rất cẩn thận, đã đưa ngọn nến đến gần mắt người chết. "Tử thi" co giật mạnh và sau đó còn sống được khá lâu, với một cái sẹo trên mũi do bỏng.
Vào đầu thế kỷ XX, một hội đồng các bác sĩ có uy tín của Anh đã tiến hành nghiên cứu và kết luận rằng, mỗi năm ở nước này có khoảng 2.500 người bị chôn sống.
Có thể điều vừa nêu bị phóng đại, nhưng quả thật có không ít trường hợp những người còn sống đã bị chôn vùi. Chính tại Anh và cuối những năm 60, đã xuất hiện một thiết bị đầu tiên cho phép ghi nhận được hoạt tính điện rất nhỏ của tim. Trong lần thử đầu tiên tại một nhà xác, người ta đã phát hiện được một cô gái còn sống nằm giữa các tử thi.
Những điều nêu trên cho thấy rằng, giữa sự sống và cái chết không có một ranh giới rõ ràng như đôi khi chúng ta vẫn tưởng. Sự ngưng thở được coi là dấu hiệu đầu tiên của cái chết. Nhưng ngay từ thế kỷ trước, quan niệm đó đã bị phủ nhận hoàn toàn.
Một số nhà Yoga có thể tự ngừng thở mà sau đó vẫn sống khoẻ mạnh. Dấu hiệu khác của cái chết là sự mất mạch và sự ngừng hoạt động của tim. Tuy nhiên, điều đó không phải bao giờ cùng đúng. Các nhà Yoga có thể điều khiển nhịp đập của tim sao cho các dụng cụ đo chính xác cũng chỉ báo là tim hoàn toàn ngừng đập.
Số đo thân nhiệt cũng không thể là dấu hiệu đầy đủ của cái chết. Đã có những trường hợp người đứng tuổi sống qua ngày ở một khu nhà lạnh lẽo, nhiệt độ thân thể hạ xuống khoảng 24ºC mà họ vẫn không chết.
Một cậu bé ở Thụy Điển được tìm thấy dưới lớp tuyết với nhiệt độ thân thể 18ºC, nhưng đã bình phục mà không có những biến chứng đáng kể. Một số chứng bệnh (như tả, đậu mùa, uốn váng) có thể làm cho thân thể tăng nhiệt độ sau khi chết.
Sự thay đổi ở nhãn cầu hay sự cứng đờ của thân thể cũng không phải là dấu hiệu tin cậy của cái chết. Hơn nữa, một số cơ quan tiếp tục hoạt động sau thời điểm chết lâm sàng. Cái chết tiến đến không tức thời. Đó là một dạng tồn tại đặc biệt, một sự tiến hoá dần dần với một xác suất thuận nghịch nhất định. Tử thi không có trường sinh học và cái đó cũng không thể là dấu hiệu của cái chết, bởi vì trường sinh học ở một số người sống cũng có thể tạm thời biến mất. Tử thì có thể lưu giữ một hoạt tính điện nào đó cho đến ngày thứ 39, khi mà xung não đáng kể cuối cùng được ghi nhận.
Tuy vậy, việc hồi sinh được phép tiến hành sau khi nạn nhân bị chết lâm sàng chỉ mấy phút. Bởi vì nếu để lâu quá thì trong một số trường hợp, những người được cứu sống sẽ tiếp tục tồn tại mà không có tri giác, giống như những con búp bê sống. Giới hạn thời gian hồi sinh phụ thuộc vào các khả năng của nền y học hiện đại.
Tất cả những điều nêu trên có tác dụng lưu ý chúng ta hãy thận trọng khi xem xét các quá trình xảy ra với con người trên ranh giới giữa sự sống và cái chết.
ST
CON NGƯỜI CÓ THỂ LINH CẢM TRƯỚC CÁI CHẾT
Một chiều vợ Grigority Doroni, mới hai mươi tuổi bất chợt nói:
- Em mệt quá, chắc là em sắp rời bỏ thế gian này. Ngày hôm sau cô ấy bị tai nạn ô tô và chết. Một số người có thể nhìn thấy cái chết của mình đang đến gần ? Liệu việc tiên đoán hay linh cảm về cái chết là sự thật ?
Không ai biết trước được khi nào mình sẽ tới số, và cái gì sẽ khiến cho mình phải vĩnh biệt thế gian, mà bước vào một thế giới vô cùng xa lạ nào đó. Tuy nhiên một số người có thể thấy được, cái chết của bản thân mình đang đến gần. Trực giác kỳ lạ là cái giúp cho con người, có thể giải thích bí ẩn không thể hiểu thấu này.
Inna P kể lại:
Một mùa hè vợ chồng chị về quê. Rồi một hôm khi đang đứng trên ban công ngó ra con sông Volga, anh ấy đột nhiên lên tiếng:
- Em có nghĩ là anh sẽ chết ở đây không ?
Dĩ nhiên là người vợ rất xốc trước câu hỏi ấy, vì chồng chị đang là người đàn ông khoẻ mạnh. Nhưng rồi vài tuần sau, bất ngờ anh ấy từ giã cõi đời vì cơn đau tim.
Có rất nhiều ví dụ như vậy. Các bác sĩ người Mỹ, William Green, Stefan Goldstein và Alex Moss, chuyên nghiên cứu hiện tượng chết, đã tìm hiểu hàng nghìn câu chuyện ẩn đằng sau các bệnh nhân ra đi "bất đắc kỳ tử". Các kết quả cho thấy đa số họ đoán trước được cái chết của mình.
Thật tình "linh cảm" của họ không xảy đến như là lời nói tiên tri, hay sự chuẩn bị đúng lúc cho việc chôn cất, mà từ một trạng thái tâm lý đặc biệt và thường nằm trong ước muốn, sắp xếp các vấn đề đâu vào đấy.
Vấn đề là thời gian ngắn ngủi trước khi cái chết bước đến, nhiều người thường trải qua một trạng thái trầm uất, có thể kéo dài từ một tuần cho đến nửa năm.
Y học cho rằng sự sầu muộn lạ lùng này xảy đến, do những thay đổi hoóc môn trong cơ thể gây ra. Đặc điểm tâm lý của hiện tượng, mà bề ngoài như là sự chán nản vô cớ này, là sự chuẩn bị của hệ thần kinh trung ương, cho sự rời khỏi cõi đời không tránh khỏi.
Nhận định này tương ứng với ý kiến được nhiều nhà nghiên cứu chia sẻ, đó là cái chết đơn thuần chỉ là sự "quá độ" của ý thức, sang một dạng sống khác, một trình độ năng lượng của sự tồn tại.
Tuy vậy tại sao cơ thể cần đến "sự chuẩn bị về tâm lý" này ? Chắc chắn không thể để chuẩn bị cho mọi thứ đâu vào đấy.
Khả năng đoán trước cái chết của con người có thể được giải thích như thế nào ? Cuốn Tử thư Tây Tạng có câu trả lời cho vấn đề này. Theo niềm tin của người phương Đông, con người là một sinh vật có hai thể mạnh và yếu.
Thể mạnh làm nên thể xác con người. Còn thể yếu cấu thành tinh thần, vô hình bao bọc linh hồn. Cái chết chính là sự tách biệt thể yếu khỏi thể mạnh. Thể yếu có vầng hào quang, mà chỉ có những nhà ngoại cảm mới thấy được.
Sự phát xạ từ hào quang này, cho phép nhà ngoại cảm chẩn đoán được tình trạng sức khoẻ của một người, và do đó cũng có thể nhìn thấy trước được cái chết.
Nhưng tại sao con người lại phải trải qua thứ linh tính khủng khiếp đó ? Tự nhiên có sự can thiệp nào không ? Có một giả thiết đáng quan tâm về mặt này.
Từ lâu các nhà khoa học đã biết vấn đề này trong phòng thí nghiệm: Trước khi chết các tế bào của cơ thể đang sống, phát ra một loạt mạnh các tia phóng xạ bất ngờ.
Nhà vật lý học người Ba Lan Janusz Slawinsky cho rằng, luồng sóng khá mạnh này có thể chứa đựng thông tin về sinh mạng của một cơ thể sắp chết, và cũng có thể bảo lưu các mẩu ý thức và ký ức. Có phải đây là mục đích chính, của tín hiệu cuối cùng do các tế bào sắp chết phát ra ?
Tôn giáo thường nói về sự tiếp tục của cuộc sống sau cái chết. Hào quang sẽ biến mất trước khi chết, giống như bất kỳ loại vật chất vũ trụ nào, cũng để lại dấu vết trong không gian trước khi bị phân huỷ. Cùng với một phức hệ năng lượng của người thể yếu, hào quang sẽ mang sang thế giới khác, toàn bộ thông tin về một người chết, nói khác đi là ý thức.
Do đó chỉ có thể là thể xác chết, còn ý thức vẫn tiếp tục tồn tại, như là một đám mây năng lượng. Sự phát ra luồng phóng xạ từ các mô sinh vật vào lúc chết, dường như đem lại cho "thể yếu" cái xốc nảy cuối cùng, gửi linh hồn bất tử của một người vào vũ trụ.
ST
Trong kinh Phật gọi Thiên Nhản là Thiên Nhản Trí Thí Thông, có nghĩa là năng lực của Thiên Nhản là sự biểu hiện của trí huệ, có được năng lực thần thông vạn năng.
Tuy nhiên trong mắt của người tu trì Thiên Nhản là do bẩm sinh mà có, chớ không phải có được nhờ sự tu hành.
Thiên Nhản Thông chỉ có những vị Thần Tiên trong chuyện thần thoại mới có được, thật ra khả năng có Thiên Nhản chỉ là một hư cấu trong trí tưởng tượng của con người mà thôi, bởi vì xưa nay không có một người nào có được thiên nhản và thấy được thiên nhản là như thế nào?
Âm Dương Nhản, tức cặp mắt âm dương thì có nhiều người bẩm sanh đả có được hoặc, người ta đả thấy được và nghe được, nhiều người đả có được âm dương nhản.
Những người có được âm dương nhản, có thể thấy được ảnh vô hình của linh giới như quỷ thần, hoặc họ có thể tiên liệu sự việc có thể sẻ xảy ra trong tương lai, họ còn có thể xem trong mình người khác đả có bệnh gì xảy ra.
Nhưng sự thủ đắc cặp mắt âm dương được hình thành, thông thường nhờ thông qua sự tìm thầy học đạo, tập luyện thần thông, hoặc có người sau một thời gian tập luyện khí công, và không biết làm sao mà tự nhiên, đả làm khơi hoạt được cặp mắt âm dương nhản này.
Có người sau một cơn trọng bệnh, hoặc bị thương tích nào đó, thì liền có được cặp mắt âm dương, có người thì đả có từ nhỏ, có người thì tự nhiên trong một lúc bần thần xáo trộn nào đó, tự nhiên có được cặp mắt âm dương.
Những người khi thủ đắc được âm dương nhản , mặc dù là có thị lực hơn người thường, nhưng bản thân họ cũng không thể giải thích được hiện tượng này?
Do đó hiện nay có rất nhiều người khai mở được âm dương nhản, có thể xem thấy được những linh thể vô hình.. nên đả tự xưng là có được thiên nhản thông, và mở lớp thu nhập học viên để giảng dạy cách khai mở thiên nhản này.
Theo sự nhìn nhận của đại đa số, thì thật ra không thể phân biệt được sự khác nhau giửa thiên nhản và âm dương nhản là như thế nào?
Bởi vì những người đả có được âm dương nhản, tự thân cũng không biết là thiên nhản hay là âm dương nhản, nên đả có người tự nhận rằng mình có thiên nhản, và âm dương nhản và thiên nhản là giống nhau.
Trên thực tế, thiên nhản và âm dương nhản có nhiều chổ khác nhau:
Tùy theo năng lực khác nhau, tổng quát có năm loại mắt là: Thứ nhất là mắt thường.
Nhục nhản nhìn thấy được các vật hữu hình.
Âm dương nhản là mắt thứ hai.
Thiên nhản là mắt thứ ba.
Pháp nhản là mắt thứ tư.
Phật nhản là mắt thứ năm.
Trừ những người bị mù còn cặp mắt thịt thì mọi người sanh ra đả có, còn lại các loại mắt khác thì cần phải thông qua sự tu trì bí pháp đặc biệt, thì mới có thể sở đắc được.
Từ xưa đến nay chỉ có Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, Phật Thích Ca Như Lai và Đức Chúa Jesus mới có được những loại mắt này.
Ở đây chúng ta chỉ nói đến sự khác biệt giữa âm dương nhản và thiên nhản mà thôi.
1. Âm Dương Nhản: Là do sự tu trì bí pháp linh giới mà thụ đắc, có người do sự tu hành trong tôn giáo mà có được, có người do thần linh nhập thể mà có được, có người do một phút boàng hoàng hốt hoảng nào đó cũng có được mắt âm dương.
Có một số người khi có được âm dương nhản thì rất mừng vui, vì có thể nhìn thấy được linh khí, linh thể hoặc thấy được những việc có thể xảy ra trong tương lai hoặc xem bệnh..
Nhưng có một số người khi có được cặp mắt âm dương, nhưng trí huệ và kiến thức về cỏi linh giới hay tâm linh không có nhiều, nên cảm thấy sự có được cặp mắt âm dương mang đến sự phiền phức và khổ nảo cho họ.
Nhiều khi những cái họ muốn nhìn thấy thì không thể nhìn thấy, còn những cái họ không muốn nhìn thấy thì lại bổng nhiên hiện ra trước mắt, có khi họ nhìn thấy những hình ảnh kinh dị của linh khí hoặc linh thể, làm họ hoảng hốt và những hiện tượng này xảy ra tùy thời gian và nơi chốn khác nhau không nhất định, nên cặp mắt âm dương nầy đả làm xáo trộn cuộc sống hằng ngày của họ.
Nên những người này cần phải biết rằng, dù thấy hay không thấy, kinh dị ghê sợ hay đẹp đẻ thì cũng đừng chú ý đến chúng, vì chúng dù sao cũng là hình ảnh mà thôi, nếu ta không chú ý đến chúng nó và không sợ nó thì ta không bị nó ảnh hưởng.
Chúng ta chỉ bị hại nếu chúng ta tin nó là thật, rồi sinh ra tâm loạn động, rồi từ đó sanh ra tâm trí bất thường thì dể đi đến điên loạn, còn nếu chúng ta thấy sự vật quái dị, nhưng tâm ta xem là bình thường, ta làm việc của ta nó làm việc của nó, đường ai nấy đi thì mọi việc sẻ an toàn tự nhiên.
Nếu có, ta chỉ thu nhận những hình ảnh hay thông tin nào, có chất lượng xây dựng và hiền lành, giúp thân tâm ta và mọi người được an lạc thịnh vượng, khõe mạnh và hạnh phúc, thì ta có thể tham khảo mà thực hành và tin theo mà thôi.
Do đó, ngoại trừ những người mở được cặp mắt âm dương nhờ sự chỉ dẩn của minh sư, qua sự chuyên tu để mở âm dương nhản, thì họ có thể sử dụng một cách tùy ý thích.
Còn đại đa số những trường hợp khác, do sự bột phát tự nhiên hay do thương tật, tai nạn, bệnh tật mà làm khai phát cặp mắt âm dương, thì họ không biết cách sử dụng khả năng này một cách tùy ý thích, và thường không có sự chuẩn bị tâm lý cho việc sử dụng khả nầy này, nên thường bị hoảng sợ khi thấy được những cảnh của cỏi linh giới.
Nên có một số người cảm thấy không thích, khi họ bổng nhiên có được khả năng này, nhưng không biết làm sao cho nó mất đi, để có được cuộc sống an lạc khi xưa.
Chỉ còn một cách là học hỏi và tìm hiểu thêm, những kiến thức về âm dương nhản, thiên nhản hay những kiến thức về tâm linh, nay đả có rất nhiều ở sách vở và trên các mạng lưới internet tâm linh, mổi ngày đều cập nhật hóa và phong phú hơn.
2. Còn cách thức hai là dù có nhìn thấy hay không thấy những hình ảnh hay cảnh vật kinh dị, ghê sợ hay đẹp đẻ thì ta cũng đừng chú ý đến chúng, vì chúng dù sao cũng là hình ảnh hay chỉ là ảo ảnh mà thôi, nếu ta không chú ý đến chúng nó và không sợ nó thì ta không bị nó ảnh hưởng.
THẤY QUÁI DỊ MÀ KHÔNG CHO LÀ QUÁI DỊ, THÌ SỰ QUÁI DỊ ĐÓ SẺ TỰ TAN BIẾN.
Chúng ta chỉ bị hại nếu chúng ta tin nó là thật, rồi sinh ra tâm loạn động, rồi từ đó sanh ra tâm trí bất thường thì dể đi đến xáo trộn sinh hoạt thường ngày.
Còn nếu chúng ta thấy sự vật quái dị, nhưng tâm ta xem là bình thường, ta làm việc của ta, nó làm việc của nó, đường ai nấy đi, thì mọi việc sẻ an toàn tự nhiên.
Nếu có, ta chỉ thu nhận chọn lọc những hình ảnh hay thông tin nào, có chất lượng xây dựng và hiền lành giúp thân tâm ta và mọi người được an lạc thịnh vượng, khõe mạnh và hạnh phúc thì ta có thể tham khảo mà thực hành và tin theo mà thôi .
Còn những thông tin mà không phù hợp đạo đức luân thường của con người, thì không nên tin và làm theo, nếu không thì sẻ bị quả báo nhản tiền cho thân tâm ngay trong kiếp nà̀y.
Nên cần cẩn thận mà sớm tránh xa nó, để thân tâm luôn được an lạc và hưởng được những quả lành, của sự thủ đắc khả năng của cặp mắt âm dương này.
ÁNH SÁNG T2
BÍ ẨN TRONG PHÚT HẤP HỐI
Con người đã và đang tìm kiếm các dấu hiệu tin cậy về cái chết để tránh xảy ra những trường hợp đáng tiếc. Bên cạnh đó, các nhà khoa học thực sự lúng túng khi một số người đã kể lại cái chết cho biết những gì mà họ cảm nhận được trong thời gian hoàn toàn bất tỉnh hoặc mất hết hy vọng được cứu sống.
Vào năm 1957, tại một sân bay nhỏ của Anh đã xảy ra tai nạn khi máy bay hạ cánh. Một bác sĩ ngồi ghế phía sau bị văng khỏi máy bay, ngất đi và không có dấu hiệu sống. Từ nơi mà ông ngã gục không thể nào nhìn được quang cảnh xung quanh, nhưng thật lạ lùng là người đó thấy rõ tất cả những gì xảy ra ở sân bay.
Nạn nhân thấy thân thể của ông ta nằm bất động ở phía dưới mình khoảng 60m, thấy cả người hoa tiêu và phi công dính máu đang chạy về phía mình. Việc những người đó biểu lộ sự chú ý đối với thân thể của ông đã làm bác sĩ ngạc nhiên và bực tức. Ông muốn được yên tĩnh.
Sau đó, nạn nhân thấy một ôtô cứu thương từ nhà để xe đi ra và một bác sĩ nhảy vào. Xe chở nạn nhân dừng lại một trạm xá và lấy theo một thiết bị. Tiếp đó, nạn nhân theo dõi thấy xe chạy với vận tốc lớn, mang "thi thể" của ông tới bệnh viện thành phố. Thân thể nạn nhân được đặt lên một cái bàn trắng, mọi người cúi xuống làm việc.
Ông ta cảm thấy mùi khó chịu của clorua amonium. Vào đúng thời điểm đó, ý thức rõ ràng và bình thản của nạn nhân đột nhiên mờ hẳn và lại quay vào "trong" thân thể bị thương, kèm theo cảm giác đau đớn. Sau này do tò mò, người đó đã phục hồi tỉ mỉ các sự việc ấy và những điều mô tả hoàn toàn khớp với thực tế.
Vào năm 1892, một nhà địa chất người Thụy Sĩ tên là Enbơ Hem bị trượt ngã xuống vực sâu, nhưng may mắn thoát chết. Quan tâm đến những cảm nhận của mình trong khoảnh khoắc hoàn toàn thất vọng, nhà địa chất đã thu thập được 32 trường hợp tương tự. Ông nhận thấy rằng, tất cả các "đồng sự" của mình đều trải qua một cái gì đó giống nhau ở ngưỡng cửa của cái chết khó tránh khỏi. Những quan sát đó của E. Hem đã được bổ sung đáng kể, đặc biệt là vào những năm gần đây, khi công việc hồi sinh đã có nhiều kết quả.
Khi rơi từ độ cao lớn, ở thời điểm đầu tiên, con người trải qua sự sợ hãi mạnh mẽ, tìm kiếm một cách vô vọng các khả năng cứu thoát. Giai đoạn thứ hai xuất hiện sự nhận thức đầy đủ về cái chết không tránh khỏi và các ý định thoát thân đã rời khỏi não bộ. Cái chết không còn làm kinh hoàng và phiền muộn, nhưng những điều vụn vặt ngớ ngẩn lại làm lo lắng: xót xa vì rách bộ quần áo đang mặc, vỡ vụn cặp kính đang đeo hoặc hỏng mất cái máy ảnh...
Nếu thời gian rơi đủ dài thì sẽ xuất hiện giai đoạn thứ ba, hồi tưởng quá khứ. Các thời điểm quan trọng nhất của cuộc đời hiện ra thành các mảng hình ảnh, giống như quan sát chúng từ tầng trên của rạp hát. Tuy nhiên, những hình ảnh ấy mãnh liệt đến mức nào còn tuỳ thuộc vào đặc điểm cá nhân của mỗi con người.
Vào năm 1972, một người trượt tuyết 19 tuổi bị ngã từ độ cao hàng ngàn mét và thoát chết với cái mũi dập nát. Nạn nhân kể lại: "Khi bắt đầu rơi, tôi gào thét thảm thiết, nhưng sau đó, tôi hiểu rằng tôi đã chết. Cả cuộc đời hiện ra trước mắt tôi như một ánh chớp. Tôi thấy khuôn mặt mẹ tôi, thấy ngôi nhà mà trong đó tôi sống, thấy các bạn bè ...".
Còn Hem lại mô tả bức tranh quá khứ như sau: "Tôi thấy mình là đứa bé bảy tuổi đi đến trường học, rồi thấy mình hồi lớp bốn cùng với thầy giáo yêu quý".
Các cảm xúc hồi tưởng quá khứ kéo dài không lâu và chuyển qua một trạng thái thần bí. Khi một người rơi xuống vực thẳm thì người đó hiểu được rằng, thân thể của mình sẽ va vào đá và bị hủy hoại, xương sẽ gãy vụn và dập nát. Nhưng sự hồi tưởng về bản thân hoàn toàn không liên quan tới cơ thể nữa. Bắt đầu từ một thời điểm nào đó, nạn nhân không hề lưu tâm đến "thân xác" của mình.
Sự cảm nhận của nạn nhân bị xâm chiếm bởi các ý nghĩ tuyệt đẹp và xen lẫn những nốt nhạc du dương. Một trạng thái tinh thần thanh thản, nạn nhân bay qua các bầu trời mày hồng và màu lam lộng lẫy, ở trạng thái siêu việt đó, nạn nhân cảm thấy dễ chịu đến nỗi nảy sinh sự phản kháng rõ rệt chống lại những cố gắng đưa cơ thể về với sự sống.
Tuy nhiên, đôi khi con người cũng có thể rơi vào trạng thái đặc biệt do quá sợ hãi. Trường hợp như vậy đã xảy ra với nhà du lịch nổi tiếng Đevit Lêvingxtơn tại một vùng rừng Phi Châu. Một con sư tử nhảy đến sau lưng ông và bắt đầu cắn xé. Nạn nhân ngã sấp, cảm thấy rơi vào trạng thái thiêm thiếp, không hề thấy đau và hoảng hốt. Nạn nhân không thể và không muốn cử động, phản kháng. Con sư tử chấm dứt hành hạ cơ thể nạn nhân và ngồi cạnh ông. Khi đó sức lực của nhà du lịch đột nhiên trở lại. Ông bật dậy và phóng chạy thoát thân.
Trong những năm gần đây, các cảm nhận của những người chết lâm sàng đã được phân tích tỉ mỉ trong cuốn sách của R.Mouđi: Cuộc sống sau cái chết. Những người như vậy trải qua một cái gì đó giống nhau, mặc dù độ rõ nét có thể khác nhau. Họ rời bỏ "thân xác" và dễ dàng bay bổng lên không trung, quan sát hành vi của mọi người khác từ phía trên. Sau đó một quầng sáng xuất hiện, giúp họ nhớ lại các sự cố của cuộc đời. Quầng sáng có thể thúc giục họ trở lại với "thân xác" vì còn chưa tới lúc "chuyển tiếp"...
Một câu hỏi hay được đặt ra là làm thế nào để phân biệt một người bất tỉnh nhân sự với một người vừa mới chết?
Lịch sử y học đã chứng kiến nhiều trường hợp mà trong đó các bác sĩ giàu kinh nghiệm nhất cũng mắc phải sai lầm. Vào thế kỷ XI, Anđrei Vazali bị kết án tử hình vì đã giải phẫu thân thể một nhà quý tộc Tây Ban Nha. Người này đã tỉnh lại trên bàn mổ và bình phục trở lại. Tuy thế, bản án đối với AVazali vẫn được thi hành. Một điều trùng hợp kỳ lạ là chính viên quan toà đã dựng lên án đó, chẳng bao lâu cũng hồi tỉnh trên bàn mổ tử thi, nhưng sau đó ông ta không qua khỏi.
Vào năm 1964, tại một trong các nhà xác ở New York có một "tử thi" sống lại, đã nắm chặt lấy cổ và tay nhà phẫu thuật bệnh lý khi ông ta vừa thao tác dao mổ. Một nhà thơ tên là Patrarka đã hồi tỉnh trước khi đưa đi mai táng 4 giờ và còn sống thêm được 30 năm nữa.
Một người phục vụ ở Vatican được coi là đã chết do bệnh hen. Trong số các bác sĩ làm nhiệm vụ có một người rất cẩn thận, đã đưa ngọn nến đến gần mắt người chết. "Tử thi" co giật mạnh và sau đó còn sống được khá lâu, với một cái sẹo trên mũi do bỏng.
Vào đầu thế kỷ XX, một hội đồng các bác sĩ có uy tín của Anh đã tiến hành nghiên cứu và kết luận rằng, mỗi năm ở nước này có khoảng 2.500 người bị chôn sống.
Có thể điều vừa nêu bị phóng đại, nhưng quả thật có không ít trường hợp những người còn sống đã bị chôn vùi. Chính tại Anh và cuối những năm 60, đã xuất hiện một thiết bị đầu tiên cho phép ghi nhận được hoạt tính điện rất nhỏ của tim. Trong lần thử đầu tiên tại một nhà xác, người ta đã phát hiện được một cô gái còn sống nằm giữa các tử thi.
Những điều nêu trên cho thấy rằng, giữa sự sống và cái chết không có một ranh giới rõ ràng như đôi khi chúng ta vẫn tưởng. Sự ngưng thở được coi là dấu hiệu đầu tiên của cái chết. Nhưng ngay từ thế kỷ trước, quan niệm đó đã bị phủ nhận hoàn toàn.
Một số nhà Yoga có thể tự ngừng thở mà sau đó vẫn sống khoẻ mạnh. Dấu hiệu khác của cái chết là sự mất mạch và sự ngừng hoạt động của tim. Tuy nhiên, điều đó không phải bao giờ cùng đúng. Các nhà Yoga có thể điều khiển nhịp đập của tim sao cho các dụng cụ đo chính xác cũng chỉ báo là tim hoàn toàn ngừng đập.
Số đo thân nhiệt cũng không thể là dấu hiệu đầy đủ của cái chết. Đã có những trường hợp người đứng tuổi sống qua ngày ở một khu nhà lạnh lẽo, nhiệt độ thân thể hạ xuống khoảng 24ºC mà họ vẫn không chết.
Một cậu bé ở Thụy Điển được tìm thấy dưới lớp tuyết với nhiệt độ thân thể 18ºC, nhưng đã bình phục mà không có những biến chứng đáng kể. Một số chứng bệnh (như tả, đậu mùa, uốn váng) có thể làm cho thân thể tăng nhiệt độ sau khi chết.
Sự thay đổi ở nhãn cầu hay sự cứng đờ của thân thể cũng không phải là dấu hiệu tin cậy của cái chết. Hơn nữa, một số cơ quan tiếp tục hoạt động sau thời điểm chết lâm sàng. Cái chết tiến đến không tức thời. Đó là một dạng tồn tại đặc biệt, một sự tiến hoá dần dần với một xác suất thuận nghịch nhất định. Tử thi không có trường sinh học và cái đó cũng không thể là dấu hiệu của cái chết, bởi vì trường sinh học ở một số người sống cũng có thể tạm thời biến mất. Tử thì có thể lưu giữ một hoạt tính điện nào đó cho đến ngày thứ 39, khi mà xung não đáng kể cuối cùng được ghi nhận.
Tuy vậy, việc hồi sinh được phép tiến hành sau khi nạn nhân bị chết lâm sàng chỉ mấy phút. Bởi vì nếu để lâu quá thì trong một số trường hợp, những người được cứu sống sẽ tiếp tục tồn tại mà không có tri giác, giống như những con búp bê sống. Giới hạn thời gian hồi sinh phụ thuộc vào các khả năng của nền y học hiện đại.
Tất cả những điều nêu trên có tác dụng lưu ý chúng ta hãy thận trọng khi xem xét các quá trình xảy ra với con người trên ranh giới giữa sự sống và cái chết.
ST
CON NGƯỜI CÓ THỂ LINH CẢM TRƯỚC CÁI CHẾT
Một chiều vợ Grigority Doroni, mới hai mươi tuổi bất chợt nói:
- Em mệt quá, chắc là em sắp rời bỏ thế gian này. Ngày hôm sau cô ấy bị tai nạn ô tô và chết. Một số người có thể nhìn thấy cái chết của mình đang đến gần ? Liệu việc tiên đoán hay linh cảm về cái chết là sự thật ?
Không ai biết trước được khi nào mình sẽ tới số, và cái gì sẽ khiến cho mình phải vĩnh biệt thế gian, mà bước vào một thế giới vô cùng xa lạ nào đó. Tuy nhiên một số người có thể thấy được, cái chết của bản thân mình đang đến gần. Trực giác kỳ lạ là cái giúp cho con người, có thể giải thích bí ẩn không thể hiểu thấu này.
Inna P kể lại:
Một mùa hè vợ chồng chị về quê. Rồi một hôm khi đang đứng trên ban công ngó ra con sông Volga, anh ấy đột nhiên lên tiếng:
- Em có nghĩ là anh sẽ chết ở đây không ?
Dĩ nhiên là người vợ rất xốc trước câu hỏi ấy, vì chồng chị đang là người đàn ông khoẻ mạnh. Nhưng rồi vài tuần sau, bất ngờ anh ấy từ giã cõi đời vì cơn đau tim.
Có rất nhiều ví dụ như vậy. Các bác sĩ người Mỹ, William Green, Stefan Goldstein và Alex Moss, chuyên nghiên cứu hiện tượng chết, đã tìm hiểu hàng nghìn câu chuyện ẩn đằng sau các bệnh nhân ra đi "bất đắc kỳ tử". Các kết quả cho thấy đa số họ đoán trước được cái chết của mình.
Thật tình "linh cảm" của họ không xảy đến như là lời nói tiên tri, hay sự chuẩn bị đúng lúc cho việc chôn cất, mà từ một trạng thái tâm lý đặc biệt và thường nằm trong ước muốn, sắp xếp các vấn đề đâu vào đấy.
Vấn đề là thời gian ngắn ngủi trước khi cái chết bước đến, nhiều người thường trải qua một trạng thái trầm uất, có thể kéo dài từ một tuần cho đến nửa năm.
Y học cho rằng sự sầu muộn lạ lùng này xảy đến, do những thay đổi hoóc môn trong cơ thể gây ra. Đặc điểm tâm lý của hiện tượng, mà bề ngoài như là sự chán nản vô cớ này, là sự chuẩn bị của hệ thần kinh trung ương, cho sự rời khỏi cõi đời không tránh khỏi.
Nhận định này tương ứng với ý kiến được nhiều nhà nghiên cứu chia sẻ, đó là cái chết đơn thuần chỉ là sự "quá độ" của ý thức, sang một dạng sống khác, một trình độ năng lượng của sự tồn tại.
Tuy vậy tại sao cơ thể cần đến "sự chuẩn bị về tâm lý" này ? Chắc chắn không thể để chuẩn bị cho mọi thứ đâu vào đấy.
Khả năng đoán trước cái chết của con người có thể được giải thích như thế nào ? Cuốn Tử thư Tây Tạng có câu trả lời cho vấn đề này. Theo niềm tin của người phương Đông, con người là một sinh vật có hai thể mạnh và yếu.
Thể mạnh làm nên thể xác con người. Còn thể yếu cấu thành tinh thần, vô hình bao bọc linh hồn. Cái chết chính là sự tách biệt thể yếu khỏi thể mạnh. Thể yếu có vầng hào quang, mà chỉ có những nhà ngoại cảm mới thấy được.
Sự phát xạ từ hào quang này, cho phép nhà ngoại cảm chẩn đoán được tình trạng sức khoẻ của một người, và do đó cũng có thể nhìn thấy trước được cái chết.
Nhưng tại sao con người lại phải trải qua thứ linh tính khủng khiếp đó ? Tự nhiên có sự can thiệp nào không ? Có một giả thiết đáng quan tâm về mặt này.
Từ lâu các nhà khoa học đã biết vấn đề này trong phòng thí nghiệm: Trước khi chết các tế bào của cơ thể đang sống, phát ra một loạt mạnh các tia phóng xạ bất ngờ.
Nhà vật lý học người Ba Lan Janusz Slawinsky cho rằng, luồng sóng khá mạnh này có thể chứa đựng thông tin về sinh mạng của một cơ thể sắp chết, và cũng có thể bảo lưu các mẩu ý thức và ký ức. Có phải đây là mục đích chính, của tín hiệu cuối cùng do các tế bào sắp chết phát ra ?
Tôn giáo thường nói về sự tiếp tục của cuộc sống sau cái chết. Hào quang sẽ biến mất trước khi chết, giống như bất kỳ loại vật chất vũ trụ nào, cũng để lại dấu vết trong không gian trước khi bị phân huỷ. Cùng với một phức hệ năng lượng của người thể yếu, hào quang sẽ mang sang thế giới khác, toàn bộ thông tin về một người chết, nói khác đi là ý thức.
Do đó chỉ có thể là thể xác chết, còn ý thức vẫn tiếp tục tồn tại, như là một đám mây năng lượng. Sự phát ra luồng phóng xạ từ các mô sinh vật vào lúc chết, dường như đem lại cho "thể yếu" cái xốc nảy cuối cùng, gửi linh hồn bất tử của một người vào vũ trụ.
ST
#100
Gửi vào 19/06/2011 - 09:53
LÁI XE VỀ QUÁ KHỨ
Khi nhắc đến vấn đề đi vào quá khứ, người ta không thể quên những chuyện lạ có thật do Hans Holzer, một nhà nghiên cứu về các hiện tượng siêu tâm lý kể lại như sau:
Năm 1964, một người đàn ông tên là Robert Cory, một con người khá nổi tiếng trong làng văn học nghệ thuật tại Hoa Kỳ, đã lái xe trên đường đến Los Angeles. Hôm đó trời quang đãng. Vì đường xa nên khi đến địa phận Oregon thì trời vừa tối, nhưng ông Cory vẫn tiếp tục cuộc hành trình.
Bỗng nhiên một trận bão tuyết nổi lên lại gặp lúc xe ông đang trên dốc núi. Ông buộc lòng phải ngưng xe lại để quan sát tình hình vì tuyết đổ liên tục và đường lại cheo leo.
Ông vừa xuống xe thì thấy từ xa có ánh sáng chiếu như có đèn ai đang mở dò đường. Ông Cory liền cho xe chạy đến đó xem thử. Tại đây chẳng có ai. Mọi vật hoàn toàn yên lặng. Chỉ có bảng chỉ đường sáng lóa như được chiếu sáng bởi một nguồn sáng nào từ đám mây.
Theo bảng chỉ đường, ông Cory cho xe chạy xuống núi và cuối cùng ông thấy trước mặt, một vùng có nhà cửa mà đường sá thì có vẻ cũ kỹ, đầy ổ gà trồi sụp. Ông dừng xe lại trước một ngôi nhà bằng gỗ rộng lớn mà ông nghĩ đó là khách sạn. Ông Cory quyết định nghỉ tại đây vì trời còn xấu.
Ông bước vào ngôi nhà lớn ấy. Dọc hành lang ngôi nhà lớn ấy được trang hoàng bằng những chiếc đầu các loại thú. Có những tấm bảng gỗ tróc sơn nứt nẻ có ghi các năm 1800.
Ðiều kỳ dị ngôi nhà vắng vẻ lạ lùng không một bóng người. Ông định trở ra nhưng lại thấy có lửa cháy bập bùng ở lò sưởi phòng khách lớn, nên lại đẩy cửa bước vào. Trời lạnh như cắt nên ông phải cần được sưởi ấm. Ông đến bên lò sưởi và ngồi lên chiếc ghế dài.
Cạnh đó ông thấy cái bàn nhỏ, trên bàn đặt cái điện thoại mà nhìn kỹ, thì đây là loại điện thoại quá xưa cũ, mà hầu hết các cơ sở làm ăn khắp nước Mỹ chẳng bao giờ tìm thấy có, đó là loại điện thoại phải quay số rườm rà trước khi gọi.
Tuy nhiên ông Cory cũng phải dùng đến cái điện thoại này để gọi về nhà báo tin cho người thân. Nhưng cái máy hình như không còn hoạt động nữa. Ông Cory cảm thấy mõi mệt và buồn ngủ. Bỗng nhiên cái vắng vẻ yên lặng ấy ông bỗng nghe có tiếng động, tiếng động rất nhẹ và ông thấy một ông già đang từ tầng lầu trên đi xuống.
Ông Cory tưởng đó là người quản thủ khách sạn. Nhưng khi nhìn kỹ lại, ông cụ giống một người nông dân ở vùng quê xa xôi nào đó, vì nhìn lối ăn mặc và cử chỉ thấy ông ta thật vụng về thô lỗ cục mịch vô cùng. Ông cụ lầm lì đi đến bên lò sưởi và coi sự xuất hiện của ông Cory là tự nhiên. Có lẽ vì đây là một khách sạn. Thế rồi ông Cory ngủ thiếp đi trên cái ghế dài.
Sáng hôm sau, ánh nắng xuyên qua cửa kính chiếu vào mắt khiến ông Cory chợt tỉnh. Ông thấy có nhiều người xuất hiện trong khách sạn, mà phần lớn là những người già. Nhiều người nhìn ông nhưng có vẻ lơ đảng không quan tâm. Ông Cory đã đến bên những người ấy để hỏi về ngôi làng xa lạ này, và luôn tiện hỏi thăm có trạm xăng nào ở gần đây không?
Ông mơ màng như thấy ít người đáp lời, và nếu có thì những lời nói của họ không có mạch lạc, hoặc chẳng có ăn nhập gì với câu hỏi mà ông đã nêu ra cả.
Ông Cory cảm thấy hoang mang trong lòng. Cái cảm giác trống vắng, lẻ loi, lạ lùng bỗng đến với ông thật nhanh theo dòng linh cảm. Ông hỏi: Ðây là đâu xin các ông vui lòng cho biết ? Hiện tôi đang ở đâu đây ? Có vài người bước tới nhìn ông và hình như có người cầm tay ông, ân cần vỗ về và chỉ đường cho ông rồi sau cùng nói: Ông đừng sợ! Chẳng có gì phải sợ cả.
Ông Cory chợt nhớ đến chiếc xe, ông chạy ra khỏi khách sạn. Chiếc xe ông vẫn còn đó. Ông mở cửa xe và nổ máy chiếc xe chuyển động và ông Cory vội vã như muốn thoát khỏi một nơi thâm trầm kỳ bí chưa từng thấy này.
Chiếc xe băng qua những con đường gập ghềnh. Ông Cory thấy một vài người lầm lũi bước đi hai bên đường. Những người này ăn mặc những áo quần mà hình như chỉ thấy đâu đó trong sách vở, tự điển. Ông Cory có cảm tưởng như đó là những kiểu áo quần ở thời đại xa xưa nào đó. Ðiều kỳ dị hơn nữa là trong khi lái xe ra khỏi vùng này, ông có cảm giác như xe đang di chuyển trong lớp sương mờ.
Về sau, câu chuyện có thật mà ông Cory đã trải qua được nhiều nhóm nghiên cứu về những vấn đề không thể giải thích ghi nhận. Người ta không loại bỏ việc xác định lại vùng hoang dã, nơi ông Cory lái xe đến đó và vùng dân cư cùng ngôi nhà lớn mà ông đã bước vào như qua một đêm.
Tài liệu lưu trữ tại thư viện lớn ở đây cho biết xưa kia đây là vùng thưa dân, nhưng có ngôi nhà Bưu Ðiện Quốc gia lớn tên là US Post Office National, Indiana. Ðó là khoảng những năm 1850, 1851.. Rồi tám mươi năm sau đó, nghĩa là vào năm 1930 thì nơi đây biến thành bệnh viện lớn dành cho các cựu chiến binh.
Vậy rõ ràng ông Cory đã tình cờ đi ngược dòng thời gian và vào quá vãng cách thời đại ông đến hơn cả trăm năm.
Một hiện tượng tương tự cũng không kém lạ lùng đã xảy ra, khi hai nhà leo núi kỳ cựu là Donald Watt và George Bruce trong chuyến leo núi tháng năm năm 1987, cả hai đều thấy rõ ràng có một ngôi nhà hai tầng nằm bên bờ hồ Mullardoch gần Cannich xứ Scotland rất nên thơ.
Nhà có vách xây bằng đá Hoa Cương (Granite) và trông khá bề thế đầy tiện nghi. Trước đó hai người này đã nghiên cứu kỹ qua bản đồ chi tiết của vùng mà họ sẽ đến, và không có dấu vết gì ghi chú về căn nhà nói trên.
Khi cả hai thấy ngôi nhà đó họ vô cùng ngạc nhiên, và tưởng như là một chuyện kỳ khôi vì không thể nào có ngôi nhà xuất hiện, ở một nơi hoang vu lạ lùng như thế được. Tuy nhiên sự kiện xảy ra sau đó càng làm họ ngạc nhiên nữa, khi cả hai sau một hồi leo núi quay lại nhìn thì không thấy ngôi nhà ấy đâu nữa.
Khi trở xuống, họ đi vòng khắp hồ nhưng ngôi nhà đã hoàn toàn biến mất. Cả hai nhà leo núi ghi lại những gì mình thấy vào nhật ký. Sau đó, các tài liệu tra cứu có liên hệ về vùng này được các nhà sưu tập nghiên cứu phân tích, và kết quả người ta được biết rằng khoảng những năm 1950, ở đây có một số nhà cửa được dựng lên, trong đó có một cơ sở nghiên cứu của nhà nước.
Rồi vì một vụ ngập nước làm ngôi nhà bị chôn vùi xuống đáy hồ. Khi hai nhà leo núi trông thấy lại ngôi nhà, thì rõ ràng ngôi nhà ấy là hình ảnh của quá khứ, một hình ảnh mà trước đó khoảng ba mươi năm năm nó là sự thật. Như vậy hai nhà leo núi George Bruce và Donald Watt đã thấy được hình ảnh của quá khứ...
Tâm Linh
GƯƠNG LÕM DIỆU KỲ
Năm 212 trước Công nguyên, đoàn thuyền La Mã đang vây thành Syracuse (thuộc Hy Lạp), bỗng trên mặt thành xuất hiện vô số tấm gương phản chiếu ánh nắng mặt trời, khiến đoàn thuyền bốc cháy. Nhà bác học Hy Lạp Archimet đã lợi dụng hiệu ứng gương lõm để tập trung ánh sáng vào một điểm, thiêu cháy kẻ địch.
Người xưa từng sử dụng gương lõm vào nhiều mục đích khác nhau, chủ yếu là trong các trò pháp thuật. Gương lõm vốn tạo được một thế ánh sáng không hắt bóng ở tiêu điểm của mình. Các thầy phù thủy và các nhà pháp thuật cho rằng chính ở tiêu điểm của gương lõm tập trung một nguồn năng lượng sinh học vô hình, và nếu mắt ai lọt được vào đúng tiêu điểm ấy thì người đó sẽ có khả năng thấu thị.
Ở nhiều dân tộc có tục gọi hồn người đã khuất bằng chén hoặc chậu đồng lòng cong, mặt trong nhẵn bóng như gương, thực chất cũng là một dạng gương lõm. Năm 1950, trong một hang sâu ở Epire thuộc miền tây Hy Lạp, nhà khảo cổ Sotir Dakar tìm thấy một chiếc nồi đồng rất lớn, mặt trong nhẵn bóng, có niên đại khoảng 3.000 năm.
Điều kỳ lạ là hễ đưa mắt đến sát mặt phẳng miệng nồi nhìn vào trong, người ta có thể thấy những hình ảnh huyền ảo rất lạ lùng, kỳ bí, đặc biệt là mỗi người lại nhìn thấy một hình ảnh khác nhau và cùng một người nhưng nhìn ở hai thời điểm khác nhau thì hình ảnh nhìn thấy cũng khác nhau.
Đó là những hình ảnh quang cảnh hoặc người, thú vật nhưng ở thời kỳ thời rất xa xưa. Tính toán theo độ cong của đáy nồi, người ta xác định được tiêu điểm của mặt cong này nằm đúng tâm của mặt phẳng miệng nồi. Đáng tiếc là chẳng bao lâu sau, chiếc nồi này bị đánh cắp từ kho của một viện bảo tàng ở Hy Lạp và từ đó đến nay không ai biết gì về số phận của nó.
Ở một số dân tộc, các nhà tiên tri lại sử dụng gương lõm để đoán hậu vận. Các pháp sư Ấn Độ thường dùng gương lõm mặt trong tráng vàng, nhưng cũng có người lại ưa dùng loại gương làm bằng sắt ròng. Sắt nguyên chất, tinh khiết đến 99,999% không bao giờ bị sét rỉ, khi được đánh kỹ thì cho độ bóng tuyệt hảo và gương sắt được gọi là "gương của hoàng đế Solomon", được đánh giá rất cao trong giới pháp sư chuyên phán hậu vậu cho mọi người. Bình nguyên Naska với hàng triệu đường hào thẳng tắp, nhằng nhịt. Cũng có những loại gương lõm của người xưa mà công dụng của chúng cho tới nay vẫn còn là điều bí ẩn.
Chẳng hạn những chiếc gương được tìm thấy rất nhiều ở gần khu vườn hình học Naska ở Peru. Những chiếc gương này có đường kính khoảng nửa mét, hơi cong, được làm bằng hợp kim vàng, bạc và đồng, mặt trong được đánh rất nhẵn. Vì mặt gương chỉ hơi lõm nên gương có tiêu cự đến vài kilomét.
Do mặt gương rất bóng nên sức phản chiếu rất mạnh: ánh nắng mặt trời hắt ra từ gương có thể nhìn thấy rõ ở tiêu điểm, dù nơi đó cách mặt gương hàng cây số. Người ta không hiểu thổ dân da đỏ Inka cổ xưa dùng những tấm gương này làm gì. Căn cứ vào khả năng chiếu xa của chúng, có thể đoán họ dùng chúng như một công cụ truyền tín hiệu. Cũng có thể đó là một công cụ xác lập đường thẳng (tại bình nguyên Naska có hàng triệu đường hào cắt nhau nhằng nhịt, mỗi đường hào dài hàng chục đến hàng trăm kilomét nhưng đều thẳng tuyệt đối).
Không ít phát minh khoa học ra đời từ gương lõm. Nhà bác học người Anh Roger Bacon (1214-1294) từng sở hữu những tấm gương lõm "bách khoa". Người đương thời coi ông là "nhà phù thuỷ vĩ đại", song theo cách hiểu ngày nay, ông là một nhà thực nghiệm cần mẫn, suốt đời khám phá những bí ẩn của tự nhiên. Không chỉ là nhà vạn vật học, Bacon còn là nhà "vạn sự vật học" vì đã lao vào hầu hết mọi lĩnh vực của cả khoa học tự nhiên lẫn xã hội.
Ông đã chế ra hai tấm gương lõm kỳ diệu, đem giảng dạy ở Đại học Oxford. Với tấm gương thứ nhất, người ta có thể đốt nến vào bất cứ thời điểm nào trong ngày, bằng cách đưa đầu ngọn nến vào đúng tiêu điểm của gương. Tấm gương thứ hai có khả năng giúp người sử dụng nhìn thấy quang cảnh của bất cứ nơi nào trên trái đất nếu mắt người nằm ở đúng vị trí cần thiết cách mặt gương một khoảng nhất định nào đó; nếu xê lệch gương sang góc khác và mắt người cũng di chuyển theo cách thích hợp thì sẽ nhìn thấy một quang cảnh khác.
Cứ như toàn bộ quang cảnh trên bề mặt trái đất được phản ánh lên một tấm gương nào đó ở thượng tầng không khí rồi phản ánh ngược vào tấm gương kỳ diệu của Bacon. Tấm gương thứ nhất bị các giáo sư đồng nghiệp phản đối vì sinh viên suốt ngày chỉ chăm chỉ thực tập đốt nến mà không đoái hoài gì đến sách vở và các loại thí nghiệm khác. Tấm gương thứ hai thì bị giáo hội cáo buộc là một vật "tà đạo". Kết quả là cả hai bị đập nát và Bacon bị tước quyền giảng dạy.
Cũng do vụ rắc rối trên đây mà nhiều tài liệu, sách vở, những ghi chép... của Bacon bị đốt bỏ. Nhưng những gì còn lại đến ngày nay cũng cho biết rằng chính ông là người đầu tiên dự đoán sự ra đời của kính hiển vi, kính viễn vọng, động cơ cho ôtô, máy bay, tàu thuỷ. Hàng trăm năm trước khi Berthold Schwarz chế tạo ra thuốc súng, Bacon đã có những ghi chép về thành phần hoá học cũng như nguyên lý hoạt động của một loại chất có thể gây cháy nổ tương tự như thuốc súng về sau.
Cũng chính nhờ vào kết quả những thực nghiệm về quang học của Bacon mà kính đeo mắt được ra đời vào năm 1287. Những ghi chép của Bacon còn cho thấy ông đã mường tượng được cấu trúc tế bào, hiểu được thực chất của quá trình thụ thai chính là sự kết hợp của tinh trùng và trứng. Ngoài ra, Bacon còn nắm được nguồn gốc một dạng năng lượng mà tính ra còn mạnh hơn gấp nhiều lần năng lượng nguyên tử!
Nhờ đâu Bacon có được những hiểu biết sâu rộng như vậy, khi mà ông sống ở thế kỷ 13, trước vài trăm năm so với các nhà bác học hàng đầu thế giới như Giordano Bruno, Galileo Galilei, Leornado da Vinci, Isaac Newton, Albert Einstein... với những phát minh về sau mới trở thành tri thức của nhân loại? Các nhà bác học cho rằng đó là vì ông chế tạo ra được những dụng cụ khoa học đặc biệt hoặc được hưởng những dụng cụ như vậy từ một nguồn gốc bí ẩn nào đó.
Một trong những loại dụng cụ đặc biệt ấy chính là gương lõm. Trong những ghi chép của Bacon còn lại đến ngày nay có một tài liệu cho biết ông đã "nhìn thấy bằng gương lõm một ngôi sao hình con ốc sên nằm ở khoảng giữa các chòm sao Pegas, Andromed và Kassiopei". Thật đáng kinh ngạc là 400 năm sau, vào thế kỷ 17, với những kính viễn vọng mạnh, các nhà thiên văn học châu Âu đã tìm ra tinh vân Andromed hình xoắn ốc ở đúng ngay vị trí này.
Tại sao gương lõm lại có những khả năng đặc biệt như vậy? Chưa ai có thể giải đáp thấu triệt, nhưng đại để, cũng như gương phẳng, gương lõm phản xạ những năng lượng nhìn thấy được và không nhìn thấy được, thậm chí cả những bức xạ tinh tế của cơ thể con người, nhưng gương lõm có thể gia cường những dạng năng lượng này. Đặc biệt, chỉ gương lõm mới tạo ra được tiêu điểm, điểm hội tụ tất cả những tia phản xạ. Đây cũng chính là điểm mấu chốt của những gì được coi là khả năng huyền bí, diệu kỳ của gương lõm.
Năm 1667, các nhà khoa học ở viện hàn lâm khoa học Florentie đã làm một thí nghiệm sau: hướng mặt gương lõm về phía một khối băng lớn đặt ở khoảng cách khá xa và kết quả đo đạc cho thấy nhiệt độ ở tiêu điểm của gương lõm thấp hơn đáng kể so với nhiệt độ không khí xung quanh. Các viện sĩ kết luận rằng vật lạnh cũng phát ra bức xạ lạnh, tương tự như vật thể nóng phát ra bức xạ nhiệt.
Ngày nay chúng ta biết rằng không hề có cái gọi là "bức xạ lạnh". Căn cứ trên quy luật nhiệt động học, khoa học hiện đại chứng minh được rằng thực ra không phải "tia lạnh" hội tụ ở tiêu điểm gương lõm mà chính là do nhiệt ở điểm đó có xu hướng thoát ra môi trường xung quanh. Như vậy, gương lõm có đặc tính không chỉ của một ăngten thu mà còn của ăngten phát. Ngày nay, các ăngten thu phát sóng vô tuyến truyền thanh, truyền hình đều có dạng lòng chảo (ăngten parabol) là vì thế.
Gương lõm không chỉ mang lại những điều kỳ diệu mà còn có thể gây tai họa bởi chúng có khả năng ghi nhận và lưu trữ thông tin. Vào khoảng cuối thập niên 1980, giáo sư Kozyrev, người Nga, đã chế tạo một hệ thống gương lõm bằng nhôm để nghiên cứu các loại bức xạ khác nhau, trong đó có cả những bức xạ từ các sinh thể. Thật kỳ diệu, hệ thống gương Kozyrev còn phát huy tác dụng trong một hoạt động được gọi là tác động từ xa.
Vào đầu thập niên 1990, các nhà khoa học ở Phân viện hàn lâm khoa học Nga tại Novosibirsk đã tiến hành một số thí nghiệm với gương lõm Kozyrev và thu được những kết quả đáng kinh ngạc, trong đó phải kể đến cuộc thí nghiệm trao đổi thông tin giữa những người xa lạ ở cách nhau nửa vòng trái đất mà không cần đến một thiết bị kỹ thuật liên lạc nào, với sự tham gia của hơn 4.000 người ở 22 quốc gia khác nhau. Nhưng gương lõm không chỉ mang lại những điều kỳ diệu mà còn có thể gây tai họa bởi chúng có khả năng ghi nhận và lưu trữ thông tin.
Năm 1997, Hội cổ vật Pháp yêu cầu báo chí phổ biến rộng rãi lời cảnh báo đối với những người sưu tầm đồ cổ nói riêng và dân chúng nói chung là không nên lưu giữ, mua hoặc bán một chiếc gương cổ có dòng chữ "Louis Arpo, năm 1743" trên khung bao, nếu có nó trong tay, hãy mau đem nộp cho chính quyền hoặc cảnh sát. Theo thống kê của các nhà thi hành luật pháp nước này, cho đến đầu thế kỷ 20, trong gần 200 năm tồn tại và qua tay nhiều chủ, chiếc gương đã gây cái chết cho tổng cộng 38 người.
Cần biết rằng đây là một chiếc gương hơi lõm, có thể phóng to hình ảnh lên một chút, rất thuận tiện cho các bà các cô dùng để sửa lông mi, kẻ lông mày và thực hiện một số trang điểm tinh tế trên mặt.
Từng có nhiều giả thuyết khác nhau về cơ chế gây hại của nó. Có người cho rằng đây là một chiếc gương đặc biệt, có khả năng phản chiếu những tia sáng dị thường gây xuất huyết não. Người khác đoán rằng chiếc gương đã tích tụ những nguồn năng lượng siêu nhiên nào đó rồi phản ánh, tác động lên người đối diện. Lại có người cho rằng đó là một chiếc gương chứa phép thuật, có thể hình dung như một cái phễu, hút linh hồn con người sang thế giới bên kia.
Tất cả chỉ là phỏng đoán, chưa có một nghiên cứu khoa học nào, vì chiếc gương này bị nhốt trong kho suốt gần 1 thế kỷ và khi có nhà khoa học nhớ tới thì nó đã không cánh mà bay. Dù sao, các nhà khoa học vẫn cố gắng tìm lời giải đáp cho những cái chết bí ẩn mà người ta cho rằng do chính chiếc gương nọ gây ra.
Theo một luận thuyết thì gương có một đặc tính gần như nam châm: hút và lưu giữ những chất độc. Từ thế kỷ 17, nhà triết học người Italy Tomaso Campanella (tác giả cuốn sách Thành phố mặt trời, được coi là tuyên ngôn của chủ nghĩa xã hội không tưởng) từng viết: "Những phụ nữ già yếu hay nhỏ đờm giãi và chảy nước mắt sống, hơi thở nặng mùi, mỗi khi soi gương thì làm cho gương mờ đi do tác động của những chất độc hại thoát ra từ nước mắt, đờm giãi và hơi thở...".
Năm 1739, các nhà khoa học ở Viện hàn lâm khoa học Pháp cũng có một kết luận tương tự, được ghi thành văn bản hẳn hoi: "Khi một người phụ nữ già yếu ngồi trước gương lâu hơn cần thiết, trên mặt gương sẽ tích tụ hơi ẩm chứa những chất không tốt từ người đó. Các phân tích hóa học cho thấy những chất đó rất độc hại...".
Kết luận này phần nào lý giải điều kiêng kỵ trong dân gian: không được soi gương khi đang ốm đau hay cảm thấy mệt mỏi trong người, thậm chí khi tâm trạng có điều gì buồn bực. Người ta cho rằng những lúc như thế, trong người thường phát ra hơi độc, hơi độc này được gương hấp thu rồi sau đó phát ra rất mạnh, gây ảnh hưởng không tốt đến người sử dụng gương sau đó.
Tuy nhiên, theo các nhà khoa học hiện đại, chiếc gương Louis Arpo nếu thật sự gây ra cái chết cho mấy chục người thì cũng không phải do chất độc tích tụ trên mặt gương. Chất độc, dù mạnh đến mấy, cũng có thể lau rửa dễ dàng, đặt biệt là trên mặt gương sáng bóng, mà suốt mấy trăm năm lẽ nào chiếc gương này không được lau rửa một lần? Nhưng có thể tiếp cận vấn đề từ một hướng khác: rất có thể chiếc gương đã tích tụ, lưu giữ và rồi phát ra một lượng thông tin nào đó, hay nói đơn giản, đó là một chiếc gương có ký ức...
Chiếc gương treo hay đặt trong nhà chính là một nhân chứng thầm lặng, chứng kiến toàn bộ những gì xảy ra trong thị trường của mình. Nói cách khác, nó như là một chiếc máy quay phim ghi lại tất cả những gì diễn ra trước "ống kính" của mình. Song chúng ta ai cũng biết rằng hình ảnh phản chiếu trong gương chỉ là ảnh ảo và gương soi không bao giờ có được tính năng của máy quay phim.
Tuy nhiên, việc gương soi có khả năng ghi nhận, lưu giữ thông tin tuy khó tin nhưng lại rất có thể có thật. Cũng giống như nhiều thứ đồ vật khác, gương có thể mang trong mình dấu ấn nhân cách người chủ. Từ xa xưa, người ta đã quan niệm rằng một đồ vật nào đó được một người sử dụng lâu dài thì sẽ hấp thụ tư duy, tình cảm của người đó.
Ngoài ra, gương cũng như nhiều thứ đồ vật khác có thể hấp thụ, lưu giữ thông tin về những diễn biến của các sự vật diễn ra xung quanh mình, đặc biệt đối với một chiếc gương lõm vốn có tính năng của một ăngten thu, phát như đã nói phần trước.
Trong một thí nghiệm sinh học có sử dụng gương, các nhà nghiên cứu Nga đã tình cờ phát hiện đặc tính "nhớ" của gương: Những chiếc gương sau khi được sử dụng trong thí nghiệm vẫn lưu giữ và phát xạ thông tin về những vật thí nghiệm được đặt ở trước mặt chúng. Đặc tính này của gương gây không ít phiền toái cho các nhà khoa học, vì ở các thí nghiệm sau, những thông tin được lưu giữ từ những lần trước do gương phát ra có thể gây nhiễu, ảnh hưởng đến kết quả. Tuy nhiên, đây lại là cơ sở khoa học khá vững chắc để lý giải hiện tượng chiếc gương "sát thủ" ở Pháp.
Từ xa xưa, trong nhiều dân tộc ở châu Âu tồn tại quan niệm rằng làm vỡ gương là một điềm xấu. Dĩ nhiên, trong một gia đình êm ấm, những thông tin lưu giữ trong gương là những điều tốt đẹp và nếu đó là một chiếc gương lâu đời thì đó chính là cuốn biên niên sử của gia đình. Tuy nhiên, thử hình dung những người chủ thường sử dụng gương trong những thời điểm đặc biệt như khi đang tức giận, buồn bực, căm thù, oán hận...
Khi đó, cơ thể bị kích hoạt rất mạnh, vì thế, nguồn năng lượng sinh học mà họ phát ra cũng mạnh tương ứng, rất dễ dàng hấp thụ vào gương để rồi sau đó phát ra. Nếu đó là gương phẳng thì tác hại không lớn lắm, nhưng nếu là gương lõm thì năng lực phát xạ có thể cao hơn gấp nhiều lần, mà tiêu điểm của gương chính là nơi hội tụ những tia năng lượng "xấu" này.
Những chủ nhân về sau, dù hoàn toàn vô tội, nhưng nếu cơ thể họ ở vào đúng tiêu điểm của gương thì sẽ rất có hại, đặc biệt nếu tiêu điểm rơi vào đúng những bộ phận quan trọng của cơ thể như não, tim chẳng hạn thì sự nguy hiểm đến tính mạng là điều khó tránh khỏi.
Pravda
Khi nhắc đến vấn đề đi vào quá khứ, người ta không thể quên những chuyện lạ có thật do Hans Holzer, một nhà nghiên cứu về các hiện tượng siêu tâm lý kể lại như sau:
Năm 1964, một người đàn ông tên là Robert Cory, một con người khá nổi tiếng trong làng văn học nghệ thuật tại Hoa Kỳ, đã lái xe trên đường đến Los Angeles. Hôm đó trời quang đãng. Vì đường xa nên khi đến địa phận Oregon thì trời vừa tối, nhưng ông Cory vẫn tiếp tục cuộc hành trình.
Bỗng nhiên một trận bão tuyết nổi lên lại gặp lúc xe ông đang trên dốc núi. Ông buộc lòng phải ngưng xe lại để quan sát tình hình vì tuyết đổ liên tục và đường lại cheo leo.
Ông vừa xuống xe thì thấy từ xa có ánh sáng chiếu như có đèn ai đang mở dò đường. Ông Cory liền cho xe chạy đến đó xem thử. Tại đây chẳng có ai. Mọi vật hoàn toàn yên lặng. Chỉ có bảng chỉ đường sáng lóa như được chiếu sáng bởi một nguồn sáng nào từ đám mây.
Theo bảng chỉ đường, ông Cory cho xe chạy xuống núi và cuối cùng ông thấy trước mặt, một vùng có nhà cửa mà đường sá thì có vẻ cũ kỹ, đầy ổ gà trồi sụp. Ông dừng xe lại trước một ngôi nhà bằng gỗ rộng lớn mà ông nghĩ đó là khách sạn. Ông Cory quyết định nghỉ tại đây vì trời còn xấu.
Ông bước vào ngôi nhà lớn ấy. Dọc hành lang ngôi nhà lớn ấy được trang hoàng bằng những chiếc đầu các loại thú. Có những tấm bảng gỗ tróc sơn nứt nẻ có ghi các năm 1800.
Ðiều kỳ dị ngôi nhà vắng vẻ lạ lùng không một bóng người. Ông định trở ra nhưng lại thấy có lửa cháy bập bùng ở lò sưởi phòng khách lớn, nên lại đẩy cửa bước vào. Trời lạnh như cắt nên ông phải cần được sưởi ấm. Ông đến bên lò sưởi và ngồi lên chiếc ghế dài.
Cạnh đó ông thấy cái bàn nhỏ, trên bàn đặt cái điện thoại mà nhìn kỹ, thì đây là loại điện thoại quá xưa cũ, mà hầu hết các cơ sở làm ăn khắp nước Mỹ chẳng bao giờ tìm thấy có, đó là loại điện thoại phải quay số rườm rà trước khi gọi.
Tuy nhiên ông Cory cũng phải dùng đến cái điện thoại này để gọi về nhà báo tin cho người thân. Nhưng cái máy hình như không còn hoạt động nữa. Ông Cory cảm thấy mõi mệt và buồn ngủ. Bỗng nhiên cái vắng vẻ yên lặng ấy ông bỗng nghe có tiếng động, tiếng động rất nhẹ và ông thấy một ông già đang từ tầng lầu trên đi xuống.
Ông Cory tưởng đó là người quản thủ khách sạn. Nhưng khi nhìn kỹ lại, ông cụ giống một người nông dân ở vùng quê xa xôi nào đó, vì nhìn lối ăn mặc và cử chỉ thấy ông ta thật vụng về thô lỗ cục mịch vô cùng. Ông cụ lầm lì đi đến bên lò sưởi và coi sự xuất hiện của ông Cory là tự nhiên. Có lẽ vì đây là một khách sạn. Thế rồi ông Cory ngủ thiếp đi trên cái ghế dài.
Sáng hôm sau, ánh nắng xuyên qua cửa kính chiếu vào mắt khiến ông Cory chợt tỉnh. Ông thấy có nhiều người xuất hiện trong khách sạn, mà phần lớn là những người già. Nhiều người nhìn ông nhưng có vẻ lơ đảng không quan tâm. Ông Cory đã đến bên những người ấy để hỏi về ngôi làng xa lạ này, và luôn tiện hỏi thăm có trạm xăng nào ở gần đây không?
Ông mơ màng như thấy ít người đáp lời, và nếu có thì những lời nói của họ không có mạch lạc, hoặc chẳng có ăn nhập gì với câu hỏi mà ông đã nêu ra cả.
Ông Cory cảm thấy hoang mang trong lòng. Cái cảm giác trống vắng, lẻ loi, lạ lùng bỗng đến với ông thật nhanh theo dòng linh cảm. Ông hỏi: Ðây là đâu xin các ông vui lòng cho biết ? Hiện tôi đang ở đâu đây ? Có vài người bước tới nhìn ông và hình như có người cầm tay ông, ân cần vỗ về và chỉ đường cho ông rồi sau cùng nói: Ông đừng sợ! Chẳng có gì phải sợ cả.
Ông Cory chợt nhớ đến chiếc xe, ông chạy ra khỏi khách sạn. Chiếc xe ông vẫn còn đó. Ông mở cửa xe và nổ máy chiếc xe chuyển động và ông Cory vội vã như muốn thoát khỏi một nơi thâm trầm kỳ bí chưa từng thấy này.
Chiếc xe băng qua những con đường gập ghềnh. Ông Cory thấy một vài người lầm lũi bước đi hai bên đường. Những người này ăn mặc những áo quần mà hình như chỉ thấy đâu đó trong sách vở, tự điển. Ông Cory có cảm tưởng như đó là những kiểu áo quần ở thời đại xa xưa nào đó. Ðiều kỳ dị hơn nữa là trong khi lái xe ra khỏi vùng này, ông có cảm giác như xe đang di chuyển trong lớp sương mờ.
Về sau, câu chuyện có thật mà ông Cory đã trải qua được nhiều nhóm nghiên cứu về những vấn đề không thể giải thích ghi nhận. Người ta không loại bỏ việc xác định lại vùng hoang dã, nơi ông Cory lái xe đến đó và vùng dân cư cùng ngôi nhà lớn mà ông đã bước vào như qua một đêm.
Tài liệu lưu trữ tại thư viện lớn ở đây cho biết xưa kia đây là vùng thưa dân, nhưng có ngôi nhà Bưu Ðiện Quốc gia lớn tên là US Post Office National, Indiana. Ðó là khoảng những năm 1850, 1851.. Rồi tám mươi năm sau đó, nghĩa là vào năm 1930 thì nơi đây biến thành bệnh viện lớn dành cho các cựu chiến binh.
Vậy rõ ràng ông Cory đã tình cờ đi ngược dòng thời gian và vào quá vãng cách thời đại ông đến hơn cả trăm năm.
Một hiện tượng tương tự cũng không kém lạ lùng đã xảy ra, khi hai nhà leo núi kỳ cựu là Donald Watt và George Bruce trong chuyến leo núi tháng năm năm 1987, cả hai đều thấy rõ ràng có một ngôi nhà hai tầng nằm bên bờ hồ Mullardoch gần Cannich xứ Scotland rất nên thơ.
Nhà có vách xây bằng đá Hoa Cương (Granite) và trông khá bề thế đầy tiện nghi. Trước đó hai người này đã nghiên cứu kỹ qua bản đồ chi tiết của vùng mà họ sẽ đến, và không có dấu vết gì ghi chú về căn nhà nói trên.
Khi cả hai thấy ngôi nhà đó họ vô cùng ngạc nhiên, và tưởng như là một chuyện kỳ khôi vì không thể nào có ngôi nhà xuất hiện, ở một nơi hoang vu lạ lùng như thế được. Tuy nhiên sự kiện xảy ra sau đó càng làm họ ngạc nhiên nữa, khi cả hai sau một hồi leo núi quay lại nhìn thì không thấy ngôi nhà ấy đâu nữa.
Khi trở xuống, họ đi vòng khắp hồ nhưng ngôi nhà đã hoàn toàn biến mất. Cả hai nhà leo núi ghi lại những gì mình thấy vào nhật ký. Sau đó, các tài liệu tra cứu có liên hệ về vùng này được các nhà sưu tập nghiên cứu phân tích, và kết quả người ta được biết rằng khoảng những năm 1950, ở đây có một số nhà cửa được dựng lên, trong đó có một cơ sở nghiên cứu của nhà nước.
Rồi vì một vụ ngập nước làm ngôi nhà bị chôn vùi xuống đáy hồ. Khi hai nhà leo núi trông thấy lại ngôi nhà, thì rõ ràng ngôi nhà ấy là hình ảnh của quá khứ, một hình ảnh mà trước đó khoảng ba mươi năm năm nó là sự thật. Như vậy hai nhà leo núi George Bruce và Donald Watt đã thấy được hình ảnh của quá khứ...
Tâm Linh
GƯƠNG LÕM DIỆU KỲ
Năm 212 trước Công nguyên, đoàn thuyền La Mã đang vây thành Syracuse (thuộc Hy Lạp), bỗng trên mặt thành xuất hiện vô số tấm gương phản chiếu ánh nắng mặt trời, khiến đoàn thuyền bốc cháy. Nhà bác học Hy Lạp Archimet đã lợi dụng hiệu ứng gương lõm để tập trung ánh sáng vào một điểm, thiêu cháy kẻ địch.
Người xưa từng sử dụng gương lõm vào nhiều mục đích khác nhau, chủ yếu là trong các trò pháp thuật. Gương lõm vốn tạo được một thế ánh sáng không hắt bóng ở tiêu điểm của mình. Các thầy phù thủy và các nhà pháp thuật cho rằng chính ở tiêu điểm của gương lõm tập trung một nguồn năng lượng sinh học vô hình, và nếu mắt ai lọt được vào đúng tiêu điểm ấy thì người đó sẽ có khả năng thấu thị.
Ở nhiều dân tộc có tục gọi hồn người đã khuất bằng chén hoặc chậu đồng lòng cong, mặt trong nhẵn bóng như gương, thực chất cũng là một dạng gương lõm. Năm 1950, trong một hang sâu ở Epire thuộc miền tây Hy Lạp, nhà khảo cổ Sotir Dakar tìm thấy một chiếc nồi đồng rất lớn, mặt trong nhẵn bóng, có niên đại khoảng 3.000 năm.
Điều kỳ lạ là hễ đưa mắt đến sát mặt phẳng miệng nồi nhìn vào trong, người ta có thể thấy những hình ảnh huyền ảo rất lạ lùng, kỳ bí, đặc biệt là mỗi người lại nhìn thấy một hình ảnh khác nhau và cùng một người nhưng nhìn ở hai thời điểm khác nhau thì hình ảnh nhìn thấy cũng khác nhau.
Đó là những hình ảnh quang cảnh hoặc người, thú vật nhưng ở thời kỳ thời rất xa xưa. Tính toán theo độ cong của đáy nồi, người ta xác định được tiêu điểm của mặt cong này nằm đúng tâm của mặt phẳng miệng nồi. Đáng tiếc là chẳng bao lâu sau, chiếc nồi này bị đánh cắp từ kho của một viện bảo tàng ở Hy Lạp và từ đó đến nay không ai biết gì về số phận của nó.
Ở một số dân tộc, các nhà tiên tri lại sử dụng gương lõm để đoán hậu vận. Các pháp sư Ấn Độ thường dùng gương lõm mặt trong tráng vàng, nhưng cũng có người lại ưa dùng loại gương làm bằng sắt ròng. Sắt nguyên chất, tinh khiết đến 99,999% không bao giờ bị sét rỉ, khi được đánh kỹ thì cho độ bóng tuyệt hảo và gương sắt được gọi là "gương của hoàng đế Solomon", được đánh giá rất cao trong giới pháp sư chuyên phán hậu vậu cho mọi người. Bình nguyên Naska với hàng triệu đường hào thẳng tắp, nhằng nhịt. Cũng có những loại gương lõm của người xưa mà công dụng của chúng cho tới nay vẫn còn là điều bí ẩn.
Chẳng hạn những chiếc gương được tìm thấy rất nhiều ở gần khu vườn hình học Naska ở Peru. Những chiếc gương này có đường kính khoảng nửa mét, hơi cong, được làm bằng hợp kim vàng, bạc và đồng, mặt trong được đánh rất nhẵn. Vì mặt gương chỉ hơi lõm nên gương có tiêu cự đến vài kilomét.
Do mặt gương rất bóng nên sức phản chiếu rất mạnh: ánh nắng mặt trời hắt ra từ gương có thể nhìn thấy rõ ở tiêu điểm, dù nơi đó cách mặt gương hàng cây số. Người ta không hiểu thổ dân da đỏ Inka cổ xưa dùng những tấm gương này làm gì. Căn cứ vào khả năng chiếu xa của chúng, có thể đoán họ dùng chúng như một công cụ truyền tín hiệu. Cũng có thể đó là một công cụ xác lập đường thẳng (tại bình nguyên Naska có hàng triệu đường hào cắt nhau nhằng nhịt, mỗi đường hào dài hàng chục đến hàng trăm kilomét nhưng đều thẳng tuyệt đối).
Không ít phát minh khoa học ra đời từ gương lõm. Nhà bác học người Anh Roger Bacon (1214-1294) từng sở hữu những tấm gương lõm "bách khoa". Người đương thời coi ông là "nhà phù thuỷ vĩ đại", song theo cách hiểu ngày nay, ông là một nhà thực nghiệm cần mẫn, suốt đời khám phá những bí ẩn của tự nhiên. Không chỉ là nhà vạn vật học, Bacon còn là nhà "vạn sự vật học" vì đã lao vào hầu hết mọi lĩnh vực của cả khoa học tự nhiên lẫn xã hội.
Ông đã chế ra hai tấm gương lõm kỳ diệu, đem giảng dạy ở Đại học Oxford. Với tấm gương thứ nhất, người ta có thể đốt nến vào bất cứ thời điểm nào trong ngày, bằng cách đưa đầu ngọn nến vào đúng tiêu điểm của gương. Tấm gương thứ hai có khả năng giúp người sử dụng nhìn thấy quang cảnh của bất cứ nơi nào trên trái đất nếu mắt người nằm ở đúng vị trí cần thiết cách mặt gương một khoảng nhất định nào đó; nếu xê lệch gương sang góc khác và mắt người cũng di chuyển theo cách thích hợp thì sẽ nhìn thấy một quang cảnh khác.
Cứ như toàn bộ quang cảnh trên bề mặt trái đất được phản ánh lên một tấm gương nào đó ở thượng tầng không khí rồi phản ánh ngược vào tấm gương kỳ diệu của Bacon. Tấm gương thứ nhất bị các giáo sư đồng nghiệp phản đối vì sinh viên suốt ngày chỉ chăm chỉ thực tập đốt nến mà không đoái hoài gì đến sách vở và các loại thí nghiệm khác. Tấm gương thứ hai thì bị giáo hội cáo buộc là một vật "tà đạo". Kết quả là cả hai bị đập nát và Bacon bị tước quyền giảng dạy.
Cũng do vụ rắc rối trên đây mà nhiều tài liệu, sách vở, những ghi chép... của Bacon bị đốt bỏ. Nhưng những gì còn lại đến ngày nay cũng cho biết rằng chính ông là người đầu tiên dự đoán sự ra đời của kính hiển vi, kính viễn vọng, động cơ cho ôtô, máy bay, tàu thuỷ. Hàng trăm năm trước khi Berthold Schwarz chế tạo ra thuốc súng, Bacon đã có những ghi chép về thành phần hoá học cũng như nguyên lý hoạt động của một loại chất có thể gây cháy nổ tương tự như thuốc súng về sau.
Cũng chính nhờ vào kết quả những thực nghiệm về quang học của Bacon mà kính đeo mắt được ra đời vào năm 1287. Những ghi chép của Bacon còn cho thấy ông đã mường tượng được cấu trúc tế bào, hiểu được thực chất của quá trình thụ thai chính là sự kết hợp của tinh trùng và trứng. Ngoài ra, Bacon còn nắm được nguồn gốc một dạng năng lượng mà tính ra còn mạnh hơn gấp nhiều lần năng lượng nguyên tử!
Nhờ đâu Bacon có được những hiểu biết sâu rộng như vậy, khi mà ông sống ở thế kỷ 13, trước vài trăm năm so với các nhà bác học hàng đầu thế giới như Giordano Bruno, Galileo Galilei, Leornado da Vinci, Isaac Newton, Albert Einstein... với những phát minh về sau mới trở thành tri thức của nhân loại? Các nhà bác học cho rằng đó là vì ông chế tạo ra được những dụng cụ khoa học đặc biệt hoặc được hưởng những dụng cụ như vậy từ một nguồn gốc bí ẩn nào đó.
Một trong những loại dụng cụ đặc biệt ấy chính là gương lõm. Trong những ghi chép của Bacon còn lại đến ngày nay có một tài liệu cho biết ông đã "nhìn thấy bằng gương lõm một ngôi sao hình con ốc sên nằm ở khoảng giữa các chòm sao Pegas, Andromed và Kassiopei". Thật đáng kinh ngạc là 400 năm sau, vào thế kỷ 17, với những kính viễn vọng mạnh, các nhà thiên văn học châu Âu đã tìm ra tinh vân Andromed hình xoắn ốc ở đúng ngay vị trí này.
Tại sao gương lõm lại có những khả năng đặc biệt như vậy? Chưa ai có thể giải đáp thấu triệt, nhưng đại để, cũng như gương phẳng, gương lõm phản xạ những năng lượng nhìn thấy được và không nhìn thấy được, thậm chí cả những bức xạ tinh tế của cơ thể con người, nhưng gương lõm có thể gia cường những dạng năng lượng này. Đặc biệt, chỉ gương lõm mới tạo ra được tiêu điểm, điểm hội tụ tất cả những tia phản xạ. Đây cũng chính là điểm mấu chốt của những gì được coi là khả năng huyền bí, diệu kỳ của gương lõm.
Năm 1667, các nhà khoa học ở viện hàn lâm khoa học Florentie đã làm một thí nghiệm sau: hướng mặt gương lõm về phía một khối băng lớn đặt ở khoảng cách khá xa và kết quả đo đạc cho thấy nhiệt độ ở tiêu điểm của gương lõm thấp hơn đáng kể so với nhiệt độ không khí xung quanh. Các viện sĩ kết luận rằng vật lạnh cũng phát ra bức xạ lạnh, tương tự như vật thể nóng phát ra bức xạ nhiệt.
Ngày nay chúng ta biết rằng không hề có cái gọi là "bức xạ lạnh". Căn cứ trên quy luật nhiệt động học, khoa học hiện đại chứng minh được rằng thực ra không phải "tia lạnh" hội tụ ở tiêu điểm gương lõm mà chính là do nhiệt ở điểm đó có xu hướng thoát ra môi trường xung quanh. Như vậy, gương lõm có đặc tính không chỉ của một ăngten thu mà còn của ăngten phát. Ngày nay, các ăngten thu phát sóng vô tuyến truyền thanh, truyền hình đều có dạng lòng chảo (ăngten parabol) là vì thế.
Gương lõm không chỉ mang lại những điều kỳ diệu mà còn có thể gây tai họa bởi chúng có khả năng ghi nhận và lưu trữ thông tin. Vào khoảng cuối thập niên 1980, giáo sư Kozyrev, người Nga, đã chế tạo một hệ thống gương lõm bằng nhôm để nghiên cứu các loại bức xạ khác nhau, trong đó có cả những bức xạ từ các sinh thể. Thật kỳ diệu, hệ thống gương Kozyrev còn phát huy tác dụng trong một hoạt động được gọi là tác động từ xa.
Vào đầu thập niên 1990, các nhà khoa học ở Phân viện hàn lâm khoa học Nga tại Novosibirsk đã tiến hành một số thí nghiệm với gương lõm Kozyrev và thu được những kết quả đáng kinh ngạc, trong đó phải kể đến cuộc thí nghiệm trao đổi thông tin giữa những người xa lạ ở cách nhau nửa vòng trái đất mà không cần đến một thiết bị kỹ thuật liên lạc nào, với sự tham gia của hơn 4.000 người ở 22 quốc gia khác nhau. Nhưng gương lõm không chỉ mang lại những điều kỳ diệu mà còn có thể gây tai họa bởi chúng có khả năng ghi nhận và lưu trữ thông tin.
Năm 1997, Hội cổ vật Pháp yêu cầu báo chí phổ biến rộng rãi lời cảnh báo đối với những người sưu tầm đồ cổ nói riêng và dân chúng nói chung là không nên lưu giữ, mua hoặc bán một chiếc gương cổ có dòng chữ "Louis Arpo, năm 1743" trên khung bao, nếu có nó trong tay, hãy mau đem nộp cho chính quyền hoặc cảnh sát. Theo thống kê của các nhà thi hành luật pháp nước này, cho đến đầu thế kỷ 20, trong gần 200 năm tồn tại và qua tay nhiều chủ, chiếc gương đã gây cái chết cho tổng cộng 38 người.
Cần biết rằng đây là một chiếc gương hơi lõm, có thể phóng to hình ảnh lên một chút, rất thuận tiện cho các bà các cô dùng để sửa lông mi, kẻ lông mày và thực hiện một số trang điểm tinh tế trên mặt.
Từng có nhiều giả thuyết khác nhau về cơ chế gây hại của nó. Có người cho rằng đây là một chiếc gương đặc biệt, có khả năng phản chiếu những tia sáng dị thường gây xuất huyết não. Người khác đoán rằng chiếc gương đã tích tụ những nguồn năng lượng siêu nhiên nào đó rồi phản ánh, tác động lên người đối diện. Lại có người cho rằng đó là một chiếc gương chứa phép thuật, có thể hình dung như một cái phễu, hút linh hồn con người sang thế giới bên kia.
Tất cả chỉ là phỏng đoán, chưa có một nghiên cứu khoa học nào, vì chiếc gương này bị nhốt trong kho suốt gần 1 thế kỷ và khi có nhà khoa học nhớ tới thì nó đã không cánh mà bay. Dù sao, các nhà khoa học vẫn cố gắng tìm lời giải đáp cho những cái chết bí ẩn mà người ta cho rằng do chính chiếc gương nọ gây ra.
Theo một luận thuyết thì gương có một đặc tính gần như nam châm: hút và lưu giữ những chất độc. Từ thế kỷ 17, nhà triết học người Italy Tomaso Campanella (tác giả cuốn sách Thành phố mặt trời, được coi là tuyên ngôn của chủ nghĩa xã hội không tưởng) từng viết: "Những phụ nữ già yếu hay nhỏ đờm giãi và chảy nước mắt sống, hơi thở nặng mùi, mỗi khi soi gương thì làm cho gương mờ đi do tác động của những chất độc hại thoát ra từ nước mắt, đờm giãi và hơi thở...".
Năm 1739, các nhà khoa học ở Viện hàn lâm khoa học Pháp cũng có một kết luận tương tự, được ghi thành văn bản hẳn hoi: "Khi một người phụ nữ già yếu ngồi trước gương lâu hơn cần thiết, trên mặt gương sẽ tích tụ hơi ẩm chứa những chất không tốt từ người đó. Các phân tích hóa học cho thấy những chất đó rất độc hại...".
Kết luận này phần nào lý giải điều kiêng kỵ trong dân gian: không được soi gương khi đang ốm đau hay cảm thấy mệt mỏi trong người, thậm chí khi tâm trạng có điều gì buồn bực. Người ta cho rằng những lúc như thế, trong người thường phát ra hơi độc, hơi độc này được gương hấp thu rồi sau đó phát ra rất mạnh, gây ảnh hưởng không tốt đến người sử dụng gương sau đó.
Tuy nhiên, theo các nhà khoa học hiện đại, chiếc gương Louis Arpo nếu thật sự gây ra cái chết cho mấy chục người thì cũng không phải do chất độc tích tụ trên mặt gương. Chất độc, dù mạnh đến mấy, cũng có thể lau rửa dễ dàng, đặt biệt là trên mặt gương sáng bóng, mà suốt mấy trăm năm lẽ nào chiếc gương này không được lau rửa một lần? Nhưng có thể tiếp cận vấn đề từ một hướng khác: rất có thể chiếc gương đã tích tụ, lưu giữ và rồi phát ra một lượng thông tin nào đó, hay nói đơn giản, đó là một chiếc gương có ký ức...
Chiếc gương treo hay đặt trong nhà chính là một nhân chứng thầm lặng, chứng kiến toàn bộ những gì xảy ra trong thị trường của mình. Nói cách khác, nó như là một chiếc máy quay phim ghi lại tất cả những gì diễn ra trước "ống kính" của mình. Song chúng ta ai cũng biết rằng hình ảnh phản chiếu trong gương chỉ là ảnh ảo và gương soi không bao giờ có được tính năng của máy quay phim.
Tuy nhiên, việc gương soi có khả năng ghi nhận, lưu giữ thông tin tuy khó tin nhưng lại rất có thể có thật. Cũng giống như nhiều thứ đồ vật khác, gương có thể mang trong mình dấu ấn nhân cách người chủ. Từ xa xưa, người ta đã quan niệm rằng một đồ vật nào đó được một người sử dụng lâu dài thì sẽ hấp thụ tư duy, tình cảm của người đó.
Ngoài ra, gương cũng như nhiều thứ đồ vật khác có thể hấp thụ, lưu giữ thông tin về những diễn biến của các sự vật diễn ra xung quanh mình, đặc biệt đối với một chiếc gương lõm vốn có tính năng của một ăngten thu, phát như đã nói phần trước.
Trong một thí nghiệm sinh học có sử dụng gương, các nhà nghiên cứu Nga đã tình cờ phát hiện đặc tính "nhớ" của gương: Những chiếc gương sau khi được sử dụng trong thí nghiệm vẫn lưu giữ và phát xạ thông tin về những vật thí nghiệm được đặt ở trước mặt chúng. Đặc tính này của gương gây không ít phiền toái cho các nhà khoa học, vì ở các thí nghiệm sau, những thông tin được lưu giữ từ những lần trước do gương phát ra có thể gây nhiễu, ảnh hưởng đến kết quả. Tuy nhiên, đây lại là cơ sở khoa học khá vững chắc để lý giải hiện tượng chiếc gương "sát thủ" ở Pháp.
Từ xa xưa, trong nhiều dân tộc ở châu Âu tồn tại quan niệm rằng làm vỡ gương là một điềm xấu. Dĩ nhiên, trong một gia đình êm ấm, những thông tin lưu giữ trong gương là những điều tốt đẹp và nếu đó là một chiếc gương lâu đời thì đó chính là cuốn biên niên sử của gia đình. Tuy nhiên, thử hình dung những người chủ thường sử dụng gương trong những thời điểm đặc biệt như khi đang tức giận, buồn bực, căm thù, oán hận...
Khi đó, cơ thể bị kích hoạt rất mạnh, vì thế, nguồn năng lượng sinh học mà họ phát ra cũng mạnh tương ứng, rất dễ dàng hấp thụ vào gương để rồi sau đó phát ra. Nếu đó là gương phẳng thì tác hại không lớn lắm, nhưng nếu là gương lõm thì năng lực phát xạ có thể cao hơn gấp nhiều lần, mà tiêu điểm của gương chính là nơi hội tụ những tia năng lượng "xấu" này.
Những chủ nhân về sau, dù hoàn toàn vô tội, nhưng nếu cơ thể họ ở vào đúng tiêu điểm của gương thì sẽ rất có hại, đặc biệt nếu tiêu điểm rơi vào đúng những bộ phận quan trọng của cơ thể như não, tim chẳng hạn thì sự nguy hiểm đến tính mạng là điều khó tránh khỏi.
Pravda
#101
Gửi vào 19/06/2011 - 09:59
BÓNG NGƯỜI TRÊN SƯƠNG MÙ
Ở ngoài, đêm tối như mực. Trong toa hạng nhì, riêng tôi ngồi đối diện với Trạch, một người bạn cũ, tình cờ gặp vì cùng đi một chuyến xe. Mười năm trước, bạn tôi còn là một người cầm lái xe lửa, cũng hàn vi như tôi; bây giờ gặp nhau trong toa hạng nhì, hai người cùng ngạc nhiên và cùng mừng cho nhau.
Lúc nói chuyện, tôi thấy bên cạnh bạn có cái hộp khảm rất đẹp, liền cầm lấy xem, rồi tình cờ mở hộp ra; bạn tôi như có ý không bằng lòng, nhưng vì nể tôi nên không nói gì. Tôi nhìn vào hộp thấy rất lạ: hộp bịt kín, ở trong có một con bướm rất to, hai cánh đã xơ xác. Tôi hỏi bạn:
- Con bướm này vùng tôi thường thấy luôn, quý gì mà anh giữ cẩn thận thế này.
- Vâng, bướm thường, nói cho đúng thì chính là một con ngài, nhưng đối với tôi..
Vừa nói đến đấy, xe rầm rầm đi qua một cái cầu sắt. Bạn tôi lắng tai nghe rồi nói:
- Xe đi qua cầu N.G.. Tôi bắt con bướm chính ở giữa cái cầu này đã mười năm nay..
Thấy bạn có vẻ khác, tôi đoán có chuyện gì, liền hỏi:
- Con bướm này chắc cũng có sự tích gì đấy
- Vâng, nhưng sự tích buồn... chuyện đã ngoài mười năm: mười năm trước độ anh đi Saigon thì tôi còn là anh cầm lái tầu hỏa. Chính độ ấy tôi chạy con đường này, tình cảnh tôi độ ấy anh đã rõ.
- Cũng như tình cảnh tôi..
- Nhưng có một việc tôi không nói anh hay là độ ấy tôi có lấy một người vợ, nhưng giấu nhà, giấu mọi người, giấu anh. Chúng tôi sống trong tình cảnh nghèo khổ mà thật lấy làm sung sướng. Nhưng vì cảnh nghèo, vì nhà tôi không quen chịu được kham khổ nên người một ngày một yếu dần.
Về sau nhà tôi bị bịnh nặng mà tôi thì vẫn phải đi làm, không ai trông nom ở nhà. Một đêm nhà tôi yếu quá ngất người đi mấy lần, mà chính đêm ấy là đêm tôi được ông Chánh cử đi cầm lái chuyến xe riêng chở quan Toàn Quyền. Thật là một dịp rất hay cho tôị Nhưng tôi biết không thể nào đi được, liền vào kêu với ông Chánh, nói là vợ ốm. Ông Chánh đập bàn đập ghế, gắt:
- Tôi không biết! Một là mười giờ đêm nay anh phải có mặt ở ga, hai là từ giờ này trở đi anh đừng bước chân tới đây nữa. Thôi anh ra!
Lời ông Chánh nói quả quyết, tôi phân vân không biết nghĩ ra sao: lúc về nhà, ngồi ở đầu giường, nhìn đến vợ mới biết rằng không đi được, dầu có mất việc làm cũng không cần.
Nhà tôi thấy tôi có vẻ lo nghĩ, hỏi nguyên cớ vì sao, tôi liền đem việc ấy kể lại cho nhà tôi nghẹ Nhà tôi nghe xong, vẻ mặt tươi hẳn lên bảo tôi rằng:
- Thế cậu đi chứ! Việc gì phải ngần ngừ! Tôi không việc gì đâu, đã thấy đỡ nhiều. Chiều mai về mua cái gì làm quà cho tôi đấy.
Tôi thấy nhà tôi cười nói vui vẻ, tôi vững tâm, thay quần áo ra ga. Đến ga đúng mười giờ. Nhưng khi cho xe chạy rồi, tôi mới thấy lo, tôi mới biết là tôi liều Lúc đó tôi có cái cảm giác lạ lắm: hình như tôi đi thế này, lúc về chắc không nhìn thấy mặt vợ tôi nữa. Tôi cố định trí để cầm máy, nhưng chỉ được một lúc thôi.
Bỗng cả chuyến xe lửa nghiêng về một bên, rồi lắc lư như muốn đổ. Người "ét" của tôi vội bỏ cái xẻng xúc than, níu lấy tôi nói:
- Ô hay! hôm nay ông làm sao thế? Chỗ ấy đường cong nguy hiểm thế mà ông không hãm máy. Ông ngủ à?
Tôi không ngủ nhưng người tuy ở đây mà trí còn nghĩ đến người vợ nằm đợi chết một thân, một mình trong gian nhà nhỏ kia. Mắt tôi hoa lên, mồ hôi ra ướt đẫm cả người.
Xe đi vào khe núi, hết cao lại xuống thấp như có vẻ nhọc nhằn. Tôi thò đầu ra cửa nhìn thẳng trước mặt, nhưng đêm ấy sương mù đầy trời, không nhìn rõ gì cả, chỉ một màu trắng xóa dưới ánh hai cái đèn ở đầu toa. Bỗng tôi thấy.. rõ ràng, tôi thấy in trên sương mù một cái hình người đàn bà mặc áo rộng đứng dang tay. Tôi dụi mắt tưởng mình trông hoảng, nhưng không, hình người đàn bà vẫn đấy. Tôi gọi người "ét" lại cửa toa, bảo ông ta nhìn rồi hỏi:
- Bác có thấy gì không?
Vừa nói xong hình người vụt biến mất. Bác "ét" thò đầu ra và bảo tôi:
- Chỉ thấy sương mù! ông lại mê ngủ rồi.
- Không rõ ràng tôi thấy có hình người đàn bà in trên sa mù nhưng vừa biến mất.
Người "ét" cười ra vẻ không tin, lấy xẻng xúc than cho vào lò, còn tôi vẫn đứng nguyên chỗ cũ đăm đăm nhìn thẳng trước mặt. Được một lát, hình người đàn bà lại hiện ra, lần này rõ ràng hơn, hai tay ngăn thẳng như muốn ngăn đường không cho xe chạy lên nữa.
Tôi gọi người "ét" nhưng bác ta làm bộ không nghe thấy cứ cắm đầu xúc than cho vào lò. Tôi biết tôi không mê, tôi biết là cái hình người ấy có thật, mà ai cũng phải thấỵ Tôi đến cầm lấy tay bác "ét" kéo bác ra xem rồi bảo, cả quyết:
- Nhìn xem!
Bác ta há hốc mồm giương to đôi mắt, hốt hoảng nói:
- Lạ thật!... ma ông ạ!
Xe tiến đến đâu, cái hình người lại đến đấy, có lúc mờ, lúc rõ, lơ lửng giữa lưng trời.
Rồi cái hình người ấy vẫy hai tay một cách thong thả, như có ý bảo chúng tôi đừng tiến lên nữa, có sự gì nguy hiểm.
Tôi bảo bác "ét":
- Bác này, có sự gì lạ sắp xảy ra.
- Vâng, sao cái hình lại như lấy tay làm hiệu bảo ta đứng lại.
Cái hình người trước còn vẫy tay thong thả, sau vẫn thật nhanh như người tỏ ý thất vọng, vì bảo chúng tôi mà chúng tôi không nghe.
- Hay ta dừng xe lại xem sao, chắc là ma!
- Không được, tự nhiên vô cớ.
Còn tôi lúc bây giờ hai tai ù như người mất trí khôn: tôi văng vẳng nghe có tiếng người ở thật xa đưa lại, tiếng một người đàn bà bảo tôi:
- Đỗ lại! Đỗ lại!
Tôi lắng tai, tay nắm chặt lấy cái "phanh" như định hãm rồi lại không hãm.
Một lát, tôi lại nghe thấy tiếng người đàn bà, rõ hơn lần trước, giục tôi:
- Hãm lại! Hãm ngay lại!
Lúc bấy giờ tôi không biết gì nữa, nhắm mắt hãm phanh lại thật mạnh. Các toa rùng một cái, bánh xe kêu rít lên trong đêm thanh vắng. Xe chạy từ từ một quãng rồi đỗ hẳn. Tôi chưa kịp bước xuống, đã thấy người "xếp tanh" cầm đèn lên hỏi:
- Việc gì thế?
Tôi luống cuống không biết trả lời làm sao, vì nói thật ai tin mình. Tôi trả lời một cách mập mờ:
- Chắc có sự gì lạ. Để tôi cầm đèn đi xem đã.
Lúc bấy giờ mấy ông quan hầu quan Toàn Quyền cũng vừa đến, rồi thấy lạ, đi theo chúng tôị Vừa đi được một quãng thì nghe trước mặt có tiếng nước chảy ầm ầm. Tôi định tâm mới nhớ ra rằng đó là cầu N.G..
Mấy đêm ấy mưa lũ, nước chắc chảy xiết, nên mới réo to như vậỵ Đến bờ sông, giơ đèn lên soi, mấy người đều kinh hoảng: cái cầu N.G. bị nước nguồn chảy về xoáy gẫy làm đôi.
Một tí nữa, nếu không hãm kịp thì cả một chuyến xe riêng chở quan Toàn Quyền đâm nhào xuống sông sâu, chắc không sống sót một ai; tưởng không có cái tai nạn nào ghê gớm hơn, thế mà chính vì tôi nên mới không có cái tai nạn ấy. Tôi đứng ngẩn người không hiểu sao cả.
Người "xếp tanh" mừng cuống quít, hỏi tôi:
- Sao ông biết mà hãm?
- Tôi cũng không hiểu.
Mấy người quan hầu có vẻ mừng lộ ra mặt, xúm xít quanh tôi hỏi dồn, tôi không biết trả lời ra sao, một lát, mọi người đứng giãn ra, quan Toàn Quyền đến, ngài không nề tôi là người lao động, trong lúc mừng quá, ngài giơ tay bắt tay tôi, cái bàn tay đầy bụi than, rồi ngài tỏ lời khen.
Tôi chắc rồi sau thế nào cũng được trọng thưởng, nhưng trọng thưởng lúc đó đối với tôi cũng như không. Tôi chỉ nghĩ đến nhà tôi ở nhà, không biết ra sao. Tôi đi trở lại và thoáng thấy cái gì bám ở cái đèn để đầu toa, nhìn kỹ thì ra một con bướm thật to, vướng vào đèn, đương đập cánh để tìm đường thoát. Chính là con bướm trong cái hộp này đây.
Trông thấy con bướm tôi thốt nghĩ ra ngay. Chính phải rồi, chính cái hình người đàn bà lúc nãy là cái bóng con bướm này in lên trên sương mù, đầu con bướm là đầu hình người mà hai cánh con bướm đập là hai cái tay người vẫy.
Tôi bắt con bướm rồi định thả cho nó bay đi, sau nghĩ con bướm đã giúp mình được việc, nên giữ lại làm kỷ niệm. Tôi nhìn vào đồng hồ trong toa, thấy kim chỉ đúng hai giờ đêm...
Hôm sau tôi vừa về tới cổng nhà thì thằng nhỏ chạy ra báo tin nhà tôi mất, mất vào khoảng một giờ đêm qua.
Tôi không hay tin nhảm; tôi chắc đó chỉ là một sự tình cờ, một sự ngẫu nhiên, nhưng tôi vẫn yên trí rằng linh hồn nhà tôi đã nhập vào con bướm này để phù hộ cho tôi tránh được tai nạn hôm ấy. Nhưng tránh được tai nạn mà làm gì, tôi thoát được thân tôi mà làm gì, giầu sang phú quý bây giờ đối với tôi cũng như không, tôi cũng chỉ như con bướm này, xác đấy mà hồn tận đâu đâu.
Bạn tôi kể xong câu chuyện, đậy cái hộp khảm lại, rồi lại thẫn thờ nói:
- Bây giờ chỉ còn lại cái xác bướm không hồn!
Nhất Linh
KINH HOÀNG VỚI HIỆN TƯỢNG MA GIẤU
Có thể câu chuyện tôi kể ra dưới đây sẽ không làm các bạn ngạc nhiên cho lắm, nhưng đối với tôi đó là một trong những câu chuyện kinh dị xác thực nhất tôi đã từng nghe. Vì sao ư? Vì đó là sự thực, đó là một hiện tượng xảy ra cho những bạn trẻ hư không biết nghe lời.
Có thể bạn đã nhiều lần từng đặt chân tới Đà Lạt, nơi đây không chỉ có những cảnh vật đẹp tuyệt vời mà còn có những lời đồn đại về oan hồn ma quỷ, đó chính là những đặc trưng thuộc về Đà Lạt. Tôi sẽ không để các bạn sốt ruột, tôi sẽ đi ngay vào câu chuyện chính sau đây:
Thứ Sáu vừa rồi trường mẹ tôi tổ chức đi Đà Lạt dành cho khối 12, coi như đó là một kỷ niệm cuối cấp đáng nhớ cho các học sinh. Tôi thì không đi vì tôi nghĩ đi với "tụi lóc cóc" chẳng có gì vui thế là nằm vùi ở nhà. Và tôi đã được nghe diễn biến câu chuyện từ mẹ tôi, Giáo viên cấp III, vì thế đừng nói là tôi thổi phồng mọi chuyện.
Ngày đầu tiên mọi việc diễn ra suôn sẻ, tụi học sinh đi chơi và ngắm cảnh. Đến ngày thứ hai trường Tổ chức cho đi leo núi Lang Biang. Học sinh nào lên đỉnh núi đầu tiên sẽ giựt được giải "chinh phục" của trường trị giá 300.000đ.
Ai cũng hăng hái leo cật lực để về đích đầu tiên, và cũng không có ít học sinh ham tiền cố gắng suy nghĩ cách lên nhanh nhất, nhưng cũng chẳng có ai liều bằng cậu học sinh A1, lớp cô Hoàn chủ nhiệm.
Cậu ta cũng leo núi bình thường như các bạn, đến gần đích đột nhiên cậu ta nổi hứng rủ các bạn leo lên núi dốc bằng đường tắt. "Lối này tuy dốc và nhiều đá nhưng chúng mày yên tâm đi, lên đích nhanh lắm".
Thế nhưng 3 đứa bạn còn lại đi cùng nhóm, không ai tán thành. Chàng ta bỏ mặc sự can ngăn của bạn bè và tự tiếp tục "mở lối đi riêng!"
Cậu bé cứng đầu ấy tên là Hà Trung, hiện đang học lớp 12A1. Nói riêng một chút, chắc có lẽ bị sự mặc cảm anh trai cậu học hệ B, nên cậu có vẻ không thích đi chung với nhóm (1 nhóm 3 người, trong đó có anh trai Trung, đứa anh tuy quậy, nhưg có lẽ nó cũng biết nên chỉ biết đi khúm núm sau lưng thằng em).
Tách ra riêng rồi... Trung tiếp tục leo mãi theo hướng thẳng đứng, với dốc đá và độ cao khá nguy hiểm. Trong đầu đinh ninh một ý nghĩ rất trẻ con, là mình sẽ tới trước nhất. Dĩ nhiên sẽ chẳng có gì đáng nói nếu như Trung đi với một người bản xứ thông biết lối đi, đàng này cậu ta muốn tự thân, xung quanh chẳng có ai đi cùng, tiếng í ới đùa giỡn của các học sinh dần xa tầm tai của Trung, cậu ta cho rằng đó là chuyện bình thường, vì chắc mẩm mình đã leo cao lắm rồi (?) vì Trung sẽ đi đúng hướng cần đi.
Lúc này những ánh nắng đã chiếu rọi, Trung cảm thấy nóng, nóng vì leo núi và cũng nóng vì hừng hực khí thế, cậu ta bỏ chiếc áo lạnh ra và chỉ mặc duy nhất mỗi một chiếc áo ngắn tay.
Càng leo càng mệt và Trung càng thở dốc. Khi cả đoàn đã lên tới đỉnh núi và cũng đã xác định được người thắng cuộc, nhưng ngươờ thắng không phải là Trung. Những đứa bạn vô tư cười khẩy với nhau định bụng sẽ chọc tức Trung một trận ra trò khi gặp Trung tại đỉnh núi này, chúng hồn nhiên đâu biết rằng Trung đang dần lạc lối và đang chuẩn bị rơi vào cuôc chiến đấu với tử thần và rừng thiêng nước độc...
Càng leo Trung càng mệt. Có lẽ Trung cũng sẽ leo lên được đỉnh Lang Biang đúng hướng, nhưng cũng có lẽ một âm lực ma quỷ nào đó đã điều khiển tầm mắt của Trung và bẻ ngoặt hướng đi của Trung qua ngọn đồi bên cạnh.
Mà nghe nói rằng ngọn đồi này cây cối chằng chịt và rất âm u ghê rợn, thú dữ luôn chực chờ và những cái bẫy thú nếu dẫm nhầm phải là chết ngay tức khắc (bẫy thú của người dân tộc rất sâu và ngã xuống thì không có đường lên, 2-3 ngày người ta mới đi thăm bẫy thú 1 lần). Trung mất hồn, trời càng nắng Trung càng cố leo để mong gặp được một ai đó quen mặt trong đoàn mình.
Gần 12 giờ trưa, mọi người chuẩn bị xuống núi để dùng cơm, vẫn chưa thấy Trung đâu. Một số thầy cô đã nghi ngờ và điểm danh có mặt và xác định ngay sự vắng mặt của Trung. Trưa chiều cả trường sốt ruột, bắt đầu tá hoả vì không thấy Trung. Sẩm tối, cả đoàn hoảng hồn lên vì Trung lạc ngay núi Lang Biang. Khí hậu đã bắt đầu se lạnh thêm, ánh sáng dần nhường chỗ cho những bóng đèn, cột đèn néon ở ngoài đường.
Một kế hoạch truy tìm người bị lạc đã huy động cả công an toàn thành phố, mặt các thầy cô lo lắng vì sự mất tích của cậu học trò, còn những đứa con gái thì nhăn mặt rú rít lên vì sợ, còn các đứa con trai xì xầm một cách thất thần với nhau cái gì đó. Riêng ba đứa bạn cùng nhóm với Trung bắt đầu run rẩy và xám ngắt, nói gì thì nói, 3 đứa này cũng có một phần trách nhiệm trong đó.
Mẹ tôi thấy xót cả ruột khi biết được Trung chỉ mặc độc nhất chiếc áo ngắn tay, bữa trưa và bữa tối nó cũng chưa ăn gì. Một thầy giáo vội tìm đến ngôi làng của người dân tộc bản xứ, đưa tiền cho họ để hỏi thăm tung tích của Trung và các thầy cô rợn hết cả tóc gáy khi nghe người dân tộc nói:
Một là chỉ có 5% nó đi lạc, 2 là 85% nó đã chết bị sẩy chân té vực hoặc thú dữ ăn thịt, 10% còn lại nó đã bị ma giấu. Không thể nào tìm được.
Càng leo Trung càng kiệt sức vừa đói lại vừa lạnh, Trung tủi thân rất nhiều. Chỉ mới bảy giờ mà trong rừng tối đen như mực, Trung cố sức kêu gọi khản cổ mà đáp lại chỉ là tiếng vọng của núi rừng. Xung quanh Trung bây giờ chỉ còn tiếng cú, tiếng côn trùng kêu và tiếng Trung đi đạp lên lá khô loạt xoạt.
Đột nhiên Trung cảm thấy ớn lạnh, Trung ngồi xuống đám lá nghỉ mệt một chút rồi lại mò lối để đi tiếp.
9 giờ tối, ánh trăng vằng vặc chiếu xuống khu rừng làm cho cây cối mang những hình thù quái dị và ghê rợn, Trung bắt đầu tự nhát mình, Trung nhìn cây nào cũng tưởng như nó đang nhìn lại Trung, cười khanh khách và quơ tay vẫy Trung.
Cũng trong thời gian này cả trường vẫn đang náo loạn, các thầy cô, CA và cả người dân tộc đang bủa vào rừng tìm cậu ta. Mọi người cũng có những suy nghĩ tiêu cực nhưng không dám nói (nếu Trung chết thì cũng phải tìm bằng được xác cậu ta mới về).
Cô Hoàn chủ nhiệm lớp Trung rất tội, cô lo cho cậu học sinh của mình, cô bỏ ăn, bỏ nghỉ ngơi, trên tay thường trực chiếc điện thoại di động, cũng không thể nào nhớ được hôm đó cô đã gọi đi bao nhiêu cuộc điện thoại. Cô đã khóc rất nhiều, người tiều tuỵ hẳn đi.
Một số thầy cô được giao ở lại trông nom và trấn an lũ học sinh, số còn lại cùng CA và người thiểu số leo tiếp lên núi để tìm Trung trong những ngọn đèn pin leo lét. Rừng về đêm thật khủng khiếp, nó âm u và đáng sợ, cộng thêm cái lạnh trên dưới 5 độ C làm cho mọi người đều sởn gai ốc.
Những người dân tộc sống ở vùng núi rất hay, họ có thể nhìn trên những đám lá khô mà thấy được có dấu chân người hay dấu chân thú đi qua lối nào. Vì thế họ đã nhìn và khẳng định Trung leo hẳn sang ngọn đồi bên kia (đứng trên đỉnh Lang Biang có thể nhìn thấy).
Cả đoàn người lại hớt hãi chạy đi tìm Trung, tiếng nói chuyện, tiếng gọi vang cả khu rừng, nhưng vẫn không nghe thấy tiếng trả lời dù là lời thều thào nhỏ nhất. Riêng cô Nga tổ Văn ráng sức đâm thẳng qua đỉnh ngọn đồi ấy, nhưng không hiểu sao cô không thể nào đi tiếp được, dưới những đám lá chi chít đầy những gai và hố.
Vì thế không hiểu bằng cách nào Trung vẫn băng qua được những đám hố gai này và hướng thẳng lên đỉnh núi (theo dấu chân cậu ta đã để lại). Cả Đoàn không đi tiếp được nữa đành ở vị trí đó mà ráng sức gọi. Hơn 11g đêm mọi chuyện vẫn chưa đâu vào đâu, vẫn rối tinh rối mù.
Về phần Trung sau khi nghỉ mệt và cố gắng lết đi tiếp Trung quá đuối sức. Trời quá tối Trung mò mẫm đi mà không xác định được phương hướng, Trung kéo lê từng bước mệt nhọc. Trung đã từng nghĩ đến cái chết và hình ảnh thân thương đầu tiên hiện lên trong tâm trí cậu là mẹ mình và toàn bộ gia đình, Trung thấy hối hận thấy sợ hãi và hoảng loạn. Trung đã khóc rất nhiều và ngất đi không còn biết gì nữa.
Tỉnh dậy, trăng đã lên đỉnh đầu. Hàm răng run lập cập vì quá lạnh, mặt mũi Trung tái mét, lờ đờ hốc hác như người bị bỏ đói lâu ngày. Trung cố gắng lê thêm mấy bước, dưới ánh trăng lờ mờ cậu ta thấy một chấm tròn màu trắng ở xa xa.
Mất ý thức, Trung vội vã leo ngay lên đó, không cần biết nó là cái gì và nó ra sao, mặc kệ cho đôi môi tím tái vì lạnh cùng với đôi chân đầy những vết trầy xước tứa máu. Trung thấy như in trong mắt cậu ta là một ngôi miếu nhỏ, Trung thấy trong ngôi miếu này có chăn, có chiếu, có gối như là có ai đã sắp đặt để "chờ đón" Trung vậy.
Nhưng cái lạ là ở chỗ, trước thềm tam cấp có treo một tấm bảng loè loẹt nét chữ màu đỏ: "Cấm Vào Nếu Không Sẽ Bị Bắn Chết", nét chữ xiên xiên vẹo vẹo cùng với màu sơn đó khiến Trung có cảm tưởng như ai đó lấy máu quệt bằng ngón tay mà thành tấm bảng này vậy. Trung thấy lành lạnh sau gáy cậu bước thụt lùi, chỉ dám đứng ngó cái chiếu có bày sẵn chăn mền ngay ở cửa miếu dưới ánh trăng ma quái.
Được một lúc thật lâu, với cái rét căm căm và những đốm sáng lập loè của mắt thú rừng xa xa, Trung đánh liều chui vào đại để trú qua đêm nay. Trung đói bụng quá, lại vừa mệt định bụng sẽ ngủ nhưng không hiểu sao chăn chiếu lúc nãy biến đâu mất hết?
Trung ảo giác ư chắc chắn không phải, Trung không mệt đến độ không nhìn được vật ngay sát mắt? Ma ư? Không, lại càng không, Trung vốn là người theo Đạo Thiên chúa, Trung không tin vào mấy chuyện ma quái gì vớ vẩn ở đây cả. Thây kệ Trung ngả lưng và co quắp để cố chống chọi với cái lạnh. Trung bắt đầu thiếp đi, là chiếc đồng hồ đeo trên tay Trung chỉ đúng... 12g đêm!
Cả đoàn người đêm ấy bị một phen mất ngủ, một số người hồi hộp lẩm bẩm cầu nguyện điều gì đó. Ai cũng loé lên suy nghĩ Trung bị té vực, nhưng cũng không ai dám mạnh miệng để nêu lên trường hợp ấy. Những câu trò chuyện, những sự hoạt động của mọi người cũng chỉ để cho có, chỉ để xua đi những ý nghĩ quái quỷ đeo bám, mọi người như vô hồn, thẫn thờ ngồi chờ đợi tin tức của Trung, mong một điều gì đó kỳ lạ có thể xảy ra.
Thiếp đi trong cơn mê, Trung nghe thoang thoảng rất nhiều tiếng người í ới gọi cậu, nhưng vì Trung quá mệt và quá đuối rồi, Trung không gượng dậy nổi nữa. Trung cố hết sức nhưng chỉ nghe được những tiếng kêu âm ỉ phát ra từ họng mình, như là có một bàn tay vô hình nào đó chắn ngang trước miệng Trung, cản tiếng gọi của Trung.
Ngoài kia ánh đèn pin rọi qua rọi lại, các thầy cô đi qua lại gần ngay trước mặt Trung, Trung có thể nhìn thấy bóng họ nhưng tuyệt nhiên họ không nhìn thấy cậu ta.
Đoàn người ra về trong sự mệt mỏi, các thầy không tránh khỏi lo lắng, còn các cô thì mắt trũng lại vì khóc và vì thất vọng. Các thầy cô định bụng rằng về sẽ nghỉ một giấc rồi 2-3 tiếng sau (lúc trời sáng) sẽ vào rừng tìm Trung tiếp.
Về đến nơi đồng hồ chỉ 2g30. Trời gần sáng khu rừng có chút ánh mặt trời thì lại thấy đỡ ghê sợ hẳn. Tiếng lá khô lại loạt xoạt vì những bước chân của mọi người bủa đi tìm. Chợt thầy Long không tin vào mắt mình khi thấy thấp thoáng đằng xa Trung đang từ từ bước xuống, khuôn mặt Trung tái nhợt vì lạnh, hai chân run rẩy không vững.
Không chần chừ một giây thầy bước tới đỡ Trung, quá xúc động hai thầy trò ôm nhau khóc ròng, ngay cả những người khác cũng quá vui mừng mà không cầm được nước mắt.
Dẫn Trung về Khách sạn, không khí nặng nề bao trùm trên những khuôn mặt lo sợ dần tan biến, mọi người đều thở phào tạ ơn Bề trên đã giúp đỡ.
Người dân tộc nói đây là hiện tượng "ma đưa lối, quỷ dẫn đường", nghĩa là ma quỷ chỉ muốn hù con người và cảnh cáo họ khi họ lọt vào địa phận cấm mà không xin phép, chứ không hề làm hại một ai. Khoảng vài ngày sau ma quỷ sẽ trả người về địa thế.
Ngay cả những người theo đạo Thiên chúa dưới chân núi cho biết: họ vốn không tin vào những chuyện này, nhưng khi sinh sống ở đây, chứng kiến hàng chục trường hợp tương tự, họ không tin cũng phải tin! Bên cạnh đó, họ còn cho biết thêm là thường thì ma giấu người rất lâu (khoảng 3 ngày), nhưng chắc vừa rồi quá đông người tìm kiếm đã đánh động cả khu rừng, vì không muốn phiền đến địa phận thiêng nên ma quỷ đã trả Trung về sớm. Tôi cũng xin nhấn mạnh lại các chi tiết:
- Trung leo đúng đường, nhưng không hiểu sao bị bẻ ngoặt hướng sang ngọn đồi bên cạnh.
- Trung điềm nhiên băng qua được các bẫy thú dưới đám lá khô, mà cũng là con đường đó thì không ai qua được.
- Giữa chốn núi rừng hoang vu lại xuất hiện một ngôi miếu ở gần trên đỉnh, ai rảnh đi xây miếu? Và để làm gì? vì dưới chân núi đã có miếu rồi?
- Một điều lạ nữa trong miếu lại để sẵn chăn mền chờ Trung, để Trung chui vào rồi thì lại biến mất?
- Cậu trai lạc giữa rừng với thời tiết lạnh 2 độ C, duy nhất một chiếc áo ngắn, không ăn không uống vẫn có sức lết xuống núi?
Tôi không biết suy nghĩ của bạn thế nào, nhưng riêng tôi thì tôi thấy quá sợ hãi khi kể lại câu chuyện này, và tôi tin: "Ma giấu" là có thực.
NKM
CHUYỆN VỀ NHỮNG NGƯỜI BIẾT BAY
Các vị thần trong thần thoại phương Đông có một khả năng đặc biệt. Họ có thể bay. Tuy nhiên những người bình thường như các giáo sĩ Bà La môn ở Ấn Độ, người luyện Yoga, các thuật sĩ và ẩn sĩ cũng có thể khinh công và lơ lửng trong không khí.
Có một chương trong kinh Vệ Đà nói về thuật bay lên, trong đó hướng dẫn phương pháp luyện tập đạt tới tình trạng nhấc mình lên khỏi mặt đất. Nhưng không may trải qua nhiều thế kỷ, nhiều từ cổ Ấn Độ và các khái niệm trong đó đã bị quên mất, nên những điều truyền thụ vô giá này không thể chuyển được thành ngôn ngữ hiện đại.
Cũng liên quan đến những người biết bay thời cổ, nhiều tài liệu chép tay cho biết họ có thể tự nhấc mình lên khỏi mặt đất đến chín mươi cm. Họ làm việc này không phải để biểu diễn cho công chúng xem, mà chỉ vì mục đích chọn một vị trí phù hợp, nhằm thực hiện những nghi thức tôn giáo.
Thuật khinh công đã tồn tại từ rất lâu ở Ấn Độ và Tây Tạng. Nhiều nhà bác học, trong các cuộc nghiên cứu về phương Đông đã đề cập đến các "thầy tu Tây Tạng biết bay".
Alexandra David Neel, một nhà thám hiểm người Anh, một ngày nọ đã chứng kiến một tu sĩ Phật giáo bay lên khỏi mặt đất hàng chục mét trên cao nguyên đầy thông, Cnang Tang. Neel kể lại rằng tu sĩ nọ bật lên khỏi mặt đất nhiều lần như một quả bóng tennis nẩy.
Cặp mắt của ông ta hướng về một số ngôi sao đang ở nơi nào đó trên bầu trời để xác định vị trí đến. Vị tu sĩ ấy có thể thấy được các vì sao vào ban ngày...
Những người châu Âu từ lâu cũng đã quan tâm đến khả năng bay lên của con người. Tuy nhiên có một sự khác biệt lớn giữa những người biết bay thời Trung cổ ở phương Đông và phương Tây.
Không giống những giáo sĩ Bà La Môn, thuật sĩ Yoga và những ẩn sĩ, các tu sĩ ở châu Âu không tham gia bất cứ một lớp huấn luyện đặc biệt nào để được bay lên. Họ thường lơ lửng trong không trung sau khi đã đạt đến trạng thái xuất thần.
Theo những tài liệu đáng tin cậy, Thánh Theresa nữ tu dòng Carmelite, là một trong những người có thuật khinh công của thời Trung cổ. Bà đã bay trước sự chứng kiến của hai trăm ba mươi tu sĩ Công giáo. Vị nữ tu đã viết về "món quà" bất thường của mình trong tự truyện vào năm 1565. Một điều cần lưu ý trong tự truyện này là bản thân Thánh Theresa không muốn bay.
Bà đã mất nhiều giờ cầu nguyện trong một nỗ lực xin thoát khỏi năng lực đặc biệt này. Vào một đêm nọ, Thượng đế đã nghe được lời cầu xin của bà và người nữ tu không bao giờ còn bay được nữa.
Josef Desa từng là "người bay" nổi tiếng nhất. Ông ta xuất thân từ một gia đình mộ đạo ở miền Nam Italy. Từ khi còn là một cậu bé, Josef đã là một người rất sùng tín, sẵn sàng chịu đựng mọi khổ hạnh để đạt được trạng thái xuất thần. Sau đó, ông gia nhập dòng thánh Francis và luyện được khả năng bay.
Giới khoa học đã quan sát hơn một trăm trường hợp về khả năng bay của Josef và ghi chép những nhận xét trong tài liệu chính thức. Tuy nhiên những người Cơ đốc giáo tỏ ra không hài lòng về hiện tượng này, và hậu quả là Josef được đưa đến một tu viện xa xôi vào năm 1653. Ba tháng sau ông lại phải đến một tu viện khác, rồi tiếp tục đến một tu viện khác nữa...
Khi Josef xuất hiện, tin tức về "người có phép mầu" lan ra nhanh chóng. Nhiều người từ những vùng lân cận tìm đến đứng bên ngoài bức tường của tu viện chờ đợi một điều kỳ diệu. Cuối cùng Josef lại được đưa đến một tu viện ở Osimo. Ông đã mất tại đây vào năm 1663 và được phong thánh bốn tháng sau đó.
Daniel Douglas Hewm là người có thuật phi thân nổi tiếng nhất thế kỷ 19. Trên một tờ báo Mỹ, một nhà báo đã mô tả trạng thái bồng bềnh trong không gian của Hewm như sau: "Bất thình lình Hewm bắt đầu nhấc mình lên khỏi mặt đất khiến những người trong phòng sửng sốt, ngạc nhiên. Tôi thấy chân của ông ta cách mặt đất khoảng 0,3 mét. Ông ta vọt lên rồi hạ xuống. Đến lần thứ ba thì ông ta chạm trần nhà..."
Hewm đã biểu diễn năng lực đặc biệt này trước hàng nghìn khán giả, trong đó có cả những người nổi tiếng như William Makepeace Thackeray, Mark Twain, Napoleon III cùng những nhà chính trị, bác sĩ, khoa học gia. Người ta không phát hiện ra sự lừa đảo nào trong hiện tượng này.
Có nhiều tranh cãi liên quan đến sự bay lên của con người. Một số nhà nghiên cứu nói rằng đó là sản phẩm của trường sinh học, tạo ra bởi một dạng năng lượng tinh thần đặc biệt phát ra từ não người.
Bác sĩ Alexander Dubrov chuyên gia về sinh vật học, là người ủng hộ giả thiết này. Ông chỉ ra rằng trường sinh học được tạo ra một cách có chủ ý bởi người phi thân, do đó họ có thể kiểm soát và thay đổi hướng khi lơ lửng trên không.
ST
Ở ngoài, đêm tối như mực. Trong toa hạng nhì, riêng tôi ngồi đối diện với Trạch, một người bạn cũ, tình cờ gặp vì cùng đi một chuyến xe. Mười năm trước, bạn tôi còn là một người cầm lái xe lửa, cũng hàn vi như tôi; bây giờ gặp nhau trong toa hạng nhì, hai người cùng ngạc nhiên và cùng mừng cho nhau.
Lúc nói chuyện, tôi thấy bên cạnh bạn có cái hộp khảm rất đẹp, liền cầm lấy xem, rồi tình cờ mở hộp ra; bạn tôi như có ý không bằng lòng, nhưng vì nể tôi nên không nói gì. Tôi nhìn vào hộp thấy rất lạ: hộp bịt kín, ở trong có một con bướm rất to, hai cánh đã xơ xác. Tôi hỏi bạn:
- Con bướm này vùng tôi thường thấy luôn, quý gì mà anh giữ cẩn thận thế này.
- Vâng, bướm thường, nói cho đúng thì chính là một con ngài, nhưng đối với tôi..
Vừa nói đến đấy, xe rầm rầm đi qua một cái cầu sắt. Bạn tôi lắng tai nghe rồi nói:
- Xe đi qua cầu N.G.. Tôi bắt con bướm chính ở giữa cái cầu này đã mười năm nay..
Thấy bạn có vẻ khác, tôi đoán có chuyện gì, liền hỏi:
- Con bướm này chắc cũng có sự tích gì đấy
- Vâng, nhưng sự tích buồn... chuyện đã ngoài mười năm: mười năm trước độ anh đi Saigon thì tôi còn là anh cầm lái tầu hỏa. Chính độ ấy tôi chạy con đường này, tình cảnh tôi độ ấy anh đã rõ.
- Cũng như tình cảnh tôi..
- Nhưng có một việc tôi không nói anh hay là độ ấy tôi có lấy một người vợ, nhưng giấu nhà, giấu mọi người, giấu anh. Chúng tôi sống trong tình cảnh nghèo khổ mà thật lấy làm sung sướng. Nhưng vì cảnh nghèo, vì nhà tôi không quen chịu được kham khổ nên người một ngày một yếu dần.
Về sau nhà tôi bị bịnh nặng mà tôi thì vẫn phải đi làm, không ai trông nom ở nhà. Một đêm nhà tôi yếu quá ngất người đi mấy lần, mà chính đêm ấy là đêm tôi được ông Chánh cử đi cầm lái chuyến xe riêng chở quan Toàn Quyền. Thật là một dịp rất hay cho tôị Nhưng tôi biết không thể nào đi được, liền vào kêu với ông Chánh, nói là vợ ốm. Ông Chánh đập bàn đập ghế, gắt:
- Tôi không biết! Một là mười giờ đêm nay anh phải có mặt ở ga, hai là từ giờ này trở đi anh đừng bước chân tới đây nữa. Thôi anh ra!
Lời ông Chánh nói quả quyết, tôi phân vân không biết nghĩ ra sao: lúc về nhà, ngồi ở đầu giường, nhìn đến vợ mới biết rằng không đi được, dầu có mất việc làm cũng không cần.
Nhà tôi thấy tôi có vẻ lo nghĩ, hỏi nguyên cớ vì sao, tôi liền đem việc ấy kể lại cho nhà tôi nghẹ Nhà tôi nghe xong, vẻ mặt tươi hẳn lên bảo tôi rằng:
- Thế cậu đi chứ! Việc gì phải ngần ngừ! Tôi không việc gì đâu, đã thấy đỡ nhiều. Chiều mai về mua cái gì làm quà cho tôi đấy.
Tôi thấy nhà tôi cười nói vui vẻ, tôi vững tâm, thay quần áo ra ga. Đến ga đúng mười giờ. Nhưng khi cho xe chạy rồi, tôi mới thấy lo, tôi mới biết là tôi liều Lúc đó tôi có cái cảm giác lạ lắm: hình như tôi đi thế này, lúc về chắc không nhìn thấy mặt vợ tôi nữa. Tôi cố định trí để cầm máy, nhưng chỉ được một lúc thôi.
Bỗng cả chuyến xe lửa nghiêng về một bên, rồi lắc lư như muốn đổ. Người "ét" của tôi vội bỏ cái xẻng xúc than, níu lấy tôi nói:
- Ô hay! hôm nay ông làm sao thế? Chỗ ấy đường cong nguy hiểm thế mà ông không hãm máy. Ông ngủ à?
Tôi không ngủ nhưng người tuy ở đây mà trí còn nghĩ đến người vợ nằm đợi chết một thân, một mình trong gian nhà nhỏ kia. Mắt tôi hoa lên, mồ hôi ra ướt đẫm cả người.
Xe đi vào khe núi, hết cao lại xuống thấp như có vẻ nhọc nhằn. Tôi thò đầu ra cửa nhìn thẳng trước mặt, nhưng đêm ấy sương mù đầy trời, không nhìn rõ gì cả, chỉ một màu trắng xóa dưới ánh hai cái đèn ở đầu toa. Bỗng tôi thấy.. rõ ràng, tôi thấy in trên sương mù một cái hình người đàn bà mặc áo rộng đứng dang tay. Tôi dụi mắt tưởng mình trông hoảng, nhưng không, hình người đàn bà vẫn đấy. Tôi gọi người "ét" lại cửa toa, bảo ông ta nhìn rồi hỏi:
- Bác có thấy gì không?
Vừa nói xong hình người vụt biến mất. Bác "ét" thò đầu ra và bảo tôi:
- Chỉ thấy sương mù! ông lại mê ngủ rồi.
- Không rõ ràng tôi thấy có hình người đàn bà in trên sa mù nhưng vừa biến mất.
Người "ét" cười ra vẻ không tin, lấy xẻng xúc than cho vào lò, còn tôi vẫn đứng nguyên chỗ cũ đăm đăm nhìn thẳng trước mặt. Được một lát, hình người đàn bà lại hiện ra, lần này rõ ràng hơn, hai tay ngăn thẳng như muốn ngăn đường không cho xe chạy lên nữa.
Tôi gọi người "ét" nhưng bác ta làm bộ không nghe thấy cứ cắm đầu xúc than cho vào lò. Tôi biết tôi không mê, tôi biết là cái hình người ấy có thật, mà ai cũng phải thấỵ Tôi đến cầm lấy tay bác "ét" kéo bác ra xem rồi bảo, cả quyết:
- Nhìn xem!
Bác ta há hốc mồm giương to đôi mắt, hốt hoảng nói:
- Lạ thật!... ma ông ạ!
Xe tiến đến đâu, cái hình người lại đến đấy, có lúc mờ, lúc rõ, lơ lửng giữa lưng trời.
Rồi cái hình người ấy vẫy hai tay một cách thong thả, như có ý bảo chúng tôi đừng tiến lên nữa, có sự gì nguy hiểm.
Tôi bảo bác "ét":
- Bác này, có sự gì lạ sắp xảy ra.
- Vâng, sao cái hình lại như lấy tay làm hiệu bảo ta đứng lại.
Cái hình người trước còn vẫy tay thong thả, sau vẫn thật nhanh như người tỏ ý thất vọng, vì bảo chúng tôi mà chúng tôi không nghe.
- Hay ta dừng xe lại xem sao, chắc là ma!
- Không được, tự nhiên vô cớ.
Còn tôi lúc bây giờ hai tai ù như người mất trí khôn: tôi văng vẳng nghe có tiếng người ở thật xa đưa lại, tiếng một người đàn bà bảo tôi:
- Đỗ lại! Đỗ lại!
Tôi lắng tai, tay nắm chặt lấy cái "phanh" như định hãm rồi lại không hãm.
Một lát, tôi lại nghe thấy tiếng người đàn bà, rõ hơn lần trước, giục tôi:
- Hãm lại! Hãm ngay lại!
Lúc bấy giờ tôi không biết gì nữa, nhắm mắt hãm phanh lại thật mạnh. Các toa rùng một cái, bánh xe kêu rít lên trong đêm thanh vắng. Xe chạy từ từ một quãng rồi đỗ hẳn. Tôi chưa kịp bước xuống, đã thấy người "xếp tanh" cầm đèn lên hỏi:
- Việc gì thế?
Tôi luống cuống không biết trả lời làm sao, vì nói thật ai tin mình. Tôi trả lời một cách mập mờ:
- Chắc có sự gì lạ. Để tôi cầm đèn đi xem đã.
Lúc bấy giờ mấy ông quan hầu quan Toàn Quyền cũng vừa đến, rồi thấy lạ, đi theo chúng tôị Vừa đi được một quãng thì nghe trước mặt có tiếng nước chảy ầm ầm. Tôi định tâm mới nhớ ra rằng đó là cầu N.G..
Mấy đêm ấy mưa lũ, nước chắc chảy xiết, nên mới réo to như vậỵ Đến bờ sông, giơ đèn lên soi, mấy người đều kinh hoảng: cái cầu N.G. bị nước nguồn chảy về xoáy gẫy làm đôi.
Một tí nữa, nếu không hãm kịp thì cả một chuyến xe riêng chở quan Toàn Quyền đâm nhào xuống sông sâu, chắc không sống sót một ai; tưởng không có cái tai nạn nào ghê gớm hơn, thế mà chính vì tôi nên mới không có cái tai nạn ấy. Tôi đứng ngẩn người không hiểu sao cả.
Người "xếp tanh" mừng cuống quít, hỏi tôi:
- Sao ông biết mà hãm?
- Tôi cũng không hiểu.
Mấy người quan hầu có vẻ mừng lộ ra mặt, xúm xít quanh tôi hỏi dồn, tôi không biết trả lời ra sao, một lát, mọi người đứng giãn ra, quan Toàn Quyền đến, ngài không nề tôi là người lao động, trong lúc mừng quá, ngài giơ tay bắt tay tôi, cái bàn tay đầy bụi than, rồi ngài tỏ lời khen.
Tôi chắc rồi sau thế nào cũng được trọng thưởng, nhưng trọng thưởng lúc đó đối với tôi cũng như không. Tôi chỉ nghĩ đến nhà tôi ở nhà, không biết ra sao. Tôi đi trở lại và thoáng thấy cái gì bám ở cái đèn để đầu toa, nhìn kỹ thì ra một con bướm thật to, vướng vào đèn, đương đập cánh để tìm đường thoát. Chính là con bướm trong cái hộp này đây.
Trông thấy con bướm tôi thốt nghĩ ra ngay. Chính phải rồi, chính cái hình người đàn bà lúc nãy là cái bóng con bướm này in lên trên sương mù, đầu con bướm là đầu hình người mà hai cánh con bướm đập là hai cái tay người vẫy.
Tôi bắt con bướm rồi định thả cho nó bay đi, sau nghĩ con bướm đã giúp mình được việc, nên giữ lại làm kỷ niệm. Tôi nhìn vào đồng hồ trong toa, thấy kim chỉ đúng hai giờ đêm...
Hôm sau tôi vừa về tới cổng nhà thì thằng nhỏ chạy ra báo tin nhà tôi mất, mất vào khoảng một giờ đêm qua.
Tôi không hay tin nhảm; tôi chắc đó chỉ là một sự tình cờ, một sự ngẫu nhiên, nhưng tôi vẫn yên trí rằng linh hồn nhà tôi đã nhập vào con bướm này để phù hộ cho tôi tránh được tai nạn hôm ấy. Nhưng tránh được tai nạn mà làm gì, tôi thoát được thân tôi mà làm gì, giầu sang phú quý bây giờ đối với tôi cũng như không, tôi cũng chỉ như con bướm này, xác đấy mà hồn tận đâu đâu.
Bạn tôi kể xong câu chuyện, đậy cái hộp khảm lại, rồi lại thẫn thờ nói:
- Bây giờ chỉ còn lại cái xác bướm không hồn!
Nhất Linh
KINH HOÀNG VỚI HIỆN TƯỢNG MA GIẤU
Có thể câu chuyện tôi kể ra dưới đây sẽ không làm các bạn ngạc nhiên cho lắm, nhưng đối với tôi đó là một trong những câu chuyện kinh dị xác thực nhất tôi đã từng nghe. Vì sao ư? Vì đó là sự thực, đó là một hiện tượng xảy ra cho những bạn trẻ hư không biết nghe lời.
Có thể bạn đã nhiều lần từng đặt chân tới Đà Lạt, nơi đây không chỉ có những cảnh vật đẹp tuyệt vời mà còn có những lời đồn đại về oan hồn ma quỷ, đó chính là những đặc trưng thuộc về Đà Lạt. Tôi sẽ không để các bạn sốt ruột, tôi sẽ đi ngay vào câu chuyện chính sau đây:
Thứ Sáu vừa rồi trường mẹ tôi tổ chức đi Đà Lạt dành cho khối 12, coi như đó là một kỷ niệm cuối cấp đáng nhớ cho các học sinh. Tôi thì không đi vì tôi nghĩ đi với "tụi lóc cóc" chẳng có gì vui thế là nằm vùi ở nhà. Và tôi đã được nghe diễn biến câu chuyện từ mẹ tôi, Giáo viên cấp III, vì thế đừng nói là tôi thổi phồng mọi chuyện.
Ngày đầu tiên mọi việc diễn ra suôn sẻ, tụi học sinh đi chơi và ngắm cảnh. Đến ngày thứ hai trường Tổ chức cho đi leo núi Lang Biang. Học sinh nào lên đỉnh núi đầu tiên sẽ giựt được giải "chinh phục" của trường trị giá 300.000đ.
Ai cũng hăng hái leo cật lực để về đích đầu tiên, và cũng không có ít học sinh ham tiền cố gắng suy nghĩ cách lên nhanh nhất, nhưng cũng chẳng có ai liều bằng cậu học sinh A1, lớp cô Hoàn chủ nhiệm.
Cậu ta cũng leo núi bình thường như các bạn, đến gần đích đột nhiên cậu ta nổi hứng rủ các bạn leo lên núi dốc bằng đường tắt. "Lối này tuy dốc và nhiều đá nhưng chúng mày yên tâm đi, lên đích nhanh lắm".
Thế nhưng 3 đứa bạn còn lại đi cùng nhóm, không ai tán thành. Chàng ta bỏ mặc sự can ngăn của bạn bè và tự tiếp tục "mở lối đi riêng!"
Cậu bé cứng đầu ấy tên là Hà Trung, hiện đang học lớp 12A1. Nói riêng một chút, chắc có lẽ bị sự mặc cảm anh trai cậu học hệ B, nên cậu có vẻ không thích đi chung với nhóm (1 nhóm 3 người, trong đó có anh trai Trung, đứa anh tuy quậy, nhưg có lẽ nó cũng biết nên chỉ biết đi khúm núm sau lưng thằng em).
Tách ra riêng rồi... Trung tiếp tục leo mãi theo hướng thẳng đứng, với dốc đá và độ cao khá nguy hiểm. Trong đầu đinh ninh một ý nghĩ rất trẻ con, là mình sẽ tới trước nhất. Dĩ nhiên sẽ chẳng có gì đáng nói nếu như Trung đi với một người bản xứ thông biết lối đi, đàng này cậu ta muốn tự thân, xung quanh chẳng có ai đi cùng, tiếng í ới đùa giỡn của các học sinh dần xa tầm tai của Trung, cậu ta cho rằng đó là chuyện bình thường, vì chắc mẩm mình đã leo cao lắm rồi (?) vì Trung sẽ đi đúng hướng cần đi.
Lúc này những ánh nắng đã chiếu rọi, Trung cảm thấy nóng, nóng vì leo núi và cũng nóng vì hừng hực khí thế, cậu ta bỏ chiếc áo lạnh ra và chỉ mặc duy nhất mỗi một chiếc áo ngắn tay.
Càng leo càng mệt và Trung càng thở dốc. Khi cả đoàn đã lên tới đỉnh núi và cũng đã xác định được người thắng cuộc, nhưng ngươờ thắng không phải là Trung. Những đứa bạn vô tư cười khẩy với nhau định bụng sẽ chọc tức Trung một trận ra trò khi gặp Trung tại đỉnh núi này, chúng hồn nhiên đâu biết rằng Trung đang dần lạc lối và đang chuẩn bị rơi vào cuôc chiến đấu với tử thần và rừng thiêng nước độc...
Càng leo Trung càng mệt. Có lẽ Trung cũng sẽ leo lên được đỉnh Lang Biang đúng hướng, nhưng cũng có lẽ một âm lực ma quỷ nào đó đã điều khiển tầm mắt của Trung và bẻ ngoặt hướng đi của Trung qua ngọn đồi bên cạnh.
Mà nghe nói rằng ngọn đồi này cây cối chằng chịt và rất âm u ghê rợn, thú dữ luôn chực chờ và những cái bẫy thú nếu dẫm nhầm phải là chết ngay tức khắc (bẫy thú của người dân tộc rất sâu và ngã xuống thì không có đường lên, 2-3 ngày người ta mới đi thăm bẫy thú 1 lần). Trung mất hồn, trời càng nắng Trung càng cố leo để mong gặp được một ai đó quen mặt trong đoàn mình.
Gần 12 giờ trưa, mọi người chuẩn bị xuống núi để dùng cơm, vẫn chưa thấy Trung đâu. Một số thầy cô đã nghi ngờ và điểm danh có mặt và xác định ngay sự vắng mặt của Trung. Trưa chiều cả trường sốt ruột, bắt đầu tá hoả vì không thấy Trung. Sẩm tối, cả đoàn hoảng hồn lên vì Trung lạc ngay núi Lang Biang. Khí hậu đã bắt đầu se lạnh thêm, ánh sáng dần nhường chỗ cho những bóng đèn, cột đèn néon ở ngoài đường.
Một kế hoạch truy tìm người bị lạc đã huy động cả công an toàn thành phố, mặt các thầy cô lo lắng vì sự mất tích của cậu học trò, còn những đứa con gái thì nhăn mặt rú rít lên vì sợ, còn các đứa con trai xì xầm một cách thất thần với nhau cái gì đó. Riêng ba đứa bạn cùng nhóm với Trung bắt đầu run rẩy và xám ngắt, nói gì thì nói, 3 đứa này cũng có một phần trách nhiệm trong đó.
Mẹ tôi thấy xót cả ruột khi biết được Trung chỉ mặc độc nhất chiếc áo ngắn tay, bữa trưa và bữa tối nó cũng chưa ăn gì. Một thầy giáo vội tìm đến ngôi làng của người dân tộc bản xứ, đưa tiền cho họ để hỏi thăm tung tích của Trung và các thầy cô rợn hết cả tóc gáy khi nghe người dân tộc nói:
Một là chỉ có 5% nó đi lạc, 2 là 85% nó đã chết bị sẩy chân té vực hoặc thú dữ ăn thịt, 10% còn lại nó đã bị ma giấu. Không thể nào tìm được.
Càng leo Trung càng kiệt sức vừa đói lại vừa lạnh, Trung tủi thân rất nhiều. Chỉ mới bảy giờ mà trong rừng tối đen như mực, Trung cố sức kêu gọi khản cổ mà đáp lại chỉ là tiếng vọng của núi rừng. Xung quanh Trung bây giờ chỉ còn tiếng cú, tiếng côn trùng kêu và tiếng Trung đi đạp lên lá khô loạt xoạt.
Đột nhiên Trung cảm thấy ớn lạnh, Trung ngồi xuống đám lá nghỉ mệt một chút rồi lại mò lối để đi tiếp.
9 giờ tối, ánh trăng vằng vặc chiếu xuống khu rừng làm cho cây cối mang những hình thù quái dị và ghê rợn, Trung bắt đầu tự nhát mình, Trung nhìn cây nào cũng tưởng như nó đang nhìn lại Trung, cười khanh khách và quơ tay vẫy Trung.
Cũng trong thời gian này cả trường vẫn đang náo loạn, các thầy cô, CA và cả người dân tộc đang bủa vào rừng tìm cậu ta. Mọi người cũng có những suy nghĩ tiêu cực nhưng không dám nói (nếu Trung chết thì cũng phải tìm bằng được xác cậu ta mới về).
Cô Hoàn chủ nhiệm lớp Trung rất tội, cô lo cho cậu học sinh của mình, cô bỏ ăn, bỏ nghỉ ngơi, trên tay thường trực chiếc điện thoại di động, cũng không thể nào nhớ được hôm đó cô đã gọi đi bao nhiêu cuộc điện thoại. Cô đã khóc rất nhiều, người tiều tuỵ hẳn đi.
Một số thầy cô được giao ở lại trông nom và trấn an lũ học sinh, số còn lại cùng CA và người thiểu số leo tiếp lên núi để tìm Trung trong những ngọn đèn pin leo lét. Rừng về đêm thật khủng khiếp, nó âm u và đáng sợ, cộng thêm cái lạnh trên dưới 5 độ C làm cho mọi người đều sởn gai ốc.
Những người dân tộc sống ở vùng núi rất hay, họ có thể nhìn trên những đám lá khô mà thấy được có dấu chân người hay dấu chân thú đi qua lối nào. Vì thế họ đã nhìn và khẳng định Trung leo hẳn sang ngọn đồi bên kia (đứng trên đỉnh Lang Biang có thể nhìn thấy).
Cả đoàn người lại hớt hãi chạy đi tìm Trung, tiếng nói chuyện, tiếng gọi vang cả khu rừng, nhưng vẫn không nghe thấy tiếng trả lời dù là lời thều thào nhỏ nhất. Riêng cô Nga tổ Văn ráng sức đâm thẳng qua đỉnh ngọn đồi ấy, nhưng không hiểu sao cô không thể nào đi tiếp được, dưới những đám lá chi chít đầy những gai và hố.
Vì thế không hiểu bằng cách nào Trung vẫn băng qua được những đám hố gai này và hướng thẳng lên đỉnh núi (theo dấu chân cậu ta đã để lại). Cả Đoàn không đi tiếp được nữa đành ở vị trí đó mà ráng sức gọi. Hơn 11g đêm mọi chuyện vẫn chưa đâu vào đâu, vẫn rối tinh rối mù.
Về phần Trung sau khi nghỉ mệt và cố gắng lết đi tiếp Trung quá đuối sức. Trời quá tối Trung mò mẫm đi mà không xác định được phương hướng, Trung kéo lê từng bước mệt nhọc. Trung đã từng nghĩ đến cái chết và hình ảnh thân thương đầu tiên hiện lên trong tâm trí cậu là mẹ mình và toàn bộ gia đình, Trung thấy hối hận thấy sợ hãi và hoảng loạn. Trung đã khóc rất nhiều và ngất đi không còn biết gì nữa.
Tỉnh dậy, trăng đã lên đỉnh đầu. Hàm răng run lập cập vì quá lạnh, mặt mũi Trung tái mét, lờ đờ hốc hác như người bị bỏ đói lâu ngày. Trung cố gắng lê thêm mấy bước, dưới ánh trăng lờ mờ cậu ta thấy một chấm tròn màu trắng ở xa xa.
Mất ý thức, Trung vội vã leo ngay lên đó, không cần biết nó là cái gì và nó ra sao, mặc kệ cho đôi môi tím tái vì lạnh cùng với đôi chân đầy những vết trầy xước tứa máu. Trung thấy như in trong mắt cậu ta là một ngôi miếu nhỏ, Trung thấy trong ngôi miếu này có chăn, có chiếu, có gối như là có ai đã sắp đặt để "chờ đón" Trung vậy.
Nhưng cái lạ là ở chỗ, trước thềm tam cấp có treo một tấm bảng loè loẹt nét chữ màu đỏ: "Cấm Vào Nếu Không Sẽ Bị Bắn Chết", nét chữ xiên xiên vẹo vẹo cùng với màu sơn đó khiến Trung có cảm tưởng như ai đó lấy máu quệt bằng ngón tay mà thành tấm bảng này vậy. Trung thấy lành lạnh sau gáy cậu bước thụt lùi, chỉ dám đứng ngó cái chiếu có bày sẵn chăn mền ngay ở cửa miếu dưới ánh trăng ma quái.
Được một lúc thật lâu, với cái rét căm căm và những đốm sáng lập loè của mắt thú rừng xa xa, Trung đánh liều chui vào đại để trú qua đêm nay. Trung đói bụng quá, lại vừa mệt định bụng sẽ ngủ nhưng không hiểu sao chăn chiếu lúc nãy biến đâu mất hết?
Trung ảo giác ư chắc chắn không phải, Trung không mệt đến độ không nhìn được vật ngay sát mắt? Ma ư? Không, lại càng không, Trung vốn là người theo Đạo Thiên chúa, Trung không tin vào mấy chuyện ma quái gì vớ vẩn ở đây cả. Thây kệ Trung ngả lưng và co quắp để cố chống chọi với cái lạnh. Trung bắt đầu thiếp đi, là chiếc đồng hồ đeo trên tay Trung chỉ đúng... 12g đêm!
Cả đoàn người đêm ấy bị một phen mất ngủ, một số người hồi hộp lẩm bẩm cầu nguyện điều gì đó. Ai cũng loé lên suy nghĩ Trung bị té vực, nhưng cũng không ai dám mạnh miệng để nêu lên trường hợp ấy. Những câu trò chuyện, những sự hoạt động của mọi người cũng chỉ để cho có, chỉ để xua đi những ý nghĩ quái quỷ đeo bám, mọi người như vô hồn, thẫn thờ ngồi chờ đợi tin tức của Trung, mong một điều gì đó kỳ lạ có thể xảy ra.
Thiếp đi trong cơn mê, Trung nghe thoang thoảng rất nhiều tiếng người í ới gọi cậu, nhưng vì Trung quá mệt và quá đuối rồi, Trung không gượng dậy nổi nữa. Trung cố hết sức nhưng chỉ nghe được những tiếng kêu âm ỉ phát ra từ họng mình, như là có một bàn tay vô hình nào đó chắn ngang trước miệng Trung, cản tiếng gọi của Trung.
Ngoài kia ánh đèn pin rọi qua rọi lại, các thầy cô đi qua lại gần ngay trước mặt Trung, Trung có thể nhìn thấy bóng họ nhưng tuyệt nhiên họ không nhìn thấy cậu ta.
Đoàn người ra về trong sự mệt mỏi, các thầy không tránh khỏi lo lắng, còn các cô thì mắt trũng lại vì khóc và vì thất vọng. Các thầy cô định bụng rằng về sẽ nghỉ một giấc rồi 2-3 tiếng sau (lúc trời sáng) sẽ vào rừng tìm Trung tiếp.
Về đến nơi đồng hồ chỉ 2g30. Trời gần sáng khu rừng có chút ánh mặt trời thì lại thấy đỡ ghê sợ hẳn. Tiếng lá khô lại loạt xoạt vì những bước chân của mọi người bủa đi tìm. Chợt thầy Long không tin vào mắt mình khi thấy thấp thoáng đằng xa Trung đang từ từ bước xuống, khuôn mặt Trung tái nhợt vì lạnh, hai chân run rẩy không vững.
Không chần chừ một giây thầy bước tới đỡ Trung, quá xúc động hai thầy trò ôm nhau khóc ròng, ngay cả những người khác cũng quá vui mừng mà không cầm được nước mắt.
Dẫn Trung về Khách sạn, không khí nặng nề bao trùm trên những khuôn mặt lo sợ dần tan biến, mọi người đều thở phào tạ ơn Bề trên đã giúp đỡ.
Người dân tộc nói đây là hiện tượng "ma đưa lối, quỷ dẫn đường", nghĩa là ma quỷ chỉ muốn hù con người và cảnh cáo họ khi họ lọt vào địa phận cấm mà không xin phép, chứ không hề làm hại một ai. Khoảng vài ngày sau ma quỷ sẽ trả người về địa thế.
Ngay cả những người theo đạo Thiên chúa dưới chân núi cho biết: họ vốn không tin vào những chuyện này, nhưng khi sinh sống ở đây, chứng kiến hàng chục trường hợp tương tự, họ không tin cũng phải tin! Bên cạnh đó, họ còn cho biết thêm là thường thì ma giấu người rất lâu (khoảng 3 ngày), nhưng chắc vừa rồi quá đông người tìm kiếm đã đánh động cả khu rừng, vì không muốn phiền đến địa phận thiêng nên ma quỷ đã trả Trung về sớm. Tôi cũng xin nhấn mạnh lại các chi tiết:
- Trung leo đúng đường, nhưng không hiểu sao bị bẻ ngoặt hướng sang ngọn đồi bên cạnh.
- Trung điềm nhiên băng qua được các bẫy thú dưới đám lá khô, mà cũng là con đường đó thì không ai qua được.
- Giữa chốn núi rừng hoang vu lại xuất hiện một ngôi miếu ở gần trên đỉnh, ai rảnh đi xây miếu? Và để làm gì? vì dưới chân núi đã có miếu rồi?
- Một điều lạ nữa trong miếu lại để sẵn chăn mền chờ Trung, để Trung chui vào rồi thì lại biến mất?
- Cậu trai lạc giữa rừng với thời tiết lạnh 2 độ C, duy nhất một chiếc áo ngắn, không ăn không uống vẫn có sức lết xuống núi?
Tôi không biết suy nghĩ của bạn thế nào, nhưng riêng tôi thì tôi thấy quá sợ hãi khi kể lại câu chuyện này, và tôi tin: "Ma giấu" là có thực.
NKM
CHUYỆN VỀ NHỮNG NGƯỜI BIẾT BAY
Các vị thần trong thần thoại phương Đông có một khả năng đặc biệt. Họ có thể bay. Tuy nhiên những người bình thường như các giáo sĩ Bà La môn ở Ấn Độ, người luyện Yoga, các thuật sĩ và ẩn sĩ cũng có thể khinh công và lơ lửng trong không khí.
Có một chương trong kinh Vệ Đà nói về thuật bay lên, trong đó hướng dẫn phương pháp luyện tập đạt tới tình trạng nhấc mình lên khỏi mặt đất. Nhưng không may trải qua nhiều thế kỷ, nhiều từ cổ Ấn Độ và các khái niệm trong đó đã bị quên mất, nên những điều truyền thụ vô giá này không thể chuyển được thành ngôn ngữ hiện đại.
Cũng liên quan đến những người biết bay thời cổ, nhiều tài liệu chép tay cho biết họ có thể tự nhấc mình lên khỏi mặt đất đến chín mươi cm. Họ làm việc này không phải để biểu diễn cho công chúng xem, mà chỉ vì mục đích chọn một vị trí phù hợp, nhằm thực hiện những nghi thức tôn giáo.
Thuật khinh công đã tồn tại từ rất lâu ở Ấn Độ và Tây Tạng. Nhiều nhà bác học, trong các cuộc nghiên cứu về phương Đông đã đề cập đến các "thầy tu Tây Tạng biết bay".
Alexandra David Neel, một nhà thám hiểm người Anh, một ngày nọ đã chứng kiến một tu sĩ Phật giáo bay lên khỏi mặt đất hàng chục mét trên cao nguyên đầy thông, Cnang Tang. Neel kể lại rằng tu sĩ nọ bật lên khỏi mặt đất nhiều lần như một quả bóng tennis nẩy.
Cặp mắt của ông ta hướng về một số ngôi sao đang ở nơi nào đó trên bầu trời để xác định vị trí đến. Vị tu sĩ ấy có thể thấy được các vì sao vào ban ngày...
Những người châu Âu từ lâu cũng đã quan tâm đến khả năng bay lên của con người. Tuy nhiên có một sự khác biệt lớn giữa những người biết bay thời Trung cổ ở phương Đông và phương Tây.
Không giống những giáo sĩ Bà La Môn, thuật sĩ Yoga và những ẩn sĩ, các tu sĩ ở châu Âu không tham gia bất cứ một lớp huấn luyện đặc biệt nào để được bay lên. Họ thường lơ lửng trong không trung sau khi đã đạt đến trạng thái xuất thần.
Theo những tài liệu đáng tin cậy, Thánh Theresa nữ tu dòng Carmelite, là một trong những người có thuật khinh công của thời Trung cổ. Bà đã bay trước sự chứng kiến của hai trăm ba mươi tu sĩ Công giáo. Vị nữ tu đã viết về "món quà" bất thường của mình trong tự truyện vào năm 1565. Một điều cần lưu ý trong tự truyện này là bản thân Thánh Theresa không muốn bay.
Bà đã mất nhiều giờ cầu nguyện trong một nỗ lực xin thoát khỏi năng lực đặc biệt này. Vào một đêm nọ, Thượng đế đã nghe được lời cầu xin của bà và người nữ tu không bao giờ còn bay được nữa.
Josef Desa từng là "người bay" nổi tiếng nhất. Ông ta xuất thân từ một gia đình mộ đạo ở miền Nam Italy. Từ khi còn là một cậu bé, Josef đã là một người rất sùng tín, sẵn sàng chịu đựng mọi khổ hạnh để đạt được trạng thái xuất thần. Sau đó, ông gia nhập dòng thánh Francis và luyện được khả năng bay.
Giới khoa học đã quan sát hơn một trăm trường hợp về khả năng bay của Josef và ghi chép những nhận xét trong tài liệu chính thức. Tuy nhiên những người Cơ đốc giáo tỏ ra không hài lòng về hiện tượng này, và hậu quả là Josef được đưa đến một tu viện xa xôi vào năm 1653. Ba tháng sau ông lại phải đến một tu viện khác, rồi tiếp tục đến một tu viện khác nữa...
Khi Josef xuất hiện, tin tức về "người có phép mầu" lan ra nhanh chóng. Nhiều người từ những vùng lân cận tìm đến đứng bên ngoài bức tường của tu viện chờ đợi một điều kỳ diệu. Cuối cùng Josef lại được đưa đến một tu viện ở Osimo. Ông đã mất tại đây vào năm 1663 và được phong thánh bốn tháng sau đó.
Daniel Douglas Hewm là người có thuật phi thân nổi tiếng nhất thế kỷ 19. Trên một tờ báo Mỹ, một nhà báo đã mô tả trạng thái bồng bềnh trong không gian của Hewm như sau: "Bất thình lình Hewm bắt đầu nhấc mình lên khỏi mặt đất khiến những người trong phòng sửng sốt, ngạc nhiên. Tôi thấy chân của ông ta cách mặt đất khoảng 0,3 mét. Ông ta vọt lên rồi hạ xuống. Đến lần thứ ba thì ông ta chạm trần nhà..."
Hewm đã biểu diễn năng lực đặc biệt này trước hàng nghìn khán giả, trong đó có cả những người nổi tiếng như William Makepeace Thackeray, Mark Twain, Napoleon III cùng những nhà chính trị, bác sĩ, khoa học gia. Người ta không phát hiện ra sự lừa đảo nào trong hiện tượng này.
Có nhiều tranh cãi liên quan đến sự bay lên của con người. Một số nhà nghiên cứu nói rằng đó là sản phẩm của trường sinh học, tạo ra bởi một dạng năng lượng tinh thần đặc biệt phát ra từ não người.
Bác sĩ Alexander Dubrov chuyên gia về sinh vật học, là người ủng hộ giả thiết này. Ông chỉ ra rằng trường sinh học được tạo ra một cách có chủ ý bởi người phi thân, do đó họ có thể kiểm soát và thay đổi hướng khi lơ lửng trên không.
ST
#102
Gửi vào 20/06/2011 - 02:21
LỜI NGUYỀN CỦA NGƯỜI TỬ TỘI
Năm 1821, tại thị xã Newtown Montgomeryshire thuộc nước Wales1, có một người đàn ông tên là John Newton mang tội giết người và được đưa ra trước tòa để thẩm phán. Ðứng trước quan tòa ông ta khẳng định tuyên bố rằng, ông là người vô tội.
Nhưng dựa vào những chứng cớ của hai người, mà ông ta nói rằng họ sẽ được lợi ích nếu ông chết đi, cho nên những lời ông nói đều vô hiệu. Cuối cùng ông ta bị kết án và xử tử treo cổ.
Nhìn thẳng vào quan tòa với ánh mắt nẩy lửa Newton thét lớn:
- TÔI VÔ TỘI! TÔI LÀ NGƯỜI VÔ TỘI! ÐỂ CHỨNG MINH ÐIỀU ÐÓ, TÔI SẼ KHÔNG CHO NGỌN CỎ XANH TƯƠI NÀO MỌC TRÊN MỒ CỦA TÔI. MÃI MÃI KHÔNG CÓ NGỌN CỎ TƯƠI XANH NÀO MỌC TRÊN NGÔI MỒ CỦA TÔI..
Vài ngày sau, John Newton đã bị treo cổ công khai trước quần chúng. Thật là kỳ lạ khi lễ xử tội bắt đầu thì bỗng đâu một cơn bão kéo tới, sấm sét vang rền làm những người có mặt tại hiện trường đều ngạc nhiên và lo sợ.
Sau khi ông Newton chết, xác của ông được chôn trên mảnh đất sau một thánh đường thuộc vùng ngoại ô thành phố. Khu nghĩa địa này là một mảnh đất xanh tươi với những ngọn cỏ được bón phân cắt tỉa mỗi tuần, với những mộ bia nằm từng hàng thẳng tắp trong thật đẹp mắt.
Nhưng từ khi xác của John Newton được chôn ở đây, thì miếng đất này không được hoàn mỹ giống như xưa. Ấy là vì giữa một tấm thảm cỏ xanh mướt lại có một khoảng đất hình chữ nhật, trơ trọi mọc một loại cỏ dại bò chung quanh theo khuôn khổ của chiếc quan tài nằm bên dưới.
Mỗi ngày những dân cư đi qua đều có thể trông thấy ngôi mộ của Newton, vì thế mặc cảm tội lỗi và nỗi đau buồn về một kẻ bị giết oan càng ngày càng
tăng dần trong khu thị xã nhỏ này.
Ðể xóa đi những cảm giác ấy, chính quyền địa phương đã nghĩ ra một cách nếu cỏ không tự mọc trên ngôi mộ này được, thì họ có thể trồng cỏ lên trên đó. Họ đem những thứ đất tốt đổ lên ngôi mộ trải ra cho đều, sau đó họ rải những hạt cỏ lên rồi tưới nước rất cẩn thận.
Nhưng nhiều ngày trôi qua không một hạt cỏ nào nẩy mầm. Và vài tháng sau người ta lại tìm đủ mọi cách để trồng cỏ, cứ như vậy người ta lại trồng cỏ bón phân tưới nước, nhưng trải qua nhiều năm một cọng
cỏ xanh tươi cũng không thể mọc được trên nấm mồ của người đàn ông Welsh này.
Vào năm 1852 một vị giáo sĩ tên là Robert Mostyn Price, đã đứng lên biện hộ cho người đàn ông bị treo cổ. Ông ta viết:
"Ðã ba năm trôi qua mà chúng ta không thể trồng cỏ trên nấm mồ này, cho dù chúng ta đã dùng đủ mọi cách, đủ mọi phương pháp nhưng một cọng cỏ cũng
không thể mọc lên. Vì vậy tôi cùng nhiều người khác tin rằng đây là sự chứng minh "vô tội" của người đàn ông đáng thương."
Nhưng khó có thể làm cho người ta chấp nhận được sự thật rằng, quan tòa đã xử án sai lầm để một người đàn ông vô tội phải chết. Cho nên một lần nữa họ lại gắng sức làm cho cỏ mọc trên ngôi mồ của Newton bằng cách đổ lên đó một thứ đất phân thật tốt, rồi cấy những cây cỏ xanh tươi dễ trồng nhất, rồi tưới nước và chăm sóc rất kỹ lưỡng.
Mọi người hồi hộp chờ đợi. Cuối cùng thì người ta cũng thấy được những cây cỏ mới cấy bắt đầu trổ lá non, lúc đó ai cũng hớn hở vì cỏ đã mọc được trên nấm mồ Newton rồi, như vậy họ sẽ không còn cảm thấy mặc cảm tội lỗi bao trùm trong bầu không khí chung quanh đây nữa.
Nhưng tiếc thay chỉ qua một đêm, những loại cỏ dại đã bò lên dầy đặc nuốt chửng mất những cây cỏ
xanh tươi vừa mới bắt đầu trổ lá non. Không biết tại sao loại cỏ này lại mọc nhanh như thế? Mọi người không ai có thể hiểu nổi, có lẽ chỉ có linh hồn người quá cố nằm bên dưới quan tài mới biết được.
Cũng từ đó không ai màng đến việc trồng cỏ lên ngôi mộ của ông Newton nữa, vì họ biết rằng cho dù có trồng thì cũng vô dụng, vì vậy mảnh đất nhỏ
xấu xí này tiếp tục đứng vững trong vùng đất xanh mướt màu cỏ non.
Cho đến thế kỷ sau, năm 1941, một người đến viếng khu nghĩa địa này, vẫn có thể chỉ đúng ngay ngôi mồ của Newton, một mảnh đất có nhiều cỏ dại bò ngổn
ngang theo khuôn của chiếc quan tài, vẫn còn nằm giữa mảnh đất xanh tươi đẹp đẽ.
Đó là chứng cớ thầm lặng về sự phán xét sai lầm của tòa án với lời nguyền của người đàn ông nước Wales.
ST
Năm 1821, tại thị xã Newtown Montgomeryshire thuộc nước Wales1, có một người đàn ông tên là John Newton mang tội giết người và được đưa ra trước tòa để thẩm phán. Ðứng trước quan tòa ông ta khẳng định tuyên bố rằng, ông là người vô tội.
Nhưng dựa vào những chứng cớ của hai người, mà ông ta nói rằng họ sẽ được lợi ích nếu ông chết đi, cho nên những lời ông nói đều vô hiệu. Cuối cùng ông ta bị kết án và xử tử treo cổ.
Nhìn thẳng vào quan tòa với ánh mắt nẩy lửa Newton thét lớn:
- TÔI VÔ TỘI! TÔI LÀ NGƯỜI VÔ TỘI! ÐỂ CHỨNG MINH ÐIỀU ÐÓ, TÔI SẼ KHÔNG CHO NGỌN CỎ XANH TƯƠI NÀO MỌC TRÊN MỒ CỦA TÔI. MÃI MÃI KHÔNG CÓ NGỌN CỎ TƯƠI XANH NÀO MỌC TRÊN NGÔI MỒ CỦA TÔI..
Vài ngày sau, John Newton đã bị treo cổ công khai trước quần chúng. Thật là kỳ lạ khi lễ xử tội bắt đầu thì bỗng đâu một cơn bão kéo tới, sấm sét vang rền làm những người có mặt tại hiện trường đều ngạc nhiên và lo sợ.
Sau khi ông Newton chết, xác của ông được chôn trên mảnh đất sau một thánh đường thuộc vùng ngoại ô thành phố. Khu nghĩa địa này là một mảnh đất xanh tươi với những ngọn cỏ được bón phân cắt tỉa mỗi tuần, với những mộ bia nằm từng hàng thẳng tắp trong thật đẹp mắt.
Nhưng từ khi xác của John Newton được chôn ở đây, thì miếng đất này không được hoàn mỹ giống như xưa. Ấy là vì giữa một tấm thảm cỏ xanh mướt lại có một khoảng đất hình chữ nhật, trơ trọi mọc một loại cỏ dại bò chung quanh theo khuôn khổ của chiếc quan tài nằm bên dưới.
Mỗi ngày những dân cư đi qua đều có thể trông thấy ngôi mộ của Newton, vì thế mặc cảm tội lỗi và nỗi đau buồn về một kẻ bị giết oan càng ngày càng
tăng dần trong khu thị xã nhỏ này.
Ðể xóa đi những cảm giác ấy, chính quyền địa phương đã nghĩ ra một cách nếu cỏ không tự mọc trên ngôi mộ này được, thì họ có thể trồng cỏ lên trên đó. Họ đem những thứ đất tốt đổ lên ngôi mộ trải ra cho đều, sau đó họ rải những hạt cỏ lên rồi tưới nước rất cẩn thận.
Nhưng nhiều ngày trôi qua không một hạt cỏ nào nẩy mầm. Và vài tháng sau người ta lại tìm đủ mọi cách để trồng cỏ, cứ như vậy người ta lại trồng cỏ bón phân tưới nước, nhưng trải qua nhiều năm một cọng
cỏ xanh tươi cũng không thể mọc được trên nấm mồ của người đàn ông Welsh này.
Vào năm 1852 một vị giáo sĩ tên là Robert Mostyn Price, đã đứng lên biện hộ cho người đàn ông bị treo cổ. Ông ta viết:
"Ðã ba năm trôi qua mà chúng ta không thể trồng cỏ trên nấm mồ này, cho dù chúng ta đã dùng đủ mọi cách, đủ mọi phương pháp nhưng một cọng cỏ cũng
không thể mọc lên. Vì vậy tôi cùng nhiều người khác tin rằng đây là sự chứng minh "vô tội" của người đàn ông đáng thương."
Nhưng khó có thể làm cho người ta chấp nhận được sự thật rằng, quan tòa đã xử án sai lầm để một người đàn ông vô tội phải chết. Cho nên một lần nữa họ lại gắng sức làm cho cỏ mọc trên ngôi mồ của Newton bằng cách đổ lên đó một thứ đất phân thật tốt, rồi cấy những cây cỏ xanh tươi dễ trồng nhất, rồi tưới nước và chăm sóc rất kỹ lưỡng.
Mọi người hồi hộp chờ đợi. Cuối cùng thì người ta cũng thấy được những cây cỏ mới cấy bắt đầu trổ lá non, lúc đó ai cũng hớn hở vì cỏ đã mọc được trên nấm mồ Newton rồi, như vậy họ sẽ không còn cảm thấy mặc cảm tội lỗi bao trùm trong bầu không khí chung quanh đây nữa.
Nhưng tiếc thay chỉ qua một đêm, những loại cỏ dại đã bò lên dầy đặc nuốt chửng mất những cây cỏ
xanh tươi vừa mới bắt đầu trổ lá non. Không biết tại sao loại cỏ này lại mọc nhanh như thế? Mọi người không ai có thể hiểu nổi, có lẽ chỉ có linh hồn người quá cố nằm bên dưới quan tài mới biết được.
Cũng từ đó không ai màng đến việc trồng cỏ lên ngôi mộ của ông Newton nữa, vì họ biết rằng cho dù có trồng thì cũng vô dụng, vì vậy mảnh đất nhỏ
xấu xí này tiếp tục đứng vững trong vùng đất xanh mướt màu cỏ non.
Cho đến thế kỷ sau, năm 1941, một người đến viếng khu nghĩa địa này, vẫn có thể chỉ đúng ngay ngôi mồ của Newton, một mảnh đất có nhiều cỏ dại bò ngổn
ngang theo khuôn của chiếc quan tài, vẫn còn nằm giữa mảnh đất xanh tươi đẹp đẽ.
Đó là chứng cớ thầm lặng về sự phán xét sai lầm của tòa án với lời nguyền của người đàn ông nước Wales.
ST
#103
Gửi vào 20/06/2011 - 02:25
CHẾT OAN
Câu chuyện này có thật mà tôi nghe kể từ một người bạn. Tôi không tiện viết tên thật của ngườì chết nên thay vào một cái tên khác.
Hậu năm nay vừa đúng hai mươi tuổi, vì ham chơi nên Hậu bỏ học nửa chừng đi theo bạn bè rồi lập băng đảng. Đúng ngày mùng một tết Hậu cùng vớí đám bạn rủ nhau đi chơi đánh bài. Bài bạc thì lúc nào củng xảy ra nhửng chuyện không hay như cải nhau hay gây vì chuyện tiền bạc gì đó.
Rồi một người bạn của Hậu đả tranh cải gì vớí một người khác. Hai người họ kênh nhau và nói là sẽ thanh toán nhau. Tưởng chỉ là nói thôi, nhưng thật không ngờ Hậu cùng mấy người bạn vừa bước ra parking, thì người mà lúc nảy gây với bạn của Hậu đã chờ sẳn ngoài đó. Tay thì cầm cây súng đứng cách Hậu khoảng mười lăm thước.
Người đó đưa súng chỉa vào bạn Hậu và lảy cò. Nhưng thật không ngờ viên đạn đó đi lạc hướng và trúng ngay vào cổ Hậu. Hậu té xuống giẫy giụa mấy cái rồi chết luôn. Người mà dau khổ nhất cái chết của Hậu là má Hậu. Khi nghe tin con mình bị chết thì bà ngả ra xỉu.
Sau khi lo tang ma cho con mình đàng hoàng thì mọi việc đả trở lại như củ. Nhưng tối nào mổi khi lên giường thì bà đều nhớ tới đứa con đã mất rồi, nước mắt bà cứ chảy ra cho dến khi bà ngủ hồi nào cũng không hay. Một hôm đang ngủ nửa khuya thì bà nghe tiếng của thằng Hậu vang vang bên lổ tai mình:
- Má ơi .. dậy nói chuyện vớí con má ơi. Con buồn quá má ơi..
Bà hốt hoảng ngồi dậy thì thấy căn phòng vẩn vắng lặng với ngọn đèn ngủ tù mù đang toả ánh sáng yếu ớt trong căn phòng. Ngoài trời thì gió đung đưa cây cối xào xạc tạo ra những âm thanh thật kỳ quái làm cho bà tự nhiên rùng mình.
Bà tự nhủ rằng không lẻ thằng Hậu nó về hay sao, nó kêu mình dậy nói chuyện với nó. Không lẻ hồn nó chưa được siêu thoát sao. Nhưng bà lại nghỉ ra một lý do đễ tự trấn an mình là chắc tại nhớ nó quá. Nên nằm mơ thấy vậy thôi.
Nhưng vừa nhắm mắt lại thì tiếng của Hậu lại vang vang bên tai bà. Mổi lúc một lớn làm bà không tài nào ngủ được. Người bà bắt đầu run lên vì biết thằng con bà nó hiện hồn về và đòi nói chuyện với bà. Rồi trời củng hừng sáng và bà lập tức chạy ra khỏi phòng kể đầu đuôi câu chuyện cho mọi người nghe. Nhưng không ai trong nhà tin là Hậu hiện hồn về. Họ cứ cho là bà vì nhớ thương nó quá nên ảo tưởng vậy thôi.
Sang đêm hôm sau thì cũng như đêm hôm qua, đúng vào nữa đêm thì tự nhiên gió thổi mạnh lên làm cho cánh cửa mở toang ra và đập mạnh vào. Bà lấy hết can đảm đi tới cửa sổ đóng kỷ cánh cửa lại và cài luôn then chốt. Đang nằm trên giường mà bà vẫn nghe tiếng gió ở bên ngoài thổi mạnh làm cho cây cối kêu cà kẹt tạo cho bà cảm giác rùng rợn. Rồi có tiếng như ai đó đang đập vào cửa sổ của bà nghe cốp.. cốp. Bà hoảng quá kéo cái mền trùm lên quá đầu và co rúm người lại.
Tiếng gỏ cửa lớn dần lên và nhỏ từ từ theo gió.. chằng bao lâu thì có một ngọn gió khác thổi mạnh lên và lần này bà không còn nghe tiếng gỏ cửa nữa mà tiếng bàn tay ai của ai đó đang cào lên cửa sổ cũa bà. Lúc này mặt của bà tái xanh giống như không còn một giọt máu nào. bà sợ hãi lấy hai tay bịt lổ tai mình lại hy vọng đừng nghe những âm thanh kỳ quái đó nữa. khoảng một lát sau thì bà lại nghe tiếng của Hậu ở ngoài cửa sổ vọng vào:
- Má ơi..mở cửa cho con vào má ơi.. con lạnh quá má ơiii ..
Lúc này thì tim bà như ngừng đập người bà cứng đơ, đúng rồi Hậu hiện hồn về thật rồi không phải mình tưởng tượng ra, bà vừa sợ vừa thấy tội nghiệp cho con. Không lẻ hồn nó còn loanh quanh trong nhà này sao. Lúc này bà nhớ lại nhửng lời người ta nói là:
Nếu ai bị chết oan thì bốn mươi chín ngày sau người đó mới biết mình chết. không lẽ thằng Hậu nó còn chưa biết nó chết rồi sao. Suốt đêm đó bà chẳng ngủ được vì lo sợ. Sáng hôm sau thì bà lập tức đi đến chùa đễ nhờ các thầy sư tụng kinh cho con mình mau được siêu thoát đừng về làm cho mình sợ nữa.
Vài ngày sau, khi bà đang giặt quần áo thì bổng dưng máy giặt ngưng chạy. Nước trong máy giặt từ từ dâng cao lên và tràn ra ngoài, điện đèn trong nhà thì tắt lụi hết, các cửa trong nhà thì mở toang ra và có một làn gió lạnh thổi thốc vào làm bà rùng mình toàn thân ớn lạnh, bà biết Hậu về nữa nên bà lập tức đi ra bàn thờ của Hậu lấy vài cây nhang đốt lên rồi van vái:
- Con ơi.. nếu con có bị chết oan thì con hãy mau đi đầu thai đi, đừng có về đây làm cho má sợ nữa..
Sau câu nói của bà thì đèn điện đỏ lại và máy giặt cũng chạy lại bình thường. Từ đó về sau bà không còn thấy Hậu về nữa.
ST
Câu chuyện này có thật mà tôi nghe kể từ một người bạn. Tôi không tiện viết tên thật của ngườì chết nên thay vào một cái tên khác.
Hậu năm nay vừa đúng hai mươi tuổi, vì ham chơi nên Hậu bỏ học nửa chừng đi theo bạn bè rồi lập băng đảng. Đúng ngày mùng một tết Hậu cùng vớí đám bạn rủ nhau đi chơi đánh bài. Bài bạc thì lúc nào củng xảy ra nhửng chuyện không hay như cải nhau hay gây vì chuyện tiền bạc gì đó.
Rồi một người bạn của Hậu đả tranh cải gì vớí một người khác. Hai người họ kênh nhau và nói là sẽ thanh toán nhau. Tưởng chỉ là nói thôi, nhưng thật không ngờ Hậu cùng mấy người bạn vừa bước ra parking, thì người mà lúc nảy gây với bạn của Hậu đã chờ sẳn ngoài đó. Tay thì cầm cây súng đứng cách Hậu khoảng mười lăm thước.
Người đó đưa súng chỉa vào bạn Hậu và lảy cò. Nhưng thật không ngờ viên đạn đó đi lạc hướng và trúng ngay vào cổ Hậu. Hậu té xuống giẫy giụa mấy cái rồi chết luôn. Người mà dau khổ nhất cái chết của Hậu là má Hậu. Khi nghe tin con mình bị chết thì bà ngả ra xỉu.
Sau khi lo tang ma cho con mình đàng hoàng thì mọi việc đả trở lại như củ. Nhưng tối nào mổi khi lên giường thì bà đều nhớ tới đứa con đã mất rồi, nước mắt bà cứ chảy ra cho dến khi bà ngủ hồi nào cũng không hay. Một hôm đang ngủ nửa khuya thì bà nghe tiếng của thằng Hậu vang vang bên lổ tai mình:
- Má ơi .. dậy nói chuyện vớí con má ơi. Con buồn quá má ơi..
Bà hốt hoảng ngồi dậy thì thấy căn phòng vẩn vắng lặng với ngọn đèn ngủ tù mù đang toả ánh sáng yếu ớt trong căn phòng. Ngoài trời thì gió đung đưa cây cối xào xạc tạo ra những âm thanh thật kỳ quái làm cho bà tự nhiên rùng mình.
Bà tự nhủ rằng không lẻ thằng Hậu nó về hay sao, nó kêu mình dậy nói chuyện với nó. Không lẻ hồn nó chưa được siêu thoát sao. Nhưng bà lại nghỉ ra một lý do đễ tự trấn an mình là chắc tại nhớ nó quá. Nên nằm mơ thấy vậy thôi.
Nhưng vừa nhắm mắt lại thì tiếng của Hậu lại vang vang bên tai bà. Mổi lúc một lớn làm bà không tài nào ngủ được. Người bà bắt đầu run lên vì biết thằng con bà nó hiện hồn về và đòi nói chuyện với bà. Rồi trời củng hừng sáng và bà lập tức chạy ra khỏi phòng kể đầu đuôi câu chuyện cho mọi người nghe. Nhưng không ai trong nhà tin là Hậu hiện hồn về. Họ cứ cho là bà vì nhớ thương nó quá nên ảo tưởng vậy thôi.
Sang đêm hôm sau thì cũng như đêm hôm qua, đúng vào nữa đêm thì tự nhiên gió thổi mạnh lên làm cho cánh cửa mở toang ra và đập mạnh vào. Bà lấy hết can đảm đi tới cửa sổ đóng kỷ cánh cửa lại và cài luôn then chốt. Đang nằm trên giường mà bà vẫn nghe tiếng gió ở bên ngoài thổi mạnh làm cho cây cối kêu cà kẹt tạo cho bà cảm giác rùng rợn. Rồi có tiếng như ai đó đang đập vào cửa sổ của bà nghe cốp.. cốp. Bà hoảng quá kéo cái mền trùm lên quá đầu và co rúm người lại.
Tiếng gỏ cửa lớn dần lên và nhỏ từ từ theo gió.. chằng bao lâu thì có một ngọn gió khác thổi mạnh lên và lần này bà không còn nghe tiếng gỏ cửa nữa mà tiếng bàn tay ai của ai đó đang cào lên cửa sổ cũa bà. Lúc này mặt của bà tái xanh giống như không còn một giọt máu nào. bà sợ hãi lấy hai tay bịt lổ tai mình lại hy vọng đừng nghe những âm thanh kỳ quái đó nữa. khoảng một lát sau thì bà lại nghe tiếng của Hậu ở ngoài cửa sổ vọng vào:
- Má ơi..mở cửa cho con vào má ơi.. con lạnh quá má ơiii ..
Lúc này thì tim bà như ngừng đập người bà cứng đơ, đúng rồi Hậu hiện hồn về thật rồi không phải mình tưởng tượng ra, bà vừa sợ vừa thấy tội nghiệp cho con. Không lẻ hồn nó còn loanh quanh trong nhà này sao. Lúc này bà nhớ lại nhửng lời người ta nói là:
Nếu ai bị chết oan thì bốn mươi chín ngày sau người đó mới biết mình chết. không lẽ thằng Hậu nó còn chưa biết nó chết rồi sao. Suốt đêm đó bà chẳng ngủ được vì lo sợ. Sáng hôm sau thì bà lập tức đi đến chùa đễ nhờ các thầy sư tụng kinh cho con mình mau được siêu thoát đừng về làm cho mình sợ nữa.
Vài ngày sau, khi bà đang giặt quần áo thì bổng dưng máy giặt ngưng chạy. Nước trong máy giặt từ từ dâng cao lên và tràn ra ngoài, điện đèn trong nhà thì tắt lụi hết, các cửa trong nhà thì mở toang ra và có một làn gió lạnh thổi thốc vào làm bà rùng mình toàn thân ớn lạnh, bà biết Hậu về nữa nên bà lập tức đi ra bàn thờ của Hậu lấy vài cây nhang đốt lên rồi van vái:
- Con ơi.. nếu con có bị chết oan thì con hãy mau đi đầu thai đi, đừng có về đây làm cho má sợ nữa..
Sau câu nói của bà thì đèn điện đỏ lại và máy giặt cũng chạy lại bình thường. Từ đó về sau bà không còn thấy Hậu về nữa.
ST
#104
Gửi vào 20/06/2011 - 02:30
ÔNG ĐỊA CỦA TÔI
Thông thường trong đời sống hằng ngày người ta chọn một tôn giáo, một niềm tin nào đó để khấn vái, để cầu xin những điều mà họ mong mỏi, họ bị lâm nguy hay khi trong hoàn cảnh tuyệt vọng. Ví dụ mẹ tôi thường cầu trời khấn phật, bạn tôi cầu xin mẹ Maria, dì tôi khấn vái phật bà Quan Âm, ông bán thịt quay BBQ ở phố Tàu mà tôi quen vái ngài Quan Công.
Riêng tôi Ông Địa là đấng vạn năng trong đời sống tâm linh của tôi. Tại sao vậy ? Bởi vì tôi xin ngài thứ gì thì ngài cho ngay không một chút lưỡng lự, ngoại trừ điều ước cuối cùng là trúng Superlotto Jackpot tuần này vô cùng nóng hổi: US$100M, có thể chọn cash value option, tiền tươi.
Tôi nguyện lòng khi nào ngài cho tôi vào danh sách ưu ái nhận giải Superlotto Grand Prize này thì tôi bế ngài đi mỗi bước du hành từ Tahiti sang Cancun, từ Jamaica sang Bahamas...
Ông Địa và Phật Di Lặc :
Thông thường người ta hay nhầm lẫn giữa hai vị thần linh này. Khi tôi sang Trung Quốc, bạn tôi đưa tôi vào một nơi đại lý bán đồ sứ, người bán hàng chỉ tôi vài mẹo vặt phân biệt. Các tay làm đồ gốm khi làm mô hình khuôn đúc đức phật Di Lặc, thì họ cho những dấu hiệu phân biệt để nhận diện như: ngài Di Lặc thì khoác áo choàng cà sa có dấu chữ vạn, hay tay ngài đeo chuỗi hạt.
Còn ông Địa hay ông Thổ Địa thường cầm quạt, hay quấn khăn trên đầu như chú cuội. Dáng dấp hai vị này dù là đức Di Lặc hay ngài Thổ Thần, Thổ Địa đều bề thế, costeau, đô con, nặng cân, mũm mĩm và bụ bẫm như nhau.
Tôi bảo người bán hàng cho hai ông ngồi ngang nhau trên bàn, để tôi so sánh là nên thỉnh ngài nào. Bạn đi chung cùng tôi bảo tôi so sánh làm gì, ngài nào cũng vậy thôi hay là thỉnh cả hai. Tôi trả lời anh:
- Này nhé, anh nhìn xem hai ngài đều nặng ký cả đấy, lo thức ăn đàng hoàng cho các ngài là cả vấn đề lớn lao, chứ phải giỡn sao.
Vì nhà tôi thờ ngài nào là thức ăn, trái cây, mâm quả phải thay đổi định kỳ, tươm tất như lời huấn thị của madame nội tướng của tôi. Trong khi liếc nhìn thoáng qua lại ngài nào cũng tốt mã, tốt tướng, đẹp giai và nụ cười quý ngài tươi như hoa, nhân hậu, rất duyên dáng như thống đốc heavy weight champ Jesse Ventura của tiểu bang Minnesota.
Cuối cùng tôi nghe lời người bạn thỉnh luôn hai vị về Mỹ. Tiền thỉnh không đáng là bao, nhưng sợ lỡ các ngài bị thương, mang tật nguyền như sút tay, gãy chân là mình ân hận suốt đời, quý ngài sẽ quở trách tôi cho cuộc đời này te tua.
Hiệp 1. Ông Địa giúp trên biển.
Sau khi lấy tàu hỏa từ Thẩm Uyến (Shengzhen) về lại Cửu Long (Kowloon), chúng tôi lên phà từ Kowloon trở lại Hong Kong. Phà đang bị cơn bão dữ đe dọa, phà nhấp nhô, lắc lư vì bị sóng gió nhồi, đột ngột thấy phía trước mặt chúng tôi, là chiếc tàu sắt đánh cá đang chống chọi lại cơn bão, và thật tội nghiệp con tàu đánh cá di chuyển như con rùa bò.
Trong khi phà chúng tôi cho còi hú inh ỏi báo động và cố lách, tránh né. Hai chiếc phà và tàu tránh nhau trong đường tơ kẽ tóc, ruột gan tôi co bóp theo từng tiếng còi tàu hụ, tôi ôm chiếc xách tay có tượng Ông Địa ngồi tịnh khẩu ở trong đó, Ông Địa chẩn từng nhịp tim, từng hơi thở để cho tôi sự bình yên.
Lên trên bờ chúng tôi vào một tửu lầu ăn tối, tôi cho người bạn đồng hành biết, tôi may mắn vì có vị thần linh bám sát tôi, bạn tôi hỏi ai vậy. Tôi cầm bức tượng Ông Địa ra cho bạn tôi xem vị thần đỡ mạng chúng tôi hiệp một, gặp nạn trên biển.
Hiệp 2. Ông Địa giúp trên không.
Trên chuyến bay từ Hong Kong sang Đài Bắc, ngài Di Lặc được yên nghỉ trong valise gởi trong compartment máy bay, riêng Ông Địa lại nằm theo xách tay di động của tôi, tôi cưng ngài như cưng trứng mỏng.
Vì trời bão bùng trong eo biển vịnh Đài Loan, chiếc Boeing 747 của hãng Eva Airlines bị bão nhồi khủng khiếp, nó lắc lư con tàu đi, làm hành khách hoảng vía lắc lư như con tim sai nhịp đập. Bão nhồi tiếp tục càng mạnh hơn, máy bay gầm thét làm thân tàu chao đảo khi con tàu cố giữ thế thăng bằng.
Giọng tiếp viên hàng không báo động cài seatbelt, giữ bình tĩnh và phòng hờ emergency đã được hướng dẫn. Tôi ôm Ông Địa vào lòng mà miệng đọc chú tiếng quốc ngữ Annamta:
- Úm bà la cho tai qua nạn khỏi. Ông Địa còn là con còn. Ông Điạ đi là con đi. Ông Địa có chút từ bi. Cho con thoát nạn con thì đội ơn. Úm bà la cho tai qua nạn khỏi ...
Cứ thế mà úm bà la niệm chú chừng chục lần là mọi việc xong xuôi. Thế rồi phi trường Chang Kai Shek của Đài Bắc hiện ra trước mặt, chúng tôi thoát nạn vì nhờ Ông Địa. Ngài đỡ chúng tôi hiệp hai.
Hiệp 3. Cháy khách sạn Nam Hoa.
Chúng tôi vào trọ tại khách sạn Nam Hoa, năm tầng lầu, nhân viên khách sạn cho biết họ chỉ còn phòng trống ở lầu ba và năm thôi. Người bạn đồng hành của tôi chọn phòng ở lầu ba vì gần tầng dưới hơn. Tôi bảo bạn tôi nên chọn tầng thứ năm, vì tôi muốn quan sát phong cảnh chung quanh khu vực thành phố.
Vã lại tôi không ưa số phòng là hai mươi ba, con số vô duyên với tôi. Bạn tôi chìu ý. Khi đồng hồ chỉ đúng 12:30 khuya, khách trong khách sạn chạy náo loạn, tiếng la bằng ngôn ngữ Quan thoại, dân Annamta như tôi bí lù, chả biết thiên hạ nói gì, anh bạn đồng hành phiên dịch lại. Còi hụ báo hiệu chuyện chẳng lành, chúng tôi ngó xuống đường, xe cứu hỏa vừa trờ đến, khói từ lầu ba bốc ra ngoài.
Chúng tôi không dùng thang máy được vì điện cúp, thang lầu bi kẹt cứng vì phòng hai mươi hai bị cháy sát thang lầu. Khi mọi diễn biến xong xuôi, chúng tôi đi ngủ lại lúc ba giờ sáng, bạn tôi bảo:
- Hên quá, tụi mình suýt book phòng số hai mươi ba.
Tôi cười khì và trả lời:
- Ông Địa bảo rồi phòng hai mươi ba không tốt mà.
Tôi ôm Ông Địa ra hôn ngay vào bụng "pregnant" của ngài như lời tạ ơn sâu xa nhất. Bất cứ nơi nào bạn đi, trên trời, dưới biển hay trên bộ, ngài sẵn lòng nở nụ cười hiền hòa độ lượng bảo vệ tính mạng cho bạn được bình yên.
Ông Thổ Địa và Ông Thần Tài:
Ngày vợ tôi sang tiệm neo để tự làm chủ lấy mình, tiệm này vốn là ngôi chùa Bà Đanh, khách lưa thưa vắng vẻ quá. Người co partner xúi bà nhà tôi nhào vô thử thời vận.
- Sợ gì một ăn hai thua..
Bà co-partner nói khích chúng tôi. Nhà tôi hỏi ý tôi. Tôi trả lời kiểu a dua a tòng rất nịnh đầm:
- Bà sao tui vậy.
Thế là nàng vô vai trò làm co-owner. Sau hai tháng đầu tiệm y chang như xưa, khách vẫn ít õi thưa thớt. Người co-partner là một phụ nữ Annamta gốc Bông bèn mời ông thầy tướng số gốc Trung quốc cư ngụ tại vùng Bông kiều Alhambra, nghe đâu người có nội công thâm hậu, thượng thừa về tử vi, phong thủy cho các cơ sở thương mại tại các khu vực đậm nét Bông kiều.
Thầy ếm bùa bát quái trước sau, thầy kêu chúng tôi treo kiếng ếm diệt tà ma quỷ. Qua người thông ngôn dịch lại là quỷ vampire Dracula còn sợ kiếng, huống chi quỷ ở tiệm neo là loại cắc ké, dế óc tiêu, dễ trị như trở bàn tay và không đáng kể.
Ông đi từ trước ra sau, ông lắc đầu ngao ngán, ông nói bọn tôi mua tiệm lầm chết bỏ vì hướng cửa trước chạy thẳng một đường ra ngỏ cửa sau, chả kín đáo gì cả thảo nào vắng khách, nếu có bỏ thêm tiền vào thì như con bệnh sốt xuất huyết thôi, vì tiền vào ngã trước chạy thẳng ra ngã sau mất tiêu hết.
Ông còn chê thêm cái cây oak khổng lồ ở sân trước parking đậu xe là biểu tượng ma quỷ án ngữ cản khách vào. Thầy bùa cho treo miếng kiếng chống lại bọn tà ma quỷ ám haunting ghost trước cửa ra vào, mấy bà co owners tin như điếu đổ. Thầy bảo tiệm phải có chậu nước hay bồn nước trước cửa, một nguyên tắc chính của khoa địa lý phong thủy.
Chúng tôi mua chiếc bồn nước kiểng có cây bonsai, ngoài ra trang trí thêm cho kế hoạch hốt bạc là chưng cây tiền (money tree) mà lá có năm hay sáu cánh như lá cây khoai mì, rồi thêm vài cây thủy tre (water bamboo) mà các nơi bây giờ hay chưng. Phong thủy cần nước mà water bamboo nói lên cả một cái lý thuyết Âm Dương ngũ hành: "Thủy sinh mộc, Mộc sinh hỏa, Hỏa sinh thổ, Thổ sinh Kim". Mà kim là tiền tươi.
Theo thầy tướng số vừa đi, mồm thì thầm chú trù ếm tà ma khi thầy bấm các nốt đốt tay. Đoạn thầy bảo các bà điều quan trọng hơn cả là phải có vị Thần Tài phù trợ. Vụ này thầy bùa cung cấp vì vị thần này do một danh pháp sư Trung quốc đã thỉnh tận Trung quốc mới linh thiêng mà thầy biết nơi thỉnh.
Sau này khi tôi nhận hình mà lòng tự hỏi sao Thần Tài Trung quốc của danh pháp sư lại y chang các vị Thần Tài đang ngồi chễm chệ trên các kệ bán nhang đèn ở phố Broadway, khu Chinatown.
Tôi chăm chú nhìn một hình vẽ ngài Thần Tài trong y phục Trung hoa y như các đấng thần linh Quan Công, Trương Phi hay Lưu Bị. Sau khi thiết kế xong chương trình phòng chống tà ma quỷ ám tại tiệm, thầy bái bai chúng tôi và chúc lành mọi điều may mắn.
Thế là tiệm neo phục vụ người bản xứ Cờ Bông cộng thêm vị Thần Tài gốc Trung Bông trấn giữ ngay địa đầu cửa ải thì nhất xứ thiên hạ, chứ còn lo gì nữa ? Cái lý thuyết địa lý phong thủy đó cắn bọn tôi một phần máu, máu đã đổ mà thầy bùa pháp sư từ Trung quốc không lật nổi thế cờ, người co partner xin tự nguyện rút lui.
Chúng tôi còn lại lẽ loi đơn chiếc và cô thế như chưa ai sẵn lòng thế cô. Trên đường đi làm về, ngồi trên xe vợ tôi hỏi tôi tính ra sao, tôi bảo nhà tôi là kể từ nay tôi thỉnh Ông Địa của tôi hiện đang thờ ở nhà, lên giải vây thế vai trò ngài Thần Tài Trung quốc của vị pháp sư họ Ma, tức họ Mã theo chữ bỏ dấu Annamta.
Ngày "điều động" Ông Địa của tôi lên cho mặt trận miền tây đang yên tĩnh của thành phố Hồ tây (Westlake), chúng tôi làm lễ ra mắt cúng bái rình rang như cô dâu mới về nhà chồng, nào là heo sữa BBQ Liên Hoa và vịt quay cùng hiệu Liên Bông BBQ từ Little Saigon lên yểm trợ, rượu Mai Quế Lộ theo đúng tiêu chuẩn văn hóa gốc Bông bên nhà vợ tôi.
Nhang khói vừa tàn ngay vào mùa prom các nữ sinh hai trường trung học Westlake high school và Thousand Oaks high school chen chân nối đuôi vào, bà chủ chú tâm mần bá thở.
Nhà Tiên Tri Tí Hon Aaron McBain.
Nếu chúng tôi cưng Ông Địa chúng tôi bao nhiêu thì chú bé Aaron, con trai bà Barbara McBain cưng Ông Địa chúng tôi bấy nhiêu. Bé Aaron năm tuổi, da mịn màng trắng toát như bông bưởi, đôi mắt vừa xanh biếc như màu nước biển crystal blue, vừa tròn xoe, tóc vàng hoe, cười khoe hàm răng trắng đều đặn, thật xinh xắn.
Bà Barbara có một mình cháu Aaron nên đi đâu cũng vác nó theo. Ông xã của bà là một pilot cho một hãng máy bay airlines lớn, ông thường vắng nhà. Tội nghiệp bà, đôi khi bà cô đơn, bà ghé tiệm chúng tôi làm neo, rồi tán dóc hay đôi khi chạy tạt qua thăm hỏi chúng tôi. Có hôm bà ghé tiệm bán sách kế bên để hai mẹ con bà xem sách. Tựu trung bà là khách quen thân như người trong gia đình đối với chúng tôi.
Một hôm Barbara đang ngồi chuyện trò với nhà tôi trong lúc làm neo, tôi ngồi bàn desk bên trong đọc sách, một sự kiện bất thường, Aaron không chạy tung tăng như mọi lần, cháu ngoan ngoãn im lặng ở khu vực bàn thờ. Mọi người yên tâm trò chuyện mà chả màng thắc mắc Aaron đang nghĩ gì.
Cách thiết trí của tiệm là những tủ kiếng chắn phía trước che luôn bàn thờ, thì từ bên trong tiệm chúng tôi không thể nhìn thấy bàn thờ và cháu Aaron. Trong sự hồ nghi nào đó vì cháu Aaron im lặng quá, tôi bỏ cuốn sách xuống bàn đi về phía Aaron, tôi há hốc mồm khi trong thấy cái messy party lầy lội của Aaron.
Cháu quá vồn vã với Ông Địa của tôi. Cháu cho Ông Địa một buổi ăn trưa no nê, cháu đút Ông Địa đủ thứ mà mẹ cháu mang theo trong bao xách tay, từ bánh brownie đen ngòm, chocolate pudding cũng đen ngòm nốt, cho luôn một hủ Yoplait strawberry yogurt tưới lên đầu Ông Địa, lót dạ thêm McDonald's pancake, eggs, syrup. Cuối cùng bồi thêm bình sửa của cháu và ly Coke của mẹ cháu giải khát cho Ông Địa.
Tôi la báo động lên, mặt cháu tái mét, mẹ cháu chạy ra tức giận phết mấy cái tát vào mông cháu. Thế là nhà tôi âu sầu, người mãi lẩm bẩm:
- Thôi chết rồi tận thế rồi, phá Ông Địa như vậy thì chỉ có nước húp cháo rùa thôi.
Người ta nghỉ là cháo thượng hạng như cháo hải sâm, cháo bào ngư, kế nữa là cháo tôm, cháo cá và cháo thịt, tệ hơn thì có cháo hột vịt muối, cháo dưa mắm, cháu củ cải muối, cháo củ kiệu, và hạng bét là cháo rùa vì rùa làm gì có thịt, cái mai rùa nhai vào mỏi hàm, ê răng tức làm giàu cho nha sĩ thôi. Do đó cháo rùa là cháo đạm bạc, nghèo nàn nhất xứ, nghèo hết thuốc chữa.
Chúng tôi bỏ gần ba tiếng đồng hồ lau dọn cho khu vực được sạch sẽ. Cuối ngày khách ra về hết, hai vợ chồng lui cui tắm cho Ông Địa bớt nhầy nhụa, nhơ nhớp vì các chất sữa, bơ, bột và đường bám vào người Ông Địa.
Khi Ông Địa được lau khô bằng Kleenex soft paper tissues, rồi cho tí nước hoa fragrant body splash, mùi lemon romance vào hai vai ngài, mà hình như nhà tôi đang nói khẽ ngỏ lời xin lỗi, vì chú bé Aaron chơi dại quá, đã hỗn láo với ngài.
Tôi còn bàn thêm trên đường về chuyến này tụi tôi xui tận mạng: "Ông Địa ra đời, nguyên quán Trung quốc tại miệt Á châu chỉ ưa ăn thức ăn Á đông thôi, sao bé Aaron nỡ tâm Mỹ hoá hay Americanized Ông Địa, thế thì hỏng hết nát bét hết. Tôi còn đưa ra lời tiên đoán, từ ngày mai trở đi là tiệm chúng tôi sẽ vĩnh viễn húp cháo rùa dài dài.
Ngày mai trở lại tiệm mọi người âu lo chờ đợi lời Ông Địa phán. Cái chúng tôi không ngờ là thằng bé dạy cho chúng tôi bài học vỡ lòng về việc vệ sinh cho Ông Địa, là đã tám tháng trời ngài bị nhang khói bụi bậm hành hạ.
Trong khi theo Hiệp Hội Tim Mạch Hoa Kỳ hay Hội Ung Thư Mỹ Quốc thì đã có hàng triệu người Mỹ là nạn nhân của sự thể second hand smoker để rồi họ bị ung thư phổi, bị hen suyễn, bị bệnh tim mạch như heart attack hay stroke,...
Trong khi đó tám tháng qua Ông Địa chúng tôi phải vất vã hít thở nhang khói, khổ sở trăm lần hơn các nạn nhân second hand smokers, và tôi lại nhẫn tâm dùng dây xiềng xích Ông Địa lại. Lý do vì các cháu nhi đồng của nước Mỹ khi lại tiệm thường hay bê Ông Địa ra chơi như búp bê, mà đã xích chân Ông Địa thì làm cách nào Ông Địa exercise, hay vận đông thể dục được sau mỗi ngày ăn no nê.
Trong khi mỗi ngày lượng cholesterol Ông Địa càng gia tăng, vì nào là bánh bao, bánh mì thịt Lee's Sandwiches, há cảo, sủi cảo, dumplings, xá xíu, xíu mại,... toàn thứ high cholesterols thôi. Sau khi Ông Địa được cho tắm piscine mát mẻ thì ngày đó đông khách lạ thường.
Bài học từ bé Aaron nhắc nhở: Nên tắm cho Ông Địa thường xuyên, đổi thức ăn cho ngài, ăn đồ Á châu hoài Ông Địa sẽ ngán ngẩm, chán chết mà ngài không dám nói.
Ông Địa cảnh cáo.
Tháng sau đó Barbara dẫn Aaron lại tiệm chúng tôi trong nỗi tức giận, khi Barbara khóc bù lu bù loa thông báo cho chúng tôi biết, Mark (bố cháu Aaron) đã đi theo con mèo hai chân bỏ sang Dallas và bỏ bà rồi. Những giọt nước mắt oan khiên, cô đơn được nhà tôi mách nước là chắc tại cháu Aaron đã chơi hỗn với vị thần linh là Ông Địa, nên mới có chuyện xui nhà bà ấy.
Vì Barbara nói lần đầu tiên xảy ra, sau sáu năm sống chung vô cùng hạnh phúc. Vợ tôi dẫn Barbara ra trước bàn thờ Ông Địa mách bảo như đạo diễn rằng thì là Barbara nên chuộc tội xin lỗi, khấn vái Ông Địa và xin ngài cho Mark trở lại với gia đình.
Barbara tin lời nhà tôi cứ mỗi hai tuần ghé qua làm neo và khấn vái đốt nhang và xá ba xá rất thuần thục, nhuyễn nhừ. Nhiệm mầu thay hai tháng sau Mark bị con mèo hai chân Dallas đá lăn cù, chàng chạy về lại Cali xin lỗi Barbara xin cho ở lại.
Thế là tiếng đồn gần xa đến tai các khách khác. Mấy nàng Mỹ nữ bị chồng lay off, kép cho retire, bồ cho de, bị phụ tình đến kính cẩn nghiêng mình thắp nhang cho Ông Địa của chúng tôi để cầu xin một phép nhiệm mầu trong đời sống hôn nhân hay trong tình yêu tràn trề hạnh phúc kiểu Cờ Bông.
Bé Aaron với bài học. Trở về với cát bụi.
Trong một hôm sáng đầu tuần vắng khách, cũng nhân dịp lễ Trung Thu vừa qua, ai nấy miệt mài làm việc cho khách hẹn. Mẹ cháu Aaron mãi mê đang đọc sách ở tiệm bên cạnh, Aaron lẻn vào tiệm neo chúng tôi thực hiện kế hoạch mission impossible, Aaron liếc nhìn bàn thờ có thím gà mái dầu hấp muối của tiệm Sam Woo, gà mái bị phủ một lớp giấy kiếng trong suốt, transparent wrap cho khỏi bị bám bụi nhang.
Bên cạnh có nước tương gừng, nước chấm xí mụi, cơm nấu theo kiểu Hải Nam mà tất cả đều có bao kiếng wrap, rồi hai hộp chè hạt sen, bạch quả, khoai môn cũng để nguyên ngăn nắp trong hộp (theo kiểu chè Cali), kế bên là hộp bánh Trung Thu thập cẩm cũng còn nguyên trong hộp.
Chú bé Aaron ngẫm nghĩ không hài lòng hay sao đó: "Tại sao cúng lại cho Ông Địa mà mọi thứ đều bị niêm phong, phủ kín mít từ gà, cơm, bánh, chè ? Tại sao cúng mà không mở ra ?".
Thế là cháu cho tự động mở toạc ra hết. Lư nhang quá đầy cháu đem các cọng nhang tàn trong lư hương đã đốt còn phần đỏ, cháu ném vung vẩy tứ tung ra thảm, xong lấy tro tàn nhang thoa lên thím gà mái, xong thoa luôn bốn cái bánh Trung Thu nhân thập cẩm, rưới tro tàn nhang lên cơm, lên chè...
Lại một lần tôi nữa tôi bắt gặp Aaron làm hỗn với Ông Địa, vị thần linh của tôi, tôi quát tháo lên. Thế là mẹ cháu từ tiệm sách bên cạnh chạy vội sang. Kỳ này Barbara giận dữ vì Aaron dám trù ếm Ông Địa của chúng tôi sớm về với cát bụi, nên cháu thật sự muốn tập sự cho Ông Địa làm quen dần với bụi bậm.
Barbara lại đốt nhang quỳ tạ lỗi, cầu xin khấn vái sợ Ông Địa trở về với cát bụi thì chắc là chàng Mark kia sẽ bỏ mẹ con nàng nhà sang Dallas luôn và dứt tình Cali muôn thuở. Sau khi Aaron cho Ông Địa xơi món gà ướp tro, lòng tôi hơi lo âu, vì lỡ Ông Địa có mệnh hệ chi thì business của bà nhà đi đong như chơi, nhất là ở giai đoạn suy thoái kinh tế trầm trọng nhất của nước Mỹ hiện tại.
Vã lại cái dáng bề thế heavyweight champ của ngài mà chúng tôi cứ mãi cúng kiến gà, vịt, tôm càng, heo, bánh bao, bánh mì thịt, xíu mại, xá xíu, há cảo, sủi cảo, dumplings, ... thì Ông Địa sẽ một sớm một chiều sẽ thật sự trở về với cát bụi như chơi. Tôi đề nghị nhà tôi cho ngài theo chương trình comprehensive diet, tức ăn kiếng toàn diện hay ăn chay.
Từ nay Ông Địa chỉ được dâng hưởng trái cây tươi và fruit juice thôi, ưu tiên là chuối cau (baby bananas) có nhiều potassium tốt cho bệnh nhân tim mạch và cho ông uống nước dừa xiêm loại tươi, nước mát bông cúc, nước mát rau má.. nước sâm American ginseng sẽ mát rượi tâm hồn. để ngài có được an giấc ngủ ngon, chứ không ngủ ngon chúng tôi sẽ có thêm nhiều khốn đốn vất vã.
Và cũng từ nay Ông Địa không còn được cung cấp các đặc sản "bia ngoại" như Heineken, Sapporo, Budweiser hay đế Mai Quê Lộ nữa, mà chỉ có: Nước sâm, nước mát, nước dừa. Trong ba thứ đó ông ưa nước nào ?
Cách đây hai tuần, mẹ con Barbara và Aaron McBain đến từ giã chúng tôi. Barbara cho biết Mark tìm được việc làm mới tại Georgia, nên gia đình sẽ dọn qua Atlanta. Barbara và Aaron đốt nhang vái Ông Địa lần cuối cùng và bé Aaron thật dễ thương trong nụ cười thơ ngây hồn nhiên, cháu hôn má và cái bụng pregnant của Ông Địa.
Tôi bảo Barbara là Ông Địa sẽ phò hộ cho Aaron học hành giỏi và biết đâu, mười ba hay mười lăm năm sau này cháu trở lại Cali, theo học đại học hay đi làm.
Hy vọng khi đó Ông Địa sẽ còn hiện hữu để tiếp đón người xưa với cái ân tình tri kỷ mà cháu Aaron đã dành cho Ông Địa của tiệm chúng tôi.
"Goodbye and good luck to you all the way you go.."
ST
Thông thường trong đời sống hằng ngày người ta chọn một tôn giáo, một niềm tin nào đó để khấn vái, để cầu xin những điều mà họ mong mỏi, họ bị lâm nguy hay khi trong hoàn cảnh tuyệt vọng. Ví dụ mẹ tôi thường cầu trời khấn phật, bạn tôi cầu xin mẹ Maria, dì tôi khấn vái phật bà Quan Âm, ông bán thịt quay BBQ ở phố Tàu mà tôi quen vái ngài Quan Công.
Riêng tôi Ông Địa là đấng vạn năng trong đời sống tâm linh của tôi. Tại sao vậy ? Bởi vì tôi xin ngài thứ gì thì ngài cho ngay không một chút lưỡng lự, ngoại trừ điều ước cuối cùng là trúng Superlotto Jackpot tuần này vô cùng nóng hổi: US$100M, có thể chọn cash value option, tiền tươi.
Tôi nguyện lòng khi nào ngài cho tôi vào danh sách ưu ái nhận giải Superlotto Grand Prize này thì tôi bế ngài đi mỗi bước du hành từ Tahiti sang Cancun, từ Jamaica sang Bahamas...
Ông Địa và Phật Di Lặc :
Thông thường người ta hay nhầm lẫn giữa hai vị thần linh này. Khi tôi sang Trung Quốc, bạn tôi đưa tôi vào một nơi đại lý bán đồ sứ, người bán hàng chỉ tôi vài mẹo vặt phân biệt. Các tay làm đồ gốm khi làm mô hình khuôn đúc đức phật Di Lặc, thì họ cho những dấu hiệu phân biệt để nhận diện như: ngài Di Lặc thì khoác áo choàng cà sa có dấu chữ vạn, hay tay ngài đeo chuỗi hạt.
Còn ông Địa hay ông Thổ Địa thường cầm quạt, hay quấn khăn trên đầu như chú cuội. Dáng dấp hai vị này dù là đức Di Lặc hay ngài Thổ Thần, Thổ Địa đều bề thế, costeau, đô con, nặng cân, mũm mĩm và bụ bẫm như nhau.
Tôi bảo người bán hàng cho hai ông ngồi ngang nhau trên bàn, để tôi so sánh là nên thỉnh ngài nào. Bạn đi chung cùng tôi bảo tôi so sánh làm gì, ngài nào cũng vậy thôi hay là thỉnh cả hai. Tôi trả lời anh:
- Này nhé, anh nhìn xem hai ngài đều nặng ký cả đấy, lo thức ăn đàng hoàng cho các ngài là cả vấn đề lớn lao, chứ phải giỡn sao.
Vì nhà tôi thờ ngài nào là thức ăn, trái cây, mâm quả phải thay đổi định kỳ, tươm tất như lời huấn thị của madame nội tướng của tôi. Trong khi liếc nhìn thoáng qua lại ngài nào cũng tốt mã, tốt tướng, đẹp giai và nụ cười quý ngài tươi như hoa, nhân hậu, rất duyên dáng như thống đốc heavy weight champ Jesse Ventura của tiểu bang Minnesota.
Cuối cùng tôi nghe lời người bạn thỉnh luôn hai vị về Mỹ. Tiền thỉnh không đáng là bao, nhưng sợ lỡ các ngài bị thương, mang tật nguyền như sút tay, gãy chân là mình ân hận suốt đời, quý ngài sẽ quở trách tôi cho cuộc đời này te tua.
Hiệp 1. Ông Địa giúp trên biển.
Sau khi lấy tàu hỏa từ Thẩm Uyến (Shengzhen) về lại Cửu Long (Kowloon), chúng tôi lên phà từ Kowloon trở lại Hong Kong. Phà đang bị cơn bão dữ đe dọa, phà nhấp nhô, lắc lư vì bị sóng gió nhồi, đột ngột thấy phía trước mặt chúng tôi, là chiếc tàu sắt đánh cá đang chống chọi lại cơn bão, và thật tội nghiệp con tàu đánh cá di chuyển như con rùa bò.
Trong khi phà chúng tôi cho còi hú inh ỏi báo động và cố lách, tránh né. Hai chiếc phà và tàu tránh nhau trong đường tơ kẽ tóc, ruột gan tôi co bóp theo từng tiếng còi tàu hụ, tôi ôm chiếc xách tay có tượng Ông Địa ngồi tịnh khẩu ở trong đó, Ông Địa chẩn từng nhịp tim, từng hơi thở để cho tôi sự bình yên.
Lên trên bờ chúng tôi vào một tửu lầu ăn tối, tôi cho người bạn đồng hành biết, tôi may mắn vì có vị thần linh bám sát tôi, bạn tôi hỏi ai vậy. Tôi cầm bức tượng Ông Địa ra cho bạn tôi xem vị thần đỡ mạng chúng tôi hiệp một, gặp nạn trên biển.
Hiệp 2. Ông Địa giúp trên không.
Trên chuyến bay từ Hong Kong sang Đài Bắc, ngài Di Lặc được yên nghỉ trong valise gởi trong compartment máy bay, riêng Ông Địa lại nằm theo xách tay di động của tôi, tôi cưng ngài như cưng trứng mỏng.
Vì trời bão bùng trong eo biển vịnh Đài Loan, chiếc Boeing 747 của hãng Eva Airlines bị bão nhồi khủng khiếp, nó lắc lư con tàu đi, làm hành khách hoảng vía lắc lư như con tim sai nhịp đập. Bão nhồi tiếp tục càng mạnh hơn, máy bay gầm thét làm thân tàu chao đảo khi con tàu cố giữ thế thăng bằng.
Giọng tiếp viên hàng không báo động cài seatbelt, giữ bình tĩnh và phòng hờ emergency đã được hướng dẫn. Tôi ôm Ông Địa vào lòng mà miệng đọc chú tiếng quốc ngữ Annamta:
- Úm bà la cho tai qua nạn khỏi. Ông Địa còn là con còn. Ông Điạ đi là con đi. Ông Địa có chút từ bi. Cho con thoát nạn con thì đội ơn. Úm bà la cho tai qua nạn khỏi ...
Cứ thế mà úm bà la niệm chú chừng chục lần là mọi việc xong xuôi. Thế rồi phi trường Chang Kai Shek của Đài Bắc hiện ra trước mặt, chúng tôi thoát nạn vì nhờ Ông Địa. Ngài đỡ chúng tôi hiệp hai.
Hiệp 3. Cháy khách sạn Nam Hoa.
Chúng tôi vào trọ tại khách sạn Nam Hoa, năm tầng lầu, nhân viên khách sạn cho biết họ chỉ còn phòng trống ở lầu ba và năm thôi. Người bạn đồng hành của tôi chọn phòng ở lầu ba vì gần tầng dưới hơn. Tôi bảo bạn tôi nên chọn tầng thứ năm, vì tôi muốn quan sát phong cảnh chung quanh khu vực thành phố.
Vã lại tôi không ưa số phòng là hai mươi ba, con số vô duyên với tôi. Bạn tôi chìu ý. Khi đồng hồ chỉ đúng 12:30 khuya, khách trong khách sạn chạy náo loạn, tiếng la bằng ngôn ngữ Quan thoại, dân Annamta như tôi bí lù, chả biết thiên hạ nói gì, anh bạn đồng hành phiên dịch lại. Còi hụ báo hiệu chuyện chẳng lành, chúng tôi ngó xuống đường, xe cứu hỏa vừa trờ đến, khói từ lầu ba bốc ra ngoài.
Chúng tôi không dùng thang máy được vì điện cúp, thang lầu bi kẹt cứng vì phòng hai mươi hai bị cháy sát thang lầu. Khi mọi diễn biến xong xuôi, chúng tôi đi ngủ lại lúc ba giờ sáng, bạn tôi bảo:
- Hên quá, tụi mình suýt book phòng số hai mươi ba.
Tôi cười khì và trả lời:
- Ông Địa bảo rồi phòng hai mươi ba không tốt mà.
Tôi ôm Ông Địa ra hôn ngay vào bụng "pregnant" của ngài như lời tạ ơn sâu xa nhất. Bất cứ nơi nào bạn đi, trên trời, dưới biển hay trên bộ, ngài sẵn lòng nở nụ cười hiền hòa độ lượng bảo vệ tính mạng cho bạn được bình yên.
Ông Thổ Địa và Ông Thần Tài:
Ngày vợ tôi sang tiệm neo để tự làm chủ lấy mình, tiệm này vốn là ngôi chùa Bà Đanh, khách lưa thưa vắng vẻ quá. Người co partner xúi bà nhà tôi nhào vô thử thời vận.
- Sợ gì một ăn hai thua..
Bà co-partner nói khích chúng tôi. Nhà tôi hỏi ý tôi. Tôi trả lời kiểu a dua a tòng rất nịnh đầm:
- Bà sao tui vậy.
Thế là nàng vô vai trò làm co-owner. Sau hai tháng đầu tiệm y chang như xưa, khách vẫn ít õi thưa thớt. Người co-partner là một phụ nữ Annamta gốc Bông bèn mời ông thầy tướng số gốc Trung quốc cư ngụ tại vùng Bông kiều Alhambra, nghe đâu người có nội công thâm hậu, thượng thừa về tử vi, phong thủy cho các cơ sở thương mại tại các khu vực đậm nét Bông kiều.
Thầy ếm bùa bát quái trước sau, thầy kêu chúng tôi treo kiếng ếm diệt tà ma quỷ. Qua người thông ngôn dịch lại là quỷ vampire Dracula còn sợ kiếng, huống chi quỷ ở tiệm neo là loại cắc ké, dế óc tiêu, dễ trị như trở bàn tay và không đáng kể.
Ông đi từ trước ra sau, ông lắc đầu ngao ngán, ông nói bọn tôi mua tiệm lầm chết bỏ vì hướng cửa trước chạy thẳng một đường ra ngỏ cửa sau, chả kín đáo gì cả thảo nào vắng khách, nếu có bỏ thêm tiền vào thì như con bệnh sốt xuất huyết thôi, vì tiền vào ngã trước chạy thẳng ra ngã sau mất tiêu hết.
Ông còn chê thêm cái cây oak khổng lồ ở sân trước parking đậu xe là biểu tượng ma quỷ án ngữ cản khách vào. Thầy bùa cho treo miếng kiếng chống lại bọn tà ma quỷ ám haunting ghost trước cửa ra vào, mấy bà co owners tin như điếu đổ. Thầy bảo tiệm phải có chậu nước hay bồn nước trước cửa, một nguyên tắc chính của khoa địa lý phong thủy.
Chúng tôi mua chiếc bồn nước kiểng có cây bonsai, ngoài ra trang trí thêm cho kế hoạch hốt bạc là chưng cây tiền (money tree) mà lá có năm hay sáu cánh như lá cây khoai mì, rồi thêm vài cây thủy tre (water bamboo) mà các nơi bây giờ hay chưng. Phong thủy cần nước mà water bamboo nói lên cả một cái lý thuyết Âm Dương ngũ hành: "Thủy sinh mộc, Mộc sinh hỏa, Hỏa sinh thổ, Thổ sinh Kim". Mà kim là tiền tươi.
Theo thầy tướng số vừa đi, mồm thì thầm chú trù ếm tà ma khi thầy bấm các nốt đốt tay. Đoạn thầy bảo các bà điều quan trọng hơn cả là phải có vị Thần Tài phù trợ. Vụ này thầy bùa cung cấp vì vị thần này do một danh pháp sư Trung quốc đã thỉnh tận Trung quốc mới linh thiêng mà thầy biết nơi thỉnh.
Sau này khi tôi nhận hình mà lòng tự hỏi sao Thần Tài Trung quốc của danh pháp sư lại y chang các vị Thần Tài đang ngồi chễm chệ trên các kệ bán nhang đèn ở phố Broadway, khu Chinatown.
Tôi chăm chú nhìn một hình vẽ ngài Thần Tài trong y phục Trung hoa y như các đấng thần linh Quan Công, Trương Phi hay Lưu Bị. Sau khi thiết kế xong chương trình phòng chống tà ma quỷ ám tại tiệm, thầy bái bai chúng tôi và chúc lành mọi điều may mắn.
Thế là tiệm neo phục vụ người bản xứ Cờ Bông cộng thêm vị Thần Tài gốc Trung Bông trấn giữ ngay địa đầu cửa ải thì nhất xứ thiên hạ, chứ còn lo gì nữa ? Cái lý thuyết địa lý phong thủy đó cắn bọn tôi một phần máu, máu đã đổ mà thầy bùa pháp sư từ Trung quốc không lật nổi thế cờ, người co partner xin tự nguyện rút lui.
Chúng tôi còn lại lẽ loi đơn chiếc và cô thế như chưa ai sẵn lòng thế cô. Trên đường đi làm về, ngồi trên xe vợ tôi hỏi tôi tính ra sao, tôi bảo nhà tôi là kể từ nay tôi thỉnh Ông Địa của tôi hiện đang thờ ở nhà, lên giải vây thế vai trò ngài Thần Tài Trung quốc của vị pháp sư họ Ma, tức họ Mã theo chữ bỏ dấu Annamta.
Ngày "điều động" Ông Địa của tôi lên cho mặt trận miền tây đang yên tĩnh của thành phố Hồ tây (Westlake), chúng tôi làm lễ ra mắt cúng bái rình rang như cô dâu mới về nhà chồng, nào là heo sữa BBQ Liên Hoa và vịt quay cùng hiệu Liên Bông BBQ từ Little Saigon lên yểm trợ, rượu Mai Quế Lộ theo đúng tiêu chuẩn văn hóa gốc Bông bên nhà vợ tôi.
Nhang khói vừa tàn ngay vào mùa prom các nữ sinh hai trường trung học Westlake high school và Thousand Oaks high school chen chân nối đuôi vào, bà chủ chú tâm mần bá thở.
Nhà Tiên Tri Tí Hon Aaron McBain.
Nếu chúng tôi cưng Ông Địa chúng tôi bao nhiêu thì chú bé Aaron, con trai bà Barbara McBain cưng Ông Địa chúng tôi bấy nhiêu. Bé Aaron năm tuổi, da mịn màng trắng toát như bông bưởi, đôi mắt vừa xanh biếc như màu nước biển crystal blue, vừa tròn xoe, tóc vàng hoe, cười khoe hàm răng trắng đều đặn, thật xinh xắn.
Bà Barbara có một mình cháu Aaron nên đi đâu cũng vác nó theo. Ông xã của bà là một pilot cho một hãng máy bay airlines lớn, ông thường vắng nhà. Tội nghiệp bà, đôi khi bà cô đơn, bà ghé tiệm chúng tôi làm neo, rồi tán dóc hay đôi khi chạy tạt qua thăm hỏi chúng tôi. Có hôm bà ghé tiệm bán sách kế bên để hai mẹ con bà xem sách. Tựu trung bà là khách quen thân như người trong gia đình đối với chúng tôi.
Một hôm Barbara đang ngồi chuyện trò với nhà tôi trong lúc làm neo, tôi ngồi bàn desk bên trong đọc sách, một sự kiện bất thường, Aaron không chạy tung tăng như mọi lần, cháu ngoan ngoãn im lặng ở khu vực bàn thờ. Mọi người yên tâm trò chuyện mà chả màng thắc mắc Aaron đang nghĩ gì.
Cách thiết trí của tiệm là những tủ kiếng chắn phía trước che luôn bàn thờ, thì từ bên trong tiệm chúng tôi không thể nhìn thấy bàn thờ và cháu Aaron. Trong sự hồ nghi nào đó vì cháu Aaron im lặng quá, tôi bỏ cuốn sách xuống bàn đi về phía Aaron, tôi há hốc mồm khi trong thấy cái messy party lầy lội của Aaron.
Cháu quá vồn vã với Ông Địa của tôi. Cháu cho Ông Địa một buổi ăn trưa no nê, cháu đút Ông Địa đủ thứ mà mẹ cháu mang theo trong bao xách tay, từ bánh brownie đen ngòm, chocolate pudding cũng đen ngòm nốt, cho luôn một hủ Yoplait strawberry yogurt tưới lên đầu Ông Địa, lót dạ thêm McDonald's pancake, eggs, syrup. Cuối cùng bồi thêm bình sửa của cháu và ly Coke của mẹ cháu giải khát cho Ông Địa.
Tôi la báo động lên, mặt cháu tái mét, mẹ cháu chạy ra tức giận phết mấy cái tát vào mông cháu. Thế là nhà tôi âu sầu, người mãi lẩm bẩm:
- Thôi chết rồi tận thế rồi, phá Ông Địa như vậy thì chỉ có nước húp cháo rùa thôi.
Người ta nghỉ là cháo thượng hạng như cháo hải sâm, cháo bào ngư, kế nữa là cháo tôm, cháo cá và cháo thịt, tệ hơn thì có cháo hột vịt muối, cháo dưa mắm, cháu củ cải muối, cháo củ kiệu, và hạng bét là cháo rùa vì rùa làm gì có thịt, cái mai rùa nhai vào mỏi hàm, ê răng tức làm giàu cho nha sĩ thôi. Do đó cháo rùa là cháo đạm bạc, nghèo nàn nhất xứ, nghèo hết thuốc chữa.
Chúng tôi bỏ gần ba tiếng đồng hồ lau dọn cho khu vực được sạch sẽ. Cuối ngày khách ra về hết, hai vợ chồng lui cui tắm cho Ông Địa bớt nhầy nhụa, nhơ nhớp vì các chất sữa, bơ, bột và đường bám vào người Ông Địa.
Khi Ông Địa được lau khô bằng Kleenex soft paper tissues, rồi cho tí nước hoa fragrant body splash, mùi lemon romance vào hai vai ngài, mà hình như nhà tôi đang nói khẽ ngỏ lời xin lỗi, vì chú bé Aaron chơi dại quá, đã hỗn láo với ngài.
Tôi còn bàn thêm trên đường về chuyến này tụi tôi xui tận mạng: "Ông Địa ra đời, nguyên quán Trung quốc tại miệt Á châu chỉ ưa ăn thức ăn Á đông thôi, sao bé Aaron nỡ tâm Mỹ hoá hay Americanized Ông Địa, thế thì hỏng hết nát bét hết. Tôi còn đưa ra lời tiên đoán, từ ngày mai trở đi là tiệm chúng tôi sẽ vĩnh viễn húp cháo rùa dài dài.
Ngày mai trở lại tiệm mọi người âu lo chờ đợi lời Ông Địa phán. Cái chúng tôi không ngờ là thằng bé dạy cho chúng tôi bài học vỡ lòng về việc vệ sinh cho Ông Địa, là đã tám tháng trời ngài bị nhang khói bụi bậm hành hạ.
Trong khi theo Hiệp Hội Tim Mạch Hoa Kỳ hay Hội Ung Thư Mỹ Quốc thì đã có hàng triệu người Mỹ là nạn nhân của sự thể second hand smoker để rồi họ bị ung thư phổi, bị hen suyễn, bị bệnh tim mạch như heart attack hay stroke,...
Trong khi đó tám tháng qua Ông Địa chúng tôi phải vất vã hít thở nhang khói, khổ sở trăm lần hơn các nạn nhân second hand smokers, và tôi lại nhẫn tâm dùng dây xiềng xích Ông Địa lại. Lý do vì các cháu nhi đồng của nước Mỹ khi lại tiệm thường hay bê Ông Địa ra chơi như búp bê, mà đã xích chân Ông Địa thì làm cách nào Ông Địa exercise, hay vận đông thể dục được sau mỗi ngày ăn no nê.
Trong khi mỗi ngày lượng cholesterol Ông Địa càng gia tăng, vì nào là bánh bao, bánh mì thịt Lee's Sandwiches, há cảo, sủi cảo, dumplings, xá xíu, xíu mại,... toàn thứ high cholesterols thôi. Sau khi Ông Địa được cho tắm piscine mát mẻ thì ngày đó đông khách lạ thường.
Bài học từ bé Aaron nhắc nhở: Nên tắm cho Ông Địa thường xuyên, đổi thức ăn cho ngài, ăn đồ Á châu hoài Ông Địa sẽ ngán ngẩm, chán chết mà ngài không dám nói.
Ông Địa cảnh cáo.
Tháng sau đó Barbara dẫn Aaron lại tiệm chúng tôi trong nỗi tức giận, khi Barbara khóc bù lu bù loa thông báo cho chúng tôi biết, Mark (bố cháu Aaron) đã đi theo con mèo hai chân bỏ sang Dallas và bỏ bà rồi. Những giọt nước mắt oan khiên, cô đơn được nhà tôi mách nước là chắc tại cháu Aaron đã chơi hỗn với vị thần linh là Ông Địa, nên mới có chuyện xui nhà bà ấy.
Vì Barbara nói lần đầu tiên xảy ra, sau sáu năm sống chung vô cùng hạnh phúc. Vợ tôi dẫn Barbara ra trước bàn thờ Ông Địa mách bảo như đạo diễn rằng thì là Barbara nên chuộc tội xin lỗi, khấn vái Ông Địa và xin ngài cho Mark trở lại với gia đình.
Barbara tin lời nhà tôi cứ mỗi hai tuần ghé qua làm neo và khấn vái đốt nhang và xá ba xá rất thuần thục, nhuyễn nhừ. Nhiệm mầu thay hai tháng sau Mark bị con mèo hai chân Dallas đá lăn cù, chàng chạy về lại Cali xin lỗi Barbara xin cho ở lại.
Thế là tiếng đồn gần xa đến tai các khách khác. Mấy nàng Mỹ nữ bị chồng lay off, kép cho retire, bồ cho de, bị phụ tình đến kính cẩn nghiêng mình thắp nhang cho Ông Địa của chúng tôi để cầu xin một phép nhiệm mầu trong đời sống hôn nhân hay trong tình yêu tràn trề hạnh phúc kiểu Cờ Bông.
Bé Aaron với bài học. Trở về với cát bụi.
Trong một hôm sáng đầu tuần vắng khách, cũng nhân dịp lễ Trung Thu vừa qua, ai nấy miệt mài làm việc cho khách hẹn. Mẹ cháu Aaron mãi mê đang đọc sách ở tiệm bên cạnh, Aaron lẻn vào tiệm neo chúng tôi thực hiện kế hoạch mission impossible, Aaron liếc nhìn bàn thờ có thím gà mái dầu hấp muối của tiệm Sam Woo, gà mái bị phủ một lớp giấy kiếng trong suốt, transparent wrap cho khỏi bị bám bụi nhang.
Bên cạnh có nước tương gừng, nước chấm xí mụi, cơm nấu theo kiểu Hải Nam mà tất cả đều có bao kiếng wrap, rồi hai hộp chè hạt sen, bạch quả, khoai môn cũng để nguyên ngăn nắp trong hộp (theo kiểu chè Cali), kế bên là hộp bánh Trung Thu thập cẩm cũng còn nguyên trong hộp.
Chú bé Aaron ngẫm nghĩ không hài lòng hay sao đó: "Tại sao cúng lại cho Ông Địa mà mọi thứ đều bị niêm phong, phủ kín mít từ gà, cơm, bánh, chè ? Tại sao cúng mà không mở ra ?".
Thế là cháu cho tự động mở toạc ra hết. Lư nhang quá đầy cháu đem các cọng nhang tàn trong lư hương đã đốt còn phần đỏ, cháu ném vung vẩy tứ tung ra thảm, xong lấy tro tàn nhang thoa lên thím gà mái, xong thoa luôn bốn cái bánh Trung Thu nhân thập cẩm, rưới tro tàn nhang lên cơm, lên chè...
Lại một lần tôi nữa tôi bắt gặp Aaron làm hỗn với Ông Địa, vị thần linh của tôi, tôi quát tháo lên. Thế là mẹ cháu từ tiệm sách bên cạnh chạy vội sang. Kỳ này Barbara giận dữ vì Aaron dám trù ếm Ông Địa của chúng tôi sớm về với cát bụi, nên cháu thật sự muốn tập sự cho Ông Địa làm quen dần với bụi bậm.
Barbara lại đốt nhang quỳ tạ lỗi, cầu xin khấn vái sợ Ông Địa trở về với cát bụi thì chắc là chàng Mark kia sẽ bỏ mẹ con nàng nhà sang Dallas luôn và dứt tình Cali muôn thuở. Sau khi Aaron cho Ông Địa xơi món gà ướp tro, lòng tôi hơi lo âu, vì lỡ Ông Địa có mệnh hệ chi thì business của bà nhà đi đong như chơi, nhất là ở giai đoạn suy thoái kinh tế trầm trọng nhất của nước Mỹ hiện tại.
Vã lại cái dáng bề thế heavyweight champ của ngài mà chúng tôi cứ mãi cúng kiến gà, vịt, tôm càng, heo, bánh bao, bánh mì thịt, xíu mại, xá xíu, há cảo, sủi cảo, dumplings, ... thì Ông Địa sẽ một sớm một chiều sẽ thật sự trở về với cát bụi như chơi. Tôi đề nghị nhà tôi cho ngài theo chương trình comprehensive diet, tức ăn kiếng toàn diện hay ăn chay.
Từ nay Ông Địa chỉ được dâng hưởng trái cây tươi và fruit juice thôi, ưu tiên là chuối cau (baby bananas) có nhiều potassium tốt cho bệnh nhân tim mạch và cho ông uống nước dừa xiêm loại tươi, nước mát bông cúc, nước mát rau má.. nước sâm American ginseng sẽ mát rượi tâm hồn. để ngài có được an giấc ngủ ngon, chứ không ngủ ngon chúng tôi sẽ có thêm nhiều khốn đốn vất vã.
Và cũng từ nay Ông Địa không còn được cung cấp các đặc sản "bia ngoại" như Heineken, Sapporo, Budweiser hay đế Mai Quê Lộ nữa, mà chỉ có: Nước sâm, nước mát, nước dừa. Trong ba thứ đó ông ưa nước nào ?
Cách đây hai tuần, mẹ con Barbara và Aaron McBain đến từ giã chúng tôi. Barbara cho biết Mark tìm được việc làm mới tại Georgia, nên gia đình sẽ dọn qua Atlanta. Barbara và Aaron đốt nhang vái Ông Địa lần cuối cùng và bé Aaron thật dễ thương trong nụ cười thơ ngây hồn nhiên, cháu hôn má và cái bụng pregnant của Ông Địa.
Tôi bảo Barbara là Ông Địa sẽ phò hộ cho Aaron học hành giỏi và biết đâu, mười ba hay mười lăm năm sau này cháu trở lại Cali, theo học đại học hay đi làm.
Hy vọng khi đó Ông Địa sẽ còn hiện hữu để tiếp đón người xưa với cái ân tình tri kỷ mà cháu Aaron đã dành cho Ông Địa của tiệm chúng tôi.
"Goodbye and good luck to you all the way you go.."
ST
Thanked by 1 Member:
|
|
#105
Gửi vào 20/06/2011 - 08:24
BÍ ẨN TRONG PHÚT HẤP HỐI
Con người đã và đang tìm kiếm các dấu hiệu tin cậy về cái chết để tránh xảy ra những trường hợp đáng tiếc. Bên cạnh đó, các nhà khoa học thực sự lúng túng khi một số người đã kể lại cái chết cho biết những gì mà họ cảm nhận được trong thời gian hoàn toàn bất tỉnh hoặc mất hết hy vọng được cứu sống.
Vào năm 1957, tại một sân bay nhỏ của Anh đã xảy ra tai nạn khi máy bay hạ cánh. Một bác sĩ ngồi ghế phía sau bị văng khỏi máy bay, ngất đi và không có dấu hiệu sống. Từ nơi mà ông ngã gục không thể nào nhìn được quang cảnh xung quanh, nhưng thật lạ lùng là người đó thấy rõ tất cả những gì xảy ra ở sân bay.
Nạn nhân thấy thân thể của ông ta nằm bất động ở phía dưới mình khoảng 60m, thấy cả người hoa tiêu và phi công dính máu đang chạy về phía mình. Việc những người đó biểu lộ sự chú ý đối với thân thể của ông đã làm bác sĩ ngạc nhiên và bực tức. Ông muốn được yên tĩnh.
Sau đó, nạn nhân thấy một ôtô cứu thương từ nhà để xe đi ra và một bác sĩ nhảy vào. Xe chở nạn nhân dừng lại một trạm xá và lấy theo một thiết bị. Tiếp đó, nạn nhân theo dõi thấy xe chạy với vận tốc lớn, mang "thi thể" của ông tới bệnh viện thành phố. Thân thể nạn nhân được đặt lên một cái bàn trắng, mọi người cúi xuống làm việc.
Ông ta cảm thấy mùi khó chịu của clorua amonium. Vào đúng thời điểm đó, ý thức rõ ràng và bình thản của nạn nhân đột nhiên mờ hẳn và lại quay vào "trong" thân thể bị thương, kèm theo cảm giác đau đớn. Sau này do tò mò, người đó đã phục hồi tỉ mỉ các sự việc ấy và những điều mô tả hoàn toàn khớp với thực tế.
Vào năm 1892, một nhà địa chất người Thụy Sĩ tên là Enbơ Hem bị trượt ngã xuống vực sâu, nhưng may mắn thoát chết. Quan tâm đến những cảm nhận của mình trong khoảnh khoắc hoàn toàn thất vọng, nhà địa chất đã thu thập được 32 trường hợp tương tự. Ông nhận thấy rằng, tất cả các "đồng sự" của mình đều trải qua một cái gì đó giống nhau ở ngưỡng cửa của cái chết khó tránh khỏi. Những quan sát đó của E. Hem đã được bổ sung đáng kể, đặc biệt là vào những năm gần đây, khi công việc hồi sinh đã có nhiều kết quả.
Khi rơi từ độ cao lớn, ở thời điểm đầu tiên, con người trải qua sự sợ hãi mạnh mẽ, tìm kiếm một cách vô vọng các khả năng cứu thoát. Giai đoạn thứ hai xuất hiện sự nhận thức đầy đủ về cái chết không tránh khỏi và các ý định thoát thân đã rời khỏi não bộ. Cái chết không còn làm kinh hoàng và phiền muộn, nhưng những điều vụn vặt ngớ ngẩn lại làm lo lắng: xót xa vì rách bộ quần áo đang mặc, vỡ vụn cặp kính đang đeo hoặc hỏng mất cái máy ảnh...
Nếu thời gian rơi đủ dài thì sẽ xuất hiện giai đoạn thứ ba, hồi tưởng quá khứ. Các thời điểm quan trọng nhất của cuộc đời hiện ra thành các mảng hình ảnh, giống như quan sát chúng từ tầng trên của rạp hát. Tuy nhiên, những hình ảnh ấy mãnh liệt đến mức nào còn tuỳ thuộc vào đặc điểm cá nhân của mỗi con người.
Vào năm 1972, một người trượt tuyết 19 tuổi bị ngã từ độ cao hàng ngàn mét và thoát chết với cái mũi dập nát. Nạn nhân kể lại: "Khi bắt đầu rơi, tôi gào thét thảm thiết, nhưng sau đó, tôi hiểu rằng tôi đã chết. Cả cuộc đời hiện ra trước mắt tôi như một ánh chớp. Tôi thấy khuôn mặt mẹ tôi, thấy ngôi nhà mà trong đó tôi sống, thấy các bạn bè ...".
Còn Hem lại mô tả bức tranh quá khứ như sau: "Tôi thấy mình là đứa bé bảy tuổi đi đến trường học, rồi thấy mình hồi lớp bốn cùng với thầy giáo yêu quý".
Các cảm xúc hồi tưởng quá khứ kéo dài không lâu và chuyển qua một trạng thái thần bí. Khi một người rơi xuống vực thẳm thì người đó hiểu được rằng, thân thể của mình sẽ va vào đá và bị hủy hoại, xương sẽ gãy vụn và dập nát. Nhưng sự hồi tưởng về bản thân hoàn toàn không liên quan tới cơ thể nữa. Bắt đầu từ một thời điểm nào đó, nạn nhân không hề lưu tâm đến "thân xác" của mình.
Sự cảm nhận của nạn nhân bị xâm chiếm bởi các ý nghĩ tuyệt đẹp và xen lẫn những nốt nhạc du dương. Một trạng thái tinh thần thanh thản, nạn nhân bay qua các bầu trời mày hồng và màu lam lộng lẫy, ở trạng thái siêu việt đó, nạn nhân cảm thấy dễ chịu đến nỗi nảy sinh sự phản kháng rõ rệt chống lại những cố gắng đưa cơ thể về với sự sống.
Tuy nhiên, đôi khi con người cũng có thể rơi vào trạng thái đặc biệt do quá sợ hãi. Trường hợp như vậy đã xảy ra với nhà du lịch nổi tiếng Đevit Lêvingxtơn tại một vùng rừng Phi Châu. Một con sư tử nhảy đến sau lưng ông và bắt đầu cắn xé. Nạn nhân ngã sấp, cảm thấy rơi vào trạng thái thiêm thiếp, không hề thấy đau và hoảng hốt. Nạn nhân không thể và không muốn cử động, phản kháng. Con sư tử chấm dứt hành hạ cơ thể nạn nhân và ngồi cạnh ông. Khi đó sức lực của nhà du lịch đột nhiên trở lại. Ông bật dậy và phóng chạy thoát thân.
Trong những năm gần đây, các cảm nhận của những người chết lâm sàng đã được phân tích tỉ mỉ trong cuốn sách của R.Mouđi: Cuộc sống sau cái chết. Những người như vậy trải qua một cái gì đó giống nhau, mặc dù độ rõ nét có thể khác nhau. Họ rời bỏ "thân xác" và dễ dàng bay bổng lên không trung, quan sát hành vi của mọi người khác từ phía trên. Sau đó một quầng sáng xuất hiện, giúp họ nhớ lại các sự cố của cuộc đời. Quầng sáng có thể thúc giục họ trở lại với "thân xác" vì còn chưa tới lúc "chuyển tiếp"...
Một câu hỏi hay được đặt ra là làm thế nào để phân biệt một người bất tỉnh nhân sự với một người vừa mới chết?
Lịch sử y học đã chứng kiến nhiều trường hợp mà trong đó các bác sĩ giàu kinh nghiệm nhất cũng mắc phải sai lầm. Vào thế kỷ XI, Anđrei Vazali bị kết án tử hình vì đã giải phẫu thân thể một nhà quý tộc Tây Ban Nha. Người này đã tỉnh lại trên bàn mổ và bình phục trở lại. Tuy thế, bản án đối với AVazali vẫn được thi hành. Một điều trùng hợp kỳ lạ là chính viên quan toà đã dựng lên án đó, chẳng bao lâu cũng hồi tỉnh trên bàn mổ tử thi, nhưng sau đó ông ta không qua khỏi.
Vào năm 1964, tại một trong các nhà xác ở New York có một "tử thi" sống lại, đã nắm chặt lấy cổ và tay nhà phẫu thuật bệnh lý khi ông ta vừa thao tác dao mổ. Một nhà thơ tên là Patrarka đã hồi tỉnh trước khi đưa đi mai táng 4 giờ và còn sống thêm được 30 năm nữa.
Một người phục vụ ở Vatican được coi là đã chết do bệnh hen. Trong số các bác sĩ làm nhiệm vụ có một người rất cẩn thận, đã đưa ngọn nến đến gần mắt người chết. "Tử thi" co giật mạnh và sau đó còn sống được khá lâu, với một cái sẹo trên mũi do bỏng.
Vào đầu thế kỷ XX, một hội đồng các bác sĩ có uy tín của Anh đã tiến hành nghiên cứu và kết luận rằng, mỗi năm ở nước này có khoảng 2.500 người bị chôn sống.
Có thể điều vừa nêu bị phóng đại, nhưng quả thật có không ít trường hợp những người còn sống đã bị chôn vùi. Chính tại Anh và cuối những năm 60, đã xuất hiện một thiết bị đầu tiên cho phép ghi nhận được hoạt tính điện rất nhỏ của tim. Trong lần thử đầu tiên tại một nhà xác, người ta đã phát hiện được một cô gái còn sống nằm giữa các tử thi.
Những điều nêu trên cho thấy rằng, giữa sự sống và cái chết không có một ranh giới rõ ràng như đôi khi chúng ta vẫn tưởng. Sự ngưng thở được coi là dấu hiệu đầu tiên của cái chết. Nhưng ngay từ thế kỷ trước, quan niệm đó đã bị phủ nhận hoàn toàn.
Một số nhà Yoga có thể tự ngừng thở mà sau đó vẫn sống khoẻ mạnh. Dấu hiệu khác của cái chết là sự mất mạch và sự ngừng hoạt động của tim. Tuy nhiên, điều đó không phải bao giờ cùng đúng. Các nhà Yoga có thể điều khiển nhịp đập của tim sao cho các dụng cụ đo chính xác cũng chỉ báo là tim hoàn toàn ngừng đập.
Số đo thân nhiệt cũng không thể là dấu hiệu đầy đủ của cái chết. Đã có những trường hợp người đứng tuổi sống qua ngày ở một khu nhà lạnh lẽo, nhiệt độ thân thể hạ xuống khoảng 24ºC mà họ vẫn không chết.
Một cậu bé ở Thụy Điển được tìm thấy dưới lớp tuyết với nhiệt độ thân thể 18ºC, nhưng đã bình phục mà không có những biến chứng đáng kể. Một số chứng bệnh (như tả, đậu mùa, uốn váng) có thể làm cho thân thể tăng nhiệt độ sau khi chết.
Sự thay đổi ở nhãn cầu hay sự cứng đờ của thân thể cũng không phải là dấu hiệu tin cậy của cái chết. Hơn nữa, một số cơ quan tiếp tục hoạt động sau thời điểm chết lâm sàng. Cái chết tiến đến không tức thời. Đó là một dạng tồn tại đặc biệt, một sự tiến hoá dần dần với một xác suất thuận nghịch nhất định. Tử thi không có trường sinh học và cái đó cũng không thể là dấu hiệu của cái chết, bởi vì trường sinh học ở một số người sống cũng có thể tạm thời biến mất. Tử thì có thể lưu giữ một hoạt tính điện nào đó cho đến ngày thứ 39, khi mà xung não đáng kể cuối cùng được ghi nhận.
Tuy vậy, việc hồi sinh được phép tiến hành sau khi nạn nhân bị chết lâm sàng chỉ mấy phút. Bởi vì nếu để lâu quá thì trong một số trường hợp, những người được cứu sống sẽ tiếp tục tồn tại mà không có tri giác, giống như những con búp bê sống. Giới hạn thời gian hồi sinh phụ thuộc vào các khả năng của nền y học hiện đại.
Tất cả những điều nêu trên có tác dụng lưu ý chúng ta hãy thận trọng khi xem xét các quá trình xảy ra với con người trên ranh giới giữa sự sống và cái chết.
ST
ĐIỀU BÍ ẨN VỀ GIÁC QUAN
Hầu như ai trong số chúng ta cũng có một vài mức độ của khả năng ngoại cảm. Có người giống như chim thiên di, vì họ luôn biết hướng bắc nằm ở đâu, trong khi những người khác không cần phải đeo đồng hồ, vì họ biết lúc nào là mấy giờ. Khi bị ai đó nhìn lén, chúng ta đều có cảm giác “nhồn nhột”, khó chịu.
Nếu bạn nghĩ rằng con người có 5 giác quan thì vẫn chưa chính xác. Ngoài các giác quan thông thường như: thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác và vị giác, con người còn có thêm một giác quan nữa, được gọi là cảm giác vận động trong cơ thể, tức là chúng ta có thể nhận thức được mức độ căng cứng của các cơ, vị trí tương đối của các chi trong cơ thể chẳng hạn.
Tuy nhiên, các nhà tâm lý học và khoa học còn đề cập về giác quan thứ bảy, chứ không phải là “giác quan thứ sáu” như chúng ta vẫn thường hay nói!
Giác quan thứ bảy là một tập hợp của các giác quan, gọi chung bằng cái tên “khả năng ngoại cảm”. Một trong những bằng chứng sống kỳ lạ nhất về ngoại cảm là cô Jane O'Neil ở Anh. Cô đã tận mắt chứng kiến một tai nạn giao thông nghiêm trọng. Cú sốc lớn đến nỗi cô phải nghỉ việc trong nhiều tuần. Sau biến cố này, cô phát một khả năng nhìn thấy bằng “con mắt thứ ba”.
Một ngày nọ, cô cùng với một người bạn đi nhà thờ Fotheringhay ở Northamptonshire. Jane nhìn ra phía sau bàn thờ và thấy có một bức tranh rất đẹp, trong khi cô bạn thì chẳng thấy gì cả.
Sau đó, hai cô quay trở lại nhà thờ lần nữa để “làm cho ra ngô ra khoai”. Nhưng lần này thì Jane hết sức kinh ngạc khi trông thấy quang cảnh của một nhà thờ hoàn toàn khác lạ, nhỏ bé hơn nhà thờ hiện tại, nhưng bức tranh thì đã biến mất.
Cô mô tả hình ảnh này với một chuyên gia am hiểu về lịch sử địa phương, thì được biết đấy chính là căn nhà thờ cổ có từ trước đó 400 năm, và được trùng tu vào năm 1553. Tuy nhiên, có nhà khoa học lý giải rằng Jane đã trải qua một biến động trong cuộc sống, nên cô đã có một số ảo giác. Và một trong các ảo giác đó vô tình trùng hợp với thực tế của lịch sử.
Cô Jane là một trong những trường hợp có khả năng nhìn về quá khứ của 4 thế kỷ trước. Một số người có thể cảm nhận được sự hiện hữu của một vật thể lớn ở gần đấy. Và dù có bị bịt mắt, họ vẫn không dại gì bước đâm sầm vào một bức tường. Khá nhiều người trong chúng ta có khả năng phân tích cường độ và chất lượng âm thanh. Chỉ cần nghe qua một đoạn nhạc là có thể nói đích xác đó là những nốt gì. Danh sách về các giác quan còn có thể thêm vào rất nhiều.
Chuyển sang thế giới động vật, chúng ta đã khám phá ra vô số những giác quan mà con người không có. Dơi, cá heo và những con vật khác dùng sóng âm siêu âm là một ví dụ rõ ràng nhất. Nếu giải thích đó là sự mở rộng của khả năng thính giác thì quá đơn giản, đặc biệt là trong trường hợp của cá heo. Người ta vẫn chưa hiểu nhiều về một giác quan ở một số loài cá, giúp chúng có thể phát hiện ra một vật thể dựa vào những hoạt động điện tinh tế của vật thể này.
Nhiều cơ quan ở những con thú săn mồi ban đêm có thể “thấy”, sử dụng các tế bào nhạy cảm với nhiệt. Đây cũng là một danh sách có thể bổ sung thêm nhiều cùng với thời gian. Thậm chí đã có một số bằng chứng là cây cối cũng có giác quan, nhưng những giác quan đó là gì thì chúng ta vẫn chưa biết được đích xác.
Nói tóm lại là không có câu trả lời chắc chắn nào cho câu hỏi thế giới sinh vật có bao nhiêu giác quan.
ST
Con người đã và đang tìm kiếm các dấu hiệu tin cậy về cái chết để tránh xảy ra những trường hợp đáng tiếc. Bên cạnh đó, các nhà khoa học thực sự lúng túng khi một số người đã kể lại cái chết cho biết những gì mà họ cảm nhận được trong thời gian hoàn toàn bất tỉnh hoặc mất hết hy vọng được cứu sống.
Vào năm 1957, tại một sân bay nhỏ của Anh đã xảy ra tai nạn khi máy bay hạ cánh. Một bác sĩ ngồi ghế phía sau bị văng khỏi máy bay, ngất đi và không có dấu hiệu sống. Từ nơi mà ông ngã gục không thể nào nhìn được quang cảnh xung quanh, nhưng thật lạ lùng là người đó thấy rõ tất cả những gì xảy ra ở sân bay.
Nạn nhân thấy thân thể của ông ta nằm bất động ở phía dưới mình khoảng 60m, thấy cả người hoa tiêu và phi công dính máu đang chạy về phía mình. Việc những người đó biểu lộ sự chú ý đối với thân thể của ông đã làm bác sĩ ngạc nhiên và bực tức. Ông muốn được yên tĩnh.
Sau đó, nạn nhân thấy một ôtô cứu thương từ nhà để xe đi ra và một bác sĩ nhảy vào. Xe chở nạn nhân dừng lại một trạm xá và lấy theo một thiết bị. Tiếp đó, nạn nhân theo dõi thấy xe chạy với vận tốc lớn, mang "thi thể" của ông tới bệnh viện thành phố. Thân thể nạn nhân được đặt lên một cái bàn trắng, mọi người cúi xuống làm việc.
Ông ta cảm thấy mùi khó chịu của clorua amonium. Vào đúng thời điểm đó, ý thức rõ ràng và bình thản của nạn nhân đột nhiên mờ hẳn và lại quay vào "trong" thân thể bị thương, kèm theo cảm giác đau đớn. Sau này do tò mò, người đó đã phục hồi tỉ mỉ các sự việc ấy và những điều mô tả hoàn toàn khớp với thực tế.
Vào năm 1892, một nhà địa chất người Thụy Sĩ tên là Enbơ Hem bị trượt ngã xuống vực sâu, nhưng may mắn thoát chết. Quan tâm đến những cảm nhận của mình trong khoảnh khoắc hoàn toàn thất vọng, nhà địa chất đã thu thập được 32 trường hợp tương tự. Ông nhận thấy rằng, tất cả các "đồng sự" của mình đều trải qua một cái gì đó giống nhau ở ngưỡng cửa của cái chết khó tránh khỏi. Những quan sát đó của E. Hem đã được bổ sung đáng kể, đặc biệt là vào những năm gần đây, khi công việc hồi sinh đã có nhiều kết quả.
Khi rơi từ độ cao lớn, ở thời điểm đầu tiên, con người trải qua sự sợ hãi mạnh mẽ, tìm kiếm một cách vô vọng các khả năng cứu thoát. Giai đoạn thứ hai xuất hiện sự nhận thức đầy đủ về cái chết không tránh khỏi và các ý định thoát thân đã rời khỏi não bộ. Cái chết không còn làm kinh hoàng và phiền muộn, nhưng những điều vụn vặt ngớ ngẩn lại làm lo lắng: xót xa vì rách bộ quần áo đang mặc, vỡ vụn cặp kính đang đeo hoặc hỏng mất cái máy ảnh...
Nếu thời gian rơi đủ dài thì sẽ xuất hiện giai đoạn thứ ba, hồi tưởng quá khứ. Các thời điểm quan trọng nhất của cuộc đời hiện ra thành các mảng hình ảnh, giống như quan sát chúng từ tầng trên của rạp hát. Tuy nhiên, những hình ảnh ấy mãnh liệt đến mức nào còn tuỳ thuộc vào đặc điểm cá nhân của mỗi con người.
Vào năm 1972, một người trượt tuyết 19 tuổi bị ngã từ độ cao hàng ngàn mét và thoát chết với cái mũi dập nát. Nạn nhân kể lại: "Khi bắt đầu rơi, tôi gào thét thảm thiết, nhưng sau đó, tôi hiểu rằng tôi đã chết. Cả cuộc đời hiện ra trước mắt tôi như một ánh chớp. Tôi thấy khuôn mặt mẹ tôi, thấy ngôi nhà mà trong đó tôi sống, thấy các bạn bè ...".
Còn Hem lại mô tả bức tranh quá khứ như sau: "Tôi thấy mình là đứa bé bảy tuổi đi đến trường học, rồi thấy mình hồi lớp bốn cùng với thầy giáo yêu quý".
Các cảm xúc hồi tưởng quá khứ kéo dài không lâu và chuyển qua một trạng thái thần bí. Khi một người rơi xuống vực thẳm thì người đó hiểu được rằng, thân thể của mình sẽ va vào đá và bị hủy hoại, xương sẽ gãy vụn và dập nát. Nhưng sự hồi tưởng về bản thân hoàn toàn không liên quan tới cơ thể nữa. Bắt đầu từ một thời điểm nào đó, nạn nhân không hề lưu tâm đến "thân xác" của mình.
Sự cảm nhận của nạn nhân bị xâm chiếm bởi các ý nghĩ tuyệt đẹp và xen lẫn những nốt nhạc du dương. Một trạng thái tinh thần thanh thản, nạn nhân bay qua các bầu trời mày hồng và màu lam lộng lẫy, ở trạng thái siêu việt đó, nạn nhân cảm thấy dễ chịu đến nỗi nảy sinh sự phản kháng rõ rệt chống lại những cố gắng đưa cơ thể về với sự sống.
Tuy nhiên, đôi khi con người cũng có thể rơi vào trạng thái đặc biệt do quá sợ hãi. Trường hợp như vậy đã xảy ra với nhà du lịch nổi tiếng Đevit Lêvingxtơn tại một vùng rừng Phi Châu. Một con sư tử nhảy đến sau lưng ông và bắt đầu cắn xé. Nạn nhân ngã sấp, cảm thấy rơi vào trạng thái thiêm thiếp, không hề thấy đau và hoảng hốt. Nạn nhân không thể và không muốn cử động, phản kháng. Con sư tử chấm dứt hành hạ cơ thể nạn nhân và ngồi cạnh ông. Khi đó sức lực của nhà du lịch đột nhiên trở lại. Ông bật dậy và phóng chạy thoát thân.
Trong những năm gần đây, các cảm nhận của những người chết lâm sàng đã được phân tích tỉ mỉ trong cuốn sách của R.Mouđi: Cuộc sống sau cái chết. Những người như vậy trải qua một cái gì đó giống nhau, mặc dù độ rõ nét có thể khác nhau. Họ rời bỏ "thân xác" và dễ dàng bay bổng lên không trung, quan sát hành vi của mọi người khác từ phía trên. Sau đó một quầng sáng xuất hiện, giúp họ nhớ lại các sự cố của cuộc đời. Quầng sáng có thể thúc giục họ trở lại với "thân xác" vì còn chưa tới lúc "chuyển tiếp"...
Một câu hỏi hay được đặt ra là làm thế nào để phân biệt một người bất tỉnh nhân sự với một người vừa mới chết?
Lịch sử y học đã chứng kiến nhiều trường hợp mà trong đó các bác sĩ giàu kinh nghiệm nhất cũng mắc phải sai lầm. Vào thế kỷ XI, Anđrei Vazali bị kết án tử hình vì đã giải phẫu thân thể một nhà quý tộc Tây Ban Nha. Người này đã tỉnh lại trên bàn mổ và bình phục trở lại. Tuy thế, bản án đối với AVazali vẫn được thi hành. Một điều trùng hợp kỳ lạ là chính viên quan toà đã dựng lên án đó, chẳng bao lâu cũng hồi tỉnh trên bàn mổ tử thi, nhưng sau đó ông ta không qua khỏi.
Vào năm 1964, tại một trong các nhà xác ở New York có một "tử thi" sống lại, đã nắm chặt lấy cổ và tay nhà phẫu thuật bệnh lý khi ông ta vừa thao tác dao mổ. Một nhà thơ tên là Patrarka đã hồi tỉnh trước khi đưa đi mai táng 4 giờ và còn sống thêm được 30 năm nữa.
Một người phục vụ ở Vatican được coi là đã chết do bệnh hen. Trong số các bác sĩ làm nhiệm vụ có một người rất cẩn thận, đã đưa ngọn nến đến gần mắt người chết. "Tử thi" co giật mạnh và sau đó còn sống được khá lâu, với một cái sẹo trên mũi do bỏng.
Vào đầu thế kỷ XX, một hội đồng các bác sĩ có uy tín của Anh đã tiến hành nghiên cứu và kết luận rằng, mỗi năm ở nước này có khoảng 2.500 người bị chôn sống.
Có thể điều vừa nêu bị phóng đại, nhưng quả thật có không ít trường hợp những người còn sống đã bị chôn vùi. Chính tại Anh và cuối những năm 60, đã xuất hiện một thiết bị đầu tiên cho phép ghi nhận được hoạt tính điện rất nhỏ của tim. Trong lần thử đầu tiên tại một nhà xác, người ta đã phát hiện được một cô gái còn sống nằm giữa các tử thi.
Những điều nêu trên cho thấy rằng, giữa sự sống và cái chết không có một ranh giới rõ ràng như đôi khi chúng ta vẫn tưởng. Sự ngưng thở được coi là dấu hiệu đầu tiên của cái chết. Nhưng ngay từ thế kỷ trước, quan niệm đó đã bị phủ nhận hoàn toàn.
Một số nhà Yoga có thể tự ngừng thở mà sau đó vẫn sống khoẻ mạnh. Dấu hiệu khác của cái chết là sự mất mạch và sự ngừng hoạt động của tim. Tuy nhiên, điều đó không phải bao giờ cùng đúng. Các nhà Yoga có thể điều khiển nhịp đập của tim sao cho các dụng cụ đo chính xác cũng chỉ báo là tim hoàn toàn ngừng đập.
Số đo thân nhiệt cũng không thể là dấu hiệu đầy đủ của cái chết. Đã có những trường hợp người đứng tuổi sống qua ngày ở một khu nhà lạnh lẽo, nhiệt độ thân thể hạ xuống khoảng 24ºC mà họ vẫn không chết.
Một cậu bé ở Thụy Điển được tìm thấy dưới lớp tuyết với nhiệt độ thân thể 18ºC, nhưng đã bình phục mà không có những biến chứng đáng kể. Một số chứng bệnh (như tả, đậu mùa, uốn váng) có thể làm cho thân thể tăng nhiệt độ sau khi chết.
Sự thay đổi ở nhãn cầu hay sự cứng đờ của thân thể cũng không phải là dấu hiệu tin cậy của cái chết. Hơn nữa, một số cơ quan tiếp tục hoạt động sau thời điểm chết lâm sàng. Cái chết tiến đến không tức thời. Đó là một dạng tồn tại đặc biệt, một sự tiến hoá dần dần với một xác suất thuận nghịch nhất định. Tử thi không có trường sinh học và cái đó cũng không thể là dấu hiệu của cái chết, bởi vì trường sinh học ở một số người sống cũng có thể tạm thời biến mất. Tử thì có thể lưu giữ một hoạt tính điện nào đó cho đến ngày thứ 39, khi mà xung não đáng kể cuối cùng được ghi nhận.
Tuy vậy, việc hồi sinh được phép tiến hành sau khi nạn nhân bị chết lâm sàng chỉ mấy phút. Bởi vì nếu để lâu quá thì trong một số trường hợp, những người được cứu sống sẽ tiếp tục tồn tại mà không có tri giác, giống như những con búp bê sống. Giới hạn thời gian hồi sinh phụ thuộc vào các khả năng của nền y học hiện đại.
Tất cả những điều nêu trên có tác dụng lưu ý chúng ta hãy thận trọng khi xem xét các quá trình xảy ra với con người trên ranh giới giữa sự sống và cái chết.
ST
ĐIỀU BÍ ẨN VỀ GIÁC QUAN
Hầu như ai trong số chúng ta cũng có một vài mức độ của khả năng ngoại cảm. Có người giống như chim thiên di, vì họ luôn biết hướng bắc nằm ở đâu, trong khi những người khác không cần phải đeo đồng hồ, vì họ biết lúc nào là mấy giờ. Khi bị ai đó nhìn lén, chúng ta đều có cảm giác “nhồn nhột”, khó chịu.
Nếu bạn nghĩ rằng con người có 5 giác quan thì vẫn chưa chính xác. Ngoài các giác quan thông thường như: thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác và vị giác, con người còn có thêm một giác quan nữa, được gọi là cảm giác vận động trong cơ thể, tức là chúng ta có thể nhận thức được mức độ căng cứng của các cơ, vị trí tương đối của các chi trong cơ thể chẳng hạn.
Tuy nhiên, các nhà tâm lý học và khoa học còn đề cập về giác quan thứ bảy, chứ không phải là “giác quan thứ sáu” như chúng ta vẫn thường hay nói!
Giác quan thứ bảy là một tập hợp của các giác quan, gọi chung bằng cái tên “khả năng ngoại cảm”. Một trong những bằng chứng sống kỳ lạ nhất về ngoại cảm là cô Jane O'Neil ở Anh. Cô đã tận mắt chứng kiến một tai nạn giao thông nghiêm trọng. Cú sốc lớn đến nỗi cô phải nghỉ việc trong nhiều tuần. Sau biến cố này, cô phát một khả năng nhìn thấy bằng “con mắt thứ ba”.
Một ngày nọ, cô cùng với một người bạn đi nhà thờ Fotheringhay ở Northamptonshire. Jane nhìn ra phía sau bàn thờ và thấy có một bức tranh rất đẹp, trong khi cô bạn thì chẳng thấy gì cả.
Sau đó, hai cô quay trở lại nhà thờ lần nữa để “làm cho ra ngô ra khoai”. Nhưng lần này thì Jane hết sức kinh ngạc khi trông thấy quang cảnh của một nhà thờ hoàn toàn khác lạ, nhỏ bé hơn nhà thờ hiện tại, nhưng bức tranh thì đã biến mất.
Cô mô tả hình ảnh này với một chuyên gia am hiểu về lịch sử địa phương, thì được biết đấy chính là căn nhà thờ cổ có từ trước đó 400 năm, và được trùng tu vào năm 1553. Tuy nhiên, có nhà khoa học lý giải rằng Jane đã trải qua một biến động trong cuộc sống, nên cô đã có một số ảo giác. Và một trong các ảo giác đó vô tình trùng hợp với thực tế của lịch sử.
Cô Jane là một trong những trường hợp có khả năng nhìn về quá khứ của 4 thế kỷ trước. Một số người có thể cảm nhận được sự hiện hữu của một vật thể lớn ở gần đấy. Và dù có bị bịt mắt, họ vẫn không dại gì bước đâm sầm vào một bức tường. Khá nhiều người trong chúng ta có khả năng phân tích cường độ và chất lượng âm thanh. Chỉ cần nghe qua một đoạn nhạc là có thể nói đích xác đó là những nốt gì. Danh sách về các giác quan còn có thể thêm vào rất nhiều.
Chuyển sang thế giới động vật, chúng ta đã khám phá ra vô số những giác quan mà con người không có. Dơi, cá heo và những con vật khác dùng sóng âm siêu âm là một ví dụ rõ ràng nhất. Nếu giải thích đó là sự mở rộng của khả năng thính giác thì quá đơn giản, đặc biệt là trong trường hợp của cá heo. Người ta vẫn chưa hiểu nhiều về một giác quan ở một số loài cá, giúp chúng có thể phát hiện ra một vật thể dựa vào những hoạt động điện tinh tế của vật thể này.
Nhiều cơ quan ở những con thú săn mồi ban đêm có thể “thấy”, sử dụng các tế bào nhạy cảm với nhiệt. Đây cũng là một danh sách có thể bổ sung thêm nhiều cùng với thời gian. Thậm chí đã có một số bằng chứng là cây cối cũng có giác quan, nhưng những giác quan đó là gì thì chúng ta vẫn chưa biết được đích xác.
Nói tóm lại là không có câu trả lời chắc chắn nào cho câu hỏi thế giới sinh vật có bao nhiêu giác quan.
ST
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Truyện thần tiên- Cát Hồng |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | danhkiem |
|
||
những góc nhìn khác nhau về chuyện cưới xin, xung - hợp vợ chồng |
Tử Bình | hieuthuyloi |
|
||
Dự đoán phối hợp nhiều môn huyền học cho chính trị & kinh tế thế giới |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
||
Xem Tử Vi - huyền "Học" - vọc phương pháp |
Gặp Gỡ - Giao Lưu | Vung |
|
||
Suy nghĩ với hỗn hợp nhiều môn huyền học cho lá số VNXHCN |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
||
Lưu Kim Tài chuyên đềLưu Kim Tài |
Tử Bình | Durobi |
|
17 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 17 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |