Truyện ngắn huyền bí - hiendde
#61
Gửi vào 17/06/2011 - 08:22
Toàn mới xin được việc ở Dorchester và tính mang cả gia đình về thành phố này cho gần chổ làm việc, điều trước nhất là tìm chổ ở. Toàn đọc báo và đến coi một căn nhà ở đường Dorchester Ave. Toàn rất lấy làm vừa lòng vì nhà cũng rộng rãi mà giá cả lại rất hời. Ba phòng ngủ rộng rãi và có cả một living room to rộng dưới basement, thật là tiện để bỏ cả dàn máy hát tivi và các thứ máy móc khác xuống đó cho đỡ chật nhà cửa.
Khi dọn vào vợ Toàn và hai đứa con đều hài lòng vì mỗi đứa con đều có phòng riêng. Đứa gái lên mười hai còn thằng bé út thì đã bảy tuổi đầu. Ở nhà cũ chúng chí chóe tị nạnh lẫn nhau suốt ngày, làm vợ chồng Toàn muốn điên cả đầu vì chúng. Gần nhà lại có các tiệm ăn và chợ của người Việt Nam nên không phải lái xe đi xa như xưa nữa, thật là một chổ ở lý tưởng.
Nhưng không phải mọi chuyện đều êm thấm như Toàn mong muốn. Mới về ở được hôm đầu là đã nghe có sự lạ rồi. Đêm hôm đó khoảng một giờ sáng có tiếng cọt kẹt như đưa võng ở dưới basement vọng lên, rồi thì tiếng người ú ớ như bị bóp cổ. Một hồi sau thì nghe tiếng khóc nảo nề rồi thì tiếng lịch kịch vang lên. Mọi người mệt mỏi vì dọn nhà nên ngủ mê mệt, chỉ có thằng bé là tỉnh ngủ nên nghe hết mọi tiếng động. Nhưng vì còn bé lại hay coi phim ma, nên nó sợ co rúm người không dám hó hé tiếng nào.
Chiều hôm sau khi đi học về, nó mới nói chuyện nó nghe các tiếng động từ basement, vọng lên đêm qua cho mọi người nghe. Bố nó gạt phăng đi cho là nó coi phim ma nhiều quá, rồi đâm ra sợ và tưởng tượng ra đủ thứ. Vợ Toàn biết tính con không nói dối bao giờ, nên có vẻ tin thằng bé hơn. Nhưng rồi vẫn còn nhiều chuyện phải dọn dẹp, nên mọi người quên khuấy đi cái chuyện thằng bé kể.
Tối đến mọi người trong nhà xuống living room để xem tivi, thì thằng bé nhất định không xuống. Nó sợ và tin là những gì nó nghe đêm qua là thật, chứ không phải do nó sợ ma mà ra. Đến khuya đó các tiếng động lại nổi lên như hôm trước. Thằng bé trùm kín mền và co rúm cả người lại mà run. Mọi người vẫn chưa hết mệt mỏi nên vẫn ngủ như chết, chỉ có mỗi thằng bé con không phải làm gì nên tỉnh ngủ hơn và nằm mà run sợ. Hôm sau nó lại kể cho cả nhà nghe, là nó vẫn nghe thấy các tiếng động, ở dưới phòng living room vọng lên. Chị nó tuy cũng sợ nhưng làm bộ quắc mắt quát:
- Mày chỉ tổ hù người ta thôi, tao không có sợ đâu ma hù, có giỏi thì kêu con ma tới hù tao đi.
Thằng bé tức lắm gân cổ nói:
- Có bữa nó cũng lên gặp chị cho coi.
- Có giỏi thì gặp tao đi tao hổng có sợ đâu.
Toàn và vợ phải lôi mỗi đứa ra một chổ cho êm chuyện. Nhưng có nói thế nào đi nữa thì thằng bé cũng chẳng chịu xuống living để xem phim. Nó nói mẹ nó mang lên cho nó cái video game, để chơi trong phòng mình. Mẹ nó hơi ngạc nhiên vì thằng con dám bỏ các chương trình mà nó thích, thì chắc cũng có gì làm cho nó sợ lắm đây. Nhưng mẹ nó hy vọng là vài bữa quen nhà rồi, mọi việc sẽ đâu vào đấy thôi. Chắc là nó lạ nhà không ngủ được rồi nghe tiếng động do chuột hay mèo hoang, rồi tưởng tượng ra ma quái.
Khoảng nửa đêm đó tiếng động tiếng rên khóc lại nổi lên như mấy hôm trước. Rồi thì im lặng và rồi tiếng thét vang lên từ phòng của chị nó. Toàn và vợ chạy vội sang thì thấy con bé mặt tái xanh, mắt thất sắc nhìn ra cửa phòng. Vợ Toàn lại ôm con hỏi rối rít việc gì đã xảy ra vậy. Một lúc sau con bé mới nói ra lời:
- Con ma với cái thòng lọng đứng ở cửa phòng con đó.
Thằng bé đã có mặt ở đó từ lúc nào nói chen vào:
- Thấy chưa còn bảo người ta hù nữa không.
Toàn và vợ hơi hoang mang nhưng cố dỗ cho các con yên tâm. Khi đi trở về phòng thì cả hai đứa bám theo, chứ nhất định không chịu ngủ một mình trong phòng của chúng nữa. Toàn đành phải cho cả hai đứa theo vợ chồng mình về ngủ chung cùng giường. Toàn định bụng sẽ làm cho mọi việc sáng tỏ để vợ và các con hết sợ.
Đêm hôm sau thứ bảy hai đức bé vẫn đòi ngủ chung phòng với bố mẹ. Toàn không biết làm sao hơn là phải để chúng ngủ chung. Tối đó vợ chồng bàn với nhau sẽ cố thức để xem việc sẽ xảy ra. Nhưng đợi đến nửa đêm mà chẳng thấy động tỉnh gì. Hai đứa bé ngủ đã lâu rồi, Toàn thì mới thiếp đi được một lúc, còn vợ Toàn thì vẫn còn thức. Tuy thế cũng đang trong tình trạng mơ mơ màng màng nửa tỉnh nửa mê. Bổng nghe tiếng cửa phòng mở ra nhè nhẹ.
Toàn mở mắt ngồi bật dậy vì tiếng khò khè và tiếng thét hải hùng của hai đứa con. Đưa tay bật sáng ngọn đèn ở cái night stand, Toàn thấy vợ mình hai tay ôm lấy cổ, mắt còn trợn trừng sợ hãi. Hai đứa con co rúm, mắt trừng từng nhìn về phía cửa phòng. Toàn gỡ tay vợ ra xem, trên cổ nàng vết đỏ bầm như bị ai siết cổ. Toàn lên tiếng phá tan cái không khí ngột ngạt kinh người đang bao phủ căn phòng.
- Chuyện gì vậy chuyện gì đã xảy ra vậy?
Vợ Toàn và thằng con vẫn chưa hoàn toàn tỉnh hẳn hồn, đứa con gái ấp úng chỉ ra cửa phòng trả lời bố.
- Bố coi con ma cầm sợi thừng còn ở ngoài cửa không, con sợ quá...
- Con ma nào chỉ nói tầm phào thôi.
- Nó vào đây siết cổ mẹ đó. Mẹ nghẹt thở giẫy giụa và kêu không nổi. Con và thằng út bị động thức dậy thấy nó đứng ngay cuối giường đang kéo thừng lôi mẹ đi. Tụi con sợ quá nên thét lên, nó bay ra ngoài cửa phòng đó.
Toàn cố trấn an vợ và các con, lấy dầu xanh bôi vào vết trầy trên cổ vợ, xong xuôi Toàn một tay cầm cái đèn pin, tay kia nắm cây đánh baseball bat lần đi xuống basement. Trên đường tới cầu thang xuống hầm nhà, Toàn mở hết các đèn ở nhà trên. Nhưng căn basement vẫn tối thui vì cái công tắc điện lại ở dước hầm, phía cuối của cái cầu thang dẫn xuống đó.
Tay rọi đèn tay cầm chắc cây bat, Toàn dò dẫm theo cầu thang bước xuống living room, tới cuối cầu thang Toàn với tay cầm đèn pin định bật cái công tắc đèn, thì có vật gì chụp lấy cây đèn pin hất nó vuột bay vào góc phòng. Toàn hoảng hốt quật cái baseball bat tới tấp. Nó đụng trần phòng, đụng cầu thang tạo nên những tiếng kêu khô khốc giữa đêm khuya, xen lẫn tiếng của vợ chàng sợ hải, gọi vọng xuống xem có gì xảy ra.
Vì quơ cái bat quá mạnh nên Toàn mất trớn bị té nhào vào giữa phòng. Định thần lại một chút Toàn lồm cồm bò dậy, và tự trách mình quá hoảng hốt nên đập bậy lung tung. Toàn lần bước tới chổ cây đèn pin vừa thò tay định lấy, thì cổ chàng đã bị cái dây thòng lọng quấn vào cổ kéo giật ngược lại. Ở đầu cái dây đứng sừng sửng một cái bóng đen đang vất cái sợi thừng qua ngang cái quạt trần. Nó kéo sợi dây và Toàn bị kéo đứng lên rồi hổng khỏi mặt đất.
Cổ bắt đầu bị nghẹt Toàn thở một cách khó khăn, tay cố quơ cái gậy về phía bóng đen nhưng cũng chẳng làm gì được nó, sức yếu dần Toàn buông rơi cái bat, nó rơi xuống sàn nhà gây nên một tiếng động khô khan. Toàn không ngờ là mình phải bỏ mạng ở dưới cái basement này. Nhưng ngay lúc đó có tiếng hú lên và Toàn rơi bịch xuống sàn. Vợ chàng một tay cầm cây Thánh Giá, tay kia cầm chai nước phép vẫy lia lịa.
Phải công nhận là tình nghĩa vợ chồng còn mạnh hơn sự sợ hãi. Nếu vợ chàng không xuống kịp có lẽ Toàn đã nghẹt thở mà chết rồi. Toàn vội vàng cùng vợ chạy lên nhà trên và vào phòng ngủ. Hai đứa nhỏ vẫn ngồi co rúm trên giường, mắt vẫn lộ sự sợ hãi tột cùng. Vợ chàng lên tiếng.
- Em nghe tiếng động và hỏi xuống mà chẳng thấy anh trả lời, em đoán chắc có việc chẳng lành xảy ra. Trong lúc quẩn trí may sao em còn nhớ ra được chai nước phép để ở bàn thờ trong phòng khách, em chạy ra lấy và tiện tay cầm luôn cây thánh giá chạy xuống...Thấy anh đang bị treo lủng lẳng và cái bóng ma đang trừng trừng nhìn anh, em vẩy nước phép về phía nó miệng đọc kinh. May quá nó bị trúng nên biến dạng, chắc là phải dọn nhà đi sớm thôi anh ạ.
Toàn đồng ý là chắc phải dọn nhà, nhưng chàng phân vân không biết mướn đâu ra nhà một cách khẩn cấp đây. thôi để ngày mai bàn với vợ về vấn đề này kỹ hơn. Đêm đó cả nhà thức trắng chẳng ai dám ngủ cả. Sáng chủ nhật sau khi đi lễ Toàn vào gặp Cha, ngài là người Việt Nam nên dễ dàng nói chuyện và nhờ giúp đỡ hơn. Khi Cha nghe nói đến căn nhà này thì Ngài hơi biến sắc mặt. rồi nghiêm giọng kể:
- Cha có nghe nói nhiều về căn nhà đó rồi, câu chuyện hơi dài dòng, nhưng Cha tóm gọn cho con biết là trước đây chừng ba năm, có một gia đình Việt Nam gồm vợ chồng và ba đứa con nhỏ tới mướn căn nhà đó. Hai vợ chồng cùng đi làm, một thời gian sau người vợ mèo mỡ với người khác trong sở, nghe nói đâu là với một người Mỹ trắng cùng làm với chị ta, chị ta về gây gổ với chồng rồi đòi ly dị, anh chồng năn nỉ cách nào chị ta cũng không đổi ý.
Sau khi ly dị anh ấy giao hết tiền bạc cho vợ rồi bỏ đi tiểu bang khác, chị này ăn chơi tiêu pha hết tiền bạc với tên Mỹ kia, gần một năm sau nó bỏ rơi chị ta, chị ta chán nản bỏ việc và sống thật khổ với số tiền trợ cấp của chính phủ. Có lẽ vì hối hận hay sao đó, một sáng kia người ta thấy mấy đứa con chạy ra ngoài khóc rống miệng kêu mẹ chúng đã chết, người ta vào và thấy chị ta treo cổ ở dưới basement, người ta tìm cách báo cho anh chồng biết tin, anh ta về lo chôn cất người vợ cũ rồi mang ba đứa con đi mất.
Từ đó cái nhà đó bị ma ám, ai đến ở cũng đều bị cô ta về phá phách, chủ nhà đề bảng bán mấy lần mà chẳng ai dám mua, anh là người cuối cùng tới mướn đó.
- Cha có cách nào giúp con không, vì con mới tới đây mà dọn đi, thì không biết mướn đâu ra nhà ngay bây giờ.
- Nếu con thật tình muốn ở lại căn nhà đó thì Cha cũng có thể giúp con.
- Xin Cha giúp con đi, con vẫn còn bận rộn với công việc mới, nên cũng chẳng có thì giờ tìm kiếm nhà khác.
- Thôi được để Cha nói chuyện với Đức Hồng Y và xin Ngài phái một Cha chuyên trừ quỷ về giúp con.
- Xin Cha gọi ngay cho con nhe, vì mấy hôm nay cả nhà con bị khủng hoảng lắm rồi Cha ạ.
- Được rồi Cha sẽ trình bày mọi sự giùm con.
Giữ lời hứa Cha gọi cho Đức Hồng Y và trình bày mọi việc, chiều tối đó Ngài phái ngay một Cha dòng tới nhà để làm phép trừ quỷ cho nhà của Toàn. Sau khi bày biện các vật dụng cần thiết dưới basement. Cha bắt đầu làm các nghi lễ trừ quỷ, gần nửa tiếng sau, một tiếng hú dài nghe lạnh người phát lên rồi im bặt. Cha tiếp tục làm cho xong buổi lễ, xong thu dọn mọi thứ rồi trở lên nhà trên. Cha cho biết là đã trừ xong con ma dưới basement rồi, từ nay gia đình sẽ không bị khuấy phá nữa.
Toàn cám ơn Cha rối rít và tiển Ngài về, tuy nghe vậy nhưng tối đó cả nhà vẫn chong mắt thức, chỉ sợ nó trở lại thì khốn, may thật đúng như lời Cha nói, không có gì lạ xảy ra trong đêm cả. Từ đó về sau nhà Toàn không còn bị con ma với cái dây thừng về khuấy nhiểu nữa, mấy tháng sau chủ nhà lại có ý bán, có lẽ ông ta chưa biết là nhà đã được trừ quỷ rồi.
Toàn bèn hỏi mua và mua được với giá rẻ mạt, chỉ bằng nửa giá trị thực sự của nó, tuy là nhà đã không còn bị ma ám nữa, nhưng tối đến cũng chẳng ai dám ở một mình coi tivi hay phim dưới living room cả! Cái ám ảnh khi xưa vẫn còn. Toàn dọn các thứ trở lên phòng khách, còn cái basement bây giờ trở thành cái kho để đựng đồ cũ, hoặc các thứ không xài đến.
TT
#62
Gửi vào 17/06/2011 - 08:47
Hôm qua Chủ Nhật ngày 20 tháng 11 năm 2005, đúng là một ngày khác thường, riêng tôi hàng ngày thức dậy từ bảy giờ sáng để đưa con đi học, sau đó là tành tành ghé tuần báo và cà phê Làng để tán dóc với một vài thân hữu. Nhưng hôm nay là ngày Chủ Nhật tôi chẳng biết làm gì, không đi nhà thờ cũng không đi chùa dù tôi là người con Phật, từng là Oanh vũ Nam và Thiếu nam của Gia Đình Phật Tử, dù ít khi đến chùa nhưng trong nhà tôi vẫn thờ Phật Bà Quan Âm, và tin là có những sự huyền diệu trên cõi đời này. Cũng vì không đi đâu nên tôi ngủ nướng một chút, không ngờ nó lại khét luôn đến mười giờ sáng mới thức dậy.
Mới vừa ngồi vào máy computer mở máy ra coi có nhận được tin tức nào không, đưa lên web cho bà con đọc thì tiếng chuông điện thoại cầm tay reo, nhưng nó chỉ vừa reo hai tiếng, tôi nhấc điện thoại lên thì đầu dây bên kia cúp mất, mở missing call ra coi thì thấy số điện thọai của anh Phạm Lãm giám đốc Đài Truyền Hình Việt Nam Sacramento. Tôi bèn gọi lại thì bên kia đầu dây bận, tôi vội tắt điện thoại thì điện thoại lại reo tiếp, bên kia đầu dây không phải là anh Lãm mà là anh Tommy Huỳnh một chuyên viên của Đài Truyền Hình Việt Nam Sacramento.
Vừa hello xong thì anh Tommy cho biết là anh Lãm gọi điện thoại, không gặp được tôi và có nhắn trong máy. Tôi hỏi chuyện gì thì anh Tommy Huỳnh cho biết, anh lãm gọi cho em nói với anh là Đức Mẹ ở nhà thờ khóc. Tôi hỏi lại một cách ngạc nhiên:
- Vậy hả? Được rồi để tui đi ngay.
Thế là bảo con gái tám tuổi của tôi thay đồ để lên nhà thờ, và hai cha con lái xe chạy bon bon đến nhà thờ là lúc khoảng mười giờ rưỡi trưa. Bên trong sân nhà thờ, nhiều giáo dân cả già lẫn trẻ đều đứng quanh trước mặt tượng Đức Mẹ, có người cầu nguyện lâm râm, có người thì cầu nguyện lên tiếng nghe rõ mồn một... gặp anh Lãm nói chuyện xong tôi chen vào gần sát tượng Đức Mẹ để quan sát và chụp hình. Lúc này tôi không thấy gì hết ngoài một vài vệt màu đỏ mờ mờ, trông giông giống máu loang ở vệt áo, mà nếu đứng gần sát lắm mới thấy được. Tôi chụp lia lịa vài tấm hình rồi đi ra để nhường chỗ cho quý vị giáo dân, kẻ đứng người quỳ đang cầu nguyện.
Tôi đi chung quanh để chụp cho đủ góc cạnh, cô con gái của tôi đi theo sau lưng cứ càu nhàu hỏi tôi:
- Con có thấy gì đâu ba, con có thấy gì đâu ba.
Tôi cau có trả lời:
- Con yên lặng để ba chụp hình có được không, con không thấy thì thôi...
Tôi đi tìm Linh mục Nguyễn Ngọc Ban, cha quản nhiệm của Nhà Thờ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Sacramento để tìm hiểu sự việc, tìm mãi mười lăm phút không gặp, hai cha con tôi đành trở lại tượng Đức Mẹ.
Lúc này thì con gái tôi nói:
- Ba! máu kìa ba, tôi nhìn lên tượng Đức Mẹ thấy hai khóe mắt bên trái rỉ máu, chảy dài xuống cằm đọng lại nơi đó, và hai bên vạt áo cũng thấy lấm tấm vài vệt máu đỏ tươi, tôi vội đưa máy lên chụp lia lịa vài tấm hình nữa rồi hai cha con lẵng lặng bước ra khỏi đám đông.
Tôi quyết tâm phải đi tìm cho được cha Ban để tìm hiểu thêm vấn đề, thấy cha Ban đứng nói chuyện với vài giáo dân, tôi mừng quá hai cha con tôi cùng tới, dù mừng nhưng trong lòng vẫn hơi lo lo, vì tôi chưa hề được tiếp xúc với cha bao giờ. Dù cha quản nhiệm nhà thờ khá lâu và tôi vẫn tin rằng có duyên là sẽ được gặp nhau, thế là tôi tới gần chào Linh mục Nguyễn Ngọc Ban và tự giới thiệu:
- Thưa cha, con là Châu Ngọc Thủy chủ nhiệm báo Hải Vân.
Linh mục Nguyễn Ngọc Ban vui vẻ đưa tay ra bắt tay tôi và nói:
- Chào anh Thủy hân hạnh được gặp anh.
Thấy Linh Mục Ban vui vẻ gọi tên tôi một cách thân mật như là đã từng gặp nhau, tôi như mở cờ trong bụng hỏi:
- Thưa cha, con nghe tin anh Lãm gọi báo cho biết Đức Mẹ khóc, nên tới đây xin cha cho biết về sự việc này ạ.
Linh Mục Nguyễn Ngọc Ban trả lời:
- Sự việc xảy ra hồi Thứ Tư tuần trước lận, thế rồi chúng tôi lấy nước rồi lấy khăn rửa, rửa lâu lắm, nhiều lắm, thế xong rồi Chủ Nhật vừa qua, tôi đi qua xem có không thì thấy không có... đấy, hôm nay lại thấy có, tôi không hiểu.
- Như vậy hồi sáng nay giáo dân đến xem lễ, giáo dân có thấy không cha?
- Thấy chứ.
Lúc này thì có một vị giáo dân nói vào:
- Châu Ngọc Thủy phỏng vấn như thế này, rồi là có nên đưa ra dư luận hay không, cha có nghĩ là có nên cho phỏng vấn như thế này hay không?
Linh Mục Nguyễn Ngọc Ban nói:
- Tôi cũng không nghĩ là thật hay giả, tôi chưa nghĩ cái gì, có nên đưa ra hay không.
Tôi bèn xoay qua vị giáo dân và nói:
- Đây là hiện tượng xảy ra thật, mình không thể giấu diếm gì được, mình nói theo ý nghĩ của mình thôi bác, giống như cha, cha chỉ nói theo ý nghĩ của cha thôi, vậy cha định tính như thế nào hả cha?
- Tôi thì tí nữa tôi lau đi đấy, lúc nãy tôi nói trong nhà thờ đó, hôm nay tôi lau đi, để về sau tôi không nói ra nhỡ mà có ai tạo ra như vậy đó, thì đừng có làm, tôi khuyên là đừng có làm, cái đó là tội nặng không được làm, thế nhưng nếu mà hôm nay tôi lau đi rồi là ít ngày nữa lại có nữa, rồi ít ngày nữa lại có nữa chẳng hạn, tôi sẽ đưa tượng xuống, để vào trong một phòng khóa lại đàng hoàng, để xem hiện tượng đó còn tiếp tục nữa hay không.
Một vị giáo dân nói vào:
- Làm cẩn thận dữ vậy đó hả?
Tôi nói:
- Phải cẩn thận như vậy mới được chứ.
Cha Ban nói tiếp:
- Rồi về sau, nếu mà dù cho trong phòng cũng có hiện tượng như vậy, tôi sẽ đưa tượng đó đi x-ray, xem ở trong đó có máy móc hay có cái gì không, lúc đó tôi mới báo cho Giáo Quyền.
Châu Ngọc Thủy:
- Vậy thì bây giờ trong thời gian này và sắp tới cha có đưa người đứng canh gác ở đây không cha?
Linh mục Nguyễn Ngọc Ban:
- Hiện giờ ở đây, bây giờ chúng tôi có đưa người đi lại thôi, nhưng mà không có người chuyên môn.
Châu Ngọc Thủy:
- Nếu mà mình muốn tìm sự thật thì có nên để một số, một toán hay vài người canh gác ở đây sau khi mình lau đó cha, cha có nghĩ như vậy không?
- Cái đó tôi chưa có quyết định.
- Cảm ơn cha thật nhiều, xin cha cho chụp cái hình đi cha.
Linh mục Nguyễn Ngọc Ban:
- Thôi...
Tôi cũng đành chịu và nói:
- khoảng hai tiếng nữa con sẽ đưa tin tức này lên website của Haivannews đó cha, cha có thường đọc báo Hải Vân không cha?
Linh Mục Nguyễn Ngọc Ban:
- Có.
Châu Ngọc Thủy:
- Cảm ơn cha xin chào cha.
Về nhà đưa hình ảnh lên website và chuyển tin đi xong tôi trở lại nhà thờ, lúc này là năm giờ rưỡi, trời mùa Thu ở Sacramento sẩm tối sớm. Vừa bước chân vào bên trong nhà thờ, người đầu tiên tôi gặp là Tiến sĩ Nguyễn Đăng Hoàng, khi trò chuyện anh Hoàng cho biết:
- Nghe người ta nói nên lên xem thử và anh nói thêm, những hiện tượng này ai tin thì tin, không tin thì cũng được, chẳng hạn như chuyện Phật Bà Quan Thế Âm của Chùa Diệu Quang cũng vậy.
Lâu lắm chúng tôi mới gặp nhau, Tiến sĩ Nguyễn Đăng Hoàng là người đã từng tích cực trong sinh hoạt cộng đồng Sacramento, chúng tôi trò chuyện đôi chút về những sinh hoạt của cộng đồng tại Sacramento hiện nay, rồi tôi xin phép để vào bên trong chụp thêm vài tấm hình. Bước được vài bước thì gặp Giáo sư Trần Minh Xuân, Giáo sư trường Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn trước năm bảy lăm, cưụ chủ bút của Bán Nguyệt San Mekong hiện ông đang cộng tác với báo Tiếng Dân ở San Jose, ông nói nghe tin nên lên coi thử.
Chúng tôi cũng trò chuyện độ chừng năm phút, thì tôi xin phép để vào quan sát tình hình có gì lạ thêm không. Lúc này những giọt lệ trông giống máu tươi đã đổi sang màu dà, trông giống như những vệt máu vừa khô, và loang ra nhiều hơn trên vạt áo chảy dài xuống chân. Trên cằm vệt máu khô trông đậm hơn như hình chụp mà quý vị nhìn thấy. Lúc bấy giờ có một vị giáo dân lấy giấy tới lau những vệt đỏ dưới chân tượng, nhưng mọi người tưởng anh tới lau nên cùng la lớn:
- Đừng! Đừng lau...
Chụp hình xong thì tôi gặp chị Thanh Hương, người được Linh mục Ban ủy thác, đứng ra tổ chức văn nghệ và Hội Chợ, để gây quỹ xây nhà thờ mới nằm trên đường Florin, tôi kể cho chị nghe câu chuyện xảy ra trưa nay chị bảo:
- Nếu anh thấy như vậy thì trả lời phỏng vấn cho đài truyền hình FOX 40 đi.
Tôi từ chối nhưng chị gọi anh chàng Mỹ đang ôm cái máy quay phim, và nói với anh ấy là tôi đã nhìn thấy, tôi chỉ kể cho anh ta nghe cái đoạn khi tôi tới không nhìn thấy gì nhiều, mà mười lăm phút sau bỗng dưng trông thấy nhiều máu hai bên khóe mắt của bức tượng Đức Mẹ trong khuôn viên ngôi giáo đường của người Việt Nam tại Sacramento, được xây dựng từ đầu thập niên tám mươi.
ST
#63
Gửi vào 17/06/2011 - 09:05
Nhà tôi ở vùng ven thành phố, khu vực này nhà cửa thưa thớt cây cối um tùm, đi hai ba cây số mới đến được chợ. Cả một vùng rộng lớn như thế chỉ có hai ngôi chùa cổ: Mai Sơn và Vạn Phước. Chùa Mai Sơn thì gần nhà tôi hơn. Nhưng chùa Vạn Phước lại gần nhà bà dì tôi, vả lại bà là Phật tử của chùa nên thường kêu nội tôi đi chùa này. Vậy là "chùa gần không lấy lấy chùa xa", mỗi dịp rằm lễ nội tôi lại đưa cả nhà đi chùa Vạn Phước, sẵn dịp thăm bà dì tôi luôn thể.
Năm đó tôi mới chín tuổi chuyện đi chùa đối với tôi chẳng khác gì đi Sở Thú. Ngồi dưới cội Bồ đề hay ngồi dưới bóng cổ thụ trong sở thú, tôi vẫn thấy thích thú như nhau. Tôi chịu đi chùa vì ở chùa nấu nhiều món chay rất ngon, đặc biệt là món kiểm, món canh hỗn hợp gồm bí rợ, khoai lang, mướp, bột khoai, đậu phộng… nấu với nước cốt dừa. Tôi mê cái vị béo của nước cốt dừa với vị bùi bùi của hột đậu phộng đến nổi …ăn liên tục hai chén vẫn còn thèm.
Xin thêm chén thứ ba được hai muỗng là bụng căng cứng như mặt trống chầu. Len lén nhìn quanh không ai để ý, tôi bỏ xuống bộ ván rộng và chạy ra ngoài. Một sư cô làm công quả thấy vậy la lên:
- Ăn bỏ mứa như vầy mai mốt xuống địa ngục ăn dòi.
Câu nói ấy ám ảnh tôi suốt một thời gian dài, đến nổi sau này ăn cơm, một hột rơi xuống bàn tôi cũng lượm lên mà nuốt sạch.
..Sau vụ nằm mơ thấy quầng sáng kỳ lạ trong đêm, khoảng một tháng sau tình cờ tôi ghé nhà ông Ba Hem chơi. Nhà ông ở ngay đầu xóm sát hàng tre. Nói nhà cho oai chứ chỉ là một căn chòi ọp ẹp lợp tôn. Nhìn trông giống cái kho chứa đồ cũ hơn. Bà con trong xóm ai cũng nể ông Ba nhưng không ai dám gần gũi tiếp xúc với ông.
Nghe con Hạnh nhà đối diện tôi nói, má nó bảo gặp ông nhiều xui xẻo hết biết luôn. Ngày nào má nó gặp và nói chuyện với ông, là y như rằng sau đó má nó cũng bị cảnh sát bắt quả tang bán xăng lậu, bị tịch thu sạch láng. Nó còn kể chú Hai Heo nhà tuốt ở xóm trong nhờ ông Ba đến nhà sửa cái toa lét, chỉ mấy ngày sau sòng bài do chú làm xâu bị bắt gọn, chú phải nằm khám hết một tuần, chạy chọt gần chết mới được thả ra …
Tôi thì không sợ chuyện đó. Ông Ba rất hiền đối với ai ông cũng nhỏ nhẹ, ai nhờ cái gì ông cũng giúp mà không hề than phiền hoặc vòi vĩnh tiền công. Đặc biệt ông rất quý tôi. Tôi cũng quý ông nữa. Tình bạn vong niên giữa một ông già sáu mươi và đứa nhỏ mười hai hình thành tự lúc nào không rõ. Lúc tôi ghé vào thì ông Ba đang ngồi trước chòi đọc một quyển sách. Tôi là một con mọt sách, gặp sách truyện thì y như rằng tôi quên hết đường về. Tôi tò vè lại hỏi:
- Ông Ba đọc truyện gì vậy?
Không trả lời ông chậm rãi lật bìa sách lên cho tôi xem. Quyển sách đã cũ chữ ngoài bìa cũng mờ tôi lẩm bẩm đọc:
- Kinh Bát đại nhơn giác.
- Cuốn này hay hôn vậy ông Ba?
- Cuốn này coi không được đâu. Ông Ba chậm rãi trả lời.
- Sao ông coi được mà con không coi được?
- Tại cuốn này cháu coi hổng có hiểu. Để ông đưa cuốn khác cho.
Vừa nói ông vừa đứng dậy bước vào nhà. Tôi thấy ông lúi húi giở mấy quyển sách lên và chọn ra một quyển. Đó cũng là quyển sách đầu tiên về đạo Phật mà tôi được đọc. “Sự Tích Đức Phật Tổ Cồ Đàm”. Dần dần “thư viện” nhà ông Ba được tôi viếng thăm hằng ngày. Cứ mỗi buổi đi học về, vớt bánh xong là tôi chạy lại căn chòi của ông Ba, lựa một quyển ưng ý và tót ra bụi tre ngồi đọc say sưa. Rằm tháng bảy năm đó tôi chính thức đi chùa.
Tôi đi chùa hằng đêm các bài kinh ngắn như Di Đà, Phổ Môn tôi gần như thuộc nằm lòng.Trong khoảng thời gian đó, có một việc xảy ra khiến tôi nhớ mãi đến bây giờ. Một đêm nọ sau khi tụng kinh ở chùa về…Tôi thả bộ về nhà trên con đường lồi lõm những đá, miệng cứ nghêu ngao mấy câu vọng cổ. Bất chợt tôi nhìn thấy có đám đông người tụ tập trước cửa một căn nhà nhỏ bên đường. Tính tò mò của trẻ con trỗi dậy, chẳng chút đắn đo tôi rảo cẳng chạy ngay đến đó.
Mới đến sân nhà tôi đã nghe tiếng la hét hự hẹ vang rân, xen lẫn tiếng khóc la rên rỉ. Vốn nhỏ con tôi nhanh chóng luồn qua khỏi đám đông, chen vào đến ngay cửa sổ nhìn vào. Ở bên trong là một gian phòng nhỏ, phía trên có một kệ thờ bằng tấm ván gác ngang, trên kệ thờ có một khuôn hình màu đỏ, bên trong có tấm vải vàng vẽ bùa phép ngoằn ngoèo. Ấn tượng của tôi về bảng bùa đó là hai con rắn to tổ chảng uốn quanh co, đầu rắn ngoẹo sang hai bên le lưỡi trông phát ớn.
Trước bàn thờ là một người đàn bà trạc năm mươi dáng người to béo đang ngồi xếp bằng. Tiếng la khóc vẳng ra chính là từ người đàn bà này. Cứ nghe tiếng gào của bà ta như là heo bị chọc tiết. Hai vai bà ta có hai thanh niên nắm giữ. Đứng trước mặt bà là người đàn ông to lớn, đầu trọc trạc khoảng bốn lăm bốn sáu gì đó. Trông mặt ông ta thật ngầu mắt trợn tròn, tay cầm chiếc roi bện bằng rơm và tóc người trông thật gớm ghiếc.
Lúc tôi vừa chen vào cũng là lúc ông ta vút roi xuống đất cạnh người phụ nữ chan chát. Mỗi lần roi chạm đất, tôi thấy người phụ nữ lại la lên thảm thiết như vừa bị tra tấn. Tiếng hét của bà làm tôi thót tim từng đợt. Bất giác tôi đưa tay lên nắm lấy xâu chuỗi Bồ đề đang đeo trong áo. Lúc ấy ông thầy (tôi đoán thế) quát lớn:
- Mày chịu ra chưa?
- Dạ chịu… hư..hư…
Người đàn bà vừa khóc vừa trả lời.
- Chịu mà sau mày cứ ở trong xác hoài vậy hả?
- Dạ… hư..hư…thầy cho con thời gian.
- Cho thời gian để mày hốt hồn người ta phải không. Bây giờ đi không thì bảo ?
- Dạ… hư..hư…
- Mày cứng đầu quá cho mày chết, chết nè… chết nè…
Nói câu nào thì ông thầy vút từng nhát roi vào đất, trước mặt người phụ nữ chừng nấy. Thân thể bà ta nảy lên từng cái sau mỗi nhịp roi.
- Tha cho con thầy ơi.
- Tha cho mày rồi mày có tha cho người này không?
Vừa nói ông thầy vừa chỉ người đàn bà.
- Hư…hư…
- Hư hư nè… tha nè…
Ông thầy vụt roi tới tấp, người đàn bà lại rú lên từng hồi ngắt quãng. Quất gió một lúc coi bộ thấm mệt, thầy quay sang anh thanh niên đang nắm vai trái của người bệnh:
- Long, thỉnh thần.
Anh thanh niên vội bước đến trước bàn thờ chắp hai tay lên trán. Thầy quơ nắm nhang cháy nghi ngút trên bàn vẽ liên tục mấy vòng lên lưng anh ta miệng lâm râm đọc chú, đột ngột thầy thét lớn:
- Lai tốc giáng.
Tiếng thét của thầy có ma lực lạ lùng. Anh thanh niên tên Long run lên bần bật, thân thể chuyển động quay cuồng, xương cốt anh ta kêu răng rắc tưởng chừng như đang gãy vụn, trước một sức mạnh kinh hồn nào đó. Cơ thể anh chuyển động nhanh dần trong khi miệng thở phì phò như trâu thở. Lúc này ông thầy đứng ngoài cũng đang bắt ấn miệng đọc lâm râm, bất ngờ ông lại thét lên một tiếng nữa làm tôi giật bắn mình:
- Chuyển !
Anh thanh niên cũng thét lên một tiếng rồi vung quyền ầm ầm như vũ bão. Tay anh ta đập vào thân thể nghe chan chát, lúc anh ta quay lại, tôi thấy đôi mắt anh nhắm nghiền như bước vào trạng thái mộng du. Vậy mà bộ pháp di chuyển và động tác ra đòn của anh ta thật đáng sợ. Người đàn bà hốt hoảng co rúm người lại run bần bật. Tôi nghĩ thầm:
- Bà béo này mà bị một chưởng chắc tiêu đời luôn quá.
Vậy mà anh thanh niên không hề đánh trúng bà ta cái nào… Đòn thế đánh mỗi lúc một nhanh, tiếng đập chan chát mỗi lúc mỗi lớn, nghe mà lạnh xương sống. Người phụ nữ cất tiếng rên la thảm não. Năm phút trôi qua mà tôi có cảm giác như lâu lắm. Anh Long chợt thu hồi quyền cước, quay lại bàn thờ lấy mấy miếng trầu têm sẵn bỏ vào miệng nhai rau ráu.
Trong khi ai nấy còn chưa hiểu việc gì, anh ta ngồi thụp xuống trước người bệnh. Lúc này anh ta quay mặt ra cửa nên tôi nhìn thấy mồn một từng chi tiết trên mặt anh ta. Một khuôn mặt thật đáng sợ, hai mắt gần như lồi ra trắng dã không thấy tròng đen, mặt xanh lè như tàu lá chuối, trong ánh sáng nhợt nhạt của bóng đèn néon trông càng khủng khiếp hơn. Thế rồi hai tay anh ta chụp lấy vai con tà đẩy ngửa ra, chu miệng phun một cái phèo, cả thân thể người bị nhập dính đầy xác trầu và vôi nhai nát. Con ma hét lên một tiếng rồi gục xuống. Anh thanh niên cũng gục theo. Ông thầy lập tức hô lớn:
- Hổ, mày đỡ thằng Long ngồi dậy.
Nói xong ông lấy chai rượu trắng trên bàn trút vào miệng, quay sang phun cái xoà vào người anh thanh niên tên Long. Anh ta cựa mình tỉnh dậy ngơ ngác nhìn quanh.
- Đưa nó vô trong. Thầy ra lệnh.
Mệnh lệnh lập tức được thi hành, cái xác người phụ nữ vẫn nằm im không nhúc nhích. Một tiếng nào đó vang lên từ đám đông:
- Chắc là con ma nó xuất ra rồi.
- Xuất hay không thử rồi biết liền chớ gì.
Trả lời xong với tay cầm nắm nhang nghi ngút khói để trên bàn, thầy vẽ những hình thù kỳ dị nào đó lên lưng người phụ nữ . Vẽ xong thầy đưa tất cả đầu nhang cháy đỏ vào trong miệng nhai trệu trạo. Mọi người xuýt xoa tôi cũng hết hồn. Chữa bệnh kiểu này phỏng miệng lột lưỡi chứ không phải chơi. Trong khi tôi còn đang nghĩ ngợi lan man thì ông thầy đã phun hẳng đống hỗn hợp bột nhang, than tro lẫn… nước miếng vào cái xác đang nằm bất động. Thật kinh khủng cái xác im lìm như chết ấy nẩy ngược lên, rồi giẫy tê tê như bị điện giật miệng gào thét:
- Ôi.. nóng quá.. nóng quá.
Ông thầy ngồi xuống theo tư thế chân chống chân quỳ, tay trái thộp lấy cổ con ma, tay phải co ngón giữa lại thành ấn và lôi một cái. Thân xác to béo của ngườI phụ nữ bật phắt dậy như cái máy. Con ma cố gắng giẫy giụa. Nhưng lúc ấy cánh tay ông thầy như cái kềm sắt nắm cứng lấy cổ của nó không buông. Trong giây lát cái xác lại rủ xuống mềm nhũn miệng vẫn còn lảm nhảm:
- Đồ độc ác làm thầy mà không có đức, chỉ biết đánh đập, không phục hư…hư không phục…hư…hư..
- Mày không phục thây kệ mày, bây giờ tao hỏi có chịu ra hay không?
Ông thầy hét lên dữ dội, tôi lại giật bắn người. Con ma im lặng không trả lời, đầu nó cúi rũ xuống như chiếc lá héo.
- Được mày muốn đau khổ, tao cho mày đau khổ.
Nói xong thầy đứng dậy bước đến bàn thờ lấy mấy tờ giấy vàng xếp lại. Trong chốc lát bằng vài nhát kéo, tờ giấy đã biến thành những hình nhân đứng đan tay. Với tay cầm cây bút thầy nguệch ngoạc những vòng xoắn, nút thắt gì đó trên trán bụng và tay chân của hình nhân. Lúc này do quá hiếu kỳ, tôi đã rời khỏi cửa sổ và bước đến cửa phòng từ lúc nào.
Thật ra trước đó ông thầy có đuổi mấy lần nhưng hầu như chẳng ai chịu đi cả. Mọi người cứ lùi ra một chút rồi lại lấn vào. Không chen nổi với đám đông, tôi vào luôn trong cửa đứng coi cho tiện. Viết xong mấy chữ bùa thầy cầm nhang vẽ vào giấy, vừa vẽ ông vừa đọc lầm thầm những câu tiếng Miên tiếng Chàm gì đó không nghe rõ. Vẽ bùa xong ngó lên thấy tôi đang đứng xớ rớ gần đó, thầy nổi giận điểm mặt tôi quát lớn, e rằng tiếng quát này còn lớn hơn cả tiếng ông quát con ma hồi nãy:
- Thằng nhỏ kia đi ra chưa?
Không đợi phản ứng của tôi thầy hùng hổ bước lại, hoảng quá tôi quay ra cửa định chuồn, nhưng… muộn mất rồi, chỉ hai bước chân ông thầy đã đến chỗ tôi, và… một cái đá đít như trời giáng làm tôi chúi nhũi vào đám đông bên ngoài. Vậy là tôi đành ngậm ngùi …quay lại cửa sổ coi tiếp. Lập xong chiến công… đá đít, thầy tiếp tục xử lý con ma. Những hình nhân giấy có vẽ bùa ấy được đốt thành tro bỏ vào ly nước. Ông thầy bưng đến chỗ con ma bắt nó phải uống, nhìn ly nước đen thui đặc sệt những xác giấy đốt, tôi cảm thấy lo sợ thay cho số phận con ma ấy, uống hết ly nước đó chắc nó chết quá!
Hình như con ma cũng có suy nghĩ như tôi, nên nó mím miệng cúi đầu kiên quyết không uống. Thầy tức mình kêu lớn:
- Hổ!
Anh thanh niên dìu bạn lúc nãy chạy đến hỗ trợ thầy giữ chặt hai vai người bệnh, còn ông thầy một tay bóp miệng tay kia tọng thẳng ly nước đen thui những giấy vừa đốt, vào cái mồm đang bị bóp há to. Con tà giẫy giụa ho sặc sụa, phun phèo phèo những tàn tro xác giấy còn vướng trong miệng ra. Vừa phun nó vừa gào lên:
- Độc ác..độc ác.
Chưa nói hết câu thể xác của nó ngã vật ra sau, oằn oại như con rắn bị đánh dập đầu. Tiếp theo nó lăn lộn cấu xé thân thể rồi đập bình bịch vào người. Tưởng chừng như trong cơ thể nó đang có ông Tề Thiên nào đó quậy phá, miệng nó lảm nhảm:
- Tha cho con thầy ơi.. tha cho con thầy ơi…
Trong lúc con tà đang oằn oại, ông thầy lại bàn thờ thắp thêm nhang mới. Đoạn ông cầm cây roi bện rơm và tóc lên… Còn đang hồi hộp chờ đợi sự việc tiếp theo thì… lỗ tai tôi bị béo một cái đau điếng, tức mình tôi quay sang định chửi thì thấy ngay khuôn mặt tức giận của… má tôi. Thì ra mê coi chữa tà mà tôi quên cả giờ giấc, hơn mười giờ tối thấy tôi chưa về, má tôi hốt hoảng chạy lên chùa tìm kiếm. Nghe các sư cô nói vãn kinh đã lâu rồi má lại càng lo lắng hoảng hốt.
Thời may trong lúc đi tìm nhìn thấy có đám đông, má định vào hỏi thăm và… thấy tôi đang say sưa ôm dính cửa sổ coi thầy làm phép bắt ma. Tối hôm đó tôi bị một trận đòn quắn đít đau hơn cả con ma bị thầy đánh đòn.
ST
#64
Gửi vào 17/06/2011 - 09:20
Trên chuyến phà cuối năm từ Đức sang Thụy Điển, tôi tình cờ gặp một đồng hương: bác sĩ Vũ Xuân Lộc. Mùa đông Bắc Âu ngày rất ngắn. Mới khoảng ba giờ chiều mà cảnh vật đã xám ngắt, nhất là bên ngoài mưa phùn mãi không tạnh.
Để đỡ sốt ruột chờ tàu cặp bến, bác sĩ Lộc kể cho tôi nghe một câu chuyện dị thường. Dù chuyện diễn ra khá lâu mà lúc thuật lại, ông vẫn không giấu được nét xúc động, bởi đây là chuyện của chính ông, chuyện thật của người trong cuộc, là một kỷ niệm sâu đậm mà ông không bỏ sót một chi tiết nhỏ nào.
Tôi xin phép ông để được tường trình lại cùng bạn đọc, hy vọng không làm mất đi sự lôi cuốn qua diễn tiến, mà ông tỉ mỉ nói riêng với tôi chiều hôm đó.
Được sự đồng ý của bác sĩ Lộc, tôi tạm đặt tựa đề là " Đêm trong căn nhà hoang " cho sát với nội dung câu chuyện. Bây giờ mời bạn đọc cùng tôi đi sâu vào thế giới âm u của một đêm không trăng sao, ngủ tối trong một căn nhà đã lâu không có người dám ở.
Ngay từ thuở mới lớn khi còn ngồi ghế trung học. Lộc đã tỏ ra cứng cỏi không tin có ma quỷ. Sau này tốt nghiệp y khoa chàng lại mạnh dạn hơn, giải thích mọi sự đều chỉ bằng cặp mắt khoa học.
Đối với Lộc những chuyện ma mà lâu lâu chàng nghe kể, thật ra chỉ là do ảo giác hoặc do óc tưởng tượng của người ta thêu dệt. Ai nói gì thì nói. Lộc thường chỉ lắc đầu cười. Cho nên đừng có ai dại mà đem ma ra nhát Lộc! Bà mẹ Lộc thì khác. Gia đình vốn theo đạo Thiên Chúa ít tin dị đoan, ấy thế mà có lần mẹ Lộc bảo:
- Có chứ con...có ma chứ. Chính Thánh Kinh cũng đã chép lại câu chuyện người ta đem đến cho Chúa một người bị qủy ám để nhờ Chúa chữa. Con quên rồi hay sao? Bên đạo mình gọi là qủy ám. Dân gian thì quen gọi là ma nhập. Cả đời mẹ chưa gặp ma bao giờ, nhưng mẹ vẫn tin là có ma. Chỉ có điều là không phải ai cũng thấy ma. Phải có thần giao cách cảm. Ma lựa người mà hiện hình. Có người mong gặp ma mà suốt đời chẳng bao giờ gặp.
Lộc nửa đùa nửa thật đáp:
- Vâng con đây chứ ai, chính con có lúc muốn gặp ma xem nó ra làm sao mà đợi mãi chả thấy.
Bà mẹ dè dặt khuyên:
- Con đừng có nói thế. Con người có linh hồn và thể xác. Vũ trụ có cõi âm và cõi dương. Mẹ biết con tin vào khoa học, nhưng thiếu gì việc không thể dùng khoa học mà cắt nghĩa được.
Lộc không muốn tranh luận với mẹ, nên chỉ ậm ừ cho qua Bà cụ lại thêm:
- Có điều là ma quỷ dù có hiện về thì cũng chỉ làm cho người ta sợ chứ không giết được người ta.
Bẵng đi một thời gian rất lâu. Lộc lớn dần và ra trường, chuyện ma quỷ chưa bao giờ làm bận tâm Lộc, dù chỉ trong khoảnh khắc. Cho đến hôm nay chàng từ Sài Gòn đáp xe về miền Tây, nhận nhiệm sở mới ở bệnh viện dân sự tỉnh, lần đầu tiên chàng mới phải đương đầu với cảm giác rờn rợn xâm chiếm tâm hồn, cái không khí kinh dị bủa vây thân xác, bắt chàng dù muốn dù không cũng phải đặt vấn đề.
Xuống đến thị xã việc đầu tiên là Lộc phải thuê một căn nhà, vừa để ở vừa để mai này có thể mở phòng mạch tư, khám bệnh thêm ngoài giờ hành chánh dành cho nhà thương.
May quá lúc ngồi trên xe đò, có người mách cho Lộc một căn nhà gạch cũ khang trang, mái ngói đã phủ rêu xanh, tọa lạc ngay ngắn dưới tàn cây me cổ thụ. Nhà đẹp lại mát mẻ nằm gần khu dân cư khá giả, có sân trước vườn sau khoáng đạt quanh năm rợp mát. Lộc mừng lắm xách va li dọn vào. Chủ nhân nhận tiền, mở khoá giao cho chàng rồi vội vã bỏ đi như chạy trốn.
Lộc không vào nhà vội. Trời chiều thoảng gió. Mặt trời đã lặn hẳn sau dãy nhà bên kia đường. Chàng đứng chống nạnh trên hè, gật gù quan sát cảnh vật chung quanh. Bên cạnh chàng sát chân cây sột gỗ là chậu mai chiếu thủy cao bằng đầu người, nhưng đã chết khô vì không ai chăm sóc. Mảnh sân rộng trước mặt cỏ mọc bừa bãi, lan ra cả lối đi lát gạch đỏ và che khuất hết hàng rào lưỡi mắc cáo. Lộc tặc lưỡi và tự nhủ:
- Chẳng sao chỉ cần một buổi dọn dẹp là sẽ trở thành căn nhà lý tưởng. Kể cũng lạ nhà đẹp như thế này mà lại bỏ trống để chờ chàng xuống mướn. Âu cũng là duyên may.Lộc tự nhủ và gật gù mỉm cười đắc ý.
Nhưng bỗng Lộc giật mình thấy hàng xóm tứ phía đều thập thò nhìn chàng bằng cặp mắt hết sức hiếu kỳ. Bên kia con đường đất rộng, mấy cái đầu già trẻ vừa từ trong cửa sổ căn nhà đối diện, thò ra trố mắt đăm đăm nhìn Lộc. Bên trái cũng thế. Một cô gái đang giặt quần áo, ngẩng lên trông sang quên cả công việc, để nước xà bông tràn ra đầy ngoài chậu.
Ánh mắt ai cũng toát ra cái vẻ ngạc nhiên và sợ sệt như rình rập một kẻ xa lạ vừa lạc bước vào thế giới biệt lập của họ. Lộc bâng khuâng bước hẳn vào trong để tránh sự soi mói của thiên hạ.
Chàng đứng giữa phòng khách, hài lòng vì đồ đạc tương đối đầy đủ đúng như chủ nhà cho biết. Tất cả đều bị phủ một lớp bụi dầy, mạng nhện giăng khắp nơi, chứng tỏ đã lâu lắm không có người ở. Bộ salon nặng chình chịch bằng loại gỗ quý màu nâu đậm kê sát vách.
Đối diện là cái sập gụ rộng rãi có cái gối mây đặt ở một góc. Rồi đến cái tủ đứng cẩm lai, trên nóc để bát nhang lạnh ngắt, mấy cọng que màu đỏ cắm trong cái bát đựng đầy cát, cháy tan chỉ còn thừa ra khoảng vài đốt ngón tay. Trong cùng gần khung cửa ăn thông vào buồng ngủ. Lộc thấy cái rương gỗ màu đen rộng ngang, dài hơn một thước, có nẹp sắt han rỉ viền quanh là cái khoá to bằng nắm tay, móc hờ vào ổ nhưng chưa khoá.
Cái rương loại hải tặc ấy vừa có thể dùng làm ghế ngồi, hoặc có thể dùng làm kệ để những thứ lặt vặt lên trên. Nay mai khi mở phòng mạch, Lộc sẽ cho dẹp hết đồ đạc, chỉ kê mấy cái ghế cho bệnh nhân ngồi đợi và các dụng cụ y khoa mà thôi.
Lộc đặt va li nhìn quanh tìm cái chổi lông gà, hoặc thứ gì có thể phủi bụi được. Tình cờ quay ra chàng giật mình vì thấy ngoài đường trẻ con, người lớn vẫn thấp thoáng đi qua đi lại cả chục người, ai cũng chăm chú nhìn vào bằng ánh mắt nghi ngại.
Người ta xầm xì bàn tán chỉ trỏ. Có người chỉ lướt nhanh qua rồi ngoái đầu lại. nhưng cũng có người đứng hẳn lại tròn mắt làm Lộc vừa ngạc nhiên vừa bực bội.
Cái đám dân tỉnh lẻ này sao lại bất lịch sự như vậy? Chẳng lẽ họ chưa thấy người Sài Gòn bao giờ hay sao? Lộc vờ đi quay vô dọn dẹp tiếp. Chỉ nay mai họ sẽ biết chàng là ai! Tuy nghĩ thế nhưng bất chợt lâu lâu liếc ra. Lộc vẫn thấy người ta cứ thay phiên nhau kéo đến để tiếp tục theo dõi chàng.
Nhịn không được chàng bước hẳn ra thềm, đứng chống nạnh hầm hầm nhìn thẳng vào mặt họ như thách thức. Họ chỉ tản mát một chút rồi túm tụm ở mỗi gốc cây vừa nói chuyện xầm xì, vừa nhớn nhác đưa mắt nhìn vào căn nhà của Lộc.
Bà cụ hàng xóm tay cầm cái chổi dài, mom men tiến lại góc sân tiếp giáp phía nhà Lộc và dè dặt hỏi:
- Cậu mướn căn nhà đó hả?
Lộc mạnh dạn gật đầu:
- Vâng có gì không bác?
Bà cụ vội lắc đầu:
- Đâu có gì tui hỏi cho biết vậy mà.
Lộc toan quay vào thì bà cụ lại hỏi:
- Cậu là người Sài Gòn hả, ai chỉ cho cậu mướn căn nhà vậy?
Lộc bước lại gần và đáp:
- Vâng cháu vừa ở Sài Gòn xuống, tình cờ cháu gặp bà chủ nhà này trên xe đò.
Bà hàng xóm ngắt lời:
- Chủ nhà này có tiệm vải ngoài chợ. Tiệm vải Kiến An, cậu gặp bả trên xe đò hả? Cậu mướn bao nhiêu? Có mắc không?
Lộc tò mò hỏi lại:
- Cháu xin lỗi bác, nhưng tại sao bác hỏi cháu về căn nhà này kỹ vậy? Bộ nhà này ở không được hay sao? Mái bị dột nước hay là..
Bà cụ vội xua tay lắc đầu nhắc lại:
- Đâu có hỏi cho biết vậy mà, bị cậu là người lối xóm.
Bà bỏ dở câu nói và rút ngay vào nhà. Trời đã bắt đầu nhá nhem tối. Người hiếu kỳ vẫn thập thò ngoài lề đường. Lộc bực bội lắm nhưng không biết làm gì để phản đối đám người tò mò ấy. Chàng thở dài rồi quay vào nhà và khép hờ cánh cửa gỗ lại.
Đang với tay tìm nút bật đèn thì một bóng đen kêu thét lên rồi lao vút từ nóc tủ xuống đầu Lộc. Chàng giật mình né sang một bên tim muốn ngừng đập. Nhưng định thần lại thì hoá ra chỉ là con mèo đen khá lớn của nhà ai vừa lẻn rất nhanh ra ngoài.
Lộc đứng yên nhắm mắt lại đặt bàn tay lên ngực và thở mạnh. Ngẫm nghĩ một chút Lộc buộc miệng than thành tiếng:
- Lạ nhỉ từ lúc mình bước vào nhà, đâu có thấy con mèo này! Nó ở đâu bất thình lình hiện ra là làm sao?
Nói thế nhưng Lộc bình thản nhún vai, mỉm cười rồi bỏ vào buồng trong, đó là căn phòng ngủ gọn ghẽ có chiếc giường nệm kê giữa nhà, nhưng lạ nhất là vẫn buông mùng. Cái mùng trắng toát khẽ bay phất phơ theo luồng gió nhẹ lùa qua khe cửa sổ. Chàng vén mùng lên. Từng lớp bụi bay tung làm chàng quay mặt đi và hắt hơi mấy cái liền.
Chàng cần dọn dẹp qua loa rồi ra chợ kiếm cái gì ăn tối. Sáng mai sẽ đến bệnh viện trình diện nhận việc. Chàng cầm cái gối phủi bụi trên giường, rồi đi xuống bếp. Trời mùa đông tối mau từ cửa sổ trông ra, mảnh vườn cây cối um tùm đang bắt đầu ngã sang màu xanh thẫm. Dưới gốc cây xoài cổ thụ sát đường mương. Lộc thấy cái miếu nhỏ bằng gỗ, lá khô phủ gần ngập lên tới nóc. Chàng ngó quanh một lúc rồi quay lên nhà trên.
Chàng đưa tay đẩy rộng cánh cửa chính để lấy thêm ánh sáng, và bực mình thấy đám người hiếu kỳ vẫn tụ tập ngoài cổng nhìn vào. Nhưng chàng bỗng ngạc nhiên thấy một cô gái mặc bộ đồ trắng, rẽ đám người tò mò ấy, xăm xăm từ ngoài đường bước vào sân và tiến hẳn trên thềm.
Cô mỉm cười gật đầu chào Lộc. Chàng ngơ ngác bước ra đón khách. Cô gái có làn da trắng muốt không son phấn, làm nổi bật mái tóc dài đen nhánh thả xuống qua vai. Chàng vẫn nghe nói ở tỉnh lẻ có những cô gái rất đẹp và hiếu khách. Đây là lần đầu tiên chàng được tiếp xúc trực tiếp. Cô gái thản nhiên nhập đề:
- Chào ông ạ, ông chắc mới ở Sài Gòn xuống?
Lộc gật đầu đáp:
- Vâng xin lỗi cô là ai?
Cô gái thân mật giải thích:
- Em ở ngay đây. Đi ngang ghé vào nói chuyện với ông, vì dù sao ông cũng từ xa đến.. Ông đừng lấy làm lạ là tại sao người ta kéo nhau lại nhìn ông. Không phải người ta nhìn ông đâu, người ta nhìn căn nhà này đấy. Tại căn nhà đã mấy năm nay không ai dám ở. Bây giờ bỗng thấy ông dọn vào, thì người ta tò mò.
Lộc ngắt lời:
- Tại sao không ai dám ở hả cô? À mà quên xin lỗi cô tên là gì? Tôi là Lộc, bác sĩ Vũ Xuân Lộc mới về bệnh viện tỉnh. Mời cô vào nhà chơi.
Cô gái đứng yên ngần ngại nhìn vô, Lộc giục hai ba lần nữa cô vẫn đứng tại chỗ và bảo Lộc:
- Cám ơn bác sĩ. Đứng ngoài này được rồi. Em sợ lắm không dám vào đâu.
Lộc thấy bên hàng xóm và người ngoài đường vẫn lấm lét nhìn mình, nên chàng cười trấn an cô gái:
- Có tôi mà cô sợ gì! Mời cô vào nhà đứng ngoài này bất tiện lắm, cô thấy đấy bao nhiêu người theo dõi cô với tôi.
Cô gái đành miễn cưỡng bước theo Lộc. Cô đưa mắt nhìn quanh phòng khách bằng ánh mắt sợ sệt rồi bảo:
- Bác sĩ thấy không bụi bám đầy nhà, nhà này bỏ hoang hơn hai năm rồi. Đúng ra là hai năm tám tháng.
Giọng cô run run khiến Lộc lại phải cười cho bớt không khí căng thẳng:
- Sao cô nhớ rõ vậy? À mà tôi vừa mới hỏi tên cô là gì?
Chàng chỉ ghế salon và nói:
- Cô ngồi tạm đây.
Cô gái dè dặt ngồi ghé xuống ghế salon và đáp:
- Em là Tâm. Thanh Tâm..thưa bác sĩ ở đây ai cũng biết là căn nhà này bỏ trống đã hơn hai năm, chứ không phải mình em, thì bác sĩ thấy đấy bác sĩ dọn vào ai cũng ngạc nhiên.
Lộc càng thắc mắc chàng nhíu mày nhắc lại:
- Cô bảo không ai dám ở tại sao vậy cô?
Cô gái ngồi nghiêng đầu hơi cuối xuống, để suối tóc chảy dài một bên vai, cô ngẩng lên nói nhỏ:
- Tại vì người ta đồn rằng căn nhà này có ma.
Lộc càng cười lớn rồi nói cứng:
- Tưởng gì chứ ma thì tôi không sợ, tôi chỉ sợ người thôi.
Cô gái nghiêm mặt hỏi:
- Chủ nhà không nói cho bác sĩ biết hay sao?
Lộc nhún vai:
- Không! Bà ấy có nói gì đâu mà dù có nói tôi vẫn thuê như thường. Thứ nhất là trên đời này không có ma. Thứ hai là dù có ma thì ma cũng không đáng sợ! Ma sợ tôi chứ tôi không sợ ma.
Cô gái đứng dậy và nói:
- Nếu bác sĩ không sợ thì tốt.. Không sợ thì bác sĩ cứ ở, em chỉ nói trước cho bác sĩ biết vậy thôi..Thôi em về đây. Tối rồi, em đường đột ghé vào thăm bác sĩ, vì sợ rằng bác sĩ sẽ thắc mắc, tại sao thấy bác sĩ dọn vào căn nhà này mà hàng xóm cứ xúm lại nhìn.
Lộc hài lòng đáp:
- Vâng thế thì cám ơn cô tôi hiểu rồi. Từ nãy đến giờ tôi cứ tự hỏi mình có cái gì lạ lắm hay sao, mà ngưởi ta phải theo dõi.
Cô gái bước ra cửa và nhắc lại:
- Em chào bác sĩ em về.
Lộc tiễn khách và nói:
- Cám ơn cô nhiều lắm cô Thanh Tâm, mai kia tôi dọn nhà xong mời cô lại chơi nhé, tôi mới về đây chả quen ai, nếu được cô coi như người quen thì hân hạnh cho tôi lắm.
Cô gái bước xuống thềm và đáp nhỏ:
- Em mới là người hân hạnh..Thôi em về thỉnh thoảng em sẽ gặp lại bác sĩ.
Lộc theo Thanh Tâm ra hẳn ngoài lộ, đám người hiếu kỳ vội vàng tản mác hết. Lộc hoan hỷ đứng nhìn theo cô gái cho đến khi, cái bóng trắng nhỏ dần và khuất hẳn sau một khúc rẽ chàng mới quay vào.
Chàng phủi bụi khắp lượt, lấy khăn lau bàn ghế và quét nền xi măng bóng láng. Cái tin chàng mướn lầm căn nhà ma không làm chàng bận tâm chút nào. Chàng chỉ nghĩ đến Thanh Tâm và thầm cám ơn đời đã cho chàng cái may mắn bất ngờ ấy: người đầu tiên chàng làm quen ở miền đất lạ này lại là một cô gái thật đẹp.
Quét dọn xong chàng ra sau nhà rửa tay. Ở góc vườn phía tay trái, có một thân cây cổ thụ đã chết khô nhưng vẫn sừng sững đứng nguyên. Những nhánh cây cong queo vươn tay đan chằng chịt vào nhau, tạo thành những hình thù ma quái làm Lộc chợt thấy rờn rợn không dám nhìn.
Chàng lau tay vội vã rồi toan quay vào, thì bỗng dưng cái cây khô ấy ngã ập xuống đường mương, đè lên một hàng cây nhỏ phía dưới, mặc dù lúc ấy trời không có gió.
Lộc lặng người đứng ngó một lúc rồi quay gót chui vào nhà, khép cửa cài then lại. Vẫn biết đó có thể là một sự tình cờ: cái cây khô kia đã mục gốc từ lâu và đến lúc nó phải đổ, nhưng Lộc vẫn hoang mang linh cảm thấy căn nhà này kỳ bí lắm, nhất là từ khi cô hàng xóm Thanh Tâm tiết lộ cho Lộc biết đây là căn nhà ma.
Chàng cố gắng xua đuổi mọi ý nghĩ đen tối trong đầu, khoá cửa thả bộ ra phố ăn tối và mua sắm vài thứ lặt vặt, trong đó cái đèn pin là cần nhất bởi vườn sau không có điện, mà phòng tắm nằm ở tuốt mãi sát đường mương cách nhà bếp đến gần trăm thước.
Lộc đi quanh một vòng thị xã, lúc trở về đã quá chín giờ tối. Con lộ nhỏ vắng lặng không có đèn đường, thấp thoáng lúc mờ lúc tỏ, nhờ những ánh điện leo lét trong những căn nhà hai bên hắt ra, bị che lấp bởi từng lùm cây dày đặc. Lộc rọi đèn pin bật đèn phòng khách.
Hai ngọn đèn tròn đã đứt mất một bóng giữa trần, chỉ còn một ngọn gắn trên vách, tỏa ánh sáng vàng úa xuống cái bàn gỗ kê sát tường. Lộc ngồi vào bàn mở va li đặt mấy cuốn sách y khoa bên cạnh, rồi lấy giấy bút viết vội lá thư để sáng mai gửi về thành phố, thông báo địa chỉ cho gia đình.
Một cơn gió bất ngờ thổi ập đến, làm cánh cửa gỗ đang khép hờ mở tung ra. Lộc giật mình đứng dậy khép cửa cài then rồi trở lại bàn cặm cụi viết. Mới được vài hàng thì chàng bỗng cảm thấy như có một luồng hơi lạnh ở sau lưng, rọi thẳng vào ót rồi lan nhanh xuống xương sống làm chàng rùng mình.
Như một phản xạ tự nhiên chàng buông bút, vòng cánh tay ra phía sau xoa gáy. Chờ một lúc hơi lạnh tan đi chàng lại viết tiếp. Nhưng chỉ được một phút chàng lại thấy dường như có một sức mạnh vô hình nào đó bắt chàng phải quay lại sau lưng, vì hình như có ai đang đứng nhìn mình! Bấy giờ chàng mới nhớ ra những lời dặn của Thanh Tâm:
- Nhà này có ma không ai dám ở! Bỏ hoang đã hai năm tám tháng.
Chàng không tin chẳng lẽ giữa khu dân cư đông đúc này mà lại có căn nhà ma. Nhưng chắc là ít ra có một điều bí mật nào đó trong căn nhà này, dù không phải là ma. Bởi nếu không thì hàng xóm đâu có kéo đến nhìn chàng bằng ánh mắt sợ sệt lúc chiều. Và nhất là Thanh Tâm, cô gái tỉnh lẻ hiền lành kia đâu có phải tội nghiệp chàng mà tìm đến thông báo cho chàng biết trước.
Nghĩ thế Lộc nín thở quay phắt lại! Dĩ nhiên là không có gì, vẫn bộ salon nằm im lìm. Vẫn cái tủ đen với bát nhang lạnh lẽo trên nóc. Lộc nắm chặt bàn tay đấm nhẹ xuống sàn và tự cười mình:
- Hoá ra mình cũng sợ ma à, nhảm nhí làm gì có ma.
Chàng mỉm cười và tiếp tục viết. Nhưng rõ ràng sau lưng chàng lại có sự thôi thúc mãnh liệt và dường như có cả tiếng kêu nho nhỏ, toàn là những âm thanh lạ lùng lắm, như tiếng người sắp chết đuối kêu cứu từ rất xa, lẫn vào tiếng nước chảy của dòng sông cuồn cuộn.
Rồi chỉ một phút sau tiếng người, tiếng nước đều ngưng hẳn để đổi sang loạt âm thanh rin rít, như những móng tay ai cào mạnh trên sàn gỗ. Lộc quăng bút và bất ngờ quay phắt lại. Chàng nghĩ nếu có ma thì con ma sẽ không kịp biến hình.
Chàng sẽ nhìn thấy nó! Nhưng vẫn chẳng có gì! Chàng đứng dậy cầm cái đèn pin vừa mua bật sáng, rọi quanh mọi ngóc ngách trong căn nhà. Rồi chàng mạnh dạn bước vào buồng ngủ và xuống tận nhà bếp. Trong nhà có ngọn đèn nào chàng bật lên hết. Chàng lên nhà và cười khẩy tự trách:
- Chỉ lo vớ vẩn! Ma với quỷ cái gì, cái cô Thanh Tâm lắm chuyện này tự dưng làm mình bị ám ảnh.
Lộc tắt đèn pin ngồi vào bàn viết. Ngoài sân chợt có tiếng mèo kêu vang lên giữa bóng đêm vắng lặng, như tiếng trẻ con khóc não ruột. Một lúc rồi tất cả đều trở lại im bặt. Lộc cố xua đi mọi ý nghĩ hoang mang, tập trung vào ngòi bút và chỉ nghĩ đến gia đình ở Sài Gòn.
Những cảm giác rờn rợn vẫn lởn vởn trong trí Lộc, và sự thôi thúc sau lưng mới lúc nãy biến mất bây giờ lại trở về vây hãm toàn thân chàng. Ngồi quay mặt vào vách, Lộc cảm thấy chắc sau lưng đang có người nhìn mình.
Hay là quả thật có những hồn ma từ cõi âm hiện về như mẹ chàng bảo. Hoặc là căn nhà này quả thật có ma như lời Thanh Tâm kể? Hèn gì bà chủ nhà chiều nay đưa chàng lại đây, đã có những cử chỉ dáo dác như bỏ chạy sau khi nhận tiền mà lúc đó chàng không để ý.
Còn đang ngẫm nghĩ thì lại nghe tiếng móng tay cào trên mặt gỗ từ từ lớn dần rõ dần. Chàng cầm đèn pin bật lên rồi từ từ xoay người lại, quét vội vạch sáng khắp phòng.
Tim Lộc bỗng thắt lại và chàng kinh hãi muốn hét lên, vì rõ ràng cái hòm gỗ đen nằm ở sát vách tuy vẫn đóng chặt, nhưng có mấy ngón tay trắng toát thò ra mấp máy ở gần ổ khóa, vùng vẫy như muốn đẩy tung nắp hòm lên.
Lộc rón rén đứng dậy tại chỗ nín thở dụi mắt, rồi rọi đèn vào thẳng ổ khóa của cái hòm, thì mấy ngón tay kia đã biến mất rồi! Tim chàng đập thình thịch! Như vậy có nghĩa là làm sao? Cảnh tượng vừa rồi mấy ngón tay từ trong hòm thò ra, chỉ là ảo giác hay quả thực có người nào đang nằm trong rương, cố gắng đẩy nắp rương để chui ra.
Đắn đo một chút Lộc lấy lại bình tĩnh, từ từ tiến lại đèn pin vẫn bật sáng chiếu thẳng vào cái hòm kỳ bí. Khi còn cách khoảng cái hòm khoảng một thước, chàng dừng lại cầm cái cán chổi, chọc mạnh vào ổ khóa.
Ổ khoá tuy chưa bóp lại nhưng móc vào khuy, rõ ràng nắp rương đóng chặt, không thể thò bàn tay lọt ra ngoài được! Nghĩa là cảnh tượng vừa rồi chỉ là tưởng tượng do trí óc sợ hãi mà sinh ra.
Chàng đứng yên suy nghĩ. Hay là trong cái hòm này có người chết đã lâu, bây giờ chỉ còn bộ xương khô Chàng lấy cán chổi gõ mấy cái trên mặt hòm, rồi nín thở bước thêm bước nữa lại gần. Chàng len lén ngồi xuống hồi hộp tháo ổ khoá ra.
Tháo xong chàng lùi lại đứng yên vài giây rồi gồng mình lấy can đảm mở bật nóc hòm lên. Tiếng bản lề lâu ngày han rỉ kêu kèn kẹt. Nắp hòm bật tung lên. Không có gì trong đó! Chiếc hòm trống rỗng lộ ra lớp gỗ mộc để nguyên không sơn phết! Chàng thở mạnh kết luận: mấy ngón tay thò ra lúc nãy chỉ là ảo giác chứ không có thật.
Nhưng lạ một điều là khi nắp hòm vừa bật lên, thì một luồng hơi lạnh buốt toát ra, phà vào mặt chàng khiến chàng phải lùi lại, đồng thời bao nhiêu bóng đèn trong nhà đều phụt tắt và con mèo đen từ nóc tủ lao vút xuống phía chàng, kêu thét lên trước khi biến mất vào gầm giường.
Lộc đứng tim muốn ngất xỉu. Cả căn nhà ngập trong bóng tối, may mà ngọn đèn pin le lói chiếu thẳng vào đáy hòm. Lộc nhìn kỹ từng góc cạnh, rồi với tay đậy nắp hòm lại. Lập tức đèn trong nhà sáng lên như cũ, đầu óc chàng vốn nặng tính khoa học mà giờ này, trước những hiện tượng không giải thích nổi, Lộc đang phải ngờ ngợ tin rằng, quả thật căn nhà này có ma.
Ngày mai chàng sẽ hỏi thăm Thanh Tâm, tìm gặp nàng và năn nỉ nàng kể cho nghe đầu đuôi những gì đã xảy ra trong ngôi nhà kỳ bí này. Chàng đoán là Thanh Tâm biết rõ hoặc ít ra nàng nghe người ta kể lại, và chàng lấy làm tiếc đáng lẽ chiều nay chàng đã phải hỏi rồi, nhưng bởi tánh ương ngạnh không tin chuyện ma, nên khi nghe Thanh Tâm nói chàng chỉ cười khẩy tỏ ý khinh bỉ.
Chàng cầm đèn pin ra sau bếp, tìm một ly nước vì cổ họng đang khát khô như người lên cơn sốt. Rồi chàng lên nhà trở lại bàn viết. Ngang qua cái hòm đen, chàng dừng lại một chút và toan mở thử lần thứ hai xem cái ngọn đèn trong nhà có phụt tắt nữa hay không. Nhưng chàng lưỡng lự đăm đăm nhìn rồi lại ngần ngại bỏ sang bàn viết.
Lộc vén tay áo nhìn đồng hồ đã quá nửa đêm. Không gian hoàn toàn vắng lặng, không một tiếng bước chân người ngoài đường. Tiếng radio vang vọng lúc nãy từ một căn nhà xa xăm nào đó, giờ này cũng im bặt. Chỉ có tiếng gió thổi xào xạc qua khóm lá quanh nhà, từng cơn phần phật như vũ bão rồi lại nhẹ hẳn đi, rì rào như sóng vỗ êm đềm.
Lộc cầm bút lên viết nốt lá thư đang dở. Nhưng chỉ được mấy phút, sau lưng chàng dường như lại thấy một luồng hơi giá buốt thổi vào ót làm chàng dựng tóc gáy lên. Và tiếng móng tay cào trên sàn gỗ nghe rõ mồn một.
Lộc quay phắt lại nhìn ngay cái hòm đen và chàng giật thót người đánh rơi cây bút xuống đất, rõ ràng cái nắp hòm vừa kênh lên một chút, và vẫn cái bàn tay trắng xanh thò ra, mấy ngón tay ngo ngoe vẫy gọi chàng đến gần. Chàng dụi mắt nhìn lại cho kỹ thì ra bàn tay không còn nữa.
Chàng thốt nhớ đến câu chuyện đã đọc trong sách của Thế Lữ, một người âm mưu giết bạn mình để lấy gia tài, bạn chưa chết nhưng nhất định ấn vào hòm đóng đinh lại. Người bên trong vùng vẫy, bật được nắp hòm lên và chui ra giết lại người bạn phản phúc bỏ vào hòm.
Lộc choáng váng liên tưởng đến cái hòm sau lưng mình, và chợt hình dung ra một cảnh giết người tương tự như vậy. biết đâu cái hòm kia sau lưng chàng, chẳng từng đựng xác ai trong đó, và oan hồn đêm nay hiện ra với chàng, như đã từng hiện ra với nhiều trước đây, khiến không ai dám ở trong căn nhà này.
Nếu đúng như thế thì mai này chàng sẽ phải quăng bỏ cái rương, hoặc tốt nhất là đem đốt đi. Với người Phật Giáo thì cúng kiếng cho linh hồn siêu thoát. Còn chàng theo đạo, thì xin lễ nhà thờ cầu cho linh hồn người đã khuất, đồng thời đón cha đến rảy nước thánh làm phép căn nhà này để trừ tà, bất giác Lộc thò tay vào túi và chợt hối hận không mang theo cỗ tràng hạt có tượng thánh giá để treo lên trần.
Lộc nhặt cây bút lên định viết tiếp. Nhưng không viết nổi. Trí óc chàng bây giờ hoàn toàn bị chi phối bởi cái hòm và những ngón tay thò qua khe vẫy gọi chàng. Chàng có cảm tưởng hễ mình quay lại nhìn thì bàn tay biến mất. Nhưng hễ chàng xoay lưng đi thì mấy ngón tay lại thò ra.
Chàng đứng dậy tính xem nên làm gì. Để cái hòm lù lù trong nhà đêm nay, thì chàng sẽ không thể nào ngủ nổi. Hay là lôi nó ra quăng ngoài sân? Hoặc giản tiện hơn là lấy cái mền trùm lên, coi như không có nó trong nhà.
Giờ này thì chàng tin chắc cái hòm mờ ám kia phải liên quan đến một cái chết thảm Khốc. Chàng đứng tần ngần một chút rồi vào buồng ngủ lôi ra cái chăn dày ở đuôi giường mở tung, đem ra phủ kín lên cái hòm để chuẩn bị đi ngủ vì đêm đã quá khuya.
Làm xong chàng để nguyên mọi ngọn đèn sáng, và mặc nguyên quần áo lên giường buông mùng xuống. Nằm trong buồng cách một bức vách, chàng không còn nhìn thấy cái hòm nữa.
Nhưng vừa nhắm mắt được mấy phút thì ở ngoài, tiếng móng tay cào trên sàn gỗ lại vang lên nho nhỏ rồi cứ thế mà lớn dần, làm chàng run lên bần bật. Chàng mường tượng ra cái cảnh rùng rợn, một người nào đó còn sống bị nhét vào cái hòm này, những ngón tay vẫy vùng cào cấu chung quanh để thoát ra mà thoát không nổi, đành chết ngộp trong đó. Nhớ lời mẹ dặn chàng ngồi dậy đọc kinh, và tự an ủi bằng lời nhận xét của mẹ chàng có lần bảo:
- Ma chỉ làm cho người ta sợ, nhưng không thể giết được người ta.
Chưa bao giờ trong đời Lộc mong trời sáng đến thế! Thời gian trôi quá chậm. Còn đến mấy tiếng đồng hồ nữa bình minh mới ló dạng. Đọc kinh xong chàng an tâm nằm xuống và nhắm mắt quay mặt vào vách, lắng tai nghe ngóng.
Tức thì tiếng móng tay cào gỗ lại nổi lên. Lộc ngồi bật dậy không dám nằm nữa. Chàng để ý thấy hễ chàng nhắm mắt để ngủ, thì oan hồn sẽ đánh thức chàng dậy. Như vậy chỉ còn mộtcách duy nhất là chàng ngồi thức trắng đêm, can đảm nhìn thẳng vào cái hòm thì hồn ma mới không hiện hình.
Chàng biết trước sáng mai vào nhà thương sẽ mệt nhừ, vừa khám bệnh vừa ngủ gật! Tính toán một lúc chàng bước xuống giường, cầm đèn pin ra phòng khách. Chàng đứng nhìn cái hòm đăm đăm, rồi quyết định lôi nó ra sân.
Chàng khom người cúi xuống kéo tấm mền quăng lên salon, rồi quay lại nắm cái quai ở một đầu rương để lôi ra cửa, nhưng chàng không ngờ cái hòm rỗng mà nặng như có một sức nặng kéo ghì lại. Chàng cố lôi đi và chỉ mới nhích được môt chút, thì cái quai sắt cũ kỹ bật tung ra, làm chàng té ngửa trên sàn nhà.
Chàng không bỏ cuộc quay sang đầu bên kia, nắm cái quai còn lại kéo lê chiếc hòm trên sàn xi măng, kêu lên rin rít như ai oán. hì hục đến hơn nửa giờ toàn thân mệt nhoài. Lộc mới đưa được cái rương ra ngoài đặt trên hiên.
Trời khuya thấm lạnh hơi sương. Gió bất chợt thổi mạnh rít lên trong các tàn cây rậm rạp. Con đường trước mặt không một bóng người hay xe cộ qua lại. Lộc bước nhanh vào nhà và khép cửa, cài then cẩn thận. Đôi mắt cay cay chàng đưa tay che miệng ngáp và lững thững vào buồng ngủ. Mọi đèn vẫn để nguyên không dám tắt.
Nhìn đồng hồ đã hơn hai giờ sáng, chàng chui vào mùng và an tâm nhắm mắt lại. Chàng đưa tay làm dấu thánh giá, cố gắng ngủ vài tiếng cho đỡ mệt vì sáng mai là ngày đầu nhận việc.
Nhưng bỗng chàng giật bắn người ngồi bật dậy, ngoài nhà tiếng cánh của từ từ mở, kêu kèn kẹt những âm thanh khô khan của chiếc bản lề lâu ngày khô dầu mỡ. Rõ ràng Lộc đã khép chặt cài cả hai then ngang, không ai có thể thò tay vào và mở ra được.
Chẳng lẽ cái cánh cửa nặng nề ấy tự động mở! Chàng ngồi bất động trong mùng không dám bước xuống, mắt mở trừng trừng lắng tai nghe ngóng. Im lặng một chút, rồi tiếng móng tay cào gỗ lại trở về rất gần như ngay bên tai Lộc.
Mồ hôi Lộc vã ra như tắm. Khá lâu chàng mới vớ cái đèn pin rón rén chui khỏi mùng, vịn một bàn tay vào vách và thò đầu ngó ra phòng khách. Chàng buột miệng kinh hãi kêu lên:
- Lạy Chúa tôi.
Chàng thấy cánh cửa chính mở toang và chếc hòm nằm lù lù ngay giữa nhà. Chàng lặng người đứng chết cứng tại chỗ, mắt mở trừng trừng như sắp lạc thần. Tiếng móng tay cào gỗ đã im bặt. Nhưng một luồng gió lạnh thổi hắt vào làm chàng rùng mình, như kẻ cô đơn lạc vô nghĩa địa một mình giữa nửa khuya, để thấy chung quanh toàn là tử khí.
Chàng đứng nhìn cái hòm đen một lúc, rồi men theo bức tường đi ra khép cửa lại. rồi chàng lôi cái hòm đặt lại vị trí cũ, bởi giờ này thì chàng phải tin rằng oan hồn kia không muốn ra khỏi căn nhà này. Trong lúc tuyệt vọng chàng nhìn lên nóc tủ, hy vọng tìm được một cây nhang còn sót lại, để tỏ nỗi lòng đối với người khuất mặt, như bạn bè chàng thường nói mà trước đây chàng chưa bao giờ tin.
Bát nhang lạnh ngắt chắc đã vài năm không ai thắp, màng nhện giăng dầy đặc. Cái tủ khá cao chàng kéo cái ghế lại và đứng lên, hy vọng trên nóc tủ còn sót cây nhang nguyên vẹn nào không.
Nhưng nhang không có. Không có gì cả ngoại trừ một cái khung hình lật úp bụi phủ dày cộm. Chàng tò mò cầm lên, lật ngửa và thổi lớp bụi đóng trên mặt kính. Rồi chàng bật đèn pin để xem cho rõ mặt người trong bức hình trắng đen ấy.
Chàng thảng thốt kêu lên một tiếng hãi hùng, rồi mất thăng bằng lạng quạng từ trên ghế té xuống đất. Trong hình chính là cô gái chàng gặp hồi chiều trước cửa nhà. Dưới tấm hình ghi rõ:
"Nguyễn thị Thanh Tâm. Sinh năm 1951 chết năm 1970"
Ngồi tựa lưng vào vách một lúc khá lâu để thở. Lộc mới lấy lại phần nào điềm tĩnh lồm cồm đứng dậy. Mồ hôi toát ra đầm đìa trên trán và hai bên thái dương, chàng cầm khung hình người quá cố, lấy giẻ lau sạch rồi dựng ngay ngắn trên nóc tủ.
Chàng quỳ xuống khoanh tay đọc kinh, xin Chúa cho linh hồn Thanh Tâm về nơi vĩnh cữu. Nỗi kinh sợ trong lòng giảm hẳn đi. Bây giờ thì chàng biết Thanh Tâm chết oan, hồn còn phảng phất trong căn nhà này, nên hiện về để báo cho chàng biết.
Chàng xót xa nhớ lại hình ảnh Thanh Tâm chiều nay đến với chàng, nét đẹp hồn nhiên như thiên thần mà có ngờ đâu, lại gặp thảm hoa ở tuổi mười chín.
Chàng sắp xếp mọi chi tiết đã xảy ra từ tối đến giờ và đoán chắc Thanh Tâm đã bị nhét vô cái hòm oan nghiệt kia để chôn sống. Nàng đã vẫy vùng nhưng không thoát khỏi sức mạnh của kẻ sát nhân.
Nghĩ thế Lộc đứng bật dậy làm dấu thánh giá rồi chạy lại mở nắp hòm lên, bật đèn pin rọi kỹ từng góc cạnh. Quả nhiên chàng nhận ra những vết máu còn khá rõ in hằn trên lớp gỗ mộc không sơn phết phía trong rương. Những vết máu ấy hoặc vừa mới xuất hiện cho chàng thấy, hoặc vốn đã nằm ở đó mà lúc nãy khi mở hòm lần đầu chàng không chú ý. Chàng thở dài đậy nắp, ngước nhìn bức hình trắng đen một lần nữa và thì thầm:
- Cô Thanh Tâm ơi! Xin hãy an nghĩ đừng về nữa. Tôi đã hiểu rồi nỗi oan khuất của cô. Thôi giã từ cô Thanh Tâm nhé.
Rồi chàng bỏ vào buồng ngủ. Quả nhiên từ đó cho đến sáng, cảnh vật hoàn toàn bình lặng, không còn tiếng động nào đánh thức chàng trong màn đêm u tịch.
Qua mấy tiếng đồng hồ ngủ bình an trong căn nhà lạ, Lộc choàng mắt dậy thì bên ngoài mặt trời đã lên cao, nắng rọi chan hoà qua các khe hở. Lộc ngồi lên dụi mắt, và mấy giây sau mới nhớ lại trọn vẹn câu chuyện đêm hôm qua.
Chàng lao vội xuống đất. Việc đầu tiên là chàng chạy ra phòng khách, nhìn lên bức hình Thanh Tâm trên nóc tủ. Người như thế sao lại chết quá sớm! Lộc bùi ngùi lắc đầu thở dài rồi quay lại nhìn chiếc hòm đem kê sát vách, từng hành hạ suốt đêm qua. Sực nhớ ra sáng nay phải trình diện nhận mhiệm sở, Lộc tạm gác chuyện nhà, ra sau đánh răng rửa mặt để chuẩn bị đến bệnh viện.
Thay quần áo xong Lộc bước ra thềm. Toan khoá cửa thì chàng giật mình thấy cả chục người đứng lố nhố thập thò ngoài đường nhìn chàng soi mói. Ai cũng ngạc nhiên và dường như thất vọng vì sau một đêm trong căn nhà ma, chàng vẫn còn nguyên vẹn không sức mẻ gì cả.
Chàng khóa cửa rồi quay lại nhìn họ và mỉm cười. Lập tức họ tản mác ra xa, nhất là khi chàng bước xuống sân để ra đường. Bà hàng xóm đứng dưới hàng mướp há mồm nhìn chàng ngơ ngác. Đêm qua cả nhà bà nằm yên hồi hộp lắng nghe, mà tuyệt nhiên không thấy biến cố nào từ nhà Lộc, đánh thức bà dậy như người ta đồn đãi.
Mà chẳng phải người ta đồn đãi. Chính mắt bà chứng kiến vài người thuê trước đây, hoặc tung cửa bỏ chạy giữa đêm khuya, hoặc sáng sớm đã phờ phạc dọn đồ ra và đi vĩnh viển. Chỉ có mình Lộc là thản nhiên như không, còn mỉm cười gật đầu chào bà nữa! Bà tò mò hỏi:
- Cậu Ba hồi hôm ngủ được không?
Lộc biết bà ta đang theo dõi mình nên điềm tĩnh đáp:
- Dạ được chứ Bác.
Bà không biết nói gì nữa chỉ trố mắt nhìn Lộc ngạc nhiên. Nếu thế thì bà tiếc lắm bởi chủ nhân đã gạ bán rất rẻ cho bà, mà bà không dám mua.
Lộc đến bệnh viện gần mười giờ. Chàng vào trình diện bác sĩ giám đốc, mà đầu vẫn mang nặng hình ảnh cô gái bạc mệnh. Rất may chàng được ông cho nghỉ thêm một ngày thu xếp chỗ ăn chỗ ở. Để bù lại thì đêm nay chàng sẽ phải trực bệnh viện đêm đầu tiên, thay cho một đồng nghiệp xin nghỉ bất ngờ vì gia đình ở Sài Gòn có chuyện khẩn cấp.
Lộc cám ơn rồi vội vã ra phố. Chàng không về nhà mà chạy ngay lại tìm bà chủ nhà, có tiệm bán vải ngoài thị xã. Bà tuổi ngoài năm mươi buôn bán lâu năm, quen biết gần hết bạn hàng ngoài chợ.
Người ta theo thói quen lấy tên tiệm để đặt tên cho chủ nhân, nên ai cũng gọi là bà Kiến An, chánh quán của vợ chồng bà trước khi di cư. Vì là người Bắc lọt vào chung sống giữa khu sinh hoạt toàn dân địa phương, nên lúc nào bà cũng phải tỏ ra vồn vã với người chung quanh.
Chồng bà ngày trước là sĩ quan tiếp liệu phục vụ ngay trong tiểu khu, mới giải ngũ được hai năm, về phụ với vợ con đi giao hàng xuống các chợ quận. Nói chung thì đó là một gia đình rất thành công về mặt kinh tế.
Buổi sáng hôm ấy tiệm vải chưa có khách. Bà Kiến An đang ngồi ở chiếc bàn nhỏ sát vách bên trong, trước mâm bánh hỏi thịt quay và ly sữa đậu nành, thì Lộc lừng lững đi vào. Hôm qua từ bến xe đò chàng có theo bà đến đây, nhưng chỉ đứng ở ngoài chờ bà vào lấy chìa khóa rồi cùng bà đến căn nhà cũ.
Vừa gắp miếng thịt quay chưa kịp đưa lên miệng thì thấy Lộc xuất hiện, bà Kiến An sợ quá mặt tái nhợt, quăng vội đôi đũa và đứng bật dậy chờ đợi. Bà yên trí là Lộc đến để chửi bà, vì trước khi cho thuê bà đã không nói cho Lộc biết căn nhà đó có ma.
Kinh nghiệm này bà đã trải qua đến ba lần: người mướn chỉ ở có một đêm rồi đòi tiền lại và bỏ đi. Huống chi dân tỉnh lẻ vốn nể người học thức, biết Lộc là bác sĩ bà càng sợ hơn. Nhưng trái với dự đoán của bà, Lộc tiến thẳng vào tự tiện kéo ghế ngồi đối diện rồi mệt mỏi hỏi:
- Cô Thanh Tâm là gì của bà?
Bà Kiến An há hốc mồm nhìn Lộc, khá lâu mới ú ớ hỏi lại:
- Làm sao bác sĩ biết nó?
Lộc nhắc lại bằng giọng lạnh lùng hơn:
- Cô ấy là gì của bà?
Bấy giờ bà Kiến An mới bật khóc và nói:
- Nó là con gái đầu lòng của vợ chồng tôi. Nó chết rồi bác sĩ ơi..chết thảm lắm. Quân sát nhân nhét con gái tôi vào hòm định đem đi thủ tiêu. Nhưng con gái tôi còn sống tỉnh dậy trong hòm giẫy giụa vùng vẫy, chúng nó lấy búa đập cho vỡ đầu khổ thân con tôi.
Ngừng một chút bà nức nở tiếp:
- Bác sĩ ơi, hôm ấy trời mưa to cả nhà tôi đi vắng. Hai thằng chúng nó rình từ lâu rồi mà chúng tôi không biết. Đợi cả nhà đi vắng mà trời lại mưa, chúng nó mới lẻn vào ăn trộm. Trời xui đất khiến giữa lúc ấy thì cháu Tâm ở ngoài chợ về. Thế là chúng nó túm ngay lấy..
Lộc đưa tay ngăn lời bà rồi nhắm mắt lại và thở dài. Chàng không muốn nghe nữa. Bi đát quá! Mọi phỏng đoán của chàng đều đúng cả. Diễn tiến cái chết của Thanh Tâm chàng sẽ tìm hiểu sau.
Vấn đề phải giải quyết ngay bây giờ là làm sao để linh hồn người quá cố được an nghỉ, không trở về nữa. Chàng mủi lòng nhìn bà Kiến An thương cảm. Ngay từ lúc bước vào chàng đã ngờ ngợ đoán là bà có liên hệ ruột thịt với Thanh Tâm, bởi Thanh Tâm có khuôn mặt rất giống bà.
Gần ba năm nay bà đã khóc nhiều, nước mắt tưởng đã khô cạn rồi mà hôm nay lại phải trào ra vì câu hỏi gợi nhớ của Lộc. Chàng mủi lòng nói nhỏ:
- Vâng tội nghiệp cô ấy xinh đẹp thế mà lại yểu mệnh.
Bà Kiến An nâng vạt áo thấm hai bên mắt, rồi mở to mắt ngạc nhiên hỏi Lộc:
- Làm sao bác sĩ biết nó? Vâng con bé xinh xắn phúc hậu lắm mà trời chẳng thương! Chắc có ai kể cho bác sĩ nghe phải không?
Chàng chưa kịp đáp thì bà quay vào gọi lớn:
- Liên ơi dọn mâm xuống. Lấy cho bà bình trà nhanh lên.
Lộc vội cản:
- Mời bà cứ tự nhiên. Bà vừa ăn sáng vừa nói chuyện cũng được.
Bà Kiến An đan hai bàn tay vào nhau và từ tốn nói:
- Không dám, hay là để mời bác sĩ ăn quà luôn thể.
Lộc xua tay:
- Cám ơn bà không dám làm phiền bà.
Chàng vừa dứt câu thì cô người làm từ căn buồng nhỏ ra dọn bàn, đồng thời đặt khay trà nóng, rót ra hai cái tách nhỏ. Chàng đỡ một ly từ tay bà Kiến An rồi trở lại câu chuyện cũ. Chàng bùi ngùi nói:
- Chẳng có ai kể với tôi cả. Chính bà còn không kể thì huống chi là người ngoài. Sỡ dĩ tôi biết cô Thanh Tâm là vì đêm hôm qua tôi gặp cô ấy.
Bà Kiến An ngồi tựa ra thành ghế, đôi mắt nhìn xa xăm rồi giòng lệ từ từ chảy xuống. Chuyện này với bà không có gì lạ. Con bà đã hiện về với nhiều người, và người nào cũng phải bỏ căn nhà ấy. Bà sụt sùi nói:
- Con tôi chết oan. Hồn chưa siêu thoát được.
Lộc điềm tĩnh bảo bà:
- Tôi vốn không tin chuyện hồn ma hiện về. Mãi hôm qua thì tôi đành phải tin. Nhưng tôi hy vọng từ nay con bà sẽ không về nữa đâu.
Bà Kiến An lại thêm một lần ngạc nhiên về câu nói của Lộc. Bà hỏi lại:
- Bác sĩ bảo sao cơ ạ! Con tôi từ nay không về nữa? Sao bác sĩ biết?
Lộc chậm rãi giải thích:
- Tôi cũng chỉ đoán thế thôi. hôm qua tôi đã thử và thấy có kết quả. Tôi đề nghị thế này: Bà với tôi đem chôn cái hòm đó đi. Tại sao đã hơn hai năm nay mà bà vẫn giữ cái hòm ấy để làm gì?
Bà Kiến An ngắt lời:
- Thưa tại vì dạo ấy cảnh sát đòi giữ cái hòm ấy lại để làm tang vật. Rồi nhà tôi cứ để đấy. Mấy lần định đem đốt đi mà rồi chả hiểu sao cứ quên.
Lộc tiếp tục ý kiến của mình. Chàng nói:
- Vâng bỏ đi là phải. Nhưng không nên đốt mà nên đem chôn. Hôm qua tôi tìm thấy bức hình cô Thanh Tâm bị lật úp trên nóc tủ. Tôi đã lau sạch và dựng lại đàng hoàng rồi. không có nhang đèn gì cả, nhưng tôi đọc kinh cầu cho linh hồn cô ấy.
Quả nhiên từ ấy cô ta không về nữa. Bà theo đạo Phật thì bà đón thầy đến cúng cho cô ấy. Còn tôi là người công giáo, tôi sẽ xin lễ nhà thờ cầu cho cô ấy yên nghỉ, xong rồi tôi sẽ ở lại căn nhà của bà..
Bà Kiến An cảm động oà lên khóc lớn, rồi đứng dậy bước sang níu vai Lộc:
- Tôi không biết nói lời gì để tạ ơn bác sĩ có lòng đối với con tôi. Vâng! Bác sĩ dạy thế nào tôi cũng xin vâng theo. Bác sĩ chờ cho một lát để tôi bảo nó đi gọi nhà tôi. Ông ấy mới ra chợ ăn hủ tíu. Để tôi cho người đi gọi ngay. Hôm nay tôi đóng cửa hiệu để lo việc cho cháu Thanh Tâm trăm sự nhờ bác sĩ cả.
Dứt lời bà gọi người làm bảo chạy ngay ra chợ. Còn bà thì lên lầu thay áo dài, chuẩn bị đám tang lần thứ hai cho con gái.
Qua một ngày bận rộn trăm việc, Lộc chờ đêm đến và quả nhiên căn nhà trở lại bình thường, không còn tiếng động nào nữa. Thậm chí con mèo đen đêm hôm qua hai lần xuất hiện, tối nay cũng biến mất hẳn, không quấy rầy Lộc nữa.
Bà Kiến An đem bức hình Thanh Tâm về lập bàn thờ cúng kiến cho con. Còn Lộc thì đến nhà thờ xin tượng thánh giá treo trên nóc tủ. Hàng xóm chung quanh nhìn Lộc hết sức cảm phục, kéo nhau đi theo đám tang chôn cái hòm rỗng cả mấy chục người.
Đêm hôm sau Lộc có ca trực đầu tiên tại bệnh viện. Chàng thấy lòng mình thanh thản vì vừa giải quyết xong được một câu chuyện khúc mắc đã mấy năm ở thị xã này, giúp cho ông bà Kiến An đỡ tủi thân mà vong linh cô Thanh Tâm cũng được yên ổn bên kia thế giới.
Chàng đi một vòng bệnh viện qua các khu điều trị chuyên môn, đọc báo cáo của y tá, chữa một vài bệnh nhân khẩn cấp rồi trở về phòng trực ngồi viết lá thư cho mẹ.
Bây giờ thì rất cảm phục mẹ mình. Chàng sẽ kể tỉ mỉ câu chuyện căn nhà ma mà chàng đang ở để xác nhận với mẹ rằng mẹ chàng nói đúng: quả thực dương gian có sự hiện hữu của người từ cõi âm. Chàng coi đây là một kinh nghiệm hiếm có mà chắc sẽ chẳng bao giờ tái diễn lần thứ hai trong đời.
Gần nửa đêm khuôn viên bệnh viện bắt đầu lắng đọng. Người vào thăm nuôi đã ra về hết. Chàng nhờ nhân viên xuống câu lạc bộ mua cho chàng ly cà phê đá. Trong khi chờ đợi, chàng mở tờ báo cũ cách đây gần ba năm mà ông bà Kiến An vẫn giữ kỹ trong tủ, bởi tờ báo ấy có đăng bản tin ngắn về cái chết của Thanh Tâm.
" Án mạng rùng rợn: Cướp của giết người. Nạn nhân là một thiếu nữ mười chín tuổi " Báo chí Việt Nam thì thường chỉ làm được một chức năng là thông tin thôi, chứ ít có trường hợp người ký giả hay phóng viên tự nguyện lao và những cuộc điều tra rắc rối, mà đôi khi đạt được hiệu quả cao hơn cả cảnh sát, như báo chí bên Mỹ.
Lộc đọc lướt qua bản tin, rồi lại chăm chú nhìn lại bức hình Thanh Tâm in khá lớn bên cạnh. Vẫn là bức hình trên nóc tủ mà hôm qua chàng đã trao cho ông bà Kiến An đem về nhà lập bàn thờ. Lòng chàng lại nao nao lên một niềm xúc động khôn nguôi. Chàng gấp tờ báo cất vào cặp để trả lại cho ông bà Kiến An. Rồi chàng lấy giấy bút trong ngăn bàn ra viết.
Mẹ chàng chắc chắn sẽ ngạc nhiên vì lần đầu tiên thằng con bướng bỉnh như Lộc mà đành phải tin có ma. Nghĩ đến đây bỗng dưng Lộc mỉm cười ngừng bút, nâng ly cà phê uống một hớp lớn rồi đứng dậy bước ra hành lang.
Đã quá nửa đêm sân bệnh viện không còn một bóng người. Chỉ có những ngọn đèn vàng hiu hắt trong không gian mờ mờ hơi sương. Chàng đứng một lúc cho thoáng khí rồi quay vào phòng ngồi viết tiếp.
Bỗng có tiếng gõ cửa chàng ngẩng lên nhướng mắt nhìn ra, nhưng không nhận rõ một cô y tá mặc áo blouse trắng đang đứng ngoài hành lang mờ tối. Cô lên tiếng:
- Xin lỗi bác sĩ.
Lộc dịu dàng nói:
- Không sao cô cứ vào đi, có việc gì đấy.
Cô y tá bước hẳn vào trong nhưng đứng sát khung cửa, dáng điệu rụt rè có lẽ vì lần đầu tiên gắp Lộc. Ở bệnh viện nào thì lâu lâu vẫn có những ông bác sĩ rất khó tính mà nhân viên cũng như bệnh nhân đều sợ. Lộc thoải mái nhắc lại:
- Có việc gì đấy cô?
Vừa nói chàng vừa chăm chú quan sát. Cô y tá còn trẻ lắm, nhưng nét mặt có vẻ xanh xao mệt mỏi như thiếu ngủ lâu ngày, hoặc có lẽ vì cô chuyên làm ca đêm cô nói:
- Thưa bác sĩ bên khu nội khoa có bệnh nhân vừa mới chết. Xin bác sĩ xuống chứng nhận để chuyển qua nhà xác. Lộc gấp vội tờ giấy và đứng dậy nói:
- Vâng tôi xuống ngay.
Chàng mở hộc tủ cất giấy bút vào. Cô y tá nói thêm:
- Thưa bác sĩ khu nội khoa dãy A, giường số 37.
Dứt lời cô quay đi và bước nhanh theo hành lang. Lộc nâng ly cà phê uống cạn rồi cũng tất tả ra cửa. Chàng định hỏi thăm cô y tá vài chuyện về sinh hoạt trong bệnh viện, nhưng cái dáng cao gầy của cô thoăn thoắt bước đi, mới thoáng đó mà đã xa hẳn Lộc, rồi rẽ sang dãy nhà bên phải.
Lộc vào đến dãy A khu nội khoa đã thấy ở giường số 37 lố nhố dăm ba người đứng vây quanh, gồm y tá` và vài bệnh nhân hiếu kỳ bên cạnh. Thấy chàng họ xích ra để nhường lối. Người chết đã được phủ một tấm khăn trắng kín từ đầu tới chân. Lộc đến gần cúi xuống lật tấm vải ra để khám nghiệm lần cuối.
Nhưng vừa nhìn thấy mặt người chết, chàng bật lùi lại một bước, đứng sững và suýt kêu lên thành tiếng. Vì cái người nằm chết trên giường số 37 đó là chính cô thiếu nữ mặc đồ y tá, vừa sang tận văn phòng gọi chàng
Nguyễn Ngọc Ngạn
#65
Gửi vào 17/06/2011 - 09:24
Năm 1940 là năm mà Việt Nam và toàn cõi Đông dương bắt đầu nếm mùi khói lửa, cuộc chiến tranh Mỹ Nhật tại Thái Bình Dương lan rộng, và năm ấy tôi đang học tại trường Khải Định Huế.
Con nhà nghèo xứ Quảng ra chốn Thần kinh để học một trường lớn có danh tiếng, là một may mắn nhất của thời ấy. Ðược vậy là nhờ sự cố gắng vượt bực của bản thân, và nhờ sự giúp đở của một người anh bà con về mặt tài chánh.
Ông này thỉnh thoảng từ Quảng Nam ra Huế, để thăm viếng một người bà con, đang xuất gia và đang tu tập tại Chùa Trà Am Huế.
Chùa Trà Am sau đổi tên Mật Sơn Tự, là một ngôi chùa nhỏ, nằm sau lưng núi Ngự Bình. Muốn đến chùa phải đi theo con đường đất đỏ, chạy sau lưng núi từ phía An Cựu rẽ qua trái, băng qua một dòng suối, đi ngang trước nghĩa trang của gia đình họ Nguyễn Khoa, nép theo các hàng tre xanh dẫn đến cổng chùa.
Ngôi chùa này cũng như bao ngôi chùa ở Huế, có vườn mít, chuối, chè xanh, có một hàng trúc cao bao bọc. Chùa này thuộc loại chùa nghèo, vách xây mái lợp ngói âm dương sân chùa lát gạch, bên trong chánh điện lát xi măng, cách xa phía sau chùa khoảng một trăm thước, có ba ngôi tháp mộ của các vị trụ trì đã viên tịch.
Mỗi lần anh tôi ra thăm người bà con tại chùa, là mỗi lần tôi tháp tùng anh tôi để viếng chùa lễ Phật, và nếu gặp dịp nghĩ lễ vài ngày, thì tôi ở lại chùa với anh tôi trước khi trở về đất Quảng.
Điểm sâu đậm đặc biệt ám ảnh mãi trong tôi, mỗi khi nhớ Huế là nhớ đến cặp rắn tu ở chùa này. Trong chuyến viếng chùa lần đầu tiên, khi sương chiều buông xuống sau sườn núi Ngự Bình, và sau khi tiếng chuông công phu chiều vừa chấm dứt, thì người bà con của anh tôi cho biết là trong chùa này, có cặp rắn khổng lồ dưới đất của các ngôi tháp, vào đợt công phu lúc ba giờ sáng, thường hay bò vào chánh điện để nghe kinh, xong thời kinh thì bò lại về hang xuống tháp.
Theo lời của người ấy cho biết thì cặp rắn này ở chùa này đã lâu rất hiền, không nguy hiểm không đáng sợ, vì trong mấy năm tu ở đây, ông ta chưa bao giờ thấy hay nghe nói cặp mãng xà này làm hại ai cả, mặc dù ngoại hình dễ làm cho người nào gặp lần đầu, cũng phải khiếp đảm vì sự to lớn của thân hình, bởi những khoang rằn ri màu vàng và đen sọc, trên các vảy dầy sắp lớp trên mình.
Chúng tôi đang nghe kể lại về chuyện cặp rắn tu thì Thượng tọa viện chủ chùa bước đến. Với nụ cười hồn nhiên và đôn hậu của một vị chân tu, ông ta nói thêm rằng đừng sợ sệt hay lo lắng chi cả, những lúc đầu chưa quen thì cứ ngồi yên trên giường, rút chân lên để xem cặp rắn bò vào nghe kinh.
Với sự ngạc nhiên pha lẫn niềm lo sợ, tôi đánh bạo hỏi Thượng tọa sao không đuổi cặp rắn ấy vào núi, mà để gần chùa như vậy, có thể làm hại đến tánh mạng các vị tu hành, hay các Phật tử hành hương.
Thượng tọa trả lời rằng:
- Chùa chiền là nơi thanh tịnh để chúng sinh tìm đến tu tập, nay chúng sinh đã đến đây tu hành nghe kinh thính pháp, mà đuổi họ (chỉ cặp rắn) đi thì không hợp đạo lý, hơn nữa họ không làm gì hại đến ai cả, vả chăng muốn đuổi họ đi, thì không ai có đủ sức đuổi họ, hãy chờ thời công phu sáng thì quý vị sẽ thấy họ và chứng kiến sự hiền hòa của họ.
Nghe Thượng tọa giải thích như trên, chúng tôi cũng tạm yên tâm song chưa hết thắc mắc, nằm trên giường nghĩ miên man, mà ngũ hồi nào không hay, đến khi nghe các tiếng chuông của đại hồng chung ngân vang, chúng tôi mới thức giấc, bèn ngồi xổm dậy xem đồng hồ thì đã ba giờ rưỡi sáng, và buổi công phu sáng bắt đầu.
Tiếng chuông đại hồng kèm theo tiếng niệm danh hiệu các vị phật của chú tiểu sa di vừa chấm dứt, các đèn dầu và nến được thấp sáng thì Thượng tọa đắp y hậu chỉnh tề, bước lên chính điện để niệm hương thỉnh Phật.
Xong phần này Thượng tọa ngồi trên tọa cụ, một tay chuông một tay mỏ bắt đầu tụng kinh. Độ năm phút sau, khi chúng tôi còn ngồi xổm trên giường tre, thì bỗng nghe những tiếng đập bạch bạch dưới nền chánh điện, và qua ánh đèn dầu và đèn nến, chúng tôi thấy rỏ ràng một con rắn to, dài độ một thước rưỡi, thân hình tròn, óng ánh xanh như một ống tre luồng cở bằng trái chân người, trên đầu có một cái mồng đỏ như mồng gà trống, nhưng mồng không đứng thẳng, mà lại ngã sang một bên, giống như đội mũ ca lô trên đầu.
Tiếng đập bạch bạch dưới đất là do cái đuôi rắn đập xuống nền khi di chuyển, vì hình như có phần cuối của đuôi bị cụt. Tiếp theo sau là một con rắn khác thân hình đen nhánh, vẻ từng khoang dài độ hai thước rưỡi, nhưng cái mồng đỏ trên đầu thì nhỏ hơn và đứng thẳng, đang bò vào nhẹ nhàng ít tiếng động hơn.
Bò qua cửa xong thì hai con chia làm hai hướng, bò thẳng về phía bàn thờ leo lên bàn thờ, và quấn tròn mỗi con một bên, gác đầu lên mình nằm nghe kinh. Đứng xa ngó vào bàn thờ, người ta có cảm tưởng như hai chồng vỏ xe hơi sắp lên nhau thấy mà lạnh gáy.
Sau này khi hỏi tại sao một cặp rắn mà con ngắn con dài, hai mồng trên đầu lại khác nhau, thì người bà con tu trong chùa giải thích rất trịnh trọng, bằng cách gọi hai con rắn ấy là "ông dài" và "ông cụt".
Ông cụt là con rắn đực có mồng lớn, ông dài là con cái có mồng ngắn. Cánh đây mấy năm cặp rắn này có thân hình bằng nhau, sau vắng bóng một thời gian mấy tháng, khi trở về lại đây thì con rắn đực bị cụt đuôi, có lẽ qua một cuộc hành trình nguy hiểm trong rừng sâu, hay sau một cuộc chiến đấu sinh tử với một con thú khác trong rừng, nên bị trọng thương mình mẩy bị đầy thương tích, phải dưỡng thương trong hang dưới tháp mộ mấy tháng.
Và trong lúc ấy chỉ có con cái vào chánh điện nghe kinh vào mỗi buổi sáng mà thôi. Ông ta cho biết thêm ban đêm vào khoảng khuya, lúc mười hai giờ đến một giờ sáng, trong chùa nghe những tiếng gáy của gà tre, thì đó là tiếng gáy của ông cụt, nhất là trong những đêm trăng sáng, còn ông dài thì không bao giờ nghe gáy cả.
Buổi kinh mai tụng vừa xong, chuông được một hồi, mõ chấm dứt, trong khi Thượng tọa quỳ lạy để rút lui, thì cặp rắn từ từ bò xuống và trườn ra khỏi cửa như khi mới vào, và tiếng động của ông cụt mỗi lúc xa lần về hướng các tháp mộ.
Trong tuần trà buổi sáng, khi gặp lại Thượng tọa ngài mỉm cười hỏi chúng tôi đã thấy cặp rắn ấy chưa, và giảng thêm:
- Trong các kinh Phật, quý vị thường nghe nói đến bốn chữ Thiên Long Bát Bộ. Là tám loại chúng sanh nguyện phát tâm bảo vệ chánh pháp, hộ trì Tam Bảo, mà rắn là một bộ môn trong bát bộ, vì họ cũng biết nghe kinh, thính pháp, tu tập hành trì, nên tâm linh của họ thăng tiến. Và qua một thời kỳ tu tập lâu dài vài nghìn năm, cũng có thể tiến hóa từ ngoại vật, súc sanh đến quả vị loài người, và từ cõi người lên các cõi chư thiên, hay các vị giác ngộ và thành Phật.
Quí vị còn nhớ ngày trước, khi Đức Thích Ca đang tu khổ hạnh ngồi dưới cội Bồ Đề trong dãy Tuyết Sơn, có nhiều ngày bị mưa lũ hoành hành các thần rắn đến quấn quanh mình Ngài, dùng bảy đầu xoè ra che cho Phật khỏi bị ướt, cũng như trong các chuyện Tàu, các mỹ nữ Thanh Xà Bạch Xà cũng là các con rắn tu lâu năm, Đắc Kỷ hay Nguyệt Cô đều do những con hồ ly tu lâu năm thành người.
Được hỏi về các lối sống của cặp rắn tu, thì Thượng tọa cho biết, họ không ăn thịt chỉ ăn bó hoa tàn cúng thải ra, các vỏ bầu bì, dưa, mướp đặt dưới chân các tháp mộ.
Từ ấy đến nay sau khi người bà con chuyển tu đến một chùa khác, chúng tôi không có dịp trở lại chùa Trà Am nữa, cho đến ba chục năm sau, có dịp đến chùa Già Lam ở Gò Vấp Sài gòn, để vấn an Hòa thượng Trí Thủ, vì lúc trước Hòa thượng có một thời gian tu tại chùa Trà Am, khi nhắc đến cặp rắn tu ở chùa này, thì Hòa Thượng cho biết là sau ngày rằm tháng bảy năm 1945 trong mùa thu, người trong chùa không còn thấy cặp rắn vào nghe kinh ở chùa Trà Am nữa.
Về các cặp rắn tu, tôi có duyên hội kiến với Thượng tọa Thiền Tâm, tu ở ngôi chùa sau lương Vĩnh Minh Thiền Viện ở xã Đại Ninh, thuộc huyện Đức Trọng Tỉnh Lâm Đồng, ngài cho biết có làm lễ quy y cho mấy cặp vợ chồng rắn trong rừng Bảo Lộc, ra quỳ xin ngài quy y dưới dạng hình người, và nhiều cặp rắn khổng lồ đã vào khoanh tròn trên giường trong thiền thất của ngài, mặc dù ngài đã khóa cửa rất kỹ và khi ngài ngồi thiền, nhiều cặp rắn đã nằm sát sau lưng ngài.
Các đệ tử của ngài kể lại trong tang lễ của ngài, khi kim quan của ngài sắp đưa nhập tháp, kim quan được quàn lộ thiên để các đệ tử đến đảnh lễ, thì một cặp rắn toàn thân màu vàng có tỏa ánh sáng, bò đến trước kim quan ngẩng đầu bái ba bái, và sau đó biến lẹ vào rừng cây xanh ngắt.
Trong đời tôi thấy rắn và nghe chuyện rắn cũng nhiều, như hang rắn tu ở trong núi Sập trong dãy Thất Sơn, con rắn khổng lồ Buông Ay Riên, giữa huyện Cống Sơn giáp ranh tỉnh Phú Yên và Darlac ở rừng Lào về, nhưng không có hình ảnh nào khiếp đảm và sống động bằng cặp rắn tu ở chùa Trà Am, mà đã năm mươi năm qua hình ảnh cặp rắn ấy không bao giờ phai lạt. Câu nói nhẹ nhàng của Thượng tọa viện chủ chùa Trà Am vẫn còn văng vẳng bên tai:
- Phật dạy: tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, bốn loài bò, bay, máy, cựa đều có Phật tánh cả, nếu biết tu hành không chóng thì chầy đều sẽ đạt Phật tánh ấy.
Lý Trường Trân
#66
Gửi vào 17/06/2011 - 09:28
Năm 1965 lúc đó tôi hai mươi ba tuổi đang là sinh viên sư phạm để ra làm một ông thầy dạy văn chương trung học. Sáng hôm đó là một buổi sáng sớm mùa Xuân, tôi đang ngồi học trong phòng mình trong căn hộ ở tầng sáu một tòa chung cư. Đây là tòa nhà chung cư duy nhất trong dãy phố.
Hơi lo ra tôi ngồi học mà cứ thỉnh thoảng lơ đãng nhìn ra cửa sổ. Bên dưới nhà tôi là đường phố. Bên kia đường là căn nhà ngay góc đường của ông Sĩ giang. Ông này khó tính nhưng nhà ông này có mảnh vườn tuyệt đẹp mà tôi cứ hay nhìn xuống. Kế bên nhà ông Sĩ giang là căn nhà cũng rất đẹp của gia đình Bình nam.
Gia đình Bình nam là gia đình hiền lành thân thiện, luôn làm những chuyện tử tế. Gia đình này có ba cô con gái, mà tôi thì si tình cô lớn nhất là Diễm an. Sáng sớm lắm nên tôi biết Diễm an chưa có ra ngoài nhà nhưng mà thỉnh thoảng tôi cứ liếc sang đó. Có lẽ chỉ vì trái tim sai khiến.
Theo thói quen ông Sĩ giang sáng sớm là đã tưới nước và dọn dẹp cho căn vườn yêu quý của ông ta . Căn vườn này nằm ngay trước nhà, có hàng rào sắt phía trước, cách đường phố phía dưới là ba bậc tam cấp bằng đá.
Đường xá đang còn vắng tanh. Tôi thấy có một người đàn ông đang đi từ xa tới bên phía lề đường của nhà Sĩ Giang và Bình Nam. Tôi bị lôi cuốn vì ông ta có vẻ là một người ăn xin hay là dân du cư, áo quần là những tấm giẻ cũ kỹ đủ màu như cầu vòng.
Ốm yếu, râu ria, trên đầu thì đội cái mũ rơm màu vàng. Dù trời nóng ông ta cũng khoác cái áo choàng rách rưới xam xám. Ông ta còn mang thêm cái một bị lớn dơ dáy. Chắc là để đựng đồ ăn xin được và thức ăn thừa.
Tôi tiếp tục nhìn theo tay ăn mày. Ông ta ngừng trước nhà ông Sĩ Giang, leo lên bậc tam cấp rồi hỏi hay xin cái gì đó với ông Sĩ Giang, qua khe hở của cái hàng rào sắt.
Tính ông Sĩ Giang là một người thô lỗ, khó chịu cho nên trông ông có vẻ không muốn nghe người ăn xin nói gì mà chỉ hất tay đuổi ông ta đi. Nhưng ông ta cứ đứng nguyên đó nói gì không rõ. Rồi tôi nghe ông Sĩ Giang to tiếng :
- Đi ! Đi ngay ! Đừng có làm phiền nữa !
Tuy nhiên không hiểu sao ông ăn mày cứ đứng đó, tay vịn vào hàng rào kèo nài lẩm bẩm. Giận dữ và mất hết kiên nhẫn, ông Sĩ Giang dùng hết sức đẩy mạnh ông ăn mày ra khỏi hàng rào.
Kẻ ăn mày tuột tay khỏi hàng rào, trật chân lên bậc tam cấp, ngã chõng chân lên trời, đầu đập mạnh vào bậc đá xanh.
Ông Sĩ Giang hoảng hốt chạy ra cúi người lên lão ăn mày, tay để lên tim ông ta lắng nghe nhịp đập. Chắc không nghe thấy gì, nên ông Sĩ Giang sợ hãi chạy xuống chân ông ăn mày, rồi nắm chân kéo ông ta sền sệt xuống lề đường.
Bỏ ông ta nằm đấy như một người say rượu. Sau đó ông Sĩ Giang đi vào nhà, đóng khóa cửa vườn cửa nhà lại, như là không biết gì xảy ra. Ông ta chắc cũng nghĩ rằng chẳng ai thấy cái tội ác vô tình ông gây ra cả.
Người nhân chứng duy nhất là tôi. Không lâu sau đó có người đi ngang qua và thấy người ăn mày nằm chết bên đường. Cảnh sát đến và xe cứu thương được gọi đến. Xác người ăn mày được cho vào xe cứu thương và chở đi mất.
Mọi việc diễn ra như vậy. Ngoài người ăn mày thì đã chết, ông Sĩ Giang thì sống để bụng chết mang theo, chẳng ai còn nhắc đến cái chuyện người ăn mày chết đường chết chợ đó nữa.
Còn tôi, tôi rất cẩn thận không bao giờ hé ra một lời về chuyện này cho bất cứ ai. Có lẽ như vậy là không chính trực lắm nhưng tôi sẽ được gì khi tố cáo ông Sĩ Giang, người dù sao chẳng có làm gì xấu với tôi cả ?
Hơn nữa cũng không phải ông Sĩ Giang cố tình muốn sát hại người ăn mày kia. Tất cả chỉ là chuyện vô tình lầm lỡ. Tôi nghĩ để cho ông Sĩ Giang đã lớn tuổi phải gánh chịu những phiền phức rắc rối với pháp luật, có thể còn phải đi tù về chuyện này, thì thật có gì đó hơi bất nhẫn. Tốt hơn hết là để cho ông ta chịu sự phán xử của lương tâm ông ta.
Lâu dần tôi cũng quên đi cái bi kịch thương tâm đó. Nhưng mỗi khi gặp ông Sĩ Giang, tôi lại thấy xao xuyến bàng hoàng chút gì đó trong người, vì nghĩ rằng ông ta không thể ngờ, tôi là người duy nhất đã chứng kiến toàn bộ cái bí mật, có lẽ ghê gớm nhất của cuộc đời ông. Sau đó tôi tránh mặt ông và không bao giờ còn dám nói chuyện với ông nữa.
Ba năm sau tôi đã hai mươi sáu tuổi, tôi đã lấy bằng sư phạm về ngành ngôn ngữ và văn chương Tây ban nha. Diễm an không lấy tôi làm chồng mà lấy một kẻ may mắn khác. Tôi cũng chẳng biết kẻ ấy yêu Diễm an hơn tôi, hay là xứng đáng với nàng hơn tôi hay không.
Thời gian đó Diễm an đang mang thai, sắp đến ngày sinh nở. Nàng vẫn sống trong căn nhà tuyệt đẹp đó và chính nàng vẫn đẹp hơn bao giờ hết. Một buổi sáng tháng mười hai, tôi đang dạy kèm văn phạm ở nhà cho vài em học sinh trung học, cũng trong căn phòng ngày xưa chứng kiến vụ án mạng. Cũng như ngày nào, thỉnh thoảng tôi lại liếc nhìn xuống con đường phía trước dưới nhà.
Bỗng nhiên tim tôi nhảy lên loạn xạ Tôi tưởng như mình bị ảo ảnh. Trên con đường trước mặt, có một người đang đi về phía nhà gia đình Diễm an, chính là người ăn mày ba năm trước bị ông Sĩ giang giết chết.
Không thể lẫn lộn vào đâu được. Bộ quần áo màu mè giẻ rách, chiếc áo choàng xám, cái mũ màu vàng, cái bị túi dơ bẩn. Quên cả đám học sinh tôi vội đi tới bên cửa sổ. Người ăn mày đang đi chậm lại, như là đang sắp đến nơi ông ta muốn đến.
"Ông ta trở về"
Tôi nghĩ
"Và trở về để báo thù ông Sĩ giang đây"
Nhưng ông ta không ngừng lại trước nhà ông Sĩ giang. Ông đi băng qua hàng rào vườn nhà ông Sĩ giang. Ông ta đứng trước cửa nhà của Diễm an, mở chốt cửa rồi đi vào nhà.
Tôi điên lên vì lo lắng. Tôi bảo đám học trò:
- Tôi sẽ trở lại ngay.
Tôi chạy ra thang máy và đi ngay ra phố, băng qua đường chạy vội tới nhà của Diễm an. Mẹ cô ta đang đứng trong nhà ngay cửa chính.
Bà nhìn tôi ngạc nhiên rồi nói:
- Ủa? Chào cháu! Cháu đó ư? Thật là một phép lạ.
Mẹ Diễm an luôn luôn có cảm tình với tôi. Bà ôm hôn tôi. Nhưng tôi chưa hiểu gì cả. Tại sao bà lại nói phép lạ gì ở đây? Té ra là Diễm an vừa mới lâm bồn. Và bà tưởng tôi đến thăm đúng lúc.
Ai trong nhà cũng vui mừng. Tôi bèn đành bắt tay chúc mừng kẻ đã đánh bại tôi. Tôi chưa biết phải hỏi thế nào và đang suy nghĩ, không biết có nên giữ im lặng cho qua luôn không. Rồi sau đó tôi nghĩ ra một cách. Tôi bèn vờ hỏi một cách hơi lơ đãng:
- Thật ra thì tôi bước vào nhà mà không bấm chuông vì tôi thấy một ông ăn mày với một cái bị to mà dơ dáy lắm lẻn vào nhà này. Tôi sợ ông ta ăn cắp đồ trong nhà.
Mọi người trong nhà nhìn tôi ngạc nhiên:
- Ăn mày? bị túi? ăn trộm? Hầu như cả nhà đang ở trong phòng khách này từ nãy giờ nên chẳng ai hiểu tôi nói gì.
Tôi bèn nói:
- Vậy chắc chắn là tôi nhìn lộn rồi.
Sau đó họ mời tôi vào phòng của Diễm an và em bé mới sanh. Trong hoàn cảnh này tôi chẳng biết nói gì hơn là chúc mừng nàng hôn tay nàng, suýt soa nhìn em bé và hỏi vợ chồng nàng đã đặt tên cho em bé chưa. Họ nói rồi và tên bé là Duy thành.
Trở về nhà tôi ngẫm nghĩ:
"Đó chính là người ăn mày bị giết bởi ông Sĩ giang. Chắc chắn. Vậy ông ta không trở về để báo oán mà chỉ để đầu thai vào làm con của Diễm an"
Tuy nhiên hai, ba ngày sau tôi thấy giả thiết của tôi có vẻ kỳ quặc quá cho nên tôi cũng từ từ quên nó đi mất. Có lẽ tôi cũng quên đi những chuyện không vui, hơi quái dị đó luôn nếu sau này vào năm 1979 không có một chuyện xảy ra làm tôi nhớ và liên hệ lại tất cả mọi việc xảy ra từ năm 1965 đến lúc đó.
Nhiều năm đã trôi qua. Tôi cũng đã qua tuổi thanh niên. Không còn nhiều ước vọng hăng hái như ngày xưa. Mỗi khi đọc sách cạnh cửa sổ tôi thường để tâm trí lãng đãng đây đó, mắt vẫn thỉnh thoảng nhìn ra cửa sổ bên kia đường.
Con của Diễm an: Duy thành, bây giờ đã mười một tuổi đang chơi trên sân thượng của nhà nó. Trò chơi hơi có vẻ trẻ con so với số tuổi của nó. Có lẽ thằng bé không thông minh lắm. Tôi nghĩ nếu nó là con của tôi thì chắc nó sẽ nghĩ ra nhiều cách để giải trí thú vị hơn. Nó đang đặt một đống lon không trên đầu bức tường ngăn cách hai căn nhà, và đứng cách xa khoảng ba hay bốn mét, lấy đá cố chọi cho trúng vào mấy cái lon.
Làm vậy dĩ nhiên là các cục đá sẽ rớt hết qua vườn nhà bên cạnh của ông Sĩ giang. Bây giờ thì ông ta chưa thấy, nhưng tôi biết lát nữa đây ông ta sẽ nổi trận lôi đình, khi thấy cả một khoảnh hoa trong vườn nhà ông ta, bị đá rơi trúng làm bầm dập gẫy nát.
Ngay lúc đó tôi thấy ông Sĩ giang mở cửa nhà và bưóc ra vườn. Lúc này ông già lắm rồi bước từng bước chậm chạp nghiêng nghiêng. Mỗi bước lại ngưng mỗi buớc lại nhấc chân lên nặng nề. Nhưng ông ta không chú ý gì đến mảnh vườn mà lại đi thẳng tới cổng vườn, mở cổng rồi bước xuống bậc tam cấp bằng đá dẫn ra lề đường.
Trong lúc đó thì thằng bé Duy thành, không nhìn thấy ông già, cuối cùng đã chọi trúng một cái lon. Cái lon văng lên, rớt xuống bờ tường vài lần, rồi rớt xuống vườn nhà ông Sĩ giang với một tiếng "beng" lớn. Có lẽ do trúng một bờ gạch hoặc chậu kiểng. Ông già đang đi chập choạng trên bậc tam cấp, nghe tiếng động bỗng giật mình quay lại. Ông bị mất thăng bằng rồi ngã quay trên bậc thềm, đầu dộng mạnh vào thềm đá xanh.
Tôi thấy hết. Nhưng ông già và thằng bé chẳng ai thấy ai cả. Chẳng hiểu tại sao thằng bé bỗng ngưng chơi. Nó chạy đi mất. Chỉ vài giây sau nguời ta bu lại chỗ ông Sĩ giang té nằm đó. Trong chốc lát người ta xác định là ông đã chết vỡ sọ do bị té bất ngờ.
Sáng hôm sau khi thức dậy tôi đi ngay ra cửa sổ nhìn qua bên kia đường. Xác ông Sĩ giang được quàng giữa nhà. Nhiều người đứng hút thuốc và tụ tập trên lề đường trước nhà ông.
Mọi người bỗng im lặng đứng tránh ra có vẻ bối rối khi có một lão ăn mày từ nhà Diễm an bước ra, vẫn với bộ quần áo màu mè, cai áo choàng xám, cái mũ rơm màu vàng, cái bị túi dơ bẫn kia. Lão đi ngang qua nhóm người, chậm chạp nhưng từ từ khuất dần theo hướng mà trước đây ông ta đã theo hướng đó mà đến.
Cũng hôm đó một tin buồn đến nhưng không làm tôi ngạc nhiên, là thằng bé Duy thành bỗng nhiên không ai thấy nó ở trong nhà nữa. Họ tìm kiếm mãi mà không bao giờ tìm ra dấu vết thằng bé. Tôi chỉ biết khuyên gia đình Diễm an thường xuyên đặt hoa lên bậc thềm chỗ chỗ người đã tử nạn. Một thời gian sau Duy thành bỗng trở về nhưng không còn nói được. Sau này nó phải học lại từ đầu và tuy chậm nhưng vẫn phát triễn bình thường.
Fernan do Sorrentino
#67
Gửi vào 17/06/2011 - 09:35
- Gì mà cười tủm tỉm thế lại ăn tiếp à ?
Tôi hỏi Thuận ngay khi vừa nhìn thấy hắn từ đâu bước vào lớp.
- Dĩ nhiên ăn trận Liverpool với con lô 57.
Thuận nói mặt hắn tỉnh bơ cứ như cái từ “dĩ nhiên” của hắn là dĩ nhiên thật vậy. Mà có lẽ cũng là dĩ nhiên thật… nghĩ lại tôi mới thấy như vậy. Thuận là thằng bạn học cùng lớp học thêm với tôi. Hắn là dân ngoại tỉnh nhà hắn thuộc dạng cũng khá giả đưa hắn lên Hà Nội học.
Hắn ở nhà bố mẹ hắn sắm cho, một mình. Tuy nhà hắn cũng thuộc loại có tiền nhưng bố mẹ hắn không bao giờ cho hắn quá mức cần thiết, có lẽ họ cũng biết con trai họ. Hắn vốn là một kẻ mê cờ bạc. Tất cả những trò đen đỏ rủi may trên đời, hắn đều ham thích tá lả, tổ tôm, ba cây, lô, đề, cá độ bóng đá, vân vân và vân vân.
Tuy nhiên đã từng có một thời tôi nghĩ rằng hắn không có cái “mệnh” cờ bạc. Năm ngoái mới chỉ cuối năm ngoái thôi, tức là cách đây khoảng bảy, tám tháng gì đó, hắn đã phải đem tất cả những đồ có giá trị của hắn đi gá nợ. Hắn chơi rất nhiều và càng chơi càng thua, thua ghê gớm. Sau đó hắn đã cố gắng chạy khắp nơi để tìm cách gỡ nợ và hắn không chơi nữa.
Không chơi một chút nào một con đề cũng không, mặc dù mỗi lần đi qua một lô kết quả nào, hắn vẫn hỏi con đề hôm trước ra bao nhiêu, để rồi xuýt xoa nếu thấy mình tính đúng. Tính là tính không chơi cặp mắt hắn vẫn sôi lên mỗi khi nhìn thấy một hội tá lả bên vỉa hè, hắn đã cố kiềm chế hàng năm trời nay, hắn đã bao nhiêu lần tự thề thốt rằng sẽ kiềm chế chỉ riêng lần ấy là hắn thành công.
Tôi nghĩ thế là may cho hắn và tôi đoán hắn đã bỏ hẳn môn cờ bạc. Nhưng mới khoảng bốn tháng nay hắn đã ném một con lô. Năm trăm một con lô duy nhất. Và ngay lập tức hắn đem về triệu sáu. Sau lần đó hắn lại đánh nhưng đánh rất nhỏ không đáng kể, và hình như là thua nhiều hơn thắng.
Thế rồi khoảng một tháng sau, hắn chơi thêm một con đề trăm rưởi. Và thế là mười triệu rưởi về tay hắn, tôi đã không tin khi nghe hắn nói, nhưng khi mặt hắn tỉnh bơ, hai tay xòe ra hai bọc tiền dày cộp thì tôi đã phải nghĩ lại. Hắn đang gỡ. Và suốt từ đó đến giờ hắn vẫn chơi rất nhiều trò nhưng ít khi đánh lớn, thường thì chỉ một tháng một lần.
Những lần đánh nhỏ thì thắng có thua có, vả lại tiền đánh cũng không đáng kể, nhưng đã đánh lớn thì chưa bao giờ hắn trượt kể từ hôm đó đến giờ. Và tiền triệu, tiền chục triệu, có lần còn gần trăm triệu, hắn không thiếu nhưng lại hết veo rất nhanh, vì cái thói cờ bạc quá nhiều của hắn.
Nhưng hắn vẫn lấy làm sung sướng, tất nhiên. Tháng trước tôi thiếu tiền tôi đã nhờ hắn gá hộ một con đề, hắn không nhận hắn nói là nếu cầm chung với tiền người khác mà đi đánh sẽ mất thiêng. Hắn đi đánh trước và hôm sau mang tích kê đến cho tôi xem. Tôi đánh theo hắn ngay chiều hôm đó và có luôn bảy trăm.
Thuận ngồi vào chỗ, cái mặt gầy toàn xương vểnh đi vểnh lại ra trò thích chí. Tôi hỏi:
- Ăn tổng cộng bao nhiêu ?
- Chín lít thôi cò con mà, đợi tuần sau dồn con lô trượt.
- Thứ bảy này đi chơi không ?
- Ok thích thì chiều yêu thì cưới yêu thì gật mà không yêu thì bật.
- Hôm đó mày sẽ đóng vai “Bao” Thanh Thiên nhé ?
- Tất nhiên rồi nhằm nhò gì ba cái chuyện lẻ tẻ, nhà giàu tiếc gì con lợn con, mấy giờ ?
- Chiều hai giờ.
- Được sang nhà tao, tao chờ. Đến nơi cứ đẩy cổng mà vào nhé tao không đóng đâu.
- Có hai giả thiết trong trường hợp này. Một là mày dũng cảm vô song hai là mày ngu tụt hạng. Dạo này có bao nhiêu chuyện ở cái khu đấy mà mày vẫn không kinh à ? Vẫn còn mở cổng suốt trưa ?
- Kệ lo quái gì. Biết đâu như thế lộc mới về ? Mấy người xấu số lại phù hộ cho tao thì sao ?
Nói xong Thuận cười hềnh hệch. Thằng này đúng là chưa thấy quan tài chưa đổ lệ tôi nghĩ thầm. Dạo này khu phố nhà nó rất hay có chuyện. Toàn là người chết. Hồi mấy tháng trước một gã nghiện được phát hiện ra trong khoảng trống giữa hai căn nhà, đang bốc mùi khủng khiếp sau năm ngày mất tích.
Cái xác không có đầu bị chặt ra một cách vụng về bằng một vật dụng gia đình, báo chí nói vậy. Khoảng hơn một tháng sau cũng có thể là chưa đầy một tháng tôi không nhớ rõ lắm, một bé gái mới mười tuổi mất tích. Sau gần một tuần ngự trên bản tin tìm trẻ lạc, cô bé được tìm thấy dựng đứng trong một thùng rác công cộng to đã bỏ đi từ lâu. Lại một cái xác không đầu nốt và thêm hai vụ gần đây nữa, mất tích.
Hai giờ kém mười lăm. Tôi có thói quen đi sớm bất kể đi học đi chơi, hội họp hay hẹn hò. Thuận thì không hắn thích ngủ nướng. Cổng nhà không đóng như mọi lần chỉ khép hờ. Tôi đẩy cửa bước vào. Cửa nhà đóng nhưng không khóa, tôi chưa thấy ai lại để nhà thế này trong khi đang ngủ bao giờ. Tôi mở cửa bước vào.
Thuận nằm ngay đó trên ghế băng. Nó thường nằm vạ vật linh tinh trong nhà ít khi lên phòng. Tôi cũng chưa biết phòng trên tầng hai của hắn như thế nào, không biết có phải phòng ngủ không nữa, vì tôi thấy có bao giờ hắn ngủ ở đó đâu!
Tôi lại gần hắn mùi rượu bay lên nồng nặc. Hắn hay uống mỗi khi vui chỉ khi vui thôi, không giống với đa số người tìm rượu giải sầu. Hơi rượu nặng thế này chắc là hắn đang say mèm. Một chân hắn ghếch lên cái bàn con thấp một tay vắt lên thành ghế, cái mồm méo xệch đi mắt nửa mở nửa nhắm. Tôi cười thầm cúi xuống đưa tay vả nhẹ vài cái vào má hắn.
- Ê dậy say hả ?
- Gì thế mới có mười hai rưỡi.
- Nhìn đồng hồ đi con trai gần hai giờ rồi.
Thuận chớp chớp dụi dụi mắt rồi ngồi dậy. Hắn nhìn đồng hồ vươn vai ngáp dài một cái rồi uể oải nói:
- Ngồi đợi tao tí đi giải rượu đã. Sáng nay chúng nó bắt khao uống tít quá.
Hắn đứng dậy và đi vào phòng trong, bước đi nghiêng ngả tập tễnh. Tôi không ngồi tôi thích đứng xem kỹ nhà hắn hơn. Tôi thích chú ý đến từng chi tiết nhỏ nhất của một căn nhà, để đoán được chủ nhà là người như thế nào.
Tương đối thôi nhưng tôi coi đó là một trò chơi thú vị. Tôi chú ý đến con chuồn chuồn gỗ không bao giờ rơi trong tủ kính của hắn, lần trước tôi đến nhà hắn còn chưa có. Tôi tự hỏi sao hắn lại thích cái trò bịp trẻ con này, vì rõ ràng mấy cái trò này bọn tôi được học qua ở trường lâu rồi.
Một lọ hoa giấy chắc là ai đó gửi nhờ chứ hắn chẳng bao giờ bày vẽ mấy thứ lặt vặt thế này. Cũng chẳng ai tặng hắn vì hắn sống một mình trên này, và không thân thiết với ai đủ để họ tặng hắn một thứ hắn không thích như thế.
Một tờ lịch tường cũng là mới so với lần trước tôi đến nhà hắn, tất nhiên vì lần cuối cùng tôi vào tận trong nhà hắn là năm ngoái được treo lệch lạc. Trên lịch có những dấu đỏ cùng mấy hàng chữ mà tôi không nhìn rõ.
Tôi tiến lại tờ lịch nhìn kỹ mãi mới đọc được nét chữ vừa nhỏ vừa xấu do hắn viết. Dấu đỏ đầu tiên đập vào mắt tôi là ngày 19-3 cùng với dòng chữ :
“Huyết nhật 4”.
Tôi nhớ mang máng hình như đó là ngày mà người ta đăng báo mất tích người, một người trong khu... không, phải muộn hơn có lẽ vậy.
Nhưng một dấu đỏ tiếp theo đó là vào hôm nay 17-4 với một dòng chữ tương tự:
“Huyết nhật 5”.
“Huyết nhật 5” ? Là cái quái gì thế nhỉ ? Tôi giở sang các trang lịch sau, các tháng sau tháng 4 không có dấu đỏ.
Thuận đâu rồi nhỉ ? Hắn đang làm cái quái gì vậy ? Tôi xem đồng hồ. Hai giờ mười ba phút. Tôi có thói quen vặn đồng hồ sớm vài phút để đỡ bị muộn giờ, chính vì vậy mà tôi hay đi sớm trong các cuộc hẹn.
Để mình không quen với việc luôn trừ nhẩm đi mười phút khi xem đồng hồ, cứ vài ngày tôi lại chỉnh đồng hồ theo một mức khác, sớm năm phút, đúng giờ, chậm mười phút...
Mức sớm mười phút tôi đã để khá lâu, có lẽ tôi nên chỉnh lại. Tôi bấm nút chỉnh đồng hồ. Tối quá chẳng nhìn thấy gì. Căn nhà thằng bạn tôi thừa phòng nhưng thiếu ánh sáng. Một mình hắn một kẻ có thể đặt lưng nằm vạ vật bất cứ đâu, lại mua một căn nhà ba gian, một việc làm thừa thãi phí tiền.
Không nhìn được rõ số hiện trên đồng hồ, tôi đưa đồng hồ lên ngang mặt để hứng lấy chút ánh sáng ít ỏi từ cửa sổ phía sau. Tôi chưa bao giờ nghĩ chiếc đồng hồ của mình lại hữu ích đến thế.
Tôi vốn quen nhìn gương và thường ngày vẫn quan sát mọi vật xung quanh mình, chủ yếu bằng những vật có thể soi gương được, vì vậy tôi có thể một tay cầm chuột máy tính, tay kia với ra sau lấy vật này hay vật khác mà không cần quay đầu lại, đôi khi còn cả xem phim nữa.
Và lúc đó trong một giây chỉ một giây thôi, tôi đã nhìn thấy Thuận qua mặt đồng hồ của mình. Hắn đang cầm một con dao. Chưa bao giờ mắt tôi tốt như thế này, tôi nhìn thấy rõ ràng con dao bầu to trên tay Thuận hắn đang đi về phía tôi, nhẹ nhàng nhưng rất nhanh.
Và tôi đã kịp nhìn thấy hắn đâm dúi con dao về phía mình. Một phản xạ kịp thời đã giúp tôi né phát dao chí mạng đó. Tôi quay người lại nhìn thấy thằng bạn mình đang nhễ nhại mồ hôi mặt đỏ au lên, tay phải vẫn nắm chặt con dao vừa đâm tới, tay trái gồng lên ép chặt vào người như đang bế một em bé tưởng tượng.
Cánh tay gầy gộc đang nắm con dao thuận đà quét ngang về phía tôi. Trong một giây có thể hơn, tôi cảm thấy mạng sườn mình buốt khủng khiếp như đang bị lửa đốt. Nhưng rồi ngay sau đó người tôi ngập trong cảm giác nôn nao tê dại xóa hết mọi đau đớn.
Tôi biết huyết áp mình đang mất ổn định. Tôi bước nhanh về phía sau, vòng tay phải qua ôm bên mạng sườn trái vừa bị chém một nhát.
Thật sự tôi không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Thuận vẫn đang rất hăng, hắn vẫn ghì chặt con dao như muốn bóp nát cả chuôi dao, cổ hắn hằn lên gân xanh gân đỏ, mặt hắn như một quả cà chua nhưng đang tím dần lại, hơi thở hắn rít từng hồi qua kẽ răng.
Và cặp mắt hắn tôi sẽ bị ám ảnh suốt đời bởi cặp mắt này, mắt hắn toàn một màu đỏ quạch. Hắn như một con bò dại, gồng từng nhịp chân tiến về phía tôi, chém xả xuống chéo vai bên trái tôi.
Tôi bình tĩnh hơn hắn tôi hiểu rõ lúc này cần làm gì. Tôi bước một bước tiến thêm về phía hắn, đến khi ngực tôi sát vào với tấm ngực trần xương xẩu của hắn.
Hắn sẽ khó tấn công tôi bằng dao ở khoảng cách này. Không để hắn kịp rút tay cầm dao về, tôi dùng tay trái tóm lấy cánh tay hắn, cố gắng bám càng gần bàn tay hắn càng tốt, vì tôi nghĩ theo luật đòn bẩy thì nếu bám càng xa khuỷu tay, hắn sẽ càng khó cử động.
Còn tay phải nữa tôi co tay phải lại về sau vai, mặc cho tay trái của hắn thụi một nhát khá đau vào bụng phải tôi. Rút hết sức tay phải về để lấy đà, tôi giáng một quả đấm vào cổ họng hắn, bằng tất cả sức lực của tôi.
Mắt tôi đang hoa lên. Tôi không nhìn rõ mọi vật xung quanh. Huyết áp tôi vẫn chưa kịp trở lại bình thường. Tôi ôm lấy mạng sườn trái của mình, cố giữ cho chiếc khăn mặt khỏi rơi. Chiếc khăn mặt của hắn là thứ đầu tiên tôi tìm thấy có thể bịt vết thương. Cũng may tôi nghĩ phát chém cũng không sâu.
Tôi thả mình đánh phịch xuống ghế. Thuận vẫn nằm đó trên mặt đất cách tôi gần một mét. Hắn bị ngất. Cổ họng con người rất yếu, một thằng bạn học wushu tán thủ nói với tôi như vậy.
Nếu đánh vào cổ họng đối tượng dễ bị ngất xỉu, nếu đủ lực nữa thì có thể chết ngay. Tôi không đủ sức để đạt mức thứ hai. Tôi thầm mong khi hắn tỉnh dậy sẽ bình tĩnh hơn. Tuy nhiên tôi vẫn phải thủ con dao bầu của hắn bên mình. Lưỡi dao vẫn dính đầy máu của tôi.
Đau quá vết thương trên người tôi nhói buốt giật từng hồi. Mồ hôi của tôi cũng tứa ra khắp người, chảy vào vết thương làm tôi xót kinh khủng. Tôi cảm thấy khát khô cổ. Tôi vươn người sang bên trái lấy bình nước và chiếc cốc thủy tinh trong khay đặt trên bàn. Tôi rót một cốc.
Một lần nữa tôi đã phải tự hào vì thói quen nhìn gương của mình. Qua chiếc cốc thủy tinh tôi chỉ kịp thấy một cái bóng đang vụt đến từ sau lưng mình. Tôi vòng tay phải ra chộp lấy con dao bầu tôi vừa để trên bàn gạt bừa về phía sau.
Một tiếng rên khe khẽ thoát ra từ cổ họng tắc nghẹn của Thuận. Tôi bước vội lên phía trước để đề phòng, quay đầu lại nhìn. Nhát dao của tôi trúng ngay giữa ổ bụng Thuận. Hắn gập người lại co quắp, quằn quại như một tên nghiện đến hồi lên cơn.
Mặt hắn đổ úp lên mặt ghế băng tôi vừa ngồi, khuôn mặt co rúm lại một cách đáng sợ. Hai tay hắn ôm lấy vết thương đang tứa máu, vứt con dao găm mà hắn vừa rút từ đâu đó ra để tấn công tôi xuống dưới đất.
Chân hắn giẫy mạnh một lúc sau hắn đã im hẳn. Mắt tôi đã hoa lắm rồi tôi chộp vội cốc nước trên bàn nốc cạn, rồi cầm cả bình nước mà tu, vừa tu vừa tưới cho ướt mặt.
Cũng có hiệu quả nước làm cho huyết áp của tôi chóng trở lại hơn. Tôi nhìn, nhìn vào những gì mình vừa làm. Thuận đang nằm trên vũng máu, mặt hắn đã trôi khỏi mặt ghế băng từ lâu. Da hắn đã đổi sang màu tím và cứ tím dần, tím dần.
Hắn đã chết! Tôi không muốn tin Thuận đã chết. Chuyện gì đã xảy ra vậy? Tôi đã làm điều gì ? Đã gây ra chuyện gì ? Không !
Người tôi run bắn lên. Tôi đến gần cái xác rờ vào mũi, rồi đến tim Thuận chẳng để làm gì cả vì tôi vẫn biết hắn đã chết. Đã… đã chết.
Tôi hóa điên. Tôi ôm đầu mà chạy. Vết thương bên sườn vẫn đau buốt mà không có tấm khăn nhưng tôi mặc. Tôi cần làm một cái gì đó để nguôi cơn điên lúc này.
Nước, tôi cần nước. Cứ mỗi lần tôi gặp chuyện buồn bực hay stress, tôi đều tưới nước ướt đầm đìa lên mặt. Lúc này tôi cũng thấy mình cần nước. Tôi vồ lấy nắm đấm cửa phòng vệ sinh đẩy mạnh nhưng không được. Khóa rồi.
Tôi tức giận đạp mạnh vào cửa. Phải tìm chìa khóa. Tôi lại chạy xộc ra phòng khách lục trong người cái xác dưới đất. Một cái bao đựng dao găm giắt ở thắt lưng và chùm chìa khóa ở đỉa quần. Tôi giật lấy chùm chìa khóa rồi lại bổ vào cánh cửa nhà vệ sinh. Tôi mở cửa.
Không. Đây không phải là phòng vệ sinh. Một ánh sáng màu đỏ máu ngập khắp căn phòng, làm căn phòng có vẻ tối lù mù một cách đáng sợ. Nhưng cái đáng sợ của căn phòng không phải ở ánh sáng đó.
Tôi mở bước vào phòng. Sàn nhà dính nhơm nhớp dưới chân tôi. Căn phòng này quá rộng so với một phòng vệ sinh. Một vật gì đó rất lớn đập vào mắt tôi ngay từ đầu. Nó phải to gấp rưỡi cái chậu, trông có vẻ bẩn thỉu và kỳ dị. Một hình vừa giống cánh dơi vừa giống thập giá vừa giống hình bông tuyết. Nó có màu đỏ sẫm rất sẫm, xù xì gồ ghề như được quấn chùng bằng vải thô vậy.
Vật kỳ dị đó được đặt trên một bục cao ngang đầu tôi. Ngay trước nó là một giá gỗ như một bàn thờ, với một bát hương rất to, nhưng không có một cái chân hương nào hết.
Hai bên vật kỳ dị ban đầu, về phía gần tôi hơn là bốn cái cọc nhỏ dựng trên đất, đầu mỗi cọc có một vật hình bầu dục, cái thì dài cái lại ngắn hơn một chút, tất cả đều có màu xám đen.
Tôi đi lại gần hơn cái bàn thờ ấy. Đầu tiên tôi nhìn vào cái đỉnh hương to trước vật kỳ quái ban đầu. Đúng là cái đỉnh không dùng để thắp hương, tôi chỉ thấy trong đó toàn tro là tro.
Mắt tôi đưa lên hướng vào mấy vật bên cạnh. Những vật hình bầu dục màu xám đen gắn trên đầu những chiếc cọc dài. Suýt nữa thì tôi ngất đi khi nhận ra chúng… chúng là… những cái đầu người.
Những cái đầu người kích thước khác nhau. Những bộ tóc dài thì rũ rượi rủ xuống che kín mặt, còn tóc ngắn thì dính bết lại trên đầu. Khuôn mặt biến dạng đến mức không còn có thể nhận ra đó là khuôn mặt con người. Tôi suýt nôn. Tôi buộc phải quay mặt lại để tránh nhìn những cái đầu người đó, những cái đầu người với những con mắt không có lòng đen.
Và tôi bị một vật gì đó ở góc phòng gây chú ý. Một cái bàn nhỏ trên bàn có những tập giấy. Tôi đọc. Đó là một quyển sách đã cũ rời rạc từng trang. Giấy đã mục nát ghê lắm rồi. Tôi cố đọc trong ánh sáng đỏ tù mù.
Những nghi lễ cách thức cúng tế. Tất cả những gì cần thiết liên quan tới một vị thần. Vị thần của vận may cờ bạc. Với những vật hiến tế, những cái đầu người. Và ngay bên cạnh quyển sách đó là một cái rìu to. Lưỡi rìu đẫm đầy máu.
Một loạt suy nghĩ vụt nhanh qua đầu tôi. Tôi cảm thấy đầu mình nhức kinh khủng. Tôi cầm lấy chiếc rìu, nhấc thử. Tôi vẩy lên vẩy xuống vài lần cho quen tay rồi ra khỏi căn phòng đó.
- Chào các chú.
- Gì mà cười ghê thế lại được à ?
- Ăn chứ đương nhiên rồi. Một roét.
- Khao đê.
- Ok bao giờ ?
- Bốn ngày nữa mùng chín.
- Được sang nhà tao nhé. Nhà cũ của tao cơ không phải cái nhà lần trước mày đến đâu. Mà thôi hay để tao sang nhà mày đón mày. Về nhà tao trước tao có việc nhờ mày tí, rồi đi.
Thằng bạn cười khanh khách ngoéo tay với tôi. Tôi đã nói ngôi nhà ấy là nhà cũ của tôi, liệu có sao không nhỉ ? Chắc là không sao… Nó sẽ chẳng còn thời gian mà nói cho ai khác đâu…
Nguyễn Đại
#68
Gửi vào 17/06/2011 - 09:43
Mặc dù tôi yêu thích sự trang phục lịch sự, nhưng thông thường tôi không hề chú ý đến sự hoàn mỹ, dù lớn dù nhỏ của đường nét may cắt, từ các bộ đồ vest mà những người đồng loại với tôi mặc.
Thế mà một buổi chiều nọ, trong một buổi tiệc chiêu đãi tại một nhà xuất bản Milan, tôi gặp một người đàn ông tuổi độ bốn mươi, rực rỡ trong bộ đồ vest tuyệt đẹp với đường nét thẳng tắp thuần mỹ tuyệt đối.
Tôi không biết ông ta là ai, đây là lần đầu tôi gặp ông ấy và trong lúc được giới thiệu, tôi không nghe rõ kịp tên ông ta, một việc thường hay xảy ra vào những dịp như thế.
Nhưng vào một lúc nào đó trong buổi chiều, tôi đứng kề cạnh ông ta và chúng tôi bắt đầu trò chuyện. Ông ta lễ phép và khá lịch thiệp tuy lộ vẻ hơi buồn. Với một sự thân mật có lẽ thái quá, phải chi trời đừng sinh tôi ra như thế, tôi khen ngợi ông ta về cung cách ăn mặc lịch sự của ông ta và tôi còn cả gan hỏi tên hiệu người thợ may của ông ấy. Ông ta nở một nụ cười mỉm khó hiểu, tựa như ông đã chờ sẵn câu hỏi ấy.
- Hầu như chả một ai biết đến người thợ may này cả, ông ta nói, thế mà đó lại là một người thợ tài hoa. Nhưng ông ta chỉ làm việc tùy theo hứng thú. Chỉ làm cho một vài khách hàng thôi.
- Do đó tôi...?
- Ồ ! ông cứ thử ông cứ thử xem. Ông ta tên là Corticella, Alfonso Corticella, đường Ferrera số 17.
- Ông ta chắc hẳn lấy giá rất đắt, tôi đoán thế.
- Tôi nghĩ thế vâng, nhưng thật tình mà nói tôi chả biết sao cả. Bộ đồ này ông ta đã may cho tôi cách đây ba năm và ông ta chưa gửi cho tôi hoá đơn.
- Corticella ? đường Ferrara, số 17 ông nói thế ?
- Đúng thế.
Người đàn ông vô danh trả lời. Và ông ta bỏ mặc tôi đứng đấy để hoà nhập vào một nhóm người khác. Tại số 17 đường Ferrara tôi tìm thấy một ngôi nhà như bao ngôi nhà khác, và căn nhà của Alfonso Corticella cũng giống như những căn nhà của các thợ may khác.
Đích thân ông ấy mở cửa đón tôi. Đó là một cụ già người thấp bé với một mái tóc đen nhánh chắc hẳn là đã được nhuộm. Trước sự ngạc nhiên to lớn của tôi, ông cụ không làm ra vẻ khó dễ gì cả. Ngược lại ông biểu lộ ý muốn tôi trở thành khách hàng của ông.
Tôi giải thích với ông bằng cách nào mà tôi đã có được địa chỉ ông. Tôi khen ngợi ông cụ về đường nét cắt may của ông ấy và nhờ ông may cho tôi một bộ đồ lớn.
Chúng tôi chọn một loại vải len mượt màu xám và ông cụ đo lấy kích thước người tôi, rồi đề nghị sẽ mang bộ đồ đến tận nhà tôi để thử. Tôi hỏi ông giá tiền.
- Không có gì gấp cả.
Ông ấy trả lời tôi.
- Chúng ta sẽ thỏa thuận với nhau thôi.
Thật là một người đáng mến thoạt đầu tôi nghĩ vậy. Tuy nhiên một lát sau trên đường trở về nhà, tôi cảm nhận rằng ông cụ già thấp bé này đã tạo cho tôi môt cái cảm giác khó chịu, có lẽ vì những nụ cười thật quá mơn trớn và ngọt ngào của ông ta.
Nói thực ra tôi không có ý muốn gặp lại ông ta. Thế nhưng bộ đồ đã được đặt rồi. Và độ chừng hai mươi hôm sau nó đã được hoàn tất. Khi họ giao bộ đồ cho tôi, tôi mặc thử độ vài giây trước gương.
Đúng là một tuyệt tác. Nhưng không hiểu sao có thể chỉ vì cái ấn tượng khó chịu mà ông cụ già thấp bé đã để lại trong tôi, tôi không muốn mặc nó và nhiều tuần trôi qua, trước khi tôi có quyết định.
Ngày hôm đó tôi sẽ vĩnh viễn nhớ mãi. Đó là vào một ngày thứ ba của tháng tư và trời đổ mưa. Sau khi tôi đã mặc vào người bộ com lê (complet) chiếc quần dài, áo gi lê (gilet) và áo vest tôi nhận thấy một cách thú vị rằng bộ đồ không gò bó, và làm tôi vướng víu ở những khúc khuỷu trên người, như những bộ quần áo mới toanh. Thế mà nó lại thật vừa vặn ôm lấy thân hình tôi.
Theo thói quen tôi không để gì cả trong chiếc túi bên phải của áo vest, các giấy tờ tùy thân tôi cho vào chiếc túi bên trái. Vì thế cho nên hai tiếng đồng hồ sau ở hãng, khi tình cờ thọc tay vào túi áo bên phải, tôi chợt nhận thấy có một mảnh giấy trong túi. Có lẽ là tờ hóa đơn của người thợ may chăng ? Không, đấy là tờ giấy bạc mười nghìn lia. (lire: đồng tiền Ý)
Tôi bàng hoàng sửng sốt. Dĩ nhiên là đã không do chính tôi cất vào túi rồi. Với lại thật là điên rồ nếu cho rằng đây là một lối đùa giỡn của ông thợ may Corticella. Lại càng không thể là một món quà của bà giúp việc nhà cho tôi, người duy nhất đã có dịp đến gần bộ đồ sau ông thợ may.
Hay đây là tờ giấy bạc của bà Thánh Mẫu Trò Đùa ? Tôi nhìn tờ giấy bạc xuyên qua ánh sáng, tôi so sánh nó với những tờ giấy bạc khác. Không thể nào có tờ giấy bạc nào thật hơn được nữa.
Lời giải thích duy nhất, một sự đãng trí của Corticella. Có thể là một khách hàng đã trả trước cho ông một khoản tiền, và vào lúc đó ông ta không có ví tiền sẳn đấy, và không muốn vứt tiền bừa bãi, ông ta đã giúi nó vào chiếc áo vest của tôi đang treo trên móc áo. Đấy là những chuyện có thể xảy ra.
Tôi ấn sát nút chiếc chuông để gọi cô thư ký. Tôi sẽ viết vài dòng cho Corticella và hoàn món tiền này lại cho ông ta, vì đó không phải là tiền của tôi. Nhưng ngay lúc ấy và tôi không thể giải thích được vì sao, tôi lại cho tay vào túi một lần nữa.
- Thưa ông cái gì thế cơ ạ, ông không được khoẻ à ?
Cô thư ký buông lời hỏi tôi lúc cô bước vào. Có lẽ mặt tôi xanh như xác chết. Trong túi áo các ngón tay tôi chạm phải bìa của một mảnh giấy mà trước đó không có nó.
- Không.. không.. không sao cả.
Tôi nói :
- Tôi hơi bị chóng mặt dạo này tôi thỉnh thoảng hay bị như thế, chắc vì bị mệt tí xíu cô có thể đi ra được rồi, tôi phải đọc một lá thư cho cô viết, nhưng chúng ta sẽ làm chốc nữa.
Chỉ sau khi cô thư ký đã ra khỏi phòng tôi mới rút tờ giấy ra khỏi túi. Đó là một tờ giấy bạc mười nghìn lia khác. Thế là tôi thử thêm một lần thứ ba. Và một tờ giấy bạc thứ ba chui ra.
Tim tôi bắt đầu đánh trống loạn. Tôi có cảm giác như bị lôi cuốn bởi những lý do huyền bí nào đó, vào trong vũ điệu nhảy múa vòng quanh của một chuyện thần tiên, giống như những chuyện thần tiên mà người lớn kể cho con trẻ nghe, và không một ai tin là có thật.
Viện cớ là không được khoẻ tôi rời hãng và về nhà. Tôi cần yên tĩnh một mình. May thay bà giúp việc cho tôi đã xong công việc và đã ra về. Tôi đóng các cửa lại, hạ các tấm sáo xuống và bắt đầu lôi một cách thật nhanh mà sức tôi có thể làm được, những tờ giấy bạc từ tờ này đến tờ khác, từ chiếc túi dường như không cạn.
Tôi làm việc với một sự căng thẳng co giựt của các giây thần kinh, trong nỗi lo sợ điều huyền diệu kia sẽ ngưng lại trong phút chốc. Tôi có ý định tiếp tục suốt cả buổi chiều, suốt cả đêm để tích tụ hằng tỉ bạc. Tuy nhiên đến một lúc nào đó tôi không còn đủ sức nữa.
Trước mặt tôi là một đống giấy bạc đồ sộ. Việc hệ trọng nhất hiện thời là giấu số giấy bạc này, để không một ai biết đến. Tôi dốc một chiếc rương chứa đầy thảm, và dưới đáy rương tôi chất vào từng xấp giấy bạc mà tôi đếm lần lượt. Tổng số tiền vượt qua khá xa con số năm mươi triệu.
Khi tôi tỉnh giấc vào sáng hôm sau, bà giúp việc đã có mặt tại đấy, vẻ mặt sửng sốt khi trông thấy tôi nằm trên giường trong bộ y phục đi làm. Tôi cố gượng cười giải thích với bà ấy rằng chiều hôm qua tôi lỡ uống rượu quá chén, và đã ngã lăn ra ngủ lúc nào không biết.
Thêm một điểm lo ngại khác nữa lại đến: bà ấy tỏ ý muốn giúp tôi cởi áo vest ra để cho bà ta chải sơ lại mặt vải. Tôi trả lời rằng tôi phải đi ra ngoài ngay và không có thời giờ để thay y phục.
Và liền sau đó tôi vội vã đi đến một cửa hiệu chuyên bán y trang, để chọn mua một bộ đồ giống như đúc bộ tôi đang mặc, tôi sẽ đưa bộ mới cho bà giúp việc bộ đồ này, còn cái bộ mà trong vòng chỉ có vài ngày đã biến tôi trở thành một trong những người có quyền lực nhất trên đời, tôi sẽ giấu nó vào một chỗ kín.
Tôi không hiểu có phải tôi đang mơ chăng, tôi có sung sướng không hay là ngược lại tôi đang ngộp thở dưới sức nặng của một định mệnh quá lớn. Trên đường đi qua lớp áo choàng khoác bên ngoài, tôi sờ nắn không ngừng chiếc túi kỳ diệu. Cứ mỗi lần như thế tôi lại thở ra nhẹ nhõm. Dưới lớp vải tiếng sột soạt của tờ giấy bạc làm tôi vững lòng.
Thế nhưng một việc trùng hợp lạ lùng làm nguội lạnh nỗi vui cuồng điên của tôi. Trên các tờ nhật báo chạy những hàng tít lớn: Sự thông tin về một vụ trộm xảy ra chiều qua, chiếm gần như trọn vẹn cả trang đầu. Một chiếc xe thùng bọc sắt của một ngân hàng, sau khi đã lượn qua các chi nhánh của ngân hàng, sắp chở về trụ sở chính những số tiền thu được trong ngày, đã bị chận lại và bị vơ vét sạch bởi bốn tên cướp tại đường Palmanova.
Khi mọi người đổ xô đến, một tên trong bọn cướp để tháo thân đã nổ súng. Một người đi đường đã thiệt mạng. Nhưng thực sự chính là con số tiền bị cướp làm tôi chú ý: Đúng năm mươi triệu (như số tiền của tôi).
Có thể nào có một mối liên quan giữa sự giàu có thình lình của tôi, với việc đánh cướp này đã xảy ra gần như cùng lúc chăng ? Suy diễn như thế trông có vẻ buồn cười. Và tôi lại không mê tín dị đoan. Dù sao sự kiện này cũng làm cho tôi rất hoang mang.
Càng có nhiều ta càng ước muốn nhiều. Tôi đã giàu rồi, so với những thói quen sống giản dị của tôi. Nhưng cái ảo tượng của một cuộc sống xa hoa phóng túng kích thích tôi. Và ngay buổi chiều hôm đó tôi bắt đầu làm lại việc ấy.
Bây giờ tôi thực hành một cách bình tĩnh hơn và các giây thần kinh ít căng thẳng hơn. Một trăm ba mươi lăm triệu khác thêm vào cái kho tàng hôm trước.
Đêm hôm đó tôi không tài nào nhắm mắt được. Có phải chăng là sự linh cảm về một mối nguy ? Hay là lương tâm cắn rứt của một người, mặc dù không xứng đáng đã có được một tài sản phi thường ? Hay là một thứ hối hận mơ hồ ?
Trời vừa hừng sáng tôi rời khỏi giường, thay quần áo và chạy ra đường tìm mua báo. Trong khi đọc tôi kinh hoàng đến nghẹn thở. Một cơn hỏa hoạn khủng khiếp, gây ra bởi một kho tồn dầu hỏa bị bốc cháy, đã hoàn toàn thiêu hủy một căn phố lầu trên con đường San Cloro, ngay giữa trung tâm thành phố.
Thêm vào đấy các tủ sắt của một đại văn phòng địa ốc, chứa đựng hơn một trăm ba mươi triệu tiền mặt đã bị thiêu hủy. Hai đội viên cứu hỏa đã bị thiệt mạng trong lúc chữa cháy.
Bây giờ tôi có cần phải liệt kê những tội ác của tôi không ? Vâng bởi vì từ đây tôi đã hiểu rằng đồng tiền mà cái áo vest mang lại cho tôi đến từ tội lỗi, từ xương máu, từ tuyệt vọng, từ cái chết, nó đến từ địa ngục.
Thế mà bằng một cách lừa lọc xảo trá, cái lẽ phải của tôi từ chối một cách giễu cợt nhận lấy một phần trách nhiệm nào đó. Và thế là sự cám dỗ trở lại, và thế là bàn tay tôi thật quá ư dễ dàng trườn vào chiếc túi áo và những ngón tay tôi, với một cơn khoái lạc đột nhiên, ghì siết bìa góc của một tờ giấy bạc luôn luôn mới tinh. Tiền, ôi đồng tiền thần thánh !
Không dọn khỏi căn nhà cũ của tôi để tránh sự chú ý tò mò, tôi đã mua cho mình một ngôi biệt thư lớn, tôi có một bộ sưu tập tranh họa quý giá, tôi lái những loại xe đắc tiền và, sau khi nghỉ hãng vì "lý do sức khoẻ", tôi đi du lịch và đi khắp hoàn cầu với những người đàn bà đẹp tuyệt trần. Tôi thừa hiểu rằng mỗi lần tôi moi tiền từ chiếc áo vest của tôi, thì sẽ xảy ra trên đời một cái gì đó đê tiện và đau thương.
Tuy nhiên đó là một sự phù hợp mông lung, không được dựa trên những chứng minh hợp lý. Trong khi chờ đợi, cứ mỗi lần tôi thu thập tiền, lương tri của tôi băng hoại, càng lúc càng thêm hèn hạ.
Thế còn người thợ may kia ? Tôi điện cho ông ta để hỏi hóa đơn nhưng không một ai trả lời. Qua con đường Ferrara người ta cho tôi biết ông ta đã di cư, ông ta đang sống ở nước ngoài, chẳng biết nơi đâu. Tất cả mọi âm mưu cho tôi thấy rằng tôi đã vô tình ký kết với ác quỷ.
Mọi sự kéo dài cho đến cái ngày mà trong căn phố lầu tôi cư ngụ từ nhiều năm dài qua, người ta khám phá vào một buổi sáng, một người đàn bà về hưu sáu mươi tuổi chết ngạt vì hơi đốt, bà ta đã tự sát vì bị mất ba mươi nghìn lia tiền hưu mà bà vừa mới lĩnh chiều hôm trước (và số tiền này đã nằm trong tay tôi).
Đủ rồi, đủ rồi ! để khỏi chìm sâu vào vực thẳm, tôi phải vứt bỏ chiếc áo vest của tôi. Nhưng không phải là nhường nó lại cho ai khác, bởi lẽ sự đê hèn kia sẽ vẫn còn tiếp tục, ai mà có đủ nghị lực để cưỡng lại một sức quyến rũ như thế ? Việc hủy diệt chiếc áo trở nên cần thiết.
Tôi lái xe đến một thung lũng hoang vắng trong vùng miền núi Alpes. Tôi để xe tại một nền đất đắp cao phủ cỏ và tôi tiến thẳng vào rừng. Không một bóng người lai vãng. Sau khi qua khỏi thị trấn tại đấy tôi lên đến vùng băng tích đầy sỏi đá. Nơi đây giữa hai tảng đá khổng lồ, tôi lôi từ chiếc sắc đeo trên lưng cái áo vest bỉ ổi ấy và châm lửa vào. Trong vòng vài phút chỉ còn trơ lại đống tro tàn.
Nhưng dưới ánh sáng của ngọn lửa tàn, sau lưng tôi cách chừng hai hoặc ba thước có lẽ vậy, một giọng người vang lên :
- Đã trễ rồi đã trễ rồi.
Kinh hoàng tôi xoay người lại trong một động tác đột ngột như thể bị rắn cắn. Nhưng chẳng thấy ai cả. Tôi lùng kiếm chung quanh, nhảy từ khối đá này đến khối đá khác, để lôi bật ra tên khốn kiếp đã giỡn mặt tôi. Không một ai cả. Chỉ toàn là những khối đá.
Mặc dù còn cảm thấy kinh hoàng tôi đi trở xuống thung lũng với một cảm giác nhẹ nhõm. Thế là đựợc tự do. Và may mắn thay lại giàu nữa. Nhưng trên nền đất cao phủ cỏ chiếc xe tôi không còn đó nữa.
Và khi tôi trở về thành phố ngôi biệt thự đồ sộ của tôi đã biến mất, thay vào chỗ đó một cánh đồng cỏ bỏ hoang với tấm biển nhỏ "Đất công xã cần bán".
Và những trương mục trong ngân hàng của tôi, tôi không biết giải thích ra sao hoàn toàn cạn sạch. Mất hết từ nhiều tủ sắt của tôi những bó chứng khoán dày cộm. Và bụi bặm chỉ toàn là bụi bặm trong chiếc rương cũ.
Thế rồi từ đó tôi đi làm việc trở lại một cách cực nhọc, đời sống tôi thật khó khăn và thật lạ lùng, chẳng ai tỏ vẻ kinh ngạc về sự sạt nghiệp đột ngột của tôi.
Và tôi thừa hiểu rằng mọi chuyện chưa hẳn là đã chấm dứt. Tôi biết rằng một ngày kia chuông cửa sẽ vang lên, tôi sẽ ra mở cửa và tôi sẽ thấy trước mặt tên thợ may tai hại kia, với nụ cười đê tiện của lão, đến đòi thanh toán món nợ cuối cùng.
Dino Buzzati
Dịch Giả Đức Lâm
#69
Gửi vào 17/06/2011 - 09:54
Chúng ta đã được nghe nhiều chuyện ma quá giang xe người, sau đó biến mất khi xe đi tới nghĩa địa, hoặc nhà của ma khi còn là người, hay nơi xảy ra tai nạn chết người vào ngày oan trái ấy, một năm một lần.
Truyện tự thuật của tài tử Telly Savalas khác những truyện trên ở nhiều điểm sau đây: Lần đầu tiên người quá giang xe ma. Người ở đây là một nhân vật nổi tiếng thế giới, còn sống gần chúng ta có thể kiểm chứng được.
Truyện kể không nhằm tạo gây cấn, đăng trong báo lá cải mà đăng trong một tạp chí chuyên về siêu hình đứng đắn, kể truyện này ra chỉ thiệt thòi cho uy tín người kể chứ không lợi lộc gì.
Hồn ma ở đây là một linh hồn tốt sáng suốt: cho Telly Savalas tiền, ghi lại tên tuổi địa chỉ của mình cho người khi được yêu cầu.
Điều quan trọng nhất là qua truyện này và những truyện trong mục này, trong những số kế tiếp, chúng ta sẽ thấy trong cõi dương mà chúng ta tưởng chỉ dành cho người sống, còn sống lẫn lộn nhiều người của cõi âm, của quá khứ và của những hành tinh khác.
Nếu Telly Savalas không điện thoại lại địa chỉ mà hồn ma cho, chúng ta còn lâu mới biết những truyện này.
Gần đây cõi siêu hình, siêu giác, liên hành tinh bắt đầu tự thị hiện cho những nhận chứng đồng thời là những agent quảng cáo rất đắc dụng:
Tài tử Glenn Ford, Thống tướng George Patton, cựu Thống đốc kiêm cựu Tổng Thống Jimmy Carter, tài tử Shirley McLaine, Sylvester Stallone và bây giờ Telly Savalas. C.P
Lúc ấy là một giờ sáng khi tôi đang lái xe từ New Jersey về nhà ở Garden City, Long Island thì xe hết xăng. Tôi ở trong một tình trạng nguy nan. Không những tôi cạn xăng mà tôi còn cạn cả tiền. Tôi không có lấy một xu trong túi.
Tôi khóa cửa xe và bắt đầu đi bộ dọc theo một con lộ qua một vùng đầy rừng cây, với hy vọng tìm thấy một trạm xăng mở cửa suốt đêm, thì một tiếng nói êm ái vẳng ra từ bóng tối khiến tôi giựt cả mình.
- Tìm xe quá giang à ? Tiếng nói lên tiếng.
Tôi quay đầu lại và nhìn thấy một cái Cadillac màu đen, mà một cách nào đó tôi đã không nhìn thấy lúc trước, và thấy một người đàn ông vận bộ đồ lớn màu trắng ngồi sau tay lái.
- Cám ơn rất nhiều.
Tôi nói với ông ta:
- Chắc chắn là tôi cần rồi.
Và tôi trèo lên băng ghế trên bên cạnh tài xế, mà mặt mũi tôi nhìn không được rõ lắm. Ông ta không hỏi tôi là tôi muốn đi đâu, tuy nhiên chỉ vài phút sau ông ta lái xe vào một cây xăng, và vừa làm vậy ông ta vừa bảo tôi:
- Tôi có thể cho anh vay một đô la.
Lúc đó tôi không thấy lạ lùng là làm sao ông ta lại biết tôi cần tiền mà không cần hỏi tôi. Chỉ sau này tôi mới cảm thấy lạ lùng mà thôi.
Tôi cầm tờ giấy một đô la ông ta trao cho tôi và nói:
- Tôi muốn cám ơn ông thưa ông. Tôi cũng muốn gửi trả lại ông. Ông có thể viết cho tôi tên và địa chỉ của ông không ? Tôi sẽ xin hoàn lại ông.
Ông ta làm như tôi yêu cầu và tôi cất mảnh giấy vào túi áo ngực chiếc áo sơ mi của tôi. Người đàn ông trong xe Cadillac chờ, trong khi người bán xăng bơm một đô la xăng vào can, và khi việc mua bán xong ông ta ngỏ ý muốn lái tôi trở về chỗ xe của tôi.
Cả hai chúng tôi đều không ai nói gì cả trên đường lái xe trở về, thì bỗng nhiên ân nhân của tôi lên tiếng:
- Tôi biết Harry Agannis.
- Tôi không biết Harry Agannis.
Tôi bảo ông ta:
- Ông ấy là ai ? Ông ấy làm gì ?
- Anh ta là đội Boston Red Sox.
Ông ta trả lời.
Khi chúng tôi trở lại chỗ xe của tôi, tôi đổ xăng vào bình và khi xe không nổ máy, người đàn ông trong xe Cadillac de xe về phía sau xe tôi và đẩy giúp tôi.
Máy xe tôi bắt trớn và khi tôi quay ra cám ơn người tài xế kia, thì ông ta chỉ giơ tay lên chạm vành mũ của ông và lái biến đi.
Tôi cho chuyện này là một kinh nghiệm khác thường và chỉ có thế, nhưng khi nhật báo New York buổi trưa hôm sau, loan báo cái chết đột ngột của cầu thủ hai mươi bốn tuổi của đội Boston Red Sox tên Harry Agannis thì tôi giựt thót người.
Trong khi đọc tiếp, tôi được biết rằng Agannis đã chết vào cùng thời gian mà người tài xế của chiếc Cadillac đã bảo tôi:
- Tôi biết Harry Agannis.
Tôi tới giỏ đựng quần áo giặt và lấy ra cái áo sơ mi tôi đã mặc đêm hôm trước, và mò vào túi lấy ra mẫu giấy có ghi tên và địa chỉ của người đàn ông kia.
Tôi tò mò ngạc nhiên. Tất cả các chuyện này là cái gì đây ? Ông ta là ai và ông ta có liên quan gì với Agannis ? Tôi quả quyết là phải tìm ra vài câu giải đáp.
Địa chỉ ở trên tại Massachussetts. Tôi quay điện thoại xin tin tức và có số điện thoại, tôi quay số. Khi có tiếng một người đàn bà trả lời tôi hỏi liền:
- Xin phép cho tôi được nói chuyện với Bill được không ạ ?
Và tôi cho bà ta cái tên đầy đủ, cái tên được viết trên mẫu giấy. Điện thoại bỗng ngừng bặt một lát kế đó người đàn bà hỏi:
- Xin ông vui lòng cho biết ai đang gọi đấy ạ ?
- Chả là thế này, tôi nói:
- Tôi mới gặp Bill đêm qua ông ấy rất tốt và tôi chỉ muốn..
- Đêm qua... Ông nói ông gặp anh ấy đêm qua ?
Và tới đó bà ta bật khóc nức nở cố gắng lắm mới nói được rằng, Bill người mà bà ta đã lấy, đã qua đời từ ba năm qua. Tôi lặng ngắt không thốt lên lời trước tầm quan trọng của những lời nói của bà ta. Tôi không tin nổi điều mình vừa nghe. Thế rồi bà ta nổi giận và đùng đùng lớn tiếng nói rằng:
- Tôi không biết ông đang định moi móc cái gì đây, nhưng dù ông có muốn giở bất cứ cái trò gì, tôi cũng không thích.
- Thưa bà tôi xin đảm bảo với bà, đây không phải là trò đùa.
Kế đó tôi kể cho bà nghe tôi bỗng hết xăng ra sao, và Bill đã đến cứu tôi thế nào. Rồi đến lượt bà ta kể cho tôi nghe rằng, ông chồng quá cố của bà trước kia quả có làm chủ một chiếc Cadillac màu đen thật, và khi người ta khâm liệm ông ấy để ông ấy an nghỉ giấc ngàn thu, thì ông ấy được mặc bộ đồ lớn màu trắng mà tôi đã thấy ông ấy mang trên người. Tôi thất kinh hồn vía.
Bà quả phụ của Bill tới New York gặp gỡ tôi, năn nỉ tôi tỉ mỉ đi vào tất cả những chi tiết của diễn biến đêm đó, và khiến bà chẳng còn chút hồ nghi nào trong tâm trí rằng, bằng một cách kỳ lạ nào đó tôi đã gặp người chồng quá cố của bà.
Kinh nghiệm này quả có hơi cơ cực đối với bà, tại sao ? Có lẽ người chồng quá cố không giao cảm với bà mà đi chọn một người lạ mặt.
Và đó là lý do tại sao tôi không bao giờ nói cho bà ta hay rằng, chữ viết trong bức thư cuối cùng mà Bill viết cho vợ, hoàn toàn giống khi so đọ với chữ viết trên mảnh giấy, mà ông ta đã viết tên và địa chỉ của ông ta cho tôi.
Tôi đã nghe và cũng đã đọc về những chuyện như thế này, nhưng tôi không bao giờ lại tin những chuyện bá láp như thế. Giờ thì hiển nhiên là tôi tin như bắp.
ST
#70
Gửi vào 17/06/2011 - 21:56
Chuyện Ma này viết theo kiểu phóng sự. Chánh quyền Hồng Kông vào những năm 1980 đến 1994 đã phát giác được nhiều trường hợp kinh hoàng về quỷ ám. Một sự kiện có thật xảy ra vào tháng 10 năm 1993, khi một tòa soạn một tạp chí chuyên khảo về hiện tượng siêu linh huyền bí ma quỷ...nhận được điện thoại cầu cứu. Người gọi điện thoại tự xưng là Lý Triệu Quy. Qua đường dây điện thoại Quy nói với nhân viên tòa soạn như sau:
- Xin quý vị hãy giúp chúng tôi. Chúng tôi có một người bạn gái bị ma quỷ nhập, tinh thần rối loạn. cô ta tên là Đàm Lệ Sa cô đã bị một câu trù làm hại.
Người nghe máy là một ký giả tại tòa soạn. Trong khi nghe tiếng kêu cầu cứu của người thanh niên, ký giả còn nghe được tiếng la thét khủng khiếp của một người con gái ở bên kia đầu dây. Người ký giả cảm thấy một luồng ớn lạnh chạy dọc xương sống. Từ lâu ở Hồng Kông đã nghe nói tới hiện tượng kinh dị này nhưng chưa có ai thực sự chứng kiến tận mắt hiện tượng quỷ ám. Có thể đây là một dịp may hiếm có giúp tờ báo chuyên về vấn đề siêu linh huyền bí có được những chứng cớ và hình ảnh thực sự đề điều mà từ lâu dân Hồng Kông nửa tin nửa ngờ. Ở đầu dây bên kia có tiếng người thanh niên đầy vẻ khẩn trương van nài:
- Yêu cầu quý báo giúp cho. Chúng tôi nghĩ rằng tòa soạn biết được người có khả năng giúp cho cô Lệ Sa thoát khỏi tình trạng nguy khốn như hiện nay. Chỉ còn hai ngày nữa thôi nếu không kịp đuổi tà ra khỏi người thì cô sẽ chết một cách thảm thương.
Người ký giả hỏi:
- Cô Sa đã bị tình trạng này bao lâu rồi anh có biết không?
- Cô ấy bị như vậy trong bảy ngày, bảy đêm rồi và không ăn uống gì cả.
- Xin anh cho biết cô Sa có những cử chỉ hành động ra sao trong suốt thời gian qua?
- Mặc dù không ăn uống nhưng cô lại có sức mạnh khác thường. Cô vùng vẫy la hét muốn đập phá mọi thứ. Phải sáu, bảy người khỏe mạnh mới có thể giữ được cô nằm yên được trên giường.
Sau đó người ký giả này đã trình bày mọi sự cho mọi người tại tòa soạn. Viên chủ nhiệm đã đề nghị người ký giả và viên tổng thư ký già hãy lái xe đến gấp địa điểm cô gái đang bị quỷ ám. Khi vừa bước xuống xe họ đã nghe tiếng la hét đập phá, phát ra từ căn nhà lụp xụp có khu vườn rộng đầy cây cối. Người thanh niên tên Quy bước ra cửa mời họ vào trong. Khi cánh cửa buồng mở ra mọi người thấy một cô gái đầu tóc bù rối ngồi trên giường. Cô gái trợn trừng đôi mắt nhìn lên và thét to:
- Đi ra..hãy đi ra khỏi đây ngay..
Mắt cô gái đỏ rực như có tia lửa. Cô cố vùng vẫy nhưng tay chân đều bị trói chặt trên giường. Người ký giả nhìn cô gái với tâm trạng lo âu sợ sệt nhưng viên tổng thư ký tòa soạn thì có vẻ bình tĩnh. Ông quan sát mặt mày, cử chỉ cô gái rồi chậm rãi nói:
- Trường hợp này giống như trường hợp xảy ra ở quê tôi vào năm 1960. Lúc đó có một cô gái bị quỷ ám cổ cũng có sức mạnh ghê gớm, tuy bị dây thừng cột chặt nhưng vì giường tre ọp ẹp, yếu ớt nên đã gãy tan trước sức mạnh của cô gái đó.
Một người bạn của Lý Triệu Quy nghe vậy liền nói:
- Cô Lệ Sa cũng có sức mạnh lạ thường. Một điều mà trước đó khi cô chưa bị chứng lạ thì cô rất yếu ớt, hay đau yếu khiến bạn bè cô thường gọi cô là người trói gà không chặt hay là cây liễu yếu xìu.
Lý Triệu Quy kể:
- Cô Sa thường vùng lên để giật cái cà vạt treo trên tủ quyết tâm thắt cổ mình cho đến chết khiến người nhà phải dấu cái cà vạt cũng như những thứ có thể gây chết người hay thương tích.
Viên Tổng Thư Ký tòa soạn hỏi:
- Từ ngày cô gái bị bịnh quái lạ ấy đến nay đã có ai đến cứu giúp cho cô thoát khỏi điều người ta nghi là bị quỷ ám chưa?
Lý Triệu Quy nói:
- Chúng tôi có đi kiếm một số Đạo sĩ, rồi hội của những vị luyện theo phép Mật tông cầu xin họ giúp đỡ, tìm cách trục xuất quỷ ra khỏi thân xác cô Lệ Sa nhưng sau khi đến quan sát tại chỗ, họ đã lắc đầu bảo là năng lực của ma quỷ quá mạnh rất khó trị.
Nghe đến đây thì hai nhân viên toà soạn tỏ ra thất vọng. Lý triệu Quy tỏ dấu van nài:
- Chúng tôi xin quý vị giúp đỡ cho. Với phương tiện báo chí trong tay, quý vị có thể kêu gọi sự nhiệt tâm ra tay cứu giúp cô gái đang trong tình trạng quỷ nhập vô cùng nguy ngập, chỉ không hơn hai ngày nữa là không còn cách gì cứu chữa.
Trước khi ra về nhân viên toà soạn đã phỏng vấn chớp nhoáng người thân của cô gái và chụp hình. Theo tin tức nhận được từ lời kể lại của những người thân túc trực bên giường cô thì trước khi xảy ra sự kiện bị quỷ ám, cô gái này có quen một người tên là Hoàng Khải Quang. Anh này có cách sống khác thường nhưng lại là điều làm quyến rũ cô gái. Anh ta có xâm trên mình hình ảnh một con chim lạ. Sau một thời gian quen biết nhau đi chơi chung với nhau, Lệ Sa biết được người bạn trai này nằm trong một nhóm ma thuật.
Càng ngày cô gái càng bị quyến dụ gia nhập vào hội và cuối cùng sự tò mò đã hối thúc và dẫn dắt Lệ Sa đi sâu vào con đường tối tăm của ma quỷ mà cô không hay. Lệ Sa quyết định đi theo Quang để tới một địa điểm bí mật làm nghi thức nhập môn. Trước khi bị mê sảng Lệ Sa thường kể cho những người bạn thân nghe hôm cô gia nhập hội Ma Quỷ như sau:
- Đó là một căn hầm mỗi bề rộng khoảng năm thước. Trần hầm thấp không có mùi mốc ẩm vì luôn luôn ngập hương khói và đèn cầy cháy đỏ. Quang dẫn tôi đến trước bàn thờ có để đủ thứ đồ cúng rất lạ lùng dễ sợ. Nào là đầu lâu người và chó, những bình nước, chén nước đen ngòm bốc mùi hôi thối đến lợm giọng. Những thứ đó hòa lẫn với mùi hương trầm, mùi đèn cầy, mùi trong căn hầm làm cho thần kinh tôi như thác loạn.
Tôi cảm thấy trong người chao đảo quay cuồng. Trong khi đó anh Quang cởi áo phơi ra hình xâm con chim lạ trước ánh đèn và lửa. Anh lấy cái bình chứa nước đen ghê rợn đổ vào lòng bàn tay xoa khắp người rồi quỳ trước bàn thờ nhắm nghiền mắt lại rồi như tỉnh lặng trong cái thế giới u ám lạ lùng ma quái đó. Khoảng tám người khác cũng đang đắm chìm tư tưởng trong cõi giới vô hình nào đó. Một người chạy đến hỏi han tôi. Tôi nghe tiếng nói thật xa xăm như đang mơ ngủ:
- Mừng cô gia nhập Hội Siêu Linh.
Một người khác chạy lại nắm tay tôi:
- Để tôi giúp cô em ra mắt thần linh. Và sau đó tôi được khích lệ uống một loại nước gì đó tôi không rõ và tôi lịm đi từ đó. Khi tỉnh dậy tôi thấy mình khỏe hẳn ra và nhiều người đứng bao quanh mỉm cười với tôi khi thấy tôi mở mắt .
Từ đó trở đi việc học hành của Lệ Sa không còn đều đặn và thuận lợi nữa. Cô không thích học chỉ thích mau mau được dịp đến với Hội Siêu Linh ma quỷ. Người bạn trai có xâm mình tên Quang thường đến gọi cửa cô vào lúc nửa đêm để ra ngoài dạo chơi hoặc đi dạo dưới ánh trăng. Đôi khi họ đến những bãi tha ma, những cồn mồ hoang ở ngoại ô để đi dạo trong những giờ khắc mà ma quỷ thường xuất hiện. Họ mong gặp ma quỷ để giao lưu, tiếp xúc chuyện trò...
Chỉ mấy tháng sau bạn bè thấy Lệ Sa đổi khác từ tính tình cho đến vóc dáng sắc mặt. Cô không còn vui đùa dễ thương hiền hậu như trước. Nét mặt thường ủ rũ có khi đăm chiêu, có khi hung dữ. Sắc mặt trắng xanh hay bạc thếch còn thân hình thì ốm hơn trước rất nhiều, có lẽ cô sống phần lớn về đêm và ăn uống lại ít. Theo bạn bè thuật lại thì Lệ Sa đã vì theo những người trong Hội Ma Quỷ dẫn dụ rồi bị ảo giác, bị phù thủy ma thuật đen hãm hại nên trở thành nạn nhân của quỷ.
Hôm Lệ Sa nổi cơn điên là ngày 8 tháng 10. Lệ Sa tới phòng học mặt mày xanh lét tự nhiên lấy đồ đạc trên bàn liệng tứ tung, đôi mắt cô long lên sòng sọc cô đưa tay chỉ vào các bạn rồi thét to:
- Chúng mày phải chết...chúng mày phải chết.
Rồi sau đó cô lại có ý muốn nhảy từ lầu ba xuống đất, may mắn có nhiều người bạn biết ý đã giữ cô lại. Khi về nhà cơn mê sảng càng lên cao. Bạn bè phải phụ lực nhau cột chặt cô gái vào giường mới mong cô khỏi phá phách. Lệ Sa là một cô gái mồ côi trọ học cô không có cha mẹ, chỉ được người chị nuôi và bà chị này cũng ở rất xa. Từ từ cứ mỗi lần hoàng hôn, khi nắng chiều đỏ ối nhuộm đầy cây cỏ núi đồi thì Lệ Sa lại chạy ra sân vườn vẽ một vòng tròn trên đất và vào ngồi ngay giữa vòng ấy, hai tay khoanh lại mồm nói toàn những tiếng lạ kỳ quái dị. Các bô lão thấy vậy đã sợ sệt bảo rằng đó là tiếng nói của quỷ.
Có lần Lệ Sa vào ngồi trong vòng tròn vừa vẽ xong và nói:
- Ta phải dùng vòng tròn này để giam hãm ma quỷ vào đây (?)
Vừa nói Lệ Sa vừa lấy tay bắt sâu kiến bò trên đất bỏ lên mặt rồi cất tiếng cười the thé rất dễ sợ. Điều kỳ lạ là lúc chưa bị quỷ ám nàng rất sợ sâu bọ. Rồi càng ngày cơn kích động càng tăng, có khi Lệ Sa vùng vẫy thoát được một tay ra khỏi dây nịt hoặc dây chảo cột chặt cô vào thành giường. Bạn bè phải dùng đến cả dây xích sắt có khóa để giữ cô lại. Mỗi khi cô lên cơn hung dữ cô thường thét lên:
- Ta là con của Satan. Trước đây có ai biết được rằng ta là một con quỷ và con quỷ ấy đã tồn tại mấy triệu năm qua rồi (?) và nay vẫn còn tồn tạỉ.
Thường sau mỗi câu gào thét như thế Lệ Sa lại ôm mặt khóc nức nở. Lúc Lệ Sa bắt đầu bị quỷ ám, cô đã có sức mạnh lạ thường mà trước đó không hề thấy ở cô. Cô dùng tay nâng một lần hai chiếc ghế nặng liệng rất xa và phá phách mọi thứ trong nhà như người điên. Sáu người bạn đã xúm lại giữ chặt lấy tay chân cô mà cô vẫn vùng ra được. Hiện nay Lệ Sa đã trải qua bảy ngày bị quỷ ám. Chỉ còn hai ngày nữa là cô lâm nguy. Thân nhân và bạn bè của Lệ Sa năn nỉ hai nhân viên nhà báo đăng tin tức lên báo để xem ai có khả năng cứu được cô. Bài báo đã gây xôn xao dư luận công chúng ở HK, chỉ trong một thời gian ngắn, số báo in ra đã hết sạch phải in lại lần thứ hai.
Mười hai giờ khuya hôm đó có tiếng một người đàn ông lớn tuổi gọi điện thoại đến cho toà soạn. Rất may la toà soạn đã cử người trực. Tiếng người đàn ông:
- A lô! Tôi có thể giúp chữa trị cho cô gái nhưng tôi không có phương tiện di chuyển.
Người trực trả lời:
- Dạ.. dạ ! Chúng tôi sẵn sàng đem xe lại rước ông bất cứ giờ phút nào. Xin cho biết địa chỉ.
Ở bên kia đầu dây người đàn ông này đã chỉ rõ giờ giấc và địa điểm nơi ông sẽ đứng chờ xe, chớ không chỉ đúng địa chỉ nơi ông ta ở. Một giờ khuya hôm đó toà soạn đã đề cử người ký giả và viên Tổng thư ký già, lên chiếc xe Peugot chạy ngay đến địa điểm hẹn. Tại đây họ gặp một người đàn ông dáng dấp khỏe mạnh trùm đầu bằng một cái khăn màu xám, tay xách một cái va li nhỏ. Khi thấy chiếc xe Peugot chạy chậm và tấp vào lề, ông ta đưa tay ra làm hiệu và đi đến bên chiếc xe:
- Có phải các anh là nhân viên toà soạn.
- Dạ thưa phải vậy ông thầy là người đã...
Người đàn ông tỏ ra nôn nóng:
- Đúng vậy.. đúng vậy chúng ta cần phải nhanh lên, các anh hãy chở tôi đến nhà cô gái ấy ngay.
Chiếc xe lao vút đi trong đêm khuya. Khi xe ngừng ở cửa nhà cô gái, trong nhà vẳng ra tiếng kêu la dữ dội.Người ký giả nhảy xuống xe và gõ cửa. Người thanh niên tên Quy ghé mắt nhìn qua cửa kính rồi mới đi mở cửa. Thấy hai người ở toà soạn trở lại, anh mừng quá nói trong hơi thở:
- Trời ơi các ông tới đúng lúc chúng tôi hoảng quá không biết làm gì hơn. Cảnh sát yêu cầu chúng tôi đưa cô Sa vào nhà thương điên nhưng chúng tôi không chịu và họ nói sẽ trở lại.
Người ký giả giới thiệu:
- Đây là ông thầy đã liên lạc với chúng tôi hồi tối ngỏ lời muốn giúp cô Lệ Sa để trục xuất quỷ dữ ra khỏi người cô. Chúng tôi hy vọng sẽ có kết quả tốt.
Người đàn ông được mời vào phòng cô gái. Cánh cửa mở ra, Lệ Sa đang kêu la vùng vẫy, cô ngước mắt nhìn về phía người đàn ông trùm đầu bằng cái khăn màu xám:
- Hãy ra ngay..cút đi ngay. Nếu không tao sẽ giết mày, làm cho mày cạn khô dòng máu, mày sẽ phải chết như một cành cây khô mục.
Người đàn ông chúng ta hãy gọi là ông thầy bình tĩnh tiến đến bên giường Lệ Sa đang vùng vẫy. Ông thầy rút cái khăn ra khỏi đầu. Hai mắt ông mở lớn nhìn thẳng vào đôi mắt đầy gân máu của cô gái đồng thời đưa tay bắt ấn rồi nạt lớn:
- Quỷ dữ! Mi không làm gì được đâu! Hãy mau mau rời khỏi thân xác cô gái vô tội, nếu không ta sẽ cho mi không còn chút năng lực nào để sống ở bất cứ cõi giới nào.
Ông thầy vừa nói dứt câu thì Lệ Sa bỗng cười lên khanh khách và vùng mạnh tay chân như cố thoát ra khỏi các dây trói buộc để nhảy tới cấu xé ông thầy. Trong khi đó ông thầy vẫn bình tĩnh cười nhạt, mở nắp va li lấy ra cái bình bằng đồng xưa đưa lên cao và ra sức rảy mạnh. Những làn nước trong bình bằng đồng văng ra rớt vào mặt cô gái. Trong lúc đó ông thầy xấn tới và đọc những câu chú liên hồi. Tự nhiên Lệ Sa dịu lại cơn kích động nhưng chỉ mấy phút sau cô gái lại vùng vẫy dữ dội trợn mắt nhìn và thét lên:
- Mày hãy đi khỏi đây ngay..tao sẽ giết mày..mày phải chết.
Ông thầy lại rảy nước phép bắt ấn và đọc chú:
- Mi không thể nào chịu nổi pháp thuật của thần linh quá ba lần. Lần cuối cùng ta cho mi thời gian suy nghĩ lại và sám hối. Đừng để ta phải hạ độc thủ.
Mặc cho cô gái vùng vẫy la hét, ông thầy chỉ cho hai nhân viên tòa soạn, người thanh niên tên Quy và hai người bạn cùng có mặt ở đó cách làm sao giữ cho tâm thần kiên định không bị xáo trộn sợ hãi trước sự đe dọa của quỷ. Ông thầy lấy ra từ va li bốn cái linh phù, những đồ đeo của Salomon treo ngay cửa phòng và cửa ra vào về phía Nam. Ông thầy nói:
- Những linh phù và những thứ này có công dụng trấn yểm và làm mất hiệu lực của câu trù mà pháp thuật đen đã thư vào trong đầu cô gái.
Nói xong ông lại lấy ra bốn vật lạ khác có buộc dây ngũ sắc và trao cho Quy để đeo vào cổ cô gái. Quy ngần ngừ vì anh lo sợ sẽ bị Lệ Sa phản ứng cắn vào tay anh như mọi lần. Ông thầy biết ý dùng cái khăn trùm đầu trùm lên đầu Lệ Sa, rồi mọi người cùng giúp Quy đeo bốn vật gắn linh phù và dây ngũ sắc lên cổ của Lệ Sa. Mọi việc tuy có khó khăn nhưng không ngờ lại diễn tiến tốt đẹp. Trong khi đó ông thầy lấy muối bột hòa trong nước thánh ở trong bình, rồi rảy quanh nhà khắp bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc và ở chính giữa bốn hướng ấy còn để những nhúm muối sạch.
Thế là Lệ Sa tự nhiên giảm vùng vẫy, giảm tiếng kêu rú gào thét, và sau đó ú ớ trong miệng những câu không nghe rõ rồi cuối cùng cô thiếp đi. Quy nói:
- Đây là lần đầu tiên Lệ Sa chợp mắt ngủ yên lặng, một điều mà bảy ngày trước đây không thể có được.
Thế rồi ngày 18 tháng 10 Lệ Sa lành hẳn. Tuy nhiên cơ thể cô vô cùng suy yếu tinh thần suy sụp. Các bác sĩ khám bệnh cho cô đã cho biết là cô bị suy dinh dưỡng trầm trọng thần kinh lại xáo trộn. Cô đã được chở tới bệnh viện thần kinh. Sau một thời gian dưỡng bệnh cô đã trở nên minh mẫn, vui vẻ và rồi được trở về nhà. Cô thường nói:
- Những gì đã xảy ra cho tôi cách đây một hai năm đối với tôi như một giấc mộng dữ, nhưng có điều lạ lùng là tôi không nhớ những gì đã xảy ra lúc trước. Có lẽ lúc đó tôi không phải là tôi nữa.
Cô Lệ Sa sau đó đã gởi thơ cám ơn toà báo Siêu Linh. Ngoài ra cô còn tìm gặp ông thầy đã cứu cô thoát khỏi móng vuốt của quỷ sứ. Ông thầy này là người Quảng Đông, đến sống ở Hồng Kông được sáu năm và lần đầu tiên ông xuất đầu lộ diện để cứu người. Ông thầy khuyên Lệ Sa cũng như tất cả mọi người không nên dấn thân vào việc luyện bùa ngải, tiếp xúc với những vong linh, ma quỷ. Bởi vì theo ông, Vu Thuật, Ma Thuật thường là con dao hai lưỡi để quay ngược lại tàn hại chính bản thân người đã có liên hệ gần gũi hoặc xử dụng chúng.
Thật sự là có những con quỷ vô thường, những con quỷ bị sa đọa vào địa ngục rồi thoát củi xổ lồng, chúng vất vưởng rất lâu trong cõi tối tăm. Vì thế chúng khao khát được làm người nhưng đồng thời chúng cũng căm giận oán than, tham lam và kiêu căng. Chúng luôn luôn chờ dịp là nhập vào thân xác người sống.
Những phù thủy, những kẻ ma đạo, hắc đạo thường là những kẻ dẫn đường chỉ lối, làm cầu nối cho ma quỷ tức là Satan bước từ cõi u minh giao tiếp đột nhập vào người sống. Điều nguy hiểm đáng sợ là quỷ thường có những năng lực phát huy lời nguyền. Pháp thuật đen hay có những câu Trù, những người bị Tẩu hỏa nhập ma thường thốt ra những câu trù, lời nguyền rất khủng khiếp.
ST
#71
Gửi vào 17/06/2011 - 22:02
Câu chuyện này tôi nghe bà ngoại kể từ khi còn nhỏ xíu. Gần ba mươi năm qua rồi nhưng chi tiết trong câu chuyện vẫn cứ như in trong đầu tôi, có lẻ hồi đó nó đã để lại một dấu ấn ghê gớm trong trí óc non nớt của một đứa trẻ là tôi. Quê của bà ngoại ở Ninh Bình một tỉnh nhỏ thuộc miền Bắc. Bà ngoại tôi quen người có họ là Nhiêu Trinh năm đó cũng bãy mươi ba tuổi rồi. Ở nhà quê hồi đó người ta khắng khít đùm bọc nhau lắm, nhất là bà Nhiêu Trinh lại là một tấm gương đáng để mọi người phụ nử noi theo.
Cả cuộc đời bà từ tấm bé tới khi nhắm mắt lìa đời luôn sống vì mọi người, bà không nề hà bất cứ việc gì có thể giúp đở được cho người khác. Hầu như tất cả những người phụ nử cũa làng bà và kể cả những làng lân cận mọi khi tới ngày sinh đều phải nhờ tới tay bà. Bà là bà mụ mát tay nổi tiếng khắp vùng. Ðiều đặc biệt là bà làm vậy thôi chứ không lấy tiền công, người nhà quê nghèo lắm, họ đối với nhau bằng tình nghĩa hơn là vật chất. Chính vì vậy họ hàng và làng xóm ai cũng kính yêu bà, tới trẻ con người lớn trong làng ai cũng gọi bà là bà ngoại.
Người ta thường mang quà biếu bà mổi khi có chút quà mọn dù là cũ khoai lang hay mo trầu không. Cha mẹ bà mất sớm, nên bà phải nuôi một đàn em thơ dại nên mãi tới năm ba mươi tuổi bà mới lấy chồng. Bà làm lẻ cho ông Nhiêu Trinh một chức sắc trong làng. Gia đình chồng hiếm hoi từ đời ông cố tới đời chồng của bà, đều cũng chỉ có duy nhất một người con trai. Ông lấy ba bà vợ trước đó nhưng không bà nào sinh cho ông được một mụn con, vậy mà khi bà về làm bạn với ông, thì một năm sau lại sinh ra cho ông một đứa con nối dỏi.
Ông cưng cậu con trai quý như trứng mỏng, chính vì thế bà cũng được thơm lây. Tiếng là ông có nhiều vợ nhưng các bà luôn thuận hoà vói nhau trên kính dưới nhường. Cả bốn bà chung nhau một ông chồng và một thằng con trai theo đúng nghĩa, các bà đều quý mến cưng chiều thằng nhỏ nó muốn gì là cho nấy. Thời gian trôi qua ba bà vợ trước và ông Nhiêu Trinh lần lượt qua đời. Bà lại một mình cheo chồng nuôi con, thay chồng gánh vác mọi việc hiếu hỷ của làng xóm cũng như họ hàng.
Khi anh Trúc lấy vợ bà mừng lắm, bà mong con dâu ngoan hiền của bà sẽ chóng sinh cho bà một bầy cháu nội để cho vui nhà vui cửa. Nhưng rồi cũng vẫn như một lời nguyền dai dẳng, anh Trúc lấy vợ cũng phải tới mười sáu năm sau mới có được một thằng con trai. Khi thằng cháu ra đời bà coi như tâm nguyện của mình đã đạt được một phần nào, tuy nhiên bà vẫn mong muốn là anh Trúc sẽ cho bà thêm vài đứa cháu nửa.
Thằng Vinh cháu bà năm đó mới có ba tuổi. Bà thương cháu lắm, ngày ngày chính bà là người tắm rửa và chăm nom đứa bé. Khi tuổi già sức yếu người mà bà lo lắng nhất vẫn là đứa cháu đích tôn. Mổi khi nhìn cháu là bà lại chảy nước mắt, vì bà cũng đoán được cái ngày mà bà cháu bắt buộc phãi xa lìa nhau cũng gần tới nơi rồi. Bà thường nhường nhịn từng miếng quà tấm bánh mà bà con họ hàng mang tới thăm để cho cháu.
Người ta trong đời ai rồi cũng có sinh ly tử biệt, dù là người tốt hay người xấu thì cũng tới lúc phải nhắm mắt xuôi tay từ giả cuộc đời. Bà cũng vậy rồi cũng tới ngày mà bà không còn gắng gượng được nửa, bà không ăn được cũng đã gần mười ngày rồi bà chỉ có thể thấm môi vài giọt nước thôi. Ðêm trước hôm bà chết có con chim heo cứ đậu ở đầu hiên nhà kêu liên hồi, người nhà quê tin là nếu chim heo bay tới đậu lên mái nhà nào và cất tiếng kêu, thì y như nhà đó có người chết. Hôm bà chết trời mưa tầm tả sấm chớp liên hồi, giữa trưa mà chẳng thấy được một tia nắng.
Ðúng giờ Ngọ thì bà trút hơi thở cuối cùng trong sự thương tiếc của mọi người, chết vì bệnh già và lại cũng không ăn uống gì đã cả chục ngày, nên bà đã gầy nay lại càng khẵng khiu hơn. Bà con xóm giềng xúm vào mỗi người một tay lo cho hậu sự của bà. Người thì lo chặt cây chuối để trước hòm áo quan người thì lo luộc trứng vớt dừa. Bà chết nhằm ngày xấu và cả mấy ngày sau cũng vậy, nhưng không thể để cái áo quan quá lâu được, nên mọi người bàn với nhau là bà cả đời nhân đức chắc cũng không sao.
Người ta dự định sẽ chôn bà vào ngày thứ ba. Ðêm đầu trôi qua bình thường. Ðêm cuối cùng tự nhiên có rất nhiều điều kỳ lạ xảy ra. Tiếng chim heo kêu không dứt mặc dù trong nhà đã có người chết. Mèo gào suốt đêm và chó thì sũa ầm ỉ cả làng. Không ai bảo ai nhưng mọi người mơ hồ cảm thấy lo lắng về một điều gì đó sắp xảy ra. Có tới hơn chục người thức đêm trông quan tài của bà. Ðám thanh niên ngồi túm lại một góc kể chuyện ma.
Mấy người già cũng nhóm lại với nhau để nói chuyện mùa màng làng nước. Cách đó vài chục bước chân là quan tài cũa bà Nhiêu Trinh. Khoãng ba giờ sáng bổng có tiếng động nhẹ. Mới đầu không ai để ý nhưng rồi sau đó tiếng động càng lúc càng rõ ràng hơn. Mọi người thi nhau phỏng đoán xem là tiếng động đó được phát ra từ đâu. Người thì nói là chuột chạy kẻ thì kêu là chó phá. Chẳng ai dám thừa nhận tiếng động đó là từ phía quan tài phát ra, bởi vì ai cũng cố không tin vào điều đó.
Bổng thằng Vinh đang ngũ bật ngồi dậy gọi bà nội. Nó nói là vừa nghe thấy bà nó gọi nó và nó cứ chăm chăm nhìn vào chiếc hòm nơi mà bà nó đang nằm trong đó. Mọi người không ai dám nói một tiếng nào nửa. Chó cũng ngừng sủa và mèo cũng chẳng còn kêu gào. Trong không khí ngột ngạt và im lặng như trước một cơn giông ấy, thì tiếng bà Nhiêu Trinh từ trong áo quan yếu ớt vang lên:
- Cho tôi ra, cho tôi ra tôi vẩn còn sống đây.
Hồn vía lên mây chẳng ai rủ ai, mà tất cả cũng nhao nhao chạy trốn ra khõi căn nhà của anh Trúc. Tính tò mò bao giờ cũng mang lại cho người ta rất nhiều phiền phức, và có khi những lổi lầm đó còn có thể dẩn tới tai họa. Sau khi ra khõi nhà anh Trúc một quãng, mọi người dừng lại và đứng tụm lại một chổ để nghe động tỉnh. Một lúc lâu sau không thấy có gì xãy ra, mấy anh thanh niên thách đố nhau quay trở lại ngôi nhà xem có gì xãy ra không.
Vợ chồng anh Trúc lúc chạy vội vàng quá tới nổi quên cả thằng Vinh. Người này cứ tưỡng người kia cõng thằng bé đi rồi, giờ nhìn lại thì mới biết là cả hai vợ chồng lo chạy quá mà quên mất con. Hai vợ chồng bàn nhau quay trở lại nhà để đưa thằng Vinh ra. Lạ một điều là trước tới giờ thằng nhỏ chẳng bao giờ chịu ở đâu một mình, lúc nào cũng phải có người ở bên cạnh, thế mà từ nảy tới giờ chẳng thấy nó khóc lóc gì.
Anh Trúc dẫn đầu cả đám thanh niên quay trở lại. Người nào cũng cố tỏ ra không sợ hãi, cứ bụng bão dạ là làm gì có ma mà sợ. Thực ra thì trong ngực anh nào cũng đánh thùm thụp cả. Tới đầu hè thì nghe thấy tiếng thằng Vinh bi bô nói chuyện, cứ một câu bà hai câu cháu. Thế là cả đám lại ù té chạy ra cách đó một quãng. Mẹ thằng Vinh sợ quá đứng run cầm cập.
Anh Trúc lúc này bổng nhiên thấy hết sợ, tình cha con là hơn hết, anh một mình bước rón rén lại căn nhà. Trong nhà vẫn chẳng có tiếng động nào khác ngoài tiếng của thằng Vinh. Thu hết can đãm anh bước vội vào nhà và bê thằng con chạy ra ngoài. Cả đám nhao nhao hỏi chuyện thằng bé. Ai cũng chung một thắc mắc: thằng Vinh nói chuyện với ai ? Thằng bé lên ba cứ từng câu từng câu nói ra một cách rành mạch.
Nó kể là bà nội nó chưa chết, bà nội nó chỉ bị mệt rồi ngủ quên, bà đang nằm trong hòm chờ bố Trúc vào mở cho bà ra. Anh Trúc nghe tới đây thì thấy hết sợ hẳn, anh chỉ thấy thương mẹ nằm trong hòm suốt hai ngày một đêm. Anh vội vàng chạy vào để đưa mẹ ra ngoài. Vào tới nơi anh Trúc nghe thấy tiếng bà Nhiêu Trinh gọi thì thào:
- Trúc ơi cho mẹ ra nằm mõi quá rồi, đứa nào nó bó tao mà chật thế ?
Nghe thấy vậy anh lại càng tin là mẹ còn sống. Thế là anh nhào lại mở nấp hòm để đưa bà ra. Lúc này mọi người đã quay trở về đông đũ, ai cũng thấy mừng vì bà còn sống nhưng vẫn không hết hồi hộp. Mấy người thanh niên xúm vào khiêng bà ra khõi hòm. Lạ một điều là lúc trước bà nhẹ như đứa trẽ thì bây giờ thấy có vẽ nặng hơn nhiều. Ông Bách là người hôm trước tự tay khâm liệm bà giờ lại cũng tự tay tháo đi những lớp vãi bó đi, vừa làm ông cứ vừa luôn miệng trách mình tại sao lại bất cẩn tới nổi bà còn sống mà cũng không biết.
Từng lớp vãi được tháo dần ra, mọi người vì quá vui nên chẳng chú ý một điều là bà Nhiêu Trinh bây giờ nói nhiều và cộc cằn khác hẳn tính điềm đạm trước đây. Miếng vãi liệm cuối cùng được tháo ra bà lừ mắt nhìn mọi người và gằn giọng:
- Thế chúng mày mong bà chết lắm hay sao, mà bà mới ngũ quên một chút đã vội vàng làm đám ma cho bà ?
Mọi người ngồi nán lại để nói chuyện với bà nhưng bà cụ luôn miệng trách móc và đòi ăn. Anh Trúc thấy mẹ biết đói thì mừng lắm, từ lúc thấy mẹ chồng tỉnh lại, mẹ thằng Vinh đã chạy vội ra sau bếp đặt nồi cháo, định là để cho bà húp chút nước lấy lại sức. Cháo chưa chín nhừ nhưng bà Nhiêu đói quá nên chị cũng đánh liều múc một bát lên mời mẹ. Nhìn thấy bát cháo mắt bà Nhiêu sáng rực, bà nhào lại giật lấy từ tay con dâu húp luôn một hơi. Cháo mới nấu còn nóng vậy mà bà dường như chẳng có cãm giác gì cả.
Chắc là cả mười ngày nhịn đói trước đó, và hai ngày nằm không một giọt nước trong hòm làm bà trở nên như vậy. Bà giục con dâu chạy xuống bếp lấy nửa. Chị Trúc lật đật chạy xuống bưng nguyên nồi cháo lên cho bà. Trong lúc chờ con dâu bà thấy nải chuối để đầu hòm, bà sai một người đứng gần đó mang lại cho bà. Chuối mới chặt là chuối còn xanh, thế mà bà cứ từng quả từng quả ăn ngon lành. Có lẻ cách ăn cũa bà bây giờ phải gọi là nuốt vội vì bà không có răng thì làm sao mà nhai ?
Ngồi với bà một lúc lâu rồi mọi người bắt đầu bảo nhau về cho bà nghĩ. Bà chẳng muốn thế vì bà còn đang thích nói chuyện. Sau khi người cuối cùng rời khõi nhà bà vẫn còn đang thao thao. Tới sáu giờ sáng bà mới ngáp dài rồi kêu là buồn ngũ, anh Trúc dìu mẹ vào giường và giục vợ phụ anh dọn dẹp những thứ trước đây dùng cho đám ma. Cái hòm thì để lại góc nhà, ở nhà quê ngày trước người ta có thói quen tích trử áo quan trong nhà khi gia đình có người già cả.
Cả ngày bà Nhiêu Trinh ngũ li bì, mấy lần anh Trúc tới mời mẹ dậy ăn cơm mà cũng chẳng thấy bà nhúc nhích, anh Trúc thỉnh thoảng lại phải sờ tay mẹ xem mẹ có còn sống hay không. Bà nằm đó cũng giống như thời gian trước đây, yếu ớt và hơi thở thì thỉnh thoãng lại đứt quãng khác hẳn với sự linh hoạt cũa đêm hôm qua. Thằng Vinh cứ khóc đòi bà nội bế nhưng bà chẳng hé mở mắt suốt từ lúc ngũ tới sẩm tối. Chừng sáu giờ chiều thì bà cựa mình thức dậy, câu đầu tiên là kêu đói và sau đó là mắng thằng Vinh không để yên cho bà ngũ.
Chị Trúc có nấu sẳn nồi cháo bèn đưa lên mời mẹ. Cũng lại như đêm trước bà chẳng cần chờ nguội mà cứ húp luôn một hơi. Hết bát này tới bát khác làm cho cuối cùng chị Trúc phải bưng nguyên nồi lên. Chị định nấu nồi cháo đó cho mẹ ăn tới tối, vậy mà chỉ trong một lúc là bà ăn hết sạch trơn. Thằng cháu đứng cạnh đó cứ ngẫn cả người vì thèm quá, trước đây chẳng bao giờ bà không nhường cho nó. Ăn xong bà lấy một cái nón lá đội lên đầu rồi đi ra khõi nhà. Dáng đi cũa bà thoăn thoắt không giống như là một người già và nhất là cũa một người vừa qua cơn thập tử nhất sinh.
Anh Trúc hơi băn khoăn khi thấy mẹ đội nón vì trời không còn có nhiều nắng, nhưng anh cũng không hỏi gì, bỡi vì anh cho là mẹ vừa chết đi sống lại, thì thế nào cũng có những việc khác với thói quen lúc trước. Bà Nhiêu Trinh đi ra tới đầu ngõ là đã gặp bà con lối xóm, người nào cũng vồn vã hỏi han và mừng cho bà thoát qua cơn hiểm nguy, nhưng đáp lại sự chân tình cũa mọi người là thái độ khinh khinh cũa bà. Chẳng nói chẳng rằng bà cụ lườm lườm nhìn lại, làm cho người bắt chuyện cảm thấy ngạc nhiên và còn pha một chút sợ hãi.
Qua tới cửa nhà ông Bách thấy bà Bách và đứa cháu nội đang thơ thẩn chờ ngoài ngõ, bà sấn ngay lại nhiếc móc chuyện ông Bách bó vãi bà chật quá. Bà Bách cứ luôn miệng xin lổi và mời bà vào trong nhà uống nước. Thằng cháu nhỏ cũa bà Bách có cũ khoai đang cầm trên tay, chẳng nói chẳng rằng bà Nhiêu dành lấy nuốt vội thằng bé khóc ré lên, bà nội nó chẳng hiểu có chuyện gì mà thằng nhỏ lại trở chứng như vậy.
Trời sẩm tối nên gà nhà bà Bách lục tục kéo nhau lên chuồng, nhìn thấy mấy con gà mẹ với đám gà con, mắt bà Nhiêu Trinh sáng rực lên. Ngồi nói chuyện được một chút thì bà lại quay qua ra đi. Ði ngang qua chuồng gà, bà liếc mắt nhìn có vẽ toan tính điều gì đó. Anh Trúc ở nhà chờ cơm mẹ mà chẳng thấy bà đâu, sốt ruột quá anh chạy ra tận ngoài đường để ngóng. Trời đã tối hẳn anh thấy thấp thoáng đằng trước, có bóng người đang tiến lại thật nhanh về hướng nhà mình, trong chốc lát người đó đã đi tới gần ngay trước mặt anh, đó chính là bà Nhiêu Trinh.
Lúc này bà đã không còn đội nón nữa, bà nhìn anh với cặp mắt long sòng sọc nhưng vẽ mặt lại tươi tắn hơn trước lúc đi rất nhiều. Ngồi vào mâm cơm bà ăn liền mấy bát, bà cứ chọn những thứ ngon nhất để ăn cho thoả thích. Thằng Vinh cứ hết nhìn vào mâm cơm lại nhìn bà nội, chắc là nó đang thắc mắc lắm. Anh chị Trúc rửa tay xong lên chuẩn bị ăn cơm thì thấy chỉ còn có vài miếng cơm cháy dưới đáy nồi. Thức ăn cũng gần hết chỉ còn loe ngoe mấy cọng rau.
Trong lúc đó bà Nhiêu Trinh ngồi uống nước chè xanh ở đầu giường, bà cho cã hai chân lên giường rồi ngửa mặt súc ngụm nước on gong trong miệng. Thấy mẹ khác lạ quá , anh Trúc hơi sợ sợ nhưng chẳng dám nói ra. Ở nhà quê người ta đi ngũ sớm lắm, thường thì ăn cơm xong là chuẩn bị đi ngũ rồi. Gia đình bà Nhiêu Trinh cũng vậy. Vợ chồng con cái anh Trúc đã đi nằm, nằm được một lúc rất lâu mà vẩn còn thấy bà Nhiêu ngồi xổm trên giường uống nước và nói chuyện một mình.
Nhưng câu chuyện mà bà nói chẳng đâu vào đâu, nhưng bà nói liên tục không ngơi miệng. Hai vợ chồng cứ hỏi nhau là có chuyện gì xảy ra với mẹ nhưng cả hai cũng đành chịu vì chẳng biết trả lời ra làm sao. Thức quá thì cũng mệt anh chị Trúc ngũ lúc nào không biết. Sáng sớm hôm sau anh Trúc dậy để đi ra đồng thì lại thấy mẹ đang nằm thiêm thiếp trên giường, hơi thở bà yếu lắm. Anh Trúc đinh ninh là đêm qua vì mẹ thức quá khuya nên hôm nay mới vậy. Dặn dò vợ lo cho mẹ cẩn thận, anh quay người lấy cày cuốc để đi làm công việc nhà nông.
Cũng như ngày hôm qua bà cứ nằm lã trên giường, một chút nước cũng không thể nhấp môi được. Ở làng này từ trước tới nay chẳng hề xảy ra chuyện trộm cắp, người làng chẳng bao giờ phải lo lắng chuyện mất mát này nọ. Thế mà hôm nay nhà bà Bách lại mất một con gà mái, bà đi tìm nó loanh quanh luôn quận mà chẳng thấy đâu. Ðàn gà con không có mẹ cứ ngơ ngác rất là tội nghiệp, cũng may là nhà bà có mấy con gà mái khác cũng đang nuôi con, nên bà đành để cho chúng nó nhập chung đàn.
Chiều tối anh Trúc về vào thăm mẹ thì chẳng thấy bà đâu, hỏi vợ thì chị nói bà vừa ăn xong nồi sắn luộc và đội nón đi rồi. Chị còn nói cho chồng nghe là hôm nay bà nội mang thằng Vinh ra đầu hè lấy chổi đập túi bụi vì cái tội nó cứ đòi bà bế, chị xót con lắm nhưng chẳng dám nói sợ mẹ không vui. Từ đó trở đi ban ngày thì bà nằm thiêm thiếp như con cá được mang lên cạn, còn mổi khi mặt trời chuẩn bị khuất bóng là bà lại cắp nón đi ra khõi nhà. Hàng xóm láng giềng thấy tính tình của bà ngày càng thay đổi, nhất là mấy đứa trẻ con mổi lần nhìn thấy cặp mắt long sòng sọc của bà là lại lẩn trốn ra đàng sau lưng người lớn.
Mới đầu người ta vẫn còn cho là bà bị thay đổi tính tình sau lần chết hụt, nhưng dần dần về sau ai cũng sợ bà, không những trẽ con mà cả người lớn cũng rất ngại gặp bà. Mỗi khi nhìn thấy bà từ xa là người ta đã tìm cách lẩn ngay sang chổ khác, nhưng thường là không thành công vì bà đi nhanh lắm, chỉ thoáng một chốc là đã tới ngay bên cạnh họ rồi. Mỗi khi gặp ai bà thường gầm gừ những gì không rõ, thỉnh thoảng có câu nào nghe được thì toàn là nuốt và bóp chết, cặp mắt cũa bà ngày càng sáng rực, giống y hệt cặp mắt mèo bật ánh sáng trong đêm.
Trong làng liên tục xảy ra các vụ mất trộm gà, người ta cho là gần đây có cáo. Mọi nhà ra sức buộc cửa chuồng gà mổi khi trời tối rất kỷ càng, nhưng tình trạng đó vẫn liên tục tiếp diễn, ngày ít thì một con, ngày nhiều có khi là hai hay ba con. Lạ một điều là mấy con gà mái nuôi thường kêu rất lớn mổi khi bị chạm vào người, đằng này chẳng bao giờ có tiếng động gì để chủ nhà biết mà chạy ra xem. Mổi sáng thấy đám lông gà ở ngay góc tre đầu nhà nào, là y như rằng nhà đó đêm qua vừa bị mất trộm. Dân làng hoang mang lắm quyết rình bắt bằng được con cáo tinh ranh.
Trong lúc ấy ở nhà anh Trúc cũng liên tiếp xãy ra nhiều sự lạ. Bà Nhiêu Trinh ngày càng hồng hào và trẻ ra trông thấy. Bà đã bắt đầu mọc lại răng và tóc cũng xanh trở lại. Lúc này bà không còn nằm lã suốt cả ngày nửa mà mỗi trưa bà đều thức dậy khoẻ mạnh y như lúc mặt trời khuất bóng, qua giờ ngọ một chút thì bà lại nằm vật xuống ngũ li bì. Thằng Vinh hồi trước được bà cưng chiều chừng nào thì bây giờ bị bà ghét chừng đó, không thấy nó thì thôi chứ hể thấy là thế nào bà cũng lôi ra đánh. Riết rồi thằng bé sợ bà cũng giống như những đứa trẽ trong làng sợ bà vậy.
Bà ăn ngày càng khoẽ sức ăn cũa bà thì hai người thanh niên cũng không lại. Mỗi bữa tối bà có thể ăn hết cả một nồi cơm hai đấu (một đấu bằng một kg). Ðặc biệt bà thích những thứ còn tươi sống, hôm trước chị Trúc mua được mớ cá người ta mới tát ao trong làng, chị đem thả vào vạc nước định đến trưa dọn dẹp xong sẽ làm. Xong xuôi chị trở ra thì chẳng thấy cá đâu, loanh quanh lẩn quẩn một hồi chị vào lại trong nhà, nhìn thấy mẹ nằm trên giường chẳng hiểu nghĩ thế nào, chị lại gần để xem thì ôi thôi mép bà còn dính mấy cái vẩy cá.
Chị đem chuyện này kể cho chồng nghe, anh Trúc gắt ngay đi và cho là vợ nói chuyện vớ vẫn. Thực ra anh nói vậy là để trấn an vợ thôi chứ, chính anh mấy hôm trước nhìn thấy mẹ bắt con thằn lằn trên tường nuốt sống. Tháng trôi qua kễ từ khi bà Nhiêu Trinh sống lại, ngôi làng nhỏ bé đó có quá nhiều thay đổi. Ðiều quan trọng nhất là mọi người đã mất đi tiếng gọi “ bà ngoại ” thân thương đối với bà Nhiêu. Hôm đó vào giữa trưa, cái quán nước đầu làng cũa chị Thắm có người khách lạ.
Ông khách này trông chừng ngoài sáu mươi, người gầy đét và đen thui vẽ mặt khắc khổ, chỉ có mổi đôi mắt là tinh anh. Ông ngồi uống nước mà mắt cứ chăm chăm nhìn về phía cuối làng, ông hỏi chị Thắm là gần đây trong làng có chuyện gì lạ xãy ra không.Chị Thắm mang đầu đuôi câu chuyện ra kể cho ông già nghe. Vừa lúc đó bà Nhiêu Trinh đội nón lá đi thoăn thoắt ngang qua. Chị Thắm chưa kịp lên tiếng thì ông già lạ đã hỏi:
- Người kia có phải là cái bà già mà chị nói là chết đi sống lại hay không ?
Chị Thắm gật đầu. Ông khách nói tiếp:
- Nếu chị thực tình muốn cứu gia đình người con trai cũa bà đó, thì làm cách nào bảo người nhà cũa họ ra đây gặp tôi càng sớm càng tốt, mà nhớ là đừng để cho bà cụ biết nhé.
Chị Thắm chẳng hiểu có điều gì xãy ra nhưng nghe giọng ông cụ có vẽ nghiêm trọng, chị vội vàng để quán lại nhờ ông trông rồi chạy đi tìm anh Trúc. Lúc tới nơi chị không dám lên tiếng, mà đứng thập thò ngoài đầu ngõ, bỡi vì chị nghe thấy tiếng bà Nhiêu đang chửi bới gì đó ở trong nhà. Chị nhìn thấy vợ chồng anh Trúc đang đứng ngay gần đó. Ðang loay hoay tìm cách để ngoắt chị Trúc ra thì bổng chị Thắm nghe tiếng bà Nhiêu nhắc tới tên mình :
- Con Thắm mà dám ló mặt qua đây thì bà vặn ngược cổ từ đằng trước ra đằng sau.
Nghe thấy vậy hồn vía lên mây chị Thắm ba chân bốn cẳng chạy mất biệt. Về tới quán nước chị nói cho ông khách lạ nghe câu chuyện vừa rồi. Ông già chăm chú nghe và cuối cùng thì nói mỗi một câu :
- Thế là nó biết rồi đây.
Ông trả tiền nước rồi đi trước đó ông dặn lại chỉ một câu:
- Cô nói với anh Trúc là sáng sớm ngày mai ra đây gặp tôi, chuyện gấp lắm nguy hiểm tới tính mạng.
Chị Thắm không dám quay lại nhà anh Trúc, mà phải nhờ một người hàng xóm, có thửa ruộng ngay cạnh ruộng anh Trúc nhắn anh Trúc ra gặp. Nghe tin anh Trúc vội vàng bỏ việc lại đấy, để ra xem có chuyện gì mà hồi trưa mẹ mình giận dử thế và giờ thì chị Thắm nhắn ra gặp. Chị Thắm kể lại cho anh Trúc nghe những lời ông khách hồi trưa nói với chị, và dặn anh phải thật cẩn thận không để bà Nhiêu biết.
Tối đó khác hẳn mọi bửa bà Nhiêu không đi ra khõi nhà nửa, bà ngồi xỗm trên giường luôn miệng chửi bới và hơn nửa bà lại còn giử chặt thằng Vinh không cho nó đi đâu, mặc cho thằng bé khóc khan cả giọng. Anh Trúc thấy tình hình có vẽ không ổn, nên sáng sớm hôm sau khi bà Nhiêu vừa nằm xuống ngũ, thì anh vội vàng chạy ngay ra đầu làng gặp ông già lạ. Tới nơi anh chưa kịp thở thì đã thấy ông già đứng chờ với vẽ mặt hiện rõ sự sốt ruột.
Chờ cho anh Trúc lấy lại hơi ông bắt đầu hỏi từng chuyện một. Anh Trúc mang tất cả những chuyện lạ lùng ra nói cho ông nghe. Sau cùng ông già đó mới nói cho anh Trúc biết hiện giờ người đó không còn là mẹ anh nửa, vì mẹ anh chết vào giờ linh nên bị quỷ nhập tràng rồi. Hôm qua tôi đi ngang làng này, nhìn thấy phía cuối làng toàn là âm khí, nhất là khi ngồi uống nước ở đây tôi đã nhìn thấy nó đi nhón gót ngang qua đây. Hiện giờ nó đã lấy được nhiều sức mạnh. Chuẩn bị tới một trăm ngày kể từ hôm mẹ anh sống lại, con quỷ đó sẽ không còn bắt trộm gà hay ăn cá sống nữa mà nó sẽ chuyễn sang thằng bé nhà anh.
Anh Trúc nghe tới đây thì tái mặt, mồ hôi tuôn như mưa, anh van lạy ông già tìm cách cứu gia đình và làng xóm. Ông già đưa cho anh ba lá bùa màu đỏ và dặn dò cẩn thận. Chẳng hiểu ông nói gì mà anh Trúc cứ vâng dạ luôn miệng. Về tới nhà thì đã là giờ trưa, bà Nhiêu không còn ngũ nửa mà đã ngồi dậy đòi ăn và ôm khư khư thằng Vinh. Anh Trúc tìm cách nói là cho thằng bé đi cắt tóc để bà thả nó ra, nhưng dứt khoát bà không nới lỏng dù chỉ một ngón tay.
Anh Trúc nhìn thấy vậy lộ rõ vẽ lo lắng trên khuôn mặt. Suốt trưa hôm đó bà không rời khõi nhà, ăn uống xong là tới giờ bà ngủ, bà vừa ngủ vừa quặp chặt thằng Vinh. Thằng bé khóc suốt từ hôm qua tới giờ nên cũng không còn sức nữa, nó lã cả người đi rồi. Tới chiều thức dậy bà đổi giọng không chịu ăn cơm bà đòi ăn thịt gà, chị Trúc cũng cố làm vừa lòng bà để mong bà thả thằng bé ra, nên chạy qua nhà hàng xóm mua vội con gà về làm lông rồi luộc mang lên.
T
hấy con gà luộc bà lại bắt đầu chửi bới, bà chửi chị Trúc ngu con gà tươi thế mà lại giết chết mới mang lên cho bà. Chị Trúc nghe tới đâu dựng tóc gáy tới đó. Cuối cùng thì bà cũng làm sạch con gà. Mẹ thằng Vinh van lạy bà thả nó ra để cho nó ăn chút cháo, bà Nhiêu không đồng ý mà bắt chị đưa cháo cho bà đút cho thằng nhỏ ăn. Ngày hôm đó là ngày thứ chín mươi tám kể từ khi bà sống lại. Sang tới ngày chín mươi chín thì sức khoẽ cũa bà gần như là tăng vượt trội, bà không còn ngũ một chút nào nữa bà thức sáng đêm rồi lại thức nguyên ngày.
Nghe lời ông già dặn anh Trúc nói vợ vẩn cứ mang gà luộc lên cho bà, mặc dù bà yêu cầu mang gà tươi. Bà vừa ăn vừa chửi mắt bà vằn lên những tia đỏ như máu, bà luôn miệng nói và bây giờ người ta có thể nghe rõ là bà nói gì. Bà nói sẽ ăn thịt uống máu từng đứa trong làng, cho tới lúc nào không còn một móng mới thôi.
Ðêm hôm đó chị Thắm đã chuyển lời cũa ông già tới những người cao niên trong làng, các cụ hợp mặt ở đình làng là nơi linh thiêng nhất trong làng để bàn chuyện cơ mật. Sau đó các cụ sai người đi gọi mấy anh thanh niên to khoẽ nhanh nhẹn nhất làng để bàn giao công việc. Hôm nay là ngày thứ một trăm. Ngay từ lúc gà mới gáy bà Nhiêu đã tõ vẻ vui mừng lắm, bà cười nói ầm ĩ và có vẽ chờ đợi điều gì đó. Càng tới gần trưa thì bà lại càng hoạt bát và dữ tợn.
Trong lúc đó anh chị Trúc không biết bằng cách nào để mang thằng bé ra ngoài, bởi vì bà nhất quyết không rời nó ra một chút nào. Nghĩ ngơi một lúc tự nhiên chị Trúc nãy ra sáng kiến. Cũng vào lúc đó ở trên nhà bà Nhiêu đang la hét đòi ăn. Thay vì chị mang lên cho bà gà luộc như mấy hôm trước thì lần này chị mang cho bà một con gà mái to còn sống. Thấy con gà mắt bà sáng rực lên, bà nhào tới giật lấy nó từ tay chị Trúc, chỉ chờ có thế anh Trúc đang nấp sẳn nhanh như cắt nhảy tới giật lấy thằng Vinh rồi chạy ra khõi nhà.
Bà Nhiêu sững người một chút rồi thét lên đuổi theo. Lúc này bên ngoài mấy người thanh niên và ông già lạ mặt đã chực sẳn, họ lấy cành dâu quất liên hồi làm bà không dám nhảy ra phía ngoài cửa, tuy nhiên lúc này bà trở nên nhanh nhẹn và hung dử khác thường, bà nhảy tới nhảy lui trong ba gian nhà mà chân không bén đất. Lúc đó ông già tiến vào nhà, trên tay ông là một nhánh dương liễu và một bình nước thiêng. Ở phía bên kia cửa bếp anh Trúc cũng tiến vào. Bà nhìn thấy ông già liền nhãy lui lại về phía cửa bếp. Thấy anh Trúc bà rú lên như nhìn thấy con mồi. Anh Trúc hoảng hốt toan bỏ chạy ông già vội la to lên:
- Ném bùa vào nó đi không thì nó giết chết bây giờ.
Anh Trúc quay lại lấy hết tinh thần ném một lá bùa về hướng bà Nhiêu. Thấy lá bùa bà Nhiêu khựng lại có vẽ sợ hãi nhưng khi thấy anh Trúc ném trượt, bà tiếp tục nhào lại phía anh. Anh Trúc ném tiếp lá bùa thứ hai lại trượt. Lúc này bà Nhiêu chỉ còn cách anh Trúc khoảng hai lần với tay, anh Trúc chắc mẫm cái chết ở gần kề rồi. Nhắm mắt quăng liều lá bùa thứ ba. Ðúng là ở hiền gặp lành, lá bùa thứ ba trúng ngay vào giữa ngực bà Nhiêu.
Lúc này hình dáng bà đã hoàn toàn thay đổi. Không còn chút nào là dáng vóc cũa bà Nhiêu lúc trước. Tóc bà dựng ngược, mắt đỏ chóe như muốn lồi ra khõi hốc mắt, miệng thì ngoác ra nhìn thấy cà hàm răng trắng nhởn. Khi lá bùa chạm vào người bà thét lên một tiếng kinh hoàng rồi ngã vật ra đất. Lúc bấy giờ mọi người kéo vào chật ních trong nhà. Dưới đất bây giờ là một cái xác thối rữa không còn một bộ phận nào nguyên vẹn, ngay cả khuôn mặt cũng không còn nhận dạng ra được nửa.
Thì ra đây mới là thể xác thực cũa bà Nhiêu Trinh vì bà chết đã một trăm ngày rồi. Ngay ngày hôm đó anh Trúc lại đem bà đi chôn trong cái hòm, mà cách đây hơn ba tháng bà đã từng nằm trong đó. Câu chuyện trên đã gần một thế kỷ rồi, bà ngoại tôi lúc đó mới chỉ mười ba tuổi. Bà tôi đã qua đời cách đây hai mươi lăm năm và hưỡng thọ tám mươi bãy.
ST
#72
Gửi vào 17/06/2011 - 22:07
Trong huyện có chàng họ Vương vào hàng thứ bảy, là con nhà cố gia tuổi trẻ mộ đạo. Nghe nói núi Lao Sơn có nhiều tiên ở liền quẩy tráp đi thăm. Trèo lên một ngọn núi thấy có đạo quán thật u nhã.
Một vị đạo sĩ ngồi trên tấm bồ đoàn (chiếc chiếu đan bằng cỏ bồ, hình tròn để người đi tu hành quỳ hoặc ngồi cho êm mỗi khi hành lễ) tóc trắng rủ xuống tận cổ, nhưng dáng vẻ thư thái tinh thần trông thật sắc sảo. Vương liền khấu đầu bắt chuyện, thấy đạo lý rất huyền diệu bèn xin thờ làm thầy.
Ðạo Sĩ nói:
- Chỉ sợ quen nhàn rỗi không chịu nổi khó nhọc thôi.
Vương hứa là:
- Ðược.
Học trò Ðạo Sĩ đông lắm gần tối mới kéo hết về. Vương cùng họ cúi đầu làm lễ rồi lưu lại trong quán. Sáng tinh sương Ðạo Sĩ gọi Vương đưa cho cái búa, bảo theo đám học trò đi hái củi. Vương kính cẩn vâng lời. Ðược hơn một tháng tay chân phồng rộp thành chai cực khổ không chịu nổi, Vương đã ngầm có bụng muốn về.
Một buổi chiều trở về thấy hai người khách đang cùng thầy uống rượu. Trời đã tối mà chưa thấy đèn lửa gì cả. Thầy bèn cắt một miếng giấy như hình cái gương dán lên vách. Phút chốc ánh trăng vằng vặc soi sáng khắp nhà trông rõ từng sợi tơ cái tóc. Ðám học trò chạy quanh hầu hạ. Một người khách nói:
- Ðêm nay đẹp trời có thể vui chi nên cho ai nấy cùng vui.
Bèn lấy hồ rượu lên bàn chia cho các học trò, lại dặn nên uống thật say. Vương nghĩ bụng: Bảy tám người một hồ rượu làm sao cho đủ khắp được? Mỗi người đều đi tìm chén bát tranh nhau, rồi uống trước chỉ sợ rượu trong hồ hết mất. Thế mà rót hết lần này lượt khác vẫn chẳng vơi đi chút nào. Bụng thầm lấy làm lạ. Giây lát một vị khách nói:
- Ðã làm ơn ban cho ánh sáng trăng, mà lại chỉ tịch mịch uống suông. Sao không gọi Hằng Nga xuống chơi?
Ðạo sĩ bèn lấy một chiếc đũa vứt vào trong trăng. Bỗng thấy một người đẹp từ trong vùng ánh sáng bước ra: mới đầu chưa đầy một thước, xuống đến đất thì cao lớn như người thường, lưng thon nhỏ cổ trắng muốt phấp phới múa khúc Nghê thường. Rồi ca rằng:
Tiên tiên nào!
Về đây nao!
Giữ ta mãi chốn Quảng Hàn sao!
Âm thanh trong trẻo cao vút nghe hay như tiếng tiêu tiếng sáo. Ca xong uốn lượn mà đứng lên rồi nhảy lên mặt bàn, ngoảnh đi ngoảnh lại đã biến trở lại thành chiếc đũa. Ba người cùng cười lớn. Lại một vị khách nói:
- Ðêm nay vui quá nhưng uống vẫn chưa đã. Có thể đãi rượu tiếp chúng tôi trên cung nguyệt được chăng?
Ba người bàn rời chiếu tiệc bước vào dần trong trăng. Mọi người nhìn thấy rõ cả ba đang ngồi trong trăng uống rượu: râu, lông mày, đều trông thấy hết như bóng hiện trong gương. Một chốc ánh trăng mờ dần, đám học trò châm đèn mang đến thì một mình Ðạo Sĩ còn ngồi đấy mà khách đã biến đâu mất. Trên bàn thức nhắm hãy còn. Mà mặt trăng trên vách chỉ còn là miếng giấy tròn như tấm gương mà thôi. Ðạo Sĩ hỏi:
- Mọi người đã uống đủ cả chưa?
Các học trò cùng thưa:
- Ðủ cả.
- Ðủ rồi thì nên đi ngủ sớm đừng làm lỡ việc kiếm củi ngày mai.
Chúng học trò đều "vâng" mà lui ra. Vương lòng thầm thích thú hâm mộ, bụng muốn về lại tiêu tan. Lại một tháng nữa khổ không thể nào kham nổi, mà Ðạo Sĩ tuyệt không truyền dạy cho một phép nào. Sốt ruột không chờ được nữa Vương bèn lên cáo từ rằng:
- Ðệ tử này vượt mấy trăm dặm đường đến đây thụ nghiệp với thầy, dẫu chẳng học được cái thuật trường sinh bất tử, thì cũng mong thầy cho chút gì gọi là tấm lòng cầu học. Thế mà qua hai ba tháng chỉ những sáng đi kiếm củi tối lại trở về. Hồi còn ở nhà đệ tử chưa bao giờ phải chịu khổ như thế.
Ðạo Sĩ cười bảo:
- Ta vẫn nói là anh không kham nổi khó nhọc nay đã quả nhiên. Sáng mai sẽ cho anh về.
Vương nói:
- Ðệ tử làm lụng đã bao ngày xin thầy dạy qua cho một thuật mọn, khỏi phụ công lao đệ tử lặn tới tới đây.
Ðạo Sĩ hỏi:
- Muốn học thuật gì?
Vương đáp:
- Thường thấy thầy đi đâu tường vách không ngăn được. Chỉ xin một phép cũng đủ.
Ðạo Sĩ cười nhận lời. Bèn đem một bí quyết truyền cho, bảo miệng đọc mấy câu thần chú xong rồi hô:
- Vào đi.
Vương đối diện với một bức tường mà không dám vào.
Ðạo sĩ lại nói:
- Cứ vào thử đi!
Vương theo lời thong thả tiến lại đến tường thì bị vấp. Ðạo Sĩ bảo:
- Cúi đầu vào cho nhanh đừng lần chần.
Vương quả quyết đứng cách tường mấy bước lao nhanh tới. Gặp tường cảm thấy trống không có vật gì cả. Quay lại thì đã thấy mình ở bên kia tường rồi Vương mừng quá vào lạy tạ.
Ðạo Sĩ bảo:
- Về nhà nên giữ mình đứng đắn không thế thì phép không nghiệm nữa đâu.
Nói rồi cấp lộ phí cho mà về. Ðến nhà chàng khoe đã gặp tiên, tường vách dày đến đâu cũng không ngăn được mình. Vợ không tin. Vương làm đúng như lời đạo sĩ đã dạy, đứng cách tường mấy bước chạy ù vào. Ðầu đụng phải tường cứng bỗng ngã lăn đùng. Vợ Vương đỡ dậy nhìn xem thấy trán đã sưng lên như quả trứng lớn. Vợ Vương đưa ngón tay lêu lêu giễu cho. Vương vừa thẹn vừa ức chỉ biết chửi lão Ðạo Sĩ bất lương mà thôi.
Bồ Tùng Linh
#73
Gửi vào 17/06/2011 - 22:15
Nhiều người nói rằng người Việt Nam thường sợ ma hơn người Tây phương, vì ngay từ thuở nhỏ chúng ta đã được nghe người lớn kể chuyện ma, và những đứa nhỏ nào càng nhát gan bao nhiêu, lại càng thích nghe chuyện ma bấy nhiêu. Nhận xét này chưa chắc đã đúng vì các nước Tây phương cũng có rất nhiều người sợ ma, chứng cớ là một số chuyện ma được coi là có thật đã được đưa lên màn bạc, thu hút không biết bao nhiêu triệu khán giả trên thế giới.
Ngoài ra chắc hẳn quý độc giả cũng biết rằng Anh quốc được coi là quốc gia nhiều ma nhất Âu châu. Nhằm mục đích chứng minh rằng ma không phải chỉ hiện diện ở Việt Nam, mà có mặt trên khắp thế giới, đủ các loại ma từ ma da đen đến ma da đỏ, từ ma da trắng tới ma da vàng... Chúng tôi cố gắng sưu tập những chuyện ma trên thế giới để làm công việc của... Người kể chuyện ma.
Câu chuyện đầu tiên gởi tới quý vị hôm nay là chuyện “Ngôi nhà của bà cố” một chuyện ma Hoa Kỳ với tên các nhân vật được Việt Nam hóa để dễ nhớ, vì hễ có nhớ tên quý vị mới nhớ câu chuyện, mà có nhớ câu chuyện thì khi nào ở nhà một mình về đêm, quý vị mới biết thế nào là sợ ma.
Khi còn theo học bậc cao đẳng tôi cư ngụ trong một ngôi nhà do ông cố tôi xây từ năm 1915. Ông từ trần trong căn nhà này vào thập niên 1940 và bà cố tôi tiếp tục ở đó cho tới khi khăn gói đi tìm ông tôi vào năm 1978.
Bà cố rất thương tôi vì tôi là thằng chắt đầu tiên của ông bà, và tôi được đặt tên là An, tên của ông tôi. Căn nhà của ông bà cố là loại nhà hai tầng kiểu Victoria nằm cách mặt đường khoảng hai mươi thước. Trước nhà là hai cây xồi khổng lồ cành lá xum xuê khiến những ai không để ý, từ ngoài đường không thể nhìn rõ ngôi nhà.
Sau khi bà cố tôi từ trần, ông nội tôi chia ngôi nhà thành ba apartment rộng rãi, một apartment trên lầu với ba phòng ngủ, và hai apartmanet dưới nhà mỗi cái hai phòng ngủ, cho sinh viên mướn vì nhà chỉ cách trường đại học Winthrop chưa đầy hai trăm thước. Khi tôi lên đại học dĩ nhiên tôi tới ở đây, trong apartment trên lầu cùng hai bạn học, mỗi đứa một phòng. Hai căn dưới nhà mỗi căn cũng có hai sinh viên cư ngụ.
Sau khi ở đây chừng hai tháng, hai người bạn ở chung apartment với tôi cho biết nhiều đêm họ đột nhiên thức giấc vì có cảm tưởng rõ rệt là có người lạ mặt trong phòng. Vì đó là một cảm tưởng rất thực nên họ đã kiểm soát phòng tắm, phòng vệ sinh, cửa ra vào, cửa sổ, tủ áo... nhưng không thấy gì hết.
Tôi thú nhận với họ rằng chính tôi nhiều đêm cũng có cảm giác tương tự. Sau khi thảo luận, chúng tôi cho rằng có lẽ vì ngôi nhà quá cũ, thỉnh thỏang cột kèo sàn ván lại kêu cọt cà cọt kẹt khiến chúng tôi thức giấc và có thể có cảm tưởng như vậy.
Tuy nhiên các sinh viên ở hai apartment bên dưới cũng nói rằng, họ có cùng cảm giác như chúng tôi. Nhiều lần họ đột nhiên giật mình thức giấc giữa nữa đêm, với cảm tưởng có người lạ mặt trong phòng. Lời giải thích rằng ngôi nhà quá cũ, tạo nên những tiếng động khác thường vào lúc nữa đêm không thuyết phục được Bổn, một sinh viên ở tầng dưới và anh đã dọn ra ở chung với người bạn gái.
Mấy tuần sau một nữ sinh viên ở tầng trệt, cũng không chịu nổi cái cảm giác hãi hùng vào lúc nữa đêm về sáng, vì sự hiện diện vô hình nào đó nên cũng cuốn gói dọn đi nơi khác. Thực ra chính tôi cũng cảm thấy e ngại, và tuy không nói ra tất cả chúng tôi đều nghĩ rằng nhà có ma. Riêng tôi, tôi tự an ủi rằng nếu trong nhà thực sự có ma, thì hồn ma đó chắc chắn là của một người đã khuất trong gia đình tôi, và nếu hằng đêm hồn ma này có hiện về đi thăm từng phòng một chắc cũng chỉ để trông chừng chúng tôi mà thôi.
Những người còn lại cũng cố cho rằng, cảm tưởng bất thường đó bắt nguồn từ sự cũ kỹ của ngôi nhà và của hai cây xồi cổ thụ phía trước với những cành khẳng khiu rủ lá, nhiều khi trông như những cánh tay ma quờ quạng giữa đêm trường Tình trạng sống trong lo lắng và tự an ủi này kéo dài tới một buổi sáng tháng Tư năm 1990, khi tôi xuống lầu để tới trường cho kịp buổi diễn giảng vào lúc tám giờ. Vừa xuống được nữa cầu thang bên hông nhà, tôi thấy Hợp, một nữ sinh viên ngụ tại một căn phòng ở tầng dưới, ôm mền ngồi ở hiên trước.
Hợp là một nữ sinh viên cao đẳng nghệ thuật tại trường đại học Winthrop, và tuy không phải là bạn, chúng tôi dĩ nhiên phải biết nhau vì cùng ở chung một nhà. Sáng hôm đó mặt mũi Hợp trông bơ phờ mà tôi nghĩ rằng chữ “kinh hãi” có lẽ gần đúng hơn, và có vẻ chờ đợi tôi. Khi tôi chào cô và hỏi cô có việc gì mà ôm mền ngồi trước cửa, Hợp kể cho tôi nghe một kinh nghiệm hãi hùng bằng một giọng còn run rẩy. Cô cho biết đêm hôm trước cô thức khuya nằm trên giường đọc sách, vừa đọc vừa vuốt ve con mèo nhỏ nằm cạnh cô.
Đột nhiên con mèo như “cứng mình lại” (nguyên văn lời Hợp nói) và gừ gừ một cách hãi hùng. Hợp bèn đặt quyển sách xuống, hướng tầm mắt về phía con mèo đang gừ gừ, và đột nhiên cô lạnh toát cả xương sống khi thấy hình dáng một bà lão bé nhỏ có vẻ lâng lâng như sương khói, đang ngồi trên một cái ghế cách giường ngủ của cô khoảng năm sáu thước, nhìn chầm chập vào cô bằng đôi mắt, hay nói đúng hơn bằng hai hốc mắt đen ngòm sâu thẳm.
Sự kinh hoàng khiến Hợp nằm chết cứng, tiếng la kinh hoàng của cô bị tắc nghẽn trong cổ họng, đôi mắt trợn trừng nhìn “hình dáng” bà lão bé nhỏ lâng lâng như sương khói mà Hợp biết chắc là một hồn ma. Tình trạng hãi hùng này có lẽ chỉ diễn ra trong năm mười giây đồng hồ, nhưng đối với Hợp dài như vô tận. Khi
“hình dáng” bà lão đột nhiên tan biến, Hợp mới vùng thoát ra được sự kinh hoàng vẫn giữ chặt cô trên giường, ngồi bật dậy chụp lấy cái mền phóng xuống giường, lao mình đẩy tung cửa trước chạy ra ngồi run rẩy suốt đêm dưới hiên trước cho đến sáng.
Thoạt tiên bản chất nghệ sĩ cũng như lối ăn mặc bất cần đời của Hợp, khiến tôi nghĩ rằng có lẽ cô đã uống rượu hoặc hút cần sa ma túy tạo cho cô cái ảo giác đó. Nói cách khác tôi không tin một chút nào câu chuyện của cô. Dù sao tôi cũng tìm lời an ủi Hợp và nói rằng, có thể cô gặp cơn ác mộng hoặc một cái gì đó, nhưng Hợp cả quyết rằng những gì nàng vừa kể hoàn toàn là sự thật một trăm phần trăm.
Chiều hôm đó trước khi trở lại nhà, tôi ghé nhà cha mẹ tôi cũng ở gần đó, và kể cho cha tôi câu chuyện của Hợp. Cha tôi nghe một cách chăm chú rồi hỏi tôi xem ông có thể gặp và nói chuyện với Hợp được không. Tôi bèn điện thoại cho Hợp, nói với cô rằng tôi đã kể câu chuyện mà cô nói với tôi hồi sáng cho cha tôi nghe, và bây giờ cha tôi muốn tới gặp cô.
Hợp đồng ý có lẽ chỉ vì cô biết cha tôi là chủ nhà. Trước khi lên đường cha tôi lấy một bức hình của bà cố tôi bỏ vào túi. Khi chúng tôi tới nơi Hợp vẫn có vẻ bồn chồn bứt rứt. Khi cô kể lại câu chuyện mà tôi đã nghe vào buổi sáng, cha tôi có vẻ chăm chú lắng nghe. Khi cô kể xong cha tôi nói rằng “hình dáng” bà lão bé nhỏ mà Hợp nhìn thấy trong đêm có thể là bà cố tôi.
Tôi thấy rõ vẻ hãi hùng trong đôi mắt Hợp khi nghe câu “kết luận” của ba tôi. Khi ba tôi hỏi Hợp xem cô có muốn coi hình bà cố tôi, xem có phải là người mà cô đã gặp đêm hôm trước hay không, Hợp có vẻ ngần ngại nhưng rồi đồng ý. Khi ba tôi đưa bức hình bà cố tôi ra trước mắt Hợp, cô chỉ nhìn bức hình trong khoảng hai giây rồi gục xuống cái ghế kế bên, vừa khóc nức nở vừa đưa tay đẩy bức hình ra xa.
Không một diễn viên thượng thặng nào có thể diễn xuất nét mặt kinh hoàng của Hợp khi nhìn thấy bức hình của hồn ma mà nàng đã đối diện đêm hôm trước, và không còn nghi ngờ gì nữa, chính hồn ma của bà cố tôi đã trở về ngôi nhà cũ, thăm lại từng căn phòng quen thuộc ngày xưa.
Để Hợp thổn thức trong vài phút, ba tôi tìm lời khuyên nhủ khi nói với nàng rằng, bà cố tôi là một người rất tốt luôn giúp đỡ mọi người, và bà chỉ trở về thăm lại nơi bà đã sống hạnh phúc một đời chứ không hề quấy phá ai. Ngay cả việc Hợp nhìn thấy hồn ma của bà, khiến nàng kinh hãi cũng là một sự bất ngờ mà có lẽ chính bà không muốn. Tuy nhiên vì ba tôi rất thật thà nên ông nói thêm rằng, có thể bà cố tôi đã về ngồi yên lặng trong phòng Hợp nhiều lần mà Hợp không biết, lần này Hợp mới thấy chỉ vì con mèo gừ gừ khi trông thấy bà và bà biến đi không kịp.
Tôi không kịp cản cha tôi vì tôi biết rằng những gì ông nói chỉ khiến Hợp hãi hùng hơn, vì chỉ nhìn thấy bà có một lần nàng đã gần muốn chết, nếu bà đã lui tới phòng nàng nhiều lần, chắc Hợp sẽ không thể ở thêm một ngày. Khi Hợp đã thôi thổn thức tuy những nét hãi hùng vẫn còn in đậm trên khuôn mặt bơ phờ mất ngủ, người cha thật thà của tôi lại nói rằng phòng này chính là phòng ngủ ngày trước của bà cố tôi và cũng chính là nơi bà trút hơi thở sau cùng.
Tôi không hiểu làm sao Hợp có thể ở lại qua đêm hôm đó, vì mãi tới chiều hôm sau, sau khi tìm được một nơi tạm trú với một người bạn, nàng mới dọn ra khỏi ngôi nhà và từ đó không bao giờ Hợp còn trở lại ngôi nhà này nữa. Một điều tôi biết chắc là trong tương lai nếu có ai hỏi Hợp rằng nàng có tin là có ma hay không, và nàng có bao giờ gặp ma hay chưa, cả hai câu trả lời chắc chắn có thể xác định.
Quý độc giả vừa đọc câu chuyện của một sinh viên viện đại học Winthrop Hoa Kỳ nói về trường hợp hồn ma bà cố của anh hiện về. Sau đây là câu chuyện của một thiếu nữ Hoa Kỳ... Người đàn ông làm việc với mẹ tôi nhận thấy mẹ tôi có vẻ lo lắng bứt rứt, không được bình thường. Mẹ tôi nói với ông ta rằng có lẽ ông ta nói đúng vì khi đi qua cửa phòng tôi, từ trong khóe mắt mẹ tôi nhìn thấy một bóng người màu trắng.
Khi đó tôi mới mười bẩy tuổi và còn sống với mẹ. Không hiểu tại sao tuy chưa hề biết ba tôi, tự nhiên người đàn ông mô tả hình dáng ba tôi cho mẹ tôi nghe và nói rằng cha tôi đã chết một cách dữ dội. Mẹ tôi thú nhận rằng cha tôi lái xe trong lúc say sưa và đã chết trong một tai nạn khủng khiếp, tới độ cảnh sát không biết ai là người lái. Người đàn ông này nói thêm rằng tuy đã chết, cha tôi luôn theo phù hộ tôi. Khi được mẹ tôi cho biết điều này, tôi bắt đầu nhận thức được rằng quả thực có một điều gì bất thường đã xẩy ra cho tôi, vào tối chủ nhật hoặc tối thứ hai tuần trước.
Tối hôm đó khi đi ngang qua phòng ngủ của tôi để tới phòng mẹ tôi, tôi đã trông thấy một cái gì đó mà tôi không biết chắc là cái gì. Rồi cách đây bốn hôm, một buổi tối trong khi đang cố ngủ, đột nhiên tôi cảm thấy như bị bao phủ bởi một luồng khí lạnh. Tôi quấn chặt cái mền quanh mình nhưng vẫn run rẩy vì luồng khí lạnh vẫn phủ kín người tôi. Nhưng rồi tôi đi vào giấc ngủ lúc nào không biết. Khi tôi kể chuyện này cho một chuyên viên thần linh học, ông ta nói rằng khi tôi cảm thấy bị bao phủ bởi luồng khí lạnh, đó là lúc ba tôi hiện về đứng bên giường nhìn tôi.
Tối hôm qua một việc bất thường khác lại xẩy ra. Trong khi tôi đang ngồi trên sa lông vừa hút thuốc (tôi cầm điếu thuốc bằng tay trái) vừa nghe nhạc, thì đột nhiên từ một khóe mắt, tôi nhận thấy như có một cái gì trăng trắng. Tôi quay đầu sang bên phải và nhìn thấy vật trắng đó, có vẻ như khói thuốc, nhưng không phải khói từ điếu thuốc tôi đang cầm vì điếu thuốc ở tay trái, mà tôi lại đang nhìn về phía tay mặt. Tôi nhìn chăm chú vào “vật” trắng, hay nói đúng hơn là làn sương hoặc làn khói trắng cho đến khi nó tan biến, nhưng trước khi tan biến, làn sương khói này tạo thành hình một bàn tay khiến tôi toát mồ hôi lạnh, toàn thân như tê liệt trong khi đôi mắt vẫn trừng trừng nhìn vào bàn tay cho đến khi nó hoàn toàn tan biến vào hư không.
Ngoài hai việc bất thường trên, một việc nữa cũng xẩy ra cho tôi, có liên hệ tới một người con trai mà tôi thương mến. Người bạn trai của tôi tên là Thông, và tuy chỉ mới biết nhau khoảng ba bốn tháng, mối liên hệ giữa chúng tôi đã trở nên vô cùng thân thiết và tôi dành cho Thông một cảm tình đặc biệt. Nhưng rồi Thông đột ngột từ trần và kể từ khi anh chết tới nay, tôi đã nằm mơ thấy anh cả thẩy ba lần nhưng tôi không hiểu những giấc mơ đó có ý nghĩa gì. Khoảng hai tháng sau khi Thông chết, tôi nằm mơ thấy mình đang có mặt trong một bữa tiệc và Thông đang ngồi trên một cái skateboard. Khi tôi bước tới với anh, anh ngước nhìn tôi với đôi mắt vô hồn, đen thẳm không tròng trắng, không con ngươi mà chỉ là hai tròng đen thật đen khiến tôi hãi hùng. Và cho tới nay tôi vẫn nguyên cảm giác đó.
Rồi mấy tháng sau khi tôi tới nghỉ hè ở nhà một người bạn, một đêm tôi nằm mơ thấy Thông tới nhà tôi. Trong khi nói chuyện với tôi, Thông khóc và hỏi tôi rằng tôi có bao giờ nghĩ tới anh không. Tôi nói rằng tôi luôn luôn lo lắng cho anh và tôi cũng khóc. Thông đứng dậy giã từ và nói rằng anh sẽ gặp lại tôi. Trong giấc mơ cuối cùng, tôi thấy mình đang ở trong một ngôi nhà với ba người bạn thì một cơn lốc kéo tới. Chúng tôi chạy xuống tầng trệt và tôi chạy về phía cuối một căn phòng.
Tới nơi đột nhiên tôi nghe tiếng Thông thật rõ ràng bảo tôi chui xuống dưới cầu thang. Tôi vừa chui xuống phía dưới cầu thang thì cơn lốc cuốn tung mái nhà và xô đổ cả bốn bức tường khiến cả ngôi nhà bị văng đầy gạch ngói, chỉ có chỗ tôi nấp là được an toàn. Thông nói với tôi rằng anh không bao giờ muốn làm hại tôi và tôi nên hiểu rằng tuy anh đã đi rồi, một ngày gần đây chúng tôi sẽ gập lại. Khi nghe câu nói cuối cùng của anh tôi bừng tỉnh. Điều đáng nói là tôi rất yêu Thông nhưng không cho ai biết mãi tới sau khi anh chết.
Nhưng hình như Thông đã khám phá hoặc đã biết điều này trước khi anh chết. Khi viết lại những hàng chữ này, tôi không biết có thực cha tôi vẫn theo phù hộ tôi như một đồng nghiệp của mẹ tôi đã nói hay không? Không biết Thông có theo bảo vệ tôi không? Không biết hai hồn ma mà tôi thương yêu có đụng độ với nhau hay không? Và không biết câu nói của Thông “Một ngày gần đây chúng mình sẽ gặp lại” có nghĩa là một ngày gần đây anh sẽ về “bắt” tôi, hoặc run rủi cho tôi gặp tai nạn để đón tôi về bên kia thế giới hay không?
HLT
#74
Gửi vào 17/06/2011 - 22:23
Tiếng gõ cửa dồn dập lẫn trong những tiếng gọi gấp gáp:
- Tâm ơi... Tâm ơi ...
Khiến tôi phải dừng gõ bàn phím máy tính lao vội ra mở cửa. Ối cha mẹ ơi.. một con mèo đen khổng lồ. Tôi hoảng hốt bật lùi về sau mấy bước, nghe trong lồng ngực trái những tiếng đập thình thịch loạn xạ hơn cả khi xem phim kinh dị. Ô mà không..không phải mèo. Là người.. người mặt mèo. Lại không.. không phải thế.
Sau một lát đứng trừng trừng nhìn tôi, cái mặt mèo ấy đang chuyển dần thành cái mặt người. Ơ sao lại là mặt..của tôi. Chỉ trong khoảng vài phút, cái mặt bên trên cái thân thể người đang đứng trước cửa căn hộ của tôi, đã biến đổi liên tục như thế khiến tôi hoảng hồn khắp người túa mồ hôi, run lẩy bẩy như đang bệnh nặng. Tôi định đóng sầm cửa lại, nhưng cái người giờ mang gương mặt của tôi ấy đã nói vội:
- Đừng sợ Tâm. Lê đây mà. Để tao vào nhà đã rồi sẽ nói mọi chuyện.
Tôi lại choáng thêm một cú nữa. Trời ạ đúng là giọng thằng Lê bạn tôi. Cái dáng người tầm thước đúng là nó rồi. Mái tóc vuốt keo bóng mượt đúng là nó rồi. Bộ quần áo cái đồng hồ đeo tay, cũng giống những thứ mà nó hay dùng. Mà sao cái mặt nó lại biến thành mặt mèo rồi thành mặt tôi nhỉ? Quái lạ thật! Chẳng biết là Lê hay là ma nữa. Chẳng biết hôm nay là ngày gì, có phải ngày ma quỷ hiện hình trêu chọc, quấy đảo nhân gian hay không? Hay là mình ngủ mơ?
Trong lúc tôi còn đứng ngẩn ra với một mớ nghi vấn trong đầu, cái người ấy đã đi vội vào nhà. Tôi quờ tay kéo cánh cửa đóng sầm lại rồi đảo mắt nhìn vào trong. Người ấy đang lặng lẽ ngồi xuống ghế. Vậy ra không phải tôi mơ tôi đang tỉnh đây mà. Tôi bước vào nhà rụt rè ngồi xuống chiếc ghế đối diện với người ấy. Tôi chăm chăm nhìn vào mặt hắn, nhưng hắn lại cố không nhìn vào mặt tôi. Và tôi lại thêm một lần kinh ngạc khi thấy cái mặt của hắn, đã chuyển từ mặt tôi về đúng mặt của Lê. Vậy đúng là Lê thật rồi. Vẫn không nhìn tôi Lê thở dài nói:
- Tao mà nhìn mặt mày nữa, là cái mặt tao lại hóa ra mặt mày như lúc nãy.
Tôi giật mình. Té ra lúc nãy cái mặt mèo biến thành mặt tôi là bởi khi tôi mở cửa, Lê đã nhìn vào mặt tôi. Còn cái mặt mèo của Lê, chẳng lẽ...?
- Trước khi vào nhà tao, mày nhìn mặt một con mèo phải không?
- Ừ tao không có ý định vào nhà mày lúc này đâu. Nhưng lúc đi bộ ngang qua chung cư của mày, tao gặp con mèo bộ lông đen tuyền đứng ngu ngơ ngay giữa lề đường. Nó nhìn tao và tao cũng dừng chân nhìn vào mặt nó. Tao vốn thích mèo mà. Đang định kêu meo meo với nó tao bị một cơn gió nhỏ cuốn qua, hắt một ít bụi vào mặt.
Đưa tay lên chùi mặt chạm vào một mảng lông êm mượt. Giật mình tao xoa vội khắp mặt mình, thấy chỗ nào cũng đầy lông cả. Ở hai bên miệng còn rờ thấy mấy sợi lông dài cứng như râu mèo. Tao vội ngó vào cánh cửa kính của ngôi nhà bên cạnh và thấy cái mặt mình đã thành ra mặt mèo. Hoảng quá sợ ai đó nhìn thấy, tao vội lao vào cầu thang chung cư, cứ thế chạy lên đến tận lầu năm rồi nhào tới gõ cửa nhà mày.
Thật là một câu chuyện kỳ quái ngoài sức tưởng tượng của tôi. Tôi ngồi đần mặt ra nhìn Lê như nhìn một sinh vật vũ trụ vừa đột nhiên rơi huỵch xuống trái đất này. Lê vẫn không nhìn tôi chắc vẫn sợ mặt mình lại biến thành mặt tôi như lúc nãy. Ô mà sao mặt Lê lại không còn sắc nét rành mạch, đầy cá tính như trước kia nữa. Nom cứ mập mờ thế nào ấy. Quái lạ thật? Hay là nó bị căn bệnh bí hiểm nào đó?
- Trước khi gặp con mèo, mày có... từng bị như vậy không? Tôi hỏi.
- Có trước đó tao cứ nhìn vào mặt ai một lát là mặt tao lại biến thành mặt người đó. Hôm nay không chỉ biến thành mặt người mà còn biến cả ra mặt mèo. Sợ quá không biết là sao nữa?
- Mày bị vậy lâu chưa. Có biết vì sao bị không?
- Không..chẳng biết vì sao cả. Tao chỉ nhớ cách đây một tháng sếp gọi tao lên gặp riêng. Trong khi sếp nói tao chăm chú ngồi nghe và kính cẩn nhìn vào thẳng vào mặt ông ta. Mày biết rồi đấy lâu nay tao vẫn luôn ngưỡng mộ sếp mà. Tao còn bắt chước những kiểu cách trang phục, lời ăn tiếng nói sở thích của sếp nữa...Mày đừng vội chửi tao nhé. Tao chỉ giả vờ thần tượng lão thôi. Để tồn tại và có cơ hội thăng tiến ở cơ quan mà. lão ấy nhờ có ô dù nên mới lên chức lên quyền vậy mà hay lên mặt cao ngạo dạy đời, chỉ hứa hẹn những điều viển vông, bạo ngược và những trò ăn bẩn của lão, thôi nói ngoài lề nhiều rồi, tao kể tiếp nhé... Đang nói sếp chợt im bặt mặt hơi tái đi trợn mắt nhìn lom lom vào mặt tao. Rồi ông ta hỏi gắt:
- Cậu.. cậu làm trò gì thế?
Tao ngỡ ngàng hỏi lại:
- Thưa anh em có làm gì đâu ạ. Em vẫn đang nghe anh nói mà.
- Nhưng cái mặt..cái mặt của cậu tại sao lại..lại giống mặt tôi thế?
- Dạ sao lại giống được ạ? Mặt em vẫn là mặt em mà. Đâu có giống mặt của sếp đâu ạ.
- Không phải mặt của cậu nữa rồi mà là mặt tôi. Cậu.. cậu soi gương đi.
Sếp lập cập đẩy cho tao cái gương nhỏ đang để trên bàn. Tao vội chụp lấy soi mặt mình vào. Trời ơi đúng là cái mặt tao đã thành mặt sếp. Tao hoang mang quá không biết chuyện gì đang xảy ra nữa, hết ngẩng lên nhìn vào mặt sếp rồi lại cúi nhìn vào trong gương. Rồi tao dùng những ngón tay xoa nắn, cấu véo mọi chỗ trên mặt, thấy vẫn đúng là thịt da mình. Sếp cũng có vẻ sợ, cứ hỏi dồn xem tao có bị bệnh gì không hay là có phép thuật gì đó không. Tao ú ớ chẳng biết trả lời sao cả, nên không dám nhìn vào mặt sếp nữa, mà cứ cúi mặt xuống đất. Chừng vài phút sau sếp lại kêu toáng lên:
- Ơ kìa cái mặt cậu sao lại..đúng là mặt của cậu rồi.
Tao ngỡ ngàng lại soi mặt vào gương. Ồ đúng lại là cái mặt của mình rồi. Quái lạ thật chẳng hiểu làm sao nữa. Sếp chợt bảo:
- Này hay cậu lại nhìn vào mặt tôi một lát nữa đi.
Hiểu ra ý tứ của sếp tao lại nhìn vào mặt ông ta. Một lát sau ông ta lại kêu lên:
- Mặt cậu lại đang.. biến thành mặt tôi rồi.
Tao lại nhìn vào gương đúng là cái mặt mình lại đã biến thành mặt sếp.
- Cậu đừng nhìn mặt tôi nữa cứ nhìn vào gương thôi.
Sếp lại gợi ý. Tao nghe lời và chừng vài phút sau lại thấy trong gương, cái mặt giống sếp biến dần trở lại thành mặt tao. Tao và sếp thử đi thử lại vài lần đều vậy cả. Sau đó sếp bảo không thử nữa rồi lại gặng hỏi tao:
- Này đúng là cậu không có tà thuật gì chứ?
- Vâng ạ. Em thề với anh là em chẳng biết tà thuật gì hết. Em cũng chẳng hiểu làm sao lại xảy ra chuyện như vậy nữa.
Sếp có vẻ không tin cứ nhìn xoáy vào mắt tao. Lát sau ông ta bảo tao quay về chỗ làm. Lúc khép cửa phòng sếp lại, tao vẫn thấy ông ta đang nhìn theo với ánh mắt ngờ vực. Chắc ông ấy nghĩ tao đang giở trò gì đấy. Tao thấy sợ cái nhìn của sếp quá. Trở về phòng mình tao hoang mang lắm cứ ngồi nghĩ mãi về chuyện ấy. Lúc ấy trong phòng cũng đang có hai người nữa, thằng Thu kém tao mấy tuổi và bà Như già nhất phòng. Tao chợt nghĩ thử nhìn mặt mấy người này xem sao. Đầu tiên tao nhìn mặt thằng Thu một lát rồi soi mặt mình vào mặt kính của điện thoại di động. Trời ạ mặt tao cũng đã biến thành mặt nó rồi. Tao lại nhìn mặt bà Như rồi lại nhìn gương. Cũng thế. Đúng là đã có một điều gì đó rất kỳ quái ám vào người tao rồi.
Hết giờ làm việc tao lấy xe chạy một mạch đến phòng mạch tư của ông bác sĩ quen. Từ lúc rời khỏi phòng lấy xe rồi đi trên đường, tao chẳng dám nhìn mặt ai lâu. Sợ cái mặt lại biến đổi lung tung. Xui quá ông bác sĩ lại đang đi xa vài ngày. Tao định đến một bệnh viện nào đấy. Nhưng lại thôi. Tao sợ đến chỗ đông người. Vả lại chắc gì họ đã tìm được nguyên nhân. Về đến chỗ trọ cả đêm ấy tao cứ trằn trọc mãi. Đến gần sáng mới chợp mắt được một chút.
Sáng ra vừa nhìn thấy mặt tao, mụ chủ nhà đã nheo nhéo đòi tiền nhà. Mụ đòi cũng đúng thôi vì tao đã trễ tiền nhà tháng trước mấy ngày rồi. Nhưng cái kiểu vừa đòi tiền vừa chửi người của mụ khiến tao bỗng thấy bực. Đầu tao chợt nghĩ ra một trò nghịch ác. Đưa tiền cho mụ xong tao lén đến gần chỗ lão chồng mụ đang tưới mấy chậu hoa nhìn vào mặt lão. Khi biết mặt mình đã biến thành mặt lão, tao chạy đến chỗ mụ chủ, thẳng tay tát cho mụ ấy một cái thật mạnh rồi chạy biến. Mụ chủ chắc phải nổ đom đóm mắt nên sau khi định thần, đã lao đến chỗ lão chủ vừa tru tréo chửi, vừa tát bôm bốp vào mặt lão.
Thế là hai vợ chồng chủ nhà xảy ra một trận ẩu đả, chửi mắng nhau tưng bừng. Còn tao thì thong dong dắt xe đi làm đắc chí cười thầm. Khi đến cơ quan tao lại giở những trò quái ác với đồng nghiệp, nhất là những kẻ mà tao vốn không ưa. Chẳng hạn biến thành mặt gã này để hôn trộm lên má ả kia...
Tao cũng chẳng chừa lão giám đốc vì tao biết, từ hôm thấy mặt tao biến thành mặt lão, lão vừa nghi ngờ vừa sợ, nên đã rắp tâm chuẩn bị đuổi việc tao. Đã mấy lần tao lén nhìn và biến thành mặt lão rồi chay đi sờ soạng lung tung mấy em mơn mởn trong cơ quan. Thế là việc giám đốc sàm sỡ với nhân viên dưới quyền cứ ầm ào cả lên. Tất nhiên lão biết ai là thủ phạm những trò ấy nên cho tao về vườn ngay. Đã thế tao phá tiếp. Tao lẻn vào nhà lão nhìn và biến thành mặt lão rồi đi tới ôm hôn em ôsin trẻ ngay trước mặt vợ lão rồi chạy biến đi. Chuyện gì xảy ra sau đó chắc mày cũng đoán được rồi.
Cứ thế suốt thời gian thất nghiệp vừa qua, tao cứ dùng cái mặt biến hình của mình đi chọc ghẹo lung tung. Mãi cho đến vừa rồi khi bị biến thành mặt mèo, thì tao mới thấy sợ, sợ lắm chẳng còn hứng thú gì với trò biến mặt nữa. Tao sợ chẳng biết rồi đây cái mặt mình còn có thể biến đổi ra sao nữa. Liệu có nhìn mặt bàn rồi cũng biến ra mặt bàn, nhìn mặt ghế biến thành mặt ghế.. không.. Tôi suýt phì cười nhưng kiềm ngay được. Cái mặt rầu rĩ của thằng Lê quá đủ để biến tiếng cười ấy của tôi thành lố bịch vô duyên. Ngẫm nghĩ một lát tôi bảo nó:
- Tao có quen một ông bác sĩ. Cũng là một nhân vật kỳ quặc. Ông này không mở phòng mạch tư kiếm tiền làm giàu, mà chỉ dành thời gian rảnh để nghiên cứu những bệnh lạ hay những khả năng kỳ quái của con người. Mày thử đến gặp ông ta xem sao.
Lê nghĩ ngợi rồi gật đầu:
- Mày đưa tao đến chỗ ông ấy nhé!
***
Tôi bất ngờ khi thấy ông bác sĩ không hề ngạc nhiên trước sự biến đổi kỳ quái của cái mặt Lê, kể cả khi mặt hắn biến thành mặt của ông ta. Ông bảo chuyện lạ như thế ông cũng đã gặp không ít lần. Nhưng ông bác sĩ cũng chịu chẳng biết nguyên nhân. Vì thế ông cũng chẳng thể có phương pháp điều trị nào cả. Bác sĩ chỉ e rằng càng ngày, việc biến đổi trên mặt Lê càng nhanh hơn nữa. Chẳng hạn hiện giờ phải mất vài phút nhìn vào mặt người khác, mặt Lê mới biến thành mặt của người ấy. Nhưng sau này có khi chỉ vừa nhìn là đã lập tức biến ngay rồi. Lúc ấy cứ tới gặp ông ta xem có giúp được gì không.
Và rồi nỗi lo ngại của Lê và lời tiên đoán của ông bác sĩ đã trở thành sự thật. Một hôm nọ Lê lại gõ cửa nhà tôi ầm ầm. Khi tôi ra mở cửa thấy hắn che kín mặt bằng một cái khẩu trang to và một chiếc kính đen bự. Hắn vội gỡ kính và khẩu trang ra, để cho tôi thấy cái mặt hắn đã biến thành mặt tôi nhanh như thế nào, nhanh hơn hẳn so với lần trước đó. Lê hấp tấp vào nhà hổn hển bảo:
- Chết.. chết thật rồi..mày ơi. Bây giờ..tao cứ nhìn thấy mặt ai..là mặt tao..biến ngay ra mặt người ấy..Tao sợ.. chỉ mai mốt.. chỉ cần nghĩ đến ai...là mặt tao..cũng biến.. thành mặt người đó rồi.
Tôi lại vội vàng chở Lê đến gặp ông bác sĩ. Nghe Lê kể xong bác sĩ lẳng lặng lấy ra một loại máy ảnh có kiểu cách khá lạ, hướng thẳng vào mặt Lê. Chụp xong ông kết nối máy ảnh với máy vi tính để đưa hình vào đấy. Rồi ông bảo Lê:
- Bây giờ anh nên ở lại đây vài ngày để tôi làm cho anh một cái mặt nạ.
- Thưa bác sĩ! Mặt nạ gì ạ?
Lê ngơ ngác hỏi.
- Mặt nạ giống hệt mặt thật của anh. Anh không thể lúc nào cũng đeo kính đen và khẩu trang kín mít như vậy được. Những lúc ngồi trong phòng làm việc, gặp gỡ ai, hay hội họp, ăn uống.. anh cũng phải để cái mặt mình ra ngoài chứ. Mặt nạ này làm bằng những chất liệu mà tôi xin giữ bí mật, trông nó giống hệt da người. Khi anh dán mặt nạ này lên mặt mình, tha hồ cho cái mặt thật của anh bên dưới mặt nạ có biến ra mặt ai đi nữa thì người ta cũng sẽ không biết đâu. Nhưng cũng xin nói là anh nên tránh nhìn vào mặt thú vật. Lỡ mặt anh biến thành mặt chó với cái mõm dài ra hay biến thành... mặt voi có cái vòi lủng lẳng, thì cái mặt nạ này làm sao còn che chắn cho anh được nữa...
Nghĩ ngợi một lát Lê gật đầu đồng ý. Tôi bèn để Lê lại đó đi về nhà. Mấy hôm sau Lê gọi điện cho tôi, báo là bác sĩ đã làm xong cho nó một cái mặt nạ rồi. Nó cảm thấy hơi bất an nên muốn tôi đến trước thời khắc nó dán cái mặt nạ ấy lên mặt. Khi tôi đến Lê đang bồn chồn xem xét cái mặt nạ cầm trên tay. Tôi nhìn kỹ cái mặt nạ ấy thật là hoàn hảo, chẳng khác gì mặt của Lê cả về hình dạng lẫn sắc thái, như thể vừa được lột ra từ mặt Lê vậy.
Khi ông bác sĩ dán mặt nạ lên trên mặt Lê, tôi không thấy được bất kỳ một điểm khác biệt nhỏ nhoi nào giữa cái mặt thật của nó với cái mặt bây giờ. Khi đưa cái gương cho Lê soi mặt, tôi tưởng nó sẽ thấy hài lòng. Nhưng sau một hồi trân trân nhìn cái mặt trong gương, Lê bỗng cất lên những tràng cười man dại, rồi lại tru lên khóc nức nở. Khi tạm lắng cơn cười khóc bất thường ấy, Lê nói giọng chua chát:
- Người ta chỉ đeo mặt nạ kẻ khác. Còn tao chẳng ngờ... giờ đây lại luôn phải đeo mặt nạ của chính mình.
Rồi Lê chạy vụt ra ngoài. Tôi hốt hoảng đuổi theo mà không kịp.
***
Từ đấy tôi không gặp lại Lê. Nó không về chỗ trọ ấy nữa. Số điện thoại cầm tay nó cũng bỏ luôn từ hôm ấy. Tôi đã nhiều lần dò hỏi tung tích nó mà chẳng được. Chẳng biết bây giờ Lê sống ra sao với chiếc mặt nạ ấy. Còn tôi bỗng dưng có thêm một thói quen: cứ chốc chốc tôi lại nhìn vào gương hoặc đưa tay sờ nắn khắp mặt mình...
Trần Thanh Sơn
#75
Gửi vào 17/06/2011 - 22:28
- Cậu hãy bám theo cô ta từ địa chỉ này trước không giờ. Sau đó đạp vào mũi xe cô ta hoặc làm thế nào đó tùy cậu lúc cô ta chạy qua cầu, nhớ là phải lựa ngay đoạn thanh sắt đã gãy chỗ tôi sẽ chỉ cho cậu. Số tiền này sẽ thuộc về cậu.
- Thời hạn bao lâu?
- Càng sớm càng tốt. Mà thôi một tháng được không? Chắc chắn rồi một tháng, tôi không thể chờ lâu hơn.
- Ông thông cảm, đây là việc tôi không bao giờ nghĩ là mình sẽ làm trong đời. Nhưng...
- Tôi biết rất biết cái chữ nhưng của cậu. Cậu cần tiền!
- Tại sao ông nghĩ vậy? Trong khi ông chưa hề gặp tôi chẳng biết tôi là ai...
- Người ta không cần phải lên đến mặt trăng mới biết trên ấy không có nước.
- Mà tại sao ông lại chọn tôi để nhờ việc này?
- Tôi chọn ngẫu nhiên.
- Ngẫu nhiên? Ngẫu nhiên mà ông biết tôi cần tiền?
- Ai không cần tiền, nào cậu chỉ cho tôi quanh đây có ai không cần tiền? Tôi biết cậu có thể nhìn vào mặt tôi và nói một câu cũ rích: Tiền bạc không phải là tất cả! Nhưng tôi nói lại cho cậu nghe: Người ta không thể làm bất cứ điều gì nếu không có tiền.
***
Đêm cuối thu. Lạnh. Ánh đèn soi rờn rợn mặt nước sâu đen. Anh ném thử một cục đá. Dường như không phải tiếng "tõm" quen thuộc, mà là một âm trầm đục hơn, đó là tiếng "phụp". Như vậy là nước rất đặc. Một đoạn lan can bê tông đã gãy, trơ ra mấy đầu sắt hoen gỉ. Từ đó xuống mặt nước khoảng cách chừng bốn mét. Một người lộn xuống cái chất đen đặc dưới kia sẽ nuốt chửng toàn bộ. Y như một nấm mồ được lấp tự động. Và cô ta sẽ chìm. Mất dấu vĩnh viễn.
Mặt anh đầy nước. Một thứ nước cay cay nhớt không rõ là gì. Ngoài lộ xa tít tắp có tiếng còi xe cứu thương âm thanh mồn một, ít ra lúc này cũng là ba giờ sáng. Anh quờ tay. Cái bì thư dày cộm vẫn nằm dưới gối. Một số tiền khiến anh hoảng loạn. Nó vẫn ở đó tất cả là sự thực. Sự thực như ba đêm rồi trôi qua anh choàng dậy nửa khuya vẫn thấy nó ở đó. Cái bì thư đã rã ra hở cả cạnh mấy tờ bạc lấp ló.
***
- A lô công việc của cậu đến đâu rồi. Cái điện thoại xài được chứ. Cậu nghe tôi nói rõ không?
- Cảm ơn nghe rõ. Hay là...
- Cậu đã cầm tiền của tôi. Việc chẳng thể "hay là" được nữa rồi! Tôi khuyên cậu đừng nghĩ đến việc chạy trốn hay hủy bỏ hợp đồng với tôi. Tôi vẫn còn nhiều cái bì thư như thế, để đưa cho nhiều thằng khác nữa giống cậu. Và đêm trước là cô ta hôm sau đến lượt cậu. Dòng sông ấy đủ chứa vô số người mà! Hê hề, mà tôi đùa đó...
- Tôi không thích đùa kiểu này chút nào.
- Rồi vậy không đùa nữa. Bản chất tôi cũng chẳng thích đùa chút nào. Đêm qua cô ấy về lúc mấy giờ?
- Tôi chưa nhận diện được cô ấy. Thật tình tôi đã đứng và chờ, nhưng hình như cô ấy không đến điểm mà ông dặn.
- Rồi cô ta sẽ đến. Cậu đã mất ba ngày trong số ba mươi ngày rồi đó. Tôi dặn lại một lần nữa nhé. Cô ta luôn mặc toàn màu đen. Đấy, đấy chính là lý do tôi chọn cô ta. Tôi thích những gì màu đen.
- Nhưng tôi có dính dáng gì đến màu đen đâu? Sao ông chọn tôi?
- Cậu có màu đen trong mắt trong não trong tâm hồn. Thôi tôi nhắc lại cậu đã mất ba ngày trong số ba mươi ngày.
***
Anh dừng xe chếch mé điểm đợi. Ánh đèn từ tầng trên hắt xuống xanh rì. Dưới trệt hai cánh cửa khép chặt thỉnh thoảng một người lách ra. Phố vẫn đông. Hơn mười giờ khuya đêm lạnh đẫm, anh vẫn nghe cổ khát cháy. Đẩy xe bằng hai chân anh ghé một bà già bán nước rau má bên lề đường. Mua một bịch anh rít hai hơi đã nghe róc róc. Chất đường trong bịch nước càng khiến cổ họng anh khô hơn.
Nếu dò hỏi bà già để tìm kiếm thêm thông tin anh biết là một việc ngu xuẩn. Bà ta đã thấy rõ mặt anh. Anh nổ máy cho xe lao đi thật nhanh như chỉ là một khách qua đường. Đảo một vòng anh quay lại lề bên kia tìm một vị trí để bà già bán nước rau má khỏi thấy mặt.
Mười một giờ hơn cô ta xuất hiện. Một bộ đen tuyền từ trên xuống dưới. Sắc đen khiến anh rùng mình. Có một tiếng động lanh lảnh như tiếng kim loại va vào nhau vang lên từ vô thức khiến anh co rúm người. Cô ta đi một mình. Anh tính trong đầu khoảng thời gian chạy xe từ đó đến đoạn cầu có lan can gãy. Khoảng nửa tiếng. Như thế là gần không giờ.
Nếu đêm nay là đêm trừ tịch, một con người sẽ rụng xuống dòng sông ngay cận phút giao thừa. Anh tin đó là những phút đậm đặc tính chất ma quỷ, trước khi một ngày mới bắt đầu. Anh sẽ trộn mặt mình vào đám ma quỷ ấy, có lẽ thượng đế sẽ khó lòng nhận diện anh hơn?
Cô ta đảo mắt nhìn lại phía sau, cho xe quành sang lề đường bên kia. Anh giật choàng mình thêm lần nữa. Điểm cô ta tấp vào chính là cái thùng của bà già bán nước rau má. Cho đến lúc ấy anh mới ngẫm ra, dường như có một sự quái đản nào đó. Một bà già bán nước rau má bên lề đường, vào lúc nửa khuya của một đêm cuối thu se lạnh. Chất nước khi nãy dâng lên cổ họng anh sền sệt tanh. Anh nuốt vội xuống một ngụm hơi, đẩy tất cả trở lại vị trí cũ. Hai bàn tay lớp nhớp anh chùi xuôi mé đùi.
Cô ta không uống rau má mà nói đôi câu gì đó với bà già. Gương mặt trắng trên cái cần cổ cũng trắng xoay dọc con đường. Anh ngẩn người trên yên xe. Cô ta quá đẹp. Một sắc đẹp trẻ thơ. Thời gian dường như chưa bao giờ ngưng tụ một giây phút nào trên ấy. Nó trong suốt. Cô ta lại đảo xe. Anh hụp vội xuống nhìn mặt đường. Tia đèn lia ngang tầm ngực anh. Không thể ngăn được một cái ngước lên, ánh mắt anh va phải mắt cô ta. Ánh đèn phía đuôi xe lừ lên trong khoảnh khắc cô ta bẻ cua nơi ngã tư. Anh vẫn chưa kịp nổ máy.
***
- Đêm nay tình hình thế nào rồi, anh chàng của tôi?
- Tôi đã nhận diện được cô ấy.
- Tốt lắm. Nhưng mới chỉ nhận diện thôi sao? Mà có đúng là cô ta không?
- Căn cứ theo những điều mà ông mô tả địa chỉ ấy, giờ giấc ấy trang phục ấy... Tôi tin đó đúng là cô ta. Nhưng...
- Cậu lại nhưng nữa rồi...
- Nhưng có chắc đó là người mà ông muốn...?
- Nếu không muốn tại sao tôi lại phải thuê cậu? Tôi dùng chữ thuê thẳng thừng nhé.
- Tôi muốn biết nhất định phải biết điều này, tôi mới làm theo những gì mà ông cần: Tại sao ông lại muốn làm thế với cô ta? Cô ta nợ ông điều gì?
- Tò mò không phải là đức tính của người làm những công việc thế này. Có điểm nào đó ở cô ta khiến cậu chùng tay chăng?
- Ít ra tôi cũng thấy đó là một vẻ mặt rất ngây thơ.
- Tôi đã đoán trước điều này. Đó là sai lầm của cậu. Và đến lúc tôi cần phải cảnh cáo chính thức với cậu. Cậu nhìn thấy vẻ ngây thơ nơi cô ta vậy là cậu chùng tay. Và cậu sẽ là người thay thế cô ta đấy!
- Trời ơi sao lại là tôi? Sao lại là tôi? Ông thật là quái đản!
- Tôi đoán cậu còn muốn dùng nhiều từ ngữ nặng nề hơn nữa. Cậu muốn nguyền rủa tôi là con quỷ đội lốt người? Nhưng tôi còn thua xa quỷ! Mà thôi cứ cho tôi là quỷ đi. Vậy con xúc xắc trong tay tôi đã lăn vào cửa cậu nghĩa là cậu phải làm! Thế nhé. Cậu đã mất thêm một ngày nữa rồi đấy.
***
Anh đập mạnh vào hai cánh cửa kéo, miệng thì thào qua khe hở:
- Làm ơn... Tôi muốn mua rượu!
Trong nhà có giọng càm ràm:
- Sáng mai rồi mua giờ không bán nữa.
Ba bốn cánh cửa đều như thế. Anh quyết định vòng xe lại bãi chợ. Đoạn đường khá xa nhưng nếu trở về với cái đầu chưa mụ đi bởi hơi men, anh biết mình không thể nào thiếp đi được.
Anh gọi một chai thứ rượu hạng bét màu nhờ nhờ mùi hăng hắc. Thứ rượu dành cho cánh phu xe nửa đêm về sáng, chẳng biết người ta bỏ những gì trong đó. Giờ này chốn này chỉ có loại rượu ấy.
Với số tiền còn để trong cốp xe, anh thừa mứa để có hàng trăm đêm khướt ra với những món đốt đời, hoặc làm người ta lịm đi. Nhưng nó khiến anh hoảng sợ mỗi lần nghĩ tới. Tuy nhiên để nó ở nhà anh lại chẳng yên tâm. Thành thử hễ anh đi đâu nó theo đó, ngay ngáy như một khối thuốc nổ dưới yên ngồi. Giá một chút nữa đây, trong phút lảo đảo trên đường về, có kẻ nào đó biết khối tài sản dưới cốp xe anh, chặn lại lủi cho anh một dao vào ngực. Thế mà lại nhẹ nhàng.
Cô ta xuất hiện. Như một nghi thức đảo xe vòng sang chỗ bà già bán nước rau má. Và không hề uống. Mưa đổ lai rai. Khuôn mặt trắng tái dưới chiếc mũ trùm đầu của áo mưa. Một cái áo mưa đen. Phố vắng hơn đêm trước cũng mười một giờ hơn. Anh thụt xe vào một con hẻm gần đó mũi xe hướng ra.
Cô ta vừa vút qua anh nổ máy, nhưng anh có cảm giác đang đứng giữa sân vận động đã tắt đèn, nơi tâm điểm của vòng tròn chính giữa sân. Xung quanh khán giả vẫn yên vị dõi mắt xuống. Tất cả đều câm lặng. Một phần mười triệu con mắt như một bầy cá rỉa vào gáy anh đang nổi bập bềnh. Anh trôi...
Sau đuôi ánh đèn xe ma ám. Cây cầu hiện ra mưa xiên xiên vàng vọt càng lúc càng nặng hạt. Anh nghiến răng tăng ga. Hai chiếc xe đã song song. Khuôn mặt dưới áo mưa như chờ sẵn hướng sang anh. Một nụ cười. Anh lảo đảo tay lái bên trái đập mạnh vào thành cầu. Chiếc xe gấp vuông trước khi lết ngang mặt xi măng. Nước tóe lên. Một tiếng két của thắng xe. Cô ta ngoảnh lại:
- Xin lỗi anh có sao không? Tôi không hề va chạm với anh mà.
Anh như nghe thấy trong đầu gối có tiếng rào rạo. Ba bốn chiếc xe khác cùng lao lên mặt cầu:
- Mưa thế này đường trơn lắm...
- Anh có sao không? Có cần đưa vào bệnh viện không?
Cô ta bước hẳn xuống xe. Gương mặt trắng lạnh cúi xuống mặt anh đang nhăn nhó vì đau. Một người hỏi:
- Anh ấy là bạn cô phải không?
- Vâng bạn tôi. Mọi người cứ đi. Chúng tôi thu xếp được
Anh cắn chặt môi dưới dựng xe lên, quên cái đầu gối chắc chắn không được ổn.
- Cái này của anh phải không?
Bàn tay trắng muốt chìa ra. Anh suýt chúi xuống thêm lần nữa. Khi chiếc xe lật ngang gói tiền đã văng ra khỏi yên xe mở bung.
- Vâng của tôi, của tôi! Cảm ơn cô.
- Anh có chắc là sẽ chạy xe về nhà được không?
- Tôi không sao... Cảm ơn cô.
Thêm một nụ cười. Cái đuôi xe đỏ nhòa dưới những vạt mưa đan dày.
***
Anh ngồi chờ cuộc gọi như thông lệ. Ba mươi phút trôi qua. Máy báo tin nhắn:
"Cậu đã mất thêm một ngày nửa".
Toàn bộ xương cốt hóa lỏng trôi tuột ra khỏi cơ thể anh. Bàn tay run bắn anh bấm phím gọi lại:
- Sao ông biết tôi chưa làm gì cô ta đêm nay? Ông cho thêm kẻ theo dõi tôi à?
- Có cần phải làm thế không? Chẳng phải cậu đã bảo tôi là quỷ sứ sao? Quỷ sứ thì có gì là không biết chứ.
- Đúng ông là đồ quỷ sứ. Tôi sẽ không thực hiện hợp đồng này nữa. Mặc xác ông với trò chơi quái gở này. Đêm mai ông hãy gặp để tôi trả lại số tiền. Tôi vẫn giữ nguyên đây. Nếu ông không gặp tôi sẽ ném nó xuống sông ngay vị trí ấy... Xem ông làm gì được tôi...
- Cậu cứ làm thế đi. Khi cậu nói ra như thế cậu sẽ chẳng dám làm đâu.
Chỉ còn lại những tiếng tút dài. Tấm thân anh đổ ập xuống cả cơ thể bốc hơi nghi ngút. Đám nước mưa bay lên từ bộ đồ ướt sũng từ chiếc đầu gối rần rật. Đêm ấy anh lên cơn sốt. Một mình.
***
Suốt ba ngày liền anh không ra khỏi nhà. Trong cơn mê man anh vẫn nằm chờ một cú gọi lại, hoặc một cái tin nhắn. Chiếc điện thoại vẫn im lìm. Nếu không có những cơn sốt liên tục ập đến, vùi anh vào trạng thái mê mị, chắc chắn anh đã đập đầu vào tường trong một khoảnh khắc cùng quẫn nào đó. Hắn ta đã chán cuộc chơi? Hắn ta tạm buông tha anh ít ngày, trước khi bước vào đợt khủng bố mới? Hay đơn giản nhất hắn biết thừa tình trạng của anh lúc này và bỏ mặc anh?
Trước sau gì thời hạn vẫn còn đó, anh chẳng thể chạy đâu cho thoát, hoặc là anh hoặc cô ta. Giả thiết một: nếu cô ta bị thanh toán đúng như hợp đồng, sẽ có hai kẻ đạt được mục đích: hắn và anh. Hắn thì dĩ nhiên rồi, phần anh với số tiền ấy dư sống cả một đoạn đời dài. Cô ta thì sao? Chẳng sao cả. Một cái bản lề lật qua sau khi lộn xuống dòng sông, nếu là thiên thần cô ta sẽ bay lên.
Còn giả thiết hai nếu anh bị thanh toán sẽ chẳng ai đạt được mục đích cả. Ngay cả cô ta hiểm họa vẫn nguyên đấy. Và một kẻ khác anh không biết mặt, tiếp tục được cục xúc xắc trong tay hắn lăn tới. Bi kịch vẫn tiếp diễn. Coi như định mệnh đã chọn mình, anh không đập chiếc điện thoại vào tường, không đem số tiền ném xuống dòng sông, không tiếp tục những lời lẽ thách thức nữa. Ngay sau trận sốt này khi anh đủ sức dắt xe ra khỏi nhà, hợp đồng sẽ được thanh lý. Đó là một cách để anh chiến thắng hắn chiến thắng chính mình.
***
- Tại sao suốt mấy ngày qua ông không gọi cho tôi?
- À chàng trai trẻ. Cậu đã dứt sốt rồi phải không?
- Ông biết tất cả? Hừ, quỷ sứ đúng là quỷ sứ. Tôi chấp nhận trò chơi này của ông. Có thể lắm sau khi đẩy cô ta xuống sông ôm trọn số tiền, tôi sẽ trích ra một phần tư, mướn một kẻ khác đẩy ông xuống vị trí ấy.
- Một ý tưởng rất độc đáo vô cùng độc đáo. Cậu dọa tôi đấy à? Nhưng cậu có tin là tôi vẫn đợi một ngày, có kẻ dám làm như thế với tôi không? Nhưng hiện tại nó vẫn chưa đến. Vậy là tôi vẫn phải làm công việc này. Cụ thể là bản hợp đồng với cậu. Cậu vẫn nhớ rõ số ngày còn lại của mình đấy chứ?
- Tôi nhớ rõ. Ngay đêm nay hợp đồng sẽ được thanh lý. Sau đó với số tiền tôi sẽ giúp ông đạt ý nguyện, bị một kẻ nào đó đẩy xuống sông.
- Tốt lắm chàng trai trẻ. Theo tôi biết cô ta vẫn chưa thay đổi thời gian biểu lịch trình. Chúc cậu thành công.
***
Không phải một đêm mưa sụt sùi như lần trước. Mặt trăng thanh khiết sáng, lặng lẽ qua khe hở những tòa nhà và tàn cây. Anh quên tính đến khả năng này. Ánh trăng sẽ soi tỏ cả đoạn cầu lúc sự việc xảy ra. Thật bất lợi cho anh. Nhưng anh chấp nhận tất cả, như một cuộc chơi một định mệnh một trò gieo xúc xắc. Bộ đồ đen hiện ra bên kia đường. Nếu không có ánh đèn anh tin đó sẽ là gương mặt được tưới đẫm trăng, nổi lên trên sắc đen huyền bí ấy. Một họa sĩ có thể thay hai cánh tay của cô ta bằng một đôi cánh. Nó sẽ vỗ phía trên những đám mây ngũ sắc, hay một cái phông đầy cỏ non, thế là hoàn hảo hình tượng một thiên thần.
Thiên thần không giới tính thiên thần chỉ mang nét mặt trẻ thơ, quả đúng là gương mặt mà anh đang dõi mắt nhìn lúc này đây. Nhưng đã nhận hợp đồng với quỷ, anh sẽ thuộc về phía quỷ sát hại những thiên thần. Cô ta chạy chậm. Thong dong. Thật hợp cảnh với một đêm trăng yên bình. Ánh đèn sau đuôi xe không còn bầm lên một sắc đỏ rờn rợn như những đêm trước. Nó như một vì sao bản mệnh chỉ cho anh con đường phải đi tới.
Anh giữ một khoảng cách vừa đủ. Với vận tốc này thời gian đến cây cầu sẽ trễ hơn. Càng tốt cho anh. Đúng vào phút giao nhau giữa ngày và đêm không giờ anh sẽ lách qua khe hẹp của mọi phán xét. Ngay cả tội ác cũng có khoảnh khắc thích hợp cho nó. Cây cầu hiện ra. Bạc trắng ánh trăng. Xa nhà cửa. Xa con người. Gió rười rượi vuốt vầng trán anh bằng những sợi tóc. Cô ta bắt đầu tiến đến chân cầu. Anh cho xe thu ngắn khoảng cách. Cái đoạn lan can gãy quá đỉnh cầu một chút. Khi xe anh bắt đầu lên cầu trên đỉnh cầu cô ta đột nhiên dừng lại. Anh đạp thắng chúi nhủi vờ quay lại sau quan sát bánh xe như vừa cán phải vật gì đó.
Cô ta dựng xe bước xuống tiến lại phía lan can. Anh dừng hẳn vờ lúc lắc chiếc xe, trong khi mắt vẫn không rời mục tiêu bằng một cái nhìn nghiêng nghiêng. Bóng trang phục đen nổi bật dưới màu trăng sáng lóa trên đỉnh cầu. Cô ta vịn lan can mặt hướng ra sông gió thổi ngược mái tóc. Anh quyết định bước xuống dắt bộ chiếc xe tiếp cận mục tiêu. Lúc này anh cho phép mình nhìn cô không rời mắt. Như cái nhìn ngẫu nhiên tò mò ủa chàng trai nhìn một cô gái đẹp nửa khuya ra đứng trên cầu...
Khi anh chỉ còn cách mục tiêu trên chục mét, cô ta bỗng rời bước lững thững bước về phía đoạn lan can bị gãy, ánh mắt tò mò nhìn xuống mặt sông. Chỉ cần anh quẳng thật nhanh chiếc xe sang một bên, hợp đồng sẽ được thực hiện nhanh gọn đến không ngờ. Khoảng cách chỉ còn vài sải tay. Đúng lúc ấy có tiếng máy xe tiến lên cầu. Anh ngoảnh lại. Một ánh đèn. Việc sẽ bị chậm lại khoảng vài chục giây. Chẳng sao. Anh tiếp tục đẩy xe tiến sát mục tiêu. Khi đã nhìn rõ mặt cô ta anh dừng lại thở dốc. Dắt chiếc xe vẫn nổ máy để số lên đến đỉnh cầu làm anh cũng thấm mệt. Cô ta quay lại nhìn anh. Một nụ cười. Vẫn nụ cười ấy. Anh có cảm giác cô ta đã quen anh từ lâu lắm, trước cả cái đêm xảy ra vụ té xe nọ.
- Chào anh. Hình như anh thường đi làm đêm về giờ này? Cái chân anh đã khỏi hẳn chưa?
- Cô... cô vẫn nhớ tôi sao?
- Nhìn chiếc xe anh tôi nhớ ra. Chẳng phải nó vẫn bị trầy hết một bên sao...
Anh gạt chống xe thở hắt ra một hơi. Ánh đèn xe khi nãy vụt qua. Cô ta nheo mắt nhìn theo nở một nụ cười vu vơ. Dường như thường trực trên môi cô ta là những nụ cười như thế. Một nụ cười tươi nguyên nở cận kề phút giây định mệnh. Hình như lòng anh hơi chao đi tí chút. Không được anh nghiến chặt răng, liếc nhanh đoạn lan can gãy, trong lúc ánh mắt cô ta còn dõi theo chiếc xe vừa qua cầu. Khoảng sông đen ngòm ngay sau lưng cô ta. Anh tiến lại vờ lững thững nhìn xuống. Cô ta hưởng ứng dù tỏ ra đôi chút sợ sệt, tay vẫn bám mấy cọng sắt gỉ hở ra nơi đầu lan can. Anh tỏ vẻ an nhiên một chân đá đá đoạn sắt gãy:
- Nguy hiểm quá. Sao người ta không sửa lại đoạn gãy này...
Câu nói của anh bị cắt ngang bởi một cú đẩy rất mạnh từ phía sau. Người anh xoay một vòng tay kịp chụp cái mép lan can gãy. Thêm một cái đạp nữa. Khoảnh khắc cuối cùng anh thấy mặt trăng sáng rực qua vai áo đen. Một gương mặt cũng đen. Cú rơi đậm đặc không vọng một thanh âm. Mặt cầu vắng ngắt. Gió lùa một mảnh giấy vụn bay là là dưới trăng trước khi đáp xuống mặt nước. Sắc trắng của mảnh giấy nhòa dần.
***
- A lô ông đấy phải không?
- Thế nào cô gái?
- Hợp đồng đã được thanh lý.
- Xin chúc mừng cô. Tôi thấy tất cả rồi. Đẩy luôn cái xe xuống sông đi nhé. Cô thật tuyệt vời!
Nguyễn Danh Lam
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Xem Tử Vi - huyền "Học" - vọc phương pháp |
Gặp Gỡ - Giao Lưu | Vung |
|
||
Dinh dưỡng học - 10 Lời khuyên dinh dưỡng hợp lý |
Y Học Thường Thức | danhkiem |
|
||
Đêm rồi nhưng vẫn lo nghĩ chuyện tương lai. |
Linh Tinh | Tieuthukhongten |
|
||
Dự đoán phối hợp nhiều môn huyền học cho chính trị & kinh tế thế giới |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
||
những góc nhìn khác nhau về chuyện cưới xin, xung - hợp vợ chồng |
Tử Bình | hieuthuyloi |
|
||
Truyện thần tiên- Cát Hồng |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | danhkiem |
|
2 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 2 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |