

Truyện ngắn huyền bí - hiendde
Viết bởi Manager, 05/06/11 02:02
1072 replies to this topic
#796
Gửi vào 17/11/2013 - 01:57
BÍ ẨN CUỘC ĐỜI NỮ HOÀNG BUÀ ÁM TÀ THUẬT WOODOO
Với tài năng của mình, Marie Laveau được coi là "nữ hoàng bùa phép Voodoo".
Marie Laveau là một người Mỹ gốc Phi sống vào thế kỷ XIX, thời điểm người da đen khổ sở trước sự bóc lột của người da trắng. Thế nhưng, bà lại có một cuộc đời sung túc, được nhiều người nể trọng và là người đầu tiên khởi xướng bùa phép Voodoo (tà thuật, có nghĩa là thần linh, một loại tín ngưỡng bắt nguồn từ châu Phi) ở Mỹ.
Marie được sinh ra trong khu phố Pháp ở New Orleans năm 1794. Cô là con gái của một chủ đồn điền da trắng và một người phụ nữ nô lệ gốc Phi. Đến năm 1819, Marie kết hôn với Jacques, một người da màu khác di cư từ Haiti sang. Sau đó ít lâu, Marie có thai nhưng một tai nạn bất ngờ, đã khiến bà mất đi đứa con trong bụng. Ngay cả chồng bà Jacques cũng mang trong mình một căn bệnh lạ và từ trần sau đó không lâu, vào đầu năm 1820.
Sau cái chết của chồng, Marie trở thành thợ cắt tóc cho một gia đình da trắng. Khoảng cuối năm 1820, Marie tái hôn với Louis De Glapion và sinh được bảy người con. Tuy nhiên, giống cuộc hôn nhân trước, không hiểu nguyên nhân nào khiến những đứa con của cô lần lượt mất đi bởi những căn bệnh kỳ lạ, chỉ có duy nhất hai người con sống tới tuổi trưởng thành.
Ban đầu mọi người chỉ chú ý đến Marie như một người phụ nữ hiền lành, tốt bụng, thích đi làm từ thiện, giúp đỡ người nghèo với khoản tiền lớn. Nhưng không ai giải thích được tiền ấy lấy từ đâu, khi Marie không tham gia lao động cũng chẳng nhận trợ cấp từ bất cứ ai.
Trong dịch cơn sốt vàng năm 1853, nhiều bác sĩ đã bó tay trước việc cứu chữa bệnh nhân thì Marie lại dễ dàng cứu sống những người da đen trong khu phố bà sống. Nhờ vào tài thuật Voodoo, Marie đã trở thành một người da đen có quyền lực nhất thời bấy giờ. Bà không dùng bất kỳ phương thuốc nào, thay vào đó, bà tiến hành các buổi hành lễ, cúng tế đậm sắc màu ma quái. Marie giải thích với người dân xung quanh, đây chính là Voodoo, một tôn giáo cổ xưa và quyền lực nhất trên Trái đất.
Khi có một bệnh nhân sốt vàng được đưa tới, Marie sẽ đặt người bệnh vào một vòng tròn, xung quanh được trang trí bằng xương của nhiều loài động vật như gà, chó, mèo… Bệnh nhân được uống cốc nước pha với bột trắng và nghe những bài kinh khó hiểu từ bà suốt nhiều tiếng. Chỉ vài ngày sau người bệnh trở lại khỏe mạnh hoàn toàn. Từ đây, mọi người gọi bà là nữ hoàng Voodoo, một số khác tôn bà lên làm thánh. Nhưng bên cạnh đó, cũng có không ít người sợ hãi cho rằng, đây là trò tà thuật của một mụ phù thủy.
Sau khi giúp đẩy lùi dịch sốt vàng, Marie tham gia tích cực vào việc đấu tranh đòi quyền lợi cho người da đen ở New Orleans. Dù cho không bao giờ đi học, không biết chữ nhưng Marie có thể nói được nhiều thứ tiếng khác nhau một cách thành thục. Để tạo được sự chú ý, ủng hộ của nhiều người cho việc giải phóng những người nô lệ da đen, Marie đã tổ chức nhiều buổi chữa bệnh và biểu diễn phép thuật Voodoo miễn phí cho rất nhiều người.
Từ đây những câu chuyện kỳ lạ liên tiếp xuất hiện như việc Marie nuôi một con rắn khổng lồ tên là Zombi, con vật có thể... hiểu tiếng người và nghe theo sự điều khiển của nữ hoàng Voodoo.
Có lần trước rất đông người, Marie đã biểu diễn thuật phân thân, khi cùng lúc có mặt ở rất nhiều nơi. Một số người tuyên bố đã thấy Marie sử dụng những con búp bê, để điều khiển giai cấp cầm quyền New Orleans giảm thuế, trả tự do cho nhiều nô lệ da đen. Một số kẻ giàu có luôn ức hiếp người vô tội, sẽ bị bà ám bùa cho tới chết, hay việc bà mở một tiệm làm đẹp miễn phí, là để lấy tóc của nhiều người làm bùa chú.
Những câu chuyện kể trên mang tính chất nửa thật nửa giả, nhưng có một điều mà ai cũng công nhận là Marie dường như... bất tử. Vào năm 1880, khi đó đã gần tám mươi sáu tuổi, nhưng vẻ ngoài của bà không khác gì một phụ nữ ở tuổi ba mươi, không một chút nếp nhăn trên khuôn mặt, cơ thể đầy đặn, cử chỉ nhanh nhẹn đến khó tin. Vậy mà chỉ một năm sau, báo chí New Orleans rầm rộ đưa tin Marie đã qua đời tại nhà, đám tang của bà diễn ra rầm rộ và trở thành một sự kiện đình đám nhất thời bấy giờ.
Marie được chôn tại nghĩa trang Saint Louis và từ đây, những chuyện ma quái xung quanh bà lại tiếp diễn. Ít lâu sau khi được chôn cất, có một nhóm người du lịch để tiết kiệm tiền đã quyết định ngủ qua đêm trong nghĩa trang. Họ thu mình trong một ngôi mộ nhỏ gần ngôi mộ của nữ hoàng phù thủy.
Nửa đêm, tất cả bị đánh thức bởi những âm thanh lạ. Đi gần đến ngôi mộ của Marie Laveau, cả nhóm nhìn thấy một đám đông mang hình tượng ma quái đang nhảy múa điên cuồng và chính giữa đám đông đó là một người phụ nữ khỏa thân toát ra một thứ ánh sáng quái dị. Đặc biệt hơn, thân hình của bà được một con rắn cuốn quanh người, chiếc đuôi của nó đang ngoe nguẩy theo điệu múa.
Mọi người đồn đại rằng, tại mộ của Marie có một “Bàn tay ma” nó sẽ bắt linh hồn những người cố tình đến trêu đùa trước hầm mộ nữ hoàng Voodoo. Theo câu chuyện đó, có ba người đàn ông trẻ tuổi đã chè chén say sưa trong khu phố, họ thách nhau về chuyện sự linh thiêng trong hầm mộ của Marie Laveau. Họ đánh cược với nhau xem ai có can đảm ngủ một đêm bên hầm mộ của bà.
Một người trong bọn đã hăng hái chấp nhận cuộc thử thách này. Sáng hôm sau không thấy bạn của mình trở lại, hai người bạn đã đi tìm và họ thấy bạn của mình nằm chết trên mặt đất. Hay thậm chí, các câu chuyện còn đi ra ngoài cả khu mộ, như vào năm 1930, một nhà thuốc ở New Orleans tiếp đón một khách hàng kỳ lạ. Một người phụ nữ da đen, khá nhỏ nhắn, ăn mặc như hồi thế kỷ XIX bước vào cửa hàng.
Tuy bàn tay nhỏ nhắn, nhưng chúng khỏe tới mức đánh cho ông chủ của tiệm thuốc một trận nhừ tử, vì tội từ chối không bán hàng cho người da đen. Sau khi rời đi, bà nói với nhân viên cùng khách hàng tiệm thuốc rằng: “Ta chính là Marie Laveau”.
Và cũng nhờ những điều kỳ bí quanh Marie Laveau, nghĩa trang Saint Louis trở thành một trong mười khu mộ được viếng thăm nhiều nhất trên thế giới. Mọi người cho rằng, nếu đem lễ vật, hoa đèn tới cúng tiến, cầu khẩn thì sẽ được bà ban phước lành, nhưng nếu ai mà đến mộ bà phá phách trêu chọc thì chắc chắn rước lấy những hậu quả thảm khốc.
Sơn Hải
Với tài năng của mình, Marie Laveau được coi là "nữ hoàng bùa phép Voodoo".
Marie Laveau là một người Mỹ gốc Phi sống vào thế kỷ XIX, thời điểm người da đen khổ sở trước sự bóc lột của người da trắng. Thế nhưng, bà lại có một cuộc đời sung túc, được nhiều người nể trọng và là người đầu tiên khởi xướng bùa phép Voodoo (tà thuật, có nghĩa là thần linh, một loại tín ngưỡng bắt nguồn từ châu Phi) ở Mỹ.
Marie được sinh ra trong khu phố Pháp ở New Orleans năm 1794. Cô là con gái của một chủ đồn điền da trắng và một người phụ nữ nô lệ gốc Phi. Đến năm 1819, Marie kết hôn với Jacques, một người da màu khác di cư từ Haiti sang. Sau đó ít lâu, Marie có thai nhưng một tai nạn bất ngờ, đã khiến bà mất đi đứa con trong bụng. Ngay cả chồng bà Jacques cũng mang trong mình một căn bệnh lạ và từ trần sau đó không lâu, vào đầu năm 1820.
Sau cái chết của chồng, Marie trở thành thợ cắt tóc cho một gia đình da trắng. Khoảng cuối năm 1820, Marie tái hôn với Louis De Glapion và sinh được bảy người con. Tuy nhiên, giống cuộc hôn nhân trước, không hiểu nguyên nhân nào khiến những đứa con của cô lần lượt mất đi bởi những căn bệnh kỳ lạ, chỉ có duy nhất hai người con sống tới tuổi trưởng thành.
Ban đầu mọi người chỉ chú ý đến Marie như một người phụ nữ hiền lành, tốt bụng, thích đi làm từ thiện, giúp đỡ người nghèo với khoản tiền lớn. Nhưng không ai giải thích được tiền ấy lấy từ đâu, khi Marie không tham gia lao động cũng chẳng nhận trợ cấp từ bất cứ ai.
Trong dịch cơn sốt vàng năm 1853, nhiều bác sĩ đã bó tay trước việc cứu chữa bệnh nhân thì Marie lại dễ dàng cứu sống những người da đen trong khu phố bà sống. Nhờ vào tài thuật Voodoo, Marie đã trở thành một người da đen có quyền lực nhất thời bấy giờ. Bà không dùng bất kỳ phương thuốc nào, thay vào đó, bà tiến hành các buổi hành lễ, cúng tế đậm sắc màu ma quái. Marie giải thích với người dân xung quanh, đây chính là Voodoo, một tôn giáo cổ xưa và quyền lực nhất trên Trái đất.
Khi có một bệnh nhân sốt vàng được đưa tới, Marie sẽ đặt người bệnh vào một vòng tròn, xung quanh được trang trí bằng xương của nhiều loài động vật như gà, chó, mèo… Bệnh nhân được uống cốc nước pha với bột trắng và nghe những bài kinh khó hiểu từ bà suốt nhiều tiếng. Chỉ vài ngày sau người bệnh trở lại khỏe mạnh hoàn toàn. Từ đây, mọi người gọi bà là nữ hoàng Voodoo, một số khác tôn bà lên làm thánh. Nhưng bên cạnh đó, cũng có không ít người sợ hãi cho rằng, đây là trò tà thuật của một mụ phù thủy.
Sau khi giúp đẩy lùi dịch sốt vàng, Marie tham gia tích cực vào việc đấu tranh đòi quyền lợi cho người da đen ở New Orleans. Dù cho không bao giờ đi học, không biết chữ nhưng Marie có thể nói được nhiều thứ tiếng khác nhau một cách thành thục. Để tạo được sự chú ý, ủng hộ của nhiều người cho việc giải phóng những người nô lệ da đen, Marie đã tổ chức nhiều buổi chữa bệnh và biểu diễn phép thuật Voodoo miễn phí cho rất nhiều người.
Từ đây những câu chuyện kỳ lạ liên tiếp xuất hiện như việc Marie nuôi một con rắn khổng lồ tên là Zombi, con vật có thể... hiểu tiếng người và nghe theo sự điều khiển của nữ hoàng Voodoo.
Có lần trước rất đông người, Marie đã biểu diễn thuật phân thân, khi cùng lúc có mặt ở rất nhiều nơi. Một số người tuyên bố đã thấy Marie sử dụng những con búp bê, để điều khiển giai cấp cầm quyền New Orleans giảm thuế, trả tự do cho nhiều nô lệ da đen. Một số kẻ giàu có luôn ức hiếp người vô tội, sẽ bị bà ám bùa cho tới chết, hay việc bà mở một tiệm làm đẹp miễn phí, là để lấy tóc của nhiều người làm bùa chú.
Những câu chuyện kể trên mang tính chất nửa thật nửa giả, nhưng có một điều mà ai cũng công nhận là Marie dường như... bất tử. Vào năm 1880, khi đó đã gần tám mươi sáu tuổi, nhưng vẻ ngoài của bà không khác gì một phụ nữ ở tuổi ba mươi, không một chút nếp nhăn trên khuôn mặt, cơ thể đầy đặn, cử chỉ nhanh nhẹn đến khó tin. Vậy mà chỉ một năm sau, báo chí New Orleans rầm rộ đưa tin Marie đã qua đời tại nhà, đám tang của bà diễn ra rầm rộ và trở thành một sự kiện đình đám nhất thời bấy giờ.
Marie được chôn tại nghĩa trang Saint Louis và từ đây, những chuyện ma quái xung quanh bà lại tiếp diễn. Ít lâu sau khi được chôn cất, có một nhóm người du lịch để tiết kiệm tiền đã quyết định ngủ qua đêm trong nghĩa trang. Họ thu mình trong một ngôi mộ nhỏ gần ngôi mộ của nữ hoàng phù thủy.
Nửa đêm, tất cả bị đánh thức bởi những âm thanh lạ. Đi gần đến ngôi mộ của Marie Laveau, cả nhóm nhìn thấy một đám đông mang hình tượng ma quái đang nhảy múa điên cuồng và chính giữa đám đông đó là một người phụ nữ khỏa thân toát ra một thứ ánh sáng quái dị. Đặc biệt hơn, thân hình của bà được một con rắn cuốn quanh người, chiếc đuôi của nó đang ngoe nguẩy theo điệu múa.
Mọi người đồn đại rằng, tại mộ của Marie có một “Bàn tay ma” nó sẽ bắt linh hồn những người cố tình đến trêu đùa trước hầm mộ nữ hoàng Voodoo. Theo câu chuyện đó, có ba người đàn ông trẻ tuổi đã chè chén say sưa trong khu phố, họ thách nhau về chuyện sự linh thiêng trong hầm mộ của Marie Laveau. Họ đánh cược với nhau xem ai có can đảm ngủ một đêm bên hầm mộ của bà.
Một người trong bọn đã hăng hái chấp nhận cuộc thử thách này. Sáng hôm sau không thấy bạn của mình trở lại, hai người bạn đã đi tìm và họ thấy bạn của mình nằm chết trên mặt đất. Hay thậm chí, các câu chuyện còn đi ra ngoài cả khu mộ, như vào năm 1930, một nhà thuốc ở New Orleans tiếp đón một khách hàng kỳ lạ. Một người phụ nữ da đen, khá nhỏ nhắn, ăn mặc như hồi thế kỷ XIX bước vào cửa hàng.
Tuy bàn tay nhỏ nhắn, nhưng chúng khỏe tới mức đánh cho ông chủ của tiệm thuốc một trận nhừ tử, vì tội từ chối không bán hàng cho người da đen. Sau khi rời đi, bà nói với nhân viên cùng khách hàng tiệm thuốc rằng: “Ta chính là Marie Laveau”.
Và cũng nhờ những điều kỳ bí quanh Marie Laveau, nghĩa trang Saint Louis trở thành một trong mười khu mộ được viếng thăm nhiều nhất trên thế giới. Mọi người cho rằng, nếu đem lễ vật, hoa đèn tới cúng tiến, cầu khẩn thì sẽ được bà ban phước lành, nhưng nếu ai mà đến mộ bà phá phách trêu chọc thì chắc chắn rước lấy những hậu quả thảm khốc.
Sơn Hải
#797
Gửi vào 17/11/2013 - 02:13
BÍ ẨN VỀ CHIẾC HỘP NHỐT LINH HỒN MA QUỶ
Nếu từng xem bộ phim The Possession, chắc hẳn bạn rất ấn tượng về chiếc hộp ma quái có khả năng bí ẩn, hút linh hồn người khác. Và điều bất ngờ hơn, đây là bộ phim được dựng từ các câu chuyện có thật về chiếc hộp Dibbuk ma quái…
Câu chuyện dân gian của người Do Thái xưa, đã lưu truyền về một linh hồn ma quỷ có tên Dibbuk, sẽ ám vào người nào sở hữu chiếc hộp gỗ nhốt linh hồn này. Đây là linh hồn xấu xa nhất, nó ám vào bất kỳ cơ thể vật chủ và chỉ rời ra, khi đã tàn phá hoàn toàn tinh thần, thể chất của nạn nhân.
Truyền thuyết này càng gây ầm ĩ hơn nữa, khi một bài báo đăng trên tờ Los Angeles Times vào năm 2004, về những sự việc có thật liên quan đến chủ nhân của chiếc hộp mang tên Dibbuk. Bài báo thuật lại lời kể của người đàn ông tên Kevin Mannis, người giành được quyền sở hữu chiếc hộp Dibbuk từ một phiên đấu giá.
Ông mô tả rằng, bên trong chiếc hộp có chứa hai lọn tóc, một miếng đá granite, một nụ hồng đã héo khô, một pho tượng nhỏ, hai đồng xu cổ loại một cent, một đế đèn cầy và cuối cùng là một linh hồn đói khát đầy căm hận.
Chiếc hộp quấy rầy chủ nhân của nó bằng những cơn ác mộng đáng sợ, bệnh tật bất ngờ hay hình ảnh kỳ dị và âm thanh không thể lý giải. Ngay sau đó, Kevin Mannis rao bán chiếc hộp Dibbuk trên Ebay và một người tò mò đã mua nó. Người mua đầu tiên ngay lập tức đã gặp rắc rối, sau khi nhận chiếc hộp được ít ngày. Tại thời điểm mua chiếc hộp, anh là chủ của một cửa hàng đồ gỗ.
Với ý định sẽ tặng cho mẹ, anh cẩn thận cất kỹ chiếc hộp ở kho dưới tầng hầm và cẩn thận khóa cửa. Sau đó, anh ra ngoài và để lại cửa hàng cho nhân viên trông nom. Nhưng chừng nửa tiếng sau, anh hốt hoảng khi nhận được cuộc điện thoại của nhân viên. Cô sợ hãi kể rằng, có người đang đập vỡ tất cả các cửa kính và chửi thề.
Không những thế, tất cả các loại cửa từ cửa chính đến cửa thoát hiểm đều bị đóng chặt, khiến cô không có cách nào thoát thân. Không còn cách nào khác, anh hộc tốc chạy về cửa hàng và sững sờ với hiện trạng trước mắt. Đúng như lời cô nhân viên nói, toàn bộ các cửa đều bị khóa chặt. Sau khi mở hết các lớp cửa, anh mới thấy người nhân viên khi nãy đang ngồi ôm mặt khóc nức nở đầy sợ hãi.
Chạy xuống tầng hầm, anh lại càng ngạc nhiên hơn nữa, khi tất cả các bóng đèn ở đây đều bị đập vỡ và căn phòng thì nồng nặc mùi nước tiểu mèo. Tuy nhiên, lại không hề có một con mèo nào trong tiệm, hoặc bất cứ dấu hiệu nào cho thấy có người đột nhập. Sau sự việc kinh hãi này, người nhân viên đã xin thôi việc và không bao giờ dám quay lại cửa hàng.
Chưa đầy một tháng sau, chiếc hộp lại tiếp tục được đưa lên mạng bán đấu giá với những lời chia sẻ rùng rợn. Những câu chuyện ma quái xung quanh Dibbuk, biến nó trở thành món hàng "hot" của hàng ngàn người hiếu kỳ. Dù vậy, chiếc hộp lần lượt qua tay rất nhiều chủ nhân với những câu chuyện kỳ bí, không thể lý giải.
Một trong nhiều chủ nhân của Dibbuk chia sẻ:
- Từ ngày tôi đem cái hộp về nhà, tôi liên tục gặp phải ác mộng, chúng cứ lặp đi lặp lại nhiều lần. Trong cơn ác mộng, tôi thấy mình đang đi bộ cùng một người bạn, luôn là người đó. Tôi nhận thấy có gì đó rất lạ trong đôi mắt của người đồng hành với tôi. Hình như, một cái gì trông giống như ma quỷ đang nhìn lại tôi. Ngay lúc đó, người bạn đó bỗng biến thành một mụ đàn bà rất khủng khiếp, trông như quỷ dữ vậy. Mụ đàn bà đó tiến tới và đánh tôi tới tấp. Tôi bừng tỉnh vào buổi sáng và trên người vẫn còn những vết tích của trận đòn đêm vừa qua. Dù vậy, tôi cũng chẳng nghĩ là do cái hộp mà tôi bị như vậy.
Nhiều người đồn đại rằng, ai sở hữu chiếc hộp luôn bị ám ảnh bởi những cơn ác mộng, căn nhà của họ đầy mùi nước tiểu của mèo và hàng đêm trong căn nhà thấp thoáng bóng dáng của một bà già. Một số người còn bị sốt phát ban, ho ra máu, bị bầm tím toàn thân sau khi thức dậy vào buổi sáng. Mọi chuyện cứ thế tiếp diễn cho tới khi, một chủ nhân của chiếc hộp Dibbuk là Losif Nietzke, bán nó cho một người giám đốc bảo tàng tên Jason Haxton.
Ông trưng bày chiếc hộp ở một góc nhỏ trong bảo tàng, từ đó hàng loạt nhân viên và khách du lịch bị những tai nạn vô cùng hy hữu: rách quần áo, bị bầm ở cổ, tay... Nhiều nhân viên bảo vệ thường xuyên bị ngất và khắp nơi trong bảo tàng, đều ngập trong mùi nước tiểu mèo.
Quá hoảng sợ trước hiện tượng lạ, Haxton đem chiếc hộp về nhà và bỏ nó trong gara. Nhưng những điều ma quái giờ mới chính thức tìm tới ông. Đêm nào gia đình Haxton cũng mơ thấy khuôn mặt rùng rợn của một người phụ nữ già. Chén bát liên tục bị vỡ, ngọn lửa trong bếp không thể nào tắt được. Một lần khi đang coi TV cùng con trai, chiếc TV bỗng tắt, một khối lửa màu đen xuất hiện trong căn phòng, khiến cho cả hai suýt mất mạng.
Haxton đành phải cầu cứu với Rabbis, một nhà hoạt động tôn giáo nổi tiếng trong vùng. Sau khi nghiên cứu, Rabbis đã tìm ra chủ nhân thực sự của chiếc hộp bí ẩn. Đó là một phụ nữ 103 tuổi, người hiếm hoi còn sống sót sau trận tàn sát người Do Thái vào thời Hitler. Khi tới Mỹ, bà đã mang theo chiếc hộp và cảnh cáo cả gia đình không bao giờ được mở nó.
Cuối cùng thì Haxton đưa chiếc hộp cho Rabbis và vị linh mục, giấu nó ở một nơi đặc biệt trong nhà thờ. Và kể từ đó đến nay, chiếc hộp ma quỷ Dibbuk đã không còn có thể hại thêm một ai nữa.
* Dibbuk box, Livescifi...
Nếu từng xem bộ phim The Possession, chắc hẳn bạn rất ấn tượng về chiếc hộp ma quái có khả năng bí ẩn, hút linh hồn người khác. Và điều bất ngờ hơn, đây là bộ phim được dựng từ các câu chuyện có thật về chiếc hộp Dibbuk ma quái…
Câu chuyện dân gian của người Do Thái xưa, đã lưu truyền về một linh hồn ma quỷ có tên Dibbuk, sẽ ám vào người nào sở hữu chiếc hộp gỗ nhốt linh hồn này. Đây là linh hồn xấu xa nhất, nó ám vào bất kỳ cơ thể vật chủ và chỉ rời ra, khi đã tàn phá hoàn toàn tinh thần, thể chất của nạn nhân.
Truyền thuyết này càng gây ầm ĩ hơn nữa, khi một bài báo đăng trên tờ Los Angeles Times vào năm 2004, về những sự việc có thật liên quan đến chủ nhân của chiếc hộp mang tên Dibbuk. Bài báo thuật lại lời kể của người đàn ông tên Kevin Mannis, người giành được quyền sở hữu chiếc hộp Dibbuk từ một phiên đấu giá.
Ông mô tả rằng, bên trong chiếc hộp có chứa hai lọn tóc, một miếng đá granite, một nụ hồng đã héo khô, một pho tượng nhỏ, hai đồng xu cổ loại một cent, một đế đèn cầy và cuối cùng là một linh hồn đói khát đầy căm hận.
Chiếc hộp quấy rầy chủ nhân của nó bằng những cơn ác mộng đáng sợ, bệnh tật bất ngờ hay hình ảnh kỳ dị và âm thanh không thể lý giải. Ngay sau đó, Kevin Mannis rao bán chiếc hộp Dibbuk trên Ebay và một người tò mò đã mua nó. Người mua đầu tiên ngay lập tức đã gặp rắc rối, sau khi nhận chiếc hộp được ít ngày. Tại thời điểm mua chiếc hộp, anh là chủ của một cửa hàng đồ gỗ.
Với ý định sẽ tặng cho mẹ, anh cẩn thận cất kỹ chiếc hộp ở kho dưới tầng hầm và cẩn thận khóa cửa. Sau đó, anh ra ngoài và để lại cửa hàng cho nhân viên trông nom. Nhưng chừng nửa tiếng sau, anh hốt hoảng khi nhận được cuộc điện thoại của nhân viên. Cô sợ hãi kể rằng, có người đang đập vỡ tất cả các cửa kính và chửi thề.
Không những thế, tất cả các loại cửa từ cửa chính đến cửa thoát hiểm đều bị đóng chặt, khiến cô không có cách nào thoát thân. Không còn cách nào khác, anh hộc tốc chạy về cửa hàng và sững sờ với hiện trạng trước mắt. Đúng như lời cô nhân viên nói, toàn bộ các cửa đều bị khóa chặt. Sau khi mở hết các lớp cửa, anh mới thấy người nhân viên khi nãy đang ngồi ôm mặt khóc nức nở đầy sợ hãi.
Chạy xuống tầng hầm, anh lại càng ngạc nhiên hơn nữa, khi tất cả các bóng đèn ở đây đều bị đập vỡ và căn phòng thì nồng nặc mùi nước tiểu mèo. Tuy nhiên, lại không hề có một con mèo nào trong tiệm, hoặc bất cứ dấu hiệu nào cho thấy có người đột nhập. Sau sự việc kinh hãi này, người nhân viên đã xin thôi việc và không bao giờ dám quay lại cửa hàng.
Chưa đầy một tháng sau, chiếc hộp lại tiếp tục được đưa lên mạng bán đấu giá với những lời chia sẻ rùng rợn. Những câu chuyện ma quái xung quanh Dibbuk, biến nó trở thành món hàng "hot" của hàng ngàn người hiếu kỳ. Dù vậy, chiếc hộp lần lượt qua tay rất nhiều chủ nhân với những câu chuyện kỳ bí, không thể lý giải.
Một trong nhiều chủ nhân của Dibbuk chia sẻ:
- Từ ngày tôi đem cái hộp về nhà, tôi liên tục gặp phải ác mộng, chúng cứ lặp đi lặp lại nhiều lần. Trong cơn ác mộng, tôi thấy mình đang đi bộ cùng một người bạn, luôn là người đó. Tôi nhận thấy có gì đó rất lạ trong đôi mắt của người đồng hành với tôi. Hình như, một cái gì trông giống như ma quỷ đang nhìn lại tôi. Ngay lúc đó, người bạn đó bỗng biến thành một mụ đàn bà rất khủng khiếp, trông như quỷ dữ vậy. Mụ đàn bà đó tiến tới và đánh tôi tới tấp. Tôi bừng tỉnh vào buổi sáng và trên người vẫn còn những vết tích của trận đòn đêm vừa qua. Dù vậy, tôi cũng chẳng nghĩ là do cái hộp mà tôi bị như vậy.
Nhiều người đồn đại rằng, ai sở hữu chiếc hộp luôn bị ám ảnh bởi những cơn ác mộng, căn nhà của họ đầy mùi nước tiểu của mèo và hàng đêm trong căn nhà thấp thoáng bóng dáng của một bà già. Một số người còn bị sốt phát ban, ho ra máu, bị bầm tím toàn thân sau khi thức dậy vào buổi sáng. Mọi chuyện cứ thế tiếp diễn cho tới khi, một chủ nhân của chiếc hộp Dibbuk là Losif Nietzke, bán nó cho một người giám đốc bảo tàng tên Jason Haxton.
Ông trưng bày chiếc hộp ở một góc nhỏ trong bảo tàng, từ đó hàng loạt nhân viên và khách du lịch bị những tai nạn vô cùng hy hữu: rách quần áo, bị bầm ở cổ, tay... Nhiều nhân viên bảo vệ thường xuyên bị ngất và khắp nơi trong bảo tàng, đều ngập trong mùi nước tiểu mèo.
Quá hoảng sợ trước hiện tượng lạ, Haxton đem chiếc hộp về nhà và bỏ nó trong gara. Nhưng những điều ma quái giờ mới chính thức tìm tới ông. Đêm nào gia đình Haxton cũng mơ thấy khuôn mặt rùng rợn của một người phụ nữ già. Chén bát liên tục bị vỡ, ngọn lửa trong bếp không thể nào tắt được. Một lần khi đang coi TV cùng con trai, chiếc TV bỗng tắt, một khối lửa màu đen xuất hiện trong căn phòng, khiến cho cả hai suýt mất mạng.
Haxton đành phải cầu cứu với Rabbis, một nhà hoạt động tôn giáo nổi tiếng trong vùng. Sau khi nghiên cứu, Rabbis đã tìm ra chủ nhân thực sự của chiếc hộp bí ẩn. Đó là một phụ nữ 103 tuổi, người hiếm hoi còn sống sót sau trận tàn sát người Do Thái vào thời Hitler. Khi tới Mỹ, bà đã mang theo chiếc hộp và cảnh cáo cả gia đình không bao giờ được mở nó.
Cuối cùng thì Haxton đưa chiếc hộp cho Rabbis và vị linh mục, giấu nó ở một nơi đặc biệt trong nhà thờ. Và kể từ đó đến nay, chiếc hộp ma quỷ Dibbuk đã không còn có thể hại thêm một ai nữa.
* Dibbuk box, Livescifi...
Thanked by 1 Member:
|
|
#798
Gửi vào 17/11/2013 - 08:49
KHÁM PHÁ KỲ BÍ CUẢ THUẬT VÕ BUÀ NƠI NÚI SAM
Vào đầu những năm tám mươi của thế kỷ trước, làng võ Việt xôn xao bởi sự xuất hiện của một phái võ kỳ lạ, gọi là thần quyền hay võ bùa. Người theo môn võ này không dụng về kỹ thuật, sức lực mà chỉ cần thổi nhang, uống bùa, gọi thần chú là có ngay sức mạnh lạ kỳ. Chính cách thức kỳ dị đó mà Thất Sơn thần quyền không được chấp nhận như một môn võ danh chính ngôn thuận và dần phải lui vào ẩn dật.
Tuy nhiên, tại An Giang vẫn có một số ông đạo rèn luyện môn võ bùa này với những điều kiêng kỵ và thể thức kỳ quái. Chúng tôi đã có may mắn được tiếp cận và xin nêu một số điều ít biết về môn võ từ lâu đã bị cho là thất truyền này. Trong vai những người đi tầm sư học đạo, chúng tôi tìm về vùng Thất Sơn, huyện Tịnh Biên, An Giang, nơi vốn nổi tiếng với những huyền tích ly kỳ. Nhờ một vài mối quan hệ, chúng tôi được chỉ điểm rằng trên núi Sam, cạnh Tây An cổ tự có một ông đạo sống ẩn dật, thường gọi là thầy Hai rất rành về thần quyền.
Từ thị xã Châu Đốc đến chân núi Sam khoảng năm cây số. Tuy không hùng vĩ, nhưng núi Sam mang một di sản đồ sộ với hàng loạt di tích cấp quốc gia náu mình trên sườn núi. Nổi tiếng nhất là chùa Hang, miếu Bà Chúa Xứ, Tây An cổ tự, lăng Thoại Ngọc Hầu...Thật may mắn cho chúng tôi khi trong những ngày rong ruổi tại vùng Thất Sơn, chúng tôi đã làm quen được với anh Ba Hùng, bốn mươi bảy tuổi, ngụ cù lao Tân Phú, An Giang, là người đã từng thọ ơn thầy Hai.
Anh Hùng kể mình là người ở cù lao Tân Phú nhưng dạt đến tận đây làm nghề bán rau câu dạo, có khi là chạy xe ôm. Trong một lần bất cẩn, anh bị thư, ăn uống không được mà bụng cứ trương sình lên, may nhờ thầy Hai cứu giúp, không thì cũng bỏ mạng nơi này. Thư đọc trại theo tiếng Khmer là thnup, nghĩa là bị bỏ bùa. Vùng Thất Sơn là nơi có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống nhất tại tỉnh An Giang.
Trước đây, người Khmer ở Thất Sơn gần như sống tách biệt với cộng đồng, không thích qua lại với các dân tộc anh em khác tại địa phương. Vì thế, người dân ở đây vẫn thường thêu dệt những câu chuyện kỳ bí về người Khmer. Và cho đến bây giờ, rất nhiều người vẫn tin rằng người Khmer có khả năng sử dụng bùa chú để thư người khác. Tương truyền, thư là cách hóa phép cho một vật to lớn, ví như một nắm tóc rối, con đỉa, khúc gỗ… biến thành nhỏ xíu, rồi bỏ vào đồ ăn thức uống của người muốn bỏ bùa. Sau khi vào bụng, những vật trên sẽ trở về hình dáng cũ, kích thước bình thường, gây đau đớn ghê gớm cho người bị hại.
Khi bị thư thì không thuốc thang nào chữa nổi, chỉ có những ông đạo cao tay giải bùa mới mong tai qua nạn khỏi. Các cao niên còn kể lại rằng, người muốn luyện loại bùa chú này phải ăn những đồ dơ bẩn nhất như rác rưởi, đỉa, trùng đất... Cũng giống chơi ngải, họ phải lựa giờ linh để đọc thần chú, kêu gọi những oan hồn khuất mày, khuất mặt nhập thân để có thể sai khiến được ma quỷ.
Anh Hùng rùng mình kể lại:
- Tôi không biết mình đã làm gì sai mà tự nhiên bụng cứ trướng dần lên. Đi bác sĩ người ta nói là bệnh gan, nhưng thật ra không phải. Ai cũng bảo là tôi bị thư, bị yếm rồi. Người ta thương tình đưa tôi lên núi Sam cầu thầy Hai chữa trị. Thầy Hai giải bùa xong tự nhiên bụng tôi xẹp xuống, gia đình tôi mang ơn thầy Hai suốt đời. Lâu lâu ổng hay nhờ tôi mua giùm gạo với một số đồ cần thiết đem lên cho ổng.
Không biết câu chuyện anh Hùng kể thực hư ra sao, nhưng chuyện thầy Hai luyện “võ bùa” thì dân xứ này ai cũng râm ran đồn đại. Sau một hồi thuyết phục, anh Hùng cũng chịu dẫn chúng tôi đến nơi thầy Hai đang tu đạo.
Cách Tây An cổ tự không xa là căn chòi lá của thầy Hai. Cũng như những ông đạo thường thấy ở miền Tây, thầy Hai tầm hơn sáu mươi tuổi, búi tóc củ tỏi, mặc bà ba đen, dáng vẻ khoan thai, người phương phi hồng hào. Thầy Hai tỏ ra rất khó chịu khi anh Hùng dẫn người lạ mặt đến chỗ ở của thầy. Chúng tôi phải quỳ rất lâu trước mái chòi tranh để vờ xin thầy Hai nhận làm đệ tử của môn võ thần quyền. Mãi đến khi trời bỗng đổ mưa thì thầy mới mở cửa mời chúng tôi vào nhà.
Thầy Hai gắt:
- Mai mốt tôi chuyển chỗ thôi. Tôi không thích nhiều người biết nơi mình ở. Trời đổ mưa, thôi cũng coi như là cái duyên. Tôi sẽ chỉ cho các anh cách tập luyện Thất Sơn thần quyền, về nhà tự học lấy, thành hay không là ở cái tâm của các anh. Còn tôi không nhận đệ tử.
Thầy Hai kể rằng, tổ sư của thần quyền là một cao tăng người Ấn Độ. Không biết vì lẽ gì mà lưu lạc đến Việt Nam rồi về vùng Thất Sơn ẩn náu. Tại đây ông đã được những người Khmer cưu mang và ông quyết định truyền võ bùa cho họ. Nhưng người Khmer vốn dĩ tự hào về khả năng thư của mình nên đã từ chối môn võ này. Sau, môn võ được truyền lại cho người Kinh, và ông Hai vốn may mắn được chân truyền. Sau khi kể sơ về nguồn gốc, chúng tôi được làm lễ nhập môn.
Thầy Hai bấm độn, và bảo chúng tôi đứng trước bàn thờ. Chúng tôi được chia mỗi người ba cây nhang, nghiêm cẩn và lặp lại những lời thề theo lời ông Hai đọc. Có tất thảy chín điều dành cho nhập môn, và càng lên cao thì số lời thề càng tăng lên, cao nhất là mười sáu điều. Một số lời thề của thầy Hai mà chúng tôi đã ghi lại được: Một lòng hiếu thảo với cha mẹ; Không phản môn phái; Không phản thầy; Không phản bạn; Coi bạn như anh em ruột thịt; Không cưỡng bức kẻ yếu; Không làm điều gian ác; Không ham mê tửu sắc; Không nản chí khi luyện tập; Không thoái lui lúc nguy hiểm; Luôn bảo vệ kẻ yếu; Ôn hòa trong tình bạn; Cứu người trong lúc nguy nan...
Sau khi thề và bái lạy trước bàn thờ xong, thầy Hai phát cho chúng tôi mỗi người hai lá bùa, gọi là bùa hộ thân, một vuông, một dài. Trên vẽ những hình ngoằn ngoèo giống như chữ của vùng Tây Á, và những biểu tượng không rõ hình thù. Sau khi niệm chú, thầy Hai lấy bùa đốt lên, rồi đem tro hòa với nước bắt chúng tôi uống cạn.
Thầy Hai bảo:
- Trước khi tập thần quyền, phải khai thông các huyệt đạo trên cơ thể. Có như vậy thần chú mới ứng nghiệm.
Nói rồi thầy lấy bảy nén nhang, đốt lên rồi thổi khói vào các nơi gọi là tử huyệt, sinh huyệt. Vừa khai huyệt thầy vừa giảng giải: “Môn sinh nam thì bảy cây nhang, thổi khói bảy lần vào sinh huyệt, tử huyệt. Môn sinh nữ thì cghibns cây nhang, thổi khói chín lần.
Sau khi được “khai thông kinh mạch, chúng tôi được nghỉ ngơi. Trong khoảng thời gian này, chúng tôi được thầy Hai kể khá nhiều giai thoại ly kỳ về Thất Sơn thần quyền. Theo đó, thứ võ mà thầy Hai truyền cho chúng tôi là một chi của Thất Sơn thần quyền. Thần quyền gồm quyền và thuật. Quyền được rèn luyện về thể lực chiêu thức như những môn võ khác, nhưng thuật thì rất ít ai biết và thầy Hai là một trong những truyền nhân còn sót lại nắm được thuật của Thất Sơn thần quyền.
Thầy Hai kể, ông nhặt được bí kíp chân truyền của Đạo Ngựa, cũng chính là tổ sư của môn Thất Sơn thần quyền. Sở dĩ gọi ông là Đạo Ngựa vì ông hay cưỡi ngựa lên núi tu tập, rồi lại dong ngựa xuống núi để thăm thú xóm làng. Một lần ông cưỡi ngựa xuống núi đổi rau củ lấy gạo thì bắt gặp một đám lính Pháp đang dùng súng uy hiếp người dân. Ông lập tức nhảy xuống cứu người.
Tên lính lê dương nổ súng, Đạo Ngựa há miệng đớp lấy viên đạn mà không hề hấn gì, rồi nhả xác đạn ra trước mặt bọn lính khiến chúng thất kinh, vứt súng chạy tán loạn. Sau lần ấy, lính Pháp kéo đến vùng núi nơi ông tu tập để truy lùng ông, nhưng không được. Có người kể lại rằng, lão võ sư Hoàng Sơn, một môn đồ ưu tú của phái Thất Sơn thần quyền đã tìm được Đạo Ngựa và học được những tinh hoa của môn võ này.
Trở lại việc học võ bùa, thầy Hai cũng không ngần ngại truyền cho chúng tôi các loại chú như chú xin quyền, chú chữa thương, chú xin lực... Thầy Hai dặn, về nhà muốn xin gì cứ niệm chú để gọi về, nhưng phải tập luyện rất lâu cách gọi chú thì võ bùa mới ứng nghiệm. Và tuyệt nhiên không được để thân mình ô uế. Ví như không được chui xuống dây phơi quần áo, trước khi gọi bùa không được gần sắc dục, không được uống nước chung ly, và rất nhiều điều kiêng kỵ khác.
Về đến nhà, chúng tôi lập tức đọc theo thần chú thầy Hai đã cho, gọi bùa xin quyền, xin lực hộ thể… gọi mãi mà không thấy ứng nghiệm gì. Anh Ba Hùng, người đã dẫn chúng tôi gặp thầy Hai thì luôn miệng giải thích:
- Chắc tại tụi bây vướng phải mấy điều kiêng kỵ thầy dặn rồi. Tao nói mà, võ bùa khó lắm.
Sau chúng tôi có đi hỏi khắp vùng Thất Sơn, nhưng sự mầu nhiệm của võ bùa chỉ dừng lại ở những câu chuyện kể. Hoàn toàn chưa một ai chứng minh được sự huyền diệu của môn võ thần bí này.
An Ngọc
Vào đầu những năm tám mươi của thế kỷ trước, làng võ Việt xôn xao bởi sự xuất hiện của một phái võ kỳ lạ, gọi là thần quyền hay võ bùa. Người theo môn võ này không dụng về kỹ thuật, sức lực mà chỉ cần thổi nhang, uống bùa, gọi thần chú là có ngay sức mạnh lạ kỳ. Chính cách thức kỳ dị đó mà Thất Sơn thần quyền không được chấp nhận như một môn võ danh chính ngôn thuận và dần phải lui vào ẩn dật.
Tuy nhiên, tại An Giang vẫn có một số ông đạo rèn luyện môn võ bùa này với những điều kiêng kỵ và thể thức kỳ quái. Chúng tôi đã có may mắn được tiếp cận và xin nêu một số điều ít biết về môn võ từ lâu đã bị cho là thất truyền này. Trong vai những người đi tầm sư học đạo, chúng tôi tìm về vùng Thất Sơn, huyện Tịnh Biên, An Giang, nơi vốn nổi tiếng với những huyền tích ly kỳ. Nhờ một vài mối quan hệ, chúng tôi được chỉ điểm rằng trên núi Sam, cạnh Tây An cổ tự có một ông đạo sống ẩn dật, thường gọi là thầy Hai rất rành về thần quyền.
Từ thị xã Châu Đốc đến chân núi Sam khoảng năm cây số. Tuy không hùng vĩ, nhưng núi Sam mang một di sản đồ sộ với hàng loạt di tích cấp quốc gia náu mình trên sườn núi. Nổi tiếng nhất là chùa Hang, miếu Bà Chúa Xứ, Tây An cổ tự, lăng Thoại Ngọc Hầu...Thật may mắn cho chúng tôi khi trong những ngày rong ruổi tại vùng Thất Sơn, chúng tôi đã làm quen được với anh Ba Hùng, bốn mươi bảy tuổi, ngụ cù lao Tân Phú, An Giang, là người đã từng thọ ơn thầy Hai.
Anh Hùng kể mình là người ở cù lao Tân Phú nhưng dạt đến tận đây làm nghề bán rau câu dạo, có khi là chạy xe ôm. Trong một lần bất cẩn, anh bị thư, ăn uống không được mà bụng cứ trương sình lên, may nhờ thầy Hai cứu giúp, không thì cũng bỏ mạng nơi này. Thư đọc trại theo tiếng Khmer là thnup, nghĩa là bị bỏ bùa. Vùng Thất Sơn là nơi có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống nhất tại tỉnh An Giang.
Trước đây, người Khmer ở Thất Sơn gần như sống tách biệt với cộng đồng, không thích qua lại với các dân tộc anh em khác tại địa phương. Vì thế, người dân ở đây vẫn thường thêu dệt những câu chuyện kỳ bí về người Khmer. Và cho đến bây giờ, rất nhiều người vẫn tin rằng người Khmer có khả năng sử dụng bùa chú để thư người khác. Tương truyền, thư là cách hóa phép cho một vật to lớn, ví như một nắm tóc rối, con đỉa, khúc gỗ… biến thành nhỏ xíu, rồi bỏ vào đồ ăn thức uống của người muốn bỏ bùa. Sau khi vào bụng, những vật trên sẽ trở về hình dáng cũ, kích thước bình thường, gây đau đớn ghê gớm cho người bị hại.
Khi bị thư thì không thuốc thang nào chữa nổi, chỉ có những ông đạo cao tay giải bùa mới mong tai qua nạn khỏi. Các cao niên còn kể lại rằng, người muốn luyện loại bùa chú này phải ăn những đồ dơ bẩn nhất như rác rưởi, đỉa, trùng đất... Cũng giống chơi ngải, họ phải lựa giờ linh để đọc thần chú, kêu gọi những oan hồn khuất mày, khuất mặt nhập thân để có thể sai khiến được ma quỷ.
Anh Hùng rùng mình kể lại:
- Tôi không biết mình đã làm gì sai mà tự nhiên bụng cứ trướng dần lên. Đi bác sĩ người ta nói là bệnh gan, nhưng thật ra không phải. Ai cũng bảo là tôi bị thư, bị yếm rồi. Người ta thương tình đưa tôi lên núi Sam cầu thầy Hai chữa trị. Thầy Hai giải bùa xong tự nhiên bụng tôi xẹp xuống, gia đình tôi mang ơn thầy Hai suốt đời. Lâu lâu ổng hay nhờ tôi mua giùm gạo với một số đồ cần thiết đem lên cho ổng.
Không biết câu chuyện anh Hùng kể thực hư ra sao, nhưng chuyện thầy Hai luyện “võ bùa” thì dân xứ này ai cũng râm ran đồn đại. Sau một hồi thuyết phục, anh Hùng cũng chịu dẫn chúng tôi đến nơi thầy Hai đang tu đạo.
Cách Tây An cổ tự không xa là căn chòi lá của thầy Hai. Cũng như những ông đạo thường thấy ở miền Tây, thầy Hai tầm hơn sáu mươi tuổi, búi tóc củ tỏi, mặc bà ba đen, dáng vẻ khoan thai, người phương phi hồng hào. Thầy Hai tỏ ra rất khó chịu khi anh Hùng dẫn người lạ mặt đến chỗ ở của thầy. Chúng tôi phải quỳ rất lâu trước mái chòi tranh để vờ xin thầy Hai nhận làm đệ tử của môn võ thần quyền. Mãi đến khi trời bỗng đổ mưa thì thầy mới mở cửa mời chúng tôi vào nhà.
Thầy Hai gắt:
- Mai mốt tôi chuyển chỗ thôi. Tôi không thích nhiều người biết nơi mình ở. Trời đổ mưa, thôi cũng coi như là cái duyên. Tôi sẽ chỉ cho các anh cách tập luyện Thất Sơn thần quyền, về nhà tự học lấy, thành hay không là ở cái tâm của các anh. Còn tôi không nhận đệ tử.
Thầy Hai kể rằng, tổ sư của thần quyền là một cao tăng người Ấn Độ. Không biết vì lẽ gì mà lưu lạc đến Việt Nam rồi về vùng Thất Sơn ẩn náu. Tại đây ông đã được những người Khmer cưu mang và ông quyết định truyền võ bùa cho họ. Nhưng người Khmer vốn dĩ tự hào về khả năng thư của mình nên đã từ chối môn võ này. Sau, môn võ được truyền lại cho người Kinh, và ông Hai vốn may mắn được chân truyền. Sau khi kể sơ về nguồn gốc, chúng tôi được làm lễ nhập môn.
Thầy Hai bấm độn, và bảo chúng tôi đứng trước bàn thờ. Chúng tôi được chia mỗi người ba cây nhang, nghiêm cẩn và lặp lại những lời thề theo lời ông Hai đọc. Có tất thảy chín điều dành cho nhập môn, và càng lên cao thì số lời thề càng tăng lên, cao nhất là mười sáu điều. Một số lời thề của thầy Hai mà chúng tôi đã ghi lại được: Một lòng hiếu thảo với cha mẹ; Không phản môn phái; Không phản thầy; Không phản bạn; Coi bạn như anh em ruột thịt; Không cưỡng bức kẻ yếu; Không làm điều gian ác; Không ham mê tửu sắc; Không nản chí khi luyện tập; Không thoái lui lúc nguy hiểm; Luôn bảo vệ kẻ yếu; Ôn hòa trong tình bạn; Cứu người trong lúc nguy nan...
Sau khi thề và bái lạy trước bàn thờ xong, thầy Hai phát cho chúng tôi mỗi người hai lá bùa, gọi là bùa hộ thân, một vuông, một dài. Trên vẽ những hình ngoằn ngoèo giống như chữ của vùng Tây Á, và những biểu tượng không rõ hình thù. Sau khi niệm chú, thầy Hai lấy bùa đốt lên, rồi đem tro hòa với nước bắt chúng tôi uống cạn.
Thầy Hai bảo:
- Trước khi tập thần quyền, phải khai thông các huyệt đạo trên cơ thể. Có như vậy thần chú mới ứng nghiệm.
Nói rồi thầy lấy bảy nén nhang, đốt lên rồi thổi khói vào các nơi gọi là tử huyệt, sinh huyệt. Vừa khai huyệt thầy vừa giảng giải: “Môn sinh nam thì bảy cây nhang, thổi khói bảy lần vào sinh huyệt, tử huyệt. Môn sinh nữ thì cghibns cây nhang, thổi khói chín lần.
Sau khi được “khai thông kinh mạch, chúng tôi được nghỉ ngơi. Trong khoảng thời gian này, chúng tôi được thầy Hai kể khá nhiều giai thoại ly kỳ về Thất Sơn thần quyền. Theo đó, thứ võ mà thầy Hai truyền cho chúng tôi là một chi của Thất Sơn thần quyền. Thần quyền gồm quyền và thuật. Quyền được rèn luyện về thể lực chiêu thức như những môn võ khác, nhưng thuật thì rất ít ai biết và thầy Hai là một trong những truyền nhân còn sót lại nắm được thuật của Thất Sơn thần quyền.
Thầy Hai kể, ông nhặt được bí kíp chân truyền của Đạo Ngựa, cũng chính là tổ sư của môn Thất Sơn thần quyền. Sở dĩ gọi ông là Đạo Ngựa vì ông hay cưỡi ngựa lên núi tu tập, rồi lại dong ngựa xuống núi để thăm thú xóm làng. Một lần ông cưỡi ngựa xuống núi đổi rau củ lấy gạo thì bắt gặp một đám lính Pháp đang dùng súng uy hiếp người dân. Ông lập tức nhảy xuống cứu người.
Tên lính lê dương nổ súng, Đạo Ngựa há miệng đớp lấy viên đạn mà không hề hấn gì, rồi nhả xác đạn ra trước mặt bọn lính khiến chúng thất kinh, vứt súng chạy tán loạn. Sau lần ấy, lính Pháp kéo đến vùng núi nơi ông tu tập để truy lùng ông, nhưng không được. Có người kể lại rằng, lão võ sư Hoàng Sơn, một môn đồ ưu tú của phái Thất Sơn thần quyền đã tìm được Đạo Ngựa và học được những tinh hoa của môn võ này.
Trở lại việc học võ bùa, thầy Hai cũng không ngần ngại truyền cho chúng tôi các loại chú như chú xin quyền, chú chữa thương, chú xin lực... Thầy Hai dặn, về nhà muốn xin gì cứ niệm chú để gọi về, nhưng phải tập luyện rất lâu cách gọi chú thì võ bùa mới ứng nghiệm. Và tuyệt nhiên không được để thân mình ô uế. Ví như không được chui xuống dây phơi quần áo, trước khi gọi bùa không được gần sắc dục, không được uống nước chung ly, và rất nhiều điều kiêng kỵ khác.
Về đến nhà, chúng tôi lập tức đọc theo thần chú thầy Hai đã cho, gọi bùa xin quyền, xin lực hộ thể… gọi mãi mà không thấy ứng nghiệm gì. Anh Ba Hùng, người đã dẫn chúng tôi gặp thầy Hai thì luôn miệng giải thích:
- Chắc tại tụi bây vướng phải mấy điều kiêng kỵ thầy dặn rồi. Tao nói mà, võ bùa khó lắm.
Sau chúng tôi có đi hỏi khắp vùng Thất Sơn, nhưng sự mầu nhiệm của võ bùa chỉ dừng lại ở những câu chuyện kể. Hoàn toàn chưa một ai chứng minh được sự huyền diệu của môn võ thần bí này.
An Ngọc
#799
Gửi vào 26/11/2013 - 05:09
VẤN ĐỀ GIẢI THÍCH VỀ SỰ XUẤT HIỆN CUẢ HỒN MA
Cho đến nay vấn đề giải thích về ma vẫn chưa được rõ ràng, mặc dầu các nhà khoa học đã mạnh dạn bước vào lãnh vực nghiên cứu những hiện tượng ma quỷ và coi đó cũng là một trong vô số các hiện tượng tự nhiên mà từ lâu con người chưa khám phá tìm hiểu tường tận.
Điều kỳ lạ là tuy mới bắt tay vào việc nghiên cứu hồn ma, nhưng các nhà khoa học với cách làm việc có phương pháp theo tinh thần khoa học thực nghiệm, họ đã thu thập vô số các sự kiện liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu và cho đến nay, chỉ riêng một nhóm nhà khoa học nghiên cứu tại Oregan, mà Trưởng nhóm là Bác sĩ Pretice, không thôi cũng đã có hàng ngàn dữ kiện lạ lùng về hiện tượng hồn ma.
Mới đây, bác sĩ thần kinh học ở Đại Học Berkeley (California, Hoa Kỳ) đã tuyên bố:
- Chúng tôi có thể mạnh dạn nói rằng: Tất cả chúng ta, mọi người đều mang những hồn ma theo mình. Từ lâu, máy dò tìm EGG tác động vào việc dò tách các sóng não, thường cho thấy có sự biến đổi mạnh mẽ và giới khoa học thực sự chưa biết nguyên nhân. Nhưng giờ đây, khi nghiên cứu kỹ về vấn đề hồn ma, chúng tôi tin chắc rằng những biến đổi theo các cấp độ khác nhau của sóng não, là do sự hiện diện, ảnh hưởng của linh hồn những người đã chết.
Dĩ nhiên, vì là nhà khoa học, các nhà nghiên cứu này đã làm việc với tinh thần vô tư, trung thực, không chấp nhận những quan điểm mơ hồ vô lý đôi khi khôi hài. Họ xử dụng luôn các dụng cụ máy móc để hỗ trợ cho việc nghiên cứu. Tuy nhiên họ cũng không quá bảo thủ theo tinh thần của khoa học thực nghiệm, mà đôi khi rất cởi mở với nhiều sự kiện, miễn rằng có liên hệ đến vấn đề siêu linh huyền bí mà họ đang tìm hiểu, bằng cách từ lập luận đó mà phân tích, tổng hợp suy diễn để từ đó tìm được hướng đi tới cho vấn đề.
Dù sao, thật sự cho đến bây giờ, rõ ràng các nhà nghiên cứu vẫn đang còn trên đường tìm hiểu, thăm dò, thu thập tài liệu, nghiên cứu về vấn đề hồn ma. Kết luận sau cùng vẫn chưa dứt khoát... Câu hỏi Ma Là Gì vẫn còn có lắm câu trả lời và sự giải thích cũng còn có nhiều khác biệt.
Nhà nghiên cứu Robert Jackson năm 1992, đã viết một cuốn sách hoàn toàn về ma quỷ nhan đề "Great Mysteries Ghosts". Trước đó cũng đã có rất nhiều sách viết về đề tài này. Hầu hết các tài liệu đều được các tác giả đánh giá và nhận định kỹ càng. Riêng về việc xác nhận có hồn ma hay không thì hơn 90 phần trăm tác giả đều cho rằng hồn ma là một vấn đề, không nên hiểu như là một sự tưởng tượng của con người. Hồn ma là một thực thể trong một thế giới vô hình và thế giới ấy ở kề cận chúng ta.
Theo Robert Jackson thì hồn ma đôi khi hiện rõ có thể thấy được bằng mắt trần, đôi khi thoạt hiện thoạt biến. Dạng thế thường như lớp sương mờ và thường xuất hiện đơn độc hơn là quy tụ thành nhóm. Hồn ma xuyên qua vách tường, vật rắn đặc một cách tự nhiên và mặc dầu hồn ma thương xuất hiện bất ngờ, đôi khi tình cờ, may mắn, có người đã chụp ảnh được hồn ma.
Cho đến nay vấn đề giải thích về ma vẫn chưa được rõ ràng, mặc dầu các nhà khoa học đã mạnh dạn bước vào lãnh vực nghiên cứu những hiện tượng ma quỷ và coi đó cũng là một trong vô số các hiện tượng tự nhiên mà từ lâu con người chưa khám phá tìm hiểu tường tận.
Điều kỳ lạ là tuy mới bắt tay vào việc nghiên cứu hồn ma, nhưng các nhà khoa học với cách làm việc có phương pháp theo tinh thần khoa học thực nghiệm, họ đã thu thập vô số các sự kiện liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu và cho đến nay, chỉ riêng một nhóm nhà khoa học nghiên cứu tại Oregan, mà Trưởng nhóm là Bác sĩ Pretice, không thôi cũng đã có hàng ngàn dữ kiện lạ lùng về hiện tượng hồn ma.
Mới đây, bác sĩ thần kinh học ở Đại Học Berkeley (California, Hoa Kỳ) đã tuyên bố:
- Chúng tôi có thể mạnh dạn nói rằng: Tất cả chúng ta, mọi người đều mang những hồn ma theo mình. Từ lâu, máy dò tìm EGG tác động vào việc dò tách các sóng não, thường cho thấy có sự biến đổi mạnh mẽ và giới khoa học thực sự chưa biết nguyên nhân. Nhưng giờ đây, khi nghiên cứu kỹ về vấn đề hồn ma, chúng tôi tin chắc rằng những biến đổi theo các cấp độ khác nhau của sóng não, là do sự hiện diện, ảnh hưởng của linh hồn những người đã chết.
Dĩ nhiên, vì là nhà khoa học, các nhà nghiên cứu này đã làm việc với tinh thần vô tư, trung thực, không chấp nhận những quan điểm mơ hồ vô lý đôi khi khôi hài. Họ xử dụng luôn các dụng cụ máy móc để hỗ trợ cho việc nghiên cứu. Tuy nhiên họ cũng không quá bảo thủ theo tinh thần của khoa học thực nghiệm, mà đôi khi rất cởi mở với nhiều sự kiện, miễn rằng có liên hệ đến vấn đề siêu linh huyền bí mà họ đang tìm hiểu, bằng cách từ lập luận đó mà phân tích, tổng hợp suy diễn để từ đó tìm được hướng đi tới cho vấn đề.
Dù sao, thật sự cho đến bây giờ, rõ ràng các nhà nghiên cứu vẫn đang còn trên đường tìm hiểu, thăm dò, thu thập tài liệu, nghiên cứu về vấn đề hồn ma. Kết luận sau cùng vẫn chưa dứt khoát... Câu hỏi Ma Là Gì vẫn còn có lắm câu trả lời và sự giải thích cũng còn có nhiều khác biệt.
Nhà nghiên cứu Robert Jackson năm 1992, đã viết một cuốn sách hoàn toàn về ma quỷ nhan đề "Great Mysteries Ghosts". Trước đó cũng đã có rất nhiều sách viết về đề tài này. Hầu hết các tài liệu đều được các tác giả đánh giá và nhận định kỹ càng. Riêng về việc xác nhận có hồn ma hay không thì hơn 90 phần trăm tác giả đều cho rằng hồn ma là một vấn đề, không nên hiểu như là một sự tưởng tượng của con người. Hồn ma là một thực thể trong một thế giới vô hình và thế giới ấy ở kề cận chúng ta.
Theo Robert Jackson thì hồn ma đôi khi hiện rõ có thể thấy được bằng mắt trần, đôi khi thoạt hiện thoạt biến. Dạng thế thường như lớp sương mờ và thường xuất hiện đơn độc hơn là quy tụ thành nhóm. Hồn ma xuyên qua vách tường, vật rắn đặc một cách tự nhiên và mặc dầu hồn ma thương xuất hiện bất ngờ, đôi khi tình cờ, may mắn, có người đã chụp ảnh được hồn ma.
#800
Gửi vào 26/11/2013 - 05:13
Từ lâu, các nhà vật lý học đã nghĩ đến việc đo nhiệt độ của hồn ma. Thật ra, sau khi bác sĩ Mac Douglas thực hiện việc cân đo trọng lượng hồn người chết, vấn đề đo lường phân tích nhiệt độ nơi hồn ma xuất hiện được lưu tâm hơn. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng: Hầu hết các căn nhà nhất là các căn phòng của những ngôi nhà có ma thường có nhiệt độ giảm thiểu. Sự sụt giảm nhiệt độ sẽ rất nhanh khi có hồn ma xuất hiện. Một nguyên nhân gây ra có thể là do hồn ma thuộc về âm hơn là dương tính.
Một số nhà tâm lý học và sinh lý học cho rằng đôi khi tình trạng thần kinh, sức khỏe của mỗi người thường có thay đổi lệch lạc. Vì thế sự nhận định về hình ảnh, hiện tượng xảy ra ở bên ngoài không được toàn hảo, nhất là trong tình trạng nửa thức nửa ngủ, nửa mê nửa tỉnh (semi-conscious state), hoặc những hình ảnh có từ trước do tưởng tượng có thể được ghi vào tiềm thức rồi có dịp biểu lộ ra và gọi đó là hồn ma.
Thật ra những luận cứ ấy không hẳn là vững chắc hoàn toàn vì có những hiện tượng xảy ra được nhiều người chứng kiến thì không thể bảo rằng do ký ức. Do đó thuyết cho rằng ma là do sự tưởng tượng, ấn nhập hình ảnh vào trí óc có vẻ hữu lý phần nào nhưng chưa hẳn là vậy và chúng ta biết rằng hiện tượng điện (electric) và từ (magnetic) là cơ bản trong những định luật vật lý. Hai phần này hỗ tương tác động lẫn nhau để tạo nên một điện từ trường (electromagnetic field) và trong điện từ trường ấy có phần chính yếu là hạt photon.
Điện từ trường phát sinh sự phát xạ, bức xạ (radiation) -sóng năng lượng (waves of energy)- Các nhà lý luận đã dựa vào lý luận này để giải thích hiện tượng, hình ảnh hồn ma bóng quế. Mặc dầu vậy, lý luận trên không thể dùng cho trường hợp của những gì thuộc về âm thanh kỳ lạ mà nhiều người gọi là âm thanh do ma quái tạo ra. Cũng như mùi vị, sự chuyển động của đồ vật, hoặc hiện tượng đóng hay mở cửa do một lực vô hình nào đó tác động vào.
Một giả thuyết khác khá hấp dẫn cho rằng những hồn ma là sự biểu lộ rõ nét hình ảnh trung gian giữa đời sống này và đời sống khác, hay nói theo nghĩa luân hồi là giữa kiếp này và kiếp khác. Những nhà điều tra, nghiên cứu về những sự kiện liên hệ đến hồn ma đã lưu tâm phỏng vấn những người đã có lần chết đi sống lại, có những người khẳng định rằng họ đã nhớ lại rõ ràng lúc tạm bỏ thân xác ấy, họ đã có dịp đến một nơi hoàn toàn xa lạ có thể gọi là nơi thế giới khác và họ đã thấy nhiều sự kiện và hình ảnh lạ lùng...
Điều mà cho đến nay nhiều người vẫn còn thắc mắc là tại sao hồn ma luôn luôn xuất hiện cùng với bộ áo quần đang mặc thuộc về quá khứ mà không phải là bộ đồ của tương lai hay bộ đồ mới nào khác? Có nghĩa rằng hồn ma thường xuất hiện với bộ đồ họ mặc lúc họ qua đời chớ không phải là bộ đồ khác. Nhiều hồn ma hiện ra trong thời đại ngày nay và trên mình vẫn mặc bộ áo quần của thời đại quá vãng như trường hợp ở Manor Castle, một người chủ của quán trọ Strines Inn cho biết chính ông và anh trai ông đã thấy một hồn ma xuất hiện trên tầng căn gác thứ nhất.
Hồn ma này mặc bộ đồ lính của thời Trung Cổ. Điều này đã khiến cho nhiều nhà nghiên cứu có những lập luận như sau: Nếu giả thiết rằng có sự luân hồi chuyển kiếp thì rõ ràng hồn ma này chưa được đầu thai hay có thể chính linh hồn này chưa chịu đầu thai. Hình ảnh hồn ma xuất hiện luôn luôn mặc nguyên bộ áo quần thời xưa của lúc bị chết chứng tỏ hồn ma còn ở tình trạng mượn lấy phần dạng thể của thân xác cũ chớ chưa nhập vào một thân xác khác.
Do đó không lạ gì nhiều người đã quan niệm rằng đã gọi là hồn ma thì chắc chắn đó là một linh hồn chưa được siêu thoát. Để có thể trung thực hơn khi nhận định, nghiên cứu vấn đề hồn ma, và lập luận theo đường hướng khoa học tự nhiên thì thật sự chẳng có cái gì gọi là chết hoàn toàn mà chỉ là sự thay đổi đơn thuần của sự vật mà thôi. Cơ thể con người sẽ bị hủy hoại khi chết nhưng rồi những nguyên tử cấu thành cơ thể ấy lại trở thành một phần của những vật chung quanh dưới tác dụng của đất, nước, gió, lửa... trong cái sức mạnh về điện từ được hiểu như là phần linh hồn chuyển đến một nơi nào đó.
Riêng đối với con người, có phải chúng ta quá tưởng tượng và phóng đại quá mức khi tin tưởng rằng năng lực của cuộc sống hay của linh hồn là một phần của cái mà chúng ta có thể cho là tinh thần, ý thức hay sức mạnh của vũ trụ? Cái sức mạnh đó, cái tinh thần, ý thức đó của vũ trụ đang được chính các nhà khoa học cố gắng ra sức tìm kiếm và hy vọng lời giải đáp chung cuộc, về những vấn đề của thế giới siêu linh, của linh hồn, hồn ma sẽ không còn quá xa.
Một số nhà tâm lý học và sinh lý học cho rằng đôi khi tình trạng thần kinh, sức khỏe của mỗi người thường có thay đổi lệch lạc. Vì thế sự nhận định về hình ảnh, hiện tượng xảy ra ở bên ngoài không được toàn hảo, nhất là trong tình trạng nửa thức nửa ngủ, nửa mê nửa tỉnh (semi-conscious state), hoặc những hình ảnh có từ trước do tưởng tượng có thể được ghi vào tiềm thức rồi có dịp biểu lộ ra và gọi đó là hồn ma.
Thật ra những luận cứ ấy không hẳn là vững chắc hoàn toàn vì có những hiện tượng xảy ra được nhiều người chứng kiến thì không thể bảo rằng do ký ức. Do đó thuyết cho rằng ma là do sự tưởng tượng, ấn nhập hình ảnh vào trí óc có vẻ hữu lý phần nào nhưng chưa hẳn là vậy và chúng ta biết rằng hiện tượng điện (electric) và từ (magnetic) là cơ bản trong những định luật vật lý. Hai phần này hỗ tương tác động lẫn nhau để tạo nên một điện từ trường (electromagnetic field) và trong điện từ trường ấy có phần chính yếu là hạt photon.
Điện từ trường phát sinh sự phát xạ, bức xạ (radiation) -sóng năng lượng (waves of energy)- Các nhà lý luận đã dựa vào lý luận này để giải thích hiện tượng, hình ảnh hồn ma bóng quế. Mặc dầu vậy, lý luận trên không thể dùng cho trường hợp của những gì thuộc về âm thanh kỳ lạ mà nhiều người gọi là âm thanh do ma quái tạo ra. Cũng như mùi vị, sự chuyển động của đồ vật, hoặc hiện tượng đóng hay mở cửa do một lực vô hình nào đó tác động vào.
Một giả thuyết khác khá hấp dẫn cho rằng những hồn ma là sự biểu lộ rõ nét hình ảnh trung gian giữa đời sống này và đời sống khác, hay nói theo nghĩa luân hồi là giữa kiếp này và kiếp khác. Những nhà điều tra, nghiên cứu về những sự kiện liên hệ đến hồn ma đã lưu tâm phỏng vấn những người đã có lần chết đi sống lại, có những người khẳng định rằng họ đã nhớ lại rõ ràng lúc tạm bỏ thân xác ấy, họ đã có dịp đến một nơi hoàn toàn xa lạ có thể gọi là nơi thế giới khác và họ đã thấy nhiều sự kiện và hình ảnh lạ lùng...
Điều mà cho đến nay nhiều người vẫn còn thắc mắc là tại sao hồn ma luôn luôn xuất hiện cùng với bộ áo quần đang mặc thuộc về quá khứ mà không phải là bộ đồ của tương lai hay bộ đồ mới nào khác? Có nghĩa rằng hồn ma thường xuất hiện với bộ đồ họ mặc lúc họ qua đời chớ không phải là bộ đồ khác. Nhiều hồn ma hiện ra trong thời đại ngày nay và trên mình vẫn mặc bộ áo quần của thời đại quá vãng như trường hợp ở Manor Castle, một người chủ của quán trọ Strines Inn cho biết chính ông và anh trai ông đã thấy một hồn ma xuất hiện trên tầng căn gác thứ nhất.
Hồn ma này mặc bộ đồ lính của thời Trung Cổ. Điều này đã khiến cho nhiều nhà nghiên cứu có những lập luận như sau: Nếu giả thiết rằng có sự luân hồi chuyển kiếp thì rõ ràng hồn ma này chưa được đầu thai hay có thể chính linh hồn này chưa chịu đầu thai. Hình ảnh hồn ma xuất hiện luôn luôn mặc nguyên bộ áo quần thời xưa của lúc bị chết chứng tỏ hồn ma còn ở tình trạng mượn lấy phần dạng thể của thân xác cũ chớ chưa nhập vào một thân xác khác.
Do đó không lạ gì nhiều người đã quan niệm rằng đã gọi là hồn ma thì chắc chắn đó là một linh hồn chưa được siêu thoát. Để có thể trung thực hơn khi nhận định, nghiên cứu vấn đề hồn ma, và lập luận theo đường hướng khoa học tự nhiên thì thật sự chẳng có cái gì gọi là chết hoàn toàn mà chỉ là sự thay đổi đơn thuần của sự vật mà thôi. Cơ thể con người sẽ bị hủy hoại khi chết nhưng rồi những nguyên tử cấu thành cơ thể ấy lại trở thành một phần của những vật chung quanh dưới tác dụng của đất, nước, gió, lửa... trong cái sức mạnh về điện từ được hiểu như là phần linh hồn chuyển đến một nơi nào đó.
Riêng đối với con người, có phải chúng ta quá tưởng tượng và phóng đại quá mức khi tin tưởng rằng năng lực của cuộc sống hay của linh hồn là một phần của cái mà chúng ta có thể cho là tinh thần, ý thức hay sức mạnh của vũ trụ? Cái sức mạnh đó, cái tinh thần, ý thức đó của vũ trụ đang được chính các nhà khoa học cố gắng ra sức tìm kiếm và hy vọng lời giải đáp chung cuộc, về những vấn đề của thế giới siêu linh, của linh hồn, hồn ma sẽ không còn quá xa.
#801
Gửi vào 26/11/2013 - 05:16
Màu sắc, ánh sáng, âm thanh ở những cõi giới khác nhau.
Ánh sáng và màu sắc:
Sách viết về sự chết của người Tây Tạng gọi là Tử Thư có nhắc đến màu sắc và ánh sáng ở cõi chết. Khi con người chết đi linh hồn họ sẽ đi vào một cảnh giới chan hòa màu sắc, ánh sáng và âm thanh. Trước tiên là những vùng tối đen rồi dần dần xuất hiện những đốm sáng trắng như bông gòn hoặc mây trời và sau đó là vầng sáng chói lòa và những âm thanh huyền diệu.
Những hình ảnh này trùng hợp một cách lạ lùng với những nhận xét mà các nhà khoa học, các bác sĩ, các nhà nghiên cứu về những gì liên quan đến sự chết nêu ra khi họ phỏng vấn những người đã có lần chết đi sống lại hay đã gần gũi với cái chết. Những người này đã mô tả lại những gì họ đã trải qua trong những giờ phút thập tử nhất sinh. Họ thấy mình đi vào một đường hầm tối tăm rồi dần dần tỏa rạng bởi những làn hơi trắng, những tia sáng lung linh, những màu sắc rực rỡ cùng với những âm thanh kỳ lạ.
Theo Tử Thư thì màu sắc hiện ra còn tùy vào tâm thức của linh hồn lúc đó. Hoặc tối tăm ảm đạm như màu sương khói, hoặc rùng rợn mơ hồ huyền bí hay chói chang sống động như ánh hào quang.
Màu sắc, ánh sáng, âm thanh ở cõi giới khác thật sự rất khác xa với cõi thế gian mà con người đang sống. Theo Tiến sĩ Hamound thì "Thế giới mà con người đang sống thật sự chỉ là một thế giới hư ảo mà thôi. Kinh Phật Giáo thường viết 8 chữ Sắc Tức Thị Không, Không Tức Thị Sắc để nói lên cái vật chất là hư vô, có không, không có..." Trong sách truyền đạo (Thánh Kinh) có một câu: "người truyền đạo nói: Hư không của sự hư không, hư không của sự hư không, thảy đều hư không..." Tuy nhiên, đối với con người, vì tin tưởng và xử dụng các giác quan phàm tục của mình nên đã coi thế giới này là thực.
Họ thấy rõ mọi vật hiện ra trước mắt, ánh sáng, màu sắc, âm thanh là thật đối với họ. Trái lại đối với những thế giới khác, những cõi giới khác với cõi giới họ đang sống thì vì họ không đến được, không thấy được, không nghe được bằng giác quan mình nên họ cho là không có.
Ánh sáng và màu sắc ở cõi giới khác:
Trên quả đất, loài người thấy được ánh sáng. Ánh sáng ấy phát sinh từ mặt trời, hay từ mặt trăng hoặc phát sinh từ những khám phá phát minh của loài người như lửa, than, đèn dầu, đèn điện... Từ thuở con người còn ăn lông ở lỗ, ánh sáng mặt trời quả là huyền diệu kỳ bí. Thần mặt trời (thần RẢ) được người Ai Cập tôn thờ. Người Hy Lạp cổ đại cũng đề cao thần mặt trời, thần chiến thắng. Người Incas cũng tôn thờ mặt trời, người Nhật tự hào mình là con cái của Thái Dương Thần Nữ...
Tượng thần Sphinx có mình sư tử đầu người là biểu tượng cao quý linh thiêng của người Ai Cập cổ đại tôn thờ vinh danh ánh sáng. Nhưng nếu so với cõi giới khác thì ánh sáng trên cõi giới này kể cả ánh sáng mặt trời cũng chỉ là ánh sáng của cõi giới sơ cấp mà thôi. Thứ ánh sáng trên thế gian này không phải là thứ ánh sáng siêu đẳng, ánh sáng ấy chỉ là do sự tập hợp của các giai tầng màu sắc đỏ, cam, vàng, xanh, lam, chàm, tím và các màu sắc cũng chỉ là do sự phản chiếu, hấp thụ, khuếch tán các màu đơn sắc (con người có thể thấy rõ từ ác cầu vòng) mà thôi.
Các vị Lạt Ma Tây Tạng thường gọi những ánh sáng và màu sắc ấy là thứ ánh sáng sơ đẳng ở cõi phàm trần, là thứ ánh sáng sơ lậu. Trái lại, ánh sáng ở những cõi giới khác thường rất khác xa cái ánh sáng mà con người có được trên quả đất. Có thể nói phần lớn là loại ánh sáng siêu đẳng lạ lùng, loại ánh sáng siêu nhiên. Ánh sáng này nếu ở cấp cao thì con người không còn thấy được nữa vì không còn biểu lộ ra ngoài như cái ánh sáng thường thấy ở thế gian.
Cần lưu ý rằng từ cõi giới loài người đang sống chuyển đến các cõi giới tuyệt cùng phải trải qua nhiều cõi giới có cường độ ánh sáng khác nhau, do đó vẫn còn nhiều cảnh giới mà con người sẽ thấy được thứ ánh sáng ở đó. Chính những ánh sáng, màu sắc, âm thanh cảm nhận được ấy sẽ đưa linh hồn từng bước đến cõi giới khác.
Khi trí tuệ con người được khai mở, được giác ngộ thì họ sẽ thấy được luôn cả cái ánh sáng cao cấp. Ấy là lúc con người không còn bị ràng buộc bởi cái "bản ngã", cái ta; không còn bị chìm đắm trong mê mờ nữa. Trong Tăng Chi Bộ Kinh có ghi lại lời của Phật nói về ánh sáng như sau: Xét về ánh sáng có 4 thứ ánh sáng chính; đó là ánh sáng do mặt trời phát ra; ánh sáng do mặt trăng phát ra; ánh sáng do lửa phát ra; ánh sáng do Trí Tuệ phát ra. Trong 4 thứ ánh sáng ấy thì chỉ có ánh sáng Trí Tuệ là vi diệu hơn cả. Đó là ánh sáng tối thượng...
Những gì mà những người chết đi sống lại hay đã có lần gần gũi với cái chết mô tả về con đường hun hút cùng với ánh sáng lạ lùng mà họ đã xuyên qua thì thứ ánh sáng ấy thật sự cũng chỉ là ánh sáng ở cấp độ nhỏ mà thôi mặc dù so với ánh sáng ở cõi thế gian này thì vẫn cao hơn.
Điều đáng lưu tâm là theo kinh điển của các tôn giáo như Ki-Tô Giáo, Phật Giáo, Ấn Độ Giáo... đều thường đề cập đến hiện tượng những người được khai ngộ, giải thoát, cứu rỗi để đến với Phật, với Chúa, với Đấng Tối Cao, vớiThượng Đế... đều thấy được thứ ánh sáng này. Đây là thứ ánh sáng chan hòa, tuyệt đối, rực rỡ và rất chói chang. Cường độ ánh sáng này vô cùng mãnh liệt, không có ở quả đất và nếu có thì mắt người hay loài vật sẽ không thể chịu nổi. Chỉ khi nào trí tuệ con người đã được khai mở rồi thì cái ánh sáng vi diệu mạnh mẽ này sẽ không còn là thứ ánh sáng đáng sợ đối với họ nữa.
Cũng giống như âm thanh, ánh sáng cũng có những đẳng cấp khác nhau tùy vào những cảnh giới. Như vậy, mỗi cảnh giới sẽ có những ánh sáng, màu sắc, âm thanh khác nhau.
Đặc biệt ánh sáng ở cảnh giới cao nhất mà các tôn giáo gọi là ánh sáng ở cảnh giới Thiên Đàng, Niết Bàn, Cõi Trời, Thượng Giới... sẽ không có bóng hình. Có nghĩa rằng nơi đây, mọi vật sẽ không có bóng chiếu màu đen in lên vật thể khác giống như bóng đen in lên vách do mặt trời, mặt trăng hay ánh đèn tạo nên ánh sáng chiếu lên vật chất. Phật giáo gọi đó là Phật Quang và khi nói Phật Quang vô ám là cố để giải thích ý nghĩa tương tự trên, nhưng thật ra ý nghĩa rất thâm sâu.
Theo các vị Lạt Ma Tây Tạng thì khi chết, linh hồn thoát khỏi thể xác, sau khi vượt qua một đoạn đường tối tăm, linh hồn sẽ được ánh sáng ở cõi giới phân ranh giữa cõi sống và cõi chết dẫn dắt. Tuy nhiên, vì ánh sáng mạnh mẽ chói lòa nên dễ làm linh hồn khiếp sợ, đôi khi tìm cách lánh xa. Đó chính là điều tai hại, lầm lạc vì chính luồng sáng đó giống như người dẫn đạo chỉ đường cho linh hồn tới được cảnh giới tốt hơn. Nếu vì sợ hãi mà tránh đi thì dễ dàng phiêu lạc vào cảnh giới u ám tối tăm bất lợi.
Ánh sáng và màu sắc:
Sách viết về sự chết của người Tây Tạng gọi là Tử Thư có nhắc đến màu sắc và ánh sáng ở cõi chết. Khi con người chết đi linh hồn họ sẽ đi vào một cảnh giới chan hòa màu sắc, ánh sáng và âm thanh. Trước tiên là những vùng tối đen rồi dần dần xuất hiện những đốm sáng trắng như bông gòn hoặc mây trời và sau đó là vầng sáng chói lòa và những âm thanh huyền diệu.
Những hình ảnh này trùng hợp một cách lạ lùng với những nhận xét mà các nhà khoa học, các bác sĩ, các nhà nghiên cứu về những gì liên quan đến sự chết nêu ra khi họ phỏng vấn những người đã có lần chết đi sống lại hay đã gần gũi với cái chết. Những người này đã mô tả lại những gì họ đã trải qua trong những giờ phút thập tử nhất sinh. Họ thấy mình đi vào một đường hầm tối tăm rồi dần dần tỏa rạng bởi những làn hơi trắng, những tia sáng lung linh, những màu sắc rực rỡ cùng với những âm thanh kỳ lạ.
Theo Tử Thư thì màu sắc hiện ra còn tùy vào tâm thức của linh hồn lúc đó. Hoặc tối tăm ảm đạm như màu sương khói, hoặc rùng rợn mơ hồ huyền bí hay chói chang sống động như ánh hào quang.
Màu sắc, ánh sáng, âm thanh ở cõi giới khác thật sự rất khác xa với cõi thế gian mà con người đang sống. Theo Tiến sĩ Hamound thì "Thế giới mà con người đang sống thật sự chỉ là một thế giới hư ảo mà thôi. Kinh Phật Giáo thường viết 8 chữ Sắc Tức Thị Không, Không Tức Thị Sắc để nói lên cái vật chất là hư vô, có không, không có..." Trong sách truyền đạo (Thánh Kinh) có một câu: "người truyền đạo nói: Hư không của sự hư không, hư không của sự hư không, thảy đều hư không..." Tuy nhiên, đối với con người, vì tin tưởng và xử dụng các giác quan phàm tục của mình nên đã coi thế giới này là thực.
Họ thấy rõ mọi vật hiện ra trước mắt, ánh sáng, màu sắc, âm thanh là thật đối với họ. Trái lại đối với những thế giới khác, những cõi giới khác với cõi giới họ đang sống thì vì họ không đến được, không thấy được, không nghe được bằng giác quan mình nên họ cho là không có.
Ánh sáng và màu sắc ở cõi giới khác:
Trên quả đất, loài người thấy được ánh sáng. Ánh sáng ấy phát sinh từ mặt trời, hay từ mặt trăng hoặc phát sinh từ những khám phá phát minh của loài người như lửa, than, đèn dầu, đèn điện... Từ thuở con người còn ăn lông ở lỗ, ánh sáng mặt trời quả là huyền diệu kỳ bí. Thần mặt trời (thần RẢ) được người Ai Cập tôn thờ. Người Hy Lạp cổ đại cũng đề cao thần mặt trời, thần chiến thắng. Người Incas cũng tôn thờ mặt trời, người Nhật tự hào mình là con cái của Thái Dương Thần Nữ...
Tượng thần Sphinx có mình sư tử đầu người là biểu tượng cao quý linh thiêng của người Ai Cập cổ đại tôn thờ vinh danh ánh sáng. Nhưng nếu so với cõi giới khác thì ánh sáng trên cõi giới này kể cả ánh sáng mặt trời cũng chỉ là ánh sáng của cõi giới sơ cấp mà thôi. Thứ ánh sáng trên thế gian này không phải là thứ ánh sáng siêu đẳng, ánh sáng ấy chỉ là do sự tập hợp của các giai tầng màu sắc đỏ, cam, vàng, xanh, lam, chàm, tím và các màu sắc cũng chỉ là do sự phản chiếu, hấp thụ, khuếch tán các màu đơn sắc (con người có thể thấy rõ từ ác cầu vòng) mà thôi.
Các vị Lạt Ma Tây Tạng thường gọi những ánh sáng và màu sắc ấy là thứ ánh sáng sơ đẳng ở cõi phàm trần, là thứ ánh sáng sơ lậu. Trái lại, ánh sáng ở những cõi giới khác thường rất khác xa cái ánh sáng mà con người có được trên quả đất. Có thể nói phần lớn là loại ánh sáng siêu đẳng lạ lùng, loại ánh sáng siêu nhiên. Ánh sáng này nếu ở cấp cao thì con người không còn thấy được nữa vì không còn biểu lộ ra ngoài như cái ánh sáng thường thấy ở thế gian.
Cần lưu ý rằng từ cõi giới loài người đang sống chuyển đến các cõi giới tuyệt cùng phải trải qua nhiều cõi giới có cường độ ánh sáng khác nhau, do đó vẫn còn nhiều cảnh giới mà con người sẽ thấy được thứ ánh sáng ở đó. Chính những ánh sáng, màu sắc, âm thanh cảm nhận được ấy sẽ đưa linh hồn từng bước đến cõi giới khác.
Khi trí tuệ con người được khai mở, được giác ngộ thì họ sẽ thấy được luôn cả cái ánh sáng cao cấp. Ấy là lúc con người không còn bị ràng buộc bởi cái "bản ngã", cái ta; không còn bị chìm đắm trong mê mờ nữa. Trong Tăng Chi Bộ Kinh có ghi lại lời của Phật nói về ánh sáng như sau: Xét về ánh sáng có 4 thứ ánh sáng chính; đó là ánh sáng do mặt trời phát ra; ánh sáng do mặt trăng phát ra; ánh sáng do lửa phát ra; ánh sáng do Trí Tuệ phát ra. Trong 4 thứ ánh sáng ấy thì chỉ có ánh sáng Trí Tuệ là vi diệu hơn cả. Đó là ánh sáng tối thượng...
Những gì mà những người chết đi sống lại hay đã có lần gần gũi với cái chết mô tả về con đường hun hút cùng với ánh sáng lạ lùng mà họ đã xuyên qua thì thứ ánh sáng ấy thật sự cũng chỉ là ánh sáng ở cấp độ nhỏ mà thôi mặc dù so với ánh sáng ở cõi thế gian này thì vẫn cao hơn.
Điều đáng lưu tâm là theo kinh điển của các tôn giáo như Ki-Tô Giáo, Phật Giáo, Ấn Độ Giáo... đều thường đề cập đến hiện tượng những người được khai ngộ, giải thoát, cứu rỗi để đến với Phật, với Chúa, với Đấng Tối Cao, vớiThượng Đế... đều thấy được thứ ánh sáng này. Đây là thứ ánh sáng chan hòa, tuyệt đối, rực rỡ và rất chói chang. Cường độ ánh sáng này vô cùng mãnh liệt, không có ở quả đất và nếu có thì mắt người hay loài vật sẽ không thể chịu nổi. Chỉ khi nào trí tuệ con người đã được khai mở rồi thì cái ánh sáng vi diệu mạnh mẽ này sẽ không còn là thứ ánh sáng đáng sợ đối với họ nữa.
Cũng giống như âm thanh, ánh sáng cũng có những đẳng cấp khác nhau tùy vào những cảnh giới. Như vậy, mỗi cảnh giới sẽ có những ánh sáng, màu sắc, âm thanh khác nhau.
Đặc biệt ánh sáng ở cảnh giới cao nhất mà các tôn giáo gọi là ánh sáng ở cảnh giới Thiên Đàng, Niết Bàn, Cõi Trời, Thượng Giới... sẽ không có bóng hình. Có nghĩa rằng nơi đây, mọi vật sẽ không có bóng chiếu màu đen in lên vật thể khác giống như bóng đen in lên vách do mặt trời, mặt trăng hay ánh đèn tạo nên ánh sáng chiếu lên vật chất. Phật giáo gọi đó là Phật Quang và khi nói Phật Quang vô ám là cố để giải thích ý nghĩa tương tự trên, nhưng thật ra ý nghĩa rất thâm sâu.
Theo các vị Lạt Ma Tây Tạng thì khi chết, linh hồn thoát khỏi thể xác, sau khi vượt qua một đoạn đường tối tăm, linh hồn sẽ được ánh sáng ở cõi giới phân ranh giữa cõi sống và cõi chết dẫn dắt. Tuy nhiên, vì ánh sáng mạnh mẽ chói lòa nên dễ làm linh hồn khiếp sợ, đôi khi tìm cách lánh xa. Đó chính là điều tai hại, lầm lạc vì chính luồng sáng đó giống như người dẫn đạo chỉ đường cho linh hồn tới được cảnh giới tốt hơn. Nếu vì sợ hãi mà tránh đi thì dễ dàng phiêu lạc vào cảnh giới u ám tối tăm bất lợi.
#802
Gửi vào 26/11/2013 - 05:39
Theo Phật Giáo Tây Tạng thì sở dĩ con người ở nơi trần thế, sống và hoạt được chính là do một thể đặc biệt, thể này coi như nguồn sinh lực, như là điện năng làm cho máy chạy. Thể này là thể khí; có thể gọi là Sinh Khí mà tên gọi là PRANA.
Nhờ thể Prana hay sinh khí mà mọi tế bào trong cơ thể con người hoạt động được điều hòa máu huyết được lưu thông, hệ thần kinh bền vững. Chính ánh sáng mặt trời rung động đã làm phát sinh thể Prana. Vì thế đã là con người sống trên quả đất, tốt nhất là nên sống ở nơi có ánh sáng mặt trời. Đó là điều quan trọng và cần thiết. Nhờ ánh sáng này mà các thể Prana tăng cường điện năng cho cơ thể giúp cơ thể có đủ năng lượng để hoạt động được điều hòa.
Theo Ky Tô Giáo, ánh sáng trên thế gian rất quan trọng đối với đời sống con người. Ánh sáng góp phần xây dựng và nuôi dưỡng con người trên quả đất. Moise đã viết: "... và Thượng Đế phán: Ánh sáng hãy xuất hiện! và ánh sáng mới có". Theo Thánh Kinh, trong sự tạo thiên lập địa, ánh sáng được Thượng Đế đặc ân ban cho loài người.
Nếu không có ánh sáng, mọi vật thảy đều tối tăm, không thể phát sinh phát triển tồn tại được. Còn cái ánh sáng và cái bóng tối bên kia cõi chết cũng được nhắc đến trong thánh kinh. Một số người đã trải qua giai đoạn chạm trán với tử thần đã so sánh vùng tối đen hay đường hầm hun hút mà họ đã qua là "thung lũng của bóng tối tử thần" một hình ảnh cũng được mô tả trong kinh thánh.
Nhiều người khi cảm thấy mình trôi qua đường hầm tối đen rồi tới cuối đường hầm là vầng sáng chói lòa, họ nghĩ rằng họ đã đến với Thượng Đế, với Chúa, vì họ đã tìm thấy trong thánh kinh trước đó lời Chúa Jésus đã phán: "Ta là ánh sáng của thế gian". Raymond A. Moondy trong cuốn Đời Tiếp Nối Đời có ghi lại lời nói sau đây của một người đã tiếp cận với ánh sáng huyền diệu sau cõi chết:
- Mặc dầu tôi không hề thấy ai trong cái ánh sáng ấy, nhưng với tôi thì ánh sáng chính là Tâm Thức của Chúa...là Chúa Ky Tô.
Meister Eckhart, một nhà tư tưởng nổi danh và cũng là một đại diện của Huyền học Thiên Chúa giáo đã viết rằng:
"Thời gian sinh ra từ sự vận hành của các cõi trời và ngày bắt đầu với sự vận hành đầu tiên. Còn ngày của Linh Hồn có thêm ánh sáng tự nhiên mà từ đó ta thấy mọi sự mọi vật..."
Đối với Phật Giáo, ánh sáng đó là Phật Quang, đó cũng là Phật tánh. Đó là thứ ánh sáng vi diệu mà trí huệ nào cũng có và từ ánh sáng ấy phát sinh tất cả. Khi thấy được ánh sáng này tức là thấy được Phật (Phật Quang) nghĩa là được khai ngộ, giải thoát là đến được cảnh giới Như Lai... Tuy nhiên cần lưu ý điều này: Không phải khi một người tu hành thấy được nguồn ánh sáng lạ khác với ánh sáng ở cõi thế gian tức là họ được thấy Phật, thấy Thượng Đế và được giác ngộ, giải thoát.
Sự thật, trong vũ trụ có nhiều cõi giới, mỗi cõi giới có những ánh sáng và màu sắc khác nhau. Vì thế khi thấy ánh sáng, có thể ánh sáng ấy thuộc về một cõi giới nào đó có cấp độ có thể lớn hơn cấp độ ở quả đất mà thôi chớ không phải ở cấp độ siêu đẳng. Khả năng về thị giác của con người rất giới hạn họ chỉ thấy được một khoảng cách nào đó cũng như một kích thước nào đó thôi. Ngay trên cõi trần gian này con người muốn nhìn được xa, họ phải dùng đến ống nhòm, muốn thấy được các sinh vật, phải dùng đến kính lúp hay kính hiển vi. Vì thế trong vũ trụ có nhiều cảnh giới lạ kỳ đẹp đẽ nhưng con người không thể nào thấy được.
Những vị chân tu đắc đạo có khả năng để cái phần cốt lõi vi diệu nhất của mình tức là linh hồn rời khỏi các lớp nhục thể bao quanh để đi đến cõi giới cao hơn và sẽ nhìn được ánh sáng ở cõi giới ấy.
Theo Phật Giáo thì khi chết, phần rời khỏi thể xác trong khoảng thời gian 49 ngày được gọi là Thân Trung Ấm, đó là khoảng thời gian trung bình giữa sự chết và sự chưa được tái sinh. Thân trung ấm lúc bấy giờ vừa thoát khỏi thân xác chẳng khác nào một người bấy lâu ẩn trong nhà kín nay mở cửa bước ra thấy biết bao sự lạ của môi trường bên ngoài nên sẽ vô cùng lo sợ, ngơ ngác, phân vân và lại vô cùng lạnh lẽo cô đơn... vừa lúc đó bỗng có thêm những luồng sáng lạ xuất hiện lại càng làm linh hồn bàng hoàng thêm.
Lúc đó Linh Hồn sẽ bị lệ thuộc vào nghiệp lực rất nhiều và phần lớn trong giây phút này sẽ bị nghiệp lực chi phối. Nếu nghiệp lực cảm ứng với cảnh giới nào thì sẽ có ánh sáng tương ứng sáng rực lên. Có sáu cảnh giới hay sáu đường lục đạo, mỗi đường có một loại ánh sáng tương ứng. Ánh sáng của cõi trời màu trắng, ánh sáng của cõi người màu vàng, ánh sáng của cõi A Tu La màu xanh lục, ánh sáng địa ngục màu xám đen, ánh sáng ở ma quỷ màu đỏ, ánh sáng của súc sinh có màu xanh.
Đồng thời lúc ấy, ở cõi Phật (năm phương) sẽ tỏa ra các hào quang rực rỡ chói lòa. Thân trung ấm lúc bấy giờ đang trong tình trạng hoang mang lo sợ phân vân nên khi thấy ánh sáng mãnh liệt, mạnh mẽ ấy chiếu thì càng lo lắng sợ hãi nên vội vã tránh xa để rồi tìm tới những luồng sáng yếu hơn, thích hợp hơn, đó là ánh sáng của Lục Đạo nên sự lầm lạc ấy đã đưa họ đi vào con đường đầu thai của lục đạo. Khi con người đạt đến khả năng thấy được, nhận biết được ánh sáng của Phật đó là lúc đã khai ngộ. Do đó Phật Giáo gọi là "Hoa Khai Kiến Phật".
Nhờ thể Prana hay sinh khí mà mọi tế bào trong cơ thể con người hoạt động được điều hòa máu huyết được lưu thông, hệ thần kinh bền vững. Chính ánh sáng mặt trời rung động đã làm phát sinh thể Prana. Vì thế đã là con người sống trên quả đất, tốt nhất là nên sống ở nơi có ánh sáng mặt trời. Đó là điều quan trọng và cần thiết. Nhờ ánh sáng này mà các thể Prana tăng cường điện năng cho cơ thể giúp cơ thể có đủ năng lượng để hoạt động được điều hòa.
Theo Ky Tô Giáo, ánh sáng trên thế gian rất quan trọng đối với đời sống con người. Ánh sáng góp phần xây dựng và nuôi dưỡng con người trên quả đất. Moise đã viết: "... và Thượng Đế phán: Ánh sáng hãy xuất hiện! và ánh sáng mới có". Theo Thánh Kinh, trong sự tạo thiên lập địa, ánh sáng được Thượng Đế đặc ân ban cho loài người.
Nếu không có ánh sáng, mọi vật thảy đều tối tăm, không thể phát sinh phát triển tồn tại được. Còn cái ánh sáng và cái bóng tối bên kia cõi chết cũng được nhắc đến trong thánh kinh. Một số người đã trải qua giai đoạn chạm trán với tử thần đã so sánh vùng tối đen hay đường hầm hun hút mà họ đã qua là "thung lũng của bóng tối tử thần" một hình ảnh cũng được mô tả trong kinh thánh.
Nhiều người khi cảm thấy mình trôi qua đường hầm tối đen rồi tới cuối đường hầm là vầng sáng chói lòa, họ nghĩ rằng họ đã đến với Thượng Đế, với Chúa, vì họ đã tìm thấy trong thánh kinh trước đó lời Chúa Jésus đã phán: "Ta là ánh sáng của thế gian". Raymond A. Moondy trong cuốn Đời Tiếp Nối Đời có ghi lại lời nói sau đây của một người đã tiếp cận với ánh sáng huyền diệu sau cõi chết:
- Mặc dầu tôi không hề thấy ai trong cái ánh sáng ấy, nhưng với tôi thì ánh sáng chính là Tâm Thức của Chúa...là Chúa Ky Tô.
Meister Eckhart, một nhà tư tưởng nổi danh và cũng là một đại diện của Huyền học Thiên Chúa giáo đã viết rằng:
"Thời gian sinh ra từ sự vận hành của các cõi trời và ngày bắt đầu với sự vận hành đầu tiên. Còn ngày của Linh Hồn có thêm ánh sáng tự nhiên mà từ đó ta thấy mọi sự mọi vật..."
Đối với Phật Giáo, ánh sáng đó là Phật Quang, đó cũng là Phật tánh. Đó là thứ ánh sáng vi diệu mà trí huệ nào cũng có và từ ánh sáng ấy phát sinh tất cả. Khi thấy được ánh sáng này tức là thấy được Phật (Phật Quang) nghĩa là được khai ngộ, giải thoát là đến được cảnh giới Như Lai... Tuy nhiên cần lưu ý điều này: Không phải khi một người tu hành thấy được nguồn ánh sáng lạ khác với ánh sáng ở cõi thế gian tức là họ được thấy Phật, thấy Thượng Đế và được giác ngộ, giải thoát.
Sự thật, trong vũ trụ có nhiều cõi giới, mỗi cõi giới có những ánh sáng và màu sắc khác nhau. Vì thế khi thấy ánh sáng, có thể ánh sáng ấy thuộc về một cõi giới nào đó có cấp độ có thể lớn hơn cấp độ ở quả đất mà thôi chớ không phải ở cấp độ siêu đẳng. Khả năng về thị giác của con người rất giới hạn họ chỉ thấy được một khoảng cách nào đó cũng như một kích thước nào đó thôi. Ngay trên cõi trần gian này con người muốn nhìn được xa, họ phải dùng đến ống nhòm, muốn thấy được các sinh vật, phải dùng đến kính lúp hay kính hiển vi. Vì thế trong vũ trụ có nhiều cảnh giới lạ kỳ đẹp đẽ nhưng con người không thể nào thấy được.
Những vị chân tu đắc đạo có khả năng để cái phần cốt lõi vi diệu nhất của mình tức là linh hồn rời khỏi các lớp nhục thể bao quanh để đi đến cõi giới cao hơn và sẽ nhìn được ánh sáng ở cõi giới ấy.
Theo Phật Giáo thì khi chết, phần rời khỏi thể xác trong khoảng thời gian 49 ngày được gọi là Thân Trung Ấm, đó là khoảng thời gian trung bình giữa sự chết và sự chưa được tái sinh. Thân trung ấm lúc bấy giờ vừa thoát khỏi thân xác chẳng khác nào một người bấy lâu ẩn trong nhà kín nay mở cửa bước ra thấy biết bao sự lạ của môi trường bên ngoài nên sẽ vô cùng lo sợ, ngơ ngác, phân vân và lại vô cùng lạnh lẽo cô đơn... vừa lúc đó bỗng có thêm những luồng sáng lạ xuất hiện lại càng làm linh hồn bàng hoàng thêm.
Lúc đó Linh Hồn sẽ bị lệ thuộc vào nghiệp lực rất nhiều và phần lớn trong giây phút này sẽ bị nghiệp lực chi phối. Nếu nghiệp lực cảm ứng với cảnh giới nào thì sẽ có ánh sáng tương ứng sáng rực lên. Có sáu cảnh giới hay sáu đường lục đạo, mỗi đường có một loại ánh sáng tương ứng. Ánh sáng của cõi trời màu trắng, ánh sáng của cõi người màu vàng, ánh sáng của cõi A Tu La màu xanh lục, ánh sáng địa ngục màu xám đen, ánh sáng ở ma quỷ màu đỏ, ánh sáng của súc sinh có màu xanh.
Đồng thời lúc ấy, ở cõi Phật (năm phương) sẽ tỏa ra các hào quang rực rỡ chói lòa. Thân trung ấm lúc bấy giờ đang trong tình trạng hoang mang lo sợ phân vân nên khi thấy ánh sáng mãnh liệt, mạnh mẽ ấy chiếu thì càng lo lắng sợ hãi nên vội vã tránh xa để rồi tìm tới những luồng sáng yếu hơn, thích hợp hơn, đó là ánh sáng của Lục Đạo nên sự lầm lạc ấy đã đưa họ đi vào con đường đầu thai của lục đạo. Khi con người đạt đến khả năng thấy được, nhận biết được ánh sáng của Phật đó là lúc đã khai ngộ. Do đó Phật Giáo gọi là "Hoa Khai Kiến Phật".
#803
Gửi vào 26/11/2013 - 05:57
Chính vì theo quan niệm ấy mà phần lớn người Trung Hoa, Tây Tạng, Việt Nam... mỗi khi có thân nhân lìa đời, người thân trong gia đình phải tụng kinh cầu nguyện để giúp vào việc cứu độ và dẫn đường cho người chết trong vòng thời gian 49 ngày. Họ hy vọng rằng, nhờ đó mà thân trung ấm sẽ thức tỉnh, sáng suốt chọn lấy con đường có ánh sáng tốt lành và sớm được giải thoát vào nơi tươi sáng thanh cao.
Trở lại trường hợp viên cố vấn pháp luật tại Pháp là Gérard Chouraqui trong một ca được các bác sĩ giải phẫu vì một căn bệnh vô cùng nguy hiểm ông đã cảm thấy như mình thoát ra khỏi cơ thể, đang nằm bất động và trôi vào một đường hầm hun hút. Cuối đường hầm là ánh sáng chói lòa như ánh hào quang muôn màu bao phủ lấy ông. Sự mô tả này rất trùng với những gì mà các tôn giáo đã nhắc đến.
Trường hợp của Kimberley Clark Sharp thì mô tả như sau:
- Tôi cảm thấy mình như xuyên sâu vào một vùng sâu thẳm rồi tôi cảm thấy mình như phủ ngập trong ánh sáng chói lọi, tôi như rơi vào khoảng trung tâm bao la đầy ánh sáng và chợt nghĩ rằng mình đã trở về với Đấng Tạo Hóa...
Nhà nghiên cứu Klinkenborg đã phỏng đoán những người đã có lần đi vào cõi chết và phần lớn đều bắt gặp sự mô tả về ánh sáng chói lọi. Sau đây là lời mô tả của một thiếu phụ:
- Lúc bấy giờ tôi cảm thấy nỗi kinh dị lạ lùng đến cùng với những vầng sáng, những tia sáng rực rỡ và tôi hòa vào trong những ánh sáng ấy...
Ngày nay giới khoa học đang cố gắng nghiên cứu thứ ánh sáng lạ ngoài những ánh sáng mà con người đã biết. Theo các nhà nghiên cứu thuộc ngành Vật lý Quang học thì chắc chắn trong không gian vũ trụ có rất nhiều loại ánh sáng khác nhau và có những loại ánh sáng lạ lùng hơn ánh sáng mà chúng ta đã thấy và đã biết rất nhiều.
Các nhà khoa học hy vọng rằng, rồi ra con người sẽ biết được ít ra là một đôi phần về những nguồn ánh sáng mà theo sự mô tả của những người đã có lần tiếp cận với cái chết và đã hòa nhập vào ánh sáng đó là rất kỳ diệu lạ lùng...
Trong khoảng hai mươi năm qua, nhiều nhà khoa học đã biết được rằng: Ngoài năng lượng phát sinh bởi các chất hóa học mà ta gọi là hóa năng, năng lượng phát sinh do nhiệt gọi là nhiệt năng, năng lượng phát sinh do điện gọi là điện năng, năng lượng phát sinh do nguyên tử gọi là nguyên tử năng còn có thêm năng lượng phát sinh do chính bộ não, tư duy gọi là năng lượng tinh thần. Điều này đã giúp các nhà khoa học lý giải phần nào những gì về các vầng hào quang xuất hiện trên đầu của những vị giáo chủ, các thiên thần.. trong các tranh vẽ tôn giáo.
Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương khi viết cuốn Con Người và Trường Sinh Học, đã có nhắc đến một đoạn về hào quang phát ra quanh cơ thể con người như sau:
Một chiếc lá đặt trong máy Kirlian hiện ra như cả một thế giới điểm sáng. Xung quanh chiếc lá, người ta thấy những tia lửa nhỏ màu ngọc lam, màu da cam, phát ra từ trung tâm và đi ra theo những kênh xác định. Một ngón tay hiện ra như cả mộ bức tranh, một bản đồ chi tiết gồm điểm, đường, các hố ánh sáng, các hố lửa. Một số bộ phận của ngón tay phát ra những ánh sáng như những đèn Nhật Bản, nuôi bởi một nguồn bên trong nào đó.
Tất nhiên vấn đề sẽ thú vị hơn nếu chúng ta thu được không phải chỉ một bức tranh bất động mà cả một quá trình biến đổi của sự sống... Kirlian và vợ ông đã đề ra một phương án tối tân hơn nhằm mục đích đó và... Kirlian đã đưa bàn tay mình vào trong cái máy tối tân vừa sáng chế xong... Một thế giới kỳ lạ hiện ra trước mắt ông và Valentina, vợ ông.
Người ta tưởng tượng rằng đó là một giải ngân hà, giữa bầu trời đầy sao. Bên trong bàn tay, một ngọn lửa bừng ra trên một phông màu thanh thiên và màu vàng, và nhiều bó tia sáng đủ các màu tỏa ra giữa các ngọn lửa đó. Một số ánh sáng trông đều đều như vệt sáng các nến. Còn một số ánh sáng khác thì bùng lên, chói lòa và sạm dần đi... Nhiều tia sáng di chuyển lang thang như những thiên thạch. Còn nhiều tia khác thì giống như những đám khí xam xám, lơ lửng...
Tất nhiên về mặt logic, một cái lá mới ngắt chắc sẽ có những hào quang như bàn tay sống của Kirlian. Và quả thật Kirlian, người ta tưởng chừng đây là một thành phố tối tăm, một thành phố đã tắt đèn, mọi người đã đi ngủ. Còn đối với một cái lá đang chết dần? Không còn một ngọn lửa sống nào cả. Cái tia sáng và các đám khí đều trở nên bất động. Và cuối cùng với một chiếc lá đã chết hẳn thì hào quang không còn nữa.
Doccodon
Trở lại trường hợp viên cố vấn pháp luật tại Pháp là Gérard Chouraqui trong một ca được các bác sĩ giải phẫu vì một căn bệnh vô cùng nguy hiểm ông đã cảm thấy như mình thoát ra khỏi cơ thể, đang nằm bất động và trôi vào một đường hầm hun hút. Cuối đường hầm là ánh sáng chói lòa như ánh hào quang muôn màu bao phủ lấy ông. Sự mô tả này rất trùng với những gì mà các tôn giáo đã nhắc đến.
Trường hợp của Kimberley Clark Sharp thì mô tả như sau:
- Tôi cảm thấy mình như xuyên sâu vào một vùng sâu thẳm rồi tôi cảm thấy mình như phủ ngập trong ánh sáng chói lọi, tôi như rơi vào khoảng trung tâm bao la đầy ánh sáng và chợt nghĩ rằng mình đã trở về với Đấng Tạo Hóa...
Nhà nghiên cứu Klinkenborg đã phỏng đoán những người đã có lần đi vào cõi chết và phần lớn đều bắt gặp sự mô tả về ánh sáng chói lọi. Sau đây là lời mô tả của một thiếu phụ:
- Lúc bấy giờ tôi cảm thấy nỗi kinh dị lạ lùng đến cùng với những vầng sáng, những tia sáng rực rỡ và tôi hòa vào trong những ánh sáng ấy...
Ngày nay giới khoa học đang cố gắng nghiên cứu thứ ánh sáng lạ ngoài những ánh sáng mà con người đã biết. Theo các nhà nghiên cứu thuộc ngành Vật lý Quang học thì chắc chắn trong không gian vũ trụ có rất nhiều loại ánh sáng khác nhau và có những loại ánh sáng lạ lùng hơn ánh sáng mà chúng ta đã thấy và đã biết rất nhiều.
Các nhà khoa học hy vọng rằng, rồi ra con người sẽ biết được ít ra là một đôi phần về những nguồn ánh sáng mà theo sự mô tả của những người đã có lần tiếp cận với cái chết và đã hòa nhập vào ánh sáng đó là rất kỳ diệu lạ lùng...
Trong khoảng hai mươi năm qua, nhiều nhà khoa học đã biết được rằng: Ngoài năng lượng phát sinh bởi các chất hóa học mà ta gọi là hóa năng, năng lượng phát sinh do nhiệt gọi là nhiệt năng, năng lượng phát sinh do điện gọi là điện năng, năng lượng phát sinh do nguyên tử gọi là nguyên tử năng còn có thêm năng lượng phát sinh do chính bộ não, tư duy gọi là năng lượng tinh thần. Điều này đã giúp các nhà khoa học lý giải phần nào những gì về các vầng hào quang xuất hiện trên đầu của những vị giáo chủ, các thiên thần.. trong các tranh vẽ tôn giáo.
Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương khi viết cuốn Con Người và Trường Sinh Học, đã có nhắc đến một đoạn về hào quang phát ra quanh cơ thể con người như sau:
Một chiếc lá đặt trong máy Kirlian hiện ra như cả một thế giới điểm sáng. Xung quanh chiếc lá, người ta thấy những tia lửa nhỏ màu ngọc lam, màu da cam, phát ra từ trung tâm và đi ra theo những kênh xác định. Một ngón tay hiện ra như cả mộ bức tranh, một bản đồ chi tiết gồm điểm, đường, các hố ánh sáng, các hố lửa. Một số bộ phận của ngón tay phát ra những ánh sáng như những đèn Nhật Bản, nuôi bởi một nguồn bên trong nào đó.
Tất nhiên vấn đề sẽ thú vị hơn nếu chúng ta thu được không phải chỉ một bức tranh bất động mà cả một quá trình biến đổi của sự sống... Kirlian và vợ ông đã đề ra một phương án tối tân hơn nhằm mục đích đó và... Kirlian đã đưa bàn tay mình vào trong cái máy tối tân vừa sáng chế xong... Một thế giới kỳ lạ hiện ra trước mắt ông và Valentina, vợ ông.
Người ta tưởng tượng rằng đó là một giải ngân hà, giữa bầu trời đầy sao. Bên trong bàn tay, một ngọn lửa bừng ra trên một phông màu thanh thiên và màu vàng, và nhiều bó tia sáng đủ các màu tỏa ra giữa các ngọn lửa đó. Một số ánh sáng trông đều đều như vệt sáng các nến. Còn một số ánh sáng khác thì bùng lên, chói lòa và sạm dần đi... Nhiều tia sáng di chuyển lang thang như những thiên thạch. Còn nhiều tia khác thì giống như những đám khí xam xám, lơ lửng...
Tất nhiên về mặt logic, một cái lá mới ngắt chắc sẽ có những hào quang như bàn tay sống của Kirlian. Và quả thật Kirlian, người ta tưởng chừng đây là một thành phố tối tăm, một thành phố đã tắt đèn, mọi người đã đi ngủ. Còn đối với một cái lá đang chết dần? Không còn một ngọn lửa sống nào cả. Cái tia sáng và các đám khí đều trở nên bất động. Và cuối cùng với một chiếc lá đã chết hẳn thì hào quang không còn nữa.
Doccodon
#804
Gửi vào 26/11/2013 - 06:53
NGÔI NHÀ TRỌ MA ÁM NỖI TIẾNG
Được biết, chủ nhân hiện tại của ngôi nhà là bà Caroline Humphries, năm mươi mốt tuổi. Gia đình bà Humphries đã có hơn năm chục năm sinh sống tại đây, vì vậy bà cũng là người trực tiếp trải qua và cảm nhận nỗi sợ hãi mỗi khi hiện tượng lạ xảy ra tại ngôi nhà. Bà Humphries nhớ lại đã có lần bà nhìn thấy chiếc tủ bay lơ lửng trước giường ngủ vào giữa đêm, trước khi nó rơi xuống phá hỏng cầu thang.
Đây là quán trọ nghỉ chân đã có từ lâu đời, thuộc địa phận thị trấn Wotton under Edge, hạt Gloucestershire. Ngôi nhà này được xây dựng vào năm 1145 trên một mảnh đất xưa kia từng là khu mộ chôn những thành phần tà đạo, đồng thời cũng là nơi diễn ra những lễ hiến tế trẻ con và cúng bái ma quỷ. Cũng chính vì nguyên do này mà người ta thường đồn đại ngôi nhà bị ám bởi một nữ sát thủ trẻ tuổi tên Rosie, một thầy cúng cao tay và một hồn ma nam.
Những vị khách từng ghé chân tại nhà trọ Ancient Ram Inn từng khẳng định nhìn thấy đồ đạc bay lơ lửng giữa phòng, khi thì thấy hồn ma của một cô bé đi lại trên hành lang, thậm chí có người còn bị một hồn ma râu xanh quấy rối.
Phần lớn khách ghé thăm quán trọ đều đã từng trải qua những phút giây ghê rợn trong tiếng khóc xé lòng của những đứa trẻ bị hiến tế năm xưa hoặc thấy những thanh xà gồ trên nóc nhà rung bần bật vào lúc giữa đêm. Tuy nhiên, khi bà Humphries và du khách đặt vài món đồ chơi trẻ con vào trong phòng, những tiếng khóc văng vẳng mỗi đêm cũng thưa thớt dần hơn.
Mặc dù tai tiếng về nhà trọ ma ám này được loan truyền khắp nơi nhưng không vì thế mà sức hút của nó giảm dần. Trái lại, du khách, đặc biệt là các nhà ngoại cảm chuyên nghiên cứu tâm linh sẵn sàng chi từ hai mươi lăm đến ba mươi bảng Anh, để được hưởng trọn một đêm mất ngủ tại ngôi nhà đáng sợ này.
Thoa Nguyễn
Được biết, chủ nhân hiện tại của ngôi nhà là bà Caroline Humphries, năm mươi mốt tuổi. Gia đình bà Humphries đã có hơn năm chục năm sinh sống tại đây, vì vậy bà cũng là người trực tiếp trải qua và cảm nhận nỗi sợ hãi mỗi khi hiện tượng lạ xảy ra tại ngôi nhà. Bà Humphries nhớ lại đã có lần bà nhìn thấy chiếc tủ bay lơ lửng trước giường ngủ vào giữa đêm, trước khi nó rơi xuống phá hỏng cầu thang.
Đây là quán trọ nghỉ chân đã có từ lâu đời, thuộc địa phận thị trấn Wotton under Edge, hạt Gloucestershire. Ngôi nhà này được xây dựng vào năm 1145 trên một mảnh đất xưa kia từng là khu mộ chôn những thành phần tà đạo, đồng thời cũng là nơi diễn ra những lễ hiến tế trẻ con và cúng bái ma quỷ. Cũng chính vì nguyên do này mà người ta thường đồn đại ngôi nhà bị ám bởi một nữ sát thủ trẻ tuổi tên Rosie, một thầy cúng cao tay và một hồn ma nam.
Những vị khách từng ghé chân tại nhà trọ Ancient Ram Inn từng khẳng định nhìn thấy đồ đạc bay lơ lửng giữa phòng, khi thì thấy hồn ma của một cô bé đi lại trên hành lang, thậm chí có người còn bị một hồn ma râu xanh quấy rối.
Phần lớn khách ghé thăm quán trọ đều đã từng trải qua những phút giây ghê rợn trong tiếng khóc xé lòng của những đứa trẻ bị hiến tế năm xưa hoặc thấy những thanh xà gồ trên nóc nhà rung bần bật vào lúc giữa đêm. Tuy nhiên, khi bà Humphries và du khách đặt vài món đồ chơi trẻ con vào trong phòng, những tiếng khóc văng vẳng mỗi đêm cũng thưa thớt dần hơn.
Mặc dù tai tiếng về nhà trọ ma ám này được loan truyền khắp nơi nhưng không vì thế mà sức hút của nó giảm dần. Trái lại, du khách, đặc biệt là các nhà ngoại cảm chuyên nghiên cứu tâm linh sẵn sàng chi từ hai mươi lăm đến ba mươi bảng Anh, để được hưởng trọn một đêm mất ngủ tại ngôi nhà đáng sợ này.
Thoa Nguyễn
#805
Gửi vào 27/11/2013 - 10:56
NHỮNG THANH KIẾM HUYỀN BÍ NHẤT LỊCH SỮ
Thanh gươm trong đá. Trong khi truyền thuyết Arthur được cho là một sản phẩm của văn hóa dân gian và huyền thoại thì xuất hiện một số câu chuyện cho rằng, thanh gươm trong đá là có thật. Theo đó, người ta nhận định nó là thanh kiếm của hiệp sĩ Tuscan có tên Saint Galgano. Galgano sống ở thế kỷ XII. Hiệp sĩ này tin rằng có thể chặt tảng đá bằng thanh gươm sắc bén của mình một cách dễ dàng tựa như cắt bơ nên đã làm điều kỳ lạ ấy. Tuy nhiên, ông đã không thể rút thanh kiếm ra khỏi tảng đá.
Theo truyền thuyết, thanh kiếm Kusanagi được tìm thấy trong xác của một con rắn 8 đầu. Nó bị thần bão và biển giết chết. Kusanagi được coi là biểu trưng của hoàng gia (Imperial Regalia) Nhật Bản và là một trong những biểu tượng nữ thần mặt trời. Hoàng gia Nhật Bản sử dụng nó làm biểu tượng của quyền lực thiêng liêng và dùng để cai trị thần dân. Thanh kiếm này được cho là đang ngự trong ngôi đền Atsuta thuộc tỉnh Nagano, nhưng sự hiện hữu của nó không được công bố với công chúng trong suốt nhiều thế kỷ qua.
Trong hàng trăm năm, thanh kiếm huyền bí Durandal bị gắn vào trong các vách đá phía trên nhà thờ nhỏ Notre Dame ở Rocamadour, Pháp. Các tu sĩ cho hay nó là bảo kiếm của hiệp sĩ Roland. Theo truyền thuyết, Roland đã ném thanh kiếm của mình vào vách đá để nó không rơi vào tay kẻ thù. Kể từ thế kỷ XII, nhà thờ nhỏ Notre Dame đã trở thành một điểm trong cuộc hành hương thiêng liêng của các tín đồ. Năm 2011, giới chức trách đã di chuyển thanh kiếm khỏi vách đá và bảo quản, trưng bày nó ở Bảo tàng Cluny, Paris.
Thanh kiếm bị nguyền rủa Muramasas. Theo truyền thuyết, đây là một thanh kiếm cổ của người Nhật Bản và có sức hủy diệt ghê gớm. Do đó, các vị thần đã đưa ra yêu cầu, rằng, người nào sử dụng thanh kiếm buộc phải để nó thấm máu người. Nếu thanh kiếm Muramasas không được thỏa mãn cơn khát máu thì người đó sẽ bị giết hoặc phải tự tử. Có rất nhiều câu chuyện về những người sử dụng thanh kiếm Muramasas trở nên điên dại hay bị giết chết. Do đó, người ta cho rằng nó là vũ khí bị nguyền rủa.
Thanh kiếm Honjo Masamune. Theo truyền thuyết Nhật Bản, hai thanh kiếm Masamune và Muramasa đã có một so tài với nhau. Trong khi Muramasa có thể chặt đứt tất cả mọi thứ mà nó chạm vào thì thanh kiếm Masamune lại từ chối “xử lý” bất cứ thứ gì không xứng đáng, thậm chí là cả không khí. Masamune được coi là thanh kiếm quý có giá trị như bảo vật quốc gia nhưng người ta chưa bao giờ tìm thấy hay nhìn thấy nó “bằng xương bằng thịt”.
Thanh kiếm Joyeuse. Đây là thanh kiếm huyền thoại của vua Charlemagne. Nó được cho là có khả năng thay đổi màu sắc 30 lần/ngày và sáng như ánh mặt trời. Vào đầu năm 1271, hai thanh kiếm có tên gọi Joyeuse đã xuất hiện trong nghi lễ đăng quang của các vị vua Pháp. Một trong hai thanh kiếm được cho là thuộc sở hữu của Tòa Thánh La Mã trong nhiều thế kỷ.
Thanh kiếm của Thánh Peter. Đã có nhiều truyền thuyết về thanh kiếm của Thánh Peter sử dụng để cắt tai của người hầu trong khu vườn Gethsemane. Joseph xứ Arimathea đã mang thanh kiếm đó cùng Chén Thánh đến Anh. Tuy nhiên, đến năm 968, Đức Giám Mục Jordan đã mang thanh kiếm này đến Ba Lan. Kể từ đó, nó ở lại Ba Lan và được chuyển đến Bảo tàng Archdiocese ở Poznan.
Thanh kiếm Wallace. Truyền thuyết kể rằng hiệp sĩ William Wallace đã sử dụng da người làm vỏ kiếm, chuôi kiếm và dây đai dùng để đeo gươm. Wallace đã sử dụng da khô của chỉ huy Scotland phụ trách ngân khố Hugh de Cressingham sau khi đánh bại người này trong trận chiến cầu Stirling. Hiện thanh kiếm này được trưng bày tại Đài tưởng niệm quốc gia Wallace. Nó đã được sửa chữa nhiều lần, không còn nguyên vẹn như ban đầu.
Kiến thức
Thanh gươm trong đá. Trong khi truyền thuyết Arthur được cho là một sản phẩm của văn hóa dân gian và huyền thoại thì xuất hiện một số câu chuyện cho rằng, thanh gươm trong đá là có thật. Theo đó, người ta nhận định nó là thanh kiếm của hiệp sĩ Tuscan có tên Saint Galgano. Galgano sống ở thế kỷ XII. Hiệp sĩ này tin rằng có thể chặt tảng đá bằng thanh gươm sắc bén của mình một cách dễ dàng tựa như cắt bơ nên đã làm điều kỳ lạ ấy. Tuy nhiên, ông đã không thể rút thanh kiếm ra khỏi tảng đá.
Theo truyền thuyết, thanh kiếm Kusanagi được tìm thấy trong xác của một con rắn 8 đầu. Nó bị thần bão và biển giết chết. Kusanagi được coi là biểu trưng của hoàng gia (Imperial Regalia) Nhật Bản và là một trong những biểu tượng nữ thần mặt trời. Hoàng gia Nhật Bản sử dụng nó làm biểu tượng của quyền lực thiêng liêng và dùng để cai trị thần dân. Thanh kiếm này được cho là đang ngự trong ngôi đền Atsuta thuộc tỉnh Nagano, nhưng sự hiện hữu của nó không được công bố với công chúng trong suốt nhiều thế kỷ qua.
Trong hàng trăm năm, thanh kiếm huyền bí Durandal bị gắn vào trong các vách đá phía trên nhà thờ nhỏ Notre Dame ở Rocamadour, Pháp. Các tu sĩ cho hay nó là bảo kiếm của hiệp sĩ Roland. Theo truyền thuyết, Roland đã ném thanh kiếm của mình vào vách đá để nó không rơi vào tay kẻ thù. Kể từ thế kỷ XII, nhà thờ nhỏ Notre Dame đã trở thành một điểm trong cuộc hành hương thiêng liêng của các tín đồ. Năm 2011, giới chức trách đã di chuyển thanh kiếm khỏi vách đá và bảo quản, trưng bày nó ở Bảo tàng Cluny, Paris.
Thanh kiếm bị nguyền rủa Muramasas. Theo truyền thuyết, đây là một thanh kiếm cổ của người Nhật Bản và có sức hủy diệt ghê gớm. Do đó, các vị thần đã đưa ra yêu cầu, rằng, người nào sử dụng thanh kiếm buộc phải để nó thấm máu người. Nếu thanh kiếm Muramasas không được thỏa mãn cơn khát máu thì người đó sẽ bị giết hoặc phải tự tử. Có rất nhiều câu chuyện về những người sử dụng thanh kiếm Muramasas trở nên điên dại hay bị giết chết. Do đó, người ta cho rằng nó là vũ khí bị nguyền rủa.
Thanh kiếm Honjo Masamune. Theo truyền thuyết Nhật Bản, hai thanh kiếm Masamune và Muramasa đã có một so tài với nhau. Trong khi Muramasa có thể chặt đứt tất cả mọi thứ mà nó chạm vào thì thanh kiếm Masamune lại từ chối “xử lý” bất cứ thứ gì không xứng đáng, thậm chí là cả không khí. Masamune được coi là thanh kiếm quý có giá trị như bảo vật quốc gia nhưng người ta chưa bao giờ tìm thấy hay nhìn thấy nó “bằng xương bằng thịt”.
Thanh kiếm Joyeuse. Đây là thanh kiếm huyền thoại của vua Charlemagne. Nó được cho là có khả năng thay đổi màu sắc 30 lần/ngày và sáng như ánh mặt trời. Vào đầu năm 1271, hai thanh kiếm có tên gọi Joyeuse đã xuất hiện trong nghi lễ đăng quang của các vị vua Pháp. Một trong hai thanh kiếm được cho là thuộc sở hữu của Tòa Thánh La Mã trong nhiều thế kỷ.
Thanh kiếm của Thánh Peter. Đã có nhiều truyền thuyết về thanh kiếm của Thánh Peter sử dụng để cắt tai của người hầu trong khu vườn Gethsemane. Joseph xứ Arimathea đã mang thanh kiếm đó cùng Chén Thánh đến Anh. Tuy nhiên, đến năm 968, Đức Giám Mục Jordan đã mang thanh kiếm này đến Ba Lan. Kể từ đó, nó ở lại Ba Lan và được chuyển đến Bảo tàng Archdiocese ở Poznan.
Thanh kiếm Wallace. Truyền thuyết kể rằng hiệp sĩ William Wallace đã sử dụng da người làm vỏ kiếm, chuôi kiếm và dây đai dùng để đeo gươm. Wallace đã sử dụng da khô của chỉ huy Scotland phụ trách ngân khố Hugh de Cressingham sau khi đánh bại người này trong trận chiến cầu Stirling. Hiện thanh kiếm này được trưng bày tại Đài tưởng niệm quốc gia Wallace. Nó đã được sửa chữa nhiều lần, không còn nguyên vẹn như ban đầu.
Kiến thức
#806
Gửi vào 27/11/2013 - 11:07
CHỤP ẢNH ĐƯA LÊN FACEBOOK MỚI PHÁT HIỆN TRONG NHÀ CÓ MA
Phát hiện nhà mình có các dấu hiệu bị ma ám từ lâu song người phụ nữ chỉ thực tin rằng đây là sự thật sau khi hồn ma nọ, ngang nhiên xuất hiện trong một bức ảnh chụp.
Hãy thật chú ý tới mỗi khu vực cửa kính hay tấm gương xuất hiện trong những bức ảnh chụp của bạn và bạn bè mình vì rất có thể, bạn sẽ thấy có ma trong đó. Đây chính là kinh nghiệm được Daniel Tanner, người đàn ông đến từ New Hampshire, nước Anh rút ra sau khi giật mình phát hiện ra, có một hồn ma phụ nữ trông hết sức rùng rợn bên trong bức ảnh chụp tại nhà một người bạn.
Bức ảnh ma nói trên được chụp chỉ cách đây hơn hai tuần trước, vào ngày 20 tháng 8. Cô bạn của Daniel đã cho đăng tải nó lên Facebook và Daniel chính là người đầu tiên, nhận ra có một hồn ma đang nhìn về phía họ ở khu vực cửa kính.
Anh đã liên hệ với cô bạn của mình ngay sau đó, và được biết ngôi nhà mà cặp vợ chồng họ đang sống, đã có dấu hiệu bị ma ám từ nhiều tháng trở lại đây. Ở trong ngôi nhà, hoàn toàn không hề có bất kỳ ai hay thậm chí là đồ vật nào trông giống như “người phụ nữ” trong bức ảnh trên cả.
Nhiều người cho rằng bức ảnh chỉ là một sản phẩm của photoshop, chỉ để gây sự chú ý trên cộng đồng mạng mà thôi. Tuy nhiên, một chuyên gia với thâm niên mười lăm năm trong việc xử lý ảnh đã cho biết, ông không thể tìm ra bất cứ điều gì bất hợp lý từ trong bức ảnh ma này.
Và nếu như đây không phải là một sự sắp đặt sẵn đến từ gia đình người bạn của Daniel, thì ông cũng chỉ biết nói rằng “mình đang thực sự nhìn thấy ma”.
Trí Thức Trẻ
Phát hiện nhà mình có các dấu hiệu bị ma ám từ lâu song người phụ nữ chỉ thực tin rằng đây là sự thật sau khi hồn ma nọ, ngang nhiên xuất hiện trong một bức ảnh chụp.
Hãy thật chú ý tới mỗi khu vực cửa kính hay tấm gương xuất hiện trong những bức ảnh chụp của bạn và bạn bè mình vì rất có thể, bạn sẽ thấy có ma trong đó. Đây chính là kinh nghiệm được Daniel Tanner, người đàn ông đến từ New Hampshire, nước Anh rút ra sau khi giật mình phát hiện ra, có một hồn ma phụ nữ trông hết sức rùng rợn bên trong bức ảnh chụp tại nhà một người bạn.
Bức ảnh ma nói trên được chụp chỉ cách đây hơn hai tuần trước, vào ngày 20 tháng 8. Cô bạn của Daniel đã cho đăng tải nó lên Facebook và Daniel chính là người đầu tiên, nhận ra có một hồn ma đang nhìn về phía họ ở khu vực cửa kính.
Anh đã liên hệ với cô bạn của mình ngay sau đó, và được biết ngôi nhà mà cặp vợ chồng họ đang sống, đã có dấu hiệu bị ma ám từ nhiều tháng trở lại đây. Ở trong ngôi nhà, hoàn toàn không hề có bất kỳ ai hay thậm chí là đồ vật nào trông giống như “người phụ nữ” trong bức ảnh trên cả.
Nhiều người cho rằng bức ảnh chỉ là một sản phẩm của photoshop, chỉ để gây sự chú ý trên cộng đồng mạng mà thôi. Tuy nhiên, một chuyên gia với thâm niên mười lăm năm trong việc xử lý ảnh đã cho biết, ông không thể tìm ra bất cứ điều gì bất hợp lý từ trong bức ảnh ma này.
Và nếu như đây không phải là một sự sắp đặt sẵn đến từ gia đình người bạn của Daniel, thì ông cũng chỉ biết nói rằng “mình đang thực sự nhìn thấy ma”.
Trí Thức Trẻ
#807
Gửi vào 27/11/2013 - 11:20
NHỮNG TRƯỜNG HỢP MA QUỶ CHIẾM HỬU THỂ XÁC CON NGƯỜI
Đã có không ít các trường hợp con người bị ma quỷ chiếm hữu và giày vò tới chết được ghi nhận trên thế giới.
Sự tồn tại của các linh hồn ma quỷ từ lâu vẫn được xem là một lĩnh vực đặc biệt nằm ngoài giới hạn hiểu biết của khoa học hiện đại. Cho tới ngày hôm nay, trên thế giới vẫn luôn xuất hiện không ít các trường hợp con người được cho là bị ma quỉ nhập vào và chiếm lấy thể xác khiến vẻ ngoài của họ có những biến đổi hết sức kì dị bên cạnh việc biểu hiện các hành động hết sức khó hiểu. Dưới đây là những bằng chứng sống đã được chụp hình và ghi chép lại về các trường hợp này.
Clara Germana Cele
Sự việc xảy ra với cô gái theo đạo Thiên Chúa Clara Germana Cele được ghi nhận vào năm 1906. Theo những lời được kể lại, Cele đã cầu nguyện và thỏa hiệp với quỉ Satan vào năm cô bé mười sáu tuổi. Và chỉ một vài ngày sau, cơ thể của Cele liên tục xuất hiện những xung động kỳ lạ. Cô bé bắt đầu phản ứng dữ dội với các đồ vật tôn giáo như thánh giá và đột nhiên hiểu được một số ngôn ngữ mà Cele chưa từng được học.
Mặc dù vậy, những biểu hiện đáng sợ của ma quỷ cũng bắt đầu hiện hữu từ cơ thể của Cele không lâu sau đó. Cô bé liên tục la thét những âm thanh kinh khủng của động vật. Đôi lúc còn tự bay lên từ khoảng cách vài mét so với mặt đất. Trường hợp của Cele cuối cùng cũng được giải quyết bằng một nghi lễ trừ tà đặc biệt, với sự tham gia của nhiều thầy tu và sự chứng kiến tận mắt của hơn 170 người.
Roland Doe
Câu chuyện có thật xảy ra với cậu bé mười bốn tuổi Roland Doe, thậm chí còn được viết thành tiểu thuyết và rồi sau đó chuyển thể thành bộ phim “Người trừ tà” nổi tiếng của Hollywood.
Roland Doe vốn không phải là tên thật của cậu bé này nhằm bảo vệ sự riêng tư của cậu. Sự việc xảy ra vào những năm 1940 khi mà dì của Doe bắt đầu lợi dụng cậu bé này để tiếp cận gần hơn với các nghi thức ma quỷ. Cậu bé ngây thơ tội nghiệp sau đó bắt đầu bị chiếm hữu bởi ma quỷ và không còn là chính mình nữa.
Kỳ lạ hơn, những đồ vật của Thiên chúa giáo bắt đầu rung lắc và lơ lửng mỗi khi ở gần Doe. Các bước chân kỳ lạ cũng được người xung quanh nghe thấy bên cạnh các tiếng cào mạnh vang lên khắp nơi trong căn nhà. Thân thể của Doe cũng xuất hiện những vết thương do bị cào cấu, tra tấn bởi một thế lực vô hình nào đó.
Gia đình của Doe cuối cùng phải nhờ đến sự giúp đỡ của giáo hội và vị tu sĩ được cử đến xác định rằng, cậu bé đang bị ma quỷ chiếm hữu cơ thể. Đã có tới ba mươi lần nghi lễ trừ tà được thực hiện và Doe lúc nào cũng khiến vị tu sĩ kia phải chịu nhiều thương tích.
Cuối cùng, cậu bé cũng được giải thoát khỏi những linh hồn ma quỷ này, khi ở trong bệnh viện sau khi thét lên một tiếng kêu đau đớn đầy thú tính và khắp cơ thể cậu liên tục bốc ra mùi kinh khủng của lưu huỳnh.
BSH
Đã có không ít các trường hợp con người bị ma quỷ chiếm hữu và giày vò tới chết được ghi nhận trên thế giới.
Sự tồn tại của các linh hồn ma quỷ từ lâu vẫn được xem là một lĩnh vực đặc biệt nằm ngoài giới hạn hiểu biết của khoa học hiện đại. Cho tới ngày hôm nay, trên thế giới vẫn luôn xuất hiện không ít các trường hợp con người được cho là bị ma quỉ nhập vào và chiếm lấy thể xác khiến vẻ ngoài của họ có những biến đổi hết sức kì dị bên cạnh việc biểu hiện các hành động hết sức khó hiểu. Dưới đây là những bằng chứng sống đã được chụp hình và ghi chép lại về các trường hợp này.
Clara Germana Cele
Sự việc xảy ra với cô gái theo đạo Thiên Chúa Clara Germana Cele được ghi nhận vào năm 1906. Theo những lời được kể lại, Cele đã cầu nguyện và thỏa hiệp với quỉ Satan vào năm cô bé mười sáu tuổi. Và chỉ một vài ngày sau, cơ thể của Cele liên tục xuất hiện những xung động kỳ lạ. Cô bé bắt đầu phản ứng dữ dội với các đồ vật tôn giáo như thánh giá và đột nhiên hiểu được một số ngôn ngữ mà Cele chưa từng được học.
Mặc dù vậy, những biểu hiện đáng sợ của ma quỷ cũng bắt đầu hiện hữu từ cơ thể của Cele không lâu sau đó. Cô bé liên tục la thét những âm thanh kinh khủng của động vật. Đôi lúc còn tự bay lên từ khoảng cách vài mét so với mặt đất. Trường hợp của Cele cuối cùng cũng được giải quyết bằng một nghi lễ trừ tà đặc biệt, với sự tham gia của nhiều thầy tu và sự chứng kiến tận mắt của hơn 170 người.
Roland Doe
Câu chuyện có thật xảy ra với cậu bé mười bốn tuổi Roland Doe, thậm chí còn được viết thành tiểu thuyết và rồi sau đó chuyển thể thành bộ phim “Người trừ tà” nổi tiếng của Hollywood.
Roland Doe vốn không phải là tên thật của cậu bé này nhằm bảo vệ sự riêng tư của cậu. Sự việc xảy ra vào những năm 1940 khi mà dì của Doe bắt đầu lợi dụng cậu bé này để tiếp cận gần hơn với các nghi thức ma quỷ. Cậu bé ngây thơ tội nghiệp sau đó bắt đầu bị chiếm hữu bởi ma quỷ và không còn là chính mình nữa.
Kỳ lạ hơn, những đồ vật của Thiên chúa giáo bắt đầu rung lắc và lơ lửng mỗi khi ở gần Doe. Các bước chân kỳ lạ cũng được người xung quanh nghe thấy bên cạnh các tiếng cào mạnh vang lên khắp nơi trong căn nhà. Thân thể của Doe cũng xuất hiện những vết thương do bị cào cấu, tra tấn bởi một thế lực vô hình nào đó.
Gia đình của Doe cuối cùng phải nhờ đến sự giúp đỡ của giáo hội và vị tu sĩ được cử đến xác định rằng, cậu bé đang bị ma quỷ chiếm hữu cơ thể. Đã có tới ba mươi lần nghi lễ trừ tà được thực hiện và Doe lúc nào cũng khiến vị tu sĩ kia phải chịu nhiều thương tích.
Cuối cùng, cậu bé cũng được giải thoát khỏi những linh hồn ma quỷ này, khi ở trong bệnh viện sau khi thét lên một tiếng kêu đau đớn đầy thú tính và khắp cơ thể cậu liên tục bốc ra mùi kinh khủng của lưu huỳnh.
BSH
Thanked by 1 Member:
|
|
#808
Gửi vào 27/11/2013 - 11:31
Julia
Julia được biết tới là một trong những trường hợp con người bị ma quỷ sở hữu nổi bật nhất trong thời gian trở lại đây. Vào năm 2008, tiến sĩ tâm thần học Richard E. Gallagher sau nhiều quan sát và nghiên cứu với trường hợp bệnh của một cô gái có tên là Julia, đã buộc lòng phải kết luận mình đang đối đầu với quỷ dữ, thứ nằm ngoài hiểu biết của tất cả loài người hiện nay.
Ông đã được tận mắt chứng kiến nhưng diễn biến kỳ lạ xảy ra xung quanh nạn nhân. Đó là việc các đồ vật liên tục bị bay lơ lửng và bay lượn lờ khắp căn phòng. Ngay cả thân thể của Julia còn đều đặn bay lên khỏi giường một cách hoàn toàn không thể lý giải được.
Đây cũng là lúc mà vị tiến sĩ cùng một số vị linh mục thấy được những điều chứng minh chắc chắn rằng cô gái này đang bị ma quỷ chiếm hữu. Từ miệng của Julia luôn phát ra các câu nói kỳ lạ và khó hiểu như:
- Để cô ấy yên, đồ ngốc.
- Cô ấy là của chúng ta.
- Hãy biến đi, bọn linh mục khờ khạo.
Và thỉnh thoảng chỉ đơn giản là:
- Biến đi.
Arne Cheyenne Johnson
Được đặt tên là Vụ xét xử tội ác của ma quỷ, sự việc xảy ra trong trường hợp của chàng trai trẻ Arne Cheyenne Johnson tiếp tục trở thành bí ẩn không thể lý giải của khoa học. Đây cũng là lần đầu tiên mà luật pháp của nước Mỹ phải đối mặt với một vụ án mà thủ phạm được luật sư kết luận là những thế lực siêu nhiên không thể giải thích được.
Vào năm 1981, Arne Cheyenne Johnson bị buộc tội sát hại người chủ nhà của mình, Alan Bono tại Connecticut. Luật sư của Arne đã lập luận rằng các hành động bất thường của Arne đã có từ khi anh mới chỉ còn là một đứa trẻ. Thậm chí, gia đình của chàng trai này khi đó còn khẳng định rằng con mình hầu như lúc nào cũng bị khống chế bởi những thực thể không xác định trong cuộc sống hàng ngày.
Đây hoàn toàn không phải là một hội chứng rối loạn tâm lý mà hoàn toàn là sự sai khiến của ma quỷ. Dù không thể phủ nhận những bằng chứng được luật sư đưa ra song cuối cùng vị thẩm phán vẫn buộc lòng phải kết án Arne hai chục năm tù cho tội ác của anh ta.
David Berkowitz
David Berkowitz còn được thế giới biết tới với biệt danh con trai của Sam. Hắn ta là thủ phạm của một loạt những vụ giết người hàng loạt khiến cảnh sát New York phải đau đầu vào năm 1976. Chỉ trong vòng một năm, David đã cướp đi mạng sống của sáu người và làm cho bảy người khác phải chịu thương tích trầm trọng. Hắn để lại những đầu mối trêu trọc cảnh sát thông báo về mùa hè của Sam.
Cho tới khi bị cảnh sát phát hiện và bắt giữ, David đã một mực khẳng định rằng mọi việc mình làm đều tuân theo sự sai khiến của ma quỷ. David không nói rằng bản thân hắn ta bị khống chế, song luôn nói rằng vật chủ mà mình tiếp xúc là con chó bên nhà hàng xóm, và con vật này ra lệnh cho hắn phải giết người.
Công cuộc luận tội David đã được thực hiện qua lại rất nhiều lần cho tới những năm giữa của thập niên chín mươi, cuối cùng tòa án kết luận bị cáo là thành viên của một giáo phái thờ phụng quỷ Satan, luôn hướng tới việc giết người như một phần của nghi lễ tà ác.
BSH
Julia được biết tới là một trong những trường hợp con người bị ma quỷ sở hữu nổi bật nhất trong thời gian trở lại đây. Vào năm 2008, tiến sĩ tâm thần học Richard E. Gallagher sau nhiều quan sát và nghiên cứu với trường hợp bệnh của một cô gái có tên là Julia, đã buộc lòng phải kết luận mình đang đối đầu với quỷ dữ, thứ nằm ngoài hiểu biết của tất cả loài người hiện nay.
Ông đã được tận mắt chứng kiến nhưng diễn biến kỳ lạ xảy ra xung quanh nạn nhân. Đó là việc các đồ vật liên tục bị bay lơ lửng và bay lượn lờ khắp căn phòng. Ngay cả thân thể của Julia còn đều đặn bay lên khỏi giường một cách hoàn toàn không thể lý giải được.
Đây cũng là lúc mà vị tiến sĩ cùng một số vị linh mục thấy được những điều chứng minh chắc chắn rằng cô gái này đang bị ma quỷ chiếm hữu. Từ miệng của Julia luôn phát ra các câu nói kỳ lạ và khó hiểu như:
- Để cô ấy yên, đồ ngốc.
- Cô ấy là của chúng ta.
- Hãy biến đi, bọn linh mục khờ khạo.
Và thỉnh thoảng chỉ đơn giản là:
- Biến đi.
Arne Cheyenne Johnson
Được đặt tên là Vụ xét xử tội ác của ma quỷ, sự việc xảy ra trong trường hợp của chàng trai trẻ Arne Cheyenne Johnson tiếp tục trở thành bí ẩn không thể lý giải của khoa học. Đây cũng là lần đầu tiên mà luật pháp của nước Mỹ phải đối mặt với một vụ án mà thủ phạm được luật sư kết luận là những thế lực siêu nhiên không thể giải thích được.
Vào năm 1981, Arne Cheyenne Johnson bị buộc tội sát hại người chủ nhà của mình, Alan Bono tại Connecticut. Luật sư của Arne đã lập luận rằng các hành động bất thường của Arne đã có từ khi anh mới chỉ còn là một đứa trẻ. Thậm chí, gia đình của chàng trai này khi đó còn khẳng định rằng con mình hầu như lúc nào cũng bị khống chế bởi những thực thể không xác định trong cuộc sống hàng ngày.
Đây hoàn toàn không phải là một hội chứng rối loạn tâm lý mà hoàn toàn là sự sai khiến của ma quỷ. Dù không thể phủ nhận những bằng chứng được luật sư đưa ra song cuối cùng vị thẩm phán vẫn buộc lòng phải kết án Arne hai chục năm tù cho tội ác của anh ta.
David Berkowitz
David Berkowitz còn được thế giới biết tới với biệt danh con trai của Sam. Hắn ta là thủ phạm của một loạt những vụ giết người hàng loạt khiến cảnh sát New York phải đau đầu vào năm 1976. Chỉ trong vòng một năm, David đã cướp đi mạng sống của sáu người và làm cho bảy người khác phải chịu thương tích trầm trọng. Hắn để lại những đầu mối trêu trọc cảnh sát thông báo về mùa hè của Sam.
Cho tới khi bị cảnh sát phát hiện và bắt giữ, David đã một mực khẳng định rằng mọi việc mình làm đều tuân theo sự sai khiến của ma quỷ. David không nói rằng bản thân hắn ta bị khống chế, song luôn nói rằng vật chủ mà mình tiếp xúc là con chó bên nhà hàng xóm, và con vật này ra lệnh cho hắn phải giết người.
Công cuộc luận tội David đã được thực hiện qua lại rất nhiều lần cho tới những năm giữa của thập niên chín mươi, cuối cùng tòa án kết luận bị cáo là thành viên của một giáo phái thờ phụng quỷ Satan, luôn hướng tới việc giết người như một phần của nghi lễ tà ác.
BSH
Thanked by 1 Member:
|
|
#809
Gửi vào 27/11/2013 - 12:13
HỔ TRẮNG BA CHÂN VỀ CHUÀ NGHE KINH PHẬT Ở KON TUM
Cứ thế suốt mười năm, con bạch hổ ba chân ngày nào cũng về chùa nghe kinh Phật như vậy. Các sư trong chùa quen dần, lấy tay vuốt lông, có người còn cưỡi lên, nhưng con bạch hổ vẫn hiền lành, đưa lưỡi liếm tay các nhà sư.
Ở đường Mạc Đĩnh Chi, Phường Quang Trung, Thành Phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum bây giờ còn một ngôi chùa và ngôi đình có lối kiến trúc cổ xưa. Ít ai biết, chùa và đình này được xây từ chính bàn tay của những người miền xuôi lên khai khẩn đất Kon Tum. Đây là chùa tổ đình Bác Ái và đình Võ Lâm, tuy hai nhưng lại là một.
Từ giữa thế kỷ mười chín, người dân ở các tỉnh duyên hải miền Trung tìm lên sinh cơ lập nghiệp tại Kon Tum ngày một đông. Tuy nhiên, do chỉ có con đường độc đạo đi từ tỉnh Bình Định lên Tây nguyên nên thuở ấy, người Bình Định đặt chân lên Kon Tum sớm nhất.
Theo đó, dòng di dân đầu tiên chính là những gia đình Thiên Chúa giáo, trốn lệnh bắt đạo gay gắt của triều đình nhà Nguyễn, theo chân các cha cố Hội Truyền giáo Kon Tum. Dòng thứ hai là những gia đình muốn thoát cảnh sưu cao thuế nặng, hoặc trốn tránh những rắc rối về mặt pháp luật đang gặp phải ở quê nhà.
Theo sách Kontum tỉnh chí của Võ Chuẩn sinh năm 1896, tại Thành Phố Kon Tum hồi đó, Võ Lâm là làng thứ ba, sau làng Trung Lương và Lương Kh,) ở nội thị Kon Tum gồm những gia đình ngoại đạo. Sách viết: Năm 1933 những người ngoại đạo xin phép lập một cái chùa thờ Phật và quy y các vong linh những người chết, mà thân thuộc không thể đem thi hài về xứ được, ban đầu chùa lấy tên là Linh Sơn về sau đổi thành Bác Ái.
Theo trụ trì đời thứ tư chùa Bác Ái là hòa thượng Thích Chánh Quang, chính quan Quản đạo Kon Tum là Võ Chuẩn, đã cho phép dựng chùa Linh Sơn. Tự ông Võ Chuẩn vẽ thiết kế và huy động nhân công phát hoang rừng rú, lấy đất xây chùa. Nhờ vậy, khởi công trong mười tháng đầu của năm 1932, đến đầu năm 1933 thì chùa hoàn tất, với vách bằng mành tre, lợp ngói âm dương. Lúc xây chùa, xung quanh còn nhiều rừng rậm rạp. Phía sau chùa là rừng với nhiều cây đại thụ lớn. Còn phía trước chùa là con suối Bác Ái, nay đã bị lấp.
Sau khi xây dựng xong chùa Linh Sơn tức Bác Ái, Võ Chuẩn đã chiêu mộ dân chúng khai hoang lập khu dân cư quanh khu vực chùa, tức làng Võ Lâm sau này. Theo sách Kon Tum. Di tích và danh thắng, tên làng Võ Lâm được giải thích:
Võ là họ của Võ Chuẩn, người công đầu trong việc lập làng, còn Lâm nghĩa là rừng. Công việc khẩn hoang lập làng kéo dài từ năm 1933 đến 1935. Lúc này bà con dân làng bàn chuyện dựng đình Võ Lâm và chọn gần chùa Linh Sơn. Chính ông Võ Chuẩn chỉ định vị trí đất và giao quan Đề lại Hồ Thượng Chất chủ trì thi công đình với diện tích ban đầu khoảng 1.000 m2.
Trước, đây là nơi sinh hoạt cộng đồng, thờ tự âm linh cô bác, tổ thần thổ địa, về sau làm nơi thờ tự những vị tiền hiền khai canh và nay nó là nơi thờ Thành hoàng làng Võ Lâm là Quản đạo Võ Chuẩn.
Đưa chúng tôi đi thăm cảnh chùa, trụ trì Thích Chánh Quang cho biết, khi chùa Bác Ái khánh thành, chính vua Bảo Đại đến dự và sắc phong biển Sắc tứ Bác Ái tự. Biển này giờ vẫn còn son đỏ và chữ vàng, không phai mờ. Từ đó, chùa chuyển sang tên Bác Ái. Sở dĩ có tên Bác Ái là do vua Bảo Đại biết chùa có gần bốn chục mẫu ruộng tốt, nhưng khi thu hoạch đều phân phát cho người nghèo, bất kể tín đồ hay tôn giáo khác hay cô khổ ở mọi nơi bước chân vào chùa xin cơm gạo.
Trụ trì Thích Chánh Quang còn cho hay khi chùa xây lên, khói hương không ngớt hưng thịnh. Thế nhưng, xung quanh vẫn là rừng hoang, đêm đêm tiếng thú dữ đi ăn đêm vẫn gầm rú, nhà chùa nghe có cảm giác bất an. Có điều chưa có thú dữ nào xông vào chùa phá phách hay bắt chó, gia súc nuôi.
Vậy mà vào một buổi chiều khoảng cuối năm 1932, cả chùa giật thót khi thấy một con bạch hổ ba chân lừ lừ từ rừng đi vào chùa. Con bạch hổ này vốn nổi tiếng hung bạo ở rừng này. Nó tấn công và ăn thịt tất cả các loài thú. Khi thiếu mồi, nó còn tấn công cả người. Một khi bạch hổ đã ăn thịt người thì nó càng hung tợn, càng dữ hơn bất cứ loài thú ác nào.
Lạ thay, khi bước vào chùa, con bạch hổ ba chân này không gầm gừ mà cong đuôi hiền lành về nằm tại khu bếp của chùa. Đầu bạch hổ gác lên hai chân trước, tai dỏng lên, mũi hít hít, còn mắt thì lim dim như tận hưởng cái gì đấy rất yên lành. Đến khoảng 20-21 giờ, các sư trong chùa vào chính điện để tụng kinh Phật, con bạch hổ cũng tiến về chính điện, nằm phủ phục ngoài cửa điện thờ, quỳ hai chân trước, đầu gác lên, còn một chân sau thì sãi ra.
Khi hết giờ tụng kinh, các sư về nghỉ, bạch hổ lại chui vào gian bếp. Đến bốn giờ sáng hôm sau, nó lại dậy nghe kinh Phật lần nữa, rồi khi trời còn tờ mờ sáng thì vào rừng. Cứ thế suốt mười năm, con bạch hổ ngày nào cũng về chùa nghe kinh Phật như vậy. Các sư trong chùa quen dần, lấy tay vuốt lông, có người còn cưỡi lên, nhưng con bạch hổ vẫn hiền lành, đưa lưỡi liếm tay các nhà sư.
Trụ trì Thích Chánh Quang đưa chúng tôi đi tham quan, chỉ gian bếp nơi bạch hổ về nằm, phía ngoài gian chính điện bạch hổ nằm nghe tụng kinh Phật. Đáng nói nữa là, từ khi về chùa Bác Ái nghe kinh Phật, xung quanh chùa thú dữ tránh đi hết, trong vùng không còn xảy ra các chuyện đau thương như người bị hổ vồ, hay thú dữ tấn công vật nuôi của làng Võ Lâm nữa. Đến khoảng năm 1943 thì bạch hổ bỏ đi đâu không ai biết.
Phạm Anh - Tạ Văn Sỹ
Cứ thế suốt mười năm, con bạch hổ ba chân ngày nào cũng về chùa nghe kinh Phật như vậy. Các sư trong chùa quen dần, lấy tay vuốt lông, có người còn cưỡi lên, nhưng con bạch hổ vẫn hiền lành, đưa lưỡi liếm tay các nhà sư.
Ở đường Mạc Đĩnh Chi, Phường Quang Trung, Thành Phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum bây giờ còn một ngôi chùa và ngôi đình có lối kiến trúc cổ xưa. Ít ai biết, chùa và đình này được xây từ chính bàn tay của những người miền xuôi lên khai khẩn đất Kon Tum. Đây là chùa tổ đình Bác Ái và đình Võ Lâm, tuy hai nhưng lại là một.
Từ giữa thế kỷ mười chín, người dân ở các tỉnh duyên hải miền Trung tìm lên sinh cơ lập nghiệp tại Kon Tum ngày một đông. Tuy nhiên, do chỉ có con đường độc đạo đi từ tỉnh Bình Định lên Tây nguyên nên thuở ấy, người Bình Định đặt chân lên Kon Tum sớm nhất.
Theo đó, dòng di dân đầu tiên chính là những gia đình Thiên Chúa giáo, trốn lệnh bắt đạo gay gắt của triều đình nhà Nguyễn, theo chân các cha cố Hội Truyền giáo Kon Tum. Dòng thứ hai là những gia đình muốn thoát cảnh sưu cao thuế nặng, hoặc trốn tránh những rắc rối về mặt pháp luật đang gặp phải ở quê nhà.
Theo sách Kontum tỉnh chí của Võ Chuẩn sinh năm 1896, tại Thành Phố Kon Tum hồi đó, Võ Lâm là làng thứ ba, sau làng Trung Lương và Lương Kh,) ở nội thị Kon Tum gồm những gia đình ngoại đạo. Sách viết: Năm 1933 những người ngoại đạo xin phép lập một cái chùa thờ Phật và quy y các vong linh những người chết, mà thân thuộc không thể đem thi hài về xứ được, ban đầu chùa lấy tên là Linh Sơn về sau đổi thành Bác Ái.
Theo trụ trì đời thứ tư chùa Bác Ái là hòa thượng Thích Chánh Quang, chính quan Quản đạo Kon Tum là Võ Chuẩn, đã cho phép dựng chùa Linh Sơn. Tự ông Võ Chuẩn vẽ thiết kế và huy động nhân công phát hoang rừng rú, lấy đất xây chùa. Nhờ vậy, khởi công trong mười tháng đầu của năm 1932, đến đầu năm 1933 thì chùa hoàn tất, với vách bằng mành tre, lợp ngói âm dương. Lúc xây chùa, xung quanh còn nhiều rừng rậm rạp. Phía sau chùa là rừng với nhiều cây đại thụ lớn. Còn phía trước chùa là con suối Bác Ái, nay đã bị lấp.
Sau khi xây dựng xong chùa Linh Sơn tức Bác Ái, Võ Chuẩn đã chiêu mộ dân chúng khai hoang lập khu dân cư quanh khu vực chùa, tức làng Võ Lâm sau này. Theo sách Kon Tum. Di tích và danh thắng, tên làng Võ Lâm được giải thích:
Võ là họ của Võ Chuẩn, người công đầu trong việc lập làng, còn Lâm nghĩa là rừng. Công việc khẩn hoang lập làng kéo dài từ năm 1933 đến 1935. Lúc này bà con dân làng bàn chuyện dựng đình Võ Lâm và chọn gần chùa Linh Sơn. Chính ông Võ Chuẩn chỉ định vị trí đất và giao quan Đề lại Hồ Thượng Chất chủ trì thi công đình với diện tích ban đầu khoảng 1.000 m2.
Trước, đây là nơi sinh hoạt cộng đồng, thờ tự âm linh cô bác, tổ thần thổ địa, về sau làm nơi thờ tự những vị tiền hiền khai canh và nay nó là nơi thờ Thành hoàng làng Võ Lâm là Quản đạo Võ Chuẩn.
Đưa chúng tôi đi thăm cảnh chùa, trụ trì Thích Chánh Quang cho biết, khi chùa Bác Ái khánh thành, chính vua Bảo Đại đến dự và sắc phong biển Sắc tứ Bác Ái tự. Biển này giờ vẫn còn son đỏ và chữ vàng, không phai mờ. Từ đó, chùa chuyển sang tên Bác Ái. Sở dĩ có tên Bác Ái là do vua Bảo Đại biết chùa có gần bốn chục mẫu ruộng tốt, nhưng khi thu hoạch đều phân phát cho người nghèo, bất kể tín đồ hay tôn giáo khác hay cô khổ ở mọi nơi bước chân vào chùa xin cơm gạo.
Trụ trì Thích Chánh Quang còn cho hay khi chùa xây lên, khói hương không ngớt hưng thịnh. Thế nhưng, xung quanh vẫn là rừng hoang, đêm đêm tiếng thú dữ đi ăn đêm vẫn gầm rú, nhà chùa nghe có cảm giác bất an. Có điều chưa có thú dữ nào xông vào chùa phá phách hay bắt chó, gia súc nuôi.
Vậy mà vào một buổi chiều khoảng cuối năm 1932, cả chùa giật thót khi thấy một con bạch hổ ba chân lừ lừ từ rừng đi vào chùa. Con bạch hổ này vốn nổi tiếng hung bạo ở rừng này. Nó tấn công và ăn thịt tất cả các loài thú. Khi thiếu mồi, nó còn tấn công cả người. Một khi bạch hổ đã ăn thịt người thì nó càng hung tợn, càng dữ hơn bất cứ loài thú ác nào.
Lạ thay, khi bước vào chùa, con bạch hổ ba chân này không gầm gừ mà cong đuôi hiền lành về nằm tại khu bếp của chùa. Đầu bạch hổ gác lên hai chân trước, tai dỏng lên, mũi hít hít, còn mắt thì lim dim như tận hưởng cái gì đấy rất yên lành. Đến khoảng 20-21 giờ, các sư trong chùa vào chính điện để tụng kinh Phật, con bạch hổ cũng tiến về chính điện, nằm phủ phục ngoài cửa điện thờ, quỳ hai chân trước, đầu gác lên, còn một chân sau thì sãi ra.
Khi hết giờ tụng kinh, các sư về nghỉ, bạch hổ lại chui vào gian bếp. Đến bốn giờ sáng hôm sau, nó lại dậy nghe kinh Phật lần nữa, rồi khi trời còn tờ mờ sáng thì vào rừng. Cứ thế suốt mười năm, con bạch hổ ngày nào cũng về chùa nghe kinh Phật như vậy. Các sư trong chùa quen dần, lấy tay vuốt lông, có người còn cưỡi lên, nhưng con bạch hổ vẫn hiền lành, đưa lưỡi liếm tay các nhà sư.
Trụ trì Thích Chánh Quang đưa chúng tôi đi tham quan, chỉ gian bếp nơi bạch hổ về nằm, phía ngoài gian chính điện bạch hổ nằm nghe tụng kinh Phật. Đáng nói nữa là, từ khi về chùa Bác Ái nghe kinh Phật, xung quanh chùa thú dữ tránh đi hết, trong vùng không còn xảy ra các chuyện đau thương như người bị hổ vồ, hay thú dữ tấn công vật nuôi của làng Võ Lâm nữa. Đến khoảng năm 1943 thì bạch hổ bỏ đi đâu không ai biết.
Phạm Anh - Tạ Văn Sỹ
Thanked by 2 Members:
|
|
#810
Gửi vào 27/11/2013 - 12:46
TÌM THẤY BÚT TÍCH LỜI NGUYỀN MA THUẬT 1700 NĂM TUỔI
Các nhà khảo cổ vừa tìm thấy một tấm bảng khắc lời nguyền hơn 1700 năm tuổi, trong một khu nhà La Mã ở thành phố David, Jerusalem. Một tấm bảng chì có niên đại cách đây 1700 năm, và có thể được viết bởi một thầy pháp, vừa được tìm thấy trong một khu nhà đổ nát ở Jerusalem.
Địa điểm này được khai quật ở khu vực được gọi là Thành phố của David, Jerusalem, nơi con người đã sinh sống ít nhất từ sáu ngàn năm nay. Các đoạn chữ được viết bằng tiếng Hy Lạp, trong đó một phụ nữ tên là Kyrilla, đã gọi tên sáu vị thần để đặt lời nguyền lên người có tên Iennys:
- Ta đánh xuống và đóng đinh lưỡi, đôi mắt, cơn giận dữ, sự chống đối của Iennys... hắn không chống lại, và không thể nói hay làm gì bất lợi cho Kyrilla...
Để hoàn thành mục đích, Kyrilla đã kết hợp các yếu tố từ bốn tôn giáo khác nhau, Robert Walter Daniel ở Đại học Cologne cho biết. Trong sáu vị thần, có bốn vị thần Hi Lạp (Hermes, Persephone, Pluto và Hecate), một vị thần Babylon (Ereschigal) và một vị thần Gnostic (Abrasax). Ngoài ra, các đoạn chữ còn có những từ ngữ ma thuật như "Iaoth" có nguồn gốc từ tiếng Do Thái.
Lời nguyền này có thể đã được tạo ra bởi một thầy pháp chuyên nghiệp, người đã sử dụng búa và đinh, để thực hiện các nghi lễ nhằm tăng tính hiệu quả cho lời nguyền.
- Việc đóng đinh là một cách điều khiển người bị nguyền rủa.
Daniel cho biết thêm. Kyrilla và người bị nguyền rủa, đều là những người trong tầng lớp trung lưu hay thượng lưu của La Mã. Nhiều khả năng là họ đã dính vào một vụ kiện cáo do tấm bảng này có những đặc điểm giống các tấm bảng được tìm thấy ở đảo Síp, vốn là vật dụng đã từng được sử dụng trong các vụ kiện. Thêm vào đó, từ ngữ trong đoạn văn bản này gợi tới các vấn đề kiện tụng.
Tấm bảng được khai quật ở phía Tây Bắc một khu nhà. Căn phòng đặt tấm bảng đã bị sập hoàn toàn, nhưng các hiện vật khai quật được quanh đó có thể cho biết về nội thất của căn phòng khi nó còn được sử dụng. Các nhà nghiên cứu vẫn chưa được rõ mục đích của căn phòng này.
Tuy nhiên, nhân vật Iennys có thể có liên quan nhiều tới mức tấm bảng nguyền rủa này được cố tình đặt trong chính căn phòng đó.
- Do lời nguyền nhắm tới Iennys, nó có thể được giấu ở nơi ông ta hay tới.
Daniel cho biết thêm. Có thể Iennys sống hoặc làm việc ở khu nhà này hoặc ở gần khu vực có căn phòng đó.
Phan Hạnh
News Discovery
Các nhà khảo cổ vừa tìm thấy một tấm bảng khắc lời nguyền hơn 1700 năm tuổi, trong một khu nhà La Mã ở thành phố David, Jerusalem. Một tấm bảng chì có niên đại cách đây 1700 năm, và có thể được viết bởi một thầy pháp, vừa được tìm thấy trong một khu nhà đổ nát ở Jerusalem.
Địa điểm này được khai quật ở khu vực được gọi là Thành phố của David, Jerusalem, nơi con người đã sinh sống ít nhất từ sáu ngàn năm nay. Các đoạn chữ được viết bằng tiếng Hy Lạp, trong đó một phụ nữ tên là Kyrilla, đã gọi tên sáu vị thần để đặt lời nguyền lên người có tên Iennys:
- Ta đánh xuống và đóng đinh lưỡi, đôi mắt, cơn giận dữ, sự chống đối của Iennys... hắn không chống lại, và không thể nói hay làm gì bất lợi cho Kyrilla...
Để hoàn thành mục đích, Kyrilla đã kết hợp các yếu tố từ bốn tôn giáo khác nhau, Robert Walter Daniel ở Đại học Cologne cho biết. Trong sáu vị thần, có bốn vị thần Hi Lạp (Hermes, Persephone, Pluto và Hecate), một vị thần Babylon (Ereschigal) và một vị thần Gnostic (Abrasax). Ngoài ra, các đoạn chữ còn có những từ ngữ ma thuật như "Iaoth" có nguồn gốc từ tiếng Do Thái.
Lời nguyền này có thể đã được tạo ra bởi một thầy pháp chuyên nghiệp, người đã sử dụng búa và đinh, để thực hiện các nghi lễ nhằm tăng tính hiệu quả cho lời nguyền.
- Việc đóng đinh là một cách điều khiển người bị nguyền rủa.
Daniel cho biết thêm. Kyrilla và người bị nguyền rủa, đều là những người trong tầng lớp trung lưu hay thượng lưu của La Mã. Nhiều khả năng là họ đã dính vào một vụ kiện cáo do tấm bảng này có những đặc điểm giống các tấm bảng được tìm thấy ở đảo Síp, vốn là vật dụng đã từng được sử dụng trong các vụ kiện. Thêm vào đó, từ ngữ trong đoạn văn bản này gợi tới các vấn đề kiện tụng.
Tấm bảng được khai quật ở phía Tây Bắc một khu nhà. Căn phòng đặt tấm bảng đã bị sập hoàn toàn, nhưng các hiện vật khai quật được quanh đó có thể cho biết về nội thất của căn phòng khi nó còn được sử dụng. Các nhà nghiên cứu vẫn chưa được rõ mục đích của căn phòng này.
Tuy nhiên, nhân vật Iennys có thể có liên quan nhiều tới mức tấm bảng nguyền rủa này được cố tình đặt trong chính căn phòng đó.
- Do lời nguyền nhắm tới Iennys, nó có thể được giấu ở nơi ông ta hay tới.
Daniel cho biết thêm. Có thể Iennys sống hoặc làm việc ở khu nhà này hoặc ở gần khu vực có căn phòng đó.
Phan Hạnh
News Discovery
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
![]() TUYỂN TẬP SÁCH HUYỀN HỌC![]() |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | babylon |
|
![]() |
|
![]() ![]() những góc nhìn khác nhau về chuyện cưới xin, xung - hợp vợ chồng |
Tử Bình | hieuthuyloi |
|
![]() |
|
![]() Trưởng c.an huyện du lịch ven biển |
Tử Vi | Kimthuy20212054 |
|
![]() |
|
![]() Suy nghĩ với hỗn hợp nhiều môn huyền học cho lá số VNXHCN |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
![]() |
|
![]() NGŨ BỘ CHÚ - QUÁN ÂM - Huyền Thanh dịch |
Sách Huyền Thuật | administrator |
|
![]() |
|
![]() ![]() Dự đoán phối hợp nhiều môn huyền học cho chính trị & kinh tế thế giới |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
![]() |
8 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 8 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:
An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |
Quỷ Cốc Toán Mệnh |
Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |
Quẻ Mai Hoa Dịch Số |
Bát Tự Hà Lạc |
Thái Ât Thần Số |
Căn Duyên Tiền Định |
Cao Ly Đầu Hình |
Âm Lịch |
Xem Ngày |
Lịch Vạn Niên |
So Tuổi Vợ Chồng |
Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:












