1
Truyện ngắn huyền bí - hiendde
Viết bởi Manager, 05/06/11 02:02
1072 replies to this topic
#76
Gửi vào 17/06/2011 - 22:34
BỘ TÓC GIẢ
Nàng len lén nhìn hắn. Nhưng khuôn mặt như có thể tháo ra lắp vào thành rô bốt không có vẻ gì để ý đến cái đầu trọc lóc của nàng. Nàng không có tóc xấu xí, mang dáng dấp của kẻ sắp được thần chết rước đi hay có mái tóc bồng bềnh như thần vệ nữ, cũng như nhau với hắn cả thôi. Nàng nhét vào túi áo trắng của hắn một tờ tiền. Nhưng tờ tiền cũng không làm hắn thay đổi sắc mặt.
Nàng thức dậy trên chiếc giường lúc mặt trời đã đứng bóng. Nàng bị ghép giường với một bệnh nhân khác, một bà già đầu trọc lóc da xanh tái và môi thâm bệch như thần chết. Trong phòng còn vài bệnh nhân nữa cũng với hình dạng tương tự. Nàng biết rằng mình cũng sẽ giống hệt thế kia. Sau vài đợt hóa trị tóc nàng đã tự rụng từng búi. Nàng lê vào phòng khám nhận thuốc và rời bệnh viện.
Nàng trở về nhà. Căn hộ nàng thuê trên một khu chung cư cao cấp đã phải trả lại, để thay thế cho căn nhà tồi tàn nằm sát bờ sông mùi ẩm thấp xộc lên, nhưng nàng không để ý. Việc đầu tiên là nàng nhảy xổ đến chiếc gương, mà chủ thuê trước vẫn để lại trên tường. Nàng chải đầu và mở to mắt nhìn chiếc lược. Những búi tóc to tướng mắc lại đấy như thể tóc trên đầu nàng cứ mủn ra như của xác ướp.
Chẳng mấy chốc nàng sẽ không còn sợi tóc nào nữa. Nàng xót xa nghĩ đến những bữa tiệc xa hoa trong nhà hàng đượm ánh đèn vàng, những đêm rã rượi bên suối rượu để rồi đắm chìm trong cảm giác điên loạn cho đến sáng. Đôi mắt ngây dại của nàng chợt chạm vào một vật gì đó trong phòng. Nàng giật thót mình khi nhận ra có một bóng người đang quan sát mình. Nàng quay phắt lại. Cái bóng biến mất. Nàng thở hắt. Chỉ là bộ tóc giả mà nàng mua chiều qua trong một cửa hàng nhỏ trên khu phố cổ.
Nàng tình cờ đi qua đó và nhìn thấy một hàng tóc giả. Những đứa bạn trước ở cùng nhà với nàng cũng hay xài tóc giả. Nhưng đó là những bộ tóc sợi nhân tạo với kiểu dáng thời trang. Lũ bạn cùng nghề với nàng thường dùng cho hợp với bộ quần áo đang mặc. Còn nàng nàng cần tóc. Bà lão bán hàng ngồi im lìm trong những giá tóc. Khuôn mặt bà ta cổ quái với vệt trầu đỏ sẫm trên làn da nhăn nheo bợt bạt.
- Cháu muốn xem một bộ tóc.
Nàng nhìn những bộ tóc dài thượt treo trên giá vẻ không ưng ý. Đó là những bộ tóc nối dành cho người đã có tóc rồi. Còn nàng sẽ không có tóc. Nàng cần nguyên bộ. Bà ta không nói gì giương đôi mắt trân trân nhìn nàng, rồi trỏ ngón tay dài thượt một cách kỳ quặc vào bên trong. Bà ta biến mất rồi xuất hiện với một mớ tóc dài xõa xượi trên cánh tay xương xẩu. Người bán hàng lấy chiếc lược sừng trong túi chải lại mái tóc. Những sợi tóc xòa xuống mượt mà. Bà ta âu yếm như thể đang chải đầu cho đứa con gái.
Huyền cúi thấp người để bà cụ nhỏ bé giúp nàng chụp mớ tóc lên đầu. Những sợi tóc mềm mại, quệt qua quệt lại trên vai nàng mát rượi. Bà cụ lại biến mất sau cánh cửa. Và lần thứ hai bà trở ra, cầm chiếc gương hình bầu dục để nàng soi. Mặt kính trong vắt đến độ nàng có thể nhìn rõ từng sợi vương vít. Khuôn mặt hơi tái của nàng chìm lỉm trong sóng tóc. Nó đã mất cái vẻ khơi gợi đến trơ trẽn mà chính nàng cũng nhận ra thế. Một người đẹp trong gương, quyến rũ với đôi mắt buồn bã đang nhìn nàng chăm chăm. Và những lọn tóc khuôn lấy đôi gò má xanh xao.
- Cháu lấy bộ tóc này. Bao nhiêu tiền vậy cụ?
- Già bán lược không bán tóc. Tóc là để tặng.
Huyền sửng sốt nhìn chiếc lược sừng trong tay người bán hàng. Nó màu trắng và đơn giản như mọi chiếc lược khác. Bà cụ đã ra giá rất đắt. Nhưng Huyền mừng rỡ vì nàng được tặng cả một bộ tóc mềm mại. Nó còn đẹp hơn mái tóc trước đây của nàng. Huyền uống vội mấy viên thuốc và lên giường nằm. Nàng để nguyên bộ tóc. Nó vắt choàng lên người nàng như một chiếc chăn. Nàng hy vọng có nó nàng sẽ ấm áp hơn trong tiết giá này. Nhưng Huyền cảm thấy rét. Bộ tóc giả lẽ ra rất ấm như nàng nghĩ, song làm cả bờ vai và sống lưng nàng lạnh buốt.
Nàng không thể ngủ. Huyền mở choàng mắt. Nàng không nhìn thấy ai, nhưng lần này nàng kinh sợ vì những bước chân gấp gáp. Nó lộn đi lộn lại và âm thanh đã dồn sát chiếc giường của nàng. Nàng cứng người trong bộ tóc và lớp chăn mỏng. Vài sợi tóc xòa xuống má nàng lạnh toát. Căn phòng chìm vào tĩnh mịch, chỉ còn tiếng gió hú ngoài sông. Chúng luồn qua rặng tre và xào vào nhau thành những tiếng rền rĩ. Huyền cảm thấy cái luồng hơi lạnh vô hình đang đứng trước mặt, im lặng quan sát nàng. Có tiếng thở dài và tiếng bước chân lướt nhẹ trên mặt sàn rời khỏi nàng. Nàng mở to mắt hãi hùng. Một bóng người vô ảnh đang đứng sát phía cửa sổ. Cơn khát rát bỏng lại cứa lên thân thể nàng.
Khi Huyền tỉnh dậy nàng đoán rằng đêm qua nàng đã bị ngất đi. Cổ họng nàng khô khốc. Mớ tóc đã rời khỏi đầu kéo theo từng búi tóc rụng. Nó xõa dài xuống mặt đất một cách thảm hại và bù rối như vừa bị kẻ nào đó giày xéo. Nàng xót xa lấy chiếc lược sừng chải lại. Những sợi tóc nằm ngay ngắn như cũ và mát rượi dưới tay nàng.
- Nhà này trước có bà cô chưa chồng chết trẻ.
cô Xu ngước cặp mắt lờ đờ nhìn nàng. Bộ mặt cô hồn của cô khiến Huyền rúm lại. Giọng cô Xu lúc nào cũng như thằng bé dậy thì đang vỡ. Cô xoa cái cằm đầy râu mà có lẽ sáng nay bị Huyền gõ cửa từ sớm nên quên chưa cạo. Đôi môi thoa son vội đỏ choe đỏ choét.
- Nó đang đứng ở đây này.
Huyền bíu lấy bàn tay xương xẩu của cô Xu:
- Ở đâu?
- Đang đứng cạnh tao.
- Sao cô biết?
- Tao nhìn thấy.
- Trông như thế nào?
- Mặt nó phù lên đầy máu.
- Ôi, Huyền rên lên, bây giờ phải làm sao?
- Nó kêu lạnh cần quần áo. Nếu mày cho nó quần áo thì nó sẽ đi khỏi đây.
- Trăm sự nhờ cô, cô mua giúp quần áo cho bà ấy.
Cô Xu liếc Huyền ngẫm nghĩ:
- Mấy bữa nay tao bận lắm đấy. Nhưng tao thương mày nên sẽ giúp. Cứ đưa đây năm trăm rồi tối tao sang làm lễ cho. Càng cúng nhiều quần áo nó càng biến nhanh.
Huyền cuống lên lấy nắm tiền cuối cùng dúi cho cô Xu. Cô Xu thu lại bộ đồ nghề gồm một cái bát, con dao đen bóng và vài miếng trầu tươi. Huyền tiễn cô Xu ra tận cửa. Từ lúc chưa chuyển nhà đến đây Huyền đã biết cô Xu. Danh tiếng của cô lan truyền khắp xóm bãi. Bận trước nàng và các bạn cũng vài lần ghé nhà cô những lúc rỗi rãi để xem tiền duyên vận mệnh.
Là một đồng cậu khó tính, cô Xu chỉ tiếp những người nào kiên nhẫn xếp hàng chờ cô trước hai ngày. Sáng nay nàng may mắn mời được cô đến tận nhà. Có lẽ cô Xu động lòng trước bộ dạng thảm hại của nàng. Chuyên viên phòng X-quang có ánh mắt lạnh lùng ra lệnh cho nàng. Nàng đã làm việc này cả ngàn lần nhưng trước vẻ thản nhiên kỳ quặc của hắn nàng lúng túng. Hắn bực dọc quát lên:
- Cởi áo ra rồi treo ở cái móc kia không ai thèm nhìn.
Hắn không thèm nhìn hẳn nhiên rồi. Hắn cũng đã ra cái lệnh này đến ngàn lần. Vẻ mặt của hắn giống hệt những cỗ máy trong phòng, xám xịt trơ lì vô cảm, hằng ngày tiếp nhận hàng trăm kẻ ép mình vào máy với những khối u trong người. Nàng làm theo lời hắn rồi rúm ró đi lại chiếc máy.
- Buộc tóc lên.
Nàng ngần ngừ rồi tháo bộ tóc giả treo lên giá. Nàng len lén nhìn hắn. Nhưng khuôn mặt như có thể tháo ra lắp vào thành rô bốt không có vẻ gì để ý đến cái đầu trọc lóc của nàng. Nàng không có tóc xấu xí, mang dáng dấp của kẻ sắp được thần chết rước đi, hay có mái tóc bồng bềnh như thần vệ nữ cũng như nhau với hắn cả thôi. Nàng nhét vào túi áo trắng của hắn một tờ tiền. Nhưng tờ tiền cũng không làm hắn thay đổi sắc mặt. Sáng nay bạn nàng đã đưa nó cho nàng.
- Tao quyên góp cả đám mới được ngần này. Thôi mày ráng mà chịu đựng. Đối với lũ mình sống hay chết cũng như nhau cả thôi. Chỉ có điều đứa nào giỏi lừa thần chết thì đứa ấy may mắn.
- Thẳng người lên dang hai tay ra.
Gã quát to rồi vội vàng chạy ra ngoài đóng cửa lại. Chiếc máy bắt đầu hoạt động. Nó áp sát lên cơ thể nàng lạnh như băng. Nàng thấy nó cũng có cảm xúc, nhưng là cảm giác thích thú của một cỗ máy giết người khi tìm được khối u ác tính trên vật chủ. Bốn bức tường sơn màu xám trống trơn u ám. Nàng đưa mắt nhìn ra chiếc giá treo quần áo như mong tìm một vật quen thuộc. Bỗng nàng gào thét điên loạn. Cái bóng bất động trong ánh sáng nhợt nhạt của phòng X-quang hiện hình rõ một người đàn bà, hốc mắt sâu hoắm buồn thảm, da xanh tái và đầu cũng trọc lóc. Bà ta đang đứng cạnh giá để áo và vuốt ve mớ tóc giả của nàng. Gã kia chạy vội vào, cả những bệnh nhân khác đang chờ bên ngoài cũng vào theo. Nàng chỉ cái giá áo nói như mê sảng:
- Oan hồn, tôi sắp chết rồi tôi bị quỷ ám. Bà ta lúc nào cũng đeo đẳng tôi.
- Ra ngoài kia ra hết ngoài kia.
Kẻ canh giữ cỗ máy quát những bệnh nhân bâu nhâu ngoài cửa rồi đẩy nàng thô bạo.
- Cứ yên tâm rồi sẽ được chết. Ai đã phải vào đây thì chẳng thoát được đâu.
Gã nhếch mép cười nụ cười hiếm hoi với hai chiếc răng nanh nhọn và ánh mắt độc ác. Nàng ngồi chờ trên dãy ghế dành cho bệnh nhân tâm trí hoảng loạn. Hồn ma của người đàn bà đã có mặt ở bất kỳ nơi nào nàng đến. Bà ta muốn gì ở nàng? Nàng còn gì để lấy đi nữa ngoài một linh hồn lay lắt đang chống chọi hằng ngày với thần chết. Người ta đọc đến tên nàng. Nàng bước vào phòng rồi rũ mình trên ghế. Ông bác sĩ giơ tấm phim lên ngang mặt không nói gì, nhưng nhìn nàng mỉm cười.
- Một sự thần kỳ cô gái ạ. Chưa có khối u nào như trường hợp của cô lại có thể tan hoàn toàn bằng những phương pháp y học hiện có.
Tai nàng ù đi. Giọng ông bác sĩ vẫn đều đều:
- Bây giờ cô chỉ cần phục hồi thôi, phục hồi rồi tóc của cô sẽ mọc trở lại.
Nàng về nhà vào lúc chiều muộn. Những cơn gió bấc cuối cùng của mùa đông tranh thủ tạt nốt những gì còn sót lại từ phía bên kia sông. Nàng co ro đi trên mặt cát. Túp nhà tiều tụy của nàng đã thấp thoáng, sẫm lại dưới ngọn tre. Dưới đám mây vần vũ đang sà thấp xuống, mái nhà như kẻ tội đồ chờ sự phán quyết. Nàng dừng lại ngắm nhìn nó, cho đến tận lúc nó lẫn vào bóng tối nàng mới vào nhà. Tim nàng thắt lại. Cửa nhà nàng không khóa. Nàng đứng tựa vào cây cột trước hàng hiên nghẹt thở. Cánh cửa hút gió vẫn mở ra đập vào chan chát lên mép tường. Nàng nhìn vào trong nhà. Có ai đó đang ngồi trên giường của nàng. Nàng bước như thôi miên qua bậc cửa. Người đàn bà thở dài nhìn nàng buồn thảm. Cái bóng trắng bệch của bà ta hiển hiện trước mặt nàng.
- Cho tôi xin lại tóc.. tôi cần tóc..tôi lang thang cô độc..lạnh lắm. Hãy trả lại tóc cho tôi..
Nàng chạy như điên như dại ra khỏi ngôi nhà. Mây đen vẫn vần vũ như sắp đổ ụp xuống đầu nàng. Gió từ trên ngọn tre thổi theo tà áo phần phật của nàng những tiếng rít ai oán:
- Tóc của tôi.. tóc của tôi. Trả lại tóc cho tôi..
Nàng đã đảo đi đảo lại khúc phố này tới mươi lần, mà không thể tìm thấy cửa hàng tóc với người bán hàng kỳ dị. Lần trước nàng đã tìm thấy nó ngay góc phố dưới chân cột điện, vì thế nàng không thể lầm. Những người bán hàng trong các shop thời trang đông đúc ở khu phố tỏ ra cắm cảu khi nàng hỏi thăm.
- Thời buổi này muốn mua tóc thì ra siêu thị. Mười năm nay không ai dại gì thuê nhà ở đây để mà bán tóc.
Nàng thất vọng mua một chiếc vé lên xe buýt. Nàng chưa biết đi đâu. Nàng không thể trở về căn nhà hãi hùng đó. Bộ tóc giả và chiếc lược sừng đã được cho vào một chiếc túi gọn ghẽ. Nàng tiến lên đầu xe để quan sát xem chiếc xe đã đi tới phố nào. Bỗng nhiên một cái gì đó chạm vào cổ tay nàng nó rất ấm. Lâu lắm rồi nàng không cảm nhận được cái gì đó ấm và sự ấm áp khiến nàng rùng mình. Nàng quay lại. Một người đàn ông đang nhìn nàng:
- Tôi nhường chỗ.
Hẳn là anh ta nghĩ nàng đang đi tìm chỗ.
- À không tôi cũng có chỗ.
Nàng trở về ghế của mình, nơi nàng đã đặt cái túi để giữ chỗ lúc đứng lên. Nhưng toàn bộ ghế trên xe đã kín người ngồi và nàng không thể nhớ ghế nào là ghế của mình. Còn chiếc túi nó đã biến mất. Người ngỏ ý muốn nhường chỗ cho nàng tỏ vẻ lo lắng:
- Cô bị mất cái gì à?
- Một chiếc túi.
- Có gì trong đó.
- Một bộ tóc giả.
- Không sao mình sẽ cùng tìm.
Nàng thở hắt ra:
- Thôi tôi không cần đến nó nữa.
Chiếc xe phanh khựng lại. Những người trên xe bị dúi ra đằng sau và trong khoảnh khắc xô đẩy láo nháo, nàng thoáng thấy một người phụ nữ có mái tóc giống hệt mớ tóc giả của nàng, đi lướt bên ngoài cửa xe. Chỉ là một khoảnh khắc. Khi nàng nhoài ra sát cửa kính chiếc xe đã quanh sang một con phố khác, bên ngoài bóng người đi bộ trên vỉa hè đã thưa thớt. Họ vội vã trở về nhà để trốn cơn lốc hiếm hoi đang ập đến cuối mùa đông.
Di Li
Nàng len lén nhìn hắn. Nhưng khuôn mặt như có thể tháo ra lắp vào thành rô bốt không có vẻ gì để ý đến cái đầu trọc lóc của nàng. Nàng không có tóc xấu xí, mang dáng dấp của kẻ sắp được thần chết rước đi hay có mái tóc bồng bềnh như thần vệ nữ, cũng như nhau với hắn cả thôi. Nàng nhét vào túi áo trắng của hắn một tờ tiền. Nhưng tờ tiền cũng không làm hắn thay đổi sắc mặt.
Nàng thức dậy trên chiếc giường lúc mặt trời đã đứng bóng. Nàng bị ghép giường với một bệnh nhân khác, một bà già đầu trọc lóc da xanh tái và môi thâm bệch như thần chết. Trong phòng còn vài bệnh nhân nữa cũng với hình dạng tương tự. Nàng biết rằng mình cũng sẽ giống hệt thế kia. Sau vài đợt hóa trị tóc nàng đã tự rụng từng búi. Nàng lê vào phòng khám nhận thuốc và rời bệnh viện.
Nàng trở về nhà. Căn hộ nàng thuê trên một khu chung cư cao cấp đã phải trả lại, để thay thế cho căn nhà tồi tàn nằm sát bờ sông mùi ẩm thấp xộc lên, nhưng nàng không để ý. Việc đầu tiên là nàng nhảy xổ đến chiếc gương, mà chủ thuê trước vẫn để lại trên tường. Nàng chải đầu và mở to mắt nhìn chiếc lược. Những búi tóc to tướng mắc lại đấy như thể tóc trên đầu nàng cứ mủn ra như của xác ướp.
Chẳng mấy chốc nàng sẽ không còn sợi tóc nào nữa. Nàng xót xa nghĩ đến những bữa tiệc xa hoa trong nhà hàng đượm ánh đèn vàng, những đêm rã rượi bên suối rượu để rồi đắm chìm trong cảm giác điên loạn cho đến sáng. Đôi mắt ngây dại của nàng chợt chạm vào một vật gì đó trong phòng. Nàng giật thót mình khi nhận ra có một bóng người đang quan sát mình. Nàng quay phắt lại. Cái bóng biến mất. Nàng thở hắt. Chỉ là bộ tóc giả mà nàng mua chiều qua trong một cửa hàng nhỏ trên khu phố cổ.
Nàng tình cờ đi qua đó và nhìn thấy một hàng tóc giả. Những đứa bạn trước ở cùng nhà với nàng cũng hay xài tóc giả. Nhưng đó là những bộ tóc sợi nhân tạo với kiểu dáng thời trang. Lũ bạn cùng nghề với nàng thường dùng cho hợp với bộ quần áo đang mặc. Còn nàng nàng cần tóc. Bà lão bán hàng ngồi im lìm trong những giá tóc. Khuôn mặt bà ta cổ quái với vệt trầu đỏ sẫm trên làn da nhăn nheo bợt bạt.
- Cháu muốn xem một bộ tóc.
Nàng nhìn những bộ tóc dài thượt treo trên giá vẻ không ưng ý. Đó là những bộ tóc nối dành cho người đã có tóc rồi. Còn nàng sẽ không có tóc. Nàng cần nguyên bộ. Bà ta không nói gì giương đôi mắt trân trân nhìn nàng, rồi trỏ ngón tay dài thượt một cách kỳ quặc vào bên trong. Bà ta biến mất rồi xuất hiện với một mớ tóc dài xõa xượi trên cánh tay xương xẩu. Người bán hàng lấy chiếc lược sừng trong túi chải lại mái tóc. Những sợi tóc xòa xuống mượt mà. Bà ta âu yếm như thể đang chải đầu cho đứa con gái.
Huyền cúi thấp người để bà cụ nhỏ bé giúp nàng chụp mớ tóc lên đầu. Những sợi tóc mềm mại, quệt qua quệt lại trên vai nàng mát rượi. Bà cụ lại biến mất sau cánh cửa. Và lần thứ hai bà trở ra, cầm chiếc gương hình bầu dục để nàng soi. Mặt kính trong vắt đến độ nàng có thể nhìn rõ từng sợi vương vít. Khuôn mặt hơi tái của nàng chìm lỉm trong sóng tóc. Nó đã mất cái vẻ khơi gợi đến trơ trẽn mà chính nàng cũng nhận ra thế. Một người đẹp trong gương, quyến rũ với đôi mắt buồn bã đang nhìn nàng chăm chăm. Và những lọn tóc khuôn lấy đôi gò má xanh xao.
- Cháu lấy bộ tóc này. Bao nhiêu tiền vậy cụ?
- Già bán lược không bán tóc. Tóc là để tặng.
Huyền sửng sốt nhìn chiếc lược sừng trong tay người bán hàng. Nó màu trắng và đơn giản như mọi chiếc lược khác. Bà cụ đã ra giá rất đắt. Nhưng Huyền mừng rỡ vì nàng được tặng cả một bộ tóc mềm mại. Nó còn đẹp hơn mái tóc trước đây của nàng. Huyền uống vội mấy viên thuốc và lên giường nằm. Nàng để nguyên bộ tóc. Nó vắt choàng lên người nàng như một chiếc chăn. Nàng hy vọng có nó nàng sẽ ấm áp hơn trong tiết giá này. Nhưng Huyền cảm thấy rét. Bộ tóc giả lẽ ra rất ấm như nàng nghĩ, song làm cả bờ vai và sống lưng nàng lạnh buốt.
Nàng không thể ngủ. Huyền mở choàng mắt. Nàng không nhìn thấy ai, nhưng lần này nàng kinh sợ vì những bước chân gấp gáp. Nó lộn đi lộn lại và âm thanh đã dồn sát chiếc giường của nàng. Nàng cứng người trong bộ tóc và lớp chăn mỏng. Vài sợi tóc xòa xuống má nàng lạnh toát. Căn phòng chìm vào tĩnh mịch, chỉ còn tiếng gió hú ngoài sông. Chúng luồn qua rặng tre và xào vào nhau thành những tiếng rền rĩ. Huyền cảm thấy cái luồng hơi lạnh vô hình đang đứng trước mặt, im lặng quan sát nàng. Có tiếng thở dài và tiếng bước chân lướt nhẹ trên mặt sàn rời khỏi nàng. Nàng mở to mắt hãi hùng. Một bóng người vô ảnh đang đứng sát phía cửa sổ. Cơn khát rát bỏng lại cứa lên thân thể nàng.
Khi Huyền tỉnh dậy nàng đoán rằng đêm qua nàng đã bị ngất đi. Cổ họng nàng khô khốc. Mớ tóc đã rời khỏi đầu kéo theo từng búi tóc rụng. Nó xõa dài xuống mặt đất một cách thảm hại và bù rối như vừa bị kẻ nào đó giày xéo. Nàng xót xa lấy chiếc lược sừng chải lại. Những sợi tóc nằm ngay ngắn như cũ và mát rượi dưới tay nàng.
- Nhà này trước có bà cô chưa chồng chết trẻ.
cô Xu ngước cặp mắt lờ đờ nhìn nàng. Bộ mặt cô hồn của cô khiến Huyền rúm lại. Giọng cô Xu lúc nào cũng như thằng bé dậy thì đang vỡ. Cô xoa cái cằm đầy râu mà có lẽ sáng nay bị Huyền gõ cửa từ sớm nên quên chưa cạo. Đôi môi thoa son vội đỏ choe đỏ choét.
- Nó đang đứng ở đây này.
Huyền bíu lấy bàn tay xương xẩu của cô Xu:
- Ở đâu?
- Đang đứng cạnh tao.
- Sao cô biết?
- Tao nhìn thấy.
- Trông như thế nào?
- Mặt nó phù lên đầy máu.
- Ôi, Huyền rên lên, bây giờ phải làm sao?
- Nó kêu lạnh cần quần áo. Nếu mày cho nó quần áo thì nó sẽ đi khỏi đây.
- Trăm sự nhờ cô, cô mua giúp quần áo cho bà ấy.
Cô Xu liếc Huyền ngẫm nghĩ:
- Mấy bữa nay tao bận lắm đấy. Nhưng tao thương mày nên sẽ giúp. Cứ đưa đây năm trăm rồi tối tao sang làm lễ cho. Càng cúng nhiều quần áo nó càng biến nhanh.
Huyền cuống lên lấy nắm tiền cuối cùng dúi cho cô Xu. Cô Xu thu lại bộ đồ nghề gồm một cái bát, con dao đen bóng và vài miếng trầu tươi. Huyền tiễn cô Xu ra tận cửa. Từ lúc chưa chuyển nhà đến đây Huyền đã biết cô Xu. Danh tiếng của cô lan truyền khắp xóm bãi. Bận trước nàng và các bạn cũng vài lần ghé nhà cô những lúc rỗi rãi để xem tiền duyên vận mệnh.
Là một đồng cậu khó tính, cô Xu chỉ tiếp những người nào kiên nhẫn xếp hàng chờ cô trước hai ngày. Sáng nay nàng may mắn mời được cô đến tận nhà. Có lẽ cô Xu động lòng trước bộ dạng thảm hại của nàng. Chuyên viên phòng X-quang có ánh mắt lạnh lùng ra lệnh cho nàng. Nàng đã làm việc này cả ngàn lần nhưng trước vẻ thản nhiên kỳ quặc của hắn nàng lúng túng. Hắn bực dọc quát lên:
- Cởi áo ra rồi treo ở cái móc kia không ai thèm nhìn.
Hắn không thèm nhìn hẳn nhiên rồi. Hắn cũng đã ra cái lệnh này đến ngàn lần. Vẻ mặt của hắn giống hệt những cỗ máy trong phòng, xám xịt trơ lì vô cảm, hằng ngày tiếp nhận hàng trăm kẻ ép mình vào máy với những khối u trong người. Nàng làm theo lời hắn rồi rúm ró đi lại chiếc máy.
- Buộc tóc lên.
Nàng ngần ngừ rồi tháo bộ tóc giả treo lên giá. Nàng len lén nhìn hắn. Nhưng khuôn mặt như có thể tháo ra lắp vào thành rô bốt không có vẻ gì để ý đến cái đầu trọc lóc của nàng. Nàng không có tóc xấu xí, mang dáng dấp của kẻ sắp được thần chết rước đi, hay có mái tóc bồng bềnh như thần vệ nữ cũng như nhau với hắn cả thôi. Nàng nhét vào túi áo trắng của hắn một tờ tiền. Nhưng tờ tiền cũng không làm hắn thay đổi sắc mặt. Sáng nay bạn nàng đã đưa nó cho nàng.
- Tao quyên góp cả đám mới được ngần này. Thôi mày ráng mà chịu đựng. Đối với lũ mình sống hay chết cũng như nhau cả thôi. Chỉ có điều đứa nào giỏi lừa thần chết thì đứa ấy may mắn.
- Thẳng người lên dang hai tay ra.
Gã quát to rồi vội vàng chạy ra ngoài đóng cửa lại. Chiếc máy bắt đầu hoạt động. Nó áp sát lên cơ thể nàng lạnh như băng. Nàng thấy nó cũng có cảm xúc, nhưng là cảm giác thích thú của một cỗ máy giết người khi tìm được khối u ác tính trên vật chủ. Bốn bức tường sơn màu xám trống trơn u ám. Nàng đưa mắt nhìn ra chiếc giá treo quần áo như mong tìm một vật quen thuộc. Bỗng nàng gào thét điên loạn. Cái bóng bất động trong ánh sáng nhợt nhạt của phòng X-quang hiện hình rõ một người đàn bà, hốc mắt sâu hoắm buồn thảm, da xanh tái và đầu cũng trọc lóc. Bà ta đang đứng cạnh giá để áo và vuốt ve mớ tóc giả của nàng. Gã kia chạy vội vào, cả những bệnh nhân khác đang chờ bên ngoài cũng vào theo. Nàng chỉ cái giá áo nói như mê sảng:
- Oan hồn, tôi sắp chết rồi tôi bị quỷ ám. Bà ta lúc nào cũng đeo đẳng tôi.
- Ra ngoài kia ra hết ngoài kia.
Kẻ canh giữ cỗ máy quát những bệnh nhân bâu nhâu ngoài cửa rồi đẩy nàng thô bạo.
- Cứ yên tâm rồi sẽ được chết. Ai đã phải vào đây thì chẳng thoát được đâu.
Gã nhếch mép cười nụ cười hiếm hoi với hai chiếc răng nanh nhọn và ánh mắt độc ác. Nàng ngồi chờ trên dãy ghế dành cho bệnh nhân tâm trí hoảng loạn. Hồn ma của người đàn bà đã có mặt ở bất kỳ nơi nào nàng đến. Bà ta muốn gì ở nàng? Nàng còn gì để lấy đi nữa ngoài một linh hồn lay lắt đang chống chọi hằng ngày với thần chết. Người ta đọc đến tên nàng. Nàng bước vào phòng rồi rũ mình trên ghế. Ông bác sĩ giơ tấm phim lên ngang mặt không nói gì, nhưng nhìn nàng mỉm cười.
- Một sự thần kỳ cô gái ạ. Chưa có khối u nào như trường hợp của cô lại có thể tan hoàn toàn bằng những phương pháp y học hiện có.
Tai nàng ù đi. Giọng ông bác sĩ vẫn đều đều:
- Bây giờ cô chỉ cần phục hồi thôi, phục hồi rồi tóc của cô sẽ mọc trở lại.
Nàng về nhà vào lúc chiều muộn. Những cơn gió bấc cuối cùng của mùa đông tranh thủ tạt nốt những gì còn sót lại từ phía bên kia sông. Nàng co ro đi trên mặt cát. Túp nhà tiều tụy của nàng đã thấp thoáng, sẫm lại dưới ngọn tre. Dưới đám mây vần vũ đang sà thấp xuống, mái nhà như kẻ tội đồ chờ sự phán quyết. Nàng dừng lại ngắm nhìn nó, cho đến tận lúc nó lẫn vào bóng tối nàng mới vào nhà. Tim nàng thắt lại. Cửa nhà nàng không khóa. Nàng đứng tựa vào cây cột trước hàng hiên nghẹt thở. Cánh cửa hút gió vẫn mở ra đập vào chan chát lên mép tường. Nàng nhìn vào trong nhà. Có ai đó đang ngồi trên giường của nàng. Nàng bước như thôi miên qua bậc cửa. Người đàn bà thở dài nhìn nàng buồn thảm. Cái bóng trắng bệch của bà ta hiển hiện trước mặt nàng.
- Cho tôi xin lại tóc.. tôi cần tóc..tôi lang thang cô độc..lạnh lắm. Hãy trả lại tóc cho tôi..
Nàng chạy như điên như dại ra khỏi ngôi nhà. Mây đen vẫn vần vũ như sắp đổ ụp xuống đầu nàng. Gió từ trên ngọn tre thổi theo tà áo phần phật của nàng những tiếng rít ai oán:
- Tóc của tôi.. tóc của tôi. Trả lại tóc cho tôi..
Nàng đã đảo đi đảo lại khúc phố này tới mươi lần, mà không thể tìm thấy cửa hàng tóc với người bán hàng kỳ dị. Lần trước nàng đã tìm thấy nó ngay góc phố dưới chân cột điện, vì thế nàng không thể lầm. Những người bán hàng trong các shop thời trang đông đúc ở khu phố tỏ ra cắm cảu khi nàng hỏi thăm.
- Thời buổi này muốn mua tóc thì ra siêu thị. Mười năm nay không ai dại gì thuê nhà ở đây để mà bán tóc.
Nàng thất vọng mua một chiếc vé lên xe buýt. Nàng chưa biết đi đâu. Nàng không thể trở về căn nhà hãi hùng đó. Bộ tóc giả và chiếc lược sừng đã được cho vào một chiếc túi gọn ghẽ. Nàng tiến lên đầu xe để quan sát xem chiếc xe đã đi tới phố nào. Bỗng nhiên một cái gì đó chạm vào cổ tay nàng nó rất ấm. Lâu lắm rồi nàng không cảm nhận được cái gì đó ấm và sự ấm áp khiến nàng rùng mình. Nàng quay lại. Một người đàn ông đang nhìn nàng:
- Tôi nhường chỗ.
Hẳn là anh ta nghĩ nàng đang đi tìm chỗ.
- À không tôi cũng có chỗ.
Nàng trở về ghế của mình, nơi nàng đã đặt cái túi để giữ chỗ lúc đứng lên. Nhưng toàn bộ ghế trên xe đã kín người ngồi và nàng không thể nhớ ghế nào là ghế của mình. Còn chiếc túi nó đã biến mất. Người ngỏ ý muốn nhường chỗ cho nàng tỏ vẻ lo lắng:
- Cô bị mất cái gì à?
- Một chiếc túi.
- Có gì trong đó.
- Một bộ tóc giả.
- Không sao mình sẽ cùng tìm.
Nàng thở hắt ra:
- Thôi tôi không cần đến nó nữa.
Chiếc xe phanh khựng lại. Những người trên xe bị dúi ra đằng sau và trong khoảnh khắc xô đẩy láo nháo, nàng thoáng thấy một người phụ nữ có mái tóc giống hệt mớ tóc giả của nàng, đi lướt bên ngoài cửa xe. Chỉ là một khoảnh khắc. Khi nàng nhoài ra sát cửa kính chiếc xe đã quanh sang một con phố khác, bên ngoài bóng người đi bộ trên vỉa hè đã thưa thớt. Họ vội vã trở về nhà để trốn cơn lốc hiếm hoi đang ập đến cuối mùa đông.
Di Li
#77
Gửi vào 18/06/2011 - 06:19
BẢN THẢO TÌM THẤY TRONG CHAI
Khi cuộc sống chỉ còn trong khoảnh khắc. Nào có ai muốn giấu giếm điều chi. Về quê hương và gia đình tôi chẳng có gì nhiều để nói. Sự bạc đãi đã khiến tôi phải rời bỏ quê hương, và rồi sau những năm tháng quá dài tôi trở thành xa lạ với cả gia đình mình. Sự giàu có của dòng họ đã giúp tôi có được một số vốn học vấn hơn người. Tôi đã suy nghĩ và sắp xếp một cách có phương pháp những gì gặt hái được trong việc học chăm chỉ trước đây. Trên tất cả những tác phẩm của các triết gia Đức mang lại cho tôi nhiều thích thú, tất nhiên không phải do sự thán phục mù quáng, mà nhờ có thì giờ nhàn rỗi cộng với thói quen suy nghĩ một cách nghiêm nhặt, tôi đã khám phá ra những sai lầm của họ.
Tôi thường bị chê trách bởi tài năng vô vị ấy. Mọi người trút vào tôi cái tội thiếu óc tưởng tượng. Còn việc tôi luôn luôn có thái độ của một người theo chủ nghĩa hoài nghi trong mọi vấn đề là điều ai cũng biết rõ. Mà thật vậy tôi e rằng bởi quá say mê triết học vật lý nên tôi đã phạm vào điều lầm lỗi phổ thông nhất của thời đại này. Đó là thói quen luôn luôn liên hệ mọi sự việc, ngay cả khi ít có khả năng nhất, với những nguyên lý của triết học ấy.
Tóm lại chính tôi là kẻ đáng phải chịu trách nhiệm nặng hơn ai hết nếu tôi tự để cho mình bị mê hoặc bởi những “ánh lửa chập chờn” của óc mê tín dị đoan vượt ra ngoài ranh giới khắc nghiệt của chân lý. Tôi quyết định viết những lời nhập đề dài dòng này vì e rằng câu chuyện khó tin tôi sắp kể ra đây sẽ bị xem là điều điên rồ của một trí tưởng tượng lỗ mãng chứ không phải là một kinh nghiệm tích cực của một trí tuệ vốn vẫn xem những điều mơ mộng viển vông chỉ là một bức thư không có người nhận và hoàn toàn vô giá trị.
Đã nhiều năm lang bạt ở nước ngoài, lần này tôi đáp tàu từ cảng Batavia nằm trên đảo Java sầm uất và giàu có để đến Archipelago thuộc quần đảo Sunda. Tôi cứ đi mãi như vậy không có mục đích gì mà chỉ bởi cái tâm trí vốn bất định của tôi cứ luôn dày vò dằn vặt như một kẻ bị ma ám. Chiếc tàu tôi đi rất đẹp, trọng tải khoảng bốn trăm tấn, vỏ bọc đồng, đóng tại Bombay bằng gỗ tếch vùng Malabar. Nó chở đầy bông vải và dầu ăn từ quần đảo Lachadi. Trên tàu còn có cả sợi dừa, đường thốt nốt, bơ, hạt cacao và một vài thùng thuốc phiện. Hàng hóa chất lên tàu rất cẩu thả nên tàu dễ bị chòng chành.
Chúng tôi lên đường khi có gió nhẹ, suốt nhiều ngày liền tàu vẫn còn đi gần bờ biển phía đông Java. Chẳng có chuyện gì lạ để chúng tôi có thể giải khuây sự buồn tẻ đơn điệu của cuộc hành trình ngoài những chiếc thuyền nhỏ hai cột buồm với những cánh buồm hình tam giác của dân bản xứ thuộc đảo Archipelago mà chúng tôi vẫn còn ở trong hải phận của nó. Một buổi chiều đứng tựa lan can phía đuôi tàu, tôi nhìn thấy một đám mây lẻ loi rất kỳ lạ ở hướng tây bắc. Lạ không những vì màu sắc của nó mà còn vì đó là đám mây đầu tiên xuất hiện kể từ khi chúng tôi rời bến Batavia.
Tôi chăm chú quan sát đám mây cho tới lúc mặt trời sắp lặn. Lúc ấy thình lình nó trải dài từ đông sang tây, che kín đường chân trời bằng một dải hơi nước hẹp, từ xa trông giống một bờ cát dài. Tôi chuyển sự chú ý vào mặt trăng màu đỏ bầm đang từ từ xuất hiện và cái vẻ lạ lẫm của biển. Biển thay đổi thật nhanh, làn nước trở nên trong suốt một cách bất thường. Mặc dù tôi có thể nhìn rõ mồn một đáy biển, nhưng khi tôi thả dây buộc chì xuống đo mới rõ độ sâu lên đến ba mươi mét.
Không khí lúc này trở nên oi bức không chịu nổi, hơi nóng bốc lên cuồn cuộn hệt như ta thường thấy ở một cái bàn là nóng. Khi đêm xuống trời không một chút gió, sự yên tĩnh khó có thể tưởng tượng nổi. Ngọn lửa cây nến cuối đuôi tàu hầu như không lay động. Một ngọn tóc cầm trên đầu ngón tay cũng không thể nào nhận ra nó có đung đưa hay không. Tuy nhiên con tàu cứ bị giạt dần vào bờ. Viên thuyền trưởng thấy không có triệu chứng nào nguy hiểm, ra lệnh cho thủy thủ cuốn buồm thả neo. Không cắt người canh, cả đám thủy thủ chủ yếu người Malaysia nằm nghỉ la liệt trên sàn tàu.
Tôi bước xuống hầm tàu lòng linh cảm điều không may. Thật vậy những triệu chứng ấy khiến tôi lo sắp có bão. Tôi thổ lộ với viên thuyền trưởng nhưng ông ta chẳng để ý gì đến lời tôi, quay lưng đi không một tiếng trả lời. Tuy thế lòng tôi vẫn cứ bất an không thể ngủ được. Khoảng nửa đêm tôi lại trèo lên boong. Khi bước lên tới bậc thang trên cùng, tôi giật mình bởi tiếng rì rầm rất lớn nghe như tiếng cối xay, và trước khi tôi kịp hiểu xuất xứ, toàn thân con tàu rùng lên. Ngay liền đó, một đợt sóng dữ dội hất tôi ngã xuống. Sóng rùng rùng tràn qua mọi người, quét sạch sàn tàu từ mũi đến tận lái.
Sự hung hãn đến cực điểm của cơn gió hầu như lại giúp cho con tàu sống sót. Mặc dù đã ngập hẳn trong nước và các cột buồm gãy phăng, một phút sau con tàu từ từ trồi lên, lắc lư một lúc bởi sức ép quá lớn của cơn bão rồi đứng thẳng. Nhờ điều kỳ diệu nào mà tôi thoát chết là việc không thể cắt nghĩa nổi. Tỉnh lại sau cơn choáng váng vì bị sóng đập, tôi thấy mình kẹt cứng giữa càng và bánh lái. Khó khăn lắm tôi mới đứng dậy được. Lảo đảo nhìn quanh, đầu tiên tôi nhận ra mình đang đứng giữa một cảnh đổ nát. Cho dù có một trí tưởng tượng man rợ nhất cũng phải vô cùng kinh sợ bởi tôi nhận ra con tàu đang ở giữa vùng biển sôi sục những cột nước cao như núi.
Lát sau tôi nghe tiếng của ông già người Thụy Điển, hành khách cuối cùng lên tàu vừa kịp lúc nhổ neo. Tôi lấy hết sức để gọi. Ông già nghe được liền bước về phía lái. Chúng tôi nhận ra chỉ còn hai chúng tôi sống sót sau tai nạn vừa qua. Mọi thứ trên boong tàu đều bị quét sạch xuống biển. Viên thuyền trưởng và các sĩ quan đều chết ngạt trong cabin vì nước biển tràn vào quá nhanh. Không còn ai phụ giúp, chúng tôi khó hy vọng làm được gì nhiều cho sự an toàn của con tàu.
Và thoạt tiên cái hy vọng nhỏ nhoi ấy cũng bị dập tắt vì hình như con tàu sắp chìm đến nơi rồi. Dĩ nhiên sợi dây neo đã đứt phăng như một sợi dây cột đồ ngay từ khi đợt gió đầu tiên thổi tới, chứ nếu không chúng tôi đã chìm lỉm rồi. Con tàu bị gió cuốn phăng trên mặt biển. Những đợt sóng trắng xóa tung lên trên đầu chúng tôi. Bánh lái gãy hoàn toàn. Khắp con tàu hầu như bộ phận nào cũng bị hư hại đáng kể. Nhưng chúng tôi đã quá đỗi mừng khi thấy những cái bơm nước không bị nghẹt và những vật nặng dùng để dằn thuyền được thăng bằng không bị dời chỗ.
Chúng tôi cảm thấy mối nguy hiểm vì gió đã giảm nhiều, nhưng khi nghĩ đến việc gió sẽ hoàn toàn ngưng thổi chúng tôi lại vô cùng kinh hãi, vì tin chắc rằng trong tình trạng hư hỏng thế này con tàu sẽ bị hủy diệt dưới những con sóng ghê gớm. Nhưng cái điều dự đoán chính xác này dường như không trở thành sự thực ngay. Suốt năm ngày đêm, trong thời gian này chúng tôi sống bằng vài viên đường thốt nốt khó khăn lắm mới moi được ở đầu mũi tàu, con tàu trôi nhanh vùn vụt.
Những cơn gió cứ tiếp tục nổi lên, không dữ dội như lúc cơn bão bắt đầu nhưng vẫn kinh khiếp hơn tất thảy những gì tôi đã từng trông thấy trước đây. Suốt bốn ngày đầu con tàu lao theo hướng nam, đông nam, thỉnh thoảng có thay đổi một chút, và như thế chúng tôi sẽ đâm thẳng vào bờ biển Tân Hà Lan. Ngày thứ năm trời lạnh ghê gớm, mặc dù gió đổi chiều chếch về hướng bắc. Mặt trời nhô lên với những tia sáng vàng vọt bệnh hoạn. Nó chỉ lê lên được chừng vài độ trên đường chân trời, không tỏa ra mấy chút ánh sáng. Không một đám mây nào xuất hiện, gió cứ tăng lên mãi với sự cuồng nộ bất thường.
Vào buổi trưa chúng tôi đoán như vậy, sắc thái của mặt trời lại khiến chúng tôi chú ý. Nó không tỏa ra ánh sáng có thể nói như vậy, mà phát ra một thứ lửa u ám buồn bã như thể tất cả những tia sáng đều đã bị chiết tán. Ngay trước khi chiếu vào lòng biển trương phình, những ngọn lửa trung tâm mặt trời đột ngột tắt ngấm như thể có một sức mạnh huyền bí nào đó đang vội vàng dập tắt chúng đi. Mặt trời như một cái bánh xe màu trắng bạc nhợt nhạt cô đơn khi bắt đầu phóng vào lòng đại dương thăm thẳm.
Chúng tôi đợi cái ngày thứ sáu đến trong nỗi tuyệt vọng. Cái ngày ấy đối với tôi chưa đến, còn với ông cụ người Thụy Điển thì mãi mãi không bao giờ đến. Từ đấy chúng tôi chìm trong bóng đêm đen như mực, tối đến nỗi chúng tôi không thể nhìn thấy xa quá hai mươi bước. Bóng đêm vĩnh cửu tiếp tục bao trùm chúng tôi, không hề giảm bớt chút nào bởi mặt nước biển lấp lánh ánh lân tinh như chúng ta thường thấy ở miền nhiệt đới. Chúng tôi cũng nhận thấy, mặc dù gió vẫn tiếp tục thổi và không hề giảm cơn thịnh nộ, nhưng những bọt sóng trắng đã tận tình giúp đỡ chúng tôi nay không còn nữa.
Chung quanh chúng tôi chỉ là sự hãi hùng, bóng tối dày đặc như một sa mạc nồng nực đen tối màu gỗ mun. Một nỗi kinh khiếp mê tín trườn dần vào trí não ông cụ người Thụy Điển. Còn tâm hồn tôi thì chìm vào một nỗi ngờ vực câm lặng. Chúng tôi không thiết săn sóc con tàu nữa. Việc đó đã trở nên vô ích. Dán người sát vào chân cột buồm thấp nhất, chúng tôi cay đắng đưa mắt nhìn vào đại dương thăm thẳm. Chúng tôi không còn phương tiện nào để đoán biết thời gian và cũng không cách nào đoán biết được chúng tôi đang ở vào hoàn cảnh như thế nào.
Tuy nhiên chúng tôi vẫn biết chắc rằng con tàu đã đi rất xa về phương nam hơn bất cứ nhà hàng hải nào và rất ngạc nhiên là tại sao vẫn chưa gặp những chướng ngại thường thấy là những tảng băng trôi. Dù vậy mỗi phút vẫn đe dọa là phút cuối cùng trong đời. Từng con sóng khổng lồ lao tới như muốn nuốt chửng chúng tôi. Sóng là cái gì vượt quá sức tưởng tượng của tôi. Mỗi lần sóng đi qua mà con tàu chưa bị chôn vùi là cả một điều kỳ diệu. Ông già đồng hành của tôi nói rằng hàng hóa trên tàu chưa đủ nặng và nhắc tôi nhớ đến phẩm chất tuyệt hảo của con tàu.
Nhưng tôi hoàn toàn không hy vọng mình có thể thoát nạn. Lòng buồn rầu tôi chuẩn bị cho cái chết mà tôi nghĩ sẽ đến trong vòng không quá một tiếng đồng hồ nữa. Vượt qua mỗi hải lý sóng biển đen đủi khổng lồ càng âm u khủng khiếp hơn. Nhiều lần chúng tôi nín thở khi con tàu leo lên đến độ cao của chim hải âu, rồi lại xây xẩm choáng váng khi nó lao xuống cái địa ngục bằng nước với một tốc độ kinh hoàng. Ở đó không khí như ứ đọng lại, tuyệt đối không có một âm thanh nào khuấy động đến giấc ngủ loài thủy quái. Chúng tôi đang ở dưới đáy của một trong những vực thẳm như thế, thì bỗng tiếng la thất thanh của ông bạn đồng hành vỡ ra trong bóng tối:
- Kìa.. kìa.. Ông cụ hét lớn vào tai tôi. Lạy chúa quyền năng! Hãy nhìn kìa!
Tôi nhìn thấy một vầng sáng màu đỏ lù mù, ảm đạm đang lao xuống theo triền vực bao la, nơi chúng tôi đang ở tận đáy, hắt sang sàn tàu chúng tôi những tia sáng lay lắt. Ngước mắt nhìn lên tôi bắt gặp một cảnh tượng khiến cho máu trong người như đông lại. Ở một độ cao kinh khủng, ngay trên đầu chúng tôi, sát bên mép bờ vực, lượn lờ một con tàu khổng lồ ước phải đến bốn ngàn tấn. Mặc dù con tàu đang đứng trên đầu một ngọn sóng cao gấp trăm lần chiều cao của chính nó, nhưng trông nó vẫn lớn hơn bất kỳ con tàu nào của Công ty Đông Ấn.
Cái vỏ khổng lồ của nó sơn một màu đen kịt, không chạm trổ hình vẽ như vẫn thường thấy. Chỉ có một dãy đại bác bằng đồng chĩa mũi ra từ các ô cửa sổ để mở, bề mặt bóng láng của nòng súng phản chiếu lấp lánh ánh sáng từ những ngọn đèn tín hiệu, treo đung đưa lắc lư giữa các cột buồm. Nhưng điều làm chúng tôi kinh ngạc nhất là con tàu ấy giương hết buồm lên, mà chạy giữa những chiếc răng nanh khổng lồ của biển siêu nhiên, đang lên cơn giông tố cuồng dại này. Đầu tiên chúng tôi chỉ nhìn thấy phần mũi của con tàu lạ vì nó đang chậm chạp ngoi lên đỉnh vực. Trong một thoáng con tàu bỗng ngưng lại, ngay trên cái đỉnh cao tít ấy, như thể để trầm tư về sự siêu việt của mình. Rồi rùng mình một cái nó bắt đầu chúi mũi lao xuống.
Ngay lúc ấy không hiểu sao sự bình tĩnh chợt trở lại với tôi. Cố lao người về phía lái tôi chờ đợi không một chút sợ hãi giây phút hủy diệt. Cuối cùng con tàu chúng tôi chấm dứt cuộc chiến đấu. Nó cắm mũi vào lòng biển. Cái khối khổng lồ đang lao xuống kia cuối cùng đã xô vào chúng tôi ở phía lườn tàu vốn đã mấp mé nước. Việc đó dẫn đến một kết quả phi thường. Sức chấn động hất tung tôi lên không và sau đó tôi rơi ngay xuống lòng con tàu lạ. Khi tôi rơi xuống con tàu lạ khựng lại một giây rồi chợt đổi hướng. Nhờ sự nhộn nhạo ấy mà tôi đã thoát khỏi sự chú ý của các thủy thủ.
Không khó khăn gì lắm và cũng chẳng bị ai nhìn thấy, tôi tìm ra lối đi chính xuống hầm tàu. Lúc ấy cửa đang khép hờ, tôi dễ dàng chọn được một chỗ trốn. Thật khó mà nói tại sao tôi lại làm thế. Một cảm giác sợ hãi mơ hồ khi nhìn thấy dáng vẻ của những người trên tàu có lẽ là nguyên nhân chính của hành động này. Tôi không dám tin tưởng vào loại người mà ngay từ cái nhìn đầu tiên đã cảm thấy có quá nhiều điểm xa lạ mù mờ, ngờ vực và đầy sợ hãi. Vì thế tôi nghĩ tốt hơn nên tìm một chỗ ẩn náu trong hầm tàu. Dỡ một mảnh ván cạp vách, tôi dễ dàng tạo được chỗ ẩn giữa những cột kèo đồ sộ của con tàu.
Có tiếng bước chân trong hầm tàu ngay khi tôi vừa làm xong công việc. Tôi liền chui vào hốc trốn. Một người đàn ông bước ngang qua chỗ tôi ẩn nấp, dáng đi chậm chạp không vững. Tôi không thấy rõ khuôn mặt nhưng lại có dịp quan sát hình tướng chung của gã. Có những nét cho thấy hẳn gã rất lớn tuổi và yếu ớt. Đầu gối của gã như muốn khuỵu xuống dưới sức nặng của năm tháng toàn thân run rẩy.
Gã lầm bầm với bản thân bằng một thứ tiếng trầm trầm xa lạ tôi không hiểu được. Gã lục soạn trong góc hầm tàu chất đầy dụng cụ kỳ quái và những bản đồ hàng hải đã rách nát. Bộ tịch của gã là một sự trộn lẫn man rợ giữa sự cáu kỉnh của một ông già đang hồi trở lại thời trẻ thơ và sự oai vệ của một vị thần. Cuối cùng gã quay lên boong và tôi không còn nhìn thấy gã nữa. Một cảm giác không tên tuổi vây kín tâm hồn tôi, một cảm giác không mong được phân tích. Với nó không có sách vở nào thích hợp cả. Và tôi e rằng cả trong tương lai cũng không thể tìm được lời giải đáp.
Đối với tôi đây đúng là một điều khủng khiếp. Tôi sẽ không bao giờ tôi biết chắc sẽ không bao giờ, nhìn nhận bản chất của những ý niệm này. Dù sao cũng không lấy gì làm lạ về những cảm giác này bởi chính nó đã bắt nguồn từ một câu chuyện hoang đường. Một cảm giác mới lạ một thực thể hoàn toàn mới đã ghi vào tâm hồn tôi. Đã qua một thời gian khá lâu kể từ khi tôi lọt vào con tàu khủng khiếp này. Tôi nghĩ rằng giờ đây mọi nẻo lối của số phận tôi đang quy về một điểm. Chìm trong cơn mặc tưởng nào đó mà tôi không thể nào hiểu nổi, những thủy thủ hờ hững đi ngang qua trước mặt tôi mà không buồn chú ý.
Phần tôi quả thật là thừa khi vội tìm chỗ trốn. Bởi chính họ có muốn trông thấy gì đâu. Mới lúc nãy đây tôi đi ngang trước mặt viên thuyền phó. Và cũng chẳng lâu gì tôi đã mạo hiểm vào tận phòng viên thuyền trưởng. Tôi lấy ở đấy được một ít giấy và đang dùng để viết. Thỉnh thoảng tôi lại viết tiếp những trang bản thảo này. Thực ra tôi không có cách nào truyền lại cho thế giới bên ngoài. Nhưng tôi sẽ cố thử xem. Vào phút cuối tôi sẽ bỏ những trang bản thảo này vào một cái chai đóng kín và thả xuống biển.
Một vài biến cố vừa xảy ra khiến tôi phải suy nghĩ. Có phải tất cả những điều này là một cuộc run rủi rủi may hay không? Tôi đã mạo hiểm bước lên boong, nằm dài xuống giữa những đống dây thừng và buồm cũ hoặc trong chiếc xuồng nhỏ mà chẳng ai chú ý cả. Trong khi suy nghĩ miên man về số phận kỳ quặc của mình, tôi lơ đễnh cầm chiếc bàn chà chải hắc ín bôi lên một tấm buồm phụ được xếp cẩn thận đặt trên một cái thùng tròn. Cánh buồm phụ bây giờ đang được căng lên, chiếc bàn chải vô tình lúc nãy đã viết thành hai chữ: khám phá.
Ở trên tôi có tả sơ qua kiến trúc của con tàu. Mặc dù được trang bị đại bác nhưng theo tôi, nó không phải là một chiếc tàu chiến. Cấu trúc và trang thiết bị đều không phải của tàu chiến. Nhưng nó thực sự là loại tàu gì thì tôi e rằng khó xác định. Tôi không biết tại sao như thế. Nhìn vóc dáng lạ lẫm kỳ quặc của các cột buồm, những bộ buồm khổng lồ cao vòi vọi, cái mũi tàu quá đơn giản, phần đuôi cổ lỗ, trong tôi chợt lóe lên một tia sáng từ ký ức mơ hồ hỗn độn. Đó là những hình ảnh gợi nhớ về một triều đại cổ xưa ở một vương quốc nào đó.
Tôi nhìn kỹ loại gỗ làm sườn tàu. Đó là thứ vật liệu hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Tính chất đặc biệt của gỗ khiến tôi phải nghĩ rằng nó không thích hợp với mục đích sử dụng. Tôi muốn nói rằng nó hoàn toàn xốp, không phải do bị mối ăn mà bởi đã đi lại quá nhiều trên biển cũ đến mục ruỗng. Tôi quan sát thấy một điều rất đỗi kỳ lạ, loại gỗ này có đủ mọi đặc tính của loại sến Tây Ban Nha, nếu như gỗ sến Tây Ban Nha có thể xẻ ra được bằng những dụng cụ nhân tạo. Đọc lại đoạn vừa viết, tôi chợt nhớ đến câu nói kỳ quặc của một con sói biển già người Hà Lan:
“Cái điều ấy e cũng chắc chắn”. Ông thường nói vậy khi tấm lòng trung thực của ông bị một nỗi nghi ngờ xâm chiếm. “Như trên đời này có một vùng biển mà ở đó những con tàu lại có thể phình lớn như thân thể của một thủy thủ”.
Tôi chen vào đám thủy thủ được hơn một giờ. Mặc dù tôi đứng ngay giữa bọn họ nhưng dường như sự có mặt của tôi hoàn toàn nằm ngoài nhận thức của họ. Giống như người đầu tiên tôi nhìn thấy dưới hầm tàu, tất cả những thủy thủ đều râu tóc bạc phơ. Đầu gối không còn giữ vững, lưng còng xuống với tuổi tác, làn da run run trước gió rét, giọng nói trầm trầm rè rè, đôi mắt suy yếu kèm nhèm nước mắt, mái tóc bạc phất phơ trong gió một cách kỳ dị. Chung quanh họ khắp cả sàn tàu, rải rác những dụng cụ toán học kiểu rất cổ không còn thích hợp.
Ở trên tôi có nói chuyện những cánh buồm phụ được căng lên. Kể từ lúc ấy con tàu lộng gió phóng thẳng về hướng nam, tiếp tục cuộc hành trình khủng khiếp. Mọi cánh buồm đều căng phồng, từ buồm chính trên đỉnh đến những cánh buồm phụ bên dưới. Những đòn tay buồm chòng chành nghiêng ngả như muốn thọc vào cái địa ngục bằng chất lỏng khủng khiếp, mà óc tưởng tượng của con người có thể nặn ra được. Tôi vừa mới rời boong tàu vì ở đó khó mà đứng vững trên hai chân mặc dù các thủy thủ vẫn bình thản đi lại. Tôi cảm thấy quá đỗi kỳ diệu khi cái khối khổng lồ này vẫn chưa chịu chìm đắm vĩnh viễn. Chúng tôi hẳn đã bị trời đày phải mãi mãi đi vòng quanh cái mép rìa của sự vĩnh cửu, mà chẳng bao giờ được phép thực hiện cú nhảy cuối cùng để lao vào vực thẳm.
Trên những con sóng to lớn kinh dị gấp ngàn lần trước đây chúng tôi lướt đi nhanh như loài én biển. Những đợt sóng khổng lồ ngóc đầu chồm lên chúng tôi như những con thủy quái. Nhưng chúng chỉ doạ nạt chứ không được phép tàn phá. Tôi cho rằng sở dĩ con tàu thoát nạn mãi như thế chỉ là nhờ vào nguyên nhân tự nhiên. Và chỉ như vậy mới có thể cắt nghĩa nổi những kết quả thế này. Tôi cho rằng có lẽ con tàu đang nằm trong ảnh hưởng của dòng hải lưu cuồn cuộn nào đó, hoặc giả có dòng nước ngầm rất mạnh ngay bên dưới con tàu. Tôi đã nhìn tận mặt viên thuyền trưởng ngay trong cabin của ông ta, nhưng như tôi đã đoán trước ông ta hoàn toàn không chú ý gì đến tôi. Mặc dù vẻ bề ngoài của ông ta chẳng có gì khác hơn một người đàn ông bình thường, nhưng một cảm giác kính trọng và sợ hãi trộn lẫn niềm kinh ngạc nào đó vẫn khiến tôi ngưỡng mộ ông ta.
Về hình dạng ông ta cao ngang bằng tôi, khoảng một mét sáu lăm. Dáng vóc ông chắc gọn nhưng không có vẻ mạnh mẽ hay đáng chú ý. Có lẽ do cái vẻ đặc biệt biểu lộ trên khuôn mặt ông ta, một bằng chứng khốc liệt và dữ dội của tuổi tác già nua quá độ già nua trọn vẹn, gợi trong tôi một ý tưởng một cảm giác khó tả. Vầng trán của ông dù ít nếp nhăn nhưng vẫn hằn rõ dấu ấn năm tháng chồng chất. Mái tóc xám như một bản ghi chép của quá khứ. Và đôi mắt xám hơn cả mái tóc lại như một bầy phù thủy của tương lai. Trên sàn phòng bày la liệt những xấp giấy tờ có nẹp sắt, những dụng cụ khoa học méo mó cũ kỹ, những tấm bản đồ đã lâu không dùng đến.
Hai tay ông ta bưng đầu, đôi mắt sáng quắc và lo âu chú mục vào một tờ giấy mà tôi cho là tờ chiếu chỉ bởi trên mặt giấy có đóng dấu triện của nhà vua. Ông ta cũng nói lầm bầm, như người thủy thủ đầu tiên tôi nhìn thấy trong hầm tàu, giọng trầm trầm càu nhàu của một thứ tiếng nào đó lạ hoắc. Và mặc dù ông ta ở sát ngay bên cạnh mà tôi nghe như ở tận dặm xa nào vọng lại. Con tàu và những thứ nó mang theo đều nhuốm màu một thời đại xa xưa nào. Các thủy thủ thì đi lại như bóng ma của những thế kỷ đã bị chôn vùi, đôi mắt toát ra một sự hăm hở và lo âu.
Nhìn những bàn tay của họ rọi bóng nghiêng nghiêng dưới ánh sáng những ngọn đèn tín hiệu, trong tôi dấy lên một cảm giác chưa từng có, mặc dù suốt đời tôi là một kẻ say mê đồ cổ, đã nhập nhiễm trong bóng mát các cột trụ đền đài đổ nát ở Balbec, Tadomor, Persepolis cho đến nỗi chính bản thân tôi cũng trở thành một thứ đồ cổ. Nhìn lại chung quanh, tôi cảm thấy xấu hổ về những mối lo sợ ban đầu của mình. Nếu tôi đã khiếp hãi trước cơn bão vẫn đang theo đuổi chúng tôi cho đến tận bây giờ, thì lúc này tôi sẽ khiếp hãi đến nhường nào trước sự đụng độ giữa gió và biển, mà để diễn đạt điều này, những từ như lốc xoáy, bão tố thật là tầm thường và thiếu sót: vây quanh con tàu là bóng tối của đêm đen vĩnh cửu và một khối nước khổng lồ đang đảo lộn nhưng không sủi lên một chút bọt nào.
Từ phía xa cách chúng tôi khoảng một dặm, có thể nhìn thấy lờ mờ những bức tường thành khổng lồ và vĩnh cửu của băng giá đứng chọc thẳng vào bầu trời ảm đạm, trông giống những bức tường của ngôi nhà vũ trụ. Như tôi đã nghĩ đến lúc nãy, con tàu có vẻ đang bị cuốn đi bởi một dòng hải lưu, nếu tôi có thể dùng từ này để gọi con thủy triều đang gầm rú chảy ào qua vùng băng giá trắng xóa. Dòng hải lưu ấy vừa rền lên như sấm vừa lao băng băng về phương nam với tốc độ một con thác đang chúi đầu đổ xuống.
Tôi cho rằng khó ai hiểu được cảm giác kinh hoàng của tôi. Tuy vậy sự tò mò muốn lý giải những bí mật của vùng biển kỳ dị này đã thắng được cơn sợ hãi trong tôi. Nó giúp tôi cảm thấy dễ chịu trước khuôn mặt xấu xí của thần chết. Rõ ràng là chúng tôi đang vội vã lao vào một sự hiểu biết kỳ thú nào đó, một thứ bí mật không bao giờ có thể chia sẻ cùng ai và kẻ nào biết được phải trả giá bằng cái chết. Có lẽ dòng nước này sẽ dẫn chúng tôi đến tận Bắc Cực. Phải thấy rằng giả thiết này cũng có nhiều cơ sở để trở thành sự thật.
Những thủy thủ đi lại trên boong với bước chân bồn chồn run rẩy. Nhưng vẻ mặt của họ vẫn phẳng phất một niềm hưng phấn đầy hy vọng hơn là nỗi thờ ơ của sự tuyệt vọng. Lúc này gió vẫn thúc vào lưng chúng tôi. Khi giương hết buồm lên con tàu như muốn bay bổng lên khỏi mặt biển. Ồ thật là khủng khiếp! Băng giá chợt rẽ ra bên phải rồi bên trái và chúng tôi bắt đầu quay tít theo những vòng tròn đồng tâm rộng lớn. Quay và quay theo những đường xoáy của một hý trường vĩ đại. Bên trên con vực là bóng đen mịt mùng thăm thẳm. Tôi chẳng còn bao nhiêu thời gian để suy ngẫm về số phận mình nữa. Những vòng tròn đang nhanh chóng thu hẹp lại. Chúng tôi đang phóng như điên cuồng vào giữa vòng ôm của vực xoáy giữa tiếng gầm gừ, rú rít rền rĩ của đại dương bão tố. Con tàu bỗng rùng mình, ôi Thượng đế! và chìm xuống.
Edgar Allan Poe
Khi cuộc sống chỉ còn trong khoảnh khắc. Nào có ai muốn giấu giếm điều chi. Về quê hương và gia đình tôi chẳng có gì nhiều để nói. Sự bạc đãi đã khiến tôi phải rời bỏ quê hương, và rồi sau những năm tháng quá dài tôi trở thành xa lạ với cả gia đình mình. Sự giàu có của dòng họ đã giúp tôi có được một số vốn học vấn hơn người. Tôi đã suy nghĩ và sắp xếp một cách có phương pháp những gì gặt hái được trong việc học chăm chỉ trước đây. Trên tất cả những tác phẩm của các triết gia Đức mang lại cho tôi nhiều thích thú, tất nhiên không phải do sự thán phục mù quáng, mà nhờ có thì giờ nhàn rỗi cộng với thói quen suy nghĩ một cách nghiêm nhặt, tôi đã khám phá ra những sai lầm của họ.
Tôi thường bị chê trách bởi tài năng vô vị ấy. Mọi người trút vào tôi cái tội thiếu óc tưởng tượng. Còn việc tôi luôn luôn có thái độ của một người theo chủ nghĩa hoài nghi trong mọi vấn đề là điều ai cũng biết rõ. Mà thật vậy tôi e rằng bởi quá say mê triết học vật lý nên tôi đã phạm vào điều lầm lỗi phổ thông nhất của thời đại này. Đó là thói quen luôn luôn liên hệ mọi sự việc, ngay cả khi ít có khả năng nhất, với những nguyên lý của triết học ấy.
Tóm lại chính tôi là kẻ đáng phải chịu trách nhiệm nặng hơn ai hết nếu tôi tự để cho mình bị mê hoặc bởi những “ánh lửa chập chờn” của óc mê tín dị đoan vượt ra ngoài ranh giới khắc nghiệt của chân lý. Tôi quyết định viết những lời nhập đề dài dòng này vì e rằng câu chuyện khó tin tôi sắp kể ra đây sẽ bị xem là điều điên rồ của một trí tưởng tượng lỗ mãng chứ không phải là một kinh nghiệm tích cực của một trí tuệ vốn vẫn xem những điều mơ mộng viển vông chỉ là một bức thư không có người nhận và hoàn toàn vô giá trị.
Đã nhiều năm lang bạt ở nước ngoài, lần này tôi đáp tàu từ cảng Batavia nằm trên đảo Java sầm uất và giàu có để đến Archipelago thuộc quần đảo Sunda. Tôi cứ đi mãi như vậy không có mục đích gì mà chỉ bởi cái tâm trí vốn bất định của tôi cứ luôn dày vò dằn vặt như một kẻ bị ma ám. Chiếc tàu tôi đi rất đẹp, trọng tải khoảng bốn trăm tấn, vỏ bọc đồng, đóng tại Bombay bằng gỗ tếch vùng Malabar. Nó chở đầy bông vải và dầu ăn từ quần đảo Lachadi. Trên tàu còn có cả sợi dừa, đường thốt nốt, bơ, hạt cacao và một vài thùng thuốc phiện. Hàng hóa chất lên tàu rất cẩu thả nên tàu dễ bị chòng chành.
Chúng tôi lên đường khi có gió nhẹ, suốt nhiều ngày liền tàu vẫn còn đi gần bờ biển phía đông Java. Chẳng có chuyện gì lạ để chúng tôi có thể giải khuây sự buồn tẻ đơn điệu của cuộc hành trình ngoài những chiếc thuyền nhỏ hai cột buồm với những cánh buồm hình tam giác của dân bản xứ thuộc đảo Archipelago mà chúng tôi vẫn còn ở trong hải phận của nó. Một buổi chiều đứng tựa lan can phía đuôi tàu, tôi nhìn thấy một đám mây lẻ loi rất kỳ lạ ở hướng tây bắc. Lạ không những vì màu sắc của nó mà còn vì đó là đám mây đầu tiên xuất hiện kể từ khi chúng tôi rời bến Batavia.
Tôi chăm chú quan sát đám mây cho tới lúc mặt trời sắp lặn. Lúc ấy thình lình nó trải dài từ đông sang tây, che kín đường chân trời bằng một dải hơi nước hẹp, từ xa trông giống một bờ cát dài. Tôi chuyển sự chú ý vào mặt trăng màu đỏ bầm đang từ từ xuất hiện và cái vẻ lạ lẫm của biển. Biển thay đổi thật nhanh, làn nước trở nên trong suốt một cách bất thường. Mặc dù tôi có thể nhìn rõ mồn một đáy biển, nhưng khi tôi thả dây buộc chì xuống đo mới rõ độ sâu lên đến ba mươi mét.
Không khí lúc này trở nên oi bức không chịu nổi, hơi nóng bốc lên cuồn cuộn hệt như ta thường thấy ở một cái bàn là nóng. Khi đêm xuống trời không một chút gió, sự yên tĩnh khó có thể tưởng tượng nổi. Ngọn lửa cây nến cuối đuôi tàu hầu như không lay động. Một ngọn tóc cầm trên đầu ngón tay cũng không thể nào nhận ra nó có đung đưa hay không. Tuy nhiên con tàu cứ bị giạt dần vào bờ. Viên thuyền trưởng thấy không có triệu chứng nào nguy hiểm, ra lệnh cho thủy thủ cuốn buồm thả neo. Không cắt người canh, cả đám thủy thủ chủ yếu người Malaysia nằm nghỉ la liệt trên sàn tàu.
Tôi bước xuống hầm tàu lòng linh cảm điều không may. Thật vậy những triệu chứng ấy khiến tôi lo sắp có bão. Tôi thổ lộ với viên thuyền trưởng nhưng ông ta chẳng để ý gì đến lời tôi, quay lưng đi không một tiếng trả lời. Tuy thế lòng tôi vẫn cứ bất an không thể ngủ được. Khoảng nửa đêm tôi lại trèo lên boong. Khi bước lên tới bậc thang trên cùng, tôi giật mình bởi tiếng rì rầm rất lớn nghe như tiếng cối xay, và trước khi tôi kịp hiểu xuất xứ, toàn thân con tàu rùng lên. Ngay liền đó, một đợt sóng dữ dội hất tôi ngã xuống. Sóng rùng rùng tràn qua mọi người, quét sạch sàn tàu từ mũi đến tận lái.
Sự hung hãn đến cực điểm của cơn gió hầu như lại giúp cho con tàu sống sót. Mặc dù đã ngập hẳn trong nước và các cột buồm gãy phăng, một phút sau con tàu từ từ trồi lên, lắc lư một lúc bởi sức ép quá lớn của cơn bão rồi đứng thẳng. Nhờ điều kỳ diệu nào mà tôi thoát chết là việc không thể cắt nghĩa nổi. Tỉnh lại sau cơn choáng váng vì bị sóng đập, tôi thấy mình kẹt cứng giữa càng và bánh lái. Khó khăn lắm tôi mới đứng dậy được. Lảo đảo nhìn quanh, đầu tiên tôi nhận ra mình đang đứng giữa một cảnh đổ nát. Cho dù có một trí tưởng tượng man rợ nhất cũng phải vô cùng kinh sợ bởi tôi nhận ra con tàu đang ở giữa vùng biển sôi sục những cột nước cao như núi.
Lát sau tôi nghe tiếng của ông già người Thụy Điển, hành khách cuối cùng lên tàu vừa kịp lúc nhổ neo. Tôi lấy hết sức để gọi. Ông già nghe được liền bước về phía lái. Chúng tôi nhận ra chỉ còn hai chúng tôi sống sót sau tai nạn vừa qua. Mọi thứ trên boong tàu đều bị quét sạch xuống biển. Viên thuyền trưởng và các sĩ quan đều chết ngạt trong cabin vì nước biển tràn vào quá nhanh. Không còn ai phụ giúp, chúng tôi khó hy vọng làm được gì nhiều cho sự an toàn của con tàu.
Và thoạt tiên cái hy vọng nhỏ nhoi ấy cũng bị dập tắt vì hình như con tàu sắp chìm đến nơi rồi. Dĩ nhiên sợi dây neo đã đứt phăng như một sợi dây cột đồ ngay từ khi đợt gió đầu tiên thổi tới, chứ nếu không chúng tôi đã chìm lỉm rồi. Con tàu bị gió cuốn phăng trên mặt biển. Những đợt sóng trắng xóa tung lên trên đầu chúng tôi. Bánh lái gãy hoàn toàn. Khắp con tàu hầu như bộ phận nào cũng bị hư hại đáng kể. Nhưng chúng tôi đã quá đỗi mừng khi thấy những cái bơm nước không bị nghẹt và những vật nặng dùng để dằn thuyền được thăng bằng không bị dời chỗ.
Chúng tôi cảm thấy mối nguy hiểm vì gió đã giảm nhiều, nhưng khi nghĩ đến việc gió sẽ hoàn toàn ngưng thổi chúng tôi lại vô cùng kinh hãi, vì tin chắc rằng trong tình trạng hư hỏng thế này con tàu sẽ bị hủy diệt dưới những con sóng ghê gớm. Nhưng cái điều dự đoán chính xác này dường như không trở thành sự thực ngay. Suốt năm ngày đêm, trong thời gian này chúng tôi sống bằng vài viên đường thốt nốt khó khăn lắm mới moi được ở đầu mũi tàu, con tàu trôi nhanh vùn vụt.
Những cơn gió cứ tiếp tục nổi lên, không dữ dội như lúc cơn bão bắt đầu nhưng vẫn kinh khiếp hơn tất thảy những gì tôi đã từng trông thấy trước đây. Suốt bốn ngày đầu con tàu lao theo hướng nam, đông nam, thỉnh thoảng có thay đổi một chút, và như thế chúng tôi sẽ đâm thẳng vào bờ biển Tân Hà Lan. Ngày thứ năm trời lạnh ghê gớm, mặc dù gió đổi chiều chếch về hướng bắc. Mặt trời nhô lên với những tia sáng vàng vọt bệnh hoạn. Nó chỉ lê lên được chừng vài độ trên đường chân trời, không tỏa ra mấy chút ánh sáng. Không một đám mây nào xuất hiện, gió cứ tăng lên mãi với sự cuồng nộ bất thường.
Vào buổi trưa chúng tôi đoán như vậy, sắc thái của mặt trời lại khiến chúng tôi chú ý. Nó không tỏa ra ánh sáng có thể nói như vậy, mà phát ra một thứ lửa u ám buồn bã như thể tất cả những tia sáng đều đã bị chiết tán. Ngay trước khi chiếu vào lòng biển trương phình, những ngọn lửa trung tâm mặt trời đột ngột tắt ngấm như thể có một sức mạnh huyền bí nào đó đang vội vàng dập tắt chúng đi. Mặt trời như một cái bánh xe màu trắng bạc nhợt nhạt cô đơn khi bắt đầu phóng vào lòng đại dương thăm thẳm.
Chúng tôi đợi cái ngày thứ sáu đến trong nỗi tuyệt vọng. Cái ngày ấy đối với tôi chưa đến, còn với ông cụ người Thụy Điển thì mãi mãi không bao giờ đến. Từ đấy chúng tôi chìm trong bóng đêm đen như mực, tối đến nỗi chúng tôi không thể nhìn thấy xa quá hai mươi bước. Bóng đêm vĩnh cửu tiếp tục bao trùm chúng tôi, không hề giảm bớt chút nào bởi mặt nước biển lấp lánh ánh lân tinh như chúng ta thường thấy ở miền nhiệt đới. Chúng tôi cũng nhận thấy, mặc dù gió vẫn tiếp tục thổi và không hề giảm cơn thịnh nộ, nhưng những bọt sóng trắng đã tận tình giúp đỡ chúng tôi nay không còn nữa.
Chung quanh chúng tôi chỉ là sự hãi hùng, bóng tối dày đặc như một sa mạc nồng nực đen tối màu gỗ mun. Một nỗi kinh khiếp mê tín trườn dần vào trí não ông cụ người Thụy Điển. Còn tâm hồn tôi thì chìm vào một nỗi ngờ vực câm lặng. Chúng tôi không thiết săn sóc con tàu nữa. Việc đó đã trở nên vô ích. Dán người sát vào chân cột buồm thấp nhất, chúng tôi cay đắng đưa mắt nhìn vào đại dương thăm thẳm. Chúng tôi không còn phương tiện nào để đoán biết thời gian và cũng không cách nào đoán biết được chúng tôi đang ở vào hoàn cảnh như thế nào.
Tuy nhiên chúng tôi vẫn biết chắc rằng con tàu đã đi rất xa về phương nam hơn bất cứ nhà hàng hải nào và rất ngạc nhiên là tại sao vẫn chưa gặp những chướng ngại thường thấy là những tảng băng trôi. Dù vậy mỗi phút vẫn đe dọa là phút cuối cùng trong đời. Từng con sóng khổng lồ lao tới như muốn nuốt chửng chúng tôi. Sóng là cái gì vượt quá sức tưởng tượng của tôi. Mỗi lần sóng đi qua mà con tàu chưa bị chôn vùi là cả một điều kỳ diệu. Ông già đồng hành của tôi nói rằng hàng hóa trên tàu chưa đủ nặng và nhắc tôi nhớ đến phẩm chất tuyệt hảo của con tàu.
Nhưng tôi hoàn toàn không hy vọng mình có thể thoát nạn. Lòng buồn rầu tôi chuẩn bị cho cái chết mà tôi nghĩ sẽ đến trong vòng không quá một tiếng đồng hồ nữa. Vượt qua mỗi hải lý sóng biển đen đủi khổng lồ càng âm u khủng khiếp hơn. Nhiều lần chúng tôi nín thở khi con tàu leo lên đến độ cao của chim hải âu, rồi lại xây xẩm choáng váng khi nó lao xuống cái địa ngục bằng nước với một tốc độ kinh hoàng. Ở đó không khí như ứ đọng lại, tuyệt đối không có một âm thanh nào khuấy động đến giấc ngủ loài thủy quái. Chúng tôi đang ở dưới đáy của một trong những vực thẳm như thế, thì bỗng tiếng la thất thanh của ông bạn đồng hành vỡ ra trong bóng tối:
- Kìa.. kìa.. Ông cụ hét lớn vào tai tôi. Lạy chúa quyền năng! Hãy nhìn kìa!
Tôi nhìn thấy một vầng sáng màu đỏ lù mù, ảm đạm đang lao xuống theo triền vực bao la, nơi chúng tôi đang ở tận đáy, hắt sang sàn tàu chúng tôi những tia sáng lay lắt. Ngước mắt nhìn lên tôi bắt gặp một cảnh tượng khiến cho máu trong người như đông lại. Ở một độ cao kinh khủng, ngay trên đầu chúng tôi, sát bên mép bờ vực, lượn lờ một con tàu khổng lồ ước phải đến bốn ngàn tấn. Mặc dù con tàu đang đứng trên đầu một ngọn sóng cao gấp trăm lần chiều cao của chính nó, nhưng trông nó vẫn lớn hơn bất kỳ con tàu nào của Công ty Đông Ấn.
Cái vỏ khổng lồ của nó sơn một màu đen kịt, không chạm trổ hình vẽ như vẫn thường thấy. Chỉ có một dãy đại bác bằng đồng chĩa mũi ra từ các ô cửa sổ để mở, bề mặt bóng láng của nòng súng phản chiếu lấp lánh ánh sáng từ những ngọn đèn tín hiệu, treo đung đưa lắc lư giữa các cột buồm. Nhưng điều làm chúng tôi kinh ngạc nhất là con tàu ấy giương hết buồm lên, mà chạy giữa những chiếc răng nanh khổng lồ của biển siêu nhiên, đang lên cơn giông tố cuồng dại này. Đầu tiên chúng tôi chỉ nhìn thấy phần mũi của con tàu lạ vì nó đang chậm chạp ngoi lên đỉnh vực. Trong một thoáng con tàu bỗng ngưng lại, ngay trên cái đỉnh cao tít ấy, như thể để trầm tư về sự siêu việt của mình. Rồi rùng mình một cái nó bắt đầu chúi mũi lao xuống.
Ngay lúc ấy không hiểu sao sự bình tĩnh chợt trở lại với tôi. Cố lao người về phía lái tôi chờ đợi không một chút sợ hãi giây phút hủy diệt. Cuối cùng con tàu chúng tôi chấm dứt cuộc chiến đấu. Nó cắm mũi vào lòng biển. Cái khối khổng lồ đang lao xuống kia cuối cùng đã xô vào chúng tôi ở phía lườn tàu vốn đã mấp mé nước. Việc đó dẫn đến một kết quả phi thường. Sức chấn động hất tung tôi lên không và sau đó tôi rơi ngay xuống lòng con tàu lạ. Khi tôi rơi xuống con tàu lạ khựng lại một giây rồi chợt đổi hướng. Nhờ sự nhộn nhạo ấy mà tôi đã thoát khỏi sự chú ý của các thủy thủ.
Không khó khăn gì lắm và cũng chẳng bị ai nhìn thấy, tôi tìm ra lối đi chính xuống hầm tàu. Lúc ấy cửa đang khép hờ, tôi dễ dàng chọn được một chỗ trốn. Thật khó mà nói tại sao tôi lại làm thế. Một cảm giác sợ hãi mơ hồ khi nhìn thấy dáng vẻ của những người trên tàu có lẽ là nguyên nhân chính của hành động này. Tôi không dám tin tưởng vào loại người mà ngay từ cái nhìn đầu tiên đã cảm thấy có quá nhiều điểm xa lạ mù mờ, ngờ vực và đầy sợ hãi. Vì thế tôi nghĩ tốt hơn nên tìm một chỗ ẩn náu trong hầm tàu. Dỡ một mảnh ván cạp vách, tôi dễ dàng tạo được chỗ ẩn giữa những cột kèo đồ sộ của con tàu.
Có tiếng bước chân trong hầm tàu ngay khi tôi vừa làm xong công việc. Tôi liền chui vào hốc trốn. Một người đàn ông bước ngang qua chỗ tôi ẩn nấp, dáng đi chậm chạp không vững. Tôi không thấy rõ khuôn mặt nhưng lại có dịp quan sát hình tướng chung của gã. Có những nét cho thấy hẳn gã rất lớn tuổi và yếu ớt. Đầu gối của gã như muốn khuỵu xuống dưới sức nặng của năm tháng toàn thân run rẩy.
Gã lầm bầm với bản thân bằng một thứ tiếng trầm trầm xa lạ tôi không hiểu được. Gã lục soạn trong góc hầm tàu chất đầy dụng cụ kỳ quái và những bản đồ hàng hải đã rách nát. Bộ tịch của gã là một sự trộn lẫn man rợ giữa sự cáu kỉnh của một ông già đang hồi trở lại thời trẻ thơ và sự oai vệ của một vị thần. Cuối cùng gã quay lên boong và tôi không còn nhìn thấy gã nữa. Một cảm giác không tên tuổi vây kín tâm hồn tôi, một cảm giác không mong được phân tích. Với nó không có sách vở nào thích hợp cả. Và tôi e rằng cả trong tương lai cũng không thể tìm được lời giải đáp.
Đối với tôi đây đúng là một điều khủng khiếp. Tôi sẽ không bao giờ tôi biết chắc sẽ không bao giờ, nhìn nhận bản chất của những ý niệm này. Dù sao cũng không lấy gì làm lạ về những cảm giác này bởi chính nó đã bắt nguồn từ một câu chuyện hoang đường. Một cảm giác mới lạ một thực thể hoàn toàn mới đã ghi vào tâm hồn tôi. Đã qua một thời gian khá lâu kể từ khi tôi lọt vào con tàu khủng khiếp này. Tôi nghĩ rằng giờ đây mọi nẻo lối của số phận tôi đang quy về một điểm. Chìm trong cơn mặc tưởng nào đó mà tôi không thể nào hiểu nổi, những thủy thủ hờ hững đi ngang qua trước mặt tôi mà không buồn chú ý.
Phần tôi quả thật là thừa khi vội tìm chỗ trốn. Bởi chính họ có muốn trông thấy gì đâu. Mới lúc nãy đây tôi đi ngang trước mặt viên thuyền phó. Và cũng chẳng lâu gì tôi đã mạo hiểm vào tận phòng viên thuyền trưởng. Tôi lấy ở đấy được một ít giấy và đang dùng để viết. Thỉnh thoảng tôi lại viết tiếp những trang bản thảo này. Thực ra tôi không có cách nào truyền lại cho thế giới bên ngoài. Nhưng tôi sẽ cố thử xem. Vào phút cuối tôi sẽ bỏ những trang bản thảo này vào một cái chai đóng kín và thả xuống biển.
Một vài biến cố vừa xảy ra khiến tôi phải suy nghĩ. Có phải tất cả những điều này là một cuộc run rủi rủi may hay không? Tôi đã mạo hiểm bước lên boong, nằm dài xuống giữa những đống dây thừng và buồm cũ hoặc trong chiếc xuồng nhỏ mà chẳng ai chú ý cả. Trong khi suy nghĩ miên man về số phận kỳ quặc của mình, tôi lơ đễnh cầm chiếc bàn chà chải hắc ín bôi lên một tấm buồm phụ được xếp cẩn thận đặt trên một cái thùng tròn. Cánh buồm phụ bây giờ đang được căng lên, chiếc bàn chải vô tình lúc nãy đã viết thành hai chữ: khám phá.
Ở trên tôi có tả sơ qua kiến trúc của con tàu. Mặc dù được trang bị đại bác nhưng theo tôi, nó không phải là một chiếc tàu chiến. Cấu trúc và trang thiết bị đều không phải của tàu chiến. Nhưng nó thực sự là loại tàu gì thì tôi e rằng khó xác định. Tôi không biết tại sao như thế. Nhìn vóc dáng lạ lẫm kỳ quặc của các cột buồm, những bộ buồm khổng lồ cao vòi vọi, cái mũi tàu quá đơn giản, phần đuôi cổ lỗ, trong tôi chợt lóe lên một tia sáng từ ký ức mơ hồ hỗn độn. Đó là những hình ảnh gợi nhớ về một triều đại cổ xưa ở một vương quốc nào đó.
Tôi nhìn kỹ loại gỗ làm sườn tàu. Đó là thứ vật liệu hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Tính chất đặc biệt của gỗ khiến tôi phải nghĩ rằng nó không thích hợp với mục đích sử dụng. Tôi muốn nói rằng nó hoàn toàn xốp, không phải do bị mối ăn mà bởi đã đi lại quá nhiều trên biển cũ đến mục ruỗng. Tôi quan sát thấy một điều rất đỗi kỳ lạ, loại gỗ này có đủ mọi đặc tính của loại sến Tây Ban Nha, nếu như gỗ sến Tây Ban Nha có thể xẻ ra được bằng những dụng cụ nhân tạo. Đọc lại đoạn vừa viết, tôi chợt nhớ đến câu nói kỳ quặc của một con sói biển già người Hà Lan:
“Cái điều ấy e cũng chắc chắn”. Ông thường nói vậy khi tấm lòng trung thực của ông bị một nỗi nghi ngờ xâm chiếm. “Như trên đời này có một vùng biển mà ở đó những con tàu lại có thể phình lớn như thân thể của một thủy thủ”.
Tôi chen vào đám thủy thủ được hơn một giờ. Mặc dù tôi đứng ngay giữa bọn họ nhưng dường như sự có mặt của tôi hoàn toàn nằm ngoài nhận thức của họ. Giống như người đầu tiên tôi nhìn thấy dưới hầm tàu, tất cả những thủy thủ đều râu tóc bạc phơ. Đầu gối không còn giữ vững, lưng còng xuống với tuổi tác, làn da run run trước gió rét, giọng nói trầm trầm rè rè, đôi mắt suy yếu kèm nhèm nước mắt, mái tóc bạc phất phơ trong gió một cách kỳ dị. Chung quanh họ khắp cả sàn tàu, rải rác những dụng cụ toán học kiểu rất cổ không còn thích hợp.
Ở trên tôi có nói chuyện những cánh buồm phụ được căng lên. Kể từ lúc ấy con tàu lộng gió phóng thẳng về hướng nam, tiếp tục cuộc hành trình khủng khiếp. Mọi cánh buồm đều căng phồng, từ buồm chính trên đỉnh đến những cánh buồm phụ bên dưới. Những đòn tay buồm chòng chành nghiêng ngả như muốn thọc vào cái địa ngục bằng chất lỏng khủng khiếp, mà óc tưởng tượng của con người có thể nặn ra được. Tôi vừa mới rời boong tàu vì ở đó khó mà đứng vững trên hai chân mặc dù các thủy thủ vẫn bình thản đi lại. Tôi cảm thấy quá đỗi kỳ diệu khi cái khối khổng lồ này vẫn chưa chịu chìm đắm vĩnh viễn. Chúng tôi hẳn đã bị trời đày phải mãi mãi đi vòng quanh cái mép rìa của sự vĩnh cửu, mà chẳng bao giờ được phép thực hiện cú nhảy cuối cùng để lao vào vực thẳm.
Trên những con sóng to lớn kinh dị gấp ngàn lần trước đây chúng tôi lướt đi nhanh như loài én biển. Những đợt sóng khổng lồ ngóc đầu chồm lên chúng tôi như những con thủy quái. Nhưng chúng chỉ doạ nạt chứ không được phép tàn phá. Tôi cho rằng sở dĩ con tàu thoát nạn mãi như thế chỉ là nhờ vào nguyên nhân tự nhiên. Và chỉ như vậy mới có thể cắt nghĩa nổi những kết quả thế này. Tôi cho rằng có lẽ con tàu đang nằm trong ảnh hưởng của dòng hải lưu cuồn cuộn nào đó, hoặc giả có dòng nước ngầm rất mạnh ngay bên dưới con tàu. Tôi đã nhìn tận mặt viên thuyền trưởng ngay trong cabin của ông ta, nhưng như tôi đã đoán trước ông ta hoàn toàn không chú ý gì đến tôi. Mặc dù vẻ bề ngoài của ông ta chẳng có gì khác hơn một người đàn ông bình thường, nhưng một cảm giác kính trọng và sợ hãi trộn lẫn niềm kinh ngạc nào đó vẫn khiến tôi ngưỡng mộ ông ta.
Về hình dạng ông ta cao ngang bằng tôi, khoảng một mét sáu lăm. Dáng vóc ông chắc gọn nhưng không có vẻ mạnh mẽ hay đáng chú ý. Có lẽ do cái vẻ đặc biệt biểu lộ trên khuôn mặt ông ta, một bằng chứng khốc liệt và dữ dội của tuổi tác già nua quá độ già nua trọn vẹn, gợi trong tôi một ý tưởng một cảm giác khó tả. Vầng trán của ông dù ít nếp nhăn nhưng vẫn hằn rõ dấu ấn năm tháng chồng chất. Mái tóc xám như một bản ghi chép của quá khứ. Và đôi mắt xám hơn cả mái tóc lại như một bầy phù thủy của tương lai. Trên sàn phòng bày la liệt những xấp giấy tờ có nẹp sắt, những dụng cụ khoa học méo mó cũ kỹ, những tấm bản đồ đã lâu không dùng đến.
Hai tay ông ta bưng đầu, đôi mắt sáng quắc và lo âu chú mục vào một tờ giấy mà tôi cho là tờ chiếu chỉ bởi trên mặt giấy có đóng dấu triện của nhà vua. Ông ta cũng nói lầm bầm, như người thủy thủ đầu tiên tôi nhìn thấy trong hầm tàu, giọng trầm trầm càu nhàu của một thứ tiếng nào đó lạ hoắc. Và mặc dù ông ta ở sát ngay bên cạnh mà tôi nghe như ở tận dặm xa nào vọng lại. Con tàu và những thứ nó mang theo đều nhuốm màu một thời đại xa xưa nào. Các thủy thủ thì đi lại như bóng ma của những thế kỷ đã bị chôn vùi, đôi mắt toát ra một sự hăm hở và lo âu.
Nhìn những bàn tay của họ rọi bóng nghiêng nghiêng dưới ánh sáng những ngọn đèn tín hiệu, trong tôi dấy lên một cảm giác chưa từng có, mặc dù suốt đời tôi là một kẻ say mê đồ cổ, đã nhập nhiễm trong bóng mát các cột trụ đền đài đổ nát ở Balbec, Tadomor, Persepolis cho đến nỗi chính bản thân tôi cũng trở thành một thứ đồ cổ. Nhìn lại chung quanh, tôi cảm thấy xấu hổ về những mối lo sợ ban đầu của mình. Nếu tôi đã khiếp hãi trước cơn bão vẫn đang theo đuổi chúng tôi cho đến tận bây giờ, thì lúc này tôi sẽ khiếp hãi đến nhường nào trước sự đụng độ giữa gió và biển, mà để diễn đạt điều này, những từ như lốc xoáy, bão tố thật là tầm thường và thiếu sót: vây quanh con tàu là bóng tối của đêm đen vĩnh cửu và một khối nước khổng lồ đang đảo lộn nhưng không sủi lên một chút bọt nào.
Từ phía xa cách chúng tôi khoảng một dặm, có thể nhìn thấy lờ mờ những bức tường thành khổng lồ và vĩnh cửu của băng giá đứng chọc thẳng vào bầu trời ảm đạm, trông giống những bức tường của ngôi nhà vũ trụ. Như tôi đã nghĩ đến lúc nãy, con tàu có vẻ đang bị cuốn đi bởi một dòng hải lưu, nếu tôi có thể dùng từ này để gọi con thủy triều đang gầm rú chảy ào qua vùng băng giá trắng xóa. Dòng hải lưu ấy vừa rền lên như sấm vừa lao băng băng về phương nam với tốc độ một con thác đang chúi đầu đổ xuống.
Tôi cho rằng khó ai hiểu được cảm giác kinh hoàng của tôi. Tuy vậy sự tò mò muốn lý giải những bí mật của vùng biển kỳ dị này đã thắng được cơn sợ hãi trong tôi. Nó giúp tôi cảm thấy dễ chịu trước khuôn mặt xấu xí của thần chết. Rõ ràng là chúng tôi đang vội vã lao vào một sự hiểu biết kỳ thú nào đó, một thứ bí mật không bao giờ có thể chia sẻ cùng ai và kẻ nào biết được phải trả giá bằng cái chết. Có lẽ dòng nước này sẽ dẫn chúng tôi đến tận Bắc Cực. Phải thấy rằng giả thiết này cũng có nhiều cơ sở để trở thành sự thật.
Những thủy thủ đi lại trên boong với bước chân bồn chồn run rẩy. Nhưng vẻ mặt của họ vẫn phẳng phất một niềm hưng phấn đầy hy vọng hơn là nỗi thờ ơ của sự tuyệt vọng. Lúc này gió vẫn thúc vào lưng chúng tôi. Khi giương hết buồm lên con tàu như muốn bay bổng lên khỏi mặt biển. Ồ thật là khủng khiếp! Băng giá chợt rẽ ra bên phải rồi bên trái và chúng tôi bắt đầu quay tít theo những vòng tròn đồng tâm rộng lớn. Quay và quay theo những đường xoáy của một hý trường vĩ đại. Bên trên con vực là bóng đen mịt mùng thăm thẳm. Tôi chẳng còn bao nhiêu thời gian để suy ngẫm về số phận mình nữa. Những vòng tròn đang nhanh chóng thu hẹp lại. Chúng tôi đang phóng như điên cuồng vào giữa vòng ôm của vực xoáy giữa tiếng gầm gừ, rú rít rền rĩ của đại dương bão tố. Con tàu bỗng rùng mình, ôi Thượng đế! và chìm xuống.
Edgar Allan Poe
#78
Gửi vào 18/06/2011 - 06:27
MA ĐÊM HALLOWEEN
Lúc tôi lên bảy gia đình tôi dọn về sống ở Cleveland Ohio, trong một khu chung cư lớn gọi là Clifton Manor. Khu chung cư này đã xây lâu năm nên rất cổ xưa và cũ kỷ, với những vòng sắt cong chạy dài theo hành lang để chắn gió, bên cạnh những cánh cửa lớn đen ngòm không nhìn thấu được. Tôi không nhớ chính xác nó có bao nhiêu tầng, nhưng tôi nghĩ là nó có khoảng năm hay sáu tầng gì đó và ở mỗi tầng có khoảng mười lăm đến hai mươi căn.
Ðêm hôm đó là Halloween trời vừa sụp tối, tôi vội vã chuẩn bị đồ đạc và cái bao gối đi xin kẹo một mình vì má tôi phải ở nhà chăm sóc đứa em mới sanh. Với lại tôi chỉ đi xin kẹo ở trong khu chung cư này thôi không cần đi ra ngoài xin để làm gì, cho nên má của tôi mới an tâm để tôi đi một mình. Sau khi đi được vài tầng lầu với cái bao gần đầy kẹo vác theo sau lưng, tôi bước vào thang máy để tiếp tục lên trên tầng kế tiếp. Ðến tầng trên vừa bước ra thang máy tôi giáp mặt với Donald, con của người cai quản khu chung cư này.
Thường ngày anh ta rất cà chớn, vì học hơn tôi một lớp nên anh ta ỷ lớn ăn hiếp tôi, còn tôi chỉ là một người con gái nhỏ con yếu đuối thường bị anh ta xô vào bụi cây trên đường từ trường về nhà. Theo phản ứng tự nhiên, khi gặp anh ta là tôi sợ rồi nhưng hôm nay lại khác, anh ta lại chuyện trò với tôi rất tử tế về việc đi xin kẹo, và anh ta còn nói rằng những người ở tầng dưới cho kẹo chocolate bar ngon lắm, nếu muốn đi thì anh ta sẽ dẫn đi.
Nghe đến những thỏi chocolate thơm ngon làm lòng ham muốn nổi dậy, tôi không đắn đo suy nghĩ gì hết liền theo anh ta. Chúng tôi vào thang máy đi xuống tận dưới tầng cuối cùng. Cái tầng này có rất nhiều ống dẫn nước, nước rỉ ra từ những đường rạn nứt trên tường, làm cho không khí ở đây rất là ẩm ướt và ma quái, với những ánh đèn vàng lờ mờ dọc theo hai bên tường. Ðồ đạc để đầy ở nơi đây được trùm bằng những tấm vải trắng trông giống như những con quái vật.
Khi thấy cảnh tượng này tôi cũng hơi sợ nhưng Donald thúc giục gần sắp tới rồi. Donald đi trước tôi nối gót theo sau. Màng nhện giăng đầy dẫy khắp nơi, có đôi lúc tôi phải cúi xuống để tránh bị màng nhện bám vào đầu tóc. Cuối cùng chúng tôi đến một cái cổng làm bằng gỗ với ống khóa bên ngoài, đáng lẽ tôi phải biết đây là cái cạm bẫy, nhưng vì cứ nghĩ đến những thỏi chocolate mà không để ý gì khác. Donald cầm chùm chìa khóa của ba anh ta nãy giờ, đến bây giờ mới dùng đến nó. Sau khi mở ổ khoá xong, anh ta từ từ kéo cánh cửa gỗ ra, bỗng dưng anh ta đổi sắc mặt với cái giọng cà chớn:
- Vào trước đi..
Vừa nói anh ta vừa đẩy tôi thật mạnh vào bên trong căn phòng tối om. Sau đó anh ta đóng sầm cửa lại và khóa tôi ở trong đó. Anh ta đã bỏ tôi ở trong phòng dưới tầng cuối cùng, gọi là cái hầm nhà một mình.. Trước khi đi anh ta còn để lại một tràng cười khoái chí. Lúc đó tôi đã biết mình bị lừa nhưng đã trễ rồi.. Căn phòng tối om làm tôi sợ lắm, tôi cố gắng dồn hết sức la cho thật lớn, tay thì đập mạnh vào cánh cửa hy vọng có người nghe thấy sẽ xuống nơi này mở khóa cho tôi.
Sau một hồi la khóc khan cả tiếng, tôi không thấy ai đến cứu. nên tôi nín khóc và tìm cách để ra ngoài. Tôi lấy hết can đảm của một người con nít bảy tuổi, dựa theo cái tường trơn trượt phủ đầy rong rêu quờ quạng đi trong bóng tối. Càng đi vào trong càng tối, đến nỗi để tay trước mặt còn không thấy, dĩ nhiên tôi vẫn còn dựa theo bức tường đi cho an toàn, bỗng dưng tôi trượt chân té xuống một vũng bùn lầy, ẩm ướt và hôi hám làm tôi sợ mất hồn.
Sau khi bị trượt chân tôi không thèm đi đâu mà chỉ ngồi yên một chỗ, cho đến khi tinh thần kiệt quệ, tôi đổ hết kẹo trong bao gối ra rồi chui vào trong đó. Có lẽ mệt mõi vì la khóc nên vừa nằm xuống là tôi chìm vào giấc ngủ ngay lập tức. Không biết mình đã ngủ bao lâu nhưng có gì đó đã làm tôi giật mình. Mở to đôi mắt còn ngái ngủ ra, tôi thấy một vùng ánh sáng lờ mờ cách xa chỗ tôi nằm.
Lúc đó tôi nghĩ có lẽ trời đã sáng nên trong lòng cũng thấy bớt sợ một chút. Nhưng không ánh sáng đó từ từ tiến đến gần tôi, càng đến gần tôi càng thấy sáng hơn. Chuyện gì đang xảy ra thì tôi không biết, tôi chỉ thấy lạ rồi sợ nên cuộn mình trong bao gối rồi ôm nó thật chặt. Ánh sáng tiến đến càng gần tôi càng thấy rõ hơn, thì ra đó là một người đàn bà đang cầm một cây nến.
Bà ta mặc quần áo lạ lắm không giống má tôi và những người đàn bà khác, tóc bà ta thì bới theo kiểu nào đó tôi chưa từng bao giờ thấy. Tôi nhìn bà ta thật kỹ và để ý rằng bà ta không phải đi như một người bình thường, mà từ từ lướt tới rất nhẹ nhàng. Khi đến gần tôi bà ta không nói gì, mà chỉ lấy tay chỉ cánh cửa, bây giờ tôi mới thấy được nhờ ánh sáng của ngọn nến, tôi đoán bà ta có thể là má của Donald xuống đây mở khoá cho tôi, nên tôi vội nhanh chân chui ra khỏi bao gối chạy nhanh đến cánh cửa lấy tay cầm cái nắm mở ra.
Lúc đó tôi mới phát giác ra cửa vẫn còn khóa. Vào lúc này tôi chỉ biết đứng đó chết trân, hai mắt chăm chăm nhìn người đàn bà không biết từ đâu đến, nhưng chỉ trong vòng vài giây bà ta lướt đến thật nhanh rồi đi "xuyên" qua cánh cửa, sau đó tôi nghe "rắc" một cái cánh cửa mở ra. Khi cửa mở tôi phóng nhanh ra ngoài và chạy thẳng một mạch về đến nhà, mà không dám quay đầu lại. Về đến nhà tôi mới biết má tôi đã gọi cảnh sát, và họ đang lục soát tìm tôi khắp nơi trong khu chung cư tôi đang ở, kể cả những nhà hàng xóm kế bên.
Vừa thở hổn hển tôi vừa kể lại những chuyện đã xảy ra cho má tôi nghe, nhưng khi má tôi nghe đến cái phần tôi gặp một người đàn bà mở khóa cho tôi, thì má tôi liền nổi giận nói là tôi bịa chuyện, và chỉ có tôi mới đặt ra câu chuyện ngu xuẩn như vậy... Rốt cuộc chẳng có người nào tin tôi, đến khi cảnh sát xuống dưới hầm nhà và tìm thấy trong căn phòng sau cánh cửa gỗ, có nhiều bao giấy kẹo rải rác khắp nơi, họ mới tin tôi thật sự đã bị nhốt ở đây, nhưng làm cách nào mà tôi ra khỏi đó, họ không thể nào giải thích được.
Tôi không biết người đàn bà tốt bụng đó là ai, nhưng tôi xin cám ơn bà ta rất nhiều. Còn Donald thì bị ba mẹ anh ta phạt mấy roi vì cái tội nhốt tôi. Từ đó anh ta không còn dám chọc phá tôi nữa, không biết vì anh ta sợ bị ba mẹ đánh, hay là vì sợ người đàn bà tốt bụng theo nhát anh ta.
Truyện Ma
Lúc tôi lên bảy gia đình tôi dọn về sống ở Cleveland Ohio, trong một khu chung cư lớn gọi là Clifton Manor. Khu chung cư này đã xây lâu năm nên rất cổ xưa và cũ kỷ, với những vòng sắt cong chạy dài theo hành lang để chắn gió, bên cạnh những cánh cửa lớn đen ngòm không nhìn thấu được. Tôi không nhớ chính xác nó có bao nhiêu tầng, nhưng tôi nghĩ là nó có khoảng năm hay sáu tầng gì đó và ở mỗi tầng có khoảng mười lăm đến hai mươi căn.
Ðêm hôm đó là Halloween trời vừa sụp tối, tôi vội vã chuẩn bị đồ đạc và cái bao gối đi xin kẹo một mình vì má tôi phải ở nhà chăm sóc đứa em mới sanh. Với lại tôi chỉ đi xin kẹo ở trong khu chung cư này thôi không cần đi ra ngoài xin để làm gì, cho nên má của tôi mới an tâm để tôi đi một mình. Sau khi đi được vài tầng lầu với cái bao gần đầy kẹo vác theo sau lưng, tôi bước vào thang máy để tiếp tục lên trên tầng kế tiếp. Ðến tầng trên vừa bước ra thang máy tôi giáp mặt với Donald, con của người cai quản khu chung cư này.
Thường ngày anh ta rất cà chớn, vì học hơn tôi một lớp nên anh ta ỷ lớn ăn hiếp tôi, còn tôi chỉ là một người con gái nhỏ con yếu đuối thường bị anh ta xô vào bụi cây trên đường từ trường về nhà. Theo phản ứng tự nhiên, khi gặp anh ta là tôi sợ rồi nhưng hôm nay lại khác, anh ta lại chuyện trò với tôi rất tử tế về việc đi xin kẹo, và anh ta còn nói rằng những người ở tầng dưới cho kẹo chocolate bar ngon lắm, nếu muốn đi thì anh ta sẽ dẫn đi.
Nghe đến những thỏi chocolate thơm ngon làm lòng ham muốn nổi dậy, tôi không đắn đo suy nghĩ gì hết liền theo anh ta. Chúng tôi vào thang máy đi xuống tận dưới tầng cuối cùng. Cái tầng này có rất nhiều ống dẫn nước, nước rỉ ra từ những đường rạn nứt trên tường, làm cho không khí ở đây rất là ẩm ướt và ma quái, với những ánh đèn vàng lờ mờ dọc theo hai bên tường. Ðồ đạc để đầy ở nơi đây được trùm bằng những tấm vải trắng trông giống như những con quái vật.
Khi thấy cảnh tượng này tôi cũng hơi sợ nhưng Donald thúc giục gần sắp tới rồi. Donald đi trước tôi nối gót theo sau. Màng nhện giăng đầy dẫy khắp nơi, có đôi lúc tôi phải cúi xuống để tránh bị màng nhện bám vào đầu tóc. Cuối cùng chúng tôi đến một cái cổng làm bằng gỗ với ống khóa bên ngoài, đáng lẽ tôi phải biết đây là cái cạm bẫy, nhưng vì cứ nghĩ đến những thỏi chocolate mà không để ý gì khác. Donald cầm chùm chìa khóa của ba anh ta nãy giờ, đến bây giờ mới dùng đến nó. Sau khi mở ổ khoá xong, anh ta từ từ kéo cánh cửa gỗ ra, bỗng dưng anh ta đổi sắc mặt với cái giọng cà chớn:
- Vào trước đi..
Vừa nói anh ta vừa đẩy tôi thật mạnh vào bên trong căn phòng tối om. Sau đó anh ta đóng sầm cửa lại và khóa tôi ở trong đó. Anh ta đã bỏ tôi ở trong phòng dưới tầng cuối cùng, gọi là cái hầm nhà một mình.. Trước khi đi anh ta còn để lại một tràng cười khoái chí. Lúc đó tôi đã biết mình bị lừa nhưng đã trễ rồi.. Căn phòng tối om làm tôi sợ lắm, tôi cố gắng dồn hết sức la cho thật lớn, tay thì đập mạnh vào cánh cửa hy vọng có người nghe thấy sẽ xuống nơi này mở khóa cho tôi.
Sau một hồi la khóc khan cả tiếng, tôi không thấy ai đến cứu. nên tôi nín khóc và tìm cách để ra ngoài. Tôi lấy hết can đảm của một người con nít bảy tuổi, dựa theo cái tường trơn trượt phủ đầy rong rêu quờ quạng đi trong bóng tối. Càng đi vào trong càng tối, đến nỗi để tay trước mặt còn không thấy, dĩ nhiên tôi vẫn còn dựa theo bức tường đi cho an toàn, bỗng dưng tôi trượt chân té xuống một vũng bùn lầy, ẩm ướt và hôi hám làm tôi sợ mất hồn.
Sau khi bị trượt chân tôi không thèm đi đâu mà chỉ ngồi yên một chỗ, cho đến khi tinh thần kiệt quệ, tôi đổ hết kẹo trong bao gối ra rồi chui vào trong đó. Có lẽ mệt mõi vì la khóc nên vừa nằm xuống là tôi chìm vào giấc ngủ ngay lập tức. Không biết mình đã ngủ bao lâu nhưng có gì đó đã làm tôi giật mình. Mở to đôi mắt còn ngái ngủ ra, tôi thấy một vùng ánh sáng lờ mờ cách xa chỗ tôi nằm.
Lúc đó tôi nghĩ có lẽ trời đã sáng nên trong lòng cũng thấy bớt sợ một chút. Nhưng không ánh sáng đó từ từ tiến đến gần tôi, càng đến gần tôi càng thấy sáng hơn. Chuyện gì đang xảy ra thì tôi không biết, tôi chỉ thấy lạ rồi sợ nên cuộn mình trong bao gối rồi ôm nó thật chặt. Ánh sáng tiến đến càng gần tôi càng thấy rõ hơn, thì ra đó là một người đàn bà đang cầm một cây nến.
Bà ta mặc quần áo lạ lắm không giống má tôi và những người đàn bà khác, tóc bà ta thì bới theo kiểu nào đó tôi chưa từng bao giờ thấy. Tôi nhìn bà ta thật kỹ và để ý rằng bà ta không phải đi như một người bình thường, mà từ từ lướt tới rất nhẹ nhàng. Khi đến gần tôi bà ta không nói gì, mà chỉ lấy tay chỉ cánh cửa, bây giờ tôi mới thấy được nhờ ánh sáng của ngọn nến, tôi đoán bà ta có thể là má của Donald xuống đây mở khoá cho tôi, nên tôi vội nhanh chân chui ra khỏi bao gối chạy nhanh đến cánh cửa lấy tay cầm cái nắm mở ra.
Lúc đó tôi mới phát giác ra cửa vẫn còn khóa. Vào lúc này tôi chỉ biết đứng đó chết trân, hai mắt chăm chăm nhìn người đàn bà không biết từ đâu đến, nhưng chỉ trong vòng vài giây bà ta lướt đến thật nhanh rồi đi "xuyên" qua cánh cửa, sau đó tôi nghe "rắc" một cái cánh cửa mở ra. Khi cửa mở tôi phóng nhanh ra ngoài và chạy thẳng một mạch về đến nhà, mà không dám quay đầu lại. Về đến nhà tôi mới biết má tôi đã gọi cảnh sát, và họ đang lục soát tìm tôi khắp nơi trong khu chung cư tôi đang ở, kể cả những nhà hàng xóm kế bên.
Vừa thở hổn hển tôi vừa kể lại những chuyện đã xảy ra cho má tôi nghe, nhưng khi má tôi nghe đến cái phần tôi gặp một người đàn bà mở khóa cho tôi, thì má tôi liền nổi giận nói là tôi bịa chuyện, và chỉ có tôi mới đặt ra câu chuyện ngu xuẩn như vậy... Rốt cuộc chẳng có người nào tin tôi, đến khi cảnh sát xuống dưới hầm nhà và tìm thấy trong căn phòng sau cánh cửa gỗ, có nhiều bao giấy kẹo rải rác khắp nơi, họ mới tin tôi thật sự đã bị nhốt ở đây, nhưng làm cách nào mà tôi ra khỏi đó, họ không thể nào giải thích được.
Tôi không biết người đàn bà tốt bụng đó là ai, nhưng tôi xin cám ơn bà ta rất nhiều. Còn Donald thì bị ba mẹ anh ta phạt mấy roi vì cái tội nhốt tôi. Từ đó anh ta không còn dám chọc phá tôi nữa, không biết vì anh ta sợ bị ba mẹ đánh, hay là vì sợ người đàn bà tốt bụng theo nhát anh ta.
Truyện Ma
#79
Gửi vào 18/06/2011 - 06:45
NGĂN KÉO SỐ MƯỜI BỐN
Làm người trực đêm ở nhà xác thành phố thì cũng chẳng có gì đáng khoe, nhưng công việc này cho phép tôi vẫn đi học đầy đủ vào ban ngày và cũng có thể nghiên cứu thêm vào ban đêm, bên cạnh những nhiệm vụ phải làm vốn không nặng nề gì. Trong các ngăn kéo được đánh số và gắn thẻ, các xác chết trong đó sẽ chẳng bao giờ quấy rầy tôi, trong khi tôi đang nặn óc đánh vật với các vấn đề tích phân. Tôi vẫn nghĩ thế.
Tối hôm đó tôi tới đổi phiên cho Olaf Daly như thường lệ. Olaf là một lão già chết cứng với cái nghề này vì đã lớn tuổi và vì cái chân thọt, nên cả ngày lão chỉ mong cho tới lúc đổi phiên. Như mọi khi lão ầm ừ một câu chào rồi tạm biệt cùng một lượt. Với cái chân thọt mà lão đi ra khỏi nhà xác coi bộ nhanh nhẹn ác. Còn lại một mình trong gian phòng phía ngoài vắng lặng, tôi đặt bình thủy, chiếc radio và mấy cuốn sách lên bàn, rồi tôi lôi cuốn sổ trực to tổ bố lại gần xem qua một lượt. Olaf đã ghi chép việc xuất nhập hàng ngày bằng nét chữ khẳng khiu của lão. Một ông chết đuối. Một gã ngủ say tới bỏ mạng khi nhà bốc cháy. Một chú đánh lộn bị đâm chết. Một phụ nữ bỏ xác trôi sông...
Công việc mỗi ngày của Olaf rất đều đặn. Cả tuần qua chẳng có gì đặc biệt đáng chú ý. Ngoại trừ cái bà tuần qua nằm ở ngăn số mười bốn. Nghe đồn là phù thủy, bà ta xưng là Phù thủy Endor đệ tứ. Nhiều người tin bà gớm, bà ta sống ở một khu nghèo nàn và thất học, kiếm ăn bằng nghề đoán số đề, bán bùa ngãi... nhưng dân láng giềng nói bà ta chưa làm gì bậy. Một đêm trời nóng nực bà ta leo lên mái nhà khu chung cư. Không hiểu do trượt chân hay vì muốn bay lên mặt trăng nhưng thất bại, mà người ta thấy bả nằm phơi xác trên mặt đường nhựa, trước khu chung cư sáu tầng lầu đó, rồi được mang tới đây đặt trong ngăn số mười bốn.
Bả nằm trong ngăn đông lạnh đó bốn ngày thì có đứa con ở tận đâu đó tới nhận xác. Với Olaf thì mụ ấy chưa hoàn toàn đi khỏi đây lão già nói:
- Tao thề là có cái mùi gì ở ngăn số mười bốn đó, giống như mùi lưu huỳnh.
Tôi có thấy cái gì đâu. Mũi tôi còn đầy nghẹt mùi của phòng thí nghiệm nơi tôi đã phải trầy trật để theo kịp chúng bạn. Tôi dẹp cuốn sổ để đi tuần một vòng. Căn phòng kế cạnh thắp đèn sáng choang, nhưng lạnh tanh thênh thang và không sinh khí. Nền phòng sạch bóng thoang thoảng mùi thuốc sát trùng. Ðằng kia là cánh cửa lớn mở ra lối cho xe chở xác chạy vào, cạnh đó là cái bàn đá có chân bánh xe mặt bàn dài thượt. May mắn mà lúc này nó trống, được lau chùi sạch sẽ chờ lúc được sử dụng tới. Cái máy lạnh phát ra tiếng rù rì trầm trầm chú ý mới nghe thấy.
Ở phía tay phải giống như một tổ ong khổng lồ, là hàng hàng lớp lớp những ngăn kéo để chứa các xác chết trong khi chờ thân nhân đến nhận, hay sau cùng thì nhà nước bỏ tiền ra chôn làm phước. Ngăn kéo nào có xác đều được gắn thẻ, như thẻ hành lý trong kho trên máy bay hay tàu thủy. Thẻ được móc vào tay cầm của ngăn kéo. Tôi huýt sáo nho nhỏ chỉ vì muốn tạo một âm thanh gì đó thôi, và bắt đầu kiểm tra những thẻ theo danh sách trong sổ mà tôi vừa xem qua và nhớ được. Tới gần ngăn số mười bốn tôi chợt khịt mũi.
"A! cái mùi lưu huỳnh của lão Olaf đây!" Tôi lẩm bẩm. Ði qua ngăn kéo ấy một bước thì tôi giật mình, ngoảnh đầu rồi xoay cả người lại. Olaf đâu có ghi xác nào trong ngăn mười bốn nhưng mà có thẻ gắn ở ngăn này. Tôi cúi người tới đưa tay ra huýr sáo không thành tiếng nữa. Tôi cầm tấm thẻ lật qua lật lại. Một lần, hai lần rồi ba lần càng lúc càng nhanh. Ðứng thẳng dậy tôi gãi đầu một phát. Cả hai mặt thẻ đều trống trơn chẳng ghi gì cả. Olaf tuy già nhưng đâu đến nỗi lẩm cẩm. Quên ghi tên người vào thẻ, lão chưa từng có vụ này bao giờ. Rồi tôi nhếch mép cười. Lão già này muốn đùa đây, tôi đâu dè lão cũng khoái giỡn như thế. Tôi lại huýt sáo được thành tiếng nghe có vẻ tỉnh táo lắm nhưng không có gì hay ho.
Tôi nắm lấy tay cầm và kéo mạnh. Ngăn kéo vốn có bánh xe nên tuột ra cái rẹt. Tiếng huýt sáo của tôi chợt tắt ngúm. Một người đàn bà đang nằm trong đó! Tóc vàng coi trẻ măng và đẹp nữa mặc dù đã chết. Tôi đứng nhìn cô ta mà nghe mấy ngón chân ngọ ngoạy trong đôi giày. Nét mặt cô thật dễ thương làn da mịn màng như lụa. Ðôi mắt khép nhẹ như đang ngủ, bờ mi cong và dài đen mướt. Cô mặc bộ đồng phục y tá. Món duy nhất cho tôi biết lai lịch chút ít của cô là tấm lắc dây chuyền ở cổ tay. Trên tấm lắc có khắc hai mẫu tự Z. L.
Tôi vội vàng quay đi chạy ra phòng ngoài vồ lấy cuốn sổ trực tôi lật vội ra xem. Tôi không muốn nghi oan lão Olaf. Tôi rà một lượt ngớ người ra rà lại lần nữa. Lật trang trước coi phần ghi chép hôm qua và cả hôm kia nữa. Tuyệt nhiên không có ai được đưa vào ngăn mười bốn cả. Tôi chu mỏ nhưng huýt sáo không nổi và bước tới cửa vào phòng lạnh. Phía trên cửa có hai khung kiếng nên tôi có thể nhìn vào trong mà không cần mở cửa. Ngăn kéo mười bốn bị lôi kéo ra vẫn còn nguyên ở đó, và cô Z. L. tóc vàng vẫn nằm chần dần một đống như cũ.
Tôi cẩn thận ngồi xuống ghế rút khăn tay ra và lau trán. Hít một hơi dài tôi nhấc phôn lên quay số của Olaf. Khi nghe tiếng chuông, tôi còn liếc lại cửa phòng lạnh. Giọng vợ Olaf nghe ngái ngủ:
- Ồ rất tiếc. Ông Olaf nhà tôi chưa về.
Rồi chợt giọng bà ta nghe tử tế hơn.
- Chờ chút tôi nghe tiếng ông ấy mở cửa.
Giọng Olaf vang lên sau tiếng đằng hắng:
- Rồi, chuyện gì ?
- Tully Branson đây bác Olaf.
- Không có cái vụ trực thế cho mày đi nhậu với bạn đâu à nghen!
- Không có đâu, tôi đáp.
- Cháu chỉ muốn biết về cái cô trong ngăn mười bốn.
- Không có ai trong ngăn mười bốn hết, Tully.
- Có mà thưa bác. Một cô tóc vàng đàng hoàng. Trẻ và đẹp chết uổng hết sức. Chắc bác nhớ ra hén có điều bác quên ghi sổ nhập cho cô ấy.
Tôi nghe tiếng bà Olaf hỏi chồng chuyện gì đó, rồi nghe ông ta nói với vợ:
- Chắc cái thằng Tully này đêm nay nó mang rượu vô đó uống quá!
- Không có bác ơi, tôi cự liền.
- Cháu khoái nhậu nhưng không có mang rượu vô đây à nghen! Chỉ có chuyện cô tóc vàng ở ngăn mười bốn bác quên ghi sổ thôi!
- Ðời nào tao lại quên chuyện đó được?
- Có mà. Không tin bác ghé đây coi đi.
- Tao sẽ tới con ạ! Sai sót này lớn lắm chứ chơi đâu.
Lão dộng ống nói xuống thiếu điều làm tôi thủng cả màng nhĩ. Còn tôi thì nhẹ nhàng đặt ống nói xuống, lấy bình thủy rót một ít cà phê ra, đốt một điếu thuốc, nhấp một ít cà phê châm một điếu thuốc. Nhấp miếng cà phê nữa cất bình thủy vào chỗ của nó, thò tay lấy gói thuốc lúc đó tôi mới nhìn thấy mình đã châm hai điếu bỏ trên gạt tàn. Tôi mếu miệng cười dụi tắt một điếu để dành đêm khuya.
Với bước chân khập khiễng lão Olaf bước vào cứ như một con tàu đi trong giông bão. Ðáp lại ánh mắt trợn trừng của lão, tôi chỉ mỉm cười với tất cả sự chắc ăn mình có được và mời lão vào phòng xác. Lão đi qua cánh cửa tôi theo sát nút. Ngăn mười bốn vẫn còn kéo lòi ra ngoài ở đó. Lão chẳng cần đi tới nơi. Nhìn một cái lão quay lại liền:
- Tully, lão nói:
- Tao mà còn trẻ là đập bể mặt mày liền. Mày bắt một người già mệt nhọc nửa đêm tới một nơi hôi thối như thế này đó hả? Vậy mà lâu nay tao cứ nghĩ mày là thằng nhóc tử tế đó!
- Nhưng bác Olaf...
- Không có "nhưng" gì cả cái vụ này tao sẽ báo cáo!
Tôi trợn mắt nhìn ngăn mười bốn như thằng khùng. Cô ta vẫn còn đó thù lù một đống. Tóc vàng xinh đẹp và chết cứng. Olaf xô tôi qua một bên và bước đi. Tôi níu lấy tay lão. Tôi đúng là còn nhỏ tuổi nhưng cũng đã mọc râu rồi. Tôi kêu lên:
- Bác Olaf.. bác thấy mà..cháu biết bác thấy mà.
- Bỏ cái tay ra nghe chưa, lão quát:
- Tao thấy rõ ràng là cái ngăn kéo trống trơn, y hệt cái đầu óc của mày vậy.
Tôi cứ níu tay lão không cho đi:
- Cháu không có chịu giỡn kiểu này đâu.
- Thì tao cũng vậy.
Lão quát vào mặt tôi.
- Giỡn gì cà chớn.
- Thì bác coi kỹ cái ngăn đi đừng giỡn nữa mà.
- Thì tao đã coi rồi. Không có gì hết ngoài một thằng nhóc láo lếu dám bày trò thối tha là bắt một người già phải nửa đêm tới đây.
Lão giật tay ra và bước nhanh ra ngoài. Ðến cửa lão quay lại dứ dứ ngón tay về phía tôi:
- Nè nhóc tốt nhất là từ mai mày lo kiếm việc làm khác đi.
Và lão dông thẳng. Tôi bước theo tới phòng ngoài rồi quay lại. Nhìn qua khung kính vào phòng xác tôi lại rên lên khốn khổ. Cô nàng Z.L. vẫn nằm chình ình trong ngăn kéo mười bốn.
- Ðàng hoàng coi.
Tôi lầm thầm với cô ta.
- Tôi nhắm mắt rồi mở ra là cô phải biến mất à nghen!
Tôi nhắm mắt rồi mở ra. Vẫn y nguyên. Tôi bước tới bàn rồi sụm xuống nhưng cũng chẳng được lâu. Có tiếng chuông kêu ở cửa nhận xác, làm tôi muốn nhảy nhổm rồi vội vàng chạy qua phòng xác ra cửa. Smith và Macklin mở toang cửa xe chở xác, lôi một băng ca đặt một ông già ăn mặc tả tơi ra và đem vào đặt trên bàn đá.
- Ông này lao ngay vào đầu xe tải. Smith nói.
- Không giấy tờ gì hết. Macklin tiếp:
- cứ ghi là John Doe.
- Tèm lem quá hả Tully.
Smith nói trong khi tôi phủ tấm khăn lên xác chết, Smith rất khoái chọc tôi vì biết tôi yếu bao tử.
- Phải à, tôi liếm môi:
- Còn đỡ hơn con nhỏ kia.
- Nhỏ nào?
- Thì con nhỏ trong ngăn mười bốn chớ đâu?
Smith và Macklin nhìn lại ngăn kéo mười bốn nằm sau lưng tôi, rồi hai ông nhìn nhau.
- Tully, Macklin nói:
- Hôm nay có bệnh không đó?
- Bệnh gì đâu?
Tôi nghe mồ hôi trên trán muốn đóng băng lại.
- Có mất ngủ hông? Có gặp ác mộng hông?
- Ðâu có, tôi đáp.
- Nhưng con nhỏ tóc vàng ở ngăn mười bốn... Nếu không phải mấy ông đưa tới, thì chắc hai ông Collins với Snavely làm ca ban ngày có thể cho tôi biết rõ hơn.
Cả hai ông như dội ra, rồi Smith bật cười phá tan sự im lặng :
- Người đẹp tóc vàng ngăn mười bốn, ngăn của bà phù thủy bữa trước...Hay lắm Tully tao hiểu rồi.
Macklin ngơ ngác nhìn bạn:
- Tức là sao?
- Tức là, Smith đã ngớt cười:
- Thằng quỷ Tully này ở đây một mình buồn quá, nên bày chuyện xí gạt mình chơi đó mà phải không Tully?
Vậy là hai ông này cũng không nhìn thấy cô bé luôn. Nếu tôi cứ khẳng định hoài chỉ tổ cho hai người cười thôi, nên tôi cũng ráng cất lên tiếng cười hô hố.
- Ðừng để xác thiếu lạnh nghe chưa?
Smith thúc cùi chỏ vào sườn tôi cười khành khạch rồi đi ra. Macklin nhìn tôi ngơ ngác rồi đi theo. Cửa đóng lại làm tôi rầu thúi ruột. Lần đầu tiên trong đời, cảm giác chỉ có một mình trong nhà xác làm bao tử tôi teo còn một cục nhăn nhúm. Tôi đi vòng qua ngăn mười bốn, cứ như đang đi trên một chiếc cầu bằng thủy tinh bắc qua một bờ vực.
- Ði đi mà, tôi thì thầm với Z.L. Cô đâu phải xác chết. Chỉ là một hình ảnh riêng một mình tôi thấy. Nên làm ơn biến đi giùm.
Lời nói của tôi chẳng hiệu quả gì, mà chỉ làm tôi hoảng thêm khi thấy mình lầm bầm nói chuyện với một thây ma. Trở lại bàn tôi ngồi run rẩy một lát rồi chợt nghĩ ra. Có thể tất cả Olaf, Smith và Macklin đã thông đồng với nhau, có lẽ hai tay chở xác làm ca ban ngày đã mang cô Z.L. này tới, rồi cả ba toa rập để nhát ma tôi chơi. Cảm thấy an tâm hơn tôi lấy điện thoại gọi cho Juđ Lawrence. Juđ là bạn của bố tôi hiện làm cảnh sát điều tra ở đây. Chú ấy lúc nào cũng thiện cảm với tôi, và cũng chính là người giới thiệu cho tôi chỗ làm này. Chú ấy chưa về ca trực của chú ấy tới mười một giờ mới xong. Tôi gọi lại sở cảnh sát và gặp được chú.
- Chào chú Lawrence. Tully Branson đây.
- Có gì không Tully?
- Cháu có chuyện chú ơi.
- Nói đi, chú ấy đáp ngay.
- À... sổ sách đằng cháu hình như hơi lộn xộn.. Có một cô gái ở đây tóc vàng, làm y tá tên tắt là Z.L.
- Cháu phải gọi ông Olaf mà hỏi chứ.
- Phải nhưng làm sao tìm ông ấy được sau giờ làm việc, ông ấy luôn la cà quán xá. Giờ này mà gọi được ông ấy thì ông cũng nổi sùng lên cho mà xem.
- Ðúng rồi, chú Juđ bật cười:
- Chi tiết về cô gái chỉ có thế thôi hả?
- Vâng. Cô ta có vẻ tử tế lắm. Kiểu người như vậy chắc sẽ chết bình thường và quàn tại nhà chứ đâu có bỏ trong nhà xác thế này.
- ý cháu muốn nói là chết mờ ám? Juđ hỏi.
- Cháu không rõ. Nhưng có lẽ chết trong tình huống đáng nghi.
- Ok Tully để chú kiểm tra lại xem.
- Cháu làm phiền chú quá.
- Phiền gì. Chỉ cần phôn đi hỏi vài nơi là xong.
- Cám ơn chú nhiều, chú Lawrence.
Gác máy và trong khi chờ chú Juđ gọi lại, tôi mò tới cửa phòng xác nhìn vào để thấy cô ta vẫn còn nằm đó. Quả thực cô vẫn còn đó. Tôi rầu rĩ trở lại bàn. Rồi điện thoại reo.
- Nhà xác thành phố đây.
Tôi vội vàng nói vào ống nói.
- Juđ đây Tully. Phòng điều tra án mạng không có tên đó. Suốt hai mươi bốn giờ qua không có cô nào tên Z L. tóc vàng bị giết cả.
- Ô.. tôi kêu lên thất vọng.
- Chú kiểm tra danh sách y tá thành phố, chú Juđ tiếp:
- Có một cô y như cháu tả tên là Zella Langtry, y tá mới ra trường, nhà số 711 đường Eastland, làm ở bệnh viện thành phố. Nếu cô ta gặp chuyện gì thì điều đó đang xảy ra vì cô vừa hết ca trực tối nay.
Những điều nghe được đó cùng với hình ảnh cô bé trong ngăn mười bốn bỗng làm tôi nghĩ ra một điều và thấy rởn tóc gáy.
- Chú Lawrence, cháu chợt sợ rằng cô Zella sắp gặp chuyện chẳng lành.
- Cháu muốn nói gì vậy?
- Bởi vì..bữa trước..bà phù thủy Endore đệ tứ có nằm ở đây..Bà ta rất..
- Cháu nói chuyện nhảm nhí gì đó, giọng chú gay gắt:
- Bộ cháu uống rượu say rồi hả?
- Dạ không, tôi vội đáp.
- Còn gì không?
- Dạ không..cám ơn chú.
Hai mươi phút sau chiếc xe cà khổ của tôi đậu lại trên đường Eastland, đi bộ một đoạn là tôi tìm được số nhà cô ta. Ðó là một ngôi nhà nhỏ quét vôi trắng, trông khiêm tốn với mảnh sân tí tẹo phía trước. Cả khu nhà đã tối đen yên ngủ. Tôi đứng đó mấy phút và cảm thấy mình ngố ơi là ngố thì nghe tiếng máy xe ở đầu đường. Ngoảnh ra thì thấy chiếc xe buýt đang nặng nề rời bến ở ngã tư đằng kia. Ðứng khuất vào bóng cây ven đường, tôi nhận ra bóng một cô gái vừa rời xe buýt và đi bộ về phía tôi, nhưng cô không phải người duy nhất xuống xe ở bến này. Ðằng sau cô có một bóng người cao và to con. Thấy cảnh đó tôi muốn nghẹn thở luôn.
Cô chợt nhận ra có người theo mình và cô rảo bước. Người đàn ông cũng rảo theo. Cô ngoảnh lại nhìn và bước vội hơn gần như chạy. Tiếng giày đàn ông trên mặt đường nghe mồn một. Tiếng la của cô gái nghẹn lại khi gã ta đuổi kịp và quàng tay xiết cổ cô. Hai người dằng co với nhau, đôi chân cô gái đá loạn xạ. Từ chỗ nấp tôi vụt xông ra chẳng còn biết sợ là gì. Gã kia nghe tiếng chân tôi, gã quay lại buông cô gái ra thì tôi lao người bừa vào hông gã. Gã lên mạnh gối một cái trúng ngay cằm tôi. Tôi té ngồi xuống đường. Gã liền quay người bỏ chạy. Có đôi bàn tay dịu dàng đỡ tôi dậy và tôi nhìn rõ được đôi mắt của Zella Langtry lần đầu. Ðôi mắt đẹp mơ huyền và long lanh trong bóng đêm.
- Cô có sao không? tôi hỏi hơi thở còn hổn hển.
- Cám ơn tôi không sao. Còn anh?
- Bây giờ thì ổn rồi, tôi đáp.
- Thật là may anh lại có mặt kịp thời, cô ta đã bình tĩnh lại.
- Ừ.. tôi.. tình cờ đi ngang qua đây. Ðể tôi đưa cô tới nhà cho chắc ăn. Khỏi báo cảnh sát vụ này làm chi. Có thấy được mặt mũi tên kia đâu?
- Tôi đang về nhà. Nhà tôi ngay đằng kia.
Chúng tôi đi bên nhau, cô xưng tên mình là Zella, và tôi cho cô biết tôi là Tully. Ðến trước cửa nhà hai đứa tôi nhìn nhau. Tôi hỏi tôi có thể gọi điện cho cô không thì cô ấy rất hoan hỷ. Ðợi cô ấy vào hẳn trong nhà tôi mới thả bộ về chỗ đậu xe vừa đi vừa huýt sáo. Về đến nhà xác tôi đi thẳng vào phòng xác. Nếu lý thuyết của tôi đúng thì hình ảnh của Zella Langtry trong ngăn mười bốn sẽ không còn nữa, bây giờ cô đã được cứu thoát chết. Kéo ngăn số mười bốn ra, tôi đực mặt đứng nhìn vào đó. Lý thuyết của tôi đến lúc này đã hoàn toàn đúng. Hình ảnh của Zella Langtry không còn đó nữa. Nhưng thay vào đấy là một cô nàng tóc đỏ hung cũng xinh đẹp không kém.
Talmage Powell
Làm người trực đêm ở nhà xác thành phố thì cũng chẳng có gì đáng khoe, nhưng công việc này cho phép tôi vẫn đi học đầy đủ vào ban ngày và cũng có thể nghiên cứu thêm vào ban đêm, bên cạnh những nhiệm vụ phải làm vốn không nặng nề gì. Trong các ngăn kéo được đánh số và gắn thẻ, các xác chết trong đó sẽ chẳng bao giờ quấy rầy tôi, trong khi tôi đang nặn óc đánh vật với các vấn đề tích phân. Tôi vẫn nghĩ thế.
Tối hôm đó tôi tới đổi phiên cho Olaf Daly như thường lệ. Olaf là một lão già chết cứng với cái nghề này vì đã lớn tuổi và vì cái chân thọt, nên cả ngày lão chỉ mong cho tới lúc đổi phiên. Như mọi khi lão ầm ừ một câu chào rồi tạm biệt cùng một lượt. Với cái chân thọt mà lão đi ra khỏi nhà xác coi bộ nhanh nhẹn ác. Còn lại một mình trong gian phòng phía ngoài vắng lặng, tôi đặt bình thủy, chiếc radio và mấy cuốn sách lên bàn, rồi tôi lôi cuốn sổ trực to tổ bố lại gần xem qua một lượt. Olaf đã ghi chép việc xuất nhập hàng ngày bằng nét chữ khẳng khiu của lão. Một ông chết đuối. Một gã ngủ say tới bỏ mạng khi nhà bốc cháy. Một chú đánh lộn bị đâm chết. Một phụ nữ bỏ xác trôi sông...
Công việc mỗi ngày của Olaf rất đều đặn. Cả tuần qua chẳng có gì đặc biệt đáng chú ý. Ngoại trừ cái bà tuần qua nằm ở ngăn số mười bốn. Nghe đồn là phù thủy, bà ta xưng là Phù thủy Endor đệ tứ. Nhiều người tin bà gớm, bà ta sống ở một khu nghèo nàn và thất học, kiếm ăn bằng nghề đoán số đề, bán bùa ngãi... nhưng dân láng giềng nói bà ta chưa làm gì bậy. Một đêm trời nóng nực bà ta leo lên mái nhà khu chung cư. Không hiểu do trượt chân hay vì muốn bay lên mặt trăng nhưng thất bại, mà người ta thấy bả nằm phơi xác trên mặt đường nhựa, trước khu chung cư sáu tầng lầu đó, rồi được mang tới đây đặt trong ngăn số mười bốn.
Bả nằm trong ngăn đông lạnh đó bốn ngày thì có đứa con ở tận đâu đó tới nhận xác. Với Olaf thì mụ ấy chưa hoàn toàn đi khỏi đây lão già nói:
- Tao thề là có cái mùi gì ở ngăn số mười bốn đó, giống như mùi lưu huỳnh.
Tôi có thấy cái gì đâu. Mũi tôi còn đầy nghẹt mùi của phòng thí nghiệm nơi tôi đã phải trầy trật để theo kịp chúng bạn. Tôi dẹp cuốn sổ để đi tuần một vòng. Căn phòng kế cạnh thắp đèn sáng choang, nhưng lạnh tanh thênh thang và không sinh khí. Nền phòng sạch bóng thoang thoảng mùi thuốc sát trùng. Ðằng kia là cánh cửa lớn mở ra lối cho xe chở xác chạy vào, cạnh đó là cái bàn đá có chân bánh xe mặt bàn dài thượt. May mắn mà lúc này nó trống, được lau chùi sạch sẽ chờ lúc được sử dụng tới. Cái máy lạnh phát ra tiếng rù rì trầm trầm chú ý mới nghe thấy.
Ở phía tay phải giống như một tổ ong khổng lồ, là hàng hàng lớp lớp những ngăn kéo để chứa các xác chết trong khi chờ thân nhân đến nhận, hay sau cùng thì nhà nước bỏ tiền ra chôn làm phước. Ngăn kéo nào có xác đều được gắn thẻ, như thẻ hành lý trong kho trên máy bay hay tàu thủy. Thẻ được móc vào tay cầm của ngăn kéo. Tôi huýt sáo nho nhỏ chỉ vì muốn tạo một âm thanh gì đó thôi, và bắt đầu kiểm tra những thẻ theo danh sách trong sổ mà tôi vừa xem qua và nhớ được. Tới gần ngăn số mười bốn tôi chợt khịt mũi.
"A! cái mùi lưu huỳnh của lão Olaf đây!" Tôi lẩm bẩm. Ði qua ngăn kéo ấy một bước thì tôi giật mình, ngoảnh đầu rồi xoay cả người lại. Olaf đâu có ghi xác nào trong ngăn mười bốn nhưng mà có thẻ gắn ở ngăn này. Tôi cúi người tới đưa tay ra huýr sáo không thành tiếng nữa. Tôi cầm tấm thẻ lật qua lật lại. Một lần, hai lần rồi ba lần càng lúc càng nhanh. Ðứng thẳng dậy tôi gãi đầu một phát. Cả hai mặt thẻ đều trống trơn chẳng ghi gì cả. Olaf tuy già nhưng đâu đến nỗi lẩm cẩm. Quên ghi tên người vào thẻ, lão chưa từng có vụ này bao giờ. Rồi tôi nhếch mép cười. Lão già này muốn đùa đây, tôi đâu dè lão cũng khoái giỡn như thế. Tôi lại huýt sáo được thành tiếng nghe có vẻ tỉnh táo lắm nhưng không có gì hay ho.
Tôi nắm lấy tay cầm và kéo mạnh. Ngăn kéo vốn có bánh xe nên tuột ra cái rẹt. Tiếng huýt sáo của tôi chợt tắt ngúm. Một người đàn bà đang nằm trong đó! Tóc vàng coi trẻ măng và đẹp nữa mặc dù đã chết. Tôi đứng nhìn cô ta mà nghe mấy ngón chân ngọ ngoạy trong đôi giày. Nét mặt cô thật dễ thương làn da mịn màng như lụa. Ðôi mắt khép nhẹ như đang ngủ, bờ mi cong và dài đen mướt. Cô mặc bộ đồng phục y tá. Món duy nhất cho tôi biết lai lịch chút ít của cô là tấm lắc dây chuyền ở cổ tay. Trên tấm lắc có khắc hai mẫu tự Z. L.
Tôi vội vàng quay đi chạy ra phòng ngoài vồ lấy cuốn sổ trực tôi lật vội ra xem. Tôi không muốn nghi oan lão Olaf. Tôi rà một lượt ngớ người ra rà lại lần nữa. Lật trang trước coi phần ghi chép hôm qua và cả hôm kia nữa. Tuyệt nhiên không có ai được đưa vào ngăn mười bốn cả. Tôi chu mỏ nhưng huýt sáo không nổi và bước tới cửa vào phòng lạnh. Phía trên cửa có hai khung kiếng nên tôi có thể nhìn vào trong mà không cần mở cửa. Ngăn kéo mười bốn bị lôi kéo ra vẫn còn nguyên ở đó, và cô Z. L. tóc vàng vẫn nằm chần dần một đống như cũ.
Tôi cẩn thận ngồi xuống ghế rút khăn tay ra và lau trán. Hít một hơi dài tôi nhấc phôn lên quay số của Olaf. Khi nghe tiếng chuông, tôi còn liếc lại cửa phòng lạnh. Giọng vợ Olaf nghe ngái ngủ:
- Ồ rất tiếc. Ông Olaf nhà tôi chưa về.
Rồi chợt giọng bà ta nghe tử tế hơn.
- Chờ chút tôi nghe tiếng ông ấy mở cửa.
Giọng Olaf vang lên sau tiếng đằng hắng:
- Rồi, chuyện gì ?
- Tully Branson đây bác Olaf.
- Không có cái vụ trực thế cho mày đi nhậu với bạn đâu à nghen!
- Không có đâu, tôi đáp.
- Cháu chỉ muốn biết về cái cô trong ngăn mười bốn.
- Không có ai trong ngăn mười bốn hết, Tully.
- Có mà thưa bác. Một cô tóc vàng đàng hoàng. Trẻ và đẹp chết uổng hết sức. Chắc bác nhớ ra hén có điều bác quên ghi sổ nhập cho cô ấy.
Tôi nghe tiếng bà Olaf hỏi chồng chuyện gì đó, rồi nghe ông ta nói với vợ:
- Chắc cái thằng Tully này đêm nay nó mang rượu vô đó uống quá!
- Không có bác ơi, tôi cự liền.
- Cháu khoái nhậu nhưng không có mang rượu vô đây à nghen! Chỉ có chuyện cô tóc vàng ở ngăn mười bốn bác quên ghi sổ thôi!
- Ðời nào tao lại quên chuyện đó được?
- Có mà. Không tin bác ghé đây coi đi.
- Tao sẽ tới con ạ! Sai sót này lớn lắm chứ chơi đâu.
Lão dộng ống nói xuống thiếu điều làm tôi thủng cả màng nhĩ. Còn tôi thì nhẹ nhàng đặt ống nói xuống, lấy bình thủy rót một ít cà phê ra, đốt một điếu thuốc, nhấp một ít cà phê châm một điếu thuốc. Nhấp miếng cà phê nữa cất bình thủy vào chỗ của nó, thò tay lấy gói thuốc lúc đó tôi mới nhìn thấy mình đã châm hai điếu bỏ trên gạt tàn. Tôi mếu miệng cười dụi tắt một điếu để dành đêm khuya.
Với bước chân khập khiễng lão Olaf bước vào cứ như một con tàu đi trong giông bão. Ðáp lại ánh mắt trợn trừng của lão, tôi chỉ mỉm cười với tất cả sự chắc ăn mình có được và mời lão vào phòng xác. Lão đi qua cánh cửa tôi theo sát nút. Ngăn mười bốn vẫn còn kéo lòi ra ngoài ở đó. Lão chẳng cần đi tới nơi. Nhìn một cái lão quay lại liền:
- Tully, lão nói:
- Tao mà còn trẻ là đập bể mặt mày liền. Mày bắt một người già mệt nhọc nửa đêm tới một nơi hôi thối như thế này đó hả? Vậy mà lâu nay tao cứ nghĩ mày là thằng nhóc tử tế đó!
- Nhưng bác Olaf...
- Không có "nhưng" gì cả cái vụ này tao sẽ báo cáo!
Tôi trợn mắt nhìn ngăn mười bốn như thằng khùng. Cô ta vẫn còn đó thù lù một đống. Tóc vàng xinh đẹp và chết cứng. Olaf xô tôi qua một bên và bước đi. Tôi níu lấy tay lão. Tôi đúng là còn nhỏ tuổi nhưng cũng đã mọc râu rồi. Tôi kêu lên:
- Bác Olaf.. bác thấy mà..cháu biết bác thấy mà.
- Bỏ cái tay ra nghe chưa, lão quát:
- Tao thấy rõ ràng là cái ngăn kéo trống trơn, y hệt cái đầu óc của mày vậy.
Tôi cứ níu tay lão không cho đi:
- Cháu không có chịu giỡn kiểu này đâu.
- Thì tao cũng vậy.
Lão quát vào mặt tôi.
- Giỡn gì cà chớn.
- Thì bác coi kỹ cái ngăn đi đừng giỡn nữa mà.
- Thì tao đã coi rồi. Không có gì hết ngoài một thằng nhóc láo lếu dám bày trò thối tha là bắt một người già phải nửa đêm tới đây.
Lão giật tay ra và bước nhanh ra ngoài. Ðến cửa lão quay lại dứ dứ ngón tay về phía tôi:
- Nè nhóc tốt nhất là từ mai mày lo kiếm việc làm khác đi.
Và lão dông thẳng. Tôi bước theo tới phòng ngoài rồi quay lại. Nhìn qua khung kính vào phòng xác tôi lại rên lên khốn khổ. Cô nàng Z.L. vẫn nằm chình ình trong ngăn kéo mười bốn.
- Ðàng hoàng coi.
Tôi lầm thầm với cô ta.
- Tôi nhắm mắt rồi mở ra là cô phải biến mất à nghen!
Tôi nhắm mắt rồi mở ra. Vẫn y nguyên. Tôi bước tới bàn rồi sụm xuống nhưng cũng chẳng được lâu. Có tiếng chuông kêu ở cửa nhận xác, làm tôi muốn nhảy nhổm rồi vội vàng chạy qua phòng xác ra cửa. Smith và Macklin mở toang cửa xe chở xác, lôi một băng ca đặt một ông già ăn mặc tả tơi ra và đem vào đặt trên bàn đá.
- Ông này lao ngay vào đầu xe tải. Smith nói.
- Không giấy tờ gì hết. Macklin tiếp:
- cứ ghi là John Doe.
- Tèm lem quá hả Tully.
Smith nói trong khi tôi phủ tấm khăn lên xác chết, Smith rất khoái chọc tôi vì biết tôi yếu bao tử.
- Phải à, tôi liếm môi:
- Còn đỡ hơn con nhỏ kia.
- Nhỏ nào?
- Thì con nhỏ trong ngăn mười bốn chớ đâu?
Smith và Macklin nhìn lại ngăn kéo mười bốn nằm sau lưng tôi, rồi hai ông nhìn nhau.
- Tully, Macklin nói:
- Hôm nay có bệnh không đó?
- Bệnh gì đâu?
Tôi nghe mồ hôi trên trán muốn đóng băng lại.
- Có mất ngủ hông? Có gặp ác mộng hông?
- Ðâu có, tôi đáp.
- Nhưng con nhỏ tóc vàng ở ngăn mười bốn... Nếu không phải mấy ông đưa tới, thì chắc hai ông Collins với Snavely làm ca ban ngày có thể cho tôi biết rõ hơn.
Cả hai ông như dội ra, rồi Smith bật cười phá tan sự im lặng :
- Người đẹp tóc vàng ngăn mười bốn, ngăn của bà phù thủy bữa trước...Hay lắm Tully tao hiểu rồi.
Macklin ngơ ngác nhìn bạn:
- Tức là sao?
- Tức là, Smith đã ngớt cười:
- Thằng quỷ Tully này ở đây một mình buồn quá, nên bày chuyện xí gạt mình chơi đó mà phải không Tully?
Vậy là hai ông này cũng không nhìn thấy cô bé luôn. Nếu tôi cứ khẳng định hoài chỉ tổ cho hai người cười thôi, nên tôi cũng ráng cất lên tiếng cười hô hố.
- Ðừng để xác thiếu lạnh nghe chưa?
Smith thúc cùi chỏ vào sườn tôi cười khành khạch rồi đi ra. Macklin nhìn tôi ngơ ngác rồi đi theo. Cửa đóng lại làm tôi rầu thúi ruột. Lần đầu tiên trong đời, cảm giác chỉ có một mình trong nhà xác làm bao tử tôi teo còn một cục nhăn nhúm. Tôi đi vòng qua ngăn mười bốn, cứ như đang đi trên một chiếc cầu bằng thủy tinh bắc qua một bờ vực.
- Ði đi mà, tôi thì thầm với Z.L. Cô đâu phải xác chết. Chỉ là một hình ảnh riêng một mình tôi thấy. Nên làm ơn biến đi giùm.
Lời nói của tôi chẳng hiệu quả gì, mà chỉ làm tôi hoảng thêm khi thấy mình lầm bầm nói chuyện với một thây ma. Trở lại bàn tôi ngồi run rẩy một lát rồi chợt nghĩ ra. Có thể tất cả Olaf, Smith và Macklin đã thông đồng với nhau, có lẽ hai tay chở xác làm ca ban ngày đã mang cô Z.L. này tới, rồi cả ba toa rập để nhát ma tôi chơi. Cảm thấy an tâm hơn tôi lấy điện thoại gọi cho Juđ Lawrence. Juđ là bạn của bố tôi hiện làm cảnh sát điều tra ở đây. Chú ấy lúc nào cũng thiện cảm với tôi, và cũng chính là người giới thiệu cho tôi chỗ làm này. Chú ấy chưa về ca trực của chú ấy tới mười một giờ mới xong. Tôi gọi lại sở cảnh sát và gặp được chú.
- Chào chú Lawrence. Tully Branson đây.
- Có gì không Tully?
- Cháu có chuyện chú ơi.
- Nói đi, chú ấy đáp ngay.
- À... sổ sách đằng cháu hình như hơi lộn xộn.. Có một cô gái ở đây tóc vàng, làm y tá tên tắt là Z.L.
- Cháu phải gọi ông Olaf mà hỏi chứ.
- Phải nhưng làm sao tìm ông ấy được sau giờ làm việc, ông ấy luôn la cà quán xá. Giờ này mà gọi được ông ấy thì ông cũng nổi sùng lên cho mà xem.
- Ðúng rồi, chú Juđ bật cười:
- Chi tiết về cô gái chỉ có thế thôi hả?
- Vâng. Cô ta có vẻ tử tế lắm. Kiểu người như vậy chắc sẽ chết bình thường và quàn tại nhà chứ đâu có bỏ trong nhà xác thế này.
- ý cháu muốn nói là chết mờ ám? Juđ hỏi.
- Cháu không rõ. Nhưng có lẽ chết trong tình huống đáng nghi.
- Ok Tully để chú kiểm tra lại xem.
- Cháu làm phiền chú quá.
- Phiền gì. Chỉ cần phôn đi hỏi vài nơi là xong.
- Cám ơn chú nhiều, chú Lawrence.
Gác máy và trong khi chờ chú Juđ gọi lại, tôi mò tới cửa phòng xác nhìn vào để thấy cô ta vẫn còn nằm đó. Quả thực cô vẫn còn đó. Tôi rầu rĩ trở lại bàn. Rồi điện thoại reo.
- Nhà xác thành phố đây.
Tôi vội vàng nói vào ống nói.
- Juđ đây Tully. Phòng điều tra án mạng không có tên đó. Suốt hai mươi bốn giờ qua không có cô nào tên Z L. tóc vàng bị giết cả.
- Ô.. tôi kêu lên thất vọng.
- Chú kiểm tra danh sách y tá thành phố, chú Juđ tiếp:
- Có một cô y như cháu tả tên là Zella Langtry, y tá mới ra trường, nhà số 711 đường Eastland, làm ở bệnh viện thành phố. Nếu cô ta gặp chuyện gì thì điều đó đang xảy ra vì cô vừa hết ca trực tối nay.
Những điều nghe được đó cùng với hình ảnh cô bé trong ngăn mười bốn bỗng làm tôi nghĩ ra một điều và thấy rởn tóc gáy.
- Chú Lawrence, cháu chợt sợ rằng cô Zella sắp gặp chuyện chẳng lành.
- Cháu muốn nói gì vậy?
- Bởi vì..bữa trước..bà phù thủy Endore đệ tứ có nằm ở đây..Bà ta rất..
- Cháu nói chuyện nhảm nhí gì đó, giọng chú gay gắt:
- Bộ cháu uống rượu say rồi hả?
- Dạ không, tôi vội đáp.
- Còn gì không?
- Dạ không..cám ơn chú.
Hai mươi phút sau chiếc xe cà khổ của tôi đậu lại trên đường Eastland, đi bộ một đoạn là tôi tìm được số nhà cô ta. Ðó là một ngôi nhà nhỏ quét vôi trắng, trông khiêm tốn với mảnh sân tí tẹo phía trước. Cả khu nhà đã tối đen yên ngủ. Tôi đứng đó mấy phút và cảm thấy mình ngố ơi là ngố thì nghe tiếng máy xe ở đầu đường. Ngoảnh ra thì thấy chiếc xe buýt đang nặng nề rời bến ở ngã tư đằng kia. Ðứng khuất vào bóng cây ven đường, tôi nhận ra bóng một cô gái vừa rời xe buýt và đi bộ về phía tôi, nhưng cô không phải người duy nhất xuống xe ở bến này. Ðằng sau cô có một bóng người cao và to con. Thấy cảnh đó tôi muốn nghẹn thở luôn.
Cô chợt nhận ra có người theo mình và cô rảo bước. Người đàn ông cũng rảo theo. Cô ngoảnh lại nhìn và bước vội hơn gần như chạy. Tiếng giày đàn ông trên mặt đường nghe mồn một. Tiếng la của cô gái nghẹn lại khi gã ta đuổi kịp và quàng tay xiết cổ cô. Hai người dằng co với nhau, đôi chân cô gái đá loạn xạ. Từ chỗ nấp tôi vụt xông ra chẳng còn biết sợ là gì. Gã kia nghe tiếng chân tôi, gã quay lại buông cô gái ra thì tôi lao người bừa vào hông gã. Gã lên mạnh gối một cái trúng ngay cằm tôi. Tôi té ngồi xuống đường. Gã liền quay người bỏ chạy. Có đôi bàn tay dịu dàng đỡ tôi dậy và tôi nhìn rõ được đôi mắt của Zella Langtry lần đầu. Ðôi mắt đẹp mơ huyền và long lanh trong bóng đêm.
- Cô có sao không? tôi hỏi hơi thở còn hổn hển.
- Cám ơn tôi không sao. Còn anh?
- Bây giờ thì ổn rồi, tôi đáp.
- Thật là may anh lại có mặt kịp thời, cô ta đã bình tĩnh lại.
- Ừ.. tôi.. tình cờ đi ngang qua đây. Ðể tôi đưa cô tới nhà cho chắc ăn. Khỏi báo cảnh sát vụ này làm chi. Có thấy được mặt mũi tên kia đâu?
- Tôi đang về nhà. Nhà tôi ngay đằng kia.
Chúng tôi đi bên nhau, cô xưng tên mình là Zella, và tôi cho cô biết tôi là Tully. Ðến trước cửa nhà hai đứa tôi nhìn nhau. Tôi hỏi tôi có thể gọi điện cho cô không thì cô ấy rất hoan hỷ. Ðợi cô ấy vào hẳn trong nhà tôi mới thả bộ về chỗ đậu xe vừa đi vừa huýt sáo. Về đến nhà xác tôi đi thẳng vào phòng xác. Nếu lý thuyết của tôi đúng thì hình ảnh của Zella Langtry trong ngăn mười bốn sẽ không còn nữa, bây giờ cô đã được cứu thoát chết. Kéo ngăn số mười bốn ra, tôi đực mặt đứng nhìn vào đó. Lý thuyết của tôi đến lúc này đã hoàn toàn đúng. Hình ảnh của Zella Langtry không còn đó nữa. Nhưng thay vào đấy là một cô nàng tóc đỏ hung cũng xinh đẹp không kém.
Talmage Powell
#80
Gửi vào 18/06/2011 - 07:28
UẤT KHÍ CHƯA TAN
Nghe có người đòi đọc chuyện ma nên Lạc Long viết câu chuyện ma có thiệt do chính người bà con đã bị ma nhát kể lại.
Phần tin tức bình luận vừa dứt, làn sóng từ đài truyền thanh chuyển ngay sang khúc nhạc hiệu quen thuộc lẫn tiếng nói lồng lộng của người xướng ngôn, "Ðây đài tiếng nói nước VNCH phát thanh từ thủ đô Sài Gòn trên các làn sóng điện từ.. Sau đây là phần nhạc tuyển của buổi trưa hôm nay và bài đầu tiên cuả buổỉ phát thanh, nhân dịp Xuân Nhâm Dần đang về trên khắp nẽo đường quê hương, chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu nhạc phẩm "Xuân thì" do Phạm Duy sáng tác với giọng ca của nữ ca sĩ Thái Thanh xin mời quý thính giả lắng nghe..
"Tình xuân chớm nở (ớ).. đêm qua.. Ngày xuân con én (ứ).. đưa thoi có người nhớ đến (í).. những lời yêu mến nhau.." Tôi say mê nghe những bài nhạc được phát thanh từ máy thâu thanh nhỏ, để trên cái bàn nước kê sát tường, ở phía dưới giường ngủ vốn là một bộ ván gỗ. Nhìn vào chiếc tủ thật lớn đặt cạnh bàn nước, có gắn tấm kiếng hột xoài cũng to bằng mặt tủ, tôi thấy như gió xuân đang len lén thấm vào tận đáy lòng, mơ mộng theo từng lời ca của các bài hát, mặc dù chương trình buổi phát thanh đã xong từ lâu.
Bất giác tôi nhớ trực đến anh T. cũng cháu của dượng Sáu tôi đang ở cùng nhà. Cái anh chàng thấy ghét! Ở tận trên lầu mà mấy hôm nay cứ tới khuya đợi cả nhà ngủ hết, rồi mò xuống đi luẩn quẩn ngoài mùng người ta một lát, hổng nói năng gì hết rồi dọt lên lầu ngủ mất làm người ta vừa sợ vừa mắc cỡ, kéo mền co người ngủ hổng yên tâm cả đêm. Nằm nướng thêm một hồi tôi mới vươn vai ngồi dậy, bước tới bàn nước trà cạnh cáí tủ kiếng hột xoài, rót một ly thật đầy, uống ực một cái cho trôi đi những xao xuyến bàng hoàng trong lòng nãy giờ, rồi quẹo ra cửa xuống bếp để lo cho bữa cơm chiều.
Chỗ ngủ mới của tôi mới dọn từ hai, ba tuần nay vì cái giường lớn chỗ cũ tuy kín đáo hơn, nhưng vì phải để đầy các thức ăn sửa soạn cho những ngày tết sắp đến, nhất là hai chục trái dưa hấu thật to xanh mướt, nên tôi phải dọn qua ngủ đỡ chỗ bộ ván này. Bộ ván đã lên nước thật láng lẫm được kê sát vào góc tường, ngay dưới khúc quanh của cầu thang lớn đúc gạch bê tông, tay vịn bằng sắt chắc chắn. Từ phía nhà thật rộng đằng trước, phải đi qua một cái cửa mới vào chỗ ngủ mới của tôi, qua thêm khung cửa nữa thì bước ra sàn nước lộ thiên đằng sau, rồi mới tới căn nhà bếp xây liền kế cận.
Chỗ nằm mới này cũng là chỗ mọi người đi từ đằng trước ra đằng sau, lên lầu hoặc xuống sau bếp nên cả hai lối ra vào đã bỏ hẳn cánh cửa từ lâu để tiện việc đi lại. Cũng tại vậy nên cái anh chàng T. này tối tối mới đi xuống lầu … rình mò như ăn trộm mà không sợ ai hay, chứ hồi chỗ ngủ cũ kín đáo thì sức mấy.. Nhiều đêm cứ vừa xuống nấc cuối của thang lầu sát bên đầu bộ ván của người ta, thì đứng đó im lìm nhìn chầm chầm vào mùng một hồi lâu mới chịu đi lên lầu ngủ. Người gì gì..mà đáng ghét quá chừng! Từ tỉnh lên Sài Gòn hổng lo học thi tú tài cứ lo rình gái, thức khuya hoài sáng dậy học hổng vô rủi bị rớt thì sao.
Những ngày càng gần tết bầu không khí chung quanh càng hớn hở náo nhiệt hơn. Dượng Sáu tôi vốn là một công chức nhà nước, nên cả nhà đang sống trong hai dãy nhà của chính phủ cấp cho được xây từ thời Pháp thuộc. Nghe nói là trước kia khu phố này chỉ dành cho người viên chức tây mới được ở đây. Cả hai dãy đâu lưng nhau, mười bốn căn trước và đằng sau cũng là mười bốn căn phố. Căn chúng tôi cư ngụ là căn thứ mười một ở dãy trước, ngay mặt đại lộ Trần Hưng Ðạo giữa thành phố Chợ Lớn đầy người Hoa, nên tết đến thì đường phố càng ồn ào tấp nập hơn.
Miền Nam thuở đó đang thanh bình sung túc nên nhà nhà đều ăn tết thực lớn. Tôi làm việc mỗi ngày không hở tay. Tối đến thì lăn ra ngủ mê mệt như chết nên mấy ngày hôm nay không biết có ai lo rình rập gì hay không nữa? Ban ngày đi ra đi vô gặp nhau, tôi thảy cho anh chàng T. một phát nháng lửa, thằng chả thì cứ tủm tỉm cười mỉm chi cọp, thấy mà phát ghét! Tôi tức mình nói thầm. "Hôm nào bắt tại trận cho quê mặt chơi". Nói là làm liền nên tối đó, mặc dù nhướng con mắt gần hết muốn lên, tôi cũng ráng thức nằm im trong mùng. Lúc đó cả nhà đã im lặng ngủ yên. Bầu không khí càng lúc càng yên tỉnh, trời cũng đã trở nên lành lạnh.
Trong ánh sáng lù mù tỏa ra từ cây đèn dầu ở bàn nước, phía dưới bộ ván hắt yếu ớt lên phía đầu cầu thang sát ngay đầu nằm, tôi trùm mền co ro nằm im hé mắt ngó lên hàng lan can của thang lầu ở ngay trên nóc mùng. Ðột nhiên lúc tôi liếc ngang thì giật mình, vì thấy một bóng người lờ mờ đứng sững ngay đầu cầu thang từ hồi nào nhìn vào trong mùng. Trong lòng hồi hộp nhưng với bản tính lì lợm nên tôi nằm im thin thít nhìn thẳng ngay người đó. Qua ánh đèn dầu ui ui, tôi thấy hình dáng mờ mờ to lớn đứng im bất động. Tôi mỉm cười trong bụng từ từ tốc mền ra thật nhanh, khoát mùng ló đầu ra thì thấy anh chàng T. quay lưng chạy ngược lên lầu. Tôi bước hẳn xuống đất ngoái nhìn phía trên lầu.
Qua lan can cầu thang ngay trên nóc mùng, lạ chưa tôi thấy bóng ảnh như bay lướt lên, rồi tan biến vào khoảng tối ở khúc quẹo của đầu thang phía trên. Tôi lạ lùng khi thấy sự việc như vậy. Ðang ngơ ngác thì chợt một luồng không khí ớn lạnh từ phía trên lan can lầu bao trùm lấy cả người. Cái lạnh rờn rợn kỳ lạ làm tôi phát rùng mình mấy cái. Lạnh quá ! Tôi lật đật nhào vô mùng trùm mền kín mít. "Không biết cái anh này làm cái trò kỳ cục gì vậy. Làm người ta sợ gần chết hà!". Tôi nằm vừa run vừa rủa thầm rồi ngủ quên hồi nào không biết. Sáng hôm sau tôi định lúc gặp mặt anh T. sẽ la cho một trận.. nho nhỏ, nhưng suốt ngày hôm đó bận rộn mọi chuyện quá tôi cũng quên khuấy luôn.
Câu chuyện xảy ra tối hôm sau đó, thì mới thật sự là kinh hoàng làm tôi còn sợ tới bây giờ.. Tối hôm sau dọn dẹp mọi chuyện xong xuôi, gần mười một giờ tôi mới đi ngủ. Tuy làm việc cả ngày mệt mỏi nhưng tôi nằm trằn trọc mà vẫn chưa ngủ được. Chiếc đồng hồ treo ở căn phòng phía trước thong thả đánh mười hai tiếng vang lên giữa màn đêm tĩnh mịch. Tiếng gõ nhịp đều đặn làm đôi mắt như ríu lại và tôi bắt đầu mơ màng đi vào giấc ngủ. Chợt lúc đó thấp thoáng ở cuối bộ ván trong ánh đèn dầu leo lét, tôi thấy bóng một người đàn bà ngồi lặng lẽ ngoài mùng đang chậm rải may vá gì đó. Tôi nghĩ bụng. "Không biết giờ này mà cô Sáu tôi còn làm gì mà may đồ khuya lơ khuya lắc như vậy?".
Bật ngồi dậy tôi buột miệng:
- Giờ này mà cô còn may cái gì …
Chưa kịp dứt lời thì thấy người cô đã lẹ làng đứng nhổm dậy, đi thiệt lẹ ra khu sàn nước tối om ở đàng sau. Thấy vậy tôi cũng không hỏi thêm, chỉ nằm xuống lại quay mặt vô vách cố ngủ vì trời cũng đã quá khuya. Vài phút sau lúc tôi trở mình nằm ngửa nhìn lên thì...lạ chưa, có một đôi chân lắc lư tòn ten qua lại phía trên không. Dưới ánh đèn dầu yếu ớt tôi cố nhướng mắt nhìn kỷ vì tưởng mình hoa mắt. Nhưng không, rõ ràng là có đôi bàn chân duỗi thẳng đong đưa qua lại ngay trên nóc mùng.
Lúc đầu tưởng anh chàng T. chọc ghẹo gì tôi, nhưng... trời đất quỷ thần ơi! Nó từ từ hạ xuống đứng sát cạnh bộ ván. Tôi thấy rõ là ngườì đàn bà khi nảy đã đi ra đằng sau nhà bếp mà.. Tôi ngồi bật dậy lùi lại dựa sát tường, nhìn đăm đăm vào cái bóng đen chập chờn cũng đang trừng trừng nhìn lại. Tự nhiên tôi cảm thấy đôi tay nắm chặt cái mền trước ngực đang run bằn bặt! Từ từ nó cúi xuống... "Úy mèn đất ơi!" Không hiểu làm sao nó thò đầu được qua cái mùng đưa khuôn mặt nhợt nhạt đến sát mặt tôi. Cặp mắt chỉ toàn là tròng trắng của nó, vừa nhìn trừng trừng vào đôi mắt tôi, vừa chờn vờn giơ một sợi dây đong đưa qua lại.
Nhìn một hồi lâu rồi nhẹ nhàng tròng sợi dây vào đầu tôi. Chợt tôi nghe một mùi hôi thối từ sợi dây xông lên nồng nặc. Tôi nhớ lúc đó tôi vẫn còn bình tỉnh định mở miệng ra hỏi: Bà làm cái gì vậy... Bà là ai? Nhưng ngay tức khắc lúc đó thay vì mở miệng để hỏi, tôi chỉ kịp nghe từ cổ họng tôi phát ra một tiếng hét thật to. Trước khi tất cả tối xầm lại, tôi còn thấy rõ sợi dây đang tiếp tục tròng vào trong cổ tôi...
Ở Chợ Lớn được ba năm thì dượng Sáu tôi phải thuyên chuyển qua quận khác làm việc. Trong ngày cuối lúc cả nhà đi từ giã hàng xóm chung quanh để dọn đi, bà chủ nhà căn mười bốn ở bìa dãy phố mới ngập ngừng nói cho biết câu chuyện từ mấy chục năm về trước, có một bà đầm vì giận tên chồng tây tối ngày cứ lăng nhăng với những người đàn bà khác, nên đã thắt cổ tự vận ở cầu thang ngay trong căn số mười một. Nghe nói bà ta treo cổ tự tử lúc giữa đêm khuya, tới sáng chồng về mới phát giác ra thì mặt mày người vợ đã tím ngắt và chết cứng từ lâu. Sau này sống ở đất khách quê người tôi vẫn ghẹo anh T.
- Qua đây toàn là gái đầm không, anh mà rình mò là chết với em à nghen!
Anh T. cười:
- May là không có rình em hồi đó mà còn thất kinh hồn vía! Giờ này còn dám rình rập ai nữa. Tối hôm đó đang nằm trằn trọc nghĩ tới em, thì anh nghe tiếng em la lớn thật khủng khiếp, anh tông mùng nhảy xuống dưới lầu liền. Lúc tới bộ ván, tốc mùng ra thì thấy em đã xỉu từ đời nào! Thật tình anh có thấy ai ở đó đâu ?
Tôi nắm lấy tay chồng:
- Ai cũng nói không biết mặt mũi người đàn bà tây đó ra sao mà ghen đến nổi tự tử kiểu đó? Nhưng đến bây giờ em vẫn còn nhớ rõ khuôn mặt tím bầm của bả nhìn trừng trừng vô em lúc đó..
Tôi chợt rùng mình nhìn chồng lòng cảm thấy thật ấm áp. Ngoài trời cơn mưa tuyết đầu mùa đang thả rơi không ngớt những bông hoa trắng nõn lên hàng thông đứng chơ vơ dưới ánh đèn đường vàng vọt. Bầu không gian thật yên lặng trời hình như đã vào giữa khuya thì phải. Nếu có bạn nào về lại Việt Nam, hãy đi vô quận năm Chợ lớn, từ tửu lầu Đồng Khánh trên đường Trần Hưng Đạo nhìn xéo qua bên kia đường, bạn sẽ nhìn thấy một dãy nhà của chính phủ, không biết bây giờ trở thành cơ quan gì. Căn thứ mười một chính là căn nhà mà bà chị họ đã ở hồi xưa.
Lạc Long
Nghe có người đòi đọc chuyện ma nên Lạc Long viết câu chuyện ma có thiệt do chính người bà con đã bị ma nhát kể lại.
Phần tin tức bình luận vừa dứt, làn sóng từ đài truyền thanh chuyển ngay sang khúc nhạc hiệu quen thuộc lẫn tiếng nói lồng lộng của người xướng ngôn, "Ðây đài tiếng nói nước VNCH phát thanh từ thủ đô Sài Gòn trên các làn sóng điện từ.. Sau đây là phần nhạc tuyển của buổi trưa hôm nay và bài đầu tiên cuả buổỉ phát thanh, nhân dịp Xuân Nhâm Dần đang về trên khắp nẽo đường quê hương, chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu nhạc phẩm "Xuân thì" do Phạm Duy sáng tác với giọng ca của nữ ca sĩ Thái Thanh xin mời quý thính giả lắng nghe..
"Tình xuân chớm nở (ớ).. đêm qua.. Ngày xuân con én (ứ).. đưa thoi có người nhớ đến (í).. những lời yêu mến nhau.." Tôi say mê nghe những bài nhạc được phát thanh từ máy thâu thanh nhỏ, để trên cái bàn nước kê sát tường, ở phía dưới giường ngủ vốn là một bộ ván gỗ. Nhìn vào chiếc tủ thật lớn đặt cạnh bàn nước, có gắn tấm kiếng hột xoài cũng to bằng mặt tủ, tôi thấy như gió xuân đang len lén thấm vào tận đáy lòng, mơ mộng theo từng lời ca của các bài hát, mặc dù chương trình buổi phát thanh đã xong từ lâu.
Bất giác tôi nhớ trực đến anh T. cũng cháu của dượng Sáu tôi đang ở cùng nhà. Cái anh chàng thấy ghét! Ở tận trên lầu mà mấy hôm nay cứ tới khuya đợi cả nhà ngủ hết, rồi mò xuống đi luẩn quẩn ngoài mùng người ta một lát, hổng nói năng gì hết rồi dọt lên lầu ngủ mất làm người ta vừa sợ vừa mắc cỡ, kéo mền co người ngủ hổng yên tâm cả đêm. Nằm nướng thêm một hồi tôi mới vươn vai ngồi dậy, bước tới bàn nước trà cạnh cáí tủ kiếng hột xoài, rót một ly thật đầy, uống ực một cái cho trôi đi những xao xuyến bàng hoàng trong lòng nãy giờ, rồi quẹo ra cửa xuống bếp để lo cho bữa cơm chiều.
Chỗ ngủ mới của tôi mới dọn từ hai, ba tuần nay vì cái giường lớn chỗ cũ tuy kín đáo hơn, nhưng vì phải để đầy các thức ăn sửa soạn cho những ngày tết sắp đến, nhất là hai chục trái dưa hấu thật to xanh mướt, nên tôi phải dọn qua ngủ đỡ chỗ bộ ván này. Bộ ván đã lên nước thật láng lẫm được kê sát vào góc tường, ngay dưới khúc quanh của cầu thang lớn đúc gạch bê tông, tay vịn bằng sắt chắc chắn. Từ phía nhà thật rộng đằng trước, phải đi qua một cái cửa mới vào chỗ ngủ mới của tôi, qua thêm khung cửa nữa thì bước ra sàn nước lộ thiên đằng sau, rồi mới tới căn nhà bếp xây liền kế cận.
Chỗ nằm mới này cũng là chỗ mọi người đi từ đằng trước ra đằng sau, lên lầu hoặc xuống sau bếp nên cả hai lối ra vào đã bỏ hẳn cánh cửa từ lâu để tiện việc đi lại. Cũng tại vậy nên cái anh chàng T. này tối tối mới đi xuống lầu … rình mò như ăn trộm mà không sợ ai hay, chứ hồi chỗ ngủ cũ kín đáo thì sức mấy.. Nhiều đêm cứ vừa xuống nấc cuối của thang lầu sát bên đầu bộ ván của người ta, thì đứng đó im lìm nhìn chầm chầm vào mùng một hồi lâu mới chịu đi lên lầu ngủ. Người gì gì..mà đáng ghét quá chừng! Từ tỉnh lên Sài Gòn hổng lo học thi tú tài cứ lo rình gái, thức khuya hoài sáng dậy học hổng vô rủi bị rớt thì sao.
Những ngày càng gần tết bầu không khí chung quanh càng hớn hở náo nhiệt hơn. Dượng Sáu tôi vốn là một công chức nhà nước, nên cả nhà đang sống trong hai dãy nhà của chính phủ cấp cho được xây từ thời Pháp thuộc. Nghe nói là trước kia khu phố này chỉ dành cho người viên chức tây mới được ở đây. Cả hai dãy đâu lưng nhau, mười bốn căn trước và đằng sau cũng là mười bốn căn phố. Căn chúng tôi cư ngụ là căn thứ mười một ở dãy trước, ngay mặt đại lộ Trần Hưng Ðạo giữa thành phố Chợ Lớn đầy người Hoa, nên tết đến thì đường phố càng ồn ào tấp nập hơn.
Miền Nam thuở đó đang thanh bình sung túc nên nhà nhà đều ăn tết thực lớn. Tôi làm việc mỗi ngày không hở tay. Tối đến thì lăn ra ngủ mê mệt như chết nên mấy ngày hôm nay không biết có ai lo rình rập gì hay không nữa? Ban ngày đi ra đi vô gặp nhau, tôi thảy cho anh chàng T. một phát nháng lửa, thằng chả thì cứ tủm tỉm cười mỉm chi cọp, thấy mà phát ghét! Tôi tức mình nói thầm. "Hôm nào bắt tại trận cho quê mặt chơi". Nói là làm liền nên tối đó, mặc dù nhướng con mắt gần hết muốn lên, tôi cũng ráng thức nằm im trong mùng. Lúc đó cả nhà đã im lặng ngủ yên. Bầu không khí càng lúc càng yên tỉnh, trời cũng đã trở nên lành lạnh.
Trong ánh sáng lù mù tỏa ra từ cây đèn dầu ở bàn nước, phía dưới bộ ván hắt yếu ớt lên phía đầu cầu thang sát ngay đầu nằm, tôi trùm mền co ro nằm im hé mắt ngó lên hàng lan can của thang lầu ở ngay trên nóc mùng. Ðột nhiên lúc tôi liếc ngang thì giật mình, vì thấy một bóng người lờ mờ đứng sững ngay đầu cầu thang từ hồi nào nhìn vào trong mùng. Trong lòng hồi hộp nhưng với bản tính lì lợm nên tôi nằm im thin thít nhìn thẳng ngay người đó. Qua ánh đèn dầu ui ui, tôi thấy hình dáng mờ mờ to lớn đứng im bất động. Tôi mỉm cười trong bụng từ từ tốc mền ra thật nhanh, khoát mùng ló đầu ra thì thấy anh chàng T. quay lưng chạy ngược lên lầu. Tôi bước hẳn xuống đất ngoái nhìn phía trên lầu.
Qua lan can cầu thang ngay trên nóc mùng, lạ chưa tôi thấy bóng ảnh như bay lướt lên, rồi tan biến vào khoảng tối ở khúc quẹo của đầu thang phía trên. Tôi lạ lùng khi thấy sự việc như vậy. Ðang ngơ ngác thì chợt một luồng không khí ớn lạnh từ phía trên lan can lầu bao trùm lấy cả người. Cái lạnh rờn rợn kỳ lạ làm tôi phát rùng mình mấy cái. Lạnh quá ! Tôi lật đật nhào vô mùng trùm mền kín mít. "Không biết cái anh này làm cái trò kỳ cục gì vậy. Làm người ta sợ gần chết hà!". Tôi nằm vừa run vừa rủa thầm rồi ngủ quên hồi nào không biết. Sáng hôm sau tôi định lúc gặp mặt anh T. sẽ la cho một trận.. nho nhỏ, nhưng suốt ngày hôm đó bận rộn mọi chuyện quá tôi cũng quên khuấy luôn.
Câu chuyện xảy ra tối hôm sau đó, thì mới thật sự là kinh hoàng làm tôi còn sợ tới bây giờ.. Tối hôm sau dọn dẹp mọi chuyện xong xuôi, gần mười một giờ tôi mới đi ngủ. Tuy làm việc cả ngày mệt mỏi nhưng tôi nằm trằn trọc mà vẫn chưa ngủ được. Chiếc đồng hồ treo ở căn phòng phía trước thong thả đánh mười hai tiếng vang lên giữa màn đêm tĩnh mịch. Tiếng gõ nhịp đều đặn làm đôi mắt như ríu lại và tôi bắt đầu mơ màng đi vào giấc ngủ. Chợt lúc đó thấp thoáng ở cuối bộ ván trong ánh đèn dầu leo lét, tôi thấy bóng một người đàn bà ngồi lặng lẽ ngoài mùng đang chậm rải may vá gì đó. Tôi nghĩ bụng. "Không biết giờ này mà cô Sáu tôi còn làm gì mà may đồ khuya lơ khuya lắc như vậy?".
Bật ngồi dậy tôi buột miệng:
- Giờ này mà cô còn may cái gì …
Chưa kịp dứt lời thì thấy người cô đã lẹ làng đứng nhổm dậy, đi thiệt lẹ ra khu sàn nước tối om ở đàng sau. Thấy vậy tôi cũng không hỏi thêm, chỉ nằm xuống lại quay mặt vô vách cố ngủ vì trời cũng đã quá khuya. Vài phút sau lúc tôi trở mình nằm ngửa nhìn lên thì...lạ chưa, có một đôi chân lắc lư tòn ten qua lại phía trên không. Dưới ánh đèn dầu yếu ớt tôi cố nhướng mắt nhìn kỷ vì tưởng mình hoa mắt. Nhưng không, rõ ràng là có đôi bàn chân duỗi thẳng đong đưa qua lại ngay trên nóc mùng.
Lúc đầu tưởng anh chàng T. chọc ghẹo gì tôi, nhưng... trời đất quỷ thần ơi! Nó từ từ hạ xuống đứng sát cạnh bộ ván. Tôi thấy rõ là ngườì đàn bà khi nảy đã đi ra đằng sau nhà bếp mà.. Tôi ngồi bật dậy lùi lại dựa sát tường, nhìn đăm đăm vào cái bóng đen chập chờn cũng đang trừng trừng nhìn lại. Tự nhiên tôi cảm thấy đôi tay nắm chặt cái mền trước ngực đang run bằn bặt! Từ từ nó cúi xuống... "Úy mèn đất ơi!" Không hiểu làm sao nó thò đầu được qua cái mùng đưa khuôn mặt nhợt nhạt đến sát mặt tôi. Cặp mắt chỉ toàn là tròng trắng của nó, vừa nhìn trừng trừng vào đôi mắt tôi, vừa chờn vờn giơ một sợi dây đong đưa qua lại.
Nhìn một hồi lâu rồi nhẹ nhàng tròng sợi dây vào đầu tôi. Chợt tôi nghe một mùi hôi thối từ sợi dây xông lên nồng nặc. Tôi nhớ lúc đó tôi vẫn còn bình tỉnh định mở miệng ra hỏi: Bà làm cái gì vậy... Bà là ai? Nhưng ngay tức khắc lúc đó thay vì mở miệng để hỏi, tôi chỉ kịp nghe từ cổ họng tôi phát ra một tiếng hét thật to. Trước khi tất cả tối xầm lại, tôi còn thấy rõ sợi dây đang tiếp tục tròng vào trong cổ tôi...
Ở Chợ Lớn được ba năm thì dượng Sáu tôi phải thuyên chuyển qua quận khác làm việc. Trong ngày cuối lúc cả nhà đi từ giã hàng xóm chung quanh để dọn đi, bà chủ nhà căn mười bốn ở bìa dãy phố mới ngập ngừng nói cho biết câu chuyện từ mấy chục năm về trước, có một bà đầm vì giận tên chồng tây tối ngày cứ lăng nhăng với những người đàn bà khác, nên đã thắt cổ tự vận ở cầu thang ngay trong căn số mười một. Nghe nói bà ta treo cổ tự tử lúc giữa đêm khuya, tới sáng chồng về mới phát giác ra thì mặt mày người vợ đã tím ngắt và chết cứng từ lâu. Sau này sống ở đất khách quê người tôi vẫn ghẹo anh T.
- Qua đây toàn là gái đầm không, anh mà rình mò là chết với em à nghen!
Anh T. cười:
- May là không có rình em hồi đó mà còn thất kinh hồn vía! Giờ này còn dám rình rập ai nữa. Tối hôm đó đang nằm trằn trọc nghĩ tới em, thì anh nghe tiếng em la lớn thật khủng khiếp, anh tông mùng nhảy xuống dưới lầu liền. Lúc tới bộ ván, tốc mùng ra thì thấy em đã xỉu từ đời nào! Thật tình anh có thấy ai ở đó đâu ?
Tôi nắm lấy tay chồng:
- Ai cũng nói không biết mặt mũi người đàn bà tây đó ra sao mà ghen đến nổi tự tử kiểu đó? Nhưng đến bây giờ em vẫn còn nhớ rõ khuôn mặt tím bầm của bả nhìn trừng trừng vô em lúc đó..
Tôi chợt rùng mình nhìn chồng lòng cảm thấy thật ấm áp. Ngoài trời cơn mưa tuyết đầu mùa đang thả rơi không ngớt những bông hoa trắng nõn lên hàng thông đứng chơ vơ dưới ánh đèn đường vàng vọt. Bầu không gian thật yên lặng trời hình như đã vào giữa khuya thì phải. Nếu có bạn nào về lại Việt Nam, hãy đi vô quận năm Chợ lớn, từ tửu lầu Đồng Khánh trên đường Trần Hưng Đạo nhìn xéo qua bên kia đường, bạn sẽ nhìn thấy một dãy nhà của chính phủ, không biết bây giờ trở thành cơ quan gì. Căn thứ mười một chính là căn nhà mà bà chị họ đã ở hồi xưa.
Lạc Long
#81
Gửi vào 18/06/2011 - 07:46
ẤN TÒA GIẢI TỘI
Trong lãnh vực huyền bí có nhiều sự kiện vượt lên trên những gì là tự nhiên không thể cắt nghĩa được, những sự kiện lạ huyền nhiệm này không phải là tín lý, cũng không phải là giáo lý, mặc dù trong câu chuyện hay sự kiện có thể hàm chứa một tín điều. Câu chuyện được trích dịch từ cuốn “Passé et Future Enigmatiques” của tác giả Camille Creusot do nhà xuất bản Dervy Livres, Paris 1972.
Giám mục Tân Giáo C.W. Leabeater, cũng là một trong những nhân vật trọng yếu của Thông Thiên Học, kể lại câu truyện hiện về của linh hồn một linh mục mà vị giám mục bạn ông từng chứng kiến. Có một vị giám mục, bạn của giám mục C.W. Leabeater, nhận lời mời dự bữa ăn tối tại nhà người quen ở vùng quê. Vị giám mục này tới hơi sớm nên chủ nhà mời ngồi chơi.
Vào tới phòng khách ngài chỉ thấy có mỗi một vị linh mục, mà ngài chưa hề gặp bao giờ, đã ngồi sẵn đó rồi. Vị linh mục đương cắm cúi đọc một cuốn sách lớn, thấy vị giám mục khách vào, liền ngửng mặt lên phác một cử chỉ chào hỏi rất niềm nở lịch thiệp và kính trọng, vắn tắt trong im lặng rồi lại lập tức cúi xuống tiếp tục đọc. Ít phút sau thực khách tới đông đủ, mọi người được mời vào bàn. Ngồi sát cạnh bà chủ nhà vị giám mục khẽ hỏi:
- Thưa bà sao lúc nãy ở phòng khách, bà lại không giới thiệu tôi với vị linh mục ngồi đó vậy ?
Rồi đảo mắt nhìn khắp một lượt để tìm xem linh mục kia ngồi ở ghế nào, vị giám mục không khỏi ngạc nhiên vì không hề thấy bóng chiếc áo dài đen đó trong bàn tiệc. Vẻ mặt bà chủ nhà còn lạ lùng hơn nữa, khi nghe ngài giám mục ngồi cạnh, hỏi đến ông linh mục trong phòng khách nhà bà. Bà gượng gạo mặt tái xám khẽ hỏi lại như đánh trống lảng:
- Dạ.. bẩm Ðức Cha, thì ra ngài quả có thấy vị linh mục đó sao?
- Ðúng thế, vị giám mục thực khách đáp, nhưng tôi thành thật xin lỗi, tôi e đã vô tình đề cập tới một truyện làm bà không được hài lòng chăng ?
Bà chủ nhà vội vã thưa, vẫn với một giọng thì thầm vừa đủ hai người nghe mà thôi:
- Ðâu có, đâu có.. bẩm Ðức Cha. Người hiểu lầm con mất rồi. Con đâu có gì dám dấu ngàỉ. Sở dĩ con kinh ngạc là vì vị linh mục ấy đã dám hiện ra cả với Ðức giám mục. Từ trước tới nay ngay những người trong gia đình con, cũng không một ai thấy ông ta, ngoại trừ nhà con và con mà thôi. Vị linh mục mà Ðức Cha gặp trong phòng khách lúc nãy, không phải là thực khách con mời tối nay, nhưng là một hồn ma xuất hiện đấy ạ!
- Một linh hồn hiện về ư?
Vị giám mục kinh ngạc hỏi lại.
- Bẩm vâng ạ!
Bà chủ nhà trình lại:
- Ðây quả là một sự “hiện về” của một linh hồn, mà tính cách siêu nhiên rõ ràng không thể nào còn hoài nghi. Vị linh mục ấy đã hiện về có tới trên chục lần với nhà con và với riêng con, trong những lúc chúng con hoàn toàn tỉnh táo và tuyệt đối không có gì gọi là gian dối mờ ám cả. Vì Ðức giám mục nhận đã thấy điều này, xin ngài vui lòng ban cho chúng con một đặc ân ... Xưa nay con vốn nghĩ phải tìm ra một người có can đảm, dám đối thoại với hồn ma đó, may ra mới hy vọng chấm dứt được sự hiện về của linh hồn này.
Vị giám mục liền nhận lời đề nghị của bà chủ nhà. Ông lập tức quay lại phòng khách, vẫn thấy vị linh mục còn ngồi y nguyên tại chỗ. Sau khi dừng lại và giữ im lặng giây lát vị giám mục cất tiếng chậm rãi và long trọng hỏi lớn:
- Nhân thánh danh Chúa, ta hỏi ông là ai và ông muốn sự gì?
Vị linh mục nghe hỏi liền gập sách lại đứng lên và bước khỏi ghế ngồi, tiến đến đứng đối diện với vị giám mục. Với một chút dè dặt rồi bằng một giọng trầm trầm nhưng rất rõ ràng và có mức độ, ông nói:
- Tôi chưa hề bao giờ dám ước nguyện được như thế này. Tôi xin nói để ngài biết tôi là ai, mà tôi muốn sự gì.. Như ngài nhìn thấy đấy tôi là một linh mục Công Giáo.. Tám mươi năm về trước nguyên ngôi nhà này là của tôi. Tôi vốn là một tay kỵ mã lành nghề và say mê thú săn bắn khi nào có dịp. Một bữa kia khi tôi sắp lên đường đến một nơi hẹn săn trong vùng kế cận, thì bỗng có một vị phu nhân ý hẳn thuộc dòng quý phái nào đó tìm tới xin xưng tội. Những gì bà ta xưng ra, lẽ dĩ nhiên ấn toà giải tội không cho phép tôi được trình ngài ở đây, chỉ biết rằng những điều đó lại xúc phạm nặng nề một gia đình quý phái nhất trong những dòng họ quý phái của nước Anh.
Ðiều này làm cho tôi không thể nào làm ngơ, mà không ghi lại trên giấy tờ những gì vị phu nhân kia đã xưng với tôi trong tòa. Ghi lại tội người tín hữu xưng trong tòa là một điều rất mực cấm kỵ của Giáo Hội Công Giáo. Sau khi vị phu nhân đã bày tỏ hết tội mình và sau lời khuyên răn, tôi đã ban phép lành cáo giải và ra việc đền tội tương xứng. Rời toà giải tội, tôi ngồi vào bàn viết ghi vội lại chi tiết những gì tôi đã nghe trong tòa, rồi thận trọng cất tài liệu này vào một nơi an toàn, phòng mọi bất trắc nếu chẳng may xảy ra cho tôi trong chuyến đi săn này, dù tôi có thế nào chăng nữa tài liệu kia vẫn y nguyên an toàn tại nơi cất giấu đó.
Ðiều dự phòng của tôi biến thành sự thực. Ngay bữa đó tôi bị té ngựa và chết tại chỗ. Từ trước đến nay chưa hề một ai có can đảm dám trực diện đối thoại với một linh hồn hiện về như ngài hôm nay. Bẩm Ðức giám mục, ngài có muốn cứu linh hồn tôi chăng? Tôi xin chỉ cho ngài nơi tôi đã cất tập tài liệu tôi từng ghi tội vị phu nhân đã xưng xưa, để xin ngài tự tay thực hiện một cử chỉ hết sức thánh thiện, là hủy ngay nó đi mà không hề đọc một chữ nào trong đó cả.
Vị giám mục khẳng khái mau mắn long trọng hứa:
- Tôi xin nguyện làm theo đúng lời yêu cầu của Cha.
- Thế thì được lắm. Xin Ðức giám mục theo tôi.
Rồi linh mục đó dẫn vị giám mục xuống hầm nhà, nơi có những vòm cong đỡ lấy trần hầm. Tới một địa điểm trong hầm linh mục vịn tay vào tường nói với vị giám mục:
- Chính chỗ này đây.. trình Ðức Cha xin ngài nhớ cho chỗ cất dấu này và cũng xin ngài giữ lời đã hứa.
Quay lại phòng ăn vị giám mục thuật lại cho thực khách có mặt tất cả những gì ông có thể kể, ngoại trừ những bí mật ông có bổn phận phải giữ kín theo mình. Tất cả thực khách đều theo vị giám mục, bước từng bậc tam cấp, lần mò tới nơi linh mục xưa kia đã cất tài liệu. Người ta moi những viên gạch xây trên tường một lỗ hổng xuất hiện. Vị giám mục tiến lên thò tay vào bên trong lỗ hổng tăm tối, rút ra một cuốn sổ cũ kỹ phủ đầy bụi bặm và mốc meo. Sau khi giở qua vài trang, vị giám mục lật tới một trang có kẹp một mảnh giấy đã vàng khè, trên có những dòng chữ viết nguệch ngoạc vội vã.
Lập tức vị giám mục trịnh trọng đem cả cuốn sổ và tờ tài liệu quan trọng kia sang một phòng khác bên trên hầm, cẩn thận vứt hết vào lò sưởi mà những thanh củi đương thi nhau nổ tanh tách, tỏa ra những làn lửa ấm áp cho cả gian phòng. Lời hứa nghiêm trọng đã được thi hành. Và từ đấy vợ chồng người chủ nhà không còn thấy linh hồn vị linh mục kia, ngồi nơi phòng khách nhà mình bao giờ nữa.
Ân Giang
Trong lãnh vực huyền bí có nhiều sự kiện vượt lên trên những gì là tự nhiên không thể cắt nghĩa được, những sự kiện lạ huyền nhiệm này không phải là tín lý, cũng không phải là giáo lý, mặc dù trong câu chuyện hay sự kiện có thể hàm chứa một tín điều. Câu chuyện được trích dịch từ cuốn “Passé et Future Enigmatiques” của tác giả Camille Creusot do nhà xuất bản Dervy Livres, Paris 1972.
Giám mục Tân Giáo C.W. Leabeater, cũng là một trong những nhân vật trọng yếu của Thông Thiên Học, kể lại câu truyện hiện về của linh hồn một linh mục mà vị giám mục bạn ông từng chứng kiến. Có một vị giám mục, bạn của giám mục C.W. Leabeater, nhận lời mời dự bữa ăn tối tại nhà người quen ở vùng quê. Vị giám mục này tới hơi sớm nên chủ nhà mời ngồi chơi.
Vào tới phòng khách ngài chỉ thấy có mỗi một vị linh mục, mà ngài chưa hề gặp bao giờ, đã ngồi sẵn đó rồi. Vị linh mục đương cắm cúi đọc một cuốn sách lớn, thấy vị giám mục khách vào, liền ngửng mặt lên phác một cử chỉ chào hỏi rất niềm nở lịch thiệp và kính trọng, vắn tắt trong im lặng rồi lại lập tức cúi xuống tiếp tục đọc. Ít phút sau thực khách tới đông đủ, mọi người được mời vào bàn. Ngồi sát cạnh bà chủ nhà vị giám mục khẽ hỏi:
- Thưa bà sao lúc nãy ở phòng khách, bà lại không giới thiệu tôi với vị linh mục ngồi đó vậy ?
Rồi đảo mắt nhìn khắp một lượt để tìm xem linh mục kia ngồi ở ghế nào, vị giám mục không khỏi ngạc nhiên vì không hề thấy bóng chiếc áo dài đen đó trong bàn tiệc. Vẻ mặt bà chủ nhà còn lạ lùng hơn nữa, khi nghe ngài giám mục ngồi cạnh, hỏi đến ông linh mục trong phòng khách nhà bà. Bà gượng gạo mặt tái xám khẽ hỏi lại như đánh trống lảng:
- Dạ.. bẩm Ðức Cha, thì ra ngài quả có thấy vị linh mục đó sao?
- Ðúng thế, vị giám mục thực khách đáp, nhưng tôi thành thật xin lỗi, tôi e đã vô tình đề cập tới một truyện làm bà không được hài lòng chăng ?
Bà chủ nhà vội vã thưa, vẫn với một giọng thì thầm vừa đủ hai người nghe mà thôi:
- Ðâu có, đâu có.. bẩm Ðức Cha. Người hiểu lầm con mất rồi. Con đâu có gì dám dấu ngàỉ. Sở dĩ con kinh ngạc là vì vị linh mục ấy đã dám hiện ra cả với Ðức giám mục. Từ trước tới nay ngay những người trong gia đình con, cũng không một ai thấy ông ta, ngoại trừ nhà con và con mà thôi. Vị linh mục mà Ðức Cha gặp trong phòng khách lúc nãy, không phải là thực khách con mời tối nay, nhưng là một hồn ma xuất hiện đấy ạ!
- Một linh hồn hiện về ư?
Vị giám mục kinh ngạc hỏi lại.
- Bẩm vâng ạ!
Bà chủ nhà trình lại:
- Ðây quả là một sự “hiện về” của một linh hồn, mà tính cách siêu nhiên rõ ràng không thể nào còn hoài nghi. Vị linh mục ấy đã hiện về có tới trên chục lần với nhà con và với riêng con, trong những lúc chúng con hoàn toàn tỉnh táo và tuyệt đối không có gì gọi là gian dối mờ ám cả. Vì Ðức giám mục nhận đã thấy điều này, xin ngài vui lòng ban cho chúng con một đặc ân ... Xưa nay con vốn nghĩ phải tìm ra một người có can đảm, dám đối thoại với hồn ma đó, may ra mới hy vọng chấm dứt được sự hiện về của linh hồn này.
Vị giám mục liền nhận lời đề nghị của bà chủ nhà. Ông lập tức quay lại phòng khách, vẫn thấy vị linh mục còn ngồi y nguyên tại chỗ. Sau khi dừng lại và giữ im lặng giây lát vị giám mục cất tiếng chậm rãi và long trọng hỏi lớn:
- Nhân thánh danh Chúa, ta hỏi ông là ai và ông muốn sự gì?
Vị linh mục nghe hỏi liền gập sách lại đứng lên và bước khỏi ghế ngồi, tiến đến đứng đối diện với vị giám mục. Với một chút dè dặt rồi bằng một giọng trầm trầm nhưng rất rõ ràng và có mức độ, ông nói:
- Tôi chưa hề bao giờ dám ước nguyện được như thế này. Tôi xin nói để ngài biết tôi là ai, mà tôi muốn sự gì.. Như ngài nhìn thấy đấy tôi là một linh mục Công Giáo.. Tám mươi năm về trước nguyên ngôi nhà này là của tôi. Tôi vốn là một tay kỵ mã lành nghề và say mê thú săn bắn khi nào có dịp. Một bữa kia khi tôi sắp lên đường đến một nơi hẹn săn trong vùng kế cận, thì bỗng có một vị phu nhân ý hẳn thuộc dòng quý phái nào đó tìm tới xin xưng tội. Những gì bà ta xưng ra, lẽ dĩ nhiên ấn toà giải tội không cho phép tôi được trình ngài ở đây, chỉ biết rằng những điều đó lại xúc phạm nặng nề một gia đình quý phái nhất trong những dòng họ quý phái của nước Anh.
Ðiều này làm cho tôi không thể nào làm ngơ, mà không ghi lại trên giấy tờ những gì vị phu nhân kia đã xưng với tôi trong tòa. Ghi lại tội người tín hữu xưng trong tòa là một điều rất mực cấm kỵ của Giáo Hội Công Giáo. Sau khi vị phu nhân đã bày tỏ hết tội mình và sau lời khuyên răn, tôi đã ban phép lành cáo giải và ra việc đền tội tương xứng. Rời toà giải tội, tôi ngồi vào bàn viết ghi vội lại chi tiết những gì tôi đã nghe trong tòa, rồi thận trọng cất tài liệu này vào một nơi an toàn, phòng mọi bất trắc nếu chẳng may xảy ra cho tôi trong chuyến đi săn này, dù tôi có thế nào chăng nữa tài liệu kia vẫn y nguyên an toàn tại nơi cất giấu đó.
Ðiều dự phòng của tôi biến thành sự thực. Ngay bữa đó tôi bị té ngựa và chết tại chỗ. Từ trước đến nay chưa hề một ai có can đảm dám trực diện đối thoại với một linh hồn hiện về như ngài hôm nay. Bẩm Ðức giám mục, ngài có muốn cứu linh hồn tôi chăng? Tôi xin chỉ cho ngài nơi tôi đã cất tập tài liệu tôi từng ghi tội vị phu nhân đã xưng xưa, để xin ngài tự tay thực hiện một cử chỉ hết sức thánh thiện, là hủy ngay nó đi mà không hề đọc một chữ nào trong đó cả.
Vị giám mục khẳng khái mau mắn long trọng hứa:
- Tôi xin nguyện làm theo đúng lời yêu cầu của Cha.
- Thế thì được lắm. Xin Ðức giám mục theo tôi.
Rồi linh mục đó dẫn vị giám mục xuống hầm nhà, nơi có những vòm cong đỡ lấy trần hầm. Tới một địa điểm trong hầm linh mục vịn tay vào tường nói với vị giám mục:
- Chính chỗ này đây.. trình Ðức Cha xin ngài nhớ cho chỗ cất dấu này và cũng xin ngài giữ lời đã hứa.
Quay lại phòng ăn vị giám mục thuật lại cho thực khách có mặt tất cả những gì ông có thể kể, ngoại trừ những bí mật ông có bổn phận phải giữ kín theo mình. Tất cả thực khách đều theo vị giám mục, bước từng bậc tam cấp, lần mò tới nơi linh mục xưa kia đã cất tài liệu. Người ta moi những viên gạch xây trên tường một lỗ hổng xuất hiện. Vị giám mục tiến lên thò tay vào bên trong lỗ hổng tăm tối, rút ra một cuốn sổ cũ kỹ phủ đầy bụi bặm và mốc meo. Sau khi giở qua vài trang, vị giám mục lật tới một trang có kẹp một mảnh giấy đã vàng khè, trên có những dòng chữ viết nguệch ngoạc vội vã.
Lập tức vị giám mục trịnh trọng đem cả cuốn sổ và tờ tài liệu quan trọng kia sang một phòng khác bên trên hầm, cẩn thận vứt hết vào lò sưởi mà những thanh củi đương thi nhau nổ tanh tách, tỏa ra những làn lửa ấm áp cho cả gian phòng. Lời hứa nghiêm trọng đã được thi hành. Và từ đấy vợ chồng người chủ nhà không còn thấy linh hồn vị linh mục kia, ngồi nơi phòng khách nhà mình bao giờ nữa.
Ân Giang
#82
Gửi vào 18/06/2011 - 07:55
CHUYẾN TÀU MA
Thứ sáu ngày 3 tháng 3 năm 1944. Đồng hồ trên tường chỉ gần mười hai giờ khuya. Angelo Caponegro bồn chồn đứng ngồi không yên. Từ ba tháng nay anh được bổ nhiệm làm trưởng ga tàu hỏa Balvano nằm giữa Naples và Rome. Vài tuần qua anh bù đầu với công việc... Nước Ý đang trải qua thời kỳ hết sức đen tối. Từ mặt trận phía Nam, quân đồng minh đang tiến dần lên phía Bắc với những trận đánh nảy lửa. Được sự hỗ trợ của quân phát xít Đức, miền Bắc nước Ý vẫn nằm trong tay nhà độc tài Mussolini. Những tháng đầu năm 1944, nước Ý bị chia cắt manh mún, oằn oại trong cuộc chiến tàn khốc.
Như các trưởng ga ở những vùng có chiến tranh, Angelo Caponegro làm việc dưới áp lực và tinh thần trách nhiệm cao. Bằng mọi cách phải bảo đảm an toàn cho các chuyến tàu chở dân tị nạn ra khỏi vùng giao chiến mà không bị phi cơ Đức oanh tạc. Qua khung cửa kính, Angelo thấy khoảng trên chục hành khách, đang chờ đi chuyến tàu số hiệu 8017 sẽ đến ga Balvano lúc 0 giờ 10 phút. Angelo đang trông chờ tàu đến. Đây là chuyến tàu cuối cùng trong ngày.
Tiếng còi hú một hồi dài trong đêm vắng. Angelo bước ra sân ga. Chuyến tàu mang số hiệu 8017 mà trạm cuối là Rome đang chạy vào ga, nhả ra phía sau một vệt khói dài đen kịt. Tàu giảm dần tốc độ rồi dừng hẳn giữa sân ga. Khách chờ bước vội lên tàu. Hầu như mọi hành khách trên tàu đều mệt mỏi ngủ gà ngủ gật. Tất cả đều đi đến ga cuối: Rome. Angelo đi lên phía đầu tàu để trao đổi với lái tàu. Do nguồn dân tị nạn tăng đột biến nên phải nối thêm năm toa tàu và tăng cường thêm một đầu kéo... Angelo hỏi lái tàu:
- Mọi việc êm xuôi chứ?
Người nhễ nhại mồ hôi lái tàu nghiêng mình ra ngoài cửa sổ đáp:
- Đến đây thì mọi thứ đều suôn sẻ. Nhưng sắp tới sẽ khó khăn đấy. Qua ga Balvano tàu phải leo dốc đèo. Phải dự trữ đủ lượng than cho đầu kéo.
Angelo trấn an lái tàu:
- Tôi sẽ cung cấp đủ than cho hai đầu kéo.
Than được chuyển ngay lên tàu. Trong lúc đó nguyên đoàn tàu dài nằm im. Tất cả hành khách đều ngủ vì mệt sau những ngày dài phải đối phó với hiểm họa chiến tranh...Việc tiếp tế nhiên liệu cho tàu mất hết bốn mươi phút. Lúc 0 giờ 50 con tàu sẵn sàng chuyển bánh. Sau hồi còi dài con tàu rùng mình chuyển động. Angelo đứng nhìn theo cho đến khi hai bóng đèn đỏ nơi đuôi tàu mất hút trong màn đêm.
Anh quay vào phòng làm việc sắp xếp lại sổ sách và ngồi chờ cú điện thoại của Luigi, trưởng ga kế tiếp, thông báo chuyến tàu 8017 đến ga an toàn, trước khi lên giường ngủ. Đoạn đường từ Balvano đến ga Bella Muro dài khoảng trên hai mươi km. Thông thường tàu chỉ mất mười lăm phút, hoặc tối đa là hai mươi phút nếu có tăng cường thêm toa.
Dưới ánh sáng mờ tỏa ra từ bóng đèn trong phòng, Angelo bật lửa châm một điếu thuốc, mắt lim dim mơ tưởng sắp được ngả lưng đánh một giấc sau ngày làm việc căng thẳng. Anh mơ về ngày chiến tranh kết thúc, hòa bình lập lại trên đất nước... 1 giờ 5 phút. Giờ này chuyến tàu 8017 phải đến ga Bella Muro. Angelo nhìn vào chiếc điện thoại móc trên tường, bồn chồn chờ tiếng chuông reo và giọng nói quen thuộc của Luigi thông báo tàu đến nơi... Nhưng chiếc điện thoại vẫn im thin thít.
Anh châm điếu thuốc thứ hai. Đồng hồ chỉ 1 giờ 25. Ba mươi lăm phút đã trôi qua từ khi tàu xuất ga. Bỗng chuông điện thoại reo vang. Angelo nhấc máy và nhận ra ngay giọng nói của Luigi, trưởng ga Bella Muro. Nhưng sao hôm nay giọng nói của Luigi không bình thường mà pha lẫn bực dọc:
- Chuyện gì xảy ra với tàu 8017 thế? Chán chết đi được khi phải dài cả cổ ngồi chờ, tớ buồn ngủ quá đi thôi!
Đến lượt Angelo giật mình:
- Cậu nói sao? Nó đã rời khỏi Balvano được hơn bốn mươi phút rồi còn gì!
Bất chợt Angelo tỉnh táo hẳn, sự mệt mỏi tan biến nhường chỗ cho cảm giác lo lắng pha lẫn tò mò. Phải chăng đấy là linh tính báo trước điều gì không may xảy đến với tàu 8017? Angelo cảm thấy có điều gì đó không bình thường đang diễn ra. Hẳn là tàu 8017 không bị dội bom bởi anh không nghe tiếng phi cơ hay tiếng bom nổ. Không lý gì tàu 8017 lại không leo nổi dốc vì nó được tăng cường thêm một đầu kéo. Có thể tàu leo dốc hơi chậm nhưng lẽ ra nó phải tới Bella Muro từ lâu rồi chứ...
Để quên bớt âu lo. Angelo xem lịch tàu đến và rời ga của ngày hôm sau. Nhưng càng đọc nỗi lo âu càng lớn dần. Những con số chỉ giờ tàu đến và đi không còn đúng theo lịch như trước đây nữa. Từ nhiều tuần qua, lịch tàu chạy chỉ mang tính tượng trưng. Chiến tranh là như thế. Tàu đến rồi đi bất cứ lúc nào có thể để tránh phi cơ Đức. Lắm khi các trưởng ga chỉ được thông báo giờ tàu đến và đi vào phút cuối...
Hai giờ khuya. Chắc chắn là có chuyện trầm trọng xảy ra với tàu 8017. Angelo gọi cho Luigi nhiều lần nhưng lần nào cũng chỉ nhận được câu trả lời “Nó vẫn bặt vô âm tín”. Giờ thì Angelo không thể ngồi chờ được nữa. Anh quyết định gọi báo cho trạm sửa chữa đầu máy nắm tình hình, và yêu cầu gởi ngay đến Balvano một toa đầu máy, để cùng phối hợp đi khảo sát tuyến Balvano-Bella Muro.
Đầu máy đến Balvano lúc 2 giờ 40 phút. Từ ga Bella Muro, Luigi cho biết vẫn chưa thấy bóng dáng tàu 8017! Đầu máy đi khảo sát di chuyển với tốc độ khá chậm để đề phòng bất trắc.Tàu 8017 có thể đã trật đường ray. Trong tình huống tranh tối tranh sáng như thế này cẩn thận là trên hết. Ở những cây số đầu tiên không việc gì lạ ở hai bên vệ đường. Hai thanh ray của tuyến đường sắt chạy song song thẳng tắp. Toa đầu máy đến đường hầm đầu tiên. Angelo bỗng hét to:
- Dừng ngay !
Tàu 8017 đang nằm bất động ở phía trước. Con tàu đã vào trong đường hầm, chỉ toa cuối cùng là còn nằm bên ngoài. Angelo và lái tàu nhảy vội xuống đất. Họ chạy đến tàu 8017. Đèn trong các toa tàu vẫn chiếu sáng nhưng tuyệt đối không nghe thấy một âm thanh hay tiếng động nào. Cả hai đầu máy kéo đều bặt tiếng. Sự im lặng đến rợn người ngự trị cả không gian tĩnh mịch của đêm tối. Tay cầm đèn, Angelo bước tới toa cuối của đoàn tàu. Trong ánh sáng mờ mờ, anh nhận ra vài bóng người trên đường ray. Anh rọi đèn vào.. và khựng lại.
Trước mắt anh là một phụ nữ gương mặt thất thần, bên cạnh là một cậu bé. Xa hơn một tí là hai ngươi đàn ông vẻ lừ đừ mệt mỏi. Điều làm cho Angelo kinh ngạc là tóc người phụ nữ có màu xám trong khi gương mặt cô ta hãy còn trẻ, chỉ độ trên hai mươi tuổi. Cậu bé khoảng bảy tuổi nhưng mái tóc cũng phủ một màu xám! Angelo cất giọng hỏi:
- Chuyện gì đã xảy ra thế này?
Câu trả lời là tiếng khóc nức nở của người phụ nữ và cậu bé. Hai người đàn ông cũng tức tưởi khóc. Đi về phía họ, Angelo phát hiện mái tóc của cả hai cũng bao phủ một màu xám Anh muốn hỏi thăm nhưng đành thôi vì họ đang ở trong tình trạng căng thẳng khó trả lời. Angelo cắn răng cầm lòng trước cảnh thương tâm. Anh bước tiếp về phía miệng đường hầm. Mỗi bước đi thể hiện sự gan dạ phi thường, đồng thời cũng thể hiện trách nhiệm của một trưởng ga. Phải tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra với tàu 8017.
Anh vừa qua khỏi toa tàu cuối của đoàn tàu. Hiện anh đang đứng dưới vòm của miệng đường hầm. Khung cảnh hoàn toàn bao trùm bởi sự im lặng rờn rợn. Anh bước lên toa tàu kế tiếp, mở cửa và bước vào buồng đầu tiên. Có tám hành khách ngồi trên hai dãy băng dài gồm phụ nữ, đàn ông và trẻ con. Trên sàn tàu là đống hành lý hỗn độn gồm đủ loại vật dụng mà người tị nạn thường mang theo. Mọi người có vẻ như đang say ngủ. Angelo đưa tay vỗ nhẹ vai người gần nhất. Ông ta lật ngang và lăn đùng xuống sàn tàu, kéo theo tấm thân gầy còm của người phụ nữ ngồi kế bên.
Năm phút sau Angelo bước ra khỏi đường hầm, gương mặt thất sắc tái xanh như tàu lá. Anh nói với lái tàu:
- Tất cả đều hồn lìa khỏi xác. Trên 500 sinh mạng con người!
Angelo làm bản báo cáo lên chính quyền các cấp. Tuy nhiên do tình hình chiến tranh nên sự việc được giữ bí mật. Mãi về sau ủy ban điều tra mới công bố nội bộ nguyên nhân của vụ "tai nạn" được xem là sự kiện hy hữu nhất trong lịch sử đường sắt mà cho đến bây giờ ít người biết đến. Kết luận của ủy ban điều tra vụ tai nạn khá là hợp lý: Trong đường hầm có một đoạn dốc cao, có thể nói là cao nhất trên cả tuyến. Hai đầu máy không đủ sức kéo nên cả đoàn tàu đứng khựng lại. Than được đốt tối đa và lái tàu nhấn hết ga hòng vượt qua đoạn dốc.
Chất lượng than lúc bấy giờ rất xấu. Khi đốt nó thải ra lượng lớn ôxýt cacbon. Loại khí rất độc hại này nhanh chóng lan tỏa trong đường hầm. Hành khách và nhân viên đoàn tàu hít phải khí độc và tử vong. Trong đêm ba rạng sáng 4-3-1944 có tấtcả 521 nạn nhân chết trong vụ tai nạn. Chỉ bốn người còn sống sót nhờ ngồi ở toa cuối cùng nằm bên ngoài đường hầm lúc xảy ra sự việc. Tuy nhiên họ cũng bị nhiễm độc khá trầm trọng. Tóc họ chuyển sang màu xám. Khí ôxýt cacbon đã làm tổn thương não bộ không thể nào hồi phục. Riêng đối với Angelo Caponegro, là một đêm kinh hoàng mà anh không bao giờ quên trong đời.
Pierre Bellemare
Thứ sáu ngày 3 tháng 3 năm 1944. Đồng hồ trên tường chỉ gần mười hai giờ khuya. Angelo Caponegro bồn chồn đứng ngồi không yên. Từ ba tháng nay anh được bổ nhiệm làm trưởng ga tàu hỏa Balvano nằm giữa Naples và Rome. Vài tuần qua anh bù đầu với công việc... Nước Ý đang trải qua thời kỳ hết sức đen tối. Từ mặt trận phía Nam, quân đồng minh đang tiến dần lên phía Bắc với những trận đánh nảy lửa. Được sự hỗ trợ của quân phát xít Đức, miền Bắc nước Ý vẫn nằm trong tay nhà độc tài Mussolini. Những tháng đầu năm 1944, nước Ý bị chia cắt manh mún, oằn oại trong cuộc chiến tàn khốc.
Như các trưởng ga ở những vùng có chiến tranh, Angelo Caponegro làm việc dưới áp lực và tinh thần trách nhiệm cao. Bằng mọi cách phải bảo đảm an toàn cho các chuyến tàu chở dân tị nạn ra khỏi vùng giao chiến mà không bị phi cơ Đức oanh tạc. Qua khung cửa kính, Angelo thấy khoảng trên chục hành khách, đang chờ đi chuyến tàu số hiệu 8017 sẽ đến ga Balvano lúc 0 giờ 10 phút. Angelo đang trông chờ tàu đến. Đây là chuyến tàu cuối cùng trong ngày.
Tiếng còi hú một hồi dài trong đêm vắng. Angelo bước ra sân ga. Chuyến tàu mang số hiệu 8017 mà trạm cuối là Rome đang chạy vào ga, nhả ra phía sau một vệt khói dài đen kịt. Tàu giảm dần tốc độ rồi dừng hẳn giữa sân ga. Khách chờ bước vội lên tàu. Hầu như mọi hành khách trên tàu đều mệt mỏi ngủ gà ngủ gật. Tất cả đều đi đến ga cuối: Rome. Angelo đi lên phía đầu tàu để trao đổi với lái tàu. Do nguồn dân tị nạn tăng đột biến nên phải nối thêm năm toa tàu và tăng cường thêm một đầu kéo... Angelo hỏi lái tàu:
- Mọi việc êm xuôi chứ?
Người nhễ nhại mồ hôi lái tàu nghiêng mình ra ngoài cửa sổ đáp:
- Đến đây thì mọi thứ đều suôn sẻ. Nhưng sắp tới sẽ khó khăn đấy. Qua ga Balvano tàu phải leo dốc đèo. Phải dự trữ đủ lượng than cho đầu kéo.
Angelo trấn an lái tàu:
- Tôi sẽ cung cấp đủ than cho hai đầu kéo.
Than được chuyển ngay lên tàu. Trong lúc đó nguyên đoàn tàu dài nằm im. Tất cả hành khách đều ngủ vì mệt sau những ngày dài phải đối phó với hiểm họa chiến tranh...Việc tiếp tế nhiên liệu cho tàu mất hết bốn mươi phút. Lúc 0 giờ 50 con tàu sẵn sàng chuyển bánh. Sau hồi còi dài con tàu rùng mình chuyển động. Angelo đứng nhìn theo cho đến khi hai bóng đèn đỏ nơi đuôi tàu mất hút trong màn đêm.
Anh quay vào phòng làm việc sắp xếp lại sổ sách và ngồi chờ cú điện thoại của Luigi, trưởng ga kế tiếp, thông báo chuyến tàu 8017 đến ga an toàn, trước khi lên giường ngủ. Đoạn đường từ Balvano đến ga Bella Muro dài khoảng trên hai mươi km. Thông thường tàu chỉ mất mười lăm phút, hoặc tối đa là hai mươi phút nếu có tăng cường thêm toa.
Dưới ánh sáng mờ tỏa ra từ bóng đèn trong phòng, Angelo bật lửa châm một điếu thuốc, mắt lim dim mơ tưởng sắp được ngả lưng đánh một giấc sau ngày làm việc căng thẳng. Anh mơ về ngày chiến tranh kết thúc, hòa bình lập lại trên đất nước... 1 giờ 5 phút. Giờ này chuyến tàu 8017 phải đến ga Bella Muro. Angelo nhìn vào chiếc điện thoại móc trên tường, bồn chồn chờ tiếng chuông reo và giọng nói quen thuộc của Luigi thông báo tàu đến nơi... Nhưng chiếc điện thoại vẫn im thin thít.
Anh châm điếu thuốc thứ hai. Đồng hồ chỉ 1 giờ 25. Ba mươi lăm phút đã trôi qua từ khi tàu xuất ga. Bỗng chuông điện thoại reo vang. Angelo nhấc máy và nhận ra ngay giọng nói của Luigi, trưởng ga Bella Muro. Nhưng sao hôm nay giọng nói của Luigi không bình thường mà pha lẫn bực dọc:
- Chuyện gì xảy ra với tàu 8017 thế? Chán chết đi được khi phải dài cả cổ ngồi chờ, tớ buồn ngủ quá đi thôi!
Đến lượt Angelo giật mình:
- Cậu nói sao? Nó đã rời khỏi Balvano được hơn bốn mươi phút rồi còn gì!
Bất chợt Angelo tỉnh táo hẳn, sự mệt mỏi tan biến nhường chỗ cho cảm giác lo lắng pha lẫn tò mò. Phải chăng đấy là linh tính báo trước điều gì không may xảy đến với tàu 8017? Angelo cảm thấy có điều gì đó không bình thường đang diễn ra. Hẳn là tàu 8017 không bị dội bom bởi anh không nghe tiếng phi cơ hay tiếng bom nổ. Không lý gì tàu 8017 lại không leo nổi dốc vì nó được tăng cường thêm một đầu kéo. Có thể tàu leo dốc hơi chậm nhưng lẽ ra nó phải tới Bella Muro từ lâu rồi chứ...
Để quên bớt âu lo. Angelo xem lịch tàu đến và rời ga của ngày hôm sau. Nhưng càng đọc nỗi lo âu càng lớn dần. Những con số chỉ giờ tàu đến và đi không còn đúng theo lịch như trước đây nữa. Từ nhiều tuần qua, lịch tàu chạy chỉ mang tính tượng trưng. Chiến tranh là như thế. Tàu đến rồi đi bất cứ lúc nào có thể để tránh phi cơ Đức. Lắm khi các trưởng ga chỉ được thông báo giờ tàu đến và đi vào phút cuối...
Hai giờ khuya. Chắc chắn là có chuyện trầm trọng xảy ra với tàu 8017. Angelo gọi cho Luigi nhiều lần nhưng lần nào cũng chỉ nhận được câu trả lời “Nó vẫn bặt vô âm tín”. Giờ thì Angelo không thể ngồi chờ được nữa. Anh quyết định gọi báo cho trạm sửa chữa đầu máy nắm tình hình, và yêu cầu gởi ngay đến Balvano một toa đầu máy, để cùng phối hợp đi khảo sát tuyến Balvano-Bella Muro.
Đầu máy đến Balvano lúc 2 giờ 40 phút. Từ ga Bella Muro, Luigi cho biết vẫn chưa thấy bóng dáng tàu 8017! Đầu máy đi khảo sát di chuyển với tốc độ khá chậm để đề phòng bất trắc.Tàu 8017 có thể đã trật đường ray. Trong tình huống tranh tối tranh sáng như thế này cẩn thận là trên hết. Ở những cây số đầu tiên không việc gì lạ ở hai bên vệ đường. Hai thanh ray của tuyến đường sắt chạy song song thẳng tắp. Toa đầu máy đến đường hầm đầu tiên. Angelo bỗng hét to:
- Dừng ngay !
Tàu 8017 đang nằm bất động ở phía trước. Con tàu đã vào trong đường hầm, chỉ toa cuối cùng là còn nằm bên ngoài. Angelo và lái tàu nhảy vội xuống đất. Họ chạy đến tàu 8017. Đèn trong các toa tàu vẫn chiếu sáng nhưng tuyệt đối không nghe thấy một âm thanh hay tiếng động nào. Cả hai đầu máy kéo đều bặt tiếng. Sự im lặng đến rợn người ngự trị cả không gian tĩnh mịch của đêm tối. Tay cầm đèn, Angelo bước tới toa cuối của đoàn tàu. Trong ánh sáng mờ mờ, anh nhận ra vài bóng người trên đường ray. Anh rọi đèn vào.. và khựng lại.
Trước mắt anh là một phụ nữ gương mặt thất thần, bên cạnh là một cậu bé. Xa hơn một tí là hai ngươi đàn ông vẻ lừ đừ mệt mỏi. Điều làm cho Angelo kinh ngạc là tóc người phụ nữ có màu xám trong khi gương mặt cô ta hãy còn trẻ, chỉ độ trên hai mươi tuổi. Cậu bé khoảng bảy tuổi nhưng mái tóc cũng phủ một màu xám! Angelo cất giọng hỏi:
- Chuyện gì đã xảy ra thế này?
Câu trả lời là tiếng khóc nức nở của người phụ nữ và cậu bé. Hai người đàn ông cũng tức tưởi khóc. Đi về phía họ, Angelo phát hiện mái tóc của cả hai cũng bao phủ một màu xám Anh muốn hỏi thăm nhưng đành thôi vì họ đang ở trong tình trạng căng thẳng khó trả lời. Angelo cắn răng cầm lòng trước cảnh thương tâm. Anh bước tiếp về phía miệng đường hầm. Mỗi bước đi thể hiện sự gan dạ phi thường, đồng thời cũng thể hiện trách nhiệm của một trưởng ga. Phải tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra với tàu 8017.
Anh vừa qua khỏi toa tàu cuối của đoàn tàu. Hiện anh đang đứng dưới vòm của miệng đường hầm. Khung cảnh hoàn toàn bao trùm bởi sự im lặng rờn rợn. Anh bước lên toa tàu kế tiếp, mở cửa và bước vào buồng đầu tiên. Có tám hành khách ngồi trên hai dãy băng dài gồm phụ nữ, đàn ông và trẻ con. Trên sàn tàu là đống hành lý hỗn độn gồm đủ loại vật dụng mà người tị nạn thường mang theo. Mọi người có vẻ như đang say ngủ. Angelo đưa tay vỗ nhẹ vai người gần nhất. Ông ta lật ngang và lăn đùng xuống sàn tàu, kéo theo tấm thân gầy còm của người phụ nữ ngồi kế bên.
Năm phút sau Angelo bước ra khỏi đường hầm, gương mặt thất sắc tái xanh như tàu lá. Anh nói với lái tàu:
- Tất cả đều hồn lìa khỏi xác. Trên 500 sinh mạng con người!
Angelo làm bản báo cáo lên chính quyền các cấp. Tuy nhiên do tình hình chiến tranh nên sự việc được giữ bí mật. Mãi về sau ủy ban điều tra mới công bố nội bộ nguyên nhân của vụ "tai nạn" được xem là sự kiện hy hữu nhất trong lịch sử đường sắt mà cho đến bây giờ ít người biết đến. Kết luận của ủy ban điều tra vụ tai nạn khá là hợp lý: Trong đường hầm có một đoạn dốc cao, có thể nói là cao nhất trên cả tuyến. Hai đầu máy không đủ sức kéo nên cả đoàn tàu đứng khựng lại. Than được đốt tối đa và lái tàu nhấn hết ga hòng vượt qua đoạn dốc.
Chất lượng than lúc bấy giờ rất xấu. Khi đốt nó thải ra lượng lớn ôxýt cacbon. Loại khí rất độc hại này nhanh chóng lan tỏa trong đường hầm. Hành khách và nhân viên đoàn tàu hít phải khí độc và tử vong. Trong đêm ba rạng sáng 4-3-1944 có tấtcả 521 nạn nhân chết trong vụ tai nạn. Chỉ bốn người còn sống sót nhờ ngồi ở toa cuối cùng nằm bên ngoài đường hầm lúc xảy ra sự việc. Tuy nhiên họ cũng bị nhiễm độc khá trầm trọng. Tóc họ chuyển sang màu xám. Khí ôxýt cacbon đã làm tổn thương não bộ không thể nào hồi phục. Riêng đối với Angelo Caponegro, là một đêm kinh hoàng mà anh không bao giờ quên trong đời.
Pierre Bellemare
#83
Gửi vào 19/06/2011 - 06:32
BÓNG MA NHÀ HÁT KỊCH
Sáng thứ bảy lúc dùng điểm tâm bá tước Philippe bảo em mình :
- Đừng làm chuyện đó nhé Raoul. Tất cả câu chuyện về ma quỷ ở nhà hát theo anh là vớ vẩn. Cô gái đó điên rồi.
- Nàng không điên và em sẽ cưới cô ấy. Raoul trả lời.
- Nhưng mà cô ta chỉ là một ca sĩ opera bình thường thôi mà.
Philippe hằn học nói thêm nữa :
- Cô ta còn quá trẻ anh không biết chú yêu cô ta từ lúc nào, mười hay hai mươi tuổi ?
Raoul cúi xuống tách cà phê không trả lời, trong lúc đó ở nhà hát có hai người đang buồn bực: đó là hai ông giám đốc. Giờ đây họ đã hiểu BMNH nguy hiểm như thế nào, và họ cũng không mong muốn có thêm tai họa gì xảy ra cho nhà hát .
- Lô số năm sẽ trống tối nay cho hắn. Daaé sẽ hát Margaita, và đây hai chục ngàn francs để bà Giry đem đến lô số năm cho hắn, còn chuyện gì hắn yêu cầu mà ta chưa thực hiện không ?
Ông Armand hỏi ông bạn Firmin .
- Số tiền này nhiều quá, ông Firmin buồn bã nói thế, còn hoa cho lô số năm ? Bà Giry từng nói hắn thích hoa mà Armand .
- Mặc xác hắn nó thích thì tự mà lấy .
Ông Armand bực hét toáng lên .
Tối đó mọi chuyện diễn ra rất suôn sẻ, chiếc đèn chùm được gắn mới, bên dưới là đông đảo khán giả Paris, họ đã biết chuyện tình của Christine Daaé và Tứ tước de Chagny .
Có thể nói không một tình yêu bí mật nào được giấu kín ở Paris này, ai cũng háo hức muốn xem Bá tước và Tứ tước ở lô số mười bốn, bởi vì từ trước đến nay những gia đình danh giá như dòng họ Chagny, không bao giờ cho phép con cháu họ cưới ca sĩ hát opera .
Lúc Christine xuất hiện trên sân khấu, ai cũng nhận thấy nét mặt cô xanh xao đầy vẻ sợ hãi, nhưng bù lại giọng hát của cô rất ngọt ngào. Quả là tiếng hát đi vào lòng người ! Khi cô bắt đầu cất tiếng hát bản tình ca nổi tiếng, thì bất ngờ đèn của nhà hát vụt tắt .
Vài giây sau tất cả trở lại bình thường. Nhưng nhìn kìa Christine đã biến mất khỏi sân khấu! Cả nhà hát lộn xộn cả lên .
Người ta nhốn nháo chạy tìm Christine kắp nơi. Cảnh sát đã được gọi tới và nhanh chóng tiến hành điều tra truy tìm tung tích nạn nhân. Nhưng không ai có thể trả lời câu hỏi :
- Christine đang ở đâu ?
Ông Armand nổi giận gào thét mọi người, trong khi bạn ông ta luôn miệng khuyên nhủ bình tĩnh. Lúc này bà Giry cùng cô con gái Meg xuất hiện .
- Đi ra ngoài chỗ bà kia .
Ông Armand ra lệnh .
- Thưa các ông con tôi có điều muốn khai báo với mọi người, nói cho họ nghe đi con .
Và đây là câu chuyện của Meg .
- Khi ánh đèn sân khấu vụt tắt thì chúng tôi ở ngay cạnh sân khấu, chúng tôi nghe thấy một tiếng thét mà tôi nghĩ là của cô Christine. Sau đó khi đèn sáng trở lại thì không còn thấy Christine ở đó nữa. Chúng tôi rất lo sợ nên chạy trở lại phòng thay đồ, rồi tỏa đi khắp nơi tìm kiếm .
Lúc này tôi cũng nhìn thấy tử tước de Chagny, với vẻ mặt giận dữ ông ấy vừa chạy vừa kêu to :
- Em ở đâu hở Christine ?
Bất chợt người đàn ông Ba Tư chạy đến bên ông ấy. Tôi thấy họ nói gì với nhau rồi chạy bổ vào phòng thay đồ của cô Christine Daaé .
- Thế à rồi sao nữa ?
Ông Fimin hối thúc .
- Sau đó không ai biết được gì thêm.
Gương mặt Meg vẫn còn tái xanh .
- Chúng tôi nhìn vào phòng thay đồ nhưng..Nhưng thưa các ông không có một ai trong đó cả..
***
- Tôi không đòi hỏi nhưng em đã hôn tôi hoàn toàn tự nguyện. Ôi Christine ơi ! Đây là một nụ hôn của một người phụ nữ dành cho tôi đầu tiên trong đời, thậm chí người sinh ra tôi còn chưa bao giờ hôn tôi. Bà ấy luôn quay mặt đi mỗi khi tôi tới gần và từ năm hai tuổi, tôi đã phải mang chiếc mặt nạ trên mặt .
Erik gục xuống dưới chân Christine, hai tay ôm đầu gào lên :
- Em được tự do Christine, hãy đi và làm lễ cưới với Raoul đi, chúc em hạnh phúc nhưng thỉnh thoảng xin em hãy nhớ đến Erik tội nghiệp này, nhanh lên em hãy đi cùng Raoul và cả tên Ba Tư nữa, đi đi .
Trong nhiều tuần lễ liền người ta vẫn còn bàn tán về sự mất tích của nữ ca sĩ Christine Daaé. Mọi người đều đặt ra nhiều câu hỏi, nhưng không ai có được câu trả lời .
Christine ở đâu ? Còn Tứ tước de Chagny nữa ông ấy đâu ? Họ còn sống hay đã chết ? Rồi con ma nhà hát, nó..?
Vài tuần sau một chiều nọ, người ta thấy bà Giry đi đến ngôi nhà nhỏ cạnh vườn Rivoli, bà vào nhà leo lên cầu thang, đến phòng cao nhất của căn nhà. Người đàn ông Ba Tư mở cửa cho bà, vừa gặp ông bà hỏi:
- Ông bạn tôi biết ông có tin tức về họ, thế nào họ còn sống hay đã chết rồi ?
- Mời bà vào nhà .
Người Ba Tư thận trọng nói .
Họ đến ngồi bên cửa sổ trông xuống vườn Rivoli .
- Vâng .
Người đàn ông Bà Tư mở đầu câu chuyện :
- Bóng ma ở nhà hát kịch đã chết, hắn không còn thiết sống nữa, cách đây ba ngày tôi đã gặp thi thể của hắn, và do đó tôi mới có quyền nói cho bà về hắn, đơn giãn vì giờ đây hắn không còn có thể giết tôi .
- Như vậy con ma thực sự là người à ?
Bà Giry hỏi .
- Phải hắn tên là Erik, đương nhiên đó không phải là tên thật của hắn. Erik sinh tại Pháp nhưng tôi biết hắn là người gốc Ba Tư và là một tay xây dựng rất là giỏi, tôi biết hắn rất rõ vì lúc đó tôi đã từng làm việc chung với hắn, thậm chí có thời gian tôi còn là bạn của hắn nữa kìa .
Ít lâu sau hắn đến Paris, tôi cũng đến đây vì muốn theo dõi hắn, công bằng mà nói hắn rất tài giỏi nhưng cũng rất nguy hiểm. Bà có biết không hắn có thể có mặt hai, ba nơi trong cùng một lúc, hay hắn ở nơi này nhưng tiếng nói lại vang vọng ở nơi khác .
Đặc biệt là hắn rất giỏi sử dụng dây thừng, làm kiếng và tạo những cánh cửa bí mật, tòa nhà hát opera cũng do một tay hắn xây dựng, nên khi xây nhà hát này, Erik đã xây dựng những hành lang bí mật dưới lòng đất, và cả một căn nhà trên hồ nước, đó là nơi trú ẩn của hắn .
Tội nghiệp do mặc cảm xấu xí, nên hắn không bao giờ bước ra thế giới bên ngoài, chính chúng ta phải cảm thấy có lỗi với hắn về điều này đấy bà Giry .
Hắn quá tài giỏi..nhưng cũng quá xấu xí, mọi người ai cũng hét toán lên khi giáp mặt với hắn, vì lẻ đó mà hắn chọn cho mình một cách sống lập dị nữa người nữa ma. Thật ra hắn vẫn là một con người và đến phút cuối, hắn vẫn mong muốn có một tình yêu .
Người Ba Tư dừng lại, bà Giry hỏi nhanh :
- Thế còn có Christine Daaé và tử tước de Chagny thì sao ? Chuyện gì đã xãy đến với họ ?
Người Ba Tư mỉm cười đáp :
- À vâng ! Chuyện gì đã xảy đến cho chàng trai trẻ Raoul và cô gái xinh đẹp Christine vậy nhỉ ? Có ai biết không ?
Không ai ở Paris gặp lại Raoul và Christine lần thứ hai. Có lẻ họ đã đáp chuyến tàu lên phía Bắc và sống một cuộc đời bình yên và hạnh phúc bên nhau .
Hay có thể giọng hát tuyệt vời của Christine vẫn còn ngân nga ở một nơi nào đó, trong vùng núi quanh năm phủ đầy tuyết Na Uy ai mà biết được .
Truyện Ma
Sáng thứ bảy lúc dùng điểm tâm bá tước Philippe bảo em mình :
- Đừng làm chuyện đó nhé Raoul. Tất cả câu chuyện về ma quỷ ở nhà hát theo anh là vớ vẩn. Cô gái đó điên rồi.
- Nàng không điên và em sẽ cưới cô ấy. Raoul trả lời.
- Nhưng mà cô ta chỉ là một ca sĩ opera bình thường thôi mà.
Philippe hằn học nói thêm nữa :
- Cô ta còn quá trẻ anh không biết chú yêu cô ta từ lúc nào, mười hay hai mươi tuổi ?
Raoul cúi xuống tách cà phê không trả lời, trong lúc đó ở nhà hát có hai người đang buồn bực: đó là hai ông giám đốc. Giờ đây họ đã hiểu BMNH nguy hiểm như thế nào, và họ cũng không mong muốn có thêm tai họa gì xảy ra cho nhà hát .
- Lô số năm sẽ trống tối nay cho hắn. Daaé sẽ hát Margaita, và đây hai chục ngàn francs để bà Giry đem đến lô số năm cho hắn, còn chuyện gì hắn yêu cầu mà ta chưa thực hiện không ?
Ông Armand hỏi ông bạn Firmin .
- Số tiền này nhiều quá, ông Firmin buồn bã nói thế, còn hoa cho lô số năm ? Bà Giry từng nói hắn thích hoa mà Armand .
- Mặc xác hắn nó thích thì tự mà lấy .
Ông Armand bực hét toáng lên .
Tối đó mọi chuyện diễn ra rất suôn sẻ, chiếc đèn chùm được gắn mới, bên dưới là đông đảo khán giả Paris, họ đã biết chuyện tình của Christine Daaé và Tứ tước de Chagny .
Có thể nói không một tình yêu bí mật nào được giấu kín ở Paris này, ai cũng háo hức muốn xem Bá tước và Tứ tước ở lô số mười bốn, bởi vì từ trước đến nay những gia đình danh giá như dòng họ Chagny, không bao giờ cho phép con cháu họ cưới ca sĩ hát opera .
Lúc Christine xuất hiện trên sân khấu, ai cũng nhận thấy nét mặt cô xanh xao đầy vẻ sợ hãi, nhưng bù lại giọng hát của cô rất ngọt ngào. Quả là tiếng hát đi vào lòng người ! Khi cô bắt đầu cất tiếng hát bản tình ca nổi tiếng, thì bất ngờ đèn của nhà hát vụt tắt .
Vài giây sau tất cả trở lại bình thường. Nhưng nhìn kìa Christine đã biến mất khỏi sân khấu! Cả nhà hát lộn xộn cả lên .
Người ta nhốn nháo chạy tìm Christine kắp nơi. Cảnh sát đã được gọi tới và nhanh chóng tiến hành điều tra truy tìm tung tích nạn nhân. Nhưng không ai có thể trả lời câu hỏi :
- Christine đang ở đâu ?
Ông Armand nổi giận gào thét mọi người, trong khi bạn ông ta luôn miệng khuyên nhủ bình tĩnh. Lúc này bà Giry cùng cô con gái Meg xuất hiện .
- Đi ra ngoài chỗ bà kia .
Ông Armand ra lệnh .
- Thưa các ông con tôi có điều muốn khai báo với mọi người, nói cho họ nghe đi con .
Và đây là câu chuyện của Meg .
- Khi ánh đèn sân khấu vụt tắt thì chúng tôi ở ngay cạnh sân khấu, chúng tôi nghe thấy một tiếng thét mà tôi nghĩ là của cô Christine. Sau đó khi đèn sáng trở lại thì không còn thấy Christine ở đó nữa. Chúng tôi rất lo sợ nên chạy trở lại phòng thay đồ, rồi tỏa đi khắp nơi tìm kiếm .
Lúc này tôi cũng nhìn thấy tử tước de Chagny, với vẻ mặt giận dữ ông ấy vừa chạy vừa kêu to :
- Em ở đâu hở Christine ?
Bất chợt người đàn ông Ba Tư chạy đến bên ông ấy. Tôi thấy họ nói gì với nhau rồi chạy bổ vào phòng thay đồ của cô Christine Daaé .
- Thế à rồi sao nữa ?
Ông Fimin hối thúc .
- Sau đó không ai biết được gì thêm.
Gương mặt Meg vẫn còn tái xanh .
- Chúng tôi nhìn vào phòng thay đồ nhưng..Nhưng thưa các ông không có một ai trong đó cả..
***
- Tôi không đòi hỏi nhưng em đã hôn tôi hoàn toàn tự nguyện. Ôi Christine ơi ! Đây là một nụ hôn của một người phụ nữ dành cho tôi đầu tiên trong đời, thậm chí người sinh ra tôi còn chưa bao giờ hôn tôi. Bà ấy luôn quay mặt đi mỗi khi tôi tới gần và từ năm hai tuổi, tôi đã phải mang chiếc mặt nạ trên mặt .
Erik gục xuống dưới chân Christine, hai tay ôm đầu gào lên :
- Em được tự do Christine, hãy đi và làm lễ cưới với Raoul đi, chúc em hạnh phúc nhưng thỉnh thoảng xin em hãy nhớ đến Erik tội nghiệp này, nhanh lên em hãy đi cùng Raoul và cả tên Ba Tư nữa, đi đi .
Trong nhiều tuần lễ liền người ta vẫn còn bàn tán về sự mất tích của nữ ca sĩ Christine Daaé. Mọi người đều đặt ra nhiều câu hỏi, nhưng không ai có được câu trả lời .
Christine ở đâu ? Còn Tứ tước de Chagny nữa ông ấy đâu ? Họ còn sống hay đã chết ? Rồi con ma nhà hát, nó..?
Vài tuần sau một chiều nọ, người ta thấy bà Giry đi đến ngôi nhà nhỏ cạnh vườn Rivoli, bà vào nhà leo lên cầu thang, đến phòng cao nhất của căn nhà. Người đàn ông Ba Tư mở cửa cho bà, vừa gặp ông bà hỏi:
- Ông bạn tôi biết ông có tin tức về họ, thế nào họ còn sống hay đã chết rồi ?
- Mời bà vào nhà .
Người Ba Tư thận trọng nói .
Họ đến ngồi bên cửa sổ trông xuống vườn Rivoli .
- Vâng .
Người đàn ông Bà Tư mở đầu câu chuyện :
- Bóng ma ở nhà hát kịch đã chết, hắn không còn thiết sống nữa, cách đây ba ngày tôi đã gặp thi thể của hắn, và do đó tôi mới có quyền nói cho bà về hắn, đơn giãn vì giờ đây hắn không còn có thể giết tôi .
- Như vậy con ma thực sự là người à ?
Bà Giry hỏi .
- Phải hắn tên là Erik, đương nhiên đó không phải là tên thật của hắn. Erik sinh tại Pháp nhưng tôi biết hắn là người gốc Ba Tư và là một tay xây dựng rất là giỏi, tôi biết hắn rất rõ vì lúc đó tôi đã từng làm việc chung với hắn, thậm chí có thời gian tôi còn là bạn của hắn nữa kìa .
Ít lâu sau hắn đến Paris, tôi cũng đến đây vì muốn theo dõi hắn, công bằng mà nói hắn rất tài giỏi nhưng cũng rất nguy hiểm. Bà có biết không hắn có thể có mặt hai, ba nơi trong cùng một lúc, hay hắn ở nơi này nhưng tiếng nói lại vang vọng ở nơi khác .
Đặc biệt là hắn rất giỏi sử dụng dây thừng, làm kiếng và tạo những cánh cửa bí mật, tòa nhà hát opera cũng do một tay hắn xây dựng, nên khi xây nhà hát này, Erik đã xây dựng những hành lang bí mật dưới lòng đất, và cả một căn nhà trên hồ nước, đó là nơi trú ẩn của hắn .
Tội nghiệp do mặc cảm xấu xí, nên hắn không bao giờ bước ra thế giới bên ngoài, chính chúng ta phải cảm thấy có lỗi với hắn về điều này đấy bà Giry .
Hắn quá tài giỏi..nhưng cũng quá xấu xí, mọi người ai cũng hét toán lên khi giáp mặt với hắn, vì lẻ đó mà hắn chọn cho mình một cách sống lập dị nữa người nữa ma. Thật ra hắn vẫn là một con người và đến phút cuối, hắn vẫn mong muốn có một tình yêu .
Người Ba Tư dừng lại, bà Giry hỏi nhanh :
- Thế còn có Christine Daaé và tử tước de Chagny thì sao ? Chuyện gì đã xãy đến với họ ?
Người Ba Tư mỉm cười đáp :
- À vâng ! Chuyện gì đã xảy đến cho chàng trai trẻ Raoul và cô gái xinh đẹp Christine vậy nhỉ ? Có ai biết không ?
Không ai ở Paris gặp lại Raoul và Christine lần thứ hai. Có lẻ họ đã đáp chuyến tàu lên phía Bắc và sống một cuộc đời bình yên và hạnh phúc bên nhau .
Hay có thể giọng hát tuyệt vời của Christine vẫn còn ngân nga ở một nơi nào đó, trong vùng núi quanh năm phủ đầy tuyết Na Uy ai mà biết được .
Truyện Ma
#84
Gửi vào 19/06/2011 - 06:36
HUYỀN THOẠI NÚI MẶT QUỶ
1. Đêm tháng tư oi nồng và lặng gió. Mùi cá khô và nước mắm bốc lên đậm đặc không gian. Vầng trăng lưỡi liềm lúc ẩn lúc hiện, sau vạt mây xám trôi lang thang trên bầu trời, như tà áo rách của người hành khất.
Sóng biển ì oạp vỗ đều vào bãi đá cuội bám đầy rêu mốc, và những xác hà, xác hến sắc lạnh như dao, sẵn sàng cứa đứt da thịt mọi sinh vật nào đụng chạm vào nó.
Ngọn núi Linh Mẫu phía Tây thị xã, sừng sững nổi lên cô độc giữa bao la đồng ruộng như cái nhà mồ khổng lồ. Xóm làng chìm trong giấc ngủ, chỉ nghe tiếng đàn chuột “chít chít” gọi nhau đi ăn từng đàn, từng lũ, hằng hà sa số là chuột.
Suốt mấy tháng liền, đội quân chuột từ đâu kéo đến vùng này tàn phá ruộng nương gây bệnh dịch hạch, gieo cái chết kinh hoàng cho dân chúng.
Quan phủ đã gửi trát về khắp các tổng, huyện ra lệnh cho các binh sĩ và toàn dân diệt chuột mà không xuể. Hình như càng diệt lũ chuột càng sinh sôi nảy nở, đàn đàn lũ lũ nhung nhúc khắp làng trên xóm dưới, trong vườn ngoài ruộng.
Trong nhà ông Bá hộ Tùng mọi người vẫn khêu to bấc đèn, hồi hộp thức đợi bà Bá hộ đang nằm trở dạ. Tiếng rên la đau đớn, quằn quại của bà Bá hộ lẫn trong tiếng chuột kêu “chít chít” ở ngách tường, trên sàn nhà dưới gầm giường và cả ngoài sân cây kiểng.
Ông Bá hộ Tùng ngồi thừ người trên chiếc tràng kỷ, ngước nhìn lên bàn thờ tổ đăm chiêu suy nghĩ. Hạn hán mất mùa, lại thêm dịch chuột từ trên trời rơi xuống khiến vùng quê điêu tàn xơ xác.
Vợ ông lại chuyển dạ nhằm vào giờ Hợi tháng Tỵ năm Tý là điềm gì vậy? Là người có chút Nho học hiểu kinh dịch, ông gọi người nhà lấy chiếc bát sứ Giang Tây và ba đồng trinh lên cho ông lầm rầm khấn trời đất, gieo quẻ…
Một ngôi sao từ phía biển lóe sáng lên to bằng cái đấu, rơi về phía núi Linh Mẫu rồi tan biến vào trong đêm tối. Đàn dơi trong hang núi Linh Mẫu rít lên những tiếng thất thanh, rào rào bay vào vườn cây nhà Bá hộ Tùng.
Những cánh dơi núi xoè to như chiếc quạt nan, chờn vờn chấp chới trên ngọn cây xoài cây mít. Đàn chó ngao thấy động chạy ra ngoài vườn ngửa cổ lên trời sủa vang, làm náo động cả xóm làng. Vừa lúc đó trong buồng cất lên tiếng khóc chào đời của cậu con trai ông Bá hộ Tùng.
2. Đó là năm Tý hai mươi bốn của thế kỷ XX. Chuyện xảy ra cách đây hơn bảy mươi năm. Cậu con trai ông Bá hộ Tùng nay đã thành chính khách lưu vong, sống trong một toà biệt thự lộng lẫy ở đảo quốc xa quê hàng vạn dặm.
Tướng quân Huỳnh Bá Vương ngồi bệ vệ trên chiếc ghế cổ đời Minh, hai bên tay ngai chiếc ghế đều khảm rồng ở đầu. Râu tóc ông bạc trắng. Khuôn mặt vuông vức tai to, trán rộng da đỏ hồng...Nom ông đường bệ uy nghiêm, chỉ tiếc đôi mắt một mí, cái miệng quả quýt làm giảm bớt những nét quý tướng, và vệt tối trên ấn đường như phảng phất bóng mây tội lỗi của quá khứ.
Cô hầu gái người bản địa xúng xính trong bộ áo xường xám bằng tuyết nhung mầu nâu đen, bưng tách trà sâm, nhẹ nhàng đặt lên bàn mời ông rồi khép nép đứng ra sau ghế chờ lệnh. Tướng quân họ Huỳnh nhấp một ngụm trà, đưa tay khoát nhẹ cho cô hầu gái không cần phải đấm lưng xoa bóp.
Ông đang đắm chìm trong dòng hoài niệm về thuở ấu thơ ở quê nhà xa tít bên bờ biển Đông. Làm người lúc về già ai chẳng có giây phút nhớ về mảnh đất chôn nhau, cắt rốn và năm tháng tuổi thơ bay bổng theo cánh diều hay ngụp lặn dưới dòng sông eo biển. Câu chuyện tâm tình giữa ông Bá hộ Tùng với bà vợ sau đêm sinh nở, theo lời kể của mẹ ông lại hiện về rõ nét như đoạn phim trên màn hình của chiếc ti vi màu kê ở góc phòng.
Ông Bá hộ Tùng đẩy cửa buồng rón rén đi từng bước, vén màn ngồi bên mép giường âu yếm hỏi vợ:
- Bà có khoẻ không đã ăn uống gì chưa ?
- Tôi khoẻ rồi. Ơn Trời nhờ Phật cho chúng mình một thằng con trai bụ bẫm, ông xem này tóc cu cậu dài và đen nhánh.
- Bà khoẻ là tôi mừng. Thằng bé này vận số có nhiều điều lạ lắm.
- Sao thế hả ông ?
- Đêm qua lúc bà vừa sinh thì trời đổ mưa như trút nước kéo dài đến sáng. Tôi nghe dân làng kháo nhau mưa làm trôi lở đất cát trên sườn núi Linh Mẫu, lộ ra hòn đá có hình mặt quỷ dữ trông ra bờ biển.
Đàn chuột quỷ sứ lâu nay phá phách bỗng nhiên biến đi đâu sạch. Hình như tinh tướng của lũ chuột nhập hết vào mỏm đá quỷ trên núi, ám hại dân xứ này còn dài dài.
- Nó mọc lên ở chỗ nào hở ông ?
- Ở ngay phiến đá nhẵn lỳ mà tôi với bà thường hay ngồi lúc mới quen nhau ấy. Chỗ mình ngồi bây giờ thành đỉnh đầu của mỏm đá mặt quỷ.
- ông nom thấy nó có dữ tợn không ?
- Ghê lắm bà ạ. Hai hốc mắt sâu hoắm. Mặt sần sùi trốc lở. Cái hàm đười ươi nhe răng nhọn hoắt như muốn nhai tươi nuốt sống mọi sinh linh trên mặt đất.
Bà bá hộ thở dài ngước nhìn lên đỉnh màn. Đôi dòng lệ chảy tràn xuống gối. Đứa bé bên cạnh ọ oẹ đòi ăn. Miệng bà bất giác bật lên câu hát ru của những người dân xa xứ lang thang. Lời hát nghe ai oán não lòng:
Ầu ơ… một kiếp con người
Nợ nần kiếp trước luân hồi trả vay
Biết thân lăn lóc đọa đầy
Thà làm hạt bụi chân mây cuối trời…
Ông Bá hộ Tùng nhìn đứa trẻ háu ăn, bú tòm tọp vào vú mẹ, lòng bồi hồi nhớ lại quẻ bói dịch hồi đêm ông đã xem. Thằng bé này mai sau sẽ làm nên những chuyện động trời. Trai thời loạn gái thời bình. Vận số dân nước mình sẽ trải qua một thời tao loạn núi xương sông máu.
Theo cách tính của Chu dịch thì khoảng chẵn ba con giáp nữa, vào năm Tý sáu mươi, lúc thằng bé ba mươi sáu tuổi sẽ bắt đầu đại loạn.
Cung nô bộc của nó có một vì sao lạ không rõ hình tích lúc sáng lúc mờ. Cái điềm đàn dơi núi bay từ hang đá trong núi Linh Mẫu vào vườn xoài, là ứng với thằng bạn đồng tuổi Tý sẽ cùng nó phất lên vào năm Canh Tý sáu mươi.
Một đứa làm tướng dưới đất, một đứa làm tướng trên trời. Hai đứa cùng học một lớp ở trường võ bị vào năm Mậu Tý bốn mươi tám và thân thiết với nhau từ đó. Chúng sẽ thành cặp bài trùng dựa vào nhau để thăng tiến, nhưng luôn gầm ghè muốn làm thịt lẫn nhau.
Trời sinh ra một đứa thâm trầm, nhiều mưu mẹo kín đáo, còn một đứa ngông nghênh bốc đồng. Thằng bạn kia có lúc hớ hênh làm cái bung sung cho thằng bé nhà mình giật dây phát ngôn với bàn dân thiên hạ, song không dễ gì kiềm chế nó. Một con chuột đồng, một con dơi núi đua nhau tranh bá đồ vương giữa thời tao loạn...
3. Người quản gia bước vào, nhắc tướng quân Huỳnh Bá Vương đã đến giờ đi tản bộ và tập khí công ngoài hoa viên biệt thự. Ông ta cầm chiếc ba toong khảm đầu rồng, có hai viên đá hồng ngọc ở mắt, kính cẩn đưa cho chủ nhân.
Tướng quân họ Huỳnh gật đầu mỉm cười nhìn viên quản gia trung thành. Ông ta là người gốc quê ở chân núi Linh Mẫu. Năm Tý sáu mươi xảy ra chính biến, lúc đó tướng quân họ Huỳnh mới đeo lon Trung tá, nhờ có công phò giúp Tổng thống dẹp loạn, nên được vượt cấp vinh thăng Thiếu tướng.
Ba năm sau đó cũng chính tướng quân họ Huỳnh, lại ngả theo phe đảo chính bao vây dinh Tổng thống, để người bạn thân là tướng không quân Nguyễn Đại Long, ném bom sát hại anh em Tổng thống.
Người được ông và Đại Long sai giết Tổng thống chính là viên quản gia bây giờ. Vốn tính đa nghi nên tướng quân họ Huỳnh từ ngày chuyển sang làm chính khách chỉ dùng toàn người cùng quê, biên chế họ vào đội cận vệ của mình.
Ông ta chỉ huy đội cận vệ rất mẫn cán, đến ngày tàn cuộc chiến, phải theo chủ chạy ra đảo quốc thì trở thành người quản gia cho tướng quân họ Huỳnh.
Tướng quân Huỳnh Bá Vương lững thững chống ba toong dạo quanh hoa viên biệt thự. Cơ ngơi này ông mua của con trai ngài Tổng thống đương nhiệm trên đảo quốc với giá hai triệu đô la.
Nó nằm trên quả đồi nhìn ra biển tứ bề lộng gió. Hoa viên rộng chừng một trăm mẫu, với những hàng thông cao to chạy dọc lối đi bằng bê tông và cả một rừng hoa các loại bốn mùa nở rộ.
Nó còn là một vườn thú nuôi đủ các loài gậm nhấm quý hiếm mua từ khắp các châu lục: Chồn bay, chuột túi căng gu ru, sóc đuôi cờ, cày xạ hương, chồn lông đỏ, nhím khoang tứ đốm...
Cái tuổi Giáp Tý và câu chuyện mẹ kể ngày xưa như vẫn ám ảnh tướng quân họ Huỳnh. Những năm tháng tuổi già, sống tha hương nơi đất khách quê người, ông chỉ thích nuôi thật nhiều loài thú gậm nhấm.
Ở đảo quốc châu Á toàn người mũi tẹt da vàng này, ông vẫn còn được trọng vọng vì nể. Nhiều lúc nghĩ đến tướng Nguyễn Đại Long, kẻ kình địch trên chính trường, ông lại mỉm cười thương hại cho anh chàng phổi bò. Mang thân là chính khách lưu vong mà đi cư ngụ ở mẫu quốc, thì đâu dễ được đàng hoàng thanh thản như Huỳnh Bá Vương ở đảo quốc đồng minh.
Càng ngẫm ông càng phục tài bói dịch của bố và những lời tiên đoán năm xưa về quan hệ giữa ông và tướng Nguyễn Đại Long.
Vương và Long cùng học một khoá sĩ quan trường võ bị quốc gia ở Đà Lạt. Ngày ấy Vương có dáng thư sinh nho nhã, biết kiệm lời và chọn câu chữ tế nhị mỗi lần giao tiếp.
Long cùng tuổi Tý nhưng tính tình sôi nổi, thuộc nhiều chuyện tiếu lâm, sống ngang tàng và tán gái nhanh như chảo chớp. Họ thân nhau như hình với bóng. Vũ trường hay quán bar nào có cô gái nhà lành xinh đẹp mới vào làm, Vương đều rủ Long đến mở đầu màn tán tỉnh. Trong khi Long nốc rượu khoa chân múa tay, huyên thuyên tán tỉnh thì Vương ngồi nhấp nháp ly rượu vang Pháp lắng nghe, thỉnh thoảng đưa mắt sang người đẹp nói đôi lời lấp lửng đầy ý tứ. Quả nhiên về sau các nàng tuy lấy cớ hẹn Long, nhưng mục đích là gặp Vương.
Cuộc đời binh nghiệp gắn bó hai người thành cặp bài trùng để Long xông xáo hò hét cho Vương thực hiện mọi ý đồ. Cuộc chính biến năm Tý sáu mươi, cũng nhờ Vương phân tích cho Long thế lực của Tổng thống còn đang mạnh, rồi qua Long vận động thêm các sĩ quan cấp tá ủng hộ Tổng thống chống lại phe đảo chính, nên hai người cùng được vinh thăng cấp tướng.
Ba năm sau lại chính Vương lôi kéo Long mang lực lượng không quân phối hợp với mình bao vây và giết hại Tổng thống. Chỉ khi hai người đã ngồi ngất ngưởng trên ngôi cao quyền lực họ mới nảy sinh lòng thù ghét ra mặt đả kích, chống phá nhau kịch liệt.
Tuy vậy bản tính bông lông khiến nhà chính khách Long càng lăng mạ, chửi bới, càng củng cố thêm uy tín, quyền lực cho ông bạn vàng túc trí đa mưu. Lời tiên đoán của ông Bá hộ Tùng dưới chân núi có hòn đá mặt quỷ khiến Vương suốt một thời dấn sâu vào chính trường càng thấy linh nghiệm...
4- Nhưng có một điều tiên đoán trong quẻ dịch, ông Bá hộ Tùng không nói với vợ, âm thầm mang theo sự bí mật sang bên kia thế giới. Ông chỉ làm một bài sấm để dân chúng quanh vùng truyền tụng và chiêm nghiệm về sau:
Sông máu núi xương
Đắp thành nghiệp vương
Chỉ qua một giáp
Oan hồn tứ phương
Phá tan mặt quỷ
Sắc sắc không không
Ba năm sau đó.
Năm Tý sáu mươi đô thành đẫm máu trong cuộc đảo chính không thành, bị Tổng thống ra lệnh đàn áp. Nghe tin con trai nhờ trận tắm máu này được vinh thăng cấp tướng, bà Bá hộ buồn rầu ăn chay, thắp hương lễ tạ linh hồn chồng rồi lập chùa, đi tu ở núi Linh Mẫu.
Hàng ngày bà gõ mõ tụng kinh sám hối cho con trai, nhất quyết không chịu về nhà. Tướng quân Huỳnh Bá Vương về quê thăm mẹ, nghe dân gian truyền tụng bài sấm lòng thấy nửa tin nửa ngờ. Giờ ông nhớ lại buổi hai mẹ con gặp nhau trong chùa ngày đó.
- Lạy mẹ con đã về.
- A Di Đà Phật ! Ta đã chút bỏ bản ngã mang tâm đến nương nhờ Phật tổ. Kẻ vô ngã không có mình làm sao có gia đình con cái.
- Lạy mẹ xin mẹ đừng làm con sợ.
- Mô phật ! Thí chủ từ đâu đến sao quanh mình âm khí nặng nề tanh mùi máu ?
- Mẹ ơi ! Con là người lính con phải bắn giết những kẻ chống đối theo lệnh Tổng thống mà thôi.
- Mô phật ! Nhân sinh là kiếp luân hồi. Việc đời nhân nào quả nấy. Thí chủ hãy nghe ta:
Của cải là phù du
Lợi danh hư ảo tất
Sẽ biến thành bụi cát
Quỷ dữ và hiền nhân
Oán cừu trả bằng ân
Cây đời sai quả phúc
Lưu truyền là âm đức
Ác tâm theo xuống mồ...
Bà mẹ nói xong nhắm mắt ngồi tĩnh tâm trước Phật đài. Tướng quân Huỳnh Bá Vương quỳ đợi hồi lâu bất lực đành lủi thủi xuống núi.
Ông bùi ngùi thương mẹ nhưng lại tự nhủ lòng: Chí làm trai phải nuôi việc lớn. Phận nam nhi phải thành danh trong thiên hạ. Chính trường là cuộc tàn sát khi công khai khi ngấm ngầm. Muốn thành danh con người phải có máu lạnh, khi cần phải tàn nhẫn và giả trá.. Mang nặng trong lòng ý nghĩ ấy, Huỳnh Bá Vương quay lại đô thành lao vào chém giết bày mưu, gài bẫy trên đường thăng tiến của quyền lực.
Mười hai năm sau đúng vào năm Tý bảy hai, ngôi chùa của bà Bá hộ bỗng nhiên bốc cháy trong đêm. Sau cái chết của bà một trận mưa khủng khiếp kéo dài suốt bảy ngày đêm. Trời đất tối tăm mù mịt, sấm chớp đùng đùng. Tan cơn mưa người ta thấy mỏm đá mặt quỷ trên núi Linh Mẫu bị sét đánh vỡ toác làm đôi.
Tướng quân Huỳnh Bá Vương nghe tin bủn rủn tay chân tâm thần hoảng loạn. Ông nhớ lại mấy câu cuối trong bài sấm:
Oan hồn tứ phương
Phá tan mặt quỷ
Sắc sắc không không
Ba năm sau đó.
Lời sấm mách bảo ông thời vận trên chính trường sắp hết, nhiều lắm là ba năm phải mau chuẩn bị phòng thân. Nhìn lại các chiến hữu tâm phúc, ông hoang mang thấy mình đã gạt bỏ rơi rụng gần hết, chỉ còn kẻ khắc tinh Đại Long đang mưu toan lật đổ mình.
Ngoài chiến trường thua quân mất đất. Trong đô thành âm ỉ ngòi nổ bạo lực của Nguyễn Đại Long. Đồng minh ở xa bên kia Thái Bình Dương hờ hững bỏ rơi. Tướng quân họ Huỳnh chỉ còn biết ngấm ngầm ra lệnh cho tay chân vơ vét vàng bạc của công quỹ, giục vợ nhanh chóng thu hồi tiền vốn các băng nhóm, đường dây ma tuý. Trong vòng ba năm ông thu về gần chục tấn vàng rồi tháo chạy sang đảo quốc, trước ngày đối phương tấn công vũ bão vào đô thành.
5- Mặt trời đã lên cao đỏ như chậu máu trên biển. Đàn thú gậm nhấm “chít chít” kêu trong các chuồng đòi ăn, làm huyên náo cả hoa viên biệt thự.
Người quản gia giương ô che nắng, giục Tướng quân Huỳnh Bá Vương quay về phòng. Trong ông bỗng nhiên thấy cô quạnh trống trải. Tận trong sâu thẳm ông nhói lên niềm nhớ quê, thương mẹ thương cha. Vàng bạc kim cương đô la và tất cả mọi của cải chẳng còn chút ý nghĩa gì đối với tướng quân họ Huỳnh.
Vợ ông giờ này chắc đã ngồi xoa mạt chược với mấy phu nhân quyền quý người bản địa. Các con ông thảy đều lấy chồng Tây hay vợ Tàu và đã dắt díu nhau đi ở bên Tây, bên Mỹ. Chúng chẳng thiết về với đôi vợ chồng già lẩm cẩm, nếu có viết thư đọc lên chỉ thấy đòi phân chia tài sản trước khi ông chết.
Ông thèm được về quê leo núi Linh Mẫu hay tắm mình trong biển ngập nắng, nhưng lại sợ dân chúng căm thù hành quyết. Bên tai ông văng vẳng tiếng những oan hồn đòi mạng. Quanh ông nhìn đâu cũng hoá xác người.. .
Người quản gia thấy chủ nhân chóng mặt lảo đảo sắp ngã. Ông ta đỡ tướng quân Huỳnh Bá Vương vào buồng nằm nghỉ. Từ sáng hôm đó tướng quân ốm liệt giường luôn mê sảng. Bác sĩ giải thích đó là bệnh của người già cả nghĩ.
Vũ Ngọc Tiến
BÓNG MA GÂY TAI NẠN Ở ANH
Dư luận Anh đang xôn xao bàn tán về bóng ma một bé gái, được cho là đã gây hàng loạt các vụ tai nạn trên một đoạn đường làng.
Các chuyên gia nghiên cứu hiện tượng siêu nhiên đang điều tra về bóng ma bé gái ba, bốn tuổi, mặc bộ váy thời Victoria trên một đoạn đường ở hạt West Midland. Đây là khu vực mà các nhà chức trách địa phương cho rằng là điểm đen thường xảy ra tai nạn.
Hình ảnh ma này thường được nh ìn thấy vào đêm khuya, xuất hiện dọc đường Oldnall ở khu vực Halesowen. Người ta tin rằng chính nó đã gây ra hàng loạt vụ đâm xe và những tình huống nguy hiểm gần đây.
Theo cảnh sát West Midlands, các vụ tai nạn gần đây bao gồm vụ xe mô tô và ô tô húc đầu nhau vào tháng mười một năm ngoái. Trước đó vào tháng bảy, một người phụ nữ đã phải nhập viện sau gặp nạn trên con đường này. Hầu hết các nạn nhân chỉ bị thương nhẹ nhưng cũng có những vụ nghiêm trọng xảy ra.
Các nhà điều tra đang tìm lời giải thích lô gíc cho bí ẩn khó hiểu này.
David Taylor, người đứng đầu nhóm nghiên cứu Parasearch cho biết ông đã nhận được một vài tường trình nói rằng bóng ma này là nguyên nhân ngây ra vài vụ tai nạn trên đoạn đường giữa Wollescote và Cradley.
- Mặc dù những người nhìn thấy bóng ma không thực sự gặp tai nạn nhưng cũng gần như bị vì họ bất ngờ đổi hướng khi nhìn thấy bóng ma và phi lên vỉa hè. Cách giải thích lo gíc nhất là đây có thể là do ảo giác.
Jimmy Lahn năm mươi bốn tuổi, sống gần đường Oldnall kể lại:
- Một người đàn ông nói rằng ông ta quẹo xe để tránh một bé gái mặc bộ quần áo đã cũ đang đứng giữa đường nhưng khi nhìn lại đằng sau, ông ấy chẳng thấy gì cả.
David Taylor cho hay người dân trong vùng thường kể câu chuyện về một em bé bị chết đuối tại một trang trại gần đường. Giờ trang trại này không còn tồn tại nữa.
Mirror
1. Đêm tháng tư oi nồng và lặng gió. Mùi cá khô và nước mắm bốc lên đậm đặc không gian. Vầng trăng lưỡi liềm lúc ẩn lúc hiện, sau vạt mây xám trôi lang thang trên bầu trời, như tà áo rách của người hành khất.
Sóng biển ì oạp vỗ đều vào bãi đá cuội bám đầy rêu mốc, và những xác hà, xác hến sắc lạnh như dao, sẵn sàng cứa đứt da thịt mọi sinh vật nào đụng chạm vào nó.
Ngọn núi Linh Mẫu phía Tây thị xã, sừng sững nổi lên cô độc giữa bao la đồng ruộng như cái nhà mồ khổng lồ. Xóm làng chìm trong giấc ngủ, chỉ nghe tiếng đàn chuột “chít chít” gọi nhau đi ăn từng đàn, từng lũ, hằng hà sa số là chuột.
Suốt mấy tháng liền, đội quân chuột từ đâu kéo đến vùng này tàn phá ruộng nương gây bệnh dịch hạch, gieo cái chết kinh hoàng cho dân chúng.
Quan phủ đã gửi trát về khắp các tổng, huyện ra lệnh cho các binh sĩ và toàn dân diệt chuột mà không xuể. Hình như càng diệt lũ chuột càng sinh sôi nảy nở, đàn đàn lũ lũ nhung nhúc khắp làng trên xóm dưới, trong vườn ngoài ruộng.
Trong nhà ông Bá hộ Tùng mọi người vẫn khêu to bấc đèn, hồi hộp thức đợi bà Bá hộ đang nằm trở dạ. Tiếng rên la đau đớn, quằn quại của bà Bá hộ lẫn trong tiếng chuột kêu “chít chít” ở ngách tường, trên sàn nhà dưới gầm giường và cả ngoài sân cây kiểng.
Ông Bá hộ Tùng ngồi thừ người trên chiếc tràng kỷ, ngước nhìn lên bàn thờ tổ đăm chiêu suy nghĩ. Hạn hán mất mùa, lại thêm dịch chuột từ trên trời rơi xuống khiến vùng quê điêu tàn xơ xác.
Vợ ông lại chuyển dạ nhằm vào giờ Hợi tháng Tỵ năm Tý là điềm gì vậy? Là người có chút Nho học hiểu kinh dịch, ông gọi người nhà lấy chiếc bát sứ Giang Tây và ba đồng trinh lên cho ông lầm rầm khấn trời đất, gieo quẻ…
Một ngôi sao từ phía biển lóe sáng lên to bằng cái đấu, rơi về phía núi Linh Mẫu rồi tan biến vào trong đêm tối. Đàn dơi trong hang núi Linh Mẫu rít lên những tiếng thất thanh, rào rào bay vào vườn cây nhà Bá hộ Tùng.
Những cánh dơi núi xoè to như chiếc quạt nan, chờn vờn chấp chới trên ngọn cây xoài cây mít. Đàn chó ngao thấy động chạy ra ngoài vườn ngửa cổ lên trời sủa vang, làm náo động cả xóm làng. Vừa lúc đó trong buồng cất lên tiếng khóc chào đời của cậu con trai ông Bá hộ Tùng.
2. Đó là năm Tý hai mươi bốn của thế kỷ XX. Chuyện xảy ra cách đây hơn bảy mươi năm. Cậu con trai ông Bá hộ Tùng nay đã thành chính khách lưu vong, sống trong một toà biệt thự lộng lẫy ở đảo quốc xa quê hàng vạn dặm.
Tướng quân Huỳnh Bá Vương ngồi bệ vệ trên chiếc ghế cổ đời Minh, hai bên tay ngai chiếc ghế đều khảm rồng ở đầu. Râu tóc ông bạc trắng. Khuôn mặt vuông vức tai to, trán rộng da đỏ hồng...Nom ông đường bệ uy nghiêm, chỉ tiếc đôi mắt một mí, cái miệng quả quýt làm giảm bớt những nét quý tướng, và vệt tối trên ấn đường như phảng phất bóng mây tội lỗi của quá khứ.
Cô hầu gái người bản địa xúng xính trong bộ áo xường xám bằng tuyết nhung mầu nâu đen, bưng tách trà sâm, nhẹ nhàng đặt lên bàn mời ông rồi khép nép đứng ra sau ghế chờ lệnh. Tướng quân họ Huỳnh nhấp một ngụm trà, đưa tay khoát nhẹ cho cô hầu gái không cần phải đấm lưng xoa bóp.
Ông đang đắm chìm trong dòng hoài niệm về thuở ấu thơ ở quê nhà xa tít bên bờ biển Đông. Làm người lúc về già ai chẳng có giây phút nhớ về mảnh đất chôn nhau, cắt rốn và năm tháng tuổi thơ bay bổng theo cánh diều hay ngụp lặn dưới dòng sông eo biển. Câu chuyện tâm tình giữa ông Bá hộ Tùng với bà vợ sau đêm sinh nở, theo lời kể của mẹ ông lại hiện về rõ nét như đoạn phim trên màn hình của chiếc ti vi màu kê ở góc phòng.
Ông Bá hộ Tùng đẩy cửa buồng rón rén đi từng bước, vén màn ngồi bên mép giường âu yếm hỏi vợ:
- Bà có khoẻ không đã ăn uống gì chưa ?
- Tôi khoẻ rồi. Ơn Trời nhờ Phật cho chúng mình một thằng con trai bụ bẫm, ông xem này tóc cu cậu dài và đen nhánh.
- Bà khoẻ là tôi mừng. Thằng bé này vận số có nhiều điều lạ lắm.
- Sao thế hả ông ?
- Đêm qua lúc bà vừa sinh thì trời đổ mưa như trút nước kéo dài đến sáng. Tôi nghe dân làng kháo nhau mưa làm trôi lở đất cát trên sườn núi Linh Mẫu, lộ ra hòn đá có hình mặt quỷ dữ trông ra bờ biển.
Đàn chuột quỷ sứ lâu nay phá phách bỗng nhiên biến đi đâu sạch. Hình như tinh tướng của lũ chuột nhập hết vào mỏm đá quỷ trên núi, ám hại dân xứ này còn dài dài.
- Nó mọc lên ở chỗ nào hở ông ?
- Ở ngay phiến đá nhẵn lỳ mà tôi với bà thường hay ngồi lúc mới quen nhau ấy. Chỗ mình ngồi bây giờ thành đỉnh đầu của mỏm đá mặt quỷ.
- ông nom thấy nó có dữ tợn không ?
- Ghê lắm bà ạ. Hai hốc mắt sâu hoắm. Mặt sần sùi trốc lở. Cái hàm đười ươi nhe răng nhọn hoắt như muốn nhai tươi nuốt sống mọi sinh linh trên mặt đất.
Bà bá hộ thở dài ngước nhìn lên đỉnh màn. Đôi dòng lệ chảy tràn xuống gối. Đứa bé bên cạnh ọ oẹ đòi ăn. Miệng bà bất giác bật lên câu hát ru của những người dân xa xứ lang thang. Lời hát nghe ai oán não lòng:
Ầu ơ… một kiếp con người
Nợ nần kiếp trước luân hồi trả vay
Biết thân lăn lóc đọa đầy
Thà làm hạt bụi chân mây cuối trời…
Ông Bá hộ Tùng nhìn đứa trẻ háu ăn, bú tòm tọp vào vú mẹ, lòng bồi hồi nhớ lại quẻ bói dịch hồi đêm ông đã xem. Thằng bé này mai sau sẽ làm nên những chuyện động trời. Trai thời loạn gái thời bình. Vận số dân nước mình sẽ trải qua một thời tao loạn núi xương sông máu.
Theo cách tính của Chu dịch thì khoảng chẵn ba con giáp nữa, vào năm Tý sáu mươi, lúc thằng bé ba mươi sáu tuổi sẽ bắt đầu đại loạn.
Cung nô bộc của nó có một vì sao lạ không rõ hình tích lúc sáng lúc mờ. Cái điềm đàn dơi núi bay từ hang đá trong núi Linh Mẫu vào vườn xoài, là ứng với thằng bạn đồng tuổi Tý sẽ cùng nó phất lên vào năm Canh Tý sáu mươi.
Một đứa làm tướng dưới đất, một đứa làm tướng trên trời. Hai đứa cùng học một lớp ở trường võ bị vào năm Mậu Tý bốn mươi tám và thân thiết với nhau từ đó. Chúng sẽ thành cặp bài trùng dựa vào nhau để thăng tiến, nhưng luôn gầm ghè muốn làm thịt lẫn nhau.
Trời sinh ra một đứa thâm trầm, nhiều mưu mẹo kín đáo, còn một đứa ngông nghênh bốc đồng. Thằng bạn kia có lúc hớ hênh làm cái bung sung cho thằng bé nhà mình giật dây phát ngôn với bàn dân thiên hạ, song không dễ gì kiềm chế nó. Một con chuột đồng, một con dơi núi đua nhau tranh bá đồ vương giữa thời tao loạn...
3. Người quản gia bước vào, nhắc tướng quân Huỳnh Bá Vương đã đến giờ đi tản bộ và tập khí công ngoài hoa viên biệt thự. Ông ta cầm chiếc ba toong khảm đầu rồng, có hai viên đá hồng ngọc ở mắt, kính cẩn đưa cho chủ nhân.
Tướng quân họ Huỳnh gật đầu mỉm cười nhìn viên quản gia trung thành. Ông ta là người gốc quê ở chân núi Linh Mẫu. Năm Tý sáu mươi xảy ra chính biến, lúc đó tướng quân họ Huỳnh mới đeo lon Trung tá, nhờ có công phò giúp Tổng thống dẹp loạn, nên được vượt cấp vinh thăng Thiếu tướng.
Ba năm sau đó cũng chính tướng quân họ Huỳnh, lại ngả theo phe đảo chính bao vây dinh Tổng thống, để người bạn thân là tướng không quân Nguyễn Đại Long, ném bom sát hại anh em Tổng thống.
Người được ông và Đại Long sai giết Tổng thống chính là viên quản gia bây giờ. Vốn tính đa nghi nên tướng quân họ Huỳnh từ ngày chuyển sang làm chính khách chỉ dùng toàn người cùng quê, biên chế họ vào đội cận vệ của mình.
Ông ta chỉ huy đội cận vệ rất mẫn cán, đến ngày tàn cuộc chiến, phải theo chủ chạy ra đảo quốc thì trở thành người quản gia cho tướng quân họ Huỳnh.
Tướng quân Huỳnh Bá Vương lững thững chống ba toong dạo quanh hoa viên biệt thự. Cơ ngơi này ông mua của con trai ngài Tổng thống đương nhiệm trên đảo quốc với giá hai triệu đô la.
Nó nằm trên quả đồi nhìn ra biển tứ bề lộng gió. Hoa viên rộng chừng một trăm mẫu, với những hàng thông cao to chạy dọc lối đi bằng bê tông và cả một rừng hoa các loại bốn mùa nở rộ.
Nó còn là một vườn thú nuôi đủ các loài gậm nhấm quý hiếm mua từ khắp các châu lục: Chồn bay, chuột túi căng gu ru, sóc đuôi cờ, cày xạ hương, chồn lông đỏ, nhím khoang tứ đốm...
Cái tuổi Giáp Tý và câu chuyện mẹ kể ngày xưa như vẫn ám ảnh tướng quân họ Huỳnh. Những năm tháng tuổi già, sống tha hương nơi đất khách quê người, ông chỉ thích nuôi thật nhiều loài thú gậm nhấm.
Ở đảo quốc châu Á toàn người mũi tẹt da vàng này, ông vẫn còn được trọng vọng vì nể. Nhiều lúc nghĩ đến tướng Nguyễn Đại Long, kẻ kình địch trên chính trường, ông lại mỉm cười thương hại cho anh chàng phổi bò. Mang thân là chính khách lưu vong mà đi cư ngụ ở mẫu quốc, thì đâu dễ được đàng hoàng thanh thản như Huỳnh Bá Vương ở đảo quốc đồng minh.
Càng ngẫm ông càng phục tài bói dịch của bố và những lời tiên đoán năm xưa về quan hệ giữa ông và tướng Nguyễn Đại Long.
Vương và Long cùng học một khoá sĩ quan trường võ bị quốc gia ở Đà Lạt. Ngày ấy Vương có dáng thư sinh nho nhã, biết kiệm lời và chọn câu chữ tế nhị mỗi lần giao tiếp.
Long cùng tuổi Tý nhưng tính tình sôi nổi, thuộc nhiều chuyện tiếu lâm, sống ngang tàng và tán gái nhanh như chảo chớp. Họ thân nhau như hình với bóng. Vũ trường hay quán bar nào có cô gái nhà lành xinh đẹp mới vào làm, Vương đều rủ Long đến mở đầu màn tán tỉnh. Trong khi Long nốc rượu khoa chân múa tay, huyên thuyên tán tỉnh thì Vương ngồi nhấp nháp ly rượu vang Pháp lắng nghe, thỉnh thoảng đưa mắt sang người đẹp nói đôi lời lấp lửng đầy ý tứ. Quả nhiên về sau các nàng tuy lấy cớ hẹn Long, nhưng mục đích là gặp Vương.
Cuộc đời binh nghiệp gắn bó hai người thành cặp bài trùng để Long xông xáo hò hét cho Vương thực hiện mọi ý đồ. Cuộc chính biến năm Tý sáu mươi, cũng nhờ Vương phân tích cho Long thế lực của Tổng thống còn đang mạnh, rồi qua Long vận động thêm các sĩ quan cấp tá ủng hộ Tổng thống chống lại phe đảo chính, nên hai người cùng được vinh thăng cấp tướng.
Ba năm sau lại chính Vương lôi kéo Long mang lực lượng không quân phối hợp với mình bao vây và giết hại Tổng thống. Chỉ khi hai người đã ngồi ngất ngưởng trên ngôi cao quyền lực họ mới nảy sinh lòng thù ghét ra mặt đả kích, chống phá nhau kịch liệt.
Tuy vậy bản tính bông lông khiến nhà chính khách Long càng lăng mạ, chửi bới, càng củng cố thêm uy tín, quyền lực cho ông bạn vàng túc trí đa mưu. Lời tiên đoán của ông Bá hộ Tùng dưới chân núi có hòn đá mặt quỷ khiến Vương suốt một thời dấn sâu vào chính trường càng thấy linh nghiệm...
4- Nhưng có một điều tiên đoán trong quẻ dịch, ông Bá hộ Tùng không nói với vợ, âm thầm mang theo sự bí mật sang bên kia thế giới. Ông chỉ làm một bài sấm để dân chúng quanh vùng truyền tụng và chiêm nghiệm về sau:
Sông máu núi xương
Đắp thành nghiệp vương
Chỉ qua một giáp
Oan hồn tứ phương
Phá tan mặt quỷ
Sắc sắc không không
Ba năm sau đó.
Năm Tý sáu mươi đô thành đẫm máu trong cuộc đảo chính không thành, bị Tổng thống ra lệnh đàn áp. Nghe tin con trai nhờ trận tắm máu này được vinh thăng cấp tướng, bà Bá hộ buồn rầu ăn chay, thắp hương lễ tạ linh hồn chồng rồi lập chùa, đi tu ở núi Linh Mẫu.
Hàng ngày bà gõ mõ tụng kinh sám hối cho con trai, nhất quyết không chịu về nhà. Tướng quân Huỳnh Bá Vương về quê thăm mẹ, nghe dân gian truyền tụng bài sấm lòng thấy nửa tin nửa ngờ. Giờ ông nhớ lại buổi hai mẹ con gặp nhau trong chùa ngày đó.
- Lạy mẹ con đã về.
- A Di Đà Phật ! Ta đã chút bỏ bản ngã mang tâm đến nương nhờ Phật tổ. Kẻ vô ngã không có mình làm sao có gia đình con cái.
- Lạy mẹ xin mẹ đừng làm con sợ.
- Mô phật ! Thí chủ từ đâu đến sao quanh mình âm khí nặng nề tanh mùi máu ?
- Mẹ ơi ! Con là người lính con phải bắn giết những kẻ chống đối theo lệnh Tổng thống mà thôi.
- Mô phật ! Nhân sinh là kiếp luân hồi. Việc đời nhân nào quả nấy. Thí chủ hãy nghe ta:
Của cải là phù du
Lợi danh hư ảo tất
Sẽ biến thành bụi cát
Quỷ dữ và hiền nhân
Oán cừu trả bằng ân
Cây đời sai quả phúc
Lưu truyền là âm đức
Ác tâm theo xuống mồ...
Bà mẹ nói xong nhắm mắt ngồi tĩnh tâm trước Phật đài. Tướng quân Huỳnh Bá Vương quỳ đợi hồi lâu bất lực đành lủi thủi xuống núi.
Ông bùi ngùi thương mẹ nhưng lại tự nhủ lòng: Chí làm trai phải nuôi việc lớn. Phận nam nhi phải thành danh trong thiên hạ. Chính trường là cuộc tàn sát khi công khai khi ngấm ngầm. Muốn thành danh con người phải có máu lạnh, khi cần phải tàn nhẫn và giả trá.. Mang nặng trong lòng ý nghĩ ấy, Huỳnh Bá Vương quay lại đô thành lao vào chém giết bày mưu, gài bẫy trên đường thăng tiến của quyền lực.
Mười hai năm sau đúng vào năm Tý bảy hai, ngôi chùa của bà Bá hộ bỗng nhiên bốc cháy trong đêm. Sau cái chết của bà một trận mưa khủng khiếp kéo dài suốt bảy ngày đêm. Trời đất tối tăm mù mịt, sấm chớp đùng đùng. Tan cơn mưa người ta thấy mỏm đá mặt quỷ trên núi Linh Mẫu bị sét đánh vỡ toác làm đôi.
Tướng quân Huỳnh Bá Vương nghe tin bủn rủn tay chân tâm thần hoảng loạn. Ông nhớ lại mấy câu cuối trong bài sấm:
Oan hồn tứ phương
Phá tan mặt quỷ
Sắc sắc không không
Ba năm sau đó.
Lời sấm mách bảo ông thời vận trên chính trường sắp hết, nhiều lắm là ba năm phải mau chuẩn bị phòng thân. Nhìn lại các chiến hữu tâm phúc, ông hoang mang thấy mình đã gạt bỏ rơi rụng gần hết, chỉ còn kẻ khắc tinh Đại Long đang mưu toan lật đổ mình.
Ngoài chiến trường thua quân mất đất. Trong đô thành âm ỉ ngòi nổ bạo lực của Nguyễn Đại Long. Đồng minh ở xa bên kia Thái Bình Dương hờ hững bỏ rơi. Tướng quân họ Huỳnh chỉ còn biết ngấm ngầm ra lệnh cho tay chân vơ vét vàng bạc của công quỹ, giục vợ nhanh chóng thu hồi tiền vốn các băng nhóm, đường dây ma tuý. Trong vòng ba năm ông thu về gần chục tấn vàng rồi tháo chạy sang đảo quốc, trước ngày đối phương tấn công vũ bão vào đô thành.
5- Mặt trời đã lên cao đỏ như chậu máu trên biển. Đàn thú gậm nhấm “chít chít” kêu trong các chuồng đòi ăn, làm huyên náo cả hoa viên biệt thự.
Người quản gia giương ô che nắng, giục Tướng quân Huỳnh Bá Vương quay về phòng. Trong ông bỗng nhiên thấy cô quạnh trống trải. Tận trong sâu thẳm ông nhói lên niềm nhớ quê, thương mẹ thương cha. Vàng bạc kim cương đô la và tất cả mọi của cải chẳng còn chút ý nghĩa gì đối với tướng quân họ Huỳnh.
Vợ ông giờ này chắc đã ngồi xoa mạt chược với mấy phu nhân quyền quý người bản địa. Các con ông thảy đều lấy chồng Tây hay vợ Tàu và đã dắt díu nhau đi ở bên Tây, bên Mỹ. Chúng chẳng thiết về với đôi vợ chồng già lẩm cẩm, nếu có viết thư đọc lên chỉ thấy đòi phân chia tài sản trước khi ông chết.
Ông thèm được về quê leo núi Linh Mẫu hay tắm mình trong biển ngập nắng, nhưng lại sợ dân chúng căm thù hành quyết. Bên tai ông văng vẳng tiếng những oan hồn đòi mạng. Quanh ông nhìn đâu cũng hoá xác người.. .
Người quản gia thấy chủ nhân chóng mặt lảo đảo sắp ngã. Ông ta đỡ tướng quân Huỳnh Bá Vương vào buồng nằm nghỉ. Từ sáng hôm đó tướng quân ốm liệt giường luôn mê sảng. Bác sĩ giải thích đó là bệnh của người già cả nghĩ.
Vũ Ngọc Tiến
BÓNG MA GÂY TAI NẠN Ở ANH
Dư luận Anh đang xôn xao bàn tán về bóng ma một bé gái, được cho là đã gây hàng loạt các vụ tai nạn trên một đoạn đường làng.
Các chuyên gia nghiên cứu hiện tượng siêu nhiên đang điều tra về bóng ma bé gái ba, bốn tuổi, mặc bộ váy thời Victoria trên một đoạn đường ở hạt West Midland. Đây là khu vực mà các nhà chức trách địa phương cho rằng là điểm đen thường xảy ra tai nạn.
Hình ảnh ma này thường được nh ìn thấy vào đêm khuya, xuất hiện dọc đường Oldnall ở khu vực Halesowen. Người ta tin rằng chính nó đã gây ra hàng loạt vụ đâm xe và những tình huống nguy hiểm gần đây.
Theo cảnh sát West Midlands, các vụ tai nạn gần đây bao gồm vụ xe mô tô và ô tô húc đầu nhau vào tháng mười một năm ngoái. Trước đó vào tháng bảy, một người phụ nữ đã phải nhập viện sau gặp nạn trên con đường này. Hầu hết các nạn nhân chỉ bị thương nhẹ nhưng cũng có những vụ nghiêm trọng xảy ra.
Các nhà điều tra đang tìm lời giải thích lô gíc cho bí ẩn khó hiểu này.
David Taylor, người đứng đầu nhóm nghiên cứu Parasearch cho biết ông đã nhận được một vài tường trình nói rằng bóng ma này là nguyên nhân ngây ra vài vụ tai nạn trên đoạn đường giữa Wollescote và Cradley.
- Mặc dù những người nhìn thấy bóng ma không thực sự gặp tai nạn nhưng cũng gần như bị vì họ bất ngờ đổi hướng khi nhìn thấy bóng ma và phi lên vỉa hè. Cách giải thích lo gíc nhất là đây có thể là do ảo giác.
Jimmy Lahn năm mươi bốn tuổi, sống gần đường Oldnall kể lại:
- Một người đàn ông nói rằng ông ta quẹo xe để tránh một bé gái mặc bộ quần áo đã cũ đang đứng giữa đường nhưng khi nhìn lại đằng sau, ông ấy chẳng thấy gì cả.
David Taylor cho hay người dân trong vùng thường kể câu chuyện về một em bé bị chết đuối tại một trang trại gần đường. Giờ trang trại này không còn tồn tại nữa.
Mirror
#85
Gửi vào 19/06/2011 - 06:40
NGƯỜI CÓC
Anh Hai Của châm lửa đốt lớp bổi. Lửa bắt ngọn cháy hừng hực. Lớp bổi chặt ruồng từ mùa trước đã khô quắn lửa lan rất nhanh. Anh hả lòng hả dạ vì năm nay chỉ cần mưa xuống, là miếng ruộng vợ chồng anh bỏ công khai khẩn mấy năm nay đã sạ được.
Sau mùa lúa này hai người sẽ không còn những bữa ăn độn rau củ nữa. Nghĩ đến khoảnh đất hơn chục công xanh mướt lúa, cơn đói trong lòng anh dịu đi. Quá trưa rồi mà chị Hai vẫn chưa đem cơm ra.
Mấy năm trước anh lực điền Hai Của được má hỏi cưới một cô gái nhà buôn bán ở chợ Phong Điền về làm vợ. Nhà chị Hai tuy không giàu có gì nhưng vẫn đủ ăn đủ mặc. Còn nhà anh hai mẹ con làm mướn nuôi nhau. Tía vợ thấy anh thật thà chăm chỉ nên gả con cho không đòi sính lễ.
Má anh chắt chiu mấy chục năm cũng đủ tiền để mua cho con dâu hai bộ đồ và đôi bông cưới cho đúng lễ. Gái chợ miệt vườn da trắng tóc đen, không đài các như gái thị thành nhưng duyên ngầm. Chị Hai trầm tính ít nói, có đôi mắt long lanh như hai hạt sương trên ngọn cỏ buổi sớm, đôi mày vòng nguyệt đậm đen như nét vẽ. Cưới được chị anh Hai mừng nói không thành lời cưng vợ hết chỗ chê.
Được một năm thấy không thể sống bám suốt đời ở nhà vợ, anh Hai gởi má anh về ở nhờ nhà chị bà con, rồi xin phép tía má vợ xuống vùng Chắc Băng lập nghiệp. Tía vợ anh biết cuộc sống khai rừng khẩn đất rất gian lao vất vả nhưng thấy con rể quyết chí lập nghiệp không đành cản.
Ông bảo vợ chuẩn bị cho hai con một chiếc xuồng be chín mới, năm giạ gạo và ít tiền phòng thân. Má chị thương con lén lấy chiếc kiềng vàng mười của hồi môn cho chị đem theo.
Vùng kinh xáng Chắc Băng mới khai mở tuy xa xôi hẻo lánh, nhưng ở các vàm hay dọc kinh lớn đều đã có người khai khẩn, phải đi sâu vào rừng mới khẩn được đất.
Từ ngày đến đây anh Hai cất tạm ngôi nhà nhỏ ở cuối xóm ven để ở. Sáng chưa rõ mặt chị thức dậy nấu cơm cho anh đem theo đi rừng. Chiều tối anh chống xuồng về, hai vợ chồng quây quần bên niêu cơm với vài khứa cá kho ít đọt rau dại luộc. Một năm. Hai năm. Ba năm, một hột lúa cũng không có để nhổ râu. Vùng đất rừng U Minh này muốn được một mảnh đất “thuộc” không phải dễ.
Ruồng chặt lớp lùm bụi trấp dày cả thước, phơi khô, đốt. Năm sau lại chặt, phơi khô, đốt. Hai, ba năm sạ được lúa xuống rồi lại mất trắng, vì đất quá màu mỡ lúa trổ lá xanh um không chịu kết đòng.
Nếu có được chút ít thì chưa kịp chín đã được lũ chuột ngày đêm dọn sạch. Vốn liếng đem theo gần cạn sạch, cả năm nay chị Hai nài nỉ anh bỏ miếng đất đó đi. Anh cương quyết không chịu. Chị cho anh ba điều kiện: một là về Phong Điền sinh sống, hai là ra vàm Chắc Băng ở, chị đủ sức buôn bán nuôi gia đình và cuối cùng là bỏ nhau đường ai nấy đi.
Anh Hai biết vợ đã khổ cực quá nhiều nên lựa lời dỗ ngọt. Anh nhất định không bỏ mảnh đất đó, ráng làm nửa năm nữa lúa sẽ đầy bồ tiền bạc thoải mái, chị sẽ không còn nghĩ đến chuyện đi đâu.
Thấy chồng cương quyết như vậy chị Hai ấm ức nhưng vốn ít lời nhín tiếng nên chẳng cãi vã làm gì. Anh Hai thấy chị không nhắc đến tưởng vợ đã xuôi lòng càng lao vào việc khai đất mở rừng. Anh mê mẩn miếng đất đến quên cả chị, chị Hai ức lòng lắm. Chị đã theo anh chịu cực chịu khổ trăm đường năm năm nay mà anh chẳng nghĩ gì cho chị. Cái khổ vật chất chị có thể chịu nổi, đàng này lại là cái khổ của người quen sống nơi đông đúc đầy đủ, giờ phải chịu cảnh cả tháng trời mới gặp được một người để nói chuyện.
Chị nhớ nhà nhớ cái phố chợ nhỏ nhưng lúc nào cũng tấp nập người, nhớ đám bạn bè thân thiết rủ nhau thả xuồng trôi sông suốt đêm hò ơi vang mặt nước. Thời con gái của chị thật đẹp đẽ, không biết bao người lượn quanh chờ thấy được nụ cười ánh mắt liếc xéo của chị.
Vậy mà đùng một cái cha nhận lời gả chị cho một người chị không hề để mắt tới. Ở nhà phải theo lời cha mẹ lấy chồng phải theo chồng. Anh Hai không một lời bàn tính với chị dọn đồ đạc xuống xuồng kêu chị đi. Rồi bẵng một mạch bốn năm trời, hai vợ chồng phải chịu khổ chịu sở ở cái xứ muỗi bay như trấu vãi, cả ngày không chỉ được vài người chèo xuồng lướt qua con kinh trước nhà.
Bám vào mảnh đất nầy biết đời nào có ăn có mặc đây ? Nhiều đêm anh ngủ luôn trong đất, ở nhà một mình giữa rừng không mông quạnh, tít mù khơi mới thấy một ánh đèn chị sợ và buồn chán muốn chết quách cho xong. Còn anh người đâu sáng chưa bảnh mắt đã gọi chị dậy nấu cơm, đi mãi đến tối mịt về lại cơm nước. Từ ngày cưới chị về đến giờ Hai Của chưa từng quan tâm xen chị cần gì, muốn gì nghĩ gì.
Nhiều lần chị nói với anh, anh lại gạt đi. Anh càng say mê mảnh đất chị càng cô đơn khổ sở. Chị cảm thấy mình đang dần chết theo những tháng ngày không được giao tiếp với con người.
Có một ông chủ ghe “ chạp phô ” thường mang hàng vào bán cho dân trong kinh, từ ngày gặp chị tỏ ý gần xa chị đừng ngu dại chôn tuổi xuân xanh ở chốn khỉ ho cò gáy này. Gặp được ông ta chị bỗng như gặp được bạn tâm tình có hẹn từ kiếp trước. Bao nhiêu buồn khổ chị thường kể hết cho ông ta nghe. Những chuyến chở hàng của ông chủ ghe chạp phô vào kinh càng ngày càng nhặt hơn, mỗi lần ghé lại nhà Hai Của càng lâu hơn dù có anh ở nhà hay không.
Thấy mỗi lần gặp ông chủ ghe thì chị vui vẻ cả ngày, Hai Của đỡ lo vợ buồn bực sinh ra quẩn trí. Hai năm qua nữa chị Hai không còn chịu nổi...
- Thau nhôm, đường cát, đường mía, muối mắm… hôn..
Tiếng rao của ông chủ chạp phô vang vang đầu kinh…Trưa lửa đã hạ ngọn. Tiếng nổ lách tách của cây cỏ khô không còn, rừng tràm trở lại không gian êm ả vốn có. Anh Hai ngồi dựa vào gốc tràm lớn trên gò đất đưa mắt nhìn những con chim ô lác đác bay về tổ sau một chuyến kiếm ăn mệt nhọc. Chúng mất hút vào màu xanh ngút ngàn của tràm. Đâu đây có tiếng vo ve của con ong đang hút mật bông tràm.
Anh mở nắp bình uống hết ngụm nước cuối cùng. Chị Hai vẫn chưa đem cơm ra. Mệt quá anh Hai không thấy đói, gối đầu lên cái bằng bột đựng đồ thiu thiu ngủ mất.
- Mình à..dậy đi mình...
Anh Hai mở mắt ra, chị Hai đang lay anh. Bóng nắng đã xế về chiều, chị Hai bưng nồi cơm với mấy con khô sặc nướng đặt trước mặt chồng. Anh vươn vai ngáp dài thoải mái, uống một ngụm nước trong cái ca chị đưa, anh ngồi xếp bằng ăn một lèo hết sạch nồi cơm.
Chị Hai nhìn chồng ăn, rồi dời mắt nhìn đi tận nơi xa xôi nào, ăn xong anh Hai bảo vợ:
- Dẹp đi, mình đi vòng vòng đây kiếm ít rau, đợi lửa tắt hẳn rồi cùng về.
- Để đại đó đi, mình ngồi xít lại đây tôi nhổ tóc ngứa cho.
- Ừ được đó.
Chị rút cái lông nhím giắt ngang giữ cái búi tóc củ co xõa tóc chồng ra. Anh Hai khoan khoái ngồi lim dim khi mái tóc rễ tre được vuốt ve, thỉnh thoảng lại được nhổ đúng vào chỗ ngứa. Lâu lắm vợ chồng anh mới lại âu yếm bên nhau. Một đỗi sau chị Hai sờ bắp tay săn cuộn như bắp cày khẽ cười hỏi:
- Tay mình mạnh như vậy nếu để tôi trói mấy vòng mình có cởi được không ?
- Dễ ợt.
Chị Hai cười xòa đi xuống xuồng lấy cuộn dây bện bằng ba sợi da trâu nhỏ đánh săn lại thường dùng để cột xuồng kéo đi trong mương lưng cạn.
Anh đưa hai tay ra trước cho chị trói lại. Xong chị háo hức ngồi chờ. Anh Hai cúi xuống dùng răng cắn nút dây lần tháo ra. Chừng hút tàn nửa điếu thuốc anh Hai đã tháo xong. Anh cầm dây đưa cho vợ. Chị Hai vỗ tay cười:
- Giỏi quá nếu tôi cột phía sau mình tháo được không ?
Anh Hai thấy vợ vui liền đưa hai tay ra phía sau cho chị trói lại. Chị ngồi chăm chú nhìn xem anh làm sao. Anh uốn lưng, tuột luồn từ từ qua hai cánh tay bị trói chặt ở cườm. Chẳng mấy chốc anh Hai đã đưa được tay ra phía trước rồi theo cách cũ tháo dây ra. Khoảng hút hết một điếu thuốc anh đã tháo xong.
Anh đưa dây cho vợ bảo mệt chuẩn bị về. Chị Hai nài nỉ thử một lần nữa thôi. Thấy vợ chẳng mấy khi vui vẻ như vậy anh đành chiều theo, đưa hai tay ra sau để mặc chị muốn cột trói ra sao tùy ý.
Chị Hai lần nầy trói gút mối, hai đầu dây chừa dài vòng ngược lên qua hai bên cổ, cột chặt lấy hai chân. Chị đứng khoanh tay nhìn anh cựa quậy, lụt nhụt như một con sâu đang xé kén chui ra.
Hạ thấp tay để luồn qua thì đôi chân bị kéo lên mất đà ngã chổng gọng, giở hai tay lên thì mắc kẹt dây trói chằng hai chân cắm chúi đầu về trước. Chị Hai bật cười ngặt nghẽo. Để chị cười một lúc anh nhẹ giọng bảo:
- Mình ơi tôi thua rồi thả tôi ra đi.
Chị Hai vẫn ôm bụng cười dòn không dứt. Anh Hai mỏi quá nài nỉ:
- Thả tôi ra đi mình, chiều rồi thả tôi ra mình về thôi.
Chị Hai bỗng ngưng ngang tiếng cười. Chị nhìn anh lạ lẫm một lúc rồi buông thỏng:
- Mở được thì về không thì thôi.
- Mình đừng giỡn nữa thả tôi ra đi.
Anh van xin. Chị lạnh tanh rờn rợn như lời phán của quỷ nhập tràng:
- Mở được thì về không thì thôi.
Mái tóc dài của anh xấp xõa, chị túm gọn cột luôn vào dây trói. Chị quay lưng đi thẳng xuống chỗ để xuồng, chống đi với tiếng cười lanh lảnh đọng lại thật lâu trên những đọt tràm.
Dưới gốc cột hiên cuối hàng ba có một hang cóc. Con cóc đã sống ở đây không biết bao lâu, cứ sụp tối là lại nhảy ra khỏi hang cần mẫn thè cái lưỡi dài chộp từng con muỗi, con bướm nhỏ nào bay ngang tầm.
Xứ U Minh thì muỗi nhiều đến nỗi chỉ cần quơ tay chộp một cái là được mấy con. Dân ở đây buổi chiều muốn ngồi chơi phải làm một cái mẻ để un khói xua bớt muỗi đi. Bà chủ nhà rất ít khi ngồi hóng mát vì cộng sổ sách, kiểm tiền bạc buôn bán trong ngày xong thì đã tám chín giờ đêm. Tiệm “chạp phô” của chồng bà tuy không lớn lắm nhưng cũng có hạng trong khu chợ vàm nầy.
Từ ngày lấy ông tới giờ bà luôn được ông tin tưởng giao quản lý tiền bạc gia sản. Tuy ở với nhau gần bốn năm chưa được mụn con nào, ông vẫn quý yêu bà như ngày mới cưới, bà vốn gái miệt vườn lại đang tuổi hồi xuân nên nhan sắc càng mặn mòi quyến rũ. Chiều nay bà ăn cơm xong thay bộ đồ lụa trắng ra hiên ngồi đợi ông, bà ngả người nằm dài trên ghế bố thoải mái hít thở không khí chiều, hai chân dũi dài trên chiếc ghế đẩu thấp nhỏ.
Đúng lệ con cóc từ hang chui ra. Nó cần mẫn bắt muỗi tiến dần về phía bà. Con cóc nhảy qua mặt bà tiến về phía sân. Bà chăm chú nhìn từng động tác chờ, rình, vội vã đớp của con cóc một cách say mê.
Ông ra đến chỗ bà ngồi, bà đẩy chiếc ghế đẩu về phía ông ra hiệu ngồi xuống. Ông ngồi xuống bắt chéo chân xỉa răng. Mắt bà vẫn không rời con cóc. Bỗng bà phá lên cười hăng hắc, cười đắc chí, cười thích thú làm ông phải quay lại nhìn. Bà như rạng rỡ hẳn lên trong tiếng cười, đôi môi mòng mọng mở to phơi những chiếc răng trắng ngà đều đặn, ông rất yêu cái miệng của bà, bà không giống những người phụ nữ trong vùng thường ăn trầu từ khi bắt đầu búi tóc làm hàm răng đen nhẻm, môi đỏ màu cổ trầu trông già cỗi.
Ông chợt phát hiện ra đôi mắt to nằm dưới đôi mày vòng nguyệt của bà ánh lên vẻ vui thích ma quái kỳ lạ. Ông buột miệng hỏi:
- Con cóc có gì mà mình vui vậy ?
Bà cười nghiêng ngả như bị ma nhập một lúc nữa rồi mới đáp:
- Mình có muốn nghe chuyện xưa của tôi không ?
- Cưới mình đến nay có bao giờ mình nói chuyện xưa cho tôi nghe đâu mình muốn kể cũng được.
- Tôi kể mình nghe rồi phải bỏ, cũng vì muốn lấy mình mà tôi...
...Ba ngày sau chị Hai quay lại mảnh đất giữa rừng đó. Anh Hai không tháo được dây trói và cũng không còn sức để tháo nữa. Anh chúi người về trước chịu cả thân người lên hai đùi ngồi chồm hổm như vậy để cúi xuống cần mẫn liếm những giọt sương đọng trên lá cỏ.
Thấy chị đến, ánh mắt không còn thần sắc rực sáng lên nhìn chị van lơn. Từ miệng anh mấy từ thì thào không rõ nghĩa tuôn ra. Chị nhìn xoáy vào anh rồi nhếch cười bảo:
- Đó là tại mình ép tôi đừng trách tôi nghe. Chị quay lưng bỏ đi với tiếng cười hăng hắc như chim khách ăn đêm. Hơi sức còn lại trong anh bật thành tiếng:
- Mình.. ình..đừ...ừng.. Mình..ơ.. ơi..
Chỉ có tràm xanh vọng lại u u mấy âm thanh vô vọng...
... Bà chỉ vào con cóc lại cười thích thú:
- Tôi thấy con cóc kia thè lưỡi bắt muỗi giống y như ông ấy lúc thè lưỡi liếm sương. Tức cười quá. Ha... ha...Bấy lâu mình cứ tưởng chồng cũ của tôi theo vợ bé bỏ tôi lại giữa rừng chứ mình đâu có biết tôi...
Dường như từ trong sâu thẳm cõi lòng của bà, điều bí mật ghê rợn bị cất giữ quá lâu nên được dịp tuôn ra không ngừng được. Ánh mắt bà sáng rực ma quái, từ cái miệng xinh xinh há ra tuôn không ngừng những tiếng cười hắc hắc.
Ông rợn người bất giác đứng bật dậy, chạy trối chết như khi con người nhìn thấy một con cọp đang khoái trá gặm thịt đồng loại của mình, bà ngơ ngác nhìn theo rồi quay lại nhìn con cóc.
Con cóc đang ngồi chễm chệ bỗng ngẩng đầu lên nhìn bà bằng đôi mắt thồ lộ. Bà như bị hút vào đôi mắt trợn tròn đỏ độc như ngọn đèn cóc giữa rừng khuya. Từ cổ họng con vật phát ra âm thanh như tiếng nghiến răng căm hận, của một người bị kẻ thù dồn vào đường chết mà không có cách chống trả. Con cóc chồm hổm theo tư thế trời cho nhảy từng bước thẳng về phía bà. Bà kinh hãi rú lên:
- Cứu tôi với..làng xóm ơi.. giết người.. Giết người.
Chợ vàm Chắc Băng mấy năm nay xuất hiện một bà điên. Dưới mái tóc rối bù dơ bẩn có một đôi mắt đen ẩn dưới đôi lông mày vòng nguyệt. Đôi mắt ấy lúc sáng hoắc lúc đờ đẫn. Bà điên khi cười khi khóc lang thang khắp chợ, ai cho gì ăn nấy đụng đâu ngủ đó.
Bà ta có cách ăn rất kỳ quái: bỏ thức ăn xuống đất, ngồi chồm hỗm thè lưỡi liếm như con cóc rồi mới ăn. Dân chợ vàm thường kể ông chủ tiệm chạp phô bỏ ra tỉnh lấy vợ Tàu. Họ kể với nhau…
... Sáu năm sau một gia đình đi khẩn đất khám phá một mảnh đất hoang sậy mọc um tùm. Trên gò cao dưới gốc một cây tràm thật lớn, họ thấy một bộ xương người với bộ dạng co ro của một con cóc chuẩn bị đớp mồi. Trên bộ xương có một sợi dây da trâu vẫn còn khá chắc. Họ đào một lỗ trên gò chôn bộ xương rồi cùng nhau chặt dọn miếng đất lấy chỗ làm ruộng.
ST
Anh Hai Của châm lửa đốt lớp bổi. Lửa bắt ngọn cháy hừng hực. Lớp bổi chặt ruồng từ mùa trước đã khô quắn lửa lan rất nhanh. Anh hả lòng hả dạ vì năm nay chỉ cần mưa xuống, là miếng ruộng vợ chồng anh bỏ công khai khẩn mấy năm nay đã sạ được.
Sau mùa lúa này hai người sẽ không còn những bữa ăn độn rau củ nữa. Nghĩ đến khoảnh đất hơn chục công xanh mướt lúa, cơn đói trong lòng anh dịu đi. Quá trưa rồi mà chị Hai vẫn chưa đem cơm ra.
Mấy năm trước anh lực điền Hai Của được má hỏi cưới một cô gái nhà buôn bán ở chợ Phong Điền về làm vợ. Nhà chị Hai tuy không giàu có gì nhưng vẫn đủ ăn đủ mặc. Còn nhà anh hai mẹ con làm mướn nuôi nhau. Tía vợ thấy anh thật thà chăm chỉ nên gả con cho không đòi sính lễ.
Má anh chắt chiu mấy chục năm cũng đủ tiền để mua cho con dâu hai bộ đồ và đôi bông cưới cho đúng lễ. Gái chợ miệt vườn da trắng tóc đen, không đài các như gái thị thành nhưng duyên ngầm. Chị Hai trầm tính ít nói, có đôi mắt long lanh như hai hạt sương trên ngọn cỏ buổi sớm, đôi mày vòng nguyệt đậm đen như nét vẽ. Cưới được chị anh Hai mừng nói không thành lời cưng vợ hết chỗ chê.
Được một năm thấy không thể sống bám suốt đời ở nhà vợ, anh Hai gởi má anh về ở nhờ nhà chị bà con, rồi xin phép tía má vợ xuống vùng Chắc Băng lập nghiệp. Tía vợ anh biết cuộc sống khai rừng khẩn đất rất gian lao vất vả nhưng thấy con rể quyết chí lập nghiệp không đành cản.
Ông bảo vợ chuẩn bị cho hai con một chiếc xuồng be chín mới, năm giạ gạo và ít tiền phòng thân. Má chị thương con lén lấy chiếc kiềng vàng mười của hồi môn cho chị đem theo.
Vùng kinh xáng Chắc Băng mới khai mở tuy xa xôi hẻo lánh, nhưng ở các vàm hay dọc kinh lớn đều đã có người khai khẩn, phải đi sâu vào rừng mới khẩn được đất.
Từ ngày đến đây anh Hai cất tạm ngôi nhà nhỏ ở cuối xóm ven để ở. Sáng chưa rõ mặt chị thức dậy nấu cơm cho anh đem theo đi rừng. Chiều tối anh chống xuồng về, hai vợ chồng quây quần bên niêu cơm với vài khứa cá kho ít đọt rau dại luộc. Một năm. Hai năm. Ba năm, một hột lúa cũng không có để nhổ râu. Vùng đất rừng U Minh này muốn được một mảnh đất “thuộc” không phải dễ.
Ruồng chặt lớp lùm bụi trấp dày cả thước, phơi khô, đốt. Năm sau lại chặt, phơi khô, đốt. Hai, ba năm sạ được lúa xuống rồi lại mất trắng, vì đất quá màu mỡ lúa trổ lá xanh um không chịu kết đòng.
Nếu có được chút ít thì chưa kịp chín đã được lũ chuột ngày đêm dọn sạch. Vốn liếng đem theo gần cạn sạch, cả năm nay chị Hai nài nỉ anh bỏ miếng đất đó đi. Anh cương quyết không chịu. Chị cho anh ba điều kiện: một là về Phong Điền sinh sống, hai là ra vàm Chắc Băng ở, chị đủ sức buôn bán nuôi gia đình và cuối cùng là bỏ nhau đường ai nấy đi.
Anh Hai biết vợ đã khổ cực quá nhiều nên lựa lời dỗ ngọt. Anh nhất định không bỏ mảnh đất đó, ráng làm nửa năm nữa lúa sẽ đầy bồ tiền bạc thoải mái, chị sẽ không còn nghĩ đến chuyện đi đâu.
Thấy chồng cương quyết như vậy chị Hai ấm ức nhưng vốn ít lời nhín tiếng nên chẳng cãi vã làm gì. Anh Hai thấy chị không nhắc đến tưởng vợ đã xuôi lòng càng lao vào việc khai đất mở rừng. Anh mê mẩn miếng đất đến quên cả chị, chị Hai ức lòng lắm. Chị đã theo anh chịu cực chịu khổ trăm đường năm năm nay mà anh chẳng nghĩ gì cho chị. Cái khổ vật chất chị có thể chịu nổi, đàng này lại là cái khổ của người quen sống nơi đông đúc đầy đủ, giờ phải chịu cảnh cả tháng trời mới gặp được một người để nói chuyện.
Chị nhớ nhà nhớ cái phố chợ nhỏ nhưng lúc nào cũng tấp nập người, nhớ đám bạn bè thân thiết rủ nhau thả xuồng trôi sông suốt đêm hò ơi vang mặt nước. Thời con gái của chị thật đẹp đẽ, không biết bao người lượn quanh chờ thấy được nụ cười ánh mắt liếc xéo của chị.
Vậy mà đùng một cái cha nhận lời gả chị cho một người chị không hề để mắt tới. Ở nhà phải theo lời cha mẹ lấy chồng phải theo chồng. Anh Hai không một lời bàn tính với chị dọn đồ đạc xuống xuồng kêu chị đi. Rồi bẵng một mạch bốn năm trời, hai vợ chồng phải chịu khổ chịu sở ở cái xứ muỗi bay như trấu vãi, cả ngày không chỉ được vài người chèo xuồng lướt qua con kinh trước nhà.
Bám vào mảnh đất nầy biết đời nào có ăn có mặc đây ? Nhiều đêm anh ngủ luôn trong đất, ở nhà một mình giữa rừng không mông quạnh, tít mù khơi mới thấy một ánh đèn chị sợ và buồn chán muốn chết quách cho xong. Còn anh người đâu sáng chưa bảnh mắt đã gọi chị dậy nấu cơm, đi mãi đến tối mịt về lại cơm nước. Từ ngày cưới chị về đến giờ Hai Của chưa từng quan tâm xen chị cần gì, muốn gì nghĩ gì.
Nhiều lần chị nói với anh, anh lại gạt đi. Anh càng say mê mảnh đất chị càng cô đơn khổ sở. Chị cảm thấy mình đang dần chết theo những tháng ngày không được giao tiếp với con người.
Có một ông chủ ghe “ chạp phô ” thường mang hàng vào bán cho dân trong kinh, từ ngày gặp chị tỏ ý gần xa chị đừng ngu dại chôn tuổi xuân xanh ở chốn khỉ ho cò gáy này. Gặp được ông ta chị bỗng như gặp được bạn tâm tình có hẹn từ kiếp trước. Bao nhiêu buồn khổ chị thường kể hết cho ông ta nghe. Những chuyến chở hàng của ông chủ ghe chạp phô vào kinh càng ngày càng nhặt hơn, mỗi lần ghé lại nhà Hai Của càng lâu hơn dù có anh ở nhà hay không.
Thấy mỗi lần gặp ông chủ ghe thì chị vui vẻ cả ngày, Hai Của đỡ lo vợ buồn bực sinh ra quẩn trí. Hai năm qua nữa chị Hai không còn chịu nổi...
- Thau nhôm, đường cát, đường mía, muối mắm… hôn..
Tiếng rao của ông chủ chạp phô vang vang đầu kinh…Trưa lửa đã hạ ngọn. Tiếng nổ lách tách của cây cỏ khô không còn, rừng tràm trở lại không gian êm ả vốn có. Anh Hai ngồi dựa vào gốc tràm lớn trên gò đất đưa mắt nhìn những con chim ô lác đác bay về tổ sau một chuyến kiếm ăn mệt nhọc. Chúng mất hút vào màu xanh ngút ngàn của tràm. Đâu đây có tiếng vo ve của con ong đang hút mật bông tràm.
Anh mở nắp bình uống hết ngụm nước cuối cùng. Chị Hai vẫn chưa đem cơm ra. Mệt quá anh Hai không thấy đói, gối đầu lên cái bằng bột đựng đồ thiu thiu ngủ mất.
- Mình à..dậy đi mình...
Anh Hai mở mắt ra, chị Hai đang lay anh. Bóng nắng đã xế về chiều, chị Hai bưng nồi cơm với mấy con khô sặc nướng đặt trước mặt chồng. Anh vươn vai ngáp dài thoải mái, uống một ngụm nước trong cái ca chị đưa, anh ngồi xếp bằng ăn một lèo hết sạch nồi cơm.
Chị Hai nhìn chồng ăn, rồi dời mắt nhìn đi tận nơi xa xôi nào, ăn xong anh Hai bảo vợ:
- Dẹp đi, mình đi vòng vòng đây kiếm ít rau, đợi lửa tắt hẳn rồi cùng về.
- Để đại đó đi, mình ngồi xít lại đây tôi nhổ tóc ngứa cho.
- Ừ được đó.
Chị rút cái lông nhím giắt ngang giữ cái búi tóc củ co xõa tóc chồng ra. Anh Hai khoan khoái ngồi lim dim khi mái tóc rễ tre được vuốt ve, thỉnh thoảng lại được nhổ đúng vào chỗ ngứa. Lâu lắm vợ chồng anh mới lại âu yếm bên nhau. Một đỗi sau chị Hai sờ bắp tay săn cuộn như bắp cày khẽ cười hỏi:
- Tay mình mạnh như vậy nếu để tôi trói mấy vòng mình có cởi được không ?
- Dễ ợt.
Chị Hai cười xòa đi xuống xuồng lấy cuộn dây bện bằng ba sợi da trâu nhỏ đánh săn lại thường dùng để cột xuồng kéo đi trong mương lưng cạn.
Anh đưa hai tay ra trước cho chị trói lại. Xong chị háo hức ngồi chờ. Anh Hai cúi xuống dùng răng cắn nút dây lần tháo ra. Chừng hút tàn nửa điếu thuốc anh Hai đã tháo xong. Anh cầm dây đưa cho vợ. Chị Hai vỗ tay cười:
- Giỏi quá nếu tôi cột phía sau mình tháo được không ?
Anh Hai thấy vợ vui liền đưa hai tay ra phía sau cho chị trói lại. Chị ngồi chăm chú nhìn xem anh làm sao. Anh uốn lưng, tuột luồn từ từ qua hai cánh tay bị trói chặt ở cườm. Chẳng mấy chốc anh Hai đã đưa được tay ra phía trước rồi theo cách cũ tháo dây ra. Khoảng hút hết một điếu thuốc anh đã tháo xong.
Anh đưa dây cho vợ bảo mệt chuẩn bị về. Chị Hai nài nỉ thử một lần nữa thôi. Thấy vợ chẳng mấy khi vui vẻ như vậy anh đành chiều theo, đưa hai tay ra sau để mặc chị muốn cột trói ra sao tùy ý.
Chị Hai lần nầy trói gút mối, hai đầu dây chừa dài vòng ngược lên qua hai bên cổ, cột chặt lấy hai chân. Chị đứng khoanh tay nhìn anh cựa quậy, lụt nhụt như một con sâu đang xé kén chui ra.
Hạ thấp tay để luồn qua thì đôi chân bị kéo lên mất đà ngã chổng gọng, giở hai tay lên thì mắc kẹt dây trói chằng hai chân cắm chúi đầu về trước. Chị Hai bật cười ngặt nghẽo. Để chị cười một lúc anh nhẹ giọng bảo:
- Mình ơi tôi thua rồi thả tôi ra đi.
Chị Hai vẫn ôm bụng cười dòn không dứt. Anh Hai mỏi quá nài nỉ:
- Thả tôi ra đi mình, chiều rồi thả tôi ra mình về thôi.
Chị Hai bỗng ngưng ngang tiếng cười. Chị nhìn anh lạ lẫm một lúc rồi buông thỏng:
- Mở được thì về không thì thôi.
- Mình đừng giỡn nữa thả tôi ra đi.
Anh van xin. Chị lạnh tanh rờn rợn như lời phán của quỷ nhập tràng:
- Mở được thì về không thì thôi.
Mái tóc dài của anh xấp xõa, chị túm gọn cột luôn vào dây trói. Chị quay lưng đi thẳng xuống chỗ để xuồng, chống đi với tiếng cười lanh lảnh đọng lại thật lâu trên những đọt tràm.
Dưới gốc cột hiên cuối hàng ba có một hang cóc. Con cóc đã sống ở đây không biết bao lâu, cứ sụp tối là lại nhảy ra khỏi hang cần mẫn thè cái lưỡi dài chộp từng con muỗi, con bướm nhỏ nào bay ngang tầm.
Xứ U Minh thì muỗi nhiều đến nỗi chỉ cần quơ tay chộp một cái là được mấy con. Dân ở đây buổi chiều muốn ngồi chơi phải làm một cái mẻ để un khói xua bớt muỗi đi. Bà chủ nhà rất ít khi ngồi hóng mát vì cộng sổ sách, kiểm tiền bạc buôn bán trong ngày xong thì đã tám chín giờ đêm. Tiệm “chạp phô” của chồng bà tuy không lớn lắm nhưng cũng có hạng trong khu chợ vàm nầy.
Từ ngày lấy ông tới giờ bà luôn được ông tin tưởng giao quản lý tiền bạc gia sản. Tuy ở với nhau gần bốn năm chưa được mụn con nào, ông vẫn quý yêu bà như ngày mới cưới, bà vốn gái miệt vườn lại đang tuổi hồi xuân nên nhan sắc càng mặn mòi quyến rũ. Chiều nay bà ăn cơm xong thay bộ đồ lụa trắng ra hiên ngồi đợi ông, bà ngả người nằm dài trên ghế bố thoải mái hít thở không khí chiều, hai chân dũi dài trên chiếc ghế đẩu thấp nhỏ.
Đúng lệ con cóc từ hang chui ra. Nó cần mẫn bắt muỗi tiến dần về phía bà. Con cóc nhảy qua mặt bà tiến về phía sân. Bà chăm chú nhìn từng động tác chờ, rình, vội vã đớp của con cóc một cách say mê.
Ông ra đến chỗ bà ngồi, bà đẩy chiếc ghế đẩu về phía ông ra hiệu ngồi xuống. Ông ngồi xuống bắt chéo chân xỉa răng. Mắt bà vẫn không rời con cóc. Bỗng bà phá lên cười hăng hắc, cười đắc chí, cười thích thú làm ông phải quay lại nhìn. Bà như rạng rỡ hẳn lên trong tiếng cười, đôi môi mòng mọng mở to phơi những chiếc răng trắng ngà đều đặn, ông rất yêu cái miệng của bà, bà không giống những người phụ nữ trong vùng thường ăn trầu từ khi bắt đầu búi tóc làm hàm răng đen nhẻm, môi đỏ màu cổ trầu trông già cỗi.
Ông chợt phát hiện ra đôi mắt to nằm dưới đôi mày vòng nguyệt của bà ánh lên vẻ vui thích ma quái kỳ lạ. Ông buột miệng hỏi:
- Con cóc có gì mà mình vui vậy ?
Bà cười nghiêng ngả như bị ma nhập một lúc nữa rồi mới đáp:
- Mình có muốn nghe chuyện xưa của tôi không ?
- Cưới mình đến nay có bao giờ mình nói chuyện xưa cho tôi nghe đâu mình muốn kể cũng được.
- Tôi kể mình nghe rồi phải bỏ, cũng vì muốn lấy mình mà tôi...
...Ba ngày sau chị Hai quay lại mảnh đất giữa rừng đó. Anh Hai không tháo được dây trói và cũng không còn sức để tháo nữa. Anh chúi người về trước chịu cả thân người lên hai đùi ngồi chồm hổm như vậy để cúi xuống cần mẫn liếm những giọt sương đọng trên lá cỏ.
Thấy chị đến, ánh mắt không còn thần sắc rực sáng lên nhìn chị van lơn. Từ miệng anh mấy từ thì thào không rõ nghĩa tuôn ra. Chị nhìn xoáy vào anh rồi nhếch cười bảo:
- Đó là tại mình ép tôi đừng trách tôi nghe. Chị quay lưng bỏ đi với tiếng cười hăng hắc như chim khách ăn đêm. Hơi sức còn lại trong anh bật thành tiếng:
- Mình.. ình..đừ...ừng.. Mình..ơ.. ơi..
Chỉ có tràm xanh vọng lại u u mấy âm thanh vô vọng...
... Bà chỉ vào con cóc lại cười thích thú:
- Tôi thấy con cóc kia thè lưỡi bắt muỗi giống y như ông ấy lúc thè lưỡi liếm sương. Tức cười quá. Ha... ha...Bấy lâu mình cứ tưởng chồng cũ của tôi theo vợ bé bỏ tôi lại giữa rừng chứ mình đâu có biết tôi...
Dường như từ trong sâu thẳm cõi lòng của bà, điều bí mật ghê rợn bị cất giữ quá lâu nên được dịp tuôn ra không ngừng được. Ánh mắt bà sáng rực ma quái, từ cái miệng xinh xinh há ra tuôn không ngừng những tiếng cười hắc hắc.
Ông rợn người bất giác đứng bật dậy, chạy trối chết như khi con người nhìn thấy một con cọp đang khoái trá gặm thịt đồng loại của mình, bà ngơ ngác nhìn theo rồi quay lại nhìn con cóc.
Con cóc đang ngồi chễm chệ bỗng ngẩng đầu lên nhìn bà bằng đôi mắt thồ lộ. Bà như bị hút vào đôi mắt trợn tròn đỏ độc như ngọn đèn cóc giữa rừng khuya. Từ cổ họng con vật phát ra âm thanh như tiếng nghiến răng căm hận, của một người bị kẻ thù dồn vào đường chết mà không có cách chống trả. Con cóc chồm hổm theo tư thế trời cho nhảy từng bước thẳng về phía bà. Bà kinh hãi rú lên:
- Cứu tôi với..làng xóm ơi.. giết người.. Giết người.
Chợ vàm Chắc Băng mấy năm nay xuất hiện một bà điên. Dưới mái tóc rối bù dơ bẩn có một đôi mắt đen ẩn dưới đôi lông mày vòng nguyệt. Đôi mắt ấy lúc sáng hoắc lúc đờ đẫn. Bà điên khi cười khi khóc lang thang khắp chợ, ai cho gì ăn nấy đụng đâu ngủ đó.
Bà ta có cách ăn rất kỳ quái: bỏ thức ăn xuống đất, ngồi chồm hỗm thè lưỡi liếm như con cóc rồi mới ăn. Dân chợ vàm thường kể ông chủ tiệm chạp phô bỏ ra tỉnh lấy vợ Tàu. Họ kể với nhau…
... Sáu năm sau một gia đình đi khẩn đất khám phá một mảnh đất hoang sậy mọc um tùm. Trên gò cao dưới gốc một cây tràm thật lớn, họ thấy một bộ xương người với bộ dạng co ro của một con cóc chuẩn bị đớp mồi. Trên bộ xương có một sợi dây da trâu vẫn còn khá chắc. Họ đào một lỗ trên gò chôn bộ xương rồi cùng nhau chặt dọn miếng đất lấy chỗ làm ruộng.
ST
#86
Gửi vào 19/06/2011 - 06:48
CÁI RƯƠNG ẤN ĐỘ
Người bán đồ cổ vừa xoa xoa hai lòng bàn tay vào nhau và nói:
- Thưa ông chính cái rương này từ Ấn Độ gởi qua. Đây là loại gỗ quý gỗ này thật đặc biệt hiếm.
Maax với giọng hơi ngập ngừng:
- Được rồi. Tôi sẽ mua vật này mà. Chính lúc bước chân vào tiệm Maax đã để ý đến cái rương này, cái rương làm toàn bằng gỗ một màu đen nhánh, lại có những đường gân trắng nổi lên trên rất đặc biệt.
Mặt rương nổi lên màu sắc địa phương của nó. Hơn nữa kích thước của nó rất vừa ý Max. Rương rộng lối sáu tấc, dài mười tám tấc, cao lối chín tấc. Khi Maax đoán biết chủ tiệm sẳn sàng bán rương với giá mười hai dollars, thì ý muốn của chàng là xỉa tiền mua ngay vật quý này.
Tuy nhiên Maax lại lưỡng lự vì theo ý của chàng giá bán sao rẻ quá, hơn nữa khi giá cả đã ngã ngũ, trông mặt mày chủ tiệm có vẻ thoải mái thấy rõ. Phải chăng loại gỗ đóng rương không phải là loại gỗ quý ?
Hay là cái rương này có điểm nào tệ đây ? Nhưng rồi... việc mua bán đã xong xuôi tiền đã giao, qua ngày mai dù Maax đổi ý thì sự việc cũng đã quá trễ rồi.
Trông mặt gỗ rất bóng không một đường rạn nứt nào cả. Nhìn chung cái rương trông rất đẹp ! Nắp rương đậy kín. Cái chìa khóa lớn dùng để mở trông rất gọn và lúc mở cũng không nghe tiếng động lớn. Maax tỏ ý vừa lòng.
Mỗi ngày chàng để ý lau chùi bụi bặm bám trên mặt rương. Đem về nhà chàng đặt rương vào một góc phòng. Maax nghĩ thầm khi phải dọn nhà đồ vật này đối với chàng rất là tiện. Vả lại trong lúc này, chính cái rương quý này làm cho căn phòng của Maax giá trị thêm lên.
Nhiều tuần lễ trôi qua. Thỉnh thoảng Maax lại đưa mắt ngắm xem cái rương quý. Nhưng về sau lâu ngày Maax ít để ý đến. Một tối nọ một sự việc bất ngờ khác lạ xảy đến làm cho Maax suy nghĩ rất nhiều. Trong lúc ngồi vào chiếc ghế bành im lặng đọc sách, không hiểu vì lẽ gì, Maax đưa mắt ra khỏi trang sách nhìn về phía góc phòng nơi đặt gương. Một ngón tay dài xanh xao thò ra khỏi nắp rương.
Maax ngồi lặng thinh trong chiếc ghế bành, tâm trí như bị tê liệt vì quá sợ hãi trong thời gian lâu từ hai đến ba phút, cặp mắt không rời khỏi mặt rương. Rõ ràng là một ngón tay thật dài xanh xao, lóng tay không được suôn sẻ, đầu ngón tay là cái móng bầm đen.
Qua những phút sợ hãi lúc này đến phút giận dữ ngón tay đó vẫn đứng yên. Hiện tượng ấy thật kỳ quái. Buổi tối yên lặng của chàng bỗng nhiên bị phá tan bởi sự xuất hiện ngón tay dị kỳ đó. Maax liền lấy cuốn sách quăng mạnh về phía chiếc rương. Ngón tay biến mất Maax không còn trông thấy gì nữa.
Chàng đưa cao ngọn đèn rọi ánh sáng về phía góc phòng rồi bước mau về phía cái rương, đột ngột mở nắp rương. Bên trong không có gì cả. Chàng đậy nắp rương lại lượm cuốn sách cầm tay, trở về chỗ cũ ngồi vào ghế.
Phải chăng trong mấy ngày qua chàng đọc sách quá nhiều nên bị hoa mắt. Chàng giả vờ tiếp tục đọc sách lại nhưng chốc chốc chàng lại đưa mắt về phía góc phòng cho đến khi không nhận thấy có gì kỳ lạ xảy ra, lúc đó chàng mới lên giường ngủ.
Nhưng suốt ba bốn ngày sau đó hiện tượng kỳ quái kia cứ ám ảnh mãi trí óc Maax. Chàng không dám về khuya và bắt đầu đọc sách ít lại. Trong tuần lễ đầu, chàng đinh ninh là mắt chàng bị quá mệt, nên làm cho chàng nhìn ra hiện tượng kỳ lạ đó.
Bắt đầu tuần lễ thứ hai nghĩ rằng thị giác đã được nghỉ ngơi vừa sức, chàng mua về nhiều tạp chí và bắt đầu mải mê đọc. Đọc được vài trang Maax ngước mắt nhìn về phía chiếc rương nhưng cũng không thấy gì lạ xảy ra.
Ngồi vững vàng vào chiếc ghế bành Maax chăm chú đọc suốt cả tiếng đồng hồ. Đọc hết một cuốn định đọc qua một cuốn khác, chàng đưa mắt về phía chiếc rương... Cái ngón tay dài xuất hiện bất động, lóng tay không được suôn sẻ móng tay màu bầm đen.
Maax cố ý cưỡng lại ý muốn chạy sang phòng bên cạnh, đưa tay về hướng chiếc bàn đặt gần chiếc ghế bành, sờ soạng tìm lấy cái gạt tàn thuốc, nhưng cặp mắt chàng vẫn không rời khỏi chiếc rương.
Bàn tay chàng đã nắm được cái gạt tàn thuốc, lúc này chàng từ từ đứng dậy nhẹ nhàng đi tới góc phòng. Lúc chàng bước tới cái rương với khoảng cách chừng một thước thì ngón tay kia cũng biến mất. Maax mở nắp rương ra. Bên trong rương không có gì cả !
Trí óc Maax đảo lộn. Chàng trở về chổ cũ ngồi vào ghế. Tuy lúc này cái ngón tay quái dị kia không xuất hiện nữa, nhưng chàng cũng không xua đuổi khỏi trí óc được hình ảnh ghê rợn lúc này. Trước khi lên giường ngủ một ý nghĩ mới đên trong óc chàng: Sẽ tìm cách thủ tiêu cái rương này !
Maax vẫn khỏe mạnh. Thật ra hiện tượng kỳ quái đó không phải xuất phát từ thị giác của Maax mà chính là ở cái rương kỳ dị kia. Chàng nhớ lại những chuyện đã qua. Trước hết là cái rương đã bán giá quá rẻ. Thứ hai là chủ tiệm đã tỏ ra vui mừng khi bán được món hàng mà hắn ta cho là rất quý. Nhưng Maax vẫn tin mình. Chàng tự hỏi không biết chàng có bị rối loạn thần kinh không ?
Sáng hôm sau trước khi đi làm việc, chàng nhờ chủ nhà cho người chở nó đi, vất nó vào nơi chứa đồ phế thải thủ tiêu bằng cách hỏa thiêu nó. Nhưng buổi chiều hôm ấy khi trở lại phòng trọ, vật đầu tiên trong căn phòng đập vào mắt chàng lại là cái rương ma quái đó.
Vừa sợ hãi vừa tức giận, Maax vội vàng tìm chủ nhà tra hỏi lý do nào mà bà ta không chịu nghe lời chàng. Bà chủ nhà ôn tồn giải thích cho chàng nghe là cái rương còn tốt quá lại bằng gỗ quý, đem rương bỏ vào chỗ chứa đồ phế thải uổng phí quá. Hơn nữa không có một bác phu rác nào mất trí đến nỗi đang tay châm lửa đốt một chiếc rương trông đẹp như vậy được.
Nghe lời giải thích đó Maax xin lỗi bà chủ nhà trở về phòng. Chàng ngồi vào chiếc ghế bành và bắt đầu nhìn không chớp mắt vào chiếc rương. Chàng nghĩ thầm là nếu không còn có một việc gì xảy ra nữa thì chàng vẫn giữ lại chiếc rương, còn trái lại lần này Maax sẽ cương quyết tìm cách thủ tiêu nó.
Tối hôm đó Maax định đi dự một buổi hòa nhạc nhưng một trận mưa dai dẳng giữ chàng ở lại trong căn phòng của chàng. Trước khi ngồi vào ghế đọc sách, Maax bước lại góc phòng lấy chìa khóa trong túi áo khóa rương lại. Cuộc thí nghiệm lần này sẽ quyết định dứt khoát cho ý định của chàng.
Trong lúc đọc sách chốc chốc Maax lại đưa mắt về phía chiếc rương. Nhưng không có gì xẩy ra trước mười một giờ đêm cả. Đến lúc chàng đặt sách xuống, chàng liếc mắt vào góc phòng nhìn lên cái rương: Ngón tay kỳ lạ kia lại xuất hiện. Và cái ngón tay dài xanh xao, thay vì bất động lần này dường như ngón tay đó đang cử động. Ngón tay run run tuồng như đang cào vào mặt gỗ với cái móng đen bầm của nó.
Maax tập trung tất cả can đảm cầm cái gạt tàn và bước lại góc phòng. Ngón tay ma quái bỗng biến mất đúng vừa lúc chàng đưa tay định ném thật mạnh cái gạt tàn thuốc vào chiếc rương. Tim chàng đập thình thịch. Chàng mở nắp rương. Bên trong vẫn trống không.
Lúc này chàng nghĩ đến cái chìa khóa chàng để ở túi áo. Một cảm giác ghê rợn đến dựng tóc gáy. Cái chìa khóa để trong túi áo đã biến mất nhưng lại thấy nằm ở ổ khóa. Chàng lẩm bẩm nghĩ rằng có lẽ chàng đã mất trí. Maax lại khóa chặt rương lần nữa trở lại ngồi vào ghế, nhìn chằm chằm vào chiếc rương ma quái cho mãi đến hai giờ sáng.
Cuối cùng vì quá mệt mỏi trí óc bị đảo lộn, Maax lên giường ngủ. Trước khi tắt đèn chàng để ý là nắp rương đã được đậy kín và được khóa kỹ. Khi chàng đã thiu thiu ngủ bỗng một cơn ác mộng chợt đến. Trong giấc ngủ chàng nghe như có tiếng cào gỗ làm cho chàng thức dậy.
Thắp một cây nến chàng đưa mắt về phía trước rương. Cái ngón tay dài lại hiện lên trước mặt rương và đang cựa quậy mạnh. Ngón tay đó lúc lắc trở lại thật mạnh cào lên mặt rương, với chiếc móng bầm đen. Nhưng dường như nó thấy sự xuất hiện của chàng nên bỗng nhiên nó dừng lại. Và... từ từ ngón tay đó ra hiệu cho Maax lại gần.
Quá sợ hãi Maax không thể vâng lời được. Chàng đặt cây nến xuống bàn và chân bắt đầu bước giống hệt như một người máy. Ngón tay kỳ dị đó như kéo chàng lại gần, chàng giống như một thỏi sắt bị nam châm hút. Đúng vừa lúc Maax bước lại gần chiếc rương thì ngón tay kỳ dị đó rút vào, và nắp rương tự nhiên mở lên.
Maax lúc nào cũng bị một sự sợ hãi quá mức thôi miên, chàng bước vào lòng rương ngồi khom mình, đầu gối chống cằm rồi ngã cả thân mình xuống lòng rương. Nắp rương tự nhiên đóng sập mạnh và chiếc chìa khóa tư động quay một vòng trong ổ khóa..Maax hoảng hốt thức dậy hét lên một tiếng ghê rợn. Chàng ngồi thẳng người trên giường, mồ hôi chảy dầm dề trên trán. Maax qua sợ vội trùm cả tấm ra lên đầu và nằm như vậy cho đến sáng.
Trời sáng tỏ lấy lại bình tĩnh Maax rời khỏi căn phòng đi pha cà phê uống. Hôm ấy chàng không đến sở mà lại tìm đến nhà một khu phố đổ rác, mà lâu nay chàng từng nhờ cậy người này giúp trong nhiều công việc. Chàng dặn dò bác phu thật kỹ về những điều chàng muốn thực hiện. Chàng trao cho bác phu số tiền mười dollars và còn hứa sẽ trao thêm tiền khi xong việc.
Buổi chiều hôm ấy. Maax trở lại căn phòng riêng của chàng lòng rất tự tin nhưng vừa bước vào căn phòng, chàng cảm thấy như quả tim mình thoát ra khỏi lồng ngực.
Trái với lời dặn của chàng bác phu đổ rác vẫn chưa chịu khiêng cái rương đi vất bỏ. Lần này Maax tỏ ra vô cùng thất vọng hơn là nổi cơn giận lôi đình. Chàng bước ra ngoài gọi điện thoại liên tục cho bác phu đổ rác. Ông này lựa lời xin lỗi, lấy cớ là chiếc xe của ông bị hỏng máy đúng vào lúc ông chuẩn bị đi làm phận sự. Ông đã phải bỏ hết cả ngày sửa chữa xe và xin hứa qua ngày hôm sau sẽ đến sớm để lo tròn công việc.
Maax không biết làm gì hơn buông thỏng hai tiếng "cảm ơn" và đặt điện thoại xuống. Chàng không muốn trở lại căn phòng riêng của mình mà tạt vào một quán trong khu phố ăn trưa rồi đi xem chiếu phim luôn.
Ở rạp chiếu phim ra Maax lại tạt vào một quán cà phê, ngồi cà kê mãi cho đến nửa đêm mới về căn phòng của chàng. Cơn ác mộng đêm hôm trước vẫn còn ám ảnh trí óc nên dù đêm qua ngủ rất ít nhưng đêm nay chàng vẫn chưa nhắm mắt được, vì thế chàng cảm thấy rất mệt mỏi.
Sau khi xem kỹ là nắp rương được đóng kín, Maax cẩn thận đặt chìa khóa ở dưới gối nằm rồi nhắm mắt ngủ. Vài giờ sau đó Maax bỗng thức dậy ngồi lên một cách tỉnh táo. Tim chàng đập mạnh hơn lúc nào hết. Trong một phút định thần chàng tự hỏi vì sao chàng lại ngồi dậy như thế này.
Có tiếng cào lên mặt gỗ nghe rõ mồn một ở phía góc phòng. Tay chân của chàng run rẩy chàng nhẩy xuống giường đưa tay ấn nút mở sáng chiếc đèn làm việc ban đêm đặt trên bàn. Không có ánh sáng tỏa ra. Bóng đèn bị cháy hay dòng điện bị cắt đứt ?
Chàng mở hộc bàn đưa tay quờ quạng tìm cây nến. Trong lúc chàng sờ soạng tìm nến và diêm thì tiếng động tăng lên gấp đôi, gấp ba đến nỗi nghe tưởng chừng như vang dội hết cả căn phòng.
Toàn thân Maax run rẩy, mỗi sợi lông trên thân mình như đứng lên nhưng chàng cũng lấy hết can đảm, tay cầm cây đèn cầy và nhẹ nhàng bước tới chiếc rương.
Ngón tay kỳ lạ đó trông càng dài ra và gõ liên hồi trên nắp rương. Với nhịp điệu dồn dập tiếng gõ vang ra hết cả mặt rương, có khi cái móng tay bầm tím đó lại cào mạnh lên mặt gỗ.
Khi Maax bước lại gần ngón tay kỳ lạ đó bỗng đứng yên rồi nằm dài theo mép rương. Maax kinh hoàng khi nghĩ rằng ngón tay ma quái đó đã trông thấy chàng nên mới ngừng họat động và ngón tay đó đang nhìn chằm chằm vào chàng. Và khi Maax đã đứng giữa căn phòng, lạ lùng thay ngón tay đó giơ lên và hình như đang ra dấu hiệu cho chàng lại gần hơn.
Maax quá kinh sợ khi nhớ lại cơn ác mộng chàng vừa trải qua. Lúc này chính chàng không chịu đựng nỗi sự sợ hãi đó nữa. Chàng vẫn bước tới trước, cử chỉ hành động giống như một người mắc bệnh mộng du.
Sáng hôm sau hai người phu đổ rác bước theo chủ nhà của Maax vào phòng chàng. Maax đã rời khỏi phòng từ lúc nào có lẽ chàng đi làm việc, nhưng hai người phu đổ rác đã biết rõ công việc của họ sẽ phải làm.
Chiếc rương được khóa kỹ vẫn nằm ở góc phòng, không có chìa khóa nằm trong ổ khóa. Bên cạnh rương người ta thấy dấu vết một cây đèn cầy đã cháy rụi. Người chủ nhà tỏ ý không hài lòng. Bà ta lên giọng tỏ ra bực bội:
- Đấy hành động đó chỉ nhằm đốt nhà người ta. Tôi sẽ nói cho ông Maax biết về sự sơ xuất đó. Quả thật đáng trách.
Hai người phu đổ rác đang hì hục khiêng chiếc rương, không để ý đến lời nói của bà chủ nhà. Một người than:
- Bộ cái rương này bằng chì hay sao ? Từ trước đến nay, tôi chưa bao giờ khiêng một cái rương trống mà nặng như thế này.
Bà chủ nhà nói dặn thêm:
- Ấy cái rương này được đóng bằng loại gỗ rất chắc...
Khi chiếc xe chạy tới ven đô, đúng nơi vứt bỏ những đồ phế thải một người phu nói:
- Tôi không hiểu vì sao cái thằng cha này lại đem bỏ đi một cái rương trông đẹp như thế này.
Bạn của anh ta trả lời:
- Tôi thì biết rõ đầu đuôi sự việc. Chẳng là anh chàng mua cái rương này của Jason Kinkle mà Kinkle thì chẳng bao giờ kể rõ lai lịch cái rương cho chàng ta biết... Vì lẽ đó mà chàng ta không muốn giữ cái rương này trong căn phòng của chàng nữa.
- Nhưng lai lịch cái rương đó ra sao ? Anh có biết không ?
Anh phu đổ rác tự cho mình biết rõ câu chuyện không thèm trả lời cho bạn ngay lúc đó, nhưng khi cái rương đã được đẩy xuống đất chàng mới chậm rãi:
- Cái rương này được đem bán ở tiệm bán đồ cũ. Người chủ của nó trước tiên là Stubberton...
Vừa nói đến đây người phu đổ rác thứ hai cướp lời:
- Stubberton. Có phải anh chàng bị giết chết bằng cách bỏ...
- Phải rồi. Bằng cách bị đem nhốt vào rương. Đúng vậy. Chính cái rương mà chúng ta vừa mới chở trên xe đó!
Cả hai im lặng một hồi lâu. Họ tiếp tục tìm cách xê dịch cái rương lại gần một cái giếng không còn dùng nữa, thành giếng đã bể nát, đáy giếng chứa đầy một thứ nước bẩn. Người phu đổ rác đưa tay lau mồ hôi đổ giọt trên trán đoạn tiếp lời:
- Lúc người ta cạy cái rương ra thì xác nạn nhân trông đen xám xịt lại. Người ta thấy một ngón tay mắc kẹt ở nắp rương gần nơi ổ khóa nhưng ngón tay ấy cũng không cứu được mạng sống của nạn nhân.
Nghe bạn kể câu chuyện ma quái đó, người phu đổ rác thứ hai tỏ ra sợ hãi nói lớn:
- Thôi phải thủ tiêu nó gấp, cái thứ này chỉ mang xui xẻo đến cho chúng ta mà thôi.
Người kia đáp nhanh:
- Đồng ý giúp tôi một tay mau lên.
Hai người lấy hết sức lực đẩy rương xuống đáy giếng. Cái rương trong phút chốc rơi xuống mặt nước đen xì làm tung một ngọn nước lên cao gần miệng giếng...
Một người lên tiếng:
- Thế là yên chuyện chúng ta lại được thêm mười dollars.
Nhưng rồi... một sự việc lạ lùng xảy ra. Hai người phu đổ rác không bao giờ hy vọng nhận thêm số tiền mười dollar đó nữa vì kể từ ngày hôm đó, Maax bỗng biệt tích, không ai gặp chàng mà cũng không có ai nhắc đến tên chàng nữa.
Hai người phu đổ rác trình nội vụ tại cảnh sát cục. Bà chủ nhà không biết tên hai người phu đổ rác, hơn nữa, bà cũng không hay biết gì thêm tin tức Maax nên bà cũng chẳng giúp ích gì được cho hai người.
Về sau cảnh sát chỉ biết trả lời một cách lờ mờ về trường hợp của Maax. Họ nói có lẽ anh chàng đã đổi tên và đổi chỗ ở.
Josephpayne Brennan
CĂN PHÒNG ÁP MÁI
Họ dò dẫm trên chiếc cầu thang ọp ẹp dẫn lên căn phòng áp mái bụi bặm. Alastair cẩn thận đặt từng bước lên lối đi hẹp về phía căn buồng. Anh ta đẩy hai cánh cửa khép hở ra.
- Hãy tự nhiên như ở nhà.
Anh ta nói, vẫy họ vào qua cánh cửa bên phải.
- Cánh cửa kia vào buồng người hầu, nay mẹ tôi dùng chứa đồ tạp nham. Nếu cần mời anh sang đấy xem qua.
Bên trong căn buồng ngủ đêm của anh tối mịt, ngoại trừ chút ít ánh sáng yếu ớt mùa đông hắt vào qua ô cửa sổ bé xíu duy nhất. Anh bước về phía đó sát góc buồng, mặt biển trải rộng ngút tầm mắt.
Alastair cúi xuống bật đèn bàn.
- Nguồn ánh sáng duy nhất.
Anh ta nói:
- Tôi hy vọng nó đủ sáng.
Anh đặt va ly xuống giường.
- Còn một chiếc đài nữa. Có thể làm anh vui được.
- Cám ơn.
Anh nhìn chiếc đài cổ lỗ thô kệch.
- Dù sao cũng xuống nhà làm ngụm nhỏ đã, trước khi ăn tối. Mẹ tôi muốn gặp anh lắm, gặp người đến bắt con ma ở Drumkattle này. Hay anh muốn xem trước ?
- Tôi xem qua mấy phút thôi.
Anh cẩn thận rà soát cánh cửa, ổ khóa to chìa khóa cắm bên ngoài. Then cửa bên trong khá to đã gỉ sét. Anh ngó qua cái tủ tường ở góc buồng to bằng một gã đàn ông. Ngó ra sau lưng nó những tấm gỗ vẫn còn chắc chắn. Anh ngồi xuống giường nhún lên nhún xuống, nhìn vào gầm giường.
- Được rồi, anh nói.
- Sẽ xong thôi.
- Tốt quá. Thôi xuống nhà đi.
- Ta quên một thứ, Duncan nói:
- Chiếc chuông..
- Đúng rồi.
Alastair vươn về phía trước túm lấy sợi dây treo từ trên trần dài độ vài phân, lấy trong túi ra một sợi dây thô và buộc hai cái lại với nhau.
- Để báo hiệu, Kevin cáo già ạ. Tôi sẽ để đầu dây ngay cạnh giường, nếu anh giật chiếc chuông nhỏ kia sẽ kêu. Nó có ở đây lâu lắm rồi nhưng vẫn kêu tốt.
- Này, Kevin nói:
-Tôi cóc cần cái chuông đỏ như máu kia của anh.
- Được rồi, anh sẽ không cần đến nó.
- Khoan một chút, anh nói:
- Tốt hơn nên nói với anh điều này.
Anh mở va ly lấy ra khẩu súng ngắn.
- Khẩu Smith and Wesson này no đạn đấy.
Rồi anh đặt nó xuống bàn.
- Con ma nào dám trêu ngươi sẽ lĩnh ngay một viên vào bụng. Tôi sẽ nói rõ hơn trước khi chúng ta bắt đầu.
- Mày nghe rõ chưa ma ?
Alastair ngửa cổ lên trần nhà nói vui:
- Nếu mày ló mặt mày sẽ ăn đạn vào bụng đấy.
Họ rời căn buồng. Bà mẹ Alastair người nhỏ bé, sắc sảo đang ngồi trong phòng vẽ không đủ ánh sáng.
- Mẹ, đây là Kevin Donaldson. Anh ấy đến từ Australia.
Bà mẹ già cười tươi hỏi han. Trước kia bà đã đến nước Australia từ khi chồng bà còn sống, và bà rất yêu đất nước đó. Còn giờ đây làm sao để bắt được con ma của ngôi nhà Drumkattle ?
Alastair phân bua. Đó chỉ là sự đánh cuộc. Một trăm năm nay không có ai ngủ trong căn buồng có ma đó, không có ai từ cái đêm bà người hầu ngủ trên giường bất ngờ bị tấn công dữ dội và bị giết chết. Người ta không rõ hung thủ là ai. Kevin sẽ ngủ hoặc là cố để ngủ trong căn buồng đó.
- Năm mươi pao thì nhiều đấy, bà Moncrieff nói.
- Nhiều nhưng với con thôi. Còn Kevin anh ấy giàu có, chính anh ấy mới là người sẽ phải trả..
Kevin cười.
- Tôi không tin thế.
Đã hơn mười một giờ đêm, một mình anh ở trong căn buồng áp mái cửa khóa trái bên ngoài. Khẩu súng để ở vị trí thuận tiện sẽ giúp anh đỡ bị bất ngờ, nếu bóng ma xuất hiện trong trang phục quái gở thế nào đi nữa. Đêm tháng mười hai không trăng. Căn buồng tối đen lại nếu anh tắt chiếc đèn bàn bên đầu giường. Chiếc cửa sổ hình chữ nhật, con mắt duy nhất nhìn ra biển Bắc, hắt một chút ánh sáng xanh xao yếu ớt.
Anh để nguyên quần áo nằm trên giường, mắt liếc nhìn trang bìa sách nhưng tâm trí vang mãi lời hứa với Alastair. Chín tiếng nữa và mọi thứ sẽ trôi qua thôi. Nếu đến tám giờ sáng anh không rung chuông, họ sẽ bẽ bàng ra sao trước mắt anh, còn chuyện họ đi thông báo cho hàng xóm tin tức về anh nữa chứ, họ sẽ mở cửa cho anh ra và anh lấy về năm mươi pao tiền cược.
Ý nghĩ thứ hai chợt đến, làm gì có ai để người trong nhà này đi thông báo; Drumkattle là ngôi nhà duy nhất dọc bờ biển hoang vắng này. Chắc chỉ có Alastair, Duncan và bà mẹ già của họ là nghe được tiếng chuông. Vậy thì khỏi rung chuông nữa.
Anh đã thấy chán quyển sách, bật công tắc chiếc đài bên cạnh, lắng nghe chương trình "Nhạc đêm khuya" trên sóng đài Home. Anh chuyển sang sóng đài Light đang phát bản nhạc jazz, cuối cùng chọn đài Hamburg với nhạc valse. Anh ngồi dậy thay quần áo mặc ngoài.
Khẩu Smith and Wesson nằm một bên giường, anh kiểm tra hộp đạn lần cuối và thấy yên tâm. Xong xuôi anh thả mình xuống chiếc giường gỗ hẹp, có thể tình trạng không thoải mái này sẽ đánh thức anh dậy trước lúc bình minh, với tay tắt đèn. Bản nhạc du dương nhưng được một lúc cơn ngái ngủ ập đến, anh tắt nốt chiếc đài.
Không dám chắc có phải mình thức giấc thật không nhưng rõ ràng anh nghe thấy tiếng động vào lúc một giờ sáng. Thoạt đầu anh không tài nào định hướng được âm thanh đó, dần dần như mái nhà thủng ra và nước nhỏ xuống sàn. Anh đợi một lúc cho chắc chắn và bất ngờ bật đèn.
Thật lạ không còn âm thanh nào. Không có nước trên sàn. Anh tắt đèn. Lần này chỉ khoảng nửa tiếng sau, anh lại nghe thấy âm thanh đó, to hơn lần trước, cứ như thể nước đang rỉ xuống ngay giữa phòng.
Anh thấy lạ khi có một tiếng động ngay cạnh đầu, bực mình quá anh quay người sang bên kia, tim bắt đầu đập rộn, hai bên thái dương rần rật. Tiếng động của thứ chất lỏng nọ giờ thành đối âm với nhịp lưu thông của mạch máu trong người anh, và bất ngờ tiếng nước rỉ đổi vị trí cứ như có một lỗ thủng khác ở trên mái. Anh bật đèn lên âm thanh nọ lại ngừng bặt.
Anh bật dậy nhìn qua ô cửa sổ, lại gần thò tay ra ngoài: trời có mưa đâu nhỉ. Quái lạ! Tìm thế nào đi nữa anh vẫn không thấy có vết nước trên sàn. Anh lại gần tủ mở toang hai cánh ra, ngỡ tưởng Alastair hay Duncan nấp trong đó giả vờ làm tiếng động. Chiếc tủ trống rỗng. Để nguyên đèn sáng anh nằm vật xuống giường. Anh liếc nhìn đồng hồ ba giờ rưỡi. Anh uể oải tắt đèn.
Chắc anh đang ngáy bỗng nhiên giật mình vì có tiếng người nói, anh bật thẳng dậy tim đập mạnh. Đó là tiếng phụ nữ giọng một cô gái du dương. Anh căng tai và từ rất xa rất nhẹ dường như nó gọi :
- Kevin !
Thật vô lý. Anh sẽ không tự biến mình thành thằng ngu bằng việc trả lời tiếng gọi nọ. Anh lại bật đèn mọi thứ chìm vào im lặng. Anh nguyền rủa. Hơi mệt và bực dọc. Bóng đèn bỗng nhiên bị vỡ. Một cục nước miếng chặn ngang cổ họng ran rát, tai nghe rõ nhịp đập của tim anh thoắt với lấy khẩu súng.
- Anh đang nằm, giọng nói lại vang lên.
- Giữa vũng máu của tôi Kevin ạ.
Anh mở miệng hỏi lại giọng nói kia nhưng sao không lời nào thốt ra được. Mãi sau, bằng một giọng nói hoàn toàn không phải của mình anh hỏi:
- Sao...sao lại thế....
- Không làm ồn Kevin. Tôi tới đây để giết anh.
Anh cười tỏ vẻ can đảm.
- Khá lắm thưa cô. Nhưng tại sao ?
- Kevin, bởi vì căn buồng này chiếc giường anh vừa nằm là của tôi. Tôi đã chết trên chiếc giường đó.
Mọi thứ ngưng lặng chốc lát, tiếng đập trong tai anh to đến mức không còn chịu được nữa.
- Tôi đã chết trên chiếc giường này, Kevin, trong vòng tay của một thằng đàn ông. Hắn ta đã giết tôi khi tôi đang khóc tức tưởi..
Một tia ý nghĩ vụt qua óc khiến anh chú ý đến chiếc công tắc đài. Nó vẫn ở vị trí tắt. Giọng cô gái lại cất lên.
- Hỡi Kevin Donaldson vì anh chỉ còn được sống vài phút nữa thôi. Anh đã nghe thấy tiếng máu của tôi chảy xuống sàn chứ ? Chẳng bao lâu nữa sẽ là máu của anh.
Lạ thay tiếng nhỏ giọt lại vang lên. Phải chăng có thể nhìn được lúc này: anh thầm nguyền rủa chiếc bóng đèn chết tiệt. Và tại sao đúng, tại sao không nghĩ đến việc mang theo chiếc đèn pin. Anh nhớ đến chiếc bật lửa. Phải cố gắng lắm anh nguyền rủa bản thân vì sự thực đó, anh mới với được chiếc áo khoác. Chiếc bật lửa Ronson tỏa ánh sáng dầu tù mù anh không thấy gì cả.
Nhưng giọng nói vang lên gần hơn. Lần nữa anh chú ý tới chiếc đài và chắc chắn nó phát ra từ đó, thậm chí công tắc vẫn tắt. Tức quá anh vung cú đấm vào mặt chiếc đài. Giọng nói vẫn tiếp tục nhưng có lẽ lúc này anh đã quá phấn khích và mệt nên không hiểu nó nói gì. Nhưng đúng là chiếc đài rồi. Nghĩ thế anh giật tung dây điện ra.
Như cố tình trêu ngươi giọng nói lùi ra xa. Nó đang nói gần bức tường. Tiếng nhỏ giọt phát ra từ đấy. Một cơn hốt hoảng mới thật hãi hùng ập đến, nhận ra nó vẫn ở trong phòng, anh ném chiếc đài xuống sàn làm nó nứt ra, chưa thỏa anh còn lấy đập loạn xạ đến khi nó vỡ thành hàng chục miếng nhỏ.
Giọng nói lại càng rõ hơn:
- Có ích gì hơn đâu Kevin. Anh không thể thay đổi được số phận mà số anh là số chết. Chết ngay trong đêm nay.
Anh bật lửa trong phòng trống rỗng. Bỗng nhiên có một tiếng động trong góc phòng khiến anh rùng mình. Tiếng nhỏ giọt đã trở thành tiếng chảy xối, anh đứng bật dậy, hoảng hốt nhìn đăm đăm vào một điểm trong bóng tối.
Anh nhìn không biết bao lâu như bị hút hồn, chợt một cơn gió thoảng qua. Anh vòng qua giường lại gần nó, ở đấy chắc chắn có một cái gì đấy. Phát điên lên anh mắm môi mắm lợi bật lửa, phải đến bốn lần bật nó mới cháy.
Anh kêu lên kinh hãi hơi thở dồn dập. Ánh sánh quá yếu nhưng cũng đủ soi rõ một hình người, một hình người đứng gần tủ. Khuôn mặt nếu được gọi đó là khuôn mặt, màu xanh tái và quần áo nếu cũng có thể gọi là quần áo màu tối có lẽ là màu đỏ. Hình như người ấy đang nói vẫn giọng nói nọ, giọng nữ nhưng hai môi không hề động đậy. Bóng người mỗi lúc một gần hơn.
Anh quỵ xuống giường người cứng đơ.
- Ai... cút...
Anh thét lên hoảng hốt.
- Cô là ai ? Sao vào được đây ?.. Tôi sẽ giết cô đấy cô bạn. Lời cảnh cáo cuối cùng của tôi..Lời cảnh cáo cuối cùng...
- Đạn không giết được tôi đâu Kevin. Một người đàn ông đã làm thế với tôi. Giết chết tôi lúc tôi nằm ngay chỗ anh vừa nằm ấy, nhưng sẽ không còn thằng đàn ông nào nữa và không còn viên đạn nào đâu..
- Tôi cảnh cáo lần cuối ! Anh rít lên.
Anh nổ súng bắn thẳng vào hình người và kết quả làm anh chết lặng. Một ý nghĩ đen tối vẫn lên trong đầu anh. Khói súng vừa hết anh nhìn thấy một khuôn mặt trắng bợt vẫn nguyên chỗ cũ.
Anh thét lên bắn, bắn tiếp bắn nữa. Trong đám khói thuốc súng cay xè anh vẫn thấy hình người đang tiến đến gần hơn. Nguy rồi! Đến nước này thì không thể không báo nguy cho mọi người.
Nghĩ vậy tay trái rung chuông, tay phải vẫn bắn cho đến khi khẩu súng chỉ còn phát ra những tiếng cạch... cạch... khô khốc. Hình người đã chận lên mình anh, anh thúc mạnh khẩu súng hết đạn nhưng nó rơi xuống như gặp phải lực cản quá mạnh. Da anh ướt đầm không phải vị ngọt, máu anh biết đó là máu.
Tay chạm được dây chuông anh dồn hết sức kéo mạnh. Chiếc chuông nhỏ của nhà thờ xứ Scots kêu lên ở đâu đó trên đầu anh. Hình người rung mạnh rồi đột nhiên mọi thứ đen sẫm lại. Im lặng. Tối mịt mùng.
Mấy tháng sau kevin Donaldson được đưa về Australia. Người ta không còn được tin tức gì về anh. Tầng trên cùng của ngôi nhà Drumkattle từ đó không một bóng người bén mảng, cho tới khi cả tòa nhà đổ sụp xuống, hai, ba mươi năm sau này.
Tô Đức Huy dịch
THE EMAILER
Năm đó tôi đang học năm thứ hai ở Duke University. Vì không có xe và nhà ở thành phố khác nên tôi xin nội trú trong trường. Tôi ở một mình trong một phòng tại tầng trên cùng của một building rất cũ, nó đã được xây trên trăm năm rồi. Bên kia hành lang đối diện với phòng tôi là một căn phòng rất lớn nhưng không có ai ở cả. Nó được dùng để chứa các vật dụng của trường thôi !
Sau khi trở lại trường sau những ngày nghỉ lễ Christmas, một cô bạn cảnh cáo tôi là cái phòng đối diện phòng tôi có ma ! Một nam sinh viên đã tự tử trong đó vào năm 1945, và nhà trường đã quyết định dùng nó để chứa đồ chứ không cho ai ở từ năm đó.
Cô ta khuyên tôi đừng bao giờ chơi trò cầu cơ trong building này vì sẽ gặp con ma này ngay. Bạn của cô ta đã đối đầu với linh hồn này rồi trong một cuộc cầu cơ vào năm ngoái. Tôi không chơi cầu cơ nên chẳng lo gì cho lắm. Nhưng cái chuyện ma này làm cho tôi hơi áy náy nên tôi thường đưa mắt nhìn qua cái phòng đối diện mỗi khi ra vào phòng mình.
Một hôm nọ trong lúc vội vã ra khỏi phòng để đi đến lớp, tôi nghe văng vẳng có tiếng hát điệu thánh ca bằng tiếng La Tinh vọng ra từ phòng đối diện. Nhưng vì vội đi học, và nghĩ là chắc có ai vào đó lấy vật dụng và hát nên tôi chẳng chú ý gì thêm.
Trưa đó về lại phòng tôi mở computer đọc emails, xong tắt máy và vào phòng ngủ. Tôi thường cho phép mình làm một giấc ngủ trưa ngắn trước khi đến các lớp vào buổi chiều. Trong khi tôi còn đang mơ màng thì nghe có tiếng "beep" như vẫn thường nghe khi có một email mới.
Vài phút sau tôi lại nghe thêm một tiếng "beep" nữa. Tôi nhớ là mình đã tắt máy trước khi vào phòng rồi mà. Chắc là tôi nghe lầm trong lúc mơ màng thôi.
Khoảng một giờ sau tôi thức dậy và ra phòng ngoài. Cái computer của tôi đã mở từ bao giờ. Tôi đến xem thì thấy mình có hai cái emails mới, và chúng đến sau khi tôi đã lên giường.
Tôi đã nghe đúng hai tiếng báo "beep" trong lúc mơ màng. Tôi đâm ra ngờ ngợ không biết có đúng mình đã tắt máy chưa nữa. Tôi coi tên người gửi là một tên mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Tôi mở emails xem thì chỉ thấy câu
" Hi there " Trong cả hai cái emails đó. Nhưng đã tới giờ đi học nên tôi vội vơ vài cuốn vở tắt computer, rồi bước ra ngoài khóa cửa phòng lại.
Khi tan lớp học tôi trở về phòng. Trước mắt tôi là cánh cửa phòng hé mở. Phòng này chỉ mình tôi ở nên khi thấy cửa bị mở tôi sợ run cả người lên. Ai đó đã lẻn vào phòng trong lúc tôi đến lớp.
Thu hết can đảm tôi ghé mắt nhìn qua khe cửa. Hú hồn chỉ có cô bạn tôi đang ngồi dùng cái computer trên bàn thôi. Tôi đẩy cửa bước vào. Cô bạn thấy tôi và nhảy dựng lên mắt tròn xoe vì kinh ngạc.
- Mày ở đâu về đó ? Vậy ai ở trong phòng tắm vậy ?
- Tao mới xong hai giờ toán về đây !
Mặt cô ta bắt đầu tái xanh đi mắt nhìn dáo dác, giọng như muốn líu lại:
- Tao lên đây gỏ cửa và nghe có tiếng nói :
- Cứ vào.
Tao xoay nắm cửa thấy không khóa nên đẩy cửa vào đây và nghe có tiếng nước vòi sen chảy trong phòng tắm, nên nghĩ mày ở trong đó. Thấy computer mở sẳn nên tao check emails của tao, đang đọc chúng thì mày về tới. Tao nghe rỏ ràng có tiếng nước chảy trong phòng tắm mà. Vậy ai là người đang tắm trong đó ?
Tôi cũng thấy rợn cả người. Nhưng cũng làm gan đẩy cửa phòng tắm xem có ai không. Không có một ai cả. Cô bạn tôi vội vã cáo từ chứ không nán lại tán chuyện như mọi khi.
Lần này thì tôi không còn nghi ngờ gì nữa rồi. Có ai đó hiện diện trong phòng tôi. Tôi cảm thấy điều đó vì tôi đang có cái cảm tưởng là ai đó đang nhìn lén mình. Một điều tôi biết chắc là tôi đã tắt computer và khóa cửa phòng trước khi đến lớp rồi, nhưng khi về thì phòng không khóa và computer đã được mở lên.
Chắc đó là con ma ở phòng đối diện sang viếng phòng tôi rồi. Không còn nghi ngờ gì nữa. Con ma đó thật sự hiện hữu chứ không phải là do lời đồn đại đâu. Dù sao đi nữa thì con ma này cũng không đến độ phá phách lắm, ngoài việc mở computer để gửi emails, nó không chuyển dịch bất cứ vật gì trong phòng cả. Tôi cho nó chỉ là con ma hiền và thân thiện.
Nhưng cái cảm giác có người hiện diện trong phòng theo tôi cho cả khi lên giường đi ngủ. Tôi cứ thấy rờn rợn thế nào ấy. Đến gần nữa đêm tôi mới bắt đầu chợp mắt được.
Đột nhiên tôi cảm thấy có bàn tay ai đó rờ vào vai mình. Tôi ngồi bật dậy nhìn quanh. Không một bóng người, chỉ có tiếng tích tắc của cái đồng hồ báo thức trên đầu tủ. Tôi nằm xuống lại và lấy chăn trùm kín đầu như tôi vẫn làm hồi còn bé mỗi lần nghe bố mẹ kể chuyện ma.
Nhưng tôi vẫn không sao ngủ lại được. Cái cảm giác đó vẫn đeo đuổi tôi và lưng tôi vẫn rờn rợn từng cơn sóng lạnh vì sợ. Cuối cùng tôi bật miệng nói một mình như nhắn với con ma vô hình đó:
- Tôi không phá gì bạn xin bạn đừng phá tôi. Lạ thay vừa nói xong thì cái cảm giác rờn rợn bổng biến đi mất. Tôi thấy tâm thần yên ổn trở lại rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Kể từ đêm hôm đó tôi không còn thấy computer bị mở lên một cách tự nhiên nữa, và cái cảm giác như có ai đó hiện diện trong phòng cũng không còn. Tuy thế thỉnh thoảng khi ở hành lang tôi vẫn nghe tiếng hát thánh ca bằng tiếng La Tinh vọng ra từ cái phòng đối diện. Tôi không sợ hãi nó nữa, vì con ma không còn vào phá tôi trong phòng, và nó chỉ là một con ma hiền lành thôi.
Chú thích: Dựa theo lời kể của một nữ sinh viên trường đại học Duke North Carolina USA.
ST
ĐẦM LẦY TRĂNG
Tôi không biết giờ đây Dennis Barry đang ở đâu, ở cái nơi xa thẳm khôn cùng và ảm đạm nào? Vào cái đêm khi chàng còn sống với mọi người lần cuối cùng, tôi cách chỗ chàng không xa và nghe thấy tiếng người ta đến bắt chàng đi, cùng những tiếng kêu xé lòng xé ruột của chàng.
Nông dân và cảnh sát hạt Meath không tìm thấy cả Barry lẫn những người khác, mặc dầu họ đã kiên nhẫn sục sạo mọi nơi, mọi chốn. Còn tôi, sau tất cả những chuyện đã xảy ra, cứ mỗi khi nghe tiếng động ộp oạp của lũ ếch nhái đầm lầy vang tới hoặc bỗng nhiên tôi lạc tới một vùng đầy ánh trăng ở một chốn đồng không mông quạnh nào là bất giác tôi lại thấy khắp người nổi gai ốc vì sợ hãi.
Quen thân với Dennis Barry từ khi còn ở đất Mỹ, nơi chàng đã phất lên giàu có, nên tôi rất vui khi biết chàng đã chuộc lại tòa lâu đài của dòng tộc mình tại vùng đầm lầy hoang vắng Kilderry. Chính đó là nơi chôn nhau cắt rốn của chàng, và chàng những muốn được tận hưởng những thành quả giàu có của mình giữa những bức tường thân thuộc của cha ông.
Thuở xưa, tổ tiên chàng sở hữu xứ Kilderry, tại đây họ đã xây cất một tòa lâu đài và sống hạnh phúc trong tòa lâu đài ấy, nhưng nay tất thảy những điều đó đã trở thành quá khứ xa xăm. Đã bao tháng trôi qua kể từ khi tòa lâu đài trở nên hoang phế hoàn toàn. Sau khi trở về Ireland, Barry thường gửi thư cho tôi và kể chuyện việc quần thể kiến trúc cổ kính đó được tái sinh dần dần, hết ngọn tháp này đến ngọn tháp khác.
Và sau bao thế kỷ những bức tường lâu đài lại được trang trí lại đẹp đẽ như xưa, còn nông dân thì không ngớt lời ca ngợi và tỏ lòng biết ơn chàng đã bỏ vốn đầu tư cho sự thịnh vượng của chốn quê hương. Nhưng sau đó mọi việc đã thay đổi, đám nông phu thôi không ca ngợi ông bạn tôi nữa, mà trái lại, họ bắt đầu tìm cách tránh xa chàng như tránh xa kẻ mang bệnh dịch hạch.
Chính lúc đó Dennis đã viết thư cho tôi, yêu cầu tôi tới thăm vì chàng rất cô đơn trong tòa lâu đài, thậm chí chẳng có ai để mà nói chuyện nữa, ngoại trừ những người giúp việc và đám gia nhân chàng thuê từ miền bắc xuống.
Khi tôi đến nơi, Barry kể cho tôi hay rằng nguyên do mọi chuyện là ở những đầm lầy bên cạnh. Tôi đến Kilderry lúc hoàng hôn, ánh mặt trời lúc chiều tà vẫn thếp vàng lên các ngọn đồi xanh và những cánh rừng, cũng như lên màu lục của khu đầm lầy. Nó chiếu sáng cả những phế tích cổ kính kỳ lạ trên hòn đảo nhỏ xa xa.
Cảnh hoàng hôn thật đẹp, song nông dân ở Ballylow đã kịp phần nào khiến tôi lưu ý đến niềm tin của họ, khi họ quả quyết rằng Kilderry thật đáng nguyền rủa, và tôi dè dặt liếc nhìn những ngọn tháp nhỏ của tòa lâu đài đang ánh lên vàng rực dưới nắng chiều.
Tôi rời Ballylow bằng chiếc ô tô do người ta sai đến đón, vì Kilderry nằm cách đường xe lửa khá xa. Những người nông dân cố tránh xa chiếc ô tô và người tài xế quê miền bắc, nhưng khi thấy tôi chuẩn bị đi tới Kilderry, họ vẫn không kìm được vào báo trước cho tôi phải đề phòng nguy hiểm. Buổi tối, tôi đã có mặt trong tòa lâu đài, Barry đã kể tôi nghe mọi chuyện.
Nông dân lũ lượt rời bỏ Kilderry chỉ vì Dennis Barry quyết định cho hút cạn cái đầm lầy lớn. Mặc dù tình yêu quyến luyến với xứ sở Ireland quê hương thật sâu đậm nhưng những lề thói quen thực dụng Mỹ đã ăn sâu bám rễ trong con người Barry, bởi thế chàng không chịu được với ý nghĩ để cho mảnh đất màu mỡ kia bỏ phí dưới làn nước đầm lầy, bời đó chính là đầm than bùn và đất dưới nó còn có thể được sử dụng một cách không ngoan để sinh lợi nữa chứ.
Chàng bỏ ngoài tai tất cả những câu chuyện truyền thuyết và những lời đồn đại mê tín gắn với khu đầm lầy. Chàng chỉ thấy tức cười khi lúc đầu, nông dân chối từ tham gia công việc, rồi sau đó khi thấy sự bướng bỉnh của chàng, họ bắt đầu nguyền rủa ông chủ của mình và bỏ đi tới Ballylow, chỉ mang theo những thứ thiết yếu nhất.
Thấy vậy Barry bèn tuyển những người thợ từ miền bắc về, và khi cả đầy tớ gia nhân cũng bỏ tòa lâu đài ra đi, thì chàng lại phải thuê những người mới. Giờ đây xung quanh chàng toàn những kẻ xa lạ, bởi thế chàng thấy cô đơn và đã mời tôi về sống với chàng.
Sau khi nghe kể chi tiết chuyệc dân cư ở Kilderry sợ hãi điều gì, tôi cũng cả cười cùng ông bạn mình: hóa ra những mối e sợ của họ liên quan tới điều mê tín về vùng đầm lầy và kẻ canh giữ cau có nơi đây mà linh hồn của nó dường như sống ở chính trong đám phế tích cổ kính nhất mà tôi đã trông thấy lúc hoàng hôn là những mối lo sợ vớ vẫn.
Người ta cũng truyền tụng những lời đồn đại về những tia lửa ma trơi nhảy múa trong bóng tối, về những cơn gió lạnh như băng giá lúc vào đêm hè nóng nực, về những bóng ma bận xiêm y trắng lơ lửng trên mặt nước và về những thành phố đá được che dấu dưới lớp bèo xanh của đầm lầy. Đám nông dân tin chắc rằng sự trả thù đang rình rập chờ đợi kẻ nào dám phávỡ sự yên tĩnh của vùng này, hay toan tính hút khô cạn khu đầm lầy mênh mông.
Những nông dân nơi đây còn nói chớ nên động đến một số điều huyền bí ở đây. Những điều huyền bí ấy tồn tại từ thời xa xưa khi một đại họa đã ập lên đầu con cháu của vua Partholan. Trong cuốn "Chinh phục tùng thư" có kể rằng những con dân xứ Hy Lạp đã chết ở Thollat, song các cụ già ở Kilderry lại khẳng định rằng dù sao một đô thị cuối cùng cũng đã được cứu thoát bởi vị thần phù trì cho nó, là nữ thần Mặt Trăng.
Thần đã che giấu đô thị ấy trong cánh rừng rậm trên các ngọn đồi và bởi thế đã giúp tránh thoát được quân xâm lược Nemed từ xứ sở Skif đến đây trên ba chục chiến thuyền.
Chính những truyền thuyết ấy đã buộc những người nông dân rời bỏ Kilderry! Đến giờ thì tôi chẳng còn ngạc nhiên gì nữa cái ý định của Dennis Barry không đếm xỉa đến những lời đồn nhảm nhí ấy. Vả lại, chính chàng cũng có mối quan tâm sâu sắc tới thời xa xưa và chàng dự định nghiên cứu kỹ lưỡng cẩn thận vùng này sau khi tát khô đầm lầy.
Chàng thường lui tới thăm khu phế tích trên đảo: tuổi của nó rõ ràng rất xưa rồi. Di tích hoang phế ấy có lối kiến trúc khác hẳn các công trình cổ xưa khác, nhưng vì cái vẻ ngoài tàn tạ kinh khủng của nó hiện giờ, nên khó có thể hiểu được khu hoang tàn ấy đã từng là như thế nào vào thời hoàng kim của nó.
Mọi công việc bơm hút khô phải bắt đầu chuẩn bị rồi, những công nhân quê miền bắc sắp sửa dọn sạch khu đầm lầy bí ẩn khỏi rêu và bèo mầu đỏ nhạt, phá bỏ những con suối nhỏ đầy vỏ ốc, vỏ hến và làm mất đi vĩnh viễn cái mặt nước mầu xanh da trời mọc đầy lau sậy.
Sau tất thảy những biến động trong ngày tôi đã thấy mệt và muốn đi ngủ. Đêm khuya và tôi thấy khó khăn phải nghe Barry kể nốt câu chuyện của mình. Một gia nhân dẫn tôi đến căn phòng dành riêng cho tôi ở một trong những ngọn tháp nhỏ. Qua khung cửa sổ nhìn thấy khu làng, cánh rừng thưa bên đầm lầy và xa hơn chút nữa là đầm lầy.
Dưới ánh trăng tôi trông thấy những căn nhà chìm sâu trong giấc ngủ, nơi đang cư ngụ những người công nhân làm thuê từ miền bắc đến thế chỗ cho đám dân địa phương, tôi cũng thấy ngôi nhà thờ nhỏ xíu với cái nóc nhọn cổ kính, và phía xa sau cánh đầm than bùn ngái ngủ thấp thoáng khu phế tích trên hòn đảo nhỏ.
Khi đang chìm vào giấc ngủ tôi bỗng nghe thấy, hay là tôi mường tượng thấy chăng? , tiếng tiêu nhè nhẹ yếu ớt vọng từ nơi xa, thanh âm ấy là một giai điệu hoang sơ, nguyên thủy nào đó. Điệu nhạc ấy khiến tôi lo lắng một cách lạ lùng khi nó đi vào những giấc mơ của tôi. Song buổi sáng khi tỉnh giấc, tôi hiểu tiếng nhạc đó là do mộng mị sinh ra, những giấc mộng thật lạ kỳ mà nếu so sánh với chúng thì ngay những âm thanh bí ẩn của tiếng tiêu cũng trở nên mờ nhạt hẳn đi.
Có lẽ do ảnh hưởng từ những truyền thuyết do Barry kể mà tôi mơ thấy linh hồn mình lơ lửng trên cái đô thị hùng vĩ chìm trong đủ mọi loại cây xanh, nơi đây là những con đường lát đá cẩm thạch, những tòa biệt thự cùng những ngôi đền, những pho tượng, những họa tiết điêu khắc cùng những bài văn bia, tất cả đều nói lên sự vĩ đại xa xưa của xứ Hy Lạp.
Tôi đã cùng Barry cười ngất trước giấc mơ đó, nhưng tiếng cười của tôi nghe to hơn vì lúc đó ông bạn tôi đang lo lắng trước thái độ của đám công nhân miền bắc. Đã sáu ngày liên tiếp họ ngủ dậy rất muộn, họ đi lại uể oải như đang ngái ngủ, và cả hôm nay nữa họ nom như hoàn toàn chưa được nghỉ ngơi, mặc dù đêm trước họ đều đi nằm sớm.
Suốt cả buổi sáng tôi đi dạo trong ngôi làng tràn ngập ánh nắng mặt trời và nói chuyện với những người công nhân. Họ chẳng có công việc gì đặc biệt lắm để làm vì Barry đã hoàn tất mọi công tác chuẩn bị cuối cùng trước khi bắt đầu khởi sự, nhưng thâm tâm tất cả mọi người đều thấy hồi hộp, xao xuyến vì những giấc mơ bất an, khó hiểu mà họ đã thấy khi sáng sớm.
Tôi cũng kể cho họ nghe về giấc mơ lúc đêm của mình, song họ tỏ ra hờ hững khi nghe tôi kể. Chỉ mãi tới khi tôi nhắc tới tiếng nhạc ma quái kỳ lạ thì họ mới trở nên chăm chú: chính họ cũng nhớ là đã nghe thấy điệu nhạc gì tương tự.
Buổi sáng, sau bữa ăn chiều, Barry tuyên bố rằng mọi công việc sẽ bắt đầu sau hai ngày nữa. Tôi vui mừng khi nghe lời thông báo đó, mặc dù trong thâm tâm thấy tiếc nuối tất cả mọi thứ rêu và thạch thảo, mọi con suối và những cái hồ đầm nơi đây.
Nhưng cũng rất muốn được thâm nhập vào những bí mật ấp ủ hàng bao thế kỷ nay có thể được chất chứa trong lòng cái đầm lầy than bùn kia. Đêm đó, tôi lại mơ thấy tiếng tiêu réo rắt và thành phố đá cẩm thạch, nhưng lần này giấc mơ bị ngắt đoạn đột ngột và kinh sợ. Tôi đã nhìn thấy một tai họa ập tới thành phố nơi thung lũng xanh tươi ấy, một trận sụt lỡ đất đá ghê gớm đã ào tới và chôn vùi mọi sinh vật và con người.
Chỉ duy nhất ngôi đền nữ thần Arteuris ở trên đồi cao là không bị trận thiên tai khủng khiếp tàn phá. Tại ngôi đền này thần Mặt Trăng, bà Kleis, đức bà tư thế già nua đã nằm sóng sượt lạnh giá và im lặng với chiếc mũ miện bằng ngà voi trên mái đầu bạc.
Như tôi đã kể, giấc mơ của tôi bị đứt quãng. Một cảm giác lo âu khó tả cứ bám riết không rời tôi dù chỉ một khoảnh khắc. Một lúc rất lâu tôi không hiểu tôi đang ngủ hay tôi đang thức nữa. tiếng tiêu cứ tiếp tục văng vẳng trong tai.
Song khi nhìn thấy những vệt ánh trăng lạnh giá trên sàn lỗ chỗ hình bóng chấn song của khuôn cửa sổ gôtích, tôi hiểu rằng dẫu sao mình vẫn đang trong tòa lâu đài Kilderry. Khi đâu đó đàng xa có tiếng chuông đồng hồ điểm hết lần này đến lần khác thì rốt cuộc tôi thấy rõ mình không ngủ. Nhưng mọi âm thanh của tiếng tiêu vẫn tiếp tục, ấy là một điệu nhạc lạ lùng, xa xưa, nó gợi trí tưởng tượng tới những vũ điệu của các vị thần Satyr ở xứ Menadus xa xôi.
Nhạc điệu ấy không cho tôi ngủ, và thế là sau khi nhỏm dậy khỏi giường, tôi bắt đầu lo lắng đi đi lại lại trong phòng. Hoàn toàn ngẫu nhiên tôi bước tới khuôn cửa sổ phía bắc, nhìn về phía ngôi làng đang ngủ mơ màng và cánh rừng thưa bên mép đầm lầy.
Tôi hoàn toàn không định nhìn qua cửa sổ vì đang buồn ngủ chết đi được, nhưng những âm thanh của các cây tiêu đanh thổi đã hành hạ tôi đến nỗi buộc tôi phải tìm cách lãng quên nó đi. Song những gì tôi trông thấy đã khiến óc tưởng tượng của tôi phải sửng sốt.
Trên khoảng rừng thưa tràn ngập ánh trăng đang diễn ra một cảnh tượng mà một khi đã mục kích thì ai cũng phải ghi nhớ đến trọn đời vì quá đỗi kinh ngạc. Dưới tiếng tiêu vang vọng khắp trên vùng đầm lầy là những hình dạng kỳ ảo đang chuyển động nhịp nhàng và câm lặng trên khoảng rừng trống.
Lúc đầu họ đu đưa mình theo nhịp, nhưng dần dần chúng đạt tới mức khoái cảm tột độ mà thời xa xưa đã từng choán ngợp các vũ công Sicilia trình diễn vũ điệu dâng hiến thần Demeter vào đêm trăng rằm trước tiết thu phân ở gần thần Kyan.
Khoảng rừng thưa phơi rõ dưới ánh trăng suông bàng bạc, những bóng ma khiêu vũ, tiếng tiêu lanh lảnh đơn điệu, tất thảy những cái đó cùng một lúc khiến tôi gần như bị tê liệt, song dẫu sao tôi vẫn nhận ra rằng, một nửa những vũ công không hề mệt mỏi ấy là những người công nhân làm thuê mà theo sự hình dung của tôi thì nhẽ ra họ phải đi ngủ từ lâu rồi, một nửa còn lại là những con ma kỳ lạ bận đồ trắng, với chút ít đầu óc tưởng tượng thì có thể coi chúng là các nữ thần sông suối đang sống ở những chiếc hồ nhỏ vốn nuôi dưỡng cả khu đầm lầy.
Tôi không biết đã đứng bên cửa sổ bao lâu để ngắm nhìn cảnh tượng ấy, chỉ nhớ vào một thời khắc nào đó, tôi bỗng chìm vào một giấc ngủ sâu nửa ngất lịm mà chỉ có ánh sánh chói lòa của mặt trời mới đưa tôi ra khỏi trạng thái ngủ mê mệt ấy thôi.
Niềm mong muốn đầu tiên của tôi khi thức dậy là đi tìm Dennis Barry để kể lại cho chàng giấc mơ quá đỗi sửng sốt kia, nhưng dưới ánh mặt trời mọi sự nom khác hẳn, và tôi bèn tự nhủ đó chỉ là một giấc mơ.
Có thể tôi đã bị ảo giác, nhưng ảo giác ấy đâu mạnh đến nỗi khiến tôi không còn kiểm soát nổi mình nữa và cho rằng tất cả những gì trông thấy chỉ là giấc mơ. Tôi chỉ giới hạn ở việc gặng hỏi những người công nhân, nhưng quả như tôi đã tiên liệu, họ chẳng hề nhớ điều gì đặc biệt, ngoài tiếng nhạc.
Tôi đã suy nghĩ hồi lâu về những âm thanh lạ lùng đó, tôi đoán chừng phải chăng lủ dế đã cất lên bài ca mùa thu của chúng sớm hơn thời điểm tự nhiên đã khiến cho người ta phải bồi hồi xao xuyến. Đến trưa tôi gặp Barry đang xem xét một lần nữa các bản vẽ của mình trước khi khởi sự công việc.
Như vậy, sáng mai các công nhân sẽ bắt tay vào việc... Lần đầu tiên tôi thấy tim mình thắt lại vì khiếp sợ, và đã hiểu vì sao nông nhân chạy trốn khỏi nơi đây. Vì một lý do mơ hồ nào đó tôi cũng thấy không chịu nổi với ý nghĩ rằng có ai đó sẽ quấy rầy, phá bĩnh khu đầm lầy cổ xưa này với biết bao điều huyền bí của nó được ẩn giấu khỏi ánh sáng mặt trời.
Tôi bỗng hình dung ra những bức tranh kỳ ảo dưới lớp than bùn dày hàng thế kỷ này. Không nên bất cẩn mà phô bày cho bàn dân thiên hạ thấy tất cả những gì đã được giấu kỹ ở nơi đấy suốt bao thế kỷ như thế.Tôi những muốn tìm ra một nguyên cớ tiện lợi để từ giã khu lâu đài và cả chính ngôi làng này.
Thậm chí tôi định nói về việc đó với Barry, nhưng tôi nhanh chóng kìm được vì bối rối trước tiếng cười nhạo báng của chàng. Tôi im lặng quan sát vầng mặt trời đang tỏa những sắc màu rực rỡ lên những ngọn đồi xa và tỏa xuống Kilderry thứ ánh sáng chói lọi màu vàng đỏ, một hiện tượng có vẻ như điềm gở.
Tôi không biết những sự kiện diễn ra đêm qua là trong mơ hay thực. bất luận thế nào đi nữa thì một trí tưởng tượng tinh tế nhất cũng không tài nào có thể sản sinh được điều gì hơn thế. Chẳng hạn, tôi không đủ sức nghĩ ra những lời giải thích tỉnh táo và hợp lý cho cái lẽ là sau đêm ấy mọi người trong lâu đài và khu làng đã biến đi đâu mất.
Tôi về phòng mình sớm, nhưng trong lòng nặng trĩu những dự cảm nặng nề nên không tài nào ngủ được. Sự im lặng báo điều dữ ngự trị trong ngọn tháp xa này cứ hành hạ tôi. Mặc dầu trời tối nhưng quang đãng: những ngày này là lúc trăng hạ huyền và trăng mọc rất muộn.
Tôi nằm và suy nghĩ về Dennis Barry, về những gì sẽ xảy ra với đầm lầy khi trời sáng, và cuối cùng những trăn trở ấy đã đẩy tôi tới trạng thái khiến tôi saÜn sàng vùng dậy, ngồi vào chiếc ô tô của bạn tôi, chủ nhân tòa lâu đài, lao thẳng tới Ballylow và thoát khỏi cái chốn đáng nguyền rủa này.
Nhưng, chưa kịp đi đến quyết định cuối cùng thì tôi đã ngủ thiếp đi. Thế là trong cơn mơ tôi lại thấy thành phố nơi thung lũng, ảm đạm và thẩn thờ vì mối đe dọa diệt vong đang lơ lửng trên đầu.
Có thể tôi lại bị đánh thức bởi những âm thanh của tiếng tiêu, song sau khi tỉnh dậy thì không phải tiếng nhạc làm bận trí tôi. Tôi nằm quay lưng về phía cửa sổ hướng đông nơi mặt trăng sắp mọc và bởi vậy tôi chờ đợi được nom thấy ánh hồi quang của trăng trên bức tường đối diện.
Nhưng tôi đã nhìn thấy một sự khác hẳn. Trên tường có những vệt sáng, nhưng đó không phải những hồi quang do ánh trăng phản chiếu. Tôi kinh sợ khi hiểu rằng đó là ánh sáng đỏ tươi lọt qua khuôn cửa sổ gô tích. Nó tràn ngập cả căn phòng bằng một ánh hào quang chói chưa từng thấy. Hành vi lúc đó của tôi thực đáng sợ, và điều này chẳng có gì đáng ngạc nhiên vì chỉ có nhân vật trong sách mới xử sự một cách có tính toán tỉnh táo trong tình huống như thế.
Thay vì nhìn xuống vùng đầm lầy để hiểu xem nguồn ánh sáng mới ấy từ đâu đến thì tôi thậm chí không quay lại phía cửa sổ mà liền vội vã mặc quần áo với niềm hy vọng mơ hồ nhanh chóng trốn chạy khỏi nơi đây. Tôi nhớ là đã mang theo khẩu súng lục và cái mũ, nhưng chúng chẳng hề hữu dụng cho tôi.
Tôi đã đánh mất cả hai sau khi chẳng bắn được phát nào và cũng chẳng đội đến mũ. Dẫu sao trí tò mò vẫn mạnh hơn sự kinh sợ, cho nên tôi lén bước tới cửa sổ để nhìn vào vầng hào quang đỏ sậm khó hiểu kia, tôi vươn người ra ngoài và đúng phút ấy tiếng tiêu cất lên đến váng tai, khắp tòa lâu đài và ngôi làng tràn ngập những thanh âm ấy.
Dòng ánh sáng rực rỡ màu đỏ sậm báo điều gở ấy xoáy thành tia trên mặt đầm lầy, nó phát ra từ đống phế tích hoàn toàn bí ẩn trên hòn đảo. Song khu hoang phế ấy đã thay đổi một cách lạ lùng.
Tôi thật khó lòng mô tả được điều gì xảy ra, có thề tôi hóa điên, song tôi cảm thấy ngôi đền lại đang tọa lạc nơi đó với toàn bộ vẻ đường bệ oai nghiêm của nó mà chưa hề bị một thời gian làm phôi pha với những cây cột bao quanh.
Những ánh hồi quang của ngọn lửa đang cháy trên mặt đá cẩm thạch của mũ cột vươn lên cao. Tiếng sáo ngân lên, tiếng trống vang vọng và trong khi tôi như một kẻ bị mê hoặc nhìn ngắm cảnh tượng ấy thì trên những bức tường cẩm thạch được chiếu sáng rõ bắt đầu xuất hiện hình dáng các vũ công. Tất cả những cảnh ấy nom thật phi thường khó tin là thật, ấn tượng tác động thật vô cùng sửng sốt.
Tôi đứng lặng người tại chỗ, không thể rời mắt khỏi bức tranh kỳ dị, đồng thời ở bên trái tôi vang lên rất to tiếng tiêu dồn dập. Trong cơn phấn khích khó hiểu và choáng ngợp những dự cảm nặng nề, tôi liền băng ngang phòng đến chỗ cửa sổ phía bắc mà từ đó ngó thấy ngôi làng và cánh rừng thưa.
Chính đó là điều mà tôi đã thấy trước đây và lý trí của tôi đã chối từ chấp nhận và hiểu thấu, nhưng bây giờ thì tôi sửng sốt vô chừng: dọc theo cánh rừng thưa đẫm ánh sáng màu đỏ máu đang chầm chậm chuyển động một đoàn diễu hành mà có lẽ chỉ có thể hiện trong cơn ác mộng mà thôi.
Lúc thì trượt trên mặt đất, lúc thì trôi trong không khí, những bóng ma đầm lầy chậm rãi đi theo hướng dẫn tới vùng hồ đầm lầy êm đềm nước lặng và đi tiếp tới khu phế tích, những bóng ma ấy choàng những bộ đồ mầu trắng, chúng cứ đi và tạo ra những hình thù phức tạp, dường như đang biểu diễn một điệu vũ nghi lễ cổ xưa.
Những cánh tay không chút thịt da của chúng lắc lư nhẹ theo nhịp giai đệu the thé xé màng tai của những cây sáo vô hình, những cánh tay ấy mời chào, thu hút theo chúng cả những người công nhân làm thuê mà giờ đây đã xếp thành hàng lần lượt đi sau một cánh mù quáng và tuân phục như những chú chó ngoan, dường như họ phải phục tùng một sức mạnh ma quỷ nào đó.
Khi các nữ thần sông suối đi đến đầm lầy thì những nạn nhân mới đi ra khỏi lâu đài, họ lảo đảo với bộ điệu yếu đuối, xiêu vẹo, Họ xuất hiện từ chiếc cửa ra vào nằm ngay dưới cửa sổ phòng tôi, họ đi qua khu sân như đang trong cơn mơ ngủ, sau đó theo con đường làng hẹp họ tiếp nối hàng công nhân đang đi lảo đảo ở quãng cánh rừng thưa.
Mặc dù có một khoảng cách giữa tôi với họ nhưng tôi hiểu ngay rằng đó là những gia nhân đến đây từ miền bắc, thậm chí ở một trong số những hình người quái đản và thê thảm nhất tôi đã nhận ra chị đầu bếp mà những cử động vụng về bình thường của chị ta lúc này với tôi thật bi thảm.
Những cây sáo vẫn phát ra những thanh âm khó mường tượng như trước, và từ phía hòn đảo lại vang lên tiếng thôi thúc giục giã của những chiếc trống, và chính lúc này các nữ thần sông suối chầm chậm và duyên dáng bước xuống làn nước của khu đầm lầy cổ xưa.
Còn những người đi theo sau các nữ thần ấy không hề chậm bước cũng bắt đầu xuống nước và chẳng bao lâu mất hút dưới làn nước vô tình. Trong ánh sáng hồng trên mặt đầm lầy thật khó nhận ra những vệt bong bóng khí lan trên nước. Người cuối cùng mà vực thẳm kia nuốt chửng là chị bếp béo, con người đã gợi nên nơi tôi sự thương cảm.
Khi chị ta khuất hẳn dưới làn nước thì những cây sáo cùng trống im hẳn, cái ánh sáng do đống phế tích phát ra làm chói mắt cũng tắt; ngôi làng lại lặng đi trong ánh sáng thanh bình của vầng trăng vừa mọc.
Tôi hoàn toàn bối rối. Liệu tôi có mất trí hay không đây? Tôi đang ngủ chăng? Liệu có phải những điều đó đã xảy ra trên thực tế hay không? Tôi nghĩ chính sự sững sờ mà tôi bất ngờ chìm đắm vào đã cứu tôi khỏi cái số phận bi thảm chung cho đám người ấy. Có lẽ tôi đã cầu nguyện thần Arteuris, thần Latona, thần Persephone và thần Pluto.
Tóm lại tôi đã cầu xin tất cả các vị thần mà tôi nhớ được trong văn học cổ điển, nỗi kinh hoàng vừa nếm trải đã biến tôi thành một kẻ mê tín. Tôi hiểu rằng tôi đã trở thành người chứng kiến cái chết của cả làng, không còn nghi ngờ gì nữa: trong tòa lâu đài chỉ còn lại có tôi và Dennis Barry, chính sự khinh suất rồ dại của chàng đã dẫn đến thảm họa.
Khi nghĩ về chàng thì trong tôi lại choáng ngợp nỗi khiếp đảm đến nỗi đôi chân khuỵu ngã xuống và tôi ngã lăn trên sàn nhà, mặc dầu tôi không hề bị ngất. Bất thình lình tôi cảm thấy một cơn gió lạnh buốt từ phía đông nơi mặt trăng vừa mọc và tôi cũng nghe thấy những tiếng kêu tuyệt vọng ở tầng dưới của tòa lâu đài.
Chẳng bao lâu sau tiếng kêu chuyển thành tiếng la hét thất thanh ghê gớm đến mức bây giờ tôi cũng còn thấy kinh hoàng khi nghĩ đến tiếng la hét ấy. Tôi có thể nói ngay rằng đó chính là tiếng gào thét của ông bạn tôi.
Có lẽ, làn gió lạnh giá và những tiếng kêu khủng khiếp đã buộc tôi phải đứng dậy bởi vì, như tôi còn nhớ, tôi chạy hồi lâu dọc các căn phòng tăm tối và các dãy hành lang tối om cho đến khi lọt ra bên ngoài. Người ta tìm thấy tôi lúc rạng sáng cách Ballylow không xa.
Tôi đã đi lảo đảo như một kẻ không nhà không cửa, miệng lẩm bẩm điều gì trong trạng thái hoàn toàn mê man. Sự cố cuối cùng tôi thấy ở Kilderry đã đẩy tôi tới trạng thái khốn đốn cùng cực đó. Cái cảnh ấy thật quái đản, ghê sợ đến nỗi tôi sẽ không bao giờ quên được cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay. Cảnh đó luôn luôn hiện lên trước mắt tôi nếu tôi bất thần đứng gần một đầm lầy vào đêm trăng nào đó.
Vậy là sau khi rời bỏ tòa lâu đài khủng khiếp, đang phóng đi dọc bờ đầm lầy bỗng nhiên tôi nghe thấy những âm thanh gì mới lạ, chẳng có gì đặc biệt, nhưng ở đây, tại Kilderry, thì cho đến nay tôi chưa bao giờ nghe thấy. Làn nước tù hãm mà trong đó chẳng có chút sinh khí nào giờ thật khoái hoạt, sinh động.
Mặt đầm lầy nhung nhúc biết bao những con ếch kềnh kêu ồm ộp liên tục. Ánh trăng lấp lóa hai bên lườn phồng mọng màu xanh của chúng, nhưng ánh sáng còn tia ra từ một nguồn sáng, và có lẽ những con ếch kềnh ấy đang chú ý dõi nhìn về phía tia sáng ấy. Tôi theo dõi một con ếch đặc biệt béo mỡ và xấu xí và nhìn thấy chính cái điều đã khiến tôi hoàn toàn mê muội.
Một tia sáng nhấp nháy yếu ớt không phản chiếu trong mặt nước đầm lầy trải dài từ công trình bí ẩn trên hòn đảo nhỏ tới vầng trăng khuyết. Còn tôi thót tim khi nhìn thấy trên con đường mòn nhợt nhạt chết chóc một hình người quằn quại, một cái bóng mờ ảo đang cố sức cưỡng lại những con quỷ vô hình đang kéo cái bóng đó theo sau. Có thể là tôi điên, nhưng cái bóng dáng đó, một bức biếm họa quái đản man dại, đã khiến tôi nhớ một cách lạ lùng đến con người đã từng là Dennis Barry.
ST
Người bán đồ cổ vừa xoa xoa hai lòng bàn tay vào nhau và nói:
- Thưa ông chính cái rương này từ Ấn Độ gởi qua. Đây là loại gỗ quý gỗ này thật đặc biệt hiếm.
Maax với giọng hơi ngập ngừng:
- Được rồi. Tôi sẽ mua vật này mà. Chính lúc bước chân vào tiệm Maax đã để ý đến cái rương này, cái rương làm toàn bằng gỗ một màu đen nhánh, lại có những đường gân trắng nổi lên trên rất đặc biệt.
Mặt rương nổi lên màu sắc địa phương của nó. Hơn nữa kích thước của nó rất vừa ý Max. Rương rộng lối sáu tấc, dài mười tám tấc, cao lối chín tấc. Khi Maax đoán biết chủ tiệm sẳn sàng bán rương với giá mười hai dollars, thì ý muốn của chàng là xỉa tiền mua ngay vật quý này.
Tuy nhiên Maax lại lưỡng lự vì theo ý của chàng giá bán sao rẻ quá, hơn nữa khi giá cả đã ngã ngũ, trông mặt mày chủ tiệm có vẻ thoải mái thấy rõ. Phải chăng loại gỗ đóng rương không phải là loại gỗ quý ?
Hay là cái rương này có điểm nào tệ đây ? Nhưng rồi... việc mua bán đã xong xuôi tiền đã giao, qua ngày mai dù Maax đổi ý thì sự việc cũng đã quá trễ rồi.
Trông mặt gỗ rất bóng không một đường rạn nứt nào cả. Nhìn chung cái rương trông rất đẹp ! Nắp rương đậy kín. Cái chìa khóa lớn dùng để mở trông rất gọn và lúc mở cũng không nghe tiếng động lớn. Maax tỏ ý vừa lòng.
Mỗi ngày chàng để ý lau chùi bụi bặm bám trên mặt rương. Đem về nhà chàng đặt rương vào một góc phòng. Maax nghĩ thầm khi phải dọn nhà đồ vật này đối với chàng rất là tiện. Vả lại trong lúc này, chính cái rương quý này làm cho căn phòng của Maax giá trị thêm lên.
Nhiều tuần lễ trôi qua. Thỉnh thoảng Maax lại đưa mắt ngắm xem cái rương quý. Nhưng về sau lâu ngày Maax ít để ý đến. Một tối nọ một sự việc bất ngờ khác lạ xảy đến làm cho Maax suy nghĩ rất nhiều. Trong lúc ngồi vào chiếc ghế bành im lặng đọc sách, không hiểu vì lẽ gì, Maax đưa mắt ra khỏi trang sách nhìn về phía góc phòng nơi đặt gương. Một ngón tay dài xanh xao thò ra khỏi nắp rương.
Maax ngồi lặng thinh trong chiếc ghế bành, tâm trí như bị tê liệt vì quá sợ hãi trong thời gian lâu từ hai đến ba phút, cặp mắt không rời khỏi mặt rương. Rõ ràng là một ngón tay thật dài xanh xao, lóng tay không được suôn sẻ, đầu ngón tay là cái móng bầm đen.
Qua những phút sợ hãi lúc này đến phút giận dữ ngón tay đó vẫn đứng yên. Hiện tượng ấy thật kỳ quái. Buổi tối yên lặng của chàng bỗng nhiên bị phá tan bởi sự xuất hiện ngón tay dị kỳ đó. Maax liền lấy cuốn sách quăng mạnh về phía chiếc rương. Ngón tay biến mất Maax không còn trông thấy gì nữa.
Chàng đưa cao ngọn đèn rọi ánh sáng về phía góc phòng rồi bước mau về phía cái rương, đột ngột mở nắp rương. Bên trong không có gì cả. Chàng đậy nắp rương lại lượm cuốn sách cầm tay, trở về chỗ cũ ngồi vào ghế.
Phải chăng trong mấy ngày qua chàng đọc sách quá nhiều nên bị hoa mắt. Chàng giả vờ tiếp tục đọc sách lại nhưng chốc chốc chàng lại đưa mắt về phía góc phòng cho đến khi không nhận thấy có gì kỳ lạ xảy ra, lúc đó chàng mới lên giường ngủ.
Nhưng suốt ba bốn ngày sau đó hiện tượng kỳ quái kia cứ ám ảnh mãi trí óc Maax. Chàng không dám về khuya và bắt đầu đọc sách ít lại. Trong tuần lễ đầu, chàng đinh ninh là mắt chàng bị quá mệt, nên làm cho chàng nhìn ra hiện tượng kỳ lạ đó.
Bắt đầu tuần lễ thứ hai nghĩ rằng thị giác đã được nghỉ ngơi vừa sức, chàng mua về nhiều tạp chí và bắt đầu mải mê đọc. Đọc được vài trang Maax ngước mắt nhìn về phía chiếc rương nhưng cũng không thấy gì lạ xảy ra.
Ngồi vững vàng vào chiếc ghế bành Maax chăm chú đọc suốt cả tiếng đồng hồ. Đọc hết một cuốn định đọc qua một cuốn khác, chàng đưa mắt về phía chiếc rương... Cái ngón tay dài xuất hiện bất động, lóng tay không được suôn sẻ móng tay màu bầm đen.
Maax cố ý cưỡng lại ý muốn chạy sang phòng bên cạnh, đưa tay về hướng chiếc bàn đặt gần chiếc ghế bành, sờ soạng tìm lấy cái gạt tàn thuốc, nhưng cặp mắt chàng vẫn không rời khỏi chiếc rương.
Bàn tay chàng đã nắm được cái gạt tàn thuốc, lúc này chàng từ từ đứng dậy nhẹ nhàng đi tới góc phòng. Lúc chàng bước tới cái rương với khoảng cách chừng một thước thì ngón tay kia cũng biến mất. Maax mở nắp rương ra. Bên trong rương không có gì cả !
Trí óc Maax đảo lộn. Chàng trở về chổ cũ ngồi vào ghế. Tuy lúc này cái ngón tay quái dị kia không xuất hiện nữa, nhưng chàng cũng không xua đuổi khỏi trí óc được hình ảnh ghê rợn lúc này. Trước khi lên giường ngủ một ý nghĩ mới đên trong óc chàng: Sẽ tìm cách thủ tiêu cái rương này !
Maax vẫn khỏe mạnh. Thật ra hiện tượng kỳ quái đó không phải xuất phát từ thị giác của Maax mà chính là ở cái rương kỳ dị kia. Chàng nhớ lại những chuyện đã qua. Trước hết là cái rương đã bán giá quá rẻ. Thứ hai là chủ tiệm đã tỏ ra vui mừng khi bán được món hàng mà hắn ta cho là rất quý. Nhưng Maax vẫn tin mình. Chàng tự hỏi không biết chàng có bị rối loạn thần kinh không ?
Sáng hôm sau trước khi đi làm việc, chàng nhờ chủ nhà cho người chở nó đi, vất nó vào nơi chứa đồ phế thải thủ tiêu bằng cách hỏa thiêu nó. Nhưng buổi chiều hôm ấy khi trở lại phòng trọ, vật đầu tiên trong căn phòng đập vào mắt chàng lại là cái rương ma quái đó.
Vừa sợ hãi vừa tức giận, Maax vội vàng tìm chủ nhà tra hỏi lý do nào mà bà ta không chịu nghe lời chàng. Bà chủ nhà ôn tồn giải thích cho chàng nghe là cái rương còn tốt quá lại bằng gỗ quý, đem rương bỏ vào chỗ chứa đồ phế thải uổng phí quá. Hơn nữa không có một bác phu rác nào mất trí đến nỗi đang tay châm lửa đốt một chiếc rương trông đẹp như vậy được.
Nghe lời giải thích đó Maax xin lỗi bà chủ nhà trở về phòng. Chàng ngồi vào chiếc ghế bành và bắt đầu nhìn không chớp mắt vào chiếc rương. Chàng nghĩ thầm là nếu không còn có một việc gì xảy ra nữa thì chàng vẫn giữ lại chiếc rương, còn trái lại lần này Maax sẽ cương quyết tìm cách thủ tiêu nó.
Tối hôm đó Maax định đi dự một buổi hòa nhạc nhưng một trận mưa dai dẳng giữ chàng ở lại trong căn phòng của chàng. Trước khi ngồi vào ghế đọc sách, Maax bước lại góc phòng lấy chìa khóa trong túi áo khóa rương lại. Cuộc thí nghiệm lần này sẽ quyết định dứt khoát cho ý định của chàng.
Trong lúc đọc sách chốc chốc Maax lại đưa mắt về phía chiếc rương. Nhưng không có gì xẩy ra trước mười một giờ đêm cả. Đến lúc chàng đặt sách xuống, chàng liếc mắt vào góc phòng nhìn lên cái rương: Ngón tay kỳ lạ kia lại xuất hiện. Và cái ngón tay dài xanh xao, thay vì bất động lần này dường như ngón tay đó đang cử động. Ngón tay run run tuồng như đang cào vào mặt gỗ với cái móng đen bầm của nó.
Maax tập trung tất cả can đảm cầm cái gạt tàn và bước lại góc phòng. Ngón tay ma quái bỗng biến mất đúng vừa lúc chàng đưa tay định ném thật mạnh cái gạt tàn thuốc vào chiếc rương. Tim chàng đập thình thịch. Chàng mở nắp rương. Bên trong vẫn trống không.
Lúc này chàng nghĩ đến cái chìa khóa chàng để ở túi áo. Một cảm giác ghê rợn đến dựng tóc gáy. Cái chìa khóa để trong túi áo đã biến mất nhưng lại thấy nằm ở ổ khóa. Chàng lẩm bẩm nghĩ rằng có lẽ chàng đã mất trí. Maax lại khóa chặt rương lần nữa trở lại ngồi vào ghế, nhìn chằm chằm vào chiếc rương ma quái cho mãi đến hai giờ sáng.
Cuối cùng vì quá mệt mỏi trí óc bị đảo lộn, Maax lên giường ngủ. Trước khi tắt đèn chàng để ý là nắp rương đã được đậy kín và được khóa kỹ. Khi chàng đã thiu thiu ngủ bỗng một cơn ác mộng chợt đến. Trong giấc ngủ chàng nghe như có tiếng cào gỗ làm cho chàng thức dậy.
Thắp một cây nến chàng đưa mắt về phía trước rương. Cái ngón tay dài lại hiện lên trước mặt rương và đang cựa quậy mạnh. Ngón tay đó lúc lắc trở lại thật mạnh cào lên mặt rương, với chiếc móng bầm đen. Nhưng dường như nó thấy sự xuất hiện của chàng nên bỗng nhiên nó dừng lại. Và... từ từ ngón tay đó ra hiệu cho Maax lại gần.
Quá sợ hãi Maax không thể vâng lời được. Chàng đặt cây nến xuống bàn và chân bắt đầu bước giống hệt như một người máy. Ngón tay kỳ dị đó như kéo chàng lại gần, chàng giống như một thỏi sắt bị nam châm hút. Đúng vừa lúc Maax bước lại gần chiếc rương thì ngón tay kỳ dị đó rút vào, và nắp rương tự nhiên mở lên.
Maax lúc nào cũng bị một sự sợ hãi quá mức thôi miên, chàng bước vào lòng rương ngồi khom mình, đầu gối chống cằm rồi ngã cả thân mình xuống lòng rương. Nắp rương tự nhiên đóng sập mạnh và chiếc chìa khóa tư động quay một vòng trong ổ khóa..Maax hoảng hốt thức dậy hét lên một tiếng ghê rợn. Chàng ngồi thẳng người trên giường, mồ hôi chảy dầm dề trên trán. Maax qua sợ vội trùm cả tấm ra lên đầu và nằm như vậy cho đến sáng.
Trời sáng tỏ lấy lại bình tĩnh Maax rời khỏi căn phòng đi pha cà phê uống. Hôm ấy chàng không đến sở mà lại tìm đến nhà một khu phố đổ rác, mà lâu nay chàng từng nhờ cậy người này giúp trong nhiều công việc. Chàng dặn dò bác phu thật kỹ về những điều chàng muốn thực hiện. Chàng trao cho bác phu số tiền mười dollars và còn hứa sẽ trao thêm tiền khi xong việc.
Buổi chiều hôm ấy. Maax trở lại căn phòng riêng của chàng lòng rất tự tin nhưng vừa bước vào căn phòng, chàng cảm thấy như quả tim mình thoát ra khỏi lồng ngực.
Trái với lời dặn của chàng bác phu đổ rác vẫn chưa chịu khiêng cái rương đi vất bỏ. Lần này Maax tỏ ra vô cùng thất vọng hơn là nổi cơn giận lôi đình. Chàng bước ra ngoài gọi điện thoại liên tục cho bác phu đổ rác. Ông này lựa lời xin lỗi, lấy cớ là chiếc xe của ông bị hỏng máy đúng vào lúc ông chuẩn bị đi làm phận sự. Ông đã phải bỏ hết cả ngày sửa chữa xe và xin hứa qua ngày hôm sau sẽ đến sớm để lo tròn công việc.
Maax không biết làm gì hơn buông thỏng hai tiếng "cảm ơn" và đặt điện thoại xuống. Chàng không muốn trở lại căn phòng riêng của mình mà tạt vào một quán trong khu phố ăn trưa rồi đi xem chiếu phim luôn.
Ở rạp chiếu phim ra Maax lại tạt vào một quán cà phê, ngồi cà kê mãi cho đến nửa đêm mới về căn phòng của chàng. Cơn ác mộng đêm hôm trước vẫn còn ám ảnh trí óc nên dù đêm qua ngủ rất ít nhưng đêm nay chàng vẫn chưa nhắm mắt được, vì thế chàng cảm thấy rất mệt mỏi.
Sau khi xem kỹ là nắp rương được đóng kín, Maax cẩn thận đặt chìa khóa ở dưới gối nằm rồi nhắm mắt ngủ. Vài giờ sau đó Maax bỗng thức dậy ngồi lên một cách tỉnh táo. Tim chàng đập mạnh hơn lúc nào hết. Trong một phút định thần chàng tự hỏi vì sao chàng lại ngồi dậy như thế này.
Có tiếng cào lên mặt gỗ nghe rõ mồn một ở phía góc phòng. Tay chân của chàng run rẩy chàng nhẩy xuống giường đưa tay ấn nút mở sáng chiếc đèn làm việc ban đêm đặt trên bàn. Không có ánh sáng tỏa ra. Bóng đèn bị cháy hay dòng điện bị cắt đứt ?
Chàng mở hộc bàn đưa tay quờ quạng tìm cây nến. Trong lúc chàng sờ soạng tìm nến và diêm thì tiếng động tăng lên gấp đôi, gấp ba đến nỗi nghe tưởng chừng như vang dội hết cả căn phòng.
Toàn thân Maax run rẩy, mỗi sợi lông trên thân mình như đứng lên nhưng chàng cũng lấy hết can đảm, tay cầm cây đèn cầy và nhẹ nhàng bước tới chiếc rương.
Ngón tay kỳ lạ đó trông càng dài ra và gõ liên hồi trên nắp rương. Với nhịp điệu dồn dập tiếng gõ vang ra hết cả mặt rương, có khi cái móng tay bầm tím đó lại cào mạnh lên mặt gỗ.
Khi Maax bước lại gần ngón tay kỳ lạ đó bỗng đứng yên rồi nằm dài theo mép rương. Maax kinh hoàng khi nghĩ rằng ngón tay ma quái đó đã trông thấy chàng nên mới ngừng họat động và ngón tay đó đang nhìn chằm chằm vào chàng. Và khi Maax đã đứng giữa căn phòng, lạ lùng thay ngón tay đó giơ lên và hình như đang ra dấu hiệu cho chàng lại gần hơn.
Maax quá kinh sợ khi nhớ lại cơn ác mộng chàng vừa trải qua. Lúc này chính chàng không chịu đựng nỗi sự sợ hãi đó nữa. Chàng vẫn bước tới trước, cử chỉ hành động giống như một người mắc bệnh mộng du.
Sáng hôm sau hai người phu đổ rác bước theo chủ nhà của Maax vào phòng chàng. Maax đã rời khỏi phòng từ lúc nào có lẽ chàng đi làm việc, nhưng hai người phu đổ rác đã biết rõ công việc của họ sẽ phải làm.
Chiếc rương được khóa kỹ vẫn nằm ở góc phòng, không có chìa khóa nằm trong ổ khóa. Bên cạnh rương người ta thấy dấu vết một cây đèn cầy đã cháy rụi. Người chủ nhà tỏ ý không hài lòng. Bà ta lên giọng tỏ ra bực bội:
- Đấy hành động đó chỉ nhằm đốt nhà người ta. Tôi sẽ nói cho ông Maax biết về sự sơ xuất đó. Quả thật đáng trách.
Hai người phu đổ rác đang hì hục khiêng chiếc rương, không để ý đến lời nói của bà chủ nhà. Một người than:
- Bộ cái rương này bằng chì hay sao ? Từ trước đến nay, tôi chưa bao giờ khiêng một cái rương trống mà nặng như thế này.
Bà chủ nhà nói dặn thêm:
- Ấy cái rương này được đóng bằng loại gỗ rất chắc...
Khi chiếc xe chạy tới ven đô, đúng nơi vứt bỏ những đồ phế thải một người phu nói:
- Tôi không hiểu vì sao cái thằng cha này lại đem bỏ đi một cái rương trông đẹp như thế này.
Bạn của anh ta trả lời:
- Tôi thì biết rõ đầu đuôi sự việc. Chẳng là anh chàng mua cái rương này của Jason Kinkle mà Kinkle thì chẳng bao giờ kể rõ lai lịch cái rương cho chàng ta biết... Vì lẽ đó mà chàng ta không muốn giữ cái rương này trong căn phòng của chàng nữa.
- Nhưng lai lịch cái rương đó ra sao ? Anh có biết không ?
Anh phu đổ rác tự cho mình biết rõ câu chuyện không thèm trả lời cho bạn ngay lúc đó, nhưng khi cái rương đã được đẩy xuống đất chàng mới chậm rãi:
- Cái rương này được đem bán ở tiệm bán đồ cũ. Người chủ của nó trước tiên là Stubberton...
Vừa nói đến đây người phu đổ rác thứ hai cướp lời:
- Stubberton. Có phải anh chàng bị giết chết bằng cách bỏ...
- Phải rồi. Bằng cách bị đem nhốt vào rương. Đúng vậy. Chính cái rương mà chúng ta vừa mới chở trên xe đó!
Cả hai im lặng một hồi lâu. Họ tiếp tục tìm cách xê dịch cái rương lại gần một cái giếng không còn dùng nữa, thành giếng đã bể nát, đáy giếng chứa đầy một thứ nước bẩn. Người phu đổ rác đưa tay lau mồ hôi đổ giọt trên trán đoạn tiếp lời:
- Lúc người ta cạy cái rương ra thì xác nạn nhân trông đen xám xịt lại. Người ta thấy một ngón tay mắc kẹt ở nắp rương gần nơi ổ khóa nhưng ngón tay ấy cũng không cứu được mạng sống của nạn nhân.
Nghe bạn kể câu chuyện ma quái đó, người phu đổ rác thứ hai tỏ ra sợ hãi nói lớn:
- Thôi phải thủ tiêu nó gấp, cái thứ này chỉ mang xui xẻo đến cho chúng ta mà thôi.
Người kia đáp nhanh:
- Đồng ý giúp tôi một tay mau lên.
Hai người lấy hết sức lực đẩy rương xuống đáy giếng. Cái rương trong phút chốc rơi xuống mặt nước đen xì làm tung một ngọn nước lên cao gần miệng giếng...
Một người lên tiếng:
- Thế là yên chuyện chúng ta lại được thêm mười dollars.
Nhưng rồi... một sự việc lạ lùng xảy ra. Hai người phu đổ rác không bao giờ hy vọng nhận thêm số tiền mười dollar đó nữa vì kể từ ngày hôm đó, Maax bỗng biệt tích, không ai gặp chàng mà cũng không có ai nhắc đến tên chàng nữa.
Hai người phu đổ rác trình nội vụ tại cảnh sát cục. Bà chủ nhà không biết tên hai người phu đổ rác, hơn nữa, bà cũng không hay biết gì thêm tin tức Maax nên bà cũng chẳng giúp ích gì được cho hai người.
Về sau cảnh sát chỉ biết trả lời một cách lờ mờ về trường hợp của Maax. Họ nói có lẽ anh chàng đã đổi tên và đổi chỗ ở.
Josephpayne Brennan
CĂN PHÒNG ÁP MÁI
Họ dò dẫm trên chiếc cầu thang ọp ẹp dẫn lên căn phòng áp mái bụi bặm. Alastair cẩn thận đặt từng bước lên lối đi hẹp về phía căn buồng. Anh ta đẩy hai cánh cửa khép hở ra.
- Hãy tự nhiên như ở nhà.
Anh ta nói, vẫy họ vào qua cánh cửa bên phải.
- Cánh cửa kia vào buồng người hầu, nay mẹ tôi dùng chứa đồ tạp nham. Nếu cần mời anh sang đấy xem qua.
Bên trong căn buồng ngủ đêm của anh tối mịt, ngoại trừ chút ít ánh sáng yếu ớt mùa đông hắt vào qua ô cửa sổ bé xíu duy nhất. Anh bước về phía đó sát góc buồng, mặt biển trải rộng ngút tầm mắt.
Alastair cúi xuống bật đèn bàn.
- Nguồn ánh sáng duy nhất.
Anh ta nói:
- Tôi hy vọng nó đủ sáng.
Anh đặt va ly xuống giường.
- Còn một chiếc đài nữa. Có thể làm anh vui được.
- Cám ơn.
Anh nhìn chiếc đài cổ lỗ thô kệch.
- Dù sao cũng xuống nhà làm ngụm nhỏ đã, trước khi ăn tối. Mẹ tôi muốn gặp anh lắm, gặp người đến bắt con ma ở Drumkattle này. Hay anh muốn xem trước ?
- Tôi xem qua mấy phút thôi.
Anh cẩn thận rà soát cánh cửa, ổ khóa to chìa khóa cắm bên ngoài. Then cửa bên trong khá to đã gỉ sét. Anh ngó qua cái tủ tường ở góc buồng to bằng một gã đàn ông. Ngó ra sau lưng nó những tấm gỗ vẫn còn chắc chắn. Anh ngồi xuống giường nhún lên nhún xuống, nhìn vào gầm giường.
- Được rồi, anh nói.
- Sẽ xong thôi.
- Tốt quá. Thôi xuống nhà đi.
- Ta quên một thứ, Duncan nói:
- Chiếc chuông..
- Đúng rồi.
Alastair vươn về phía trước túm lấy sợi dây treo từ trên trần dài độ vài phân, lấy trong túi ra một sợi dây thô và buộc hai cái lại với nhau.
- Để báo hiệu, Kevin cáo già ạ. Tôi sẽ để đầu dây ngay cạnh giường, nếu anh giật chiếc chuông nhỏ kia sẽ kêu. Nó có ở đây lâu lắm rồi nhưng vẫn kêu tốt.
- Này, Kevin nói:
-Tôi cóc cần cái chuông đỏ như máu kia của anh.
- Được rồi, anh sẽ không cần đến nó.
- Khoan một chút, anh nói:
- Tốt hơn nên nói với anh điều này.
Anh mở va ly lấy ra khẩu súng ngắn.
- Khẩu Smith and Wesson này no đạn đấy.
Rồi anh đặt nó xuống bàn.
- Con ma nào dám trêu ngươi sẽ lĩnh ngay một viên vào bụng. Tôi sẽ nói rõ hơn trước khi chúng ta bắt đầu.
- Mày nghe rõ chưa ma ?
Alastair ngửa cổ lên trần nhà nói vui:
- Nếu mày ló mặt mày sẽ ăn đạn vào bụng đấy.
Họ rời căn buồng. Bà mẹ Alastair người nhỏ bé, sắc sảo đang ngồi trong phòng vẽ không đủ ánh sáng.
- Mẹ, đây là Kevin Donaldson. Anh ấy đến từ Australia.
Bà mẹ già cười tươi hỏi han. Trước kia bà đã đến nước Australia từ khi chồng bà còn sống, và bà rất yêu đất nước đó. Còn giờ đây làm sao để bắt được con ma của ngôi nhà Drumkattle ?
Alastair phân bua. Đó chỉ là sự đánh cuộc. Một trăm năm nay không có ai ngủ trong căn buồng có ma đó, không có ai từ cái đêm bà người hầu ngủ trên giường bất ngờ bị tấn công dữ dội và bị giết chết. Người ta không rõ hung thủ là ai. Kevin sẽ ngủ hoặc là cố để ngủ trong căn buồng đó.
- Năm mươi pao thì nhiều đấy, bà Moncrieff nói.
- Nhiều nhưng với con thôi. Còn Kevin anh ấy giàu có, chính anh ấy mới là người sẽ phải trả..
Kevin cười.
- Tôi không tin thế.
Đã hơn mười một giờ đêm, một mình anh ở trong căn buồng áp mái cửa khóa trái bên ngoài. Khẩu súng để ở vị trí thuận tiện sẽ giúp anh đỡ bị bất ngờ, nếu bóng ma xuất hiện trong trang phục quái gở thế nào đi nữa. Đêm tháng mười hai không trăng. Căn buồng tối đen lại nếu anh tắt chiếc đèn bàn bên đầu giường. Chiếc cửa sổ hình chữ nhật, con mắt duy nhất nhìn ra biển Bắc, hắt một chút ánh sáng xanh xao yếu ớt.
Anh để nguyên quần áo nằm trên giường, mắt liếc nhìn trang bìa sách nhưng tâm trí vang mãi lời hứa với Alastair. Chín tiếng nữa và mọi thứ sẽ trôi qua thôi. Nếu đến tám giờ sáng anh không rung chuông, họ sẽ bẽ bàng ra sao trước mắt anh, còn chuyện họ đi thông báo cho hàng xóm tin tức về anh nữa chứ, họ sẽ mở cửa cho anh ra và anh lấy về năm mươi pao tiền cược.
Ý nghĩ thứ hai chợt đến, làm gì có ai để người trong nhà này đi thông báo; Drumkattle là ngôi nhà duy nhất dọc bờ biển hoang vắng này. Chắc chỉ có Alastair, Duncan và bà mẹ già của họ là nghe được tiếng chuông. Vậy thì khỏi rung chuông nữa.
Anh đã thấy chán quyển sách, bật công tắc chiếc đài bên cạnh, lắng nghe chương trình "Nhạc đêm khuya" trên sóng đài Home. Anh chuyển sang sóng đài Light đang phát bản nhạc jazz, cuối cùng chọn đài Hamburg với nhạc valse. Anh ngồi dậy thay quần áo mặc ngoài.
Khẩu Smith and Wesson nằm một bên giường, anh kiểm tra hộp đạn lần cuối và thấy yên tâm. Xong xuôi anh thả mình xuống chiếc giường gỗ hẹp, có thể tình trạng không thoải mái này sẽ đánh thức anh dậy trước lúc bình minh, với tay tắt đèn. Bản nhạc du dương nhưng được một lúc cơn ngái ngủ ập đến, anh tắt nốt chiếc đài.
Không dám chắc có phải mình thức giấc thật không nhưng rõ ràng anh nghe thấy tiếng động vào lúc một giờ sáng. Thoạt đầu anh không tài nào định hướng được âm thanh đó, dần dần như mái nhà thủng ra và nước nhỏ xuống sàn. Anh đợi một lúc cho chắc chắn và bất ngờ bật đèn.
Thật lạ không còn âm thanh nào. Không có nước trên sàn. Anh tắt đèn. Lần này chỉ khoảng nửa tiếng sau, anh lại nghe thấy âm thanh đó, to hơn lần trước, cứ như thể nước đang rỉ xuống ngay giữa phòng.
Anh thấy lạ khi có một tiếng động ngay cạnh đầu, bực mình quá anh quay người sang bên kia, tim bắt đầu đập rộn, hai bên thái dương rần rật. Tiếng động của thứ chất lỏng nọ giờ thành đối âm với nhịp lưu thông của mạch máu trong người anh, và bất ngờ tiếng nước rỉ đổi vị trí cứ như có một lỗ thủng khác ở trên mái. Anh bật đèn lên âm thanh nọ lại ngừng bặt.
Anh bật dậy nhìn qua ô cửa sổ, lại gần thò tay ra ngoài: trời có mưa đâu nhỉ. Quái lạ! Tìm thế nào đi nữa anh vẫn không thấy có vết nước trên sàn. Anh lại gần tủ mở toang hai cánh ra, ngỡ tưởng Alastair hay Duncan nấp trong đó giả vờ làm tiếng động. Chiếc tủ trống rỗng. Để nguyên đèn sáng anh nằm vật xuống giường. Anh liếc nhìn đồng hồ ba giờ rưỡi. Anh uể oải tắt đèn.
Chắc anh đang ngáy bỗng nhiên giật mình vì có tiếng người nói, anh bật thẳng dậy tim đập mạnh. Đó là tiếng phụ nữ giọng một cô gái du dương. Anh căng tai và từ rất xa rất nhẹ dường như nó gọi :
- Kevin !
Thật vô lý. Anh sẽ không tự biến mình thành thằng ngu bằng việc trả lời tiếng gọi nọ. Anh lại bật đèn mọi thứ chìm vào im lặng. Anh nguyền rủa. Hơi mệt và bực dọc. Bóng đèn bỗng nhiên bị vỡ. Một cục nước miếng chặn ngang cổ họng ran rát, tai nghe rõ nhịp đập của tim anh thoắt với lấy khẩu súng.
- Anh đang nằm, giọng nói lại vang lên.
- Giữa vũng máu của tôi Kevin ạ.
Anh mở miệng hỏi lại giọng nói kia nhưng sao không lời nào thốt ra được. Mãi sau, bằng một giọng nói hoàn toàn không phải của mình anh hỏi:
- Sao...sao lại thế....
- Không làm ồn Kevin. Tôi tới đây để giết anh.
Anh cười tỏ vẻ can đảm.
- Khá lắm thưa cô. Nhưng tại sao ?
- Kevin, bởi vì căn buồng này chiếc giường anh vừa nằm là của tôi. Tôi đã chết trên chiếc giường đó.
Mọi thứ ngưng lặng chốc lát, tiếng đập trong tai anh to đến mức không còn chịu được nữa.
- Tôi đã chết trên chiếc giường này, Kevin, trong vòng tay của một thằng đàn ông. Hắn ta đã giết tôi khi tôi đang khóc tức tưởi..
Một tia ý nghĩ vụt qua óc khiến anh chú ý đến chiếc công tắc đài. Nó vẫn ở vị trí tắt. Giọng cô gái lại cất lên.
- Hỡi Kevin Donaldson vì anh chỉ còn được sống vài phút nữa thôi. Anh đã nghe thấy tiếng máu của tôi chảy xuống sàn chứ ? Chẳng bao lâu nữa sẽ là máu của anh.
Lạ thay tiếng nhỏ giọt lại vang lên. Phải chăng có thể nhìn được lúc này: anh thầm nguyền rủa chiếc bóng đèn chết tiệt. Và tại sao đúng, tại sao không nghĩ đến việc mang theo chiếc đèn pin. Anh nhớ đến chiếc bật lửa. Phải cố gắng lắm anh nguyền rủa bản thân vì sự thực đó, anh mới với được chiếc áo khoác. Chiếc bật lửa Ronson tỏa ánh sáng dầu tù mù anh không thấy gì cả.
Nhưng giọng nói vang lên gần hơn. Lần nữa anh chú ý tới chiếc đài và chắc chắn nó phát ra từ đó, thậm chí công tắc vẫn tắt. Tức quá anh vung cú đấm vào mặt chiếc đài. Giọng nói vẫn tiếp tục nhưng có lẽ lúc này anh đã quá phấn khích và mệt nên không hiểu nó nói gì. Nhưng đúng là chiếc đài rồi. Nghĩ thế anh giật tung dây điện ra.
Như cố tình trêu ngươi giọng nói lùi ra xa. Nó đang nói gần bức tường. Tiếng nhỏ giọt phát ra từ đấy. Một cơn hốt hoảng mới thật hãi hùng ập đến, nhận ra nó vẫn ở trong phòng, anh ném chiếc đài xuống sàn làm nó nứt ra, chưa thỏa anh còn lấy đập loạn xạ đến khi nó vỡ thành hàng chục miếng nhỏ.
Giọng nói lại càng rõ hơn:
- Có ích gì hơn đâu Kevin. Anh không thể thay đổi được số phận mà số anh là số chết. Chết ngay trong đêm nay.
Anh bật lửa trong phòng trống rỗng. Bỗng nhiên có một tiếng động trong góc phòng khiến anh rùng mình. Tiếng nhỏ giọt đã trở thành tiếng chảy xối, anh đứng bật dậy, hoảng hốt nhìn đăm đăm vào một điểm trong bóng tối.
Anh nhìn không biết bao lâu như bị hút hồn, chợt một cơn gió thoảng qua. Anh vòng qua giường lại gần nó, ở đấy chắc chắn có một cái gì đấy. Phát điên lên anh mắm môi mắm lợi bật lửa, phải đến bốn lần bật nó mới cháy.
Anh kêu lên kinh hãi hơi thở dồn dập. Ánh sánh quá yếu nhưng cũng đủ soi rõ một hình người, một hình người đứng gần tủ. Khuôn mặt nếu được gọi đó là khuôn mặt, màu xanh tái và quần áo nếu cũng có thể gọi là quần áo màu tối có lẽ là màu đỏ. Hình như người ấy đang nói vẫn giọng nói nọ, giọng nữ nhưng hai môi không hề động đậy. Bóng người mỗi lúc một gần hơn.
Anh quỵ xuống giường người cứng đơ.
- Ai... cút...
Anh thét lên hoảng hốt.
- Cô là ai ? Sao vào được đây ?.. Tôi sẽ giết cô đấy cô bạn. Lời cảnh cáo cuối cùng của tôi..Lời cảnh cáo cuối cùng...
- Đạn không giết được tôi đâu Kevin. Một người đàn ông đã làm thế với tôi. Giết chết tôi lúc tôi nằm ngay chỗ anh vừa nằm ấy, nhưng sẽ không còn thằng đàn ông nào nữa và không còn viên đạn nào đâu..
- Tôi cảnh cáo lần cuối ! Anh rít lên.
Anh nổ súng bắn thẳng vào hình người và kết quả làm anh chết lặng. Một ý nghĩ đen tối vẫn lên trong đầu anh. Khói súng vừa hết anh nhìn thấy một khuôn mặt trắng bợt vẫn nguyên chỗ cũ.
Anh thét lên bắn, bắn tiếp bắn nữa. Trong đám khói thuốc súng cay xè anh vẫn thấy hình người đang tiến đến gần hơn. Nguy rồi! Đến nước này thì không thể không báo nguy cho mọi người.
Nghĩ vậy tay trái rung chuông, tay phải vẫn bắn cho đến khi khẩu súng chỉ còn phát ra những tiếng cạch... cạch... khô khốc. Hình người đã chận lên mình anh, anh thúc mạnh khẩu súng hết đạn nhưng nó rơi xuống như gặp phải lực cản quá mạnh. Da anh ướt đầm không phải vị ngọt, máu anh biết đó là máu.
Tay chạm được dây chuông anh dồn hết sức kéo mạnh. Chiếc chuông nhỏ của nhà thờ xứ Scots kêu lên ở đâu đó trên đầu anh. Hình người rung mạnh rồi đột nhiên mọi thứ đen sẫm lại. Im lặng. Tối mịt mùng.
Mấy tháng sau kevin Donaldson được đưa về Australia. Người ta không còn được tin tức gì về anh. Tầng trên cùng của ngôi nhà Drumkattle từ đó không một bóng người bén mảng, cho tới khi cả tòa nhà đổ sụp xuống, hai, ba mươi năm sau này.
Tô Đức Huy dịch
THE EMAILER
Năm đó tôi đang học năm thứ hai ở Duke University. Vì không có xe và nhà ở thành phố khác nên tôi xin nội trú trong trường. Tôi ở một mình trong một phòng tại tầng trên cùng của một building rất cũ, nó đã được xây trên trăm năm rồi. Bên kia hành lang đối diện với phòng tôi là một căn phòng rất lớn nhưng không có ai ở cả. Nó được dùng để chứa các vật dụng của trường thôi !
Sau khi trở lại trường sau những ngày nghỉ lễ Christmas, một cô bạn cảnh cáo tôi là cái phòng đối diện phòng tôi có ma ! Một nam sinh viên đã tự tử trong đó vào năm 1945, và nhà trường đã quyết định dùng nó để chứa đồ chứ không cho ai ở từ năm đó.
Cô ta khuyên tôi đừng bao giờ chơi trò cầu cơ trong building này vì sẽ gặp con ma này ngay. Bạn của cô ta đã đối đầu với linh hồn này rồi trong một cuộc cầu cơ vào năm ngoái. Tôi không chơi cầu cơ nên chẳng lo gì cho lắm. Nhưng cái chuyện ma này làm cho tôi hơi áy náy nên tôi thường đưa mắt nhìn qua cái phòng đối diện mỗi khi ra vào phòng mình.
Một hôm nọ trong lúc vội vã ra khỏi phòng để đi đến lớp, tôi nghe văng vẳng có tiếng hát điệu thánh ca bằng tiếng La Tinh vọng ra từ phòng đối diện. Nhưng vì vội đi học, và nghĩ là chắc có ai vào đó lấy vật dụng và hát nên tôi chẳng chú ý gì thêm.
Trưa đó về lại phòng tôi mở computer đọc emails, xong tắt máy và vào phòng ngủ. Tôi thường cho phép mình làm một giấc ngủ trưa ngắn trước khi đến các lớp vào buổi chiều. Trong khi tôi còn đang mơ màng thì nghe có tiếng "beep" như vẫn thường nghe khi có một email mới.
Vài phút sau tôi lại nghe thêm một tiếng "beep" nữa. Tôi nhớ là mình đã tắt máy trước khi vào phòng rồi mà. Chắc là tôi nghe lầm trong lúc mơ màng thôi.
Khoảng một giờ sau tôi thức dậy và ra phòng ngoài. Cái computer của tôi đã mở từ bao giờ. Tôi đến xem thì thấy mình có hai cái emails mới, và chúng đến sau khi tôi đã lên giường.
Tôi đã nghe đúng hai tiếng báo "beep" trong lúc mơ màng. Tôi đâm ra ngờ ngợ không biết có đúng mình đã tắt máy chưa nữa. Tôi coi tên người gửi là một tên mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Tôi mở emails xem thì chỉ thấy câu
" Hi there " Trong cả hai cái emails đó. Nhưng đã tới giờ đi học nên tôi vội vơ vài cuốn vở tắt computer, rồi bước ra ngoài khóa cửa phòng lại.
Khi tan lớp học tôi trở về phòng. Trước mắt tôi là cánh cửa phòng hé mở. Phòng này chỉ mình tôi ở nên khi thấy cửa bị mở tôi sợ run cả người lên. Ai đó đã lẻn vào phòng trong lúc tôi đến lớp.
Thu hết can đảm tôi ghé mắt nhìn qua khe cửa. Hú hồn chỉ có cô bạn tôi đang ngồi dùng cái computer trên bàn thôi. Tôi đẩy cửa bước vào. Cô bạn thấy tôi và nhảy dựng lên mắt tròn xoe vì kinh ngạc.
- Mày ở đâu về đó ? Vậy ai ở trong phòng tắm vậy ?
- Tao mới xong hai giờ toán về đây !
Mặt cô ta bắt đầu tái xanh đi mắt nhìn dáo dác, giọng như muốn líu lại:
- Tao lên đây gỏ cửa và nghe có tiếng nói :
- Cứ vào.
Tao xoay nắm cửa thấy không khóa nên đẩy cửa vào đây và nghe có tiếng nước vòi sen chảy trong phòng tắm, nên nghĩ mày ở trong đó. Thấy computer mở sẳn nên tao check emails của tao, đang đọc chúng thì mày về tới. Tao nghe rỏ ràng có tiếng nước chảy trong phòng tắm mà. Vậy ai là người đang tắm trong đó ?
Tôi cũng thấy rợn cả người. Nhưng cũng làm gan đẩy cửa phòng tắm xem có ai không. Không có một ai cả. Cô bạn tôi vội vã cáo từ chứ không nán lại tán chuyện như mọi khi.
Lần này thì tôi không còn nghi ngờ gì nữa rồi. Có ai đó hiện diện trong phòng tôi. Tôi cảm thấy điều đó vì tôi đang có cái cảm tưởng là ai đó đang nhìn lén mình. Một điều tôi biết chắc là tôi đã tắt computer và khóa cửa phòng trước khi đến lớp rồi, nhưng khi về thì phòng không khóa và computer đã được mở lên.
Chắc đó là con ma ở phòng đối diện sang viếng phòng tôi rồi. Không còn nghi ngờ gì nữa. Con ma đó thật sự hiện hữu chứ không phải là do lời đồn đại đâu. Dù sao đi nữa thì con ma này cũng không đến độ phá phách lắm, ngoài việc mở computer để gửi emails, nó không chuyển dịch bất cứ vật gì trong phòng cả. Tôi cho nó chỉ là con ma hiền và thân thiện.
Nhưng cái cảm giác có người hiện diện trong phòng theo tôi cho cả khi lên giường đi ngủ. Tôi cứ thấy rờn rợn thế nào ấy. Đến gần nữa đêm tôi mới bắt đầu chợp mắt được.
Đột nhiên tôi cảm thấy có bàn tay ai đó rờ vào vai mình. Tôi ngồi bật dậy nhìn quanh. Không một bóng người, chỉ có tiếng tích tắc của cái đồng hồ báo thức trên đầu tủ. Tôi nằm xuống lại và lấy chăn trùm kín đầu như tôi vẫn làm hồi còn bé mỗi lần nghe bố mẹ kể chuyện ma.
Nhưng tôi vẫn không sao ngủ lại được. Cái cảm giác đó vẫn đeo đuổi tôi và lưng tôi vẫn rờn rợn từng cơn sóng lạnh vì sợ. Cuối cùng tôi bật miệng nói một mình như nhắn với con ma vô hình đó:
- Tôi không phá gì bạn xin bạn đừng phá tôi. Lạ thay vừa nói xong thì cái cảm giác rờn rợn bổng biến đi mất. Tôi thấy tâm thần yên ổn trở lại rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Kể từ đêm hôm đó tôi không còn thấy computer bị mở lên một cách tự nhiên nữa, và cái cảm giác như có ai đó hiện diện trong phòng cũng không còn. Tuy thế thỉnh thoảng khi ở hành lang tôi vẫn nghe tiếng hát thánh ca bằng tiếng La Tinh vọng ra từ cái phòng đối diện. Tôi không sợ hãi nó nữa, vì con ma không còn vào phá tôi trong phòng, và nó chỉ là một con ma hiền lành thôi.
Chú thích: Dựa theo lời kể của một nữ sinh viên trường đại học Duke North Carolina USA.
ST
ĐẦM LẦY TRĂNG
Tôi không biết giờ đây Dennis Barry đang ở đâu, ở cái nơi xa thẳm khôn cùng và ảm đạm nào? Vào cái đêm khi chàng còn sống với mọi người lần cuối cùng, tôi cách chỗ chàng không xa và nghe thấy tiếng người ta đến bắt chàng đi, cùng những tiếng kêu xé lòng xé ruột của chàng.
Nông dân và cảnh sát hạt Meath không tìm thấy cả Barry lẫn những người khác, mặc dầu họ đã kiên nhẫn sục sạo mọi nơi, mọi chốn. Còn tôi, sau tất cả những chuyện đã xảy ra, cứ mỗi khi nghe tiếng động ộp oạp của lũ ếch nhái đầm lầy vang tới hoặc bỗng nhiên tôi lạc tới một vùng đầy ánh trăng ở một chốn đồng không mông quạnh nào là bất giác tôi lại thấy khắp người nổi gai ốc vì sợ hãi.
Quen thân với Dennis Barry từ khi còn ở đất Mỹ, nơi chàng đã phất lên giàu có, nên tôi rất vui khi biết chàng đã chuộc lại tòa lâu đài của dòng tộc mình tại vùng đầm lầy hoang vắng Kilderry. Chính đó là nơi chôn nhau cắt rốn của chàng, và chàng những muốn được tận hưởng những thành quả giàu có của mình giữa những bức tường thân thuộc của cha ông.
Thuở xưa, tổ tiên chàng sở hữu xứ Kilderry, tại đây họ đã xây cất một tòa lâu đài và sống hạnh phúc trong tòa lâu đài ấy, nhưng nay tất thảy những điều đó đã trở thành quá khứ xa xăm. Đã bao tháng trôi qua kể từ khi tòa lâu đài trở nên hoang phế hoàn toàn. Sau khi trở về Ireland, Barry thường gửi thư cho tôi và kể chuyện việc quần thể kiến trúc cổ kính đó được tái sinh dần dần, hết ngọn tháp này đến ngọn tháp khác.
Và sau bao thế kỷ những bức tường lâu đài lại được trang trí lại đẹp đẽ như xưa, còn nông dân thì không ngớt lời ca ngợi và tỏ lòng biết ơn chàng đã bỏ vốn đầu tư cho sự thịnh vượng của chốn quê hương. Nhưng sau đó mọi việc đã thay đổi, đám nông phu thôi không ca ngợi ông bạn tôi nữa, mà trái lại, họ bắt đầu tìm cách tránh xa chàng như tránh xa kẻ mang bệnh dịch hạch.
Chính lúc đó Dennis đã viết thư cho tôi, yêu cầu tôi tới thăm vì chàng rất cô đơn trong tòa lâu đài, thậm chí chẳng có ai để mà nói chuyện nữa, ngoại trừ những người giúp việc và đám gia nhân chàng thuê từ miền bắc xuống.
Khi tôi đến nơi, Barry kể cho tôi hay rằng nguyên do mọi chuyện là ở những đầm lầy bên cạnh. Tôi đến Kilderry lúc hoàng hôn, ánh mặt trời lúc chiều tà vẫn thếp vàng lên các ngọn đồi xanh và những cánh rừng, cũng như lên màu lục của khu đầm lầy. Nó chiếu sáng cả những phế tích cổ kính kỳ lạ trên hòn đảo nhỏ xa xa.
Cảnh hoàng hôn thật đẹp, song nông dân ở Ballylow đã kịp phần nào khiến tôi lưu ý đến niềm tin của họ, khi họ quả quyết rằng Kilderry thật đáng nguyền rủa, và tôi dè dặt liếc nhìn những ngọn tháp nhỏ của tòa lâu đài đang ánh lên vàng rực dưới nắng chiều.
Tôi rời Ballylow bằng chiếc ô tô do người ta sai đến đón, vì Kilderry nằm cách đường xe lửa khá xa. Những người nông dân cố tránh xa chiếc ô tô và người tài xế quê miền bắc, nhưng khi thấy tôi chuẩn bị đi tới Kilderry, họ vẫn không kìm được vào báo trước cho tôi phải đề phòng nguy hiểm. Buổi tối, tôi đã có mặt trong tòa lâu đài, Barry đã kể tôi nghe mọi chuyện.
Nông dân lũ lượt rời bỏ Kilderry chỉ vì Dennis Barry quyết định cho hút cạn cái đầm lầy lớn. Mặc dù tình yêu quyến luyến với xứ sở Ireland quê hương thật sâu đậm nhưng những lề thói quen thực dụng Mỹ đã ăn sâu bám rễ trong con người Barry, bởi thế chàng không chịu được với ý nghĩ để cho mảnh đất màu mỡ kia bỏ phí dưới làn nước đầm lầy, bời đó chính là đầm than bùn và đất dưới nó còn có thể được sử dụng một cách không ngoan để sinh lợi nữa chứ.
Chàng bỏ ngoài tai tất cả những câu chuyện truyền thuyết và những lời đồn đại mê tín gắn với khu đầm lầy. Chàng chỉ thấy tức cười khi lúc đầu, nông dân chối từ tham gia công việc, rồi sau đó khi thấy sự bướng bỉnh của chàng, họ bắt đầu nguyền rủa ông chủ của mình và bỏ đi tới Ballylow, chỉ mang theo những thứ thiết yếu nhất.
Thấy vậy Barry bèn tuyển những người thợ từ miền bắc về, và khi cả đầy tớ gia nhân cũng bỏ tòa lâu đài ra đi, thì chàng lại phải thuê những người mới. Giờ đây xung quanh chàng toàn những kẻ xa lạ, bởi thế chàng thấy cô đơn và đã mời tôi về sống với chàng.
Sau khi nghe kể chi tiết chuyệc dân cư ở Kilderry sợ hãi điều gì, tôi cũng cả cười cùng ông bạn mình: hóa ra những mối e sợ của họ liên quan tới điều mê tín về vùng đầm lầy và kẻ canh giữ cau có nơi đây mà linh hồn của nó dường như sống ở chính trong đám phế tích cổ kính nhất mà tôi đã trông thấy lúc hoàng hôn là những mối lo sợ vớ vẫn.
Người ta cũng truyền tụng những lời đồn đại về những tia lửa ma trơi nhảy múa trong bóng tối, về những cơn gió lạnh như băng giá lúc vào đêm hè nóng nực, về những bóng ma bận xiêm y trắng lơ lửng trên mặt nước và về những thành phố đá được che dấu dưới lớp bèo xanh của đầm lầy. Đám nông dân tin chắc rằng sự trả thù đang rình rập chờ đợi kẻ nào dám phávỡ sự yên tĩnh của vùng này, hay toan tính hút khô cạn khu đầm lầy mênh mông.
Những nông dân nơi đây còn nói chớ nên động đến một số điều huyền bí ở đây. Những điều huyền bí ấy tồn tại từ thời xa xưa khi một đại họa đã ập lên đầu con cháu của vua Partholan. Trong cuốn "Chinh phục tùng thư" có kể rằng những con dân xứ Hy Lạp đã chết ở Thollat, song các cụ già ở Kilderry lại khẳng định rằng dù sao một đô thị cuối cùng cũng đã được cứu thoát bởi vị thần phù trì cho nó, là nữ thần Mặt Trăng.
Thần đã che giấu đô thị ấy trong cánh rừng rậm trên các ngọn đồi và bởi thế đã giúp tránh thoát được quân xâm lược Nemed từ xứ sở Skif đến đây trên ba chục chiến thuyền.
Chính những truyền thuyết ấy đã buộc những người nông dân rời bỏ Kilderry! Đến giờ thì tôi chẳng còn ngạc nhiên gì nữa cái ý định của Dennis Barry không đếm xỉa đến những lời đồn nhảm nhí ấy. Vả lại, chính chàng cũng có mối quan tâm sâu sắc tới thời xa xưa và chàng dự định nghiên cứu kỹ lưỡng cẩn thận vùng này sau khi tát khô đầm lầy.
Chàng thường lui tới thăm khu phế tích trên đảo: tuổi của nó rõ ràng rất xưa rồi. Di tích hoang phế ấy có lối kiến trúc khác hẳn các công trình cổ xưa khác, nhưng vì cái vẻ ngoài tàn tạ kinh khủng của nó hiện giờ, nên khó có thể hiểu được khu hoang tàn ấy đã từng là như thế nào vào thời hoàng kim của nó.
Mọi công việc bơm hút khô phải bắt đầu chuẩn bị rồi, những công nhân quê miền bắc sắp sửa dọn sạch khu đầm lầy bí ẩn khỏi rêu và bèo mầu đỏ nhạt, phá bỏ những con suối nhỏ đầy vỏ ốc, vỏ hến và làm mất đi vĩnh viễn cái mặt nước mầu xanh da trời mọc đầy lau sậy.
Sau tất thảy những biến động trong ngày tôi đã thấy mệt và muốn đi ngủ. Đêm khuya và tôi thấy khó khăn phải nghe Barry kể nốt câu chuyện của mình. Một gia nhân dẫn tôi đến căn phòng dành riêng cho tôi ở một trong những ngọn tháp nhỏ. Qua khung cửa sổ nhìn thấy khu làng, cánh rừng thưa bên đầm lầy và xa hơn chút nữa là đầm lầy.
Dưới ánh trăng tôi trông thấy những căn nhà chìm sâu trong giấc ngủ, nơi đang cư ngụ những người công nhân làm thuê từ miền bắc đến thế chỗ cho đám dân địa phương, tôi cũng thấy ngôi nhà thờ nhỏ xíu với cái nóc nhọn cổ kính, và phía xa sau cánh đầm than bùn ngái ngủ thấp thoáng khu phế tích trên hòn đảo nhỏ.
Khi đang chìm vào giấc ngủ tôi bỗng nghe thấy, hay là tôi mường tượng thấy chăng? , tiếng tiêu nhè nhẹ yếu ớt vọng từ nơi xa, thanh âm ấy là một giai điệu hoang sơ, nguyên thủy nào đó. Điệu nhạc ấy khiến tôi lo lắng một cách lạ lùng khi nó đi vào những giấc mơ của tôi. Song buổi sáng khi tỉnh giấc, tôi hiểu tiếng nhạc đó là do mộng mị sinh ra, những giấc mộng thật lạ kỳ mà nếu so sánh với chúng thì ngay những âm thanh bí ẩn của tiếng tiêu cũng trở nên mờ nhạt hẳn đi.
Có lẽ do ảnh hưởng từ những truyền thuyết do Barry kể mà tôi mơ thấy linh hồn mình lơ lửng trên cái đô thị hùng vĩ chìm trong đủ mọi loại cây xanh, nơi đây là những con đường lát đá cẩm thạch, những tòa biệt thự cùng những ngôi đền, những pho tượng, những họa tiết điêu khắc cùng những bài văn bia, tất cả đều nói lên sự vĩ đại xa xưa của xứ Hy Lạp.
Tôi đã cùng Barry cười ngất trước giấc mơ đó, nhưng tiếng cười của tôi nghe to hơn vì lúc đó ông bạn tôi đang lo lắng trước thái độ của đám công nhân miền bắc. Đã sáu ngày liên tiếp họ ngủ dậy rất muộn, họ đi lại uể oải như đang ngái ngủ, và cả hôm nay nữa họ nom như hoàn toàn chưa được nghỉ ngơi, mặc dù đêm trước họ đều đi nằm sớm.
Suốt cả buổi sáng tôi đi dạo trong ngôi làng tràn ngập ánh nắng mặt trời và nói chuyện với những người công nhân. Họ chẳng có công việc gì đặc biệt lắm để làm vì Barry đã hoàn tất mọi công tác chuẩn bị cuối cùng trước khi bắt đầu khởi sự, nhưng thâm tâm tất cả mọi người đều thấy hồi hộp, xao xuyến vì những giấc mơ bất an, khó hiểu mà họ đã thấy khi sáng sớm.
Tôi cũng kể cho họ nghe về giấc mơ lúc đêm của mình, song họ tỏ ra hờ hững khi nghe tôi kể. Chỉ mãi tới khi tôi nhắc tới tiếng nhạc ma quái kỳ lạ thì họ mới trở nên chăm chú: chính họ cũng nhớ là đã nghe thấy điệu nhạc gì tương tự.
Buổi sáng, sau bữa ăn chiều, Barry tuyên bố rằng mọi công việc sẽ bắt đầu sau hai ngày nữa. Tôi vui mừng khi nghe lời thông báo đó, mặc dù trong thâm tâm thấy tiếc nuối tất cả mọi thứ rêu và thạch thảo, mọi con suối và những cái hồ đầm nơi đây.
Nhưng cũng rất muốn được thâm nhập vào những bí mật ấp ủ hàng bao thế kỷ nay có thể được chất chứa trong lòng cái đầm lầy than bùn kia. Đêm đó, tôi lại mơ thấy tiếng tiêu réo rắt và thành phố đá cẩm thạch, nhưng lần này giấc mơ bị ngắt đoạn đột ngột và kinh sợ. Tôi đã nhìn thấy một tai họa ập tới thành phố nơi thung lũng xanh tươi ấy, một trận sụt lỡ đất đá ghê gớm đã ào tới và chôn vùi mọi sinh vật và con người.
Chỉ duy nhất ngôi đền nữ thần Arteuris ở trên đồi cao là không bị trận thiên tai khủng khiếp tàn phá. Tại ngôi đền này thần Mặt Trăng, bà Kleis, đức bà tư thế già nua đã nằm sóng sượt lạnh giá và im lặng với chiếc mũ miện bằng ngà voi trên mái đầu bạc.
Như tôi đã kể, giấc mơ của tôi bị đứt quãng. Một cảm giác lo âu khó tả cứ bám riết không rời tôi dù chỉ một khoảnh khắc. Một lúc rất lâu tôi không hiểu tôi đang ngủ hay tôi đang thức nữa. tiếng tiêu cứ tiếp tục văng vẳng trong tai.
Song khi nhìn thấy những vệt ánh trăng lạnh giá trên sàn lỗ chỗ hình bóng chấn song của khuôn cửa sổ gôtích, tôi hiểu rằng dẫu sao mình vẫn đang trong tòa lâu đài Kilderry. Khi đâu đó đàng xa có tiếng chuông đồng hồ điểm hết lần này đến lần khác thì rốt cuộc tôi thấy rõ mình không ngủ. Nhưng mọi âm thanh của tiếng tiêu vẫn tiếp tục, ấy là một điệu nhạc lạ lùng, xa xưa, nó gợi trí tưởng tượng tới những vũ điệu của các vị thần Satyr ở xứ Menadus xa xôi.
Nhạc điệu ấy không cho tôi ngủ, và thế là sau khi nhỏm dậy khỏi giường, tôi bắt đầu lo lắng đi đi lại lại trong phòng. Hoàn toàn ngẫu nhiên tôi bước tới khuôn cửa sổ phía bắc, nhìn về phía ngôi làng đang ngủ mơ màng và cánh rừng thưa bên mép đầm lầy.
Tôi hoàn toàn không định nhìn qua cửa sổ vì đang buồn ngủ chết đi được, nhưng những âm thanh của các cây tiêu đanh thổi đã hành hạ tôi đến nỗi buộc tôi phải tìm cách lãng quên nó đi. Song những gì tôi trông thấy đã khiến óc tưởng tượng của tôi phải sửng sốt.
Trên khoảng rừng thưa tràn ngập ánh trăng đang diễn ra một cảnh tượng mà một khi đã mục kích thì ai cũng phải ghi nhớ đến trọn đời vì quá đỗi kinh ngạc. Dưới tiếng tiêu vang vọng khắp trên vùng đầm lầy là những hình dạng kỳ ảo đang chuyển động nhịp nhàng và câm lặng trên khoảng rừng trống.
Lúc đầu họ đu đưa mình theo nhịp, nhưng dần dần chúng đạt tới mức khoái cảm tột độ mà thời xa xưa đã từng choán ngợp các vũ công Sicilia trình diễn vũ điệu dâng hiến thần Demeter vào đêm trăng rằm trước tiết thu phân ở gần thần Kyan.
Khoảng rừng thưa phơi rõ dưới ánh trăng suông bàng bạc, những bóng ma khiêu vũ, tiếng tiêu lanh lảnh đơn điệu, tất thảy những cái đó cùng một lúc khiến tôi gần như bị tê liệt, song dẫu sao tôi vẫn nhận ra rằng, một nửa những vũ công không hề mệt mỏi ấy là những người công nhân làm thuê mà theo sự hình dung của tôi thì nhẽ ra họ phải đi ngủ từ lâu rồi, một nửa còn lại là những con ma kỳ lạ bận đồ trắng, với chút ít đầu óc tưởng tượng thì có thể coi chúng là các nữ thần sông suối đang sống ở những chiếc hồ nhỏ vốn nuôi dưỡng cả khu đầm lầy.
Tôi không biết đã đứng bên cửa sổ bao lâu để ngắm nhìn cảnh tượng ấy, chỉ nhớ vào một thời khắc nào đó, tôi bỗng chìm vào một giấc ngủ sâu nửa ngất lịm mà chỉ có ánh sánh chói lòa của mặt trời mới đưa tôi ra khỏi trạng thái ngủ mê mệt ấy thôi.
Niềm mong muốn đầu tiên của tôi khi thức dậy là đi tìm Dennis Barry để kể lại cho chàng giấc mơ quá đỗi sửng sốt kia, nhưng dưới ánh mặt trời mọi sự nom khác hẳn, và tôi bèn tự nhủ đó chỉ là một giấc mơ.
Có thể tôi đã bị ảo giác, nhưng ảo giác ấy đâu mạnh đến nỗi khiến tôi không còn kiểm soát nổi mình nữa và cho rằng tất cả những gì trông thấy chỉ là giấc mơ. Tôi chỉ giới hạn ở việc gặng hỏi những người công nhân, nhưng quả như tôi đã tiên liệu, họ chẳng hề nhớ điều gì đặc biệt, ngoài tiếng nhạc.
Tôi đã suy nghĩ hồi lâu về những âm thanh lạ lùng đó, tôi đoán chừng phải chăng lủ dế đã cất lên bài ca mùa thu của chúng sớm hơn thời điểm tự nhiên đã khiến cho người ta phải bồi hồi xao xuyến. Đến trưa tôi gặp Barry đang xem xét một lần nữa các bản vẽ của mình trước khi khởi sự công việc.
Như vậy, sáng mai các công nhân sẽ bắt tay vào việc... Lần đầu tiên tôi thấy tim mình thắt lại vì khiếp sợ, và đã hiểu vì sao nông nhân chạy trốn khỏi nơi đây. Vì một lý do mơ hồ nào đó tôi cũng thấy không chịu nổi với ý nghĩ rằng có ai đó sẽ quấy rầy, phá bĩnh khu đầm lầy cổ xưa này với biết bao điều huyền bí của nó được ẩn giấu khỏi ánh sáng mặt trời.
Tôi bỗng hình dung ra những bức tranh kỳ ảo dưới lớp than bùn dày hàng thế kỷ này. Không nên bất cẩn mà phô bày cho bàn dân thiên hạ thấy tất cả những gì đã được giấu kỹ ở nơi đấy suốt bao thế kỷ như thế.Tôi những muốn tìm ra một nguyên cớ tiện lợi để từ giã khu lâu đài và cả chính ngôi làng này.
Thậm chí tôi định nói về việc đó với Barry, nhưng tôi nhanh chóng kìm được vì bối rối trước tiếng cười nhạo báng của chàng. Tôi im lặng quan sát vầng mặt trời đang tỏa những sắc màu rực rỡ lên những ngọn đồi xa và tỏa xuống Kilderry thứ ánh sáng chói lọi màu vàng đỏ, một hiện tượng có vẻ như điềm gở.
Tôi không biết những sự kiện diễn ra đêm qua là trong mơ hay thực. bất luận thế nào đi nữa thì một trí tưởng tượng tinh tế nhất cũng không tài nào có thể sản sinh được điều gì hơn thế. Chẳng hạn, tôi không đủ sức nghĩ ra những lời giải thích tỉnh táo và hợp lý cho cái lẽ là sau đêm ấy mọi người trong lâu đài và khu làng đã biến đi đâu mất.
Tôi về phòng mình sớm, nhưng trong lòng nặng trĩu những dự cảm nặng nề nên không tài nào ngủ được. Sự im lặng báo điều dữ ngự trị trong ngọn tháp xa này cứ hành hạ tôi. Mặc dầu trời tối nhưng quang đãng: những ngày này là lúc trăng hạ huyền và trăng mọc rất muộn.
Tôi nằm và suy nghĩ về Dennis Barry, về những gì sẽ xảy ra với đầm lầy khi trời sáng, và cuối cùng những trăn trở ấy đã đẩy tôi tới trạng thái khiến tôi saÜn sàng vùng dậy, ngồi vào chiếc ô tô của bạn tôi, chủ nhân tòa lâu đài, lao thẳng tới Ballylow và thoát khỏi cái chốn đáng nguyền rủa này.
Nhưng, chưa kịp đi đến quyết định cuối cùng thì tôi đã ngủ thiếp đi. Thế là trong cơn mơ tôi lại thấy thành phố nơi thung lũng, ảm đạm và thẩn thờ vì mối đe dọa diệt vong đang lơ lửng trên đầu.
Có thể tôi lại bị đánh thức bởi những âm thanh của tiếng tiêu, song sau khi tỉnh dậy thì không phải tiếng nhạc làm bận trí tôi. Tôi nằm quay lưng về phía cửa sổ hướng đông nơi mặt trăng sắp mọc và bởi vậy tôi chờ đợi được nom thấy ánh hồi quang của trăng trên bức tường đối diện.
Nhưng tôi đã nhìn thấy một sự khác hẳn. Trên tường có những vệt sáng, nhưng đó không phải những hồi quang do ánh trăng phản chiếu. Tôi kinh sợ khi hiểu rằng đó là ánh sáng đỏ tươi lọt qua khuôn cửa sổ gô tích. Nó tràn ngập cả căn phòng bằng một ánh hào quang chói chưa từng thấy. Hành vi lúc đó của tôi thực đáng sợ, và điều này chẳng có gì đáng ngạc nhiên vì chỉ có nhân vật trong sách mới xử sự một cách có tính toán tỉnh táo trong tình huống như thế.
Thay vì nhìn xuống vùng đầm lầy để hiểu xem nguồn ánh sáng mới ấy từ đâu đến thì tôi thậm chí không quay lại phía cửa sổ mà liền vội vã mặc quần áo với niềm hy vọng mơ hồ nhanh chóng trốn chạy khỏi nơi đây. Tôi nhớ là đã mang theo khẩu súng lục và cái mũ, nhưng chúng chẳng hề hữu dụng cho tôi.
Tôi đã đánh mất cả hai sau khi chẳng bắn được phát nào và cũng chẳng đội đến mũ. Dẫu sao trí tò mò vẫn mạnh hơn sự kinh sợ, cho nên tôi lén bước tới cửa sổ để nhìn vào vầng hào quang đỏ sậm khó hiểu kia, tôi vươn người ra ngoài và đúng phút ấy tiếng tiêu cất lên đến váng tai, khắp tòa lâu đài và ngôi làng tràn ngập những thanh âm ấy.
Dòng ánh sáng rực rỡ màu đỏ sậm báo điều gở ấy xoáy thành tia trên mặt đầm lầy, nó phát ra từ đống phế tích hoàn toàn bí ẩn trên hòn đảo. Song khu hoang phế ấy đã thay đổi một cách lạ lùng.
Tôi thật khó lòng mô tả được điều gì xảy ra, có thề tôi hóa điên, song tôi cảm thấy ngôi đền lại đang tọa lạc nơi đó với toàn bộ vẻ đường bệ oai nghiêm của nó mà chưa hề bị một thời gian làm phôi pha với những cây cột bao quanh.
Những ánh hồi quang của ngọn lửa đang cháy trên mặt đá cẩm thạch của mũ cột vươn lên cao. Tiếng sáo ngân lên, tiếng trống vang vọng và trong khi tôi như một kẻ bị mê hoặc nhìn ngắm cảnh tượng ấy thì trên những bức tường cẩm thạch được chiếu sáng rõ bắt đầu xuất hiện hình dáng các vũ công. Tất cả những cảnh ấy nom thật phi thường khó tin là thật, ấn tượng tác động thật vô cùng sửng sốt.
Tôi đứng lặng người tại chỗ, không thể rời mắt khỏi bức tranh kỳ dị, đồng thời ở bên trái tôi vang lên rất to tiếng tiêu dồn dập. Trong cơn phấn khích khó hiểu và choáng ngợp những dự cảm nặng nề, tôi liền băng ngang phòng đến chỗ cửa sổ phía bắc mà từ đó ngó thấy ngôi làng và cánh rừng thưa.
Chính đó là điều mà tôi đã thấy trước đây và lý trí của tôi đã chối từ chấp nhận và hiểu thấu, nhưng bây giờ thì tôi sửng sốt vô chừng: dọc theo cánh rừng thưa đẫm ánh sáng màu đỏ máu đang chầm chậm chuyển động một đoàn diễu hành mà có lẽ chỉ có thể hiện trong cơn ác mộng mà thôi.
Lúc thì trượt trên mặt đất, lúc thì trôi trong không khí, những bóng ma đầm lầy chậm rãi đi theo hướng dẫn tới vùng hồ đầm lầy êm đềm nước lặng và đi tiếp tới khu phế tích, những bóng ma ấy choàng những bộ đồ mầu trắng, chúng cứ đi và tạo ra những hình thù phức tạp, dường như đang biểu diễn một điệu vũ nghi lễ cổ xưa.
Những cánh tay không chút thịt da của chúng lắc lư nhẹ theo nhịp giai đệu the thé xé màng tai của những cây sáo vô hình, những cánh tay ấy mời chào, thu hút theo chúng cả những người công nhân làm thuê mà giờ đây đã xếp thành hàng lần lượt đi sau một cánh mù quáng và tuân phục như những chú chó ngoan, dường như họ phải phục tùng một sức mạnh ma quỷ nào đó.
Khi các nữ thần sông suối đi đến đầm lầy thì những nạn nhân mới đi ra khỏi lâu đài, họ lảo đảo với bộ điệu yếu đuối, xiêu vẹo, Họ xuất hiện từ chiếc cửa ra vào nằm ngay dưới cửa sổ phòng tôi, họ đi qua khu sân như đang trong cơn mơ ngủ, sau đó theo con đường làng hẹp họ tiếp nối hàng công nhân đang đi lảo đảo ở quãng cánh rừng thưa.
Mặc dù có một khoảng cách giữa tôi với họ nhưng tôi hiểu ngay rằng đó là những gia nhân đến đây từ miền bắc, thậm chí ở một trong số những hình người quái đản và thê thảm nhất tôi đã nhận ra chị đầu bếp mà những cử động vụng về bình thường của chị ta lúc này với tôi thật bi thảm.
Những cây sáo vẫn phát ra những thanh âm khó mường tượng như trước, và từ phía hòn đảo lại vang lên tiếng thôi thúc giục giã của những chiếc trống, và chính lúc này các nữ thần sông suối chầm chậm và duyên dáng bước xuống làn nước của khu đầm lầy cổ xưa.
Còn những người đi theo sau các nữ thần ấy không hề chậm bước cũng bắt đầu xuống nước và chẳng bao lâu mất hút dưới làn nước vô tình. Trong ánh sáng hồng trên mặt đầm lầy thật khó nhận ra những vệt bong bóng khí lan trên nước. Người cuối cùng mà vực thẳm kia nuốt chửng là chị bếp béo, con người đã gợi nên nơi tôi sự thương cảm.
Khi chị ta khuất hẳn dưới làn nước thì những cây sáo cùng trống im hẳn, cái ánh sáng do đống phế tích phát ra làm chói mắt cũng tắt; ngôi làng lại lặng đi trong ánh sáng thanh bình của vầng trăng vừa mọc.
Tôi hoàn toàn bối rối. Liệu tôi có mất trí hay không đây? Tôi đang ngủ chăng? Liệu có phải những điều đó đã xảy ra trên thực tế hay không? Tôi nghĩ chính sự sững sờ mà tôi bất ngờ chìm đắm vào đã cứu tôi khỏi cái số phận bi thảm chung cho đám người ấy. Có lẽ tôi đã cầu nguyện thần Arteuris, thần Latona, thần Persephone và thần Pluto.
Tóm lại tôi đã cầu xin tất cả các vị thần mà tôi nhớ được trong văn học cổ điển, nỗi kinh hoàng vừa nếm trải đã biến tôi thành một kẻ mê tín. Tôi hiểu rằng tôi đã trở thành người chứng kiến cái chết của cả làng, không còn nghi ngờ gì nữa: trong tòa lâu đài chỉ còn lại có tôi và Dennis Barry, chính sự khinh suất rồ dại của chàng đã dẫn đến thảm họa.
Khi nghĩ về chàng thì trong tôi lại choáng ngợp nỗi khiếp đảm đến nỗi đôi chân khuỵu ngã xuống và tôi ngã lăn trên sàn nhà, mặc dầu tôi không hề bị ngất. Bất thình lình tôi cảm thấy một cơn gió lạnh buốt từ phía đông nơi mặt trăng vừa mọc và tôi cũng nghe thấy những tiếng kêu tuyệt vọng ở tầng dưới của tòa lâu đài.
Chẳng bao lâu sau tiếng kêu chuyển thành tiếng la hét thất thanh ghê gớm đến mức bây giờ tôi cũng còn thấy kinh hoàng khi nghĩ đến tiếng la hét ấy. Tôi có thể nói ngay rằng đó chính là tiếng gào thét của ông bạn tôi.
Có lẽ, làn gió lạnh giá và những tiếng kêu khủng khiếp đã buộc tôi phải đứng dậy bởi vì, như tôi còn nhớ, tôi chạy hồi lâu dọc các căn phòng tăm tối và các dãy hành lang tối om cho đến khi lọt ra bên ngoài. Người ta tìm thấy tôi lúc rạng sáng cách Ballylow không xa.
Tôi đã đi lảo đảo như một kẻ không nhà không cửa, miệng lẩm bẩm điều gì trong trạng thái hoàn toàn mê man. Sự cố cuối cùng tôi thấy ở Kilderry đã đẩy tôi tới trạng thái khốn đốn cùng cực đó. Cái cảnh ấy thật quái đản, ghê sợ đến nỗi tôi sẽ không bao giờ quên được cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay. Cảnh đó luôn luôn hiện lên trước mắt tôi nếu tôi bất thần đứng gần một đầm lầy vào đêm trăng nào đó.
Vậy là sau khi rời bỏ tòa lâu đài khủng khiếp, đang phóng đi dọc bờ đầm lầy bỗng nhiên tôi nghe thấy những âm thanh gì mới lạ, chẳng có gì đặc biệt, nhưng ở đây, tại Kilderry, thì cho đến nay tôi chưa bao giờ nghe thấy. Làn nước tù hãm mà trong đó chẳng có chút sinh khí nào giờ thật khoái hoạt, sinh động.
Mặt đầm lầy nhung nhúc biết bao những con ếch kềnh kêu ồm ộp liên tục. Ánh trăng lấp lóa hai bên lườn phồng mọng màu xanh của chúng, nhưng ánh sáng còn tia ra từ một nguồn sáng, và có lẽ những con ếch kềnh ấy đang chú ý dõi nhìn về phía tia sáng ấy. Tôi theo dõi một con ếch đặc biệt béo mỡ và xấu xí và nhìn thấy chính cái điều đã khiến tôi hoàn toàn mê muội.
Một tia sáng nhấp nháy yếu ớt không phản chiếu trong mặt nước đầm lầy trải dài từ công trình bí ẩn trên hòn đảo nhỏ tới vầng trăng khuyết. Còn tôi thót tim khi nhìn thấy trên con đường mòn nhợt nhạt chết chóc một hình người quằn quại, một cái bóng mờ ảo đang cố sức cưỡng lại những con quỷ vô hình đang kéo cái bóng đó theo sau. Có thể là tôi điên, nhưng cái bóng dáng đó, một bức biếm họa quái đản man dại, đã khiến tôi nhớ một cách lạ lùng đến con người đã từng là Dennis Barry.
ST
#87
Gửi vào 19/06/2011 - 06:55
TÔI LÀM "SECURITY GUARD"
Vài năm trước đây tôi mua căn nhà mới chưa đầy mười hai tháng, thì bị mất việc bởi công ty họ "downsize" mà không may cái khúc cắt đó có tôi. Tính lãnh tiền thất nghiệp nghỉ xả hơi một thời gian nhưng coi bộ không ổn vì nhu cầu chi nhiều hơn thu, vì vậy tôi phải kiếm và chấp nhận bất cứ việc gì làm tạm thời để ổn định ngân quỹ, còn việc mình vừa ý thì kiếm sau.
Đọc báo thấy quảng cáo học khóa "security" chỉ tốn có mấy chục đồng là có giấy phép hành nghề, tôi liền thử coi ra làm sao. Tuy công việc không phải khuân vác gì nhưng thời biểu bất thường, có bữa làm ngày có khi làm đêm thức lòi con mắt nhưng tôi cố bấm bụng tự an ủi:
- Làm tạm mà.
Tôi khoe với Yến vợ tôi cái bằng hành nghề. Yến cắc cớ hỏi:
- Anh làm cái gì?
Nếu nói là gác dan thì xệ quá mà nói là làm "an ninh" thì nghe hơi quá, nên tôi nói tiếng Anh là "Security Guard " cho nó oai một chút. Nhưng tôi phải thêm vào là "Unarmed Security Guard".
Khi xin được việc làm rồi tôi mới biết rằng khi một nhân viên mới vào nghề , công ty này họ thường chỉ định người đó luân phiên gác ở những địa điểm khác nhau, để thử cựa nhân viên đó thích hợp ở địa điểm nào nhất.
Trong thời gian hướng nghệ này, may mắn thì được kèm bởi một con ma cũ tử tế thì lên tinh thần. Còn gặp thứ hay lòe hay hiếp đáp ma mới thì phải ráng mà chịu cho qua ngày tháng, hay là "quit".
Đêm đầu tiên tôi được phái đến gác cổng của một chung cư kèm bởi con ma cũ tên là Dan, mập như con bò mộng và có bước đi rất là dềnh dàng. Nhìn Dan thì có lẽ ai cũng đồng ý làm " security guard " rất hợp với vóc dáng của nó nhưng được cái nó tỏ ra rất tử tế hướng dẫn cho tôi công việc, và trách nhiệm địa điểm này ra sao.
Tôi đưa cho Dan coi thời khoả biểu bảy ngày, tại bảy địa điểm của tôi. Nó đọc rồi mách cho tôi biết địa điểm nào tốt, địa điểm nào ít người thích, nhưng riêng địa điểm của ngày thứ năm, đó là một nghĩa địa thì Dan lắc đầu nói:
- Tao không thích chỗ này nhất.
Dan bò mộng giải thích lý do người ta mướn gác ở nghĩa địa, vì có những người lén đến đó ban đêm ăn cắp hoa, và có kẻ còn tiện tay vặn luôn cái bình hoa bằng đồng ở mộ bia nữa mới là tệ.
Nó cho biết thêm căn nhà trên cái đồi cao của nghĩa địa đó là lò hoả thiêu, mà thằng con của lão chủ lò đó thuộc loại vừa khùng vừa mát. Có nhân viên gác đã thấy thằng đó lái xe ra cổng với một xác chết để ngồi ở băng trước với hắn. Đó là lý do những anh yếu bóng vía được phái đến địa điểm này thường xuyên đều bỏ việc.
Nghe thằng bò mộng kể tới đó tôi nghĩ nhanh trong đầu:
- Bữa đó ông cáo ốm không đi làm được thì họ phải kiếm thằng khác trám vào là xong chứ gì .
Nhưng thằng Dan lại nói thêm rằng, vì vậy công ty luôn phái hai thằng đến cùng một ca để cho họ có bạn. Nhờ vậy tôi cũng cảm thấy bớt nôn nao rồi làm ra vẻ hiền lành hỏi thằng Dan:
- Sao lại có hạng người tệ quá vậy? Ăn cắp hoa ở nghĩa địa làm gì ghê thấy mồ.
Dan cười:
- Mày biết không ở xã hội này chuyện gì cũng có thể xẩy ra hết. Họ ăn cắp về mang tới tiệm hoa bán lại kiếm chút bạc lẻ chứ ăn cắp làm gì. Cũng có kẻ hà tiện ra đó chôm hoa để khỏi phải đi mua.
Tao kể mày nghe... Ở chung cư tao có thằng Joe vừa đi học đại học vừa đi làm bán thời gian nên tiền bạc thì nó rất eo hẹp. May mắn nó chốp được em Lisa " move in " với nó sống như vợ chồng, chia tiền thuê nhà ăn uống, nhưng tiền tiêu riêng thì của đứa nào đứa nấy lo. Khổ cái thằng Joe này nó yêu em Lisa lắm nên chỉ mong có dịp tạo mỹ cảm trong lòng người yêu nhưng túi nó thì lại hơi rỗng mới khổ.
Bữa đó Lisa đi làm về thấy trên bàn có một bình hoa đồ sộ sặc sỡ và một bịch kẹo sô-cô-la hiệu là "Hershey's Kisses" cùng với tấm thiệp nhỏ đề: "To my lover, Lisa". Sau này Lisa cho biết rằng Lisa rất cảm động nhưng nghĩ Joe rất eo hẹp tiền bạc mà bình hoa này cả hơn trăm đô chứ ít đâu nên Lisa có ý định "return" bình hoa để lấy tiền lại chỉ giữ lại bịch kẹo, "only the thought count" mà. Vì vậy khi ngồi ăn cơm tối Lisa hỏi Joe:
- Anh mua bình hoa ở tiệm nào mà đẹp vậy?
Joe nhà ta ấm ớ vài giây rồi nói tên một tiệm hoa nào đó mà Lisa không hiểu. Im lăng vài phút Lisa lại hỏi:
- Anh mua bình hoa này ở tiệm nào nói cho em biết đi, không thì em không lấy đâu và em giận à... nghe.
Ấm ớ mãi rồi loanh quanh câu nọ bá ngọ câu kia, sau cùng Joe đành thú nhận:
- Anh ăn cắp ở nghĩa địa rồi về cắm lại. Coi cũng đẹp đấy chứ.
Lisa nổi giận đùng đùng la Joe là điên.. là tồi tệ đi ăn cắp cả hoa của người chết... Rồi bữa sau Lisa dọn đi "good bye" Joe ngay tức khắc. Kể xong Dan lắc đầu bảo tôi:
- Đấy mày thấy không. Đó là một lý do trong nhiều lý do mất hoa ở nghĩa địa.
Tới phiên tôi ở nghĩa địa thì tôi dùng dằng giữa ở và đi. Yến có hỏi tôi chỉ nói nghĩa địa nghe ghê quá chứ không nói lý do khác. Nhưng Yến lại tác động tinh thần tôi rằng, mới nhận việc mà tôi tạo ấn tượng không tốt với người ta, thì làm việc lâu dài làm sao được.
Nàng tấn thêm ngày xưa anh ở quân đội đi đêm đi hôm, ngủ bờ ngủ bụi cũng từng nằm ở bãi tha ma thì anh có sợ đâu. Nghe vậy tôi đành nhắm mắt đi đại.
Sáu giờ chiều khi đến chòi canh tại nghĩa địa thấy đèn đuốc sáng trưng tôi cũng hơi yên tâm, mà lại có hai thằng thì cũng không đáng lo ngại. Nhưng khi vào trong chòi canh, thì cái thằng ca trước bàn giao lại cho biết cái thằng cùng ca với tôi cáo bệnh, không đến được nên tối nay tôi phải gác một mình.
Tôi giận ứa gan nhưng làm mặt tỉnh vì không muốn lộ ra, để cho thằng này biết là tôi đang... run trong bụng thì xệ quá đi. Trong khi nó tóm lược nhiệm vụ tại đây cho tôi nghe, thì mắt nó cứ nhìn tôi đăm đăm như muốn nhìn cho thấu tim óc tôi đang nghĩ gì...
Nó cho biết thêm rằng: Tối nay chỉ còn một người duy nhất đi ra khỏi đây vào khoảng chín giờ tới mười giờ là thằng con lão chủ lò thiêu, vì vậy tôi sực nhớ đến lời thằng Dan nói về thằng khùng này, và hơi nôn nao trong lòng vì không biết tối nay nó có chơi trò gì không, và tôi phải đợi nó đi rồi thì mới an tâm...
Tôi ngồi xuống bàn nhìn ra cửa vặn radio nhè nhẹ cho bớt lạnh... lẽo rồi nghĩ ngợi và tự an ủi mình: Chuyện đâu có đó lo cái gì. Công việc này cũng giản dị, mình chỉ chờ cho con chủ lão lò thiêu về rồi thì đóng cổng, vì đâu còn ai ra vô cho tới sáng mai.
Khoảng hơn chín giờ nghe tiếng xe rồ từ lò thiêu nên tôi vội bước ra cửa chòi canh. Ngay lúc đó chiếc xe lao tới cổng, tôi đứng sát lề cổng để cho nó nhìn thấy, và tôi ráng giữ vẻ bình thường để cho nó thấy là tôi không có nôn nao gì cả.
Khi xe đó tới gần cổng nó lái chậm lại rồi thật chậm khi qua chỗ tôi đứng. Tôi tưởng nó muốn nói "good night" hay gì gì đó, nhưng khi chiếc xe tới ngay trước mặt tôi, tôi căng mắt nhìn vào trong xe thì thấy một bàn tay đàn bà nhếch nhác máu, chĩa ra khỏi cửa sổ xe rung lên rung xuống.
Tôi khiếp đảm thét lên một tiếng rồi ù té chạy ra cổng, và cứ thế tôi cắm đầu vắt chân lên cổ chạy và chạy... nhưng tiếng xe và ánh đèn vẫn rề rề theo tôi.
Con đường vắng lặng hun hút nếu muốn cho chiếc xe này không bắt kịp tôi, thì chỉ còn một cách là nhẩy qua hàng rào trở vào nghĩa địa... nhưng điều này thì tôi không dám rồi, nên tôi giở hết vận tốc và tim tôi muốn nhẩy thót ra ngoài.
Chạy được hơn một dặm coi bộ tôi khó thoát khỏi chiếc xe này, nên tôi lao đến một thân cây bên lề đường để hãm "phanh" lại và tôi cố cúi xuống lượm một cục đá đứng chờ. Khi nó thấy tôi đứng lại chiếc xe đó cũng chậm lại rề tời gần, nhưng không gần lắm.
Tới khoảng cách tôi có thể ném cục đá thì nó dừng lại. Tôi thấy thằng đó mở cửa xe bước ra tôi liền giơ cục đá lên thủ thế, thì có tiếng gọi tên tôi. Nghe giọng quen thuộc tôi nheo mắt cố nhìn, thì thấy con lão chủ lò thiêu có vóc dáng quen thuộc, trong khi nó lại tiếp tục gọi tên tôi. Tôi bước chậm chậm lại gần nó nhìn kỹ thì té ngửa.
- Có phải mày không Dan?
Thì ra thằng đó không phải là thằng con lão chủ lò thiêu mà là thằng Dan. Nó ôm bụng cười rồi cười lăn lộn xuống mặt đường, cười tới khi nước mắt nó ràn rụa cũng chưa thôi.
Còn tôi thì giận cành hông muốn cho nó bị chấn tim chết cho rồi, hoặc nếu đủ can đảm tôi đã táng cục đá một phát vào cái mặt mẹt của hắn. Chuyện này đồn ra thì còn gì phong độ "security guard" của tôi và làm thế nào để khoá cái mồm thằng này.
Té ra không có ai là con của lão chủ lò thiêu cả. Còn cái cánh tay đầy máu me là cánh tay giả của cái hình trưng bày quần áo mẫu, của mấy tiệm như Sears hay Burdine mà thôi. Dan giải thích rằng chú nó điều hành nghĩa địa này còn nó thì làm " janitor " dọn dẹp ba tối một tuần cho chú nó.
Đi trở lại chòi canh thì thấy thằng ca trước đã bàn giao cho tôi, không biết ở đâu lù lù hiện ra và khi thấy tôi nó cũng ôm bụng cười lăn lộn.
Dan bò mộng cho tôi biết rằng đây là chính sách của công ty, mỗi khi có nhân viên mới đều được đem thử cựa coi "bóng vía" của người đó "cứng" như thế nào, và Dan bò mộng là người thi hành cái "test" đó. Sau khi hiểu chuyện tôi cảm thấy dễ chịu hơn và không còn sợ ma sợ quỷ gì cả nên quyết định giữ cái việc này chứ không bỏ.
Năm mười ngày sau lại tới phiên tôi gác nghĩa địa nữa, nhưng ca khá hơn từ hai giờ chiều đến nửa đêm. Không may bữa đó xe tôi bị hư phải bỏ tiệm sửa nên Yến phải chở tôi đi làm, nhưng tôi không muốn Yến phải đến nghĩa địa nửa đêm đón, nên tôi bảo để tôi đi xe buýt về cũng được.
Mãn ca tôi nhờ thằng cùng ca chở tôi ra phố chính để đón xe buýt. Khi tới trạm nó ngó đường phố vắng lặng xung quanh rồi hỏi tôi:
- Mày thấy thế nào? Có điều gì lo ngại không?
Tôi bình thản trả lời:
- Không sao. Chờ một chút xe buýt đến thì về chứ có gì đâu. Cám ơn mày.
Nó rồ máy đi rồi, tôi thọc hai tay vào túi áo khoác ngồi xuống băng ghế, rồi ngó con đường vắng teo dưới ánh đèn vàng khè thưa thớt chợt rùng mình. Trời lại không có trăng sao và những căn phố hầu hết tắt đèn đóng cửa tối thui. Tôi nhìn lên bảng thời khóa biểu xe đến và đi, thì chuyến chót còn nửa tiếng nữa tức là một giờ khuya, nên tôi ráng tự trấn an bấm bụng chờ.
Chờ cho đến một giờ rồi gần một rưỡi cũng không thấy bóng dáng xe buýt đâu, tôi bước ra sát lề đường ngó trái ngó phải, thì con đường vẫn hun hút im lặng không có một cái gì di động.
Tôi lẩm bẩm:
- Thế này là thế nào? Không lẽ xe buýt mà cũng bị "ban" nữa hay sao? Bỗng tôi thấy có hai đốm sáng xuất hiện từ xa rồi từ từ gần lại chỗ tôi đứng, khiến tôi thở phào nhẹ nhõm. Nhưng khi chiếc xe đó đến gần thì không phải xe buýt mà là một xe nhà, và khi đến ngang chỗ tôi đứng thì ngừng lại và một bà tóc đã hoa râm thò đầu ra cửa sổ hỏi:
- Có phải ông đang đợi xe buýt không?
- Dạ phải.
- Nếu vậy thì có lẽ ông phải đợi tới sáng quá vì cách đây ba bốn dặm có một tai nạn xẩy ra, xe bị chặn lại cả hàng dặm không biết đến khi nào mới giải tỏa.
Tôi ngán ngẩm nhưng cũng vẫn lịch sự:
- Cảm ơn bà đã cho biết.
Bà ta nói "good luck" rồi rồ xe đi còn lại mình tôi trơ trọi không biết tôi sẽ phải làm gì bây giờ. Nhìn quanh không thấy có cái bục điện thoại trả tiền nào cả, nên tôi quyết định đi bộ về nhà, nhưng để ý nếu thấy bục điện thoại thì gọi cho Yến.
Tôi đi được khoảng gần một dặm thì tự nhiên tôi nghe thấy cứ mỗi bước tôi bước, hình như có tiếng chân ai bước theo tôi. Tôi ngừng thì thấy tứ bề im lặng, tôi ngoái cổ nhìn lại thì không thấy ai nên tôi lại cất bước thì cái tiếng bước đó lại vang lên, khiến tôi nôn nao rảo bước cho nhanh, kệ nó cái gì ở đằng sau thì cái, còn tôi cứ cắm đầu bước.
Bỗng dưng tôi thấy lạnh ở gáy như có ai vừa thở phà ở sau ót tôi khiến tóc gáy tôi dựng lên, nhưng tôi cứ rảo bước tới như chạy. Được vài phút thì tôi lại bỗng nghe thấy tiếng hầm hừ rồi nghiến răng trèo trẹo ở đâu đó gần tôi nên tôi ngoảnh lại ngó thì eo ơi, một bóng dáng khổng lồ dềnh dàng đồ sộ như mấy thằng Mỹ đen ở đô vật tôi thường thấy trên tivi.
Nó mặc quần áo màu đen sậm, chân nó đi đôi ủng trông như chân voi, cái áo khoác ngoài của nó có cái chùm đầu che kín tới trán chỉ còn để lộ ra hai đốm sáng như hai mắt con chó mình thấy ban đêm, và nó nhe hàm răng trắng ởn không biết đang giận dữ hay đang cười nhưng nó cứ gừ gừ như con chó sói sắp vồ mồi.
Tôi phóng chạy thật nhanh không dám ngoảnh lại đằng sau ngó, chạy vắt giò lên cổ chạy không cần biết sẽ đụng phải cái gì đằng trước. Tôi chạy miết tới một ngã tư có đèn sáng tôi mới dừng lại ôm một gốc cây thở dốc ngó lại thì không thấy bóng dáng quỷ quái đó đâu.
Tôi mệt muốn đứt hơi nên gục đầu vào thân cây để thở và nhắm mắt dưỡng thần một hai phút xong rồi tôi ngó lại hướng cũ coi có thấy "nó" theo nữa không.
Tôi nghĩ bây giờ thì chỉ có một cách tìm điện thoại để gọi Yến, chứ có đi bộ thì cũng đến sáng mới về tới nhà. Mà sáng mới về tới nhà thì sẽ nói làm sao cho Yến tin là xe buýt bị kẹt đường là tôi bị quỷ đuổi. Tôi than thầm trong bụng: Em Yến ơi, em mà chứng kiến cảnh này, thì sẽ không bao giờ la lối đay nghiến anh nữa, nhưng làm sao gọi Yến bây giờ?
Tôi mệt mỏi lết cặp giò trên đường phố để tìm cái bục điện thoại, mà mắt còn nhìn ngang nhìn dọc xem có con ma con quỷ nào xuất hiện không và tôi tự rủa mình:
- Tại sao bây giờ mình lại sợ ma sợ quỷ? Chẳng lẽ cái "khí phách can trường" ngày xưa tiêu mất rồi à? Nghĩ vậy nhưng nhìn đường phố bụng tôi lại đánh lô tô và tôi cầu nguyện:
- Xin Trời Phật giúp cho con đi đúng hướng... kiếm thấy điện thoại...Rồi tôi la toáng lên:
- Mai ông không làm "security guard" nữa. Khổ quá đi.
Trần Ngân Tiêu
Vài năm trước đây tôi mua căn nhà mới chưa đầy mười hai tháng, thì bị mất việc bởi công ty họ "downsize" mà không may cái khúc cắt đó có tôi. Tính lãnh tiền thất nghiệp nghỉ xả hơi một thời gian nhưng coi bộ không ổn vì nhu cầu chi nhiều hơn thu, vì vậy tôi phải kiếm và chấp nhận bất cứ việc gì làm tạm thời để ổn định ngân quỹ, còn việc mình vừa ý thì kiếm sau.
Đọc báo thấy quảng cáo học khóa "security" chỉ tốn có mấy chục đồng là có giấy phép hành nghề, tôi liền thử coi ra làm sao. Tuy công việc không phải khuân vác gì nhưng thời biểu bất thường, có bữa làm ngày có khi làm đêm thức lòi con mắt nhưng tôi cố bấm bụng tự an ủi:
- Làm tạm mà.
Tôi khoe với Yến vợ tôi cái bằng hành nghề. Yến cắc cớ hỏi:
- Anh làm cái gì?
Nếu nói là gác dan thì xệ quá mà nói là làm "an ninh" thì nghe hơi quá, nên tôi nói tiếng Anh là "Security Guard " cho nó oai một chút. Nhưng tôi phải thêm vào là "Unarmed Security Guard".
Khi xin được việc làm rồi tôi mới biết rằng khi một nhân viên mới vào nghề , công ty này họ thường chỉ định người đó luân phiên gác ở những địa điểm khác nhau, để thử cựa nhân viên đó thích hợp ở địa điểm nào nhất.
Trong thời gian hướng nghệ này, may mắn thì được kèm bởi một con ma cũ tử tế thì lên tinh thần. Còn gặp thứ hay lòe hay hiếp đáp ma mới thì phải ráng mà chịu cho qua ngày tháng, hay là "quit".
Đêm đầu tiên tôi được phái đến gác cổng của một chung cư kèm bởi con ma cũ tên là Dan, mập như con bò mộng và có bước đi rất là dềnh dàng. Nhìn Dan thì có lẽ ai cũng đồng ý làm " security guard " rất hợp với vóc dáng của nó nhưng được cái nó tỏ ra rất tử tế hướng dẫn cho tôi công việc, và trách nhiệm địa điểm này ra sao.
Tôi đưa cho Dan coi thời khoả biểu bảy ngày, tại bảy địa điểm của tôi. Nó đọc rồi mách cho tôi biết địa điểm nào tốt, địa điểm nào ít người thích, nhưng riêng địa điểm của ngày thứ năm, đó là một nghĩa địa thì Dan lắc đầu nói:
- Tao không thích chỗ này nhất.
Dan bò mộng giải thích lý do người ta mướn gác ở nghĩa địa, vì có những người lén đến đó ban đêm ăn cắp hoa, và có kẻ còn tiện tay vặn luôn cái bình hoa bằng đồng ở mộ bia nữa mới là tệ.
Nó cho biết thêm căn nhà trên cái đồi cao của nghĩa địa đó là lò hoả thiêu, mà thằng con của lão chủ lò đó thuộc loại vừa khùng vừa mát. Có nhân viên gác đã thấy thằng đó lái xe ra cổng với một xác chết để ngồi ở băng trước với hắn. Đó là lý do những anh yếu bóng vía được phái đến địa điểm này thường xuyên đều bỏ việc.
Nghe thằng bò mộng kể tới đó tôi nghĩ nhanh trong đầu:
- Bữa đó ông cáo ốm không đi làm được thì họ phải kiếm thằng khác trám vào là xong chứ gì .
Nhưng thằng Dan lại nói thêm rằng, vì vậy công ty luôn phái hai thằng đến cùng một ca để cho họ có bạn. Nhờ vậy tôi cũng cảm thấy bớt nôn nao rồi làm ra vẻ hiền lành hỏi thằng Dan:
- Sao lại có hạng người tệ quá vậy? Ăn cắp hoa ở nghĩa địa làm gì ghê thấy mồ.
Dan cười:
- Mày biết không ở xã hội này chuyện gì cũng có thể xẩy ra hết. Họ ăn cắp về mang tới tiệm hoa bán lại kiếm chút bạc lẻ chứ ăn cắp làm gì. Cũng có kẻ hà tiện ra đó chôm hoa để khỏi phải đi mua.
Tao kể mày nghe... Ở chung cư tao có thằng Joe vừa đi học đại học vừa đi làm bán thời gian nên tiền bạc thì nó rất eo hẹp. May mắn nó chốp được em Lisa " move in " với nó sống như vợ chồng, chia tiền thuê nhà ăn uống, nhưng tiền tiêu riêng thì của đứa nào đứa nấy lo. Khổ cái thằng Joe này nó yêu em Lisa lắm nên chỉ mong có dịp tạo mỹ cảm trong lòng người yêu nhưng túi nó thì lại hơi rỗng mới khổ.
Bữa đó Lisa đi làm về thấy trên bàn có một bình hoa đồ sộ sặc sỡ và một bịch kẹo sô-cô-la hiệu là "Hershey's Kisses" cùng với tấm thiệp nhỏ đề: "To my lover, Lisa". Sau này Lisa cho biết rằng Lisa rất cảm động nhưng nghĩ Joe rất eo hẹp tiền bạc mà bình hoa này cả hơn trăm đô chứ ít đâu nên Lisa có ý định "return" bình hoa để lấy tiền lại chỉ giữ lại bịch kẹo, "only the thought count" mà. Vì vậy khi ngồi ăn cơm tối Lisa hỏi Joe:
- Anh mua bình hoa ở tiệm nào mà đẹp vậy?
Joe nhà ta ấm ớ vài giây rồi nói tên một tiệm hoa nào đó mà Lisa không hiểu. Im lăng vài phút Lisa lại hỏi:
- Anh mua bình hoa này ở tiệm nào nói cho em biết đi, không thì em không lấy đâu và em giận à... nghe.
Ấm ớ mãi rồi loanh quanh câu nọ bá ngọ câu kia, sau cùng Joe đành thú nhận:
- Anh ăn cắp ở nghĩa địa rồi về cắm lại. Coi cũng đẹp đấy chứ.
Lisa nổi giận đùng đùng la Joe là điên.. là tồi tệ đi ăn cắp cả hoa của người chết... Rồi bữa sau Lisa dọn đi "good bye" Joe ngay tức khắc. Kể xong Dan lắc đầu bảo tôi:
- Đấy mày thấy không. Đó là một lý do trong nhiều lý do mất hoa ở nghĩa địa.
Tới phiên tôi ở nghĩa địa thì tôi dùng dằng giữa ở và đi. Yến có hỏi tôi chỉ nói nghĩa địa nghe ghê quá chứ không nói lý do khác. Nhưng Yến lại tác động tinh thần tôi rằng, mới nhận việc mà tôi tạo ấn tượng không tốt với người ta, thì làm việc lâu dài làm sao được.
Nàng tấn thêm ngày xưa anh ở quân đội đi đêm đi hôm, ngủ bờ ngủ bụi cũng từng nằm ở bãi tha ma thì anh có sợ đâu. Nghe vậy tôi đành nhắm mắt đi đại.
Sáu giờ chiều khi đến chòi canh tại nghĩa địa thấy đèn đuốc sáng trưng tôi cũng hơi yên tâm, mà lại có hai thằng thì cũng không đáng lo ngại. Nhưng khi vào trong chòi canh, thì cái thằng ca trước bàn giao lại cho biết cái thằng cùng ca với tôi cáo bệnh, không đến được nên tối nay tôi phải gác một mình.
Tôi giận ứa gan nhưng làm mặt tỉnh vì không muốn lộ ra, để cho thằng này biết là tôi đang... run trong bụng thì xệ quá đi. Trong khi nó tóm lược nhiệm vụ tại đây cho tôi nghe, thì mắt nó cứ nhìn tôi đăm đăm như muốn nhìn cho thấu tim óc tôi đang nghĩ gì...
Nó cho biết thêm rằng: Tối nay chỉ còn một người duy nhất đi ra khỏi đây vào khoảng chín giờ tới mười giờ là thằng con lão chủ lò thiêu, vì vậy tôi sực nhớ đến lời thằng Dan nói về thằng khùng này, và hơi nôn nao trong lòng vì không biết tối nay nó có chơi trò gì không, và tôi phải đợi nó đi rồi thì mới an tâm...
Tôi ngồi xuống bàn nhìn ra cửa vặn radio nhè nhẹ cho bớt lạnh... lẽo rồi nghĩ ngợi và tự an ủi mình: Chuyện đâu có đó lo cái gì. Công việc này cũng giản dị, mình chỉ chờ cho con chủ lão lò thiêu về rồi thì đóng cổng, vì đâu còn ai ra vô cho tới sáng mai.
Khoảng hơn chín giờ nghe tiếng xe rồ từ lò thiêu nên tôi vội bước ra cửa chòi canh. Ngay lúc đó chiếc xe lao tới cổng, tôi đứng sát lề cổng để cho nó nhìn thấy, và tôi ráng giữ vẻ bình thường để cho nó thấy là tôi không có nôn nao gì cả.
Khi xe đó tới gần cổng nó lái chậm lại rồi thật chậm khi qua chỗ tôi đứng. Tôi tưởng nó muốn nói "good night" hay gì gì đó, nhưng khi chiếc xe tới ngay trước mặt tôi, tôi căng mắt nhìn vào trong xe thì thấy một bàn tay đàn bà nhếch nhác máu, chĩa ra khỏi cửa sổ xe rung lên rung xuống.
Tôi khiếp đảm thét lên một tiếng rồi ù té chạy ra cổng, và cứ thế tôi cắm đầu vắt chân lên cổ chạy và chạy... nhưng tiếng xe và ánh đèn vẫn rề rề theo tôi.
Con đường vắng lặng hun hút nếu muốn cho chiếc xe này không bắt kịp tôi, thì chỉ còn một cách là nhẩy qua hàng rào trở vào nghĩa địa... nhưng điều này thì tôi không dám rồi, nên tôi giở hết vận tốc và tim tôi muốn nhẩy thót ra ngoài.
Chạy được hơn một dặm coi bộ tôi khó thoát khỏi chiếc xe này, nên tôi lao đến một thân cây bên lề đường để hãm "phanh" lại và tôi cố cúi xuống lượm một cục đá đứng chờ. Khi nó thấy tôi đứng lại chiếc xe đó cũng chậm lại rề tời gần, nhưng không gần lắm.
Tới khoảng cách tôi có thể ném cục đá thì nó dừng lại. Tôi thấy thằng đó mở cửa xe bước ra tôi liền giơ cục đá lên thủ thế, thì có tiếng gọi tên tôi. Nghe giọng quen thuộc tôi nheo mắt cố nhìn, thì thấy con lão chủ lò thiêu có vóc dáng quen thuộc, trong khi nó lại tiếp tục gọi tên tôi. Tôi bước chậm chậm lại gần nó nhìn kỹ thì té ngửa.
- Có phải mày không Dan?
Thì ra thằng đó không phải là thằng con lão chủ lò thiêu mà là thằng Dan. Nó ôm bụng cười rồi cười lăn lộn xuống mặt đường, cười tới khi nước mắt nó ràn rụa cũng chưa thôi.
Còn tôi thì giận cành hông muốn cho nó bị chấn tim chết cho rồi, hoặc nếu đủ can đảm tôi đã táng cục đá một phát vào cái mặt mẹt của hắn. Chuyện này đồn ra thì còn gì phong độ "security guard" của tôi và làm thế nào để khoá cái mồm thằng này.
Té ra không có ai là con của lão chủ lò thiêu cả. Còn cái cánh tay đầy máu me là cánh tay giả của cái hình trưng bày quần áo mẫu, của mấy tiệm như Sears hay Burdine mà thôi. Dan giải thích rằng chú nó điều hành nghĩa địa này còn nó thì làm " janitor " dọn dẹp ba tối một tuần cho chú nó.
Đi trở lại chòi canh thì thấy thằng ca trước đã bàn giao cho tôi, không biết ở đâu lù lù hiện ra và khi thấy tôi nó cũng ôm bụng cười lăn lộn.
Dan bò mộng cho tôi biết rằng đây là chính sách của công ty, mỗi khi có nhân viên mới đều được đem thử cựa coi "bóng vía" của người đó "cứng" như thế nào, và Dan bò mộng là người thi hành cái "test" đó. Sau khi hiểu chuyện tôi cảm thấy dễ chịu hơn và không còn sợ ma sợ quỷ gì cả nên quyết định giữ cái việc này chứ không bỏ.
Năm mười ngày sau lại tới phiên tôi gác nghĩa địa nữa, nhưng ca khá hơn từ hai giờ chiều đến nửa đêm. Không may bữa đó xe tôi bị hư phải bỏ tiệm sửa nên Yến phải chở tôi đi làm, nhưng tôi không muốn Yến phải đến nghĩa địa nửa đêm đón, nên tôi bảo để tôi đi xe buýt về cũng được.
Mãn ca tôi nhờ thằng cùng ca chở tôi ra phố chính để đón xe buýt. Khi tới trạm nó ngó đường phố vắng lặng xung quanh rồi hỏi tôi:
- Mày thấy thế nào? Có điều gì lo ngại không?
Tôi bình thản trả lời:
- Không sao. Chờ một chút xe buýt đến thì về chứ có gì đâu. Cám ơn mày.
Nó rồ máy đi rồi, tôi thọc hai tay vào túi áo khoác ngồi xuống băng ghế, rồi ngó con đường vắng teo dưới ánh đèn vàng khè thưa thớt chợt rùng mình. Trời lại không có trăng sao và những căn phố hầu hết tắt đèn đóng cửa tối thui. Tôi nhìn lên bảng thời khóa biểu xe đến và đi, thì chuyến chót còn nửa tiếng nữa tức là một giờ khuya, nên tôi ráng tự trấn an bấm bụng chờ.
Chờ cho đến một giờ rồi gần một rưỡi cũng không thấy bóng dáng xe buýt đâu, tôi bước ra sát lề đường ngó trái ngó phải, thì con đường vẫn hun hút im lặng không có một cái gì di động.
Tôi lẩm bẩm:
- Thế này là thế nào? Không lẽ xe buýt mà cũng bị "ban" nữa hay sao? Bỗng tôi thấy có hai đốm sáng xuất hiện từ xa rồi từ từ gần lại chỗ tôi đứng, khiến tôi thở phào nhẹ nhõm. Nhưng khi chiếc xe đó đến gần thì không phải xe buýt mà là một xe nhà, và khi đến ngang chỗ tôi đứng thì ngừng lại và một bà tóc đã hoa râm thò đầu ra cửa sổ hỏi:
- Có phải ông đang đợi xe buýt không?
- Dạ phải.
- Nếu vậy thì có lẽ ông phải đợi tới sáng quá vì cách đây ba bốn dặm có một tai nạn xẩy ra, xe bị chặn lại cả hàng dặm không biết đến khi nào mới giải tỏa.
Tôi ngán ngẩm nhưng cũng vẫn lịch sự:
- Cảm ơn bà đã cho biết.
Bà ta nói "good luck" rồi rồ xe đi còn lại mình tôi trơ trọi không biết tôi sẽ phải làm gì bây giờ. Nhìn quanh không thấy có cái bục điện thoại trả tiền nào cả, nên tôi quyết định đi bộ về nhà, nhưng để ý nếu thấy bục điện thoại thì gọi cho Yến.
Tôi đi được khoảng gần một dặm thì tự nhiên tôi nghe thấy cứ mỗi bước tôi bước, hình như có tiếng chân ai bước theo tôi. Tôi ngừng thì thấy tứ bề im lặng, tôi ngoái cổ nhìn lại thì không thấy ai nên tôi lại cất bước thì cái tiếng bước đó lại vang lên, khiến tôi nôn nao rảo bước cho nhanh, kệ nó cái gì ở đằng sau thì cái, còn tôi cứ cắm đầu bước.
Bỗng dưng tôi thấy lạnh ở gáy như có ai vừa thở phà ở sau ót tôi khiến tóc gáy tôi dựng lên, nhưng tôi cứ rảo bước tới như chạy. Được vài phút thì tôi lại bỗng nghe thấy tiếng hầm hừ rồi nghiến răng trèo trẹo ở đâu đó gần tôi nên tôi ngoảnh lại ngó thì eo ơi, một bóng dáng khổng lồ dềnh dàng đồ sộ như mấy thằng Mỹ đen ở đô vật tôi thường thấy trên tivi.
Nó mặc quần áo màu đen sậm, chân nó đi đôi ủng trông như chân voi, cái áo khoác ngoài của nó có cái chùm đầu che kín tới trán chỉ còn để lộ ra hai đốm sáng như hai mắt con chó mình thấy ban đêm, và nó nhe hàm răng trắng ởn không biết đang giận dữ hay đang cười nhưng nó cứ gừ gừ như con chó sói sắp vồ mồi.
Tôi phóng chạy thật nhanh không dám ngoảnh lại đằng sau ngó, chạy vắt giò lên cổ chạy không cần biết sẽ đụng phải cái gì đằng trước. Tôi chạy miết tới một ngã tư có đèn sáng tôi mới dừng lại ôm một gốc cây thở dốc ngó lại thì không thấy bóng dáng quỷ quái đó đâu.
Tôi mệt muốn đứt hơi nên gục đầu vào thân cây để thở và nhắm mắt dưỡng thần một hai phút xong rồi tôi ngó lại hướng cũ coi có thấy "nó" theo nữa không.
Tôi nghĩ bây giờ thì chỉ có một cách tìm điện thoại để gọi Yến, chứ có đi bộ thì cũng đến sáng mới về tới nhà. Mà sáng mới về tới nhà thì sẽ nói làm sao cho Yến tin là xe buýt bị kẹt đường là tôi bị quỷ đuổi. Tôi than thầm trong bụng: Em Yến ơi, em mà chứng kiến cảnh này, thì sẽ không bao giờ la lối đay nghiến anh nữa, nhưng làm sao gọi Yến bây giờ?
Tôi mệt mỏi lết cặp giò trên đường phố để tìm cái bục điện thoại, mà mắt còn nhìn ngang nhìn dọc xem có con ma con quỷ nào xuất hiện không và tôi tự rủa mình:
- Tại sao bây giờ mình lại sợ ma sợ quỷ? Chẳng lẽ cái "khí phách can trường" ngày xưa tiêu mất rồi à? Nghĩ vậy nhưng nhìn đường phố bụng tôi lại đánh lô tô và tôi cầu nguyện:
- Xin Trời Phật giúp cho con đi đúng hướng... kiếm thấy điện thoại...Rồi tôi la toáng lên:
- Mai ông không làm "security guard" nữa. Khổ quá đi.
Trần Ngân Tiêu
#88
Gửi vào 19/06/2011 - 07:57
OAN HỒN ĐÒI MẠNG
Vĩnh là một thanh niên trên ba mươi, luôn luôn muốn tỏ ra là một người trí thức. Là một chuyên viên truyền hình, anh được hoãn dịch khi cuộc chiến chưa tới hồi khốc liệt. Tuy nhiên sau cuộc tấn công tết Mậu Thân, Vĩnh bị động viên và nhập ngũ với cấp bậc binh nhì.
Sau ba năm trời lăn lộn trên chiến trường, Vĩnh được biệt phái về đài truyền hình. Hình như Vĩnh lập được nhiều thành tích đáng kể trong quân đội, nhưng anh không bao giờ thổ lộ với ai. Cuộc chiến quá tàn bạo đối với một thanh niên muốn tỏ ra là người trí thức.
Khoảng hai năm sau khi được biệt phái, Vĩnh tâm sự với Khải một người bạn thân, về ý định viết một quyển tiểu thuyết trinh thám, vì từ hồi nhỏ Vĩnh vẫn say mê nhân vật thám tử Kỳ Phát của nhà văn Phạm Cao Củng.
Vĩnh nói rằng việc tạo ra các nhân vật rồi đưa họ vào những hoàn cảnh do chính mình tạo ra với những chứng cớ giả tạo nhưng có vẻ hợp lý, có lẽ thú vị hơn là đọc chuyện của người khác và bị hướng dẫn bởi những chứng cớ giả tạo của họ. Anh nói:
- Tôi muốn viết một câu chuyện hoàn toàn bí mật cho tới khi độc giả đọc tới dòng chữ cuối cùng.
Khải hỏi bạn:
- Thế ông đã có ý tưởng gì chưa?
- Có chứ! Trong câu chuyện của tôi, kẻ sát nhân thực ra lại không ra tay giết người.
Khải hơi nhíu mày:
- Ê chỗ này coi bộ hơi lôi thôi rồi đấy! Tại sao đã gọi là kẻ sát nhân mà lại không giết người?
Vĩnh mỉm cười:
- Thế mới hay chứ! Kẻ sát nhân tìm thấy nạn nhân trong tình trạng nguy ngập mà nếu hắn không chịu giúp đỡ, nạn nhân sẽ chết. Hắn đâu có giết tuy hành động của hắn có nhiều yếu tố cấu thành tội phạm...
Tuy nhiên trước khi khởi sự, tôi muốn chế ra một loại mật mã rất tầm thường nhưng rất khó khám phá, loại mật mã mà mọi người thường thấy nhưng không bao giờ nghĩ rằng chúng lại được xử dụng để truyền đạt tin tức.
Khải có vẻ suy nghĩ:
- Tin tức... ngắn hay dài?
- Ngắn thôi! Loại tin tức mà bọn tội phạm dùng báo động, hẹn gặp... đại khái như vậy.
Khải nhìn Vĩnh:
- Tôi sẽ suy nghĩ về việc này. Nếu tìm được cái gì, tôi sẽ cho ông hay.
Chỉ hai hôm sau, Khải vui vẻ bước vào apartment của Vĩnh:
- Tôi tìm ra được một loại mật mã cho ông rồi!
Vĩnh nhìn bạn với vẻ nghi ngờ:
- Ông thử viết vài ký hiệu xuống xem.
Khải lắc đầu mỉm cười bí mật:
- Hay ở chỗ là loại mật mã này không cần ký hiệu. Chúng có thể được học thuộc lòng trong vài phút, và sẽ không ai có thể khám phá được, ngoại trừ tay thám tử siêu nhân mà ông đẻ ra trong chuyện.
Rồi Khải nói đùa:
- Ông phải chia ba chục phần trăm tác quyền cho tôi đấy nhá!
Vĩnh gật gù:
- Để coi! Bây giờ ông thử nói xem mật mã của ông là cái gì mà ghê thế!
Khải chậm rãi nói:
- Khi một tên gian muốn liên lạc với đồng bọn, hắn chỉ cần gởi cho tên kia một bộ bài. Hoặc có thể những quân bài của hai ba bộ, tùy theo tin tức dài hay ngắn. Dĩ nhiên những con bài còn lại phải có đủ để tránh nghi ngờ trong trường hợp bị thất lạc.
Vĩnh chau mày:
- Tôi không hiểu ông muốn nói cái gì.
- Dễ quá mà! Chữ Việt mình có hai mươi bốn mẫu tự, nhưng mình nên dùng mẫu tự Tây phương với hai mươi sáu chữ ,trong trường hợp cần dùng những chữ j, w hoặc z. Ông cũng biết một bộ bài có năm mươi hai lá, điều này có nghĩa là mỗi mẫu tự được tượng trưng bằng hai lá bài.
- Ông có thể nói rõ hơn một chút được không?
- Thế này nhá tính theo thứ tự cơ, rô, chuồn, bích thì ách cơ sẽ là chữ a, già cơ sẽ là chữ b, đầm cơ chữ c.... theo thứ tự đó hai rô sẽ là chữ z. Khi một tên gian trong chuyện của ông muốn báo một tin gì cho đồng bọn, hắn chỉ việc xếp những con bài theo thứ tự...
Vĩnh gật gù thán phục:
- Có lý quá!
Khải nói tiếp:
- Sau khi nhận tin tên kia sẽ hủy bỏ ngay, một cách rất tự nhiên và dễ dàng bằng cách xào bài là xong.
Trong trường hợp bộ bài lọt vào tay phe địch hoặc cảnh sát, ngay khi những người này xem xét những quân bài để tìm dấu tích, thì chính họ đã xóa bỏ những dấu tích đó rồi.
Vĩnh đập mạnh tay vào đùi:
- Hết sẩy!
- Ông nên nhớ một điều là một bộ bài thường không đủ, vì trong một tin tức nào đó dù thật ngắn cũng có thể có nhiều chữ trùng nhau, bởi thế mỗi tên gian trong chuyện của ông, sẽ có khoảng mười bộ bài để có thể gởi những tin dài cho nhau. Lỡ có ai nhìn thấy những bộ bài này, cùng lắm họ chỉ nghĩ rằng bọn chúng là những tay cờ gian bạc lận mà thôi.
Vĩnh có vẻ hứng khởi:
- Thật là một sự trùng hợp hiếm hoi. Hồi sáng này lão Thân bên thuế vụ mới cho tôi một thùng bài tây mà lão tịch thu được. Để tôi lấy ra coi.
Vĩnh đứng dậy bước tới cái tủ nhỏ ở góc phòng, mở cửa lấy ra một bọc mười hai bộ bài còn bọc trong giấy bóng kính đem lại đặt lên bàn:
- Bây giờ tôi thử rút vài quân ra xem theo mật mã của ông chúng sẽ thành chữ gì.
Vĩnh và Khải cùng xé giấy bóng kính ra, mở hộp đổ mấy bộ bài lên mặt bàn. Vĩnh rút hai quân:
- Bảy chuồn, ách cơ... là chữ gì?
Khải nói ngay:
- Bảy chuồn là chữ h, còn ách cơ là chữ a. Ha.
Vĩnh rút thêm bốn lá nữa. Khải coi từng lá một theo thứ tự:
- Sáu cơ... là chữ i, chín rô... chữ s, ách chuồn... chữ o, ách rô... chữ n. Như vậy sáu lá bài mà ông mới rút là chữ haison, có thể là hai sơn hoặc hải sơn gì đó.
Mặt Vĩnh chợt tái xanh hai tay run lẩy bẩy, những giọt mồ hôi không biết ở đâu đột nhiên ướt đầm trên trán. Khải nhìn bạn ngạc nhiên:
- Ủa ông... ông làm sao vậy?
Vĩnh lắc đầu:
- Không... không sao!
Khải nhìn bạn lo lắng:
- Ông có cảm thấy khó chịu hay là... cái gì không?
- Không, tại sao?
- À... thì... sau khi tôi đọc mấy lá bài là hai sơn hoặc hải sơn gì đó, ông có vẻ hốt hoảng thấy rõ, mồ hôi mồ kê chảy ròng ròng làm như mấy chữ này có một ý nghĩa gì rất quan trọng đối với ông.
Vĩnh không đáp chống hai tay lên bàn đứng dậy, lảo đảo đi tới mở tủ lạnh, lấy chai nước rót đầy ly, uống một hơi rồi nói với Khải:
- Tự nhiên tôi cảm thấy hơi mệt chứ không có gì hết.
Rồi anh cố lấy vẻ tự nhiên, bước tới ngồi xuống đối diện bạn:
- Mật mã của ông hết sẩy. Chắc chắn tôi sẽ sử dụng trong câu chuyện của tôi.
Sau buổi tối hôm đó ngoài những lúc gặp nhau ở truyền hình, mỗi tuần Khải lại tới gặp Vĩnh vài lần xem câu chuyện trinh thám mà Vĩnh dự tính viết đã tới đâu rồi. Tuy nhiên Vĩnh lại bị cái bệnh của các nhà văn mới, nghĩa là rất hăng say khi tìm được một ý tưởng, nhưng khi bắt tay vào việc thì lại không biết mở đầu câu chuyện ra sao.
Vĩnh nói với Khải rằng anh không được khỏe và anh chưa muốn khởi sự cho tới khi cảm thấy đầy đủ phong độ. Khải cũng thấy Vĩnh có vẻ bệnh hoạn thật, và không hiểu tại sao lúc sau này Vĩnh uống rượu nhiều quá.
Nói mãi không được Khải cảm thấy tội nghiệp cho bạn khi thấy Vĩnh có vẻ xuống tinh thần, mặt mày lúc nào cũng bơ phờ hốc hác. Khải nghĩ rằng có lẽ Vĩnh gặp điều gì rất bất thường nên mới thay đổi một cách lạ lùng như vậy. Anh quyết định tìm hiểu để may ra có thể giúp được gì cho bạn.
Khoảng một tháng sau một buổi tối Khải tới cư xá Thanh Đa thăm Vĩnh. Bước hết những bực thang tối tăm vừa lên tới lầu hai, Khải chợt thấy một bóng đen rời khỏi cửa apartment của Vĩnh bước về phía anh.
Khải né sang một bên để người lạ mặt đi qua, nhìn theo ông ta bước thật êm xuống những bực thang. Người lạ mặt có một cái gì bất thường khiến Khải cảm thấy xương sống lạnh buốt. Vừa suy nghĩ Khải vừa bước tới gõ cửa căn apartment của Vĩnh.
Tiếng gõ cửa của Khải được đáp lại bằng một giọng đầy vẻ hoảng hốt của Vĩnh:
- Ai đó? Ai đó?
- À, Khải đây.
Vừa nói Khải vừa đẩy cửa bước vào. Trong phòng khách Vĩnh đầu tóc bù rối, đôi mắt đỏ ngầu đang ngồi trước một núi quân bài trên bàn. Khải nói:
- Sao, ông đang làm quen với mấy lá bài để chuẩn bị viết phải không? Hy vọng là tôi không đuổi khách của ông vì khi tôi vừa lên tới lầu hai thì ông ta đã ra khỏi cửa.
Khuôn mặt Vĩnh tự nhiên trắng bệch:
- Khách của tôi?
- Đúng! Một quân nhân.
Vĩnh hừ lớn:
- Quân nhân? Sao ông biết?
- Ông ta bận bộ quân phục tác chiến, dù trong tối tôi cũng thấy rõ. Hình như quân phục Biệt Động thì phải.
Vầng trán Vĩnh nhăn lại giọng anh đầy vẻ hoang mang:
- Ông ta... coi ra sao?
- Cao lớn. Bộ quân phục có vẻ... không được sạch sẽ lắm, dường như ông ta mới từ mặt trận trở về.
Vĩnh đưa hai tay lên ôm mặt:
- Hừ! Thì ra đó là sự thật! Tôi không bị ảo giác. Tôi không điên vì chính ông cũng thấy. Ông nói đúng, hắn ta vừa trở về từ mặt trận, nhưng đó là mặt trận dưới địa ngục.
Khải nhìn bạn không chớp mắt, trong bụng nghĩ thầm: "coi bộ không khá rồi” tuy nhiên ngoài miệng cố nói một cách vui vẻ:
- Nếu tôi không lầm thì ông đã có những ý tưởng mới cho câu chuyện. Ông đã khởi sự chưa? À có lẽ chưa vì ông còn đang dợt những mật mã mà tôi sáng chế phải không?
Dứt lời Khải cất tiếng cười cho không khí bớt nặng nề. Nhưng Vĩnh lừ mắt gằn giọng:
- Ông không sáng chế cái gì hết! Cái ý tưởng đó được nhét vào đầu óc ông và ra lệnh cho ông đem tới để hành hạ tôi. Tôi luôn luôn tránh né lũ thầy bói, những kẻ nghĩ rằng họ có thể liên lạc được với thế giới bên kia bằng cách... dùng những lá bài. Tối hôm đó, chính ông đã bị thúc đẩy nói ra loại mật mã quái quỷ đó và buộc tôi phải rút mấy lá bài đó.
Trước những lời nói không đâu của bạn Khải bực bội cười khẩy:
- Ông đừng giả bộ điên nữa! Chính tôi đã nghĩ ra loại mật mã đó và chính ông đã tự tay rút ra mấy quân bài vô nghĩa đó.
Vĩnh nói gần như gào lên:
- Tôi không điên! Mấy quân bài đó không phải là vô nghĩa vì nó là tên của một người mà tôi vẫn cố tránh không nghĩ tới.
Khải sửng sốt nhìn bạn không nói. Vĩnh chợt thở dài:
- Tôi nghĩ rằng có lẽ tôi nên nói với ông tất cả. Bây giờ tôi không cảm thấy hổ thẹn gì nữa vì tôi đang ở trong tình trạng khủng hoảng cùng cực. Khi nào ông ở trong tình trạng khủng hoảng như tôi bây giờ, ông sẽ không còn cảm thấy hổ thẹn gì nữa. Để tôi nói hết cho ông nghe...
...Có lẽ ông đã biết rõ về đời lính của tôi. Tôi chỉ nhập ngũ khi bị động viên. Sau thời gian huấn luyện, tôi bị đưa tới một đơn vị Biệt Động nổi tiếng, và bị đẩy vào một tiểu đội dưới quyền chỉ huy của Hai Sơn.
Hai Sơn là người từ binh nhì lên tới trung sĩ và đã mấy lần bị thương. Không ai chối cãi được rằng hắn ta là một quân nhân can trường, nhưng không ai ưa hắn. Có lẽ vì hắn không biết sợ là gì và thường chế nhạo những kẻ mà hắn gọi là đồ chết nhát.
Không hiểu tại sao hắn lại đặc biệt lưu ý đến tôi. Có lẽ vì vẻ trí thức của tôi. Cũng có thể vì tôi sợ dơ, sợ khó, sợ khổ. Tôi không biết mà chỉ biết một điều là hắn đì tôi tối đa.
Hắn hành hạ tôi khi ở hậu cứ cũng như ngoài mặt trận. ở hậu cứ, hắn bắt tôi làm những công việc nặng nhọc nhất bẩn thỉu nhất. Ngoài chiến trường hắn bắt tôi thi hành những nhiệm vụ nguy hiểm nhất.
Những ngày quân ngũ của tôi là những ngày địa ngục! Vì hắn! Đáng lẽ tôi đã được biệt phái ngay từ năm đầu, nhưng tôi tin rằng chính hắn đã tìm cách ngăn chặn. Bởi thế tôi chỉ mong hắn chết, và tôi không phải là người duy nhất mong muốn điều này, có lẽ chỉ ngoại trừ các sĩ quan vì hắn là người luôn luôn tình nguyện nhận lãnh những nhiệm vụ nguy hiểm nhất.
Mỗi lần như vậy hắn luôn luôn bắt tôi đi cùng, vì hắn biết tôi rất ghét những việc đó. Tôi biết hắn đang nghe những gì tôi nói với ông bây giờ, nhưng tôi cóc cần vì tôi chỉ nói với ông một sự thật giữa hắn và tôi.
Một đêm hắn được lệnh dẫn tiểu đội đột nhập đất địch làm công việc trinh sát. Dĩ nhiên hắn bắt tôi đi cùng vì hắn biết tôi rất sợ những công tác như vậy.
Xui xẻo cho chúng tôi là có lẽ chúng tôi đã bị địch phát hiện từ đầu, nhưng chúng chờ cho tới khi chúng tôi đi thật sâu vào đất của chúng, chúng mới nổ súng.
Tiểu đội của tôi có tám mạng thì sáu bị bắn gục tại chỗ. Chỉ có hắn và tôi chạy thoát. Biết thế nào cũng bị chúng chặn hậu, trong đêm tối tôi chạy thẳng vào vùng đất địch trước khi chạy về mé trái, hướng về một cánh rừng già, ngược chiều với hướng về đơn vị.
Trong đêm tối mịt mù tôi bị lạc. Sau khi đi lang thang trong bóng tối hàng tiếng đồng hồ, tôi té xuống một hố bom đè lên một xác người. Hai Sơn!
Nói là xác người thì không đúng vì hắn chưa chết, chỉ bị thương nặng và mất máu. Hắn dặn tôi nhớ kỹ địa thế nơi đó, trước khi ra lệnh cho tôi lập tức trở về đơn vị đưa người tới cứu hắn.
Sau khi được hắn chỉ đường, dù hai chân lết không muốn nổi, tôi cũng phải lập tức lên đường. Tôi không biết ông nghĩ sao về tôi vì sau khi tìm về đơn vị, tôi không nói với ai về Hai Sơn.
Lúc đó tôi tự bào chữa rằng việc đưa hai y tá tới cứu hắn quả là một việc làm quá nguy hiểm. Có thể vì máu ra quá nhiều hắn đã chết rồi. Tôi không thể để ba mạng người phải hy sinh vì một xác chết.
Tuy ngay hôm sau một trung đội được lệnh tiến vào đất địch để giải cứu các đồng đội, thực tế là để lượm xác, nhưng không ai đi tới nơi tôi gặp Hai Sơn lần cuối. Mọi người cho rằng hắn đã bị bắt hoặc bị hạ sát.
Một thời gian khá lâu sau khi được biệt phái, tôi hiểu rằng linh hồn cuồng nộ của Hai Sơn vẫn đang tìm tôi, vẫn muốn cho tôi biết về sự hiện hữu của hắn. Vì lý do đó tôi không bao giờ gặp gỡ những người có khả năng liên lạc với người chết.
Nhưng rồi chính ông đã đem hắn lại với tôi bằng những mật mã của ông. Khi tôi rút sáu lá bài và ông đọc thành chữ Hai Sơn, tôi biết rằng tôi không còn hy vọng trốn chạy linh hồn cuồng nộ của hắn nữa.
Trong trường hợp đó tôi muốn biết hắn muốn nói gì với tôi. Và kể từ đêm đó không đêm nào tôi rời khỏi mấy bộ bài. Tôi liên lạc với hắn.
Vĩnh ngưng lại. Vẻ mặt thật khổ sở. Khải đập tay lên bàn nói lớn:
- Ồ làm gì có chuyện đó. Ông chỉ bị ám ảnh thôi. Có thể ông suy nghĩ về việc đó nhiều quá.
Vĩnh cười khô khan:
- Nếu ông không tin ông hãy xào bài đi. Tôi sẽ quay lưng lại lượm mấy lá bài. Rồi ông dùng mật mã của ông đọc thử xem tôi nói có đúng hay không.
Khải biết rằng cách chữa bệnh ảo tưởng tốt nhất là chứng minh rằng đó chỉ là ảo tưởng. Anh đồng ý:
- Được!
Trong khi Vĩnh quay lưng Khải vừa xào bài vừa hỏi:
- Ông ta thường nói gì với ông?
Vĩnh lên tiếng với vẻ khó khăn:
- Những gì ông có thể đoán được. Đe dọa, đắng cay, xỉ vả, hận thù... đủ hết. Hắn không muốn ở đó một mình mà muốn tôi cùng tới đó để hắn có người ăn hiếp và hành hạ như xưa. Xong chưa? Tôi sẽ nhắm mắt khi lượm bài và ông đọc từng chữ khi tôi lật ngửa chúng.
Vĩnh rút khá nhiều lá bài và Khải lấy bút ghi vào một tờ giấy những gì những lá bài này “nói” qua mật mã của anh. Viết xong Khải liếc nhìn và la lên một tiếng hãi hùng vì những chữ do chính tay anh viết là hàng chữ:
“Mày không chịu tới với tao thì tao tới với mày”.
Mấy hôm sau người ta thấy Vĩnh ngồi chết trên ghế. Trên mặt bàn ngay trước mặt anh là một núi lá bài. Có lẽ Vĩnh đã biết trước những gì xẩy ra cho anh nên anh đã để lại mấy hàng chữ thật lớn trên bàn, yêu cầu không ai được đụng tới bất cứ vật gì cho tới sau khi Khải tới.
Buổi trưa trước khi Khải bước vào apartment của Vĩnh, một người hàng xóm nói với anh:
- Có lẽ ông Vĩnh chết từ tối hôm qua vì bác sĩ nói rằng người ông ấy đã lạnh. Người ta đã đưa ông ấy đi rồi tuy mọi thứ trong nhà vẫn đâu ở đó. Hình như nửa đêm hôm qua có người tới gặp ông ấy thì phải. Người đó chắc là quân nhân mới từ mặt trận trở về, vì sáng nay tôi thấy mấy vết giầy sô dính đầy bùn trước cửa.
Khải bước vào tim đập mạnh. Anh nhìn vào một hàng những lá bài lật ngửa. Qua mật mã của chính anh Khải run lẩy bẩy sau khi đọc hàng chữ:
“Mười hai giờ đêm nay. Hai Sơn”.
ST
LÃO NĂM ĐẠO TỲ
Hiếm khi người ta thấy lão tỉnh táo hoàn toàn. Gần như lúc nào người lão cũng phảng phất mùi rượu. Bất cứ ai nhìn thấy bộ dạng khập khiễng chân thấp chân cao từ xa của lão, cũng biết ngay là tướng đi của một người đang trong trạng thái là đà say.
Hình như rượu là một cái gì gắn liền với đời sống lão. Thiếu nó không được. Mới sáng sớm, đã thấy lão xuất hiện ở quán hủ tiếu mì đầu ngõ để làm một cái "xây chừng" rượu đế.
Có người ái ngại nói với lão:
- Ông uống kiểu nầy hoài có ngày chết đó.
Lão chỉ ngước mắt nhìn xéo lên người vừa nói câu đó:
- Không uống còn chết lẹ hơn nữa, nhờ uống như vầy mà còn sống tới giờ này đây.
Nói xong lão nốc một hơi cạn sạch ly "xây chừng", rồi khập khiễng bước ra khỏi quán, trông có vẻ phấn chấn hơn trước. Mà quả thật, khi chưa có rượu người lão thấy uể oải, điệu bộ giống như con bệnh mới vừa hồi phục. Ấy thế mà sau khi đổ hết cái chất cay xè đó vào cổ họng, trông lão có phần linh hoạt hẳn lên.
Lão uống rượu không khề khà năm điều mười chuyện bên dĩa đồ mồi thơm phức như những dân nhậu khác, mà chỉ ực gọn một cái là xong, khỏi tốn mồi miếc gì hết! Giống như người nghiện á phiện, hể tới cử là phải có thuốc hút hoặc chích vào cơ thể! Hay nói một cách khác cho có vẻ khá hơn: Rượu đối với lão giống như một phương thuốc thần diệu giúp ngăn chận sự hành hạ đau đớn mỗi khi bệnh nhân sắp lên cơn.
Từ khi còn rất nhỏ, ký ức tôi đã in đậm hình ảnh của lão trong đó rồi. Cả vùng Nguyễn Huỳnh Đức, cổng xe lửa số sáu Trương Minh Giảng vô tuốt trong khu lò heo, xóm Kiến Thiết Ngói Đỏ… ăn luồn từ đường Thiệu Trị ra thấu tới trường học Quốc Anh ngoài Công Lý… gần như ai cũng biết lão.
Không rỏ lão sống ở đây từ hồi nào, vợ con thân nhân là ai… ngay cả tên thật của lão cũng không ai biết! Có mấy ông bà già kỳ cựu ở vùng này nhớ mang máng lão thứ Năm, nên người ta ai cũng quen gọi là lão Năm, kèm theo cái biệt danh rất ư là nghề nghiệp: "Năm Đạo Tỳ".
Bởi vì những chuyện dính dáng tới mai táng, tẩn liệm người chết, hốt cốt, đào huyệt mả… ngay cả xây mồ, dựng bia… lão đều làm tuốt luốt.
Lão Năm Đạo Tỳ ở có một mình trong một căn nhà lụp xụp ngay mé ngoài nghĩa địa Phong Thần. Bất cứ ai có việc liên quan tới người chết nhờ tới lão là xong hết. Bề ngoài lão có vẻ say xỉn tối ngày như vậy, nhưng khi làm việc, lão làm rất nhiệt tình.
Hể lão đã nhận lời làm cho ai việc gì rồi thì người đó cứ yên tâm. Mọi việc được giao phó đều hoàn thành suôn sẻ đúng hẹn, dù trước đó không lâu người ta còn thấy lão lè nhè, hơi thở sặc mùi rượu. Nhưng đừng thấy bề ngoài và tướng đi khật khưỡng của lão mà lầm.
Lão rất khoẻ và dai sức. Một mình lão đào một huyệt mả nhanh không thua gì một thanh niên đang thời sung sức và lão có thể làm một hơi không nghỉ cho đến khi xong xuôi rồi mới khật khưỡng ra trước quán hủ tiếu mì làm một cái "xây chừng" nước trắng lấy lại sức.
Không ai thấy lão nấu nướng bao giờ! Thức ăn thì đa số là đồ cúng người chết đặt trước các ngôi mộ. Thân nhân cúng xong đi về thì lão hưởng trọn. Cũng chẳng có ai phàn nàn về việc đó cả, vì hầu như mọi người đều cho đó là một việc tất nhiên. Cúng kiến ngoài nghĩa địa xong rồi thì là của lão Năm Đạo Tỳ chứ đâu có ai mang trở về nhà bao giờ.
Quanh năm hầu như lúc nào cũng có người thuê lão trộn hồ, xây mộ bia, đắp mộ, hốt cốt… nói chung ít nhiều gì cũng có việc lai rai để lão sống và có tiền uống rượu hoài. Vào những dịp Thanh Minh, hoặc cận Tết là lúc lão huy hoàng. Bánh trái, gà, vịt, heo quay… dư thừa đối với một mình lão vào những dịp này.
Nhưng kể ra lão cũng rất tốt bụng. Những khi dư giả như vậy, chiều chiều người ta thường thấy lão mang thức ăn ra chia xẻ bớt cho những người ăn xin tụ tập trước ngôi chùa gần đó.
Tôi vẫn còn nhớ có một lần tôi và mấy đứa bạn trong xóm xem lão tẩn liệm một người chết được đưa từ nhà xác về nhà chôn cất. Chân tay người chết cứng đơ ở một tư thế khuỳnh ra, cong cong trông rất quái dị… Trước đó có mấy tay nhà quàn do chủ nhà mời đến nhưng không ai làm cách nào đặt người chết vào quan tài nằm ngay ngắn được…
Có ai đó nhắc tới lão Năm Đạo Tỳ. Thế là người ta túa ra khắp nơi tìm thỉnh lão về. Đến nơi, dù trong người còn bốc mùi rượu, nhưng lão vẫn lè nhè hỏi gia chủ đưa thêm rượu cho lão uống tiếp mấy ngụm. Sau đó lão đứng cúi đầu trước người chết, điệu bộ chợt trở nên nghiêm trang một cách khác thường rồi thành khẩn khấn vái lầm rầm gì đó…
Kế tiếp lão phun rượu phèo phèo lên tay chân người chết, xong xuôi nhảy lên bộ ván người chết đang nằm, xoa nắn một hồi rồi duỗi được tay chân người chết ngay ngắn như một người đang nằm chấp tay trên ngực ngủ. Lạ một điều là trước đó, mấy tay nhà quàn kia cũng khấn vái, cũng phun rượu ì xèo mà làm không được. Việc tẩn liệm cho người chết sau đó không còn trở ngại nữa.
Một lần khác, có một người đàn bà buồn tình chuyện gì không biết, đâm đầu vào xe lửa đang chạy ngang qua khu cổng xe lửa số sáu, khúc đường Nguyễn Huỳnh Đức tự tử. Ôi thôi! Máu thịt tung toé khắp nơi. Ai trông thấy cảnh đó cũng hãi hùng! Dân chúng và người đi đường đứng coi đông nghẹt.
Bọn nhóc chúng tôi cũng dễ gì bỏ qua dịp này. Ngay sau khi có người loan truyền tin ra, chúng tôi đứa này chạy kiếm đứa kia rủ nhau kéo đến chỗ xẩy ra tai nạn, len lỏi vào tận nơi coi cho bằng được. Người đứng coi thì đông nhưng không thấy ai dám thu nhặt đống máu thịt bầy nhầy vương vãi đó.
Dân chúng bàn tán lung tung, gần như ai nấy cũng đều nhắc đến lão Năm Đạo Tỳ và đồng ý chỉ có một mình lão là có thể cáng đáng chuyện này mà thôi. Người ta chạy đi kiếm lão khắp nơi nhưng không thấy lão đâu cả. Kiếm ở những nơi quen thuộc mà lão thường hay lui tới cũng đều không gặp.
Cảnh sát phong tỏa nguyên khu Nguyễn Huỳnh Đức và đã báo cho nhà xác bệnh viện thành phố nhưng mãi vẫn không thấy ai tới. Cảnh sát cũng có cho tìm những tay nhà quàn khác tới, nhưng mấy tay đó sau khi nghe chuyện đều thối thoát né tránh hết. Trời đã chiều lắm rồi trong khi mọi người còn đang bối rối, thì lão Năm Đạo Tỳ bỗng từ đâu khật khưỡng đi tới.
Mọi người reo lên khi thấy dáng lão xuất hiện từ xa và mừng rỡ chạy tới săn đón lão như thể đang đón mời một nhân vật quan trọng nào đó không thể thiếu được. Thế rồi mặc cho bà con chung quanh chỉ trỏ bàn tán xí xô xí xào, lão vẫn ung dung như không có chuyện gì xẩy ra, lên tiếng kêu ai đó chạy đi mua cho lão một lít rượu đế và dặn dò những người khác đi kiếm ngay cho lão một vài thứ lão cần, sau đó lão cứ việc ngồi đốt thuốc hút chờ người ta mang những vật cần thiết tới.
Trước khi bắt tay vào việc gương mặt lão bỗng đổi sang nghiêm trang, thành khẩn vô cùng. Nét khật khà khật khưỡng cố hữu của lão chợt biến mất. Lão đốt mấy nén hương, chấp tay khấn vái bốn phương tám hướng một cách thật trịnh trọng, sau đó phun rượu vào hai cánh tay ướt nhẹp, rồi phun rượu vào một thùng gỗ dài có lót sẵn giấy tiền vàng bạc và giấy súc mà người ta đã mang đến cho lão…
Sau đó lão bắt đầu nhặt nhạnh các mảnh thịt xương vương vãi chung quanh hiện trường, cứ hể nhặt một mảnh xương thịt nào lên, lão lại ngắm nghía, cẩn thận chùi đất cát dính trên đó trước rồi mới đặt nhẹ nhàng vào thùng gỗ, như có ý muốn lắp đặt lại đúng vị trí phần xương thịt đó cho phù hợp với những bộ phận trong cơ thể.
Lão làm chuyện này một cách tỉ mỉ, thành thạo như một đồ tể chuyên nghiệp đang sắp xếp bày biện lại các bộ phận của con vật sau khi đã rã thịt nó ra vậy.
Kể từ khi chứng kiến hai cảnh đó, mặc dù là một bọn chuyên môn phá phách, nghịch ngợm như quỷ sứ, chúng tôi đứa nào đứa nấy cảm thấy sợ lão Năm Đạo Tỳ lắm. Không đứa nào dám đến gần lão. Ngay cả bẵng đi mấy năm sau, khi chúng tôi được mười mấy tuổi, bọn tôi cũng vẫn còn e dè lão… cho dù thỉnh thoảng có a dua theo mấy tay lớn hơn chọc ghẹo khi thấy lão say, nhưng gặp lúc chỉ có một mình tôi nhìn thấy lão từ đàng xa, không khi nào tôi dám lại gần.
Hình như trong người lão toát ra một cái gì đó, gây cho tôi một cảm giác bất an rờn rợn không diễn tả được.
Đám trẻ chúng tôi hồi đó chiều chiều hay vào khu nghĩa địa Phong Thần chơi. Một mặt vì khu này gần nhà chúng tôi ở và có một khoảng đất trống phía trước đủ rộng để chúng tôi chạy nhảy chơi đùa thoải mái, mặt khác chơi đùa ở đây không động chạm đến ai nên không bị đuổi hoặc bị la rầy, trừ một người: Đó là lão Năm Đạo Tỳ.
Thỉnh thoảng trong khi chúng tôi chạy nhảy la hét ồn ào quá, lão từ trong căn nhà lụp xụp bước ra hoặc đi đâu về thấy, lão quơ tay xua đuổi, giọng lè nhè khàn đặc:
- Tụi bay đi chổ khác chơi hết đi. Cứ la ó ầm ỉ hoài. Đến mấy người chết rồi cũng nằm không yên với tụi bây nữa.
Những lần như vậy chúng tôi lại ù té chạy. Chỉ có lão mới có thể khiến chúng tôi đang chơi phải dẹp bỏ đi chổ khác ngay mà thôi. Tuy không nói ra nhưng cả bọn, đứa nào đứa nấy cũng ngán lão Năm Đạo Tỳ này, dù ông ta không có làm gì chúng tôi cả.
Khu nghĩa địa Phong Thần này là giang sơn của người đã chết, ngoài ra còn là giang sơn của lão Năm Đạo Tỳ và của cả bọn trẻ chúng tôi nữa. Ngay góc ngả ba Trương Minh Giảng, Nguyễn Huỳnh Đức rẽ vào đường Thiệu Trị, đi tới một chút về phía tay trái là thấy khu nghĩa địa, nơi chúng tôi đến chơi thả diều, chạy nhảy hầu như mỗi chiều.
Đây là một nghĩa địa nhỏ cũ kỷ có từ lâu đời rồi. Bên trong có một cái tháp được xây bằng xi măng gọi là tháp Phong Thần. Cái tên nghĩa địa Phong Thần cũng từ đó mà ra. Cái tháp này theo tháng năm đã bị bể tróc, gãy sụp nhiều nơi... trông không còn hình thù nguyên vẹn của một cái tháp nữa.
Tương truyền vào thời vua Tự Đức, có một vị quan lại địa phương rất thanh liêm, được dân chúng thương yêu kính nể vô cùng… sau khi ông quan này chết, đã được chôn cất tại đây và được vua Tự Đức tuyên dương công trạng phong làm thần, cho lập tháp để dân chúng địa phương lể bái thờ phượng.
Truyền thuyết đó không biết có đúng hay không? Nhưng kể từ khi có sự hiểu biết đến nay thì ấn tượng của tôi về tháp phong thần này, chỉ là một nơi hoang tàn đổ nát, u ám, chẳng thấy có một ai đến tưởng nhớ cúng kiến, hương khói thờ phượng… như lời của mấy ông già bà cả kể về vị quan thanh liêm xa xưa nào đó…
Ngoại trừ vào những dịp Thanh Minh, Tết nhất… người ta đi dẩy mả, thăm mộ thân nhân còn dư nhang, theo phong tục ai nấy đều cắm nhang khắp chung quanh, kể cả các ngôi mộ vô thừa nhận và nhờ thế dưới chân tháp phong thần này mới thấy được chút hương khói ăn theo.
Ở phía bên dưới tháp có một cái hố khá sâu. Nghe mấy người lớn tuổi kể lại rằng: Trước đây nơi này là nơi dùng để thiêu xác người chết, nhưng sau đó không biết vì lý do gì, việc thiêu xác không còn nữa. Đổi lại người ta đào một cái hố dưới chân tháp và dùng làm nơi vứt bỏ những mảnh gổ vụn nát của ván hòm còn sót lại sau khi có người hốt cốt thân nhân xong.
Nghe đồn ở dưới hố có cả xương người và một con rắn thật to, mà có người cho là "rắn thần", nằm canh giữ bên dưới. Chính những điều này kích thích lòng hiếu kỳ của bọn trẻ chúng tôi. Thỉnh thoảng sau khi chạy nhảy chơi đùa chán chê, chúng tôi vào ngồi dưới bệ xi măng của tháp phong thần nghỉ mệt, gió thổi lộng vào dưới chân tháp đổ nát nghe mát rượi.
Cũng có đôi lúc chúng tôi theo đám đông đi xem lão Năm Đạo Tỳ hốt cốt người chết, hoặc xem lão đào huyệt… Nói chung tuổi trẻ chúng tôi lúc bấy giờ đối với khu nghĩa địa Phong Thần này là một nơi cho chúng tôi đến chơi đùa thoả thích.
Dù đôi khi cũng thấy hơi sợ sợ mỗi khi có ai đề cập tới chuyện ma quỷ, nhưng sau đó chính những điều này lại khơi dậy lòng tò mò của tuổi trẻ nhiều hơn về thế giới vô hình của người chết và vì thế chúng tôi lại càng muốn tìm hiểu xem sao.
Tôi không nhớ ai là người đã đề xướng và chỉ cho chúng tôi biết cách cầu cơ. Lại còn nói là muốn cơ giáng lên nhanh thì ra nghĩa địa cầu vào lúc đêm khuya, sẽ linh hiển hơn lúc cầu cơ ở nhà.
Dù sợ hải nhưng cuối cùng bọn tôi cũng bàn với nhau và nhất định thực hiện điều đó cho bằng được. Thế là đợi đến đêm khuya, cả đám rủ nhau vào dưới tháp Phong Thần cầu cơ.
Quả nhiên cơ giáng về nhanh hơn khi chúng tôi cầu cơ ở nhà thật! Tôi còn nhớ cái cảm giác rờn rợn khi cơ giáng về di động mảnh ván hòm mài thành hình quả tim hoặc những lúc cả bọn thay phiên nhau đọc bài kệ bắt đầu bằng câu:
"Hồn nay ở chốn non bồng,
Qua đây hồn cũng vui lòng ghé chơi
…………………………………....."
Chúng tôi tiếp tục đọc hoài cho đến khi do ngẩu nhiên hay sao đó, bỗng cảm thấy gió mát lạnh giữa đêm khuya phát ra những tiếng rít nghe quái lạ… rồi thình lình cơ giáng về… gây cho chúng tôi cảm giác vừa sợ vừa kích thích.
Đôi khi chỉ mới bắt đầu đọc là cơ giáng về liền. Riết rồi chúng tôi hết cái cảm giác sợ hải của những lần đầu và trò chơi cầu cơ từ từ không còn làm chúng tôi thích thú nữa.
Cho đến một đêm trong lúc cơ đang lên, thằng Phước bạn tôi bỗng nhiên la lên một tiếng rồi buông ngón tay khỏi con cơ ù té chạy, mấy đứa còn lại không biết chuyện gì xảy ra, cũng hoảng hồn la lớn lên rồi bươn chạy theo thằng Phước, bỏ luôn bàn cầu cơ và cây đèn bão mà thằng Trí lén lấy của ba nó đem theo.
Trong bụng chúng tôi nghĩ thằng Phước chắc thấy ma nên sợ quá la lớn và bỏ chạy như vậy, nhưng sau khi đuổi kịp nó ra tới miếng đất trống trước nghĩa địa thì nó vừa cười vừa cho biết là nó chỉ muốn hù cho tụi tôi sợ chơi thôi chứ không có gì hết.
Mấy đứa chúng tôi "giũa" thằng Phước quá trời, sau đó bắt nó phải đi vào lấy lại cây đèn bão cho thằng Trí đem về trả cho ba nó… lần này không đứa nào còn can đảm đi trở vào lấy lại cây đèn và bộ đồ nghề cầu cơ cả.
Trong lúc chúng tôi còn đang cãi nhau thì bỗng lão Năm Đạo Tỳ từ đâu xuất hiện, trên tay cầm cây đèn bão của thằng Trí và bàn cầu cơ. Sự xuất hiện thình lình của lão làm chúng tôi sợ điếng hồn vì tưởng là ma. Ngay cả sau khi nhận ra lão, chúng tôi cũng vẫn chưa hết sợ.
Thoạt tiên chúng tôi thấy có một ngọn đèn di động từ phía trong nghĩa địa đi ra, sau đó xuất hiện dáng đi khật khưỡng của lão Năm. Đang cãi cọ cả bọn điếng người lại như bị á khẩu. Sự xuất hiện của lão Năm Đạo Tỳ vào lúc này quả y như một bóng ma, làm sao mà không sợ cho được! Chúng tôi đã dợm bỏ chạy, nhưng lão cất tiếng gọi lại và la mắng chúng tôi:
- Tụi bây chạy bỏ lại đèn đuốc và cái này phải không? Nửa đêm không ở nhà ngủ, ra đây la lối om xòm không cho ai ngủ nghê gì hết. Tao nói tụi bây nhiều lần rồi, kiếm chổ khác chơi, cứ nhè chổ này mà ra phá hoài, đúng là tụi bây còn phá hơn quỷ sứ nữa. Người chết rồi nằm cũng không yên với tụi bây. Bữa nào tao phải tới mắng vốn ba má tụi bây đập cho một trận mới được. Con cái nhà ai mà phá quá…
Lẽ ra chúng tôi đã bỏ chạy hết rồi, nhưng thấy thằng Trí còn dùng dằng không dám chạy vì sợ bỏ mất ngọn đèn bão nó lấy trộm của ba nó, nên cả bọn đành ở lại với nó, mặc dù chúng tôi thấy lão Năm Đạo Tỳ vào lúc này thì sợ dữ lắm. Thằng Thành lên tiếng năn nỉ, giọng nó dẽo đeo:
- Ông Năm ơi, tụi cháu còn nhỏ ham vui, có làm phiền ông Năm thì ông Năm bỏ lỗi cho đi nha. Chứ hồi nào tới giờ, ông Năm thấy tụi cháu cũng đâu có làm mích lòng ai trong khu này đâu.
- Tụi bây phá như quỷ vậy, ban ngày la lối om xòm còn châm chước đi, ngay cả ban đêm tụi bây cũng cãi nhau rùm trời không cho ai ngủ nghê gì hết, ai mà chịu được tụi bây chứ?
Sau khi la mắng tụi tôi một hồi, hình như lão cũng nguôi ngoai dần. Thằng Trí xin lại ngọn đèn bão lão còn cầm trên tay. Ánh sánh vàng vọt yếu ớt của cột đèn đường xa xa, cộng với ánh sáng lung linh của ngọn đèn bão soi bóng lão Năm và bọn chúng tôi thành những nền đen lay động trên mặt đất, giữa đêm khuya trông thật quái dị.
Cuối cùng lão cũng trả lại cho chúng tôi ngọn đèn bão và bộ bàn cầu cơ, sau khi không quên răn đe chúng tôi thêm một lần nữa. Sau đó vẫn dáng đi khập khiễng quen thuộc, lão chầm chậm trở về hướng căn nhà lụp xụp bên ngoài nghĩa địa. Trên đường về nhà chúng tôi còn cự nự thằng Phước không ngừng.
Hai hôm sau trong khi đang chơi đá cầu trước bãi đất trống, lão Năm Đạo Tỳ từ trong nhà bước ra giơ tay ngoắc chúng tôi lại gần. Chúng tôi ngỡ lão sắp sửa la mắng như những lần trước, nên định bỏ đi chổ khác. Nhưng lão vẫn ngoắc tay ra dấu bảo chúng tôi tới với một vẻ thân thiện hơn mọi hôm. Cuối cùng chúng tôi bảo nhau tới gần xem lão ta nói gì. Thằng Trí lên tiếng thăm dò:
- Có gì không ông Năm?
- Mấy đứa bây làm gì mà nửa đêm còn đi vào nghĩa địa? Bộ không sợ ma sao?
Lão nhắc lại chuyện đêm hôm trước.
-Tụi cháu cầu cơ thôi chớ đâu có làm gì đâu.
-Tụi bây gan quá há? Có đứa nào thấy ma chưa?
Cả bọn lắc đầu. Lão ngúc ngoắc cái đầu, nhấp nháy mắt rồi hỏi chúng tôi bằng một giọng lè nhè, pha một chút hóm hỉnh hiếm khi thấy:
-Vậy tụi bây có muốn thấy ma không?
Cả đám chúng tôi nhìn nhau một lúc chưa đứa nào dám lên tiếng. Cuối cùng thấy không đứa nào trả lời, tôi rụt rè hỏi:
-Làm sao mà thấy ma được, ông Năm?
Lão nheo nheo đôi mắt nhìn tôi một cách bí mật:
-Mà tụi bây có sợ không cái đã? Nếu không sợ thì tao chỉ cho cách thấy ma. Nhưng mà tao nói trước… khi thấy rồi là không được la đó nghe chưa?
Nhìn cả bọn chúng tôi còn đang ngơ ngác, lão cười cười nói thêm:
-Tụi bây phá quá, đến mấy người chết ở đây cũng chịu hết nổi với tụi bây luôn.
Chúng tôi nhìn nhau, cảm thấy dạn dỉ hơn với lão Năm Đạo Tỳ, vì đây là lần đầu tiên lão nói chuyện với chúng tôi nhiều và thân thiện như vậy. Lại còn cười nữa chứ! Thằng Phước hỏi tới:
- Có ma thiệt không dzậy ông Năm? Cháu nghe nhiều người kể, cũng tin lắm, nhưng chưa bao giờ thấy ma cả. Mấy lần cầu cơ lên. Cháu biết là có ma thiệt. Tụi cháu tuy cũng sợ, nhưng má cháu thường nói: Mình không có làm gì động chạm tới "người ta" thì "người ta" phá mình làm chi! Cháu nghĩ cũng đúng. Tụi cháu chỉ chơi đùa, chứ đâu dám chọc ghẹo ai.
- Vậy chứ tại sao tụi bây không rủ nhau đi chơi chổ nào khác mà cứ nhè chổ này chạy nhảy la hét um sùm vậy, làm sao mấy người chết nằm yên cho được?
- Tụi cháu chơi đùa vậy thôi chứ đâu có phá mồ mả gì của "họ" đâu?
Tôi bỗng hỏi trớ:
- Vậy chớ ông Năm có thấy ma lần nào chưa?
Lão Năm nhìn tôi cười cười:
- Tao sống nhờ ma, mà không thấy ma sao được mậy?
Thằng Thành nôn nóng hỏi tiếp liền:
- Vậy ma có làm gì ông không? Ông không sợ sao?
- Tao đâu có làm gì mà phải sợ. Tụi bây phá người ta hoài thì liệu hồn đó, tụi bây "chưa thấy quan tài chưa đổ lệ" mà.
Rồi ông hỏi lại câu hỏi lúc nảy:
- Tụi bây muốn thấy ma không? Tao chỉ cho một cách là thấy liền chứ gì.
Cả đám chúng tôi nhìn nhau thăm dò, tôi rụt rè hỏi:
- Ông có thể chỉ cho tất cả tụi cháu thấy cùng một lúc được không?
- Được chứ, tụi bây muốn thấy phải không? Khi thấy rồi là không được la lớn nghe chưa? Cũng không được nói cho ba má tụi bây biết để họ mắng vốn tao là không được đó nghen.
Cả đám tụi tôi nhao nhao lên:
- Không có đâu ông Năm, tụi cháu không nói cho ai biết đâu. Bây giờ ông chỉ cho tụi cháu đi
Lão Năm Đạo Tỳ nheo mắt, im lặng nhìn chúng tôi một lúc lâu, như để thu hút hết sự chú ý của chúng tôi trước khi lão bật mí:
- Tụi bây đứa nào muốn thấy ma thì lấy vôi ăn trầu thoa lên hết mấy đầu ngón tay ngón chân, đợi nửa đêm ra ngồi canh ngoài nghĩa địa này thì sẽ thấy ma liền.
Chúng tôi ngạc nhiên ra mặt. Như vậy thì đâu có gì là khó. Thằng Phước hỏi lại cho chắc chắn:
- Thoa vôi ăn trầu lên tất cả mười đầu ngón tay, mười đầu ngón chân luôn hả ông Năm?
- Ừ! Ngón nào cũng thoa lên hết.
Nói xong không nói thêm tiếng nào, lão khật khưỡng đi ra hướng Nguyễn Huỳnh Đức, chắc là lại đi mua rượu uống.
Còn lại sáu thằng: Thành, Trí, Phước, Sơn, Bảo và tôi. Chúng tôi không còn tha thiết chơi đùa gì nữa. Lời lão Năm Đạo Tỳ nói làm chúng tôi nửa hoang mang, nửa khơi dậy lòng tò mò.
Trước đây chúng tôi đã mấy lần giữa đêm khuya vào nghĩa địa cầu cơ, tuy đứa nào cũng sợ… cả bọn cũng nghĩ là mình có thể sẽ gặp ma, nhưng cuối cùng cũng chẳng thấy con ma nào hết, ngoài việc cơ giáng lên và cơ chạy, nên từ từ chúng tôi cũng bớt thấy sợ.
Nhưng lần này lời nói có vẻ chắc chắn của lão Năm là chúng tôi sẽ thấy ma, nếu làm đúng theo như lão đã chỉ dẫn ... Điều này làm cả bọn có cảm giác sợ thiệt sự, chứ không như mấy lúc trước. Sau một hồi bàn tán, chúng tôi quyết định làm thử theo lời lão Năm đã nói. Vả lại chúng tôi nghĩ đi cả bọn thì cũng không có gì phải sợ, cùng lắm là bỏ chạy thôi.
Thế là cả bọn sáu đứa đi về, nôn nóng chờ tới giờ đã hẹn sẵn. Chúng tôi kiếm vôi ăn trầu không khó khăn chút nào cả. Bà Ngoại của thằng Trí ăn trầu cho nên nó lấy dễ dàng.
Khuya đêm đó cả bọn hẹn nhau ở trước nhà tôi trên đường Trương Minh Giảng. Gần mười hai giờ khuya, nhưng lai rai cũng còn một vài quán xá mở cửa, trên đường vẫn còn xe cộ qua lại… Chúng tôi cùng nhau đi băng qua đường Nguyễn Huỳnh Đức, rẽ vào ngỏ Thiệu Trị, rồi đi tới ngọn đèn đường gần khu nghĩa địa.
Chúng tôi dừng ở đây, chia vôi ăn trầu ra thoa lên khắp mấy đầu ngón tay ngón chân. Xong xuôi cả bọn hồi hộp bước vào khu nghĩa địa, mới chợt nhớ là lần này không đứa nào mang theo đèn đóm gì hết, ngay cả khi bàn bạc hồi chiều cũng không đứa nào nhớ ra vấn đề này.
Nghĩa địa này chỉ là một nghĩa địa nhỏ của đa số dân nghèo vì thế các mồ mả ở đây cũng không được xây cất khang trang gì cho lắm. Phần nhiều là các ngôi mộ được đắp bằng đất, lâu ngày bị mưa nắng làm sạt lở. Phải đợi vào những dịp Thanh Minh hoặc ngày giổ của người chết, thân nhân hoặc tự mình làm, hoặc mướn lão Năm Đạo Tỳ đắp thêm đất lên cao ráo trở lại.
Một số mả xưa xây bằng đá vôi, chỉ một số ít được xây bằng xi măng đàng hoàng. Bọn sáu đứa chúng tôi ban đầu định vào dưới chân tháp Phong Thần núp chờ nhưng lại thấy sợ, rủi có gì xẩy ra thì từ đó chạy ra bên ngoài xa quá.
Cuối cùng chúng tôi quyết định rủ nhau đi đến một ngôi mộ xây bằng xi măng khá lớn nằm bên tay phải, cách lối vào nghĩa địa độ mười lăm hai mươi thước gì đó. Chúng tôi ngồi chùm nhum trước mộ bia hồi hộp chờ đợi.
Đêm hôm đó không có trăng, nhưng sao đầy trời nên chúng tôi vẫn thấy lờ mờ cảnh vật bên trong nghĩa địa. Từ những bụi cỏ chung quanh các ngôi mộ, đom đóm bay chập chờn khiến cho cảnh vật thêm phần kỳ bí và làm cho chúng tôi càng hồi hộp thêm…
Chổ chúng tôi núp nhìn ra đường Thiệu Trị không xa lắm nhưng tôi có cảm tưởng như nó quá xa đối với chúng tôi lúc bấy giờ. Mấy lần trước đêm khuya vào nơi này, tôi chưa từng có cảm giác bất an như lần này.
Tôi nhìn xéo qua phía căn nhà lụp xụp của lão Năm Đạo Tỳ chỉ thấy tối thui, có lẽ ông ta đã ngủ rồi. Chúng tôi ngồi đợi như thế một hồi, đứa nào đứa nấy thấy sao quá lâu, thằng Sơn thì thào vào tai tôi, giọng run run:
- Mày có thấy gì không? Sao lâu quá vậy, chắc là không có gì đâu. Thôi bỏ về cho rồi.
Trong bụng tôi sự thật muốn đi về lắm, nhưng cũng làm bộ cứng:
- Ráng chờ chút nữa đi. Công trình chuẩn bị ra tới đây, không lẽ về lẹ vậy sao.
Ngồi thêm được chừng khoảng năm, mười phút nữa, bỗng nghe có tiếng con nít cười khúc khích rất rõ ràng ở phía trước làm tất cả chúng tôi giật mình.
Gai ốc mọc cùng người. Tôi cảm thấy ớn lạnh chạy dọc theo xương sống. Theo một phản ứng tự nhiên, đứa nào đứa nấy bỗng tự động rụt người lại nép sát xuống. Đợi một chút không nghe thấy gì nữa, chúng tôi rón rén nhìn quanh quất xem tiếng con nít cười từ đâu tới.
Nhưng không thấy gì cả, ngoài mấy con đom đóm chập chờn chung quanh trên mấy bụi cỏ. Thình lình tiếng cười khúc khích lại cất lên, lần này hình như ở một hướng khác. Thằng Phước bỗng níu lấy cánh tay tôi giật giật. Tôi quay về phía sau ngôi mộ nơi chúng tôi đang núp. Qua ánh sáng lờ mờ tôi thấy dáng một đứa bé đang đi lững thững, thỉnh thoảng lại cúi xuống nhặt một vật gì đó dưới đất ném đi, rồi lại cười khúc khích… hình như nó thích thú với trò chơi này lắm vậy.
Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là ma rồi!! Con nít giờ này đi đâu một mình trong này? Vả lại hồi nảy tới giờ đâu có thấy gì đâu! Chúng tôi còn đang nín thở nhìn thằng bé, hình như nó mãi nghịch ngợm với món đồ chơi gì đó ở dưới đất không để ý tới chung quanh.
Tuy nhìn thấy cảnh vật lờ mờ qua đốm sáng của các tinh tú trên trời nhưng tôi không thể đoán chắc đứa bé khoảng mấy tuổi. Tôi cũng không nhìn rõ gương mặt, nhưng với chiều cao và tiếng cười khúc khích đầy tính trẻ con, có lẽ đứa bé chừng năm, sáu tuổi.
Tôi chợt nhớ người ta hay nói ma đi hổng mặt đất, nên cố nhìn dưới chân đứa bé xem có đúng vậy không? Nhưng tôi không thể thấy được phía dưới chân đứa bé vì bị các ngôi mộ và bụi cỏ trước mặt che khuất tầm mắt.
Cả bọn vẫn còn bàng hoàng chưa bình tĩnh lại được, thì thằng Phước bỗng níu chặt cánh tay tôi. Nó là thằng nổi tiếng gan dạ nhất trong bọn, vậy mà giờ này tôi cảm nhận được cánh tay nó run lên không ngớt. Nó chỉ về phía trước mặt thằng bé. Không biết từ hồi nào đã xuất hiện một dáng người đàn bà đang đứng.
Trông dáng thì quả đúng là đàn bà rồi, có điều tôi không thể thấy mặt được. Người đàn bà đứng ở phía trước đứa con nít đang giơ tay vẩy vẩy nó. Đứa bé vừa cười khúc khích vừa đi tới phía người đàn bà rồi thình lình ném mạnh vật gì vào bà ta, sau đó quay ngược trở lại vừa chạy vừa cười khúc khích như trước.
Tôi nép sát vào người thằng Trí, hình như muốn tựa hết vào nó để được an toàn hơn. Đứa bé bỗng dưng biến đâu mất tiêu sau chòm mả không nhìn thấy nữa. Tôi len lén nhìn lại phía người đàn bà đang đứng khi nảy, thì cũng không thấy bà ta đâu.
Chúng tôi sợ đến ríu cả người, phát giác cả bọn đang ôm choàng vào lẩn nhau hồi nào không hay. Không đứa nào dám hó hé một tiếng. Một lúc lâu sau không thấy gì lạ xảy ra nữa, từ từ hoàn hồn lại, chúng tôi bấm tay nhau ra hiệu đi về.
Ngay khi chúng tôi vừa đứng lên, quay mình lại định bước ra con đường đất trước ngôi mộ xi măng đang núp nảy giờ, bỗng thấy hình dáng một người đang đứng lù lù ngay sau lưng chúng tôi hồi nào không biết.
Dù đêm tối tôi vẫn thấy đó là dáng một người đàn ông đội khăn đống, mặc áo thụng dài kiểu của mấy người già mặc vào những dịp quan trọng hoặc lễ lạc, đang đứng nhìn chúng tôi với một dáng vẻ hết sức kỳ quái. Thằng Phước là thằng đứng gần như sát vào ông ta, còn tôi và mấy đứa còn lại thì cũng đang chùm nhum ngay đó, nên tất cả đều thấy rất rõ ràng.
Trong một trạng thái bất thình lình như vậy, tất cả đều khựng lại khoảng mấy giây chưa kịp có phản ứng gì. Bỗng người đó giơ tay lên mặt thằng Phước, nói lắp bắp mấy tiếng nghe rất yếu ớt, trong đêm yên vắng giọng nói nghe thật quái lạ:
- Đi đi… đi đi.
Thằng Phước hét lên một tiếng thất thanh. Nó lùi ngược lại xô nhào chúng tôi ra và bươn chạy bọc lại phía sau bất kể gì nữa. Diễn tả thì lâu nhưng sự việc lúc đó xảy ra rất là nhanh.
Mấy đứa còn lại đang sợ đến cứng người, chưa kịp có phản ứng gì, bỗng nghe thằng Phước la thất thanh như vậy rồi ngay sau đó nó quay lùi lại xô chúng tôi để thoát chạy, làm chúng tôi té ngã bổ nhào lên ngôi mộ đắp bằng đất nằm ngay cạnh đó.
Cả bọn không còn chút hồn vía nào nữa, mạnh đứa nào đứa nấy choàng dậy bươn lên mả mồ, gai góc, vấp té lên té xuống… vừa la vừa chạy trối chết ra hướng ngoài đường Thiệu Trị.
Thằng Trí đang chạy ngay trước tôi, bỗng dưng đứng khựng lại làm tôi mất đà va ngay vào nó, hai đứa té chúi nhủi về phía trước. Tôi lồm cồm ngồi dậy thì thằng Trí níu vai tôi lại, lấy tay chỉ về phía trước mặt.
Giọng nó như muốn khóc, lắp bắp những gì nghe không rõ còn người thì run lẩy bẩy, nó cứ níu lấy vai tôi cứng ngắc không chịu buông. Tôi ngước nhìn lên, thì thấy phía trước chúng tôi, đứa bé lúc nảy đang đứng lẩn trong chòm mả bên tay trái, tay phe phẩy vật gì bay bay giống như một miếng vải dài…
Trong đời tôi kể cả mãi tới bây giờ, đã trãi qua nhiều biến cố nguy hiểm, nhưng có thể nói lần này là lần tôi sợ nhất trong đời. Tôi cố gắng lôi thằng Trí dậy, rồi chạy đại trên một dãy mộ đắp bằng đất, qua con đường đất nhỏ phía bên kia để tránh chạy ngang đứa bé, rồi cứ thế nhắm hướng đèn sáng ngoài đường Thiệu Trị mà chạy thục mạng, bên tai vẫn còn nghe tiếng cười khúc khích của trẻ nít.
Thằng Trí do một động lực nào đó cũng bươn chạy ngay theo tôi. Mấy đứa khác Sơn, Bảo, Thành không biết chạy đi hướng nào. Riêng thằng Phước lúc đó đã chắc đã chạy ra bên ngoài xa lắm rồi, tuy nhiên chúng tôi vẫn còn nghe tiếng la hãi hùng của nó vẳng lại. Chúng tôi cứ thế cắm đầu cắm cổ chạy, khi ngang qua trước nhà lão Năm Đạo Tỳ, tôi thấy hình như đèn trong nhà vừa được thắp lên…
Khi ra tới đường Trương Minh Giảng, xe cộ vẫn còn lai rai và vẫn còn người ta đi lại trên đường, lúc bấy giờ tôi mới hoàng hồn được đôi chút, nhìn quanh thì thấy Thành, Sơn, Bảo đã chạy ra trước đây rồi, Trí cũng vừa tới ngay sau tôi. Chúng tôi ngó dáo dác kiếm thằng Phước nhưng không thấy nó đâu nữa.
Kiểm điểm lại quần áo thì mới phát giác chúng tôi bị gai góc móc rách toạc mấy chổ. Riêng hai đầu gối tôi bị trầy trụa rướm máu rát rạt. Chúng tôi chia tay nhau đi về nhà. Đêm đó tôi thức sáng đêm không tài nào ngủ được, đầu óc cứ bị ám ảnh hoài chuyện vừa qua ở nghĩa địa, hể nhắm mắt lại là thấy dáng của đứa bé ma đang cười khúc khích và dáng con ma mặc áo dài thụng, khăn đống đang đứng nhìn tôi với dáng vẻ kỳ quái!
Qua hôm sau chúng tôi nghe tin thằng Phước bị bệnh nằm liệt giường, chúng tôi có tới thăm nó, nhưng không đứa nào dám kể cho gia đình nó nghe chuyện gì đã xẩy ra đêm hôm trước.
Tôi còn nhớ lần đó thằng Phước bệnh thật lâu mới hồi phục được. Riêng tôi cũng bị ám ảnh chuyện này một thời gian dài. Từ đó chúng tôi không dám bén mảng tới khu nghĩa địa Phong Thần chơi đùa nữa.
Thỉnh thoảng nhìn thấy lão Năm Đạo Tỳ khật khưỡng từ xa đi tới, nhưng lần nào chúng tôi cũng tự động tránh ra chỗ khác không dám chạm mặt lão
Trải qua những năm tháng tuổi thơ, nhiều điều bây giờ tôi không còn nhớ rõ được nữa. Nhưng khu đất trống nghĩa địa Phong Thần này và lão Năm Đạo Tỳ vẫn còn để lại trong ký ức tôi nhiều ấn tượng rất đậm nét, nhất là chuyện gặp ma do lão Năm Đạo Tỳ chỉ cách.
Chúng tôi lớn dần theo thời gian, vì điều kiện học hành hoặc hoàn cảnh gia đình nên tản mác khắp nơi. Bọn sáu thằng chúng tôi ngày xưa nay chỉ còn lại bốn, thỉnh thoảng gặp lại hoặc nói chuyện trên điện thoại, đôi lúc chúng tôi có nhắc qua chuyện cũ, đứa nào đứa nấy cũng sôi nổi kể lại vanh vách như chuyện vừa mới xảy ra hôm qua, đủ biết ấn tượng đó ăn sâu vào tâm trí mỗi đứa chúng tôi như thế nào.
Sau 1975 khu nghĩa địa Phong Thần đã bị san bằng, thay vào đó là một ngôi chợ nhỏ, ngôi chợ ở phía trong khu Kiến Thiết cũng đã được dời ra và nhập chung vào khu chợ mới này luôn. Còn lão Năm Đạo Tỳ?
Trong một dịp ghé lại quán hủ tiếu mì, tôi có hỏi thăm thì không ai rỏ lão đã chết hay bỏ đi đâu mất kể từ khi khu nghĩa địa không còn nữa. Lần cuối cùng có người gặp, thì lão đã già lắm rồi, trí nhớ đã bị lú lẫn, cứ lảm nhảm một mình những gì không ai rõ, chân đi vẫn khập khiễng nhưng yếu ớt lắm và đặc biệt người lão vẫn còn phảng phất mùi rượu.
Về chuyện gặp ma mà tôi vừa kể? Đôi lúc có người hỏi:
- Có ma thiệt không?
Tôi liên tưởng ngay tới dáng lão Năm Đạo Tỳ đang ngúc ngoắc cái đầu, nheo nheo mắt nhìn chúng tôi ngày trước. Sau đó tôi hỏi lại người đã hỏi câu đó, giống y như trước đây lão Năm đã hỏi chúng tôi:
- Có muốn thấy ma không? Tôi chỉ cho một cách là thấy ma liền chứ gì! Nhưng mà tôi nói trước, khi thấy rồi thì đừng có la đó nghe chưa.
Nếu thấy người đó khích động lên:
- Thiệt không? Làm sao thấy được ma?
Tôi sẽ trả lời y như lão Năm Đạo Tỳ đã chỉ cho chúng tôi ngày xưa:
- Lấy vôi ăn trầu thoa lên hết mấy đầu ngón tay, ngón chân rồi canh nửa đêm ra nghĩa địa ngồi chờ thì sẽ thấy ma ngay…
…Và nếu như người đó còn nghi ngờ hỏi tiếp... Tôi sẽ nghẹo nghẹo cổ, nheo nheo mắt, vừa cười vừa bí mật trả lời:
- Cứ thử đi rồi biết liền chớ gì!
Vĩnh Khanh
ĐỨA CON MA
Vào thời thơ ấu lúc đó tôi khoảng tám, chín tuổi, gia đình dọn đến một vùng quê hẻo lánh để tìm sự yên tĩnh và không khí đồng quê mát mẻ thiên nhiên.
Mỗi ngày vào sáng sớm ba mẹ tôi ra đồng làm việc cày cấy và chăn nuôi gia súc, còn tôi lúc đó đang là mùa hè nên chỉ ở nhà trông nom nhà cửa, nhiều khi buồn chán tôi thường đi ra ngoài dạo mát.
Một hôm đang tung tăng đuổi theo mấy chú bướm thì tôi nghe có tiếng ai đó đang gọi mình, khi quay lại tôi chỉ thấy một bà già trạc sáu mươi tuổi đang vẫy tay ngoắt mình. Tôi đi đến gần thì bà ta mỉm cười và nói:
- Nhà bà ở cách đây không xa. Mỗi ngày bà đều đi bộ ngang qua đây thấy con chơi đùa vui vẻ trong vườn nên bà không có ý quấy rầy, nhưng hôm nay bà thấy con chạy về phía căn nhà đó, vừa nói bà vừa đưa tay chỉ về phía trước, nên bà mới lên tiếng gọi con trở lại ... Bà ngừng lại một vài phút, sau đó bà lấy tay xoa đầu tôi rồi nói tiếp:
- Căn nhà đó rất là ma quái, con không nên đến gần.
Khi nghe đến ma quái, tôi trợn hai mắt lên kinh ngạc hỏi:
- Bà ơi! Sao bà biết.
Bà kéo tôi lại ngồi trên một thân cây nằm ngã gần đó rồi với một giọng chậm rãi bà kể:
Vào khoảng 1880, có một cặp vợ chồng và ba đứa con gái dọn vào căn nhà đó ở. Ðứa con gái lớn tám tuổi, đứa kế năm, và đứa út chỉ được ba tuổi mà thôi.
Mọi người chung quanh đây ai cũng yêu mến gia đình này, vì cặp vợ chồng này rất là tử tế và vui vẻ, nhưng đối với đứa con gái tám tuổi khi gặp nó ai cũng có cảm giác rằng nó rất kỳ lạ, lạnh lùng và quái dị ...
Nhiều khi hai đứa em chơi đùa vui vẻ, đong đưa trên chiếc xích đu ngoài sân thì đứa con gái tám tuổi chỉ ngồi đó chăm chăm nhìn với cặp mắt lạnh lùng băng giá như là nó đang ghen tức vậy đó.
Còn khi hàng xóm đến thăm, nó rất là lễ phép, và không bao giờ cằn nhằn hay hỗn xược với cha mẹ, nhưng trên khuôn mặt nó lúc nào cũng nở một nụ cười nham hiểm.
Rồi một hôm, cả gia đình năm người bỗng dưng biến mất một cách kỳ lạ. Hàng xóm đều lo lắng hỏi thăm xa gần nhưng không một ai biết gia đình này đã đi đâu. Cuối cùng họ báo cảnh sát.
Trưởng ty cảnh sát liền ra lệnh cho một nhóm người đến để điều tra. Khi nhóm này đến lục soát khắp nơi nhưng họ chỉ tìm thấy xác của hai vợ chồng đã bị người ta giết chết trên giường một cách kỳ bí, còn ba đứa con thì không thấy bóng dáng nơi đâu.
Sau khi kiểm soát trong nhà xong, họ ra ngoài sân thì thấy ngay bên dưới chiếc xích đu có hai mô đất vừa mới đắp, đất hãy còn đậm màu và ươn ướt. Cả nhóm hết thảy là năm người lấy tay bới đất lên.
Ðào chừng một thước, họ thấy hai cái xác cứng đơ của hai đứa nhỏ, còn đứa tám tuổi họ tìm mãi mà vẫn không thấy nơi đâu. Ai cũng nghĩ có thể đứa con gái này đã bị bắt cóc rồi.
Cả làng đều hồi hộp lo sợ cho số phận của đứa con gái này, nhưng đến chiều cả làng điều chấn động bởi một tin từ nơi cảnh sát cho biết rằng sự thật gia đình này chỉ có hai người con gái mà thôi. Vậy người con gái tám tuổi này là ai, không người nào có thể giải thích được ...
Từ đó không còn ai đến ở trong căn nhà này nữa. Nhưng vào những đêm khuya hay những ngày mưa gió, người ta thường nghe tiếng cười rùng rợn của đứa con gái tám tuổi phát ra từ trong nhà bỏ hoang nàỵ Có nhiều người còn thấy bóng dáng của đứa con gái ngồi trên xích đu đong đưa và cười một cách nham hiểm.
Kể xong câu chuyện bà già đứng lên quay bước đi về. Vừa đi bà vừa nói:
- Nhà bà cách đây chỉ năm căn. Khi nào rảnh con xin phép cha mẹ đến nhà bà chơi.
Tôi vừa vẫy tay chào vừa nói:
- Dạ.
Lúc này hoàng hôn cũng vừa buông xuống, những ánh tà dương màu hồng tím nhuộm khắp cả bầu trời. Xa xa từng đàn chim đang bay về tổ ... Và ba mẹ tôi cũng đã trở về nhà sau một ngày mệt nhọc ngoài đồng áng.
Sau khi ăn cơm tối xong, tôi leo lên gác nhìn sang hướng ngôi nhà mà bà già đã kể hồi chiều. Dưới ánh trăng lưỡi liềm treo trên nền trời đầy sao, tôi thấy rõ hơn.
Căn nhà này nằm trên một khoảng đất rộng khoảng một mẫu, xung quanh nhà mọc rất nhiều cỏ dại. Ngoài ra tôi còn thấy được phía sau khu vườn có chiếc xích đu đã xiêu vẹo, lâu lâu gặp cơn gió thổi mạnh chiếc xích đu hơi di động một chút.
Càng nhìn tôi càng bị nó quyến rũ, càng khiêu khích trí óc tò mò non nớt của tôi. Cuối cùng tôi nói với chính mình:
“Ngày mai ta sẽ qua bên đó làm quen với con ma tám tuổi. Hihihi!” ...
Sáng ngày hôm sau ba mẹ tôi vừa ra khỏi nhà, thì tôi cũng khóa cửa lần mò đi qua căn nhà bỏ hoang cách nhà tôi chỉ một đám cỏ lao và một con sông cạn. May là lúc đó là mùa hè cây cỏ vàng úa và thưa thớt nên tôi dễ định được hướng mình đi và không sợ lạc trong đám cỏ lao cao ngất trời.
Chỉ năm phút sau, tôi đã đứng trước căn nhà bỏ hoang. Nhìn tường vôi, cột trụ gẫy đổ tiêu điều, tôi không dám bước vào sợ nhà sụp đè chết nên tôi chỉ đứng ở ngoài mà nhìn vào.
Ở trong nhà không có tối lắm vì ánh sáng xuyên qua những vết nứt trên tường và những khung cửa sổ bị bể kiếng, nên tôi có thể thấy được ở trong nhà còn có vài cái bàn và vài cái ghế hư hỏng và xiêu vẹo, tất cả đều được phủ bởi một lớp bụi dầy đặc. Ðang nhìn tới nhìn lui, bỗng nhiên tôi nghe một vài tiếng xột xoạt ở tầng lầu trên.
À! Tôi quên nói với các bạn là nhà này có hai tầng, nhưng nhìn xa nó giống như một tầng vì tầng trên chỉ như một căn gác nhỏ.
Tôi vội đi thụt lùi ra ngoài hơi xa một chút để nhìn lên tầng thứ hai. Vừa ngước cổ lên tôi thấy qua cánh cửa sổ đã bị rạn nứt nhiều nơi, một hình bóng của người con gái độ chừng tuổi tôi, với mái tóc đen dài che một nửa khuôn mặt trắng bệch, đang làm dấu kêu tôi vào nhà.
Không hiểu tại sao lúc đó tôi lại định bước vào nhà nhưng vội đổi ý ngay lập tức khi thấy đứa con gái ném cho tôi một nụ cười ma quái; thay vì đi vào căn nhà hoang tôi lại quay lưng nhắm thẳng hướng nhà mình mà chạy. Vừa chạy tôi vừa nghe thấy giọng cười ác quỷ của nó vang vọng trong đầu của tôi rất rõ ràng.
Cũng từ đó tôi không bao giờ dám đi ngang hay bén mảng tới căn nhà bỏ hoang này, kể cả những đứa con nít hàng xóm ... Có nhiều đêm đang ngủ, tôi nghe tiếng cười ma quái đó trỗi lên ... Giựt mình thức dậy nhìn dáo dác tôi mới biết mình chỉ nằm mơ, nhưng mồ hôi cũng đã toát ra đầm đìa ...
Ðây là câu chuyện thật, nó xảy ra đã mười mấy năm rồi nhưng giọng cười ma quái của đứa con gái đó cứ mãi ám ảnh tôi cho đến ngày nay.
Danica T.
Vĩnh là một thanh niên trên ba mươi, luôn luôn muốn tỏ ra là một người trí thức. Là một chuyên viên truyền hình, anh được hoãn dịch khi cuộc chiến chưa tới hồi khốc liệt. Tuy nhiên sau cuộc tấn công tết Mậu Thân, Vĩnh bị động viên và nhập ngũ với cấp bậc binh nhì.
Sau ba năm trời lăn lộn trên chiến trường, Vĩnh được biệt phái về đài truyền hình. Hình như Vĩnh lập được nhiều thành tích đáng kể trong quân đội, nhưng anh không bao giờ thổ lộ với ai. Cuộc chiến quá tàn bạo đối với một thanh niên muốn tỏ ra là người trí thức.
Khoảng hai năm sau khi được biệt phái, Vĩnh tâm sự với Khải một người bạn thân, về ý định viết một quyển tiểu thuyết trinh thám, vì từ hồi nhỏ Vĩnh vẫn say mê nhân vật thám tử Kỳ Phát của nhà văn Phạm Cao Củng.
Vĩnh nói rằng việc tạo ra các nhân vật rồi đưa họ vào những hoàn cảnh do chính mình tạo ra với những chứng cớ giả tạo nhưng có vẻ hợp lý, có lẽ thú vị hơn là đọc chuyện của người khác và bị hướng dẫn bởi những chứng cớ giả tạo của họ. Anh nói:
- Tôi muốn viết một câu chuyện hoàn toàn bí mật cho tới khi độc giả đọc tới dòng chữ cuối cùng.
Khải hỏi bạn:
- Thế ông đã có ý tưởng gì chưa?
- Có chứ! Trong câu chuyện của tôi, kẻ sát nhân thực ra lại không ra tay giết người.
Khải hơi nhíu mày:
- Ê chỗ này coi bộ hơi lôi thôi rồi đấy! Tại sao đã gọi là kẻ sát nhân mà lại không giết người?
Vĩnh mỉm cười:
- Thế mới hay chứ! Kẻ sát nhân tìm thấy nạn nhân trong tình trạng nguy ngập mà nếu hắn không chịu giúp đỡ, nạn nhân sẽ chết. Hắn đâu có giết tuy hành động của hắn có nhiều yếu tố cấu thành tội phạm...
Tuy nhiên trước khi khởi sự, tôi muốn chế ra một loại mật mã rất tầm thường nhưng rất khó khám phá, loại mật mã mà mọi người thường thấy nhưng không bao giờ nghĩ rằng chúng lại được xử dụng để truyền đạt tin tức.
Khải có vẻ suy nghĩ:
- Tin tức... ngắn hay dài?
- Ngắn thôi! Loại tin tức mà bọn tội phạm dùng báo động, hẹn gặp... đại khái như vậy.
Khải nhìn Vĩnh:
- Tôi sẽ suy nghĩ về việc này. Nếu tìm được cái gì, tôi sẽ cho ông hay.
Chỉ hai hôm sau, Khải vui vẻ bước vào apartment của Vĩnh:
- Tôi tìm ra được một loại mật mã cho ông rồi!
Vĩnh nhìn bạn với vẻ nghi ngờ:
- Ông thử viết vài ký hiệu xuống xem.
Khải lắc đầu mỉm cười bí mật:
- Hay ở chỗ là loại mật mã này không cần ký hiệu. Chúng có thể được học thuộc lòng trong vài phút, và sẽ không ai có thể khám phá được, ngoại trừ tay thám tử siêu nhân mà ông đẻ ra trong chuyện.
Rồi Khải nói đùa:
- Ông phải chia ba chục phần trăm tác quyền cho tôi đấy nhá!
Vĩnh gật gù:
- Để coi! Bây giờ ông thử nói xem mật mã của ông là cái gì mà ghê thế!
Khải chậm rãi nói:
- Khi một tên gian muốn liên lạc với đồng bọn, hắn chỉ cần gởi cho tên kia một bộ bài. Hoặc có thể những quân bài của hai ba bộ, tùy theo tin tức dài hay ngắn. Dĩ nhiên những con bài còn lại phải có đủ để tránh nghi ngờ trong trường hợp bị thất lạc.
Vĩnh chau mày:
- Tôi không hiểu ông muốn nói cái gì.
- Dễ quá mà! Chữ Việt mình có hai mươi bốn mẫu tự, nhưng mình nên dùng mẫu tự Tây phương với hai mươi sáu chữ ,trong trường hợp cần dùng những chữ j, w hoặc z. Ông cũng biết một bộ bài có năm mươi hai lá, điều này có nghĩa là mỗi mẫu tự được tượng trưng bằng hai lá bài.
- Ông có thể nói rõ hơn một chút được không?
- Thế này nhá tính theo thứ tự cơ, rô, chuồn, bích thì ách cơ sẽ là chữ a, già cơ sẽ là chữ b, đầm cơ chữ c.... theo thứ tự đó hai rô sẽ là chữ z. Khi một tên gian trong chuyện của ông muốn báo một tin gì cho đồng bọn, hắn chỉ việc xếp những con bài theo thứ tự...
Vĩnh gật gù thán phục:
- Có lý quá!
Khải nói tiếp:
- Sau khi nhận tin tên kia sẽ hủy bỏ ngay, một cách rất tự nhiên và dễ dàng bằng cách xào bài là xong.
Trong trường hợp bộ bài lọt vào tay phe địch hoặc cảnh sát, ngay khi những người này xem xét những quân bài để tìm dấu tích, thì chính họ đã xóa bỏ những dấu tích đó rồi.
Vĩnh đập mạnh tay vào đùi:
- Hết sẩy!
- Ông nên nhớ một điều là một bộ bài thường không đủ, vì trong một tin tức nào đó dù thật ngắn cũng có thể có nhiều chữ trùng nhau, bởi thế mỗi tên gian trong chuyện của ông, sẽ có khoảng mười bộ bài để có thể gởi những tin dài cho nhau. Lỡ có ai nhìn thấy những bộ bài này, cùng lắm họ chỉ nghĩ rằng bọn chúng là những tay cờ gian bạc lận mà thôi.
Vĩnh có vẻ hứng khởi:
- Thật là một sự trùng hợp hiếm hoi. Hồi sáng này lão Thân bên thuế vụ mới cho tôi một thùng bài tây mà lão tịch thu được. Để tôi lấy ra coi.
Vĩnh đứng dậy bước tới cái tủ nhỏ ở góc phòng, mở cửa lấy ra một bọc mười hai bộ bài còn bọc trong giấy bóng kính đem lại đặt lên bàn:
- Bây giờ tôi thử rút vài quân ra xem theo mật mã của ông chúng sẽ thành chữ gì.
Vĩnh và Khải cùng xé giấy bóng kính ra, mở hộp đổ mấy bộ bài lên mặt bàn. Vĩnh rút hai quân:
- Bảy chuồn, ách cơ... là chữ gì?
Khải nói ngay:
- Bảy chuồn là chữ h, còn ách cơ là chữ a. Ha.
Vĩnh rút thêm bốn lá nữa. Khải coi từng lá một theo thứ tự:
- Sáu cơ... là chữ i, chín rô... chữ s, ách chuồn... chữ o, ách rô... chữ n. Như vậy sáu lá bài mà ông mới rút là chữ haison, có thể là hai sơn hoặc hải sơn gì đó.
Mặt Vĩnh chợt tái xanh hai tay run lẩy bẩy, những giọt mồ hôi không biết ở đâu đột nhiên ướt đầm trên trán. Khải nhìn bạn ngạc nhiên:
- Ủa ông... ông làm sao vậy?
Vĩnh lắc đầu:
- Không... không sao!
Khải nhìn bạn lo lắng:
- Ông có cảm thấy khó chịu hay là... cái gì không?
- Không, tại sao?
- À... thì... sau khi tôi đọc mấy lá bài là hai sơn hoặc hải sơn gì đó, ông có vẻ hốt hoảng thấy rõ, mồ hôi mồ kê chảy ròng ròng làm như mấy chữ này có một ý nghĩa gì rất quan trọng đối với ông.
Vĩnh không đáp chống hai tay lên bàn đứng dậy, lảo đảo đi tới mở tủ lạnh, lấy chai nước rót đầy ly, uống một hơi rồi nói với Khải:
- Tự nhiên tôi cảm thấy hơi mệt chứ không có gì hết.
Rồi anh cố lấy vẻ tự nhiên, bước tới ngồi xuống đối diện bạn:
- Mật mã của ông hết sẩy. Chắc chắn tôi sẽ sử dụng trong câu chuyện của tôi.
Sau buổi tối hôm đó ngoài những lúc gặp nhau ở truyền hình, mỗi tuần Khải lại tới gặp Vĩnh vài lần xem câu chuyện trinh thám mà Vĩnh dự tính viết đã tới đâu rồi. Tuy nhiên Vĩnh lại bị cái bệnh của các nhà văn mới, nghĩa là rất hăng say khi tìm được một ý tưởng, nhưng khi bắt tay vào việc thì lại không biết mở đầu câu chuyện ra sao.
Vĩnh nói với Khải rằng anh không được khỏe và anh chưa muốn khởi sự cho tới khi cảm thấy đầy đủ phong độ. Khải cũng thấy Vĩnh có vẻ bệnh hoạn thật, và không hiểu tại sao lúc sau này Vĩnh uống rượu nhiều quá.
Nói mãi không được Khải cảm thấy tội nghiệp cho bạn khi thấy Vĩnh có vẻ xuống tinh thần, mặt mày lúc nào cũng bơ phờ hốc hác. Khải nghĩ rằng có lẽ Vĩnh gặp điều gì rất bất thường nên mới thay đổi một cách lạ lùng như vậy. Anh quyết định tìm hiểu để may ra có thể giúp được gì cho bạn.
Khoảng một tháng sau một buổi tối Khải tới cư xá Thanh Đa thăm Vĩnh. Bước hết những bực thang tối tăm vừa lên tới lầu hai, Khải chợt thấy một bóng đen rời khỏi cửa apartment của Vĩnh bước về phía anh.
Khải né sang một bên để người lạ mặt đi qua, nhìn theo ông ta bước thật êm xuống những bực thang. Người lạ mặt có một cái gì bất thường khiến Khải cảm thấy xương sống lạnh buốt. Vừa suy nghĩ Khải vừa bước tới gõ cửa căn apartment của Vĩnh.
Tiếng gõ cửa của Khải được đáp lại bằng một giọng đầy vẻ hoảng hốt của Vĩnh:
- Ai đó? Ai đó?
- À, Khải đây.
Vừa nói Khải vừa đẩy cửa bước vào. Trong phòng khách Vĩnh đầu tóc bù rối, đôi mắt đỏ ngầu đang ngồi trước một núi quân bài trên bàn. Khải nói:
- Sao, ông đang làm quen với mấy lá bài để chuẩn bị viết phải không? Hy vọng là tôi không đuổi khách của ông vì khi tôi vừa lên tới lầu hai thì ông ta đã ra khỏi cửa.
Khuôn mặt Vĩnh tự nhiên trắng bệch:
- Khách của tôi?
- Đúng! Một quân nhân.
Vĩnh hừ lớn:
- Quân nhân? Sao ông biết?
- Ông ta bận bộ quân phục tác chiến, dù trong tối tôi cũng thấy rõ. Hình như quân phục Biệt Động thì phải.
Vầng trán Vĩnh nhăn lại giọng anh đầy vẻ hoang mang:
- Ông ta... coi ra sao?
- Cao lớn. Bộ quân phục có vẻ... không được sạch sẽ lắm, dường như ông ta mới từ mặt trận trở về.
Vĩnh đưa hai tay lên ôm mặt:
- Hừ! Thì ra đó là sự thật! Tôi không bị ảo giác. Tôi không điên vì chính ông cũng thấy. Ông nói đúng, hắn ta vừa trở về từ mặt trận, nhưng đó là mặt trận dưới địa ngục.
Khải nhìn bạn không chớp mắt, trong bụng nghĩ thầm: "coi bộ không khá rồi” tuy nhiên ngoài miệng cố nói một cách vui vẻ:
- Nếu tôi không lầm thì ông đã có những ý tưởng mới cho câu chuyện. Ông đã khởi sự chưa? À có lẽ chưa vì ông còn đang dợt những mật mã mà tôi sáng chế phải không?
Dứt lời Khải cất tiếng cười cho không khí bớt nặng nề. Nhưng Vĩnh lừ mắt gằn giọng:
- Ông không sáng chế cái gì hết! Cái ý tưởng đó được nhét vào đầu óc ông và ra lệnh cho ông đem tới để hành hạ tôi. Tôi luôn luôn tránh né lũ thầy bói, những kẻ nghĩ rằng họ có thể liên lạc được với thế giới bên kia bằng cách... dùng những lá bài. Tối hôm đó, chính ông đã bị thúc đẩy nói ra loại mật mã quái quỷ đó và buộc tôi phải rút mấy lá bài đó.
Trước những lời nói không đâu của bạn Khải bực bội cười khẩy:
- Ông đừng giả bộ điên nữa! Chính tôi đã nghĩ ra loại mật mã đó và chính ông đã tự tay rút ra mấy quân bài vô nghĩa đó.
Vĩnh nói gần như gào lên:
- Tôi không điên! Mấy quân bài đó không phải là vô nghĩa vì nó là tên của một người mà tôi vẫn cố tránh không nghĩ tới.
Khải sửng sốt nhìn bạn không nói. Vĩnh chợt thở dài:
- Tôi nghĩ rằng có lẽ tôi nên nói với ông tất cả. Bây giờ tôi không cảm thấy hổ thẹn gì nữa vì tôi đang ở trong tình trạng khủng hoảng cùng cực. Khi nào ông ở trong tình trạng khủng hoảng như tôi bây giờ, ông sẽ không còn cảm thấy hổ thẹn gì nữa. Để tôi nói hết cho ông nghe...
...Có lẽ ông đã biết rõ về đời lính của tôi. Tôi chỉ nhập ngũ khi bị động viên. Sau thời gian huấn luyện, tôi bị đưa tới một đơn vị Biệt Động nổi tiếng, và bị đẩy vào một tiểu đội dưới quyền chỉ huy của Hai Sơn.
Hai Sơn là người từ binh nhì lên tới trung sĩ và đã mấy lần bị thương. Không ai chối cãi được rằng hắn ta là một quân nhân can trường, nhưng không ai ưa hắn. Có lẽ vì hắn không biết sợ là gì và thường chế nhạo những kẻ mà hắn gọi là đồ chết nhát.
Không hiểu tại sao hắn lại đặc biệt lưu ý đến tôi. Có lẽ vì vẻ trí thức của tôi. Cũng có thể vì tôi sợ dơ, sợ khó, sợ khổ. Tôi không biết mà chỉ biết một điều là hắn đì tôi tối đa.
Hắn hành hạ tôi khi ở hậu cứ cũng như ngoài mặt trận. ở hậu cứ, hắn bắt tôi làm những công việc nặng nhọc nhất bẩn thỉu nhất. Ngoài chiến trường hắn bắt tôi thi hành những nhiệm vụ nguy hiểm nhất.
Những ngày quân ngũ của tôi là những ngày địa ngục! Vì hắn! Đáng lẽ tôi đã được biệt phái ngay từ năm đầu, nhưng tôi tin rằng chính hắn đã tìm cách ngăn chặn. Bởi thế tôi chỉ mong hắn chết, và tôi không phải là người duy nhất mong muốn điều này, có lẽ chỉ ngoại trừ các sĩ quan vì hắn là người luôn luôn tình nguyện nhận lãnh những nhiệm vụ nguy hiểm nhất.
Mỗi lần như vậy hắn luôn luôn bắt tôi đi cùng, vì hắn biết tôi rất ghét những việc đó. Tôi biết hắn đang nghe những gì tôi nói với ông bây giờ, nhưng tôi cóc cần vì tôi chỉ nói với ông một sự thật giữa hắn và tôi.
Một đêm hắn được lệnh dẫn tiểu đội đột nhập đất địch làm công việc trinh sát. Dĩ nhiên hắn bắt tôi đi cùng vì hắn biết tôi rất sợ những công tác như vậy.
Xui xẻo cho chúng tôi là có lẽ chúng tôi đã bị địch phát hiện từ đầu, nhưng chúng chờ cho tới khi chúng tôi đi thật sâu vào đất của chúng, chúng mới nổ súng.
Tiểu đội của tôi có tám mạng thì sáu bị bắn gục tại chỗ. Chỉ có hắn và tôi chạy thoát. Biết thế nào cũng bị chúng chặn hậu, trong đêm tối tôi chạy thẳng vào vùng đất địch trước khi chạy về mé trái, hướng về một cánh rừng già, ngược chiều với hướng về đơn vị.
Trong đêm tối mịt mù tôi bị lạc. Sau khi đi lang thang trong bóng tối hàng tiếng đồng hồ, tôi té xuống một hố bom đè lên một xác người. Hai Sơn!
Nói là xác người thì không đúng vì hắn chưa chết, chỉ bị thương nặng và mất máu. Hắn dặn tôi nhớ kỹ địa thế nơi đó, trước khi ra lệnh cho tôi lập tức trở về đơn vị đưa người tới cứu hắn.
Sau khi được hắn chỉ đường, dù hai chân lết không muốn nổi, tôi cũng phải lập tức lên đường. Tôi không biết ông nghĩ sao về tôi vì sau khi tìm về đơn vị, tôi không nói với ai về Hai Sơn.
Lúc đó tôi tự bào chữa rằng việc đưa hai y tá tới cứu hắn quả là một việc làm quá nguy hiểm. Có thể vì máu ra quá nhiều hắn đã chết rồi. Tôi không thể để ba mạng người phải hy sinh vì một xác chết.
Tuy ngay hôm sau một trung đội được lệnh tiến vào đất địch để giải cứu các đồng đội, thực tế là để lượm xác, nhưng không ai đi tới nơi tôi gặp Hai Sơn lần cuối. Mọi người cho rằng hắn đã bị bắt hoặc bị hạ sát.
Một thời gian khá lâu sau khi được biệt phái, tôi hiểu rằng linh hồn cuồng nộ của Hai Sơn vẫn đang tìm tôi, vẫn muốn cho tôi biết về sự hiện hữu của hắn. Vì lý do đó tôi không bao giờ gặp gỡ những người có khả năng liên lạc với người chết.
Nhưng rồi chính ông đã đem hắn lại với tôi bằng những mật mã của ông. Khi tôi rút sáu lá bài và ông đọc thành chữ Hai Sơn, tôi biết rằng tôi không còn hy vọng trốn chạy linh hồn cuồng nộ của hắn nữa.
Trong trường hợp đó tôi muốn biết hắn muốn nói gì với tôi. Và kể từ đêm đó không đêm nào tôi rời khỏi mấy bộ bài. Tôi liên lạc với hắn.
Vĩnh ngưng lại. Vẻ mặt thật khổ sở. Khải đập tay lên bàn nói lớn:
- Ồ làm gì có chuyện đó. Ông chỉ bị ám ảnh thôi. Có thể ông suy nghĩ về việc đó nhiều quá.
Vĩnh cười khô khan:
- Nếu ông không tin ông hãy xào bài đi. Tôi sẽ quay lưng lại lượm mấy lá bài. Rồi ông dùng mật mã của ông đọc thử xem tôi nói có đúng hay không.
Khải biết rằng cách chữa bệnh ảo tưởng tốt nhất là chứng minh rằng đó chỉ là ảo tưởng. Anh đồng ý:
- Được!
Trong khi Vĩnh quay lưng Khải vừa xào bài vừa hỏi:
- Ông ta thường nói gì với ông?
Vĩnh lên tiếng với vẻ khó khăn:
- Những gì ông có thể đoán được. Đe dọa, đắng cay, xỉ vả, hận thù... đủ hết. Hắn không muốn ở đó một mình mà muốn tôi cùng tới đó để hắn có người ăn hiếp và hành hạ như xưa. Xong chưa? Tôi sẽ nhắm mắt khi lượm bài và ông đọc từng chữ khi tôi lật ngửa chúng.
Vĩnh rút khá nhiều lá bài và Khải lấy bút ghi vào một tờ giấy những gì những lá bài này “nói” qua mật mã của anh. Viết xong Khải liếc nhìn và la lên một tiếng hãi hùng vì những chữ do chính tay anh viết là hàng chữ:
“Mày không chịu tới với tao thì tao tới với mày”.
Mấy hôm sau người ta thấy Vĩnh ngồi chết trên ghế. Trên mặt bàn ngay trước mặt anh là một núi lá bài. Có lẽ Vĩnh đã biết trước những gì xẩy ra cho anh nên anh đã để lại mấy hàng chữ thật lớn trên bàn, yêu cầu không ai được đụng tới bất cứ vật gì cho tới sau khi Khải tới.
Buổi trưa trước khi Khải bước vào apartment của Vĩnh, một người hàng xóm nói với anh:
- Có lẽ ông Vĩnh chết từ tối hôm qua vì bác sĩ nói rằng người ông ấy đã lạnh. Người ta đã đưa ông ấy đi rồi tuy mọi thứ trong nhà vẫn đâu ở đó. Hình như nửa đêm hôm qua có người tới gặp ông ấy thì phải. Người đó chắc là quân nhân mới từ mặt trận trở về, vì sáng nay tôi thấy mấy vết giầy sô dính đầy bùn trước cửa.
Khải bước vào tim đập mạnh. Anh nhìn vào một hàng những lá bài lật ngửa. Qua mật mã của chính anh Khải run lẩy bẩy sau khi đọc hàng chữ:
“Mười hai giờ đêm nay. Hai Sơn”.
ST
LÃO NĂM ĐẠO TỲ
Hiếm khi người ta thấy lão tỉnh táo hoàn toàn. Gần như lúc nào người lão cũng phảng phất mùi rượu. Bất cứ ai nhìn thấy bộ dạng khập khiễng chân thấp chân cao từ xa của lão, cũng biết ngay là tướng đi của một người đang trong trạng thái là đà say.
Hình như rượu là một cái gì gắn liền với đời sống lão. Thiếu nó không được. Mới sáng sớm, đã thấy lão xuất hiện ở quán hủ tiếu mì đầu ngõ để làm một cái "xây chừng" rượu đế.
Có người ái ngại nói với lão:
- Ông uống kiểu nầy hoài có ngày chết đó.
Lão chỉ ngước mắt nhìn xéo lên người vừa nói câu đó:
- Không uống còn chết lẹ hơn nữa, nhờ uống như vầy mà còn sống tới giờ này đây.
Nói xong lão nốc một hơi cạn sạch ly "xây chừng", rồi khập khiễng bước ra khỏi quán, trông có vẻ phấn chấn hơn trước. Mà quả thật, khi chưa có rượu người lão thấy uể oải, điệu bộ giống như con bệnh mới vừa hồi phục. Ấy thế mà sau khi đổ hết cái chất cay xè đó vào cổ họng, trông lão có phần linh hoạt hẳn lên.
Lão uống rượu không khề khà năm điều mười chuyện bên dĩa đồ mồi thơm phức như những dân nhậu khác, mà chỉ ực gọn một cái là xong, khỏi tốn mồi miếc gì hết! Giống như người nghiện á phiện, hể tới cử là phải có thuốc hút hoặc chích vào cơ thể! Hay nói một cách khác cho có vẻ khá hơn: Rượu đối với lão giống như một phương thuốc thần diệu giúp ngăn chận sự hành hạ đau đớn mỗi khi bệnh nhân sắp lên cơn.
Từ khi còn rất nhỏ, ký ức tôi đã in đậm hình ảnh của lão trong đó rồi. Cả vùng Nguyễn Huỳnh Đức, cổng xe lửa số sáu Trương Minh Giảng vô tuốt trong khu lò heo, xóm Kiến Thiết Ngói Đỏ… ăn luồn từ đường Thiệu Trị ra thấu tới trường học Quốc Anh ngoài Công Lý… gần như ai cũng biết lão.
Không rỏ lão sống ở đây từ hồi nào, vợ con thân nhân là ai… ngay cả tên thật của lão cũng không ai biết! Có mấy ông bà già kỳ cựu ở vùng này nhớ mang máng lão thứ Năm, nên người ta ai cũng quen gọi là lão Năm, kèm theo cái biệt danh rất ư là nghề nghiệp: "Năm Đạo Tỳ".
Bởi vì những chuyện dính dáng tới mai táng, tẩn liệm người chết, hốt cốt, đào huyệt mả… ngay cả xây mồ, dựng bia… lão đều làm tuốt luốt.
Lão Năm Đạo Tỳ ở có một mình trong một căn nhà lụp xụp ngay mé ngoài nghĩa địa Phong Thần. Bất cứ ai có việc liên quan tới người chết nhờ tới lão là xong hết. Bề ngoài lão có vẻ say xỉn tối ngày như vậy, nhưng khi làm việc, lão làm rất nhiệt tình.
Hể lão đã nhận lời làm cho ai việc gì rồi thì người đó cứ yên tâm. Mọi việc được giao phó đều hoàn thành suôn sẻ đúng hẹn, dù trước đó không lâu người ta còn thấy lão lè nhè, hơi thở sặc mùi rượu. Nhưng đừng thấy bề ngoài và tướng đi khật khưỡng của lão mà lầm.
Lão rất khoẻ và dai sức. Một mình lão đào một huyệt mả nhanh không thua gì một thanh niên đang thời sung sức và lão có thể làm một hơi không nghỉ cho đến khi xong xuôi rồi mới khật khưỡng ra trước quán hủ tiếu mì làm một cái "xây chừng" nước trắng lấy lại sức.
Không ai thấy lão nấu nướng bao giờ! Thức ăn thì đa số là đồ cúng người chết đặt trước các ngôi mộ. Thân nhân cúng xong đi về thì lão hưởng trọn. Cũng chẳng có ai phàn nàn về việc đó cả, vì hầu như mọi người đều cho đó là một việc tất nhiên. Cúng kiến ngoài nghĩa địa xong rồi thì là của lão Năm Đạo Tỳ chứ đâu có ai mang trở về nhà bao giờ.
Quanh năm hầu như lúc nào cũng có người thuê lão trộn hồ, xây mộ bia, đắp mộ, hốt cốt… nói chung ít nhiều gì cũng có việc lai rai để lão sống và có tiền uống rượu hoài. Vào những dịp Thanh Minh, hoặc cận Tết là lúc lão huy hoàng. Bánh trái, gà, vịt, heo quay… dư thừa đối với một mình lão vào những dịp này.
Nhưng kể ra lão cũng rất tốt bụng. Những khi dư giả như vậy, chiều chiều người ta thường thấy lão mang thức ăn ra chia xẻ bớt cho những người ăn xin tụ tập trước ngôi chùa gần đó.
Tôi vẫn còn nhớ có một lần tôi và mấy đứa bạn trong xóm xem lão tẩn liệm một người chết được đưa từ nhà xác về nhà chôn cất. Chân tay người chết cứng đơ ở một tư thế khuỳnh ra, cong cong trông rất quái dị… Trước đó có mấy tay nhà quàn do chủ nhà mời đến nhưng không ai làm cách nào đặt người chết vào quan tài nằm ngay ngắn được…
Có ai đó nhắc tới lão Năm Đạo Tỳ. Thế là người ta túa ra khắp nơi tìm thỉnh lão về. Đến nơi, dù trong người còn bốc mùi rượu, nhưng lão vẫn lè nhè hỏi gia chủ đưa thêm rượu cho lão uống tiếp mấy ngụm. Sau đó lão đứng cúi đầu trước người chết, điệu bộ chợt trở nên nghiêm trang một cách khác thường rồi thành khẩn khấn vái lầm rầm gì đó…
Kế tiếp lão phun rượu phèo phèo lên tay chân người chết, xong xuôi nhảy lên bộ ván người chết đang nằm, xoa nắn một hồi rồi duỗi được tay chân người chết ngay ngắn như một người đang nằm chấp tay trên ngực ngủ. Lạ một điều là trước đó, mấy tay nhà quàn kia cũng khấn vái, cũng phun rượu ì xèo mà làm không được. Việc tẩn liệm cho người chết sau đó không còn trở ngại nữa.
Một lần khác, có một người đàn bà buồn tình chuyện gì không biết, đâm đầu vào xe lửa đang chạy ngang qua khu cổng xe lửa số sáu, khúc đường Nguyễn Huỳnh Đức tự tử. Ôi thôi! Máu thịt tung toé khắp nơi. Ai trông thấy cảnh đó cũng hãi hùng! Dân chúng và người đi đường đứng coi đông nghẹt.
Bọn nhóc chúng tôi cũng dễ gì bỏ qua dịp này. Ngay sau khi có người loan truyền tin ra, chúng tôi đứa này chạy kiếm đứa kia rủ nhau kéo đến chỗ xẩy ra tai nạn, len lỏi vào tận nơi coi cho bằng được. Người đứng coi thì đông nhưng không thấy ai dám thu nhặt đống máu thịt bầy nhầy vương vãi đó.
Dân chúng bàn tán lung tung, gần như ai nấy cũng đều nhắc đến lão Năm Đạo Tỳ và đồng ý chỉ có một mình lão là có thể cáng đáng chuyện này mà thôi. Người ta chạy đi kiếm lão khắp nơi nhưng không thấy lão đâu cả. Kiếm ở những nơi quen thuộc mà lão thường hay lui tới cũng đều không gặp.
Cảnh sát phong tỏa nguyên khu Nguyễn Huỳnh Đức và đã báo cho nhà xác bệnh viện thành phố nhưng mãi vẫn không thấy ai tới. Cảnh sát cũng có cho tìm những tay nhà quàn khác tới, nhưng mấy tay đó sau khi nghe chuyện đều thối thoát né tránh hết. Trời đã chiều lắm rồi trong khi mọi người còn đang bối rối, thì lão Năm Đạo Tỳ bỗng từ đâu khật khưỡng đi tới.
Mọi người reo lên khi thấy dáng lão xuất hiện từ xa và mừng rỡ chạy tới săn đón lão như thể đang đón mời một nhân vật quan trọng nào đó không thể thiếu được. Thế rồi mặc cho bà con chung quanh chỉ trỏ bàn tán xí xô xí xào, lão vẫn ung dung như không có chuyện gì xẩy ra, lên tiếng kêu ai đó chạy đi mua cho lão một lít rượu đế và dặn dò những người khác đi kiếm ngay cho lão một vài thứ lão cần, sau đó lão cứ việc ngồi đốt thuốc hút chờ người ta mang những vật cần thiết tới.
Trước khi bắt tay vào việc gương mặt lão bỗng đổi sang nghiêm trang, thành khẩn vô cùng. Nét khật khà khật khưỡng cố hữu của lão chợt biến mất. Lão đốt mấy nén hương, chấp tay khấn vái bốn phương tám hướng một cách thật trịnh trọng, sau đó phun rượu vào hai cánh tay ướt nhẹp, rồi phun rượu vào một thùng gỗ dài có lót sẵn giấy tiền vàng bạc và giấy súc mà người ta đã mang đến cho lão…
Sau đó lão bắt đầu nhặt nhạnh các mảnh thịt xương vương vãi chung quanh hiện trường, cứ hể nhặt một mảnh xương thịt nào lên, lão lại ngắm nghía, cẩn thận chùi đất cát dính trên đó trước rồi mới đặt nhẹ nhàng vào thùng gỗ, như có ý muốn lắp đặt lại đúng vị trí phần xương thịt đó cho phù hợp với những bộ phận trong cơ thể.
Lão làm chuyện này một cách tỉ mỉ, thành thạo như một đồ tể chuyên nghiệp đang sắp xếp bày biện lại các bộ phận của con vật sau khi đã rã thịt nó ra vậy.
Kể từ khi chứng kiến hai cảnh đó, mặc dù là một bọn chuyên môn phá phách, nghịch ngợm như quỷ sứ, chúng tôi đứa nào đứa nấy cảm thấy sợ lão Năm Đạo Tỳ lắm. Không đứa nào dám đến gần lão. Ngay cả bẵng đi mấy năm sau, khi chúng tôi được mười mấy tuổi, bọn tôi cũng vẫn còn e dè lão… cho dù thỉnh thoảng có a dua theo mấy tay lớn hơn chọc ghẹo khi thấy lão say, nhưng gặp lúc chỉ có một mình tôi nhìn thấy lão từ đàng xa, không khi nào tôi dám lại gần.
Hình như trong người lão toát ra một cái gì đó, gây cho tôi một cảm giác bất an rờn rợn không diễn tả được.
Đám trẻ chúng tôi hồi đó chiều chiều hay vào khu nghĩa địa Phong Thần chơi. Một mặt vì khu này gần nhà chúng tôi ở và có một khoảng đất trống phía trước đủ rộng để chúng tôi chạy nhảy chơi đùa thoải mái, mặt khác chơi đùa ở đây không động chạm đến ai nên không bị đuổi hoặc bị la rầy, trừ một người: Đó là lão Năm Đạo Tỳ.
Thỉnh thoảng trong khi chúng tôi chạy nhảy la hét ồn ào quá, lão từ trong căn nhà lụp xụp bước ra hoặc đi đâu về thấy, lão quơ tay xua đuổi, giọng lè nhè khàn đặc:
- Tụi bay đi chổ khác chơi hết đi. Cứ la ó ầm ỉ hoài. Đến mấy người chết rồi cũng nằm không yên với tụi bây nữa.
Những lần như vậy chúng tôi lại ù té chạy. Chỉ có lão mới có thể khiến chúng tôi đang chơi phải dẹp bỏ đi chổ khác ngay mà thôi. Tuy không nói ra nhưng cả bọn, đứa nào đứa nấy cũng ngán lão Năm Đạo Tỳ này, dù ông ta không có làm gì chúng tôi cả.
Khu nghĩa địa Phong Thần này là giang sơn của người đã chết, ngoài ra còn là giang sơn của lão Năm Đạo Tỳ và của cả bọn trẻ chúng tôi nữa. Ngay góc ngả ba Trương Minh Giảng, Nguyễn Huỳnh Đức rẽ vào đường Thiệu Trị, đi tới một chút về phía tay trái là thấy khu nghĩa địa, nơi chúng tôi đến chơi thả diều, chạy nhảy hầu như mỗi chiều.
Đây là một nghĩa địa nhỏ cũ kỷ có từ lâu đời rồi. Bên trong có một cái tháp được xây bằng xi măng gọi là tháp Phong Thần. Cái tên nghĩa địa Phong Thần cũng từ đó mà ra. Cái tháp này theo tháng năm đã bị bể tróc, gãy sụp nhiều nơi... trông không còn hình thù nguyên vẹn của một cái tháp nữa.
Tương truyền vào thời vua Tự Đức, có một vị quan lại địa phương rất thanh liêm, được dân chúng thương yêu kính nể vô cùng… sau khi ông quan này chết, đã được chôn cất tại đây và được vua Tự Đức tuyên dương công trạng phong làm thần, cho lập tháp để dân chúng địa phương lể bái thờ phượng.
Truyền thuyết đó không biết có đúng hay không? Nhưng kể từ khi có sự hiểu biết đến nay thì ấn tượng của tôi về tháp phong thần này, chỉ là một nơi hoang tàn đổ nát, u ám, chẳng thấy có một ai đến tưởng nhớ cúng kiến, hương khói thờ phượng… như lời của mấy ông già bà cả kể về vị quan thanh liêm xa xưa nào đó…
Ngoại trừ vào những dịp Thanh Minh, Tết nhất… người ta đi dẩy mả, thăm mộ thân nhân còn dư nhang, theo phong tục ai nấy đều cắm nhang khắp chung quanh, kể cả các ngôi mộ vô thừa nhận và nhờ thế dưới chân tháp phong thần này mới thấy được chút hương khói ăn theo.
Ở phía bên dưới tháp có một cái hố khá sâu. Nghe mấy người lớn tuổi kể lại rằng: Trước đây nơi này là nơi dùng để thiêu xác người chết, nhưng sau đó không biết vì lý do gì, việc thiêu xác không còn nữa. Đổi lại người ta đào một cái hố dưới chân tháp và dùng làm nơi vứt bỏ những mảnh gổ vụn nát của ván hòm còn sót lại sau khi có người hốt cốt thân nhân xong.
Nghe đồn ở dưới hố có cả xương người và một con rắn thật to, mà có người cho là "rắn thần", nằm canh giữ bên dưới. Chính những điều này kích thích lòng hiếu kỳ của bọn trẻ chúng tôi. Thỉnh thoảng sau khi chạy nhảy chơi đùa chán chê, chúng tôi vào ngồi dưới bệ xi măng của tháp phong thần nghỉ mệt, gió thổi lộng vào dưới chân tháp đổ nát nghe mát rượi.
Cũng có đôi lúc chúng tôi theo đám đông đi xem lão Năm Đạo Tỳ hốt cốt người chết, hoặc xem lão đào huyệt… Nói chung tuổi trẻ chúng tôi lúc bấy giờ đối với khu nghĩa địa Phong Thần này là một nơi cho chúng tôi đến chơi đùa thoả thích.
Dù đôi khi cũng thấy hơi sợ sợ mỗi khi có ai đề cập tới chuyện ma quỷ, nhưng sau đó chính những điều này lại khơi dậy lòng tò mò của tuổi trẻ nhiều hơn về thế giới vô hình của người chết và vì thế chúng tôi lại càng muốn tìm hiểu xem sao.
Tôi không nhớ ai là người đã đề xướng và chỉ cho chúng tôi biết cách cầu cơ. Lại còn nói là muốn cơ giáng lên nhanh thì ra nghĩa địa cầu vào lúc đêm khuya, sẽ linh hiển hơn lúc cầu cơ ở nhà.
Dù sợ hải nhưng cuối cùng bọn tôi cũng bàn với nhau và nhất định thực hiện điều đó cho bằng được. Thế là đợi đến đêm khuya, cả đám rủ nhau vào dưới tháp Phong Thần cầu cơ.
Quả nhiên cơ giáng về nhanh hơn khi chúng tôi cầu cơ ở nhà thật! Tôi còn nhớ cái cảm giác rờn rợn khi cơ giáng về di động mảnh ván hòm mài thành hình quả tim hoặc những lúc cả bọn thay phiên nhau đọc bài kệ bắt đầu bằng câu:
"Hồn nay ở chốn non bồng,
Qua đây hồn cũng vui lòng ghé chơi
…………………………………....."
Chúng tôi tiếp tục đọc hoài cho đến khi do ngẩu nhiên hay sao đó, bỗng cảm thấy gió mát lạnh giữa đêm khuya phát ra những tiếng rít nghe quái lạ… rồi thình lình cơ giáng về… gây cho chúng tôi cảm giác vừa sợ vừa kích thích.
Đôi khi chỉ mới bắt đầu đọc là cơ giáng về liền. Riết rồi chúng tôi hết cái cảm giác sợ hải của những lần đầu và trò chơi cầu cơ từ từ không còn làm chúng tôi thích thú nữa.
Cho đến một đêm trong lúc cơ đang lên, thằng Phước bạn tôi bỗng nhiên la lên một tiếng rồi buông ngón tay khỏi con cơ ù té chạy, mấy đứa còn lại không biết chuyện gì xảy ra, cũng hoảng hồn la lớn lên rồi bươn chạy theo thằng Phước, bỏ luôn bàn cầu cơ và cây đèn bão mà thằng Trí lén lấy của ba nó đem theo.
Trong bụng chúng tôi nghĩ thằng Phước chắc thấy ma nên sợ quá la lớn và bỏ chạy như vậy, nhưng sau khi đuổi kịp nó ra tới miếng đất trống trước nghĩa địa thì nó vừa cười vừa cho biết là nó chỉ muốn hù cho tụi tôi sợ chơi thôi chứ không có gì hết.
Mấy đứa chúng tôi "giũa" thằng Phước quá trời, sau đó bắt nó phải đi vào lấy lại cây đèn bão cho thằng Trí đem về trả cho ba nó… lần này không đứa nào còn can đảm đi trở vào lấy lại cây đèn và bộ đồ nghề cầu cơ cả.
Trong lúc chúng tôi còn đang cãi nhau thì bỗng lão Năm Đạo Tỳ từ đâu xuất hiện, trên tay cầm cây đèn bão của thằng Trí và bàn cầu cơ. Sự xuất hiện thình lình của lão làm chúng tôi sợ điếng hồn vì tưởng là ma. Ngay cả sau khi nhận ra lão, chúng tôi cũng vẫn chưa hết sợ.
Thoạt tiên chúng tôi thấy có một ngọn đèn di động từ phía trong nghĩa địa đi ra, sau đó xuất hiện dáng đi khật khưỡng của lão Năm. Đang cãi cọ cả bọn điếng người lại như bị á khẩu. Sự xuất hiện của lão Năm Đạo Tỳ vào lúc này quả y như một bóng ma, làm sao mà không sợ cho được! Chúng tôi đã dợm bỏ chạy, nhưng lão cất tiếng gọi lại và la mắng chúng tôi:
- Tụi bây chạy bỏ lại đèn đuốc và cái này phải không? Nửa đêm không ở nhà ngủ, ra đây la lối om xòm không cho ai ngủ nghê gì hết. Tao nói tụi bây nhiều lần rồi, kiếm chổ khác chơi, cứ nhè chổ này mà ra phá hoài, đúng là tụi bây còn phá hơn quỷ sứ nữa. Người chết rồi nằm cũng không yên với tụi bây. Bữa nào tao phải tới mắng vốn ba má tụi bây đập cho một trận mới được. Con cái nhà ai mà phá quá…
Lẽ ra chúng tôi đã bỏ chạy hết rồi, nhưng thấy thằng Trí còn dùng dằng không dám chạy vì sợ bỏ mất ngọn đèn bão nó lấy trộm của ba nó, nên cả bọn đành ở lại với nó, mặc dù chúng tôi thấy lão Năm Đạo Tỳ vào lúc này thì sợ dữ lắm. Thằng Thành lên tiếng năn nỉ, giọng nó dẽo đeo:
- Ông Năm ơi, tụi cháu còn nhỏ ham vui, có làm phiền ông Năm thì ông Năm bỏ lỗi cho đi nha. Chứ hồi nào tới giờ, ông Năm thấy tụi cháu cũng đâu có làm mích lòng ai trong khu này đâu.
- Tụi bây phá như quỷ vậy, ban ngày la lối om xòm còn châm chước đi, ngay cả ban đêm tụi bây cũng cãi nhau rùm trời không cho ai ngủ nghê gì hết, ai mà chịu được tụi bây chứ?
Sau khi la mắng tụi tôi một hồi, hình như lão cũng nguôi ngoai dần. Thằng Trí xin lại ngọn đèn bão lão còn cầm trên tay. Ánh sánh vàng vọt yếu ớt của cột đèn đường xa xa, cộng với ánh sáng lung linh của ngọn đèn bão soi bóng lão Năm và bọn chúng tôi thành những nền đen lay động trên mặt đất, giữa đêm khuya trông thật quái dị.
Cuối cùng lão cũng trả lại cho chúng tôi ngọn đèn bão và bộ bàn cầu cơ, sau khi không quên răn đe chúng tôi thêm một lần nữa. Sau đó vẫn dáng đi khập khiễng quen thuộc, lão chầm chậm trở về hướng căn nhà lụp xụp bên ngoài nghĩa địa. Trên đường về nhà chúng tôi còn cự nự thằng Phước không ngừng.
Hai hôm sau trong khi đang chơi đá cầu trước bãi đất trống, lão Năm Đạo Tỳ từ trong nhà bước ra giơ tay ngoắc chúng tôi lại gần. Chúng tôi ngỡ lão sắp sửa la mắng như những lần trước, nên định bỏ đi chổ khác. Nhưng lão vẫn ngoắc tay ra dấu bảo chúng tôi tới với một vẻ thân thiện hơn mọi hôm. Cuối cùng chúng tôi bảo nhau tới gần xem lão ta nói gì. Thằng Trí lên tiếng thăm dò:
- Có gì không ông Năm?
- Mấy đứa bây làm gì mà nửa đêm còn đi vào nghĩa địa? Bộ không sợ ma sao?
Lão nhắc lại chuyện đêm hôm trước.
-Tụi cháu cầu cơ thôi chớ đâu có làm gì đâu.
-Tụi bây gan quá há? Có đứa nào thấy ma chưa?
Cả bọn lắc đầu. Lão ngúc ngoắc cái đầu, nhấp nháy mắt rồi hỏi chúng tôi bằng một giọng lè nhè, pha một chút hóm hỉnh hiếm khi thấy:
-Vậy tụi bây có muốn thấy ma không?
Cả đám chúng tôi nhìn nhau một lúc chưa đứa nào dám lên tiếng. Cuối cùng thấy không đứa nào trả lời, tôi rụt rè hỏi:
-Làm sao mà thấy ma được, ông Năm?
Lão nheo nheo đôi mắt nhìn tôi một cách bí mật:
-Mà tụi bây có sợ không cái đã? Nếu không sợ thì tao chỉ cho cách thấy ma. Nhưng mà tao nói trước… khi thấy rồi là không được la đó nghe chưa?
Nhìn cả bọn chúng tôi còn đang ngơ ngác, lão cười cười nói thêm:
-Tụi bây phá quá, đến mấy người chết ở đây cũng chịu hết nổi với tụi bây luôn.
Chúng tôi nhìn nhau, cảm thấy dạn dỉ hơn với lão Năm Đạo Tỳ, vì đây là lần đầu tiên lão nói chuyện với chúng tôi nhiều và thân thiện như vậy. Lại còn cười nữa chứ! Thằng Phước hỏi tới:
- Có ma thiệt không dzậy ông Năm? Cháu nghe nhiều người kể, cũng tin lắm, nhưng chưa bao giờ thấy ma cả. Mấy lần cầu cơ lên. Cháu biết là có ma thiệt. Tụi cháu tuy cũng sợ, nhưng má cháu thường nói: Mình không có làm gì động chạm tới "người ta" thì "người ta" phá mình làm chi! Cháu nghĩ cũng đúng. Tụi cháu chỉ chơi đùa, chứ đâu dám chọc ghẹo ai.
- Vậy chứ tại sao tụi bây không rủ nhau đi chơi chổ nào khác mà cứ nhè chổ này chạy nhảy la hét um sùm vậy, làm sao mấy người chết nằm yên cho được?
- Tụi cháu chơi đùa vậy thôi chứ đâu có phá mồ mả gì của "họ" đâu?
Tôi bỗng hỏi trớ:
- Vậy chớ ông Năm có thấy ma lần nào chưa?
Lão Năm nhìn tôi cười cười:
- Tao sống nhờ ma, mà không thấy ma sao được mậy?
Thằng Thành nôn nóng hỏi tiếp liền:
- Vậy ma có làm gì ông không? Ông không sợ sao?
- Tao đâu có làm gì mà phải sợ. Tụi bây phá người ta hoài thì liệu hồn đó, tụi bây "chưa thấy quan tài chưa đổ lệ" mà.
Rồi ông hỏi lại câu hỏi lúc nảy:
- Tụi bây muốn thấy ma không? Tao chỉ cho một cách là thấy liền chứ gì.
Cả đám chúng tôi nhìn nhau thăm dò, tôi rụt rè hỏi:
- Ông có thể chỉ cho tất cả tụi cháu thấy cùng một lúc được không?
- Được chứ, tụi bây muốn thấy phải không? Khi thấy rồi là không được la lớn nghe chưa? Cũng không được nói cho ba má tụi bây biết để họ mắng vốn tao là không được đó nghen.
Cả đám tụi tôi nhao nhao lên:
- Không có đâu ông Năm, tụi cháu không nói cho ai biết đâu. Bây giờ ông chỉ cho tụi cháu đi
Lão Năm Đạo Tỳ nheo mắt, im lặng nhìn chúng tôi một lúc lâu, như để thu hút hết sự chú ý của chúng tôi trước khi lão bật mí:
- Tụi bây đứa nào muốn thấy ma thì lấy vôi ăn trầu thoa lên hết mấy đầu ngón tay ngón chân, đợi nửa đêm ra ngồi canh ngoài nghĩa địa này thì sẽ thấy ma liền.
Chúng tôi ngạc nhiên ra mặt. Như vậy thì đâu có gì là khó. Thằng Phước hỏi lại cho chắc chắn:
- Thoa vôi ăn trầu lên tất cả mười đầu ngón tay, mười đầu ngón chân luôn hả ông Năm?
- Ừ! Ngón nào cũng thoa lên hết.
Nói xong không nói thêm tiếng nào, lão khật khưỡng đi ra hướng Nguyễn Huỳnh Đức, chắc là lại đi mua rượu uống.
Còn lại sáu thằng: Thành, Trí, Phước, Sơn, Bảo và tôi. Chúng tôi không còn tha thiết chơi đùa gì nữa. Lời lão Năm Đạo Tỳ nói làm chúng tôi nửa hoang mang, nửa khơi dậy lòng tò mò.
Trước đây chúng tôi đã mấy lần giữa đêm khuya vào nghĩa địa cầu cơ, tuy đứa nào cũng sợ… cả bọn cũng nghĩ là mình có thể sẽ gặp ma, nhưng cuối cùng cũng chẳng thấy con ma nào hết, ngoài việc cơ giáng lên và cơ chạy, nên từ từ chúng tôi cũng bớt thấy sợ.
Nhưng lần này lời nói có vẻ chắc chắn của lão Năm là chúng tôi sẽ thấy ma, nếu làm đúng theo như lão đã chỉ dẫn ... Điều này làm cả bọn có cảm giác sợ thiệt sự, chứ không như mấy lúc trước. Sau một hồi bàn tán, chúng tôi quyết định làm thử theo lời lão Năm đã nói. Vả lại chúng tôi nghĩ đi cả bọn thì cũng không có gì phải sợ, cùng lắm là bỏ chạy thôi.
Thế là cả bọn sáu đứa đi về, nôn nóng chờ tới giờ đã hẹn sẵn. Chúng tôi kiếm vôi ăn trầu không khó khăn chút nào cả. Bà Ngoại của thằng Trí ăn trầu cho nên nó lấy dễ dàng.
Khuya đêm đó cả bọn hẹn nhau ở trước nhà tôi trên đường Trương Minh Giảng. Gần mười hai giờ khuya, nhưng lai rai cũng còn một vài quán xá mở cửa, trên đường vẫn còn xe cộ qua lại… Chúng tôi cùng nhau đi băng qua đường Nguyễn Huỳnh Đức, rẽ vào ngỏ Thiệu Trị, rồi đi tới ngọn đèn đường gần khu nghĩa địa.
Chúng tôi dừng ở đây, chia vôi ăn trầu ra thoa lên khắp mấy đầu ngón tay ngón chân. Xong xuôi cả bọn hồi hộp bước vào khu nghĩa địa, mới chợt nhớ là lần này không đứa nào mang theo đèn đóm gì hết, ngay cả khi bàn bạc hồi chiều cũng không đứa nào nhớ ra vấn đề này.
Nghĩa địa này chỉ là một nghĩa địa nhỏ của đa số dân nghèo vì thế các mồ mả ở đây cũng không được xây cất khang trang gì cho lắm. Phần nhiều là các ngôi mộ được đắp bằng đất, lâu ngày bị mưa nắng làm sạt lở. Phải đợi vào những dịp Thanh Minh hoặc ngày giổ của người chết, thân nhân hoặc tự mình làm, hoặc mướn lão Năm Đạo Tỳ đắp thêm đất lên cao ráo trở lại.
Một số mả xưa xây bằng đá vôi, chỉ một số ít được xây bằng xi măng đàng hoàng. Bọn sáu đứa chúng tôi ban đầu định vào dưới chân tháp Phong Thần núp chờ nhưng lại thấy sợ, rủi có gì xẩy ra thì từ đó chạy ra bên ngoài xa quá.
Cuối cùng chúng tôi quyết định rủ nhau đi đến một ngôi mộ xây bằng xi măng khá lớn nằm bên tay phải, cách lối vào nghĩa địa độ mười lăm hai mươi thước gì đó. Chúng tôi ngồi chùm nhum trước mộ bia hồi hộp chờ đợi.
Đêm hôm đó không có trăng, nhưng sao đầy trời nên chúng tôi vẫn thấy lờ mờ cảnh vật bên trong nghĩa địa. Từ những bụi cỏ chung quanh các ngôi mộ, đom đóm bay chập chờn khiến cho cảnh vật thêm phần kỳ bí và làm cho chúng tôi càng hồi hộp thêm…
Chổ chúng tôi núp nhìn ra đường Thiệu Trị không xa lắm nhưng tôi có cảm tưởng như nó quá xa đối với chúng tôi lúc bấy giờ. Mấy lần trước đêm khuya vào nơi này, tôi chưa từng có cảm giác bất an như lần này.
Tôi nhìn xéo qua phía căn nhà lụp xụp của lão Năm Đạo Tỳ chỉ thấy tối thui, có lẽ ông ta đã ngủ rồi. Chúng tôi ngồi đợi như thế một hồi, đứa nào đứa nấy thấy sao quá lâu, thằng Sơn thì thào vào tai tôi, giọng run run:
- Mày có thấy gì không? Sao lâu quá vậy, chắc là không có gì đâu. Thôi bỏ về cho rồi.
Trong bụng tôi sự thật muốn đi về lắm, nhưng cũng làm bộ cứng:
- Ráng chờ chút nữa đi. Công trình chuẩn bị ra tới đây, không lẽ về lẹ vậy sao.
Ngồi thêm được chừng khoảng năm, mười phút nữa, bỗng nghe có tiếng con nít cười khúc khích rất rõ ràng ở phía trước làm tất cả chúng tôi giật mình.
Gai ốc mọc cùng người. Tôi cảm thấy ớn lạnh chạy dọc theo xương sống. Theo một phản ứng tự nhiên, đứa nào đứa nấy bỗng tự động rụt người lại nép sát xuống. Đợi một chút không nghe thấy gì nữa, chúng tôi rón rén nhìn quanh quất xem tiếng con nít cười từ đâu tới.
Nhưng không thấy gì cả, ngoài mấy con đom đóm chập chờn chung quanh trên mấy bụi cỏ. Thình lình tiếng cười khúc khích lại cất lên, lần này hình như ở một hướng khác. Thằng Phước bỗng níu lấy cánh tay tôi giật giật. Tôi quay về phía sau ngôi mộ nơi chúng tôi đang núp. Qua ánh sáng lờ mờ tôi thấy dáng một đứa bé đang đi lững thững, thỉnh thoảng lại cúi xuống nhặt một vật gì đó dưới đất ném đi, rồi lại cười khúc khích… hình như nó thích thú với trò chơi này lắm vậy.
Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là ma rồi!! Con nít giờ này đi đâu một mình trong này? Vả lại hồi nảy tới giờ đâu có thấy gì đâu! Chúng tôi còn đang nín thở nhìn thằng bé, hình như nó mãi nghịch ngợm với món đồ chơi gì đó ở dưới đất không để ý tới chung quanh.
Tuy nhìn thấy cảnh vật lờ mờ qua đốm sáng của các tinh tú trên trời nhưng tôi không thể đoán chắc đứa bé khoảng mấy tuổi. Tôi cũng không nhìn rõ gương mặt, nhưng với chiều cao và tiếng cười khúc khích đầy tính trẻ con, có lẽ đứa bé chừng năm, sáu tuổi.
Tôi chợt nhớ người ta hay nói ma đi hổng mặt đất, nên cố nhìn dưới chân đứa bé xem có đúng vậy không? Nhưng tôi không thể thấy được phía dưới chân đứa bé vì bị các ngôi mộ và bụi cỏ trước mặt che khuất tầm mắt.
Cả bọn vẫn còn bàng hoàng chưa bình tĩnh lại được, thì thằng Phước bỗng níu chặt cánh tay tôi. Nó là thằng nổi tiếng gan dạ nhất trong bọn, vậy mà giờ này tôi cảm nhận được cánh tay nó run lên không ngớt. Nó chỉ về phía trước mặt thằng bé. Không biết từ hồi nào đã xuất hiện một dáng người đàn bà đang đứng.
Trông dáng thì quả đúng là đàn bà rồi, có điều tôi không thể thấy mặt được. Người đàn bà đứng ở phía trước đứa con nít đang giơ tay vẩy vẩy nó. Đứa bé vừa cười khúc khích vừa đi tới phía người đàn bà rồi thình lình ném mạnh vật gì vào bà ta, sau đó quay ngược trở lại vừa chạy vừa cười khúc khích như trước.
Tôi nép sát vào người thằng Trí, hình như muốn tựa hết vào nó để được an toàn hơn. Đứa bé bỗng dưng biến đâu mất tiêu sau chòm mả không nhìn thấy nữa. Tôi len lén nhìn lại phía người đàn bà đang đứng khi nảy, thì cũng không thấy bà ta đâu.
Chúng tôi sợ đến ríu cả người, phát giác cả bọn đang ôm choàng vào lẩn nhau hồi nào không hay. Không đứa nào dám hó hé một tiếng. Một lúc lâu sau không thấy gì lạ xảy ra nữa, từ từ hoàn hồn lại, chúng tôi bấm tay nhau ra hiệu đi về.
Ngay khi chúng tôi vừa đứng lên, quay mình lại định bước ra con đường đất trước ngôi mộ xi măng đang núp nảy giờ, bỗng thấy hình dáng một người đang đứng lù lù ngay sau lưng chúng tôi hồi nào không biết.
Dù đêm tối tôi vẫn thấy đó là dáng một người đàn ông đội khăn đống, mặc áo thụng dài kiểu của mấy người già mặc vào những dịp quan trọng hoặc lễ lạc, đang đứng nhìn chúng tôi với một dáng vẻ hết sức kỳ quái. Thằng Phước là thằng đứng gần như sát vào ông ta, còn tôi và mấy đứa còn lại thì cũng đang chùm nhum ngay đó, nên tất cả đều thấy rất rõ ràng.
Trong một trạng thái bất thình lình như vậy, tất cả đều khựng lại khoảng mấy giây chưa kịp có phản ứng gì. Bỗng người đó giơ tay lên mặt thằng Phước, nói lắp bắp mấy tiếng nghe rất yếu ớt, trong đêm yên vắng giọng nói nghe thật quái lạ:
- Đi đi… đi đi.
Thằng Phước hét lên một tiếng thất thanh. Nó lùi ngược lại xô nhào chúng tôi ra và bươn chạy bọc lại phía sau bất kể gì nữa. Diễn tả thì lâu nhưng sự việc lúc đó xảy ra rất là nhanh.
Mấy đứa còn lại đang sợ đến cứng người, chưa kịp có phản ứng gì, bỗng nghe thằng Phước la thất thanh như vậy rồi ngay sau đó nó quay lùi lại xô chúng tôi để thoát chạy, làm chúng tôi té ngã bổ nhào lên ngôi mộ đắp bằng đất nằm ngay cạnh đó.
Cả bọn không còn chút hồn vía nào nữa, mạnh đứa nào đứa nấy choàng dậy bươn lên mả mồ, gai góc, vấp té lên té xuống… vừa la vừa chạy trối chết ra hướng ngoài đường Thiệu Trị.
Thằng Trí đang chạy ngay trước tôi, bỗng dưng đứng khựng lại làm tôi mất đà va ngay vào nó, hai đứa té chúi nhủi về phía trước. Tôi lồm cồm ngồi dậy thì thằng Trí níu vai tôi lại, lấy tay chỉ về phía trước mặt.
Giọng nó như muốn khóc, lắp bắp những gì nghe không rõ còn người thì run lẩy bẩy, nó cứ níu lấy vai tôi cứng ngắc không chịu buông. Tôi ngước nhìn lên, thì thấy phía trước chúng tôi, đứa bé lúc nảy đang đứng lẩn trong chòm mả bên tay trái, tay phe phẩy vật gì bay bay giống như một miếng vải dài…
Trong đời tôi kể cả mãi tới bây giờ, đã trãi qua nhiều biến cố nguy hiểm, nhưng có thể nói lần này là lần tôi sợ nhất trong đời. Tôi cố gắng lôi thằng Trí dậy, rồi chạy đại trên một dãy mộ đắp bằng đất, qua con đường đất nhỏ phía bên kia để tránh chạy ngang đứa bé, rồi cứ thế nhắm hướng đèn sáng ngoài đường Thiệu Trị mà chạy thục mạng, bên tai vẫn còn nghe tiếng cười khúc khích của trẻ nít.
Thằng Trí do một động lực nào đó cũng bươn chạy ngay theo tôi. Mấy đứa khác Sơn, Bảo, Thành không biết chạy đi hướng nào. Riêng thằng Phước lúc đó đã chắc đã chạy ra bên ngoài xa lắm rồi, tuy nhiên chúng tôi vẫn còn nghe tiếng la hãi hùng của nó vẳng lại. Chúng tôi cứ thế cắm đầu cắm cổ chạy, khi ngang qua trước nhà lão Năm Đạo Tỳ, tôi thấy hình như đèn trong nhà vừa được thắp lên…
Khi ra tới đường Trương Minh Giảng, xe cộ vẫn còn lai rai và vẫn còn người ta đi lại trên đường, lúc bấy giờ tôi mới hoàng hồn được đôi chút, nhìn quanh thì thấy Thành, Sơn, Bảo đã chạy ra trước đây rồi, Trí cũng vừa tới ngay sau tôi. Chúng tôi ngó dáo dác kiếm thằng Phước nhưng không thấy nó đâu nữa.
Kiểm điểm lại quần áo thì mới phát giác chúng tôi bị gai góc móc rách toạc mấy chổ. Riêng hai đầu gối tôi bị trầy trụa rướm máu rát rạt. Chúng tôi chia tay nhau đi về nhà. Đêm đó tôi thức sáng đêm không tài nào ngủ được, đầu óc cứ bị ám ảnh hoài chuyện vừa qua ở nghĩa địa, hể nhắm mắt lại là thấy dáng của đứa bé ma đang cười khúc khích và dáng con ma mặc áo dài thụng, khăn đống đang đứng nhìn tôi với dáng vẻ kỳ quái!
Qua hôm sau chúng tôi nghe tin thằng Phước bị bệnh nằm liệt giường, chúng tôi có tới thăm nó, nhưng không đứa nào dám kể cho gia đình nó nghe chuyện gì đã xẩy ra đêm hôm trước.
Tôi còn nhớ lần đó thằng Phước bệnh thật lâu mới hồi phục được. Riêng tôi cũng bị ám ảnh chuyện này một thời gian dài. Từ đó chúng tôi không dám bén mảng tới khu nghĩa địa Phong Thần chơi đùa nữa.
Thỉnh thoảng nhìn thấy lão Năm Đạo Tỳ khật khưỡng từ xa đi tới, nhưng lần nào chúng tôi cũng tự động tránh ra chỗ khác không dám chạm mặt lão
Trải qua những năm tháng tuổi thơ, nhiều điều bây giờ tôi không còn nhớ rõ được nữa. Nhưng khu đất trống nghĩa địa Phong Thần này và lão Năm Đạo Tỳ vẫn còn để lại trong ký ức tôi nhiều ấn tượng rất đậm nét, nhất là chuyện gặp ma do lão Năm Đạo Tỳ chỉ cách.
Chúng tôi lớn dần theo thời gian, vì điều kiện học hành hoặc hoàn cảnh gia đình nên tản mác khắp nơi. Bọn sáu thằng chúng tôi ngày xưa nay chỉ còn lại bốn, thỉnh thoảng gặp lại hoặc nói chuyện trên điện thoại, đôi lúc chúng tôi có nhắc qua chuyện cũ, đứa nào đứa nấy cũng sôi nổi kể lại vanh vách như chuyện vừa mới xảy ra hôm qua, đủ biết ấn tượng đó ăn sâu vào tâm trí mỗi đứa chúng tôi như thế nào.
Sau 1975 khu nghĩa địa Phong Thần đã bị san bằng, thay vào đó là một ngôi chợ nhỏ, ngôi chợ ở phía trong khu Kiến Thiết cũng đã được dời ra và nhập chung vào khu chợ mới này luôn. Còn lão Năm Đạo Tỳ?
Trong một dịp ghé lại quán hủ tiếu mì, tôi có hỏi thăm thì không ai rỏ lão đã chết hay bỏ đi đâu mất kể từ khi khu nghĩa địa không còn nữa. Lần cuối cùng có người gặp, thì lão đã già lắm rồi, trí nhớ đã bị lú lẫn, cứ lảm nhảm một mình những gì không ai rõ, chân đi vẫn khập khiễng nhưng yếu ớt lắm và đặc biệt người lão vẫn còn phảng phất mùi rượu.
Về chuyện gặp ma mà tôi vừa kể? Đôi lúc có người hỏi:
- Có ma thiệt không?
Tôi liên tưởng ngay tới dáng lão Năm Đạo Tỳ đang ngúc ngoắc cái đầu, nheo nheo mắt nhìn chúng tôi ngày trước. Sau đó tôi hỏi lại người đã hỏi câu đó, giống y như trước đây lão Năm đã hỏi chúng tôi:
- Có muốn thấy ma không? Tôi chỉ cho một cách là thấy ma liền chứ gì! Nhưng mà tôi nói trước, khi thấy rồi thì đừng có la đó nghe chưa.
Nếu thấy người đó khích động lên:
- Thiệt không? Làm sao thấy được ma?
Tôi sẽ trả lời y như lão Năm Đạo Tỳ đã chỉ cho chúng tôi ngày xưa:
- Lấy vôi ăn trầu thoa lên hết mấy đầu ngón tay, ngón chân rồi canh nửa đêm ra nghĩa địa ngồi chờ thì sẽ thấy ma ngay…
…Và nếu như người đó còn nghi ngờ hỏi tiếp... Tôi sẽ nghẹo nghẹo cổ, nheo nheo mắt, vừa cười vừa bí mật trả lời:
- Cứ thử đi rồi biết liền chớ gì!
Vĩnh Khanh
ĐỨA CON MA
Vào thời thơ ấu lúc đó tôi khoảng tám, chín tuổi, gia đình dọn đến một vùng quê hẻo lánh để tìm sự yên tĩnh và không khí đồng quê mát mẻ thiên nhiên.
Mỗi ngày vào sáng sớm ba mẹ tôi ra đồng làm việc cày cấy và chăn nuôi gia súc, còn tôi lúc đó đang là mùa hè nên chỉ ở nhà trông nom nhà cửa, nhiều khi buồn chán tôi thường đi ra ngoài dạo mát.
Một hôm đang tung tăng đuổi theo mấy chú bướm thì tôi nghe có tiếng ai đó đang gọi mình, khi quay lại tôi chỉ thấy một bà già trạc sáu mươi tuổi đang vẫy tay ngoắt mình. Tôi đi đến gần thì bà ta mỉm cười và nói:
- Nhà bà ở cách đây không xa. Mỗi ngày bà đều đi bộ ngang qua đây thấy con chơi đùa vui vẻ trong vườn nên bà không có ý quấy rầy, nhưng hôm nay bà thấy con chạy về phía căn nhà đó, vừa nói bà vừa đưa tay chỉ về phía trước, nên bà mới lên tiếng gọi con trở lại ... Bà ngừng lại một vài phút, sau đó bà lấy tay xoa đầu tôi rồi nói tiếp:
- Căn nhà đó rất là ma quái, con không nên đến gần.
Khi nghe đến ma quái, tôi trợn hai mắt lên kinh ngạc hỏi:
- Bà ơi! Sao bà biết.
Bà kéo tôi lại ngồi trên một thân cây nằm ngã gần đó rồi với một giọng chậm rãi bà kể:
Vào khoảng 1880, có một cặp vợ chồng và ba đứa con gái dọn vào căn nhà đó ở. Ðứa con gái lớn tám tuổi, đứa kế năm, và đứa út chỉ được ba tuổi mà thôi.
Mọi người chung quanh đây ai cũng yêu mến gia đình này, vì cặp vợ chồng này rất là tử tế và vui vẻ, nhưng đối với đứa con gái tám tuổi khi gặp nó ai cũng có cảm giác rằng nó rất kỳ lạ, lạnh lùng và quái dị ...
Nhiều khi hai đứa em chơi đùa vui vẻ, đong đưa trên chiếc xích đu ngoài sân thì đứa con gái tám tuổi chỉ ngồi đó chăm chăm nhìn với cặp mắt lạnh lùng băng giá như là nó đang ghen tức vậy đó.
Còn khi hàng xóm đến thăm, nó rất là lễ phép, và không bao giờ cằn nhằn hay hỗn xược với cha mẹ, nhưng trên khuôn mặt nó lúc nào cũng nở một nụ cười nham hiểm.
Rồi một hôm, cả gia đình năm người bỗng dưng biến mất một cách kỳ lạ. Hàng xóm đều lo lắng hỏi thăm xa gần nhưng không một ai biết gia đình này đã đi đâu. Cuối cùng họ báo cảnh sát.
Trưởng ty cảnh sát liền ra lệnh cho một nhóm người đến để điều tra. Khi nhóm này đến lục soát khắp nơi nhưng họ chỉ tìm thấy xác của hai vợ chồng đã bị người ta giết chết trên giường một cách kỳ bí, còn ba đứa con thì không thấy bóng dáng nơi đâu.
Sau khi kiểm soát trong nhà xong, họ ra ngoài sân thì thấy ngay bên dưới chiếc xích đu có hai mô đất vừa mới đắp, đất hãy còn đậm màu và ươn ướt. Cả nhóm hết thảy là năm người lấy tay bới đất lên.
Ðào chừng một thước, họ thấy hai cái xác cứng đơ của hai đứa nhỏ, còn đứa tám tuổi họ tìm mãi mà vẫn không thấy nơi đâu. Ai cũng nghĩ có thể đứa con gái này đã bị bắt cóc rồi.
Cả làng đều hồi hộp lo sợ cho số phận của đứa con gái này, nhưng đến chiều cả làng điều chấn động bởi một tin từ nơi cảnh sát cho biết rằng sự thật gia đình này chỉ có hai người con gái mà thôi. Vậy người con gái tám tuổi này là ai, không người nào có thể giải thích được ...
Từ đó không còn ai đến ở trong căn nhà này nữa. Nhưng vào những đêm khuya hay những ngày mưa gió, người ta thường nghe tiếng cười rùng rợn của đứa con gái tám tuổi phát ra từ trong nhà bỏ hoang nàỵ Có nhiều người còn thấy bóng dáng của đứa con gái ngồi trên xích đu đong đưa và cười một cách nham hiểm.
Kể xong câu chuyện bà già đứng lên quay bước đi về. Vừa đi bà vừa nói:
- Nhà bà cách đây chỉ năm căn. Khi nào rảnh con xin phép cha mẹ đến nhà bà chơi.
Tôi vừa vẫy tay chào vừa nói:
- Dạ.
Lúc này hoàng hôn cũng vừa buông xuống, những ánh tà dương màu hồng tím nhuộm khắp cả bầu trời. Xa xa từng đàn chim đang bay về tổ ... Và ba mẹ tôi cũng đã trở về nhà sau một ngày mệt nhọc ngoài đồng áng.
Sau khi ăn cơm tối xong, tôi leo lên gác nhìn sang hướng ngôi nhà mà bà già đã kể hồi chiều. Dưới ánh trăng lưỡi liềm treo trên nền trời đầy sao, tôi thấy rõ hơn.
Căn nhà này nằm trên một khoảng đất rộng khoảng một mẫu, xung quanh nhà mọc rất nhiều cỏ dại. Ngoài ra tôi còn thấy được phía sau khu vườn có chiếc xích đu đã xiêu vẹo, lâu lâu gặp cơn gió thổi mạnh chiếc xích đu hơi di động một chút.
Càng nhìn tôi càng bị nó quyến rũ, càng khiêu khích trí óc tò mò non nớt của tôi. Cuối cùng tôi nói với chính mình:
“Ngày mai ta sẽ qua bên đó làm quen với con ma tám tuổi. Hihihi!” ...
Sáng ngày hôm sau ba mẹ tôi vừa ra khỏi nhà, thì tôi cũng khóa cửa lần mò đi qua căn nhà bỏ hoang cách nhà tôi chỉ một đám cỏ lao và một con sông cạn. May là lúc đó là mùa hè cây cỏ vàng úa và thưa thớt nên tôi dễ định được hướng mình đi và không sợ lạc trong đám cỏ lao cao ngất trời.
Chỉ năm phút sau, tôi đã đứng trước căn nhà bỏ hoang. Nhìn tường vôi, cột trụ gẫy đổ tiêu điều, tôi không dám bước vào sợ nhà sụp đè chết nên tôi chỉ đứng ở ngoài mà nhìn vào.
Ở trong nhà không có tối lắm vì ánh sáng xuyên qua những vết nứt trên tường và những khung cửa sổ bị bể kiếng, nên tôi có thể thấy được ở trong nhà còn có vài cái bàn và vài cái ghế hư hỏng và xiêu vẹo, tất cả đều được phủ bởi một lớp bụi dầy đặc. Ðang nhìn tới nhìn lui, bỗng nhiên tôi nghe một vài tiếng xột xoạt ở tầng lầu trên.
À! Tôi quên nói với các bạn là nhà này có hai tầng, nhưng nhìn xa nó giống như một tầng vì tầng trên chỉ như một căn gác nhỏ.
Tôi vội đi thụt lùi ra ngoài hơi xa một chút để nhìn lên tầng thứ hai. Vừa ngước cổ lên tôi thấy qua cánh cửa sổ đã bị rạn nứt nhiều nơi, một hình bóng của người con gái độ chừng tuổi tôi, với mái tóc đen dài che một nửa khuôn mặt trắng bệch, đang làm dấu kêu tôi vào nhà.
Không hiểu tại sao lúc đó tôi lại định bước vào nhà nhưng vội đổi ý ngay lập tức khi thấy đứa con gái ném cho tôi một nụ cười ma quái; thay vì đi vào căn nhà hoang tôi lại quay lưng nhắm thẳng hướng nhà mình mà chạy. Vừa chạy tôi vừa nghe thấy giọng cười ác quỷ của nó vang vọng trong đầu của tôi rất rõ ràng.
Cũng từ đó tôi không bao giờ dám đi ngang hay bén mảng tới căn nhà bỏ hoang này, kể cả những đứa con nít hàng xóm ... Có nhiều đêm đang ngủ, tôi nghe tiếng cười ma quái đó trỗi lên ... Giựt mình thức dậy nhìn dáo dác tôi mới biết mình chỉ nằm mơ, nhưng mồ hôi cũng đã toát ra đầm đìa ...
Ðây là câu chuyện thật, nó xảy ra đã mười mấy năm rồi nhưng giọng cười ma quái của đứa con gái đó cứ mãi ám ảnh tôi cho đến ngày nay.
Danica T.
#89
Gửi vào 19/06/2011 - 08:01
TRÒ CHƠI SÚC SẮC
"Chúng ta hãy bắt đầu", Jay Prakash nói như thế khi tất cả đèn đều được thắp lên. Họ ngồi chung với nhau và bắt đầu mở số. Phong tục chơi súc sắc để lấy hên thường được tổ chức vào đêm giao thừa của Lễ Hội Mùa Xuân.
Jay Prakash đã mời được vài người bạn ở trường đến để chơi trò đỏ đen. Những người hầu, chân trần, đem đến những lá trầu, xoài, sinh tố trái cây đựng trong những hộp bằng bạc.
Lalit hít thở mùi hương ấm áp từ khu vườn, cảm thấy thoải mái trong ánh sáng tràn ngập của gian phòng, với những gối đệm sang trọng. Lalit chơi một cách hời hợt, và thảy những con súc sắc ra khỏi tấm nhung vuông.
Jay Prakash lớn tiếng :
- Này! phải chú ý vào trò chơi chớ.
Lalit phải cố gắng để tinh thần khỏi bị "choáng váng" bởi những tiện nghi trong căn nhà lớn nầy. Lalit cố gắng chơi cho đàng hoàng, nhưng Lalit thật chẳng được hên chút nào. Lalit thua sạch hết và muốn nghỉ chơi. Jay Prakash bực mình nói :
- Sao mà chơi xấu thế ?
- Tôi đã thua hết tiền rồi, tôi không muốn chơi nữa. Các bạn cứ tiếp tục chơi đi. Thần tài chẳng ngó đến tôi.
- Nói nhảm! Tôi sẽ cho anh mượn trước, chúng ta không đánh cuộc lớn. Ðừng có hà tiện như thế.
Không trả lời Lalit lại tiếp tục trò chơi, nhưng Lalit cứ thua hoài. Trông Lalit rất thảm hại khiến các bạn cười vang, và cuối cùng thì Lalit cũng tự cười mình.
Vào tảng sáng Lalit đã nợ Jay Prakash rất nhiều. Lalit đi ra khu vườn còn đẩm hơi sương, đẩy nhẹ cánh cửa cổng và thẳng bước trên con đường không một bóng người. Lalit hơi ngập ngừng một chút khi hướng về trường nội trú và rồi quay lưng đi .
Vài ngày sau Jay Prakash sửa soạn trở lại trường.
Người hầu cho chàng hay có một người đàn bà trẻ muốn được tiếp chuyện. Chàng đi ra khu vườn và thấy một người con gái y phục tầm thường, với một chấm đỏ giữa trán của người phụ nữ đã lập gia đình.
Chàng nhận ra được là vợ của Lalit. Người phụ nữ nói :
- Anh ấy đã bỏ đi, và chúng tôi không rõ anh ấy đã đi đâu. Và đây là bức thư anh ấy viết cho anh.
Nói xong nàng ngồi sụp xuống đất và khóc nức nở.
Jay Prakash cầm lấy thư và đọc :
- Anh Jay Prakash, Thượng đế đã ban cho tôi một gia đình không giàu. Vì lòng tự cao tôi đã cố che dấu thân phận của mình. Cha mẹ tôi phải rất khó nhọc và cần kiệm mới có thể gởi tôi vào đại học. Tất cả những gì gia đình tôi sở hữu, cũng không thể nào trả hết nợ mà tôi đã vay của anh. Tôi thấy xấu hổ lắm và tôi phải ra đi. Xin vĩnh biệt.
Jay Prakash muốn hỏi thăm thêm, nhưng người đàn bà trẻ chẳng biết gì hơn. Nàng ra về vừa đi vừa khóc, dáng đi trơ trọi nhỏ bé.
Jay Prakash là bạn lâu năm của Lalit. Jay Prakash nghĩ đến lời châm biếm mỉa mai của mình đêm qua, và cảm thấy có lỗi. Ðể chuộc lỗi, anh nhất quyết phải tìm đủ mọi cách để kiếm lại Lalit. Anh tuyên thề không lập gia đình cho đến khi nào tìm lại được Lalit.
Anh gửi người đi mọi phương để kiếm Lalit. Nhưng hoài công, bao năm tháng trôi qua nhưng Lalit vẫn bặt tin. Hai năm sau vợ Lalit mất.
Ngày nay không còn bao người nhớ đến câu chuyện nầy. Nhưng để trung thành với lời thề ước, Jay Prakash không hề lập gia đình.
Nỗi buồn trong thời niên thiếu đã ảnh hưởng rất nhiều đối với cả cuộc đời của anh sau nầy. Không phải Jay sống một cách buồn chán hay khốn khổ, nhưng dường như trong lòng anh luôn kiếm tìm một cái gì đó mà chính anh cũng chưa bao giờ hiểu được.
Bao năm trôi qua và rồi thêm bao năm nữa. Trong vài năm nay, Jay Prakash sống trong một căn nhà tồi tàn đối diện với dòng sông. Ánh sáng long lanh như ngọc đùa trên mặt nước gợn sóng lăn tăn, dòng sông trở thành người bạn đồng hành, gói trọn niềm vui và vẻ đẹp, mà chính trong lòng Jay không thể nào cảm nhận được.
Vào buổi sáng sớm tiếng cầu nguyện, tiếng hát, những buổi lễ rửa tội đánh thức Jay dậy như những tiếng chim quen thuộc. Ðôi mắt anh ngắm nhìn những thân hình trần trụi, những chiếc áo sặc sỡ như mong đợi ai. Anh vui thú ngắm nhìn các trẻ em chơi những trò chơi của chúng, những ông già râu bạc, và những mái tóc dài của các ẩn sĩ rời hang động để đi hành hương.
Jay Prakash nghĩ rằng phải có cái gì thật và đẹp hơn ở cõi đời, vì tất cả vẻ đẹp và màu sắc anh đang thưởng thức đã phản ảnh lên điều nầy.
Trong một thời gian dài, anh đã tìm câu trả lời nơi những bài viết của các ẩn sĩ, và triết gia, nhưng vẫn chẳng tìm thấy gì, vì trong lòng anh vẫn còn niềm thao thức. Mỗi ngày anh nghe những người đi hành hương kêu lên :
- Ô Sông Hằng. Mẹ của chúng tôi, trước khi họ ngâm mình vào dòng nước thiêng liêng.
Ngày nào cũng thế câu nầy lọt vào tai anh, và dần dần anh trở nên nhạy cảm hơn, cho đến khi anh khám phá ra tình yêu của mình dành cho con sông thiêng liêng, và cảm nhận được vẻ đẹp mênh mang của nó.
Anh hiểu rằng mình có thể ném vào lòng sông những nhọc nhằn đang đè nặng trong lòng. Thành phố với những lâu đài, vườn hoa, bài hát, lời nguyện như là những trang sức cho dòng sông thiêng liêng này.
Dòng sông như đã nối liền với tâm hồn anh, và đã mang lại cho anh một thông điệp hòa bình. Anh nghĩ rằng mình cần phải đi ngược dòng sông, đến tận mạch nguồn của nó, đến ngay cánh cổng của thiên đường.
Tình yêu đối với dòng sông và ý nghĩ đi tìm mạch nguồn của anh lớn dần theo thời gian, cho đến một hôm, anh nghĩ đến việc làm một cuộc hành trình đến tận nguồn sông Hằng, chỗ mà người người coi là nơi thiêng liêng huyền bí.
Ðiều nầy như một tiếng gọi xa lạ được lặp đi lặp lại bằng những ngọn sóng vỗ vào bờ. Ðiều này dần dần lớn mạnh trong lòng anh, cho đến một hôm, khi anh cảm thấy mình già và yếu đi, và anh nhất định rời nhà không chút chậm trễ để đi hành hương trước khi từ giã cõi đời .
Jay Prakash làm một cuộc hành trình trong trạng thái nửa tỉnh, nửa mê với nhiều ngây ngất. Anh không chú ý đến những chuyến xe lửa, những người khuân hành lý hay đám đông. Những khó khăn gặp phải trên đường hành hương chỉ làm tăng thêm giá trị chuyến đi, và niềm hân hoan vui vẻ mà anh cảm nhận được đang đầy dẫy trong lòng.
Anh bước xuống xe lửa, trước một ga nhỏ dưới chân núi, một con đường nhỏ dành cho khách hành hương được bắt đầu từ Badrinath. Anh đi bộ một mình trên con đường ven theo nhánh sông, bấy giờ là một thác nước đang reo vui.
Bên đường, những người hành hương ngoan đạo đã xây những căn nhà để khách du hành có thể nghỉ qua đêm. Con đường thật vắng vẻ. Thỉnh thoảng anh thấy những người hành hương ngược đường đi xuống. Thấy anh hấp tấp đi họ nói với anh :
- Này cụ ơi mùa lễ đã hết rồi. Tất cả con đường sẽ bị chấn lối vì tuyết. Hãy về đi và mùa xuân sau hẳn trở lại.
Nhưng Jay Prakash biết rằng mình không thể nào có được mùa Xuân năm sau; sự quyết tâm đã thúc đẩy thân thể gầy gò của anh tiến bước, mặc cho gió lạnh, mặc cho mệt mỏi.
Sau bao khó nhọc, ngày nọ anh thấy mình đứng dưới một vách đá hùng vĩ, nơi mà anh mong được nhìn thấy rồi chết cũng vui lòng.
Một chiếc xe vận tải ngược chiều, chạy ngang anh, người khuân nào là chuông, nào là chiêng, khánh, nào là dĩa bạc. Họ là những vị thầy tu nơi ngôi đền của sông Hằng, họ rời đền khi mùa Ðông đến, và năm nào cũng thế. Không một người nào có thể chịu đựng nỗi mùa Ðông tại đây.
Vài người thầy tu đến gần ''ông lão lạc đường", bắt ông phải đi về với họ. Trên đường về họ đóng cửa tất cả những căn nhà nghỉ cho khách du hành. Nhưng Jay Prakash không muốn trở về. Ðây là cuộc hành trình cuối cùng của anh có gì quan trọng hơn ?
Theo tiếng gọi trong tâm thức mình, anh đến đây để lễ tạ trước mạch nguồn của dòng nước thiêng và anh sẽ không đi về, nếu chưa tròn nguyện ước. Anh năn nỉ một trong những vị thầy hãy trở lại mở cửa cho anh dù chỉ một chút thôi. Nhưng họ từ chối.
Anh hứa dâng tặng tất cả những gì anh có cho họ, nhưng hoài công. Họ đã để cho các Thần ngủ trong mùa Ðông, họ nói :
- Cánh cửa một khi đã đóng lại rồi thì chỉ được mở ra khi mùa Xuân đến.
Bầu trời bắt đầu ''đe doạ". Không thể nào khuyên lơn ông già cứng đầu họ bỏ đi. Chiều xuống, mệt mỏi, Jay Prakash đến được ngôi đền. Anh làm lễ đi nhiễu vòng và lay mạnh cánh cửa lớn một cách vô vọng đuối sức, anh té lăn xuống những bậc thềm.
Anh không rõ mình đã nằm bất tỉnh trong bao lâu. Nhưng hình như có một niềm hạnh phúc lạ lùng xuất hiện trong lòng, một sự ấm áp yên tịnh bao phủ, như vỗ về như âu yếm. Có phải anh đã chết rồi không ? Bỗng một bàn tay rắn chắc ấn mạnh vai anh, tiếp đó là một giọng nói.
Ngẩng đầu lên Jay Prakash thấy một ẩn sĩ, gần như khỏa thân, râu tóc dài với thắt lưng bằng sắt, một cây đinh ba trong tay. Khuôn mặt hõm sâu, nhưng thân hình thì vẫn như thanh niên, tất cả các du sĩ đều giữ được thân hình như thế.
- Này anh bạn, anh không thể ở lại đây đêm nay đâu. Hãy đi theo tôi rồi ngày mai anh muốn đi đâu tùy ý.
Ánh sáng cuối cùng cho thấy những cụm mây dầy đặc, báo hiệu cho cơn gió lạnh buốt sẽ thổi qua thung lũng nầy. Jay Prakash để cho ẩn sĩ dẫn mình đi. Họ trèo lên sườn núi bằng một con đường nhỏ hẹp cho đến khi đến dưới một cục đá to, xuất hiện một ngõ vào hang động.
Trong động trước một bàn thờ nhỏ, một ngọn đèn dầu đang cháy, giường ngủ làm bằng cỏ khô. Ẩn sĩ chỉ cho anh ngồi xuống và chia với anh phần ăn của mình, chỉ là bột nhồi với nước.
Ẩn sĩ dường như không mặc gì dù trời đang rất lạnh. Ðể sưởi ấm Jay Prakash, ẩn sĩ đốt một nhóm lửa gần cửa hang. Sau đó ngồi xuống bên cạnh ông ta nói :
- Này anh bạn đêm đông rất dài, chúng ta hãy chơi gì đi để cho qua thời gian.
Nói xong ẩn sĩ liệng ra mấy con súc sắc và chia ra mười lăm hòn sỏi trắng, mười lăm hòn sỏi đen làm 'thẻ' ( thay thế tiền để đánh cuộc đỏ đen).
Vừa nhác thấy mấy con súc sắc, Jay Prakash bất giác rùng mình. Anh đã không còn đụng đến chúng sau cái đêm đáng tiếc xảy ra cách nay đã lâu lắm rồi. Anh định từ chối nhưng khi bắt gặp ánh mắt sắc bén của ẩn sĩ, anh cuối đầu nhượng bộ.
Anh đã quên bẳng luật của trò chơi nầy, anh cảm thấy cơn buồn ngủ đang đè nặng mí mắt. Nhưng vì sợ làm buồn lòng ẩn sĩ, anh tự nhủ phải chơi ít nhất là một bàn.
Ẩn sĩ dám đánh cuộc lớn và chơi rất giỏi, khiến cho Jay Prakash sau một lúc đã bị cuốn hút theo trò chơi. Một bàn rồi một bàn nữa...
Anh quên mệt mỏi và hết buồn ngủ, quên luôn đêm lạnh giá buốt bên ngoài. Anh như bị say thuốc khi thấy những hòn sỏi đen trắng thay phiên nhau đổi tay. Ẩn sĩ thua rất nhanh, nhưng khi mà ông ta chỉ còn một thẻ thì dường như ông ta hên trở lại, và thắng lại tất cả, cho đến khi đến phiên Jay Prakash thua hết chỉ còn một thẻ, thì ông ta thua trở lại.
Nhóm lửa đã tắt từ lâu. Jay Prakash nhận thấy ánh lửa từ ngọn đèn dầu không lung linh mà sáng như một vị tinh tú bất động.
Anh định nói điều nầy với chủ nhân, nhưng vì đắm mình trong trò chơi, ẩn sĩ không màng để ý và Jay Prakash cũng quên hết khi anh cố gắng chơi để được thắng cuộc.
Trời đã bắt đầu sáng mà cả hai đều không hay biết. Lần nầy đến lượt ẩn sĩ thắng và đây là lần thứ sáu mà ông ta lấy lại những hòn sỏi đã thua.
Jay Prakash chỉ còn lại năm hòn sỏi, còn bốn, còn ba, còn hai, còn một. Thần tài có thay đổi ý định không ? Không lần này thì thần tài bỏ rơi Jay Prakash, và ẩn sĩ lấy đi hòn sỏi cuối cùng của anh.
Ẩn sĩ đứng dậy mỉm cười và ra dấu cho Jay Prakash đi ra phía ngoài hang động. Ông ta đưa cho anh một vật gì đó được gói trong một miếng vải lụa.
- Trời đã tốt. Hãy xuống núi đi anh bạn, hãy đến đền thờ và hãy dâng vật nầy như là lễ tạ của tôi.
Jay Prakash cảm thấy chẳng chút mệt mỏi sau một đêm không ngủ. Ngược lại anh cảm thấy khỏe khoắn và tươi tỉnh. Anh ra khỏi động. Mây đã kéo đi một ngọn gió ấm áp thổi lên từ dưới thung lũng.
Xuống triền núi anh nhận thấy mặt đất đêm qua trơ trụi và cứng ngắt, sáng nay đã được phủ đầy hoa và cỏ. Khi anh gần đến đền thờ thì gặp một nhóm người mà anh nhận ra là những vị thầy tu đêm trước.
Anh đến gần họ và nói :
- Các vị bỏ quên đồ à? Có thể nào mở cửa ra cho tôi lễ tạ một chút không?
Các vị này dường như không nhận ra anh là ai, họ nhìn anh đầy ngạc nhiên. Một người trong nhóm nói :
- Chờ chút đã ông nội ơi, đền sẽ được mở cho tất cả mọi người, hôm nay là Lễ Hội Mùa Xuân.
Jay Prakash tiến gần bệ thờ và mở tấm vải lụa, lấy lễ vật mà ẩn sĩ đưa để lên bục. Ðấy là một trong những hòn sỏi đã dùng làm thẻ trong trò chơi. Chợt Jay Prakash thấy hình như hòn sỏi được chạm chữ vào, và anh đọc được một chữ duy nhất "Lalit".
Anh chạy về hướng hang động của ẩn sĩ. Nhưng triền núi phẳng lì và trơn láng. Chẳng có hang động và cũng chẳng có con đường nào.
Alain Danielou
TIẾNG GHẾ GIỮA ĐÊM KHUYA
Vào một đêm trời mưa lất phất, tôi được anh bạn láng giềng mời sang nhà ăn bánh uống trà. Thật ra chỗ ở gọi là nhà của anh cũng như của tôi chật hẹp như một cái buồng vì tất cả mọi người đều phải xài chung một nhà tắm. Bà chủ nhà đã cất hai dãy buồng gồm tám căn đối mặt nhau.
Ở giữa là con hẻm rộng khoảng hai thước tây. Anh bạn tôi tên Hai nhưng vì chân đi khập khễnh nên tụi bạn gọi là "Hai què". Anh cũng vui lòng chấp nhận:
- Mình què thì người ta gọi là què, có gì đâu phải khó chịu.
Anh Hai dọn về đây trước tôi khoảng ba tháng. Anh làm nghề sửa xe gắn máy có vợ và được một con, còn bé mới chưa đầy tuổi. Lúc trước gia đình anh ở với bên vợ, sau vì có con, nhà chật chội nên anh mang gia đình ra ở riêng.
Buồng anh mướn ở sát ngay buồng tôi. Chúng tôi thường đến thăm nhau và tán gẫu hoặc mời nhậu nhẹt chung nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên anh hú tôi tới chơi lúc đồng hồ đã chỉ hơn mười giờ đêm rồi.
Vừa tới, tôi đã thấy anh ngồi dựa lưng vào vách, trên chiếc chiếu đã ngả màu trải trên tấm phản gỗ, một nơi vừa để tiếp khách, vừa là chỗ nghỉ lưng của anh...Anh đon đả mời tôi ngồi và rút bao thuốc lá:
- Làm một điếu cho ấm lòng, anh Sơn...
Tôi gật đầu, chưa kịp nói tiếng cám ơn thì bất chợt một cảnh tượng đập vào mắt tôi. Kế bên anh, môt lon gạo đã cắm sẵn ba cây nhang còn cháy dở, cạnh đó là một nải chuối, một dĩa bánh tây, ba chung nước trà. Tất cả được đặt trên một cái khay nhôm.. Tôi lặng lẽ rút điếu thuốc và bật quẹt đốt. Sau khi rít một hơi dài, tôi thắc mắc:
- Bữa nay cúng gì vậy anh?
Anh chỉ đáp khẽ:
- Một lát thì anh sẽ biết.
Rồi anh nhìn về hướng tấm màn chắn ngang. Tiếng ru con từ trong đó vọng ra một lúc một nhỏ dần. Có lẽ anh không muốn khích động óc tò mò của vợ mình nên anh hỏi chuyện tôi toàn là những chuyện vu vơ, không đâu. Khoảng nửa tiếng sau, chừng như vợ và con anh đã ngủ rồi. Anh mới lên tiếng:
- Hỏi thật bạn chứ bạn có tin thế giới bên kia không?
Tôi đáp:
- Tin chứ. Tôi tin con người có linh hồn nhưng tại sao anh hỏi tôi như vậy?
Cặp mắt anh mơ màng nhìn ra cửa rồi nhìn tôi, anh nói:
- Hôm qua tôi gặp rồi.
Ngạc nhiên, tôi vặn:
- Ai vậy?
Anh nói rất nhỏ:
- Bà già bán thuốc lá ngoài đầu hẻm.
Một cảm giác rờn rợn từ dưới xương sống chạy dần lên.. Ngoài trời mưa bắt đầu nặng hột, vài cơn gió lạnh từ ngoài cửa thổi vào khiến ngọn đèn vàng trên trần chao qua, chao lại làm tôi nổi cả gai ốc..
Trong hẻm, ai lại không biết bà già đã mất hơn tháng nay rồi. Bà mới dọn tới nơi này có vài tháng trước đó. Bà sống một mình với thùng thuốc lá làm sinh kế. Bà chỉ có một thằng con trai độc nhất thỉnh thoảng có đến thăm và cho tiền bà xài. Không ai hiểu được vì lý do gì mà con bà để bà sống có một mình, hơn nữa bà đâu có khoẻ mạnh cho lắm.
Bà đi đứng rất bất tiện, phải nhờ đến cái ghế để đi. Hàng đêm khoảng mười giờ tối, mọi người đều nghe tiếng chân ghế gõ rất nhịp nhàng "Cộp, cộp, cộp...." từ đầu con hẻm. Lúc đầu ai nấy đều khó chịu nhưng dần dà rồi lại quen đi. Hàng xóm biết là bà già thuốc lá về nhà, sau khi đã gửi thùng thuốc cho gia đình hàng xóm ở trước ngỏ.
Tiếng ghế khua đều trên mặt đường trở thành một âm thanh quen thuộc và như gắn liền với cuộc đời còn lại của bà già thuốc lá. Một buổi sáng, con bà đến thăm thì phát giác bà mẹ đã chết cứng từ đêm hôm qua.
Chuyện bà mất đi xãy ra cũng hơn cả tháng rồi. Vậy mà, theo lời kể của anh Hai què mới đêm qua, chính tai anh đã nghe được âm thanh đã biến mất giờ lại xuất hiện. Tiếng ghế khua trên đường, tiếng ghế của bà già bán thuốc lá. Tiếng động như khởi đi từ đầu hẻm, lúc đầu nhỏ và sau lớn dần. Ðột nhiên lần này tiếng ghế tới trước nhà anh Hai thì ngưng bặt.
Anh nằm trên giường, đắp chăn kín mít mà run cầm cập. Mồ hôi vã ra như tắm ...Anh mở mắt thao láo, nghe ngóng, tay bấm thần chú, miệng lâm râm cầu nguyện mà không tài nào chợp mắt được. Mãi cho đến gần sáng anh mới thiếp đi. Nhìn anh kể, tôi vẫn còn thấy nét sợ hãi trên khuôn mặt của anh cộng thêm dáng thểu não vì mất ngủ. Tôi trấn an:
- Chắc anh nằm mơ hay ở trong trạng thái nửa mê, nửa tỉnh chứ gì.
Anh Hai quả quyết lúc đó mình tỉnh táo đàng hoàng, anh còn biết trời đang mưa lớn mà. Tôi hỏi đùa:
- Chắc anh mua chịu thuốc lá của bả mà chưa trả nên bà ấy tới kiếm anh đòi tiền chứ gì?
Anh lắc đầu:
- Tôi có mua thiếu nhưng đã trả hết nợ rồi.
Nhìn cảnh tượng chung quanh giờ tôi mới hiểu ra là anh đang cúng bà già bán thuốc lá đây. Tôi cũng chỉ biết làm dịu nỗi lo sợ của anh mà nói:
- Anh thành tâm cúng vái như vậy, lòng thành của anh chắc bà già cũng chứng giám và sẽ phò hộ cho anh, không sao đâu.
Sau đó tôi chuyện trò, trà nước với anh thêm một khoảng thời gian ngắn rồi kiếu từ. Về đến nhà, lòng tôi vẫn còn phân vân, mang ít nhiều nghĩ ngợi khi nhớ tới các bậc bô lão cho rằng những người gặp phải người khuất mặt khuất mày, một là yếu bóng vía, hai là không được hên lắm. Câu chuyện cũng chìm vào quên lãng. Khoảng chừng nửa năm sau tôi dọn nhà và mất liên lạc với gia đình anh.
Mười lăm năm trôi qua rất nhanh. Trong một dịp về thăm quê hương, ghé ngang xóm cũ thì được biết gia đình anh đã dọn đi nơi khác ở và anh đã ra người thiên cổ. Tôi cố gắng tìm đến địa chỉ mới nơi vợ con anh sinh sống thì được chị cho biết:
Anh mất lúc còn trẻ khoảng chừng hơn ba mươi tuổi vì bệnh sưng phổi, sau lúc vợ chồng tôi tìm đường ra đi không bao lâu. Tôi và bà xã chỉ biết thắp cho anh một nén nhang, an ủi vợ anh vài câu. Nhìn di ảnh của anh, tôi thấy lòng trĩu buồn và chợt nhớ đến câu chuyện mà anh kể lúc trước. Câu chuyện "bà già bán thuốc lá" hay "tiếng ghế giữa đêm khuya"..
Thế giới vô hình có hay không?...Chưa ai tìm được câu giải đáp. Tin hoặc không tin có lẽ tùy thuộc vào mỗi người, như tôi đã nghe các bậc tiền bối thường nói:
"Nhất khả tín kỳ hữu, bất khả tín kỳ vô."
Để kết thúc bài này người viết xin nói thêm ở đây là câu chuyện có thật đến chín mươi phần trăm, ngoại trừ tên tuổi và một vài chi tiết được thay đổi để phù hợp với cốt chuyện.
Mong rằng đây là một đóng góp nho nhỏ trong kho tàng văn chương mang màu sắc huyền bí đã từ lâu khơi dậy trí tò mò của tất cả mọi người.
Quách Xuân Sơn
"Chúng ta hãy bắt đầu", Jay Prakash nói như thế khi tất cả đèn đều được thắp lên. Họ ngồi chung với nhau và bắt đầu mở số. Phong tục chơi súc sắc để lấy hên thường được tổ chức vào đêm giao thừa của Lễ Hội Mùa Xuân.
Jay Prakash đã mời được vài người bạn ở trường đến để chơi trò đỏ đen. Những người hầu, chân trần, đem đến những lá trầu, xoài, sinh tố trái cây đựng trong những hộp bằng bạc.
Lalit hít thở mùi hương ấm áp từ khu vườn, cảm thấy thoải mái trong ánh sáng tràn ngập của gian phòng, với những gối đệm sang trọng. Lalit chơi một cách hời hợt, và thảy những con súc sắc ra khỏi tấm nhung vuông.
Jay Prakash lớn tiếng :
- Này! phải chú ý vào trò chơi chớ.
Lalit phải cố gắng để tinh thần khỏi bị "choáng váng" bởi những tiện nghi trong căn nhà lớn nầy. Lalit cố gắng chơi cho đàng hoàng, nhưng Lalit thật chẳng được hên chút nào. Lalit thua sạch hết và muốn nghỉ chơi. Jay Prakash bực mình nói :
- Sao mà chơi xấu thế ?
- Tôi đã thua hết tiền rồi, tôi không muốn chơi nữa. Các bạn cứ tiếp tục chơi đi. Thần tài chẳng ngó đến tôi.
- Nói nhảm! Tôi sẽ cho anh mượn trước, chúng ta không đánh cuộc lớn. Ðừng có hà tiện như thế.
Không trả lời Lalit lại tiếp tục trò chơi, nhưng Lalit cứ thua hoài. Trông Lalit rất thảm hại khiến các bạn cười vang, và cuối cùng thì Lalit cũng tự cười mình.
Vào tảng sáng Lalit đã nợ Jay Prakash rất nhiều. Lalit đi ra khu vườn còn đẩm hơi sương, đẩy nhẹ cánh cửa cổng và thẳng bước trên con đường không một bóng người. Lalit hơi ngập ngừng một chút khi hướng về trường nội trú và rồi quay lưng đi .
Vài ngày sau Jay Prakash sửa soạn trở lại trường.
Người hầu cho chàng hay có một người đàn bà trẻ muốn được tiếp chuyện. Chàng đi ra khu vườn và thấy một người con gái y phục tầm thường, với một chấm đỏ giữa trán của người phụ nữ đã lập gia đình.
Chàng nhận ra được là vợ của Lalit. Người phụ nữ nói :
- Anh ấy đã bỏ đi, và chúng tôi không rõ anh ấy đã đi đâu. Và đây là bức thư anh ấy viết cho anh.
Nói xong nàng ngồi sụp xuống đất và khóc nức nở.
Jay Prakash cầm lấy thư và đọc :
- Anh Jay Prakash, Thượng đế đã ban cho tôi một gia đình không giàu. Vì lòng tự cao tôi đã cố che dấu thân phận của mình. Cha mẹ tôi phải rất khó nhọc và cần kiệm mới có thể gởi tôi vào đại học. Tất cả những gì gia đình tôi sở hữu, cũng không thể nào trả hết nợ mà tôi đã vay của anh. Tôi thấy xấu hổ lắm và tôi phải ra đi. Xin vĩnh biệt.
Jay Prakash muốn hỏi thăm thêm, nhưng người đàn bà trẻ chẳng biết gì hơn. Nàng ra về vừa đi vừa khóc, dáng đi trơ trọi nhỏ bé.
Jay Prakash là bạn lâu năm của Lalit. Jay Prakash nghĩ đến lời châm biếm mỉa mai của mình đêm qua, và cảm thấy có lỗi. Ðể chuộc lỗi, anh nhất quyết phải tìm đủ mọi cách để kiếm lại Lalit. Anh tuyên thề không lập gia đình cho đến khi nào tìm lại được Lalit.
Anh gửi người đi mọi phương để kiếm Lalit. Nhưng hoài công, bao năm tháng trôi qua nhưng Lalit vẫn bặt tin. Hai năm sau vợ Lalit mất.
Ngày nay không còn bao người nhớ đến câu chuyện nầy. Nhưng để trung thành với lời thề ước, Jay Prakash không hề lập gia đình.
Nỗi buồn trong thời niên thiếu đã ảnh hưởng rất nhiều đối với cả cuộc đời của anh sau nầy. Không phải Jay sống một cách buồn chán hay khốn khổ, nhưng dường như trong lòng anh luôn kiếm tìm một cái gì đó mà chính anh cũng chưa bao giờ hiểu được.
Bao năm trôi qua và rồi thêm bao năm nữa. Trong vài năm nay, Jay Prakash sống trong một căn nhà tồi tàn đối diện với dòng sông. Ánh sáng long lanh như ngọc đùa trên mặt nước gợn sóng lăn tăn, dòng sông trở thành người bạn đồng hành, gói trọn niềm vui và vẻ đẹp, mà chính trong lòng Jay không thể nào cảm nhận được.
Vào buổi sáng sớm tiếng cầu nguyện, tiếng hát, những buổi lễ rửa tội đánh thức Jay dậy như những tiếng chim quen thuộc. Ðôi mắt anh ngắm nhìn những thân hình trần trụi, những chiếc áo sặc sỡ như mong đợi ai. Anh vui thú ngắm nhìn các trẻ em chơi những trò chơi của chúng, những ông già râu bạc, và những mái tóc dài của các ẩn sĩ rời hang động để đi hành hương.
Jay Prakash nghĩ rằng phải có cái gì thật và đẹp hơn ở cõi đời, vì tất cả vẻ đẹp và màu sắc anh đang thưởng thức đã phản ảnh lên điều nầy.
Trong một thời gian dài, anh đã tìm câu trả lời nơi những bài viết của các ẩn sĩ, và triết gia, nhưng vẫn chẳng tìm thấy gì, vì trong lòng anh vẫn còn niềm thao thức. Mỗi ngày anh nghe những người đi hành hương kêu lên :
- Ô Sông Hằng. Mẹ của chúng tôi, trước khi họ ngâm mình vào dòng nước thiêng liêng.
Ngày nào cũng thế câu nầy lọt vào tai anh, và dần dần anh trở nên nhạy cảm hơn, cho đến khi anh khám phá ra tình yêu của mình dành cho con sông thiêng liêng, và cảm nhận được vẻ đẹp mênh mang của nó.
Anh hiểu rằng mình có thể ném vào lòng sông những nhọc nhằn đang đè nặng trong lòng. Thành phố với những lâu đài, vườn hoa, bài hát, lời nguyện như là những trang sức cho dòng sông thiêng liêng này.
Dòng sông như đã nối liền với tâm hồn anh, và đã mang lại cho anh một thông điệp hòa bình. Anh nghĩ rằng mình cần phải đi ngược dòng sông, đến tận mạch nguồn của nó, đến ngay cánh cổng của thiên đường.
Tình yêu đối với dòng sông và ý nghĩ đi tìm mạch nguồn của anh lớn dần theo thời gian, cho đến một hôm, anh nghĩ đến việc làm một cuộc hành trình đến tận nguồn sông Hằng, chỗ mà người người coi là nơi thiêng liêng huyền bí.
Ðiều nầy như một tiếng gọi xa lạ được lặp đi lặp lại bằng những ngọn sóng vỗ vào bờ. Ðiều này dần dần lớn mạnh trong lòng anh, cho đến một hôm, khi anh cảm thấy mình già và yếu đi, và anh nhất định rời nhà không chút chậm trễ để đi hành hương trước khi từ giã cõi đời .
Jay Prakash làm một cuộc hành trình trong trạng thái nửa tỉnh, nửa mê với nhiều ngây ngất. Anh không chú ý đến những chuyến xe lửa, những người khuân hành lý hay đám đông. Những khó khăn gặp phải trên đường hành hương chỉ làm tăng thêm giá trị chuyến đi, và niềm hân hoan vui vẻ mà anh cảm nhận được đang đầy dẫy trong lòng.
Anh bước xuống xe lửa, trước một ga nhỏ dưới chân núi, một con đường nhỏ dành cho khách hành hương được bắt đầu từ Badrinath. Anh đi bộ một mình trên con đường ven theo nhánh sông, bấy giờ là một thác nước đang reo vui.
Bên đường, những người hành hương ngoan đạo đã xây những căn nhà để khách du hành có thể nghỉ qua đêm. Con đường thật vắng vẻ. Thỉnh thoảng anh thấy những người hành hương ngược đường đi xuống. Thấy anh hấp tấp đi họ nói với anh :
- Này cụ ơi mùa lễ đã hết rồi. Tất cả con đường sẽ bị chấn lối vì tuyết. Hãy về đi và mùa xuân sau hẳn trở lại.
Nhưng Jay Prakash biết rằng mình không thể nào có được mùa Xuân năm sau; sự quyết tâm đã thúc đẩy thân thể gầy gò của anh tiến bước, mặc cho gió lạnh, mặc cho mệt mỏi.
Sau bao khó nhọc, ngày nọ anh thấy mình đứng dưới một vách đá hùng vĩ, nơi mà anh mong được nhìn thấy rồi chết cũng vui lòng.
Một chiếc xe vận tải ngược chiều, chạy ngang anh, người khuân nào là chuông, nào là chiêng, khánh, nào là dĩa bạc. Họ là những vị thầy tu nơi ngôi đền của sông Hằng, họ rời đền khi mùa Ðông đến, và năm nào cũng thế. Không một người nào có thể chịu đựng nỗi mùa Ðông tại đây.
Vài người thầy tu đến gần ''ông lão lạc đường", bắt ông phải đi về với họ. Trên đường về họ đóng cửa tất cả những căn nhà nghỉ cho khách du hành. Nhưng Jay Prakash không muốn trở về. Ðây là cuộc hành trình cuối cùng của anh có gì quan trọng hơn ?
Theo tiếng gọi trong tâm thức mình, anh đến đây để lễ tạ trước mạch nguồn của dòng nước thiêng và anh sẽ không đi về, nếu chưa tròn nguyện ước. Anh năn nỉ một trong những vị thầy hãy trở lại mở cửa cho anh dù chỉ một chút thôi. Nhưng họ từ chối.
Anh hứa dâng tặng tất cả những gì anh có cho họ, nhưng hoài công. Họ đã để cho các Thần ngủ trong mùa Ðông, họ nói :
- Cánh cửa một khi đã đóng lại rồi thì chỉ được mở ra khi mùa Xuân đến.
Bầu trời bắt đầu ''đe doạ". Không thể nào khuyên lơn ông già cứng đầu họ bỏ đi. Chiều xuống, mệt mỏi, Jay Prakash đến được ngôi đền. Anh làm lễ đi nhiễu vòng và lay mạnh cánh cửa lớn một cách vô vọng đuối sức, anh té lăn xuống những bậc thềm.
Anh không rõ mình đã nằm bất tỉnh trong bao lâu. Nhưng hình như có một niềm hạnh phúc lạ lùng xuất hiện trong lòng, một sự ấm áp yên tịnh bao phủ, như vỗ về như âu yếm. Có phải anh đã chết rồi không ? Bỗng một bàn tay rắn chắc ấn mạnh vai anh, tiếp đó là một giọng nói.
Ngẩng đầu lên Jay Prakash thấy một ẩn sĩ, gần như khỏa thân, râu tóc dài với thắt lưng bằng sắt, một cây đinh ba trong tay. Khuôn mặt hõm sâu, nhưng thân hình thì vẫn như thanh niên, tất cả các du sĩ đều giữ được thân hình như thế.
- Này anh bạn, anh không thể ở lại đây đêm nay đâu. Hãy đi theo tôi rồi ngày mai anh muốn đi đâu tùy ý.
Ánh sáng cuối cùng cho thấy những cụm mây dầy đặc, báo hiệu cho cơn gió lạnh buốt sẽ thổi qua thung lũng nầy. Jay Prakash để cho ẩn sĩ dẫn mình đi. Họ trèo lên sườn núi bằng một con đường nhỏ hẹp cho đến khi đến dưới một cục đá to, xuất hiện một ngõ vào hang động.
Trong động trước một bàn thờ nhỏ, một ngọn đèn dầu đang cháy, giường ngủ làm bằng cỏ khô. Ẩn sĩ chỉ cho anh ngồi xuống và chia với anh phần ăn của mình, chỉ là bột nhồi với nước.
Ẩn sĩ dường như không mặc gì dù trời đang rất lạnh. Ðể sưởi ấm Jay Prakash, ẩn sĩ đốt một nhóm lửa gần cửa hang. Sau đó ngồi xuống bên cạnh ông ta nói :
- Này anh bạn đêm đông rất dài, chúng ta hãy chơi gì đi để cho qua thời gian.
Nói xong ẩn sĩ liệng ra mấy con súc sắc và chia ra mười lăm hòn sỏi trắng, mười lăm hòn sỏi đen làm 'thẻ' ( thay thế tiền để đánh cuộc đỏ đen).
Vừa nhác thấy mấy con súc sắc, Jay Prakash bất giác rùng mình. Anh đã không còn đụng đến chúng sau cái đêm đáng tiếc xảy ra cách nay đã lâu lắm rồi. Anh định từ chối nhưng khi bắt gặp ánh mắt sắc bén của ẩn sĩ, anh cuối đầu nhượng bộ.
Anh đã quên bẳng luật của trò chơi nầy, anh cảm thấy cơn buồn ngủ đang đè nặng mí mắt. Nhưng vì sợ làm buồn lòng ẩn sĩ, anh tự nhủ phải chơi ít nhất là một bàn.
Ẩn sĩ dám đánh cuộc lớn và chơi rất giỏi, khiến cho Jay Prakash sau một lúc đã bị cuốn hút theo trò chơi. Một bàn rồi một bàn nữa...
Anh quên mệt mỏi và hết buồn ngủ, quên luôn đêm lạnh giá buốt bên ngoài. Anh như bị say thuốc khi thấy những hòn sỏi đen trắng thay phiên nhau đổi tay. Ẩn sĩ thua rất nhanh, nhưng khi mà ông ta chỉ còn một thẻ thì dường như ông ta hên trở lại, và thắng lại tất cả, cho đến khi đến phiên Jay Prakash thua hết chỉ còn một thẻ, thì ông ta thua trở lại.
Nhóm lửa đã tắt từ lâu. Jay Prakash nhận thấy ánh lửa từ ngọn đèn dầu không lung linh mà sáng như một vị tinh tú bất động.
Anh định nói điều nầy với chủ nhân, nhưng vì đắm mình trong trò chơi, ẩn sĩ không màng để ý và Jay Prakash cũng quên hết khi anh cố gắng chơi để được thắng cuộc.
Trời đã bắt đầu sáng mà cả hai đều không hay biết. Lần nầy đến lượt ẩn sĩ thắng và đây là lần thứ sáu mà ông ta lấy lại những hòn sỏi đã thua.
Jay Prakash chỉ còn lại năm hòn sỏi, còn bốn, còn ba, còn hai, còn một. Thần tài có thay đổi ý định không ? Không lần này thì thần tài bỏ rơi Jay Prakash, và ẩn sĩ lấy đi hòn sỏi cuối cùng của anh.
Ẩn sĩ đứng dậy mỉm cười và ra dấu cho Jay Prakash đi ra phía ngoài hang động. Ông ta đưa cho anh một vật gì đó được gói trong một miếng vải lụa.
- Trời đã tốt. Hãy xuống núi đi anh bạn, hãy đến đền thờ và hãy dâng vật nầy như là lễ tạ của tôi.
Jay Prakash cảm thấy chẳng chút mệt mỏi sau một đêm không ngủ. Ngược lại anh cảm thấy khỏe khoắn và tươi tỉnh. Anh ra khỏi động. Mây đã kéo đi một ngọn gió ấm áp thổi lên từ dưới thung lũng.
Xuống triền núi anh nhận thấy mặt đất đêm qua trơ trụi và cứng ngắt, sáng nay đã được phủ đầy hoa và cỏ. Khi anh gần đến đền thờ thì gặp một nhóm người mà anh nhận ra là những vị thầy tu đêm trước.
Anh đến gần họ và nói :
- Các vị bỏ quên đồ à? Có thể nào mở cửa ra cho tôi lễ tạ một chút không?
Các vị này dường như không nhận ra anh là ai, họ nhìn anh đầy ngạc nhiên. Một người trong nhóm nói :
- Chờ chút đã ông nội ơi, đền sẽ được mở cho tất cả mọi người, hôm nay là Lễ Hội Mùa Xuân.
Jay Prakash tiến gần bệ thờ và mở tấm vải lụa, lấy lễ vật mà ẩn sĩ đưa để lên bục. Ðấy là một trong những hòn sỏi đã dùng làm thẻ trong trò chơi. Chợt Jay Prakash thấy hình như hòn sỏi được chạm chữ vào, và anh đọc được một chữ duy nhất "Lalit".
Anh chạy về hướng hang động của ẩn sĩ. Nhưng triền núi phẳng lì và trơn láng. Chẳng có hang động và cũng chẳng có con đường nào.
Alain Danielou
TIẾNG GHẾ GIỮA ĐÊM KHUYA
Vào một đêm trời mưa lất phất, tôi được anh bạn láng giềng mời sang nhà ăn bánh uống trà. Thật ra chỗ ở gọi là nhà của anh cũng như của tôi chật hẹp như một cái buồng vì tất cả mọi người đều phải xài chung một nhà tắm. Bà chủ nhà đã cất hai dãy buồng gồm tám căn đối mặt nhau.
Ở giữa là con hẻm rộng khoảng hai thước tây. Anh bạn tôi tên Hai nhưng vì chân đi khập khễnh nên tụi bạn gọi là "Hai què". Anh cũng vui lòng chấp nhận:
- Mình què thì người ta gọi là què, có gì đâu phải khó chịu.
Anh Hai dọn về đây trước tôi khoảng ba tháng. Anh làm nghề sửa xe gắn máy có vợ và được một con, còn bé mới chưa đầy tuổi. Lúc trước gia đình anh ở với bên vợ, sau vì có con, nhà chật chội nên anh mang gia đình ra ở riêng.
Buồng anh mướn ở sát ngay buồng tôi. Chúng tôi thường đến thăm nhau và tán gẫu hoặc mời nhậu nhẹt chung nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên anh hú tôi tới chơi lúc đồng hồ đã chỉ hơn mười giờ đêm rồi.
Vừa tới, tôi đã thấy anh ngồi dựa lưng vào vách, trên chiếc chiếu đã ngả màu trải trên tấm phản gỗ, một nơi vừa để tiếp khách, vừa là chỗ nghỉ lưng của anh...Anh đon đả mời tôi ngồi và rút bao thuốc lá:
- Làm một điếu cho ấm lòng, anh Sơn...
Tôi gật đầu, chưa kịp nói tiếng cám ơn thì bất chợt một cảnh tượng đập vào mắt tôi. Kế bên anh, môt lon gạo đã cắm sẵn ba cây nhang còn cháy dở, cạnh đó là một nải chuối, một dĩa bánh tây, ba chung nước trà. Tất cả được đặt trên một cái khay nhôm.. Tôi lặng lẽ rút điếu thuốc và bật quẹt đốt. Sau khi rít một hơi dài, tôi thắc mắc:
- Bữa nay cúng gì vậy anh?
Anh chỉ đáp khẽ:
- Một lát thì anh sẽ biết.
Rồi anh nhìn về hướng tấm màn chắn ngang. Tiếng ru con từ trong đó vọng ra một lúc một nhỏ dần. Có lẽ anh không muốn khích động óc tò mò của vợ mình nên anh hỏi chuyện tôi toàn là những chuyện vu vơ, không đâu. Khoảng nửa tiếng sau, chừng như vợ và con anh đã ngủ rồi. Anh mới lên tiếng:
- Hỏi thật bạn chứ bạn có tin thế giới bên kia không?
Tôi đáp:
- Tin chứ. Tôi tin con người có linh hồn nhưng tại sao anh hỏi tôi như vậy?
Cặp mắt anh mơ màng nhìn ra cửa rồi nhìn tôi, anh nói:
- Hôm qua tôi gặp rồi.
Ngạc nhiên, tôi vặn:
- Ai vậy?
Anh nói rất nhỏ:
- Bà già bán thuốc lá ngoài đầu hẻm.
Một cảm giác rờn rợn từ dưới xương sống chạy dần lên.. Ngoài trời mưa bắt đầu nặng hột, vài cơn gió lạnh từ ngoài cửa thổi vào khiến ngọn đèn vàng trên trần chao qua, chao lại làm tôi nổi cả gai ốc..
Trong hẻm, ai lại không biết bà già đã mất hơn tháng nay rồi. Bà mới dọn tới nơi này có vài tháng trước đó. Bà sống một mình với thùng thuốc lá làm sinh kế. Bà chỉ có một thằng con trai độc nhất thỉnh thoảng có đến thăm và cho tiền bà xài. Không ai hiểu được vì lý do gì mà con bà để bà sống có một mình, hơn nữa bà đâu có khoẻ mạnh cho lắm.
Bà đi đứng rất bất tiện, phải nhờ đến cái ghế để đi. Hàng đêm khoảng mười giờ tối, mọi người đều nghe tiếng chân ghế gõ rất nhịp nhàng "Cộp, cộp, cộp...." từ đầu con hẻm. Lúc đầu ai nấy đều khó chịu nhưng dần dà rồi lại quen đi. Hàng xóm biết là bà già thuốc lá về nhà, sau khi đã gửi thùng thuốc cho gia đình hàng xóm ở trước ngỏ.
Tiếng ghế khua đều trên mặt đường trở thành một âm thanh quen thuộc và như gắn liền với cuộc đời còn lại của bà già thuốc lá. Một buổi sáng, con bà đến thăm thì phát giác bà mẹ đã chết cứng từ đêm hôm qua.
Chuyện bà mất đi xãy ra cũng hơn cả tháng rồi. Vậy mà, theo lời kể của anh Hai què mới đêm qua, chính tai anh đã nghe được âm thanh đã biến mất giờ lại xuất hiện. Tiếng ghế khua trên đường, tiếng ghế của bà già bán thuốc lá. Tiếng động như khởi đi từ đầu hẻm, lúc đầu nhỏ và sau lớn dần. Ðột nhiên lần này tiếng ghế tới trước nhà anh Hai thì ngưng bặt.
Anh nằm trên giường, đắp chăn kín mít mà run cầm cập. Mồ hôi vã ra như tắm ...Anh mở mắt thao láo, nghe ngóng, tay bấm thần chú, miệng lâm râm cầu nguyện mà không tài nào chợp mắt được. Mãi cho đến gần sáng anh mới thiếp đi. Nhìn anh kể, tôi vẫn còn thấy nét sợ hãi trên khuôn mặt của anh cộng thêm dáng thểu não vì mất ngủ. Tôi trấn an:
- Chắc anh nằm mơ hay ở trong trạng thái nửa mê, nửa tỉnh chứ gì.
Anh Hai quả quyết lúc đó mình tỉnh táo đàng hoàng, anh còn biết trời đang mưa lớn mà. Tôi hỏi đùa:
- Chắc anh mua chịu thuốc lá của bả mà chưa trả nên bà ấy tới kiếm anh đòi tiền chứ gì?
Anh lắc đầu:
- Tôi có mua thiếu nhưng đã trả hết nợ rồi.
Nhìn cảnh tượng chung quanh giờ tôi mới hiểu ra là anh đang cúng bà già bán thuốc lá đây. Tôi cũng chỉ biết làm dịu nỗi lo sợ của anh mà nói:
- Anh thành tâm cúng vái như vậy, lòng thành của anh chắc bà già cũng chứng giám và sẽ phò hộ cho anh, không sao đâu.
Sau đó tôi chuyện trò, trà nước với anh thêm một khoảng thời gian ngắn rồi kiếu từ. Về đến nhà, lòng tôi vẫn còn phân vân, mang ít nhiều nghĩ ngợi khi nhớ tới các bậc bô lão cho rằng những người gặp phải người khuất mặt khuất mày, một là yếu bóng vía, hai là không được hên lắm. Câu chuyện cũng chìm vào quên lãng. Khoảng chừng nửa năm sau tôi dọn nhà và mất liên lạc với gia đình anh.
Mười lăm năm trôi qua rất nhanh. Trong một dịp về thăm quê hương, ghé ngang xóm cũ thì được biết gia đình anh đã dọn đi nơi khác ở và anh đã ra người thiên cổ. Tôi cố gắng tìm đến địa chỉ mới nơi vợ con anh sinh sống thì được chị cho biết:
Anh mất lúc còn trẻ khoảng chừng hơn ba mươi tuổi vì bệnh sưng phổi, sau lúc vợ chồng tôi tìm đường ra đi không bao lâu. Tôi và bà xã chỉ biết thắp cho anh một nén nhang, an ủi vợ anh vài câu. Nhìn di ảnh của anh, tôi thấy lòng trĩu buồn và chợt nhớ đến câu chuyện mà anh kể lúc trước. Câu chuyện "bà già bán thuốc lá" hay "tiếng ghế giữa đêm khuya"..
Thế giới vô hình có hay không?...Chưa ai tìm được câu giải đáp. Tin hoặc không tin có lẽ tùy thuộc vào mỗi người, như tôi đã nghe các bậc tiền bối thường nói:
"Nhất khả tín kỳ hữu, bất khả tín kỳ vô."
Để kết thúc bài này người viết xin nói thêm ở đây là câu chuyện có thật đến chín mươi phần trăm, ngoại trừ tên tuổi và một vài chi tiết được thay đổi để phù hợp với cốt chuyện.
Mong rằng đây là một đóng góp nho nhỏ trong kho tàng văn chương mang màu sắc huyền bí đã từ lâu khơi dậy trí tò mò của tất cả mọi người.
Quách Xuân Sơn
#90
Gửi vào 19/06/2011 - 08:10
BÍ MẬT NGÔI NHÀ 269 PHỐ HIGHLAND
Trên đời mọi chuyện đều có thể xẩy ra. Có năm người thân cùng trú ngụ ở thị xã Hà Đông, cùng vui buồn mấy chục năm nay, giờ cùng nhau trên một chiếc máy bay đi nửa vòng trái đất, đến ở trong cùng một ngôi nhà ở nước Mỹ.
Đó là nhà thơ, đạo diễn sân khấu Lương Tử Đức, nghệ sỹ múa rối nước Chu Lượng, chàng trai Nguyễn Quang Thuật con trai tôi và tôi. Tất nhiên còn người thứ năm. Nhưng khúc mở màn này, người đó chưa xuất hiện.
Người Việt Nam lâu nay vẫn nghĩ việc xin visa Mỹ là một việc luôn luôn khó. Trước khi vào xin visa, chúng tôi không ai dám chắc là mọi chuyện đều ổn thỏa. Buổi đầu tiên, tất cả hồ sơ của chúng tôi bị trả lại với một lý do đơn giản: Trong hồ sơ, nghệ sỹ Chu Lượng nhờ người khai đã đánh dấu nhầm vào ô chưa đến Mỹ bao giờ, nhưng khi trả lời phỏng vấn anh lại thản nhiên nói đã vào Mỹ hai lần. Chu Lượng là người đầu tiên trong đoàn được gọi phỏng vấn.
Tôi đã giải thích với người phụ nữ Mỹ phỏng vấn chúng tôi là do sự nhầm lẫn rất vô tình mong bà thông cảm. Bà chỉ vào chiếc computer và nói lạnh lùng: Nhưng cái máy này nó không biết thông cảm. Thế là chúng tôi phải quay lại mấy ngày sau đó khi Chu Lượng làm lại bản khai.
Con trai tôi, một chàng trai hai mươi mốt tuổi, bị ấn tượng đầy tính áp đảo với một tờ giấy lớn giống như áp phích treo trên tường phòng phỏng vấn visa: Nếu bạn làm giả hộ chiếu, thì sẽ có nhiều cánh cửa mở ra nhưng có một cánh cửa đóng lại vĩnh viễn. Cánh cửa này có thể là cánh cửa vào Mỹ và có thể là một cánh cửa mơ hồ và đa nghĩa.
Nhưng lẽ đời, những kẻ làm giả hộ chiếu lại có thể chẳng hề để ý tới những lời lẽ “ớn lạnh” kia. Người Việt chúng ta có câu nói: khóa người ngay chứ không ai khoá kẻ gian.
Lần thứ hai vào phỏng vấn visa, chúng tôi nghĩ sẽ vô cùng khó khăn vì những trục trặc của lần thứ nhất. Khi đến lượt, tôi hỏi người phụ nữ Mỹ là bà sẽ phỏng vấn ai đầu tiên. Bà trả lời: Tôi chỉ nói với các anh một câu thôi: Chúc các anh có những ngày tốt đẹp trên nước Mỹ. Và chúng tôi được cấp visa.
Tôi đã đến Mỹ nhiều lần, những đây là một sự ngạc nhiên. Nhà văn Trần Thị Trường cũng vào phỏng vấn visa trước chúng tôi mấy ngày. Bà mang theo đủ thứ giấy tờ như tài khoản trong ngân hàng, bất động sản, lương và những thu nhập khác để chứng minh bà có một tài sản đáng giá và không hề có ý định ở lại Mỹ định cư.
Bà khuyên chúng tôi phải mang theo tất cả những thứ đó. Tôi nghĩ thầm nếu tôi mang những giấy tờ đó thì tôi khó chứng minh được rằng, tôi có một tài sản mà có thể níu giữ tôi ở lại Việt Nam. Bởi thế chúng tôi quyết định không mang theo bất cứ giấy tờ gì chứng minh tài sản. Tôi cam đoan nước Mỹ đâu có nhìn số tiền anh ta có mà tin được con người của anh ta. Và lòng tin của tôi đã đúng.
Chúng tôi đi theo chương trình trao đổi văn hoá. Bởi thế có một loại giấy tờ có chữ ký “sống” từ Mỹ gửi sang mà chúng tôi phải mang theo khi nhập cảnh. Nhưng quái lạ, trước ngày đi tôi không làm sao tìm được cái giấy này.
Tôi chỉ còn bản photo. Trước đó tổ chức mời tôi đã viết thư và gọi điện cho tôi nhắc nhiều lần, là phải cầm cái giấy đó trình cho an ninh cửa khẩu Mỹ. Nếu không có cái giấy đó thì không thể vào được Mỹ. Và ngày 11 tháng 4, chúng tôi nhập cảnh nước Mỹ qua cửa khẩu Los Angeles.
Những người đi cùng tôi nhập cảnh một cách đơn giản còn tôi bị giữ lại vì không có cái giấy mà tôi đã nói ở trên. Nhân viên An ninh cửa khẩu Mỹ nói với tôi giấy photo nghĩa là giấy giả, vì bất cứ ai cũng có thể làm được. Tôi hỏi người nhân viên đó là ông ta cần giấy tờ thật hay cần người thật hơn.
Ông nói cần cả hai. Tôi nói với ông tôi là nhà thơ đã đến Mỹ nhiều lần và đã có sách in ở Mỹ. Ông hỏi tôi tên cuốn sách. Tôi đọc tên cuốn sách. Ông gõ computer và mỉm cười kín đáo. Ông đã nhìn thấy ảnh tôi, tên tôi và cuốn sách của tôi trong computer của ông. Rồi ông nói: Tôi đồng ý cho anh nhập cảnh.
Quả thực nước Mỹ luôn luôn mang lại cho tôi những bất ngờ như thế. Những bài thơ và những cuốn sách tôi viết xác thực tôi hay sự tôn trọng văn học nghệ thuật của người Mỹ đã cho phép họ tin tôi. Khi tôi kể chuyện này cho một số giáo sư Mỹ thì tất cả đều ngạc nhiên. Họ không tin thiếu cái giấy ấy mà tôi lại được nhập cảnh nhất là sau ngày 11 tháng 9.
Tôi còn nhớ như in trong phòng giải quyết visa cho những trường hợp nhập cảnh đặc biệt trong đó có tôi, nhân viên an ninh Mỹ đã biểu lộ sự áp đảo và đầy đe dọa với những trường hợp đặc biệt khác, những người nhập cảnh từ một nước Trung Đông hay Mỹ La tinh.
Nhưng nhân viên an ninh đã nói với tôi một thứ tiếng Anh lịch thiệp. Câu chuyện này tôi không thể nào quên được. Câu chuyện này cho tôi hiểu thêm nước Mỹ một lần nữa thông qua một công dân bình thường của họ, một nhân viên an ninh sân bay.
Chúng tôi được đưa về ngôi nhà số 269, phố Highland, thị trấn Dedham, cách trung tâm Boston chừng hai mươi cây số. Một ngôi nhà ngoài trí tưởng tượng của chúng tôi.
Ngôi nhà có mười hai phòng ngủ và một phòng khách lớn. Tất cả các phòng đều có lò sưởi và củi chất đầy bên cạnh. Gia đình nhà thơ Kevin Bowen và những người hàng xóm của ông mà tôi quen biết, đều đưa con cái đến chào chúng tôi. Trong bếp họ đã chuẩn bị rất nhiều thực phẩm cho chúng tôi.
Nhưng tôi đặc biệt ấn tượng bởi hai thứ: Nước mắm và mỳ tôm. Chị Leslei, vợ nhà thơ Kevin Bowen đã nấu một nồi phở Mỹ cho chúng tôi: Một con gà công nghiệp luộc nhừ bỏ da gỡ thịt, một cái rá inốc đựng đầy bánh phở khô đã luộc chín, một nồi nước luộc gà có pha thêm một hộp nước cốt gà bán ở siêu thị Mỹ nhưng không bỏ muối hay gia vị, một đĩa rau thơm, chanh, ớt tươi và hạt tiêu. Nhưng chúng tôi đã ăn món phở đó thật hào hứng vì đói và vì tình cảm của người nấu.
Đêm đầu tiên chúng tôi hầu như không ngủ do múi giờ thay đổi. Bên ngoài trời rất lạnh khoảng ba độ C. Chúng tôi đốt lò sưởi và ngồi trò chuyện. Và ngay đêm đó, chúng tôi nghe thấy có tiếng chân người đi đâu đó trong ngôi nhà.
Lúc đó chúng tôi nghĩ có người khác ở trong ngôi nhà vì nó quá rộng. Sáng hôm sau chúng tôi hỏi người quản lý ngôi nhà, thì được biết không có ai ở đây ngoài chúng tôi.
Đây là ngôi nhà của một người đàn bà goá. Chồng bà là lính chết trận ở Việt Nam. Bà đã tặng lại ngôi nhà này cho trường Phổ thông cơ sở Dedham Country. Nhà trường đã bố trí cho chúng tôi ở. Một không khí huyền bí bắt đầu lan toả trong ngôi nhà.
Đến những đêm sau đó, tiếng bước chân đi nhẹ nhàng trên sàn gỗ ở đâu đó trên trần nhà trong khuya khoắt càng rõ hơn. Chúng tôi ngồi bên lò sưởi và bắt đầu nói về những cuốn sách kinh dị của các tác giả Mỹ mà chúng tôi đã đọc. Đời sống như vậy thì những câu chuyện mà các nhà văn đã viết thực ra chẳng có gì ngạc nhiên.
Một buổi chiều mọi người đi xuống trung tâm thị trấn Dedham, tôi quyết định làm một cuộc thám hiểm ngôi nhà. Lúc đó tôi mới phát hiện ra có rất nhiều căn phòng bỏ không đã quá nhiều năm. Trong một phòng ngủ có treo một bức ảnh một cô gái chân trần, ôm một bó hoa dại và một đôi mắt thật u buồn.
Tôi xem kỹ ngày tháng đề trên bức ảnh thì biết nó được chụp quá lâu từ lúc tôi chưa sinh ra. Tôi không biết lai lịch cô gái trong bức ảnh. Nhưng tôi cứ mang một ám ảnh rằng cô gái ấy chết rất trẻ vì một căn bệnh nào đó.
Lần nào bước vào căn phòng đó tôi cũng bắt gặp đôi mắt u buồn của cô gái nhìn thẳng vào tôi. Và lần nào tôi cũng lúng túng và hoang mang. Tôi rón rén đi từng phòng và đôi lúc tôi có cảm giác có người đang theo dõi tôi. Khi tôi mở cửa căn phòng tầng trên của nhà để xe thì tôi đã sững người lại.
Tôi vốn là người không sợ hãi chuyện ma quỷ, nhưng tất cả những gì có trong căn phòng đó không thể không làm cho tôi một thoáng lạnh người. Những bộ hài cốt, những bộ mặt kinh dị, một cô gái ma cà rồng với mặt trắng như vôi và miệng giàn dụa máu, một người đàn ông gục xuống và một lưỡi rìu cắm ngập sau bả vai…
Sau một lúc trấn tĩnh, tôi bước vào căn phòng và nhận ra trên một chiếc bàn nhỏ có một chai rượu vang uống dở và những mẩu vụn bánh mỳ vẫn chưa khô hẳn.
Cuối cùng tôi đã nhận ra căn phòng đó chứa đồ để dùng cho ngày Lễ hội ma (Halloween) ở Mỹ. Nhưng chai rượu vang và những mẩu bánh mỳ là của một người đang sống.
Tôi đã giữ kín chuyện về căn phòng đó. Tôi không muốn chỉ cho mọi người vì sợ họ bị ám ảnh trong khi ở đó. Bởi ngoài căn phòng kỳ dị ấy ra là một thế giới của hoa lộng lẫy, của những con chồn đuôi bông, của những cặp thỏ nâu đi kiếm ăn, của chim chóc, của những tấm biển nhỏ nhắc mọi người lái xe cẩn thận kẻo đâm vào những con hươu băng qua đường, trên vùng đồi Dedham đang bắt đầu vào hạ.
Nhưng tôi đã suy ngẫm mãi về nước Mỹ khi họ có một Lễ hội ma cho những đứa trẻ. Tôi có rất nhiều lý giải. Nhưng một lý do mà tôi thấy vô cùng quan trọng là họ rất tin vào nền giáo dục của họ đối với những công dân tương lai của mình.
Tôi chợt nhớ đến một bài viết của một nhà báo chức vị khi ông ta lên án gay gắt hai bộ phim hoạt hình của Mỹ là Tom and Jerry và Thuỷ thủ Papai. Cũng nhà báo này đã báo động “nguy cơ” đạo đức của học sinh khi ông đọc một bức thư của một học sinh Việt Nam gửi con gái của cựu Tổng Mỹ Bill Clinton nói về tình bạn và hoà bình trong cuộc thi viết thư quốc tế UPU mà tôi được mời tham gia Ban giám khảo. Đấy cũng là một điều làm tôi kinh ngạc.
Sau hơn mười ngày ở ngôi nhà đó chúng tôi có thêm khách. Đó là hai ông “tướng” từ Sài Gòn: Hoạ sỹ danh tiếng Trịnh Cung và nhà thơ không kém phần nổi tiếng Trần Tiến Dũng. Hai ông này giành được học bổng Rockeffeller cho chương trình nghiên cứu về Việt Nam. Hai ông xuất hiện lừ lừ với hai cái đầu trọc vào một buổi tối.
Họa sỹ Trịnh Cung tôi nghe danh đã lâu nay mới gặp lần đầu, còn nhà thơ Trần Tiến Dũng thì là bạn tôi đã nhiều năm. Mấy ngày đầu, hai ông này còn bí ẩn hơn cả những tiếng bước chân đâu đấy trong ngôi nhà lúc nửa đêm hay gần sáng.
Hai ông hoặc ngủ hoặc làm gì đó trong phòng hoặc đi bách bộ. Chỉ đến bữa ăn khi chúng tôi nấu nướng xong mời hai ông xuống xơi cơm thì hai ông mới xuất hiện. Hình như vẫn có gì đó ngăn cách giữa chúng tôi.
Nhưng chỉ sau đó ba ngày, họa sỹ Trịnh Cung bắt đầu mở máy nói. Chàng thanh niên tuổi đôi mươi Trịnh Cung bắt đầu thức dậy. Chàng luôn luôn đeo máy nghe nhạc. Và như chẳng để ý đến ai, chàng đi những điệu van thật uyển chuyển và tình tứ ở trong bếp, trong phòng khách hoặc trên thảm cỏ ngoài vườn. Chúng tôi trố mắt nhìn chàng thán phục.
Đêm đến chàng nhớ người vợ là thi sỹ trẻ trong nhóm Năm con ngựa trời và nhớ đứa con trai mới đầy tháng của chàng. Tình yêu và cuộc hôn nhân mới của chàng mới chứng tỏ sức mạnh tâm hồn chàng. Những bức tranh chàng cho chúng tôi xem trên trang web cá nhân chứng tỏ sức trẻ trung của chàng.
Mấy năm trước chàng được các bác sỹ thông báo mắc căn bệnh hiểm nghèo: Ung thư. Chàng nói đến căn bệnh đó như người ta đang nói về một môn thể thao. Với ý chí đó chàng xứng đáng được nhận một tình yêu kỳ lạ và đầy kiêu hãnh.
Chàng và nhà thơ, đạo diễn Lương Tử Đức luôn luôn luận bàn về những vấn đề triết học. Lương Tử Đức là một gã phù thuỷ trong khẩu khí. Ối văn nghệ sỹ ở Hà Nội nghe ông nói đều không tìm thấy đường ra. Một vài người vẫn quanh quẩn trong những triết lý của ông mấy năm nay.
Phương pháp của tôi để tránh những gì ông nói là coi như ông đang đọc thơ và hát chèo. Thế là thoát được. Chàng Trịnh Cung có lúc đã bị “say say”. Nhưng bản lĩnh của chàng và sự trẻ trung mãnh liệt của chàng đã đi qua được. Lương Tử Đức vẽ một bức chân dung Trịnh Cung bằng phấn sáp và áp đặt Trịnh Cung rằng đó là bức chân dung vẽ Trịnh Cung đẹp nhất.
Trịnh Cung không nói gì chỉ khẽ cười. Nhưng thỉnh thoảng chàng Trịnh Cung lại đi qua căn phòng để bức tranh và ngắm nó. Có lẽ trong lúc ngắm bức chân dung do Lương Tử Đức vẽ, chàng lại tự nhủ: có lẽ đây là bức chân dung vẽ mình đẹp nhất.
Không hiểu lý do gì mà chúng tôi cứ gọi chàng Trịnh Cung là Thiếu tướng. Và chàng quen với cái tên gọi mới đó. Chàng bảo nếu chiến tranh không kết thúc chàng có thể lên đến cấp tướng. Nhưng trong hội hoạ Việt Nam thì chàng xứng đáng là một vị tướng rồi.
Thỉnh thoảng những buổi tối bên lò sưởi, chàng lại kể cho chúng tôi nghe về mối tình kỳ lạ của mình. Khi nói đến những tiếng bước chân lạ trong ngôi nhà chúng tôi đang ở, chàng đồng ý với những suy luận của chúng tôi.
Không có ma nhưng sẽ có một ai đó sống âm thầm trong một căn phòng đâu đấy trong ngôi nhà. Có thể đó là một người độc thân, một người vô gia cư hoặc là một người bị bệnh tâm thần và biết đâu đó có thể là một tội phạm nguy hiểm đang lẩn trốn sự truy lùng của FBI.
Nước Mỹ quá rộng. Những người hàng xóm cũng ít khi để ý đến chuyện riêng tư của nhau. Ngôi nhà chúng tôi ở không có chìa khoá. Và như vậy chúng tôi không khoá cửa khi đi vắng có lúc cả vài ngày. Tất cả laptop, điện thoại di động và máy ảnh cứ vứt bừa bãi trong bếp, trong phòng khách.
Có đêm về thấy đèn sáng ở một lối cầu thang hẹp đi lên một căn phòng nào đó, tôi lại cất tiếng: Ai ở đây xuống uống rượu vang với chúng tôi. Nhưng chỉ có sự im lặng.
Tôi nói như thế để thay một lời chào và hình như cũng để che lấp sự hoang mang của chính mình mà thôi. Rồi đến gần sáng lại có tiếng mở cửa, tiếng bước chân rất nhẹ nhàng. Tôi nằm im lặng trong bóng tối vừa mơ hồ lo lắng vừa bị kích động lạ lùng.
Nhưng khi mặt trời hiện ra thì mọi ngờ vực và hoang mang trong bóng tối lại tan biến. Công việc và vẻ đẹp của vùng đồi Dedham đang vào hạ lại cuốn hút chúng tôi.
Một buổi chiều nhà thơ Kevin mời chúng tôi tối hôm sau đến dự sinh nhật lần thứ mười bốn con gái ông. Tôi đã quyết định tổ chức ngày sinh nhật cô gái đó tại ngôi nhà 269 phố Dedham.
Bởi tôi có rất nhiều kỷ niệm với cô gái đó. Chúng tôi đã nấu những món ăn Việt Nam để mời gần bốn chục người khách. Lương Tử Đức rang cơm. Chu Lượng và Nguyễn Quang Thuật làm nem. Tôi làm món thịt nướng ướp với rượu vang đỏ Cali và mật ong hoang vùng rừng Bắc Mỹ. Tối hôm đó tôi nói với mọi người rằng, khi tôi đến Mỹ lần đầu tiên cô gái ấy hai tháng tuổi.
Tôi còn nhớ một chiều gia đình Kevin, ba nhà văn Việt Nam là Hữu Thỉnh, Lê Minh Khuê và tôi ra thăm cảng Boston. Cô bé hai tháng tuổi khóc mãi mà cha mẹ cô không dỗ được. Nhà thơ Hữu Thỉnh đã bế cô bé và hát ru. Chỉ sau đó ít phút cô bé đã ngủ ngoan trong vòng tay của một nhà thơ xa lạ.
Rồi tôi trở lại nước Mỹ cô bé năm tuổi. Mỗi khi tôi đưa máy ảnh ra chụp cô là cô lại chạy nấp sau cánh cửa hoặc sau váy mẹ. Rồi tôi lại trở lại nước Mỹ cô bé đã lên mười. Cô ra sân bay cùng cha đón tôi. Trước mặt tôi cô đã là một thiếu nữ xinh đẹp. Cô bước lại trước tôi và nói: Chào Thiều chúc mừng đã trở lại.
Và lần này tôi trở lại Mỹ, cô đã mười bốn tuổi và đẹp một cách ngỡ ngàng. Tôi nói với mọi người rằng chúng tôi, những văn nghệ sỹ Việt Nam, không phải tổ chức sinh nhật cho một cô gái, chúng tôi tổ chức sinh nhật cho một vẻ đẹp, cho một ký ức và cho một tương lai của thế giới.
Dù rất ít người biết đến một bữa tiệc sinh nhật trong ngôi nhà đó, nhưng thế gian đã cộng vào dòng chảy của nó một buổi tối đẹp, xúc động và sẽ không bao giờ mất. Tôi nói với mọi người trong buổi tối đó rằng sau này khi tôi mất đi, con trai tôi sẽ trở lại Mỹ hoặc một nơi nào đó trên thế gian này và lại tổ chức sinh nhật cho một cô gái mười bốn tuổi mà bây giờ chưa được sinh ra.
Những buổi tối giản dị và chân thành đó đã tạo nên những vẻ đẹp của đời sống con người trên thế gian này. Chúng tôi không tặng cô gái bất cứ một món quà nào bán trong siêu thị Mỹ. Tôi đã vẽ một bức tranh với những bông hoa màu tím tặng cô. Những bông hoa Lila rất nổi tiếng ở Mỹ và trong thơ của người cha nền thơ ca hiện đại Mỹ: Walt Whitman.
Một tuần trước khi chúng tôi về nước, nhà thơ Nguyễn Quyến, một công dân của thị xã Hà Đông, từ Việt Nam bay sang. Thế là đủ năm công dân của thị xã Hà Đông trong ngôi nhà này ở Mỹ. Và một ngày lúc gần sáng, Nguyễn Quyến đánh thức tôi và nói có một người da trắng xuất hiện trong ngôi nhà.
Quyến hỏi tôi có phải đó là người của nhà trường. Tôi xem đồng hồ: bốn giờ sáng. Người Mỹ không bao giờ thức dậy giờ này. Tôi đi kiểm tra nhưng không thấy ai. Nhưng đèn ở lối cầu thang hẹp và dưới bếp đều bật sáng.
Tôi hỏi Nguyễn Quyến có nhầm với ai đó trong ngôi nhà thức dậy đi tiểu đêm hay không. Nhưng mỗi phòng ngủ đều có phòng vệ sinh riêng. Mà lúc đó các phòng ngủ đều đang rộn ràng tiếng ngáy của chàng Trịnh Cung và nhà thuyết giáo ma mị Lương Tử Đức.
Sau đó Lương Tử Đức có ý định báo cho cảnh sát việc này. Bởi câu chuyện về người thanh niên Mỹ gốc Hàn Quốc đã thảm sát hơn ba mươi người trong một trường học mới xẩy ra...
Nhưng chúng tôi đã không báo cho cảnh sát khu vực. Mặc dù chúng tôi tin chắc có người lạ ở trong ngôi nhà đó một cách âm thầm và nhiều bí ẩn. Nhưng chúng tôi cũng không linh cảm thấy có chuyện gì nguy hiểm lắm.
Nhà thơ Trần Tiến Dũng đến được ít ngày thì chị Bé, chị ruột anh, lái xe hơn mười tiếng đồng hồ từ Canada sang Mỹ thăm em. Chị Bé đã sống ở Canada mấy chục năm nay nhưng vẫn giữ nguyên những phẩm tính của một người phụ nữ Việt Nam. Chị đã nấu rất nhiều đồ ăn, đặc biệt là làm bánh tét và giò lụa mang sang cho em trai và chúng tôi. Chị cắt bánh tét và giò lụa cho chúng tôi ăn. Chị mang cả dưa góp, cà phê và một bao gạo.
Có lẽ lâu lắm rồi chúng tôi mới được ăn một bữa ăn ngon như thế bởi tình cảm chân thực và ân cần của chị Bé. Chị ở chơi trong ngôi nhà với chúng tôi hai ngày rồi lại trở về Canada để đi làm. Sáng Chủ nhật tôi thức dậy thấy chị đã đi rồi. Tuy lần đầu gặp chị nhưng lòng tôi cảm thấy bâng khuâng và thấy ân hận không thức dậy để tiễn chị.
Có lẽ trong cuộc đời của một con người, những tình cảm như thế là những món quà quí giá mà đời sống ban tặng cho chúng ta. Nó làm cho lòng ta ấm áp và ý nghĩa.
Trần Tiến Dũng là một người ít nói. Và khi anh cất giọng thì mỗi âm tiết anh phát ra cũng chậm như những giọt cà phê nhỏ xuống từ chiếc phin pha cà phê trong những quán cà phê yên tĩnh của Hà Nội cổ kính. “Mây bay là bay rồi” là câu mà chúng tôi thường nhắc lại khi ngồi với nhau. Đó là câu thơ mở đầu cho một bài thơ của Trần Tiến Dũng đã in trên báo Văn nghệ. Bài thơ này sau đó in trên trang web Tiền vệ và được chọn là bài thơ hay nhất tháng.
Một ngày trước khi trở về Việt Nam chúng tôi đã phát hiện ra người đàn ông sống trong ngôi nhà đó. Khi chúng tôi đang ăn cơm thì Lương Tử Đức phát hiện một người nhẹ nhàng từ một căn phòng nào đó trên tầng hai đi xuống. Lương Tử Đức chạy theo.
Chu Lượng cũng chạy theo. Họ chỉ nhìn thấy người đàn ông đi rất nhanh như đang tìm cách chạy trốn mọi người và khuất vào những lùm cây lớn trong khu vườn của một ngôi nhà không có người ở trước mặt.
Lương Tử Đức quay vào và nói như một phát hiện: Như thế không phải là ma. Đó là một con người. Nhưng người đó là ai thì chúng tôi không biết. Đến khi trở về Việt Nam, tôi mới nhớ là không đưa mọi người lên căn phòng tầng trên của nhà để xe như đã hứa. Lương Tử Đức tỏ vẻ tiếc nhưng anh nói như vậy còn có lý do mà trở lại nước Mỹ.
Khi chia tay chúng tôi nhà thơ Kevin nói: Sẽ có hai nhà thơ Việt Nam đến ở ngôi nhà này vào tháng Sáu: Hữu Thỉnh và Trần Đăng Khoa. Nhưng tôi biết họ sẽ không nghe thấy gì ở ngôi nhà đó. Vì mọi bí mật của ngôi nhà tôi đã kể hết rồi.
Nguyễn Quang Thiều
NGẬM NGẢI TÌM TRẦM
Hôm ấy chúng tôi vào phía rừng Kim Vân gần chân núi Truồi để đo mấy khoảnh ruộng tranh mới vỡ. Ðường đi gồ ghề và hóc hiểm, lắm đoạn phải lội qua suối, nước lên quá lưng quần.
Chúng tôi đi một dây dài cho có vẻ nhiều và mạnh. Thật ra đường cũng hẹp, không thể đi hàng hai được. Ði trước là người mang hòm máy rồi đến người xách mấy mo cơm nắm và thức ăn. Tôi đi giữa, phía sau tôi là hai người cầm "ra lông" và "mia". Tôi chỉ cầm bản đồ để dò đường nên phải đưa mắt nhìn quanh mãi.
Vào giữa trưa, chúng tôi đến đầu địa phận làng Thanh Mỹ. Trời về tiết hạ nhưng may cũng chưa nắng gắt. Có lẽ vì nhờ hơi đá bốc lên cao và khói sương ủ xuống nặng. Trời tuy nắng nhưng thời tiết có vẻ dễ chịu. Qua khỏi đồi thông, am Sơn Thần, trước mắt chúng tôi hòn núi Truồi dựng lên sừng sững, oai nghiêm như một vị linh thần.
Sườn núi từ trên cao chạy xuống từng đường trắng, rồi tỏa rộng bốn bề trông như những ngọn thác lùa đá ùn thành đồi. Chúng tôi đang loay hoay tìm chỗ ngồi ăn trưa thì may gặp một nền nhà cũ bỏ hoang khá bằng phẳng.
Chung quanh nền nhà có mấy thanh sắt dựng lên thật cao. Bên tay trái có mấy sợi dây thép dằng qua lại giữa hai cây sắt đã gỉ cùn đầu. Cây bìm bìm tha hồ thả dây leo và đang kết thành một hàng rào lá chạm lọng khá dày. Quái lạ, một hàng rào sắt bao quanh một nền nhà đất sét! Thật là một chuyện lạ ra ngoài tưởng tượng. Hay đây là bãi chiến trường xưa...?
Tôi đang phân vân muốn biết chuyện hàng rào sắt thì một bà lão thấy chúng tôi ngồi ăn, liền đến đứng xem. Và cũng nhờ bà ta, chúng tôi mới biết câu chuyện sau đây:
"Xóm Bình Lư hồi ấy có độ trên mười nóc nhà. Xóm ấy thuộc về làng Thanh Mỹ Thượng. Họ chuyên nghề vào rừng đốn củi hay đi săn. Cách sinh kế của lớp người này rất đơn giản. Rừng núi đã chu cấp cho họ gần hết vật liệu họ cần dùng. Thiếu gạo đã có ruộng rừng, họ ra công cày cấy lấy.
Ðồ ăn phần nhiều là thịt hươu nai ướp muối hay ép thật khô. Thỉnh thoảng họ mới xuống chợ bán củi để mua ít thức cần, phần nhiều là vải, muối hay diêm. Ðời họ ở xa cách thành thị, có tiền nhiều họ cũng không biết sắm thêm gì và không vượt ra khỏi cơm ngày hai bữa.
Hy vọng của họ cạn và gần, và nhờ thế rất dễ được mãn nguyện. Trong xóm ấy có hai vợ chồng bác Diệm nhà nghèo nhưng ở với làng nước rất thảo. Bác gái là người làng Ngô Xá ở Quảng Trị. Lấy nhau sáu năm bác gái sinh được một trai và một gái. Thấy trong nhà nhiều miệng ăn, muốn cho vợ con được no ấm, bác trai liền nghĩ cách vào núi tìm trầm.
Nhưng tìm trầm rất khó, không phải đôi ba ngày mà tìm ra được. Có khi phải đi đến hàng tuần hàng tháng. Rồi kết quả lắm lúc cũng chẳng ra gì. Ðó là chưa nói phải vào tận trong núi xanh và vượt qua nhiều cánh rừng nguy hiểm.
Muốn tránh tai họa, người đi tìm trầm phải ngậm ngải. Theo lắm người kể chuyện, ngải là một thứ củ cây do người Mọi ở Trường Sơn luyện rất công phu. Họ hấp củ cây ngải trong lò mật ong một tháng, để giữa dòng suối chảy một trăm ngày. Ðoạn phải đặt trong tay đủ năm người chết, và đeo trước ngực năm bà già trong đời giữ vẹn tiết trinh.
Vẫn chưa hết. Xong phải nhét vào trong cái giò heo để lừa cho hổ ăn. Nghĩa là nếu may thì ngải sẽ nằm trong bụng hổ. Ðoạn phải bẫy cho được con hổ ấy, rồi giết ngay và lấy ngải ra.
Ngải lúc ấy là một cái bùa thiêng có sức mạnh huyền bí. Ai ngậm nó mà đi vào rừng thì không ăn không uống cũng sống được. Và thú dữ dù đi sát bên cạnh cũng không thấy mình được. Nhưng hạn trong ba tháng mười ngày phải trở về nhà nhả ngải ra. Nếu không thì người ấy sẽ mọc lông, trổ vuốt, thêm nanh và hóa ra hổ thật.
Chuyện ngậm ngải tìm trầm, thổ dân ở các dảy núi miền Trung cho là rất thường. Cái mỉm cười ngờ vực đối với câu chuyện họ nói về sức phi thường của ngải sẽ quyến được cái quắc mắt giận dỗi hay cái trề môi ngạo nghễ của họ ngay vì họ quá tin đến dám xem thường tất cả người nào không chịu tin như họ, nghĩa là không hiểu rõ sức uy hùng bí mật của rừng thẳm núi cao.
Bác Diệm trai vào rừng đã gần ba tháng nhưng vẫn chưa thấy ra. Bác gái ngày nào cũng nhìn vào núi Truồi để chờ tin tức. Có lẽ chỉ lần này bác trai mới vào rừng lâu nhất. Mấy lần trước bác chỉ đi trong một vài tháng là nhiều.
Bác gái ngày đêm lo sợ nhưng cũng không biết làm sao được. Bác liền đi hỏi thăm mấy nhà hàng xóm. Có người an ủi lấy cớ bác Diệm rất thông minh, thế nào bác cũng nhớ về nhà đúng kỳ hạn. Lắm người bông đùa một cách quái ác, là nói bác đã vào tận Bình Ðịnh, Quy Nhơn, rồi lấy vợ bé trong ấy rồi. Bác Diệm gái vẫn trông mong chồng và đêm nào cũng ra phía sau nhà nhìn về phía dãy Trường Sơn bát ngát.
Nhưng dãy núi thì cao và hùng vĩ quá, không thể đem lại sự yên lành trong tâm hồn chất phác của cô gái quê được. Ba tháng mười ngày đã qua từ lâu. Bác Diệm gái lại càng lo sợ hơn nữa. Ðêm nào bác cũng ra đứng giữa sân thẫn thờ nhìn về dãy núi, rồi đến đêm khuya bác với trở vào nhà ngồi khóc rấm rứt.
Ngày tháng cứ lặng lẽ trôi, rất nặng nề trong lòng người mong đợi. Rồi giữa một đêm trăng mờ cuối thu, Bác Diệm gái bỗng nghe tiếng rú xa xa, đứt quãng rồi kéo dài rất ảo não. Bác Diệm tung chiếu chạy ra sau nhà, tim đập mạnh và tay chân run lập cập.
Phía xa trên một đồi nhỏ, lọt trong rặng thông lơ thơ, một bóng người đang nhìn về xóm Bình Lư đã từ lâu im lìm trong đêm vắng. Tuy chưa nhận rõ là ai, linh tính đã báo cho bác biết đó là chồng bác, bác Diệm trai. Rồi không suy tính, bác đâm đầu chạy ra, lòng mừng khấp khởi.
Nhưng mới chạy được một quãng ngắn, bác đã lạnh người đứng dừng lại. Một tiếng rú nghe lạnh và uất như một người câm cố thét lên để nói được tiếng của loài người. Tuy sợ nhưng lòng bác Diệm gái thương chồng mạnh hơn. Bác gắng sức chạy đến chân đồi, cái bóng đen liền chờn vờn đi lại phía bác, hai tay thả lỏng, đầu gật gù lưng cúi lom khom.
ánh trăng thu giây bụi vàng nhạt trên mớ tóc dài đen nháy của con người kỳ dị lại làm bác gái giật mình, muốn đứng lại ngay. Giữa lúc ấy bác nhận thấy một manh áo nâu đã rách tươm còn vướng trên cổ người ấy...
Thôi rồi! Chồng bác đã gần hóa hổ, bác run sợ và bồi hồi... Nhưng bác cũng cố đứng nhìn và đợi. Cái bóng đen vừa tiến đến vừa rên hừ hừ, như bị ngạt trong cổ. Lúc thoáng thấy cặp mắt chồng đã tròn xoe và hoe sáng như lửa, cằm đã mọc râu dài và thưa, bác Diệm gái liền đi thụt lùi rất gấp. Nhưng bác vấp phải một cành cây nằm ngang ở phía sau. Bác thét lên một tiếng rồi ngã nhào chết ngất.
Sáng hôm sau, lúc bừng mắt tỉnh dậy, bác Diệm gái thấy mình đang nằm trên giường nhà. Hỏi mấy người đến thăm, bác mới biết tiếng rú đêm qua, dân xóm đều nghe rõ ràng cả. Họ cũng lần ra phía đồi để xem thì gặp lúc bác nằm chết ngất trên cành cây khô. Mấy người khiêng bác về nhà. Còn những người bạo dạn thì lấy roi hèo đánh đuổi con người quái lạ kia đi. Nghe đến đấy bác Diệm gái mở lớn đôi mắt, băn khoăn hỏi:
- Dân xóm có đánh người ấy à?
Một ông lão đáp:
- Không, chỉ doạ thôi. Thật ra cũng không ai dám đến gần hắn.
Bác gái nói thầm như để một mình nghe:
- Chồng tôi đó!
Nói xong bác ứa nước mắt thở dài một cách ngao ngán. Luôn mấy đêm sau, bác Diệm gái ra sau nhà đứng nhìn về phía mấy ngọn đồi nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng chồng đâu nữa. Bác lại trở vào nhà âm thầm nằm đợi nghe tiếng rú.
Qua tháng sau, một buổi chiều bác xuống chợ Truồi mua gạo thì bác trai mon men vào nhà. Bác đem theo một buồng chuối hoang và mấy trái cam dại. Hai đứa con mới nhận thấy bác đã khóc vang lên. Bác lo sợ cúi gầm đầu xuống và đưa cam chuối cho chúng ăn. Chúng thấy người ấy không làm gì hại và còn cho ăn tử tế thì ngồi yên lặng ngay.
Bác Diệm trai muốn vuốt ve con, nhưng tay bác sờ đến đâu áo quần của hai đứa nhỏ rách toang đến đấy. Thì ra móng tay bác đã sắc và nhọn lắm rồi. Thừa lúc đứa con trai quay mặt nhìn ra sân, bác Diệm liền thè lưỡi liếm đầu nó. Bác muốn tỏ vẻ yêu mến con, lòng bác còn là lòng người, nhưng chao ôi cử chỉ của bác đã nhuộm đầy vẻ thú.
Lưỡi bác đã rám và sắc hơn dao rồi. Chỉ đưa đi đưa lại mấy cái tóc đứa con đã rụng tua tủa. Hai đứa con sợ quá liền bỏ chạy ra sân la lớn. Cũng ngay lúc ấy bác Diệm gái đi chợ về. Thấy chồng lông đầy người và màu lông đã hơi vàng, hai tay trước thòng gần chấm đất và nanh trắng nhe ra ngoài môi, bác Diệm gái cũng hoảng hốt la tiếp.
Nghe tiếng ồn ào, dân quanh xóm liền chạy đến và đuổi con vật nửa người nửa thú chạy bán sống bán chết vào rừng. Muốn che chở người cô quả, dân xóm Bình Lư xuống xin mấy người làm đường xe lửa ở gần ga Truồi một chục thanh sắt và mấy sải dây thép về làm một cái hàng rào vây quanh nhà bác Diệm gái.
Từ đó bác Diệm trai không dám bén chân về nhà nữa. Nhưng qua mùa xuân sau cũng một đêm trăng mờ như bảy tháng trước, bác Diệm gái lại nghe tiếng rú kinh hồn trên đồi thông vắng. Bác liền vội vã chạy ra sau nhà.
Trong bầu ánh sáng nhạt nhuộm sương khuya, bác Diệm thấy một bóng người, không, một con vật thì đúng hơn chụm mạnh bốn chân xuống đất, ngẩng đầu lên cao đang đăm đăm nhìn về phía bác.
Thôi thế là hết! Chồng bác đã hoàn toàn hóa hổ... Bác ôm mặt khóc rất thê thảm. Con hổ cũng rú lên một hơi dài như để đáp lại tiếng lòng của vợ. Tiếng rú nghe lạnh và buồn.
Ðoạn con vật quay mình lẳng lặng đi vào phía núi Truồi, rồi biến dần trong ánh trăng xanh nhạt. Dãy núi Truồi từ đó đã như một bức thành kiên cố chia đôi tình nhân loại với cảnh huyền bí của sơn lâm.
Thanh Tịnh
GIẢI MÃ "CỎN SỐT" THIÊN THẦN
Gần đây ở nhiều nước bùng nổ hiện tượng "nhìn thấy và gặp gỡ thiên thần". Không ít người cho rằng chính mình đã thấy thiên thần xuất hiện để mách bảo, cứu giúp ai đó trong lúc hoạn nạn...
Với những người “vô thần, vô thánh” thì việc gặp gỡ thiên thần nghe có vẻ khó tin hơn nhiều so với chuyện gặp người ngoài hành tinh. Tuy nhiên niềm tin về thần thánh đã có từ hàng nghìn năm trước. Trong mọi nền văn hóa đều tồn tại chuyện thần tiên.
Bằng chứng khảo cổ cho thấy, thiên thần xuất hiện lần đầu tiên vào thời Persia cổ đại. Hình người có đôi cánh được tìm thấy trên các món đồ gốm cổ ở trong hầm mộ Ai Cập.
Ngoài Kinh Thánh, thiên thần còn hiện diện trong các tài liệu của người Do Thái được viết vào khoảng năm hai trăm trước Công nguyên. Đó là những câu chuyện về cuộc chiến dữ dội giữa các vị thần tốt và các vị thần xấu.
Các vị thần đang có chiều hướng hồi sinh trong xã hội hiện đại. Theo thống kê xã hội học, có đến gần một nửa dân số nước Anh tin vào thiên thần. Nhiều người kể rằng chính mắt họ đã nhìn thấy và thiên thần còn chạm vào mình, thậm chí mách bảo đôi điều.
Một trong những show truyền hình ăn khách nhất ở Mỹ có tên là "Touched by an Angel" (được thiên thần chạm đến). Hầu như mọi tôn giáo và nền văn hóa trên thế giới đều cùng chia sẻ ý niệm thiên thần. Nhiều người xem thiên thần là thần hộ vệ cho họ, được bề trên phái xuống.
Tim Crane, một doanh nhân ba mươi bốn, tuổi ở Guildford Anh, kể lại chuyện anh được một thiên thần cứu mạng:
- Chúng tôi chuẩn bị băng qua một con đường đông xe cộ ở London. Tôi nhìn về phía trái và không trông thấy xe, thế là cùng bạn gái qua đường. Đột nhiên một bàn tay đặt lên vai phải của tôi và kéo tôi ngược trở lại. Đúng lúc ấy một chiếc xe buýt lao tới chỉ cách Crane vài bước. Anh chưa kịp định thần thì bạn gái anh đã la hoảng lên vì sợ. Sau đó cô ấy cho biết, không phải cô ấy kéo tôi lại, trong khi không có một ai khác ở đấy nữa cả". Anh kể tiếp.
Crane thừa nhận là không thể chứng minh sự việc, nhưng sự kiện ấy đã làm thay đổi thái độ của anh đối với cuộc sống:
- "Cuộc sống có nhiều điều kỳ diệu hơn là bạn tưởng”.
David Beckham, tiền vệ bóng đá nổi tiếng người Anh còn nổi tiếng với ba hình xâm cầu kỳ hình ảnh thiên thần hộ mệnh trên cơ thể, hai hình ở vai và một hình lớn ở lưng.
Để có được những hình xăm ấy, David đã phải bỏ ra hàng núi tiền thuê chuyên gia. Ngôi sao bóng đá này cho biết:
"Các thiên thần hộ mệnh sẽ giúp tôi vững tin hơn. Điều quan trọng nữa là sẽ giúp tôi tránh khỏi mọi rắc rối ưu phiền".
Theo tiến sĩ Mike Loui giáo sư tâm lý tại Đại học Nene ở Northampton Anh, có một số giả thuyết giải thích hiện tượng trên như hoạt động của não bộ, ý muốn hoàn thành công việc hay sự thay đổi hóa chất của não. Tuy nhiên chưa giả thiết nào được chứng minh tính đúng đắn.
Loui cho rằng người ta mô tả những gì xảy đến trong não họ, một khi không có hình ảnh làm bằng chứng. Điều này cũng xảy ra ở những lần gặp gỡ thiên thần trong Kinh Thánh:
Thường thì chỉ một người nghe thấy giọng nói vọng xuống từ thiên đàng. Những người ấy sau này may mắn trở thành nhà tiên tri. Loui khẳng định:
- Nếu bạn muốn tin vào thiên thần thì bạn sẽ tin. Và bạn sẽ ngạc nhiên về việc đi tìm lời giải thích ở đâu, như thế nào...
Đối với tiến sĩ Mike Money, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu sức khỏe thuộc Đại học John Moores, Liverpool Anh, thì tôn giáo và ngay cả khoa học cũng chưa làm thỏa mãn hết trí tò mò của loài người.
Nhiều bộ phim và các show truyền hình đề cập đến chuyện thiên thần, đã đẩy lùi biên giới bó hẹp của niềm tin vào thiên thần, nhờ vậy thiên thần có chỗ đứng trong nhận thức của nhiều người.
Con người luôn cần có điều gì đó để đặt niềm tin, nhưng tại sao đó cứ phải là các thiên thần? Tiến sĩ Money cho là con người có cùng chung một sự vô thức qua quá trình thu nhận các "kiểu mẫu thần thánh" trong chuyện cổ tích và tôn giáo.
Bất cứ ai sinh ra và lớn lên, hấp thu nền văn hóa của một quốc gia nào đó đều từng biết qua về các bà tiên hiền dịu, hiệp sĩ trẻ tài ba hay những thiên thần huyền ảo. Mỗi khi cần đến sự lý giải, vô thức đưa chúng ta tìm đến các kiểu mẫu thiên thần đã định hình trong ta từ tấm bé.
Đặc biệt trong xã hội hiện đại, các phương tiện truyền thông là một nhân tố có ảnh hưởng mạnh. Sống trong một xã hội giữa những niềm tin và sự chờ đợi, con người dễ dàng "biên dịch" một kích thích mơ hồ thành cuộc gặp gỡ với thiên thần.
Chẳng hạn bạn nghĩ là có ai đó ở sau lưng mình, bạn quay lại và không thấy ai cả. Có người phớt lờ đi, có người lại "biên dịch" tình huống đó là có thiên thần xuất hiện. Vấn đề là cách hiểu và định danh của con người đối với sự kiện.
Vậy một số nhân chứng khăng khăng là đã tận mắt trông thấy thiên thần thì sao? Khoa học vẫn chưa làm sáng tỏ được vấn đề này vì chưa có đủ công cụ và thiết bị để hiểu hết các trường năng lượng của con người.
Tiến sĩ William Bloom giáo sư tâm lý xã hội học, tại Đại học kinh tế London cho biết:
- Mọi vật trong cuộc sống dù là một tia nắng, một hòn đá hay một sinh vật về cơ bản đều là một dạng của năng lượng. Vật lý học hiện đại đã chứng minh điều đó. Có một sự liên lạc, nối kết giữa vật chất, năng lượng và nhận thức.
Theo sự lý giải của tiến sĩ Bloom, thiên thần cũng là một dạng năng lượng và nó có tác động lên trái tim, nhận thức, cảm giác của con người.
Do đó gặp gỡ thần thánh có thể là sự đón nhận các trường năng lượng, não sẽ ghi nhận và chuyển sự đón nhận ấy thành cảm giác thể chất. Ông Bloom nói:
- Đôi khi não chuyển thành hình ảnh, đôi khi lại là âm thanh hay mùi vị nhưng đa số đều sẽ cảm nhận thấy nó giống như ta nhận ra sự thay đổi nhiệt độ vậy. Và những cảm nhận ấy nhiều khi được xem là sự xuất hiện của thiên thần.
ST
Trên đời mọi chuyện đều có thể xẩy ra. Có năm người thân cùng trú ngụ ở thị xã Hà Đông, cùng vui buồn mấy chục năm nay, giờ cùng nhau trên một chiếc máy bay đi nửa vòng trái đất, đến ở trong cùng một ngôi nhà ở nước Mỹ.
Đó là nhà thơ, đạo diễn sân khấu Lương Tử Đức, nghệ sỹ múa rối nước Chu Lượng, chàng trai Nguyễn Quang Thuật con trai tôi và tôi. Tất nhiên còn người thứ năm. Nhưng khúc mở màn này, người đó chưa xuất hiện.
Người Việt Nam lâu nay vẫn nghĩ việc xin visa Mỹ là một việc luôn luôn khó. Trước khi vào xin visa, chúng tôi không ai dám chắc là mọi chuyện đều ổn thỏa. Buổi đầu tiên, tất cả hồ sơ của chúng tôi bị trả lại với một lý do đơn giản: Trong hồ sơ, nghệ sỹ Chu Lượng nhờ người khai đã đánh dấu nhầm vào ô chưa đến Mỹ bao giờ, nhưng khi trả lời phỏng vấn anh lại thản nhiên nói đã vào Mỹ hai lần. Chu Lượng là người đầu tiên trong đoàn được gọi phỏng vấn.
Tôi đã giải thích với người phụ nữ Mỹ phỏng vấn chúng tôi là do sự nhầm lẫn rất vô tình mong bà thông cảm. Bà chỉ vào chiếc computer và nói lạnh lùng: Nhưng cái máy này nó không biết thông cảm. Thế là chúng tôi phải quay lại mấy ngày sau đó khi Chu Lượng làm lại bản khai.
Con trai tôi, một chàng trai hai mươi mốt tuổi, bị ấn tượng đầy tính áp đảo với một tờ giấy lớn giống như áp phích treo trên tường phòng phỏng vấn visa: Nếu bạn làm giả hộ chiếu, thì sẽ có nhiều cánh cửa mở ra nhưng có một cánh cửa đóng lại vĩnh viễn. Cánh cửa này có thể là cánh cửa vào Mỹ và có thể là một cánh cửa mơ hồ và đa nghĩa.
Nhưng lẽ đời, những kẻ làm giả hộ chiếu lại có thể chẳng hề để ý tới những lời lẽ “ớn lạnh” kia. Người Việt chúng ta có câu nói: khóa người ngay chứ không ai khoá kẻ gian.
Lần thứ hai vào phỏng vấn visa, chúng tôi nghĩ sẽ vô cùng khó khăn vì những trục trặc của lần thứ nhất. Khi đến lượt, tôi hỏi người phụ nữ Mỹ là bà sẽ phỏng vấn ai đầu tiên. Bà trả lời: Tôi chỉ nói với các anh một câu thôi: Chúc các anh có những ngày tốt đẹp trên nước Mỹ. Và chúng tôi được cấp visa.
Tôi đã đến Mỹ nhiều lần, những đây là một sự ngạc nhiên. Nhà văn Trần Thị Trường cũng vào phỏng vấn visa trước chúng tôi mấy ngày. Bà mang theo đủ thứ giấy tờ như tài khoản trong ngân hàng, bất động sản, lương và những thu nhập khác để chứng minh bà có một tài sản đáng giá và không hề có ý định ở lại Mỹ định cư.
Bà khuyên chúng tôi phải mang theo tất cả những thứ đó. Tôi nghĩ thầm nếu tôi mang những giấy tờ đó thì tôi khó chứng minh được rằng, tôi có một tài sản mà có thể níu giữ tôi ở lại Việt Nam. Bởi thế chúng tôi quyết định không mang theo bất cứ giấy tờ gì chứng minh tài sản. Tôi cam đoan nước Mỹ đâu có nhìn số tiền anh ta có mà tin được con người của anh ta. Và lòng tin của tôi đã đúng.
Chúng tôi đi theo chương trình trao đổi văn hoá. Bởi thế có một loại giấy tờ có chữ ký “sống” từ Mỹ gửi sang mà chúng tôi phải mang theo khi nhập cảnh. Nhưng quái lạ, trước ngày đi tôi không làm sao tìm được cái giấy này.
Tôi chỉ còn bản photo. Trước đó tổ chức mời tôi đã viết thư và gọi điện cho tôi nhắc nhiều lần, là phải cầm cái giấy đó trình cho an ninh cửa khẩu Mỹ. Nếu không có cái giấy đó thì không thể vào được Mỹ. Và ngày 11 tháng 4, chúng tôi nhập cảnh nước Mỹ qua cửa khẩu Los Angeles.
Những người đi cùng tôi nhập cảnh một cách đơn giản còn tôi bị giữ lại vì không có cái giấy mà tôi đã nói ở trên. Nhân viên An ninh cửa khẩu Mỹ nói với tôi giấy photo nghĩa là giấy giả, vì bất cứ ai cũng có thể làm được. Tôi hỏi người nhân viên đó là ông ta cần giấy tờ thật hay cần người thật hơn.
Ông nói cần cả hai. Tôi nói với ông tôi là nhà thơ đã đến Mỹ nhiều lần và đã có sách in ở Mỹ. Ông hỏi tôi tên cuốn sách. Tôi đọc tên cuốn sách. Ông gõ computer và mỉm cười kín đáo. Ông đã nhìn thấy ảnh tôi, tên tôi và cuốn sách của tôi trong computer của ông. Rồi ông nói: Tôi đồng ý cho anh nhập cảnh.
Quả thực nước Mỹ luôn luôn mang lại cho tôi những bất ngờ như thế. Những bài thơ và những cuốn sách tôi viết xác thực tôi hay sự tôn trọng văn học nghệ thuật của người Mỹ đã cho phép họ tin tôi. Khi tôi kể chuyện này cho một số giáo sư Mỹ thì tất cả đều ngạc nhiên. Họ không tin thiếu cái giấy ấy mà tôi lại được nhập cảnh nhất là sau ngày 11 tháng 9.
Tôi còn nhớ như in trong phòng giải quyết visa cho những trường hợp nhập cảnh đặc biệt trong đó có tôi, nhân viên an ninh Mỹ đã biểu lộ sự áp đảo và đầy đe dọa với những trường hợp đặc biệt khác, những người nhập cảnh từ một nước Trung Đông hay Mỹ La tinh.
Nhưng nhân viên an ninh đã nói với tôi một thứ tiếng Anh lịch thiệp. Câu chuyện này tôi không thể nào quên được. Câu chuyện này cho tôi hiểu thêm nước Mỹ một lần nữa thông qua một công dân bình thường của họ, một nhân viên an ninh sân bay.
Chúng tôi được đưa về ngôi nhà số 269, phố Highland, thị trấn Dedham, cách trung tâm Boston chừng hai mươi cây số. Một ngôi nhà ngoài trí tưởng tượng của chúng tôi.
Ngôi nhà có mười hai phòng ngủ và một phòng khách lớn. Tất cả các phòng đều có lò sưởi và củi chất đầy bên cạnh. Gia đình nhà thơ Kevin Bowen và những người hàng xóm của ông mà tôi quen biết, đều đưa con cái đến chào chúng tôi. Trong bếp họ đã chuẩn bị rất nhiều thực phẩm cho chúng tôi.
Nhưng tôi đặc biệt ấn tượng bởi hai thứ: Nước mắm và mỳ tôm. Chị Leslei, vợ nhà thơ Kevin Bowen đã nấu một nồi phở Mỹ cho chúng tôi: Một con gà công nghiệp luộc nhừ bỏ da gỡ thịt, một cái rá inốc đựng đầy bánh phở khô đã luộc chín, một nồi nước luộc gà có pha thêm một hộp nước cốt gà bán ở siêu thị Mỹ nhưng không bỏ muối hay gia vị, một đĩa rau thơm, chanh, ớt tươi và hạt tiêu. Nhưng chúng tôi đã ăn món phở đó thật hào hứng vì đói và vì tình cảm của người nấu.
Đêm đầu tiên chúng tôi hầu như không ngủ do múi giờ thay đổi. Bên ngoài trời rất lạnh khoảng ba độ C. Chúng tôi đốt lò sưởi và ngồi trò chuyện. Và ngay đêm đó, chúng tôi nghe thấy có tiếng chân người đi đâu đó trong ngôi nhà.
Lúc đó chúng tôi nghĩ có người khác ở trong ngôi nhà vì nó quá rộng. Sáng hôm sau chúng tôi hỏi người quản lý ngôi nhà, thì được biết không có ai ở đây ngoài chúng tôi.
Đây là ngôi nhà của một người đàn bà goá. Chồng bà là lính chết trận ở Việt Nam. Bà đã tặng lại ngôi nhà này cho trường Phổ thông cơ sở Dedham Country. Nhà trường đã bố trí cho chúng tôi ở. Một không khí huyền bí bắt đầu lan toả trong ngôi nhà.
Đến những đêm sau đó, tiếng bước chân đi nhẹ nhàng trên sàn gỗ ở đâu đó trên trần nhà trong khuya khoắt càng rõ hơn. Chúng tôi ngồi bên lò sưởi và bắt đầu nói về những cuốn sách kinh dị của các tác giả Mỹ mà chúng tôi đã đọc. Đời sống như vậy thì những câu chuyện mà các nhà văn đã viết thực ra chẳng có gì ngạc nhiên.
Một buổi chiều mọi người đi xuống trung tâm thị trấn Dedham, tôi quyết định làm một cuộc thám hiểm ngôi nhà. Lúc đó tôi mới phát hiện ra có rất nhiều căn phòng bỏ không đã quá nhiều năm. Trong một phòng ngủ có treo một bức ảnh một cô gái chân trần, ôm một bó hoa dại và một đôi mắt thật u buồn.
Tôi xem kỹ ngày tháng đề trên bức ảnh thì biết nó được chụp quá lâu từ lúc tôi chưa sinh ra. Tôi không biết lai lịch cô gái trong bức ảnh. Nhưng tôi cứ mang một ám ảnh rằng cô gái ấy chết rất trẻ vì một căn bệnh nào đó.
Lần nào bước vào căn phòng đó tôi cũng bắt gặp đôi mắt u buồn của cô gái nhìn thẳng vào tôi. Và lần nào tôi cũng lúng túng và hoang mang. Tôi rón rén đi từng phòng và đôi lúc tôi có cảm giác có người đang theo dõi tôi. Khi tôi mở cửa căn phòng tầng trên của nhà để xe thì tôi đã sững người lại.
Tôi vốn là người không sợ hãi chuyện ma quỷ, nhưng tất cả những gì có trong căn phòng đó không thể không làm cho tôi một thoáng lạnh người. Những bộ hài cốt, những bộ mặt kinh dị, một cô gái ma cà rồng với mặt trắng như vôi và miệng giàn dụa máu, một người đàn ông gục xuống và một lưỡi rìu cắm ngập sau bả vai…
Sau một lúc trấn tĩnh, tôi bước vào căn phòng và nhận ra trên một chiếc bàn nhỏ có một chai rượu vang uống dở và những mẩu vụn bánh mỳ vẫn chưa khô hẳn.
Cuối cùng tôi đã nhận ra căn phòng đó chứa đồ để dùng cho ngày Lễ hội ma (Halloween) ở Mỹ. Nhưng chai rượu vang và những mẩu bánh mỳ là của một người đang sống.
Tôi đã giữ kín chuyện về căn phòng đó. Tôi không muốn chỉ cho mọi người vì sợ họ bị ám ảnh trong khi ở đó. Bởi ngoài căn phòng kỳ dị ấy ra là một thế giới của hoa lộng lẫy, của những con chồn đuôi bông, của những cặp thỏ nâu đi kiếm ăn, của chim chóc, của những tấm biển nhỏ nhắc mọi người lái xe cẩn thận kẻo đâm vào những con hươu băng qua đường, trên vùng đồi Dedham đang bắt đầu vào hạ.
Nhưng tôi đã suy ngẫm mãi về nước Mỹ khi họ có một Lễ hội ma cho những đứa trẻ. Tôi có rất nhiều lý giải. Nhưng một lý do mà tôi thấy vô cùng quan trọng là họ rất tin vào nền giáo dục của họ đối với những công dân tương lai của mình.
Tôi chợt nhớ đến một bài viết của một nhà báo chức vị khi ông ta lên án gay gắt hai bộ phim hoạt hình của Mỹ là Tom and Jerry và Thuỷ thủ Papai. Cũng nhà báo này đã báo động “nguy cơ” đạo đức của học sinh khi ông đọc một bức thư của một học sinh Việt Nam gửi con gái của cựu Tổng Mỹ Bill Clinton nói về tình bạn và hoà bình trong cuộc thi viết thư quốc tế UPU mà tôi được mời tham gia Ban giám khảo. Đấy cũng là một điều làm tôi kinh ngạc.
Sau hơn mười ngày ở ngôi nhà đó chúng tôi có thêm khách. Đó là hai ông “tướng” từ Sài Gòn: Hoạ sỹ danh tiếng Trịnh Cung và nhà thơ không kém phần nổi tiếng Trần Tiến Dũng. Hai ông này giành được học bổng Rockeffeller cho chương trình nghiên cứu về Việt Nam. Hai ông xuất hiện lừ lừ với hai cái đầu trọc vào một buổi tối.
Họa sỹ Trịnh Cung tôi nghe danh đã lâu nay mới gặp lần đầu, còn nhà thơ Trần Tiến Dũng thì là bạn tôi đã nhiều năm. Mấy ngày đầu, hai ông này còn bí ẩn hơn cả những tiếng bước chân đâu đấy trong ngôi nhà lúc nửa đêm hay gần sáng.
Hai ông hoặc ngủ hoặc làm gì đó trong phòng hoặc đi bách bộ. Chỉ đến bữa ăn khi chúng tôi nấu nướng xong mời hai ông xuống xơi cơm thì hai ông mới xuất hiện. Hình như vẫn có gì đó ngăn cách giữa chúng tôi.
Nhưng chỉ sau đó ba ngày, họa sỹ Trịnh Cung bắt đầu mở máy nói. Chàng thanh niên tuổi đôi mươi Trịnh Cung bắt đầu thức dậy. Chàng luôn luôn đeo máy nghe nhạc. Và như chẳng để ý đến ai, chàng đi những điệu van thật uyển chuyển và tình tứ ở trong bếp, trong phòng khách hoặc trên thảm cỏ ngoài vườn. Chúng tôi trố mắt nhìn chàng thán phục.
Đêm đến chàng nhớ người vợ là thi sỹ trẻ trong nhóm Năm con ngựa trời và nhớ đứa con trai mới đầy tháng của chàng. Tình yêu và cuộc hôn nhân mới của chàng mới chứng tỏ sức mạnh tâm hồn chàng. Những bức tranh chàng cho chúng tôi xem trên trang web cá nhân chứng tỏ sức trẻ trung của chàng.
Mấy năm trước chàng được các bác sỹ thông báo mắc căn bệnh hiểm nghèo: Ung thư. Chàng nói đến căn bệnh đó như người ta đang nói về một môn thể thao. Với ý chí đó chàng xứng đáng được nhận một tình yêu kỳ lạ và đầy kiêu hãnh.
Chàng và nhà thơ, đạo diễn Lương Tử Đức luôn luôn luận bàn về những vấn đề triết học. Lương Tử Đức là một gã phù thuỷ trong khẩu khí. Ối văn nghệ sỹ ở Hà Nội nghe ông nói đều không tìm thấy đường ra. Một vài người vẫn quanh quẩn trong những triết lý của ông mấy năm nay.
Phương pháp của tôi để tránh những gì ông nói là coi như ông đang đọc thơ và hát chèo. Thế là thoát được. Chàng Trịnh Cung có lúc đã bị “say say”. Nhưng bản lĩnh của chàng và sự trẻ trung mãnh liệt của chàng đã đi qua được. Lương Tử Đức vẽ một bức chân dung Trịnh Cung bằng phấn sáp và áp đặt Trịnh Cung rằng đó là bức chân dung vẽ Trịnh Cung đẹp nhất.
Trịnh Cung không nói gì chỉ khẽ cười. Nhưng thỉnh thoảng chàng Trịnh Cung lại đi qua căn phòng để bức tranh và ngắm nó. Có lẽ trong lúc ngắm bức chân dung do Lương Tử Đức vẽ, chàng lại tự nhủ: có lẽ đây là bức chân dung vẽ mình đẹp nhất.
Không hiểu lý do gì mà chúng tôi cứ gọi chàng Trịnh Cung là Thiếu tướng. Và chàng quen với cái tên gọi mới đó. Chàng bảo nếu chiến tranh không kết thúc chàng có thể lên đến cấp tướng. Nhưng trong hội hoạ Việt Nam thì chàng xứng đáng là một vị tướng rồi.
Thỉnh thoảng những buổi tối bên lò sưởi, chàng lại kể cho chúng tôi nghe về mối tình kỳ lạ của mình. Khi nói đến những tiếng bước chân lạ trong ngôi nhà chúng tôi đang ở, chàng đồng ý với những suy luận của chúng tôi.
Không có ma nhưng sẽ có một ai đó sống âm thầm trong một căn phòng đâu đấy trong ngôi nhà. Có thể đó là một người độc thân, một người vô gia cư hoặc là một người bị bệnh tâm thần và biết đâu đó có thể là một tội phạm nguy hiểm đang lẩn trốn sự truy lùng của FBI.
Nước Mỹ quá rộng. Những người hàng xóm cũng ít khi để ý đến chuyện riêng tư của nhau. Ngôi nhà chúng tôi ở không có chìa khoá. Và như vậy chúng tôi không khoá cửa khi đi vắng có lúc cả vài ngày. Tất cả laptop, điện thoại di động và máy ảnh cứ vứt bừa bãi trong bếp, trong phòng khách.
Có đêm về thấy đèn sáng ở một lối cầu thang hẹp đi lên một căn phòng nào đó, tôi lại cất tiếng: Ai ở đây xuống uống rượu vang với chúng tôi. Nhưng chỉ có sự im lặng.
Tôi nói như thế để thay một lời chào và hình như cũng để che lấp sự hoang mang của chính mình mà thôi. Rồi đến gần sáng lại có tiếng mở cửa, tiếng bước chân rất nhẹ nhàng. Tôi nằm im lặng trong bóng tối vừa mơ hồ lo lắng vừa bị kích động lạ lùng.
Nhưng khi mặt trời hiện ra thì mọi ngờ vực và hoang mang trong bóng tối lại tan biến. Công việc và vẻ đẹp của vùng đồi Dedham đang vào hạ lại cuốn hút chúng tôi.
Một buổi chiều nhà thơ Kevin mời chúng tôi tối hôm sau đến dự sinh nhật lần thứ mười bốn con gái ông. Tôi đã quyết định tổ chức ngày sinh nhật cô gái đó tại ngôi nhà 269 phố Dedham.
Bởi tôi có rất nhiều kỷ niệm với cô gái đó. Chúng tôi đã nấu những món ăn Việt Nam để mời gần bốn chục người khách. Lương Tử Đức rang cơm. Chu Lượng và Nguyễn Quang Thuật làm nem. Tôi làm món thịt nướng ướp với rượu vang đỏ Cali và mật ong hoang vùng rừng Bắc Mỹ. Tối hôm đó tôi nói với mọi người rằng, khi tôi đến Mỹ lần đầu tiên cô gái ấy hai tháng tuổi.
Tôi còn nhớ một chiều gia đình Kevin, ba nhà văn Việt Nam là Hữu Thỉnh, Lê Minh Khuê và tôi ra thăm cảng Boston. Cô bé hai tháng tuổi khóc mãi mà cha mẹ cô không dỗ được. Nhà thơ Hữu Thỉnh đã bế cô bé và hát ru. Chỉ sau đó ít phút cô bé đã ngủ ngoan trong vòng tay của một nhà thơ xa lạ.
Rồi tôi trở lại nước Mỹ cô bé năm tuổi. Mỗi khi tôi đưa máy ảnh ra chụp cô là cô lại chạy nấp sau cánh cửa hoặc sau váy mẹ. Rồi tôi lại trở lại nước Mỹ cô bé đã lên mười. Cô ra sân bay cùng cha đón tôi. Trước mặt tôi cô đã là một thiếu nữ xinh đẹp. Cô bước lại trước tôi và nói: Chào Thiều chúc mừng đã trở lại.
Và lần này tôi trở lại Mỹ, cô đã mười bốn tuổi và đẹp một cách ngỡ ngàng. Tôi nói với mọi người rằng chúng tôi, những văn nghệ sỹ Việt Nam, không phải tổ chức sinh nhật cho một cô gái, chúng tôi tổ chức sinh nhật cho một vẻ đẹp, cho một ký ức và cho một tương lai của thế giới.
Dù rất ít người biết đến một bữa tiệc sinh nhật trong ngôi nhà đó, nhưng thế gian đã cộng vào dòng chảy của nó một buổi tối đẹp, xúc động và sẽ không bao giờ mất. Tôi nói với mọi người trong buổi tối đó rằng sau này khi tôi mất đi, con trai tôi sẽ trở lại Mỹ hoặc một nơi nào đó trên thế gian này và lại tổ chức sinh nhật cho một cô gái mười bốn tuổi mà bây giờ chưa được sinh ra.
Những buổi tối giản dị và chân thành đó đã tạo nên những vẻ đẹp của đời sống con người trên thế gian này. Chúng tôi không tặng cô gái bất cứ một món quà nào bán trong siêu thị Mỹ. Tôi đã vẽ một bức tranh với những bông hoa màu tím tặng cô. Những bông hoa Lila rất nổi tiếng ở Mỹ và trong thơ của người cha nền thơ ca hiện đại Mỹ: Walt Whitman.
Một tuần trước khi chúng tôi về nước, nhà thơ Nguyễn Quyến, một công dân của thị xã Hà Đông, từ Việt Nam bay sang. Thế là đủ năm công dân của thị xã Hà Đông trong ngôi nhà này ở Mỹ. Và một ngày lúc gần sáng, Nguyễn Quyến đánh thức tôi và nói có một người da trắng xuất hiện trong ngôi nhà.
Quyến hỏi tôi có phải đó là người của nhà trường. Tôi xem đồng hồ: bốn giờ sáng. Người Mỹ không bao giờ thức dậy giờ này. Tôi đi kiểm tra nhưng không thấy ai. Nhưng đèn ở lối cầu thang hẹp và dưới bếp đều bật sáng.
Tôi hỏi Nguyễn Quyến có nhầm với ai đó trong ngôi nhà thức dậy đi tiểu đêm hay không. Nhưng mỗi phòng ngủ đều có phòng vệ sinh riêng. Mà lúc đó các phòng ngủ đều đang rộn ràng tiếng ngáy của chàng Trịnh Cung và nhà thuyết giáo ma mị Lương Tử Đức.
Sau đó Lương Tử Đức có ý định báo cho cảnh sát việc này. Bởi câu chuyện về người thanh niên Mỹ gốc Hàn Quốc đã thảm sát hơn ba mươi người trong một trường học mới xẩy ra...
Nhưng chúng tôi đã không báo cho cảnh sát khu vực. Mặc dù chúng tôi tin chắc có người lạ ở trong ngôi nhà đó một cách âm thầm và nhiều bí ẩn. Nhưng chúng tôi cũng không linh cảm thấy có chuyện gì nguy hiểm lắm.
Nhà thơ Trần Tiến Dũng đến được ít ngày thì chị Bé, chị ruột anh, lái xe hơn mười tiếng đồng hồ từ Canada sang Mỹ thăm em. Chị Bé đã sống ở Canada mấy chục năm nay nhưng vẫn giữ nguyên những phẩm tính của một người phụ nữ Việt Nam. Chị đã nấu rất nhiều đồ ăn, đặc biệt là làm bánh tét và giò lụa mang sang cho em trai và chúng tôi. Chị cắt bánh tét và giò lụa cho chúng tôi ăn. Chị mang cả dưa góp, cà phê và một bao gạo.
Có lẽ lâu lắm rồi chúng tôi mới được ăn một bữa ăn ngon như thế bởi tình cảm chân thực và ân cần của chị Bé. Chị ở chơi trong ngôi nhà với chúng tôi hai ngày rồi lại trở về Canada để đi làm. Sáng Chủ nhật tôi thức dậy thấy chị đã đi rồi. Tuy lần đầu gặp chị nhưng lòng tôi cảm thấy bâng khuâng và thấy ân hận không thức dậy để tiễn chị.
Có lẽ trong cuộc đời của một con người, những tình cảm như thế là những món quà quí giá mà đời sống ban tặng cho chúng ta. Nó làm cho lòng ta ấm áp và ý nghĩa.
Trần Tiến Dũng là một người ít nói. Và khi anh cất giọng thì mỗi âm tiết anh phát ra cũng chậm như những giọt cà phê nhỏ xuống từ chiếc phin pha cà phê trong những quán cà phê yên tĩnh của Hà Nội cổ kính. “Mây bay là bay rồi” là câu mà chúng tôi thường nhắc lại khi ngồi với nhau. Đó là câu thơ mở đầu cho một bài thơ của Trần Tiến Dũng đã in trên báo Văn nghệ. Bài thơ này sau đó in trên trang web Tiền vệ và được chọn là bài thơ hay nhất tháng.
Một ngày trước khi trở về Việt Nam chúng tôi đã phát hiện ra người đàn ông sống trong ngôi nhà đó. Khi chúng tôi đang ăn cơm thì Lương Tử Đức phát hiện một người nhẹ nhàng từ một căn phòng nào đó trên tầng hai đi xuống. Lương Tử Đức chạy theo.
Chu Lượng cũng chạy theo. Họ chỉ nhìn thấy người đàn ông đi rất nhanh như đang tìm cách chạy trốn mọi người và khuất vào những lùm cây lớn trong khu vườn của một ngôi nhà không có người ở trước mặt.
Lương Tử Đức quay vào và nói như một phát hiện: Như thế không phải là ma. Đó là một con người. Nhưng người đó là ai thì chúng tôi không biết. Đến khi trở về Việt Nam, tôi mới nhớ là không đưa mọi người lên căn phòng tầng trên của nhà để xe như đã hứa. Lương Tử Đức tỏ vẻ tiếc nhưng anh nói như vậy còn có lý do mà trở lại nước Mỹ.
Khi chia tay chúng tôi nhà thơ Kevin nói: Sẽ có hai nhà thơ Việt Nam đến ở ngôi nhà này vào tháng Sáu: Hữu Thỉnh và Trần Đăng Khoa. Nhưng tôi biết họ sẽ không nghe thấy gì ở ngôi nhà đó. Vì mọi bí mật của ngôi nhà tôi đã kể hết rồi.
Nguyễn Quang Thiều
NGẬM NGẢI TÌM TRẦM
Hôm ấy chúng tôi vào phía rừng Kim Vân gần chân núi Truồi để đo mấy khoảnh ruộng tranh mới vỡ. Ðường đi gồ ghề và hóc hiểm, lắm đoạn phải lội qua suối, nước lên quá lưng quần.
Chúng tôi đi một dây dài cho có vẻ nhiều và mạnh. Thật ra đường cũng hẹp, không thể đi hàng hai được. Ði trước là người mang hòm máy rồi đến người xách mấy mo cơm nắm và thức ăn. Tôi đi giữa, phía sau tôi là hai người cầm "ra lông" và "mia". Tôi chỉ cầm bản đồ để dò đường nên phải đưa mắt nhìn quanh mãi.
Vào giữa trưa, chúng tôi đến đầu địa phận làng Thanh Mỹ. Trời về tiết hạ nhưng may cũng chưa nắng gắt. Có lẽ vì nhờ hơi đá bốc lên cao và khói sương ủ xuống nặng. Trời tuy nắng nhưng thời tiết có vẻ dễ chịu. Qua khỏi đồi thông, am Sơn Thần, trước mắt chúng tôi hòn núi Truồi dựng lên sừng sững, oai nghiêm như một vị linh thần.
Sườn núi từ trên cao chạy xuống từng đường trắng, rồi tỏa rộng bốn bề trông như những ngọn thác lùa đá ùn thành đồi. Chúng tôi đang loay hoay tìm chỗ ngồi ăn trưa thì may gặp một nền nhà cũ bỏ hoang khá bằng phẳng.
Chung quanh nền nhà có mấy thanh sắt dựng lên thật cao. Bên tay trái có mấy sợi dây thép dằng qua lại giữa hai cây sắt đã gỉ cùn đầu. Cây bìm bìm tha hồ thả dây leo và đang kết thành một hàng rào lá chạm lọng khá dày. Quái lạ, một hàng rào sắt bao quanh một nền nhà đất sét! Thật là một chuyện lạ ra ngoài tưởng tượng. Hay đây là bãi chiến trường xưa...?
Tôi đang phân vân muốn biết chuyện hàng rào sắt thì một bà lão thấy chúng tôi ngồi ăn, liền đến đứng xem. Và cũng nhờ bà ta, chúng tôi mới biết câu chuyện sau đây:
"Xóm Bình Lư hồi ấy có độ trên mười nóc nhà. Xóm ấy thuộc về làng Thanh Mỹ Thượng. Họ chuyên nghề vào rừng đốn củi hay đi săn. Cách sinh kế của lớp người này rất đơn giản. Rừng núi đã chu cấp cho họ gần hết vật liệu họ cần dùng. Thiếu gạo đã có ruộng rừng, họ ra công cày cấy lấy.
Ðồ ăn phần nhiều là thịt hươu nai ướp muối hay ép thật khô. Thỉnh thoảng họ mới xuống chợ bán củi để mua ít thức cần, phần nhiều là vải, muối hay diêm. Ðời họ ở xa cách thành thị, có tiền nhiều họ cũng không biết sắm thêm gì và không vượt ra khỏi cơm ngày hai bữa.
Hy vọng của họ cạn và gần, và nhờ thế rất dễ được mãn nguyện. Trong xóm ấy có hai vợ chồng bác Diệm nhà nghèo nhưng ở với làng nước rất thảo. Bác gái là người làng Ngô Xá ở Quảng Trị. Lấy nhau sáu năm bác gái sinh được một trai và một gái. Thấy trong nhà nhiều miệng ăn, muốn cho vợ con được no ấm, bác trai liền nghĩ cách vào núi tìm trầm.
Nhưng tìm trầm rất khó, không phải đôi ba ngày mà tìm ra được. Có khi phải đi đến hàng tuần hàng tháng. Rồi kết quả lắm lúc cũng chẳng ra gì. Ðó là chưa nói phải vào tận trong núi xanh và vượt qua nhiều cánh rừng nguy hiểm.
Muốn tránh tai họa, người đi tìm trầm phải ngậm ngải. Theo lắm người kể chuyện, ngải là một thứ củ cây do người Mọi ở Trường Sơn luyện rất công phu. Họ hấp củ cây ngải trong lò mật ong một tháng, để giữa dòng suối chảy một trăm ngày. Ðoạn phải đặt trong tay đủ năm người chết, và đeo trước ngực năm bà già trong đời giữ vẹn tiết trinh.
Vẫn chưa hết. Xong phải nhét vào trong cái giò heo để lừa cho hổ ăn. Nghĩa là nếu may thì ngải sẽ nằm trong bụng hổ. Ðoạn phải bẫy cho được con hổ ấy, rồi giết ngay và lấy ngải ra.
Ngải lúc ấy là một cái bùa thiêng có sức mạnh huyền bí. Ai ngậm nó mà đi vào rừng thì không ăn không uống cũng sống được. Và thú dữ dù đi sát bên cạnh cũng không thấy mình được. Nhưng hạn trong ba tháng mười ngày phải trở về nhà nhả ngải ra. Nếu không thì người ấy sẽ mọc lông, trổ vuốt, thêm nanh và hóa ra hổ thật.
Chuyện ngậm ngải tìm trầm, thổ dân ở các dảy núi miền Trung cho là rất thường. Cái mỉm cười ngờ vực đối với câu chuyện họ nói về sức phi thường của ngải sẽ quyến được cái quắc mắt giận dỗi hay cái trề môi ngạo nghễ của họ ngay vì họ quá tin đến dám xem thường tất cả người nào không chịu tin như họ, nghĩa là không hiểu rõ sức uy hùng bí mật của rừng thẳm núi cao.
Bác Diệm trai vào rừng đã gần ba tháng nhưng vẫn chưa thấy ra. Bác gái ngày nào cũng nhìn vào núi Truồi để chờ tin tức. Có lẽ chỉ lần này bác trai mới vào rừng lâu nhất. Mấy lần trước bác chỉ đi trong một vài tháng là nhiều.
Bác gái ngày đêm lo sợ nhưng cũng không biết làm sao được. Bác liền đi hỏi thăm mấy nhà hàng xóm. Có người an ủi lấy cớ bác Diệm rất thông minh, thế nào bác cũng nhớ về nhà đúng kỳ hạn. Lắm người bông đùa một cách quái ác, là nói bác đã vào tận Bình Ðịnh, Quy Nhơn, rồi lấy vợ bé trong ấy rồi. Bác Diệm gái vẫn trông mong chồng và đêm nào cũng ra phía sau nhà nhìn về phía dãy Trường Sơn bát ngát.
Nhưng dãy núi thì cao và hùng vĩ quá, không thể đem lại sự yên lành trong tâm hồn chất phác của cô gái quê được. Ba tháng mười ngày đã qua từ lâu. Bác Diệm gái lại càng lo sợ hơn nữa. Ðêm nào bác cũng ra đứng giữa sân thẫn thờ nhìn về dãy núi, rồi đến đêm khuya bác với trở vào nhà ngồi khóc rấm rứt.
Ngày tháng cứ lặng lẽ trôi, rất nặng nề trong lòng người mong đợi. Rồi giữa một đêm trăng mờ cuối thu, Bác Diệm gái bỗng nghe tiếng rú xa xa, đứt quãng rồi kéo dài rất ảo não. Bác Diệm tung chiếu chạy ra sau nhà, tim đập mạnh và tay chân run lập cập.
Phía xa trên một đồi nhỏ, lọt trong rặng thông lơ thơ, một bóng người đang nhìn về xóm Bình Lư đã từ lâu im lìm trong đêm vắng. Tuy chưa nhận rõ là ai, linh tính đã báo cho bác biết đó là chồng bác, bác Diệm trai. Rồi không suy tính, bác đâm đầu chạy ra, lòng mừng khấp khởi.
Nhưng mới chạy được một quãng ngắn, bác đã lạnh người đứng dừng lại. Một tiếng rú nghe lạnh và uất như một người câm cố thét lên để nói được tiếng của loài người. Tuy sợ nhưng lòng bác Diệm gái thương chồng mạnh hơn. Bác gắng sức chạy đến chân đồi, cái bóng đen liền chờn vờn đi lại phía bác, hai tay thả lỏng, đầu gật gù lưng cúi lom khom.
ánh trăng thu giây bụi vàng nhạt trên mớ tóc dài đen nháy của con người kỳ dị lại làm bác gái giật mình, muốn đứng lại ngay. Giữa lúc ấy bác nhận thấy một manh áo nâu đã rách tươm còn vướng trên cổ người ấy...
Thôi rồi! Chồng bác đã gần hóa hổ, bác run sợ và bồi hồi... Nhưng bác cũng cố đứng nhìn và đợi. Cái bóng đen vừa tiến đến vừa rên hừ hừ, như bị ngạt trong cổ. Lúc thoáng thấy cặp mắt chồng đã tròn xoe và hoe sáng như lửa, cằm đã mọc râu dài và thưa, bác Diệm gái liền đi thụt lùi rất gấp. Nhưng bác vấp phải một cành cây nằm ngang ở phía sau. Bác thét lên một tiếng rồi ngã nhào chết ngất.
Sáng hôm sau, lúc bừng mắt tỉnh dậy, bác Diệm gái thấy mình đang nằm trên giường nhà. Hỏi mấy người đến thăm, bác mới biết tiếng rú đêm qua, dân xóm đều nghe rõ ràng cả. Họ cũng lần ra phía đồi để xem thì gặp lúc bác nằm chết ngất trên cành cây khô. Mấy người khiêng bác về nhà. Còn những người bạo dạn thì lấy roi hèo đánh đuổi con người quái lạ kia đi. Nghe đến đấy bác Diệm gái mở lớn đôi mắt, băn khoăn hỏi:
- Dân xóm có đánh người ấy à?
Một ông lão đáp:
- Không, chỉ doạ thôi. Thật ra cũng không ai dám đến gần hắn.
Bác gái nói thầm như để một mình nghe:
- Chồng tôi đó!
Nói xong bác ứa nước mắt thở dài một cách ngao ngán. Luôn mấy đêm sau, bác Diệm gái ra sau nhà đứng nhìn về phía mấy ngọn đồi nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng chồng đâu nữa. Bác lại trở vào nhà âm thầm nằm đợi nghe tiếng rú.
Qua tháng sau, một buổi chiều bác xuống chợ Truồi mua gạo thì bác trai mon men vào nhà. Bác đem theo một buồng chuối hoang và mấy trái cam dại. Hai đứa con mới nhận thấy bác đã khóc vang lên. Bác lo sợ cúi gầm đầu xuống và đưa cam chuối cho chúng ăn. Chúng thấy người ấy không làm gì hại và còn cho ăn tử tế thì ngồi yên lặng ngay.
Bác Diệm trai muốn vuốt ve con, nhưng tay bác sờ đến đâu áo quần của hai đứa nhỏ rách toang đến đấy. Thì ra móng tay bác đã sắc và nhọn lắm rồi. Thừa lúc đứa con trai quay mặt nhìn ra sân, bác Diệm liền thè lưỡi liếm đầu nó. Bác muốn tỏ vẻ yêu mến con, lòng bác còn là lòng người, nhưng chao ôi cử chỉ của bác đã nhuộm đầy vẻ thú.
Lưỡi bác đã rám và sắc hơn dao rồi. Chỉ đưa đi đưa lại mấy cái tóc đứa con đã rụng tua tủa. Hai đứa con sợ quá liền bỏ chạy ra sân la lớn. Cũng ngay lúc ấy bác Diệm gái đi chợ về. Thấy chồng lông đầy người và màu lông đã hơi vàng, hai tay trước thòng gần chấm đất và nanh trắng nhe ra ngoài môi, bác Diệm gái cũng hoảng hốt la tiếp.
Nghe tiếng ồn ào, dân quanh xóm liền chạy đến và đuổi con vật nửa người nửa thú chạy bán sống bán chết vào rừng. Muốn che chở người cô quả, dân xóm Bình Lư xuống xin mấy người làm đường xe lửa ở gần ga Truồi một chục thanh sắt và mấy sải dây thép về làm một cái hàng rào vây quanh nhà bác Diệm gái.
Từ đó bác Diệm trai không dám bén chân về nhà nữa. Nhưng qua mùa xuân sau cũng một đêm trăng mờ như bảy tháng trước, bác Diệm gái lại nghe tiếng rú kinh hồn trên đồi thông vắng. Bác liền vội vã chạy ra sau nhà.
Trong bầu ánh sáng nhạt nhuộm sương khuya, bác Diệm thấy một bóng người, không, một con vật thì đúng hơn chụm mạnh bốn chân xuống đất, ngẩng đầu lên cao đang đăm đăm nhìn về phía bác.
Thôi thế là hết! Chồng bác đã hoàn toàn hóa hổ... Bác ôm mặt khóc rất thê thảm. Con hổ cũng rú lên một hơi dài như để đáp lại tiếng lòng của vợ. Tiếng rú nghe lạnh và buồn.
Ðoạn con vật quay mình lẳng lặng đi vào phía núi Truồi, rồi biến dần trong ánh trăng xanh nhạt. Dãy núi Truồi từ đó đã như một bức thành kiên cố chia đôi tình nhân loại với cảnh huyền bí của sơn lâm.
Thanh Tịnh
GIẢI MÃ "CỎN SỐT" THIÊN THẦN
Gần đây ở nhiều nước bùng nổ hiện tượng "nhìn thấy và gặp gỡ thiên thần". Không ít người cho rằng chính mình đã thấy thiên thần xuất hiện để mách bảo, cứu giúp ai đó trong lúc hoạn nạn...
Với những người “vô thần, vô thánh” thì việc gặp gỡ thiên thần nghe có vẻ khó tin hơn nhiều so với chuyện gặp người ngoài hành tinh. Tuy nhiên niềm tin về thần thánh đã có từ hàng nghìn năm trước. Trong mọi nền văn hóa đều tồn tại chuyện thần tiên.
Bằng chứng khảo cổ cho thấy, thiên thần xuất hiện lần đầu tiên vào thời Persia cổ đại. Hình người có đôi cánh được tìm thấy trên các món đồ gốm cổ ở trong hầm mộ Ai Cập.
Ngoài Kinh Thánh, thiên thần còn hiện diện trong các tài liệu của người Do Thái được viết vào khoảng năm hai trăm trước Công nguyên. Đó là những câu chuyện về cuộc chiến dữ dội giữa các vị thần tốt và các vị thần xấu.
Các vị thần đang có chiều hướng hồi sinh trong xã hội hiện đại. Theo thống kê xã hội học, có đến gần một nửa dân số nước Anh tin vào thiên thần. Nhiều người kể rằng chính mắt họ đã nhìn thấy và thiên thần còn chạm vào mình, thậm chí mách bảo đôi điều.
Một trong những show truyền hình ăn khách nhất ở Mỹ có tên là "Touched by an Angel" (được thiên thần chạm đến). Hầu như mọi tôn giáo và nền văn hóa trên thế giới đều cùng chia sẻ ý niệm thiên thần. Nhiều người xem thiên thần là thần hộ vệ cho họ, được bề trên phái xuống.
Tim Crane, một doanh nhân ba mươi bốn, tuổi ở Guildford Anh, kể lại chuyện anh được một thiên thần cứu mạng:
- Chúng tôi chuẩn bị băng qua một con đường đông xe cộ ở London. Tôi nhìn về phía trái và không trông thấy xe, thế là cùng bạn gái qua đường. Đột nhiên một bàn tay đặt lên vai phải của tôi và kéo tôi ngược trở lại. Đúng lúc ấy một chiếc xe buýt lao tới chỉ cách Crane vài bước. Anh chưa kịp định thần thì bạn gái anh đã la hoảng lên vì sợ. Sau đó cô ấy cho biết, không phải cô ấy kéo tôi lại, trong khi không có một ai khác ở đấy nữa cả". Anh kể tiếp.
Crane thừa nhận là không thể chứng minh sự việc, nhưng sự kiện ấy đã làm thay đổi thái độ của anh đối với cuộc sống:
- "Cuộc sống có nhiều điều kỳ diệu hơn là bạn tưởng”.
David Beckham, tiền vệ bóng đá nổi tiếng người Anh còn nổi tiếng với ba hình xâm cầu kỳ hình ảnh thiên thần hộ mệnh trên cơ thể, hai hình ở vai và một hình lớn ở lưng.
Để có được những hình xăm ấy, David đã phải bỏ ra hàng núi tiền thuê chuyên gia. Ngôi sao bóng đá này cho biết:
"Các thiên thần hộ mệnh sẽ giúp tôi vững tin hơn. Điều quan trọng nữa là sẽ giúp tôi tránh khỏi mọi rắc rối ưu phiền".
Theo tiến sĩ Mike Loui giáo sư tâm lý tại Đại học Nene ở Northampton Anh, có một số giả thuyết giải thích hiện tượng trên như hoạt động của não bộ, ý muốn hoàn thành công việc hay sự thay đổi hóa chất của não. Tuy nhiên chưa giả thiết nào được chứng minh tính đúng đắn.
Loui cho rằng người ta mô tả những gì xảy đến trong não họ, một khi không có hình ảnh làm bằng chứng. Điều này cũng xảy ra ở những lần gặp gỡ thiên thần trong Kinh Thánh:
Thường thì chỉ một người nghe thấy giọng nói vọng xuống từ thiên đàng. Những người ấy sau này may mắn trở thành nhà tiên tri. Loui khẳng định:
- Nếu bạn muốn tin vào thiên thần thì bạn sẽ tin. Và bạn sẽ ngạc nhiên về việc đi tìm lời giải thích ở đâu, như thế nào...
Đối với tiến sĩ Mike Money, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu sức khỏe thuộc Đại học John Moores, Liverpool Anh, thì tôn giáo và ngay cả khoa học cũng chưa làm thỏa mãn hết trí tò mò của loài người.
Nhiều bộ phim và các show truyền hình đề cập đến chuyện thiên thần, đã đẩy lùi biên giới bó hẹp của niềm tin vào thiên thần, nhờ vậy thiên thần có chỗ đứng trong nhận thức của nhiều người.
Con người luôn cần có điều gì đó để đặt niềm tin, nhưng tại sao đó cứ phải là các thiên thần? Tiến sĩ Money cho là con người có cùng chung một sự vô thức qua quá trình thu nhận các "kiểu mẫu thần thánh" trong chuyện cổ tích và tôn giáo.
Bất cứ ai sinh ra và lớn lên, hấp thu nền văn hóa của một quốc gia nào đó đều từng biết qua về các bà tiên hiền dịu, hiệp sĩ trẻ tài ba hay những thiên thần huyền ảo. Mỗi khi cần đến sự lý giải, vô thức đưa chúng ta tìm đến các kiểu mẫu thiên thần đã định hình trong ta từ tấm bé.
Đặc biệt trong xã hội hiện đại, các phương tiện truyền thông là một nhân tố có ảnh hưởng mạnh. Sống trong một xã hội giữa những niềm tin và sự chờ đợi, con người dễ dàng "biên dịch" một kích thích mơ hồ thành cuộc gặp gỡ với thiên thần.
Chẳng hạn bạn nghĩ là có ai đó ở sau lưng mình, bạn quay lại và không thấy ai cả. Có người phớt lờ đi, có người lại "biên dịch" tình huống đó là có thiên thần xuất hiện. Vấn đề là cách hiểu và định danh của con người đối với sự kiện.
Vậy một số nhân chứng khăng khăng là đã tận mắt trông thấy thiên thần thì sao? Khoa học vẫn chưa làm sáng tỏ được vấn đề này vì chưa có đủ công cụ và thiết bị để hiểu hết các trường năng lượng của con người.
Tiến sĩ William Bloom giáo sư tâm lý xã hội học, tại Đại học kinh tế London cho biết:
- Mọi vật trong cuộc sống dù là một tia nắng, một hòn đá hay một sinh vật về cơ bản đều là một dạng của năng lượng. Vật lý học hiện đại đã chứng minh điều đó. Có một sự liên lạc, nối kết giữa vật chất, năng lượng và nhận thức.
Theo sự lý giải của tiến sĩ Bloom, thiên thần cũng là một dạng năng lượng và nó có tác động lên trái tim, nhận thức, cảm giác của con người.
Do đó gặp gỡ thần thánh có thể là sự đón nhận các trường năng lượng, não sẽ ghi nhận và chuyển sự đón nhận ấy thành cảm giác thể chất. Ông Bloom nói:
- Đôi khi não chuyển thành hình ảnh, đôi khi lại là âm thanh hay mùi vị nhưng đa số đều sẽ cảm nhận thấy nó giống như ta nhận ra sự thay đổi nhiệt độ vậy. Và những cảm nhận ấy nhiều khi được xem là sự xuất hiện của thiên thần.
ST
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Suy nghĩ với hỗn hợp nhiều môn huyền học cho lá số VNXHCN |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
|
|
Dự đoán phối hợp nhiều môn huyền học cho chính trị & kinh tế thế giới |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
|
|
Huyền Cơ Phú - 玄機賦 - Ode to Mysticism - Huyền Không Tứ Bộ |
Địa Lý Phong Thủy | QuanLySo |
|
||
những góc nhìn khác nhau về chuyện cưới xin, xung - hợp vợ chồng |
Tử Bình | hieuthuyloi |
|
||
Kho ebook 1000 cuốn sách huyền học pdf |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | QuanLySo |
|
||
Văn khấn cổ truyền Việt Nam |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | danhkiem |
|
31 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 31 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |