1
Truyện ngắn huyền bí - hiendde
Viết bởi Manager, 05/06/11 02:02
1072 replies to this topic
#46
Gửi vào 15/06/2011 - 00:18
BÀI HÁT CHẾT NGƯỜI
Có thể nào một bài hát làm cho người nghe nó phải chết không? Nghe có vẻ phi lý nhưng đó là sự thật đối với một bài hát mang tên Gloomy Sunday. "Gloomy Sunday" là tên của một bài hát kể về một tình yêu đã mất. Thật đúng như tựa đề của nó bài hát được viết vào một ngày Chúa Nhật thật ảm đạm, của tháng mười hai năm 1932, bởi một nhà soạn nhạc tên là Reszo Seress.
Reszo thường nằm nguyên ngày trong căn phòng của mình ở thủ đô Paris. Người phụ nữ anh yêu vừa cự tuyệt tình yêu cao thượng của anh. Reszo luôn luôn tôn thờ tình yêu của mình, nên vì vậy anh đã phải đau khổ thật nhiều, khi tình yêu của anh bị từ chối. Trong nỗi thất vọng anh đã sáng tác ra bài hát sầu thảm nhất trong đời. Khi bài nhạc được hoàn thành, Reszo cảm thấy nhẹ nhàng hơn đôi chút trong lòng.
Tuy nó không bù vào nỗi mất mát tình yêu to lớn kia, nhưng bài hát của anh ta thật hay đủ hay, để được đưa vào dĩa nhạc thời bấy giờ. Khi Reszo cố gắng bán "Gloomy Sunday", thoạt đầu anh đã gặp nhiều khó khăn khi tìm người tiêu thụ. Các nhà sản xuất dĩa nhạc cho rằng, bài hát nghe rất lạ và quá buồn thảm để trở thành dĩa nhạc có giá trị. Một nhà sản xuất đã viết rằng:
"Có cả một mối tuyệt vọng bị cưỡng ép thật kinh khủng trong bài hát ấy. Tôi không nghĩ rằng nó sẽ đem lại điều gì hay ho, cho người nào nghe bài hát ấy."
Nhưng không vì thế mà Reszo ngừng cố gắng để tìm mối tiêu thụ. Cuối cùng anh ta đã tìm được một nhà sản xuất chịu phát hành nhạc của anh. Khi bài hát được tung ra thị trường, cũng là lúc nhiều sự việc lạ lùng bắt đầu xảy ra. Một người đàn ông đang ngồi trong một quán café đông đúc tại Budapest đòi ban nhạc chơi bản "Gloomy Sunday."
Người đàn ông ngồi tại bàn ông ta vừa nhấp rượu champagne vừa lắng nghe bài nhạc. Khi bản nhạc chấm dứt người đàn ông trả tiền rời khỏi quán, và vẫy chiếc xe taxi. Vừa ngồi vào trong xe ông ta liền lôi ra khẩu súng ra và tự kết liễu đời mình. Vài ngày sau đó một cô gái bán hàng thật trẻ đã tự treo cổ tại Berlin. Nằm phía dưới chân của cô gái là tờ nhạc của bài "Gloomy Sunday".
Một cô thư ký xinh đẹp tại New York tự tử trong căn apartment bằng hơi gaz, đã để lại một mẩu giấy nhỏ xin yêu cầu bản nhạc "Gloomy Sunday" được chơi vào buổi lễ an táng cô. Khắp thế giới có nhiều bài tường trình về những cái chết liên quan đến bài hát ấy. Ca sĩ chết trong lúc hát. Người ta chết trong lúc nghe.
Cuối cùng thì công ty truyền thông Anh Quốc phải cấm hẳn bài "Gloomy Sunday" vào những buổi phát thanh thường lệ trên làn sóng. Công ty này không thể làm ngơ trước những lời phiền hà đến từ bài hát ấy. Nhiều hệ thống viễn thông Hoa Kỳ cũng nhanh chóng làm giống vậy. Mười lăm quốc gia khác đã đâm đơn kiện bài hát.
Các luật sư quanh thế giới đã tranh luận rằng người soạn nhạc của bài hát, có nên chịu trách nhiệm cho hàng loạt cái chết là hậu quả của sự sáng tạo của anh ta hay không. Nhưng khi các đài radio cố gắng hủy bỏ bài hát thì nó càng trở nên phổ biến hơn. Người ta còn cảm thấy hào hứng hơn khi nghe bài hát "tự tử" này (suicide song).
Bài hát dường như ảnh hưởng mọi người, không phân biệt gì đến tuổi tác hay tầng lớp. Một người đàn ông tám mươi tuổi tự hủy diệt đời mình, bằng cách nhảy từ cánh cửa sổ lầu bảy xuống trong khi bài nhạc đang hát. Một cô gái mười bốn tuổi chết đuối khi trong tay còn cầm một bản copy của bài "Gloomy Sunday".
Một nạn nhân trẻ tuổi khác một cậu bé sai vặt người Ý, đang đi ngang một người ăn xin trên lề đường đang hát bản nhạc "Gloomy Sunday", đột nhiên dừng lại để chiếc xe đạp của cậu sang một bên, tiến dần đến chỗ người ăn xin và cho ông ta hết số tiền mà cậu đang có. Sau đó chẳng một lời nào cậu bé đi đến một cây cầu gần đấy, và tự nhảy xuống tìm lấy cái chết.
Báo chí lượm lặt hết tất cả những câu chuyện và gửi phóng viên đến phỏng vấn Reszo, và hỏi anh ta nghĩ gì về điều ấy. Nhưng Reszo cũng bàng hoàng như bao người khác. Anh ta cũng chẳng hiểu vì sao bài hát của mình, đã gây ra nhiều điều bất thường đến vậy. Từ đó người soạn nhạc dường như bị truyền nhiễm những điều bất lành theo sau bài nhạc, bất cứ khi nào và nơi đâu khi bản nhạc được chơi lên.
Khi bài "Gloomy Sunday" trở thành "top hit" trong tuần, Reszo đã viết một lá thư gửi cho người yêu cũ của chàng, và xin thêm một cơ hội nữa để nối lại mối duyên xưa. Ngày hôm sau người ta tìm thấy thi hài của cô gái trẻ, đã chết vì uống thuốc quá liều lượng. Bên cạnh cô ta là tờ giấy với nét chữ nguệch ngoạc trên ấy, nhưng còn có thể đọc được. Đó là tên của bài nhạc "Gloomy Sunday".
Đến lúc này thì Reszo chẳng còn nghi ngờ gì về bài hát mang đầy tính nguyền rủa của chính mình. Lần đầu tiên trong đời, Reszo cố gắng thu hồi lại bài nhạc để nó khỏi bị lan ra nhiều thêm. Nhưng tất cả mọi nổ lực của anh đều không thành. Bài hát càng bị cấm nó lại càng trở nên phổ biến hơn. Những bản copy lậu được bày bán trên đường phố như một loại trái cấm.
Trong mỗi quốc gia số người chết lại càng gia tăng. Bài hát đã đem lại nhiều lời đồn đãi chết người, đến nỗi các nhạc sĩ không dám chơi bài ấy, hay thậm chí các ca sĩ cũng sợ không dám hát. Thời gian trôi qua. Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, và người ta cũng bắt đầu quên đi bài hát ấy. Dần dần cơn sốt bài hát được lắng dịu xuống.
Vào thời điểm này Cơ Quan Truyền Thông Anh Quốc quyết định nới lỏng lệnh cấm bài hát. Đài BBC cho phát thanh "Gloomy Sunday" trên làn sóng điện, nhưng bấy giờ bài nhạc chỉ còn là một hợp tấu khúc (orchestral piece). Từ ấy bài hát được sửa lại theo lối hoà âm hợp khúc này. Cũng bài nhạc được sửa lại theo kiểu version mới này, được phát ra và cứ lập đi lập lại hàng giờ trong một căn apartment nhỏ.
Người cảnh sát đi tuần gần đấy, cứ phải nghe mãi một bài hát và lấy làm lạ. Tiếng âm nhạc phát ra từ cánh cửa sổ của một hộ apartment, trên con phố mà người cảnh sát tuần tiểu. Cảm thấy lạ vì người nào có thể nghe mãi một bài hát, cứ hát đi hát lại mãi thật nhiều lần mà không ngừng nghỉ, người cảnh sát cuối cùng quyết định điều tra. Khi viên cảnh sát bước vào căn nhà, "Gloomy Sunday" đang được hát trên dàn máy hát xoay tròn tự động. Thân thể của một thiếu phụ đang nằm cạnh chiếc bàn, nơi để chiếc máy hát đang chạy. Người thiếu phụ đã chết với một liều thuốc ngủ cực mạnh.
Đây mới chỉ là một bắt đầu của hàng loạt cuộc tự tử khác nối tiếp. Một lần nữa Cơ Quan Truyền Thông Anh Quốc phải ra cấm lệnh đối với bài hát. Giờ đây thì Reszo Seress đã trở thành một người luôn bị ám ảnh, bởi những cái chết do bài hát của anh ta gây nên. Có hơn trăm người chết sau khi nghe bài hát "Gloomy Sunday".
Bài hát vẫn có thể được nghe từ thời này sang thời khác. Gần đây số tường trình về những cái chết liên quan đến bài hát ấy không còn nữa. Có lẽ lời nguyền năm xưa đã hết linh nghiệm chăng? Có thể là vậy. Nhưng nếu bạn đang ở trong một quán bar nào đó, và khi nghe người disc jockey bảo rằng, bài nhạc cũ kỳ lạ "Gloomy Sunday" sắp được chơi, tôi thành thật khuyên bạn nên bước ra ngoài, và tham gia những trò chơi khác thì tốt hơn.
ST
Có thể nào một bài hát làm cho người nghe nó phải chết không? Nghe có vẻ phi lý nhưng đó là sự thật đối với một bài hát mang tên Gloomy Sunday. "Gloomy Sunday" là tên của một bài hát kể về một tình yêu đã mất. Thật đúng như tựa đề của nó bài hát được viết vào một ngày Chúa Nhật thật ảm đạm, của tháng mười hai năm 1932, bởi một nhà soạn nhạc tên là Reszo Seress.
Reszo thường nằm nguyên ngày trong căn phòng của mình ở thủ đô Paris. Người phụ nữ anh yêu vừa cự tuyệt tình yêu cao thượng của anh. Reszo luôn luôn tôn thờ tình yêu của mình, nên vì vậy anh đã phải đau khổ thật nhiều, khi tình yêu của anh bị từ chối. Trong nỗi thất vọng anh đã sáng tác ra bài hát sầu thảm nhất trong đời. Khi bài nhạc được hoàn thành, Reszo cảm thấy nhẹ nhàng hơn đôi chút trong lòng.
Tuy nó không bù vào nỗi mất mát tình yêu to lớn kia, nhưng bài hát của anh ta thật hay đủ hay, để được đưa vào dĩa nhạc thời bấy giờ. Khi Reszo cố gắng bán "Gloomy Sunday", thoạt đầu anh đã gặp nhiều khó khăn khi tìm người tiêu thụ. Các nhà sản xuất dĩa nhạc cho rằng, bài hát nghe rất lạ và quá buồn thảm để trở thành dĩa nhạc có giá trị. Một nhà sản xuất đã viết rằng:
"Có cả một mối tuyệt vọng bị cưỡng ép thật kinh khủng trong bài hát ấy. Tôi không nghĩ rằng nó sẽ đem lại điều gì hay ho, cho người nào nghe bài hát ấy."
Nhưng không vì thế mà Reszo ngừng cố gắng để tìm mối tiêu thụ. Cuối cùng anh ta đã tìm được một nhà sản xuất chịu phát hành nhạc của anh. Khi bài hát được tung ra thị trường, cũng là lúc nhiều sự việc lạ lùng bắt đầu xảy ra. Một người đàn ông đang ngồi trong một quán café đông đúc tại Budapest đòi ban nhạc chơi bản "Gloomy Sunday."
Người đàn ông ngồi tại bàn ông ta vừa nhấp rượu champagne vừa lắng nghe bài nhạc. Khi bản nhạc chấm dứt người đàn ông trả tiền rời khỏi quán, và vẫy chiếc xe taxi. Vừa ngồi vào trong xe ông ta liền lôi ra khẩu súng ra và tự kết liễu đời mình. Vài ngày sau đó một cô gái bán hàng thật trẻ đã tự treo cổ tại Berlin. Nằm phía dưới chân của cô gái là tờ nhạc của bài "Gloomy Sunday".
Một cô thư ký xinh đẹp tại New York tự tử trong căn apartment bằng hơi gaz, đã để lại một mẩu giấy nhỏ xin yêu cầu bản nhạc "Gloomy Sunday" được chơi vào buổi lễ an táng cô. Khắp thế giới có nhiều bài tường trình về những cái chết liên quan đến bài hát ấy. Ca sĩ chết trong lúc hát. Người ta chết trong lúc nghe.
Cuối cùng thì công ty truyền thông Anh Quốc phải cấm hẳn bài "Gloomy Sunday" vào những buổi phát thanh thường lệ trên làn sóng. Công ty này không thể làm ngơ trước những lời phiền hà đến từ bài hát ấy. Nhiều hệ thống viễn thông Hoa Kỳ cũng nhanh chóng làm giống vậy. Mười lăm quốc gia khác đã đâm đơn kiện bài hát.
Các luật sư quanh thế giới đã tranh luận rằng người soạn nhạc của bài hát, có nên chịu trách nhiệm cho hàng loạt cái chết là hậu quả của sự sáng tạo của anh ta hay không. Nhưng khi các đài radio cố gắng hủy bỏ bài hát thì nó càng trở nên phổ biến hơn. Người ta còn cảm thấy hào hứng hơn khi nghe bài hát "tự tử" này (suicide song).
Bài hát dường như ảnh hưởng mọi người, không phân biệt gì đến tuổi tác hay tầng lớp. Một người đàn ông tám mươi tuổi tự hủy diệt đời mình, bằng cách nhảy từ cánh cửa sổ lầu bảy xuống trong khi bài nhạc đang hát. Một cô gái mười bốn tuổi chết đuối khi trong tay còn cầm một bản copy của bài "Gloomy Sunday".
Một nạn nhân trẻ tuổi khác một cậu bé sai vặt người Ý, đang đi ngang một người ăn xin trên lề đường đang hát bản nhạc "Gloomy Sunday", đột nhiên dừng lại để chiếc xe đạp của cậu sang một bên, tiến dần đến chỗ người ăn xin và cho ông ta hết số tiền mà cậu đang có. Sau đó chẳng một lời nào cậu bé đi đến một cây cầu gần đấy, và tự nhảy xuống tìm lấy cái chết.
Báo chí lượm lặt hết tất cả những câu chuyện và gửi phóng viên đến phỏng vấn Reszo, và hỏi anh ta nghĩ gì về điều ấy. Nhưng Reszo cũng bàng hoàng như bao người khác. Anh ta cũng chẳng hiểu vì sao bài hát của mình, đã gây ra nhiều điều bất thường đến vậy. Từ đó người soạn nhạc dường như bị truyền nhiễm những điều bất lành theo sau bài nhạc, bất cứ khi nào và nơi đâu khi bản nhạc được chơi lên.
Khi bài "Gloomy Sunday" trở thành "top hit" trong tuần, Reszo đã viết một lá thư gửi cho người yêu cũ của chàng, và xin thêm một cơ hội nữa để nối lại mối duyên xưa. Ngày hôm sau người ta tìm thấy thi hài của cô gái trẻ, đã chết vì uống thuốc quá liều lượng. Bên cạnh cô ta là tờ giấy với nét chữ nguệch ngoạc trên ấy, nhưng còn có thể đọc được. Đó là tên của bài nhạc "Gloomy Sunday".
Đến lúc này thì Reszo chẳng còn nghi ngờ gì về bài hát mang đầy tính nguyền rủa của chính mình. Lần đầu tiên trong đời, Reszo cố gắng thu hồi lại bài nhạc để nó khỏi bị lan ra nhiều thêm. Nhưng tất cả mọi nổ lực của anh đều không thành. Bài hát càng bị cấm nó lại càng trở nên phổ biến hơn. Những bản copy lậu được bày bán trên đường phố như một loại trái cấm.
Trong mỗi quốc gia số người chết lại càng gia tăng. Bài hát đã đem lại nhiều lời đồn đãi chết người, đến nỗi các nhạc sĩ không dám chơi bài ấy, hay thậm chí các ca sĩ cũng sợ không dám hát. Thời gian trôi qua. Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, và người ta cũng bắt đầu quên đi bài hát ấy. Dần dần cơn sốt bài hát được lắng dịu xuống.
Vào thời điểm này Cơ Quan Truyền Thông Anh Quốc quyết định nới lỏng lệnh cấm bài hát. Đài BBC cho phát thanh "Gloomy Sunday" trên làn sóng điện, nhưng bấy giờ bài nhạc chỉ còn là một hợp tấu khúc (orchestral piece). Từ ấy bài hát được sửa lại theo lối hoà âm hợp khúc này. Cũng bài nhạc được sửa lại theo kiểu version mới này, được phát ra và cứ lập đi lập lại hàng giờ trong một căn apartment nhỏ.
Người cảnh sát đi tuần gần đấy, cứ phải nghe mãi một bài hát và lấy làm lạ. Tiếng âm nhạc phát ra từ cánh cửa sổ của một hộ apartment, trên con phố mà người cảnh sát tuần tiểu. Cảm thấy lạ vì người nào có thể nghe mãi một bài hát, cứ hát đi hát lại mãi thật nhiều lần mà không ngừng nghỉ, người cảnh sát cuối cùng quyết định điều tra. Khi viên cảnh sát bước vào căn nhà, "Gloomy Sunday" đang được hát trên dàn máy hát xoay tròn tự động. Thân thể của một thiếu phụ đang nằm cạnh chiếc bàn, nơi để chiếc máy hát đang chạy. Người thiếu phụ đã chết với một liều thuốc ngủ cực mạnh.
Đây mới chỉ là một bắt đầu của hàng loạt cuộc tự tử khác nối tiếp. Một lần nữa Cơ Quan Truyền Thông Anh Quốc phải ra cấm lệnh đối với bài hát. Giờ đây thì Reszo Seress đã trở thành một người luôn bị ám ảnh, bởi những cái chết do bài hát của anh ta gây nên. Có hơn trăm người chết sau khi nghe bài hát "Gloomy Sunday".
Bài hát vẫn có thể được nghe từ thời này sang thời khác. Gần đây số tường trình về những cái chết liên quan đến bài hát ấy không còn nữa. Có lẽ lời nguyền năm xưa đã hết linh nghiệm chăng? Có thể là vậy. Nhưng nếu bạn đang ở trong một quán bar nào đó, và khi nghe người disc jockey bảo rằng, bài nhạc cũ kỳ lạ "Gloomy Sunday" sắp được chơi, tôi thành thật khuyên bạn nên bước ra ngoài, và tham gia những trò chơi khác thì tốt hơn.
ST
Thanked by 1 Member:
|
|
#47
Gửi vào 15/06/2011 - 00:30
CĂN NHÀ NGÀI THẨM PHÁN
Ðó là vào tháng tư khi John Moore đang học để chuẩn bị cho một kỳ thi quan trọng, khi ngày thi gần kề cậu quyết định đến một nơi nào đó, và tự học một mình. Cậu không thích sự náo nhiệt ở bãi biển, hay những cảnh đẹp ở miền quê, cậu muốn tìm một thành phố nhỏ yên tĩnh bình thường, và học mà không bị quấy rầy. Cậu chuẩn bị hành trang với quần áo và sách vở, sau đó cậu tìm kiếm trên bảng thời gian biểu ở trạm xe lửa, một thành phố mà mình chưa hề biết, cậu tìm thấy một nơi và rồi mua vé đi đến đấy, cậu không nói với ai mình đi đâu, tất cả chỉ vì cậu không muốn bị quấy nhiễu.
Ðấy là nguyên do đưa Moore đến Benchurch, đó là một phố thương mại và một tuần một lần lại nhộn nhịp trong vài tiếng. Những lúc còn lại thì hoàn toàn yên tĩnh một nơi gần như thiếp ngủ. Moore nghỉ đêm đầu tiên ở khách sạn duy nhất trong thành phố, bà chủ rất tốt bụng nhưng khách sạn thì không thực sự đủ yên lặng với cậu ta, ngày thứ hai cậu bắt đầu tìm thuê một căn nhà. Chỉ có duy nhất một chỗ khiến cậu hài lòng, nó tĩnh mịch hơn nhiều đã bị bỏ hoang và rất vắng vẻ, là một ngôi nhà cổ to lớn kiến trúc theo kiểu thế kỷ XVII, có những cửa sổ nhỏ giống như nhà tù, và bức tường gạch cao bao quanh.
Không thể tưởng tượng ra được chỗ nào buồn tẻ hơn nơi này, nhưng nó lại hoàn toàn làm vừa lòng Moore, cậu đến gặp ngài luật sư trong vùng, người chịu trách nhiệm về ngôi nhà. Ông Carnford ngài luật sư rất sẵn lòng cho cậu thuê ngôi nhà.
- Tôi sẵn sàng cho cậu sử dụng nó miễn phí.
Ông nói :
- Chỉ để có người sống trong đó sau bao nhiêu năm nay, bị bỏ trống quá lâu đến nỗi người ta đã thêu dệt nhiều câu chuyện ngớ ngẩn về nó, cậu có thể chứng minh những câu chuyện đó không có thực.
Moore không nghĩ sẽ cần thiết để hỏi ngài luật sư thêm về những chi tiết, về những "câu chuyện ngớ ngẩn", cậu đồng ý thuê và ông Carnfold gửi đến cậu một người giúp việc già để phục vụ cậu, cậu ra khỏi văn phòng luật sư với chìa khóa nhà trong túi, sau đó cậu đến chỗ bà Wood bà chủ khách sạn.
- Tôi sẽ thuê một căn nhà trong vài tuần ! cậu nói, xin bà hãy chỉ giúp tôi công việc mua sắm, bà nghĩ tôi sẽ cần những gì ?
- Cậu sẽ ở đâu ? bà chủ hỏi.
Bà nắm tay lại trong sợ hãi.
- Không phải căn nhà của ông Thẩm phán chứ !
Bà nói và mặt bà biến sắc trong khi nói, cậu nhờ bà kể thêm nhiều điều về ngôi nhà.
- Tại sao nó lại được gọi là căn nhà của ngài Thẩm phán ? cậu hỏi.
- Và sao không ai chịu sống trong đó ?
- Ðược thôi cậu ạ, bà ta nói:
- Cách đây rất lâu tôi cũng không biết là bao lâu, có một ngài thẩm phán sống ở đó, ông ấy là một vị thẩm phán khó tính và độc ác, một vị thẩm phán đáng bị nguyền rủa, ông không bao giờ ban ơn cho ai, còn về chính căn nhà thì tôi không thể nói được, tôi thường hỏi nhưng không ai kể cho tôi nghe về nó.
Bà thấy khó để có thể giải thích, cảm giác của hầu hết những người trong thành phố, là có cái gì đó kỳ lạ trong căn nhà của ngài thẩm phán.
- Còn về riêng tôi, bà nói :
- Tôi sẽ không ở đấy một mình cho dù để nhận hết số tiền trong ngân hàng.
Sau đó bà chợt lộ vẻ hối hận.
- Tôi thật sự xin lỗi đã làm cậu lo lắng, nếu cậu là con trai tôi, thì tôi sẽ không để cậu ở lại đó một mình dù chỉ một đêm, tôi sẽ tự đi đến đó và tháo cái chuông báo động lớn trên mái nhà.
Moore biết ơn trước lòng tốt và sự lo lắng của bà ta.
- Bà thật tốt làm sao khi mãi lo lắng cho tôi thưa bà Wood ! cậu nói.
- Không có gì phải lo lắng cả tôi sẽ học ôn cho một kỳ thi quan trọng, nên cũng sẽ không có thì giờ để sợ hãi vì những điều bí ẩn.
Bà chủ vui lòng nhận lời mua sắm dùm cậu, sau đó Moore đến gặp người giúp việc già mà ông Carnford đã giới thiệu, bà ấy là bà Dempster và dường như bà rất sẵn lòng và hồ hỡi khi phục vụ ông chủ mới. Hai giờ sau khi cậu quay lại căn nhà của ông thẩm phán thì gặp bà Wood đang đợi bên ngoài, có nhiều người đi theo bà, vài người đàn ông và mấy cậu bé khuân những kiện hàng, và người khác khiêng một cái giường.
- Trong nhà có nhiều giường rồi mà ! Moore ngạc nhiên nói.
- Nhưng cũng không ai ngủ trên chúng trong hơn năm mươi năm nay, không cậu à tôi sẽ không để cậu gặp nguy hiểm, trên một chiếc giường cũ kỹ ẩm ướt.
Bà chủ thật sự tò mò muốn xem bên trong căn nhà, cùng lúc đó bà lại rất sợ, chỉ một tiếng động nhỏ cũng làm bà giữ chặt tay Moore, cùng nhau họ tham quan khắp ngôi nhà, sau cuộc thăm dò Moore quyết định ở trong phòng ăn. Nó đủ lớn để vừa làm việc vừa ngủ bà Wood và bà Dempster bắt đầu dọn dẹp các thứ, không lâu thì những gói hàng được mở ra. Moore thấy bà Wood đã mua nhiều món cần thiết, trước khi đi bà quay lại Moore và nói:
- Tôi hy vọng cậu sẽ không sao, nhưng tôi phải nói là tôi không thể ngủ ở đây, với tất cả những con ma này !
Khi bà ấy đi khỏi, bà Dempster cười.
- Những con ma à ! bà nói:
- Không có con ma nào cả ! Chỉ có lũ chuột và côn trùng và những cánh cửa cần bôi dầu, chỉ có những cánh cửa sổ đóng mở trong gió, cậu hãy nhìn vào bức tường bằng gỗ sồi của căn phòng này, chúng đã cũ đã trải qua hàng trăm năm. Cậu không nghĩ là có chuột và côn trùng bên trong gỗ à ? cậu sẽ thấy rất nhiều chuột ở đây nhưng không hề có con ma nào cả, tôi dám chắc như thế, nào bây giờ cậu hãy đi dạo một vòng cho thoải mái và khi cậu trở về, thì tôi đã dọn dẹp xong căn phòng này cho cậu.
Bà ta giữ lời khi Moore trở về, cậu thấy căn phòng thật sạch sẽ và ngăn nắp, một ngọn lửa đang cháy trong cái lò sưởi kiểu cổ, bà ta đã thắp đèn sáng và dọn bữa tối sẵn sàng trên bàn.
- Tạm biệt cậu bà nói :
- Bây giờ tôi phải đi về để chuẩn bị bữa tối cho chồng tôi, gặp cậu sáng mai.
- Thật tuyệt vời.
Moore nói thầm khi thưởng thức món ăn hấp dẫn của bà Dempster, khi cậu ăn xong thì cậu để chén dĩa về một phía bàn, cậu thêm củi vào lò sưởi và bắt đầu học. Moore miệt mài học cho đến khoảng mười một giờ khuya, cậu thêm củi vào lò và pha một bình trà, cậu cảm thấy rất thích thú, ngọn lửa cháy sáng ánh lửa nhảy múa trên những bức tường bằng gỗ cổ, tạo nên những hình thù quái dị xung quanh căn phòng. Trà thật tuyệt vời và không ai phá rối, sau đó lần đầu tiên cậu chú ý đến lũ chuột đang làm ồn như thế nào.
Có phải chúng đã làm ra tất cả những tiếng ồn trong khi mình đang học không ? cậu nghĩ, không mình không nghĩ là chúng, có lẽ vì chúng sợ mình khi mới gặp lần đầu, bây giờ thì chúng mạnh dạn hơn, chạy lại lung tung như bình thường. Chúng thật bận rộn làm sao và ồn ào không tưởng được. Chúng nhảy lên nhảy xuống bên trong những bức tường gỗ, trên trần nhà và dưới sàn nhà. Moore nhớ lời của bà Dempster :
- Cậu sẽ gặp nhiều chuột nhưng cậu sẽ không thấy bất kỳ con ma nào cả.
Cậu mỉm cười nói :
- Dù sao thì bà ta cũng nói đúng về lũ chuột.
Cậu mở đèn lên và nhìn quanh phòng.
- Thật lạ, cậu nói một mình, tại sao không ai muốn sống trong ngôi nhà cổ tuyệt đẹp này chứ ?
Những bức tường gỗ thật đẹp, có vài bức tranh trên tường phủ đầy bụi và cậu không nhìn rõ lắm, đây đó cậu thấy những cái lỗ nhỏ trên tường, một con chuột tò mò đang nhìn cậu chăm chú, và rồi nó chạy đi trong tiếng sột soạt chút chít. Tuy nhiên vật thu hút cậu nhất là sợi dây của cái chuông to lớn trên mái nhà, sợi dây thòng xuống một góc phòng bên phải lò sưởi, cậu tìm thấy một cái ghế gỗ lớn và căng sợi dây bên cạnh lò sưởi, cậu ngồi đấy và uống hết tách trà cuối cùng.
Tiếp theo cậu thêm nhiều gỗ hơn vào lò và ngồi tại bàn học tiếp, trong một lát lũ chuột quấy rầy cậu bằng những tiếng sột soạt và chút chít, nhưng cậu quen dần với tiếng ồn và dần dần quên đi mọi thứ ngoại trừ việc học. Bất ngờ cậu nhìn lên cái gì đó đã khiến cậu chú ý, cậu không biết nó là gì, cậu đứng dậy và lắng nghe, căn phòng yên lặng. Chính là nó, tiếng động của lũ chuột đã dừng lại.
- Ðó chính là điều phá rối mình, Moore cười nói.
Cậu nhìn quanh phòng và thấy một con chuột hung tợn, nó đang ngồi trên chiếc ghế cạnh lò sưởi, và nó đang trừng mắt nhìn cậu với ánh mắt căm ghét đỏ ngầu. Moore cầm lên một cuốn sách và vờ chọi nó, con chuột vẫn không di chuyển, nó hung hãn nhe hàm răng trắng và ánh mắt dữ tợn, sáng lên độc ác trong ánh đèn.
- Sao mày ...
Moore thét lên cậu cầm một khúc củi từ lò sưởi và nhảy lên, tuy nhiên nó đã nhảy xuống sàn với tiếng kêu, trước khi cậu kịp đập trúng nó, nó trèo lên sợi dây chuông và biến mất trong bóng tối thật lạ lùng, tiếng sột soạt chút chít của lũ chuột trong tường lại bắt đầu. Vào lúc đó Moore cũng không muốn học nữa, bên ngoài lũ chim đang hót, chẳng bao lâu nữa trời sẽ sáng, cậu trèo lên giường và ngủ ngay lập tức, cậu ngủ say đến nỗi không hay bà Dempster đã đến, bà dọn dẹp phòng và làm điểm tâm, sau đó bà đánh thức cậu với một tách trà. Sau bữa điểm tâm cậu lấy một quyển sách để vào túi và đi tản bộ, trên đường đi cậu mua vài cái sandwich.
- Vậy thì lát nữa mình không phải ngừng lại để ăn trưa, cậu nói với mình.
Cậu tìm thấy một công viên nhỏ xinh đẹp yên lặng, và ở đó học suốt ngày, trên đường về nhà cậu ghé khách sạn để cám ơn bà Wood, bà nhìn cậu dò xét.
- Cậu bé cậu không nên học quá sức đấy, sáng nay trông cậu xanh xao quá, học quá nhiều sẽ không tốt cho bất kỳ ai, hãy nói tôi nghe cậu có ngủ ngon giấc không ? Bà Dempster nói với tôi cậu vẫn còn ngủ khi bà ta đến.
- Ồ tôi không sao Moore cười nói :
- Lũ ma vẫn chưa quấy rầy tôi, tối qua lũ chuột lại có một bữa tiệc, có một con chuột già với đôi mắt đỏ, nó ngồi trên cái ghế bên cạnh lò sưởi, nó không chạy đến khi tôi cầm một thanh củi lên, sau đó nó chạy lên dây chuông, tôi không thấy nó chạy đi đâu trời tối quá.
- Lạy Chúa ! bà Wood la lên : một con chuột ngồi bên lò sưởi hãy cẩn thận cậu ạ.
- Ý bà sao ? Moore ngạc nhiên hỏi.
- Một con chuột hung tợn có thể là một con quỹ.
Moore cười.
- Xin hãy thứ lỗi cho tôi thưa bà Wood cậu nói :
- Tôi không thể không bật cười, trước ý nghĩ cho là Con quỹ ngồi bên cạnh lò sưởi của tôi.
Và cậu lại cười sau đó cậu về nhà để dùng bữa tối. Tối đó tiếng ồn của lũ chuột đến sớm, sau bữa tối cậu ngồi bên cạnh bếp lửa và uống trà, rồi cậu đến bàn để bắt đầu học. Lũ chuột quấy rầy cậu nhiều hơn tối qua, chúng chạy sột soạt khắp nơi, và chăm chú nhìn cậu từ những lỗ nhỏ trên tường, mắt chúng trông như những ánh đèn nhỏ bên bếp lửa, Moore quen dần với chúng, chúng có vẻ thích đùa nghịch hơn là gây hại. Thỉnh thoảng những con chuột dũng cảm nhất chạy lên sàn, hay qua lại trên đỉnh những bức tranh, có lúc Moore chọi sách báo vào chúng khi chúng quấy rầy cậu, ngay lập tức chúng chạy về những cái lỗ của mình, và thế là buổi tối diễn ra khá lặng lẽ.
Moore miệt mài học trong nhiều giờ, và bất ngờ cậu cảm thấy lạ bởi sự im lặng bất chợt, không có tiếng chuột chạy hay tiếng chút chít sột soạt, căn phòng rộng lớn im lặng như một ngôi mộ. Moore nhớ lại tối qua cậu nhìn về phía cái ghế bên bếp lửa và rất bất ngờ ở đấy trên cái ghế gỗ cao lớn, con chuột hung tợn ấy đang ngồi, nó đang nhìn cậu bằng ánh mắt căm thù. Không nghĩ ngợi Moore cầm cuốn sách gần nhắc lên, quăng đi không chính xác và con chuột không chạy, vì thế Moore lại cầm thanh củi lên, con chuột chạy lên sợi dây chuông, ngay lập tức những con chuột khác lại bắt đầu ồn ào.
Moore không thể thấy con chuột đã chạy đi đâu, ánh đèn không thể chói sáng đến trần nhà, bếp lửa lại cháy sáng thấp bên dưới. Moore nhìn đồng hồ đã gần nửa đêm, cậu thêm củi vào bếp và pha một bình trà, sau đó cậu ngồi trên chiếc ghế gỗ lớn bên lò sưởi thưởng thức trà.
- Mình thắc mắc con chuột già đã chạy đi đâu. cậu nghĩ. Sáng mai mình phải mua một cái bẫy chuột.
Cậu bật thêm một cái đèn nữa, cậu đặt nó ở chỗ để có thể chiếu sáng, phần bên phải bức tường bên cạnh lò sưởi, cậu chuẩn bị nhiều sách để chọi con vật đó. Cuối cùng cậu nâng sợi dây chuông lên, cậu đặt nó lên bàn, sửa lại đoạn dây cuối dưới ánh đèn, khi cậu cầm sợi dây Moore cảm thấy nó thật mềm dẻo.
- Người ta có thể treo cổ một người bằng sợi dây này. cậu nghĩ, Sau đó cậu nhìn lại thích thú với sự chuẩn bị của mình.
- Ðây này ông bạn. Cậu nói lớn. Tao nghĩ lần này tao sẽ biết được bí mật của mày.
Cậu lại bắt đầu học tiếp không bao lâu thì quên lãng mọi chuyện, nhưng lại một lần nữa cậu thấy lạ bởi sự im lặng đột ngột. Rồi sợi dây chuông hơi di chuyển và cái đèn trên đâu dây cũng di chuyển theo, Moore chắc là những quyển sách của mình đã sẵn sàng để chọi, sau đó cậu nhìn dọc theo sợi dây. Khi cậu quan sát thì con chuột lớn rơi từ sợi dây xuống cái ghế gỗ cổ, nó ngồi đấy và trừng mắt nhìn cậu một cách giận dữ, cậu cầm một quyển sách lên và nhắm vào con chuột, con vật thông minh nhảy sang một bên, Moore chọi thêm một quyển khác, nhưng cũng không thành công.
Tiếp đó khi Moore đứng với quyển sách thứ ba trên tay, sẵn sàng để chọi thì con chuột kêu chút chít và tỏ vẻ sợ sệt, Moore chọi quyển sách trúng vào con chuột, với tiếng kêu chút chít đau đớn sợ hãi và cái nhìn căm thù thật sự, nó chạy trở lại cái ghế và nhảy lên sợi dây chuông. Nó chạy lên sợi dây nhanh như chớp, trong khi cái đèn lung lay dưới cú nhảy liều lĩnh của nó, Moore quan sát con chuột thật tỉ mỉ bằng ánh sáng của cái đèn thứ hai, cậu thấy nó biến mất trong một cái lỗ trong một những bức tranh lớn trên tường.
- Mình sẽ kiểm tra lại vị khách nhỏ khó chịu vào sáng mai.
Moore nói một mình trong khi nhặt quyển sách lên từ trên sàn.
- Bức tranh thứ ba bên lò sưởi mình sẽ không quên được.
Cậu kiểm tra những quyển sách, cậu lượm cuốn thứ ba mình đã chọi.
- Ðây là quyển khiến mình đau lòng.
Cậu nói với lòng sau đó mặt cậu trở nên trắng bệch.
- Tại sao...đây là cuốn kinh thánh cũ của mẹ mình mà, thật kỳ lạ.
Cậu ngồi xuống học tiếp, một lần nữa lũ chuột trong tường lại làm ồn, nó không khiến cậu quan tâm so với con chuột khổng lồ thì bọn này thân thiện. Nhưng cậu không thể học tiếp, cuối cùng cậu đóng sách lại và đi ngủ, ánh nắng hồng của buổi sớm mai xuyên qua những khung cửa sổ khi cậu nhắm mắt lại
Truyện Ma
Ðó là vào tháng tư khi John Moore đang học để chuẩn bị cho một kỳ thi quan trọng, khi ngày thi gần kề cậu quyết định đến một nơi nào đó, và tự học một mình. Cậu không thích sự náo nhiệt ở bãi biển, hay những cảnh đẹp ở miền quê, cậu muốn tìm một thành phố nhỏ yên tĩnh bình thường, và học mà không bị quấy rầy. Cậu chuẩn bị hành trang với quần áo và sách vở, sau đó cậu tìm kiếm trên bảng thời gian biểu ở trạm xe lửa, một thành phố mà mình chưa hề biết, cậu tìm thấy một nơi và rồi mua vé đi đến đấy, cậu không nói với ai mình đi đâu, tất cả chỉ vì cậu không muốn bị quấy nhiễu.
Ðấy là nguyên do đưa Moore đến Benchurch, đó là một phố thương mại và một tuần một lần lại nhộn nhịp trong vài tiếng. Những lúc còn lại thì hoàn toàn yên tĩnh một nơi gần như thiếp ngủ. Moore nghỉ đêm đầu tiên ở khách sạn duy nhất trong thành phố, bà chủ rất tốt bụng nhưng khách sạn thì không thực sự đủ yên lặng với cậu ta, ngày thứ hai cậu bắt đầu tìm thuê một căn nhà. Chỉ có duy nhất một chỗ khiến cậu hài lòng, nó tĩnh mịch hơn nhiều đã bị bỏ hoang và rất vắng vẻ, là một ngôi nhà cổ to lớn kiến trúc theo kiểu thế kỷ XVII, có những cửa sổ nhỏ giống như nhà tù, và bức tường gạch cao bao quanh.
Không thể tưởng tượng ra được chỗ nào buồn tẻ hơn nơi này, nhưng nó lại hoàn toàn làm vừa lòng Moore, cậu đến gặp ngài luật sư trong vùng, người chịu trách nhiệm về ngôi nhà. Ông Carnford ngài luật sư rất sẵn lòng cho cậu thuê ngôi nhà.
- Tôi sẵn sàng cho cậu sử dụng nó miễn phí.
Ông nói :
- Chỉ để có người sống trong đó sau bao nhiêu năm nay, bị bỏ trống quá lâu đến nỗi người ta đã thêu dệt nhiều câu chuyện ngớ ngẩn về nó, cậu có thể chứng minh những câu chuyện đó không có thực.
Moore không nghĩ sẽ cần thiết để hỏi ngài luật sư thêm về những chi tiết, về những "câu chuyện ngớ ngẩn", cậu đồng ý thuê và ông Carnfold gửi đến cậu một người giúp việc già để phục vụ cậu, cậu ra khỏi văn phòng luật sư với chìa khóa nhà trong túi, sau đó cậu đến chỗ bà Wood bà chủ khách sạn.
- Tôi sẽ thuê một căn nhà trong vài tuần ! cậu nói, xin bà hãy chỉ giúp tôi công việc mua sắm, bà nghĩ tôi sẽ cần những gì ?
- Cậu sẽ ở đâu ? bà chủ hỏi.
Bà nắm tay lại trong sợ hãi.
- Không phải căn nhà của ông Thẩm phán chứ !
Bà nói và mặt bà biến sắc trong khi nói, cậu nhờ bà kể thêm nhiều điều về ngôi nhà.
- Tại sao nó lại được gọi là căn nhà của ngài Thẩm phán ? cậu hỏi.
- Và sao không ai chịu sống trong đó ?
- Ðược thôi cậu ạ, bà ta nói:
- Cách đây rất lâu tôi cũng không biết là bao lâu, có một ngài thẩm phán sống ở đó, ông ấy là một vị thẩm phán khó tính và độc ác, một vị thẩm phán đáng bị nguyền rủa, ông không bao giờ ban ơn cho ai, còn về chính căn nhà thì tôi không thể nói được, tôi thường hỏi nhưng không ai kể cho tôi nghe về nó.
Bà thấy khó để có thể giải thích, cảm giác của hầu hết những người trong thành phố, là có cái gì đó kỳ lạ trong căn nhà của ngài thẩm phán.
- Còn về riêng tôi, bà nói :
- Tôi sẽ không ở đấy một mình cho dù để nhận hết số tiền trong ngân hàng.
Sau đó bà chợt lộ vẻ hối hận.
- Tôi thật sự xin lỗi đã làm cậu lo lắng, nếu cậu là con trai tôi, thì tôi sẽ không để cậu ở lại đó một mình dù chỉ một đêm, tôi sẽ tự đi đến đó và tháo cái chuông báo động lớn trên mái nhà.
Moore biết ơn trước lòng tốt và sự lo lắng của bà ta.
- Bà thật tốt làm sao khi mãi lo lắng cho tôi thưa bà Wood ! cậu nói.
- Không có gì phải lo lắng cả tôi sẽ học ôn cho một kỳ thi quan trọng, nên cũng sẽ không có thì giờ để sợ hãi vì những điều bí ẩn.
Bà chủ vui lòng nhận lời mua sắm dùm cậu, sau đó Moore đến gặp người giúp việc già mà ông Carnford đã giới thiệu, bà ấy là bà Dempster và dường như bà rất sẵn lòng và hồ hỡi khi phục vụ ông chủ mới. Hai giờ sau khi cậu quay lại căn nhà của ông thẩm phán thì gặp bà Wood đang đợi bên ngoài, có nhiều người đi theo bà, vài người đàn ông và mấy cậu bé khuân những kiện hàng, và người khác khiêng một cái giường.
- Trong nhà có nhiều giường rồi mà ! Moore ngạc nhiên nói.
- Nhưng cũng không ai ngủ trên chúng trong hơn năm mươi năm nay, không cậu à tôi sẽ không để cậu gặp nguy hiểm, trên một chiếc giường cũ kỹ ẩm ướt.
Bà chủ thật sự tò mò muốn xem bên trong căn nhà, cùng lúc đó bà lại rất sợ, chỉ một tiếng động nhỏ cũng làm bà giữ chặt tay Moore, cùng nhau họ tham quan khắp ngôi nhà, sau cuộc thăm dò Moore quyết định ở trong phòng ăn. Nó đủ lớn để vừa làm việc vừa ngủ bà Wood và bà Dempster bắt đầu dọn dẹp các thứ, không lâu thì những gói hàng được mở ra. Moore thấy bà Wood đã mua nhiều món cần thiết, trước khi đi bà quay lại Moore và nói:
- Tôi hy vọng cậu sẽ không sao, nhưng tôi phải nói là tôi không thể ngủ ở đây, với tất cả những con ma này !
Khi bà ấy đi khỏi, bà Dempster cười.
- Những con ma à ! bà nói:
- Không có con ma nào cả ! Chỉ có lũ chuột và côn trùng và những cánh cửa cần bôi dầu, chỉ có những cánh cửa sổ đóng mở trong gió, cậu hãy nhìn vào bức tường bằng gỗ sồi của căn phòng này, chúng đã cũ đã trải qua hàng trăm năm. Cậu không nghĩ là có chuột và côn trùng bên trong gỗ à ? cậu sẽ thấy rất nhiều chuột ở đây nhưng không hề có con ma nào cả, tôi dám chắc như thế, nào bây giờ cậu hãy đi dạo một vòng cho thoải mái và khi cậu trở về, thì tôi đã dọn dẹp xong căn phòng này cho cậu.
Bà ta giữ lời khi Moore trở về, cậu thấy căn phòng thật sạch sẽ và ngăn nắp, một ngọn lửa đang cháy trong cái lò sưởi kiểu cổ, bà ta đã thắp đèn sáng và dọn bữa tối sẵn sàng trên bàn.
- Tạm biệt cậu bà nói :
- Bây giờ tôi phải đi về để chuẩn bị bữa tối cho chồng tôi, gặp cậu sáng mai.
- Thật tuyệt vời.
Moore nói thầm khi thưởng thức món ăn hấp dẫn của bà Dempster, khi cậu ăn xong thì cậu để chén dĩa về một phía bàn, cậu thêm củi vào lò sưởi và bắt đầu học. Moore miệt mài học cho đến khoảng mười một giờ khuya, cậu thêm củi vào lò và pha một bình trà, cậu cảm thấy rất thích thú, ngọn lửa cháy sáng ánh lửa nhảy múa trên những bức tường bằng gỗ cổ, tạo nên những hình thù quái dị xung quanh căn phòng. Trà thật tuyệt vời và không ai phá rối, sau đó lần đầu tiên cậu chú ý đến lũ chuột đang làm ồn như thế nào.
Có phải chúng đã làm ra tất cả những tiếng ồn trong khi mình đang học không ? cậu nghĩ, không mình không nghĩ là chúng, có lẽ vì chúng sợ mình khi mới gặp lần đầu, bây giờ thì chúng mạnh dạn hơn, chạy lại lung tung như bình thường. Chúng thật bận rộn làm sao và ồn ào không tưởng được. Chúng nhảy lên nhảy xuống bên trong những bức tường gỗ, trên trần nhà và dưới sàn nhà. Moore nhớ lời của bà Dempster :
- Cậu sẽ gặp nhiều chuột nhưng cậu sẽ không thấy bất kỳ con ma nào cả.
Cậu mỉm cười nói :
- Dù sao thì bà ta cũng nói đúng về lũ chuột.
Cậu mở đèn lên và nhìn quanh phòng.
- Thật lạ, cậu nói một mình, tại sao không ai muốn sống trong ngôi nhà cổ tuyệt đẹp này chứ ?
Những bức tường gỗ thật đẹp, có vài bức tranh trên tường phủ đầy bụi và cậu không nhìn rõ lắm, đây đó cậu thấy những cái lỗ nhỏ trên tường, một con chuột tò mò đang nhìn cậu chăm chú, và rồi nó chạy đi trong tiếng sột soạt chút chít. Tuy nhiên vật thu hút cậu nhất là sợi dây của cái chuông to lớn trên mái nhà, sợi dây thòng xuống một góc phòng bên phải lò sưởi, cậu tìm thấy một cái ghế gỗ lớn và căng sợi dây bên cạnh lò sưởi, cậu ngồi đấy và uống hết tách trà cuối cùng.
Tiếp theo cậu thêm nhiều gỗ hơn vào lò và ngồi tại bàn học tiếp, trong một lát lũ chuột quấy rầy cậu bằng những tiếng sột soạt và chút chít, nhưng cậu quen dần với tiếng ồn và dần dần quên đi mọi thứ ngoại trừ việc học. Bất ngờ cậu nhìn lên cái gì đó đã khiến cậu chú ý, cậu không biết nó là gì, cậu đứng dậy và lắng nghe, căn phòng yên lặng. Chính là nó, tiếng động của lũ chuột đã dừng lại.
- Ðó chính là điều phá rối mình, Moore cười nói.
Cậu nhìn quanh phòng và thấy một con chuột hung tợn, nó đang ngồi trên chiếc ghế cạnh lò sưởi, và nó đang trừng mắt nhìn cậu với ánh mắt căm ghét đỏ ngầu. Moore cầm lên một cuốn sách và vờ chọi nó, con chuột vẫn không di chuyển, nó hung hãn nhe hàm răng trắng và ánh mắt dữ tợn, sáng lên độc ác trong ánh đèn.
- Sao mày ...
Moore thét lên cậu cầm một khúc củi từ lò sưởi và nhảy lên, tuy nhiên nó đã nhảy xuống sàn với tiếng kêu, trước khi cậu kịp đập trúng nó, nó trèo lên sợi dây chuông và biến mất trong bóng tối thật lạ lùng, tiếng sột soạt chút chít của lũ chuột trong tường lại bắt đầu. Vào lúc đó Moore cũng không muốn học nữa, bên ngoài lũ chim đang hót, chẳng bao lâu nữa trời sẽ sáng, cậu trèo lên giường và ngủ ngay lập tức, cậu ngủ say đến nỗi không hay bà Dempster đã đến, bà dọn dẹp phòng và làm điểm tâm, sau đó bà đánh thức cậu với một tách trà. Sau bữa điểm tâm cậu lấy một quyển sách để vào túi và đi tản bộ, trên đường đi cậu mua vài cái sandwich.
- Vậy thì lát nữa mình không phải ngừng lại để ăn trưa, cậu nói với mình.
Cậu tìm thấy một công viên nhỏ xinh đẹp yên lặng, và ở đó học suốt ngày, trên đường về nhà cậu ghé khách sạn để cám ơn bà Wood, bà nhìn cậu dò xét.
- Cậu bé cậu không nên học quá sức đấy, sáng nay trông cậu xanh xao quá, học quá nhiều sẽ không tốt cho bất kỳ ai, hãy nói tôi nghe cậu có ngủ ngon giấc không ? Bà Dempster nói với tôi cậu vẫn còn ngủ khi bà ta đến.
- Ồ tôi không sao Moore cười nói :
- Lũ ma vẫn chưa quấy rầy tôi, tối qua lũ chuột lại có một bữa tiệc, có một con chuột già với đôi mắt đỏ, nó ngồi trên cái ghế bên cạnh lò sưởi, nó không chạy đến khi tôi cầm một thanh củi lên, sau đó nó chạy lên dây chuông, tôi không thấy nó chạy đi đâu trời tối quá.
- Lạy Chúa ! bà Wood la lên : một con chuột ngồi bên lò sưởi hãy cẩn thận cậu ạ.
- Ý bà sao ? Moore ngạc nhiên hỏi.
- Một con chuột hung tợn có thể là một con quỹ.
Moore cười.
- Xin hãy thứ lỗi cho tôi thưa bà Wood cậu nói :
- Tôi không thể không bật cười, trước ý nghĩ cho là Con quỹ ngồi bên cạnh lò sưởi của tôi.
Và cậu lại cười sau đó cậu về nhà để dùng bữa tối. Tối đó tiếng ồn của lũ chuột đến sớm, sau bữa tối cậu ngồi bên cạnh bếp lửa và uống trà, rồi cậu đến bàn để bắt đầu học. Lũ chuột quấy rầy cậu nhiều hơn tối qua, chúng chạy sột soạt khắp nơi, và chăm chú nhìn cậu từ những lỗ nhỏ trên tường, mắt chúng trông như những ánh đèn nhỏ bên bếp lửa, Moore quen dần với chúng, chúng có vẻ thích đùa nghịch hơn là gây hại. Thỉnh thoảng những con chuột dũng cảm nhất chạy lên sàn, hay qua lại trên đỉnh những bức tranh, có lúc Moore chọi sách báo vào chúng khi chúng quấy rầy cậu, ngay lập tức chúng chạy về những cái lỗ của mình, và thế là buổi tối diễn ra khá lặng lẽ.
Moore miệt mài học trong nhiều giờ, và bất ngờ cậu cảm thấy lạ bởi sự im lặng bất chợt, không có tiếng chuột chạy hay tiếng chút chít sột soạt, căn phòng rộng lớn im lặng như một ngôi mộ. Moore nhớ lại tối qua cậu nhìn về phía cái ghế bên bếp lửa và rất bất ngờ ở đấy trên cái ghế gỗ cao lớn, con chuột hung tợn ấy đang ngồi, nó đang nhìn cậu bằng ánh mắt căm thù. Không nghĩ ngợi Moore cầm cuốn sách gần nhắc lên, quăng đi không chính xác và con chuột không chạy, vì thế Moore lại cầm thanh củi lên, con chuột chạy lên sợi dây chuông, ngay lập tức những con chuột khác lại bắt đầu ồn ào.
Moore không thể thấy con chuột đã chạy đi đâu, ánh đèn không thể chói sáng đến trần nhà, bếp lửa lại cháy sáng thấp bên dưới. Moore nhìn đồng hồ đã gần nửa đêm, cậu thêm củi vào bếp và pha một bình trà, sau đó cậu ngồi trên chiếc ghế gỗ lớn bên lò sưởi thưởng thức trà.
- Mình thắc mắc con chuột già đã chạy đi đâu. cậu nghĩ. Sáng mai mình phải mua một cái bẫy chuột.
Cậu bật thêm một cái đèn nữa, cậu đặt nó ở chỗ để có thể chiếu sáng, phần bên phải bức tường bên cạnh lò sưởi, cậu chuẩn bị nhiều sách để chọi con vật đó. Cuối cùng cậu nâng sợi dây chuông lên, cậu đặt nó lên bàn, sửa lại đoạn dây cuối dưới ánh đèn, khi cậu cầm sợi dây Moore cảm thấy nó thật mềm dẻo.
- Người ta có thể treo cổ một người bằng sợi dây này. cậu nghĩ, Sau đó cậu nhìn lại thích thú với sự chuẩn bị của mình.
- Ðây này ông bạn. Cậu nói lớn. Tao nghĩ lần này tao sẽ biết được bí mật của mày.
Cậu lại bắt đầu học tiếp không bao lâu thì quên lãng mọi chuyện, nhưng lại một lần nữa cậu thấy lạ bởi sự im lặng đột ngột. Rồi sợi dây chuông hơi di chuyển và cái đèn trên đâu dây cũng di chuyển theo, Moore chắc là những quyển sách của mình đã sẵn sàng để chọi, sau đó cậu nhìn dọc theo sợi dây. Khi cậu quan sát thì con chuột lớn rơi từ sợi dây xuống cái ghế gỗ cổ, nó ngồi đấy và trừng mắt nhìn cậu một cách giận dữ, cậu cầm một quyển sách lên và nhắm vào con chuột, con vật thông minh nhảy sang một bên, Moore chọi thêm một quyển khác, nhưng cũng không thành công.
Tiếp đó khi Moore đứng với quyển sách thứ ba trên tay, sẵn sàng để chọi thì con chuột kêu chút chít và tỏ vẻ sợ sệt, Moore chọi quyển sách trúng vào con chuột, với tiếng kêu chút chít đau đớn sợ hãi và cái nhìn căm thù thật sự, nó chạy trở lại cái ghế và nhảy lên sợi dây chuông. Nó chạy lên sợi dây nhanh như chớp, trong khi cái đèn lung lay dưới cú nhảy liều lĩnh của nó, Moore quan sát con chuột thật tỉ mỉ bằng ánh sáng của cái đèn thứ hai, cậu thấy nó biến mất trong một cái lỗ trong một những bức tranh lớn trên tường.
- Mình sẽ kiểm tra lại vị khách nhỏ khó chịu vào sáng mai.
Moore nói một mình trong khi nhặt quyển sách lên từ trên sàn.
- Bức tranh thứ ba bên lò sưởi mình sẽ không quên được.
Cậu kiểm tra những quyển sách, cậu lượm cuốn thứ ba mình đã chọi.
- Ðây là quyển khiến mình đau lòng.
Cậu nói với lòng sau đó mặt cậu trở nên trắng bệch.
- Tại sao...đây là cuốn kinh thánh cũ của mẹ mình mà, thật kỳ lạ.
Cậu ngồi xuống học tiếp, một lần nữa lũ chuột trong tường lại làm ồn, nó không khiến cậu quan tâm so với con chuột khổng lồ thì bọn này thân thiện. Nhưng cậu không thể học tiếp, cuối cùng cậu đóng sách lại và đi ngủ, ánh nắng hồng của buổi sớm mai xuyên qua những khung cửa sổ khi cậu nhắm mắt lại
Truyện Ma
#48
Gửi vào 15/06/2011 - 00:40
HAI NGÀY KINH HOÀNG
Nhà của bạn tôi nằm hơi xa thành phố, chung quanh là những cánh rừng hoang vu ít người lui tới, vì có công việc phải đi xa và không có bà con thân thuộc ở gần, nên anh đã nhờ tôi đến trông chừng vài ngày. Căn nhà này được xây vào khoảng năm 1998, nằm trên một ngọn đồi gần West Union Ohio, tôi đến đó trời đã sụp tối, khi vừa vào nhà là bạn tôi đã gọi về căn dặn tôi phải làm gì, trong những ngày anh ta vắng mặt.
Vừa nói chuyện xong gác điện thoại xuống, tôi nghe có tiếng cộc cộc nhỏ như tiếng gõ cửa, có lẽ là cô hàng xóm ở cách đây gần một cây số, vì tôi nghe người bạn chủ của ngôi nhà này nói rằng cô ta thường đi đến từng nhà để tán gẫu, nên tôi nghĩ như vậy. Nhưng khi mở cửa tôi không thấy ai, chắc là tiếng của những con thú rừng quanh đây, hay là những con chim làm tổ trên cây, lâu lâu nó lấy cái mỏ mổ vào thân cây và gây ra tiếng cộc cộc, tôi nghĩ vậy rồi đóng cửa lại.
Sau đó có tiếng gõ cộc cộc ba lần như vậy, khi mở cửa ra tôi lại không thấy ai, có lúc tôi khép hờ cửa chừa khoảng một gang tay, và núp ở đằng sau cánh cửa xem có ai đến gõ không, tiếng gõ cửa lại đến nhưng không có ai gõ, hình như tiếng cộc cộc đó phát ra từ cánh cửa. Lúc đó tôi không có sợ mà chỉ cảm thấy hơi lạ thôi, rồi không còn để ý đến cái tiếng cộc cộc đó nữa, tôi ngồi trên ghế sô pha mở tivi lên xem chương trình khoa học, lúc đó đúng mười giờ hai phút, thì bỗng dưng cái máy hâm đồ ăn trong bếp tự động mở lên.
Tôi vội đứng dậy lúc này trong bụng hơi lo vì sợ có người khác đang ở trong nhà với mình, tôi nhìn xung quanh nhà bếp xem xét không thấy ai, nên tôi đến cái máy hâm đồ ăn bấm cái nút clear, rồi trở ra phòng khách xem tivi tiếp. Chìm vào giấc ngủ lúc nào cũng không hay, cho đến khi tôi nghe một tiếng còi hụ lớn khủng khiếp đánh thức dậy, mở mắt ra tôi thấy xung quanh mình tối om, mặc dù tôi nhớ khi đi ngủ cái tivi còn mở, và bên cạnh đó còn có cây đèn màu vàng, mà tôi đã mở lên từ khi mới bước vào nhà.
Tiếng còi hụ đã ngưng khi tôi vừa tỉnh dậy. Bây giờ mọi thứ đều tối thui, làm tôi cũng hơi giật mình một chút, vì vẫn còn buồn ngủ nên ráng mò từng bước vào phòng mà bạn tôi đã dành riêng cho tôi. Khi dò dẫm từng bước vào phòng ngủ, tôi đi ngang qua một cái đồng hồ bằng điện tử treo trên tường, lúc đó tôi thấy đồng hồ chỉ một giờ mười lăm phút sáng.
Ngày hôm sau mọi chuyện đều diễn ra bình thường và tối đó tôi đã đánh một giấc cho đến sáng. Ngày thứ ba, đúng ba giờ mười hai phút chiều, tôi vừa về (tôi ra ngoài để làm những công việc mà bạn tôi đã nhờ) tới nhà tiếng cộc cộc lại trỗi lên. Tôi cố gắng không để ý đến nó cho đến khi chịu hết nổi, tôi mở cửa ra và lấy cục đá chận nó lại, lúc đó tiếng cộc cộc mới chịu ngưng.
Ðến năm hay sáu giờ, khi cánh cửa bỗng dưng tự động đóng cái rầm một cái, và tiếng cộc cộc lại vang lên. Tôi không thể chịu đựng được cái tiếng này nữa nên bỏ đi ra ngoài, tìm một nhà hàng ở gần vùng đó để ăn cho đã đời. Lúc trở về thì đã tám giờ đêm tôi không còn nghe gì nữa, cái tiếng cộc cộc hình như đã ngưng rồi, có lẽ nó đang nghĩ giải lao. Khoảng mười giờ hai phút, cái máy hâm đồ ăn lại tự động mở lên. Tôi xuống nhà bếp tắt cái máy rồi suy nghĩ không biết cái máy này có để giờ tự động không, hễ cứ mười giờ hai phut là nó mở lên.
Khoảng mười hai giờ khuya là giờ kinh hoàng nhất. Trước tiên là những cây đèn trong nhà bỗng dưng tắt hết một lượt. Rồi kế tiếp là tiếng cộc cộc vang lên không những ở nơi cánh cửa, mà nó còn vang lên chung quanh nhà nữa. Ồ! Lúc đó tôi sợ run lên nên vội nhấc điện thoại lên gọi cảnh sát và gọi luôn cả người hàng xóm. Tôi nói với người hàng xóm của tôi rằng, có cái gì đó ở ngoài nhà của thằng bạn, nó đã làm tôi sợ muốn chết. Người hàng xóm nói với tôi ông ta sẽ đến nhưng phải mất hai mươi phút. Trong khi tôi đang nói chuyện với người hàng xóm thì tiếng cộc cộc đó từ từ lớn dần, đến nỗi người đầu dây bên kia cũng có thể nghe được.
Tiếng động đó thay đổi liên hồi giống như có nhiều người, đang đứng ở ngoài đánh mạnh vào tường. Những tiếng rầm rầm có khi thay đổi nhịp, và lâu lâu nó ngừng lại một vài giây. Còn những cây đèn và đồ điện ở trong nhà cứ tự động mở và tắt. Tôi mở đèn lên vào nhà bếp lấy một con dao và ngồi ở dưới sàn nhà bếp, đợi cảnh sát và người hàng xóm của tôi đến. Ngay lúc đó máy hâm đồ ăn lại mở lên, rồi đến tivi và ngọn đèn ở phòng khách tất cả cùng bật lên một lượt, lúc này tim tôi đập thình thịch, mặc dù ngày xưa không bao giờ tin vào ma quỷ, nhưng bây giờ tôi cũng phải run sợ, dưới những sự kiện lạ lùng này.
Khoảng mười lăm phút sau, tôi thấy ánh đèn xe bên ngoài có lẽ là cảnh sát, cho nên đi thẳng đến cánh cửa chính và cầm cái nắm cửa từ từ mở ra. Khi mở cửa ra tiếng động chợt ngưng hẳn, nhưng đèn trong nhà vẫn còn chớp tắt. Lúc đó tôi thấy ông cảnh sát đang đi đến, ông ta mới hỏi tôi chuyện gì đã xảy ra và tôi kể hết mọi sự cho ông ta biết. Sau khi nghe xong ông ta nhìn tôi với cặp mắt kỳ quặc, rồi đi xung quanh nhà xem xét. Sau vài phút người bạn hàng xóm của tôi lái xe đến, trên tay còn cầm một cây súng. Ông cảnh sát thấy vậy mới nói rằng:
- không cần đến nó đâu.
Rồi ông cảnh sát hỏi tôi tại sao lại ở đây, tôi đến đây để làm gì...Tôi kể vắn tắt câu chuyện là người bạn đi xa nhờ tôi đến đây coi chừng nhà dùm. Khi tôi vừa mới dứt lời, thì tất cả đèn trong nhà đều chớp một cái rồi tắt, trong nhà trở thành tối om. Lúc đó những tiếng động lại bắt đầu trỗi dậy, và tiếng còi hụ lạ lùng vang lên từ trong khu rừng gần bên. Ông cảnh sát cũng hơi giật mình vì những tiếng động quái lạ đó, vì vậy ông nói với tôi nên đi theo ông vào thành phố. Tôi không cần suy nghĩ gì thêm, đi đến đóng sầm cái cửa lại và cũng không thèm khóa, vội đi theo ông cảnh sát.
Sáng hôm sau tôi gọi điện thoại cho người bạn chủ của căn nhà, kể hết cho anh ta nghe những chuyện đã xảy ra cho tôi trong mấy ngày nay. Sau khi nghe xong anh mới nói với tôi, anh ta cũng nghe những tiếng cộc cộc như vậy, ngoài những tiếng cộc cộc đó ra không còn chuyện gì kỳ lạ xảy ra nữa, cái máy hâm đồ cũng không có tự động mở lên. Tối hôm đó anh ta trở về, tôi cùng anh ta về căn nhà đó. Anh ta mở khóa nhưng không đẩy cửa vào được, nên hai đứa tôi phải dùng sức phá cánh cửa cho nó sập xuống.
Sau khi cánh cửa sập xuống chúng tôi đều hết sức kinh ngạc, vì những cái ghế, cái bàn... kể cả cái máy hâm đồ...đều nằm ngay phía sau cánh cửa. Khi thấy cảnh tượng này anh ta không dám ở đó thêm một ngày nào nữa, nên vội dọn đồ đạc ra khỏi nhà và đề bảng bán. Nhưng đến bây giờ căn nhà đó vẫn chưa có ai mua.
Derick W.
Nhà của bạn tôi nằm hơi xa thành phố, chung quanh là những cánh rừng hoang vu ít người lui tới, vì có công việc phải đi xa và không có bà con thân thuộc ở gần, nên anh đã nhờ tôi đến trông chừng vài ngày. Căn nhà này được xây vào khoảng năm 1998, nằm trên một ngọn đồi gần West Union Ohio, tôi đến đó trời đã sụp tối, khi vừa vào nhà là bạn tôi đã gọi về căn dặn tôi phải làm gì, trong những ngày anh ta vắng mặt.
Vừa nói chuyện xong gác điện thoại xuống, tôi nghe có tiếng cộc cộc nhỏ như tiếng gõ cửa, có lẽ là cô hàng xóm ở cách đây gần một cây số, vì tôi nghe người bạn chủ của ngôi nhà này nói rằng cô ta thường đi đến từng nhà để tán gẫu, nên tôi nghĩ như vậy. Nhưng khi mở cửa tôi không thấy ai, chắc là tiếng của những con thú rừng quanh đây, hay là những con chim làm tổ trên cây, lâu lâu nó lấy cái mỏ mổ vào thân cây và gây ra tiếng cộc cộc, tôi nghĩ vậy rồi đóng cửa lại.
Sau đó có tiếng gõ cộc cộc ba lần như vậy, khi mở cửa ra tôi lại không thấy ai, có lúc tôi khép hờ cửa chừa khoảng một gang tay, và núp ở đằng sau cánh cửa xem có ai đến gõ không, tiếng gõ cửa lại đến nhưng không có ai gõ, hình như tiếng cộc cộc đó phát ra từ cánh cửa. Lúc đó tôi không có sợ mà chỉ cảm thấy hơi lạ thôi, rồi không còn để ý đến cái tiếng cộc cộc đó nữa, tôi ngồi trên ghế sô pha mở tivi lên xem chương trình khoa học, lúc đó đúng mười giờ hai phút, thì bỗng dưng cái máy hâm đồ ăn trong bếp tự động mở lên.
Tôi vội đứng dậy lúc này trong bụng hơi lo vì sợ có người khác đang ở trong nhà với mình, tôi nhìn xung quanh nhà bếp xem xét không thấy ai, nên tôi đến cái máy hâm đồ ăn bấm cái nút clear, rồi trở ra phòng khách xem tivi tiếp. Chìm vào giấc ngủ lúc nào cũng không hay, cho đến khi tôi nghe một tiếng còi hụ lớn khủng khiếp đánh thức dậy, mở mắt ra tôi thấy xung quanh mình tối om, mặc dù tôi nhớ khi đi ngủ cái tivi còn mở, và bên cạnh đó còn có cây đèn màu vàng, mà tôi đã mở lên từ khi mới bước vào nhà.
Tiếng còi hụ đã ngưng khi tôi vừa tỉnh dậy. Bây giờ mọi thứ đều tối thui, làm tôi cũng hơi giật mình một chút, vì vẫn còn buồn ngủ nên ráng mò từng bước vào phòng mà bạn tôi đã dành riêng cho tôi. Khi dò dẫm từng bước vào phòng ngủ, tôi đi ngang qua một cái đồng hồ bằng điện tử treo trên tường, lúc đó tôi thấy đồng hồ chỉ một giờ mười lăm phút sáng.
Ngày hôm sau mọi chuyện đều diễn ra bình thường và tối đó tôi đã đánh một giấc cho đến sáng. Ngày thứ ba, đúng ba giờ mười hai phút chiều, tôi vừa về (tôi ra ngoài để làm những công việc mà bạn tôi đã nhờ) tới nhà tiếng cộc cộc lại trỗi lên. Tôi cố gắng không để ý đến nó cho đến khi chịu hết nổi, tôi mở cửa ra và lấy cục đá chận nó lại, lúc đó tiếng cộc cộc mới chịu ngưng.
Ðến năm hay sáu giờ, khi cánh cửa bỗng dưng tự động đóng cái rầm một cái, và tiếng cộc cộc lại vang lên. Tôi không thể chịu đựng được cái tiếng này nữa nên bỏ đi ra ngoài, tìm một nhà hàng ở gần vùng đó để ăn cho đã đời. Lúc trở về thì đã tám giờ đêm tôi không còn nghe gì nữa, cái tiếng cộc cộc hình như đã ngưng rồi, có lẽ nó đang nghĩ giải lao. Khoảng mười giờ hai phút, cái máy hâm đồ ăn lại tự động mở lên. Tôi xuống nhà bếp tắt cái máy rồi suy nghĩ không biết cái máy này có để giờ tự động không, hễ cứ mười giờ hai phut là nó mở lên.
Khoảng mười hai giờ khuya là giờ kinh hoàng nhất. Trước tiên là những cây đèn trong nhà bỗng dưng tắt hết một lượt. Rồi kế tiếp là tiếng cộc cộc vang lên không những ở nơi cánh cửa, mà nó còn vang lên chung quanh nhà nữa. Ồ! Lúc đó tôi sợ run lên nên vội nhấc điện thoại lên gọi cảnh sát và gọi luôn cả người hàng xóm. Tôi nói với người hàng xóm của tôi rằng, có cái gì đó ở ngoài nhà của thằng bạn, nó đã làm tôi sợ muốn chết. Người hàng xóm nói với tôi ông ta sẽ đến nhưng phải mất hai mươi phút. Trong khi tôi đang nói chuyện với người hàng xóm thì tiếng cộc cộc đó từ từ lớn dần, đến nỗi người đầu dây bên kia cũng có thể nghe được.
Tiếng động đó thay đổi liên hồi giống như có nhiều người, đang đứng ở ngoài đánh mạnh vào tường. Những tiếng rầm rầm có khi thay đổi nhịp, và lâu lâu nó ngừng lại một vài giây. Còn những cây đèn và đồ điện ở trong nhà cứ tự động mở và tắt. Tôi mở đèn lên vào nhà bếp lấy một con dao và ngồi ở dưới sàn nhà bếp, đợi cảnh sát và người hàng xóm của tôi đến. Ngay lúc đó máy hâm đồ ăn lại mở lên, rồi đến tivi và ngọn đèn ở phòng khách tất cả cùng bật lên một lượt, lúc này tim tôi đập thình thịch, mặc dù ngày xưa không bao giờ tin vào ma quỷ, nhưng bây giờ tôi cũng phải run sợ, dưới những sự kiện lạ lùng này.
Khoảng mười lăm phút sau, tôi thấy ánh đèn xe bên ngoài có lẽ là cảnh sát, cho nên đi thẳng đến cánh cửa chính và cầm cái nắm cửa từ từ mở ra. Khi mở cửa ra tiếng động chợt ngưng hẳn, nhưng đèn trong nhà vẫn còn chớp tắt. Lúc đó tôi thấy ông cảnh sát đang đi đến, ông ta mới hỏi tôi chuyện gì đã xảy ra và tôi kể hết mọi sự cho ông ta biết. Sau khi nghe xong ông ta nhìn tôi với cặp mắt kỳ quặc, rồi đi xung quanh nhà xem xét. Sau vài phút người bạn hàng xóm của tôi lái xe đến, trên tay còn cầm một cây súng. Ông cảnh sát thấy vậy mới nói rằng:
- không cần đến nó đâu.
Rồi ông cảnh sát hỏi tôi tại sao lại ở đây, tôi đến đây để làm gì...Tôi kể vắn tắt câu chuyện là người bạn đi xa nhờ tôi đến đây coi chừng nhà dùm. Khi tôi vừa mới dứt lời, thì tất cả đèn trong nhà đều chớp một cái rồi tắt, trong nhà trở thành tối om. Lúc đó những tiếng động lại bắt đầu trỗi dậy, và tiếng còi hụ lạ lùng vang lên từ trong khu rừng gần bên. Ông cảnh sát cũng hơi giật mình vì những tiếng động quái lạ đó, vì vậy ông nói với tôi nên đi theo ông vào thành phố. Tôi không cần suy nghĩ gì thêm, đi đến đóng sầm cái cửa lại và cũng không thèm khóa, vội đi theo ông cảnh sát.
Sáng hôm sau tôi gọi điện thoại cho người bạn chủ của căn nhà, kể hết cho anh ta nghe những chuyện đã xảy ra cho tôi trong mấy ngày nay. Sau khi nghe xong anh mới nói với tôi, anh ta cũng nghe những tiếng cộc cộc như vậy, ngoài những tiếng cộc cộc đó ra không còn chuyện gì kỳ lạ xảy ra nữa, cái máy hâm đồ cũng không có tự động mở lên. Tối hôm đó anh ta trở về, tôi cùng anh ta về căn nhà đó. Anh ta mở khóa nhưng không đẩy cửa vào được, nên hai đứa tôi phải dùng sức phá cánh cửa cho nó sập xuống.
Sau khi cánh cửa sập xuống chúng tôi đều hết sức kinh ngạc, vì những cái ghế, cái bàn... kể cả cái máy hâm đồ...đều nằm ngay phía sau cánh cửa. Khi thấy cảnh tượng này anh ta không dám ở đó thêm một ngày nào nữa, nên vội dọn đồ đạc ra khỏi nhà và đề bảng bán. Nhưng đến bây giờ căn nhà đó vẫn chưa có ai mua.
Derick W.
#49
Gửi vào 15/06/2011 - 05:46
BÙA NGÃI Ở SAN JOSE
Khi tôi đến bấm chuông ở ngôi nhà số 2924 Garden Ave, San Jose, california 95111 vào lúc ba giờ chiều ngày 26-11-2002, thì một người đàn bà đứng tuổi có làn da mịn hồng đã mở cửa bước ra mời tôi vào nhà. Cánh cửa rất hẹp mặc dầu ngôi nhà cũng khá rộng. Qua khỏi cửa tôi ngửi thấy mùi nhang khói và mùi trầm hương, cùng với mùi nước hoa quyện vào nhau ở bên trong căn nhà. Người đàn bà lại mở một cánh cửa rất hẹp vừa cho tôi nghiêng người lách qua, để đi vào một căn phòng khác nằm chếch bên trái của cửa chính ra vào. Đây là cả một thế giới huyền bí của người đàn bà, đã gọi điện thoại cho tòa soạn, mời tôi đến thăm cơ sở kinh doanh của bà ta.
Cơ sở của bà là một căn phòng nhỏ lối hơn mười thước vuông. Khắp bốn bức tường và ngay trên cánh cửa vào phòng, đều được dán kín với những hình bùa phép, các tượng ảnh mang những biểu trưng bí ẩn gì đó. Phía tường ngay lối cửa là một bàn thờ đủ các loại thần linh và tượng Phật, theo điêu khắc của Thái Lan. Chung quanh bàn thờ là các lá bùa vẽ rồng rắn khó hiểu, và dưới chân tượng Phật là các loại hoa quả, đặc biệt có mấy mâm chứa đầy trứng vịt sống, với nhang đèn nghi ngút. Bức tường đối diện với bàn thờ là bàn làm việc của người đàn bà, được đặt sát một cửa sổ nhỏ làm bằng kính mờ. Người đàn bà ngồi vào chiếc ghế phía sau bàn làm việc, lưng bà sát vào cái kệ tủ có nhiều ngăn lộ thiên, đặt những cái khay lớn nhỏ khác nhau.
Trên từng mỗi cái khay có những hàng chữ viết bằng chữ Việt, dán lên như những ngăn tủ thuốc, có đề tên trong một tiệm thuốc bắc. Các hàng chữ ghi rõ như "Bùa đem chồng con về", "Phép uống thương", "Bùa hộ mệnh bình an", "Phép sang bán xe nhà tiệm quán" "Phép đốt móng", "Giải bùa thư yếm", "Phép đốt ", "Bùa lớn", "Nàng Quốc". Tôi ngồi xuống cái ghế duy nhất đặt đối diện với người đàn bà, sát cái bàn ngay bên cạnh tôi là một tủ sắt nhỏ có từng ngăn, chia thành nhiều hàng và mỗi hàng lại ngăn ra từng ô nhỏ, bên ngoài đề các tên khác nhau. Nhìn qua lớp kính mỏng tôi thấy bên trong, giống như là những loại rễ cây hoặc lá khô.. Người đàn bà đưa tay bật sáng cây đèn, loại dành cho bàn viết và chiếu ánh sáng vào phía, những ngăn nhỏ trên tủ sắt rồi nói:
- Đây là một trăm loại ngãi quý nhất mà tôi có đủ. Tôi cam chắc rằng hiện nay có nhiều người nuôi Ngãi, nhưng không ai có những loại ngãi quý hiếm nầy.
Người đàn bà nhìn tôi chăm chú như muốn xem phản ứng của tôi như thế nào. Bà ta chìa ra trước mặt tôi một tờ báo đã cũ, và một tờ giấy ghi tên tôi, địa chỉ tòa soạn số điện thoại:
- Tôi đã đọc bài của ông viết về nhiều cơ sở trên báo rất vô tư và xây dựng, có một cái chợ tôi tưởng rằng nó đã chết, nhưng nhờ bài viết của ông mà nó sống lại sầm uất. Tôi đã ghi tên ông và địa chỉ để liên lạc, nhưng tôi phải đi về Thái Lan thỉnh phép một thời gian, nay trở lại San Jose tôi mạnh dạn gọi điện thoại, mời ông đến xem xét công việc của tôi đang làm.
- Bà có thể vui lòng cho tôi biết bà làm nghề gì? báo chỉ giới thiệu người thật việc thật, công việc hợp pháp mà thôi, sự giới thiệu là hoàn toàn miễn phí.
Người đàn bà đưa ra giấy phép hành nghề và nói:
- Xin gọi tôi bằng cô là được rồi. Tôi chưa có chồng và không bao giờ được phép gần đàn ông về thể xác. Đây là License của tôi, việc làm chính của tôi hiện nay là làm phúc là cứu người.
Tôi nhìn khắp căn phòng, dưới chân bàn thờ có hình mấy người đã chết... Trên khung cửa vào phòng có thờ hàng chữ của Đức Mohammed là nhà Tiên Tri của Hồi Giáo. Tôi hỏi người đàn bà:
- Cô xem chỉ tay tướng số bói bài phải không?
- Không tất cả những thứ đó tôi đều biết, nhưng không xem bói toán cho ai. Ngoại trừ có ai đó thân tình cần tôi giúp. Tôi xin nói thẳng rằng tôi là một Thầy về bùa ngãi chuyên nghiệp, nhưng tôi không làm chuyện thất đức, không dùng bùa ngãi để thư yếm hại ai bao giờ. Ngược lại tôi đã giúp cho bao nhiêu gia đình tan nát được đoàn tụ hạnh phúc, những người bỏ vợ bỏ chồng đi lang chạy theo người khác. tôi đã giúp kéo họ trở về sống lại với nhau. Tôi giúp cho những người bị mất của được tìm lại tài sản đã mất, giúp cho người ta tránh được tai nạn chết chóc, giúp cho các người kinh doanh được mua may bán đắt, có nhiều khách...
Nói tóm lại tôi chỉ muốn giúp người. Tôi cũng giúp giải cứu nhiều người bị các thầy bùa ngãi độc ác thư yếm, mà đã đi nhiều nơi nhưng không ai giải phá cứu được. Và đặc biệt là tôi có thể chữa được một số bệnh như bị phong thấp bại xuội, bị mặt đầy mụn nhọt ghẻ lở. Tôi sẽ chữa lành cấp tốc mà tôi không hề lấy của ai đồng xu nào, khi tôi chữa trị giúp họ. Những ai bị tê thấp không giở tay lên được, hay không bước đi được, tôi chỉ đọc lời cầu chú và cào vuốt chỗ đau, lập tức họ sẽ khỏi trong vòng lối mười lăm phút. Người bị bệnh lâu vài chục năm thì ít ra cũng phải được tôi chữa trong lối ba lần mới hết.
Trong khi nói chuyện với bà thầy bùa ngãi, phái viên nghe điện thoại của bà, hầu như cứ năm bảy phút lại reo lên liên tục. Nhiều người gọi xin hẹn giờ hay xin thỉnh bùa thỉnh phép. Tôi hỏi người đàn bà:
- Mỗi người khách cô lấy bao nhiêu tiền?
- Tôi không lấy bao nhiêu cả. Chữa trị bệnh hoàn toàn miễn phí. Những ai đến thỉnh bùa, ngãi hay cần giải cứu thì tùy theo kết quả mà họ đạt được, họ đến trả lễ bao nhiêu là tùy hỷ. Có người cho tôi vài đồng, có người cho vài chục, nhưng cũng có nhiều người cho tới vài trăm hoặc vài nghìn Đô La.
- Như vậy chắc cô kiếm được nhiều tiền lắm, vì tôi nghe điện thoại xin gặp cô liên tục.
Người đàn bà đưa ra trước mặt tôi nhiều tờ báo xuất bản tại Việt Nam. Những báo đó xuất bản phát hành các năm khác nhau, và đều có bài viết và hình ảnh đăng tải về người đàn bà mà tôi đang tiếp xúc. Trên báo Saigon Times xuất bản tháng chín năm 2000, có bài viết ký tên Le Toan với tựa đề "US. Family Gives Food Parcels to The Poor" đã viết rằng. Một gia đình ở San Jose đã tặng hai ngàn gói lương thực, trị giá bốn mươi ngàn đồng Việt Nam, mỗi gói cho dân nghèo quận bốn Sài Gòn, khi họ về thăm nhà hàng năm. Bên cạnh bài viết là hình của người đàn bà đang trao gói quà cho một phụ nữ nghèo. Dưới tấm hình ghi là "Mrs Le Khanh hands a food parcel to a poor woman".
Trong khi đó tờ báo kinh doanh tiếp thị trong một bài khác, có đăng hình ảnh của bà Lệ Khanh, đang trao quà cho những gia đình nghèo tại quận bốn Sài gòn vào ngày bốn tháng chín 2001. Bài báo thường thuật rằng Bà Lệ Khanh sống tại San Jose, đã về Việt Nam tặng quà lần thứ mười ba, cho hai ngàn gia đình nghèo, mỗi gia đình một phần quà gồm gạo bột ngọt, mì gói dầu ăn, nước tương muối bột. Ngoài ra bà Lệ Khanh cũng tặng ba trăm phần quà, tại quận tám Sài gòn trong dịp tết trung thu và cho các hội bảo trợ các nhà tình thương, các mái ấm trẻ em đánh giày và thiếu nhi ngoài đường phố, mỗi nơi một trăm Mỹ kim.
Bài và ảnh chụp do phóng viên Cẩm Thanh viết nói rằng, đây là lần thứ mười ba bà Lệ Khanh phát tặng quà cho người nghèo tại Sài gòn. Những bài báo khác xuất bản tại Sài gòn có đăng hình ảnh và bài tường thuật, bà Lệ Khanh đang phát tặng quà Noel cho một ngàn hộ gia đình nghèo, tại phường mười hai quận bốn Sài gòn. Người đàn bà chuyên nghề bùa ngãi đưa cho tôi xem các quảng cáo của bà, đăng trên vài tờ báo tại San Jose và nói với tôi:
- Tôi không được ăn thịt, hàng ngày khách thập phương đưa gà, vịt và hằng giỏ đầy trứng trái cây đến cúng tổ, tôi nuôi ngãi xong là cũng bỏ đi. Thực phẩm hằng ngày của tôi là do người thập phương cho tôi ăn, tôi chẳng thiếu thốn gì cả. Tôi chỉ giúp người và nếu có ai cho tiền bạc hay gởi tiền cúng tổ tạ ơn, thì tôi thu gom mang đi làm việc nghĩa, làm việc bố thí từ thiện cho dân nghèo. Tôi về Việt Nam và đã tặng thực phẩm cho người nghèo được mười ba lần, những lần đầu thì chỉ tặng cho một ngàn gia đình nghèo thôi, những lần sau thì hai ngàn gia đình, rồi mới đây là nhiều hơn.
Khi tôi tặng quà thì có chính quyền địa phương, báo chí và cả công an đến kiểm soát, tôi chỉ giúp người nghèo mà thôi. Và vì vậy tôi chỉ làm chuyện tốt, không dùng bùa ngãi để trục lợi cho cá nhân mình hay đi hại người khác. Tôi không cần tiền cho cá nhân tôi, nên chẳng có ai có thể dùng tiền bạc để sai khiến tôi làm bậy, như thư yếm hại phá người nào. Báo Saigòn Times ghi bà Lệ Khanh sáu mươi tám tuổi, tôi hỏi về cá nhân bà bà kể:
- Tôi có thể nói tiếng Việt Nam và có tên Việt Nam là Lệ Khanh nhưng tôi không phải là người Việt, tôi là người Thái Lan thuộc một bộ tộc thiểu số gốc Chăm, tại vùng núi Shakhon miền Bắc Thái Lan. Bộ tộc tôi theo mẫu hệ, tên ông ngoại của tôi là Thầy bùa ngãi Kha Mắt Kham Bi Rô, kiêm già Làng trong toàn bộ tộc. Tên thật của tôi là Kha Lay May, chúng tôi theo Hồi Giáo nhưng không cuồng tín và không chấp nhận khủng bố. Theo tục lệ mỗi đứa trẻ sinh ra, đều được bộ tộc dành cho một cái hủ chứa các viên sỏi, để tính tuổi của mình. Lúc tôi được tám viên sỏi, thì tôi bị bệnh nặng và mê man nhiều ngày. Ngoại của tôi đã dùng bùa ngãi chữa cho tôi lành bệnh.
Nhưng ngay sau đó trong bộ tộc bị bệnh dịch tả gây chết hằng loạt, và dân khắp vùng kéo đến yêu cầu đốt tôi thành tro, vì cho rằng tôi đã chết mà nay sống lại, làm con ma lai về giết hại dân buôn bản. Ông Nội tôi là nhà chân tu Phật Giáo Thái Lan, đã bàn với ông Ngoại tôi, và hai gia đình đành chuẩn bị thực phẩm, gởi tôi cho một đoàn người buôn lậu đưa ra khỏi vùng. Khi ra đi ông ngoại tôi cho tôi mang theo một túi bùa ngãi, mà tôi được huấn luyện từ khi mới lên ba viên sỏi. Ngoại đọc bùa chú cho tôi đi và nói rằng, khi tôi lớn lên là không được gần đàn ông, và phải làm nghề bùa ngãi để cứu nhân độ thế.
Đoàn buôn lậu đưa tôi băng rừng trong nhiều ngày đêm, và cuối cùng đến gởi tôi tại một già làng thuộc buôn Thượng, ở khu vực Mai Thôn gần Đà Lạt. Khi tôi được mười hai tuổi thì tôi hái lan rừng mang ra chợ Đà Lạt bán, và tôi được gặp một phụ nữ Việt Nam tên là Lệ Khanh đã đưa tôi về nhà ở chung, để giúp đỡ tôi. Tôi thực sự ở với chị Lệ Khanh vào lúc tôi mười sáu tuổi, và tên thật của tôi là Kha lay May nên cả nhà gọi tôi là May. Tôi nói được tiếng Thượng, tiếng Thái và nay chị Lệ Khanh dạy thêm cho tôi tiếng Việt. Chồng chị Lệ Khanh là anh Trần Văn Hải, đã quyết định đưa gia đình về Sài gòn sinh sống vào khoảng năm 1970.
Tôi đi theo và nhờ đó tôi có dịp quen với các anh chị đào kép cải lương. Tôi kiếm được ít tiền và sang lại đoàn cải lương Hoa Anh Đào-Kim Chưởng để làm bầu gánh một thời gian. Thời gian nầy tôi có dịp trở lại Thái Lan tìm về nguồn gốc của tôi. Tôi đã tìm được các thầy bùa ngãi cấp đẳng cao cường, và được truyền lại các bí quyết trong nghề bùa ngãi, nhưng tôi phải thề không được dùng bùa ngãi để ếm hại người khác. Đến năm bảy mươi mốt, thì chị Lệ Khanh bị bệnh và qua đời. Anh Trần Văn Hải chồng chị làm việc cho Mỹ ở Kho năm, có ba đứa con gái và tôi thay chị Lệ Khanh để lo cho các con của chị, mà tôi xem như con ruột của mình. Chúng cũng gọi tôi bằng mẹ mặc dầu tôi nhỏ tuổi hơn chị Lệ Khanh.
Sau năm bảy lăm, anh Hải đưa các con về làm rẫy tại Long Khánh, tôi cũng đi theo và một hôm lúc tôi đang làm rẫy, thấy anh em tù sỹ quan cải tạo đi qua rách rưới đói khát, tôi kiếm tiền mua đường thẻ ném cho anh em chia nhau, vì chuyện này mà tôi bị bắt giam, bị đánh đập tôi tàn nhẫn rồi nhốt tôi hai năm tại Biên Hòa về tội làm gián điệp. Bà Kha Lay May kể tiếp:
- Khi ra khỏi tù tôi nghĩ phải tìm mọi cách ra khỏi Việt Nam, tôi quyết định dùng bùa ngãi để nói chuyện với cục quản lý xuất nhập cảnh tại Sài gòn. Tôi lấy giấy tờ của chị Lệ Khanh sinh năm 1940 nay đã chết và khai là giấy tờ của tôi. Anh Hải là chồng của chị Lệ Khanh nay trên giấy tờ là chồng của tôi, và các con của chị đều là con tôi cả. Tôi lấy oxy già để nhuộm vàng tóc của một đứa con gái, và công an ở Sài gòn đã giúp tôi khai giấy tờ là tôi có chồng tên là Trần Văn Hải, sau đó chồng tôi bỏ mấy mẹ con tôi đi theo người khác, nên tôi đi làm sở Mỹ nên quen với một lính Mỹ và có riêng một đứa con gái lai Mỹ.
Rồi thì chồng tôi trở về lại, nên gia đình tôi sum họp và chồng tôi cũng có công giúp tôi nuôi đứa con gái lai Mỹ thành người, nhờ đó khi đi phỏng vấn, thì cả gia đình anh Hải và tôi đã được xuất cảnh đến San Jose. Chúng tôi nay vào quốc tịch Mỹ và mua nhà tại Garden Ave San Jose, tôi mang ơn Việt Nam và nay tôi hành nghề bùa ngãi, để nếu được ai cho đồng nào thì tôi lại mang về giúp đỡ những người nghèo khổ tại Sài gòn. Ở San Jose nhiều thầy bùa ngãi người Miên thường ăn tiền để đi thư yếm người khác. Tôi đã giải bùa cho nhiều người Việt Nam gặp nạn bị thư yếm, và tôi đã cứu họ được sống.
Tôi giúp cho nhiều người làm ăn thịnh vượng, và giúp trị các người bị phong tê thấp liệt tay chân. Những bệnh như thế tôi chỉ đọc lời khấn và vuốt vài cái là họ có thể hết ngay tức thì. Tôi không lấy tiền khi giúp người bệnh. Những ai bị mụn đầy mặt, tôi cũng chữa khỏi ngay và da mặt họ sẽ láng o như da mặt của tôi. Những người đến trị mụn tôi cũng không lấy tiền, tuy nhiên họ có thể cho anh Hải một vài đồng, vì anh ấy sát trùng dụng cụ. Những ai mất của hãy mang theo một đứa bé trai từ tám tuổi đến mười tuổi, đứa bé đó sẽ nhìn vào bàn tay của tôi và thấy được ai là người đã ăn cắp, giống như nhìn lên màn ảnh TV để xem phim vậy.
Những ngày kế tiếp sau đó phái viên bất chợt đến xem, một số khách đến xin giải bùa hay xin tìm của bị mất. Một phụ nữ bỏ toàn bộ nữ trang và ba chục ngàn tiền mặt, vào trong một chiếc giày ống cao cổ định mua Mobile Home, nhưng đã bị mất sạch và bị người chồng chửi rủa thậm tệ là lấy tiền cho trai. Người vợ được bạn giới thiệu đến xem, và đã dắt theo một đứa cháu trai chín tuổi của bên chồng, và không cho đứa bé biết trước chuyện gì. Khi thằng bé nhìn vào bàn tay phải của bà Kha Lay May nó nói:
- Cô ơi con thấy chú Tám lấy một chiếc giày ở dưới giường ra, và thò tay vào trong chiếc giày lấy ra một gói đồ gì đó..và..chú Tám lái xe đem gói đồ đến đưa cho cô Út.
Người phụ nữ mất của đứng bật dậy như cái lò xo:
- Trời ơi ông chồng tui thế mà cứ chửi tui hoài, lấy hết gia sản qua đưa cho em ruột không biết đang tính chuyện gì đây!
Người phụ nữ mừng rỡ bỏ vào lọ cúng tổ ba mươi Mỹ kim và bước ra ngoài, người phụ nữ xin miễn ghi tên tuổi vì sợ nói ra bỉ mặt người chồng, chuyện nghe thật khó tin, nhưng đang có thật trong một đất nước văn minh hiện đại như Hoa Kỳ.
Tâm Linh
Khi tôi đến bấm chuông ở ngôi nhà số 2924 Garden Ave, San Jose, california 95111 vào lúc ba giờ chiều ngày 26-11-2002, thì một người đàn bà đứng tuổi có làn da mịn hồng đã mở cửa bước ra mời tôi vào nhà. Cánh cửa rất hẹp mặc dầu ngôi nhà cũng khá rộng. Qua khỏi cửa tôi ngửi thấy mùi nhang khói và mùi trầm hương, cùng với mùi nước hoa quyện vào nhau ở bên trong căn nhà. Người đàn bà lại mở một cánh cửa rất hẹp vừa cho tôi nghiêng người lách qua, để đi vào một căn phòng khác nằm chếch bên trái của cửa chính ra vào. Đây là cả một thế giới huyền bí của người đàn bà, đã gọi điện thoại cho tòa soạn, mời tôi đến thăm cơ sở kinh doanh của bà ta.
Cơ sở của bà là một căn phòng nhỏ lối hơn mười thước vuông. Khắp bốn bức tường và ngay trên cánh cửa vào phòng, đều được dán kín với những hình bùa phép, các tượng ảnh mang những biểu trưng bí ẩn gì đó. Phía tường ngay lối cửa là một bàn thờ đủ các loại thần linh và tượng Phật, theo điêu khắc của Thái Lan. Chung quanh bàn thờ là các lá bùa vẽ rồng rắn khó hiểu, và dưới chân tượng Phật là các loại hoa quả, đặc biệt có mấy mâm chứa đầy trứng vịt sống, với nhang đèn nghi ngút. Bức tường đối diện với bàn thờ là bàn làm việc của người đàn bà, được đặt sát một cửa sổ nhỏ làm bằng kính mờ. Người đàn bà ngồi vào chiếc ghế phía sau bàn làm việc, lưng bà sát vào cái kệ tủ có nhiều ngăn lộ thiên, đặt những cái khay lớn nhỏ khác nhau.
Trên từng mỗi cái khay có những hàng chữ viết bằng chữ Việt, dán lên như những ngăn tủ thuốc, có đề tên trong một tiệm thuốc bắc. Các hàng chữ ghi rõ như "Bùa đem chồng con về", "Phép uống thương", "Bùa hộ mệnh bình an", "Phép sang bán xe nhà tiệm quán" "Phép đốt móng", "Giải bùa thư yếm", "Phép đốt ", "Bùa lớn", "Nàng Quốc". Tôi ngồi xuống cái ghế duy nhất đặt đối diện với người đàn bà, sát cái bàn ngay bên cạnh tôi là một tủ sắt nhỏ có từng ngăn, chia thành nhiều hàng và mỗi hàng lại ngăn ra từng ô nhỏ, bên ngoài đề các tên khác nhau. Nhìn qua lớp kính mỏng tôi thấy bên trong, giống như là những loại rễ cây hoặc lá khô.. Người đàn bà đưa tay bật sáng cây đèn, loại dành cho bàn viết và chiếu ánh sáng vào phía, những ngăn nhỏ trên tủ sắt rồi nói:
- Đây là một trăm loại ngãi quý nhất mà tôi có đủ. Tôi cam chắc rằng hiện nay có nhiều người nuôi Ngãi, nhưng không ai có những loại ngãi quý hiếm nầy.
Người đàn bà nhìn tôi chăm chú như muốn xem phản ứng của tôi như thế nào. Bà ta chìa ra trước mặt tôi một tờ báo đã cũ, và một tờ giấy ghi tên tôi, địa chỉ tòa soạn số điện thoại:
- Tôi đã đọc bài của ông viết về nhiều cơ sở trên báo rất vô tư và xây dựng, có một cái chợ tôi tưởng rằng nó đã chết, nhưng nhờ bài viết của ông mà nó sống lại sầm uất. Tôi đã ghi tên ông và địa chỉ để liên lạc, nhưng tôi phải đi về Thái Lan thỉnh phép một thời gian, nay trở lại San Jose tôi mạnh dạn gọi điện thoại, mời ông đến xem xét công việc của tôi đang làm.
- Bà có thể vui lòng cho tôi biết bà làm nghề gì? báo chỉ giới thiệu người thật việc thật, công việc hợp pháp mà thôi, sự giới thiệu là hoàn toàn miễn phí.
Người đàn bà đưa ra giấy phép hành nghề và nói:
- Xin gọi tôi bằng cô là được rồi. Tôi chưa có chồng và không bao giờ được phép gần đàn ông về thể xác. Đây là License của tôi, việc làm chính của tôi hiện nay là làm phúc là cứu người.
Tôi nhìn khắp căn phòng, dưới chân bàn thờ có hình mấy người đã chết... Trên khung cửa vào phòng có thờ hàng chữ của Đức Mohammed là nhà Tiên Tri của Hồi Giáo. Tôi hỏi người đàn bà:
- Cô xem chỉ tay tướng số bói bài phải không?
- Không tất cả những thứ đó tôi đều biết, nhưng không xem bói toán cho ai. Ngoại trừ có ai đó thân tình cần tôi giúp. Tôi xin nói thẳng rằng tôi là một Thầy về bùa ngãi chuyên nghiệp, nhưng tôi không làm chuyện thất đức, không dùng bùa ngãi để thư yếm hại ai bao giờ. Ngược lại tôi đã giúp cho bao nhiêu gia đình tan nát được đoàn tụ hạnh phúc, những người bỏ vợ bỏ chồng đi lang chạy theo người khác. tôi đã giúp kéo họ trở về sống lại với nhau. Tôi giúp cho những người bị mất của được tìm lại tài sản đã mất, giúp cho người ta tránh được tai nạn chết chóc, giúp cho các người kinh doanh được mua may bán đắt, có nhiều khách...
Nói tóm lại tôi chỉ muốn giúp người. Tôi cũng giúp giải cứu nhiều người bị các thầy bùa ngãi độc ác thư yếm, mà đã đi nhiều nơi nhưng không ai giải phá cứu được. Và đặc biệt là tôi có thể chữa được một số bệnh như bị phong thấp bại xuội, bị mặt đầy mụn nhọt ghẻ lở. Tôi sẽ chữa lành cấp tốc mà tôi không hề lấy của ai đồng xu nào, khi tôi chữa trị giúp họ. Những ai bị tê thấp không giở tay lên được, hay không bước đi được, tôi chỉ đọc lời cầu chú và cào vuốt chỗ đau, lập tức họ sẽ khỏi trong vòng lối mười lăm phút. Người bị bệnh lâu vài chục năm thì ít ra cũng phải được tôi chữa trong lối ba lần mới hết.
Trong khi nói chuyện với bà thầy bùa ngãi, phái viên nghe điện thoại của bà, hầu như cứ năm bảy phút lại reo lên liên tục. Nhiều người gọi xin hẹn giờ hay xin thỉnh bùa thỉnh phép. Tôi hỏi người đàn bà:
- Mỗi người khách cô lấy bao nhiêu tiền?
- Tôi không lấy bao nhiêu cả. Chữa trị bệnh hoàn toàn miễn phí. Những ai đến thỉnh bùa, ngãi hay cần giải cứu thì tùy theo kết quả mà họ đạt được, họ đến trả lễ bao nhiêu là tùy hỷ. Có người cho tôi vài đồng, có người cho vài chục, nhưng cũng có nhiều người cho tới vài trăm hoặc vài nghìn Đô La.
- Như vậy chắc cô kiếm được nhiều tiền lắm, vì tôi nghe điện thoại xin gặp cô liên tục.
Người đàn bà đưa ra trước mặt tôi nhiều tờ báo xuất bản tại Việt Nam. Những báo đó xuất bản phát hành các năm khác nhau, và đều có bài viết và hình ảnh đăng tải về người đàn bà mà tôi đang tiếp xúc. Trên báo Saigon Times xuất bản tháng chín năm 2000, có bài viết ký tên Le Toan với tựa đề "US. Family Gives Food Parcels to The Poor" đã viết rằng. Một gia đình ở San Jose đã tặng hai ngàn gói lương thực, trị giá bốn mươi ngàn đồng Việt Nam, mỗi gói cho dân nghèo quận bốn Sài Gòn, khi họ về thăm nhà hàng năm. Bên cạnh bài viết là hình của người đàn bà đang trao gói quà cho một phụ nữ nghèo. Dưới tấm hình ghi là "Mrs Le Khanh hands a food parcel to a poor woman".
Trong khi đó tờ báo kinh doanh tiếp thị trong một bài khác, có đăng hình ảnh của bà Lệ Khanh, đang trao quà cho những gia đình nghèo tại quận bốn Sài gòn vào ngày bốn tháng chín 2001. Bài báo thường thuật rằng Bà Lệ Khanh sống tại San Jose, đã về Việt Nam tặng quà lần thứ mười ba, cho hai ngàn gia đình nghèo, mỗi gia đình một phần quà gồm gạo bột ngọt, mì gói dầu ăn, nước tương muối bột. Ngoài ra bà Lệ Khanh cũng tặng ba trăm phần quà, tại quận tám Sài gòn trong dịp tết trung thu và cho các hội bảo trợ các nhà tình thương, các mái ấm trẻ em đánh giày và thiếu nhi ngoài đường phố, mỗi nơi một trăm Mỹ kim.
Bài và ảnh chụp do phóng viên Cẩm Thanh viết nói rằng, đây là lần thứ mười ba bà Lệ Khanh phát tặng quà cho người nghèo tại Sài gòn. Những bài báo khác xuất bản tại Sài gòn có đăng hình ảnh và bài tường thuật, bà Lệ Khanh đang phát tặng quà Noel cho một ngàn hộ gia đình nghèo, tại phường mười hai quận bốn Sài gòn. Người đàn bà chuyên nghề bùa ngãi đưa cho tôi xem các quảng cáo của bà, đăng trên vài tờ báo tại San Jose và nói với tôi:
- Tôi không được ăn thịt, hàng ngày khách thập phương đưa gà, vịt và hằng giỏ đầy trứng trái cây đến cúng tổ, tôi nuôi ngãi xong là cũng bỏ đi. Thực phẩm hằng ngày của tôi là do người thập phương cho tôi ăn, tôi chẳng thiếu thốn gì cả. Tôi chỉ giúp người và nếu có ai cho tiền bạc hay gởi tiền cúng tổ tạ ơn, thì tôi thu gom mang đi làm việc nghĩa, làm việc bố thí từ thiện cho dân nghèo. Tôi về Việt Nam và đã tặng thực phẩm cho người nghèo được mười ba lần, những lần đầu thì chỉ tặng cho một ngàn gia đình nghèo thôi, những lần sau thì hai ngàn gia đình, rồi mới đây là nhiều hơn.
Khi tôi tặng quà thì có chính quyền địa phương, báo chí và cả công an đến kiểm soát, tôi chỉ giúp người nghèo mà thôi. Và vì vậy tôi chỉ làm chuyện tốt, không dùng bùa ngãi để trục lợi cho cá nhân mình hay đi hại người khác. Tôi không cần tiền cho cá nhân tôi, nên chẳng có ai có thể dùng tiền bạc để sai khiến tôi làm bậy, như thư yếm hại phá người nào. Báo Saigòn Times ghi bà Lệ Khanh sáu mươi tám tuổi, tôi hỏi về cá nhân bà bà kể:
- Tôi có thể nói tiếng Việt Nam và có tên Việt Nam là Lệ Khanh nhưng tôi không phải là người Việt, tôi là người Thái Lan thuộc một bộ tộc thiểu số gốc Chăm, tại vùng núi Shakhon miền Bắc Thái Lan. Bộ tộc tôi theo mẫu hệ, tên ông ngoại của tôi là Thầy bùa ngãi Kha Mắt Kham Bi Rô, kiêm già Làng trong toàn bộ tộc. Tên thật của tôi là Kha Lay May, chúng tôi theo Hồi Giáo nhưng không cuồng tín và không chấp nhận khủng bố. Theo tục lệ mỗi đứa trẻ sinh ra, đều được bộ tộc dành cho một cái hủ chứa các viên sỏi, để tính tuổi của mình. Lúc tôi được tám viên sỏi, thì tôi bị bệnh nặng và mê man nhiều ngày. Ngoại của tôi đã dùng bùa ngãi chữa cho tôi lành bệnh.
Nhưng ngay sau đó trong bộ tộc bị bệnh dịch tả gây chết hằng loạt, và dân khắp vùng kéo đến yêu cầu đốt tôi thành tro, vì cho rằng tôi đã chết mà nay sống lại, làm con ma lai về giết hại dân buôn bản. Ông Nội tôi là nhà chân tu Phật Giáo Thái Lan, đã bàn với ông Ngoại tôi, và hai gia đình đành chuẩn bị thực phẩm, gởi tôi cho một đoàn người buôn lậu đưa ra khỏi vùng. Khi ra đi ông ngoại tôi cho tôi mang theo một túi bùa ngãi, mà tôi được huấn luyện từ khi mới lên ba viên sỏi. Ngoại đọc bùa chú cho tôi đi và nói rằng, khi tôi lớn lên là không được gần đàn ông, và phải làm nghề bùa ngãi để cứu nhân độ thế.
Đoàn buôn lậu đưa tôi băng rừng trong nhiều ngày đêm, và cuối cùng đến gởi tôi tại một già làng thuộc buôn Thượng, ở khu vực Mai Thôn gần Đà Lạt. Khi tôi được mười hai tuổi thì tôi hái lan rừng mang ra chợ Đà Lạt bán, và tôi được gặp một phụ nữ Việt Nam tên là Lệ Khanh đã đưa tôi về nhà ở chung, để giúp đỡ tôi. Tôi thực sự ở với chị Lệ Khanh vào lúc tôi mười sáu tuổi, và tên thật của tôi là Kha lay May nên cả nhà gọi tôi là May. Tôi nói được tiếng Thượng, tiếng Thái và nay chị Lệ Khanh dạy thêm cho tôi tiếng Việt. Chồng chị Lệ Khanh là anh Trần Văn Hải, đã quyết định đưa gia đình về Sài gòn sinh sống vào khoảng năm 1970.
Tôi đi theo và nhờ đó tôi có dịp quen với các anh chị đào kép cải lương. Tôi kiếm được ít tiền và sang lại đoàn cải lương Hoa Anh Đào-Kim Chưởng để làm bầu gánh một thời gian. Thời gian nầy tôi có dịp trở lại Thái Lan tìm về nguồn gốc của tôi. Tôi đã tìm được các thầy bùa ngãi cấp đẳng cao cường, và được truyền lại các bí quyết trong nghề bùa ngãi, nhưng tôi phải thề không được dùng bùa ngãi để ếm hại người khác. Đến năm bảy mươi mốt, thì chị Lệ Khanh bị bệnh và qua đời. Anh Trần Văn Hải chồng chị làm việc cho Mỹ ở Kho năm, có ba đứa con gái và tôi thay chị Lệ Khanh để lo cho các con của chị, mà tôi xem như con ruột của mình. Chúng cũng gọi tôi bằng mẹ mặc dầu tôi nhỏ tuổi hơn chị Lệ Khanh.
Sau năm bảy lăm, anh Hải đưa các con về làm rẫy tại Long Khánh, tôi cũng đi theo và một hôm lúc tôi đang làm rẫy, thấy anh em tù sỹ quan cải tạo đi qua rách rưới đói khát, tôi kiếm tiền mua đường thẻ ném cho anh em chia nhau, vì chuyện này mà tôi bị bắt giam, bị đánh đập tôi tàn nhẫn rồi nhốt tôi hai năm tại Biên Hòa về tội làm gián điệp. Bà Kha Lay May kể tiếp:
- Khi ra khỏi tù tôi nghĩ phải tìm mọi cách ra khỏi Việt Nam, tôi quyết định dùng bùa ngãi để nói chuyện với cục quản lý xuất nhập cảnh tại Sài gòn. Tôi lấy giấy tờ của chị Lệ Khanh sinh năm 1940 nay đã chết và khai là giấy tờ của tôi. Anh Hải là chồng của chị Lệ Khanh nay trên giấy tờ là chồng của tôi, và các con của chị đều là con tôi cả. Tôi lấy oxy già để nhuộm vàng tóc của một đứa con gái, và công an ở Sài gòn đã giúp tôi khai giấy tờ là tôi có chồng tên là Trần Văn Hải, sau đó chồng tôi bỏ mấy mẹ con tôi đi theo người khác, nên tôi đi làm sở Mỹ nên quen với một lính Mỹ và có riêng một đứa con gái lai Mỹ.
Rồi thì chồng tôi trở về lại, nên gia đình tôi sum họp và chồng tôi cũng có công giúp tôi nuôi đứa con gái lai Mỹ thành người, nhờ đó khi đi phỏng vấn, thì cả gia đình anh Hải và tôi đã được xuất cảnh đến San Jose. Chúng tôi nay vào quốc tịch Mỹ và mua nhà tại Garden Ave San Jose, tôi mang ơn Việt Nam và nay tôi hành nghề bùa ngãi, để nếu được ai cho đồng nào thì tôi lại mang về giúp đỡ những người nghèo khổ tại Sài gòn. Ở San Jose nhiều thầy bùa ngãi người Miên thường ăn tiền để đi thư yếm người khác. Tôi đã giải bùa cho nhiều người Việt Nam gặp nạn bị thư yếm, và tôi đã cứu họ được sống.
Tôi giúp cho nhiều người làm ăn thịnh vượng, và giúp trị các người bị phong tê thấp liệt tay chân. Những bệnh như thế tôi chỉ đọc lời khấn và vuốt vài cái là họ có thể hết ngay tức thì. Tôi không lấy tiền khi giúp người bệnh. Những ai bị mụn đầy mặt, tôi cũng chữa khỏi ngay và da mặt họ sẽ láng o như da mặt của tôi. Những người đến trị mụn tôi cũng không lấy tiền, tuy nhiên họ có thể cho anh Hải một vài đồng, vì anh ấy sát trùng dụng cụ. Những ai mất của hãy mang theo một đứa bé trai từ tám tuổi đến mười tuổi, đứa bé đó sẽ nhìn vào bàn tay của tôi và thấy được ai là người đã ăn cắp, giống như nhìn lên màn ảnh TV để xem phim vậy.
Những ngày kế tiếp sau đó phái viên bất chợt đến xem, một số khách đến xin giải bùa hay xin tìm của bị mất. Một phụ nữ bỏ toàn bộ nữ trang và ba chục ngàn tiền mặt, vào trong một chiếc giày ống cao cổ định mua Mobile Home, nhưng đã bị mất sạch và bị người chồng chửi rủa thậm tệ là lấy tiền cho trai. Người vợ được bạn giới thiệu đến xem, và đã dắt theo một đứa cháu trai chín tuổi của bên chồng, và không cho đứa bé biết trước chuyện gì. Khi thằng bé nhìn vào bàn tay phải của bà Kha Lay May nó nói:
- Cô ơi con thấy chú Tám lấy một chiếc giày ở dưới giường ra, và thò tay vào trong chiếc giày lấy ra một gói đồ gì đó..và..chú Tám lái xe đem gói đồ đến đưa cho cô Út.
Người phụ nữ mất của đứng bật dậy như cái lò xo:
- Trời ơi ông chồng tui thế mà cứ chửi tui hoài, lấy hết gia sản qua đưa cho em ruột không biết đang tính chuyện gì đây!
Người phụ nữ mừng rỡ bỏ vào lọ cúng tổ ba mươi Mỹ kim và bước ra ngoài, người phụ nữ xin miễn ghi tên tuổi vì sợ nói ra bỉ mặt người chồng, chuyện nghe thật khó tin, nhưng đang có thật trong một đất nước văn minh hiện đại như Hoa Kỳ.
Tâm Linh
Thanked by 1 Member:
|
|
#50
Gửi vào 15/06/2011 - 05:55
CON DƠI TRẮNG KHỔNG LỒ
Có rất nhiều chuyện lạ kể về quyền uy của các vị tu sĩ Ai Cập cổ đại, đặc biệt là những lời thần chú của họ yểm giữ cho các ngôi mộ khiến chúng trở thành bất khả xâm phạm. Dân Ai Cập thường chôn theo người chết rất nhiều của cải, và không có gì lạ nếu những phần mộ đó bị lũ kẻ cướp, hết thế hệ này sang thế hệ khác đến cướp phá. Trong số những kẻ cướp phá đó, có không ít người là các nhà Ai Cập học hiện đại, họ cướp phá dưới danh nghĩa khoa học, nhưng điều đó chẳng làm nên sự khác biệt nào, những lời nguyền linh ứng với tất cả những kẻ nào, xâm phạm tới nơi thiêng liêng của ngôi mộ bất kể mục đích của họ là gì.
Có rất nhiều câu chuyện lạ, ví dụ như chuyện kể về lời nguyền ở ngôi mộ của Tutankhamen, và số phận của những kẻ cả gan xâm phạm. Trong những ngày đầu thế kỷ, giới Ai Cập học hết sức đông đảo, những kẻ đào bới thuộc mọi quốc tịch bận rộn khai thác ở thung lũng, bất chấp những lời nguyền xa xưa. Đó là thời gian các nhà khoa học tiến bộ không còn coi trọng những lời nguyền xưa nữa, phần lớn những người đột tử, đều có thể đã đồng tình với đồng nghiệp của mình rằng, cái chết của họ không có liên quan gì tới những điều mê tín dị đoan vớ vẩn.
Tuy nhiên quan điểm của Michael Hendry lại hoàn toàn khác, sự trải nghiệm quá kinh khủng tới mức không còn nghi ngờ gì nữa, sự trả thù của các tu sĩ Ai Cập đã ứng nghiệm vào ông, bằng một cách thức thật ghê rợn. Hendry không phải là chuyên gia Ai Cập học, mà cũng chẳng phải là một nhà khoa học, ông vốn là người Ailen sang Mỹ từ khi còn trẻ, và đã kiếm được lưng vốn kha khá tại sở chứng khoán New York, vào thời của những tên tuổi như Astor, Rockefeller và Vanderbilt, khi mà bất kỳ một người buôn bán khôn ngoan nào cũng có thể trở thành triệu phú, đó là thời đại kinh tế hoả tiễn của Hoa Kỳ thế kỷ XIX.
Hendry làm giàu rồi về hưu, ông kết hôn với một goá phụ già hơn ông hai mươi tuổi, đó không phải là một cuộc hôn nhân vì vật chất. ông đã rất yêu bà và bà cũng vậy, bà không lấy ông vì tiền. Niềm say mê lớn trong cuộc đời ông là Ai Cập học, một sở thích vô thưởng vô phạt ở nước Mỹ tự do. Nhưng Mary Hendry nhanh chóng phát hiện ra ngôi nhà đẹp yên tĩnh ở Long Island, ngôi nhà bà đã từng ước ao không phù hợp với bà. Hendry thì muốn dùng thời gian cuối đời để theo đuổi đam mê lớn của mình, và điều đó đồng nghĩa với việc sang Ai Cập, đào bới ở những khu vực chôn cất cấm kỵ của các vị Pharaon vĩ đại. Mary vì không thích lắm nên cũng không mấy hưởng ứng, theo bà, ông nên từ bỏ ý định ấy đi vì dù sao ông cũng không còn trẻ.
Khí hậu ở thung lũng sông Nile không có gì tốt cho ông, và bà cho rằng phải nhanh chóng thuyết phục ông cư trú ổn định, ở một nơi nào đó thật thoải mái và thuận tiện, với bà châu Âu hay châu Mỹ đều không quan trọng. Bà nghĩ nên về sống ở Ailen quê hương ông, nơi đó mức sống vào những ngày ấy cũng khá cao, nếu không nói là cao hơn ở Mỹ. Những chuyến đi Ai Cập thật thú vị, họ ở khách sạn Shepheard, Cairo, đó là những ngày thanh bình, một vài năm trước khi chiến tranh thế giới nổ ra. Bà Hendry đi theo các điểm du lịch thông thường, thăm các kim tự tháp, tượng nhân sư ở Giza, cưỡi lạc đà và du thuyền trên sông Nile.
Hendry không sang Ai Cập với mục đích du lịch thông thường, với ông đây là chuyến du lịch tới vùng đất của các Pharaon, ông vùi mình vào việc khai quật nhiều loại mộ ở thung lũng các Hoàng đế, với niềm đam mê mãnh liệt. Hiểu biết của ông đã gây ấn tượng đối với nhiều nhà Ai Cập học chuyên nghiệp, và sự giàu có của ông cũng khiến họ vị nể, thời ấy phần lớn các cuộc khám phá đều do tư nhân tự bỏ vốn, và các nhà triệu phú Mỹ luôn được hoan nghênh, đặc biệt với một người có kiến thức như Hendry. Cũng vào thời điểm Hendry tới Ai Cập, cái chết bí ẩn của một nhà khảo cổ học người Đức mang tên Schaffer đã làm xôn xao dư luận.
Ông ta đang tiến hành khai quật ngôi mộ của một tu sĩ, có đẳng cấp cao của "Trường đại học các tu sĩ bí ẩn Hoàng Gia", được Cheops thành lập vào triều đại thứ tư, khoảng bốn ngàn năm trước Công nguyên. Các bác sĩ nói rằng Schaffer chết là do chứng tim đột quỵ nhưng theo những công nhân Ai Cập mê tín thì lúc ấy, ngôi mộ đầy những linh hồn quỷ dữ và đó mới là nguyên do cái chết của Schaffer. Ngôi mộ mới chỉ đào được đến phần bên ngoài, và người Ai Cập cho rằng chắc chắn phải có một phòng rộng hơn ở bên trong, đó là nơi để xác ướp của vị tu sĩ, chứa đầy ma quỷ quyền năng mang cái chết đến, cho kẻ nào dám cả gan đột nhập vào.
Hendry quyết định tiếp tục công việc khai quật của Schaffer. Những câu chuyện về sự tận số và tai họa không hề làm Hendry lay chuyển, hơn nữa ông cho rằng những ngôi mộ cổ đều đã bị đột nhập và bị không biết bao nhiêu kẻ đến cướp bóc từ trước đến nay, và nếu lời nguyền của vị tu sĩ linh ứng thì những kẻ cướp bóc mê tín đã không mò đến. Vì thế Hendry đã kiếm được giấy phép hợp lệ để tiếp tục công việc của Schaffer. Ông để người vợ muộn phiền lại Cairo, tới vùng thung lũng của các Hoàng đế. Tất cả những công nhân đã làm việc cho Schaffer, không ai còn dám tới gần ngôi mộ, và Hendry phải mua chuộc những người bản địa khác để họ giúp ông, nhưng ai cũng từ chối vào phòng trong nơi có xác ướp.
Với sự trợ giúp của họ Hendry đã mở tung được ba phòng, và cuối cùng cũng tới được phòng chôn xác, cánh cửa mang dấu niêm phong của Cheops một con dơi có đôi cánh lớn, đằng sau dấu niêm phong là nơi bất khả xâm phạm. Dùng ánh điện lắp tạm thời, Hendry tiếp tục công việc một mình. Vào phòng trong ông tìm thấy một cái quách lớn bằng vàng. Căn phòng được trang hoàng xa hoa, vì triều đại thứ tư là vương triều của sự giàu có huy hoàng, khi nghệ thuật vương giả đạt đến đỉnh cao nhất. Nhấc nắp quan tài bằng vàng lên, ông nhìn thấy xác ướp của vị tu sĩ vẫn còn hoàn hảo, thậm chí bộ râu trắng của ông ta vẫn còn nguyên vẹn.
Trên ngực xác ướp có con bọ hung có cánh, hình dáng như một con dơi, chứ không giống một con bọ cánh cứng thông thường. Con bọ bị buộc chặt vào chính những dải băng đã gói xác chết, sau quá trình làm héo xác ướp. Ông nhặt nó lên xé ra khỏi những lần vải buộc đã mục theo thời gian. Đó là một con bọ hung lớn và được khắc chạm bằng những câu viết bí ẩn.
- Hình như..sau đó ông nói:
- Hình như một cơn giận dữ khủng khiếp bao trùm lên tôi, như một đám mây lúc tôi đụng vào con bọ, ngọn đèn chỉ còn le lói, một cơn gió lạnh lan toả khắp ngôi mộ, và tôi nghe thấy tiếng vi vu trong không khí lướt qua mặt tôi, tôi đoán đó là những con dơi. Quá khiếp sợ ông chạy ra khỏi phòng, trong tay nắm chặt lấy con bọ, trước đây ông cho rằng lũ dơi chỉ là sự hư cấu, và lúc này đây ông chỉ muốn thoát ra khỏi bầu không khí ngột ngạt, rùng rợn của phòng huyệt ra ngoài bầu trời trong lành. Ông thấy quá mệt và đau nên không đi tiếp được.
Ông lập tức trở lại Cairo, trong lòng còn quá hoảng sợ vì những gì đã xảy ra, ông đã đọc được ở đâu đó rằng trong suốt thời gian trị vì, hoàng đế Cheops rất sùng bái một con dơi và ông lập ra "Trường đại học của các tu sĩ bí ẩn" vì lòng sùng bái của mình. Liệu hoàng đế có hình dung ra rằng có dơi trong phòng huyệt ? và phòng huyệt có thể sẽ không được mở ra trong mười thế kỷ, chẳng có con dơi nào lại có thể sống ở đó. Về tới Shepheard ông thấy mặt vợ trắng bệch và đang hết sức hốt hoảng.
- Michael em lo cho anh quá, suốt ngày nay em linh cảm như có chuyện gì đó thật khủng khiếp đã xảy ra, cảm ơn Chúa anh vẫn bình an.
Hendry cũng cảm ơn Chúa.
- Anh không thích nơi đó anh sẽ không quay lại đó nữa. ông nói:
- Chúng mình hãy cùng nhau xuôi sông Nile xuống Luxor, thay đổi không khí sẽ có ích cho chúng ta.
Mary tán thành ngay nhưng bà vẫn muốn rời khỏi Ai Cập càng nhanh càng tốt, bà chẳng bao giờ muốn chồng mình cứ đi đào bới xung quanh, những nơi kỳ bí cũng như ở các ngôi mộ cổ. Bà thấy có một chút sự thực trong những câu chuyện kể về các lực lượng siêu nhiên hiển linh tại nơi đó, có lần bà nghe người ta kể rằng, việc lấy xác ướp ra khỏi quan tài là một hành động cực kỳ báng bổ thánh thần và sẽ chỉ mang lại toàn tai họa. Còn nếu ai sờ hay đọc những chú giải thần bí ở chỗ xác ướp thì người đó nhất định phải chết.
Chuyến du ngoạn xuôi sông Nile làm cho Hendry dần dần phục hồi khỏi cú sốc kinh hoàng nọ. Ông vẫn ngoan cố giữ con bọ vì ông không tài nào từ chối một kho báu từ thời cổ đại hiếm và quý đến vậy. Ông dấu kỹ trong tư trang, không hề nói với ai kể cả vợ mình về điều đó. Trong khi cắm trại nghỉ bên bờ sông Nile cách Luxor không xa, ông bị một tiếng động lạ đánh thức, hé mắt nhìn ra cửa lều, ông thấy một con dơi khổng lồ trắng toát bay nhẹ nhàng không ngớt quanh căn lều, phát ra tiếng kêu chít chít.
Nó khiến ông sợ hết hồn, ông cố gắng đuổi nó đi nhưng nó cứ chao liệng vòng tròn, đôi lúc sà xuống gần ông và nhìn chòng chọc vào mặt ông bằng đôi mắt xoi mói rùng rợn, ông chưa bao giờ thấy một con dơi nào như thế, trông nó không giống như sinh vật ở thế giới này. Ông quay vào và đóng chặt cửa lều, vợ ông nằm ngủ trên chiếc giường dã ngoại, cám ơn Chúa và ít nhất bà ấy đã không bị đánh thức bởi con vật đáng sợ của đêm đen. Hendry không tài nào ngủ được, ông nằm đó lắng nghe con dơi the thé, báo điềm gở cứ chao liệng bên ngoài, có lúc cánh của nó tức tối đập vào vải bạt như muốn tìm cách chui vào lều.
Hendry để ý thấy mặc dù vợ mình không tỉnh giấc nhưng bà cứ liên tục trở mình, khi nhìn gần hơn vào mặt vợ, ông thấy mặt bà căng ra vì sợ, mồ hôi lấm tấm trên trán, liệu tiếng kêu chít chít của sinh vật thuộc đêm đen ấy, có ảnh hưởng đến giấc ngủ của con người không ? Tiếng đập cánh ngưng được một lúc thì Hendry cẩn thận mở cửa lều nhìn ra, ông thấy con dơi trắng khổng lồ, lượn vòng tròn quanh căn lều một lần cuối rồi bay qua sông Nile theo hướng Luxor. Ông thấy nó bay cao trên nền trời trắng bạc của đêm trăng tròn, về lại nơi nó đã xuất phát, bên dưới nó đằng xa là cảnh hoang tàn, đổ nát của "Ngôi đền Thebes" do Amenhotep đệ tam cho xây cất.
Cha của Pharaon dị giáo và Akhenaton, nhưng giữa vị tu sĩ đắc đạo của Cheops và "Ngôi đền của Thebes" là khoảng thời gian sáu thế kỷ và cách xa nhau hàng trăm dặm, chẳng có gì liên quan giữa con dơi trắng khổng lồ với con bọ, ông vẫn cố tình cất giữ cẩn thận trong đống hành lý. Ông quay lại lều cố dỗ giấc ngủ, ông thấy từ lúc con dơi bay đi, vợ ông ngủ bình thản hơn, còn ông đêm đó chẳng được an giấc, ông nằm đó trằn trọc bị nỗi sợ hãi ám ảnh, trong lúc nửa tỉnh nửa mơ lúc rạng sáng, ông thấy mình quay lại ngôi mộ của vị tu sĩ đắc đạo, ở đó tối om và toàn những cảnh khủng khiếp rợn người.
Buổi sáng ngủ dậy vợ ông u sầu chán nản ghê gớm, bà chẳng hiểu tại sao mà cũng chẳng rũ bỏ được, bà nói rằng mình có một cơn ác mộng kinh khủng, khi ông nài ép, bà cố gắng tả lại nhưng bà không nói được gì ngoài câu, trong mơ bà thấy có rất nhiều dơi và có một con dơi kỳ dị khác thường, cứ cố săn đuổi bà. Bà chán ngấy Ai Cập, đây là nơi khiến bà bị căng thẳng thần kinh nhất. Hendry cũng quá ngán đất nước này, ông đã mất gần hết lòng nhiệt thành đối với Ai Cập học, nhưng ông vẫn không chịu chia tay với con bọ.
kết quả thực tế trong lần khai quật duy nhất của ông giữa những đổ nát của quá khứ, ông không tin vật đó lại có thể gây hại cho mình, và ông không hề nghĩ rằng Mary sẽ gặp phải bất cứ hiểm họa gì. Họ sẽ rời Ai Cập chuẩn bị tới Hy Lạp, và sau đó tiếp tục sang Ý, nơi ông thấy vẫn còn tồn tại thế giới cổ kính, mà không bị bao trùm bởi những đám mây thần bí, và không bị phù phép bởi các ma thuật khó hiểu của các tu sĩ. Nhưng không gì khiến họ có thể thoát ra khỏi sự đày ải, tai họa đã vây lấy họ, kể từ đêm đó bên bờ sông Nile, Mary Hendry mắc chứng nghẹt thở đến lịm đi rất kỳ lạ.
Bà không còn vui vẻ hoạt bát mà chìm sâu vào những cơn u sầu liên miên, ảnh hưởng đến cả tinh thần và thể xác, bà rất ít khi ngồi dậy, ăn không thấy ngon miệng, mất hết sức sống lúc nào cũng muốn nằm. Hendry đưa bà tới hết bác sĩ này đến bác sĩ khác, vị nào cũng đưa ra một loạt chẩn đoán có vẻ hợp lý, nhưng không ai thực sự tìm ra bệnh, hoặc kê được đơn thuốc làm thuyên giảm bệnh tình của bà. Bà như không còn ở bên ông nữa, tự tuột ra khỏi cuộc sống, sự việc không xảy ra từ từ mà chỉ trong vòng vài tuần, quá nhanh đến nỗi ông không kịp đưa bà quay lại Mỹ, nơi ông cho rằng có thể chạy chữa cho bà, vì các bác sĩ bảo bà không thích nghi được với một chuyến đi vượt Đại Tây Dương.
Còn với Hendry giấc ngủ của ông chỉ toàn ác mộng, vào một đêm vợ ông có vè khá hơn suốt cả ngày, ông đi ngủ với trái tim tràn trề hy vọng, thì ông có một giấc mơ rùng rợn khủng khiếp. Ông đang đi qua một hội trường lớn, tiếp theo đó là nhà thờ rộng mênh mông, trong đó có những hình người Ai Cập khổng lồ, được chạm khắc trên những công trình bằng đá. Đôi chân ông đi nhanh như chạy, như muốn vượt qua những căn phòng tráng lệ của thế giới sông Nile cổ xưa, và ông cảm nhận rõ hương thơm kỳ lạ, hương thơm ấy càng lúc càng ngào ngạt hơn, khiến ông không kìm nén được cơn buồn nôn.
Giờ đây những hội trường lớn Ai Cập khổng lồ, được thay bằng những hành lang đá vô tận, lúc đầu ông nghĩ đó là những hành lang trong kim tự tháp, nhưng ông rảo chân qua các hành lang ngày càng hẹp hơn, và ông biết đó là con đường dẫn tới trung tâm trái đất. Ông cũng biết mình đang bị săn đuổi ông không dám nhìn xung quanh, nhưng ông biết rõ cái gì đang truy đuổi mình, chính là hương thơm toả mùi đến phát ốm, chế ngự khắp nơi và mỗi lúc một ngào ngạt hơn. Cuối cùng ông cũng kết thúc được hành trình, và thấy mình nằm trong một hầm mộ bằng đá không có lối thoát, khi đứng lên mồ hôi lạnh túa ra, ông thấy căn phòng càng ngày càng hẹp hơn, tính đến từng giây, các bức tường và tấm trần cứ ép sát vào người ông.
Giờ đây ông đang nằm trên sàn hoảng sợ tột độ, nghẹt thở vì hương thơm, hình như toàn bộ mùi thơm ở những ngôi mộ cổ Ai Cập đều ập đến. Khi ngửng lên ông mới thấy kinh hoàng, con dơi trắng khổng lồ từ từ đậu xuống hút dần sinh khí của ông. Hendry tỉnh hẳn tiếng kêu nghèn nghẹn như bị bóp cổ, ông ngồi dậy mồ hôi túa ra như tắm, và cảm giác khó chịu như có cái gì đó bám chặt ở cổ họng. Nỗi sợ tột cùng từ lúc tỉnh dậy vẫn chưa xua tan được, thì khi nhìn quanh căn phòng tràn ngập ánh trăng, ông lại thấy con dơi trắng bay ngang qua, thoát ra ngoài cửa sổ để ngỏ.
Ông nhảy khỏi giường không chỉ sợ cho riêng mình, ý nghĩ đầu tiên của ông là phải tiến lại cửa sổ, đuổi cái sinh vật ghê tởm ấy ra ngoài, khi ông làm vậy con dơi đậu yên bên ngoài tấm kính, đôi tai nhọn vểnh lên, đôi mắt thú tính sáng rực của nó nhìn ông chằm chằm. Ông lùi trở lại phòng và con dơi cất đôi cánh lên, kèm theo tiếng đập cánh uyển chuyển, và nhẹ nhàng bay theo hướng mặt trăng, qua các ngôi nhà bên trên các tán cây, đến lúc nó chỉ còn là một chấm nhỏ trên cái thiên thể bạc. Từ phía cửa sổ Hendry quay mình lại, nhanh chóng chạy sang buồng vợ qua cánh cửa thông với phòng ông, vừa bước vào phòng ông vừa nhìn thẳng về phía trước miệng gọi tên bà.
Ông thấy bà nằm trên giường trong tư thế không mấy tự nhiên, như thể bị đánh thức bất ngờ, bà không tỉnh dậy nữa, bà nằm đó hồn lìa khỏi xác, đôi mắt hoảng sợ mở trừng trừng. Hendry biết đó là tại con dơi trắng, nó đã bay vụt sang phòng bà khi ông vừa tỉnh khỏi cơn ác mộng.
- Chứng đột tử vì tim, bác sĩ kết luận.
- Tôi không thể đưa ra một lời giải thích nào khác, có lẽ là một cú sốc, vâng, điều đó hoàn toàn có cơ sở, trong tình trạng u uất như vậy, một giấc mơ mạnh cũng có thể giết chết bà ấy.
Hendry vô cùng đau khổ, ông yêu vợ và họ càng yêu nhau hơn, từ khi những chuyện rắc rối ở ngôi mộ vị tu sĩ đắc đạo bắt đầu xảy ra.
Mọi thứ trượt dần khỏi quỹ đạo, vào ngày đưa tang vợ, ông nhận được tin tức nghiêm trọng từ New York. Hai nơi ông tập trung phần lớn tài sản của mình để đầu tư bỗng nhiên thất bại, và ông phải hứng chịu thiệt hại rất lớn trong việc phá sản tiếp sau. Tiếp đến một người bạn đáng tin cậy ở New York biển thủ năm mươi ngàn đô la của ông rồi tự tử. Người cha già ở New Orleans cũng bỗng nhiên chết vì cơn đột quỵ không rõ nguyên nhân.
Trong tình trạng tuyệt vọng, Hendry đi hết nước này sang nước khác nhắm thoát khỏi con dơi trắng toát giờ đây cứ liên tục săn lùng ông, nó luôn xuất hiện vào ngày rằm, và mỗi lần nó đến ông đều gặp phải cùng một cơn ác mộng. Ông nằm trong phòng huyệt của vị tu sĩ, không khí ngột ngạt toàn mùi hương ngạt ngào ấy, căn phòng cứ hẹp vào, hẹp vào mãi, áp sát vào ông khiến ông bị ngạt thở vì hương thơm trong nỗi hãi hùng. Ông tỉnh dậy với cảm giác kinh hoàng là có cái gì đó cứ bám chặt ở cổ, hút dần sinh lực của ông, bên ngoài cửa sổ, trong ánh trăng sáng của đêm rằm, con dơi cứ nhìn ông bằng đôi mắt linh lợi y như mắt người.
Không giống những con dơi khác ông đã gặp, nó chỉ mang đến toàn điềm gở, chứa đầy tai họa và ông cho rằng nó không thuộc về thế giới này. Mặc kệ những nỗi sợ không tên, Hendry với bản chất ngoan cố, vẫn giữ con bọ, bỏ ngoài tai những lời khuyên của các bạn bè, những người ông kể chuyện, rằng ông phải trả nó về nơi ông đã lấy nó. Nhưng Hendry như đã bị bỏ bùa mê, ông không hoàn trả nó về chỗ cũ, ông đã mất hết mọi thứ trong cuộc đời và có lẽ, bất kể con dơi có làm gì thì cũng không còn có nghĩa với ông nữa.
Ở Luân đôn ông tham khảo ý kiến các nhà Ai Cập học và các sinh viên về chuyện huyền bí này, đầu tiên người ta nghi ngờ câu chuyện của ông, và có người đã bảo với ông rằng, những con bọ không hề được biết đến ở triều đại thứ tư, đó là thời gian trị vì của Cheops hay Khufu gì đó, và con bọ được tìm thấy trên xác ướp của vị tu sĩ đắc đạo, có lẽ đã được đặt vào ở triều đại sau. Nếu thực thế Hendry tin rằng, một thời gian sau trong thời kỳ Ai Cập cổ đại, các vị tu sĩ đã đưa ra những lời nguyền độc địa đầy quyền năng, và chắc họ khi thấy ngôi mộ bị đột nhập, đã niêm phong nó bằng những lời nguyền khủng khiếp. Hơn thế họ còn cho gắn con bọ có cánh lên xác ướp. Hendry nhớ ra ông đã gặp con dơi trắng khổng lồ ở "Ngôi đền của Thebes", được xây dựng hai nghìn sáu trăm năm sau thời Cheops.
Điều huyền bí ấy đã được tìm ra, không phải nhờ các nhà Ai Cập học, hay những chuyên gia về chuyện bí ẩn, những người có thừa lòng ham mê, đầy một mớ lý thuyết nhưng không giúp được ông điều gì. Có người mượn ông con bọ rồi ngay ngày hôm sau đã trả lại cho ông, không chút do dự và kể rằng ông ta đã có một cơn ác mộng cực kỳ rùng rợn, sau đó ông nhìn thấy con dơi trắng nhẹ nhàng đập cánh ngoài cửa sổ. Ông ta nài nỉ Hendry mang con bọ quay lại Ai Cập trả nó về với xác ướp của vị tu sĩ nọ, nhưng Hendry không đời nào lại đi hứa làm việc đó.
Đêm đêm ông hoảng sợ lê bước đến bên giường, và càng trì hoãn được việc đó càng lâu càng tốt, sau những cơn ác mộng liên tiếp về dơi, ông tỉnh dậy thấy cổ họng mình sưng lên và cứng lại. Bác sĩ chẩn đoán ông bị một loại côn trùng có nọc độc cắn. Câu chuyện kết thúc tại Paris. Con dơi trắng xuất hiện lần cuối cùng, khi ông đang ngụ tại một khách sạn ở đường Fayette, nửa đêm trong khách sạn vang lên một tiếng thét dài ghê sợ.
Sáng hôm sau người ta thấy Hendry chết cứng trên giường, bác sĩ nói rằng ông bị đột tử vì tim ngừng đập, người hầu phòng nói rằng tối hôm trước, ông nhất định đóng chặt các cửa chớp phía ngoài khuôn cửa sổ phòng ông, nhưng khi ông chết các cửa chớp và cửa sổ đều mở rộng. Người ta không tìm thấy con bọ trong đống hành lý của ông, nó đã biến mất và từ đó trở đi, con dơi trắng khổng lồ cũng không xuất hiện nữa.
Frank Usher
Có rất nhiều chuyện lạ kể về quyền uy của các vị tu sĩ Ai Cập cổ đại, đặc biệt là những lời thần chú của họ yểm giữ cho các ngôi mộ khiến chúng trở thành bất khả xâm phạm. Dân Ai Cập thường chôn theo người chết rất nhiều của cải, và không có gì lạ nếu những phần mộ đó bị lũ kẻ cướp, hết thế hệ này sang thế hệ khác đến cướp phá. Trong số những kẻ cướp phá đó, có không ít người là các nhà Ai Cập học hiện đại, họ cướp phá dưới danh nghĩa khoa học, nhưng điều đó chẳng làm nên sự khác biệt nào, những lời nguyền linh ứng với tất cả những kẻ nào, xâm phạm tới nơi thiêng liêng của ngôi mộ bất kể mục đích của họ là gì.
Có rất nhiều câu chuyện lạ, ví dụ như chuyện kể về lời nguyền ở ngôi mộ của Tutankhamen, và số phận của những kẻ cả gan xâm phạm. Trong những ngày đầu thế kỷ, giới Ai Cập học hết sức đông đảo, những kẻ đào bới thuộc mọi quốc tịch bận rộn khai thác ở thung lũng, bất chấp những lời nguyền xa xưa. Đó là thời gian các nhà khoa học tiến bộ không còn coi trọng những lời nguyền xưa nữa, phần lớn những người đột tử, đều có thể đã đồng tình với đồng nghiệp của mình rằng, cái chết của họ không có liên quan gì tới những điều mê tín dị đoan vớ vẩn.
Tuy nhiên quan điểm của Michael Hendry lại hoàn toàn khác, sự trải nghiệm quá kinh khủng tới mức không còn nghi ngờ gì nữa, sự trả thù của các tu sĩ Ai Cập đã ứng nghiệm vào ông, bằng một cách thức thật ghê rợn. Hendry không phải là chuyên gia Ai Cập học, mà cũng chẳng phải là một nhà khoa học, ông vốn là người Ailen sang Mỹ từ khi còn trẻ, và đã kiếm được lưng vốn kha khá tại sở chứng khoán New York, vào thời của những tên tuổi như Astor, Rockefeller và Vanderbilt, khi mà bất kỳ một người buôn bán khôn ngoan nào cũng có thể trở thành triệu phú, đó là thời đại kinh tế hoả tiễn của Hoa Kỳ thế kỷ XIX.
Hendry làm giàu rồi về hưu, ông kết hôn với một goá phụ già hơn ông hai mươi tuổi, đó không phải là một cuộc hôn nhân vì vật chất. ông đã rất yêu bà và bà cũng vậy, bà không lấy ông vì tiền. Niềm say mê lớn trong cuộc đời ông là Ai Cập học, một sở thích vô thưởng vô phạt ở nước Mỹ tự do. Nhưng Mary Hendry nhanh chóng phát hiện ra ngôi nhà đẹp yên tĩnh ở Long Island, ngôi nhà bà đã từng ước ao không phù hợp với bà. Hendry thì muốn dùng thời gian cuối đời để theo đuổi đam mê lớn của mình, và điều đó đồng nghĩa với việc sang Ai Cập, đào bới ở những khu vực chôn cất cấm kỵ của các vị Pharaon vĩ đại. Mary vì không thích lắm nên cũng không mấy hưởng ứng, theo bà, ông nên từ bỏ ý định ấy đi vì dù sao ông cũng không còn trẻ.
Khí hậu ở thung lũng sông Nile không có gì tốt cho ông, và bà cho rằng phải nhanh chóng thuyết phục ông cư trú ổn định, ở một nơi nào đó thật thoải mái và thuận tiện, với bà châu Âu hay châu Mỹ đều không quan trọng. Bà nghĩ nên về sống ở Ailen quê hương ông, nơi đó mức sống vào những ngày ấy cũng khá cao, nếu không nói là cao hơn ở Mỹ. Những chuyến đi Ai Cập thật thú vị, họ ở khách sạn Shepheard, Cairo, đó là những ngày thanh bình, một vài năm trước khi chiến tranh thế giới nổ ra. Bà Hendry đi theo các điểm du lịch thông thường, thăm các kim tự tháp, tượng nhân sư ở Giza, cưỡi lạc đà và du thuyền trên sông Nile.
Hendry không sang Ai Cập với mục đích du lịch thông thường, với ông đây là chuyến du lịch tới vùng đất của các Pharaon, ông vùi mình vào việc khai quật nhiều loại mộ ở thung lũng các Hoàng đế, với niềm đam mê mãnh liệt. Hiểu biết của ông đã gây ấn tượng đối với nhiều nhà Ai Cập học chuyên nghiệp, và sự giàu có của ông cũng khiến họ vị nể, thời ấy phần lớn các cuộc khám phá đều do tư nhân tự bỏ vốn, và các nhà triệu phú Mỹ luôn được hoan nghênh, đặc biệt với một người có kiến thức như Hendry. Cũng vào thời điểm Hendry tới Ai Cập, cái chết bí ẩn của một nhà khảo cổ học người Đức mang tên Schaffer đã làm xôn xao dư luận.
Ông ta đang tiến hành khai quật ngôi mộ của một tu sĩ, có đẳng cấp cao của "Trường đại học các tu sĩ bí ẩn Hoàng Gia", được Cheops thành lập vào triều đại thứ tư, khoảng bốn ngàn năm trước Công nguyên. Các bác sĩ nói rằng Schaffer chết là do chứng tim đột quỵ nhưng theo những công nhân Ai Cập mê tín thì lúc ấy, ngôi mộ đầy những linh hồn quỷ dữ và đó mới là nguyên do cái chết của Schaffer. Ngôi mộ mới chỉ đào được đến phần bên ngoài, và người Ai Cập cho rằng chắc chắn phải có một phòng rộng hơn ở bên trong, đó là nơi để xác ướp của vị tu sĩ, chứa đầy ma quỷ quyền năng mang cái chết đến, cho kẻ nào dám cả gan đột nhập vào.
Hendry quyết định tiếp tục công việc khai quật của Schaffer. Những câu chuyện về sự tận số và tai họa không hề làm Hendry lay chuyển, hơn nữa ông cho rằng những ngôi mộ cổ đều đã bị đột nhập và bị không biết bao nhiêu kẻ đến cướp bóc từ trước đến nay, và nếu lời nguyền của vị tu sĩ linh ứng thì những kẻ cướp bóc mê tín đã không mò đến. Vì thế Hendry đã kiếm được giấy phép hợp lệ để tiếp tục công việc của Schaffer. Ông để người vợ muộn phiền lại Cairo, tới vùng thung lũng của các Hoàng đế. Tất cả những công nhân đã làm việc cho Schaffer, không ai còn dám tới gần ngôi mộ, và Hendry phải mua chuộc những người bản địa khác để họ giúp ông, nhưng ai cũng từ chối vào phòng trong nơi có xác ướp.
Với sự trợ giúp của họ Hendry đã mở tung được ba phòng, và cuối cùng cũng tới được phòng chôn xác, cánh cửa mang dấu niêm phong của Cheops một con dơi có đôi cánh lớn, đằng sau dấu niêm phong là nơi bất khả xâm phạm. Dùng ánh điện lắp tạm thời, Hendry tiếp tục công việc một mình. Vào phòng trong ông tìm thấy một cái quách lớn bằng vàng. Căn phòng được trang hoàng xa hoa, vì triều đại thứ tư là vương triều của sự giàu có huy hoàng, khi nghệ thuật vương giả đạt đến đỉnh cao nhất. Nhấc nắp quan tài bằng vàng lên, ông nhìn thấy xác ướp của vị tu sĩ vẫn còn hoàn hảo, thậm chí bộ râu trắng của ông ta vẫn còn nguyên vẹn.
Trên ngực xác ướp có con bọ hung có cánh, hình dáng như một con dơi, chứ không giống một con bọ cánh cứng thông thường. Con bọ bị buộc chặt vào chính những dải băng đã gói xác chết, sau quá trình làm héo xác ướp. Ông nhặt nó lên xé ra khỏi những lần vải buộc đã mục theo thời gian. Đó là một con bọ hung lớn và được khắc chạm bằng những câu viết bí ẩn.
- Hình như..sau đó ông nói:
- Hình như một cơn giận dữ khủng khiếp bao trùm lên tôi, như một đám mây lúc tôi đụng vào con bọ, ngọn đèn chỉ còn le lói, một cơn gió lạnh lan toả khắp ngôi mộ, và tôi nghe thấy tiếng vi vu trong không khí lướt qua mặt tôi, tôi đoán đó là những con dơi. Quá khiếp sợ ông chạy ra khỏi phòng, trong tay nắm chặt lấy con bọ, trước đây ông cho rằng lũ dơi chỉ là sự hư cấu, và lúc này đây ông chỉ muốn thoát ra khỏi bầu không khí ngột ngạt, rùng rợn của phòng huyệt ra ngoài bầu trời trong lành. Ông thấy quá mệt và đau nên không đi tiếp được.
Ông lập tức trở lại Cairo, trong lòng còn quá hoảng sợ vì những gì đã xảy ra, ông đã đọc được ở đâu đó rằng trong suốt thời gian trị vì, hoàng đế Cheops rất sùng bái một con dơi và ông lập ra "Trường đại học của các tu sĩ bí ẩn" vì lòng sùng bái của mình. Liệu hoàng đế có hình dung ra rằng có dơi trong phòng huyệt ? và phòng huyệt có thể sẽ không được mở ra trong mười thế kỷ, chẳng có con dơi nào lại có thể sống ở đó. Về tới Shepheard ông thấy mặt vợ trắng bệch và đang hết sức hốt hoảng.
- Michael em lo cho anh quá, suốt ngày nay em linh cảm như có chuyện gì đó thật khủng khiếp đã xảy ra, cảm ơn Chúa anh vẫn bình an.
Hendry cũng cảm ơn Chúa.
- Anh không thích nơi đó anh sẽ không quay lại đó nữa. ông nói:
- Chúng mình hãy cùng nhau xuôi sông Nile xuống Luxor, thay đổi không khí sẽ có ích cho chúng ta.
Mary tán thành ngay nhưng bà vẫn muốn rời khỏi Ai Cập càng nhanh càng tốt, bà chẳng bao giờ muốn chồng mình cứ đi đào bới xung quanh, những nơi kỳ bí cũng như ở các ngôi mộ cổ. Bà thấy có một chút sự thực trong những câu chuyện kể về các lực lượng siêu nhiên hiển linh tại nơi đó, có lần bà nghe người ta kể rằng, việc lấy xác ướp ra khỏi quan tài là một hành động cực kỳ báng bổ thánh thần và sẽ chỉ mang lại toàn tai họa. Còn nếu ai sờ hay đọc những chú giải thần bí ở chỗ xác ướp thì người đó nhất định phải chết.
Chuyến du ngoạn xuôi sông Nile làm cho Hendry dần dần phục hồi khỏi cú sốc kinh hoàng nọ. Ông vẫn ngoan cố giữ con bọ vì ông không tài nào từ chối một kho báu từ thời cổ đại hiếm và quý đến vậy. Ông dấu kỹ trong tư trang, không hề nói với ai kể cả vợ mình về điều đó. Trong khi cắm trại nghỉ bên bờ sông Nile cách Luxor không xa, ông bị một tiếng động lạ đánh thức, hé mắt nhìn ra cửa lều, ông thấy một con dơi khổng lồ trắng toát bay nhẹ nhàng không ngớt quanh căn lều, phát ra tiếng kêu chít chít.
Nó khiến ông sợ hết hồn, ông cố gắng đuổi nó đi nhưng nó cứ chao liệng vòng tròn, đôi lúc sà xuống gần ông và nhìn chòng chọc vào mặt ông bằng đôi mắt xoi mói rùng rợn, ông chưa bao giờ thấy một con dơi nào như thế, trông nó không giống như sinh vật ở thế giới này. Ông quay vào và đóng chặt cửa lều, vợ ông nằm ngủ trên chiếc giường dã ngoại, cám ơn Chúa và ít nhất bà ấy đã không bị đánh thức bởi con vật đáng sợ của đêm đen. Hendry không tài nào ngủ được, ông nằm đó lắng nghe con dơi the thé, báo điềm gở cứ chao liệng bên ngoài, có lúc cánh của nó tức tối đập vào vải bạt như muốn tìm cách chui vào lều.
Hendry để ý thấy mặc dù vợ mình không tỉnh giấc nhưng bà cứ liên tục trở mình, khi nhìn gần hơn vào mặt vợ, ông thấy mặt bà căng ra vì sợ, mồ hôi lấm tấm trên trán, liệu tiếng kêu chít chít của sinh vật thuộc đêm đen ấy, có ảnh hưởng đến giấc ngủ của con người không ? Tiếng đập cánh ngưng được một lúc thì Hendry cẩn thận mở cửa lều nhìn ra, ông thấy con dơi trắng khổng lồ, lượn vòng tròn quanh căn lều một lần cuối rồi bay qua sông Nile theo hướng Luxor. Ông thấy nó bay cao trên nền trời trắng bạc của đêm trăng tròn, về lại nơi nó đã xuất phát, bên dưới nó đằng xa là cảnh hoang tàn, đổ nát của "Ngôi đền Thebes" do Amenhotep đệ tam cho xây cất.
Cha của Pharaon dị giáo và Akhenaton, nhưng giữa vị tu sĩ đắc đạo của Cheops và "Ngôi đền của Thebes" là khoảng thời gian sáu thế kỷ và cách xa nhau hàng trăm dặm, chẳng có gì liên quan giữa con dơi trắng khổng lồ với con bọ, ông vẫn cố tình cất giữ cẩn thận trong đống hành lý. Ông quay lại lều cố dỗ giấc ngủ, ông thấy từ lúc con dơi bay đi, vợ ông ngủ bình thản hơn, còn ông đêm đó chẳng được an giấc, ông nằm đó trằn trọc bị nỗi sợ hãi ám ảnh, trong lúc nửa tỉnh nửa mơ lúc rạng sáng, ông thấy mình quay lại ngôi mộ của vị tu sĩ đắc đạo, ở đó tối om và toàn những cảnh khủng khiếp rợn người.
Buổi sáng ngủ dậy vợ ông u sầu chán nản ghê gớm, bà chẳng hiểu tại sao mà cũng chẳng rũ bỏ được, bà nói rằng mình có một cơn ác mộng kinh khủng, khi ông nài ép, bà cố gắng tả lại nhưng bà không nói được gì ngoài câu, trong mơ bà thấy có rất nhiều dơi và có một con dơi kỳ dị khác thường, cứ cố săn đuổi bà. Bà chán ngấy Ai Cập, đây là nơi khiến bà bị căng thẳng thần kinh nhất. Hendry cũng quá ngán đất nước này, ông đã mất gần hết lòng nhiệt thành đối với Ai Cập học, nhưng ông vẫn không chịu chia tay với con bọ.
kết quả thực tế trong lần khai quật duy nhất của ông giữa những đổ nát của quá khứ, ông không tin vật đó lại có thể gây hại cho mình, và ông không hề nghĩ rằng Mary sẽ gặp phải bất cứ hiểm họa gì. Họ sẽ rời Ai Cập chuẩn bị tới Hy Lạp, và sau đó tiếp tục sang Ý, nơi ông thấy vẫn còn tồn tại thế giới cổ kính, mà không bị bao trùm bởi những đám mây thần bí, và không bị phù phép bởi các ma thuật khó hiểu của các tu sĩ. Nhưng không gì khiến họ có thể thoát ra khỏi sự đày ải, tai họa đã vây lấy họ, kể từ đêm đó bên bờ sông Nile, Mary Hendry mắc chứng nghẹt thở đến lịm đi rất kỳ lạ.
Bà không còn vui vẻ hoạt bát mà chìm sâu vào những cơn u sầu liên miên, ảnh hưởng đến cả tinh thần và thể xác, bà rất ít khi ngồi dậy, ăn không thấy ngon miệng, mất hết sức sống lúc nào cũng muốn nằm. Hendry đưa bà tới hết bác sĩ này đến bác sĩ khác, vị nào cũng đưa ra một loạt chẩn đoán có vẻ hợp lý, nhưng không ai thực sự tìm ra bệnh, hoặc kê được đơn thuốc làm thuyên giảm bệnh tình của bà. Bà như không còn ở bên ông nữa, tự tuột ra khỏi cuộc sống, sự việc không xảy ra từ từ mà chỉ trong vòng vài tuần, quá nhanh đến nỗi ông không kịp đưa bà quay lại Mỹ, nơi ông cho rằng có thể chạy chữa cho bà, vì các bác sĩ bảo bà không thích nghi được với một chuyến đi vượt Đại Tây Dương.
Còn với Hendry giấc ngủ của ông chỉ toàn ác mộng, vào một đêm vợ ông có vè khá hơn suốt cả ngày, ông đi ngủ với trái tim tràn trề hy vọng, thì ông có một giấc mơ rùng rợn khủng khiếp. Ông đang đi qua một hội trường lớn, tiếp theo đó là nhà thờ rộng mênh mông, trong đó có những hình người Ai Cập khổng lồ, được chạm khắc trên những công trình bằng đá. Đôi chân ông đi nhanh như chạy, như muốn vượt qua những căn phòng tráng lệ của thế giới sông Nile cổ xưa, và ông cảm nhận rõ hương thơm kỳ lạ, hương thơm ấy càng lúc càng ngào ngạt hơn, khiến ông không kìm nén được cơn buồn nôn.
Giờ đây những hội trường lớn Ai Cập khổng lồ, được thay bằng những hành lang đá vô tận, lúc đầu ông nghĩ đó là những hành lang trong kim tự tháp, nhưng ông rảo chân qua các hành lang ngày càng hẹp hơn, và ông biết đó là con đường dẫn tới trung tâm trái đất. Ông cũng biết mình đang bị săn đuổi ông không dám nhìn xung quanh, nhưng ông biết rõ cái gì đang truy đuổi mình, chính là hương thơm toả mùi đến phát ốm, chế ngự khắp nơi và mỗi lúc một ngào ngạt hơn. Cuối cùng ông cũng kết thúc được hành trình, và thấy mình nằm trong một hầm mộ bằng đá không có lối thoát, khi đứng lên mồ hôi lạnh túa ra, ông thấy căn phòng càng ngày càng hẹp hơn, tính đến từng giây, các bức tường và tấm trần cứ ép sát vào người ông.
Giờ đây ông đang nằm trên sàn hoảng sợ tột độ, nghẹt thở vì hương thơm, hình như toàn bộ mùi thơm ở những ngôi mộ cổ Ai Cập đều ập đến. Khi ngửng lên ông mới thấy kinh hoàng, con dơi trắng khổng lồ từ từ đậu xuống hút dần sinh khí của ông. Hendry tỉnh hẳn tiếng kêu nghèn nghẹn như bị bóp cổ, ông ngồi dậy mồ hôi túa ra như tắm, và cảm giác khó chịu như có cái gì đó bám chặt ở cổ họng. Nỗi sợ tột cùng từ lúc tỉnh dậy vẫn chưa xua tan được, thì khi nhìn quanh căn phòng tràn ngập ánh trăng, ông lại thấy con dơi trắng bay ngang qua, thoát ra ngoài cửa sổ để ngỏ.
Ông nhảy khỏi giường không chỉ sợ cho riêng mình, ý nghĩ đầu tiên của ông là phải tiến lại cửa sổ, đuổi cái sinh vật ghê tởm ấy ra ngoài, khi ông làm vậy con dơi đậu yên bên ngoài tấm kính, đôi tai nhọn vểnh lên, đôi mắt thú tính sáng rực của nó nhìn ông chằm chằm. Ông lùi trở lại phòng và con dơi cất đôi cánh lên, kèm theo tiếng đập cánh uyển chuyển, và nhẹ nhàng bay theo hướng mặt trăng, qua các ngôi nhà bên trên các tán cây, đến lúc nó chỉ còn là một chấm nhỏ trên cái thiên thể bạc. Từ phía cửa sổ Hendry quay mình lại, nhanh chóng chạy sang buồng vợ qua cánh cửa thông với phòng ông, vừa bước vào phòng ông vừa nhìn thẳng về phía trước miệng gọi tên bà.
Ông thấy bà nằm trên giường trong tư thế không mấy tự nhiên, như thể bị đánh thức bất ngờ, bà không tỉnh dậy nữa, bà nằm đó hồn lìa khỏi xác, đôi mắt hoảng sợ mở trừng trừng. Hendry biết đó là tại con dơi trắng, nó đã bay vụt sang phòng bà khi ông vừa tỉnh khỏi cơn ác mộng.
- Chứng đột tử vì tim, bác sĩ kết luận.
- Tôi không thể đưa ra một lời giải thích nào khác, có lẽ là một cú sốc, vâng, điều đó hoàn toàn có cơ sở, trong tình trạng u uất như vậy, một giấc mơ mạnh cũng có thể giết chết bà ấy.
Hendry vô cùng đau khổ, ông yêu vợ và họ càng yêu nhau hơn, từ khi những chuyện rắc rối ở ngôi mộ vị tu sĩ đắc đạo bắt đầu xảy ra.
Mọi thứ trượt dần khỏi quỹ đạo, vào ngày đưa tang vợ, ông nhận được tin tức nghiêm trọng từ New York. Hai nơi ông tập trung phần lớn tài sản của mình để đầu tư bỗng nhiên thất bại, và ông phải hứng chịu thiệt hại rất lớn trong việc phá sản tiếp sau. Tiếp đến một người bạn đáng tin cậy ở New York biển thủ năm mươi ngàn đô la của ông rồi tự tử. Người cha già ở New Orleans cũng bỗng nhiên chết vì cơn đột quỵ không rõ nguyên nhân.
Trong tình trạng tuyệt vọng, Hendry đi hết nước này sang nước khác nhắm thoát khỏi con dơi trắng toát giờ đây cứ liên tục săn lùng ông, nó luôn xuất hiện vào ngày rằm, và mỗi lần nó đến ông đều gặp phải cùng một cơn ác mộng. Ông nằm trong phòng huyệt của vị tu sĩ, không khí ngột ngạt toàn mùi hương ngạt ngào ấy, căn phòng cứ hẹp vào, hẹp vào mãi, áp sát vào ông khiến ông bị ngạt thở vì hương thơm trong nỗi hãi hùng. Ông tỉnh dậy với cảm giác kinh hoàng là có cái gì đó cứ bám chặt ở cổ, hút dần sinh lực của ông, bên ngoài cửa sổ, trong ánh trăng sáng của đêm rằm, con dơi cứ nhìn ông bằng đôi mắt linh lợi y như mắt người.
Không giống những con dơi khác ông đã gặp, nó chỉ mang đến toàn điềm gở, chứa đầy tai họa và ông cho rằng nó không thuộc về thế giới này. Mặc kệ những nỗi sợ không tên, Hendry với bản chất ngoan cố, vẫn giữ con bọ, bỏ ngoài tai những lời khuyên của các bạn bè, những người ông kể chuyện, rằng ông phải trả nó về nơi ông đã lấy nó. Nhưng Hendry như đã bị bỏ bùa mê, ông không hoàn trả nó về chỗ cũ, ông đã mất hết mọi thứ trong cuộc đời và có lẽ, bất kể con dơi có làm gì thì cũng không còn có nghĩa với ông nữa.
Ở Luân đôn ông tham khảo ý kiến các nhà Ai Cập học và các sinh viên về chuyện huyền bí này, đầu tiên người ta nghi ngờ câu chuyện của ông, và có người đã bảo với ông rằng, những con bọ không hề được biết đến ở triều đại thứ tư, đó là thời gian trị vì của Cheops hay Khufu gì đó, và con bọ được tìm thấy trên xác ướp của vị tu sĩ đắc đạo, có lẽ đã được đặt vào ở triều đại sau. Nếu thực thế Hendry tin rằng, một thời gian sau trong thời kỳ Ai Cập cổ đại, các vị tu sĩ đã đưa ra những lời nguyền độc địa đầy quyền năng, và chắc họ khi thấy ngôi mộ bị đột nhập, đã niêm phong nó bằng những lời nguyền khủng khiếp. Hơn thế họ còn cho gắn con bọ có cánh lên xác ướp. Hendry nhớ ra ông đã gặp con dơi trắng khổng lồ ở "Ngôi đền của Thebes", được xây dựng hai nghìn sáu trăm năm sau thời Cheops.
Điều huyền bí ấy đã được tìm ra, không phải nhờ các nhà Ai Cập học, hay những chuyên gia về chuyện bí ẩn, những người có thừa lòng ham mê, đầy một mớ lý thuyết nhưng không giúp được ông điều gì. Có người mượn ông con bọ rồi ngay ngày hôm sau đã trả lại cho ông, không chút do dự và kể rằng ông ta đã có một cơn ác mộng cực kỳ rùng rợn, sau đó ông nhìn thấy con dơi trắng nhẹ nhàng đập cánh ngoài cửa sổ. Ông ta nài nỉ Hendry mang con bọ quay lại Ai Cập trả nó về với xác ướp của vị tu sĩ nọ, nhưng Hendry không đời nào lại đi hứa làm việc đó.
Đêm đêm ông hoảng sợ lê bước đến bên giường, và càng trì hoãn được việc đó càng lâu càng tốt, sau những cơn ác mộng liên tiếp về dơi, ông tỉnh dậy thấy cổ họng mình sưng lên và cứng lại. Bác sĩ chẩn đoán ông bị một loại côn trùng có nọc độc cắn. Câu chuyện kết thúc tại Paris. Con dơi trắng xuất hiện lần cuối cùng, khi ông đang ngụ tại một khách sạn ở đường Fayette, nửa đêm trong khách sạn vang lên một tiếng thét dài ghê sợ.
Sáng hôm sau người ta thấy Hendry chết cứng trên giường, bác sĩ nói rằng ông bị đột tử vì tim ngừng đập, người hầu phòng nói rằng tối hôm trước, ông nhất định đóng chặt các cửa chớp phía ngoài khuôn cửa sổ phòng ông, nhưng khi ông chết các cửa chớp và cửa sổ đều mở rộng. Người ta không tìm thấy con bọ trong đống hành lý của ông, nó đã biến mất và từ đó trở đi, con dơi trắng khổng lồ cũng không xuất hiện nữa.
Frank Usher
Thanked by 1 Member:
|
|
#51
Gửi vào 15/06/2011 - 06:46
LÊN ĐỒNG
Chú Châu tôi là con út của ông trẻ tôi, ông trẻ và các chú lớn đi làm ăn xa tận trên mạn ngược, đâu như Hà Giang Bắc Mục. Những địa danh xa tít đầy lam sơn chướng khí mịt mù huyền hoặc. Lâu lâu gia đình ông trẻ tôi mới về, lúc nhỏ chú Châu có theo gia đình lên trên đó, sau chú bị báng bụng cứ to ra da bủng và vàng ệch.
Người ta bảo là chú ngã nước, có người lại bảo tại chú nghịch ngợm sao đó bị ma nó ốp, bị người Thổ họ thư, vì thế chú về lại làng uống thuốc, khi khỏi bệnh chú không lên mạn ngược nữa, sợ ma nó nhớ nó bắt. Tuy theo vai vế chú gọi thầy tôi là anh, nhưng chú chỉ nhỉnh hơn anh hai tôi đâu có một hay hai tuổi gì đó, nên chú xưng với thầy tôi là em và gọi thầy tôi là bác. Chú nhập bọn với các anh lớn của tôi và các con của cô tôi.
Tất cả năm, sáu người ở tuổi mười lăm, mười sáu, cười đùa rinh rích, nhưng mỗi khi thầy tôi lại gần cả bọn lại im như không, như là ngoan lắm vậy. Nhưng cả bọn không dấu được tài ăn của họ, họ ăn nhanh và ăn nhiều quá, nhà có giỗ chạp gì, mâm của họ, thức ăn không bày ra dĩa mà xúc vào bát lớn. Mới bày ra loáng cái đã nhẵn bóng, các bàn trên, các cụ vừa ăn vừa nhâm nhi câu chuyện, thức ăn còn lại:
- Thôi đưa xuống cho bọn trẻ.
Ngoảnh đi ngoảnh lại đã hết veo.
Thầy tôi bảo :
- Quái tụi này ăn nó không nhai chắc.
Đấy là vừa ăn vừa nói, họ nói với nhau bằng những tiếng lóng, chả ai hiểu họ nói gì, chỉ thấy chốc chốc lại phá lên cười. Tôi đoán là có nhiều điều láo lếu lắm đây, mà thật, một điều láo lếu mà tôi biết, biết mà phải giữ kín, nín thinh trong bao nhiêu năm, đến khi có thể nói ra được thì tôi đã ở xa quê quá đỗi. Các người trong cuộc kẻ mất người còn mà vai chính là chú Châu, câu chuyện thế này: Giỗ chị Hân đã xong lễ hoá vàng cũng đã xong, tro cũng đã được hốt đổ xuống ao, nhưng bác gái tôi vẫn bồi hồi nhớ chị Hân, chị chết oan uổng đau đớn.
Bác gái tôi cho gọi ông thầy cúng đến để phụ đồng chị Hân lên, bác tôi mong rằng sống khôn thác thiêng, bác muốn hỏi cho ra lẽ về cái chết của chị. Trời đã tối mảnh sân hoá vàng còn nóng hôi hổi, bác gái tôi cho bày một bàn thờ riêng ở gian bên, có hình chị Hân trên bàn thờ, hình chị Hân tô màu colour, chị mặc áo nhung đeo kiềng vàng vấn tóc trần. Quanh ảnh chị có hoa tươi, trà, một dĩa xôi đậu và một con gà luộc. Mỏ gà cắp một đoá hoa hồng ngắt ở ngoài vườn, hai cây nến trắng lung linh, bát hương nghi ngút khói, đặc biệt có một mâm bồng cam bố hạ, thứ cam to mỏng vỏ ngọt mát mà ngày xưa chị Hân rất thích ăn.
Ông cung văn và cô đồng đón đâu từ xa đến, được bác tôi đãi ăn rất hậu bác tôi còn hứa :
- Nếu hồn về trót lọt trả lời suôn sẻ, tôi sẽ còn thưởng thêm.
Cơm nước xong trước bàn thờ, ông cung văn ngậm cái tăm trên miệng, nhẹ nhàng ngồi vào góc chiếu lên dây đàn: phừng phừng, phừng phứng phưng.. Những ngón tay dài khẳng khiu nắn buông trên các phím, phô cái khuỷu tay áo the đã rách, mọi người đã tề tựu, bác gái tôi đã có mặt. Cô đồng được mời vào, cô đồng trạc độ trên dưới bốn mươi, là vợ của ông cung văn, nổi tiếng là người có căn, hồn dễ nhập.
Cô được mời ngồi vào giữa chiếu, đèn măng xông thắp sáng, cô e dè ngồi lê dần vào vị trí trước bàn thờ, ông cung văn phủ lên đầu cô một cái khăn đỏ rộng chùm đầu, che kín cả vai và lưng, trên đầu cô một bát nhang được nhẹ nhàng đặt lên, cô đồng từ từ dơ hai bàn tay lên, run run úp vào mặt. Cung văn bắt đầu hát:
- Ơ cô.. cô đẹp cô xinh...ấy a hồn rằng hồn thác ban ngày, thương cha nhớ mẹ, chứ hồn dày thác đêm.
Bác gái tôi bắt đầu tấm tức khóc không lễ, vì cha mẹ không phải lễ con, nhưng bác tôi nói nho nhỏ:
- Sống khôn thác thiêng con có điều gì oan khuất thì xin nhập vào đồng, nói cho mẹ biết.
Ông cung văn vẫn cao giọng vừa đàn vừa hát, mắt ông không rời nhìn vào cô đồng, vì theo kinh nghiệm thông thường, hát chưa xong một khúc đồng đã đảo. Nhưng khúc hát đã chuyển mà đồng vẫn cứ lặng yên, chỉ thấy hơi run run như lo như sợ, hết khúc hát khen, ông cung văn chuyển sang khúc tán. Giọng ông lúc cao vút như gió gió cuốn trên ngàn, lúc lại chùng chùng xuống như thác đổ đầu ghềnh. Cô đồng vẫn ngồi im như cũ, bỗng cô đồng buông tay, đỡ bát nhang trên đầu xuống để ở trước mặt, tháo khăn phủ đầu xuống, ông cung văn cũng bỡ ngỡ bỏ dở tiếng đàn tiếng hát.
Cô đồng mặt mày nhợt nhạt cúi đầu, chấp hai tay rồi lễ phép thưa:
- Xin cụ bỏ lỗi cho nhà cháu không hợp căn, hồn không nhập được.
Mọi người ngơ ngác, ông cung văn cũng hạ cây đàn xuống để dài trên chiếu, chiêu một ngụm nước lớn rồi thưa:
- Hồn cô cao lắm nhà cháu không hợp căn cơ, không đậu được hồn về, ở đây có ai ngồi được xin mời vào ngồi hộ cho.
Trên bàn thờ nhang đã cháy hết một nửa, hai ngọn nến vẫn lung linh leo lét, bỗng có ai tắt bớt ngọn đèn măng xông. Bàn thờ bỗng trở nên u linh huyền hoặc, hình chị Hân trên bàn thờ lúc sáng lúc mờ theo ánh nến, ông cung văn lại nhắc:
- Ai có căn xin ngồi hộ.
Ông cung văn chiêu một ngụm chè mạn đặc, nhưng nét mặt ông lo lắng thấy rõ, như thế là tiếng tăm của cô đồng mất, việc làm của vợ chồng ông sẽ sa sút chăng. Đợi một lúc ông cung văn lại hỏi:
- Ở đây ai có căn cơ hầu đồng được thì xin ngồi hộ đi.
Ngoảnh đi ngoảnh lại không thấy ai, sau một tuần trà nước nữa, cuộc hầu đồng tưởng đã bỏ ngang, thì cửa phòng bỗng mở. Một luồng gió tạt vào lạnh toát, chú Châu tôi xuất hiện khẽ nói:
- Nếu không có ai thì để tôi ngồi thử xen sao.
Có ai đáp :
- Phải đấy.
Cô đồng lê ra cạnh chiếu nhường chỗ cho chú Châu tôi ngồi vào giữa chiếu, đầu chú phủ khăn đỏ và không quên để bát hương lên đầu, hai tay chú bưng mặt. Tiếng đàn lại nổi tiếng hát của ông cung văn lại cất, lúc đầu, đầu đồng quay nhè nhẹ rồi theo nhịp đàn theo tiếng hát, đầu đồng quay rộng vòng hơn, ngả ra phía trước ngả ra phía sau. Tiếng đàn hát mỗi lúc mỗi thêm hưng phấn, mọi người trố mắt dõi theo vòng đảo chao chát của đồng, bỗng tiếng đàn như chùng tiếng hát nhẹ như ru, như dỗ:
- Chẳng mấy khi xa loan giá ngự về đ..ồ..n..g.
Bây giờ đồng đảo mạnh mềm như không có xương, rạp xuống phía trước ngả ra phía sau, vậy mà bát hương trên đầu đồng không đổ. Mọi người ngồi xung quanh im phăng phắc, nét mặt ai nấy đăm chiêu sợ hãi, bác gái tôi thì xuýt xoa, đồng đảo một vòng rất sâu rồi từ từ ngưng lại, tiếng đàn thưa thớt theo lời như khấn như dỗ dành:
- Đêm có khuya ngày có rạng, xin đồng ngả tay đồng xuống để ăn trầu uống nước..
Đồng chìa bàn tay run run ra phía trước, mọi người nín thở, hai tay đồng đón bát hương trên đầu xuống, trịnh trọng để ngay trước mặt, rồi nhẹ nhàng vén mảnh vải đỏ ra. Mọi người nín thở, chú Châu bây giờ khác hẳn, mặt mày đỏ ửng hai mắt khép hờ, rồi từ từ mở ra thất thần, như đang còn chìm vào một cõi huyền hoặc nào xa. Đồng đảo mắt một vòng rồi bỗng oà khóc, khóc như mưa chan hòa nức nở, bác gái tôi thì có vẻ sợ mà nước mắt cũng đầm đìa.
Tiếng đàn lại nổi và giọng ông cung văn như dục, như mời:
- Xin hồn hãy bớt lo toan đừng khóc nữa, hồn có điều gì oan khuất thì có mẹ hồn đây, hồn có thể giãi bày vài lời cho thoả..
Hồn vẫn khóc, khóc lớn hơn, bác gái tôi trong nước mắt nghẹn ngào:
- Con ơi, con chết oan chết uổng khổ sở thân con, mà con có biết hôm nay là ngày gì của con không?
Hồn khẽ gật đầu nói:
- Biết, ngày giỗ đầu của con.
Thế là bác gái tôi oà khóc và hỏi:
- Mẹ có thửa mã cho con đủ cả, nhà Tây, xe cao su, hài thêu, quần áo, người hầu, không thiếu một thứ gì. Con có nhận được không?
Hồn lại khóc và khẽ đáp:
- Con chỉ nghe được tiếng trống cúng xa xa thôi, vì lũ quỷ nó cướp mất cả con chả được gì.
Thế là bác gái tôi lại khóc nấc lên não nuột:
- Khốn khổ con tôi thế con đã ăn uống gì chưa?
Hồn lắc đầu và ra chiều buồn bã quá, hồn nhìn lên bàn thờ mình, trong lúc tiếng đàn của ông cung văn lại nổi lên rộn rã reo vui:
- Hồn đói, hồn khát, thương quá hồn ơi..
Thế là bác gái tôi bảo đem con gà luộc trên bàn thờ xuống, xé cái đùi gà ra chặt vội vã bày trước mặt hồn, hồn ăn một miếng thịt gà rồi lại khóc, bác gái tôi lại hỏi:
- Thế con làm gì ở dưới âm ty?
Hồn đáp:
- Con nghèo khổ quá phải đi buôn rau buôn chè, đó là nghề ít vốn, mà những người cùng quẫn của làng tôi mới làm.
Nghe thế bác gái tôi lại khóc và nói:
- Khốn khổ quá con tôi..
Ông cung văn vẫn hát, hồn khen :
- Hát hay! và bảo: Hồn cần tiền để thưởng cho ông cung văn.
Bác gái tôi liền móc túi lấy mấy đồng bạc đưa cho hồn, hồn cầm tiền bỏ cả vào túi, chỉ lấy ra có mấy xu thưởng cho ông cung văn, ông cung văn đón lấy tiền thưởng và cao giọng hát tiếp, ý chừng sẽ còn nhận được thêm tiền thưởng:
- Âm dương cách trở đôi đàng, khuất oan hồn cứ thực lòng kể ra, này anh này mẹ này cha, này là chú bác toàn là người thân.
Tiếng đàn càng trở nên quấn quýt, rộn rã như thúc dục như tươi vui:
- Á à a hồn ơi hồn chớ ngại ngần...
Có ai đó lấy từ trên bàn thờ xuống một quả cam bố hạ đỏ au, vỏ mỏng như giấy, bóc ra đưa cho hồn, hồn nhận và cho vào miệng một lần bốn múi. Quả cam vừa hết, mọi người hy vọng hồn sẽ thổ lộ thêm về cái chết oan khuất của hồn, thì hồn bỗng lăn ra và... thăng. Ông cung văn hốt hoảng ngưng đàn hát, bác gái tôi thì sửng sờ, hai tay quơ quơ như muốn bám víu, muốn giữ hồn ở lại.
Chú Châu tôi lồm cồm ngồi dậy, mắt nháo nhác như vừa tỉnh một cơn mê, chú vái vội vàng mấy vái trước bàn thờ rồi nhanh chân lui ra, mọi người còn ngơ ngác, bác gái tôi mếu máo:
- Thế là nó đi, mẹ con âm dương cách trở, mới gọi được hồn lên, chưa hỏi được ngọn ngành nó đã thăng..
Trong cái không khí bàng hoàng đó, chú Châu đã nhanh chân lẻn ra ngoài, anh cả tôi chạy theo, tôi cũng chạy theo xem sao. Trời đêm tối như mực, đom đóm đâu đó kéo về bay nháo nhác đầy sân, chú Châu vỗ vào túi áo, nói nhỏ với anh cả tôi:
- Đi đi ăn phở.
Chú cho tôi đi theo và nhắc khẽ, lời nói sắc gọn như chỉ lọt qua kẽ răng:
- Câm, phải câm nghe không.
- Vâng.
Lúc ấy vì sợ chú, vì bỗng dưng được đi ăn phở, tôi đã "câm" không dám hở cho ai hay.
Hình ảnh chú Châu bao giờ cũng vẫn thế, như lời thầy tôi nói:
- Bao giờ cho đứng đắn đây!
Phan Lạc Tiếp
NHÀ MA
Gia đình bác Tám được nhà nước tặng cho một căn nhà ở đầu xóm đá, đó là một điều mà bác Tám không bao giờ mơ tới, Bác Tám chỉ cần một căn nhà lá là đủ cho cha con bác sống tạm, trong những ngày đầu dọn ra từ miền bắc cực khổ để kiếm việc làm. Căn nhà này thật là rộng rãi và khang trang, bác Tám thích lắm. Ngày gia đình bác dọn vào căn nhà mới, bác thấy bà con hàng xóm bàn tán gì đó, nhưng mắc mớ gì chớ nhà nước đã tặng cho bác, thì bác cứ tự nhiên ai muốn nói sao thì nói
Đêm đầu tiên vì quá vui mừng, bác Tám đã uống hết một xị rượu đế, và sau đó bác tiến vào phòng ngủ của bác, lờ mờ vì men rượu bác nhìn thấy có một cái bóng người lướt qua bác, bác cảm thấy toàn thân lạnh cóng, nhưng rồi bác dụi dụi mắt lắc lắc đầu, và tiếp tục bước về chiếc giường. Đặt mình lên giường là bác Tám gáy khò luôn, đang trong giấc mộng đẹp bác Tám chợt giật mình tỉnh dậy, vì bác nghe có tiếng gì như là bát diã đổ vỡ, ở gian nhà sau.
Khệnh khạng bước xuống gian sau khám xét, bác không kiếm ra được manh mối gì cả. Bác trở vào phòng và ngủ tiếp, nhưng chưa đầy mấy phút thì bác lại nghe có tiếng động ở gian sau. Lần này thì như là tiếng chân người bước, cùng với tiếng xích khua leng keng rất rùng rợn, toàn thân bác Tám nổi da gà, bác chợt nghĩ tới điều mà bác không bao giờ muốn nghĩ tới: "có ma!"
Bác trùm chăn lên đầu và cố gắng xua đuổi những ý nghĩ sợ sệt đó, nhưng bác không thể nào bình tĩnh được khi tiếng động kia, cứ như đang tiến về phiá cửa phòng của bác. Bác muốn lấy lại hết bình tĩnh để bước xuống giường, nhưng toàn thân bác run cầm cập, và chân tay như không còn xương để di chuyển. Bác Tám chỉ còn cách xuôi mình cho số mạng an bài. Tiếng bước chân mỗi lúc một gần phòng bác, bác Tám hồi hộp lo sợ, rồi bác nghe tiếng kẽo kẹt của cánh cửa nhè nhẹ. Tuy trùm chăn cả người nhưng bác Tám có thể cảm giác được, là cánh cửa phòng bác đang từ từ hé mở và bước chân kia từ từ tiến về phiá chiếc giường của bác.
Lúc này thì bác sợ đến cực điểm chân tay bác rã rời, hai hàm răng bác cũng khua theo tiếng chân kia, tiếng chân càng gần thì hai hàm răng càng đập mạnh. Bác Tám cảm thấy có bàn tay lạnh lẽo, đang động tới cái chăn, tiếng thở nhè nhẹ nơi tai bác và ánh mắt đỏ chóe đang nhìn vào mặt bác, bác Tám hét to lên nhưng bác bác chẳng nghe được tiếng la của bác. Lúc này thì bác nghĩ là bác sẽ chẳng còn có thể sống được nữa, Bác cảm thấy chiếc chăn được tung lên, và một bàn tay to tướng chộp vào người bác, bác giật bắn người dậy và nhìn thấy người ngồi bên cạnh bác là đứa con của bác
- Cha nằm ác mộng ha? đứa con hỏi
Người bác Tám ướt như chuột lột, bác nhìn quanh quẩn một hồi và chợt thở phào nhẹ nhõm. Tuy là chẳng có chuyện gì không may xảy đến nơi bác bác Tám cũng không thể nào phân biệt được, là bác thật sự đã nằm mộng, hay là bác đã gặp ma. Dầu sao đi nữa thì bác cũng bị chuyện đó ám ảnh suốt cả ngày. Rồi chiều lại về, bác Tám nhất định là không uống một giọt rượu nào, để giữ đầu óc tỉnh táo cho đến tối.
Mười giờ, mười một giờ, rồi mười hai giờ, đã ba tiếng đồng hồ nằm trên giường, mà bác Tám không thể nào ru mình vào giấc ngủ được, bác cứ trằn trọc không yên trong khi thằng con của bác, đã yên giấc điệp từ lâu. Bác Tám bắt đầu đếm số một, hai, ba, với hy vọng là sẽ làm cho giấc ngủ mau đến, Khi bác Tám vừa đếm tới một trăm, thì bác nghe: "keng keng keng", tiếng kêu phát ra từ nhà sau.
Bác Tám nhảy xuống giường, chạy đến cánh cửa và áp tai vào cửa để nghe ngóng, nhưng đã năm phút qua đi mà mọi sự vẫn im lìm, bác Tám trở lại giường và trong khi bác sửa soạn đặt mình xuống, thì bác lại nghe: "xịch xịch xịch". Bác Tám rùng mình một cái và bắt đầu hồi hộp, vì đúng là những tiếng kêu mà bác đã nghe được hồi đêm qua. Nhắc lại là sau khi chuyện xảy ra đêm qua, bác Tám lúc nào cũng hy vọng là mình đã nằm mơ, nhưng giờ nghe những tiếng động này, bác Tám khẳng định chuyện đêm qua là sự thật.
Để chắc ăn bác Tám nhéo vào má một cái thật mạnh, "Ouch!" Bác Tám la thầm, tim bác Tám bắt đầu đập mạnh và mồ hôi bắt đầu toát ra. Bác Tám cầm cây gậy lên lấy hết bình tĩnh bước tới cánh cửa phòng. Tiếng "xịch xịch xịch" đột nhiên lặng bẵng đi, bác Tám từ từ mở cánh cửa bước ra ngoài, rồi từ từ bước xuống gian nhà sau. Trong lúc bác đang hồi hộp, thì "vù" một vật gì bay về phía bác. Bác Tám giơ cây gậy lên và lấy hết sức đập mạnh vào vật đó "meo! meo! meo!", bác Tám nhảy về phiá sau "Thì ra là con mèo " bác Tám thở hắt ra, bỏ cây gậy xuống và lấy hai tay xoa xoa ngực.
Quan sát một hồi không thấy có gì lạ, bác Tám quay trở lại phòng ngủ. Vừa chân trước chân sau bước vào, bác Tám giật bắn người và lùi lại, vì chiếc giường của bác đã được dựngﮧ đứng lên. Trong lúc bác Tám còn đang hốt hoảng, thì chiếc giường kia bắt đầu xoay xoay vòng vòng. Bác Tám sợ quá cắm đầu chạy qua phòng thằng con trai của bác. Mở cửa phòng đứa con trai, bác Tám vội vã chạy đến chiếc giường để đánh thức thằng con trai dậy. Nhưng khi bác Tám chạy đến chiếc giường, thì một khuôn mặt xanh như tàu lá chuối xoay lại nhìn bác.
Bác Tám vì quá kinh hoàng, đã xoay mình chạy thẳng xuống nhà dưới. Sau khi lấy lại bình tĩnh, bác quyết định vào cứu thằng con trai. Bác nhặt cây gậy lên và từ từ bước lên nhà trên, lấy hết sức bác bước tới gần chiếc giường thằng con trai. Bác từ từ giơ chiếc gậy lên, nhưng bác chợt ngưng lại vì giờ trên giường, chỉ còn thằng con trai của bác đang say mê trong giấc ngủ. Bác đánh thức thằng con và kéo nó chạy ra khỏi nhà. Đêm nay hai cha con bác Tám, nằm ngủ trên vĩa hè của một người hàng xóm. Tuy tiết trời lạnh lẽo nhưng bác Tám thấy, người bác còn ấm hơn ngủ trong căn nhà của bác.
ST
BÓNG NGƯỜI CUỐI LỚP
Chuyện này xảy ra được hơn mười năm rồi, lúc ấy tôi mới chỉ là học sinh lớp năm của một trường tiểu học, lúc đó là năm cuối cấp tiểu học, nên chúng tôi cũng học dữ dội lắm, nhiều lúc buổi sáng học không hết bài ôn thi, nên buổi tối chúng tôi cũng phải lên trường để học phụ đạo. Trong lớp tôi có người bạn tên Trường là bạn rất thân, phần vì nhà tôi với nó ở cùng xóm, phần vì mỗi ngày đi học tôi hay đi ngang qua nhà nó, sẵn tiện rủ nó đi chung cứ như thế thành thân luôn.
Một hôm như thường lệ, tối hôm đó chúng tôi đi học, tôi vì dáng người nhỏ bé nên được xếp ngồi đầu bàn, còn Trường to cao nên được ngồi bàn cuối. Trường học của chúng tôi là một trường theo đạo thuộc dạng dân lập, nên trên tường gắn ảnh của những bà sơ thường gọi là ma sơ, làm việc trong trường rồi chết ở đấy. Lớp tôi cũng có một bức ảnh như thế, tối hôm đó khi cô giáo chúng tôi vừa dạy xong, thì đồng hồ cũng chỉ tới chín giờ.
Lúc đó tôi và Trường đứng ở ngoài mua cây kem chuối, thật sự chỉ có nó mua thôi chứ tôi không mua, và cũng đợi lớp trưởng Ngân cùng về chung, vì lớp trưởng phải dọn dẹp phấn, giẻ lau bảng.. Dáng của Ngân vừa bước xuống cầu thang, lớp tôi học ở trên lầu, thì tôi mới sực nhớ là mình để quên hộp bút trong hộc bàn, tôi vốn tính gan dạ nên dặn Trường ở lại đợi tí để tôi lên lớp lấy hộp bút.
Vừa lúc đó thì ba của Ngân tới đón bạn ấy về, tôi vừa bước tới cửa phòng thì nghe hơi lạnh chạy dọc xương sống, cả phòng học dường như bị hạ thấp nhiệt độ một cách lạ thường. Như thói quen tôi ngước nhìn lên ảnh thờ bà ma sơ, thì không thấy bức ảnh đó nữa, tôi bắt đầu cảm thấy sợ, nhưng tôi cũng tự trấn an lại, chắc bác bảo vệ đã lấy xuống hồi lúc nãy để lau chùi rồi.
Tôi không vào chỗ ngồi mà đứng ở ngoài cúi vào để lấy, vừa lấy xong ngước mặt lên tôi giật bắn người, khi thấy có ai ngồi chỗ của Trường ở cuối lớp, nghĩ là Trường hù tôi nên tôi nói với giọng giễu cợt:
- Mày hả Trường.
Im lặng trong vòng ba giây, bất chợt ngoài trời đổ mưa rồi một tia sấm sét nổi lên, qua ánh sáng mờ mờ tôi nhận thấy khuôn mặt của bà ma sơ, mà hằng ngày tôi hay thấy trên bức ảnh, là người đang ngồi ở cuối lớp và đang nhìn tôi cười một cách kinh rợn. Tôi như người điên la lên một tiếng rồi bỏ chạy, Trường nghe vậy từ dưới sân chạy lên tay còn cầm cây kem chuối ăn chưa xong, tôi cắm cổ chạy và chạy ngang qua nó miệng nói:
- Có ma chạy đi.
Sau đó tôi chạy nhanh về nhà, nhưng khi chạy ngang qua nhà của Trường, tôi thấy nó đang ngồi trước cửa tay còn cầm cây kem chuối. Lúc đó tôi không có suy nghĩ gì, vì sao nó lại về nhà trước tôi, về đến nhà người ướt sũng thay vội quần áo rồi lên giường ngủ. Sáng thức dậy tôi nhùng nhằng không chịu đi học , nhưng do ba má tôi hăm he chửi bới, nên tôi cũng quyết định đi, khi đi ngang qua nhà Trường định rủ nó đi học, thì được tin nó đã chết từ tối hôm qua, mẹ nó khóc la thảm thiết.
Tôi cũng đứng như trời trồng nghe nói nó bị ngã từ cầu thang xuống, chấn thương sọ não chết, khựng lại một lúc trước nhà nó tôi đi tiếp. Bữa nay do tới trễ nên cả lớp tui đã vô lớp hết, nghĩ tới cảnh đã gặp bà ma sơ nên khi vửa bước vô lớp, tôi nhìn ngay xuống chỗ bà ma sơ đã hiện về, cũng là chỗ của Trường ngồi, tôi như muốn hét lên nhưng không được, vì khi nhìn xuống chỗ đó tôi đã thấy Trường đang ngồi đó tự bao giờ đang nhìn tôi cười, và trên tay nó đang cầm cây kem chuối còn ăn dở.
Tôi bị ngất xỉu sau đó và được đưa đi bệnh viện, tôi phài nằm viện cả tuần bỏ dở kỳ thi cuối cấp, sau đó ba tôi kiếm cho tôi ngôi trường công lập khác học lại lớp năm, và tôi phải chuyển nhà đi nơi khác để gần chỗ học. Sau này khi về lại trường xưa, tôi mới biết là phòng học chúng tôi hồi đó, là chỗ ăn ngủ của các bà ma sơ, có một bà ma sơ đã chết ở trên giường, vì bị trúng gió khi ngủ ở trong căn phòng đó, và chiếc giường mà bà ta nằm chính là chỗ ngồi của Trường.
ST
TRÂU TỰ TỬ
Tôi có một "Sư Ðệ" sau bảy lăm nổi danh ở Hóc Môn, chuyên trị bịnh tên là Thầy Sáu Nhỏ, tên vậy chứ hắn rất cao lớn người và có giọng nói rổn rảng dữ tợn lắm. Cha của hắn có chức vụ khá cao trong huyện, thấy thằng con làm bùa phép bị công an kiểm điểm nói này nói nọ, nên ông ta bực lắm thường rầy la chú Sáu Nhỏ, nên chú Sáu Nhỏ cứ phải đi trị bịnh cho dân mà lén lút hoài.
Một hôm Sáu Nhỏ lên Thầy tôi hắn kể:
Mẹ của hắn bịnh nặng, vì là cán bộ nên đã được đưa vào bệnh viện đặc biệt dành cho cán bộ là bệnh viện Vì Dân cũ, nhưng các bác sĩ chịu thua cho về bây giờ Mẹ của hắn nằm chờ chết. Sáu Nhỏ tức quá vì hắn làm Thầy chuyên trị đủ mọi chứng bịnh, nay chính Mẹ mình bịnh thì lại không biết bịnh gì và trị không được. Thầy tôi nói là không sao cứ về lại Hóc Môn, hỏi mấy ông "Lái Bò, Lái Trâu" thì rõ.
Sáu Nhỏ về tìm hỏi thì được biết con "Trâu Cổ" (trâu cổ là trâu trẻ lớn con khoẻ mạnh) mà Ba của Sáu Nhỏ mới mua mấy tháng trước, có mấy cái “xoáy” đặc biệt là con "Trâu Sát Chủ". Trong khi Ba của Sáu Nhỏ thì rất thích con trâu này, ông ta thường khen nó quá khôn và có sức, nên hễ mỗi khi cày muốn "Thá Ví" trái phải gì, thì con trâu cổ này đều kéo con đi cặp với nó quẹo đúng ngay.
Nếu trâu ngu và yếu sức sẽ kéo đường cày đi tầm bậy, và làm mất thời giờ cũng như làm người nông dân rất vất vả. Vì vậy khi Ba của Sáu Nhỏ nghe thằng con mê tín dị đoan của mình, nói là má của nó bị bịnh vì con trâu cưng của ông ta là trâu sát chủ, thì ông không chịu được nữa, bèn vác hèo đập cho Sáu Nhỏ một trận, rượt Sáu Nhỏ chạy mất tiêu.
Ngày hôm sau, buổi chiều khi con trâu được dẫn đi ăn về đến trước của nhà, nó bỗng rống lên rất lớn nghe rất khủng khiếp, đến nỗi mọi người nói là trâu điên và chạy lánh xa. Lúc đó con trâu phóng đôi sừng của nó vào hàng rào, rồi tự...bẻ cổ té cái bịch xuống đất nhưng không sao, và con trâu lại rống lên ầm ỉ nữa.
Mọi người đều đứng xa nhìn chứ không ai dám lại gần, sau cùng con trâu bèn đi đảo quanh hàng rào, tìm chỗ có khe chắc chắn đút cặp sừng vô, rồi tự bẻ cổ "rắc" một cái lăn ra giãy giãy chết luôn. Tận mắt chứng kiến chuyện con trâu..tự tử như vậy, Ba của Sáu Nhỏ chắc cũng sợ và ngạc nhiên, ông ta bèn khẽ hỏi thằng con trai út:
- Mày thấy anh Sáu mày đâu không ? Nó có làm bùa phép gì cho con trâu không vậy.
- Dạ con hổng biết, chớ hồi sáng sớm có người đem xe lại rước anh Sáu đi Lái Thiêu trị bịnh rồi, mà trước khi đi ảnh nói con lấy một miếng vôi ăn trầu của Má đưa cho ảnh, ảnh quẹt vôi vẽ cái gì lên trán con trâu rồi ảnh mới đi.
Nghe vậy ông bèn kêu lái chiếc xe Jeep, đưa ông ta đến ngay nhà Thầy tôi, khi được hỏi Thầy tôi trả lời là Thầy tôi không có dạy phép nào giết trâu, giết người cho Sáu Nhỏ cả. Nếu cần để Thầy tôi "gọi" Sáu Nhỏ đến để kiểm chứng, ông nói là thằng con đi Lái Thiêu biết chỗ nào mà cho người kêu về!
Thầy tôi bèn thắp ba cây nhang rồi nói:
- Ông cứ chờ ở đây đi khoảng hơn một tiếng nữa nó sẽ về tới.
Và đúng như vậy..Sáu Nhỏ hết hồn khi thấy chiếc xe jeep của Ba mình đậu trước nhà Sư Phụ mình, hắn riu ríu bước vào khi được hỏi hắn đáp:
- Dạ con nóng lòng muốn cứu mạng của Mẹ con, nên thà con mang tội sát sanh, cho nên con đã tới năn nỉ Sư Thúc dạy cho con phép…”Hoá Ðộ” con trâu sát chủ đó.
– Vậy nhà ngươi đi kêu chú Tư qua đây cho Thầy hỏi.
“Tứ Sư Thúc” của tôi được mời đến, ông thản nhiên lý luận với Ba tôi:
- Chú em à, chú hãy về Hóc Môn hỏi ngay cái người lái đã bán con trâu đó cho chú đi, coi chủ trước của nó phải mới chết không ?..
..Cũng như liên tiếp ba năm nay, mỗi năm một chủ bị chết. Sát nhứt Miêu cứu vạn Thử mà, hơn nữa con trâu này đã tới số, nên khi thằng Sáu Nhỏ nó năn nỉ tôi cho phép nó làm cho con trâu chết, tôi có cho gì đâu ngoài chữ bùa vãng sanh...Như vậy là hoá kiếp cho con trâu chớ có hại nó đâu, chú em về Hóc Môn hỏi mà không đúng thì trở lên đây, tôi đền tiền cho mua con trâu khác.
Kết quả Má của Sáu Nhỏ tự nhiên hết bịnh. Từ đó Ba của Sáu Nhỏ làm lơ cho con làm Thầy trị bịnh luôn. Trâu tự tử ! Chuyện lạ ghê phải không các ban.
ATOANMT
MA GIẤU
Tôi nhớ hồi tôi còn nhỏ, nội tôi vẫn hay dặn tôi không được đi một mình ra rừng, ngang mả… Vì đi một mình sẽ bị ma giấu. Tôi không tin vì ma làm sao giấu được người kia chứ. Có con ma trên đời không? Tôi không biết, nhưng tôi không sợ. Mỗi lần tôi đi chơi lâu lâu là mẹ tôi phải kiếm tôi về, cũng sợ bị ma nó giấu. Và để doạ cho tôi sợ không đi rong chơi những chỗ vắng vẻ, rậm rạp, mẹ tôi kể:
Hồi đó lúc mẹ còn nhỏ, ở quê mẹ có anh Luân làm nghề chăn trâu. Anh hiền và vui vẻ vẫn thường hay đi lượm trứng cúm núm, cà cuốc ngoài bưng về cho những đứa trẻ trong làng. Anh tốt lắm ai cũng thương. Có bữa đó anh thả trâu ngoài đồng cho nó ăn cỏ như mọi khi, anh thì đi lại phía bờ mương vò bi đất để làm đạn bắn chim. Buổi trưa anh lùa trâu ra rạch tắm, xong rồi lại lùa lên đồng cho ăn thúc, để ít bữa nữa là vào vụ cày.
Mấy con trâu của anh rất khôn, bốn con luôn gắn bó cùng nhau, con nghé thì hiển nhiên theo đuôi mẹ nên không bao giờ bị lạc. Luân rất rảnh với đàn trâu, anh có thể thong thả mà vò bi đất, đặt bẫy cò ke, bẫy mỗ…hay mò cá tép lúc nước ròng. Bữa nào về khi thì con quốc, khi thì cò ma hay xâu cá…nên nhà anh không khi nào cực ăn, thậm chí anh còn cho hàng xóm. Lúc bấy giờ xóm ấp còn lơ thơ, bốn bề cây cỏ um cả lên, chim cá thiếu gì vì thế mà người ta hay nói câu “chim trời cá nước”.
Nhưng hôm ấy trâu đã về chuồng, con nào con nấy no cành hông mà chẳng thấy anh Luân về. Cũng không có gì lạ, anh ấy vẫn thường hay như vậy. Nhưng lúc đã chạng vạng rồi, muỗi đã vo ve, mấy con dơi chuột từ trong vách, từ đọt chuối đã lạch cạch bay ra. Luân vẫn chưa về. Cả nhà đã sốt ruột, ngồi đứng không yên. Ở đây không có beo hùm để bắt mất anh nhưng lại có con ma bắt anh!
Ông Tư cha anh Luân đã bắt đầu chửi đổng rồi chửi ảnh. Ông hy vọng ảnh lêu lỏng đâu đó chứ không phải bị ma trêu. Cả nhà muốn điếc tai nhưng vẫn chưa thấy Luân về. Rồi cả nhà bắt đầu túa ra đi kiếm Luân. Mỗi người hai bó đuốc lá dừa buộc chặt, một bó đốt sáng, một bó dự trữ. Họ đi, Ông Tư và chị Ngọc, chị của anh Luân, đi về hướng đồng dưới, bà Tư và thằng Út về xóm trên.
Mới đầu chỉ có bấy nhiêu nhưng tới nhà ai người ta cũng đi tìm giúp. Đuốc đã lốm đốm ngoài đồng, người ta hẹn nhau khi nào gặp Luân, thì quơ quơ ngọn đuốc hình vòng tròn nhiều lần, làm hiệu báo cho mọi người biết đã tìm gặp. Họ đi khắp xóm, họ xuống tận biền, ra tận thềm mả lạng, nhưng chẳng có vòng tròn lửa
nào được vạch lên. Đã về khuya, nhiều người tìm không thấy đã bỏ về rồi. Ông Tư và bà Tư cùng một vài người bà con nữa họp lại, khẳng định là ma giấu thằng Luân chứ chẳng đâu, nó không bao giờ ra khỏi xóm này được.
Ông bà thường nói hễ ma nó giấu, thì dầu có ngay trước mặt thì cũng không nhìn thấy, trừ người nặng bóng vía và chó mực. Mà những người nặng bóng vía tức những người không sợ ma, không ngại khi qua mả một mình thì xóm này không ít, nhưng vẫn không nhìn thấy Luân. Chỉ còn hy vọng ở ánh mắt và tiếng sủa của con mực, làm ma sợ bỏ đi mới cứu được thằng Luân. Ông Tư suy nghĩ rồi trở về dẫn con mực theo, ông nhờ thêm con mực của nhà chú Năm nữa.
Hai con mực tự dưng bị người ta đưa ra ngoài nên sủa vang. Ông Tư nghi nhất là gò mả lạng, thúc chó sủa vang nhưng không thấy. Rồi ông dẫn hai con chó xuống bãi lá, chỗ này ông đi rồi nhưng khi nảy ông cứ thấy rờn rợn mà tìm không ra. Chó sủa vang, đuốc sáng ngời và toả khói mù. Những giọt sương đang âu yếm trên mặt lá như bị đánh thức, cứ lấp lánh lên rồi lăn tuột đi khi có chân người va chạm.
Chó sủa dữ và hăng về phía mương lạng. Mọi người về phía đó, ngay cạnh bờ lức có tiếng động khẽ, chó sủa hăng tiết và vồ vồ vào bụi lức già. Ông Tư chạy nhanh lại rọi đuốc vào.
- Thằng Luân !
Ông hét nghẹn, thằng Út cầm ngọn đuốc cho ông. Ông dùng tay dẹt thân lức cứng lôi anh Luân ra, anh chỉ ứ ứ nhưng không nói được, mình mẩy miệng mồm đầy đất. Ông Tư ôm ngang hông anh xốc xốc xuống rồi dùng tay móc đất trong miệng anh ra. Ông cõng anh về nhà, mọi người cùng về, hai con chó đã bớt sủa vì nhận ra người quen. Thật đáng sợ, bụi lức dày thế kia mà nhét gọn anh Luân vào, chỗ ấy đã ba bốn lượt người qua nhưng không thấy được. Ai cũng rùng mình.
Anh Luân sau khi về nhà đã hoàn hồn trở lại, anh khóc nấc lên vì sợ. Người ta hỏi tại sao anh ăn đất và lại chui vào bụi lức kia làm gì. Anh sợ sệt, khóc và kể rằng:
- Hồi xế chiều anh đi thăm bẫy được hai con quốc, rồi buộc chân nó để trên mé bờ, rồi leo lên cây bần lấy tổ chim, nhưng tổ chim mới làm nên không có trứng, anh thấy mấy trái bần chín ngoài rìa cành, thèm quá nên đu mình ra hái, hái được năm trái, anh ở trên cây ăn ngay một trái, còn bốn trái đem về định cho chị Hai và thằng Út...
Anh rề rề một hồi lâu rồi mới tuột xuống. Cầm hai con quốc lên định ra đồng lùa bầy trâu về, thì gặp một chị lạ lạ bán bánh bò đi ngang, chị bảo chị ở xóm bên qua đây bán bánh, nhưng chiều rồi mà còn nhiều quá. Bánh ế nên chị cho anh Luân ăn và xin Luân một con quốc về cho nhà. Vốn thảo ăn, anh liền cho chị một con quốc, anh cũng định ăn một vài cái bánh của chị để lấy thảo làm quen. Anh bỏ bánh vào miệng nhai cũng có vị ngon ngon nhưng khi nuốt lại không trôi…
Một cái bánh nữa tới miệng anh nhưng anh không từ chối được, đẩy ra nuốt vào cũng không được, cứ thế miệng anh ngoạm thêm mấy cái bánh bò. Anh không biết gì nữa. Anh chỉ nhớ là anh ăn bánh bò ngay dưới gốc bần ngoài biền, cách bãi lá hơn chục công đất. Thế mà anh lại bị giấu ngay trong bụi lức ven bãi lá.
Anh còn bảo lúc khuya anh có nghe tiếng mọi người gọi, nhưng không tài nào trả lời được cho tới lúc chó sủa vang, mới ự ẹ được bằng mũi và lúc ấy anh cảm thấy đau buốt bởi những cây lức kẹp mình. Sáng hôm sau ông Tư ra bãi lá xem thử, thì thấy bụi lức kia vẫn bình thường, nhưng xung quanh thì nham nhở dấu chân người. Dưới mương lạng thì còn lại chùm lông con quốc còn mới tinh. Ông lại đi ra biền, nơi có gốc bần anh Luân trèo bẻ trái hồi chiều hôm qua. Bốn trái bần vẫn nằm lăn trên mặt đất. Con quốc bị buộc chân vẫn nằm giãy giụa bên đám cỏ.
Ông Tư thương tình tháo dây thả nó. Nhưng đôi chân nhỏ như hai que tăm tụ máu không giúp nó chạy rúc vào bụi rậm, lúc gặp người như mọi khi. Ông Tư đành đưa nó về nhà dưỡng thương. Từ đó anh Luân chẳng bao giờ bẫy chim nữa. Cũng chẳng bao giờ thấy anh đi đêm một mình như hồi trước. Từ lúc nghe xong chuyện này tôi rất sợ ma, sợ rừng, không bao giờ tôi dám đi một mình ban đêm, hay đi một mình vào rừng, mặc dù rừng quê tôi nhỏ xíu và có nhiều người sống ở ven đó.
Tâm Đào
Chú Châu tôi là con út của ông trẻ tôi, ông trẻ và các chú lớn đi làm ăn xa tận trên mạn ngược, đâu như Hà Giang Bắc Mục. Những địa danh xa tít đầy lam sơn chướng khí mịt mù huyền hoặc. Lâu lâu gia đình ông trẻ tôi mới về, lúc nhỏ chú Châu có theo gia đình lên trên đó, sau chú bị báng bụng cứ to ra da bủng và vàng ệch.
Người ta bảo là chú ngã nước, có người lại bảo tại chú nghịch ngợm sao đó bị ma nó ốp, bị người Thổ họ thư, vì thế chú về lại làng uống thuốc, khi khỏi bệnh chú không lên mạn ngược nữa, sợ ma nó nhớ nó bắt. Tuy theo vai vế chú gọi thầy tôi là anh, nhưng chú chỉ nhỉnh hơn anh hai tôi đâu có một hay hai tuổi gì đó, nên chú xưng với thầy tôi là em và gọi thầy tôi là bác. Chú nhập bọn với các anh lớn của tôi và các con của cô tôi.
Tất cả năm, sáu người ở tuổi mười lăm, mười sáu, cười đùa rinh rích, nhưng mỗi khi thầy tôi lại gần cả bọn lại im như không, như là ngoan lắm vậy. Nhưng cả bọn không dấu được tài ăn của họ, họ ăn nhanh và ăn nhiều quá, nhà có giỗ chạp gì, mâm của họ, thức ăn không bày ra dĩa mà xúc vào bát lớn. Mới bày ra loáng cái đã nhẵn bóng, các bàn trên, các cụ vừa ăn vừa nhâm nhi câu chuyện, thức ăn còn lại:
- Thôi đưa xuống cho bọn trẻ.
Ngoảnh đi ngoảnh lại đã hết veo.
Thầy tôi bảo :
- Quái tụi này ăn nó không nhai chắc.
Đấy là vừa ăn vừa nói, họ nói với nhau bằng những tiếng lóng, chả ai hiểu họ nói gì, chỉ thấy chốc chốc lại phá lên cười. Tôi đoán là có nhiều điều láo lếu lắm đây, mà thật, một điều láo lếu mà tôi biết, biết mà phải giữ kín, nín thinh trong bao nhiêu năm, đến khi có thể nói ra được thì tôi đã ở xa quê quá đỗi. Các người trong cuộc kẻ mất người còn mà vai chính là chú Châu, câu chuyện thế này: Giỗ chị Hân đã xong lễ hoá vàng cũng đã xong, tro cũng đã được hốt đổ xuống ao, nhưng bác gái tôi vẫn bồi hồi nhớ chị Hân, chị chết oan uổng đau đớn.
Bác gái tôi cho gọi ông thầy cúng đến để phụ đồng chị Hân lên, bác tôi mong rằng sống khôn thác thiêng, bác muốn hỏi cho ra lẽ về cái chết của chị. Trời đã tối mảnh sân hoá vàng còn nóng hôi hổi, bác gái tôi cho bày một bàn thờ riêng ở gian bên, có hình chị Hân trên bàn thờ, hình chị Hân tô màu colour, chị mặc áo nhung đeo kiềng vàng vấn tóc trần. Quanh ảnh chị có hoa tươi, trà, một dĩa xôi đậu và một con gà luộc. Mỏ gà cắp một đoá hoa hồng ngắt ở ngoài vườn, hai cây nến trắng lung linh, bát hương nghi ngút khói, đặc biệt có một mâm bồng cam bố hạ, thứ cam to mỏng vỏ ngọt mát mà ngày xưa chị Hân rất thích ăn.
Ông cung văn và cô đồng đón đâu từ xa đến, được bác tôi đãi ăn rất hậu bác tôi còn hứa :
- Nếu hồn về trót lọt trả lời suôn sẻ, tôi sẽ còn thưởng thêm.
Cơm nước xong trước bàn thờ, ông cung văn ngậm cái tăm trên miệng, nhẹ nhàng ngồi vào góc chiếu lên dây đàn: phừng phừng, phừng phứng phưng.. Những ngón tay dài khẳng khiu nắn buông trên các phím, phô cái khuỷu tay áo the đã rách, mọi người đã tề tựu, bác gái tôi đã có mặt. Cô đồng được mời vào, cô đồng trạc độ trên dưới bốn mươi, là vợ của ông cung văn, nổi tiếng là người có căn, hồn dễ nhập.
Cô được mời ngồi vào giữa chiếu, đèn măng xông thắp sáng, cô e dè ngồi lê dần vào vị trí trước bàn thờ, ông cung văn phủ lên đầu cô một cái khăn đỏ rộng chùm đầu, che kín cả vai và lưng, trên đầu cô một bát nhang được nhẹ nhàng đặt lên, cô đồng từ từ dơ hai bàn tay lên, run run úp vào mặt. Cung văn bắt đầu hát:
- Ơ cô.. cô đẹp cô xinh...ấy a hồn rằng hồn thác ban ngày, thương cha nhớ mẹ, chứ hồn dày thác đêm.
Bác gái tôi bắt đầu tấm tức khóc không lễ, vì cha mẹ không phải lễ con, nhưng bác tôi nói nho nhỏ:
- Sống khôn thác thiêng con có điều gì oan khuất thì xin nhập vào đồng, nói cho mẹ biết.
Ông cung văn vẫn cao giọng vừa đàn vừa hát, mắt ông không rời nhìn vào cô đồng, vì theo kinh nghiệm thông thường, hát chưa xong một khúc đồng đã đảo. Nhưng khúc hát đã chuyển mà đồng vẫn cứ lặng yên, chỉ thấy hơi run run như lo như sợ, hết khúc hát khen, ông cung văn chuyển sang khúc tán. Giọng ông lúc cao vút như gió gió cuốn trên ngàn, lúc lại chùng chùng xuống như thác đổ đầu ghềnh. Cô đồng vẫn ngồi im như cũ, bỗng cô đồng buông tay, đỡ bát nhang trên đầu xuống để ở trước mặt, tháo khăn phủ đầu xuống, ông cung văn cũng bỡ ngỡ bỏ dở tiếng đàn tiếng hát.
Cô đồng mặt mày nhợt nhạt cúi đầu, chấp hai tay rồi lễ phép thưa:
- Xin cụ bỏ lỗi cho nhà cháu không hợp căn, hồn không nhập được.
Mọi người ngơ ngác, ông cung văn cũng hạ cây đàn xuống để dài trên chiếu, chiêu một ngụm nước lớn rồi thưa:
- Hồn cô cao lắm nhà cháu không hợp căn cơ, không đậu được hồn về, ở đây có ai ngồi được xin mời vào ngồi hộ cho.
Trên bàn thờ nhang đã cháy hết một nửa, hai ngọn nến vẫn lung linh leo lét, bỗng có ai tắt bớt ngọn đèn măng xông. Bàn thờ bỗng trở nên u linh huyền hoặc, hình chị Hân trên bàn thờ lúc sáng lúc mờ theo ánh nến, ông cung văn lại nhắc:
- Ai có căn xin ngồi hộ.
Ông cung văn chiêu một ngụm chè mạn đặc, nhưng nét mặt ông lo lắng thấy rõ, như thế là tiếng tăm của cô đồng mất, việc làm của vợ chồng ông sẽ sa sút chăng. Đợi một lúc ông cung văn lại hỏi:
- Ở đây ai có căn cơ hầu đồng được thì xin ngồi hộ đi.
Ngoảnh đi ngoảnh lại không thấy ai, sau một tuần trà nước nữa, cuộc hầu đồng tưởng đã bỏ ngang, thì cửa phòng bỗng mở. Một luồng gió tạt vào lạnh toát, chú Châu tôi xuất hiện khẽ nói:
- Nếu không có ai thì để tôi ngồi thử xen sao.
Có ai đáp :
- Phải đấy.
Cô đồng lê ra cạnh chiếu nhường chỗ cho chú Châu tôi ngồi vào giữa chiếu, đầu chú phủ khăn đỏ và không quên để bát hương lên đầu, hai tay chú bưng mặt. Tiếng đàn lại nổi tiếng hát của ông cung văn lại cất, lúc đầu, đầu đồng quay nhè nhẹ rồi theo nhịp đàn theo tiếng hát, đầu đồng quay rộng vòng hơn, ngả ra phía trước ngả ra phía sau. Tiếng đàn hát mỗi lúc mỗi thêm hưng phấn, mọi người trố mắt dõi theo vòng đảo chao chát của đồng, bỗng tiếng đàn như chùng tiếng hát nhẹ như ru, như dỗ:
- Chẳng mấy khi xa loan giá ngự về đ..ồ..n..g.
Bây giờ đồng đảo mạnh mềm như không có xương, rạp xuống phía trước ngả ra phía sau, vậy mà bát hương trên đầu đồng không đổ. Mọi người ngồi xung quanh im phăng phắc, nét mặt ai nấy đăm chiêu sợ hãi, bác gái tôi thì xuýt xoa, đồng đảo một vòng rất sâu rồi từ từ ngưng lại, tiếng đàn thưa thớt theo lời như khấn như dỗ dành:
- Đêm có khuya ngày có rạng, xin đồng ngả tay đồng xuống để ăn trầu uống nước..
Đồng chìa bàn tay run run ra phía trước, mọi người nín thở, hai tay đồng đón bát hương trên đầu xuống, trịnh trọng để ngay trước mặt, rồi nhẹ nhàng vén mảnh vải đỏ ra. Mọi người nín thở, chú Châu bây giờ khác hẳn, mặt mày đỏ ửng hai mắt khép hờ, rồi từ từ mở ra thất thần, như đang còn chìm vào một cõi huyền hoặc nào xa. Đồng đảo mắt một vòng rồi bỗng oà khóc, khóc như mưa chan hòa nức nở, bác gái tôi thì có vẻ sợ mà nước mắt cũng đầm đìa.
Tiếng đàn lại nổi và giọng ông cung văn như dục, như mời:
- Xin hồn hãy bớt lo toan đừng khóc nữa, hồn có điều gì oan khuất thì có mẹ hồn đây, hồn có thể giãi bày vài lời cho thoả..
Hồn vẫn khóc, khóc lớn hơn, bác gái tôi trong nước mắt nghẹn ngào:
- Con ơi, con chết oan chết uổng khổ sở thân con, mà con có biết hôm nay là ngày gì của con không?
Hồn khẽ gật đầu nói:
- Biết, ngày giỗ đầu của con.
Thế là bác gái tôi oà khóc và hỏi:
- Mẹ có thửa mã cho con đủ cả, nhà Tây, xe cao su, hài thêu, quần áo, người hầu, không thiếu một thứ gì. Con có nhận được không?
Hồn lại khóc và khẽ đáp:
- Con chỉ nghe được tiếng trống cúng xa xa thôi, vì lũ quỷ nó cướp mất cả con chả được gì.
Thế là bác gái tôi lại khóc nấc lên não nuột:
- Khốn khổ con tôi thế con đã ăn uống gì chưa?
Hồn lắc đầu và ra chiều buồn bã quá, hồn nhìn lên bàn thờ mình, trong lúc tiếng đàn của ông cung văn lại nổi lên rộn rã reo vui:
- Hồn đói, hồn khát, thương quá hồn ơi..
Thế là bác gái tôi bảo đem con gà luộc trên bàn thờ xuống, xé cái đùi gà ra chặt vội vã bày trước mặt hồn, hồn ăn một miếng thịt gà rồi lại khóc, bác gái tôi lại hỏi:
- Thế con làm gì ở dưới âm ty?
Hồn đáp:
- Con nghèo khổ quá phải đi buôn rau buôn chè, đó là nghề ít vốn, mà những người cùng quẫn của làng tôi mới làm.
Nghe thế bác gái tôi lại khóc và nói:
- Khốn khổ quá con tôi..
Ông cung văn vẫn hát, hồn khen :
- Hát hay! và bảo: Hồn cần tiền để thưởng cho ông cung văn.
Bác gái tôi liền móc túi lấy mấy đồng bạc đưa cho hồn, hồn cầm tiền bỏ cả vào túi, chỉ lấy ra có mấy xu thưởng cho ông cung văn, ông cung văn đón lấy tiền thưởng và cao giọng hát tiếp, ý chừng sẽ còn nhận được thêm tiền thưởng:
- Âm dương cách trở đôi đàng, khuất oan hồn cứ thực lòng kể ra, này anh này mẹ này cha, này là chú bác toàn là người thân.
Tiếng đàn càng trở nên quấn quýt, rộn rã như thúc dục như tươi vui:
- Á à a hồn ơi hồn chớ ngại ngần...
Có ai đó lấy từ trên bàn thờ xuống một quả cam bố hạ đỏ au, vỏ mỏng như giấy, bóc ra đưa cho hồn, hồn nhận và cho vào miệng một lần bốn múi. Quả cam vừa hết, mọi người hy vọng hồn sẽ thổ lộ thêm về cái chết oan khuất của hồn, thì hồn bỗng lăn ra và... thăng. Ông cung văn hốt hoảng ngưng đàn hát, bác gái tôi thì sửng sờ, hai tay quơ quơ như muốn bám víu, muốn giữ hồn ở lại.
Chú Châu tôi lồm cồm ngồi dậy, mắt nháo nhác như vừa tỉnh một cơn mê, chú vái vội vàng mấy vái trước bàn thờ rồi nhanh chân lui ra, mọi người còn ngơ ngác, bác gái tôi mếu máo:
- Thế là nó đi, mẹ con âm dương cách trở, mới gọi được hồn lên, chưa hỏi được ngọn ngành nó đã thăng..
Trong cái không khí bàng hoàng đó, chú Châu đã nhanh chân lẻn ra ngoài, anh cả tôi chạy theo, tôi cũng chạy theo xem sao. Trời đêm tối như mực, đom đóm đâu đó kéo về bay nháo nhác đầy sân, chú Châu vỗ vào túi áo, nói nhỏ với anh cả tôi:
- Đi đi ăn phở.
Chú cho tôi đi theo và nhắc khẽ, lời nói sắc gọn như chỉ lọt qua kẽ răng:
- Câm, phải câm nghe không.
- Vâng.
Lúc ấy vì sợ chú, vì bỗng dưng được đi ăn phở, tôi đã "câm" không dám hở cho ai hay.
Hình ảnh chú Châu bao giờ cũng vẫn thế, như lời thầy tôi nói:
- Bao giờ cho đứng đắn đây!
Phan Lạc Tiếp
NHÀ MA
Gia đình bác Tám được nhà nước tặng cho một căn nhà ở đầu xóm đá, đó là một điều mà bác Tám không bao giờ mơ tới, Bác Tám chỉ cần một căn nhà lá là đủ cho cha con bác sống tạm, trong những ngày đầu dọn ra từ miền bắc cực khổ để kiếm việc làm. Căn nhà này thật là rộng rãi và khang trang, bác Tám thích lắm. Ngày gia đình bác dọn vào căn nhà mới, bác thấy bà con hàng xóm bàn tán gì đó, nhưng mắc mớ gì chớ nhà nước đã tặng cho bác, thì bác cứ tự nhiên ai muốn nói sao thì nói
Đêm đầu tiên vì quá vui mừng, bác Tám đã uống hết một xị rượu đế, và sau đó bác tiến vào phòng ngủ của bác, lờ mờ vì men rượu bác nhìn thấy có một cái bóng người lướt qua bác, bác cảm thấy toàn thân lạnh cóng, nhưng rồi bác dụi dụi mắt lắc lắc đầu, và tiếp tục bước về chiếc giường. Đặt mình lên giường là bác Tám gáy khò luôn, đang trong giấc mộng đẹp bác Tám chợt giật mình tỉnh dậy, vì bác nghe có tiếng gì như là bát diã đổ vỡ, ở gian nhà sau.
Khệnh khạng bước xuống gian sau khám xét, bác không kiếm ra được manh mối gì cả. Bác trở vào phòng và ngủ tiếp, nhưng chưa đầy mấy phút thì bác lại nghe có tiếng động ở gian sau. Lần này thì như là tiếng chân người bước, cùng với tiếng xích khua leng keng rất rùng rợn, toàn thân bác Tám nổi da gà, bác chợt nghĩ tới điều mà bác không bao giờ muốn nghĩ tới: "có ma!"
Bác trùm chăn lên đầu và cố gắng xua đuổi những ý nghĩ sợ sệt đó, nhưng bác không thể nào bình tĩnh được khi tiếng động kia, cứ như đang tiến về phiá cửa phòng của bác. Bác muốn lấy lại hết bình tĩnh để bước xuống giường, nhưng toàn thân bác run cầm cập, và chân tay như không còn xương để di chuyển. Bác Tám chỉ còn cách xuôi mình cho số mạng an bài. Tiếng bước chân mỗi lúc một gần phòng bác, bác Tám hồi hộp lo sợ, rồi bác nghe tiếng kẽo kẹt của cánh cửa nhè nhẹ. Tuy trùm chăn cả người nhưng bác Tám có thể cảm giác được, là cánh cửa phòng bác đang từ từ hé mở và bước chân kia từ từ tiến về phiá chiếc giường của bác.
Lúc này thì bác sợ đến cực điểm chân tay bác rã rời, hai hàm răng bác cũng khua theo tiếng chân kia, tiếng chân càng gần thì hai hàm răng càng đập mạnh. Bác Tám cảm thấy có bàn tay lạnh lẽo, đang động tới cái chăn, tiếng thở nhè nhẹ nơi tai bác và ánh mắt đỏ chóe đang nhìn vào mặt bác, bác Tám hét to lên nhưng bác bác chẳng nghe được tiếng la của bác. Lúc này thì bác nghĩ là bác sẽ chẳng còn có thể sống được nữa, Bác cảm thấy chiếc chăn được tung lên, và một bàn tay to tướng chộp vào người bác, bác giật bắn người dậy và nhìn thấy người ngồi bên cạnh bác là đứa con của bác
- Cha nằm ác mộng ha? đứa con hỏi
Người bác Tám ướt như chuột lột, bác nhìn quanh quẩn một hồi và chợt thở phào nhẹ nhõm. Tuy là chẳng có chuyện gì không may xảy đến nơi bác bác Tám cũng không thể nào phân biệt được, là bác thật sự đã nằm mộng, hay là bác đã gặp ma. Dầu sao đi nữa thì bác cũng bị chuyện đó ám ảnh suốt cả ngày. Rồi chiều lại về, bác Tám nhất định là không uống một giọt rượu nào, để giữ đầu óc tỉnh táo cho đến tối.
Mười giờ, mười một giờ, rồi mười hai giờ, đã ba tiếng đồng hồ nằm trên giường, mà bác Tám không thể nào ru mình vào giấc ngủ được, bác cứ trằn trọc không yên trong khi thằng con của bác, đã yên giấc điệp từ lâu. Bác Tám bắt đầu đếm số một, hai, ba, với hy vọng là sẽ làm cho giấc ngủ mau đến, Khi bác Tám vừa đếm tới một trăm, thì bác nghe: "keng keng keng", tiếng kêu phát ra từ nhà sau.
Bác Tám nhảy xuống giường, chạy đến cánh cửa và áp tai vào cửa để nghe ngóng, nhưng đã năm phút qua đi mà mọi sự vẫn im lìm, bác Tám trở lại giường và trong khi bác sửa soạn đặt mình xuống, thì bác lại nghe: "xịch xịch xịch". Bác Tám rùng mình một cái và bắt đầu hồi hộp, vì đúng là những tiếng kêu mà bác đã nghe được hồi đêm qua. Nhắc lại là sau khi chuyện xảy ra đêm qua, bác Tám lúc nào cũng hy vọng là mình đã nằm mơ, nhưng giờ nghe những tiếng động này, bác Tám khẳng định chuyện đêm qua là sự thật.
Để chắc ăn bác Tám nhéo vào má một cái thật mạnh, "Ouch!" Bác Tám la thầm, tim bác Tám bắt đầu đập mạnh và mồ hôi bắt đầu toát ra. Bác Tám cầm cây gậy lên lấy hết bình tĩnh bước tới cánh cửa phòng. Tiếng "xịch xịch xịch" đột nhiên lặng bẵng đi, bác Tám từ từ mở cánh cửa bước ra ngoài, rồi từ từ bước xuống gian nhà sau. Trong lúc bác đang hồi hộp, thì "vù" một vật gì bay về phía bác. Bác Tám giơ cây gậy lên và lấy hết sức đập mạnh vào vật đó "meo! meo! meo!", bác Tám nhảy về phiá sau "Thì ra là con mèo " bác Tám thở hắt ra, bỏ cây gậy xuống và lấy hai tay xoa xoa ngực.
Quan sát một hồi không thấy có gì lạ, bác Tám quay trở lại phòng ngủ. Vừa chân trước chân sau bước vào, bác Tám giật bắn người và lùi lại, vì chiếc giường của bác đã được dựngﮧ đứng lên. Trong lúc bác Tám còn đang hốt hoảng, thì chiếc giường kia bắt đầu xoay xoay vòng vòng. Bác Tám sợ quá cắm đầu chạy qua phòng thằng con trai của bác. Mở cửa phòng đứa con trai, bác Tám vội vã chạy đến chiếc giường để đánh thức thằng con trai dậy. Nhưng khi bác Tám chạy đến chiếc giường, thì một khuôn mặt xanh như tàu lá chuối xoay lại nhìn bác.
Bác Tám vì quá kinh hoàng, đã xoay mình chạy thẳng xuống nhà dưới. Sau khi lấy lại bình tĩnh, bác quyết định vào cứu thằng con trai. Bác nhặt cây gậy lên và từ từ bước lên nhà trên, lấy hết sức bác bước tới gần chiếc giường thằng con trai. Bác từ từ giơ chiếc gậy lên, nhưng bác chợt ngưng lại vì giờ trên giường, chỉ còn thằng con trai của bác đang say mê trong giấc ngủ. Bác đánh thức thằng con và kéo nó chạy ra khỏi nhà. Đêm nay hai cha con bác Tám, nằm ngủ trên vĩa hè của một người hàng xóm. Tuy tiết trời lạnh lẽo nhưng bác Tám thấy, người bác còn ấm hơn ngủ trong căn nhà của bác.
ST
BÓNG NGƯỜI CUỐI LỚP
Chuyện này xảy ra được hơn mười năm rồi, lúc ấy tôi mới chỉ là học sinh lớp năm của một trường tiểu học, lúc đó là năm cuối cấp tiểu học, nên chúng tôi cũng học dữ dội lắm, nhiều lúc buổi sáng học không hết bài ôn thi, nên buổi tối chúng tôi cũng phải lên trường để học phụ đạo. Trong lớp tôi có người bạn tên Trường là bạn rất thân, phần vì nhà tôi với nó ở cùng xóm, phần vì mỗi ngày đi học tôi hay đi ngang qua nhà nó, sẵn tiện rủ nó đi chung cứ như thế thành thân luôn.
Một hôm như thường lệ, tối hôm đó chúng tôi đi học, tôi vì dáng người nhỏ bé nên được xếp ngồi đầu bàn, còn Trường to cao nên được ngồi bàn cuối. Trường học của chúng tôi là một trường theo đạo thuộc dạng dân lập, nên trên tường gắn ảnh của những bà sơ thường gọi là ma sơ, làm việc trong trường rồi chết ở đấy. Lớp tôi cũng có một bức ảnh như thế, tối hôm đó khi cô giáo chúng tôi vừa dạy xong, thì đồng hồ cũng chỉ tới chín giờ.
Lúc đó tôi và Trường đứng ở ngoài mua cây kem chuối, thật sự chỉ có nó mua thôi chứ tôi không mua, và cũng đợi lớp trưởng Ngân cùng về chung, vì lớp trưởng phải dọn dẹp phấn, giẻ lau bảng.. Dáng của Ngân vừa bước xuống cầu thang, lớp tôi học ở trên lầu, thì tôi mới sực nhớ là mình để quên hộp bút trong hộc bàn, tôi vốn tính gan dạ nên dặn Trường ở lại đợi tí để tôi lên lớp lấy hộp bút.
Vừa lúc đó thì ba của Ngân tới đón bạn ấy về, tôi vừa bước tới cửa phòng thì nghe hơi lạnh chạy dọc xương sống, cả phòng học dường như bị hạ thấp nhiệt độ một cách lạ thường. Như thói quen tôi ngước nhìn lên ảnh thờ bà ma sơ, thì không thấy bức ảnh đó nữa, tôi bắt đầu cảm thấy sợ, nhưng tôi cũng tự trấn an lại, chắc bác bảo vệ đã lấy xuống hồi lúc nãy để lau chùi rồi.
Tôi không vào chỗ ngồi mà đứng ở ngoài cúi vào để lấy, vừa lấy xong ngước mặt lên tôi giật bắn người, khi thấy có ai ngồi chỗ của Trường ở cuối lớp, nghĩ là Trường hù tôi nên tôi nói với giọng giễu cợt:
- Mày hả Trường.
Im lặng trong vòng ba giây, bất chợt ngoài trời đổ mưa rồi một tia sấm sét nổi lên, qua ánh sáng mờ mờ tôi nhận thấy khuôn mặt của bà ma sơ, mà hằng ngày tôi hay thấy trên bức ảnh, là người đang ngồi ở cuối lớp và đang nhìn tôi cười một cách kinh rợn. Tôi như người điên la lên một tiếng rồi bỏ chạy, Trường nghe vậy từ dưới sân chạy lên tay còn cầm cây kem chuối ăn chưa xong, tôi cắm cổ chạy và chạy ngang qua nó miệng nói:
- Có ma chạy đi.
Sau đó tôi chạy nhanh về nhà, nhưng khi chạy ngang qua nhà của Trường, tôi thấy nó đang ngồi trước cửa tay còn cầm cây kem chuối. Lúc đó tôi không có suy nghĩ gì, vì sao nó lại về nhà trước tôi, về đến nhà người ướt sũng thay vội quần áo rồi lên giường ngủ. Sáng thức dậy tôi nhùng nhằng không chịu đi học , nhưng do ba má tôi hăm he chửi bới, nên tôi cũng quyết định đi, khi đi ngang qua nhà Trường định rủ nó đi học, thì được tin nó đã chết từ tối hôm qua, mẹ nó khóc la thảm thiết.
Tôi cũng đứng như trời trồng nghe nói nó bị ngã từ cầu thang xuống, chấn thương sọ não chết, khựng lại một lúc trước nhà nó tôi đi tiếp. Bữa nay do tới trễ nên cả lớp tui đã vô lớp hết, nghĩ tới cảnh đã gặp bà ma sơ nên khi vửa bước vô lớp, tôi nhìn ngay xuống chỗ bà ma sơ đã hiện về, cũng là chỗ của Trường ngồi, tôi như muốn hét lên nhưng không được, vì khi nhìn xuống chỗ đó tôi đã thấy Trường đang ngồi đó tự bao giờ đang nhìn tôi cười, và trên tay nó đang cầm cây kem chuối còn ăn dở.
Tôi bị ngất xỉu sau đó và được đưa đi bệnh viện, tôi phài nằm viện cả tuần bỏ dở kỳ thi cuối cấp, sau đó ba tôi kiếm cho tôi ngôi trường công lập khác học lại lớp năm, và tôi phải chuyển nhà đi nơi khác để gần chỗ học. Sau này khi về lại trường xưa, tôi mới biết là phòng học chúng tôi hồi đó, là chỗ ăn ngủ của các bà ma sơ, có một bà ma sơ đã chết ở trên giường, vì bị trúng gió khi ngủ ở trong căn phòng đó, và chiếc giường mà bà ta nằm chính là chỗ ngồi của Trường.
ST
TRÂU TỰ TỬ
Tôi có một "Sư Ðệ" sau bảy lăm nổi danh ở Hóc Môn, chuyên trị bịnh tên là Thầy Sáu Nhỏ, tên vậy chứ hắn rất cao lớn người và có giọng nói rổn rảng dữ tợn lắm. Cha của hắn có chức vụ khá cao trong huyện, thấy thằng con làm bùa phép bị công an kiểm điểm nói này nói nọ, nên ông ta bực lắm thường rầy la chú Sáu Nhỏ, nên chú Sáu Nhỏ cứ phải đi trị bịnh cho dân mà lén lút hoài.
Một hôm Sáu Nhỏ lên Thầy tôi hắn kể:
Mẹ của hắn bịnh nặng, vì là cán bộ nên đã được đưa vào bệnh viện đặc biệt dành cho cán bộ là bệnh viện Vì Dân cũ, nhưng các bác sĩ chịu thua cho về bây giờ Mẹ của hắn nằm chờ chết. Sáu Nhỏ tức quá vì hắn làm Thầy chuyên trị đủ mọi chứng bịnh, nay chính Mẹ mình bịnh thì lại không biết bịnh gì và trị không được. Thầy tôi nói là không sao cứ về lại Hóc Môn, hỏi mấy ông "Lái Bò, Lái Trâu" thì rõ.
Sáu Nhỏ về tìm hỏi thì được biết con "Trâu Cổ" (trâu cổ là trâu trẻ lớn con khoẻ mạnh) mà Ba của Sáu Nhỏ mới mua mấy tháng trước, có mấy cái “xoáy” đặc biệt là con "Trâu Sát Chủ". Trong khi Ba của Sáu Nhỏ thì rất thích con trâu này, ông ta thường khen nó quá khôn và có sức, nên hễ mỗi khi cày muốn "Thá Ví" trái phải gì, thì con trâu cổ này đều kéo con đi cặp với nó quẹo đúng ngay.
Nếu trâu ngu và yếu sức sẽ kéo đường cày đi tầm bậy, và làm mất thời giờ cũng như làm người nông dân rất vất vả. Vì vậy khi Ba của Sáu Nhỏ nghe thằng con mê tín dị đoan của mình, nói là má của nó bị bịnh vì con trâu cưng của ông ta là trâu sát chủ, thì ông không chịu được nữa, bèn vác hèo đập cho Sáu Nhỏ một trận, rượt Sáu Nhỏ chạy mất tiêu.
Ngày hôm sau, buổi chiều khi con trâu được dẫn đi ăn về đến trước của nhà, nó bỗng rống lên rất lớn nghe rất khủng khiếp, đến nỗi mọi người nói là trâu điên và chạy lánh xa. Lúc đó con trâu phóng đôi sừng của nó vào hàng rào, rồi tự...bẻ cổ té cái bịch xuống đất nhưng không sao, và con trâu lại rống lên ầm ỉ nữa.
Mọi người đều đứng xa nhìn chứ không ai dám lại gần, sau cùng con trâu bèn đi đảo quanh hàng rào, tìm chỗ có khe chắc chắn đút cặp sừng vô, rồi tự bẻ cổ "rắc" một cái lăn ra giãy giãy chết luôn. Tận mắt chứng kiến chuyện con trâu..tự tử như vậy, Ba của Sáu Nhỏ chắc cũng sợ và ngạc nhiên, ông ta bèn khẽ hỏi thằng con trai út:
- Mày thấy anh Sáu mày đâu không ? Nó có làm bùa phép gì cho con trâu không vậy.
- Dạ con hổng biết, chớ hồi sáng sớm có người đem xe lại rước anh Sáu đi Lái Thiêu trị bịnh rồi, mà trước khi đi ảnh nói con lấy một miếng vôi ăn trầu của Má đưa cho ảnh, ảnh quẹt vôi vẽ cái gì lên trán con trâu rồi ảnh mới đi.
Nghe vậy ông bèn kêu lái chiếc xe Jeep, đưa ông ta đến ngay nhà Thầy tôi, khi được hỏi Thầy tôi trả lời là Thầy tôi không có dạy phép nào giết trâu, giết người cho Sáu Nhỏ cả. Nếu cần để Thầy tôi "gọi" Sáu Nhỏ đến để kiểm chứng, ông nói là thằng con đi Lái Thiêu biết chỗ nào mà cho người kêu về!
Thầy tôi bèn thắp ba cây nhang rồi nói:
- Ông cứ chờ ở đây đi khoảng hơn một tiếng nữa nó sẽ về tới.
Và đúng như vậy..Sáu Nhỏ hết hồn khi thấy chiếc xe jeep của Ba mình đậu trước nhà Sư Phụ mình, hắn riu ríu bước vào khi được hỏi hắn đáp:
- Dạ con nóng lòng muốn cứu mạng của Mẹ con, nên thà con mang tội sát sanh, cho nên con đã tới năn nỉ Sư Thúc dạy cho con phép…”Hoá Ðộ” con trâu sát chủ đó.
– Vậy nhà ngươi đi kêu chú Tư qua đây cho Thầy hỏi.
“Tứ Sư Thúc” của tôi được mời đến, ông thản nhiên lý luận với Ba tôi:
- Chú em à, chú hãy về Hóc Môn hỏi ngay cái người lái đã bán con trâu đó cho chú đi, coi chủ trước của nó phải mới chết không ?..
..Cũng như liên tiếp ba năm nay, mỗi năm một chủ bị chết. Sát nhứt Miêu cứu vạn Thử mà, hơn nữa con trâu này đã tới số, nên khi thằng Sáu Nhỏ nó năn nỉ tôi cho phép nó làm cho con trâu chết, tôi có cho gì đâu ngoài chữ bùa vãng sanh...Như vậy là hoá kiếp cho con trâu chớ có hại nó đâu, chú em về Hóc Môn hỏi mà không đúng thì trở lên đây, tôi đền tiền cho mua con trâu khác.
Kết quả Má của Sáu Nhỏ tự nhiên hết bịnh. Từ đó Ba của Sáu Nhỏ làm lơ cho con làm Thầy trị bịnh luôn. Trâu tự tử ! Chuyện lạ ghê phải không các ban.
ATOANMT
MA GIẤU
Tôi nhớ hồi tôi còn nhỏ, nội tôi vẫn hay dặn tôi không được đi một mình ra rừng, ngang mả… Vì đi một mình sẽ bị ma giấu. Tôi không tin vì ma làm sao giấu được người kia chứ. Có con ma trên đời không? Tôi không biết, nhưng tôi không sợ. Mỗi lần tôi đi chơi lâu lâu là mẹ tôi phải kiếm tôi về, cũng sợ bị ma nó giấu. Và để doạ cho tôi sợ không đi rong chơi những chỗ vắng vẻ, rậm rạp, mẹ tôi kể:
Hồi đó lúc mẹ còn nhỏ, ở quê mẹ có anh Luân làm nghề chăn trâu. Anh hiền và vui vẻ vẫn thường hay đi lượm trứng cúm núm, cà cuốc ngoài bưng về cho những đứa trẻ trong làng. Anh tốt lắm ai cũng thương. Có bữa đó anh thả trâu ngoài đồng cho nó ăn cỏ như mọi khi, anh thì đi lại phía bờ mương vò bi đất để làm đạn bắn chim. Buổi trưa anh lùa trâu ra rạch tắm, xong rồi lại lùa lên đồng cho ăn thúc, để ít bữa nữa là vào vụ cày.
Mấy con trâu của anh rất khôn, bốn con luôn gắn bó cùng nhau, con nghé thì hiển nhiên theo đuôi mẹ nên không bao giờ bị lạc. Luân rất rảnh với đàn trâu, anh có thể thong thả mà vò bi đất, đặt bẫy cò ke, bẫy mỗ…hay mò cá tép lúc nước ròng. Bữa nào về khi thì con quốc, khi thì cò ma hay xâu cá…nên nhà anh không khi nào cực ăn, thậm chí anh còn cho hàng xóm. Lúc bấy giờ xóm ấp còn lơ thơ, bốn bề cây cỏ um cả lên, chim cá thiếu gì vì thế mà người ta hay nói câu “chim trời cá nước”.
Nhưng hôm ấy trâu đã về chuồng, con nào con nấy no cành hông mà chẳng thấy anh Luân về. Cũng không có gì lạ, anh ấy vẫn thường hay như vậy. Nhưng lúc đã chạng vạng rồi, muỗi đã vo ve, mấy con dơi chuột từ trong vách, từ đọt chuối đã lạch cạch bay ra. Luân vẫn chưa về. Cả nhà đã sốt ruột, ngồi đứng không yên. Ở đây không có beo hùm để bắt mất anh nhưng lại có con ma bắt anh!
Ông Tư cha anh Luân đã bắt đầu chửi đổng rồi chửi ảnh. Ông hy vọng ảnh lêu lỏng đâu đó chứ không phải bị ma trêu. Cả nhà muốn điếc tai nhưng vẫn chưa thấy Luân về. Rồi cả nhà bắt đầu túa ra đi kiếm Luân. Mỗi người hai bó đuốc lá dừa buộc chặt, một bó đốt sáng, một bó dự trữ. Họ đi, Ông Tư và chị Ngọc, chị của anh Luân, đi về hướng đồng dưới, bà Tư và thằng Út về xóm trên.
Mới đầu chỉ có bấy nhiêu nhưng tới nhà ai người ta cũng đi tìm giúp. Đuốc đã lốm đốm ngoài đồng, người ta hẹn nhau khi nào gặp Luân, thì quơ quơ ngọn đuốc hình vòng tròn nhiều lần, làm hiệu báo cho mọi người biết đã tìm gặp. Họ đi khắp xóm, họ xuống tận biền, ra tận thềm mả lạng, nhưng chẳng có vòng tròn lửa
nào được vạch lên. Đã về khuya, nhiều người tìm không thấy đã bỏ về rồi. Ông Tư và bà Tư cùng một vài người bà con nữa họp lại, khẳng định là ma giấu thằng Luân chứ chẳng đâu, nó không bao giờ ra khỏi xóm này được.
Ông bà thường nói hễ ma nó giấu, thì dầu có ngay trước mặt thì cũng không nhìn thấy, trừ người nặng bóng vía và chó mực. Mà những người nặng bóng vía tức những người không sợ ma, không ngại khi qua mả một mình thì xóm này không ít, nhưng vẫn không nhìn thấy Luân. Chỉ còn hy vọng ở ánh mắt và tiếng sủa của con mực, làm ma sợ bỏ đi mới cứu được thằng Luân. Ông Tư suy nghĩ rồi trở về dẫn con mực theo, ông nhờ thêm con mực của nhà chú Năm nữa.
Hai con mực tự dưng bị người ta đưa ra ngoài nên sủa vang. Ông Tư nghi nhất là gò mả lạng, thúc chó sủa vang nhưng không thấy. Rồi ông dẫn hai con chó xuống bãi lá, chỗ này ông đi rồi nhưng khi nảy ông cứ thấy rờn rợn mà tìm không ra. Chó sủa vang, đuốc sáng ngời và toả khói mù. Những giọt sương đang âu yếm trên mặt lá như bị đánh thức, cứ lấp lánh lên rồi lăn tuột đi khi có chân người va chạm.
Chó sủa dữ và hăng về phía mương lạng. Mọi người về phía đó, ngay cạnh bờ lức có tiếng động khẽ, chó sủa hăng tiết và vồ vồ vào bụi lức già. Ông Tư chạy nhanh lại rọi đuốc vào.
- Thằng Luân !
Ông hét nghẹn, thằng Út cầm ngọn đuốc cho ông. Ông dùng tay dẹt thân lức cứng lôi anh Luân ra, anh chỉ ứ ứ nhưng không nói được, mình mẩy miệng mồm đầy đất. Ông Tư ôm ngang hông anh xốc xốc xuống rồi dùng tay móc đất trong miệng anh ra. Ông cõng anh về nhà, mọi người cùng về, hai con chó đã bớt sủa vì nhận ra người quen. Thật đáng sợ, bụi lức dày thế kia mà nhét gọn anh Luân vào, chỗ ấy đã ba bốn lượt người qua nhưng không thấy được. Ai cũng rùng mình.
Anh Luân sau khi về nhà đã hoàn hồn trở lại, anh khóc nấc lên vì sợ. Người ta hỏi tại sao anh ăn đất và lại chui vào bụi lức kia làm gì. Anh sợ sệt, khóc và kể rằng:
- Hồi xế chiều anh đi thăm bẫy được hai con quốc, rồi buộc chân nó để trên mé bờ, rồi leo lên cây bần lấy tổ chim, nhưng tổ chim mới làm nên không có trứng, anh thấy mấy trái bần chín ngoài rìa cành, thèm quá nên đu mình ra hái, hái được năm trái, anh ở trên cây ăn ngay một trái, còn bốn trái đem về định cho chị Hai và thằng Út...
Anh rề rề một hồi lâu rồi mới tuột xuống. Cầm hai con quốc lên định ra đồng lùa bầy trâu về, thì gặp một chị lạ lạ bán bánh bò đi ngang, chị bảo chị ở xóm bên qua đây bán bánh, nhưng chiều rồi mà còn nhiều quá. Bánh ế nên chị cho anh Luân ăn và xin Luân một con quốc về cho nhà. Vốn thảo ăn, anh liền cho chị một con quốc, anh cũng định ăn một vài cái bánh của chị để lấy thảo làm quen. Anh bỏ bánh vào miệng nhai cũng có vị ngon ngon nhưng khi nuốt lại không trôi…
Một cái bánh nữa tới miệng anh nhưng anh không từ chối được, đẩy ra nuốt vào cũng không được, cứ thế miệng anh ngoạm thêm mấy cái bánh bò. Anh không biết gì nữa. Anh chỉ nhớ là anh ăn bánh bò ngay dưới gốc bần ngoài biền, cách bãi lá hơn chục công đất. Thế mà anh lại bị giấu ngay trong bụi lức ven bãi lá.
Anh còn bảo lúc khuya anh có nghe tiếng mọi người gọi, nhưng không tài nào trả lời được cho tới lúc chó sủa vang, mới ự ẹ được bằng mũi và lúc ấy anh cảm thấy đau buốt bởi những cây lức kẹp mình. Sáng hôm sau ông Tư ra bãi lá xem thử, thì thấy bụi lức kia vẫn bình thường, nhưng xung quanh thì nham nhở dấu chân người. Dưới mương lạng thì còn lại chùm lông con quốc còn mới tinh. Ông lại đi ra biền, nơi có gốc bần anh Luân trèo bẻ trái hồi chiều hôm qua. Bốn trái bần vẫn nằm lăn trên mặt đất. Con quốc bị buộc chân vẫn nằm giãy giụa bên đám cỏ.
Ông Tư thương tình tháo dây thả nó. Nhưng đôi chân nhỏ như hai que tăm tụ máu không giúp nó chạy rúc vào bụi rậm, lúc gặp người như mọi khi. Ông Tư đành đưa nó về nhà dưỡng thương. Từ đó anh Luân chẳng bao giờ bẫy chim nữa. Cũng chẳng bao giờ thấy anh đi đêm một mình như hồi trước. Từ lúc nghe xong chuyện này tôi rất sợ ma, sợ rừng, không bao giờ tôi dám đi một mình ban đêm, hay đi một mình vào rừng, mặc dù rừng quê tôi nhỏ xíu và có nhiều người sống ở ven đó.
Tâm Đào
#52
Gửi vào 15/06/2011 - 06:55
TIẾNG ĐÀN KHUYA
Vừa xong học trình đại học tôi rời Chicago về ở chung với anh của tôi tại Denver. Anh tôi dụ tôi bằng những thứ hấp dẫn như núi non đẹp đẽ khí hậu dễ chịu, công việc cũng chẳng khó tìm để tôi quyết định dứt khoát hơn việc rời Chicago, thành phố mà tôi đã theo gia đình đến định cư khi tôi mới hơn bốn tuổi.
Thêm tôi cái apartment hai phòng ngủ hiện tại trở nên chật chội, dù ban ngày ai nấy đều đi làm chỉ có mình tôi ở nhà. Tôi thì chưa sốt sắng kiếm việc vì lạc quan cho rằng, tôi tốt nghiệp với hai ngành một lượt, không vớ được cái này thì cũng vớ cái khác. Vả lại ngành tôi chọn hiện lúc ấy thiên hạ đang cần, đó là chưa kể tôi ra trường điểm tương đối cao, và đã có vài năm làm thực tập, nên rất tự tin muốn nằm nhà xả hơi một thời gian.
Thực tế dù không thêm tôi thì anh tôi và những người bạn ở chung, cũng cần kiếm chỗ khác để mướn. Chỗ ở nầy bất tiện cho việc đậu xe, đi làm về phải chạy lòng vòng cả buổi, mới tìm được một chỗ để xịt tới xịt lui mà nhét chiếc xe vào. Công việc kiếm nhà đang ráo riết, ba phòng ngủ ở những khu lôi thôi thì chẳng thiếu gì, nhưng những khu tốt thì lại rất hiếm điều ấy là luật tự nhiên.
Chúng tôi phải dán giấy ở những cửa ra vào các siêu thị, mua báo hàng ngày để tìm nhưng cho đến nay đã hơn vài tháng, mà vẫn chưa tìm được nhà. May sao chó ngáp phải ruồi, có ông Việt Nam làm chung hãng IBM với anh Can tôi, bắn tiếng rằng ông có dư căn nhà thật xinh, nhưng dị ứng với người ngoại quốc. Ông lý luận theo kinh nghiệm người ngoại quốc tiền nong lôi thôi lắm, và mỗi chút nó mỗi kêu: máy sưởi không đủ ấm, máy lạnh không đủ mát... Ông có cảm tình với đồng hương và đặc biệt có ý giúp người cùng hãng nên lấy tiền thuê rất thấp.
Anh tôi hớn hở về thông báo bản tin vui ấy. Thế là chúng tôi dọn vào cơ ngơi mới nầy với nỗi hân hoan vô bờ bến. Ôi! một căn nhà lý tưởng với hai phòng tắm rưỡi, quá vừa vặn cho tụi đực rựa năm đứa như chúng tôi. Phía trên ba phòng ngủ khang trang, phòng khách rộng thênh thang, nhà bếp sáng sủa với tất cả giàn tủ mới toanh, dưới lầu (basement) có một phòng ngủ nữa. Đã đời như vậy mà ông ta chỉ lấy giá bình dân mỗi tháng một ngàn, rõ ràng người Việt mình tử tế ra phết.
Khi dọn vào dĩ nhiên tôi chọn ở dưới basement, vì ở trên mấy ông nội kia sáng nào cũng dậy cười nói rầm rầm, mất giấc ngủ bình yên của tôi. Tôi đang ở trong thời kỳ tàng tàng cho bõ công mấy năm đèn sách. Một mình tôi một cõi thế giới của tôi mấy ông kia ít khi thăm viếng, chỉ khi nào giặt đồ mới xuống mà thôi. Nhưng giặt đồ cũng phải có giờ giấc do tôi ấn định, chứ không phải khi tôi an giấc điệp mà mấy ổng tự động làm ồn.
Trước khi ngủ tôi có thói quen lôi cây guita classic ra dợt vài bản mà lúc còn ở Chicago, có ông mục sư tận tâm dạy cho tôi. Không hiểu ổng muốn tôi theo đạo, hay tại ổng thích tôi vì dáng dấp dễ thương mà ông ta rất tận tụy. Những khi đi chơi về khuya tôi thẳng xuống phòng, không làm “phiền lòng hàng xóm cần sự yên tịnh nghỉ ngơi” tầng trên. Phòng tôi ở luôn luôn mát lạnh như có máy điều hòa, dù lúc dọn vào chúng tôi chưa mở máy. Một hôm khoảng hai ba giờ sáng, ở phòng trên anh tôi lao ầm ầm xuống cầu thang, đẩy cửa phòng tôi bật đèn và nói lớn:
- Trường (tên tôi) mầy mới đánh đàn phải không? Mấy thằng kia phàn nàn mầy ồn quá.
Tôi dụi mắt nhìn đồng hồ trả lời:
- Khuya lắm rồi em ngủ cả giấc dài, có đàn địch gì đâu!
- Quái.
Anh tôi càu nhàu thêm vài tiếng không nghe rõ, trước khi tắt đèn và quày quả trở lên lầu. Bẵng đi thời gian, anh Can nhìn tôi nói với ý hờn trách:
- Tụi nó tính dọn ra vì mầy thì rảnh nhưng tụi nó phải ngủ để đi làm.
Câu nói gián tiếp của anh Can, cho tôi cái cảm tưởng rằng sự hiện diện của tôi trong nhà nầy, đã làm bạn bè không vui. Tôi hỏi anh:
- Em ở dưới basement có làm chi phiền đâu, mà các ông ấy lại có thái độ thiếu thân thiện như vậy?
- Tụi nó nói có khi ba bốn giờ sáng mầy đem đàn ra đánh, làm đứa nào cũng thức giấc không ngủ lại được.
Tôi khôi hài:
- Như vậy là ngón đàn của em tuyệt quá mới làm người ta khó ngủ, cũng như đọc một quyển sách hấp dẫn mắt cứ mở trừng ra. Đùa thôi, thường thường em đánh vài bản sau khi ăn tối, em có chơi khuya như vậy đâu, nếu các ổng không thích thì em dọn ra.
Anh tôi quả quyết:
- Hay là để tụi nó ở đây, tao với mầy kiếm chỗ khác ở. Ba má dặn tao là anh đâu thì em đó, tao không muốn mầy ở riêng một mình.
Một buổi sáng cuối tuần, bọn chúng tôi đi ăn sáng tại quán Phở Duy. Trong lúc chờ những giọt cà phê đen rơi xuống từ những cái lược, tôi hỏi bâng quơ:
- Hồi gần sáng có ông nào xuống phòng tôi phải không?
Mấy người nhìn nhau nhún vai như thầm bảo:
- Có ai thèm xuống phòng mầy làm gì!
Tôi nói:
- Đêm qua chơi ở nhà thằng Tuấn, tôi về rất khuya, nhảy phóc lên giường không thay quần áo, hoặc đánh răng như thường lệ. Nằm một lúc, tôi thấy lạnh quá ngồi dậy tìm mền mà không có. Tôi phóng lên phòng các ông, nhưng ông nào cũng ngủ say sưa. Tôi trở lại xuống lầu thì thấy chiếc mền tôi nằm giữa sàn ngay chân cầu thang. Lúc đó tôi buồn ngủ quá, ôm mền lên đắp không cần suy nghĩ cho mệt. Khi trùm đầu theo thói quen, mùi nước hoa xông lên nồng nực làm tôi hắt hơi mấy cái.
Tôi nghĩ cha nào du hí với ai dưới phòng của tôi nên cái mền thơm mùi nước hoa con gái, tôi trở đầu chiếc mền đắp trùm mặt mà ngủ. Mới vừa thiu thiu thì cảm thấy có ai đến ngồi ở mé giường của tôi, khiến tấm nệm trịch xuống một bên. Lúc đó tôi nhắm mắt nhưng chưa thật sự ngủ mê, tôi nghĩ cha nào giỡn đây, nên tôi tung chăn phủ về phía đó và hù một tiếng thật lớn, nhưng tôi đã phủ vào khoảng không, mền của tôi rơi xuống sàn hai phần. Tôi nhìn đồng hồ mới bốn giờ sáng, trên phòng các ông cũng yên lặng, ngoại trừ tiếng ngáy lớn đều đặn của một người nào đó. Có thể tôi đã chiêm bao chăng. Tôi yên chí trùm mền ngủ thêm vài tiếng nữa.
Nghe thế mấy người nhìn tôi rồi nhìn với nhau. Anh Can hỏi một câu như có ý vừa để biện minh cho sự tinh nghịch nếu có của tôi.
- Tụi nầy có nghe tiếng đàn chơi rất khuya, ý chừng hai, ba giờ sáng gì đó, mầy có nghe không?
- Em không chơi trễ vậy và cũng không nghe thấy. Tôi trả lời.
Mọi người ai cũng ngạc nhiên. Cái ý định mời tôi dọn đi đang được xét lại, vì họ đã nghĩ lẽ nào tôi đùa dai như vậy. Thế tiếng đàn kia ai đánh? Mà đánh nhạc Việt mới lạ chứ. Ai ngồi ở mép giường? Ai giấu mền của tôi? Người ta còn cho biết tiếng đàn nghe buồn lắm, nghe rồi không ngủ lại được. Ăn sáng xong khi về nhà, mấy người bạn của anh Can chạy thẳng xuống lầu, đưa mũi vào ngửi quanh chiếc mền của tôi, quả nhiên họ đều công nhận có mùi nước hoa con gái.
Cả bọn chúng tôi cứ suy nghĩ vơ vẩn cả ngày. Một câu chuyện lạ mà hai năm trước, khi qua thăm anh tôi trong lúc nghỉ spring break, đã trở lại trong trí tôi rất nhanh. Trong lúc ăn cơm tối tôi đem ra kể cho mọi người nghe. Bọn tôi rủ nhau đi Keystone Resort để trượt tuyết. Cả bọn tám người chạy hai chiếc xe, lúc ấy anh tôi không đi được vì công tác của hãng. Lên tới nơi trời đã xế chiều, chúng tôi mướn một căn nhà độc lập bên cạnh sườn đồi để ở qua đêm. Sau khi làm thủ tục xong, người quản lý bảo với chúng tôi rằng cứ chạy xe về bên ấy đi, sẽ có người ở đó giao chìa khóa. Quả nhiên khi tới nơi, cậu bé da trắng dáng mảnh khảnh, đôi mắt như thiếu ngủ lâu ngày trạc mười hai, mười ba tuổi đã đợi sẵn ngay cửa.
Cậu bé dẫn chúng tôi vào trong chỉ các phòng ngủ, phòng khách, phòng ăn và nhà bếp. Dĩ nhiên chúng tôi ai cũng biết phòng nào để làm gì rồi. Cậu ta cẩn thận dặn thêm, là vì không mướn nốt phòng ở tầng trên nên không có chìa khóa. Sau đó cậu bé miễn cưỡng ra xe giúp chúng tôi khuân đồ đạc vô nhà, chưa kịp cho thằng bé vài đồng, nó đã lặn đi lúc nào không biết. Chiều trên núi xuống thật nhanh. Mặt đất đã phủ một lớp tuyết dày từ mấy tuần trước, gió tuôn về buốt lạnh. Nhìn tứ phía, vạn vật một màu sáng xanh xanh như có chất lân tinh. Nếu không có tám đứa đến làm khuấy động bầu không khí yên tĩnh, thì nơi đây bao trùm vẻ ảm đạm rợn người.
Các cô muốn nướng thịt ăn tối, bọn con trai chúng tôi giúp nhen lò. Vài đứa khiêng thùng thịt ướp đá đến cho mấy cô rồi vào phòng khách ngồi khui bia lai rai với đậu phộng. Khoảng nửa giờ sau, các cô mang vào những đĩa thịt bò nóng hổi, rau sống, bún và bánh mì ai muốn ăn gì thì ăn. Chúng tôi quây quần nhau ăn uống vui vẻ, nói đủ thứ chuyện trên trời, dưới biển, bởi lâu lắm hôm nay chúng tôi mới có dịp đi chơi chung. Có vài chiếc máy hình bấm lắc cắc chụp hình lưu niệm. Sau bữa ăn tối ồn ào vui như tết. Tôi cùng cô bạn mới quen lên nấc chót cầu thang ngồi trò chuyện. Sau lưng là cánh cửa vào phòng trên mà chúng tôi không cần tới. thì thỉnh thoảng nghe tiếng đi lại rất nhẹ sau cánh cửa đang im lìm khóa chặt.Tôi tò mò đứng dậy đến gõ cửa, lát sau bên trong có tiếng gõ trả lời.
Hai lần như thế tôi lôi tay cô bạn vội vã chạy xuống cầu thang. Nghe như vậy cả bọn ré lên cười chế nhạo, kéo nhau chạy lên đứng ngay trước cửa phòng lắng tai nghe thử, nhưng bên trong vẫn yên lặng như tờ, họ nghi ngại nhìn chúng tôi. Một người trong bọn đến vặn tay nắm, ngạc nhiên vì cửa không khóa. Anh ta nghiêng đầu chồm bật contact đèn lên xuống vài lần, nhưng không có ánh sáng. Căn phòng tối như mực, mùi ẩm ướt xông lên từ tấm thảm màu xanh đậm, thấy được do ánh đèn từ hành lang hắt vào cửa.
Một chàng rắn mắt hỏi vẩn vơ:
- Có ai ở nhà không?
Sau tiếng hỏi thì ngọn đèn ngủ ở đầu giường bật sáng. Ánh lờ mờ của ngọn đèn chừng mười lăm watt vừa đủ sáng, quanh cái tủ nhỏ kê ở đầu giường, thấy hai chiếc gối và ra trắng vẫn nguyên vẹn, thẳng nếp như không hề có ai nằm. Cả bọn nhìn nhau bước hết vào bên trong. Một người trong bọn chúng tôi đoán contact đèn, là loại cảm tác do tiếng động (sound activate). Anh ta vỗ tay thật mạnh nhưng đèn vẫn không tắt. Một luồng gió lạnh ngắt tuôn ngược từ trong ra, làm cánh cửa phòng bị gió đẩy đóng sầm lại, ngọn đèn đầu giường cũng chợt tắt ngủm, làm căn phòng chìm trong bóng tối.
Các cô gái ré lên la oai oãi:
- Mở cửa, mở cửa lẹ lên.
Ai đó đứng gần cửa mò mẫm tay nắm vặn qua vặn lại nghe kình kịch, nhưng dường cánh cửa không chịu mở. Có tiếng chân thình thịch ở tầng dưới chạy lên hỏi:
- Bây làm gì mà la rầm rầm trên nầy vậy?
Đó là Hóa từ tầng dưới chạy lên mở cửa, thì ra nãy giờ các cô đứng đè lên cánh nên không mở được. Các cô nhào ra chạy rần rật xuống cầu thang, cô nào cũng mặt mày tái xanh. Hóa chưa hiểu ất giáp gì nên khệnh khạng trở lại tầng dưới, miệng càu nhàu :
- Làm cái gì như ong vỡ tổ.
Bây giờ cả đám trở lại phòng khách ngồi chờ cho hoàn hồn. Nhiều giả thuyết về hiện tượng đèn tắt, sáng, lỏng ốc, chạm dây..nghe rất chi là vật lý, khiến ai nấy yên chí cười xuề xòa như có lý do chính đáng để tin tưởng. Tuy nhiên Tôi và Hằng người bạn gái mới quen, vẫn bị ám ảnh bởi tiếng động bên trong, cùng những hiện tượng kỳ quặc vừa xảy ra nên cứ dáo dác. Hằng và hai cô gái khác rúc vào một phòng. Một phòng nhường cho Ti và cô vợ mới cưới. Còn một phòng nhưng ba đứa tôi thích trải sleepingbag, xuống sàn ở phòng khách mà ngủ.
Đêm hôm ấy ngoài trời sấm sét tiếng gió vù vù, tiếng lá thông vút lên từng hồi nghe ai oán rợn người. Trời xấu có thể sẽ mưa, chúng tôi không biết ngày mai có trượt tuyết được không. Đêm đã khuya ai nấy đều ngủ, đèn phòng khách vẫn sáng. Bỗng ở phòng trên tiếng vật gì vỡ vang lên như ai vừa đánh rơi một cái bình thủy tinh. Tiếng động lớn thế mà Hóa và Long vẫn ngáy đều, cho đến khi tôi lay mạnh vai chúng. Tôi thì không ngủ được mặc dù đã dành nằm chính giữa. Tôi nói thầm với Hóa:
- Ma.
Hóa dụi mắt lắng nghe. Tiếng móng tay cào trên mặt cửa gỗ âm thanh rít lên quái đản. Theo đó tiếng người thút thít nức nở. Hòa với tiếng khóc là tiếng dậm chân thình thịch trên sàn gỗ, như tức tối một điều chi. Tiếng khóc mỗi lúc một lớn hơn, gào thét hơn làm cho ba thằng ở phòng khách lôi sleeping bags phóng vô phòng mấy cô. Bên phòng kia vợ chồng Ti nghe thế cũng hoảng kéo nhau chạy lung tung, sau cùng chúng tôi nhào hết vào một phòng rồi đóng cửa.
Không ai nói năng gì, cái im vắng lạ lùng, khiến mỗi người chỉ nghe tiếng tim mình đập hối hả trong lồng ngực. Tiếng khóc, tiếng dậm chân, tiếng móng cào vào cửa gỗ càng rõ mồn một trước sự yên lặng nín thở của cả bọn. Nhiều người nghiêng tai cố lắng nghe, làm như sẽ thu thập thêm thứ âm thanh nào khác. Quả đúng như vậy tiếng gọi:
- Mommy, mommy,
Nghe như một dòng điện chảy từ đầu xuống chân theo ngả xương sống, làm thớ thịt run lên bần bật trong mỗi người. Không còn nghi kỵ gì nữa, rõ ràng trên lầu có ma, tiếng gọi mẹ thống thiết của một đứa trẻ trai. Chúng tôi chợt nhớ trong phòng có điện thoại, một người trong bọn đề nghị gọi cảnh sát. Nhưng khi nhấc ống lên chỉ nghe tiếng nhiễu mà thôi. Điện thoại trong phòng không gọi được, điện thoại cầm tay thì hiện lên hàng chữ “không sóng”.
Cửa phòng đã đóng, mọi người ngồi chung quanh giường, các cô dành ngồi giữa, ai nấy đều run lập cập. Long cởi cây thánh giá đeo ở cổ ra cầm tay, hai tay hắn run như đang xóc hột xí ngầu. Sợi dây vàng mười tám huơ qua huơ lại y như người sắp lên đồng. Ngoài trời gió vẫn rít từng cơn, tiếng cành lá thông chốc chốc hú lên cao vút rồi xuống, âm thanh huyền hoặc lạ thường.
Hóa trông rất bình tĩnh, cho đến khi nghe tiếng bản lề khô của cánh cửa phòng trên mở, anh đưa hai tay làm hiệu cho mọi người lắng nghe. Tiếng đập trong lồng ngực mỗi người dù lớn, vẫn nghe rõ tiếng thút thít và tiếng chân bước khập khiễng, như cố lê mình nặng nề xuống cầu thang. Ai nấy đều xanh mặt nhìn đăm đăm, tay nắm cửa chờ đợi chuyện gì sẽ xảy đến. Bên trong yên lặng, ngoài trời tiếng giông, gió, sấm, sét đang cấu xé không gian. Những tia chớp lóe lên từ hai cửa sổ phòng ngủ, làm cho cảnh tượng vốn hãi hùng lại càng hãi hùng hơn nữa.
Nghe tiếng thút thít đi lần tới phía phòng chúng tôi. Ánh chớp lóe lên tiếp theo là tiếng giông chát chúa, rung chuyển cả đất trời, cánh cửa phòng bật mở. Mấy cô gái ré lên ôm đại người kế bên không cần biết là ai. Đèn ở phòng khách đã tắt tự lúc nào, ánh sáng duy nhất trên đầu giường trong phòng ngủ lờ mờ, thêm rùng rợn. Sau khi cánh cửa mở, bọn tôi tám đứa không còn ở trên giường mà phóng hết vào một góc. Mấy cô ép sát vào nhau tay chân run cầm cập. Hằng sợ quá hai hàm răng cô ta đánh cờm cợp vào nhau như tiếng nhịp đều của chiếc máy rung.
Hóa lôi tay vài đứa con trai cùng hắn bước lần tới cửa. Hắn nghiêng đầu dòm ra phòng khách đang bao trùm bóng tối. Một tia chớp lóe lên ném ánh sáng vào cửa chính đang mở toang hoác. Cậu bé hồi chiều giúp chúng tôi khuân đồ đang đứng vịn tay vào chân cầu thang, mặt hắn màu xanh dương làm Hóa giật thót người chạy vội vào trong không kịp đóng cửa, chúng tôi rút vào góc phòng như cũ. Cửa phòng vẫn mở, bên ngoài cậu bé bắt đầu thút thít khóc tiếng gọi:
- Mommy.. mommy... I miss you.
Ai oán lạ thường nghe vừa tội nghiệp vừa sợ hãi, dựng tóc gáy. Chúng tôi không còn bình tĩnh, nhưng lại không có cách gì khác là phải đứng chờ cho đến sáng. Đêm nay quả là một đêm dài kinh khủng, chờ mãi mà thời gian vẫn như đứng yên. Thằng bé vẫn áng ngữ ngay chân cầu thang khóc lóc. Những tiếng động hình như của xâu chìa khóa, chốc chốc lại khua như nó đang giận dữ đập vào tay vịn cầu thang.
Cái lo lắng đang chờ bọn chúng tôi là thế nào thằng bé cũng đến trước cửa tìm mẹ, có thể là một bộ xương trắng phếu, đong đưa dưới chiếc đầu lâu có những giác quan sâu bất tận... Nhưng không, tiếng khóc vẫn ở đó, tiếng sụt sùi gọi mẹ vẫn kéo dài lê thê trong đêm trường giữa căn nhà trên núi. Xem đồng hồ mới ba giờ sáng, mà chúng tôi tưởng lâu cả tuần lễ. Chúng tôi ngầm bảo với nhau ráng thêm vài tiếng nữa là cùng. Chưa bao giờ chúng tôi lại đoàn kết đến như vậy; không ai bảo ai nhưng hình như tất cả bàn tay, đã tìm nắm chặt với nhau tự lúc nào.
Nhưng rồi tiếng khóc lại ngưng, tiếng chân lê từng bước lên lầu, tiếng bản lề khô khan vang lên, tiếng cánh cửa đóng sầm lại rồi tất cả im bặt. Chờ độ vài phút, chúng tôi mò lần ra phòng khách, thằng Ti làm dạn đi trước tới cửa chính định mở đèn.
- Moeo...
Một vật to mềm mại phóng ra tung vào chân hắn, kéo theo là tiếng ngã cái bịch, cùng lúc tia chớp lóe lên, trông rõ một con mèo đen vừa phóng ra cửa, thằng Ti nằm bất tỉnh. Chúng tôi lao tới cấp cứu, trong bọn có đứa bật đèn nên phòng khách đã có chút ánh sáng. Đứng bu quanh thằng Ti nhưng mắt đứa nào cũng ngước lên cầu thang, vì không biết thằng nhỏ lúc nãy có cắc cớ xuống lại với những tiếng khóc não nuột hay không? Bấy giờ mọi người mới nhận ra ở cánh cửa chính, không có thiết bị tự kéo đóng vào khi mở ra, như thường thấy.
Hóa to con nó choàng hai tay xốc thằng Ti đặt lên sofa ở phòng khách, chúng tôi thấy hắn đã tỉnh lại, mở mắt ra nhưng mặt hắn không còn chút máu. Nhưng hình như nỗi sợ hãi vẫn quanh quẩn đâu đây. Cả bọn đồng ý dìu Ti vào phòng đặt nó lên giường. Vợ nó và mấy cô cũng loay hoay kẻ thoa đầu, người bóp chân làm như nó là một đứa bé. Dù chưa hết sợ sệt nhưng nhìn gương mặt ngờ nghệch của Ti, ai nấy cũng đều muốn ré lên cười.
Trời vừa hừng sáng chúng tôi đưa đồ đạc hết ra xe, chạy vòng tới văn phòng định trả chìa khóa. Cửa ngoài văn phòng còn đóng kín, nhìn vào trong phòng đợi, lại cậu bé hồi hôm đang ngồi ngủ gật, chúng tôi không biết đâu mà lần, thề từ nay không thèm đi Keystone Resort làm chi nữa. Trên đường về nhà mặt trời lên cao dần, ánh sáng đã mang lại sinh khí cho mọi người. Chúng tôi nói chuyện huyên thuyên, nhưng chủ đề vẫn xoay quanh cái đêm kinh hoàng vừa qua.
Khi rửa hình, những tấm có đèn (flash) thì hình rõ chỉ có bọn chúng tôi, những tấm không có đèn thì lại thấy thêm gương mặt một cậu bé da trắng hiện lên phiá sau. Chính hắn là con ma đã làm mọi người một đêm hồn phi phách tán. Chúng tôi đem hình đến báo với sở cảnh sát và kể đầu đuôi câu chuyện. Nghe đâu nhờ tấm hình và câu chuyện ấy, mà cảnh sát đã tìm được manh mối cậu bé da trắng mất tích cả chục năm trước. Long là người cùng đi chơi với tôi năm đó phụ họa:
- Cứ mỗi lần nhớ lại câu chuyện ấy là tao rùng mình.
Anh Nam người mới đến chơi dùng cơm tối với chúng tôi vụt lên tiếng:
- Khi thấy tớ mới tin chuyện ấy có thật.
Vừa dứt lời, anh ta nuốt nguyên cái xương cá catfish mắc ngang cổ khiến hai mắt trợn trừng. Anh Can tôi nói:
- Không tin thì cứ làm thinh, ông nói ra làm gì.
Anh Nam lật đật phóng vào nhà sau khạc cả nửa giờ, cái xương làm rách cổ họng hồi lâu mới khạc ra được. Mọi người nhìn nhau lắc đầu. Nam trước kia là sư huynh dòng La San, nay đã ra đời. Anh Nam là chúa cãi, ai nói cái gì anh ta cũng lập luận rồi cãi cho được, mặc dù có những lúc anh biết là mình cãi rất bậy nhưng cũng cứ nhướng cổ, huơ tay lên cãi. Bạn bè quen miệng tặng anh là Lê Quảng Nam.
Nghi vấn tại Keystone Resort và tiếng đàn guitar nhái theo những bản nhạc Việt tôi thường chơi, xảy ra vào khoảng hai ba giờ sáng, cùng những hiện tượng kỳ lạ khác trong căn nhà người Việt tử tế kia, buộc lòng chúng tôi phải dọn ra. Trong lúc chúng tôi dọn nhà, thì có một bà hàng xóm la cà đến thăm. Bà ta cho biết là bà rất ngạc nhiên, vì chúng tôi là những người có thể ở được, trong ngôi nhà nầy lâu đến như vậy.
- Tại sao? Tôi hỏi.
- Vì có lẽ dưới basemnent, cô chủ nhà nhạc sĩ người Đức thất tình đã treo cổ chết cách đây mấy năm.
Thủy lâm Synh
Vừa xong học trình đại học tôi rời Chicago về ở chung với anh của tôi tại Denver. Anh tôi dụ tôi bằng những thứ hấp dẫn như núi non đẹp đẽ khí hậu dễ chịu, công việc cũng chẳng khó tìm để tôi quyết định dứt khoát hơn việc rời Chicago, thành phố mà tôi đã theo gia đình đến định cư khi tôi mới hơn bốn tuổi.
Thêm tôi cái apartment hai phòng ngủ hiện tại trở nên chật chội, dù ban ngày ai nấy đều đi làm chỉ có mình tôi ở nhà. Tôi thì chưa sốt sắng kiếm việc vì lạc quan cho rằng, tôi tốt nghiệp với hai ngành một lượt, không vớ được cái này thì cũng vớ cái khác. Vả lại ngành tôi chọn hiện lúc ấy thiên hạ đang cần, đó là chưa kể tôi ra trường điểm tương đối cao, và đã có vài năm làm thực tập, nên rất tự tin muốn nằm nhà xả hơi một thời gian.
Thực tế dù không thêm tôi thì anh tôi và những người bạn ở chung, cũng cần kiếm chỗ khác để mướn. Chỗ ở nầy bất tiện cho việc đậu xe, đi làm về phải chạy lòng vòng cả buổi, mới tìm được một chỗ để xịt tới xịt lui mà nhét chiếc xe vào. Công việc kiếm nhà đang ráo riết, ba phòng ngủ ở những khu lôi thôi thì chẳng thiếu gì, nhưng những khu tốt thì lại rất hiếm điều ấy là luật tự nhiên.
Chúng tôi phải dán giấy ở những cửa ra vào các siêu thị, mua báo hàng ngày để tìm nhưng cho đến nay đã hơn vài tháng, mà vẫn chưa tìm được nhà. May sao chó ngáp phải ruồi, có ông Việt Nam làm chung hãng IBM với anh Can tôi, bắn tiếng rằng ông có dư căn nhà thật xinh, nhưng dị ứng với người ngoại quốc. Ông lý luận theo kinh nghiệm người ngoại quốc tiền nong lôi thôi lắm, và mỗi chút nó mỗi kêu: máy sưởi không đủ ấm, máy lạnh không đủ mát... Ông có cảm tình với đồng hương và đặc biệt có ý giúp người cùng hãng nên lấy tiền thuê rất thấp.
Anh tôi hớn hở về thông báo bản tin vui ấy. Thế là chúng tôi dọn vào cơ ngơi mới nầy với nỗi hân hoan vô bờ bến. Ôi! một căn nhà lý tưởng với hai phòng tắm rưỡi, quá vừa vặn cho tụi đực rựa năm đứa như chúng tôi. Phía trên ba phòng ngủ khang trang, phòng khách rộng thênh thang, nhà bếp sáng sủa với tất cả giàn tủ mới toanh, dưới lầu (basement) có một phòng ngủ nữa. Đã đời như vậy mà ông ta chỉ lấy giá bình dân mỗi tháng một ngàn, rõ ràng người Việt mình tử tế ra phết.
Khi dọn vào dĩ nhiên tôi chọn ở dưới basement, vì ở trên mấy ông nội kia sáng nào cũng dậy cười nói rầm rầm, mất giấc ngủ bình yên của tôi. Tôi đang ở trong thời kỳ tàng tàng cho bõ công mấy năm đèn sách. Một mình tôi một cõi thế giới của tôi mấy ông kia ít khi thăm viếng, chỉ khi nào giặt đồ mới xuống mà thôi. Nhưng giặt đồ cũng phải có giờ giấc do tôi ấn định, chứ không phải khi tôi an giấc điệp mà mấy ổng tự động làm ồn.
Trước khi ngủ tôi có thói quen lôi cây guita classic ra dợt vài bản mà lúc còn ở Chicago, có ông mục sư tận tâm dạy cho tôi. Không hiểu ổng muốn tôi theo đạo, hay tại ổng thích tôi vì dáng dấp dễ thương mà ông ta rất tận tụy. Những khi đi chơi về khuya tôi thẳng xuống phòng, không làm “phiền lòng hàng xóm cần sự yên tịnh nghỉ ngơi” tầng trên. Phòng tôi ở luôn luôn mát lạnh như có máy điều hòa, dù lúc dọn vào chúng tôi chưa mở máy. Một hôm khoảng hai ba giờ sáng, ở phòng trên anh tôi lao ầm ầm xuống cầu thang, đẩy cửa phòng tôi bật đèn và nói lớn:
- Trường (tên tôi) mầy mới đánh đàn phải không? Mấy thằng kia phàn nàn mầy ồn quá.
Tôi dụi mắt nhìn đồng hồ trả lời:
- Khuya lắm rồi em ngủ cả giấc dài, có đàn địch gì đâu!
- Quái.
Anh tôi càu nhàu thêm vài tiếng không nghe rõ, trước khi tắt đèn và quày quả trở lên lầu. Bẵng đi thời gian, anh Can nhìn tôi nói với ý hờn trách:
- Tụi nó tính dọn ra vì mầy thì rảnh nhưng tụi nó phải ngủ để đi làm.
Câu nói gián tiếp của anh Can, cho tôi cái cảm tưởng rằng sự hiện diện của tôi trong nhà nầy, đã làm bạn bè không vui. Tôi hỏi anh:
- Em ở dưới basement có làm chi phiền đâu, mà các ông ấy lại có thái độ thiếu thân thiện như vậy?
- Tụi nó nói có khi ba bốn giờ sáng mầy đem đàn ra đánh, làm đứa nào cũng thức giấc không ngủ lại được.
Tôi khôi hài:
- Như vậy là ngón đàn của em tuyệt quá mới làm người ta khó ngủ, cũng như đọc một quyển sách hấp dẫn mắt cứ mở trừng ra. Đùa thôi, thường thường em đánh vài bản sau khi ăn tối, em có chơi khuya như vậy đâu, nếu các ổng không thích thì em dọn ra.
Anh tôi quả quyết:
- Hay là để tụi nó ở đây, tao với mầy kiếm chỗ khác ở. Ba má dặn tao là anh đâu thì em đó, tao không muốn mầy ở riêng một mình.
Một buổi sáng cuối tuần, bọn chúng tôi đi ăn sáng tại quán Phở Duy. Trong lúc chờ những giọt cà phê đen rơi xuống từ những cái lược, tôi hỏi bâng quơ:
- Hồi gần sáng có ông nào xuống phòng tôi phải không?
Mấy người nhìn nhau nhún vai như thầm bảo:
- Có ai thèm xuống phòng mầy làm gì!
Tôi nói:
- Đêm qua chơi ở nhà thằng Tuấn, tôi về rất khuya, nhảy phóc lên giường không thay quần áo, hoặc đánh răng như thường lệ. Nằm một lúc, tôi thấy lạnh quá ngồi dậy tìm mền mà không có. Tôi phóng lên phòng các ông, nhưng ông nào cũng ngủ say sưa. Tôi trở lại xuống lầu thì thấy chiếc mền tôi nằm giữa sàn ngay chân cầu thang. Lúc đó tôi buồn ngủ quá, ôm mền lên đắp không cần suy nghĩ cho mệt. Khi trùm đầu theo thói quen, mùi nước hoa xông lên nồng nực làm tôi hắt hơi mấy cái.
Tôi nghĩ cha nào du hí với ai dưới phòng của tôi nên cái mền thơm mùi nước hoa con gái, tôi trở đầu chiếc mền đắp trùm mặt mà ngủ. Mới vừa thiu thiu thì cảm thấy có ai đến ngồi ở mé giường của tôi, khiến tấm nệm trịch xuống một bên. Lúc đó tôi nhắm mắt nhưng chưa thật sự ngủ mê, tôi nghĩ cha nào giỡn đây, nên tôi tung chăn phủ về phía đó và hù một tiếng thật lớn, nhưng tôi đã phủ vào khoảng không, mền của tôi rơi xuống sàn hai phần. Tôi nhìn đồng hồ mới bốn giờ sáng, trên phòng các ông cũng yên lặng, ngoại trừ tiếng ngáy lớn đều đặn của một người nào đó. Có thể tôi đã chiêm bao chăng. Tôi yên chí trùm mền ngủ thêm vài tiếng nữa.
Nghe thế mấy người nhìn tôi rồi nhìn với nhau. Anh Can hỏi một câu như có ý vừa để biện minh cho sự tinh nghịch nếu có của tôi.
- Tụi nầy có nghe tiếng đàn chơi rất khuya, ý chừng hai, ba giờ sáng gì đó, mầy có nghe không?
- Em không chơi trễ vậy và cũng không nghe thấy. Tôi trả lời.
Mọi người ai cũng ngạc nhiên. Cái ý định mời tôi dọn đi đang được xét lại, vì họ đã nghĩ lẽ nào tôi đùa dai như vậy. Thế tiếng đàn kia ai đánh? Mà đánh nhạc Việt mới lạ chứ. Ai ngồi ở mép giường? Ai giấu mền của tôi? Người ta còn cho biết tiếng đàn nghe buồn lắm, nghe rồi không ngủ lại được. Ăn sáng xong khi về nhà, mấy người bạn của anh Can chạy thẳng xuống lầu, đưa mũi vào ngửi quanh chiếc mền của tôi, quả nhiên họ đều công nhận có mùi nước hoa con gái.
Cả bọn chúng tôi cứ suy nghĩ vơ vẩn cả ngày. Một câu chuyện lạ mà hai năm trước, khi qua thăm anh tôi trong lúc nghỉ spring break, đã trở lại trong trí tôi rất nhanh. Trong lúc ăn cơm tối tôi đem ra kể cho mọi người nghe. Bọn tôi rủ nhau đi Keystone Resort để trượt tuyết. Cả bọn tám người chạy hai chiếc xe, lúc ấy anh tôi không đi được vì công tác của hãng. Lên tới nơi trời đã xế chiều, chúng tôi mướn một căn nhà độc lập bên cạnh sườn đồi để ở qua đêm. Sau khi làm thủ tục xong, người quản lý bảo với chúng tôi rằng cứ chạy xe về bên ấy đi, sẽ có người ở đó giao chìa khóa. Quả nhiên khi tới nơi, cậu bé da trắng dáng mảnh khảnh, đôi mắt như thiếu ngủ lâu ngày trạc mười hai, mười ba tuổi đã đợi sẵn ngay cửa.
Cậu bé dẫn chúng tôi vào trong chỉ các phòng ngủ, phòng khách, phòng ăn và nhà bếp. Dĩ nhiên chúng tôi ai cũng biết phòng nào để làm gì rồi. Cậu ta cẩn thận dặn thêm, là vì không mướn nốt phòng ở tầng trên nên không có chìa khóa. Sau đó cậu bé miễn cưỡng ra xe giúp chúng tôi khuân đồ đạc vô nhà, chưa kịp cho thằng bé vài đồng, nó đã lặn đi lúc nào không biết. Chiều trên núi xuống thật nhanh. Mặt đất đã phủ một lớp tuyết dày từ mấy tuần trước, gió tuôn về buốt lạnh. Nhìn tứ phía, vạn vật một màu sáng xanh xanh như có chất lân tinh. Nếu không có tám đứa đến làm khuấy động bầu không khí yên tĩnh, thì nơi đây bao trùm vẻ ảm đạm rợn người.
Các cô muốn nướng thịt ăn tối, bọn con trai chúng tôi giúp nhen lò. Vài đứa khiêng thùng thịt ướp đá đến cho mấy cô rồi vào phòng khách ngồi khui bia lai rai với đậu phộng. Khoảng nửa giờ sau, các cô mang vào những đĩa thịt bò nóng hổi, rau sống, bún và bánh mì ai muốn ăn gì thì ăn. Chúng tôi quây quần nhau ăn uống vui vẻ, nói đủ thứ chuyện trên trời, dưới biển, bởi lâu lắm hôm nay chúng tôi mới có dịp đi chơi chung. Có vài chiếc máy hình bấm lắc cắc chụp hình lưu niệm. Sau bữa ăn tối ồn ào vui như tết. Tôi cùng cô bạn mới quen lên nấc chót cầu thang ngồi trò chuyện. Sau lưng là cánh cửa vào phòng trên mà chúng tôi không cần tới. thì thỉnh thoảng nghe tiếng đi lại rất nhẹ sau cánh cửa đang im lìm khóa chặt.Tôi tò mò đứng dậy đến gõ cửa, lát sau bên trong có tiếng gõ trả lời.
Hai lần như thế tôi lôi tay cô bạn vội vã chạy xuống cầu thang. Nghe như vậy cả bọn ré lên cười chế nhạo, kéo nhau chạy lên đứng ngay trước cửa phòng lắng tai nghe thử, nhưng bên trong vẫn yên lặng như tờ, họ nghi ngại nhìn chúng tôi. Một người trong bọn đến vặn tay nắm, ngạc nhiên vì cửa không khóa. Anh ta nghiêng đầu chồm bật contact đèn lên xuống vài lần, nhưng không có ánh sáng. Căn phòng tối như mực, mùi ẩm ướt xông lên từ tấm thảm màu xanh đậm, thấy được do ánh đèn từ hành lang hắt vào cửa.
Một chàng rắn mắt hỏi vẩn vơ:
- Có ai ở nhà không?
Sau tiếng hỏi thì ngọn đèn ngủ ở đầu giường bật sáng. Ánh lờ mờ của ngọn đèn chừng mười lăm watt vừa đủ sáng, quanh cái tủ nhỏ kê ở đầu giường, thấy hai chiếc gối và ra trắng vẫn nguyên vẹn, thẳng nếp như không hề có ai nằm. Cả bọn nhìn nhau bước hết vào bên trong. Một người trong bọn chúng tôi đoán contact đèn, là loại cảm tác do tiếng động (sound activate). Anh ta vỗ tay thật mạnh nhưng đèn vẫn không tắt. Một luồng gió lạnh ngắt tuôn ngược từ trong ra, làm cánh cửa phòng bị gió đẩy đóng sầm lại, ngọn đèn đầu giường cũng chợt tắt ngủm, làm căn phòng chìm trong bóng tối.
Các cô gái ré lên la oai oãi:
- Mở cửa, mở cửa lẹ lên.
Ai đó đứng gần cửa mò mẫm tay nắm vặn qua vặn lại nghe kình kịch, nhưng dường cánh cửa không chịu mở. Có tiếng chân thình thịch ở tầng dưới chạy lên hỏi:
- Bây làm gì mà la rầm rầm trên nầy vậy?
Đó là Hóa từ tầng dưới chạy lên mở cửa, thì ra nãy giờ các cô đứng đè lên cánh nên không mở được. Các cô nhào ra chạy rần rật xuống cầu thang, cô nào cũng mặt mày tái xanh. Hóa chưa hiểu ất giáp gì nên khệnh khạng trở lại tầng dưới, miệng càu nhàu :
- Làm cái gì như ong vỡ tổ.
Bây giờ cả đám trở lại phòng khách ngồi chờ cho hoàn hồn. Nhiều giả thuyết về hiện tượng đèn tắt, sáng, lỏng ốc, chạm dây..nghe rất chi là vật lý, khiến ai nấy yên chí cười xuề xòa như có lý do chính đáng để tin tưởng. Tuy nhiên Tôi và Hằng người bạn gái mới quen, vẫn bị ám ảnh bởi tiếng động bên trong, cùng những hiện tượng kỳ quặc vừa xảy ra nên cứ dáo dác. Hằng và hai cô gái khác rúc vào một phòng. Một phòng nhường cho Ti và cô vợ mới cưới. Còn một phòng nhưng ba đứa tôi thích trải sleepingbag, xuống sàn ở phòng khách mà ngủ.
Đêm hôm ấy ngoài trời sấm sét tiếng gió vù vù, tiếng lá thông vút lên từng hồi nghe ai oán rợn người. Trời xấu có thể sẽ mưa, chúng tôi không biết ngày mai có trượt tuyết được không. Đêm đã khuya ai nấy đều ngủ, đèn phòng khách vẫn sáng. Bỗng ở phòng trên tiếng vật gì vỡ vang lên như ai vừa đánh rơi một cái bình thủy tinh. Tiếng động lớn thế mà Hóa và Long vẫn ngáy đều, cho đến khi tôi lay mạnh vai chúng. Tôi thì không ngủ được mặc dù đã dành nằm chính giữa. Tôi nói thầm với Hóa:
- Ma.
Hóa dụi mắt lắng nghe. Tiếng móng tay cào trên mặt cửa gỗ âm thanh rít lên quái đản. Theo đó tiếng người thút thít nức nở. Hòa với tiếng khóc là tiếng dậm chân thình thịch trên sàn gỗ, như tức tối một điều chi. Tiếng khóc mỗi lúc một lớn hơn, gào thét hơn làm cho ba thằng ở phòng khách lôi sleeping bags phóng vô phòng mấy cô. Bên phòng kia vợ chồng Ti nghe thế cũng hoảng kéo nhau chạy lung tung, sau cùng chúng tôi nhào hết vào một phòng rồi đóng cửa.
Không ai nói năng gì, cái im vắng lạ lùng, khiến mỗi người chỉ nghe tiếng tim mình đập hối hả trong lồng ngực. Tiếng khóc, tiếng dậm chân, tiếng móng cào vào cửa gỗ càng rõ mồn một trước sự yên lặng nín thở của cả bọn. Nhiều người nghiêng tai cố lắng nghe, làm như sẽ thu thập thêm thứ âm thanh nào khác. Quả đúng như vậy tiếng gọi:
- Mommy, mommy,
Nghe như một dòng điện chảy từ đầu xuống chân theo ngả xương sống, làm thớ thịt run lên bần bật trong mỗi người. Không còn nghi kỵ gì nữa, rõ ràng trên lầu có ma, tiếng gọi mẹ thống thiết của một đứa trẻ trai. Chúng tôi chợt nhớ trong phòng có điện thoại, một người trong bọn đề nghị gọi cảnh sát. Nhưng khi nhấc ống lên chỉ nghe tiếng nhiễu mà thôi. Điện thoại trong phòng không gọi được, điện thoại cầm tay thì hiện lên hàng chữ “không sóng”.
Cửa phòng đã đóng, mọi người ngồi chung quanh giường, các cô dành ngồi giữa, ai nấy đều run lập cập. Long cởi cây thánh giá đeo ở cổ ra cầm tay, hai tay hắn run như đang xóc hột xí ngầu. Sợi dây vàng mười tám huơ qua huơ lại y như người sắp lên đồng. Ngoài trời gió vẫn rít từng cơn, tiếng cành lá thông chốc chốc hú lên cao vút rồi xuống, âm thanh huyền hoặc lạ thường.
Hóa trông rất bình tĩnh, cho đến khi nghe tiếng bản lề khô của cánh cửa phòng trên mở, anh đưa hai tay làm hiệu cho mọi người lắng nghe. Tiếng đập trong lồng ngực mỗi người dù lớn, vẫn nghe rõ tiếng thút thít và tiếng chân bước khập khiễng, như cố lê mình nặng nề xuống cầu thang. Ai nấy đều xanh mặt nhìn đăm đăm, tay nắm cửa chờ đợi chuyện gì sẽ xảy đến. Bên trong yên lặng, ngoài trời tiếng giông, gió, sấm, sét đang cấu xé không gian. Những tia chớp lóe lên từ hai cửa sổ phòng ngủ, làm cho cảnh tượng vốn hãi hùng lại càng hãi hùng hơn nữa.
Nghe tiếng thút thít đi lần tới phía phòng chúng tôi. Ánh chớp lóe lên tiếp theo là tiếng giông chát chúa, rung chuyển cả đất trời, cánh cửa phòng bật mở. Mấy cô gái ré lên ôm đại người kế bên không cần biết là ai. Đèn ở phòng khách đã tắt tự lúc nào, ánh sáng duy nhất trên đầu giường trong phòng ngủ lờ mờ, thêm rùng rợn. Sau khi cánh cửa mở, bọn tôi tám đứa không còn ở trên giường mà phóng hết vào một góc. Mấy cô ép sát vào nhau tay chân run cầm cập. Hằng sợ quá hai hàm răng cô ta đánh cờm cợp vào nhau như tiếng nhịp đều của chiếc máy rung.
Hóa lôi tay vài đứa con trai cùng hắn bước lần tới cửa. Hắn nghiêng đầu dòm ra phòng khách đang bao trùm bóng tối. Một tia chớp lóe lên ném ánh sáng vào cửa chính đang mở toang hoác. Cậu bé hồi chiều giúp chúng tôi khuân đồ đang đứng vịn tay vào chân cầu thang, mặt hắn màu xanh dương làm Hóa giật thót người chạy vội vào trong không kịp đóng cửa, chúng tôi rút vào góc phòng như cũ. Cửa phòng vẫn mở, bên ngoài cậu bé bắt đầu thút thít khóc tiếng gọi:
- Mommy.. mommy... I miss you.
Ai oán lạ thường nghe vừa tội nghiệp vừa sợ hãi, dựng tóc gáy. Chúng tôi không còn bình tĩnh, nhưng lại không có cách gì khác là phải đứng chờ cho đến sáng. Đêm nay quả là một đêm dài kinh khủng, chờ mãi mà thời gian vẫn như đứng yên. Thằng bé vẫn áng ngữ ngay chân cầu thang khóc lóc. Những tiếng động hình như của xâu chìa khóa, chốc chốc lại khua như nó đang giận dữ đập vào tay vịn cầu thang.
Cái lo lắng đang chờ bọn chúng tôi là thế nào thằng bé cũng đến trước cửa tìm mẹ, có thể là một bộ xương trắng phếu, đong đưa dưới chiếc đầu lâu có những giác quan sâu bất tận... Nhưng không, tiếng khóc vẫn ở đó, tiếng sụt sùi gọi mẹ vẫn kéo dài lê thê trong đêm trường giữa căn nhà trên núi. Xem đồng hồ mới ba giờ sáng, mà chúng tôi tưởng lâu cả tuần lễ. Chúng tôi ngầm bảo với nhau ráng thêm vài tiếng nữa là cùng. Chưa bao giờ chúng tôi lại đoàn kết đến như vậy; không ai bảo ai nhưng hình như tất cả bàn tay, đã tìm nắm chặt với nhau tự lúc nào.
Nhưng rồi tiếng khóc lại ngưng, tiếng chân lê từng bước lên lầu, tiếng bản lề khô khan vang lên, tiếng cánh cửa đóng sầm lại rồi tất cả im bặt. Chờ độ vài phút, chúng tôi mò lần ra phòng khách, thằng Ti làm dạn đi trước tới cửa chính định mở đèn.
- Moeo...
Một vật to mềm mại phóng ra tung vào chân hắn, kéo theo là tiếng ngã cái bịch, cùng lúc tia chớp lóe lên, trông rõ một con mèo đen vừa phóng ra cửa, thằng Ti nằm bất tỉnh. Chúng tôi lao tới cấp cứu, trong bọn có đứa bật đèn nên phòng khách đã có chút ánh sáng. Đứng bu quanh thằng Ti nhưng mắt đứa nào cũng ngước lên cầu thang, vì không biết thằng nhỏ lúc nãy có cắc cớ xuống lại với những tiếng khóc não nuột hay không? Bấy giờ mọi người mới nhận ra ở cánh cửa chính, không có thiết bị tự kéo đóng vào khi mở ra, như thường thấy.
Hóa to con nó choàng hai tay xốc thằng Ti đặt lên sofa ở phòng khách, chúng tôi thấy hắn đã tỉnh lại, mở mắt ra nhưng mặt hắn không còn chút máu. Nhưng hình như nỗi sợ hãi vẫn quanh quẩn đâu đây. Cả bọn đồng ý dìu Ti vào phòng đặt nó lên giường. Vợ nó và mấy cô cũng loay hoay kẻ thoa đầu, người bóp chân làm như nó là một đứa bé. Dù chưa hết sợ sệt nhưng nhìn gương mặt ngờ nghệch của Ti, ai nấy cũng đều muốn ré lên cười.
Trời vừa hừng sáng chúng tôi đưa đồ đạc hết ra xe, chạy vòng tới văn phòng định trả chìa khóa. Cửa ngoài văn phòng còn đóng kín, nhìn vào trong phòng đợi, lại cậu bé hồi hôm đang ngồi ngủ gật, chúng tôi không biết đâu mà lần, thề từ nay không thèm đi Keystone Resort làm chi nữa. Trên đường về nhà mặt trời lên cao dần, ánh sáng đã mang lại sinh khí cho mọi người. Chúng tôi nói chuyện huyên thuyên, nhưng chủ đề vẫn xoay quanh cái đêm kinh hoàng vừa qua.
Khi rửa hình, những tấm có đèn (flash) thì hình rõ chỉ có bọn chúng tôi, những tấm không có đèn thì lại thấy thêm gương mặt một cậu bé da trắng hiện lên phiá sau. Chính hắn là con ma đã làm mọi người một đêm hồn phi phách tán. Chúng tôi đem hình đến báo với sở cảnh sát và kể đầu đuôi câu chuyện. Nghe đâu nhờ tấm hình và câu chuyện ấy, mà cảnh sát đã tìm được manh mối cậu bé da trắng mất tích cả chục năm trước. Long là người cùng đi chơi với tôi năm đó phụ họa:
- Cứ mỗi lần nhớ lại câu chuyện ấy là tao rùng mình.
Anh Nam người mới đến chơi dùng cơm tối với chúng tôi vụt lên tiếng:
- Khi thấy tớ mới tin chuyện ấy có thật.
Vừa dứt lời, anh ta nuốt nguyên cái xương cá catfish mắc ngang cổ khiến hai mắt trợn trừng. Anh Can tôi nói:
- Không tin thì cứ làm thinh, ông nói ra làm gì.
Anh Nam lật đật phóng vào nhà sau khạc cả nửa giờ, cái xương làm rách cổ họng hồi lâu mới khạc ra được. Mọi người nhìn nhau lắc đầu. Nam trước kia là sư huynh dòng La San, nay đã ra đời. Anh Nam là chúa cãi, ai nói cái gì anh ta cũng lập luận rồi cãi cho được, mặc dù có những lúc anh biết là mình cãi rất bậy nhưng cũng cứ nhướng cổ, huơ tay lên cãi. Bạn bè quen miệng tặng anh là Lê Quảng Nam.
Nghi vấn tại Keystone Resort và tiếng đàn guitar nhái theo những bản nhạc Việt tôi thường chơi, xảy ra vào khoảng hai ba giờ sáng, cùng những hiện tượng kỳ lạ khác trong căn nhà người Việt tử tế kia, buộc lòng chúng tôi phải dọn ra. Trong lúc chúng tôi dọn nhà, thì có một bà hàng xóm la cà đến thăm. Bà ta cho biết là bà rất ngạc nhiên, vì chúng tôi là những người có thể ở được, trong ngôi nhà nầy lâu đến như vậy.
- Tại sao? Tôi hỏi.
- Vì có lẽ dưới basemnent, cô chủ nhà nhạc sĩ người Đức thất tình đã treo cổ chết cách đây mấy năm.
Thủy lâm Synh
#53
Gửi vào 15/06/2011 - 08:45
TÌM KẺ TRỪ TÀ
Giã từ xứ đất thần linh và quê hương của những Thầy Bà La Môn, tôi dừng lại Việt Nam trước khi về Mỹ. Bốn rưỡi sáng từ Sài Gòn tôi lấy taxi đi Bến Tre. Nơi tôi sắp đến là họ đạo Cái Bông thị xã Ba Tri. Nơi đây hơn hai mươi năm về trước đã xôn xao một thời. Nơi xảy ra câu chuyện quỷ nhập vào một thiếu nữ. Hơn hai mươi năm sau tôi đến đây phỏng vấn, tìm hiểu và ghi lại chứng tích của những người còn sống, về câu chuyện mà tôi tin có thật. Hiện tượng quỷ nhập.
Trong nhà thờ trưa thứ Bảy ngày 14, tháng 7, tôi ngồi hỏi chuyện cha quản nhiệm, về những hiện tượng quỷ dữ phá phách trong nhà thờ này. Đặt máy video thu hình xong câu chuyện bắt đầu, tôi bấm máy, băng video bắt đầu chuyển. Sau mấy phút kiểm soát lại xem hình đã thu, tất cả trắng xóa. Hình không thu được vào máy. Tôi kiểm soát lại pin đường dây, băng video tất cả không có gì trục trặc. Xin lỗi cha quản nhiệm để bắt đầu lại cuộc phỏng vấn. Quay xong một đoạn tôi soát lại xem đoạn vừa quay, tất cả vẫn là trắng xóa trên màn hình. Tôi soát lại lần nữa không có gì trục trặc.
Trên khung hình máy video phần đèn ghi record cháy sáng, báo hiệu máy đang thu hình không có gì trục trặc. Nhưng khi chiếu lại màn ảnh cứ trắng xóa hình không thu vào máy được. Đây là sự kiện xảy ra lần đầu kể từ khi tôi mua và xử dụng chiếc máy này đã hai năm rồi. Sau gần một tiếng không làm sao thâu hình được, tôi bắt đầu lo. Tôi muốn ghi lại bằng hình ảnh các chứng nhân còn sống. Một khi họ qua đời rồi câu chuyện sẽ trở nên mất ý nghĩa, vì bấy giờ chỉ còn chuyện kể truyền miệng, không còn nhân chứng nữa. Nếu máy không làm việc chuyến đi của tôi sẽ vô ích. Cha quản nhiệm kiên nhẫn ngồi đợi gần một tiếng đồng hồ. Tôi ái ngại quá.
Bắt đầu lo tôi nghĩ bụng :
- Này Satan, hay là mày muốn phá cuộc phỏng vấn này? Nhất định cách này hay cách khác, ta phải thực hiện cuộc phỏng vấn này.
Nếu máy không làm việc thì sao? Cả chuyến đi của tôi vô ích. Và rồi ngày trở về Mỹ của tôi sắp đến. Bao giờ tôi mới có cơ hội như hôm nay. Biết đâu có ngày trở lại thì những nhân chứng quan trọng này đã chết mất rồi. Trong tôi hỗn mang nhiều tâm tư khó tả. Tôi bắt đầu nghĩ xin cha quản nhiệm cầu nguyện với Đức Mẹ, cho công việc trôi chảy vì sự kiện hơi lạ, tôi chưa bao giờ gặp máy không thâu được hình như thế này.
Trong ý nghĩ cầu nguyện ấy tôi thu lại hình thử xem thế nào. Lạ lùng thay màn ảnh có hình! Máy làm việc như thường lệ. Tôi cầu xin cho máy đừng trục trặc. Hồi hộp tôi bắt đầu cuộc phỏng vấn:
- Thưa cha tại sao cha tin rằng đây là trường hợp mà quỷ nhập thật, chứ không phải cô ta bị bệnh tâm thần?
Khi phỏng vấn tôi thường đứng về phía chống lại câu chuyện quỷ nhập, tôi viện lẽ này lẽ kia để bào chữa cho hiện tượng kỳ lạ ấy, chỉ là hậu quả của tâm trí rối loạn mà thôi. Cha quản nhiệm trả lời:
- Tôi xin hỏi cha nhé, cha nhìn những chiếc ghế quỳ trong nhà thờ này xem. Nó thấp như thế kia cô ta nằm ngửa bất động, tay dang ra mà nó cứ trôi từ từ qua dưới các ghế quỳ này như có kẻ đẩy đi. Người nó to ghế quỳ thấp thế kia, làm sao người qua lọt, thế mà nó cứ trôi từ từ qua mười mấy, hai mươi dẫy ghế.
Tôi nhìn rồi lấy tay xem lại khoảng cách các ghế quỳ. Quả thật từ mặt nền nhà thờ đến chiếc ghế quá thấp. Không tài nào có thể đút đầu qua được. Nghe cha quản nhiệm kể thật khủng khiếp. Ngài tiếp tục:
- Nó cứ trôi như thế giống như có người đẩy. Thật ghê quá. Nó trôi gần đến cuối ra phía giữa nhà thờ, thì tôi đến trước chặn đầu nó tôi hô lớn:
- Nhân danh Chúa ta truyền cho mày ra khỏi người này.
Nói thế xong nó bỏ mà ra khỏi. Cô ta trở lại bình thường. Đấy, như thế mà cha bảo là bệnh tâm thần à? Tâm thần làm sao chui qua lọt dưới hàng ghế quỳ này?
Trong nhà thờ vắng nghe cha kể chuyện, ngài chỉ cho tôi chỗ cô ta trôi trên mặt sàn nhà thờ. Tôi thấy rợn người. Tiếng sửa nhà đập tường ầm ầm ngoài cuối, phía bên nhà xứ vọng vào. Trời tháng bảy đang mùa hè nhà thờ rộng mênh mông, mang chút gió miệt vườn buông qua cửa sổ nên không nóng lắm. Tôi đứng nhìn lòng nhà thờ sâu thẳm lên gian cung thánh. Nhờ chiếc bóng đèn cực mạnh trên trần chiếu xuống, tượng Chúa chịu nạn trên thánh giá sáng rõ. Ròng rã mấy tháng trời linh mục bảy mươi bốn tuổi đang ngồi trước mặt tôi kia, đã vất vả thách thức với Satan trong ngôi nhà thờ này.
Bất chợt tôi nhớ đến một truyện ngắn đã viết gần chục năm về trước, in trong tập truyện ngắn Đường Về Thượng Trí, câu chuyện mang tựa đề “Đêm Satan, Đêm Đức Tin.” Ngày đó tôi viết truyện ngắn này xảy ra như một thách thức giữa quyền phép Satan, và đức tin của linh mục. Hai bên chiến đấu với nhau trong một ngôi nhà thờ. Truyện chỉ là tiểu thuyết giả tưởng. Không ngờ hôm nay tôi đang đứng trước một cha già 74 tuổi, người đã thực sự đương đầu với Satan.
Chuyện đã thật sự xảy ra trong ngôi thánh đường này. Và cha đã cho tôi biết ngài toát mồ hôi trong cuộc đương đầu với quỷ, sau cùng cha đã chiến thắng bằng đức tin mà thôi. Nhớ lại câu chuyện ngắn mình đã sáng tác, tôi càng thú vị khi quay phim và phỏng vấn cha già về chuyện thật đã xảy ra nơi tôi đang đứng đây. Trong truyện ngắn tôi mô tả Satan có một quyền năng không nhỏ. Trong chuyện thật xảy ra ở đây cha già kể tôi nghe, quỷ nhập nơi người con gái này cũng thế. Cha nói:
- Mới đầu tôi rẩy nước phép, nó sợ. Tôi dí thánh giá vào nó, nó thụt lùi. Tôi lấy dây Stola, dây các phép truyền nó phải ra, nó hốt hoảng. Nhưng mà cha biết không? Sau một thời gian nó không sợ nữa. Có đời nào tôi đưa dây các phép, nó lấy đặt xuống đầu làm gối ngủ. Tôi kinh hoàng không biết làm cách nào trừ nó. Mấy tháng trời ròng rã, trừ được nó ra rồi nó lại nhập vào cô ta, cứ như thế không chịu đi. Tôi lo quá không biết làm thế nào, nhà nước công an, dân chúng cứ xô tới theo dõi câu chuyện, tôi bảo với Chúa:
- Chết con mất, người ta đang chờ đợi nơi con trong cuộc trừ quỷ này.
Tôi toát mồ hôi cũng sợ chứ, tôi không biết làm sao. Trong truyện ngắn tôi viết, tôi kết một cách bỏ ngỏ, tôi không để cho Satan thắng, vì nếu thắng thì còn đâu niềm tin nơi linh mục và ơn Chúa. Nhưng tôi cũng không kết là linh mục thắng một cách trọn vẹn vinh quang. Tôi muốn kết là Satan chưa bỏ cuộc nó sẽ trở lại. Và cuôc chiến còn dài, nghĩa là linh mục trong truyện ngắn đó, nếu muốn thắng quỷ, đời ngài phải là một cuộc chiến không ngừng và phải bám vào Chúa liên ly. Điều ấy cũng đơn giản mà đúng thôi. Vì đức tin dạy tôi rằng, có khi nào ma quỷ buông tay đâu, có khi nào tôi không bám vào Chúa đâu.
Câu chuyện quỷ nhập xảy ra ở nhà thờ Cái Bông, thị xã Ba Tri này cũng thế quỷ không muốn ra. Không phải cứ linh mục nhân danh Chúa mà truyền lệnh được đâu. Tôi thay một cuốn video mới, sáu mươi phút nữa vào máy để tiếp tục phỏng vấn. Tôi xin cha già cho tôi hỏi chi tiết kỹ lưỡng vì tôi muốn có tài liệu thật. Tôi nghĩ những tài liệu này có ích cho tôi. Nhìn tuổi già của cha năm nay ngài đã bảy mươi bốn rồi. Tôi lại ở xa đâu có nhiều cơ hội gặp gỡ. Nếu Chúa gọi ngài ra đi, tất cả bí mật sẽ mang theo xuống lòng đất.
Sau này tôi được một người giáo dân ở đấy cho biết, cha già chịu khó cho tôi quay phim như thế là chuyện lạ lùng đấy. Ngài không muốn ai chụp hình như thế bao giờ. Trong truyện ngắn “Đêm Satan, Đêm Đức Tin” tôi viết chục năm về trước, tôi tả chân dung vị linh mục vất vả với Satan trong nhà thờ. Không ngờ chuyện thật xảy ra ở đây, cha quản nhiệm cũng gian nan trong nhà thờ với nó. Trong truyện sau cùng cũng chỉ dựa vào đức tin mà vị linh mục chống trả lại được Satan.
Chuyện thật ở đây cha quản nhiệm đã nhiều lần trừ quỷ, nó ra rồi lại nhập trở lại. Nếu rửa tội nó không hết thì sao? Đó thật là thách đố lớn. Sau này cha quản nhiệm bảo ngài lo sợ toát mồ hôi trong nghi thức Rửa Tội. Ngài bảo đã trừ nhiều lần là không hết. Nếu bây giờ Rửa Tội mà cũng không hết thì ăn nói làm sao với những người đang nhìn thách đố vào đạo, biết trả lẽ thế nào về niềm tin nơi giáo dân.
Cuộc phỏng vấn này với tôi mang thú vị rất riêng tư, vì chính chuyện mình giả tưởng ngày xưa hôm nay tìm được những nét đồng chung. Tôi đã tìm được kẻ trừ tà trong chuyện thực của đời sống.
Nguyễn Tầm Thường
Giã từ xứ đất thần linh và quê hương của những Thầy Bà La Môn, tôi dừng lại Việt Nam trước khi về Mỹ. Bốn rưỡi sáng từ Sài Gòn tôi lấy taxi đi Bến Tre. Nơi tôi sắp đến là họ đạo Cái Bông thị xã Ba Tri. Nơi đây hơn hai mươi năm về trước đã xôn xao một thời. Nơi xảy ra câu chuyện quỷ nhập vào một thiếu nữ. Hơn hai mươi năm sau tôi đến đây phỏng vấn, tìm hiểu và ghi lại chứng tích của những người còn sống, về câu chuyện mà tôi tin có thật. Hiện tượng quỷ nhập.
Trong nhà thờ trưa thứ Bảy ngày 14, tháng 7, tôi ngồi hỏi chuyện cha quản nhiệm, về những hiện tượng quỷ dữ phá phách trong nhà thờ này. Đặt máy video thu hình xong câu chuyện bắt đầu, tôi bấm máy, băng video bắt đầu chuyển. Sau mấy phút kiểm soát lại xem hình đã thu, tất cả trắng xóa. Hình không thu được vào máy. Tôi kiểm soát lại pin đường dây, băng video tất cả không có gì trục trặc. Xin lỗi cha quản nhiệm để bắt đầu lại cuộc phỏng vấn. Quay xong một đoạn tôi soát lại xem đoạn vừa quay, tất cả vẫn là trắng xóa trên màn hình. Tôi soát lại lần nữa không có gì trục trặc.
Trên khung hình máy video phần đèn ghi record cháy sáng, báo hiệu máy đang thu hình không có gì trục trặc. Nhưng khi chiếu lại màn ảnh cứ trắng xóa hình không thu vào máy được. Đây là sự kiện xảy ra lần đầu kể từ khi tôi mua và xử dụng chiếc máy này đã hai năm rồi. Sau gần một tiếng không làm sao thâu hình được, tôi bắt đầu lo. Tôi muốn ghi lại bằng hình ảnh các chứng nhân còn sống. Một khi họ qua đời rồi câu chuyện sẽ trở nên mất ý nghĩa, vì bấy giờ chỉ còn chuyện kể truyền miệng, không còn nhân chứng nữa. Nếu máy không làm việc chuyến đi của tôi sẽ vô ích. Cha quản nhiệm kiên nhẫn ngồi đợi gần một tiếng đồng hồ. Tôi ái ngại quá.
Bắt đầu lo tôi nghĩ bụng :
- Này Satan, hay là mày muốn phá cuộc phỏng vấn này? Nhất định cách này hay cách khác, ta phải thực hiện cuộc phỏng vấn này.
Nếu máy không làm việc thì sao? Cả chuyến đi của tôi vô ích. Và rồi ngày trở về Mỹ của tôi sắp đến. Bao giờ tôi mới có cơ hội như hôm nay. Biết đâu có ngày trở lại thì những nhân chứng quan trọng này đã chết mất rồi. Trong tôi hỗn mang nhiều tâm tư khó tả. Tôi bắt đầu nghĩ xin cha quản nhiệm cầu nguyện với Đức Mẹ, cho công việc trôi chảy vì sự kiện hơi lạ, tôi chưa bao giờ gặp máy không thâu được hình như thế này.
Trong ý nghĩ cầu nguyện ấy tôi thu lại hình thử xem thế nào. Lạ lùng thay màn ảnh có hình! Máy làm việc như thường lệ. Tôi cầu xin cho máy đừng trục trặc. Hồi hộp tôi bắt đầu cuộc phỏng vấn:
- Thưa cha tại sao cha tin rằng đây là trường hợp mà quỷ nhập thật, chứ không phải cô ta bị bệnh tâm thần?
Khi phỏng vấn tôi thường đứng về phía chống lại câu chuyện quỷ nhập, tôi viện lẽ này lẽ kia để bào chữa cho hiện tượng kỳ lạ ấy, chỉ là hậu quả của tâm trí rối loạn mà thôi. Cha quản nhiệm trả lời:
- Tôi xin hỏi cha nhé, cha nhìn những chiếc ghế quỳ trong nhà thờ này xem. Nó thấp như thế kia cô ta nằm ngửa bất động, tay dang ra mà nó cứ trôi từ từ qua dưới các ghế quỳ này như có kẻ đẩy đi. Người nó to ghế quỳ thấp thế kia, làm sao người qua lọt, thế mà nó cứ trôi từ từ qua mười mấy, hai mươi dẫy ghế.
Tôi nhìn rồi lấy tay xem lại khoảng cách các ghế quỳ. Quả thật từ mặt nền nhà thờ đến chiếc ghế quá thấp. Không tài nào có thể đút đầu qua được. Nghe cha quản nhiệm kể thật khủng khiếp. Ngài tiếp tục:
- Nó cứ trôi như thế giống như có người đẩy. Thật ghê quá. Nó trôi gần đến cuối ra phía giữa nhà thờ, thì tôi đến trước chặn đầu nó tôi hô lớn:
- Nhân danh Chúa ta truyền cho mày ra khỏi người này.
Nói thế xong nó bỏ mà ra khỏi. Cô ta trở lại bình thường. Đấy, như thế mà cha bảo là bệnh tâm thần à? Tâm thần làm sao chui qua lọt dưới hàng ghế quỳ này?
Trong nhà thờ vắng nghe cha kể chuyện, ngài chỉ cho tôi chỗ cô ta trôi trên mặt sàn nhà thờ. Tôi thấy rợn người. Tiếng sửa nhà đập tường ầm ầm ngoài cuối, phía bên nhà xứ vọng vào. Trời tháng bảy đang mùa hè nhà thờ rộng mênh mông, mang chút gió miệt vườn buông qua cửa sổ nên không nóng lắm. Tôi đứng nhìn lòng nhà thờ sâu thẳm lên gian cung thánh. Nhờ chiếc bóng đèn cực mạnh trên trần chiếu xuống, tượng Chúa chịu nạn trên thánh giá sáng rõ. Ròng rã mấy tháng trời linh mục bảy mươi bốn tuổi đang ngồi trước mặt tôi kia, đã vất vả thách thức với Satan trong ngôi nhà thờ này.
Bất chợt tôi nhớ đến một truyện ngắn đã viết gần chục năm về trước, in trong tập truyện ngắn Đường Về Thượng Trí, câu chuyện mang tựa đề “Đêm Satan, Đêm Đức Tin.” Ngày đó tôi viết truyện ngắn này xảy ra như một thách thức giữa quyền phép Satan, và đức tin của linh mục. Hai bên chiến đấu với nhau trong một ngôi nhà thờ. Truyện chỉ là tiểu thuyết giả tưởng. Không ngờ hôm nay tôi đang đứng trước một cha già 74 tuổi, người đã thực sự đương đầu với Satan.
Chuyện đã thật sự xảy ra trong ngôi thánh đường này. Và cha đã cho tôi biết ngài toát mồ hôi trong cuộc đương đầu với quỷ, sau cùng cha đã chiến thắng bằng đức tin mà thôi. Nhớ lại câu chuyện ngắn mình đã sáng tác, tôi càng thú vị khi quay phim và phỏng vấn cha già về chuyện thật đã xảy ra nơi tôi đang đứng đây. Trong truyện ngắn tôi mô tả Satan có một quyền năng không nhỏ. Trong chuyện thật xảy ra ở đây cha già kể tôi nghe, quỷ nhập nơi người con gái này cũng thế. Cha nói:
- Mới đầu tôi rẩy nước phép, nó sợ. Tôi dí thánh giá vào nó, nó thụt lùi. Tôi lấy dây Stola, dây các phép truyền nó phải ra, nó hốt hoảng. Nhưng mà cha biết không? Sau một thời gian nó không sợ nữa. Có đời nào tôi đưa dây các phép, nó lấy đặt xuống đầu làm gối ngủ. Tôi kinh hoàng không biết làm cách nào trừ nó. Mấy tháng trời ròng rã, trừ được nó ra rồi nó lại nhập vào cô ta, cứ như thế không chịu đi. Tôi lo quá không biết làm thế nào, nhà nước công an, dân chúng cứ xô tới theo dõi câu chuyện, tôi bảo với Chúa:
- Chết con mất, người ta đang chờ đợi nơi con trong cuộc trừ quỷ này.
Tôi toát mồ hôi cũng sợ chứ, tôi không biết làm sao. Trong truyện ngắn tôi viết, tôi kết một cách bỏ ngỏ, tôi không để cho Satan thắng, vì nếu thắng thì còn đâu niềm tin nơi linh mục và ơn Chúa. Nhưng tôi cũng không kết là linh mục thắng một cách trọn vẹn vinh quang. Tôi muốn kết là Satan chưa bỏ cuộc nó sẽ trở lại. Và cuôc chiến còn dài, nghĩa là linh mục trong truyện ngắn đó, nếu muốn thắng quỷ, đời ngài phải là một cuộc chiến không ngừng và phải bám vào Chúa liên ly. Điều ấy cũng đơn giản mà đúng thôi. Vì đức tin dạy tôi rằng, có khi nào ma quỷ buông tay đâu, có khi nào tôi không bám vào Chúa đâu.
Câu chuyện quỷ nhập xảy ra ở nhà thờ Cái Bông, thị xã Ba Tri này cũng thế quỷ không muốn ra. Không phải cứ linh mục nhân danh Chúa mà truyền lệnh được đâu. Tôi thay một cuốn video mới, sáu mươi phút nữa vào máy để tiếp tục phỏng vấn. Tôi xin cha già cho tôi hỏi chi tiết kỹ lưỡng vì tôi muốn có tài liệu thật. Tôi nghĩ những tài liệu này có ích cho tôi. Nhìn tuổi già của cha năm nay ngài đã bảy mươi bốn rồi. Tôi lại ở xa đâu có nhiều cơ hội gặp gỡ. Nếu Chúa gọi ngài ra đi, tất cả bí mật sẽ mang theo xuống lòng đất.
Sau này tôi được một người giáo dân ở đấy cho biết, cha già chịu khó cho tôi quay phim như thế là chuyện lạ lùng đấy. Ngài không muốn ai chụp hình như thế bao giờ. Trong truyện ngắn “Đêm Satan, Đêm Đức Tin” tôi viết chục năm về trước, tôi tả chân dung vị linh mục vất vả với Satan trong nhà thờ. Không ngờ chuyện thật xảy ra ở đây, cha quản nhiệm cũng gian nan trong nhà thờ với nó. Trong truyện sau cùng cũng chỉ dựa vào đức tin mà vị linh mục chống trả lại được Satan.
Chuyện thật ở đây cha quản nhiệm đã nhiều lần trừ quỷ, nó ra rồi lại nhập trở lại. Nếu rửa tội nó không hết thì sao? Đó thật là thách đố lớn. Sau này cha quản nhiệm bảo ngài lo sợ toát mồ hôi trong nghi thức Rửa Tội. Ngài bảo đã trừ nhiều lần là không hết. Nếu bây giờ Rửa Tội mà cũng không hết thì ăn nói làm sao với những người đang nhìn thách đố vào đạo, biết trả lẽ thế nào về niềm tin nơi giáo dân.
Cuộc phỏng vấn này với tôi mang thú vị rất riêng tư, vì chính chuyện mình giả tưởng ngày xưa hôm nay tìm được những nét đồng chung. Tôi đã tìm được kẻ trừ tà trong chuyện thực của đời sống.
Nguyễn Tầm Thường
#54
Gửi vào 15/06/2011 - 09:18
QUỶ NHẬP VÀ QUỶ ÁM
Quỷ nhập là điều có thật. Giáo hội xác tín điều đó, Giáo Hội đã có mục vụ đặc biệt cho những trường hợp này. Các Giám Mục trong địa phận phải chỉ định cách riêng một linh mục nào đó, để khi chuyện xảy ra có kẻ trừ tà. Không gì rõ bằng trong Kinh Thánh. Phúc Âm xác nhận quỷ nhập vào người ta, Kinh Thánh cũng nói đến trừ quỷ. Chúa Kitô trừ quỷ. Các môn đệ trừ quỷ.
Hiện tượng quỷ nhập rất phức tạp, có thể lẫn lộn với bệnh tâm thần. Phức tạp không có nghĩa là không có quỷ thật sự nhập vào người ta. Vì thế phải rất cẩn thận khi đề cập đến. Tôi không dễ tin những chuyện này. Không dễ tin nhưng có những chuyện tôi phải tin. Tôi bắt đầu để ý về những hiện tượng quỷ nhập, khi đọc tờ báo National Catholic Reporter số ra ngày 1-9-2000. Tờ National Catholic Reporter dành nguyên một số báo, đề cập đến hiện tượng quỷ nhập.
Theo điều tra của tờ National Catholic Reporter, trong vòng hai trăm năm vừa qua, Giáo Hội khá lặng im về vấn đề này. Bỗng dưng đầu thế kỷ này hiện tượng quỷ nhập xảy ra nhiều nơi. Theo thống kê cha Gabriel Amorth người được bổ nhiệm trừ quỷ của địa phận Roma, cũng là một trong những người sáng lập International Association of Exorcists. Vào trung tuần tháng bảy năm 1993, trong đại hội những người trừ quỷ tại Roma, chỉ có sáu người tham dự.
Vào năm 2000 con số tăng lên hai trăm. Vẫn theo tờ National Catholic Reporter tại Roma vào năm 1986, chỉ có hai mươi người làm mục vụ trừ quỷ. Hiện nay toàn nước Ý con số lên tới ba trăm người. Theo kinh nghiệm mục vụ, cha Gabriele Amorth viết cuốn sách mang tên "An Exorcist Tells His Stories" dịch là "Câu Chuyện Của Kẻ Trừ Tà". Ngài cho biết quỷ có thể làm cho người nó nhập mửa ra những đụn tóc người, ta cũng có thể khám phá ra quỷ nhập bằng cách trộn Nước Phép vào đồ ăn rồi xem nó phản ứng ra sao.
Cũng trong số báo này cho biết cha James LaBar, được Đức Hồng Y John J.O’conner bổ nhiệm làm kẻ trừ quỷ của địa phận New York cho hay, trong năm 1999 ủy ban của ngài đã phải đương đầu với hai mươi lăm trường hợp quỷ nhập. Theo ngài nhu cầu mỗi ngày một gia tăng. Ngài nổi tiếng là “kẻ trừ quỷ” sau vụ trừ tà ở Florida năm 1991 và được chương trình 20/20 của đài truyền hình Mỹ ABC phát hình.
Tờ Atlanta Journal Constitution 1999 làm một cuộc điều tra, cho biết 50% người Mỹ tin rằng trong cuộc sống ít nhiều cũng có lúc bị quỷ nhập vào. Chính Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trừ quỷ cho người đàn bà Ý tên Francesca Fabrizzi, ngài gọi nó là kẻ sát nhân và là vua gian dối của vũ trụ. Theo cha Amorth, Đức Giáo Hoàng đương kim đã trừ quỷ ba lần trong triều đại của ngài. Theo tờ National Catholic Reporter, nhiều thần học gia tại Hoa Kỳ cho rằng, quỷ nhập là một sự kiện phải nhìn nhận một cách nghiêm chỉnh.
Với những sự kiện trên tôi đặt câu hỏi cho những tò mò của tôi, tại sao thời đại này lại có nhiều hiện tượng quỷ nhập như thế? Đời sống con người trong thời đại này thế nào ? Niềm tin tôn giáo ? Sự công bình xã hội Giá trị luân lý? Giá trị gia đình? Đang lúc tôi muốn tìm hiểu vấn đề này, tôi bắt gặp câu chuyện quỷ nhập một người ở Ba Tri, thuộc tỉnh Bến Tre Việt Nam.
Tôi không dễ tin nên tôi muốn gặp tất cả đương sự, kẻ làm chứng, nhất là giáo quyền, linh mục trừ tà để kiểm điểm sự kiện, điều tôi mong muốn đã xảy ra. Câu chuyện xảy ra đã hơn hai mươi năm về trước, trong số những chứng nhân chỉ có thân sinh của nạn nhân là qua đời. Tôi gặp chính cô Hồng người bị quỷ nhập. Ngày đó mới hai mươi hai tuổi, hôm nay cô bốn mươi bảy.
Tôi gặp cô Kim Chi người sống bên cạnh cô Hồng mấy tháng trời nuôi cô, người giảng viên giáo lý tên Chi này là nhân chứng biết nhiều chuyện về cô Hồng nhất. Tôi gặp mẹ cô Hồng bà cụ cũng già yếu rồi. Tôi gặp các giáo dân những người trong ca đoàn, cùng tuổi với cô Hồng của nhà thờ Cái Bông. Tôi gặp cha phó nhà thờ Cái Bông lúc đó là thầy giúp xứ. Tôi gặp chính cha quản nhiệm Nguyễn Văn Quang, người đã trừ quỷ cho cô Hồng.
Một trong những điều làm tôi tò mò là tại sao quỷ hay chọn mồ mả làm nơi cư trú. Tôi có thể chia ra ba lọai mồ mả sau đây:
- Quỷ thường sống ở mồ mả.
- Chúa phục sinh từ mồ mả, trong những thứ mồ mả trên, chỉ có mộ của Chúa Kitô có sự sống.
Về câu chuyện cô Hồng vào những đêm cô trốn nhà thờ, người ta thường bắt gặp cô ở nghĩa địa gần đó. Cách nhà thờ không xa có một nghĩa địa lâu đời. Chị Kim Chi đã dẫn tôi đến nghĩa trang này chụp hình, chị cho tôi biết nhiều đêm cô ta biến mất, đổ đi tìm thì thấy cô đang nằm ngoài nghĩa địa, trên các mồ mả cỏ rậm um tùm. Ma quỷ gần với sự chết, nó yêu thích sự chết, căn nhà cư trú của nó là sự chết, không phải những người nằm dưới đó là bạn bè nó. Nhưng nghĩa trang là nơi dành cho sự chết. Ngoài nghĩa trang chỉ còn một nơi nữa nó có thể cư ngụ là lòng con người.
Như Đức Kitô đã nói lòng con người có thể là một "mồ mả tô vôi” trong ý nghĩa ấy có biết bao ngôi mộ đang đi ngoài đường, đi trong chợ, ngồi ở tiệm ăn. Theo lời Đức Kitô nói có biết bao mồ mả tô vôi, bên ngoài đẹp đẻ mà bên trong toàn là xương người. Có thể ngôi mộ ấy là người bạn của chính mình. Họ ở cạnh nhau. Bà mẹ của cô Hồng kể cho tôi biết, cô ta có dấu hiệu khác người từ hồi lên năm tuổi, tính đến ngày cô được trừ quỷ vào năm hai mươi hai tuổi, nghĩa là ròng rã mười bảy năm trời.
Bà cụ cho biết trong gia đình không người con nào mắc bệnh tâm trí, riêng cô Hồng lúc năm tuổi thì bắt đầu đau yếu, khoảng mười tuổi thì bỏ nhà đi làm nhiều điều phi thường ai cũng sợ. Bà kể cô ta ăn hết một chiếc nồi đất để luộc bánh tét, một chiếc nồi đất to thế mà cô cứ ngồi nhai rau ráu, ăn chỉ chừa có cái vành nồi. Rồi bà tự hỏi:
- Ông cha coi đó nó ăn như vậy mà không sao, bụng đâu mà chứa hết cái nồi đất to như vậy?
Tôi nghe bà kể rợn người, bên cạnh bà trước mặt ống kính máy thu hình, chị Hồng cũng ngồi bên cạnh, tôi giả bộ lại bào chữa cho hành động phi thường ấy. Tôi bảo bà:
- Thưa cụ, người bị bệnh tâm thần cũng có thể làm như thế.
Chưa để bà cụ trả lời cô Hồng lên tiếng ngay:
- Thưa cha không mà, con bị quỷ nhập thật mà cha ơi!
Chị Kim Chi cũng đang trước ống kính thu hình kể thêm:
- Thưa cha người tâm thần gì mà treo lơ lửng trên trần nhà, lúc con nhân danh Chúa truyền cho nó ra, nó thả cô ta rơi đánh bịch cái xuống mà không hề bị gì.
Cô kim Chi lúc ấy là giảng viên giáo lý, gặp cô Hồng ngoài đường dẫn về nhà thờ, theo cô Kim Chi thuật lại, lúc tới cổng nhà thờ cô Hồng bỏ chạy.
- Nó sợ nhà thờ.
Cô Chi nói vậy, sau này đem cô Hồng về nhốt trong căn nhà thuộc đất nhà xứ, đó là phòng họp dành cho hội Legio Mariae, bên cạnh nhà có một giếng nước khá to. Khi quỷ nhập vào cô nhảy xuống giếng nằm nổi trên mặt nước hằng giờ. Những cô trong ca đoàn lúc bấy giờ cũng chỉ độ hai mươi, bây giờ đã mấy mặt con rồi họ là chứng nhân còn sống, tôi gặp một nhóm sáu người phỏng vấn họ:
- Tại sao các chị cho rằng cô Hồng bị quỷ nhập mà không phải bệnh thần kinh?
- Thưa cha thần kinh làm sao biết được những chuyện kín? Một hôm chúng con đang ngồi xem cô ấy lên cơn. Nó bảo: "Đấy, thằng Quang vừa đi tìm cách để chống lại ta". Không ai hiểu nó nói gì sau này mới biết khi nó nói thế, chính là lúc cha Quang ở nhà thờ lái xe lên tòa giám mục, xin đức cha làm phép dây Stola trừ quỷ đem về. Thần kinh gì mà khi hú nghe rợn người, nó hú nghe ghê lắm cha ơi, bây giờ mà con còn rởn da gà lên đây nè, lúc lên cơn trốn chạy nó chỉ về ngủ ở nghĩa trang.
Lúc tôi phỏng vấn mấy chị này trời đã xế trưa. Tôi sẽ ra nghĩa trang chụp mấy tấm hình. Tôi lại liên tưởng đến Phúc Âm hay nói về quỷ và mồ mả. Nếu đời sống mà linh hồn là ngôi mộ tô vôi, bên trong chất chứa sự dữ, chỉ giả hình bên ngoài thôi thì đấy chính là quê hương của nó trú ngụ. Phải chăng nếu sống mà linh hồn là nơi cư trú, thì khi chết chôn xuống lòng đất nó sẽ tìm về ngôi mộ đó.
Đứng bên bờ giếng tôi hỏi cả hai người, chị Kim Chi và cô Hồng:
- Đây là cái giếng khi quỷ nhập cô thường nhảy xuống phải không?
- Thưa cha đúng vậy.
Giếng đầy nước bờ giếng xây cao đến đầu gối. Chung quanh giếng có vài cây xoài, mấy gốc chuối rậm um tùm. Tôi tìm cách chống chế trả lời cô Kim Chi:
- Nhảy xuống nước mà không chìm cũng không phải là khác thường, vì người biết bơi đâu có chìm?
- Thưa cha nhưng đằng này khác cô ta không bơi. Không phải ở giếng mà thôi cả ngoài sông ngoài đìa nữa. Cô ta xuống đìa nằm hằng giờ mà cứ nổi lềnh bềnh mà không chìm. Cô ta phá quá cả công an xã chịu không nổi, họ muốn thảy xuống sông cho chết mà cô ta cứ nổi hàng giờ.
Tôi nhìn chị Hồng đứng cạnh bờ giếng, bóng tầu lá chuối lúc lắc, để rớt một khoảng nắng loang lổ xuống mặt. Mặt trời xế trưa. Năm nay chị bốn mươi bảy tuổi. Ngày đó là cô gái hai mươi hai. Một thiếu nữ đang tuổi xuân thì. Suốt ngày thơ thẩn bên nghĩa trang nằm đường ngủ bụi, tru tréo la hét trôi trên sông. Con người bây giờ đang đứng trước mặt tôi. Tôi hỏi chị Hồng:
- Khi xảy ra như thế chị có biết gì không?
- Thưa cha không.
Trưa nay tôi quay phim hình cánh tay chị ta. Chính cô Kim Chi kể:
- Thưa cha đây là vết tích hãy còn. Con lấy lửa đốt cánh tay chị. Nếu là người thì phải biết đau chứ? Con đốt cháy như thế này mà nó cười khà khà.
Một khúc dài độ nửa tấc trên tay cô Hồng còn mang sẹo. Một vết sẹo do bị cháy rất nặng vẫn còn. Nhân chứng về vết sẹo này, một ông nghe thấy quỷ nói:
- Không ai làm gì được ta, ta chỉ khóa giải một cái sẽ không có sẹo, nhưng ta để lại cho có vết tích mà thôi.
Lời này do chị Hồng kể. Trong khi bị đốt chị không biết gì. Quỷ nói câu trên và người kia nghe được, sau này ông ta kể lại cho cô Hồng lúc cô đã tỉnh. Mẹ chị Hồng vì tuổi cao tự nhiên thì không nhớ nhiều, nhưng khi nhắc tới thì nhớ. Cô Hồng làm cho gia đình những điều kinh hãi. Lối xóm đàm tiếu nhà đó có quỷ nhập nên ông bà khổ sở. Một tay công an lực lưỡng dí điện xem cái gì xảy ra. Thay vì cô Hồng bị giật thì chính tay công an bị điện giật té ngửa. Cô ngồi cười khà khà. Ai cũng sợ hãi thất kinh.
Nếu là ma quỷ thì không ai giết được nó. Họ nghĩ vậy. Ban đêm công an khênh cô ta để ngoài đường cho xe cán xem sao. Tôi nghe kể mấy chiếc xe vận tải chạy qua mà cô ta không chết. Cô Hồng kể lại, cửa sông lớn như thế làm sao một cô gái bơi qua sông với một bao gạo? Qua sông mà gạo không ướt. Nhưng chuyện sau đây thật không hiểu nổi. Dĩ nhiên khi xảy ra thì chính cô Hồng không biết gì. Một thế lực huyền bí nào đó hoạt động trong cô mà thôi.
Một hôm có người ra sông mở đáy lấy cá. Đáy là một cái bẫy đan tre dưới nước vây lại cho cá sông vào. Khi người ta mở đáy thì thấy cô Hồng ngồi trong đó. Không biết cô đã ngồi trong bẫy ngâm dưới nước từ bao giờ. Người cứng lạnh xám xanh thế mà không chết. Theo bà cụ kể thì từ khoảng mười tuổi cô Hồng phát chứng những hiện tượng lạ. Những chuyện phi thường tăng dần cho đến ngày được trừ tà. Chị Kim Chi đem cô Hồng về nhà thờ, đó là chuyện chẳng đặng đừng đối với cha quản nhiệm. Lúc nói chuyện cha già tâm sự với tôi:
- Khó xử quá về vụ này. Tôi cũng chỉ cho là bệnh tâm lý. Nhưng dần dần tôi thấy ghê quá. Ngay nhà nước đâu có tin chuyện ma quỷ, mà cũng không cắt nghĩa được những hiện tượng quái gở của cô ta. Tôi nghĩ Chúa để xảy ra cho người ta biết có tôn giáo, thần thánh, có ma quỷ, có đời sống tâm linh.
Cô Kim Chi thì cho rằng hiện tượng này xảy ra để chúng ta biết vinh quang của Chúa. Ngay quỷ có nhập vào người ta cũng là làm cho Chúa được vinh quang mà thôi. Nó chẳng có quyền phép gì. Trong căn nhà ngày xưa “nhốt” cô Hồng, hôm nay các sơ đang ở. Có lớp giáo lý cho các em. Giữa căn nhà ngay lối cửa chính bước vào, còn bàn thờ có tượng trái tim Chúa Giêsu. Cứ đêm bỏ nhà đi, cô Hồng ra nghĩa trang nằm ngủ với mồ mả. Nên lúc phỏng vấn tôi hỏi cô Kim Chi:
- Ra nghĩa trang một mình tìm người quỷ nhập như thế cô có sợ không? Nhất là nghĩa trang heo hút vào ban đêm.
Cô Kim Chi trả lời tôi bằng một câu không ngờ:
- Thưa cha nó là quỷ thì làm gì mà phải sợ.
Có lẽ thấy tôi ngạc nhiên với câu trả lời ấy. Cô nói tiếp:
- Nếu là trộm cướp thì sợ vì nó có thể giết mình, chứ là quỷ nó làm gì được mình mà sợ, mình có Chúa mà.
Trong giây phút mà tôi gọi là câu trả lời, làm cho thời gian ấy đọng lại thành linh thiêng. Tôi xác tín điều đó quá đúng. Người ta thường lấy ma quỷ để dọa nạt. Có người tối đến không dám ở nhà một mình. Họ sợ bóng sợ vía. Nói đến người chết là nói đến ma. Họ sợ nghĩa địa. Khi gia đình có người qua đời, tôi thấy chúng ta thường nói là nhà có “đám ma”. Tại sao tự động gán hình ảnh người chết là “ma”.
Tôi thấy lối nói này phải được thay đổi. Và tôi đề nghị, người Kitô hữu hãy thay đổi kiểu nói này. Ta nên nói là nhà có tang lễ thay vì nhà có “đám ma”. Tôi đang nghĩ về câu trả lời của người giảng viên giáo lý, đã thực sự sống giáo lý này thì cô ta nói tiếp:
- Quỷ nhập thì không sợ. Quỷ ám mới sợ cha à.
Tôi không hiểu rõ chị muốn nói gì. Thấy tôi nhíu mày im lặng chị nói:
- Quỷ nhập mình biết ngay là nó. Quỷ nhập chỉ làm những điều kinh thiên động địa, nhưng đâu làm gì được ta. Biết nó nhập ta có thể trừ được. Còn người quỷ ám là lòng họ gian ác thù oán, gian dối lường gạt. Họ vẫn đi nhà thờ rước lễ mà tâm hồn không có bình an. Quỷ ám mới đáng sợ. Ai sống trong tội là sống trong tình trạng quỷ ám. Họ làm những chuyện kinh thiên động địa không ai biết, nhiều khi họ cũng không biết chính mình. Quỷ ám mới đáng sợ.
Tôi không ngờ một người giáo dân bình thường, một người giảng viên giáo lý có cái nhìn chính xác về thần học như thế. Nhất là cô đã sống đời giảng viên giáo lý với ý nghĩa đẹp trọn vẹn, của danh từ giảng viên giáo lý. Gặp người giảng viên giáo lý này cũng là một chuyến phỏng vấn có ý nghĩa đối với tôi. Ý nghĩa trong tài liệu tôi đang thu thập, và ý nghĩa nhất cho cuộc sống của chính mình.
Đã hai mươi lăm năm thế mà lúc cha già kể lại giây phút rửa tội, ngài như đang sống chính giây phút ấy. Mặt ngài trầm ngâm nhăn lại:
- Tôi thú thật với cha, chưa bao giờ trong đời tôi sợ như lúc đó. Tôi toát mồ hôi. Giây phút vô cùng quan trọng quyết định số phận của tôi và danh tiếng Giáo Hội. Sau năm tháng, tôi quyết định rửa tội cho nó. Cha thử nghĩ coi, nếu rửa tội xong mà quỷ không ra thì tính sao? Lúc ấy nhà nước đang để ý tôi. Họ đâu có tin chuyện tôn giáo đâu tin thần thánh gì. Còn tôi thì lo mất mặt. Nếu là quỷ nhập thì phải trừ được. Nếu không trừ được thì còn đâu là Chúa, Mẹ nữa. Tôi lo chứ. Tôi hỏi các nhân chứng về ngày rửa tội ai cũng nói thế. Họ bảo chưa bao giờ thấy cha xứ toát mồ hôi như vậy:
- Thưa cha cả chúng con nữa. Nhà thờ đầy người ai cũng sợ. Chúng con chỉ sợ rửa tội không xong. Trước giây phút rửa tội, cả nhà thờ phải đọc kinh sám hối, chúng con quỳ hôn đất xin Chúa thương. Chúng con lúc đó mới mười mấy, hai mươi tuổi, còn trong ca đoàn mà. Chúng con đứng đằng sau nó. Lúc cha sắp làm phép rửa tội, nó lùi lại phía sau muốn chạy. Chúng con giữ lại đẩy nó lên phía trước.
Trong giây phút rửa tội chị Kim Chi quả quyết nghe thấy, vì khi cô Hồng quỳ xuống mọi người đứng, thì chị Kim Chi quỳ ngay bên cạnh sát cô Hồng. Lúc ấy có giọng nói từ phía cô Hồng:
- Ta trả lại thân xác mày ta đi đây.
Trong buổi phỏng vấn khuôn mặt cha già lúc nào cũng trầm ngâm. Ngài nói với tôi:
- Cha biết gì xảy ra không? Sau lễ rửa tội đó nó khỏi hẳn cho đến bây giờ đã hơn hai mươi năm. Nếu là bệnh thần kinh thì tại sao sau rửa tội lại hết? Cha thấy ghê không.
Tôi im lặng cha già cũng thế. Hai chúng tôi cố hình dung một sự kiện không giải thích được. Tôi quan sát chung quanh tường nhà xứ. Lúc này tôi không phỏng vấn cha trong nhà thờ nữa, đang trong phòng khách nhà xứ rồi. Căn nhà xây dở dang vì chiến cuộc. Góc tường cha treo một tấm bản đồ rất lạ. Đó là bản đồ giáo dân trong họ đạo. Bản đồ vẽ từng nhà, mỗi nhà là một khuôn nhỏ với tên gia trưởng, nhà nào nằm góc đường nào, rõ chi tiết. Tôi hỏi ngài:
- Tại sao trước đó cha nhân danh Chúa trừ nó nhiều lần. Nó ra rồi lại nhập vào. Tại sao sau khi rửa tội xong nó không nhập vào nữa?
Vẫn dáng điệu trầm ngâm bên tách trà, ngài nói nhỏ:
- Tôi nghĩ như thế này, lúc trước tôi truyền cho nó ra. Nó ra nhưng rồi lại nhập vì lúc ấy chưa có Chúa nơi cô ta. Rửa tội là đóng ấn tích thì khác chứ. Sau khi rửa tội xong nó là con Chúa rồi. Có Chúa trong linh hồn cô ta rồi. Khác chứ. Làm sao nó dám nhập vào nữa.
Lời giải thích của cha già như ánh sáng lóe lên trong tâm trí tôi. Phải đúng như thế. Đấy là mầu nhiệm của các bí tích. Phải chăng Chúa cho tôi nghe lời giải thích này để xác tín quyền năng các bí tích Chúa thiết lập. Những bí tích vô cùng cao quý mang ơn cứu rỗi linh hồn. Phải chăng đây là một ơn cho tôi. Vì là linh mục, tôi cử hành các bí tích quá thường. Nếu linh mục không còn tinh thần khi cử hành bí tích, dâng lễ chóng qua, giải tội chóng qua, không chuẩn bị cử hành các bí tích thì đời sống linh mục quá buồn. Tất cả cuộc sống thành cử hành những nghi thức vô vị, thì cuộc đời cũng vô vị.
Lời cha già giải thích đơn sơ nhưng tôi thích lối giải thích ấy. Sau lời giải thích đơn sơ ấy, tôi thấy mình quý các bí tích hơn. Tôi sẽ trân trọng hết tâm hồn khi cử hành các bí tích Chúa ban. Nắng chiều đang xuống. Tôi sắp ra về. Tôi không biết có ngày nào trở lại nơi này nữa hay đây là lần cuối. Cuộc đời rất nhiều khi là vĩnh biệt. Tôi chụp chung tấm hình với cha. Không ngờ nơi đây hơn hai mươi năm trước đã xôn xao một thời quỷ dữ về nhà thờ.
Không ngờ hai mươi năm sau tôi đến đây nhìn lại dấu chứng. Cuộc sống thật đẹp vì luôn luôn có những bất ngờ. Nhìn tuổi tác cha tôi lại nghĩ, cuộc đời đẹp nhưng quá ngắn. Tuổi già rồi từ giã cuộc đời. Ai cũng thế. Nghĩ tới đó hình ảnh nấm mộ ngoài nghĩa trang lại hiện về. Mộ hoang nghĩa địa là chỗ quỷ hay lui tới. Mồ mả tô vôi đẹp bên ngoài và xương người chết bên trong. Những hình ảnh ấy hiện lên như một phản xạ tự nhiên. Tôi thấy bâng khuâng một thoáng buồn. Tôi cũng nghĩ ngay đến các bí tích. Bí tích ban cho người sống, bí tích ban cho người chết.
Lạy Chúa, con cần những bí tích này cho cuộc sống của con trên đường về với Chúa. Và như một linh mục, xin cho con cử hành các bí tích với hết cả tâm hồn. Trên trán cha quản nhiệm lấm tấm một chút mồ hôi. Trưa bắt đầu tỏa nóng. Trong nhà thờ vẫn rộng mênh mông yên tĩnh chỉ có hai người. Ngài nói với tôi:
- Có điều này rất lạ. Một hôm con nhân danh Chúa trừ nó.
Cha già nói tới đó tôi ngắt lời cha:
- Thưa cha mấy tháng trời từ lúc cô Kim Chi đem cô Hồng về nhà thờ, cha trừ nó nhiều lần hay sao?
- Nhiều chứ, nó cứ ra được vài ba bữa rồi lại nhập vào. Như con đã nói với cha, ban đầu nó còn sợ nước phép, sợ thánh giá, sợ dây Stola. Sau cùng nó không sợ gì cả. Con rất lo. Rồi một hôm con trừ nó...
Có tiếng kẽo kẹt mở cửa phía cuối nhà thờ. Có lẽ mấy bà tốt lành đi đọc kinh trưa. Tôi nhìn cha già trong chiếc áo dòng mầu đen. Nét mặt cha như đang sống lại câu chuyện của hai mươi lăm năm về trước.
Cha nói tiếp câu chuyện dở dang:
- Một hôm con nhân danh Chúa trừ nó, nó không ra. Con lại nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi truyền cho nó ra, nó cũng không ra. Lúc ấy không biết làm thế nào. Con nhân danh Đức Mẹ truyền thì nó ra.
Nói tới đó cha già nhìn tôi, trên vầng trán nhăn lại đăm chiêu. Tôi hỏi ngài:
- Thưa cha, cha còn nhớ hôm ấy cha nói như thế nào?
- Con nói: Nhân danh Đức Mẹ là Đấng vô nhiễm nguyên tội, là Mẹ Thiên Chúa ta truyền cho mày phải ra. Nói thế xong nó quật cô ta xuống rồi ra khỏi cha ạ.
Nhà thờ hun hút sâu xuống phía cuối. Chỗ chúng tôi đang đứng là bậc thềm ngay bàn thờ Đức Mẹ. Cha già chỉ cho tôi rồi nói:
- Đó, ngay chỗ đó hôm ấy xảy ra ngay chổ này.
Tôi hỏi cha:
- Thưa cha ngày xưa cha là giáo sư chủng viện. Xét về thần học thì không có lý nào nhân danh Chúa mà không truyền nó ra được, mà nhân danh Đức Mẹ lại được. Về tín lý thần học thì Mẹ Maria không quyền năng hơn Chúa. Vậy cha nghĩ sao?
- Thú thật với cha con cũng không biết cắt nghĩa làm sao. Nhưng đó là sự thật. Xảy ra ở ngay chỗ này.
Nghe cha già nói xong, tôi nhớ đến câu chuyện một thanh niên ở trại tỵ nạn ngày xưa xin vào đạo, vì nhìn thấy con rắn bên hang đá Đức Mẹ. Tôi liên tưởng đến hình ảnh Đức Mẹ đạp đầu con rắn và câu kinh Thánh trong sách Sáng Thế Ký, nói về mối thù giữa miêu duệ người nữ và Satan. Tôi nói với cha già:
- Thưa cha có thể Thiên Chúa để xảy ra như thế cho ta lòng sùng kính Đức Mẹ. Vì cha nói nhân danh Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, là Mẹ Thiên Chúa mà truyền cho nó phải ra. Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, Mẹ đạp đầu nó. Nó không có quyền năng gì trên Mẹ. Nó thấy tủi nhục. Mẹ chiến thắng nó ngay từ khi Mẹ thụ thai. Cha nghĩ sao?
- Rất có thể như thế cha ạ. Chứ con không còn biết cắt nghĩa ra sao. Rõ ràng khi nhân danh Đức Mẹ con truyền thì nó ra ngay.
Câu chuyện trên cha già nói với tôi ban sáng, đến chiều tôi phỏng vấn chị Hồng. Trong lúc kể lại những gì chị nhớ. Chị nói:
- Đêm hôm trước con thấy một người đàn bà bảo con là, ngày mai có người dẫn con đến nhà thờ. Đúng hôm sau thì chị Kim Chi gặp con rồi dẫn con về nhà thờ. Con nghĩ rằng đấy là Đức Mẹ báo cho con biết.
Trong cuộc phỏng vấn tôi không nói gì đến Đức Mẹ. Bổng dưng cô ta đề cập đến câu chuyện hai mươi lăm năm về trước. Tôi tìm hỏi chị Kim Chi xem ngày chị dẫn cô Hồng về nhà thờ là hôm nào. Chị Chi cho biết đó là ngày 13 tháng 10. Tôi giật mình, vì 13 tháng 10 là ngày Đức Mẹ hiện ra ở Fatima...
LM.Nguyễn Tầm Thường
Quỷ nhập là điều có thật. Giáo hội xác tín điều đó, Giáo Hội đã có mục vụ đặc biệt cho những trường hợp này. Các Giám Mục trong địa phận phải chỉ định cách riêng một linh mục nào đó, để khi chuyện xảy ra có kẻ trừ tà. Không gì rõ bằng trong Kinh Thánh. Phúc Âm xác nhận quỷ nhập vào người ta, Kinh Thánh cũng nói đến trừ quỷ. Chúa Kitô trừ quỷ. Các môn đệ trừ quỷ.
Hiện tượng quỷ nhập rất phức tạp, có thể lẫn lộn với bệnh tâm thần. Phức tạp không có nghĩa là không có quỷ thật sự nhập vào người ta. Vì thế phải rất cẩn thận khi đề cập đến. Tôi không dễ tin những chuyện này. Không dễ tin nhưng có những chuyện tôi phải tin. Tôi bắt đầu để ý về những hiện tượng quỷ nhập, khi đọc tờ báo National Catholic Reporter số ra ngày 1-9-2000. Tờ National Catholic Reporter dành nguyên một số báo, đề cập đến hiện tượng quỷ nhập.
Theo điều tra của tờ National Catholic Reporter, trong vòng hai trăm năm vừa qua, Giáo Hội khá lặng im về vấn đề này. Bỗng dưng đầu thế kỷ này hiện tượng quỷ nhập xảy ra nhiều nơi. Theo thống kê cha Gabriel Amorth người được bổ nhiệm trừ quỷ của địa phận Roma, cũng là một trong những người sáng lập International Association of Exorcists. Vào trung tuần tháng bảy năm 1993, trong đại hội những người trừ quỷ tại Roma, chỉ có sáu người tham dự.
Vào năm 2000 con số tăng lên hai trăm. Vẫn theo tờ National Catholic Reporter tại Roma vào năm 1986, chỉ có hai mươi người làm mục vụ trừ quỷ. Hiện nay toàn nước Ý con số lên tới ba trăm người. Theo kinh nghiệm mục vụ, cha Gabriele Amorth viết cuốn sách mang tên "An Exorcist Tells His Stories" dịch là "Câu Chuyện Của Kẻ Trừ Tà". Ngài cho biết quỷ có thể làm cho người nó nhập mửa ra những đụn tóc người, ta cũng có thể khám phá ra quỷ nhập bằng cách trộn Nước Phép vào đồ ăn rồi xem nó phản ứng ra sao.
Cũng trong số báo này cho biết cha James LaBar, được Đức Hồng Y John J.O’conner bổ nhiệm làm kẻ trừ quỷ của địa phận New York cho hay, trong năm 1999 ủy ban của ngài đã phải đương đầu với hai mươi lăm trường hợp quỷ nhập. Theo ngài nhu cầu mỗi ngày một gia tăng. Ngài nổi tiếng là “kẻ trừ quỷ” sau vụ trừ tà ở Florida năm 1991 và được chương trình 20/20 của đài truyền hình Mỹ ABC phát hình.
Tờ Atlanta Journal Constitution 1999 làm một cuộc điều tra, cho biết 50% người Mỹ tin rằng trong cuộc sống ít nhiều cũng có lúc bị quỷ nhập vào. Chính Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trừ quỷ cho người đàn bà Ý tên Francesca Fabrizzi, ngài gọi nó là kẻ sát nhân và là vua gian dối của vũ trụ. Theo cha Amorth, Đức Giáo Hoàng đương kim đã trừ quỷ ba lần trong triều đại của ngài. Theo tờ National Catholic Reporter, nhiều thần học gia tại Hoa Kỳ cho rằng, quỷ nhập là một sự kiện phải nhìn nhận một cách nghiêm chỉnh.
Với những sự kiện trên tôi đặt câu hỏi cho những tò mò của tôi, tại sao thời đại này lại có nhiều hiện tượng quỷ nhập như thế? Đời sống con người trong thời đại này thế nào ? Niềm tin tôn giáo ? Sự công bình xã hội Giá trị luân lý? Giá trị gia đình? Đang lúc tôi muốn tìm hiểu vấn đề này, tôi bắt gặp câu chuyện quỷ nhập một người ở Ba Tri, thuộc tỉnh Bến Tre Việt Nam.
Tôi không dễ tin nên tôi muốn gặp tất cả đương sự, kẻ làm chứng, nhất là giáo quyền, linh mục trừ tà để kiểm điểm sự kiện, điều tôi mong muốn đã xảy ra. Câu chuyện xảy ra đã hơn hai mươi năm về trước, trong số những chứng nhân chỉ có thân sinh của nạn nhân là qua đời. Tôi gặp chính cô Hồng người bị quỷ nhập. Ngày đó mới hai mươi hai tuổi, hôm nay cô bốn mươi bảy.
Tôi gặp cô Kim Chi người sống bên cạnh cô Hồng mấy tháng trời nuôi cô, người giảng viên giáo lý tên Chi này là nhân chứng biết nhiều chuyện về cô Hồng nhất. Tôi gặp mẹ cô Hồng bà cụ cũng già yếu rồi. Tôi gặp các giáo dân những người trong ca đoàn, cùng tuổi với cô Hồng của nhà thờ Cái Bông. Tôi gặp cha phó nhà thờ Cái Bông lúc đó là thầy giúp xứ. Tôi gặp chính cha quản nhiệm Nguyễn Văn Quang, người đã trừ quỷ cho cô Hồng.
Một trong những điều làm tôi tò mò là tại sao quỷ hay chọn mồ mả làm nơi cư trú. Tôi có thể chia ra ba lọai mồ mả sau đây:
- Quỷ thường sống ở mồ mả.
- Chúa phục sinh từ mồ mả, trong những thứ mồ mả trên, chỉ có mộ của Chúa Kitô có sự sống.
Về câu chuyện cô Hồng vào những đêm cô trốn nhà thờ, người ta thường bắt gặp cô ở nghĩa địa gần đó. Cách nhà thờ không xa có một nghĩa địa lâu đời. Chị Kim Chi đã dẫn tôi đến nghĩa trang này chụp hình, chị cho tôi biết nhiều đêm cô ta biến mất, đổ đi tìm thì thấy cô đang nằm ngoài nghĩa địa, trên các mồ mả cỏ rậm um tùm. Ma quỷ gần với sự chết, nó yêu thích sự chết, căn nhà cư trú của nó là sự chết, không phải những người nằm dưới đó là bạn bè nó. Nhưng nghĩa trang là nơi dành cho sự chết. Ngoài nghĩa trang chỉ còn một nơi nữa nó có thể cư ngụ là lòng con người.
Như Đức Kitô đã nói lòng con người có thể là một "mồ mả tô vôi” trong ý nghĩa ấy có biết bao ngôi mộ đang đi ngoài đường, đi trong chợ, ngồi ở tiệm ăn. Theo lời Đức Kitô nói có biết bao mồ mả tô vôi, bên ngoài đẹp đẻ mà bên trong toàn là xương người. Có thể ngôi mộ ấy là người bạn của chính mình. Họ ở cạnh nhau. Bà mẹ của cô Hồng kể cho tôi biết, cô ta có dấu hiệu khác người từ hồi lên năm tuổi, tính đến ngày cô được trừ quỷ vào năm hai mươi hai tuổi, nghĩa là ròng rã mười bảy năm trời.
Bà cụ cho biết trong gia đình không người con nào mắc bệnh tâm trí, riêng cô Hồng lúc năm tuổi thì bắt đầu đau yếu, khoảng mười tuổi thì bỏ nhà đi làm nhiều điều phi thường ai cũng sợ. Bà kể cô ta ăn hết một chiếc nồi đất để luộc bánh tét, một chiếc nồi đất to thế mà cô cứ ngồi nhai rau ráu, ăn chỉ chừa có cái vành nồi. Rồi bà tự hỏi:
- Ông cha coi đó nó ăn như vậy mà không sao, bụng đâu mà chứa hết cái nồi đất to như vậy?
Tôi nghe bà kể rợn người, bên cạnh bà trước mặt ống kính máy thu hình, chị Hồng cũng ngồi bên cạnh, tôi giả bộ lại bào chữa cho hành động phi thường ấy. Tôi bảo bà:
- Thưa cụ, người bị bệnh tâm thần cũng có thể làm như thế.
Chưa để bà cụ trả lời cô Hồng lên tiếng ngay:
- Thưa cha không mà, con bị quỷ nhập thật mà cha ơi!
Chị Kim Chi cũng đang trước ống kính thu hình kể thêm:
- Thưa cha người tâm thần gì mà treo lơ lửng trên trần nhà, lúc con nhân danh Chúa truyền cho nó ra, nó thả cô ta rơi đánh bịch cái xuống mà không hề bị gì.
Cô kim Chi lúc ấy là giảng viên giáo lý, gặp cô Hồng ngoài đường dẫn về nhà thờ, theo cô Kim Chi thuật lại, lúc tới cổng nhà thờ cô Hồng bỏ chạy.
- Nó sợ nhà thờ.
Cô Chi nói vậy, sau này đem cô Hồng về nhốt trong căn nhà thuộc đất nhà xứ, đó là phòng họp dành cho hội Legio Mariae, bên cạnh nhà có một giếng nước khá to. Khi quỷ nhập vào cô nhảy xuống giếng nằm nổi trên mặt nước hằng giờ. Những cô trong ca đoàn lúc bấy giờ cũng chỉ độ hai mươi, bây giờ đã mấy mặt con rồi họ là chứng nhân còn sống, tôi gặp một nhóm sáu người phỏng vấn họ:
- Tại sao các chị cho rằng cô Hồng bị quỷ nhập mà không phải bệnh thần kinh?
- Thưa cha thần kinh làm sao biết được những chuyện kín? Một hôm chúng con đang ngồi xem cô ấy lên cơn. Nó bảo: "Đấy, thằng Quang vừa đi tìm cách để chống lại ta". Không ai hiểu nó nói gì sau này mới biết khi nó nói thế, chính là lúc cha Quang ở nhà thờ lái xe lên tòa giám mục, xin đức cha làm phép dây Stola trừ quỷ đem về. Thần kinh gì mà khi hú nghe rợn người, nó hú nghe ghê lắm cha ơi, bây giờ mà con còn rởn da gà lên đây nè, lúc lên cơn trốn chạy nó chỉ về ngủ ở nghĩa trang.
Lúc tôi phỏng vấn mấy chị này trời đã xế trưa. Tôi sẽ ra nghĩa trang chụp mấy tấm hình. Tôi lại liên tưởng đến Phúc Âm hay nói về quỷ và mồ mả. Nếu đời sống mà linh hồn là ngôi mộ tô vôi, bên trong chất chứa sự dữ, chỉ giả hình bên ngoài thôi thì đấy chính là quê hương của nó trú ngụ. Phải chăng nếu sống mà linh hồn là nơi cư trú, thì khi chết chôn xuống lòng đất nó sẽ tìm về ngôi mộ đó.
Đứng bên bờ giếng tôi hỏi cả hai người, chị Kim Chi và cô Hồng:
- Đây là cái giếng khi quỷ nhập cô thường nhảy xuống phải không?
- Thưa cha đúng vậy.
Giếng đầy nước bờ giếng xây cao đến đầu gối. Chung quanh giếng có vài cây xoài, mấy gốc chuối rậm um tùm. Tôi tìm cách chống chế trả lời cô Kim Chi:
- Nhảy xuống nước mà không chìm cũng không phải là khác thường, vì người biết bơi đâu có chìm?
- Thưa cha nhưng đằng này khác cô ta không bơi. Không phải ở giếng mà thôi cả ngoài sông ngoài đìa nữa. Cô ta xuống đìa nằm hằng giờ mà cứ nổi lềnh bềnh mà không chìm. Cô ta phá quá cả công an xã chịu không nổi, họ muốn thảy xuống sông cho chết mà cô ta cứ nổi hàng giờ.
Tôi nhìn chị Hồng đứng cạnh bờ giếng, bóng tầu lá chuối lúc lắc, để rớt một khoảng nắng loang lổ xuống mặt. Mặt trời xế trưa. Năm nay chị bốn mươi bảy tuổi. Ngày đó là cô gái hai mươi hai. Một thiếu nữ đang tuổi xuân thì. Suốt ngày thơ thẩn bên nghĩa trang nằm đường ngủ bụi, tru tréo la hét trôi trên sông. Con người bây giờ đang đứng trước mặt tôi. Tôi hỏi chị Hồng:
- Khi xảy ra như thế chị có biết gì không?
- Thưa cha không.
Trưa nay tôi quay phim hình cánh tay chị ta. Chính cô Kim Chi kể:
- Thưa cha đây là vết tích hãy còn. Con lấy lửa đốt cánh tay chị. Nếu là người thì phải biết đau chứ? Con đốt cháy như thế này mà nó cười khà khà.
Một khúc dài độ nửa tấc trên tay cô Hồng còn mang sẹo. Một vết sẹo do bị cháy rất nặng vẫn còn. Nhân chứng về vết sẹo này, một ông nghe thấy quỷ nói:
- Không ai làm gì được ta, ta chỉ khóa giải một cái sẽ không có sẹo, nhưng ta để lại cho có vết tích mà thôi.
Lời này do chị Hồng kể. Trong khi bị đốt chị không biết gì. Quỷ nói câu trên và người kia nghe được, sau này ông ta kể lại cho cô Hồng lúc cô đã tỉnh. Mẹ chị Hồng vì tuổi cao tự nhiên thì không nhớ nhiều, nhưng khi nhắc tới thì nhớ. Cô Hồng làm cho gia đình những điều kinh hãi. Lối xóm đàm tiếu nhà đó có quỷ nhập nên ông bà khổ sở. Một tay công an lực lưỡng dí điện xem cái gì xảy ra. Thay vì cô Hồng bị giật thì chính tay công an bị điện giật té ngửa. Cô ngồi cười khà khà. Ai cũng sợ hãi thất kinh.
Nếu là ma quỷ thì không ai giết được nó. Họ nghĩ vậy. Ban đêm công an khênh cô ta để ngoài đường cho xe cán xem sao. Tôi nghe kể mấy chiếc xe vận tải chạy qua mà cô ta không chết. Cô Hồng kể lại, cửa sông lớn như thế làm sao một cô gái bơi qua sông với một bao gạo? Qua sông mà gạo không ướt. Nhưng chuyện sau đây thật không hiểu nổi. Dĩ nhiên khi xảy ra thì chính cô Hồng không biết gì. Một thế lực huyền bí nào đó hoạt động trong cô mà thôi.
Một hôm có người ra sông mở đáy lấy cá. Đáy là một cái bẫy đan tre dưới nước vây lại cho cá sông vào. Khi người ta mở đáy thì thấy cô Hồng ngồi trong đó. Không biết cô đã ngồi trong bẫy ngâm dưới nước từ bao giờ. Người cứng lạnh xám xanh thế mà không chết. Theo bà cụ kể thì từ khoảng mười tuổi cô Hồng phát chứng những hiện tượng lạ. Những chuyện phi thường tăng dần cho đến ngày được trừ tà. Chị Kim Chi đem cô Hồng về nhà thờ, đó là chuyện chẳng đặng đừng đối với cha quản nhiệm. Lúc nói chuyện cha già tâm sự với tôi:
- Khó xử quá về vụ này. Tôi cũng chỉ cho là bệnh tâm lý. Nhưng dần dần tôi thấy ghê quá. Ngay nhà nước đâu có tin chuyện ma quỷ, mà cũng không cắt nghĩa được những hiện tượng quái gở của cô ta. Tôi nghĩ Chúa để xảy ra cho người ta biết có tôn giáo, thần thánh, có ma quỷ, có đời sống tâm linh.
Cô Kim Chi thì cho rằng hiện tượng này xảy ra để chúng ta biết vinh quang của Chúa. Ngay quỷ có nhập vào người ta cũng là làm cho Chúa được vinh quang mà thôi. Nó chẳng có quyền phép gì. Trong căn nhà ngày xưa “nhốt” cô Hồng, hôm nay các sơ đang ở. Có lớp giáo lý cho các em. Giữa căn nhà ngay lối cửa chính bước vào, còn bàn thờ có tượng trái tim Chúa Giêsu. Cứ đêm bỏ nhà đi, cô Hồng ra nghĩa trang nằm ngủ với mồ mả. Nên lúc phỏng vấn tôi hỏi cô Kim Chi:
- Ra nghĩa trang một mình tìm người quỷ nhập như thế cô có sợ không? Nhất là nghĩa trang heo hút vào ban đêm.
Cô Kim Chi trả lời tôi bằng một câu không ngờ:
- Thưa cha nó là quỷ thì làm gì mà phải sợ.
Có lẽ thấy tôi ngạc nhiên với câu trả lời ấy. Cô nói tiếp:
- Nếu là trộm cướp thì sợ vì nó có thể giết mình, chứ là quỷ nó làm gì được mình mà sợ, mình có Chúa mà.
Trong giây phút mà tôi gọi là câu trả lời, làm cho thời gian ấy đọng lại thành linh thiêng. Tôi xác tín điều đó quá đúng. Người ta thường lấy ma quỷ để dọa nạt. Có người tối đến không dám ở nhà một mình. Họ sợ bóng sợ vía. Nói đến người chết là nói đến ma. Họ sợ nghĩa địa. Khi gia đình có người qua đời, tôi thấy chúng ta thường nói là nhà có “đám ma”. Tại sao tự động gán hình ảnh người chết là “ma”.
Tôi thấy lối nói này phải được thay đổi. Và tôi đề nghị, người Kitô hữu hãy thay đổi kiểu nói này. Ta nên nói là nhà có tang lễ thay vì nhà có “đám ma”. Tôi đang nghĩ về câu trả lời của người giảng viên giáo lý, đã thực sự sống giáo lý này thì cô ta nói tiếp:
- Quỷ nhập thì không sợ. Quỷ ám mới sợ cha à.
Tôi không hiểu rõ chị muốn nói gì. Thấy tôi nhíu mày im lặng chị nói:
- Quỷ nhập mình biết ngay là nó. Quỷ nhập chỉ làm những điều kinh thiên động địa, nhưng đâu làm gì được ta. Biết nó nhập ta có thể trừ được. Còn người quỷ ám là lòng họ gian ác thù oán, gian dối lường gạt. Họ vẫn đi nhà thờ rước lễ mà tâm hồn không có bình an. Quỷ ám mới đáng sợ. Ai sống trong tội là sống trong tình trạng quỷ ám. Họ làm những chuyện kinh thiên động địa không ai biết, nhiều khi họ cũng không biết chính mình. Quỷ ám mới đáng sợ.
Tôi không ngờ một người giáo dân bình thường, một người giảng viên giáo lý có cái nhìn chính xác về thần học như thế. Nhất là cô đã sống đời giảng viên giáo lý với ý nghĩa đẹp trọn vẹn, của danh từ giảng viên giáo lý. Gặp người giảng viên giáo lý này cũng là một chuyến phỏng vấn có ý nghĩa đối với tôi. Ý nghĩa trong tài liệu tôi đang thu thập, và ý nghĩa nhất cho cuộc sống của chính mình.
Đã hai mươi lăm năm thế mà lúc cha già kể lại giây phút rửa tội, ngài như đang sống chính giây phút ấy. Mặt ngài trầm ngâm nhăn lại:
- Tôi thú thật với cha, chưa bao giờ trong đời tôi sợ như lúc đó. Tôi toát mồ hôi. Giây phút vô cùng quan trọng quyết định số phận của tôi và danh tiếng Giáo Hội. Sau năm tháng, tôi quyết định rửa tội cho nó. Cha thử nghĩ coi, nếu rửa tội xong mà quỷ không ra thì tính sao? Lúc ấy nhà nước đang để ý tôi. Họ đâu có tin chuyện tôn giáo đâu tin thần thánh gì. Còn tôi thì lo mất mặt. Nếu là quỷ nhập thì phải trừ được. Nếu không trừ được thì còn đâu là Chúa, Mẹ nữa. Tôi lo chứ. Tôi hỏi các nhân chứng về ngày rửa tội ai cũng nói thế. Họ bảo chưa bao giờ thấy cha xứ toát mồ hôi như vậy:
- Thưa cha cả chúng con nữa. Nhà thờ đầy người ai cũng sợ. Chúng con chỉ sợ rửa tội không xong. Trước giây phút rửa tội, cả nhà thờ phải đọc kinh sám hối, chúng con quỳ hôn đất xin Chúa thương. Chúng con lúc đó mới mười mấy, hai mươi tuổi, còn trong ca đoàn mà. Chúng con đứng đằng sau nó. Lúc cha sắp làm phép rửa tội, nó lùi lại phía sau muốn chạy. Chúng con giữ lại đẩy nó lên phía trước.
Trong giây phút rửa tội chị Kim Chi quả quyết nghe thấy, vì khi cô Hồng quỳ xuống mọi người đứng, thì chị Kim Chi quỳ ngay bên cạnh sát cô Hồng. Lúc ấy có giọng nói từ phía cô Hồng:
- Ta trả lại thân xác mày ta đi đây.
Trong buổi phỏng vấn khuôn mặt cha già lúc nào cũng trầm ngâm. Ngài nói với tôi:
- Cha biết gì xảy ra không? Sau lễ rửa tội đó nó khỏi hẳn cho đến bây giờ đã hơn hai mươi năm. Nếu là bệnh thần kinh thì tại sao sau rửa tội lại hết? Cha thấy ghê không.
Tôi im lặng cha già cũng thế. Hai chúng tôi cố hình dung một sự kiện không giải thích được. Tôi quan sát chung quanh tường nhà xứ. Lúc này tôi không phỏng vấn cha trong nhà thờ nữa, đang trong phòng khách nhà xứ rồi. Căn nhà xây dở dang vì chiến cuộc. Góc tường cha treo một tấm bản đồ rất lạ. Đó là bản đồ giáo dân trong họ đạo. Bản đồ vẽ từng nhà, mỗi nhà là một khuôn nhỏ với tên gia trưởng, nhà nào nằm góc đường nào, rõ chi tiết. Tôi hỏi ngài:
- Tại sao trước đó cha nhân danh Chúa trừ nó nhiều lần. Nó ra rồi lại nhập vào. Tại sao sau khi rửa tội xong nó không nhập vào nữa?
Vẫn dáng điệu trầm ngâm bên tách trà, ngài nói nhỏ:
- Tôi nghĩ như thế này, lúc trước tôi truyền cho nó ra. Nó ra nhưng rồi lại nhập vì lúc ấy chưa có Chúa nơi cô ta. Rửa tội là đóng ấn tích thì khác chứ. Sau khi rửa tội xong nó là con Chúa rồi. Có Chúa trong linh hồn cô ta rồi. Khác chứ. Làm sao nó dám nhập vào nữa.
Lời giải thích của cha già như ánh sáng lóe lên trong tâm trí tôi. Phải đúng như thế. Đấy là mầu nhiệm của các bí tích. Phải chăng Chúa cho tôi nghe lời giải thích này để xác tín quyền năng các bí tích Chúa thiết lập. Những bí tích vô cùng cao quý mang ơn cứu rỗi linh hồn. Phải chăng đây là một ơn cho tôi. Vì là linh mục, tôi cử hành các bí tích quá thường. Nếu linh mục không còn tinh thần khi cử hành bí tích, dâng lễ chóng qua, giải tội chóng qua, không chuẩn bị cử hành các bí tích thì đời sống linh mục quá buồn. Tất cả cuộc sống thành cử hành những nghi thức vô vị, thì cuộc đời cũng vô vị.
Lời cha già giải thích đơn sơ nhưng tôi thích lối giải thích ấy. Sau lời giải thích đơn sơ ấy, tôi thấy mình quý các bí tích hơn. Tôi sẽ trân trọng hết tâm hồn khi cử hành các bí tích Chúa ban. Nắng chiều đang xuống. Tôi sắp ra về. Tôi không biết có ngày nào trở lại nơi này nữa hay đây là lần cuối. Cuộc đời rất nhiều khi là vĩnh biệt. Tôi chụp chung tấm hình với cha. Không ngờ nơi đây hơn hai mươi năm trước đã xôn xao một thời quỷ dữ về nhà thờ.
Không ngờ hai mươi năm sau tôi đến đây nhìn lại dấu chứng. Cuộc sống thật đẹp vì luôn luôn có những bất ngờ. Nhìn tuổi tác cha tôi lại nghĩ, cuộc đời đẹp nhưng quá ngắn. Tuổi già rồi từ giã cuộc đời. Ai cũng thế. Nghĩ tới đó hình ảnh nấm mộ ngoài nghĩa trang lại hiện về. Mộ hoang nghĩa địa là chỗ quỷ hay lui tới. Mồ mả tô vôi đẹp bên ngoài và xương người chết bên trong. Những hình ảnh ấy hiện lên như một phản xạ tự nhiên. Tôi thấy bâng khuâng một thoáng buồn. Tôi cũng nghĩ ngay đến các bí tích. Bí tích ban cho người sống, bí tích ban cho người chết.
Lạy Chúa, con cần những bí tích này cho cuộc sống của con trên đường về với Chúa. Và như một linh mục, xin cho con cử hành các bí tích với hết cả tâm hồn. Trên trán cha quản nhiệm lấm tấm một chút mồ hôi. Trưa bắt đầu tỏa nóng. Trong nhà thờ vẫn rộng mênh mông yên tĩnh chỉ có hai người. Ngài nói với tôi:
- Có điều này rất lạ. Một hôm con nhân danh Chúa trừ nó.
Cha già nói tới đó tôi ngắt lời cha:
- Thưa cha mấy tháng trời từ lúc cô Kim Chi đem cô Hồng về nhà thờ, cha trừ nó nhiều lần hay sao?
- Nhiều chứ, nó cứ ra được vài ba bữa rồi lại nhập vào. Như con đã nói với cha, ban đầu nó còn sợ nước phép, sợ thánh giá, sợ dây Stola. Sau cùng nó không sợ gì cả. Con rất lo. Rồi một hôm con trừ nó...
Có tiếng kẽo kẹt mở cửa phía cuối nhà thờ. Có lẽ mấy bà tốt lành đi đọc kinh trưa. Tôi nhìn cha già trong chiếc áo dòng mầu đen. Nét mặt cha như đang sống lại câu chuyện của hai mươi lăm năm về trước.
Cha nói tiếp câu chuyện dở dang:
- Một hôm con nhân danh Chúa trừ nó, nó không ra. Con lại nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi truyền cho nó ra, nó cũng không ra. Lúc ấy không biết làm thế nào. Con nhân danh Đức Mẹ truyền thì nó ra.
Nói tới đó cha già nhìn tôi, trên vầng trán nhăn lại đăm chiêu. Tôi hỏi ngài:
- Thưa cha, cha còn nhớ hôm ấy cha nói như thế nào?
- Con nói: Nhân danh Đức Mẹ là Đấng vô nhiễm nguyên tội, là Mẹ Thiên Chúa ta truyền cho mày phải ra. Nói thế xong nó quật cô ta xuống rồi ra khỏi cha ạ.
Nhà thờ hun hút sâu xuống phía cuối. Chỗ chúng tôi đang đứng là bậc thềm ngay bàn thờ Đức Mẹ. Cha già chỉ cho tôi rồi nói:
- Đó, ngay chỗ đó hôm ấy xảy ra ngay chổ này.
Tôi hỏi cha:
- Thưa cha ngày xưa cha là giáo sư chủng viện. Xét về thần học thì không có lý nào nhân danh Chúa mà không truyền nó ra được, mà nhân danh Đức Mẹ lại được. Về tín lý thần học thì Mẹ Maria không quyền năng hơn Chúa. Vậy cha nghĩ sao?
- Thú thật với cha con cũng không biết cắt nghĩa làm sao. Nhưng đó là sự thật. Xảy ra ở ngay chỗ này.
Nghe cha già nói xong, tôi nhớ đến câu chuyện một thanh niên ở trại tỵ nạn ngày xưa xin vào đạo, vì nhìn thấy con rắn bên hang đá Đức Mẹ. Tôi liên tưởng đến hình ảnh Đức Mẹ đạp đầu con rắn và câu kinh Thánh trong sách Sáng Thế Ký, nói về mối thù giữa miêu duệ người nữ và Satan. Tôi nói với cha già:
- Thưa cha có thể Thiên Chúa để xảy ra như thế cho ta lòng sùng kính Đức Mẹ. Vì cha nói nhân danh Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, là Mẹ Thiên Chúa mà truyền cho nó phải ra. Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, Mẹ đạp đầu nó. Nó không có quyền năng gì trên Mẹ. Nó thấy tủi nhục. Mẹ chiến thắng nó ngay từ khi Mẹ thụ thai. Cha nghĩ sao?
- Rất có thể như thế cha ạ. Chứ con không còn biết cắt nghĩa ra sao. Rõ ràng khi nhân danh Đức Mẹ con truyền thì nó ra ngay.
Câu chuyện trên cha già nói với tôi ban sáng, đến chiều tôi phỏng vấn chị Hồng. Trong lúc kể lại những gì chị nhớ. Chị nói:
- Đêm hôm trước con thấy một người đàn bà bảo con là, ngày mai có người dẫn con đến nhà thờ. Đúng hôm sau thì chị Kim Chi gặp con rồi dẫn con về nhà thờ. Con nghĩ rằng đấy là Đức Mẹ báo cho con biết.
Trong cuộc phỏng vấn tôi không nói gì đến Đức Mẹ. Bổng dưng cô ta đề cập đến câu chuyện hai mươi lăm năm về trước. Tôi tìm hỏi chị Kim Chi xem ngày chị dẫn cô Hồng về nhà thờ là hôm nào. Chị Chi cho biết đó là ngày 13 tháng 10. Tôi giật mình, vì 13 tháng 10 là ngày Đức Mẹ hiện ra ở Fatima...
LM.Nguyễn Tầm Thường
#55
Gửi vào 16/06/2011 - 17:24
NGẢI HỜI
Hơn một tháng nay mành Thường cứ đi không về không. Lưới khô, trong khi ấy thì các mành trong xóm ai nấy đều khẳm.
Mành Si thì trúng cá cơm "Nậu" đong cá mỏi tay phải kể hằng ngàn "kiệu". Bán ra chợ không hết phải kêu "nhà thùng" Xã Thanh bán " trụm" để muối mắm.
Mành Bông, mành Diệu thì cũng trúng cá nục. Rổi gánh cá chạy sạt đùi lên các chợ Đầm Xóm Mới, Phường Củi, Mã Vồng bán không kịp đếm tiền.
Rổi nhà quê xuống chở cá về đầy ứ các xe, ngựa phải quất mấy roi, người xà ích phải nhẩy xuống đẩy phụ xe mới lăn bánh được.
Mành Giỏi trúng cá sơn lút be. Cá sơn đỏ tươi roi rói nấu canh chua bạc hà lá me non, kho khô keo ăn cháo ai cũng thèm. Rổi bán chạy còn hơn tôm tươi.
Cả chợ đỏ au màu cá sơn. Ai ai cũng chen mua sớm một mớ cho tươi thấy bắt ham. Chiều lại, lái phụ, bạn nghề, qua lồ tụ lại trước sân nhà "nậu" chờ chia tiền, cười nói ồn ào vui vẻ.
Đối diện với nhà Bác Hai Si, là nhà Sáu Thường. Mành Si náo nhiệt bấy nhiêu thì mành Thường tiêu điều buồn bã bấy nhiêu. Cả tháng hơn chục con người đi, mành Thường không có gạo nấu cho vợ con. Thậm chí ra khơi kéo lưới cả buổi cũng không đủ cá cho một nồi canh để bạn ăn. Đành ăn dặm muối ớt. Chưa lần nào đi biển mà phải ăn cơm với muối thê thảm như vậy.
Sáu Thường buồn lắm hận lắm. Ngày nào cũng phải chứng kiến cảnh mấy mành kia về bến, ghe nào cũng khẳm mà mành mình thì nhẹ tênh. Tại làm sao vậy?
Tại "lái phụ" mình dở không đón được con nước? Hay tại mấy thằng bạn nghề bơi đi coi cá không rành? Sáu Thường nghĩ lung lắm. Câu hỏi nào vừa đặt ra đều bị gạt đi hết. Bởi đổ thừa cho "lái phụ" hay bạn nghề thì oan cho họ.
Vì mành Si, mành Diệu cũng giăng lưới cách đó chừng năm trăm thước sao lại trúng? Mà ngày nào cũng trúng, còn chà mình cũng thả gần chà mành Giỏi, sao chà mành Giỏi cá bu đen cả nước, mà chà mình thì trống trơn.
Suy đi nghĩ lại Sáu Thường loé lên trong đầu một nghi ngờ ghê gớm. Tối đó Sáu Thường thầm thì với vợ :
- Mành mình bị người ta mướn Thầy Hời ếm ngải rồi, chắc chắn không chạy đàng trời.
- Sao ông dám chắc, vợ Sáu Thường dớn dác hỏi lại.
- Để tui thử thì biết liền hà.
Tối hôm đó Sáu Thường huy động người trong mành đi xuống ghe ngủ sớm để lấy sức. Mới ba giờ khuya Sáu Thường đánh thức mọi người dậy, nhẹ nhàng chèo ghe ra cửa biển. Thường lệ thì sao mai sắp mọc thuyền mới ra khơi.
Thuyền ra đến cửa gặp gió đất liền thổi ra pheo pheo, lái phụ cho dong hết buồm chính buồm phụ.
Thuyền lướt vun vút trên mặt biển phẳng như tờ không một gợn sóng. Chưa tới năm giờ trời còn đầy sao thuyền đã tới nơi thả chà.
Hai bạn nghề ôm hai ống tre bơi quanh chà coi cá. Chà im ru không một tiếng cá reo. Ban đêm biển đen như mực. Chỉ thấy ánh lân tinh dưới nước lấp loáng to hay nhỏ, nghe tiếng cá reo lách tách ồn ả bên dưới, có thể đoán được số lượng đàn cá nhiều ít bao nhiêu.
Hai người bạn nghề bơi quanh một vòng chà rồi trở lại ghe. Cả hai còn nằm dưới nước đều giơ cánh tay lên, năm ngón tay quay qua quay lại ra dấu không có cá. Sáu Thường ra hiệu hai người lên ghe. Ghe trực chỉ tới chà mành Giỏi. Sáu Thường quyết định đánh trộm chà mành Giỏi.
Làm nghề biển đánh trộm chà của người khác là điều tối kỵ. Chà thả cá, mành nào cũng đều làm giống nhau. Cũng lá dừa nước, cũng dây rừng, thêm dây mây, đá dằn... Kích thước có thể to nhỏ nhích hơn nhau đôi chút.
Nhưng khi thả giữa biển mênh mông thì làm sao có thể phân biệt được cái nào là của ai? Để tránh lầm lẫn, mỗi chà đều có dấu hiệu riêng của mình để nhận dạng.
Mành Si thì có lá cờ đuôi nheo nhỏ màu trắng phất phơ ở trên. Mành Thường thì cờ màu đỏ. Mành Bông thì cờ màu vàng... Nhưng khi chà bị mành khác đánh trộm thì làm sao mà biết được? Dĩ nhiên mỗi chà đều có ám hiệu riêng của mình. Đó là điều bí mật chỉ có "lái phụ" biết mà thôi.
Sáu Thường quyết định đánh trộm chà của mành Giỏi mục đích không phải để trộm cá, mà là để thử bài toán cuối cùng cho sự nghi ngờ của mình có đúng một trăm phần trăm không.
Ráng trời vừa ưng ửng thì ghe cách chà mành Giỏi chừng trăm thước. Sáu Thường cho ghe dừng lại hạ lệnh hai người đi dò cá. Cá đứng hóng bóng chà đen đặc.
Một mặt Sáu Thường ra lệnh "nhổ đỏi" chà, một mặt hối bạn vừa chèo ghe, vừa giăng lưới bao chà. Tất cả mọi người đều ra tay nhanh nhẹn gọn gàng. Mọi người trên ghe đều biết đi ăn trộm, phải đánh nhanh rút lẹ để phi tang.
Chà vừa di chuyển ra khỏi vòng lưới bao là Sáu Thường hô to:
- Nhổ.
Mười bạn nghề lực lưỡng ra sức tóm lưới nhổ đảy. Đảy được kéo lên ghe nhẹ tênh. Đổ ra khoang cá lớn, cá bé chưa đầy một kiệu.
Ai nấy đều ngạc nhiên ngơ ngác nhìn nhau. Rõ ràng hồi nãy đang lúc kéo lưới ai cũng trông rõ cá chạy đặc lềnh nước mà. Sao bây giờ lại lưới không. Vậy cá chạy đi đâu? Làm thế nào mà chúng có thể biến mất một cách lạ lùng như vậy? Đúng là mành bị bùa Hời ếm rồi.
Sáu Thường đổ người thụp xuống sàn ghe thở hắt ra. Bài toán thử đã chứng nghiệm sự hoài nghi cả tháng nay là đúng. Nhưng ai là kẻ mướn Hời ếm ghe mình? Hình ảnh những kẻ tình nghi chạy lướt qua đầu Sáu Thường.
Ai cũng có thể là kẻ đáng ngờ cả. Nhưng phải tìm cho ra chính kẻ này mới là điều khó. Hồi lâu Sáu Thường mới chán nản bảo người đem chà cột lại y như cũ. Rồi quay ghe về bến. Ghe chạy chừng nửa cây số thì gặp mành Giỏi đang phăng phăng chạy ngược ra.
- Thế nào cũng có phong ba bão táp nổi lên rồi đây.
Sáu Thường lẩm bẩm một mình.
Ngày hôm sau mọi người trên bến cá chứng kiến cảnh nhà Sáu Thường và nhà Ba Giỏi, bốn người đàn bà thi nhau chửi bới nguyền rủa bâng quơ, không chỉ đích danh ai nhưng ai cũng biết là họ đang nguyền rủa lẫn nhau.
Chị Thường mẹ và con Thường con, mỗi người cầm một cái rổ cảo, trong đựng đầy mảnh chai bể, vừa xóc, vừa sàng, vừa kêu tên hết thảy các vị thần linh dưới nước từ Hà Bá, Long Vương, Ngũ Vị Chàng Năm cho chí cá xà, cá mập, cá Đao hầu Ông, cá ép hộ vệ Ông hiển hiện lên, mà bẻ họng, bóp hầu quân nào đã ác tâm mướn Thầy Hời ếm ghe mình.
Phía bên kia mẹ con bà Ba Giỏi, mỗi người cầm một con dao bầu chặt cá và một tấm thớt, tay bằm dao vào thớt, miệng cũng rủa nộp quân nào, thứ nào đã đánh chà trộm của tao sáng hôm qua, cho ghe nó chìm, cho cá xà, cá mập đản nó làm ba làm bảy khúc.
Giữa tiếng ồn ào náo nhiệt bán mua trên bến cá, kẻ lên người xuống bến kẻ gánh người bưng, hối hả vội vàng bươn bươn ra chợ, tiếng con nít ơi ới gọi nhau ăn hàng quà vặt trên mấy chục gánh hàng quà ngồi dàn hàng ngang dọc theo bến, vẫn không át nổi tiếng oang oang chửi bới nguyền rủa cuả hai nhà Sáu Thường và Ba Giỏi.
Họ đứng đó cùng nhau hợp ca bài "tẩu mã" hàng giờ mà không thấy khản giọng hụt hơi. Càng ca càng khoẻ người tuy hai bè không ăn ý với nhau và không cùng chung một điệu. Cuộc chiến kéo dài suốt một tuần bất phân thắng bại. Chỉ có người chung quanh là bị thiệt thòi.
Họ bị nghe cả hai bên chửi. Ban đầu cũng thấy gây cấn vui vui. Cũng ngóng cổ lên nghe. Cũng chu mỏ ra phê phán xì bên này xịt bên kia.
- Không có lửa sao có khói.
- Không bắt được tay vây được cánh mà rủa nộp người ta thì cũng mang tội...
Đến ngày thứ ba thì hầu hết mọi người không chú ý nữa. Họ lo chuyện mua bán cho xong rồi về nhà. Hai đạo quân chửi nhau đến khi nắng lên cao, mồ hôi mồ kê đổ ra đầy mặt, nhìn quanh không thấy thính giả và cổ động viên, hoan hô đả đảo theo mình như mọi bữa nữa cũng đâm ra chán, cũng rút lui về nhà nghỉ ngơi chờ hôm sau tái chiến.
Trong khi ấy Sáu Thường lẳng lặng tuốt vô Phan Rí cửa, hỏi thăm kiếm cho được một Thầy Hời cao tay ấn, rước về bằng mọi giá để xở bùa cho ghe mình.
Ba hôm sau người ta thấy Sáu Thường về với một ông Thầy Hời. Ăn ở nhà Sáu Thường ba ngày mỗi ngày ba lần, Thầy Hời xuống mành của Sáu Thường làm phép trấn bùa thiêng, đuổi con ma đã ám ghe đi chỗ khác.
Trong lúc Thầy Hời "cúng giàn" trên ghe Sáu Thường thì các ghe khác dạt ra xa, không dám đậu gần và cắt người canh giử. Kẻo không Thầy Hời sẽ ném bùa hay đẩy con ma qua ghe mình để trả thù cho Sáu Thường thì cũng chết.
Không biết Thầy cao đạo hay đến hồi vận may trở lại, mành Sáu Thường sau đó cũng trúng liên tiếp như các mành khác. Vợ con Sáu Thường hễ hả ra mặt. Bạn mành, qua lồ ghe Sáu Thường cũng vui mừng hớn hở, đã có rủng rỉnh tiền cho vợ con gia đình tiêu xài như mọi nhà.
Tiếng Thầy Hời ếm bùa rồi xở bùa linh nghiệm đồn râm ran khắp nơi. Từ đó trong làng ai ai cũng e dè tiếp xúc với người Chàm, bất kể người đó đi bán đồ gốm hay bán thuốc Nam.
Dưới mắt dân xóm tôi người Hời ai cũng có thể là Thầy Mo có phép ếm chết người được. Những người Chàm khi đi xuống xóm tôi mua bán, mỗi khi đến ghe nào mua cá thì chưa kịp nói hết câu, "lái phụ" đã lật đật sai bạn mành đưa biếu họ vài con để lấy lòng, và mong họ đi mau mau cho rồi, tránh khỏi vướng vào cái "đồ hung của dử".
Vô tình người Chàm mang tiếng là ác nhơn thất đức. Oan thay cho họ. Ai sẽ là người giải oan cho họ đây? Và câu hỏi tôi cứ thắc mắc hơn nửa thế kỷ nay vẫn chưa có lời giải đáp:
- Quả thật có chuyện bùa ngải ếm ghe, thư người không?
Chỉ biết chắc một điều: tháng tư năm bảy lăm, một đạo bùa viết bằng chữ quốc ngữ trên giấy trắng, phía dưới có đóng con dấu đỏ đã thổi bay cả người lẫn ghe mành, ghe câu, thuyền chài. Và cả cái xóm nhỏ của tôi đã tồn tại hơn trăm năm, nay cũng bị mất hút trong bản đồ thành phố. Chỉ còn vẳng lại tiếng khóc áo não, thê lương phảng phất đâu đây.
Nguyễn Thanh Ty
Hơn một tháng nay mành Thường cứ đi không về không. Lưới khô, trong khi ấy thì các mành trong xóm ai nấy đều khẳm.
Mành Si thì trúng cá cơm "Nậu" đong cá mỏi tay phải kể hằng ngàn "kiệu". Bán ra chợ không hết phải kêu "nhà thùng" Xã Thanh bán " trụm" để muối mắm.
Mành Bông, mành Diệu thì cũng trúng cá nục. Rổi gánh cá chạy sạt đùi lên các chợ Đầm Xóm Mới, Phường Củi, Mã Vồng bán không kịp đếm tiền.
Rổi nhà quê xuống chở cá về đầy ứ các xe, ngựa phải quất mấy roi, người xà ích phải nhẩy xuống đẩy phụ xe mới lăn bánh được.
Mành Giỏi trúng cá sơn lút be. Cá sơn đỏ tươi roi rói nấu canh chua bạc hà lá me non, kho khô keo ăn cháo ai cũng thèm. Rổi bán chạy còn hơn tôm tươi.
Cả chợ đỏ au màu cá sơn. Ai ai cũng chen mua sớm một mớ cho tươi thấy bắt ham. Chiều lại, lái phụ, bạn nghề, qua lồ tụ lại trước sân nhà "nậu" chờ chia tiền, cười nói ồn ào vui vẻ.
Đối diện với nhà Bác Hai Si, là nhà Sáu Thường. Mành Si náo nhiệt bấy nhiêu thì mành Thường tiêu điều buồn bã bấy nhiêu. Cả tháng hơn chục con người đi, mành Thường không có gạo nấu cho vợ con. Thậm chí ra khơi kéo lưới cả buổi cũng không đủ cá cho một nồi canh để bạn ăn. Đành ăn dặm muối ớt. Chưa lần nào đi biển mà phải ăn cơm với muối thê thảm như vậy.
Sáu Thường buồn lắm hận lắm. Ngày nào cũng phải chứng kiến cảnh mấy mành kia về bến, ghe nào cũng khẳm mà mành mình thì nhẹ tênh. Tại làm sao vậy?
Tại "lái phụ" mình dở không đón được con nước? Hay tại mấy thằng bạn nghề bơi đi coi cá không rành? Sáu Thường nghĩ lung lắm. Câu hỏi nào vừa đặt ra đều bị gạt đi hết. Bởi đổ thừa cho "lái phụ" hay bạn nghề thì oan cho họ.
Vì mành Si, mành Diệu cũng giăng lưới cách đó chừng năm trăm thước sao lại trúng? Mà ngày nào cũng trúng, còn chà mình cũng thả gần chà mành Giỏi, sao chà mành Giỏi cá bu đen cả nước, mà chà mình thì trống trơn.
Suy đi nghĩ lại Sáu Thường loé lên trong đầu một nghi ngờ ghê gớm. Tối đó Sáu Thường thầm thì với vợ :
- Mành mình bị người ta mướn Thầy Hời ếm ngải rồi, chắc chắn không chạy đàng trời.
- Sao ông dám chắc, vợ Sáu Thường dớn dác hỏi lại.
- Để tui thử thì biết liền hà.
Tối hôm đó Sáu Thường huy động người trong mành đi xuống ghe ngủ sớm để lấy sức. Mới ba giờ khuya Sáu Thường đánh thức mọi người dậy, nhẹ nhàng chèo ghe ra cửa biển. Thường lệ thì sao mai sắp mọc thuyền mới ra khơi.
Thuyền ra đến cửa gặp gió đất liền thổi ra pheo pheo, lái phụ cho dong hết buồm chính buồm phụ.
Thuyền lướt vun vút trên mặt biển phẳng như tờ không một gợn sóng. Chưa tới năm giờ trời còn đầy sao thuyền đã tới nơi thả chà.
Hai bạn nghề ôm hai ống tre bơi quanh chà coi cá. Chà im ru không một tiếng cá reo. Ban đêm biển đen như mực. Chỉ thấy ánh lân tinh dưới nước lấp loáng to hay nhỏ, nghe tiếng cá reo lách tách ồn ả bên dưới, có thể đoán được số lượng đàn cá nhiều ít bao nhiêu.
Hai người bạn nghề bơi quanh một vòng chà rồi trở lại ghe. Cả hai còn nằm dưới nước đều giơ cánh tay lên, năm ngón tay quay qua quay lại ra dấu không có cá. Sáu Thường ra hiệu hai người lên ghe. Ghe trực chỉ tới chà mành Giỏi. Sáu Thường quyết định đánh trộm chà mành Giỏi.
Làm nghề biển đánh trộm chà của người khác là điều tối kỵ. Chà thả cá, mành nào cũng đều làm giống nhau. Cũng lá dừa nước, cũng dây rừng, thêm dây mây, đá dằn... Kích thước có thể to nhỏ nhích hơn nhau đôi chút.
Nhưng khi thả giữa biển mênh mông thì làm sao có thể phân biệt được cái nào là của ai? Để tránh lầm lẫn, mỗi chà đều có dấu hiệu riêng của mình để nhận dạng.
Mành Si thì có lá cờ đuôi nheo nhỏ màu trắng phất phơ ở trên. Mành Thường thì cờ màu đỏ. Mành Bông thì cờ màu vàng... Nhưng khi chà bị mành khác đánh trộm thì làm sao mà biết được? Dĩ nhiên mỗi chà đều có ám hiệu riêng của mình. Đó là điều bí mật chỉ có "lái phụ" biết mà thôi.
Sáu Thường quyết định đánh trộm chà của mành Giỏi mục đích không phải để trộm cá, mà là để thử bài toán cuối cùng cho sự nghi ngờ của mình có đúng một trăm phần trăm không.
Ráng trời vừa ưng ửng thì ghe cách chà mành Giỏi chừng trăm thước. Sáu Thường cho ghe dừng lại hạ lệnh hai người đi dò cá. Cá đứng hóng bóng chà đen đặc.
Một mặt Sáu Thường ra lệnh "nhổ đỏi" chà, một mặt hối bạn vừa chèo ghe, vừa giăng lưới bao chà. Tất cả mọi người đều ra tay nhanh nhẹn gọn gàng. Mọi người trên ghe đều biết đi ăn trộm, phải đánh nhanh rút lẹ để phi tang.
Chà vừa di chuyển ra khỏi vòng lưới bao là Sáu Thường hô to:
- Nhổ.
Mười bạn nghề lực lưỡng ra sức tóm lưới nhổ đảy. Đảy được kéo lên ghe nhẹ tênh. Đổ ra khoang cá lớn, cá bé chưa đầy một kiệu.
Ai nấy đều ngạc nhiên ngơ ngác nhìn nhau. Rõ ràng hồi nãy đang lúc kéo lưới ai cũng trông rõ cá chạy đặc lềnh nước mà. Sao bây giờ lại lưới không. Vậy cá chạy đi đâu? Làm thế nào mà chúng có thể biến mất một cách lạ lùng như vậy? Đúng là mành bị bùa Hời ếm rồi.
Sáu Thường đổ người thụp xuống sàn ghe thở hắt ra. Bài toán thử đã chứng nghiệm sự hoài nghi cả tháng nay là đúng. Nhưng ai là kẻ mướn Hời ếm ghe mình? Hình ảnh những kẻ tình nghi chạy lướt qua đầu Sáu Thường.
Ai cũng có thể là kẻ đáng ngờ cả. Nhưng phải tìm cho ra chính kẻ này mới là điều khó. Hồi lâu Sáu Thường mới chán nản bảo người đem chà cột lại y như cũ. Rồi quay ghe về bến. Ghe chạy chừng nửa cây số thì gặp mành Giỏi đang phăng phăng chạy ngược ra.
- Thế nào cũng có phong ba bão táp nổi lên rồi đây.
Sáu Thường lẩm bẩm một mình.
Ngày hôm sau mọi người trên bến cá chứng kiến cảnh nhà Sáu Thường và nhà Ba Giỏi, bốn người đàn bà thi nhau chửi bới nguyền rủa bâng quơ, không chỉ đích danh ai nhưng ai cũng biết là họ đang nguyền rủa lẫn nhau.
Chị Thường mẹ và con Thường con, mỗi người cầm một cái rổ cảo, trong đựng đầy mảnh chai bể, vừa xóc, vừa sàng, vừa kêu tên hết thảy các vị thần linh dưới nước từ Hà Bá, Long Vương, Ngũ Vị Chàng Năm cho chí cá xà, cá mập, cá Đao hầu Ông, cá ép hộ vệ Ông hiển hiện lên, mà bẻ họng, bóp hầu quân nào đã ác tâm mướn Thầy Hời ếm ghe mình.
Phía bên kia mẹ con bà Ba Giỏi, mỗi người cầm một con dao bầu chặt cá và một tấm thớt, tay bằm dao vào thớt, miệng cũng rủa nộp quân nào, thứ nào đã đánh chà trộm của tao sáng hôm qua, cho ghe nó chìm, cho cá xà, cá mập đản nó làm ba làm bảy khúc.
Giữa tiếng ồn ào náo nhiệt bán mua trên bến cá, kẻ lên người xuống bến kẻ gánh người bưng, hối hả vội vàng bươn bươn ra chợ, tiếng con nít ơi ới gọi nhau ăn hàng quà vặt trên mấy chục gánh hàng quà ngồi dàn hàng ngang dọc theo bến, vẫn không át nổi tiếng oang oang chửi bới nguyền rủa cuả hai nhà Sáu Thường và Ba Giỏi.
Họ đứng đó cùng nhau hợp ca bài "tẩu mã" hàng giờ mà không thấy khản giọng hụt hơi. Càng ca càng khoẻ người tuy hai bè không ăn ý với nhau và không cùng chung một điệu. Cuộc chiến kéo dài suốt một tuần bất phân thắng bại. Chỉ có người chung quanh là bị thiệt thòi.
Họ bị nghe cả hai bên chửi. Ban đầu cũng thấy gây cấn vui vui. Cũng ngóng cổ lên nghe. Cũng chu mỏ ra phê phán xì bên này xịt bên kia.
- Không có lửa sao có khói.
- Không bắt được tay vây được cánh mà rủa nộp người ta thì cũng mang tội...
Đến ngày thứ ba thì hầu hết mọi người không chú ý nữa. Họ lo chuyện mua bán cho xong rồi về nhà. Hai đạo quân chửi nhau đến khi nắng lên cao, mồ hôi mồ kê đổ ra đầy mặt, nhìn quanh không thấy thính giả và cổ động viên, hoan hô đả đảo theo mình như mọi bữa nữa cũng đâm ra chán, cũng rút lui về nhà nghỉ ngơi chờ hôm sau tái chiến.
Trong khi ấy Sáu Thường lẳng lặng tuốt vô Phan Rí cửa, hỏi thăm kiếm cho được một Thầy Hời cao tay ấn, rước về bằng mọi giá để xở bùa cho ghe mình.
Ba hôm sau người ta thấy Sáu Thường về với một ông Thầy Hời. Ăn ở nhà Sáu Thường ba ngày mỗi ngày ba lần, Thầy Hời xuống mành của Sáu Thường làm phép trấn bùa thiêng, đuổi con ma đã ám ghe đi chỗ khác.
Trong lúc Thầy Hời "cúng giàn" trên ghe Sáu Thường thì các ghe khác dạt ra xa, không dám đậu gần và cắt người canh giử. Kẻo không Thầy Hời sẽ ném bùa hay đẩy con ma qua ghe mình để trả thù cho Sáu Thường thì cũng chết.
Không biết Thầy cao đạo hay đến hồi vận may trở lại, mành Sáu Thường sau đó cũng trúng liên tiếp như các mành khác. Vợ con Sáu Thường hễ hả ra mặt. Bạn mành, qua lồ ghe Sáu Thường cũng vui mừng hớn hở, đã có rủng rỉnh tiền cho vợ con gia đình tiêu xài như mọi nhà.
Tiếng Thầy Hời ếm bùa rồi xở bùa linh nghiệm đồn râm ran khắp nơi. Từ đó trong làng ai ai cũng e dè tiếp xúc với người Chàm, bất kể người đó đi bán đồ gốm hay bán thuốc Nam.
Dưới mắt dân xóm tôi người Hời ai cũng có thể là Thầy Mo có phép ếm chết người được. Những người Chàm khi đi xuống xóm tôi mua bán, mỗi khi đến ghe nào mua cá thì chưa kịp nói hết câu, "lái phụ" đã lật đật sai bạn mành đưa biếu họ vài con để lấy lòng, và mong họ đi mau mau cho rồi, tránh khỏi vướng vào cái "đồ hung của dử".
Vô tình người Chàm mang tiếng là ác nhơn thất đức. Oan thay cho họ. Ai sẽ là người giải oan cho họ đây? Và câu hỏi tôi cứ thắc mắc hơn nửa thế kỷ nay vẫn chưa có lời giải đáp:
- Quả thật có chuyện bùa ngải ếm ghe, thư người không?
Chỉ biết chắc một điều: tháng tư năm bảy lăm, một đạo bùa viết bằng chữ quốc ngữ trên giấy trắng, phía dưới có đóng con dấu đỏ đã thổi bay cả người lẫn ghe mành, ghe câu, thuyền chài. Và cả cái xóm nhỏ của tôi đã tồn tại hơn trăm năm, nay cũng bị mất hút trong bản đồ thành phố. Chỉ còn vẳng lại tiếng khóc áo não, thê lương phảng phất đâu đây.
Nguyễn Thanh Ty
#56
Gửi vào 16/06/2011 - 17:28
CĂN PHÒNG LÚC NÀO CŨNG KHÓA
Tôi có người cậu lúc trước làm trong ban bảo quản nhà thương được vài năm, trước khi sự việc xảy ra. Một câu chuyện đáng ghi nhớ nhất vào thời thơ ấu của tôi, khi cậu tôi kể về sự kinh hoàng mà ông ấy gặp phải vào một đêm, để rồi sau đó ông xin nghỉ việc luôn.
Tôi nhớ câu chuyện này rất kỹ vì đó là dịp hiếm có, chúng tôi đã năn nỉ ông ấy kể, lúc kể ông có vẻ như đang đi vào một trạng thái xuất thần. Giọng của ông trở nên đều đều và ông cố gắng tránh bất cứ sự xúc động nào.
Khi mới làm việc tại bệnh viện ông để ý có một căn phòng đặc biệt, trong khu bệnh thần kinh mà không bao giờ dùng đến, vã lại cửa phòng luôn luôn khóa chặt.
Lúc nào ông hỏi thì người Giám Ðốc hoặc là những người làm chung đều nói rằng "đừng thắc mắc" và họ nhanh chóng đổi sang chuyện khác. Ðôi khi họ còn giả bộ không nghe ông hỏi và lờ đi.
Vào một đêm khuya ông thay bóng đèn điện trên trần nhà, ở hành lang cách căn phòng này không xa. Gắn bóng đèn mới xong ông vừa leo xuống thang, thì bóng đèn mới thay bỗng chớp chớp mấy cái rồi tắt. Ngay lúc này ông để ý thấy nhiệt độ bỗng nhiên xuống thấp, và một mùi kỳ lạ từ đâu tỏa ra khắp cả hành lang, như một làn khói vô hình.
Ông phải đi ngang qua cái phòng đó về khu vực chính của bệnh viện, để lấy một bóng đèn khác, khi gần đến cửa phòng lúc nào cũng khóa, mùi hôi bắt đầu nồng nặc, rồi ông nghe những tiếng lạ lùng quái gỡ phát ra từ chung quanh cánh cửa đó.
Lúc đầu thì có tiếng giống như ai đang hát, nhưng rồi nó trầm xuống với một giọng lầm bầm lạ lùng. Những tiếng kế tiếp ông nghe, được mang một nỗi xúc động sầu thương: có lúc như là giận dữ có lúc thì sợ sệt. Mặc dù không nhận ra được gì, nhưng nó nghe như tiếng bà nội đã qua đời của ông vậy.
- Mike.
Tiếng thân yêu quen thuộc khóc lớn.
- Cứu bà Mike, chỉ có con mới cứu được bà. Bà ở đây nè nhanh lên Mike. Hãy nhanh lên.
Lúc đó cả người đều lạnh ngắt ông thấy thật bối rối, chuyện này làm sao mà xảy ra được? Bà nội đã chết hơn hai mươi năm rồi mà. Lúc đó người cậu lớn tuổi của tôi tự nhiên sụt sùi khóc như một đứa trẻ thơ.
Ðằng sau giọng nói cầu cứu của bà nội, ông còn nghe được một tiếng kỳ quặc giống như tiếng cười giễu cợt từ một âm thanh... không thuộc thế giới này.
Như là có lực lượng nào thúc đẩy ông đi đến định mở cửa phòng, nhưng khi vừa cầm cái nắm cửa, ông ngửi thấy mùi cháy khét rất khó chịu nơi bàn tay của ông, và nó đã để lại một vết thẹo lưỡi liềm mà ông phải mang theo cả cuộc đời, như là một sự nhắc nhở đau lòng.
Sau đó cái nắm cửa bắt đầu tự động vặn tới vặn lui, rồi đến cả cánh cửa đều rung rinh thật mạnh, tiếp theo là tiếng đập và đá trên cánh cửa rất dữ dội như có ai, hay cái gì đó bên kia cửa đang cố gắng phá tung cửa để đi ra.
Dưới sự việc như vậy ông biết rằng mình phải rời khỏi chỗ này ngay lập tức, nên ông chạy nhanh như bay xuống hành lang không thèm quay đầu lại, ở sau lưng tiếng cười kỳ quặc càng ngày càng vang lớn hơn. Ông chạy ra khỏi đến được bàn làm việc của nhân viên y tá thì ngã quỵ xuống đất ngất xỉu.
Khi tỉnh dậy mọi người đứng xung quanh đều ngạc nhiên không hiểu chuyện gì đã xảy ra cho ông, người y tá đến săn sóc vết phỏng, ông đã kể lại những gì ông mới vừa chứng kiến.
Không ai dám đi một mình đến hành lang đó để dò xét, nên người Giám Ðốc đã phái hai người làm việc đến đó để xem tình hình ra sao. Khi trở lại một trong hai người được phái đi không nói gì hết, anh ta chỉ đi thẳng đến nơi máng áo, chụp lấy chiếc áo khoác và lặng thinh đi thẳng ra cửa.
Còn người thứ hai nói rằng không có chuyện gì lạ xảy ra hết, chiếc thang vẫn còn để ở hành lang như cậu tôi đã để, và bóng đèn thì vẫn cháy sáng như thường.
Vài hôm sau người được phái đi xem xét để rồi phải nghỉ việc luôn, gọi điện thoại cho cậu tôi và nói với cậu tôi rằng, ông ta cũng có một kinh nghiệm giống như vậy, nhưng chỉ khác rằng tiếng của người nói bên kia cửa là tiếng của người anh của ông đã chết từ lâu.
Và ông cũng nghe được những nỗi xúc động ào ạt không sao diễn tả được từ bên kia cánh cửa. Sau khi nghe xong cậu của tôi quyết định xin nghỉ việc luôn.
Khi đến gặp người Giám Ðốc để đưa đơn thôi việc, thì cậu mới biết là mình đã bị đuổi ngay đêm hôm đó, và ông còn bị cảnh cáo rằng không được nói chuyện này với bất cứ một ai.
Truyện Ma
Tôi có người cậu lúc trước làm trong ban bảo quản nhà thương được vài năm, trước khi sự việc xảy ra. Một câu chuyện đáng ghi nhớ nhất vào thời thơ ấu của tôi, khi cậu tôi kể về sự kinh hoàng mà ông ấy gặp phải vào một đêm, để rồi sau đó ông xin nghỉ việc luôn.
Tôi nhớ câu chuyện này rất kỹ vì đó là dịp hiếm có, chúng tôi đã năn nỉ ông ấy kể, lúc kể ông có vẻ như đang đi vào một trạng thái xuất thần. Giọng của ông trở nên đều đều và ông cố gắng tránh bất cứ sự xúc động nào.
Khi mới làm việc tại bệnh viện ông để ý có một căn phòng đặc biệt, trong khu bệnh thần kinh mà không bao giờ dùng đến, vã lại cửa phòng luôn luôn khóa chặt.
Lúc nào ông hỏi thì người Giám Ðốc hoặc là những người làm chung đều nói rằng "đừng thắc mắc" và họ nhanh chóng đổi sang chuyện khác. Ðôi khi họ còn giả bộ không nghe ông hỏi và lờ đi.
Vào một đêm khuya ông thay bóng đèn điện trên trần nhà, ở hành lang cách căn phòng này không xa. Gắn bóng đèn mới xong ông vừa leo xuống thang, thì bóng đèn mới thay bỗng chớp chớp mấy cái rồi tắt. Ngay lúc này ông để ý thấy nhiệt độ bỗng nhiên xuống thấp, và một mùi kỳ lạ từ đâu tỏa ra khắp cả hành lang, như một làn khói vô hình.
Ông phải đi ngang qua cái phòng đó về khu vực chính của bệnh viện, để lấy một bóng đèn khác, khi gần đến cửa phòng lúc nào cũng khóa, mùi hôi bắt đầu nồng nặc, rồi ông nghe những tiếng lạ lùng quái gỡ phát ra từ chung quanh cánh cửa đó.
Lúc đầu thì có tiếng giống như ai đang hát, nhưng rồi nó trầm xuống với một giọng lầm bầm lạ lùng. Những tiếng kế tiếp ông nghe, được mang một nỗi xúc động sầu thương: có lúc như là giận dữ có lúc thì sợ sệt. Mặc dù không nhận ra được gì, nhưng nó nghe như tiếng bà nội đã qua đời của ông vậy.
- Mike.
Tiếng thân yêu quen thuộc khóc lớn.
- Cứu bà Mike, chỉ có con mới cứu được bà. Bà ở đây nè nhanh lên Mike. Hãy nhanh lên.
Lúc đó cả người đều lạnh ngắt ông thấy thật bối rối, chuyện này làm sao mà xảy ra được? Bà nội đã chết hơn hai mươi năm rồi mà. Lúc đó người cậu lớn tuổi của tôi tự nhiên sụt sùi khóc như một đứa trẻ thơ.
Ðằng sau giọng nói cầu cứu của bà nội, ông còn nghe được một tiếng kỳ quặc giống như tiếng cười giễu cợt từ một âm thanh... không thuộc thế giới này.
Như là có lực lượng nào thúc đẩy ông đi đến định mở cửa phòng, nhưng khi vừa cầm cái nắm cửa, ông ngửi thấy mùi cháy khét rất khó chịu nơi bàn tay của ông, và nó đã để lại một vết thẹo lưỡi liềm mà ông phải mang theo cả cuộc đời, như là một sự nhắc nhở đau lòng.
Sau đó cái nắm cửa bắt đầu tự động vặn tới vặn lui, rồi đến cả cánh cửa đều rung rinh thật mạnh, tiếp theo là tiếng đập và đá trên cánh cửa rất dữ dội như có ai, hay cái gì đó bên kia cửa đang cố gắng phá tung cửa để đi ra.
Dưới sự việc như vậy ông biết rằng mình phải rời khỏi chỗ này ngay lập tức, nên ông chạy nhanh như bay xuống hành lang không thèm quay đầu lại, ở sau lưng tiếng cười kỳ quặc càng ngày càng vang lớn hơn. Ông chạy ra khỏi đến được bàn làm việc của nhân viên y tá thì ngã quỵ xuống đất ngất xỉu.
Khi tỉnh dậy mọi người đứng xung quanh đều ngạc nhiên không hiểu chuyện gì đã xảy ra cho ông, người y tá đến săn sóc vết phỏng, ông đã kể lại những gì ông mới vừa chứng kiến.
Không ai dám đi một mình đến hành lang đó để dò xét, nên người Giám Ðốc đã phái hai người làm việc đến đó để xem tình hình ra sao. Khi trở lại một trong hai người được phái đi không nói gì hết, anh ta chỉ đi thẳng đến nơi máng áo, chụp lấy chiếc áo khoác và lặng thinh đi thẳng ra cửa.
Còn người thứ hai nói rằng không có chuyện gì lạ xảy ra hết, chiếc thang vẫn còn để ở hành lang như cậu tôi đã để, và bóng đèn thì vẫn cháy sáng như thường.
Vài hôm sau người được phái đi xem xét để rồi phải nghỉ việc luôn, gọi điện thoại cho cậu tôi và nói với cậu tôi rằng, ông ta cũng có một kinh nghiệm giống như vậy, nhưng chỉ khác rằng tiếng của người nói bên kia cửa là tiếng của người anh của ông đã chết từ lâu.
Và ông cũng nghe được những nỗi xúc động ào ạt không sao diễn tả được từ bên kia cánh cửa. Sau khi nghe xong cậu của tôi quyết định xin nghỉ việc luôn.
Khi đến gặp người Giám Ðốc để đưa đơn thôi việc, thì cậu mới biết là mình đã bị đuổi ngay đêm hôm đó, và ông còn bị cảnh cáo rằng không được nói chuyện này với bất cứ một ai.
Truyện Ma
#57
Gửi vào 16/06/2011 - 17:42
NHỮNG BAN NHẠC SỐNG CỦA CÕI ÂM
Bốn người đàn ông hờ hững đi trong bóng chiều nhập nhoạng trùm xuống nghĩa địa hoang. Họ không buồn không vui bên những chiếc kèn, cây dùi trống, quả chũm choẹ và cặp thanh la… sau những ngày biểu diễn phục vụ cho cả dương gian và nơi âm thế. Nghề kèn trống đám ma quê tôi gọi là Bản ty. Nhưng tôi gọi họ là ban nhạc sống của cõi âm, bởi họ cũng phải có khả năng âm nhạc, có tâm hồn sống bằng biểu diễn và sáng tác. Chỉ có điều tác phẩm của họ, là những khúc bi ai của chốn dương gian tiễn biệt người đã chết...
Gần hai mươi năm tha hương, mãi đến khi nhận được điện ông chú cuối cùng mất, tôi mới có dịp về quê. Chú tôi thượng thọ, con cháu trưởng thành, nợ nần dương gian không vướng. Nay tạ thế gia quyến gần xa về đủ. Con cháu quyết định mời một đội Bản ty danh tiếng nhất vùng về khóc. Ba chiếc xe ba-bét-ta rè rè rẽ đám đi vào. Bốn người đàn ông gầy gò cổ dài gân guốc, môi thâm mắt quầng, khoác trên người những chiếc túi du lịch lớn đi vào.
Chủ nhà cung kính đưa họ vào chiếc chiếu trải trước linh cữu, bày sẵn ấm chén, điếu bát, trầu cau và một dàn trống đủ cỡ. Bốn người xếp ra hai chiếc kèn, một ống sáo một cây nhị. Qua tuần trà điếu thuốc và miếng trầu ngoe ngoét đỏ, đám "Bản ty" ngất ngư lim dim nửa say nửa tỉnh. Đến giờ phát tang, người ngồi bên trái xưng là phó cả, trưởng đoàn Thắng, vun cây dùi gỗ vụt xuống mặt trống một mạch ba hồi chín tiếng.
Ngừng trống, Thắng ưỡn ngực hít hơi dài, nâng kèn lên miệng. Ba người kia lập tức nâng sáo, nhị cùng hoà theo ai oán nức nở. Họ ngất ngư, nghiêng ngả lúc chụm vào, khi đổ ra theo nhịp điệu. Dứt khúc lâm khốc (bài khóc đầu), Thắng ngân nga bi thiết:
- Bước lên con cả chủ tang. Hãy quì lên trước linh sàng dâng khăn.
Chủ nhà mặc áo xô trắng quì mọp trước linh cữu, nâng dải khăn trắng thắt lên đầu. Tiếng kèn trống, sáo nhị lại vang lên bi ai thống thiết. Đám con cháu trong nhà, ngoài sân oà khóc nức nở, đồng loạt thắt khăn trắng. Từ đây tiếng kèn, nhị, sáo, trống cùng tiếng khóc của người nhà vang lên không dứt. Đám tang được dự báo là suôn sẻ, anh em con cháu thuận hoà vì khúc kèn lâm khóc ngọt, sâu không trục trặc.
Theo lời Thắng, hầu hết vùng quê thuộc đồng bằng Bắc Bộ, đám tang nào cũng có một đội kèn trống khóc mướn gọi là đội Bản ty. Riêng đất Kim Sơn Ninh Bình cũng đã có tám đội, phụ trách hơn hai chục xã trong huyện suốt quanh năm. Đêm xuống đám tang chuyển sang phần ai vãn, cũng là lúc thân bằng quyến thuộc trả nghĩa, thuê thợ kèn thay mình khóc cho người đã khuất. Đây cũng là phần chính của đám tang. Chủ nhà đi bằng đầu gối dâng lên Bản ty một chiếc đĩa sứ cổ, trong đựng tờ tiền mười ngàn đồng.
Phó cả xướng to:
- Trưởng nam trả nghĩa mẹ…
Anh ngậm kèn. Đám tang lặng đi đắm mình vào khúc mẫu tầm tử. Thắng như chìm vào cõi mê. Mắt khép hờ, những ngón tay anh khi khoan, khi nhặt lướt dọc thân kèn. Gương mặt anh xa xăm, hai má chỉ hơi hóp. Hơi kèn vẫn sâu, ngọt và kéo dài không ngắt.
Sau hơi kèn dài gần một giờ đồng hồ anh cất giọng:
- Đĩa trầu thơm, chén trà ngon dâng lên thành kính như còn cha xưa.
Người con cả nâng đầu khăn tang bịt miệng, nén tiếng nức nở. Thêm một tờ hai chục ngàn đồng được đặt vào đĩa.
Một đồng nghiệp bên cạnh thì thầm:
- Phó cả Thắng không hổ danh là truyền nhân năm đời kèn Nam.
Nghề Bản ty cần phải có năng khiếu âm nhạc. Không sách vở học qua truyền miệng ghi nhớ bằng óc. Thường người được gia truyền theo học từ tấm bé mới thành tài. Tính phải ôn hòa kiên nhẫn nhu mì. Đám tang ngắn thì một ngày một đêm, dài thì ba ngày ba đêm. Con cháu lúc thức lúc ngủ, Bản ty thì luôn phải tỉnh táo. Điều quan trọng hơn Bản ty luôn là người ở giữa ranh giới sống chết, gần cõi âm và đồng cảm với gia đình có người vừa mất.
Phó cả Cầu xóm hai, Ân Hoà, Kim Sơn, bốn mươi năm làm nghề, mà đám nào cũng khóc thật như chính người thân mình vừa chết. Nhiều người xin theo học nghề, qua ba đám không thấy khóc lần nào, ông khuyên họ làm nghề khác cho khỏi nhọc công. Phó cả là trưởng đoàn, là nhạc trưởng, phải chơi được tất cả các nhạc cụ và xuất sắc môn kèn Nam. Kèn Nam phải sâu hơi dài, ngọt khi thổi phải biết phá cách sáng tạo và đương nhiên phải dùng đến nút thứ bảy trên thân kèn (tiêu chí phân đẳng cấp).
Dưới phó cả là phó hai, sau nữa là phó ba. Người học nghề ít nhất ba năm mới được xét thăng một cấp. Phó hai Khánh xã Như Hoà, Kim Sơn thổi kèn hay đến mức, làm người nhà thương tiếc ngã ra chết tại chỗ, nhưng chơi nhị kém nên không thành được phó cả. Giỏi các môn nhưng phó cả còn phải ca hay, đúng tâm trạng hoàn cảnh, tình cảm người sống và người chết. Năm hai mươi tuổi đi thổi đám, gặp người con dâu có chồng chết trước mẹ mười năm. Thắng thổi một khúc rồi ca:
- Khóc mẹ con nhớ đến chồng, đi hôm về sớm con trông có mẹ hiền.
Người con dâu phục xuống đất khóc ngất. Từ đó làng kèn nghiễm nhiên công nhận Thắng là phó cả. Thắng bảo muốn ca hay trước khi vào đám, phải hỏi gia chủ cặn kẽ về tiểu sử người đã chết, gia đình con cháu. Rồi tuỳ trường hợp mà ca và chỉ đạo cả đội chơi cho phù hợp. Phó cả bắt buộc phải có kèn hay. Chỉ là kèn Nam trong nhạc cụ dân tộc, nhưng để thổi hay thì phải đặt thợ làm, và có phần tự tay làm lấy.
Thân kèn bằng gỗ tiện thành. Bên trong lõi bằng đồng, đục bảy lỗ dọc thân. Điểm quyết định là ở dăm kèn, nơi ngậm thổi. Dăm hay phải tự tay làm từ sậy. Không dùng dao mà phải lấy sợi cước cứa đi cứa lại cho mòn thành hình. Sau đó kẹp một đầu cho dẹp lại, rồi đem luộc nhiều lần và gác bếp hàng tháng. Thường một trăm chiếc may mới được một. Công thức là vậy nhưng còn phải có kỹ thuật gia truyền mới hay, và có giọng điệu riêng.
Bản ty luôn được tổ chức theo đoàn. Khi một người được mời thì triệu tập những người còn lại. Lúc ít việc thì sáu, bảy người cùng đi. Khi nhiều việc thì phải chia tách thành nhiều đội và gọi thêm những phó ba mới vào nghề đi theo. Mỗi phó cả chỉ đạo dìu dắt một đội. Dù ít việc cũng không thể bỏ đoàn của mình đi theo đoàn khác được. Vả lại phó cả muốn đi cùng với những phó hai phó ba vì quyền lợi, thu nhập bao giờ cũng phân chia theo đẳng cấp thứ bậc.
Thu nhập của Bản ty gồm ba khoản. Thứ nhất là tiền công, tiền này đã hợp đồng trước với gia chủ. Thường mỗi đám một ngày một đêm giá bốn trăm đến sau trăm ngàn đồng. Hai khoản còn lại là tiền trả nghĩa và "lỡi", đây mới là tấm lòng hậu bạc (dày mỏng) của gia chủ. Tiền trả nghĩa là tiền thưởng của gia quyến khi từng người nhờ thợ kèn khóc riêng cho mình trong đêm ai vãn. Người năm nghìn, người vài chục, mỗi đêm cũng được một hai trăm ngàn. Khóc hay, có thưởng thêm.
Thắng kéo một khúc nhị ngâm đùa:
- Tiền nhiều khóc khúc trường ca, xe loan chuyển bánh nhịp sầu réo vang.
Nhưng đã có tiền nhiều, ít thì phải có nhạc hay dở. Tuỳ tiền mà biện lễ. Tiền trả nghĩa nhiều thì thợ chơi những khúc nhạc cổ phức tạp, bi ai và đương nhiên là hay như: Mẫu tầm tử, Thu hồ, bình bán, Xuân nữ… Lời ca thì dùng Phật thuyết, chương Báo hiếu phụ mẫu ân kinh, thơ Nguyễn Bính, Tú Xương khóc vợ… Đoàn Bản ty Nam Dân còn có thể diễn tuồng trong đêm ai vãn.
Tiền ít thì chỉ chơi nhạc mới cho đơn giản. Nhiều khi thợ kèn còn giả tiếng chim kêu, vượn hú, gà gáy, chó sủa để thể hiện sự bất bình vì gia chủ giàu có mà bất hiếu, lễ bạc. Trống phách cũng chơi theo nhịp: "quản chắc, chuối lép, gà gầy" hay "bưng bưng gắp" (tiếng lóng dựa theo âm thanh nhạc cụ). "Lỡi" là món quà chủ nhà tạ Bản ty khi ra về. Hậu thì cả con gà còn sống, chân giò tươi nguyên, cây thuốc lá, chai rượu… Bạc thì có khi chỉ gói thịt thái sẵn là gom từ cỗ thừa.
Gặp lúc chủ nhà muốn chơi sang mời hai ba đoàn trong một đám thì phải lựa. Nếu hoà nhịp được với nhau thì chơi chung, lỗi nhịp thì phân ca chơi theo giờ. Tiền trả nghĩa thuộc ca nào thì đội đó tự hưởng. Tiền nhận về Bản ty lại phân chia theo thứ bậc. Phó cả ba phần, phó hai hai phần, phó ba chỉ được một.
Thu nhập thì tuỳ theo mùa. Mùa nóng ít việc tháng chỉ có mười, đến mười lăm đám. Mùa lạnh việc nhiều, đi gần như kín tháng. Tháng nọ bù tháng kia thu nhập như Thắng cũng được ngót hai triệu. Phó hai, ba cũng được ngót triệu một tháng.Thực ra người theo nghề, cơ bản vẫn là để có thu nhập, chống nông nhàn mà hoá nên nghiệp.
Nghiệp chướng thì nhiều. Như chuyện phó cả Cầu, hơn bốn mươi năm thổi kèn, nay đổ bệnh ung thư vòm họng, ngày ngày phải đổ nước cháo. Ông thều thào:
- Nghề Bản ty như con ve sầu, hát cho đến chết mới hết nợ… Ngày đêm ăn, uống, ngủ bên người chết, nhiễm tử khí đủ sinh bách bệnh. Mai đến lượt tôi chết, chỉ mong hai đứa con thổi tiễn cha bằng khúc kèn thật hay thật thảm.
Truyền thống dân ta là vậy nghĩa tử là nghĩa tận, sống dầu đèn chết kèn trống. Đó cũng là nét văn hoá đậm chất nhân văn. Tuy nhiên có nơi nay đã biến thành hủ tục. Hôm rời một đám tang ở Kim Sơn, tôi được nghe ông Lê Quang Định, trưởng xóm sáu, xã Ân Hoà tâm sự:
- Là một sinh hoạt văn hoá truyền thống nên lưu giữ, nhưng theo Qui chế mới về việc tang, cưới thì chúng tôi sẽ hướng dẫn bà con rút gọn những nghi lễ rườm rà. Kèn trống không nên thâu đêm mà chỉ đến hai mươi giờ là đủ. Người mất không nên để trong nhà quá lâu, tục trả nghĩa phải nghiên cứu thay đổi. Lễ cần trọng nhưng cũng cần phải sáng.
Trấn Vũ
Bốn người đàn ông hờ hững đi trong bóng chiều nhập nhoạng trùm xuống nghĩa địa hoang. Họ không buồn không vui bên những chiếc kèn, cây dùi trống, quả chũm choẹ và cặp thanh la… sau những ngày biểu diễn phục vụ cho cả dương gian và nơi âm thế. Nghề kèn trống đám ma quê tôi gọi là Bản ty. Nhưng tôi gọi họ là ban nhạc sống của cõi âm, bởi họ cũng phải có khả năng âm nhạc, có tâm hồn sống bằng biểu diễn và sáng tác. Chỉ có điều tác phẩm của họ, là những khúc bi ai của chốn dương gian tiễn biệt người đã chết...
Gần hai mươi năm tha hương, mãi đến khi nhận được điện ông chú cuối cùng mất, tôi mới có dịp về quê. Chú tôi thượng thọ, con cháu trưởng thành, nợ nần dương gian không vướng. Nay tạ thế gia quyến gần xa về đủ. Con cháu quyết định mời một đội Bản ty danh tiếng nhất vùng về khóc. Ba chiếc xe ba-bét-ta rè rè rẽ đám đi vào. Bốn người đàn ông gầy gò cổ dài gân guốc, môi thâm mắt quầng, khoác trên người những chiếc túi du lịch lớn đi vào.
Chủ nhà cung kính đưa họ vào chiếc chiếu trải trước linh cữu, bày sẵn ấm chén, điếu bát, trầu cau và một dàn trống đủ cỡ. Bốn người xếp ra hai chiếc kèn, một ống sáo một cây nhị. Qua tuần trà điếu thuốc và miếng trầu ngoe ngoét đỏ, đám "Bản ty" ngất ngư lim dim nửa say nửa tỉnh. Đến giờ phát tang, người ngồi bên trái xưng là phó cả, trưởng đoàn Thắng, vun cây dùi gỗ vụt xuống mặt trống một mạch ba hồi chín tiếng.
Ngừng trống, Thắng ưỡn ngực hít hơi dài, nâng kèn lên miệng. Ba người kia lập tức nâng sáo, nhị cùng hoà theo ai oán nức nở. Họ ngất ngư, nghiêng ngả lúc chụm vào, khi đổ ra theo nhịp điệu. Dứt khúc lâm khốc (bài khóc đầu), Thắng ngân nga bi thiết:
- Bước lên con cả chủ tang. Hãy quì lên trước linh sàng dâng khăn.
Chủ nhà mặc áo xô trắng quì mọp trước linh cữu, nâng dải khăn trắng thắt lên đầu. Tiếng kèn trống, sáo nhị lại vang lên bi ai thống thiết. Đám con cháu trong nhà, ngoài sân oà khóc nức nở, đồng loạt thắt khăn trắng. Từ đây tiếng kèn, nhị, sáo, trống cùng tiếng khóc của người nhà vang lên không dứt. Đám tang được dự báo là suôn sẻ, anh em con cháu thuận hoà vì khúc kèn lâm khóc ngọt, sâu không trục trặc.
Theo lời Thắng, hầu hết vùng quê thuộc đồng bằng Bắc Bộ, đám tang nào cũng có một đội kèn trống khóc mướn gọi là đội Bản ty. Riêng đất Kim Sơn Ninh Bình cũng đã có tám đội, phụ trách hơn hai chục xã trong huyện suốt quanh năm. Đêm xuống đám tang chuyển sang phần ai vãn, cũng là lúc thân bằng quyến thuộc trả nghĩa, thuê thợ kèn thay mình khóc cho người đã khuất. Đây cũng là phần chính của đám tang. Chủ nhà đi bằng đầu gối dâng lên Bản ty một chiếc đĩa sứ cổ, trong đựng tờ tiền mười ngàn đồng.
Phó cả xướng to:
- Trưởng nam trả nghĩa mẹ…
Anh ngậm kèn. Đám tang lặng đi đắm mình vào khúc mẫu tầm tử. Thắng như chìm vào cõi mê. Mắt khép hờ, những ngón tay anh khi khoan, khi nhặt lướt dọc thân kèn. Gương mặt anh xa xăm, hai má chỉ hơi hóp. Hơi kèn vẫn sâu, ngọt và kéo dài không ngắt.
Sau hơi kèn dài gần một giờ đồng hồ anh cất giọng:
- Đĩa trầu thơm, chén trà ngon dâng lên thành kính như còn cha xưa.
Người con cả nâng đầu khăn tang bịt miệng, nén tiếng nức nở. Thêm một tờ hai chục ngàn đồng được đặt vào đĩa.
Một đồng nghiệp bên cạnh thì thầm:
- Phó cả Thắng không hổ danh là truyền nhân năm đời kèn Nam.
Nghề Bản ty cần phải có năng khiếu âm nhạc. Không sách vở học qua truyền miệng ghi nhớ bằng óc. Thường người được gia truyền theo học từ tấm bé mới thành tài. Tính phải ôn hòa kiên nhẫn nhu mì. Đám tang ngắn thì một ngày một đêm, dài thì ba ngày ba đêm. Con cháu lúc thức lúc ngủ, Bản ty thì luôn phải tỉnh táo. Điều quan trọng hơn Bản ty luôn là người ở giữa ranh giới sống chết, gần cõi âm và đồng cảm với gia đình có người vừa mất.
Phó cả Cầu xóm hai, Ân Hoà, Kim Sơn, bốn mươi năm làm nghề, mà đám nào cũng khóc thật như chính người thân mình vừa chết. Nhiều người xin theo học nghề, qua ba đám không thấy khóc lần nào, ông khuyên họ làm nghề khác cho khỏi nhọc công. Phó cả là trưởng đoàn, là nhạc trưởng, phải chơi được tất cả các nhạc cụ và xuất sắc môn kèn Nam. Kèn Nam phải sâu hơi dài, ngọt khi thổi phải biết phá cách sáng tạo và đương nhiên phải dùng đến nút thứ bảy trên thân kèn (tiêu chí phân đẳng cấp).
Dưới phó cả là phó hai, sau nữa là phó ba. Người học nghề ít nhất ba năm mới được xét thăng một cấp. Phó hai Khánh xã Như Hoà, Kim Sơn thổi kèn hay đến mức, làm người nhà thương tiếc ngã ra chết tại chỗ, nhưng chơi nhị kém nên không thành được phó cả. Giỏi các môn nhưng phó cả còn phải ca hay, đúng tâm trạng hoàn cảnh, tình cảm người sống và người chết. Năm hai mươi tuổi đi thổi đám, gặp người con dâu có chồng chết trước mẹ mười năm. Thắng thổi một khúc rồi ca:
- Khóc mẹ con nhớ đến chồng, đi hôm về sớm con trông có mẹ hiền.
Người con dâu phục xuống đất khóc ngất. Từ đó làng kèn nghiễm nhiên công nhận Thắng là phó cả. Thắng bảo muốn ca hay trước khi vào đám, phải hỏi gia chủ cặn kẽ về tiểu sử người đã chết, gia đình con cháu. Rồi tuỳ trường hợp mà ca và chỉ đạo cả đội chơi cho phù hợp. Phó cả bắt buộc phải có kèn hay. Chỉ là kèn Nam trong nhạc cụ dân tộc, nhưng để thổi hay thì phải đặt thợ làm, và có phần tự tay làm lấy.
Thân kèn bằng gỗ tiện thành. Bên trong lõi bằng đồng, đục bảy lỗ dọc thân. Điểm quyết định là ở dăm kèn, nơi ngậm thổi. Dăm hay phải tự tay làm từ sậy. Không dùng dao mà phải lấy sợi cước cứa đi cứa lại cho mòn thành hình. Sau đó kẹp một đầu cho dẹp lại, rồi đem luộc nhiều lần và gác bếp hàng tháng. Thường một trăm chiếc may mới được một. Công thức là vậy nhưng còn phải có kỹ thuật gia truyền mới hay, và có giọng điệu riêng.
Bản ty luôn được tổ chức theo đoàn. Khi một người được mời thì triệu tập những người còn lại. Lúc ít việc thì sáu, bảy người cùng đi. Khi nhiều việc thì phải chia tách thành nhiều đội và gọi thêm những phó ba mới vào nghề đi theo. Mỗi phó cả chỉ đạo dìu dắt một đội. Dù ít việc cũng không thể bỏ đoàn của mình đi theo đoàn khác được. Vả lại phó cả muốn đi cùng với những phó hai phó ba vì quyền lợi, thu nhập bao giờ cũng phân chia theo đẳng cấp thứ bậc.
Thu nhập của Bản ty gồm ba khoản. Thứ nhất là tiền công, tiền này đã hợp đồng trước với gia chủ. Thường mỗi đám một ngày một đêm giá bốn trăm đến sau trăm ngàn đồng. Hai khoản còn lại là tiền trả nghĩa và "lỡi", đây mới là tấm lòng hậu bạc (dày mỏng) của gia chủ. Tiền trả nghĩa là tiền thưởng của gia quyến khi từng người nhờ thợ kèn khóc riêng cho mình trong đêm ai vãn. Người năm nghìn, người vài chục, mỗi đêm cũng được một hai trăm ngàn. Khóc hay, có thưởng thêm.
Thắng kéo một khúc nhị ngâm đùa:
- Tiền nhiều khóc khúc trường ca, xe loan chuyển bánh nhịp sầu réo vang.
Nhưng đã có tiền nhiều, ít thì phải có nhạc hay dở. Tuỳ tiền mà biện lễ. Tiền trả nghĩa nhiều thì thợ chơi những khúc nhạc cổ phức tạp, bi ai và đương nhiên là hay như: Mẫu tầm tử, Thu hồ, bình bán, Xuân nữ… Lời ca thì dùng Phật thuyết, chương Báo hiếu phụ mẫu ân kinh, thơ Nguyễn Bính, Tú Xương khóc vợ… Đoàn Bản ty Nam Dân còn có thể diễn tuồng trong đêm ai vãn.
Tiền ít thì chỉ chơi nhạc mới cho đơn giản. Nhiều khi thợ kèn còn giả tiếng chim kêu, vượn hú, gà gáy, chó sủa để thể hiện sự bất bình vì gia chủ giàu có mà bất hiếu, lễ bạc. Trống phách cũng chơi theo nhịp: "quản chắc, chuối lép, gà gầy" hay "bưng bưng gắp" (tiếng lóng dựa theo âm thanh nhạc cụ). "Lỡi" là món quà chủ nhà tạ Bản ty khi ra về. Hậu thì cả con gà còn sống, chân giò tươi nguyên, cây thuốc lá, chai rượu… Bạc thì có khi chỉ gói thịt thái sẵn là gom từ cỗ thừa.
Gặp lúc chủ nhà muốn chơi sang mời hai ba đoàn trong một đám thì phải lựa. Nếu hoà nhịp được với nhau thì chơi chung, lỗi nhịp thì phân ca chơi theo giờ. Tiền trả nghĩa thuộc ca nào thì đội đó tự hưởng. Tiền nhận về Bản ty lại phân chia theo thứ bậc. Phó cả ba phần, phó hai hai phần, phó ba chỉ được một.
Thu nhập thì tuỳ theo mùa. Mùa nóng ít việc tháng chỉ có mười, đến mười lăm đám. Mùa lạnh việc nhiều, đi gần như kín tháng. Tháng nọ bù tháng kia thu nhập như Thắng cũng được ngót hai triệu. Phó hai, ba cũng được ngót triệu một tháng.Thực ra người theo nghề, cơ bản vẫn là để có thu nhập, chống nông nhàn mà hoá nên nghiệp.
Nghiệp chướng thì nhiều. Như chuyện phó cả Cầu, hơn bốn mươi năm thổi kèn, nay đổ bệnh ung thư vòm họng, ngày ngày phải đổ nước cháo. Ông thều thào:
- Nghề Bản ty như con ve sầu, hát cho đến chết mới hết nợ… Ngày đêm ăn, uống, ngủ bên người chết, nhiễm tử khí đủ sinh bách bệnh. Mai đến lượt tôi chết, chỉ mong hai đứa con thổi tiễn cha bằng khúc kèn thật hay thật thảm.
Truyền thống dân ta là vậy nghĩa tử là nghĩa tận, sống dầu đèn chết kèn trống. Đó cũng là nét văn hoá đậm chất nhân văn. Tuy nhiên có nơi nay đã biến thành hủ tục. Hôm rời một đám tang ở Kim Sơn, tôi được nghe ông Lê Quang Định, trưởng xóm sáu, xã Ân Hoà tâm sự:
- Là một sinh hoạt văn hoá truyền thống nên lưu giữ, nhưng theo Qui chế mới về việc tang, cưới thì chúng tôi sẽ hướng dẫn bà con rút gọn những nghi lễ rườm rà. Kèn trống không nên thâu đêm mà chỉ đến hai mươi giờ là đủ. Người mất không nên để trong nhà quá lâu, tục trả nghĩa phải nghiên cứu thay đổi. Lễ cần trọng nhưng cũng cần phải sáng.
Trấn Vũ
#58
Gửi vào 16/06/2011 - 17:57
HỒN MA TRONG BIỆT THỰ
Tân một người bạn học cũ của Khôi, mời Khôi tới toà biệt thự tráng lệ của Tân tại Đà Lạt nghỉ ngơi trong dịp cuối tuần. Tại đây Khôi gặp một số bè bạn của Tân và hình như có một cái gì rất bất thường, đang xẩy ra trong ngôi biệt thự khi mọi người thảo luận về hồn ma của một nữ tu.
Trong bữa ăn chiều Khôi thấy mọi người đặc biệt theo dõi chàng và nói về chàng, hình như cho rằng chàng là đối tượng của một cái gì bí mật. Và những gì xẩy ra sau đó theo lời kể lại của Khôi...Tới mười một giờ thì tất cả khách khứa của Tân đều về phòng hết, chỉ còn lại hai vợ chồng Tân và tôi ngồi trong phòng khách. Vợ Tân nói chuyện về mấy người hàng xóm trước khi che miệng ngáp dài, và xin phép về phòng trước. Rõ rệt nàng cảm thấy hài lòng khi rời khỏi phòng khách.
Không hiểu tại sao tôi có ý nghĩ rằng hình như mọi việc tại đây không được bình thường, và chợt cảm thấy hối hận khi đã bỏ bao nhiêu công việc tại Sài Gòn, lên đây theo lời mời của vợ chồng Tân để không làm gì hết. Vợ Tân đi rồi Tân không nói nhiều lắm mà dường như chỉ cố tìm cách. nói về việc căn biệt thự của anh bị ma ám. Bắt mạch được việc này tôi hỏi ngay:
- Có phải ông muốn nói rằng căn biệt thự của ông có ma phải không?
Vừa dứt lời, tôi nhận thấy ngay một nét kinh hoàng thoáng hiện trên mặt người bạn cũ. Tôi bèn bảo Tân:
- Thôi được. Ông không muốn nói thì thôi, tôi đi ngủ để sáng mai còn dậy sớm.
Không nói một lời Tân đứng dậy bước lên lầu. Tôi đi theo anh. Đi hết dẫy hành lang tới trước cửa phòng ngủ của tôi, Tân dừng lại hỏi tôi bằng một giọng run run:
- Nếu gặp ma ông có dám nói chuyện với nó, như ông từng tuyên bố trong bữa ăn chiều hay không?
Trong bữa ăn chiều khi thảo luận về hồn ma của một nữ tu, một người bạn của Tân hỏi tôi:
- Nghe Tân nói rằng ông là người cứng bóng vía, không tin những chuyện ma quỉ. Nhưng... nếu gặp ma, ông có dám nói chuyện với nó hay không?
Tôi mỉm cười từ tốn đáp lời người bạn mới:
- Nếu đã không có ma thì ma ở đâu cho tôi gặp! Còn chuyện gặp gỡ chuyện trò thì tôi sẵn sàng trò chuyện với bất cứ ai.
Bây giờ nghe câu hỏi của Tân tôi không trả lời. Tân đứng im khoảng một phút trước khi chúc tôi “bonne nuit” rồi quay đi. Khi tới cửa phòng ngủ của anh, Tân quay lại nhìn tôi:
- Nếu cần gì ông cứ gọi tôi.
Rồi Tân đóng cửa. Tôi bước vào phòng thay đồ ngủ, bật ngọn đèn nhỏ ở đầu giường đọc một hai tờ báo. Chưa đầy nửa tiếng mắt tôi đã díu lại, tôi tắt đèn và ngủ ngay lập tức. Khoảng nửa đêm tôi thức giấc. Bên ngoài trời lặng gió. Bên trong căn biệt thự nguy nga của Tân cũng im lìm.
Đột nhiên một tiếng cú gào lên khiến tôi rợn tóc gáy. Tôi không ngủ được nữa và quyết định đọc báo cho tới khi gục. Tôi mò tìm quả nắm ở đầu giường và nhấn nút. Ánh sáng đột ngột tỏa ra khiến tôi chói mắt. Tôi cầm tờ báo lên toan đọc, nhưng không hiểu tại sao tôi lại liếc nhìn xuống phía chân giường. Tôi không thể nào tả lại được cho bạn nghe những gì xẩy ra, cũng như không thể diễn tả được những gì tôi cảm thấy lúc đó. Tôi chỉ nhớ rằng tim tôi như ngưng đập, cổ tôi khô cứng và bị thúc đẩy bởi sự kinh hoàng, tôi ngồi bật dậy co rút ở đầu giường.
Có lẽ hành động bất chợt đó khiến tim tôi đập lại, và mồ hôi của tôi vã ra như tắm. Tôi không phải là người tin tưởng ở bất kỳ tôn giáo nào, và tôi không bao giờ tin là có ma. Nhưng tôi còn nhớ rõ trong giây phút đó, định kiến của tôi hầu như thay đổi hoàn toàn, vì ở phía chân giường, một hình người quấn những mảnh vải liệm tả tơi trắng xóa từ đầu đến chân, đang đứng nhìn chòng chọc vào mặt tôi.
Cái đầu chỉ còn cái sọ với hai lỗ mắt đen ngòm, sâu hoắm đang nhìn thẳng vào mặt tôi. Ngoại trừ hai bàn tay xương xẩu đang chờn vờn, có vẻ như muốn chụp lấy tôi, cái sọ người và toàn thân hồn ma hoàn toàn bất động. Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt của cái sọ người và đôi mắt sâu hoắm cũng trừng trừng nhìn tôi, hai hàm răng trắng nhởn nhe ra mà tôi không biết là cười hay dọa.
Tôi vẫn cầm quả nắm trong tay. Ý tưởng tắt đèn vụt đến nhưng tôi không dám, sợ trong bóng tối lỡ hồn ma nhào tới vuốt nhẹ vào mặt tôi một cái, thì chắc là tôi chết ngay tại chỗ quá. Quá căng thẳng tôi nhắm mắt lại nhưng lai vội vã mở ra ngay. Hồn ma vẫn ở đó. Tim tôi như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, và mồ hôi khiến tôi run lên vì lạnh. Đầu óc tôi hoàn toàn tê liệt trong hai mươi giây, hoặc hai mươi phút tôi không biết.
Đột nhiên tôi nhớ tới cảnh các bạn bè của Tân nói về chuyện hồn ma người nữ tu, và những đôi mắt nhìn tôi xoi mói. Tôi cũng nhớ câu nói của Tân:
- Nếu gặp ma ông có dám nói chuyện với nó như ông từng tuyên bố trong bữa ăn chiều hay không?.
Đầu óc tôi chợt loé lên một tia sáng:
- Tụi nó dám dàn cảnh phá mình lắm à.
Chỉ nghĩ tới đó mặt tôi chợt nóng bừng, tim tôi đập huỳnh huỵch, không phải vì sợ mà vì giận. Hừ! Nếu tụi nó muốn chọc phá tôi, tôi phải cho bọn chúng một bài học mới được. Vừa nghĩ xong tôi lao vụt về phía chân giường, thẳng tay đấm thật mạnh vào “hồn ma”. Cú đấm của tôi khiến bộ xương bật ngửa ra đất, và tay tôi không hiểu đấm trúng vào chỗ nào máu chảy đầm đìa.
Chỗ tay bị cắt khiến tôi giận điên lên phóng xuống giường, đứng nhìn bộ xương nằm bất động trên mặt đất. Rõ rệt đây là một trò bịp, có thể đã được dàn cảnh và “trình diễn” nhiều lần, để Tân và lũ bạn có dịp giải trí hoặc đánh cá với nhau, về phản ứng của các “nạn nhân” khi đối diện với hồn ma, do chúng dựng lên. Cơn giận khiến tôi không còn suy nghĩ gì hơn được nữa, Tôi cúi xuống chụp lấy tấm vải liệm giựt mạnh, rồi xé tan xé nát khiến bụi bay mù mịt.
Rồi tôi giở cái sọ lên dộng mạnh xuống sàn nhà trước khi giựt cái sọ bị nứt nẻ ra khỏi bộ xương, đập mạnh xuống đất mấy cái nữa khiến cái sọ bể thành nhiều mảnh. Chưa đã giận tôi lượm hai cái xương cánh tay lên phang mạnh vào thành giường khiến chúng gẫy đôi. Liệng mấy khúc xương vụn vào một góc nhà, tôi tiếp tục thanh toán hai cái xương ống quyển. Những cái xương sườn bị tôi lượm từng cái lên, kéo ngăn bàn ra đút vào một nửa, khép ngăn bàn lại và... rắc rắc...
Càng “làm việc” tôi càng hăng say và chẳng bao lâu cuộc “tàn phá” của tôi đã hoàn tất. Bây giờ trong phòng ngổn ngang những mảnh xương vụn, những khúc xương gẫy và một màng bụi mịt mù. Lượm một mảnh xương sọ nằm sát chân lên, mảnh xương má bên trái tôi xô cửa bước ra, huỳnh huỵch tiến thẳng tới phòng ngủ của Tân. Tôi còn nhớ rõ như mới ngày hôm qua, những giọt mồ hôi của tôi, thi nhau rơi lã chã trên mặt hành lang.
Tới trước cửa phòng Tân tôi ngưng lại, giơ chân đá thật mạnh khiến cánh cửa bật tung ra. Đèn trong phòng vẫn bật sáng tự lúc nào, và tôi thấy Tân đang ngồi trên giường co rúm cả người lại, có lẽ vì kinh hoàng. Thấy tôi cầm miếng xương bước vào với vẻ giận dữ, mặt mày Tân tái ngắt người anh run lẩy bẩy. Tôi bắt đầu lên tiếng. Tôi không nhớ lúc đó tôi nói những gì mà chỉ biết đại khái là những lời giận dữ, sỉ vả Tân vì cái trò ma quái rẻ tiền của anh, vì việc dàn cảnh để biến tôi thành một trò hề. Tôi không biết tôi đã nói trong bao lâu, mà chỉ nhớ rằng lúc đó tôi chợt cảm thấy phục tài hùng biện của chính mình.
Với bàn tay máu còn đang nhỏ giọt, với mái tóc đẫm mồ hôi phủ xuống khuôn mặt giận dữ đến cực độ, lúc đó coi tôi chắc không giống ai. Trong khi đó Tân thu mình ở đầu giường, có lẽ giống như tôi khi vừa nhìn thấy “hồn ma”. Anh ngồi run rẩy không nói được một lời, tuy một hai lần tôi thấy anh liếm môi như toan lên tiếng. Hình như Tân đang bận suy nghĩ cái gì, vì hai tay anh đưa lên đưa xuống, đôi môi anh thỉnh thoảng lại mấp máy nhưng không một âm thanh nào thoát ra. Đột nhiên có tiếng chân chạy huỳnh hụych bên ngoài hành lang, rồi vợ Tân lao vào mặt mày tái ngắt run lẩy bẩy:
- Có chuyện gì đó? Trời ơi! Chắc nó lại hiện lên nữa phải không?
Thấy Tân đang ngồi co rúm run rẩy trên đầu giường, nàng chạy tới ngồi sát bên chồng và cả hai cùng nhìn tôi chờ đợi. Tôi cho nàng biết những gì xẩy ra trong phòng ngủ của tôi. Tôi nói rằng tôi đã làm hỏng việc dàn cảnh trò ma quái láo lếu của họ, để biến tôi thành trò cười... Trong khi tôi nói Tân có vẻ ngơ ngác, làm như không hiểu tôi đang nói gì. Thấy thế tôi bèn gằn giọng:
- Tôi đã đập nát món đồ chơi quái gở của ông bà thành hàng trăm mảnh rồi! Về Sài Gòn tôi sẽ cho tất cả bạn bè hay cái trò chơi hèn hạ này. Rồi tôi ném miếng xương trên tay xuống sát cái chân giường, gần chỗ hai vợ chồng Tân đang ngồi:
- Đó hãy giữ lại món quà kỷ niệm trò chơi đốn mạt của ông bà đi!
Tân nhìn thấy mảnh xương và trong một thoáng, anh khiến tôi sợ hãi. Anh la hét thất thanh như con heo bị thọc huyết. Anh la hét, la hét tới độ vợ anh, có lẽ vừa sợ hãi vừa kinh ngạc như tôi, ôm lấy anh vỗ về như vỗ về một đứa trẻ. Rồi Tân xô vợ ra bước xuống đất, vừa la hét vừa ngồi thụp xuống, run rẩy lượm mảnh xương dính đầy máu lên. Khi anh đứng lên tình hình chợt biến đổi, mở đầu cho sự hãi hùng thực sự đêm hôm đó. Cầm mảnh xương trong tay Tân đột nhiên nín bặt, có vẻ như đang lắng nghe một cái gì.
Rồi anh lẩm bẩm:
- Tới giờ rồi, tới giờ rồi...
Trước khi té xuống đập đầu vào cạnh giường chảy máu. Mảnh xương trong tay anh văng vào một góc phòng. Không suy nghĩ tôi bước tới nâng Tân dậy. Mặt mũi anh bơ phờ hốc hác và đầy máu. Tuy nhiên anh vẫn lẩm bẩm:
- Nghe kìa... nghe kìa...
Vợ Tân và tôi nhìn nhau và lắng tai nghe. Khoảng mười giây sau tôi nghĩ rằng tôi nghe thấy một cái gì. Tôi không chắc lắm nhưng tôi không thể lầm được. Hình như có tiếng chân di chuyển thật êm, thật nhẹ ngoài hành lang. Rồi những bước chân nghe rõ hơn trên sàn gỗ, đang tiến về phía chúng tôi. Tân bước tới chỗ vợ đang ngồi run rẩy trên giường mặt mày tái ngắt, kéo mặt vợ úp vào vai anh. Rồi Tân tắt đèn kéo vợ xuống và cả hai nằm úp mặt lên một cái gối trên giường, như cố tránh né hoặc không muốn nhìn thấy một cái gì.
Bây giờ chỉ còn lại mình tôi đối diện với cánh cửa mở toang và tiếng chân mỗi lúc một gần. Tôi đưa tay vỗ vai vợ Tân để tìm đồng minh, nhưng người đàn bà không phản ứng. Sự sợ hãi sự hèn nhát của họ có lẽ đã kéo tôi về phe với họ. Hai chân tôi tự nhiên khuỵu xuống và tôi thấy mình cũng úp mặt xuống giường. Cả ba chúng tôi nằm yên hầu như nín thở, lắng nghe.
Bây giờ tiếng chân đã dừng lại ngay trước cửa phòng. Tôi cố gắng ngước đầu lên nhưng thần kinh tôi hình như tê liệt, khiến tôi không còn điều khiển nổi một phần thân thể của mình nữa. Rồi chúng tôi nghe như có tiếng áo quần xào xạc, tiếng thở xì xì và biết rõ “nó” đã bước vào phòng. Tôi cố gắng ngóc đầu lên nhưng hình như bị một sức mạnh vô hình đè xuống.
Tôi thầm sỉ vả sự hèn nhát của mình trong khi tai vẫn lắng nghe tiếng “nó” di chuyển trong phòng. Rồi những bước chân dừng lại ở góc phòng, nơi có mảnh xương sọ mà Tân vừa đánh rơi. Rồi tôi nghe thấy tiếng bước chân hòa lẫn những tiếng loạt xoạt, tiến về phía cửa phòng, bước ra ngoài và từ từ đi xa. Trong một phút sự can đảm đột nhiên trở lại, tôi đứng bật dậy lao mình ra cửa nhìn theo về cuối hành lang, nơi tôi nghĩ rằng tôi nhìn thấy một cái gì mờ nhạt mỗi lúc một xa. Rồi chỉ một giây sau tất cả hoàn toàn trống vắng.
Tôi thẫn thờ quay vào phòng nói với Tân:
- Ông bật đèn lên đi.
Ánh đèn vừa bật sáng tôi nhận thấy ngay mảnh xương ở góc phòng đã biến mất, và vợ Tân đang bất tỉnh. Tân hoàn toàn như kẻ mất hồn và phải mất tới gần mười phút, tôi mới khiến vợ Tân tỉnh lại. Trong khi Tân lẩm bẩm, mà tôi không hiểu anh muốn nói gì hoặc đang cầu nguyện, tôi chỉ nghe được một câu đáng nhớ, khi Tân nói với tôi bằng giọng của kẻ mơ ngủ:
- Ông không nói chuyện với cô ta phải không?
Sau đó ba chúng tôi ngồi bên nhau trên giường cho tới sáng. Thực ra vợ Tân đã ngủ gục sau một hai tiếng đồng hồ. Trong giấc ngủ này chắc chắn nàng chỉ nằm mơ toàn ác mộng nên thỉnh thoảng lại run rẩy, giẫy giụa và la ú ớ khiến tôi phải đánh thức nàng dậy mấy lần. Tân thì hoàn toàn không nhờ cậy được gì khi anh ngồi yên lặng như một pho tượng không hồn, tuy có đôi ba lần anh nói với anh những gì tôi không nghe rõ.
Trong đời tôi chưa bao giờ đêm dài đến thế! Thành thực mà nói, cứ mỗi phút trôi qua tôi lại cảm thấy thêm khổ sở, nhưng không dám làm gì khác hơn là tiếp tục ngồi bó gối trên giường. Hai biến cố khủng khiếp trong cùng một đêm, hồn ma ngồi dưới chân giường và những tiếng chân vô hình tiến vào phòng lượm mảnh xương rơi, khiến quan điểm vô thần của tôi hầu như hoàn toàn sụp đổ.
Trong khi ngồi co rúm trên giường, tôi không biết làm gì khác hơn là lấy khăn tay quấn chặt chỗ máu chảy. Những tiếng gà gáy đầu tiên vọng lại từ phía xa xa, chẳng khác gì những liều thuốc hồi sinh đối với chúng tôi. Và khi những tiếng chim ríu rít trên cành hòa lẫn với giữa những vạt sáng đầu tiên trong ngày, chúng tôi biết ngay sẽ phải làm gì. Tuy nhiên cả ba chúng tôi vẫn ngồi bất động, cho tới khi bác quản gia già bước vào. Tân lên tiếng với giọng khàn khàn mệt mỏi:
- Bác Tư nói bà bếp chuẩn bị điểm tâm. Sáng nay tôi muốn ăn ở nhà.
Bác Tư là quản gia trung thành của vợ chồng Tân, và chắc chắn bác sẽ không hở môi với bất cứ ai, về cảnh tượng lạ lùng mà bác nhìn thấy. Bác Tư đi rồi nhưng sự xuất hiện của bác khiến chúng tôi sực tỉnh. Tôi nói với Tân là tôi phải về phòng. Tuy nói như vậy nhưng thực ra tôi chỉ muốn bước ra phòng khách, ngồi chờ tới khi trời sáng hẳn chứ không đủ can đảm trở về phòng ngủ, dù rất muốn biết bộ xương bị tôi đập nát, có còn ở đó hay không, vì tôi mường tượng một sự liên hệ nào đó giữa bộ xương bị tôi đập nát, và những bước chân vô hình trong phòng ngủ của Tân.
Tưởng tôi nói thật Tân có vẻ ngại ngùng nhưng cũng bước xuống giường, nói là anh sẽ đi với tôi. Vợ Tân đồng ý ở lại trong phòng, sau khi yêu cầu Tân kéo hết màn cửa ra và đừng đóng cửa ra vào. Khi tôi và Tân bước ra khỏi phòng thì trời đã sáng hẳn khiến chúng tôi thêm hăng hái. Tới trước cửa phòng ngủ của tôi, hai đứa chúng tôi hơi ngần ngại trước khi bước vào. Trong phòng vẫn hơi mờ mờ vì mành cửa sổ được buông xuống vào buổi tối trước khi tôi đi ngủ.
Không ai bảo ai tôi và Tân chia nhau bước tới hai cánh cửa sổ kéo màn cửa lên. Ánh sáng dịu dàng của buổi ban mai rọi sáng căn phòng. Tôi nhìn quanh phòng nhưng không thấy một mảnh xương nào hết. Căn phòng vẫn ngăn nắp như khi tôi lên giường vào tối hôm trước, ngoại trừ cái mền nằm bừa bãi. Một điều khác nữa là chúng tôi thấy rất rõ những vết máu nhểu đầy phía chân giường, nơi tôi tung cú đấm vào hồn ma. Máu cũng dính đầy những ngăn kéo, nơi tôi bẻ gẫy những khúc xương, và trên mặt thảm nơi tôi xé nát tấm vải liệm ra thành từng mảnh vụn, và cũng là nơi tôi hăng say làm công việc tàn phá bộ xương.
Tôi quay nhìn Tân và thấy mặt anh lộ vẻ hãi hùng. Trên tay Tân là một mảnh vải trắng nhỏ tả tơi trông như một mảnh vải liệm bị xé nát.
Truyện Ma
Tân một người bạn học cũ của Khôi, mời Khôi tới toà biệt thự tráng lệ của Tân tại Đà Lạt nghỉ ngơi trong dịp cuối tuần. Tại đây Khôi gặp một số bè bạn của Tân và hình như có một cái gì rất bất thường, đang xẩy ra trong ngôi biệt thự khi mọi người thảo luận về hồn ma của một nữ tu.
Trong bữa ăn chiều Khôi thấy mọi người đặc biệt theo dõi chàng và nói về chàng, hình như cho rằng chàng là đối tượng của một cái gì bí mật. Và những gì xẩy ra sau đó theo lời kể lại của Khôi...Tới mười một giờ thì tất cả khách khứa của Tân đều về phòng hết, chỉ còn lại hai vợ chồng Tân và tôi ngồi trong phòng khách. Vợ Tân nói chuyện về mấy người hàng xóm trước khi che miệng ngáp dài, và xin phép về phòng trước. Rõ rệt nàng cảm thấy hài lòng khi rời khỏi phòng khách.
Không hiểu tại sao tôi có ý nghĩ rằng hình như mọi việc tại đây không được bình thường, và chợt cảm thấy hối hận khi đã bỏ bao nhiêu công việc tại Sài Gòn, lên đây theo lời mời của vợ chồng Tân để không làm gì hết. Vợ Tân đi rồi Tân không nói nhiều lắm mà dường như chỉ cố tìm cách. nói về việc căn biệt thự của anh bị ma ám. Bắt mạch được việc này tôi hỏi ngay:
- Có phải ông muốn nói rằng căn biệt thự của ông có ma phải không?
Vừa dứt lời, tôi nhận thấy ngay một nét kinh hoàng thoáng hiện trên mặt người bạn cũ. Tôi bèn bảo Tân:
- Thôi được. Ông không muốn nói thì thôi, tôi đi ngủ để sáng mai còn dậy sớm.
Không nói một lời Tân đứng dậy bước lên lầu. Tôi đi theo anh. Đi hết dẫy hành lang tới trước cửa phòng ngủ của tôi, Tân dừng lại hỏi tôi bằng một giọng run run:
- Nếu gặp ma ông có dám nói chuyện với nó, như ông từng tuyên bố trong bữa ăn chiều hay không?
Trong bữa ăn chiều khi thảo luận về hồn ma của một nữ tu, một người bạn của Tân hỏi tôi:
- Nghe Tân nói rằng ông là người cứng bóng vía, không tin những chuyện ma quỉ. Nhưng... nếu gặp ma, ông có dám nói chuyện với nó hay không?
Tôi mỉm cười từ tốn đáp lời người bạn mới:
- Nếu đã không có ma thì ma ở đâu cho tôi gặp! Còn chuyện gặp gỡ chuyện trò thì tôi sẵn sàng trò chuyện với bất cứ ai.
Bây giờ nghe câu hỏi của Tân tôi không trả lời. Tân đứng im khoảng một phút trước khi chúc tôi “bonne nuit” rồi quay đi. Khi tới cửa phòng ngủ của anh, Tân quay lại nhìn tôi:
- Nếu cần gì ông cứ gọi tôi.
Rồi Tân đóng cửa. Tôi bước vào phòng thay đồ ngủ, bật ngọn đèn nhỏ ở đầu giường đọc một hai tờ báo. Chưa đầy nửa tiếng mắt tôi đã díu lại, tôi tắt đèn và ngủ ngay lập tức. Khoảng nửa đêm tôi thức giấc. Bên ngoài trời lặng gió. Bên trong căn biệt thự nguy nga của Tân cũng im lìm.
Đột nhiên một tiếng cú gào lên khiến tôi rợn tóc gáy. Tôi không ngủ được nữa và quyết định đọc báo cho tới khi gục. Tôi mò tìm quả nắm ở đầu giường và nhấn nút. Ánh sáng đột ngột tỏa ra khiến tôi chói mắt. Tôi cầm tờ báo lên toan đọc, nhưng không hiểu tại sao tôi lại liếc nhìn xuống phía chân giường. Tôi không thể nào tả lại được cho bạn nghe những gì xẩy ra, cũng như không thể diễn tả được những gì tôi cảm thấy lúc đó. Tôi chỉ nhớ rằng tim tôi như ngưng đập, cổ tôi khô cứng và bị thúc đẩy bởi sự kinh hoàng, tôi ngồi bật dậy co rút ở đầu giường.
Có lẽ hành động bất chợt đó khiến tim tôi đập lại, và mồ hôi của tôi vã ra như tắm. Tôi không phải là người tin tưởng ở bất kỳ tôn giáo nào, và tôi không bao giờ tin là có ma. Nhưng tôi còn nhớ rõ trong giây phút đó, định kiến của tôi hầu như thay đổi hoàn toàn, vì ở phía chân giường, một hình người quấn những mảnh vải liệm tả tơi trắng xóa từ đầu đến chân, đang đứng nhìn chòng chọc vào mặt tôi.
Cái đầu chỉ còn cái sọ với hai lỗ mắt đen ngòm, sâu hoắm đang nhìn thẳng vào mặt tôi. Ngoại trừ hai bàn tay xương xẩu đang chờn vờn, có vẻ như muốn chụp lấy tôi, cái sọ người và toàn thân hồn ma hoàn toàn bất động. Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt của cái sọ người và đôi mắt sâu hoắm cũng trừng trừng nhìn tôi, hai hàm răng trắng nhởn nhe ra mà tôi không biết là cười hay dọa.
Tôi vẫn cầm quả nắm trong tay. Ý tưởng tắt đèn vụt đến nhưng tôi không dám, sợ trong bóng tối lỡ hồn ma nhào tới vuốt nhẹ vào mặt tôi một cái, thì chắc là tôi chết ngay tại chỗ quá. Quá căng thẳng tôi nhắm mắt lại nhưng lai vội vã mở ra ngay. Hồn ma vẫn ở đó. Tim tôi như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, và mồ hôi khiến tôi run lên vì lạnh. Đầu óc tôi hoàn toàn tê liệt trong hai mươi giây, hoặc hai mươi phút tôi không biết.
Đột nhiên tôi nhớ tới cảnh các bạn bè của Tân nói về chuyện hồn ma người nữ tu, và những đôi mắt nhìn tôi xoi mói. Tôi cũng nhớ câu nói của Tân:
- Nếu gặp ma ông có dám nói chuyện với nó như ông từng tuyên bố trong bữa ăn chiều hay không?.
Đầu óc tôi chợt loé lên một tia sáng:
- Tụi nó dám dàn cảnh phá mình lắm à.
Chỉ nghĩ tới đó mặt tôi chợt nóng bừng, tim tôi đập huỳnh huỵch, không phải vì sợ mà vì giận. Hừ! Nếu tụi nó muốn chọc phá tôi, tôi phải cho bọn chúng một bài học mới được. Vừa nghĩ xong tôi lao vụt về phía chân giường, thẳng tay đấm thật mạnh vào “hồn ma”. Cú đấm của tôi khiến bộ xương bật ngửa ra đất, và tay tôi không hiểu đấm trúng vào chỗ nào máu chảy đầm đìa.
Chỗ tay bị cắt khiến tôi giận điên lên phóng xuống giường, đứng nhìn bộ xương nằm bất động trên mặt đất. Rõ rệt đây là một trò bịp, có thể đã được dàn cảnh và “trình diễn” nhiều lần, để Tân và lũ bạn có dịp giải trí hoặc đánh cá với nhau, về phản ứng của các “nạn nhân” khi đối diện với hồn ma, do chúng dựng lên. Cơn giận khiến tôi không còn suy nghĩ gì hơn được nữa, Tôi cúi xuống chụp lấy tấm vải liệm giựt mạnh, rồi xé tan xé nát khiến bụi bay mù mịt.
Rồi tôi giở cái sọ lên dộng mạnh xuống sàn nhà trước khi giựt cái sọ bị nứt nẻ ra khỏi bộ xương, đập mạnh xuống đất mấy cái nữa khiến cái sọ bể thành nhiều mảnh. Chưa đã giận tôi lượm hai cái xương cánh tay lên phang mạnh vào thành giường khiến chúng gẫy đôi. Liệng mấy khúc xương vụn vào một góc nhà, tôi tiếp tục thanh toán hai cái xương ống quyển. Những cái xương sườn bị tôi lượm từng cái lên, kéo ngăn bàn ra đút vào một nửa, khép ngăn bàn lại và... rắc rắc...
Càng “làm việc” tôi càng hăng say và chẳng bao lâu cuộc “tàn phá” của tôi đã hoàn tất. Bây giờ trong phòng ngổn ngang những mảnh xương vụn, những khúc xương gẫy và một màng bụi mịt mù. Lượm một mảnh xương sọ nằm sát chân lên, mảnh xương má bên trái tôi xô cửa bước ra, huỳnh huỵch tiến thẳng tới phòng ngủ của Tân. Tôi còn nhớ rõ như mới ngày hôm qua, những giọt mồ hôi của tôi, thi nhau rơi lã chã trên mặt hành lang.
Tới trước cửa phòng Tân tôi ngưng lại, giơ chân đá thật mạnh khiến cánh cửa bật tung ra. Đèn trong phòng vẫn bật sáng tự lúc nào, và tôi thấy Tân đang ngồi trên giường co rúm cả người lại, có lẽ vì kinh hoàng. Thấy tôi cầm miếng xương bước vào với vẻ giận dữ, mặt mày Tân tái ngắt người anh run lẩy bẩy. Tôi bắt đầu lên tiếng. Tôi không nhớ lúc đó tôi nói những gì mà chỉ biết đại khái là những lời giận dữ, sỉ vả Tân vì cái trò ma quái rẻ tiền của anh, vì việc dàn cảnh để biến tôi thành một trò hề. Tôi không biết tôi đã nói trong bao lâu, mà chỉ nhớ rằng lúc đó tôi chợt cảm thấy phục tài hùng biện của chính mình.
Với bàn tay máu còn đang nhỏ giọt, với mái tóc đẫm mồ hôi phủ xuống khuôn mặt giận dữ đến cực độ, lúc đó coi tôi chắc không giống ai. Trong khi đó Tân thu mình ở đầu giường, có lẽ giống như tôi khi vừa nhìn thấy “hồn ma”. Anh ngồi run rẩy không nói được một lời, tuy một hai lần tôi thấy anh liếm môi như toan lên tiếng. Hình như Tân đang bận suy nghĩ cái gì, vì hai tay anh đưa lên đưa xuống, đôi môi anh thỉnh thoảng lại mấp máy nhưng không một âm thanh nào thoát ra. Đột nhiên có tiếng chân chạy huỳnh hụych bên ngoài hành lang, rồi vợ Tân lao vào mặt mày tái ngắt run lẩy bẩy:
- Có chuyện gì đó? Trời ơi! Chắc nó lại hiện lên nữa phải không?
Thấy Tân đang ngồi co rúm run rẩy trên đầu giường, nàng chạy tới ngồi sát bên chồng và cả hai cùng nhìn tôi chờ đợi. Tôi cho nàng biết những gì xẩy ra trong phòng ngủ của tôi. Tôi nói rằng tôi đã làm hỏng việc dàn cảnh trò ma quái láo lếu của họ, để biến tôi thành trò cười... Trong khi tôi nói Tân có vẻ ngơ ngác, làm như không hiểu tôi đang nói gì. Thấy thế tôi bèn gằn giọng:
- Tôi đã đập nát món đồ chơi quái gở của ông bà thành hàng trăm mảnh rồi! Về Sài Gòn tôi sẽ cho tất cả bạn bè hay cái trò chơi hèn hạ này. Rồi tôi ném miếng xương trên tay xuống sát cái chân giường, gần chỗ hai vợ chồng Tân đang ngồi:
- Đó hãy giữ lại món quà kỷ niệm trò chơi đốn mạt của ông bà đi!
Tân nhìn thấy mảnh xương và trong một thoáng, anh khiến tôi sợ hãi. Anh la hét thất thanh như con heo bị thọc huyết. Anh la hét, la hét tới độ vợ anh, có lẽ vừa sợ hãi vừa kinh ngạc như tôi, ôm lấy anh vỗ về như vỗ về một đứa trẻ. Rồi Tân xô vợ ra bước xuống đất, vừa la hét vừa ngồi thụp xuống, run rẩy lượm mảnh xương dính đầy máu lên. Khi anh đứng lên tình hình chợt biến đổi, mở đầu cho sự hãi hùng thực sự đêm hôm đó. Cầm mảnh xương trong tay Tân đột nhiên nín bặt, có vẻ như đang lắng nghe một cái gì.
Rồi anh lẩm bẩm:
- Tới giờ rồi, tới giờ rồi...
Trước khi té xuống đập đầu vào cạnh giường chảy máu. Mảnh xương trong tay anh văng vào một góc phòng. Không suy nghĩ tôi bước tới nâng Tân dậy. Mặt mũi anh bơ phờ hốc hác và đầy máu. Tuy nhiên anh vẫn lẩm bẩm:
- Nghe kìa... nghe kìa...
Vợ Tân và tôi nhìn nhau và lắng tai nghe. Khoảng mười giây sau tôi nghĩ rằng tôi nghe thấy một cái gì. Tôi không chắc lắm nhưng tôi không thể lầm được. Hình như có tiếng chân di chuyển thật êm, thật nhẹ ngoài hành lang. Rồi những bước chân nghe rõ hơn trên sàn gỗ, đang tiến về phía chúng tôi. Tân bước tới chỗ vợ đang ngồi run rẩy trên giường mặt mày tái ngắt, kéo mặt vợ úp vào vai anh. Rồi Tân tắt đèn kéo vợ xuống và cả hai nằm úp mặt lên một cái gối trên giường, như cố tránh né hoặc không muốn nhìn thấy một cái gì.
Bây giờ chỉ còn lại mình tôi đối diện với cánh cửa mở toang và tiếng chân mỗi lúc một gần. Tôi đưa tay vỗ vai vợ Tân để tìm đồng minh, nhưng người đàn bà không phản ứng. Sự sợ hãi sự hèn nhát của họ có lẽ đã kéo tôi về phe với họ. Hai chân tôi tự nhiên khuỵu xuống và tôi thấy mình cũng úp mặt xuống giường. Cả ba chúng tôi nằm yên hầu như nín thở, lắng nghe.
Bây giờ tiếng chân đã dừng lại ngay trước cửa phòng. Tôi cố gắng ngước đầu lên nhưng thần kinh tôi hình như tê liệt, khiến tôi không còn điều khiển nổi một phần thân thể của mình nữa. Rồi chúng tôi nghe như có tiếng áo quần xào xạc, tiếng thở xì xì và biết rõ “nó” đã bước vào phòng. Tôi cố gắng ngóc đầu lên nhưng hình như bị một sức mạnh vô hình đè xuống.
Tôi thầm sỉ vả sự hèn nhát của mình trong khi tai vẫn lắng nghe tiếng “nó” di chuyển trong phòng. Rồi những bước chân dừng lại ở góc phòng, nơi có mảnh xương sọ mà Tân vừa đánh rơi. Rồi tôi nghe thấy tiếng bước chân hòa lẫn những tiếng loạt xoạt, tiến về phía cửa phòng, bước ra ngoài và từ từ đi xa. Trong một phút sự can đảm đột nhiên trở lại, tôi đứng bật dậy lao mình ra cửa nhìn theo về cuối hành lang, nơi tôi nghĩ rằng tôi nhìn thấy một cái gì mờ nhạt mỗi lúc một xa. Rồi chỉ một giây sau tất cả hoàn toàn trống vắng.
Tôi thẫn thờ quay vào phòng nói với Tân:
- Ông bật đèn lên đi.
Ánh đèn vừa bật sáng tôi nhận thấy ngay mảnh xương ở góc phòng đã biến mất, và vợ Tân đang bất tỉnh. Tân hoàn toàn như kẻ mất hồn và phải mất tới gần mười phút, tôi mới khiến vợ Tân tỉnh lại. Trong khi Tân lẩm bẩm, mà tôi không hiểu anh muốn nói gì hoặc đang cầu nguyện, tôi chỉ nghe được một câu đáng nhớ, khi Tân nói với tôi bằng giọng của kẻ mơ ngủ:
- Ông không nói chuyện với cô ta phải không?
Sau đó ba chúng tôi ngồi bên nhau trên giường cho tới sáng. Thực ra vợ Tân đã ngủ gục sau một hai tiếng đồng hồ. Trong giấc ngủ này chắc chắn nàng chỉ nằm mơ toàn ác mộng nên thỉnh thoảng lại run rẩy, giẫy giụa và la ú ớ khiến tôi phải đánh thức nàng dậy mấy lần. Tân thì hoàn toàn không nhờ cậy được gì khi anh ngồi yên lặng như một pho tượng không hồn, tuy có đôi ba lần anh nói với anh những gì tôi không nghe rõ.
Trong đời tôi chưa bao giờ đêm dài đến thế! Thành thực mà nói, cứ mỗi phút trôi qua tôi lại cảm thấy thêm khổ sở, nhưng không dám làm gì khác hơn là tiếp tục ngồi bó gối trên giường. Hai biến cố khủng khiếp trong cùng một đêm, hồn ma ngồi dưới chân giường và những tiếng chân vô hình tiến vào phòng lượm mảnh xương rơi, khiến quan điểm vô thần của tôi hầu như hoàn toàn sụp đổ.
Trong khi ngồi co rúm trên giường, tôi không biết làm gì khác hơn là lấy khăn tay quấn chặt chỗ máu chảy. Những tiếng gà gáy đầu tiên vọng lại từ phía xa xa, chẳng khác gì những liều thuốc hồi sinh đối với chúng tôi. Và khi những tiếng chim ríu rít trên cành hòa lẫn với giữa những vạt sáng đầu tiên trong ngày, chúng tôi biết ngay sẽ phải làm gì. Tuy nhiên cả ba chúng tôi vẫn ngồi bất động, cho tới khi bác quản gia già bước vào. Tân lên tiếng với giọng khàn khàn mệt mỏi:
- Bác Tư nói bà bếp chuẩn bị điểm tâm. Sáng nay tôi muốn ăn ở nhà.
Bác Tư là quản gia trung thành của vợ chồng Tân, và chắc chắn bác sẽ không hở môi với bất cứ ai, về cảnh tượng lạ lùng mà bác nhìn thấy. Bác Tư đi rồi nhưng sự xuất hiện của bác khiến chúng tôi sực tỉnh. Tôi nói với Tân là tôi phải về phòng. Tuy nói như vậy nhưng thực ra tôi chỉ muốn bước ra phòng khách, ngồi chờ tới khi trời sáng hẳn chứ không đủ can đảm trở về phòng ngủ, dù rất muốn biết bộ xương bị tôi đập nát, có còn ở đó hay không, vì tôi mường tượng một sự liên hệ nào đó giữa bộ xương bị tôi đập nát, và những bước chân vô hình trong phòng ngủ của Tân.
Tưởng tôi nói thật Tân có vẻ ngại ngùng nhưng cũng bước xuống giường, nói là anh sẽ đi với tôi. Vợ Tân đồng ý ở lại trong phòng, sau khi yêu cầu Tân kéo hết màn cửa ra và đừng đóng cửa ra vào. Khi tôi và Tân bước ra khỏi phòng thì trời đã sáng hẳn khiến chúng tôi thêm hăng hái. Tới trước cửa phòng ngủ của tôi, hai đứa chúng tôi hơi ngần ngại trước khi bước vào. Trong phòng vẫn hơi mờ mờ vì mành cửa sổ được buông xuống vào buổi tối trước khi tôi đi ngủ.
Không ai bảo ai tôi và Tân chia nhau bước tới hai cánh cửa sổ kéo màn cửa lên. Ánh sáng dịu dàng của buổi ban mai rọi sáng căn phòng. Tôi nhìn quanh phòng nhưng không thấy một mảnh xương nào hết. Căn phòng vẫn ngăn nắp như khi tôi lên giường vào tối hôm trước, ngoại trừ cái mền nằm bừa bãi. Một điều khác nữa là chúng tôi thấy rất rõ những vết máu nhểu đầy phía chân giường, nơi tôi tung cú đấm vào hồn ma. Máu cũng dính đầy những ngăn kéo, nơi tôi bẻ gẫy những khúc xương, và trên mặt thảm nơi tôi xé nát tấm vải liệm ra thành từng mảnh vụn, và cũng là nơi tôi hăng say làm công việc tàn phá bộ xương.
Tôi quay nhìn Tân và thấy mặt anh lộ vẻ hãi hùng. Trên tay Tân là một mảnh vải trắng nhỏ tả tơi trông như một mảnh vải liệm bị xé nát.
Truyện Ma
#59
Gửi vào 16/06/2011 - 18:19
PHO TƯỢNG SỐNG
Đã một ngày rồi tôi đi gần khắp Sài Gòn tìm mướn phố. Nhưng muốn được một phố yên lặng đến hôm nay, đi mỏi cả chân mà vẫn chưa thấy. Một người quen chỉ ở đường T. có một căn lầu rộng giá hạ có vườn chung quanh. Tôi đến nơi cùng một lúc có một người đàn ông có vẻ nghệ sĩ cũng hỏi thuê. Bà chủ phố đã hơi già kể lể thành thật:
- Cái lầu tuy đã hơi cũ nhưng tầng trên còn tốt, chồng tôi chết nên nghèo không có tiền sửa sang lại mới. Ai đến thuê cũng bảo là rộng quá và xa thành phố, nhưng tôi chắc rằng hai ông được vui lòng vì ở đây yên tĩnh lắm.
Chúng tôi đi xem qua. Phía dưới lầu đã hư hao ít nhiều bà chủ phố ở, còn bốn phòng tầng trên thông với nhau có cửa khóa. Nếu một người mướn thì rộng lắm và phải trả nhiều tiền vô ích. Người cùng hỏi thuê với tôi nói:
- Hay là ông với tôi cùng thuê chung, tiền phố chia hai trả mỗi người hai mươi đồng. Tôi xin lấy hai căn phòng ở trong và sẽ vui lòng trả thêm nếu ông muốn.
- Nhưng mỗi lúc đi đâu ông phải ngang qua chỗ ở của tôi hẳn không tiện lắm, với lại...
-... Tôi và ông chưa quen nhưng sẽ biết nhau. Tôi chỉ ở một mình thôi.
Tôi nhận lời và ngay hôm đó đã dọn đến ở, cùng một lúc với người kia đưa đồ đạc lại tự giới thiệu.
- Nguyễn Thư.
Ngày hôm sau tôi ngủ dậy hơi trưa như thường lệ, khi bà chủ phố vào phòng quét dọn, tôi hỏi xem ông Thư đã dậy chưa.
- Lúc bảy giờ.
Tôi thấy dễ chịu vì hôm nào ông cũng dậy sớm như thế thì không làm phiền đến tôi. Và một độ lâu tôi không thấy mặt Nguyễn Thư. Tôi ở tại đây đã được nửa tháng và gần như quên người cùng trọ.
Một đêm vào lúc mười hai giờ, có tiếng gõ cửa phòng rồi Nguyễn Thư vào.
- Chào ông. Hẳn tôi làm phiền ông?
- Không đâu. Tôi vừa viết xong.
- Vậy tôi có thể ngồi đây trong chốc lát cùng ông?
- Ông cứ tự nhiên.
Lấy một cái píp ở trong túi nhét thuốc vào, ông còn hỏi tôi:
- Thật tôi không làm phiền ông đấy chứ?
- Tôi vừa đến chỗ trắc trở của nguồn văn. Tôi đang nghĩ về trạng thái tâm hồn những người điên.
Nguyễn Thư mỉm cười.
- Có lẽ tôi giúp được ông một phần.
Rồi Thư nói rành mạch về vấn đề ấy.
- Hẳn trước đây ông có học ở trường thuốc?
- Tôi chỉ đọc trong sách.
Từ hôm ấy trở đi thỉnh thoảng tôi mới gặp ông. Có đêm khuya ông Thư mời tôi đi uống rượu hay tôi mời lại ông. Chúng tôi bàn cãi rất hợp ý về các vấn đề. Thư tỏ ra thông thái và sâu sắc, nhưng tránh nói đến mình. Người có vẻ hơi bí mật. ở cửa sang phòng tôi ông treo một tấm màn dầy, ngăn không để lọt một tiếng động ở trong. Khi đi đâu ông khóa cửa lại rất kỹ và bà chủ phố chỉ được vào quét chùi trong phòng lúc sáng sớm, trong khi Thư ngồi đọc sách đợi.
Căn phòng không có vẻ gì đáng chú ý. Nhưng cái buồng phía sau ông có thể để được lắm đồ đạc. ở cửa treo tấm màn dầy kín, ông lại đặt thêm hai thanh sắt với chìa khóa chữ. Lẽ tất nhiên là bà chủ phố tò mò muốn biết đến cái buồng bí mật này. Một hôm bà trèo lên một cây cách xa cửa sổ cái buồng độ mươi thước để nhìn vào. Nhưng không thấy gì hết. Ngoài cửa sổ có treo một tấm vải xanh.
Sau đó bà chủ phố kiếm chuyện hỏi ông Thư:
- Ông che kín cái cửa sổ làm gì vậy?
- Tôi không muốn ai tò mò nhìn vào phòng tôi.
- Nhưng ở phía dưới có ai nhìn lên được đâu?
- Nếu có kẻ trèo lên cây trong vườn thì sao?
Bà chủ phố kể lại câu chuyện này với tôi và kết luận rằng, chỉ có một người làm việc gì bí mật mới như thế.
- Có lẽ ông ấy làm bạc giả chăng?
Từ đó mỗi cắc hay bạc giấy ở tay Thư đưa ra bà chủ phố xem xét rất kỹ, nhưng không có vẻ gì nghi ngờ được. Không có người đi lại với ông Thư, thỉnh thoảng ông nhận những hộp, thùng gỗ to hay nhỏ, nhiều kiểu khác nhau do mấy người cu li đưa đến. Cái gì đựng ở trong bà chủ phố rất muốn biết đến, nhưng cũng không làm sao rõ được. Ông Thư đóng cửa phòng lại, lấy đồ đựng ở trong ra, rồi đưa các thùng không cho bà.
Nếu có hỏi ông lạnh lùng trả lời:
- Tôi không muốn ai để ý đến.
Một buổi chiều một người bạn gái đến với tôi. Tôi ngồi ở bàn viết còn nàng đọc báo. Trong lúc ấy có tiếng gọi cửa ở ngoài nhưng không thấy ai mở.
Thơ bảo tôi:
- Để em xuống mở cho nếu người ta hỏi anh thì sao?
Thơ xuống lầu vài phút sau trở lên.
- Có một cái hộp gửi đến cho anh.
Tôi đứng dậy ngắm nghía cái hộp không đề tên ai.
- Anh chẳng hiểu cái này gửi cho ai. Có lẽ người ta lầm chăng?
- Người cu li mang đến tay cầm một miếng giấy đề đường và số nhà này thì của anh chớ ai?
Trong lúc ấy tôi quên không nghĩ đến Nguyễn Thư. Thơ nói:
- Anh mở ra xem cái gì trong ấy?
Tôi lấy một con dao nhọn cạy nắp ra nhưng mũi dao gãy. Tìm chung quanh không thấy có một vật gì để dùng vào đây được.
- Chịu thôi.
Thơ cười:
- Anh tầm thường lắm.
Rồi nàng chạy xuống phía dưới đem lên một con dao lớn, lấy ở trong bếp bà chủ phố. Thơ ngồi xuống cố mở một cách khó khăn vì nắp hộp cứng. Đôi má nhợt thành đỏ, và tôi nghe tiếng trái tim đập trong làn áo mỏng. Thơ đưa tay lên ngực.
- Anh làm thế cho em! Lại đau tim rồi.
Thơ đẹp như mùa thu tươi trẻ nhưng yếu. Nàng đau tim đã lâu. Tôi rút mấy cái đinh và cạy nắp mở ra. Trong hộp thấy bọc giấy láng, Thơ thọc hai bàn tay xinh trắng vào. Tôi xây lưng để con dao trên bàn.
- Anh cái chi mềm mềm.
Thình lình nàng hét lên một tiếng khủng khiếp rồi ngã lui. Tôi vực nàng đặt lên đi văng; Thơ bất tỉnh. Tôi vội vàng lấy dầu măng xát vào mang tai và hai cánh tay một lúc, mới nghe tiếng đập nhẹ nhàng của trái tim thoi thóp.
Lúc ấy có tiếng gõ cửa:
- Ai?
- Tôi.
- Cứ vào.
Nguyễn Thư bước vào hỏi:
- Gì thế?
Tôi kể lại chuyện vừa xảy ra.
- Cái hộp này của tôi.
- Của ông? Mà trong đựng cái gì làm cho em tôi đến khiếp đảm như thế?
- Chẳng có gì lạ.
- Mèo chết.
Thơ đã tỉnh nói.
- Cái hộp đựng toàn mèo chết.
Ông Thư lấy cái nắp định đậy lên hộp, tôi đến nhìn kỹ vào trong. Thật thế cái hộp đầy cả mèo chết, và trên hết con mèo đen lớn.
- Ồ ông định để làm gì thế?
Nguyễn Thư mỉm cười tự nhiên rồi thong thả nói:
- Chắc ông cũng biết người ta nói rằng da mèo trị bệnh đau nhức xương cốt rất hay. Tôi có một người bị bệnh ấy khá nặng nên tính gửi cho những da mèo này.
Nói thế rồi ông lễ phép chào, lấy cái hộp đi qua phòng mình. Một tuần lễ sau một cái hộp khác gửi đến cho ông Thư, lần này bằng dây thép, ở Pháp qua. Tôi nhận thấy ở ngoài đề của một nhà hàng bán sáp thơm. Thật vậy ông Thư là một người lạ lùng. Một lần khác bà chủ phố hốt hoảng đến nói với tôi, khi tôi vừa bước về nhà.
- Hôm nay có đến một cái thùng lớn bề dài tới hai thước tây, bề cao cũng gần nửa thước. Chắc là xác người ở trong.
Nhưng vài giờ sau ông Thư đưa cái thùng ra cho bà chủ phố, và luôn mấy ngày bà lục soạn khắp nơi trong lúc quét chùi, cũng không tìm ra được dấu vết gì hợp với sự nghi ngờ. Lần lần chúng tôi cũng không để ý đến những hành động của ông Thư nữa. Tuy thỉnh thoảng ông ta vẫn nhận được thùng, hộp bí mật, phần nhiều nhỏ như cái đựng mèo chết, có khi một cái dài.
Tôi không muốn dò xét nữa, vì ông Thư chẳng có vẻ gì đáng chú ý hơn. Ban đêm khuya có khi ông đến vài giờ với tôi, mà tôi phải thú thật rằng nói chuyện với ông Thư là một cái thú. Mỗi khi Thơ đến, nếu ông Thư vào phòng tôi vài phút thì thế nào cũng có một chuyện xảy ra, rồi nàng phải chết giấc. Tim nàng đã đến thời kỳ đau nặng nên chết bất kỳ lúc nào rất thường lắm, không duyên cớ nữa. Thơ bị chết giấc như người ta ngủ. Và những cơn chết giấc mỗi lúc kéo dài thêm đáng lo ngại. Tôi vẫn sợ sẽ phải thấy nàng chết trên tay.
Một buổi chiều Thơ đến tươi cười khác thường.
- Cô em đi vắng, em có thể ở lại với anh cho đến mười giờ.
Nàng gọt cam mang đến cho tôi rồi ngồi dựa đầu vào vai.
- Để em đọc bài của anh viết.
Hôm nay nàng vui lắm và thấy được khỏe.
- Em chắc trái tim đã bớt nhiều đập đều như thường.
Tối lại Thơ gọi bà chủ phố nhờ đi mua đồ ăn, để ở lại dùng cơm với tôi.
- Hôm nay ở với anh thích ghê. Miễn là ông Thư kỳ dị không đến.
Bỗng có tiếng gõ cửa.
- Vào đi.
- Hẳn tôi làm phiền...
- Phải lẽ tất nhiên ông làm phiền.
Thơ nói lớn.
- Ông không thấy sao?
- Tôi xin đi ngay.
- Ông đã làm phiền chúng tôi. Chỉ có mặt ông ở đây cũng đã khó chịu rồi. Vậy ông còn đợi gì nữa?
Thơ nói xong thì giọng nói tắt, hai mắt nhắm lại hai bàn tay run rồi ngã trên đi văng.
- Lại chết giấc nữa. Ông Thư xin lỗi ông, em tôi đau nhiều lắm chỉ đáng thương hại.
Tôi bắt đầu xát với dầu măng như mỗi lần trước nhưng không kết quả. Nàng nằm cứng đờ. Tôi nhờ ông Thư xuống bếp kiếm chai dấm mang lên, nhưng cũng vô công hiệu. Ông Thư vào phòng mình đem ra một cái hộp, bảo tôi lấy cái khăn để trước mũi, rồi lấy một miếng long não trong hộp để dưới mũi Thơ. Hơi rất nồng làm cho tôi phải hắt hơi. Thấy Thơ có vẻ dễ chịu, một phút sau thân thể nàng rung động dữ dội. Tôi nói:
- Cảm ơn thế là được.
Thơ uốn nghiêng mình hai mắt mở ra. Nhưng mà nàng gặp mặt ông Thư. Một tiếng hét hãi hùng từ đôi môi ngậm cứng đưa ra và nàng lại chết giấc. Chúng tôi thử qua đủ các phương pháp cấp cứu nhưng Thơ vẫn như một pho tượng không cử động. Tôi để tai lên ngực nàng nhưng không nghe một tiếng đập nhỏ. Phổi cũng ngừng thở. Tôi lấy một cái gương đặt trên mũi nàng nhưng không có hơi làm mờ.
Ông Thư nói:
- Tôi tưởng rằng...
Rồi ngắt lời:
- Chúng ta đi tìm một viên thầy thuốc.
Tôi đứng thẳng người lên:
- Phải rồi trước mặt nhà có một người nhờ ông đến đấy.
Tôi chạy lại cuối đường có bác sĩ Nam bạn tôi.
húng tôi nhảy xuống tầng cấp lầu. Tôi chạy mau đến nhà bác sĩ Nam bấm chuông ngoài cổng. Một lúc thấy bác sĩ Nam mặc quần áo mát và đi dép ra.
- Xin lỗi tên bồi đi khỏi, chỉ có một mình tôi ở nhà. Nhưng việc gì thế?
- Đi với tôi ngay bây giờ! Lập tức!
- Để tôi mặc quần áo đã. Vào đây tôi sửa soạn gấp và anh kể việc gì đã xảy ra?
Tôi theo vào nhà.
- Anh biết Thơ chớ, tôi tưởng anh đã gặp một lần ở nhà tôi rồi. Thơ...
Rồi tôi kể lại việc đã xảy ra. Bác sĩ Nam đã sẵn sàng. Ra đường ông Thư đến gặp chúng tôi. Tôi hỏi:
- Thầy thuốc ông kêu có đến không?
- Không ! Ông ta đi vắng.
Chúng tôi hối hả về nhà bước lên thang lầu. Bác sĩ Nam vào phòng trước hỏi:
- Người bệnh ở đâu?
- Trên đi văng.
- Trên đi văng? Không có ai hết.
Tôi đến gần... Thơ không còn nằm ở đây nữa. Tôi kinh ngạc không nói gì được hết.
Bác sĩ Nam bảo:
- Có lẽ nàng đã tỉnh dậy đi vào nằm giường trong.
Chúng tôi vào phòng ngủ không thấy có một người nào. Trên giường vẫn y nguyên. Đến trong phòng ông Thư cũng không có ai hết. Rồi tìm trong nhà bếp, buồng của bà chủ phố khắp cả. Thơ đã đâu mất.
Bác sĩ Nam cười:
- Chắc nàng tỉnh dậy rồi về một cách bình thường trong lúc các ông tưởng đến những câu chuyện dị kỳ.
- Nhưng, vậy thì lẽ tất nhiên ông Thư đã thấy nàng, vì ông ở mãi dưới đường.
- Tôi đi lại trước nhà nên có lẽ khi trở ra, nàng đã lẻn đi phía sau lưng tôi chăng ?
Tôi nói lớn:
- Không có thể như thế được. Nàng đã nằm thẳng cứng người trái tim không đập nữa, hơi thở cũng ngừng. Trong trường hợp này không một người nào có thể đứng dậy và đi một cách tự nhiên như thế được.
- Nàng đã gạt ông bạn tôi và cười ngặt nghẽo, khi ông bạn hấp tấp đi xuống lầu.
Bác sĩ cười chào chúng tôi, vừa lúc bà chủ phố đi mua thức ăn trở về.
- Cô ấy đã đi rồi sao?
- Phải. Tối nay ông Thư dùng cơm với tôi nhé?
- Cám ơn tôi xin nhận lời.
Chúng tôi ăn, uống rượu nói chuyện vui vẻ.
- Tôi thật buồn cười về câu chuyện vừa rồi. Có lẽ nàng đã giận tôi.
Ông Thư hỏi:
- Ông sẽ viết thư cho nàng?
- Có. Ngày mai đây tôi sẽ đến tận nhà nếu biết được chỗ của nàng.
- Vậy ông không biết nàng ở đâu sao?
- Không. Tôi chỉ biết nàng ở Gia Định, không còn cha mẹ, ở với một người cô, mà hình như chẳng được tử tế cùng nàng.
Thấy ông Thư có vẻ suy nghĩ tôi nâng ly rượu nói:
- Chúng ta uống đi. Nếu em tôi không chịu được ông thì cũng đã nhường chỗ lại cho ông bạn tối nay.
Chúng tôi uống nhiều rượu nói chuyện đến khuya. Tôi vào phòng ngủ đến gần cửa sổ. Dưới vườn lá cây rung động lấp lánh ánh trăng. Tôi bỗng nghe văng vẳng như có tiếng ai gọi tên mình. Tôi chăm chú lắng nghe một lần nữa... thì ra giọng của Thơ.
Tôi kêu trong đêm lặng:
- Thơ..Thơ.
Không có tiếng trả lời. Tôi ngờ mình uống rượu say nghe lầm lạc. Tại sao nàng lại đi trong vườn giờ này? Vào giường vừa đặt mình xuống, tôi đã say ngủ thiếp đi. Tôi lại nghe tiếng Thơ gọi tên tôi một lần nữa. Tôi thức giấc lau mồ hôi ở trán và lắng tai nghe. Bây giờ nữa thật yếu ớt nhưng rõ ràng tôi nghe tiếng nàng kêu. Nhảy xuống giường tôi chạy lại cửa sổ.
- Thơ.. Thơ.
Có gì đâu? Tất cả đều yên lặng. Tiếng tôi gọi run trong bóng tối rồi tan mất. Tôi muốn đi ngủ lại nhưng một tiếng kêu, một tiếng cuối cùng rõ ràng hơn hết, như từ một chuyện ghê gớm trong cơn mê hoặc đưa ra. Không còn nghi ngờ gì nữa chính là tiếng của Thơ. Nhưng lần này tiếng không từ ở vườn đưa lên, mà tôi nghe như ở trong một căn phòng bên đây. Tôi đốt đèn nến lên tìm dưới giường, sau màn trong tủ. Không ai có thể ẩn núp ở đây được. Tôi ra bàn giấy. Chẳng có một ai.
Nếu Nguyễn Thư... mà sao tôi có ý nghĩ đen tối như thế! Nhưng biết đâu có cái gì là không thể có ? Không nghĩ gì nữa, tôi chạy lại cửa phòng Thư vặn quả nắm. Cái cửa đã sét hư tôi lấy hết sức đẩy, ống khóa gãy, và cửa mở toang ra. Tôi cầm đèn đâm sầm vào.
- Cái gì thế?
Thư nằm thẳng trên giường đưa hai tay dụi mắt hỏi. ý nghĩ của tôi hẳn vô lý quá. Tôi nói:
- Xin lỗi ông bạn về sự quấy rầy này. Một cơn mê hoặc làm cho tôi mất cả lý trí.
Nói thế rồi tôi trở về phòng. Ngày mai lại, tôi viết một bức thư dài cho Thơ. Ông Thư vào ngay lúc tôi đề bì, nhìn qua trên vai tôi rồi nói:
- Mong rằng ông bạn nhận được sớm bức thư trả lời.
Nhưng tôi không nhận được gì hết. Bốn ngày sau tôi viết một bức thư nữa, và lần thứ ba, nửa tháng sau. Cuối cùng tôi nhận được một bức thư ngắn, nhưng với một tuồng chữ khác hẳn:
Anh,
Tôi đọc những dòng này cho một người bạn viết hộ. Chắc anh cũng đoán ra một cách dễ dàng vì sao tôi lại chẳng muốn biết đến anh nữa. Anh đưa người bạn quái gở của anh đến một bên tôi, nên tôi muốn xa anh vả lại tôi cũng sắp lấy chồng.
Thơ.
Theo bức thư này kèm ba cái thư trước của tôi đã gửi đi chưa mở, đề trả lại. Tôi viết cho Thơ một lần nữa, nhưng vài ngày sau thì cũng được trả lại. Hai tháng sau, một hôm ông Thư cho tôi hay rằng ông ta sắp thôi ở đây.
- Ông bạn định xa Sài Gòn?
- Phải tôi lên Đà Lạt.
- Bao giờ thì đi?
- Thật ra thì tôi đã tính đi rồi, nhưng có người bạn ăn lễ lục tuần tôi đã lỡ hứa đến dự. Nếu ông bạn cùng đi với tôi thì vui lắm.
- Đến nhà ông bạn?
- Phải. Trong bảy tháng chúng ta tử tế chung sống một nhà, vậy ông bạn không nên từ chối một đêm cuối cùng với tôi. Chỗ ấy ông bạn không phải ngại ngùng chi.
- Được, cám ơn.
Tối lại ông Thư đến rủ tôi đi. Ông Thư đã mướn sẵn một cái xe hơi. Khi xe mở máy chạy tôi không để ý đến các con đường đi qua, và nửa giờ sau xe ngừng. Thư xuống trước bảo người sốp phơ ở đợi, rồi cùng tôi đi vào cái cửa trắng, đưa đến một khu vườn tăm tối. Rồi đến cái sân rộng vào một căn nhà ngói, phía sau là một khoảng tối rộng. Tôi theo Thư bước vào nhà. Một gian phòng đầy cả tràng hoa. Hẳn người bạn già của ông Thư là một kẻ có danh vọng. Tôi chưa thấy ở đâu trong một buổi lễ mừng lại có tràng bằng cườm, bằng vải nhiều như thế, từ vách lên đến trần nhà treo khắp nơi.
Thư giới thiệu tôi.
- Đây là bạn của tôi. Ông Đa, và những người thân thuộc.
Người gọi là ông Đa đưa hai tay bắt lấy tay tôi mà dặt, nói:
- Rất hân hạnh cho chúng tôi.
Người thấp ốm vẻ mặt ông Đa khô khan. Một ít râu trên mép hai môi thâm, có lẽ vì ghiền ả phiện khi cười để lộ hàm răng thưa. Bốn người mặc quần áo bịt khăn toàn màu đen, đứng dậy chào chúng tôi. Ông Đa nói:
- Đây là con tôi.
Vừa trỏ người chỉ có một mắt.
- Còn là mấy người giúp việc.
Người giúp việc? Và ông Đa làm gì mà có những tràng hoa quý đẹp khen tặng như thế?
"Kính tặng đồng nghiệp yêu quý của chúng tôi. Hội ái hữu Đồng Nai".
Đây là một người có địa vị khá? ở một tràng hoa khác:
"Kính tặng một vị quan thanh liêm".
Ông Đa là một quan chức hưu trí?.
"Tặng một người bạn tận tụy với nghề thuốc".
Hội y sỹ Pháp Nam. Thế nào? Ông Đa là một vị danh y nữa sao? Một người như thế mà chưa bao giờ tôi được nghe nói đến. Một hàng chữ khác:
"Kính tặng một vị ân nhân. Hội Phúc thiện Nam kỳ".
Còn ở một tràng hoa tím:
"Tặng một đồng nghiệp tài hoa. Kịch đoàn Sài Gòn"
Người lạ lùng này thuộc vào hạng nào mà ai cũng trọng như thế? Bắt đầu bữa tiệc ông Thư mở cái gói đem theo, lấy ra một cái sọ người trắng tinh:
- Tôi xin tặng ông bạn già một vật làm kỷ niệm, tình giao hảo trong bao lâu của chúng ta.
Rồi Thư lấy chai rượu đỏ thẫm rót vào sọ dừa, cưa ở trên đầu lâu như miệng ly uống một hơi. Đến ông Đa, rồi chuyển qua cho mỗi người. Nửa chừng bữa tiệc ông Thư nhìn đồng hồ ở tay nói:
- Xin lỗi các ông tôi phải đi ngay, kẻo trễ chuyến xe lửa chín giờ. Còn ông bạn tôi xin vui lòng ngồi lại nói chuyện rồi về sau.
Ông Đa ân cần giữ tôi lại. Nguyễn Thư chào mọi người hấp tấp ra đi. Một lần nữa, ông Đa rót rượu đầy cái sọ dừa mời tôi.
- Ông uống đi cho. Ông là bạn của ông Thư thì đối với tôi rồi cũng thân mật như vậy.
Ông Đa lại nói với một giọng đầy rượu:
- Khi nào ông có cần gì xin mời ông lại đây. Tôi sẽ làm vui lòng ông. Ông hỏi ông Thư thì biết chỉ toàn những đồ tốt.
Thì ra ông này là một người buôn bán.
- Lẽ tất nhiên nếu cần dùng gì, tôi nghĩ ngay đến ông. Hiện thời tôi đã có đủ rồi.
- Sao? Vậy ông mua ở đâu?
Ông Đa hấp tấp hỏi tôi với sự kinh ngạc. Thật ra tôi cũng không hiểu rõ là ông ta muốn bán gì, nhưng giữ phép lịch sự, nói qua cho rồi chuyện:
- Ở một người bạn hàng quen. Mà ông có giá nhất định không?
Thì ông Đa ngạc nhiên vô cùng:
- Giá nhất định Người quen ông bán giá nhất định.
- Phải giá nhất định, phải chăng, đồ lại tốt tươi, sống cả.
Ông Đa hốt hoảng lên rồi ngã trong tay con người một mắt, rền rĩ:
- Ông nói gì vậy? Người quen ông bán đồ sống à?
Thừa lúc lộn xộn tôi lẻn mình chạy thẳng ra đường, gọi một chiếc xe ngựa đi về ngay. Người đánh xe nói với tôi:
- Đó là nhà của kẻ đào huyệt chôn người.
Cách một tháng sau khi Thư đi tôi cũng đổi chỗ ở. Bà chủ phố giúp tôi dọn đồ đạc. Tôi ràng buộc mấy bức tranh lớn nhưng thiếu dây gai. Bà chủ phố vừa xếp dọn sách báo cho vào rương thấy thế nói:
- Tôi có sẵn trong hộc bàn buồng sau.
- Được để tôi đi lấy.
Tôi vào sục soạn bất ngờ tìm thấy tấm hình mẹ Thơ trong mảnh kính tròn đã mờ, mà trước đây Thơ vẫn thường đeo với dây chuyền ở cổ, và có nói cùng tôi:
- Em giữ tấm hình này cho đến lúc chết.
Tôi đem ra hỏi bà chủ phố:
- Bà được vật này ở đâu?
- Nơi góc buồng của ông Thư, trong lúc quét dọn sau khi ông ấy đi. Tôi định nếu ông ấy có trở lại thì đưa trả.
Tôi giữ lấy vật ấy và nghĩ rồi đây gặp Thơ tôi sẽ đưa lại cho nàng, có lẽ đã làm rơi đứt khi bị chết giấc. Nửa tháng sau tôi nhận được giấy mời đến dự cuộc triển lãm Mỹ thuật, của hội "Nghệ sĩ Việt Nam". Tôi đến gặp lúc ông hội trưởng đã đọc quá nửa bài diễn văn. Người rất đông tôi chen đứng gần sau cùng. Tôi hỏi phóng viên một tờ báo hàng ngày, ông ta đưa ra mấy lời ghi tóm tắt trong cuốn sổ tay:
- Hội "Nghệ sĩ Việt Nam" do một nhóm họa sĩ, điêu khắc đi du học ở Âu Mỹ về, bày ra một cuộc triển lãm đồ sộ có lần thứ nhất ở Đông Dương.
Ông hội trưởng kết cấu đoạn diễn văn:
- Và bây giờ xin mời các ngài đến gần xem những công trình quý báu, mà các nhà nghệ sĩ tài hoa đã đặt hết tâm hồn mình vào đấy.
Rồi ông kéo tấm màn che những tranh tượng lên. Giữa những lời bàn tán khen ngợi và kinh ngạc của mọi người, ông hội trưởng tiếp:
- Đây là một tác phẩm rất thần tình mới lạ, nặn bằng sáp.. "Nàng Thơ".
Nói xong ông đỡ tấm vải phủ sau cùng lên. Mọi người đều tấm tắc.
- Ô... ồ...
Ở phía giữa trong cùng, pho tượng thân ngà phủ qua làn suối tóc dài. Hai mắt xanh biếc mơ màng, lông mi đen dài in bóng lên đôi má hồng tươi, thoáng trông như người sống thật. Tôi đến gần theo những người tới trước, thật gần để trông rõ hơn...
- Trời ơi..Thơ.. Em Thơ !...
Tôi kêu lên nhưng tiếng mất hẳn trong lớp sóng người ồn ào. Tôi muốn la nhưng không thể uốn được lưỡi, chăm chú nhìn pho tượng với sự hãi hùng. Máu đập mạnh óc rung động, tôi phải dựa vào một cái ghế cho khỏi ngã, thì một bàn tay đặt lên vai tôi. Tôi quay lại thấy một cái mặt lạnh lùng... Nguyễn Thư. Thư nắm tay tôi đưa ra khỏi đám đông. Tôi theo hắn như một kẻ không hồn.
- Tôi đi báo cáo ông với nhà chức trách.
- Ông bạn không nên làm thế vì vô ích. Ông không thể bắt được tôi vì tôi không là ai, không phải ai hết.
Ông hội trưởng "Nghệ sĩ Việt Nam" cũng không rõ tôi là ai nữa, vì tôi lấy một tên khác. "Nàng Thơ" cũng như các pho tượng khác tôi đã bán cho hội.
Rồi hắn lại thì thầm bên tai tôi:
- Vả lại như thế có hơn không ? Ông là thi sĩ có phải ông muốn người yêu đẹp đời đời, hơn là bị sâu bọ rúc rỉa dưới mồ không?
Tôi hét lên:
- Đồ Sa tăng..
Nghe tiếng bước nhẹ tôi nhìn lại thấy Nguyễn Thư đi ra ngoài theo một cánh cửa khép lại. Ông hội trưởng đang tỏ lời cảm ơn giữa những tiếng hoan hô ồn ào, và nhận những lời khen ngợi những bắt tay.
Tôi đến gần " Nàng Thơ " mà không ai để ý, chăm chú nhìn nàng:
- Thơ ơi! Thơ ơi!
TXHH
Đã một ngày rồi tôi đi gần khắp Sài Gòn tìm mướn phố. Nhưng muốn được một phố yên lặng đến hôm nay, đi mỏi cả chân mà vẫn chưa thấy. Một người quen chỉ ở đường T. có một căn lầu rộng giá hạ có vườn chung quanh. Tôi đến nơi cùng một lúc có một người đàn ông có vẻ nghệ sĩ cũng hỏi thuê. Bà chủ phố đã hơi già kể lể thành thật:
- Cái lầu tuy đã hơi cũ nhưng tầng trên còn tốt, chồng tôi chết nên nghèo không có tiền sửa sang lại mới. Ai đến thuê cũng bảo là rộng quá và xa thành phố, nhưng tôi chắc rằng hai ông được vui lòng vì ở đây yên tĩnh lắm.
Chúng tôi đi xem qua. Phía dưới lầu đã hư hao ít nhiều bà chủ phố ở, còn bốn phòng tầng trên thông với nhau có cửa khóa. Nếu một người mướn thì rộng lắm và phải trả nhiều tiền vô ích. Người cùng hỏi thuê với tôi nói:
- Hay là ông với tôi cùng thuê chung, tiền phố chia hai trả mỗi người hai mươi đồng. Tôi xin lấy hai căn phòng ở trong và sẽ vui lòng trả thêm nếu ông muốn.
- Nhưng mỗi lúc đi đâu ông phải ngang qua chỗ ở của tôi hẳn không tiện lắm, với lại...
-... Tôi và ông chưa quen nhưng sẽ biết nhau. Tôi chỉ ở một mình thôi.
Tôi nhận lời và ngay hôm đó đã dọn đến ở, cùng một lúc với người kia đưa đồ đạc lại tự giới thiệu.
- Nguyễn Thư.
Ngày hôm sau tôi ngủ dậy hơi trưa như thường lệ, khi bà chủ phố vào phòng quét dọn, tôi hỏi xem ông Thư đã dậy chưa.
- Lúc bảy giờ.
Tôi thấy dễ chịu vì hôm nào ông cũng dậy sớm như thế thì không làm phiền đến tôi. Và một độ lâu tôi không thấy mặt Nguyễn Thư. Tôi ở tại đây đã được nửa tháng và gần như quên người cùng trọ.
Một đêm vào lúc mười hai giờ, có tiếng gõ cửa phòng rồi Nguyễn Thư vào.
- Chào ông. Hẳn tôi làm phiền ông?
- Không đâu. Tôi vừa viết xong.
- Vậy tôi có thể ngồi đây trong chốc lát cùng ông?
- Ông cứ tự nhiên.
Lấy một cái píp ở trong túi nhét thuốc vào, ông còn hỏi tôi:
- Thật tôi không làm phiền ông đấy chứ?
- Tôi vừa đến chỗ trắc trở của nguồn văn. Tôi đang nghĩ về trạng thái tâm hồn những người điên.
Nguyễn Thư mỉm cười.
- Có lẽ tôi giúp được ông một phần.
Rồi Thư nói rành mạch về vấn đề ấy.
- Hẳn trước đây ông có học ở trường thuốc?
- Tôi chỉ đọc trong sách.
Từ hôm ấy trở đi thỉnh thoảng tôi mới gặp ông. Có đêm khuya ông Thư mời tôi đi uống rượu hay tôi mời lại ông. Chúng tôi bàn cãi rất hợp ý về các vấn đề. Thư tỏ ra thông thái và sâu sắc, nhưng tránh nói đến mình. Người có vẻ hơi bí mật. ở cửa sang phòng tôi ông treo một tấm màn dầy, ngăn không để lọt một tiếng động ở trong. Khi đi đâu ông khóa cửa lại rất kỹ và bà chủ phố chỉ được vào quét chùi trong phòng lúc sáng sớm, trong khi Thư ngồi đọc sách đợi.
Căn phòng không có vẻ gì đáng chú ý. Nhưng cái buồng phía sau ông có thể để được lắm đồ đạc. ở cửa treo tấm màn dầy kín, ông lại đặt thêm hai thanh sắt với chìa khóa chữ. Lẽ tất nhiên là bà chủ phố tò mò muốn biết đến cái buồng bí mật này. Một hôm bà trèo lên một cây cách xa cửa sổ cái buồng độ mươi thước để nhìn vào. Nhưng không thấy gì hết. Ngoài cửa sổ có treo một tấm vải xanh.
Sau đó bà chủ phố kiếm chuyện hỏi ông Thư:
- Ông che kín cái cửa sổ làm gì vậy?
- Tôi không muốn ai tò mò nhìn vào phòng tôi.
- Nhưng ở phía dưới có ai nhìn lên được đâu?
- Nếu có kẻ trèo lên cây trong vườn thì sao?
Bà chủ phố kể lại câu chuyện này với tôi và kết luận rằng, chỉ có một người làm việc gì bí mật mới như thế.
- Có lẽ ông ấy làm bạc giả chăng?
Từ đó mỗi cắc hay bạc giấy ở tay Thư đưa ra bà chủ phố xem xét rất kỹ, nhưng không có vẻ gì nghi ngờ được. Không có người đi lại với ông Thư, thỉnh thoảng ông nhận những hộp, thùng gỗ to hay nhỏ, nhiều kiểu khác nhau do mấy người cu li đưa đến. Cái gì đựng ở trong bà chủ phố rất muốn biết đến, nhưng cũng không làm sao rõ được. Ông Thư đóng cửa phòng lại, lấy đồ đựng ở trong ra, rồi đưa các thùng không cho bà.
Nếu có hỏi ông lạnh lùng trả lời:
- Tôi không muốn ai để ý đến.
Một buổi chiều một người bạn gái đến với tôi. Tôi ngồi ở bàn viết còn nàng đọc báo. Trong lúc ấy có tiếng gọi cửa ở ngoài nhưng không thấy ai mở.
Thơ bảo tôi:
- Để em xuống mở cho nếu người ta hỏi anh thì sao?
Thơ xuống lầu vài phút sau trở lên.
- Có một cái hộp gửi đến cho anh.
Tôi đứng dậy ngắm nghía cái hộp không đề tên ai.
- Anh chẳng hiểu cái này gửi cho ai. Có lẽ người ta lầm chăng?
- Người cu li mang đến tay cầm một miếng giấy đề đường và số nhà này thì của anh chớ ai?
Trong lúc ấy tôi quên không nghĩ đến Nguyễn Thư. Thơ nói:
- Anh mở ra xem cái gì trong ấy?
Tôi lấy một con dao nhọn cạy nắp ra nhưng mũi dao gãy. Tìm chung quanh không thấy có một vật gì để dùng vào đây được.
- Chịu thôi.
Thơ cười:
- Anh tầm thường lắm.
Rồi nàng chạy xuống phía dưới đem lên một con dao lớn, lấy ở trong bếp bà chủ phố. Thơ ngồi xuống cố mở một cách khó khăn vì nắp hộp cứng. Đôi má nhợt thành đỏ, và tôi nghe tiếng trái tim đập trong làn áo mỏng. Thơ đưa tay lên ngực.
- Anh làm thế cho em! Lại đau tim rồi.
Thơ đẹp như mùa thu tươi trẻ nhưng yếu. Nàng đau tim đã lâu. Tôi rút mấy cái đinh và cạy nắp mở ra. Trong hộp thấy bọc giấy láng, Thơ thọc hai bàn tay xinh trắng vào. Tôi xây lưng để con dao trên bàn.
- Anh cái chi mềm mềm.
Thình lình nàng hét lên một tiếng khủng khiếp rồi ngã lui. Tôi vực nàng đặt lên đi văng; Thơ bất tỉnh. Tôi vội vàng lấy dầu măng xát vào mang tai và hai cánh tay một lúc, mới nghe tiếng đập nhẹ nhàng của trái tim thoi thóp.
Lúc ấy có tiếng gõ cửa:
- Ai?
- Tôi.
- Cứ vào.
Nguyễn Thư bước vào hỏi:
- Gì thế?
Tôi kể lại chuyện vừa xảy ra.
- Cái hộp này của tôi.
- Của ông? Mà trong đựng cái gì làm cho em tôi đến khiếp đảm như thế?
- Chẳng có gì lạ.
- Mèo chết.
Thơ đã tỉnh nói.
- Cái hộp đựng toàn mèo chết.
Ông Thư lấy cái nắp định đậy lên hộp, tôi đến nhìn kỹ vào trong. Thật thế cái hộp đầy cả mèo chết, và trên hết con mèo đen lớn.
- Ồ ông định để làm gì thế?
Nguyễn Thư mỉm cười tự nhiên rồi thong thả nói:
- Chắc ông cũng biết người ta nói rằng da mèo trị bệnh đau nhức xương cốt rất hay. Tôi có một người bị bệnh ấy khá nặng nên tính gửi cho những da mèo này.
Nói thế rồi ông lễ phép chào, lấy cái hộp đi qua phòng mình. Một tuần lễ sau một cái hộp khác gửi đến cho ông Thư, lần này bằng dây thép, ở Pháp qua. Tôi nhận thấy ở ngoài đề của một nhà hàng bán sáp thơm. Thật vậy ông Thư là một người lạ lùng. Một lần khác bà chủ phố hốt hoảng đến nói với tôi, khi tôi vừa bước về nhà.
- Hôm nay có đến một cái thùng lớn bề dài tới hai thước tây, bề cao cũng gần nửa thước. Chắc là xác người ở trong.
Nhưng vài giờ sau ông Thư đưa cái thùng ra cho bà chủ phố, và luôn mấy ngày bà lục soạn khắp nơi trong lúc quét chùi, cũng không tìm ra được dấu vết gì hợp với sự nghi ngờ. Lần lần chúng tôi cũng không để ý đến những hành động của ông Thư nữa. Tuy thỉnh thoảng ông ta vẫn nhận được thùng, hộp bí mật, phần nhiều nhỏ như cái đựng mèo chết, có khi một cái dài.
Tôi không muốn dò xét nữa, vì ông Thư chẳng có vẻ gì đáng chú ý hơn. Ban đêm khuya có khi ông đến vài giờ với tôi, mà tôi phải thú thật rằng nói chuyện với ông Thư là một cái thú. Mỗi khi Thơ đến, nếu ông Thư vào phòng tôi vài phút thì thế nào cũng có một chuyện xảy ra, rồi nàng phải chết giấc. Tim nàng đã đến thời kỳ đau nặng nên chết bất kỳ lúc nào rất thường lắm, không duyên cớ nữa. Thơ bị chết giấc như người ta ngủ. Và những cơn chết giấc mỗi lúc kéo dài thêm đáng lo ngại. Tôi vẫn sợ sẽ phải thấy nàng chết trên tay.
Một buổi chiều Thơ đến tươi cười khác thường.
- Cô em đi vắng, em có thể ở lại với anh cho đến mười giờ.
Nàng gọt cam mang đến cho tôi rồi ngồi dựa đầu vào vai.
- Để em đọc bài của anh viết.
Hôm nay nàng vui lắm và thấy được khỏe.
- Em chắc trái tim đã bớt nhiều đập đều như thường.
Tối lại Thơ gọi bà chủ phố nhờ đi mua đồ ăn, để ở lại dùng cơm với tôi.
- Hôm nay ở với anh thích ghê. Miễn là ông Thư kỳ dị không đến.
Bỗng có tiếng gõ cửa.
- Vào đi.
- Hẳn tôi làm phiền...
- Phải lẽ tất nhiên ông làm phiền.
Thơ nói lớn.
- Ông không thấy sao?
- Tôi xin đi ngay.
- Ông đã làm phiền chúng tôi. Chỉ có mặt ông ở đây cũng đã khó chịu rồi. Vậy ông còn đợi gì nữa?
Thơ nói xong thì giọng nói tắt, hai mắt nhắm lại hai bàn tay run rồi ngã trên đi văng.
- Lại chết giấc nữa. Ông Thư xin lỗi ông, em tôi đau nhiều lắm chỉ đáng thương hại.
Tôi bắt đầu xát với dầu măng như mỗi lần trước nhưng không kết quả. Nàng nằm cứng đờ. Tôi nhờ ông Thư xuống bếp kiếm chai dấm mang lên, nhưng cũng vô công hiệu. Ông Thư vào phòng mình đem ra một cái hộp, bảo tôi lấy cái khăn để trước mũi, rồi lấy một miếng long não trong hộp để dưới mũi Thơ. Hơi rất nồng làm cho tôi phải hắt hơi. Thấy Thơ có vẻ dễ chịu, một phút sau thân thể nàng rung động dữ dội. Tôi nói:
- Cảm ơn thế là được.
Thơ uốn nghiêng mình hai mắt mở ra. Nhưng mà nàng gặp mặt ông Thư. Một tiếng hét hãi hùng từ đôi môi ngậm cứng đưa ra và nàng lại chết giấc. Chúng tôi thử qua đủ các phương pháp cấp cứu nhưng Thơ vẫn như một pho tượng không cử động. Tôi để tai lên ngực nàng nhưng không nghe một tiếng đập nhỏ. Phổi cũng ngừng thở. Tôi lấy một cái gương đặt trên mũi nàng nhưng không có hơi làm mờ.
Ông Thư nói:
- Tôi tưởng rằng...
Rồi ngắt lời:
- Chúng ta đi tìm một viên thầy thuốc.
Tôi đứng thẳng người lên:
- Phải rồi trước mặt nhà có một người nhờ ông đến đấy.
Tôi chạy lại cuối đường có bác sĩ Nam bạn tôi.
húng tôi nhảy xuống tầng cấp lầu. Tôi chạy mau đến nhà bác sĩ Nam bấm chuông ngoài cổng. Một lúc thấy bác sĩ Nam mặc quần áo mát và đi dép ra.
- Xin lỗi tên bồi đi khỏi, chỉ có một mình tôi ở nhà. Nhưng việc gì thế?
- Đi với tôi ngay bây giờ! Lập tức!
- Để tôi mặc quần áo đã. Vào đây tôi sửa soạn gấp và anh kể việc gì đã xảy ra?
Tôi theo vào nhà.
- Anh biết Thơ chớ, tôi tưởng anh đã gặp một lần ở nhà tôi rồi. Thơ...
Rồi tôi kể lại việc đã xảy ra. Bác sĩ Nam đã sẵn sàng. Ra đường ông Thư đến gặp chúng tôi. Tôi hỏi:
- Thầy thuốc ông kêu có đến không?
- Không ! Ông ta đi vắng.
Chúng tôi hối hả về nhà bước lên thang lầu. Bác sĩ Nam vào phòng trước hỏi:
- Người bệnh ở đâu?
- Trên đi văng.
- Trên đi văng? Không có ai hết.
Tôi đến gần... Thơ không còn nằm ở đây nữa. Tôi kinh ngạc không nói gì được hết.
Bác sĩ Nam bảo:
- Có lẽ nàng đã tỉnh dậy đi vào nằm giường trong.
Chúng tôi vào phòng ngủ không thấy có một người nào. Trên giường vẫn y nguyên. Đến trong phòng ông Thư cũng không có ai hết. Rồi tìm trong nhà bếp, buồng của bà chủ phố khắp cả. Thơ đã đâu mất.
Bác sĩ Nam cười:
- Chắc nàng tỉnh dậy rồi về một cách bình thường trong lúc các ông tưởng đến những câu chuyện dị kỳ.
- Nhưng, vậy thì lẽ tất nhiên ông Thư đã thấy nàng, vì ông ở mãi dưới đường.
- Tôi đi lại trước nhà nên có lẽ khi trở ra, nàng đã lẻn đi phía sau lưng tôi chăng ?
Tôi nói lớn:
- Không có thể như thế được. Nàng đã nằm thẳng cứng người trái tim không đập nữa, hơi thở cũng ngừng. Trong trường hợp này không một người nào có thể đứng dậy và đi một cách tự nhiên như thế được.
- Nàng đã gạt ông bạn tôi và cười ngặt nghẽo, khi ông bạn hấp tấp đi xuống lầu.
Bác sĩ cười chào chúng tôi, vừa lúc bà chủ phố đi mua thức ăn trở về.
- Cô ấy đã đi rồi sao?
- Phải. Tối nay ông Thư dùng cơm với tôi nhé?
- Cám ơn tôi xin nhận lời.
Chúng tôi ăn, uống rượu nói chuyện vui vẻ.
- Tôi thật buồn cười về câu chuyện vừa rồi. Có lẽ nàng đã giận tôi.
Ông Thư hỏi:
- Ông sẽ viết thư cho nàng?
- Có. Ngày mai đây tôi sẽ đến tận nhà nếu biết được chỗ của nàng.
- Vậy ông không biết nàng ở đâu sao?
- Không. Tôi chỉ biết nàng ở Gia Định, không còn cha mẹ, ở với một người cô, mà hình như chẳng được tử tế cùng nàng.
Thấy ông Thư có vẻ suy nghĩ tôi nâng ly rượu nói:
- Chúng ta uống đi. Nếu em tôi không chịu được ông thì cũng đã nhường chỗ lại cho ông bạn tối nay.
Chúng tôi uống nhiều rượu nói chuyện đến khuya. Tôi vào phòng ngủ đến gần cửa sổ. Dưới vườn lá cây rung động lấp lánh ánh trăng. Tôi bỗng nghe văng vẳng như có tiếng ai gọi tên mình. Tôi chăm chú lắng nghe một lần nữa... thì ra giọng của Thơ.
Tôi kêu trong đêm lặng:
- Thơ..Thơ.
Không có tiếng trả lời. Tôi ngờ mình uống rượu say nghe lầm lạc. Tại sao nàng lại đi trong vườn giờ này? Vào giường vừa đặt mình xuống, tôi đã say ngủ thiếp đi. Tôi lại nghe tiếng Thơ gọi tên tôi một lần nữa. Tôi thức giấc lau mồ hôi ở trán và lắng tai nghe. Bây giờ nữa thật yếu ớt nhưng rõ ràng tôi nghe tiếng nàng kêu. Nhảy xuống giường tôi chạy lại cửa sổ.
- Thơ.. Thơ.
Có gì đâu? Tất cả đều yên lặng. Tiếng tôi gọi run trong bóng tối rồi tan mất. Tôi muốn đi ngủ lại nhưng một tiếng kêu, một tiếng cuối cùng rõ ràng hơn hết, như từ một chuyện ghê gớm trong cơn mê hoặc đưa ra. Không còn nghi ngờ gì nữa chính là tiếng của Thơ. Nhưng lần này tiếng không từ ở vườn đưa lên, mà tôi nghe như ở trong một căn phòng bên đây. Tôi đốt đèn nến lên tìm dưới giường, sau màn trong tủ. Không ai có thể ẩn núp ở đây được. Tôi ra bàn giấy. Chẳng có một ai.
Nếu Nguyễn Thư... mà sao tôi có ý nghĩ đen tối như thế! Nhưng biết đâu có cái gì là không thể có ? Không nghĩ gì nữa, tôi chạy lại cửa phòng Thư vặn quả nắm. Cái cửa đã sét hư tôi lấy hết sức đẩy, ống khóa gãy, và cửa mở toang ra. Tôi cầm đèn đâm sầm vào.
- Cái gì thế?
Thư nằm thẳng trên giường đưa hai tay dụi mắt hỏi. ý nghĩ của tôi hẳn vô lý quá. Tôi nói:
- Xin lỗi ông bạn về sự quấy rầy này. Một cơn mê hoặc làm cho tôi mất cả lý trí.
Nói thế rồi tôi trở về phòng. Ngày mai lại, tôi viết một bức thư dài cho Thơ. Ông Thư vào ngay lúc tôi đề bì, nhìn qua trên vai tôi rồi nói:
- Mong rằng ông bạn nhận được sớm bức thư trả lời.
Nhưng tôi không nhận được gì hết. Bốn ngày sau tôi viết một bức thư nữa, và lần thứ ba, nửa tháng sau. Cuối cùng tôi nhận được một bức thư ngắn, nhưng với một tuồng chữ khác hẳn:
Anh,
Tôi đọc những dòng này cho một người bạn viết hộ. Chắc anh cũng đoán ra một cách dễ dàng vì sao tôi lại chẳng muốn biết đến anh nữa. Anh đưa người bạn quái gở của anh đến một bên tôi, nên tôi muốn xa anh vả lại tôi cũng sắp lấy chồng.
Thơ.
Theo bức thư này kèm ba cái thư trước của tôi đã gửi đi chưa mở, đề trả lại. Tôi viết cho Thơ một lần nữa, nhưng vài ngày sau thì cũng được trả lại. Hai tháng sau, một hôm ông Thư cho tôi hay rằng ông ta sắp thôi ở đây.
- Ông bạn định xa Sài Gòn?
- Phải tôi lên Đà Lạt.
- Bao giờ thì đi?
- Thật ra thì tôi đã tính đi rồi, nhưng có người bạn ăn lễ lục tuần tôi đã lỡ hứa đến dự. Nếu ông bạn cùng đi với tôi thì vui lắm.
- Đến nhà ông bạn?
- Phải. Trong bảy tháng chúng ta tử tế chung sống một nhà, vậy ông bạn không nên từ chối một đêm cuối cùng với tôi. Chỗ ấy ông bạn không phải ngại ngùng chi.
- Được, cám ơn.
Tối lại ông Thư đến rủ tôi đi. Ông Thư đã mướn sẵn một cái xe hơi. Khi xe mở máy chạy tôi không để ý đến các con đường đi qua, và nửa giờ sau xe ngừng. Thư xuống trước bảo người sốp phơ ở đợi, rồi cùng tôi đi vào cái cửa trắng, đưa đến một khu vườn tăm tối. Rồi đến cái sân rộng vào một căn nhà ngói, phía sau là một khoảng tối rộng. Tôi theo Thư bước vào nhà. Một gian phòng đầy cả tràng hoa. Hẳn người bạn già của ông Thư là một kẻ có danh vọng. Tôi chưa thấy ở đâu trong một buổi lễ mừng lại có tràng bằng cườm, bằng vải nhiều như thế, từ vách lên đến trần nhà treo khắp nơi.
Thư giới thiệu tôi.
- Đây là bạn của tôi. Ông Đa, và những người thân thuộc.
Người gọi là ông Đa đưa hai tay bắt lấy tay tôi mà dặt, nói:
- Rất hân hạnh cho chúng tôi.
Người thấp ốm vẻ mặt ông Đa khô khan. Một ít râu trên mép hai môi thâm, có lẽ vì ghiền ả phiện khi cười để lộ hàm răng thưa. Bốn người mặc quần áo bịt khăn toàn màu đen, đứng dậy chào chúng tôi. Ông Đa nói:
- Đây là con tôi.
Vừa trỏ người chỉ có một mắt.
- Còn là mấy người giúp việc.
Người giúp việc? Và ông Đa làm gì mà có những tràng hoa quý đẹp khen tặng như thế?
"Kính tặng đồng nghiệp yêu quý của chúng tôi. Hội ái hữu Đồng Nai".
Đây là một người có địa vị khá? ở một tràng hoa khác:
"Kính tặng một vị quan thanh liêm".
Ông Đa là một quan chức hưu trí?.
"Tặng một người bạn tận tụy với nghề thuốc".
Hội y sỹ Pháp Nam. Thế nào? Ông Đa là một vị danh y nữa sao? Một người như thế mà chưa bao giờ tôi được nghe nói đến. Một hàng chữ khác:
"Kính tặng một vị ân nhân. Hội Phúc thiện Nam kỳ".
Còn ở một tràng hoa tím:
"Tặng một đồng nghiệp tài hoa. Kịch đoàn Sài Gòn"
Người lạ lùng này thuộc vào hạng nào mà ai cũng trọng như thế? Bắt đầu bữa tiệc ông Thư mở cái gói đem theo, lấy ra một cái sọ người trắng tinh:
- Tôi xin tặng ông bạn già một vật làm kỷ niệm, tình giao hảo trong bao lâu của chúng ta.
Rồi Thư lấy chai rượu đỏ thẫm rót vào sọ dừa, cưa ở trên đầu lâu như miệng ly uống một hơi. Đến ông Đa, rồi chuyển qua cho mỗi người. Nửa chừng bữa tiệc ông Thư nhìn đồng hồ ở tay nói:
- Xin lỗi các ông tôi phải đi ngay, kẻo trễ chuyến xe lửa chín giờ. Còn ông bạn tôi xin vui lòng ngồi lại nói chuyện rồi về sau.
Ông Đa ân cần giữ tôi lại. Nguyễn Thư chào mọi người hấp tấp ra đi. Một lần nữa, ông Đa rót rượu đầy cái sọ dừa mời tôi.
- Ông uống đi cho. Ông là bạn của ông Thư thì đối với tôi rồi cũng thân mật như vậy.
Ông Đa lại nói với một giọng đầy rượu:
- Khi nào ông có cần gì xin mời ông lại đây. Tôi sẽ làm vui lòng ông. Ông hỏi ông Thư thì biết chỉ toàn những đồ tốt.
Thì ra ông này là một người buôn bán.
- Lẽ tất nhiên nếu cần dùng gì, tôi nghĩ ngay đến ông. Hiện thời tôi đã có đủ rồi.
- Sao? Vậy ông mua ở đâu?
Ông Đa hấp tấp hỏi tôi với sự kinh ngạc. Thật ra tôi cũng không hiểu rõ là ông ta muốn bán gì, nhưng giữ phép lịch sự, nói qua cho rồi chuyện:
- Ở một người bạn hàng quen. Mà ông có giá nhất định không?
Thì ông Đa ngạc nhiên vô cùng:
- Giá nhất định Người quen ông bán giá nhất định.
- Phải giá nhất định, phải chăng, đồ lại tốt tươi, sống cả.
Ông Đa hốt hoảng lên rồi ngã trong tay con người một mắt, rền rĩ:
- Ông nói gì vậy? Người quen ông bán đồ sống à?
Thừa lúc lộn xộn tôi lẻn mình chạy thẳng ra đường, gọi một chiếc xe ngựa đi về ngay. Người đánh xe nói với tôi:
- Đó là nhà của kẻ đào huyệt chôn người.
Cách một tháng sau khi Thư đi tôi cũng đổi chỗ ở. Bà chủ phố giúp tôi dọn đồ đạc. Tôi ràng buộc mấy bức tranh lớn nhưng thiếu dây gai. Bà chủ phố vừa xếp dọn sách báo cho vào rương thấy thế nói:
- Tôi có sẵn trong hộc bàn buồng sau.
- Được để tôi đi lấy.
Tôi vào sục soạn bất ngờ tìm thấy tấm hình mẹ Thơ trong mảnh kính tròn đã mờ, mà trước đây Thơ vẫn thường đeo với dây chuyền ở cổ, và có nói cùng tôi:
- Em giữ tấm hình này cho đến lúc chết.
Tôi đem ra hỏi bà chủ phố:
- Bà được vật này ở đâu?
- Nơi góc buồng của ông Thư, trong lúc quét dọn sau khi ông ấy đi. Tôi định nếu ông ấy có trở lại thì đưa trả.
Tôi giữ lấy vật ấy và nghĩ rồi đây gặp Thơ tôi sẽ đưa lại cho nàng, có lẽ đã làm rơi đứt khi bị chết giấc. Nửa tháng sau tôi nhận được giấy mời đến dự cuộc triển lãm Mỹ thuật, của hội "Nghệ sĩ Việt Nam". Tôi đến gặp lúc ông hội trưởng đã đọc quá nửa bài diễn văn. Người rất đông tôi chen đứng gần sau cùng. Tôi hỏi phóng viên một tờ báo hàng ngày, ông ta đưa ra mấy lời ghi tóm tắt trong cuốn sổ tay:
- Hội "Nghệ sĩ Việt Nam" do một nhóm họa sĩ, điêu khắc đi du học ở Âu Mỹ về, bày ra một cuộc triển lãm đồ sộ có lần thứ nhất ở Đông Dương.
Ông hội trưởng kết cấu đoạn diễn văn:
- Và bây giờ xin mời các ngài đến gần xem những công trình quý báu, mà các nhà nghệ sĩ tài hoa đã đặt hết tâm hồn mình vào đấy.
Rồi ông kéo tấm màn che những tranh tượng lên. Giữa những lời bàn tán khen ngợi và kinh ngạc của mọi người, ông hội trưởng tiếp:
- Đây là một tác phẩm rất thần tình mới lạ, nặn bằng sáp.. "Nàng Thơ".
Nói xong ông đỡ tấm vải phủ sau cùng lên. Mọi người đều tấm tắc.
- Ô... ồ...
Ở phía giữa trong cùng, pho tượng thân ngà phủ qua làn suối tóc dài. Hai mắt xanh biếc mơ màng, lông mi đen dài in bóng lên đôi má hồng tươi, thoáng trông như người sống thật. Tôi đến gần theo những người tới trước, thật gần để trông rõ hơn...
- Trời ơi..Thơ.. Em Thơ !...
Tôi kêu lên nhưng tiếng mất hẳn trong lớp sóng người ồn ào. Tôi muốn la nhưng không thể uốn được lưỡi, chăm chú nhìn pho tượng với sự hãi hùng. Máu đập mạnh óc rung động, tôi phải dựa vào một cái ghế cho khỏi ngã, thì một bàn tay đặt lên vai tôi. Tôi quay lại thấy một cái mặt lạnh lùng... Nguyễn Thư. Thư nắm tay tôi đưa ra khỏi đám đông. Tôi theo hắn như một kẻ không hồn.
- Tôi đi báo cáo ông với nhà chức trách.
- Ông bạn không nên làm thế vì vô ích. Ông không thể bắt được tôi vì tôi không là ai, không phải ai hết.
Ông hội trưởng "Nghệ sĩ Việt Nam" cũng không rõ tôi là ai nữa, vì tôi lấy một tên khác. "Nàng Thơ" cũng như các pho tượng khác tôi đã bán cho hội.
Rồi hắn lại thì thầm bên tai tôi:
- Vả lại như thế có hơn không ? Ông là thi sĩ có phải ông muốn người yêu đẹp đời đời, hơn là bị sâu bọ rúc rỉa dưới mồ không?
Tôi hét lên:
- Đồ Sa tăng..
Nghe tiếng bước nhẹ tôi nhìn lại thấy Nguyễn Thư đi ra ngoài theo một cánh cửa khép lại. Ông hội trưởng đang tỏ lời cảm ơn giữa những tiếng hoan hô ồn ào, và nhận những lời khen ngợi những bắt tay.
Tôi đến gần " Nàng Thơ " mà không ai để ý, chăm chú nhìn nàng:
- Thơ ơi! Thơ ơi!
TXHH
#60
Gửi vào 16/06/2011 - 18:26
CHUYỆN MA ĐẤT MÃ LAI
Tôi tin thế giới chúng ta đang sống, đang đi đang thở không chỉ có một không gian ba chiều, mà còn những chiều kích khác, chứa đựng nhiều huyền bí mà cặp mắt thịt ta không dễ gì thấy được. Từ ngàn xưa đã có nhiều chuyện ma chuyện quỷ được ghi chép lại, ai mà không biết đến chử "MA".
Thế nhưng khoa học thực nghiệm của ngày hôm nay bao gồm trong câu "thấy mới tin" làm nhiều người khẳng định “làm gì có ma”. Tôi xin kể các bạn nghe một trong những chuyện có thật của gia đình tôi.
Cuối tháng năm, năm bảy mươi chín cả gia đình tôi bầu đoàn thê tữ rời trại tỵ nạn Cherating Camp Mã Lai, lên trại chuyển tiếp Belfield Kuala Lumpur chuẩn bị sang Úc. Xe bus thả gia đình tôi xuống trại Belfield, cả gia đình được chỉ định ở chung một túp lều quân đội cất tạm bên hông cái building cũ kỹ.
Cái lều vải lính không lớn lắm nhưng cũng đủ cho cả nhà tôi cha mẹ anh em, gồm mười một người chen chúc nhau ở chung với ba cô độc thân khá dễ thương, dĩ nhiên mùng ai nấy ngủ. Ngày ba bửa cơm có nhà bếp nấu không phải lo, chỉ việc cầm thố xếp hàng đem về ăn, chờ đi khám sức khỏe vì định cư.
Thời gian rộng rãi tôi tạt qua bên này ghé sang bên kia nghe người kể chuyện. Buồn buồn kiếm được điếu thuốc thơm rủ ông anh leo lên bồn nước nằm chia nhau hút. Ở được vài ngày tôi để ý thấy cái trại chuyển tiếp này được xây cất hơi lạ, dĩ nhiên là trại này không phải cất lên cho tỵ nạn, nhưng được thay đổi cho tỵ nạn ở tạm.
Nó lạ lắm trường học không ra trường học, trại lính cũng không phải. Tò mò đi hỏi lòng vòng thì mới biết trại này trước đây là một bịnh viện cũ. Thời khóa biểu ngày nào cũng như nhau, sáng bảy giờ lên nhà bếp lấy điểm tâm, ngồi tán gẫu đến mười một giờ, nghe phòng thông tin gọi tên những người may mắn được đi định cư.
Ngày hôm sau mười hai giờ xếp hàng lấy cơm trưa, tán gẫu tiếp chờ cho đến bốn giờ, nghe phòng thông tin gọi loa nếu có tin gì mới, và chiều sáu giờ lãnh cơm tối. Gia đình nào được gọi tên đi định cư sáng hôm ấy, thì chắc mẫm là nôn lắm, chỉ lo sắp xếp quần áo và bịn rịn chia tay chia của cũng hết giờ.
Độc thân có chút tiền thì làm tiệc nhậu, tệ lắm cũng lén nhà bếp nấu một nồi chè ăn mừng... và chắc rằng đêm ấy rất là khó ngủ, cứ nơm nớp sợ ngủ quên trể chuyến bay, kẹt lại đất Mã là bỏ công cóc bao ngày nếm mật nằm gai. Bình thường như mọi ngày, sáng hôm ấy ngày sáu tháng sáu, năm bảy mươi chín, cả nhà quây quần bữa cơm sáng, bà chị kế tên Thủy vừa ăn vừa kể cho mấy đứa em:
- Tối qua chị chui vô mùng nằm chút xíu là thiu thiu ngủ, hỏng biết được bao lâu chị bổng giật mình vì có ai vén mùng chui vô.
Đang ăn dở, mấy đứa em bỏ muỗng há miệng trợn mắt nghe chị Thủy kể tiếp:
- Chị nhìn kỷ lại thì là bà già nào ấy lạ hoắc, không có ở trại này vì chưa gặp bả bao giờ.
Mấy đứa nhỏ bắt đầu nhao nhao lên hỏi, chị Thủy ra dấu cho tụi nó ngồi yên để chị kể tiếp:
- Có chứ chị hỏi bả là ai, sao lại chui vô mùng của chị.
Có đứa nãy giờ ngồi nghe quên ăn gục gặc đầu đồng ý với câu hỏi của chị. Chị nói tiếp:
- Mấy em biết bả trả lời sao không?.
Tụi nhỏ trố mắt nhìn chị lắc đầu. Chị nói:
- Chị vừa hỏi xong bả nhìn chị rồi nói:
- Tao vô đây nhát mày chứ làm chi.
Tụi nhỏ nhao nháo lên:
- Bộ ma hả chị... bộ ma hả...
Chị Thủy gật đầu:
- Ừ thì lúc đầu chị cũng tưởng là chiêm bao, ai dè.
Chị kể tiếp:
- Nhỏ lớn giờ chị có sợ ai, nghe bả nói bả chui vô đây nhát chị, chị nhìn bả rồi khi dễ nói:
- Bà muốn nhát thì nhát thử coi chứ tôi hỏng có sợ, mà mắc mớ gì bà lại đi nhát tôi.
Nghe chị Thủy nói mấy đứa nhỏ phục ngầm là bà chị mình gan, dám trả lời với ma nhưng chưa đứa nào lên tiếng thì chị kể tiếp:
- Chị hỏi xong bả trả lời:
- Tao nhát mày vì mai mày đi rồi.
Nói xong bả chui ra rồi mất biệt luôn. Tôi nghe xong phải buột miệng lên tiếng:
- Chị nói sao chứ hôm qua văn phòng đâu có gọi tên tụi mình đâu mà hôm nay đi.
Tụi nhỏ cũng gật đầu đồng ý với lời phát biểu của tôi. Chị Thủy nói:
- Thì chị cũng biết vậy.
Anh em tôi mỗi đứa một tay dọn dẹp bữa ăn sáng, và tiếp tục rong chơi coi như chuyện chị Thủy kể, chỉ là chuyện giúp vui cho bữa ăn nhạt nhẽo thêm phần hào hứng. Nhưng trái với thông lệ hàng ngày mười một giờ, hôm ấy khoảng mười giờ, loa phóng thanh đã bắt đầu lên tiếng:
- Thông báo khẩn! thông báo khẩn! Những người có tên sau đây chuẩn bị lên đường đi Sydney Australia chiều nay bốn giờ...Xin lặp lại bốn giờ chiều nay...
Cả trại lúc đó hầu như mọi sinh hoạt gì cũng đều ngưng hẳn lại, ai đứng đâu đứng đó im lặng ngóng tai nghe thông báo. Như các bạn đoán, tên hai bà chị, một ông anh và tôi “bị” gọi chuẩn bị chiều nay lên đường. Vui buồn lẫn lộn, vui vì ngày định cư bất chợt đến như một món quà bất ngờ, buồn vì cha mẹ, em út phải ở lại đi sau không ai phụ giúp. Nhưng thôi sẽ gặp lại trên đất Úc, bây giờ còn phải chuẩn bị lên đường.
Hai đứa em út mặt buồn so ngồi nhìn tôi gom mấy bộ quần áo cũ bỏ vào túi vải, làm tôi cũng rơm rớm nước mắt nhìn chúng, rồi chợt nhớ lại chuyện chị Thủy kể lúc ăn sáng. Tôi rùng mình tưởng tượng bà già ấy chắc đang ngồi đâu đây trong cái lều này, nhìn tôi cười đắc thắng.
ST
Tôi tin thế giới chúng ta đang sống, đang đi đang thở không chỉ có một không gian ba chiều, mà còn những chiều kích khác, chứa đựng nhiều huyền bí mà cặp mắt thịt ta không dễ gì thấy được. Từ ngàn xưa đã có nhiều chuyện ma chuyện quỷ được ghi chép lại, ai mà không biết đến chử "MA".
Thế nhưng khoa học thực nghiệm của ngày hôm nay bao gồm trong câu "thấy mới tin" làm nhiều người khẳng định “làm gì có ma”. Tôi xin kể các bạn nghe một trong những chuyện có thật của gia đình tôi.
Cuối tháng năm, năm bảy mươi chín cả gia đình tôi bầu đoàn thê tữ rời trại tỵ nạn Cherating Camp Mã Lai, lên trại chuyển tiếp Belfield Kuala Lumpur chuẩn bị sang Úc. Xe bus thả gia đình tôi xuống trại Belfield, cả gia đình được chỉ định ở chung một túp lều quân đội cất tạm bên hông cái building cũ kỹ.
Cái lều vải lính không lớn lắm nhưng cũng đủ cho cả nhà tôi cha mẹ anh em, gồm mười một người chen chúc nhau ở chung với ba cô độc thân khá dễ thương, dĩ nhiên mùng ai nấy ngủ. Ngày ba bửa cơm có nhà bếp nấu không phải lo, chỉ việc cầm thố xếp hàng đem về ăn, chờ đi khám sức khỏe vì định cư.
Thời gian rộng rãi tôi tạt qua bên này ghé sang bên kia nghe người kể chuyện. Buồn buồn kiếm được điếu thuốc thơm rủ ông anh leo lên bồn nước nằm chia nhau hút. Ở được vài ngày tôi để ý thấy cái trại chuyển tiếp này được xây cất hơi lạ, dĩ nhiên là trại này không phải cất lên cho tỵ nạn, nhưng được thay đổi cho tỵ nạn ở tạm.
Nó lạ lắm trường học không ra trường học, trại lính cũng không phải. Tò mò đi hỏi lòng vòng thì mới biết trại này trước đây là một bịnh viện cũ. Thời khóa biểu ngày nào cũng như nhau, sáng bảy giờ lên nhà bếp lấy điểm tâm, ngồi tán gẫu đến mười một giờ, nghe phòng thông tin gọi tên những người may mắn được đi định cư.
Ngày hôm sau mười hai giờ xếp hàng lấy cơm trưa, tán gẫu tiếp chờ cho đến bốn giờ, nghe phòng thông tin gọi loa nếu có tin gì mới, và chiều sáu giờ lãnh cơm tối. Gia đình nào được gọi tên đi định cư sáng hôm ấy, thì chắc mẫm là nôn lắm, chỉ lo sắp xếp quần áo và bịn rịn chia tay chia của cũng hết giờ.
Độc thân có chút tiền thì làm tiệc nhậu, tệ lắm cũng lén nhà bếp nấu một nồi chè ăn mừng... và chắc rằng đêm ấy rất là khó ngủ, cứ nơm nớp sợ ngủ quên trể chuyến bay, kẹt lại đất Mã là bỏ công cóc bao ngày nếm mật nằm gai. Bình thường như mọi ngày, sáng hôm ấy ngày sáu tháng sáu, năm bảy mươi chín, cả nhà quây quần bữa cơm sáng, bà chị kế tên Thủy vừa ăn vừa kể cho mấy đứa em:
- Tối qua chị chui vô mùng nằm chút xíu là thiu thiu ngủ, hỏng biết được bao lâu chị bổng giật mình vì có ai vén mùng chui vô.
Đang ăn dở, mấy đứa em bỏ muỗng há miệng trợn mắt nghe chị Thủy kể tiếp:
- Chị nhìn kỷ lại thì là bà già nào ấy lạ hoắc, không có ở trại này vì chưa gặp bả bao giờ.
Mấy đứa nhỏ bắt đầu nhao nhao lên hỏi, chị Thủy ra dấu cho tụi nó ngồi yên để chị kể tiếp:
- Có chứ chị hỏi bả là ai, sao lại chui vô mùng của chị.
Có đứa nãy giờ ngồi nghe quên ăn gục gặc đầu đồng ý với câu hỏi của chị. Chị nói tiếp:
- Mấy em biết bả trả lời sao không?.
Tụi nhỏ trố mắt nhìn chị lắc đầu. Chị nói:
- Chị vừa hỏi xong bả nhìn chị rồi nói:
- Tao vô đây nhát mày chứ làm chi.
Tụi nhỏ nhao nháo lên:
- Bộ ma hả chị... bộ ma hả...
Chị Thủy gật đầu:
- Ừ thì lúc đầu chị cũng tưởng là chiêm bao, ai dè.
Chị kể tiếp:
- Nhỏ lớn giờ chị có sợ ai, nghe bả nói bả chui vô đây nhát chị, chị nhìn bả rồi khi dễ nói:
- Bà muốn nhát thì nhát thử coi chứ tôi hỏng có sợ, mà mắc mớ gì bà lại đi nhát tôi.
Nghe chị Thủy nói mấy đứa nhỏ phục ngầm là bà chị mình gan, dám trả lời với ma nhưng chưa đứa nào lên tiếng thì chị kể tiếp:
- Chị hỏi xong bả trả lời:
- Tao nhát mày vì mai mày đi rồi.
Nói xong bả chui ra rồi mất biệt luôn. Tôi nghe xong phải buột miệng lên tiếng:
- Chị nói sao chứ hôm qua văn phòng đâu có gọi tên tụi mình đâu mà hôm nay đi.
Tụi nhỏ cũng gật đầu đồng ý với lời phát biểu của tôi. Chị Thủy nói:
- Thì chị cũng biết vậy.
Anh em tôi mỗi đứa một tay dọn dẹp bữa ăn sáng, và tiếp tục rong chơi coi như chuyện chị Thủy kể, chỉ là chuyện giúp vui cho bữa ăn nhạt nhẽo thêm phần hào hứng. Nhưng trái với thông lệ hàng ngày mười một giờ, hôm ấy khoảng mười giờ, loa phóng thanh đã bắt đầu lên tiếng:
- Thông báo khẩn! thông báo khẩn! Những người có tên sau đây chuẩn bị lên đường đi Sydney Australia chiều nay bốn giờ...Xin lặp lại bốn giờ chiều nay...
Cả trại lúc đó hầu như mọi sinh hoạt gì cũng đều ngưng hẳn lại, ai đứng đâu đứng đó im lặng ngóng tai nghe thông báo. Như các bạn đoán, tên hai bà chị, một ông anh và tôi “bị” gọi chuẩn bị chiều nay lên đường. Vui buồn lẫn lộn, vui vì ngày định cư bất chợt đến như một món quà bất ngờ, buồn vì cha mẹ, em út phải ở lại đi sau không ai phụ giúp. Nhưng thôi sẽ gặp lại trên đất Úc, bây giờ còn phải chuẩn bị lên đường.
Hai đứa em út mặt buồn so ngồi nhìn tôi gom mấy bộ quần áo cũ bỏ vào túi vải, làm tôi cũng rơm rớm nước mắt nhìn chúng, rồi chợt nhớ lại chuyện chị Thủy kể lúc ăn sáng. Tôi rùng mình tưởng tượng bà già ấy chắc đang ngồi đâu đây trong cái lều này, nhìn tôi cười đắc thắng.
ST
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Dự đoán phối hợp nhiều môn huyền học cho chính trị & kinh tế thế giới |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
||
Truyện thần tiên- Cát Hồng |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | danhkiem |
|
||
những góc nhìn khác nhau về chuyện cưới xin, xung - hợp vợ chồng |
Tử Bình | hieuthuyloi |
|
||
Xem Tử Vi - huyền "Học" - vọc phương pháp |
Gặp Gỡ - Giao Lưu | Vung |
|
||
Suy nghĩ với hỗn hợp nhiều môn huyền học cho lá số VNXHCN |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
||
Lưu Kim Tài chuyên đềLưu Kim Tài |
Tử Bình | Durobi |
|
2 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 2 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |