1
Truyện ngắn huyền bí - hiendde
Viết bởi Manager, 05/06/11 02:02
1072 replies to this topic
#31
Gửi vào 06/06/2011 - 10:54
BÃI ĐẤT HOANG SAU NHÀ
Lần đầu tiên Vân tận mắt chứng kiến một người chết, cách đây hơn một năm lúc còn ở Việt Nam. Chứng kiến một người chết, có nghĩa là nhìn người ấy đang từ cõi sống đột ngột bước sang thế giới bên kia. Đó là ông Thọ ở cách nhà Vân ba căn trên cùng con hẻm nhỏ thuộc phường mười quận Tân Bình. Chẳng phải vì là hàng xóm mà Vân quen ông, láng giềng thật xa mỗi người có một cuộc sống, nên cũng ít khi gặp nhau, huống chi ông lại hơn Vân quá nhiều tuổi. Nếu xưng hô cho đúng thì Vân phải gọi ông bằng chú. Nhưng sỡ dĩ Vân thân với ông chỉ vì ông là tài xế xe bus, trên lộ trình từ nhà Vân đến sở làm. Dù muốn dù không, ngày nào Vân cũng phải gặp ít nhất một lần vào buổi sáng.
Có một dạo xe bus là phương tiện chuyên chở công cộng rất đắt khách, chuyến nào cũng chật ních. Nhưng khi Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường thì dân Sài Gòn nườm nượp mua xe gắn máy. Lại thêm xe ôm phát triển, xe bus dần dà trở nên ế ẩm, vì đi lại chậm chạp trên đường phố đông đúc, mà ít ai tôn trọng luật lưu thông. Chỉ có những hành khách không có phương tiện khác như Vân, mới bất đắc dĩ phải bám với xe bus mà thôi. Xe vắng khách, nên mỗi khi thấy Vân bước lên, ông Thọ thường vui vẻ hỏi chuyện vu vơ mặc dù trên nguyên tắc, ông không được nói chuyện khi lái xe.
Vân cũng hân hoan đáp lại, chọn cái ghế trống gần ông để đàm đạo cho quên đoạn đường tới sở. Đại khái thì toàn những câu xã giao thủ tục thôi, lâu lâu nếu trong con hẻm nhà Vân có chuyện gì bất thường xảy ra, thì hai người mới có đề tài mới để bình luận. Ông Thọ không có vợ con, sống nhờ nhà người anh ruột, nhập chung hộ khẩu vàcoi gia đình người anh như gia đình mình. Ở tuổi bốn mươi lăm, mặt ông khắc khổ ưu tư, nước da đen sạm và mái tóc phía trước hơi dài, lúc nào cũng rũ xuống trán làm Vân thấy rất ngứa mắt.
Ông ít cười dù nụ cười rất tươi. Hàm răng đều như hạt bắp, phải cái tội là lúc nào cũng úa vàng vì khói thuốc, ông ghiền thuốc lá nặng, trong túi lúc nào cũng có gói Mai, loại thuốc đen nội hóa ít người hút. Mỗi khi đường kẹt xe, ông thường chạy xuống rít một điếu, hoặc có khi chỉ vài hơi rồi lại leo lên lái tiếp. Dân Sài Gòn hút thuốc nhiều, nên chẳng ai thấy ngứa mắt và cũng không thấy khó chịu vì khói thuốc. Một buổi sáng trên đường đi làm như thường lệ, Vân ngồi ngay chiếc ghế sau lưng ông, đang kể câu chuyện bắt ghen trong xóm, và xe đang chạy ngon trớn, thì Vân bổng giật mình thấy xe bus tự dưng rẻ nghiêng sang bên phải, rồi leo hẳn lên lề húc mạnh vào một gốc cây rồi dừng lại.
Xe vẩn nổ máy, nhưng ông Thọ gục xuống trên tay lái, làm còi xe cứ inh ỏi réo liên tục. Cũng may, gặp khúc lề đường rộng, lại có cây lớn chặn lối, nên xe không cán phải người bộ hành hoặc đâm vào nhà người ta. Hành khách nhốn nháo đứng ngồi cả lên, Vân lay vai ông Thọ và hốt hoảng hỏi:
− Ý thôi chết lạc tay lái hả ông Thọ? Tỉnh dậy ông Thọ!
Nhưng lay mãi mà ông không trả lời, hành khách xôn xao đưa mắt nhìn nhau, rồi bỏ xuống tìm phương tiện chuyên chở khác vì sợ trể giờ làm việc.Vài người hiếu kỳ phần lớn là khách quen, ngày ngày vẩn đi cùng chuyến này, xúm lại cùng với Vân lôi đầu ông Thọ ngồi thẳng lên, lập tức tiếng còi xe ngưng bặt. ông Thọ ngẻo đầu sang một bên, mặt xám ngắt, miệng hơi há ra và đôi mắt lạc thần vẫn mở trừng trừng, nhưng rõ ràng là mất hết sinh khí. Ông đứng tim chết mà người ta xét theo lối dân gian là ông bị trúng gió, và không ai tin là ông đã chết thật, bởi nó xảy ra quá đột ngột. Vân lo lắng nhìn quanh và hỏi:
− Ơ...Có ai có dầu nhị thiên đường không?...Dầu gì cũng được...Cho tôi mượn.
Đám đông xung quanh mỗi người một câu:
− Trời...trời, ông bà nào chịu khó chạy lên ngả tư thấy ông công an, kêu dùm một cái
Người khác bảo:
− Kêu xe cứu thương chứ chờ công an đến kiếp nào...
Người ta giật tóc mai, lắc mạnh hai vai ông, hoặc ấn mạnh vào ngực ông, hy vọng có thể giúp ông hồi tỉnh trong lúc chờ vào nhà thương. Nhưng tất cả đều vô ích, có người thất vọng than:
− Thôi! Chắc chết rồi, chết thiệt rồi. Trăm phần trăm là trúng gió rồi. Trời đất ơi! Lúc này gió nó độc lắm nghen.
Cùng với nhận xét ấy người ta tản mác xuống xe, lảng ra xa tránh những phiền toái lát nữa khi nhân viên công lực đến thẩm vấn. Nhưng Vân không bỏ đi được, không nở bỏ ông hàng xóm, bởi nàng vẫn bám víu ý nghĩ là ông chưa chết hẳn chỉ bất tỉnh nhân sự mà thôi Nàng xuống xe mặt nhợt nhạt ngó quanh, rồi vẫy chiếc xích lô máy rồi nhờ người tài xế lên đỡ ông Thọ xuống và chở vào bịnh viện. Nàng bảo:
− Nhanh nhanh thì may ra cứu kịp nhé! Chắc ông ấy chỉ bị nghẹt thở thôi, chưa có chết hẳn đâu.
Rồi nàng móc bóp lấy tiền trả ông xích lô, nhưng ông xích lô ngơ ngác nhìn Vân và hỏi:
− Bộ cô không đi với ông ấy sao? Đâu có được, cô không có đi chung thì tôi không có chở ông ấy đâu! Giỡn hoài, bộ tôi ngu sao?
Vân khẩn khoản:
− Ông ơi, tội nghiệp người ta bị ngất xỉu, ông làm ơn đưa vào nhà thương dùm. Tại tôi....tôi còn phải đi làm.
ông xích lô trợn mắt đáp:
− Ngất xỉu đâu mà ngất xỉu? Chết ngắt rồi, tôi đưa vào bệnh viện, người ta hỏi lôi thôi lắm cô ơi. Phải có người nhà mới biết đường mà trả lời chứ!
Vân nhìn ông Thọ một lần nữa quả thật ông chết rồi, cái xác không hồn nằm rũ trên xích lô, đầu nghiêng sang một bên. Mắt vẫn trợn trừng và mồm vẫn há ra. Nàng bảo ông xích lô:
− Nhưng mà tôi cũng đâu phải là người nhà!
Ông xích lô vừa kinh ngạc vừa bực bội, giậm chân lắc đầu lia lịa ông toan chửi thề, nhưng nhớ rằng trước mặt phụ nữ, nên gắt lên:
− Cô không phải là người nhà của ông ấy, thì mắc mớ gì cô đòi đưa ông ấy vào nhà thương? Con người sao khờ quá! Rồi công an hỏi cung về cái chết của ông ấy, rồi cô trả lời làm sao?
Vân cũng vừa chợt nhận ra mình tự mang cái ách giữa đàng vào cổ, nhưng một phần vì là người quen, một phần thì bây giờ cũng đã lỡ rồi làm sao rút lui được? Nàng cứ tưởng ông chỉ ngất xỉu, nên mới động lòng tìm cách cứu chữa, gọi xích lô đưa vào bịnh viện. Không ngờ ông đã về bên kia thế giới.Từ lúc nghe ông xích lô xác quyết là ông Thọ đã chết, tự dưng chính Vân cũng thấy rờn rợn và không dám nhìn mặt ông nữa. Nhưng bây giờ biết làm sao, khách bộ hành đi ngang hiếu kỳ, bu lại mỗi lúc một đông hơn vì ông xích lô khua chân, múa tay nói quá lớn, ông chán nản bảo Vân:
− Cà chớn! mới sáng sớm đã gặp xui. Bây giờ cô phụ tôi khiêng ổng lên, bỏ lại trên xe bus đi rồi ai muốn làm gì thì làm. Tôi không có dính vào vụ này.
Dứt lời, ông xách nách xác chết và bảo Vân đỡ hai chân ông Thọ. Vân ngần ngại đứng yên, ông xích lô phải nạt lớn nàng mới chịu bắt tay vào, khệ nệ khiêng cái xác không hồn lên xe bus đặt vào sau tay lái. Rồi ông xích lô lao phắt xuống đường, lên xe phóng vội đi miệng còn lào nhào chửi Vân là đồ ngu.Vân xuống xe đứng phân vân bên lề đường, không biết nên bỏ đi hay chờ cảnh sát tới để tường trình. Đám đông bu quanh mỗi người hỏi một câu, Vân lơ đãng trả lời rồi quyết định đón honda ôm, về báo tin cho gia đình ông Thọ biết và vào nhà thương làm thủ tục nhận xác của ông chôn.
Định mệnh sắp đặt khiến ông chết đột ngột và tình cờ Vân lại là người đầu tiên, chứng kiến cái chết bất ngờ của ông giữa lúc ông đang nói chuyện với nàng. Cách đây hơn một tháng Vân có khoe với ông là nàng đang chờ sang Canada định cư do người anh bảo lảnh. ông Thọ chớp mắt bảo:
− Mừng cho cô.
Nhưng rõ ràng giọng ông có một chút buồn tủi cho thân phận mình, ước mơ xuất ngoại mà không có con đường nào. ông bảo Vân:
− Tôi cũng có nghe nói cô sắp ra nước ngoài, người ta bảo vì vậy cô nhất định chưa chịu lấy chồng.
Vân cười rồi nói lại:
− Trước khi tôi đi thì thế nào gia đình tôi, cũng làm tiệc giã từ bà con lối xóm mà. Mời ông sang cho vui với gia đình tôi nhé!
− Vâng, quý hóa quá! Cô nghĩ đến tôi là tôi mừng rồi. Tôi thì phải qua tiễn chân cô chứ!
Câu chuyện tưởng như mới hôm qua, Vân chưa lên đường chưa kịp làm tiệc mời ông Thọ thì ông đã về bên kia thế giới, Vân chạy về nhà báo tin, rồi cùng người anh ông Thọ lãnh ông từ nhà xác về, mua đất chôn ở nghĩa trang Tân Việt, gần Bà Quẹo. Vân có mặt từ đầu đến cuối, từ lúc tẩm liệm cho tới khi hạ huyệt. Đám tang ông Thọ thưa thớt lại gặp ngày mưa to gió lớn, nghĩa trang ở vào khu đất trũng nước ngập mênh mông. Quan tài thả xuống huyệt cứ nổi lềnh bềnh, khiến người ta phải dùng gậy dí hai đầu xuống để lấp đất. Mà lấp bao nhiêu đất, đất biến ngay thành bùn theo nước trôi đi, người nhà vất vả lắm ông Thọ mới chịu an lòng.
Gần một năm sau Vân lên đường sang Canada, tạm thời ở chung với gia đình người anh đã bảo lảnh tên là Hiếu, có vợ ba con tại Toronto. Hiếu mới mua nhà trước khi Vân qua, căn nhà mới ở vùng ngoại ô phía bắc toronto, nằm trong khu vực vừa khai phá giá tương đối rẻ và đất xung quanh còn rất khoảng cách. Phía sau nhà Hiếu cách một bải trống, mọc đầy cỏ hoang rồi mới tới bìa rừng. Bải đất trống ấy cũng nằm trong kế hoạch xây cất tư gia hoặc chung cư, nhưng vì tạm thời kinh tế xuống, ngành địa ốc suy thoái nên người ta khựng lại bỏ không.
Gia đình Hiếu có năm người, nhưng hai đứa con đầu vừa lên đại học và đi ở xa, ở nội trú luôn trong trường, nên nhà chỉ còn hai vợ chồng với cô con gái út mười bốn tuổi. Vợ chồng Hiếu chiếm ngụ cái phòng ngủ chính trên lầu, đứa con gái cũng có buồng ngủ riêng bên cạnh. Dưới nhà bên cạnh buồng tắm, có một phòng nhỏ dành cho Vân sát bức tường, phía sau có cửa sổ trông ra bải đất trống quạnh hiu. Ngày ngày nhìn cảnh tượng hoang vu vắng lặng sau nhà, Vân còn đang nhớ Sài Gòn da diết thì bà chị dâu đã xa gần giục chồng kiếm việc cho Vân.
Thật ra thì chẳng cẩn phải chị phải giục, chính Hiếu cũng đang để ý tìm việc cho Vân, để nàng có thêm tiền chi dụng và nhất là để vợ Hiếu khỏi cằn nhằn. Hai vợ chồng Hiếu cùng đi làm cả, cho nên vợ Hiếu rất ngứa mắt khi thấy Vân qua đây mà cứ ngồi im trong nhà. Ba tháng sau thì Hiếu tìm được việc cho em gái, ở một tiệm cà phê Dolnad mở hai mươi bốn tiếng một ngày, tiệm nằm ở khu vực downtown, nghĩa là trung tâm của thành phố Toronto. Họ cho Vân làm ca đêm, bắt đầu từ mười một giờ đến bảy giờ sáng. Hiếu an ủi em:
− Thôi! Cứ chịu khó làm tạm đi, rồi một thời gian sau sẽ đổi sang ca ban ngày. Họ có hứa với tao như vậy. Ca đêm thì buồn ngủ, nhưng mà bù lại thì ít khách hơn ban ngày.
Vân vui vẻ đáp:
− Em có ngại gì đâu, ngồi nhà chán chết.
Hiếu tỉ mỉ dặn dò Vân những kinh nghiệm làm việc nơi xứ lạ để em khỏi bở ngở, rồi Hiếu chỉ dẩn cho Vân cách đón xe đi làm. Vì là khu tân lập ngoại ô, nên trước cửa nhà Hiếu tuy đường xá mới mẻ, nhưng chưa có xe bus, Vân sẽ phải đi bộ một khoảng khá xa, để ra con lộ chính lấy xe bus đưa nàng tới trạm Metro. Rồi khi từ trạm Metro trồi lên, nàng sẽ lại phải đón thêm một chuyến bus nữa mới đến downtown, chỗ nàng làm việc. Hiếu dự trù vài tháng nữa sẽ bắt Vân đi học lái xe, sắm chiếc xe hơi cũ cho em gái đỡ vất vả. Hiếu lấy thêm chìa khóa nhà trao cho em, rồi cẩn thận bắt em ghi số phone nhà, số phone tiệm Dolnad và số phone chỗ Hiếu làm việc, cất kỹ vào bóp để lúc cần thì liên lạc, nhất là lúc chẳng may Vân bị lạc đường. Hiếu bảo:
− Mày đi làm ca đêm cũng khoẻ sáng khỏi phải dậy sớm, ban ngày tha hồ mà ngủ. Đường sá không kẹt xe bus rộng rãi khỏi phải đứng mỏi chân.
Vân biết ông anh vì tội nghiệp mình nên cứ phải tìm cách an ủi, nàng che dấu nét xúc động và bảo:
− Anh khỏi phải lo việc gì em làm cũng được mà, ở Việt Nam em quen vất vả. Với lại đi làm học tiếng anh còn nhanh hơn học trong sách nữa.
Sáng hôm sau Vân dậy sớm hơn thường lệ dù mãi đến tối mới phải đi làm. Ngày đầu nhận việc, nàng hồi hộp không ngủ yên giấc, nàng lục đục một lúc rồi vợ chồng Hiếu mới từ trên lầu bước xuống. Bà chị dâu hôm nay nhìn Vân âu yếm hơn, vì nàng đã có việc, không ngồi chơi ăn bám như ba tháng vừa qua. Việc của Vân tuy lương chẳng có bao nhiêu, nhưng chính Vân cũng mừng thầm trong bụng, bởi từ nay khỏi phải nhìn nét mặt hầm hầm đi ra đi vào lườm nguýt của chị dâu. Hai vợ chồng Hiếu chuẩn bị đi làm sớm, đứa con gái đáng lẽ chưa cần đi gấp, nhưng tiện xe của bố mẹ nên cũng ké luôn tới trường, khỏi phải cuốc bộ. Nhà chỉ còn mình Vân ngồi ăn sáng, nàng dự định sẽ ngủ thêm một giấc nữa, rồi dậy nấu cơm cho cả nhà ăn chiều.
Riêng Hiếu thì cứ nằng nặc bảo Vân phải ngủ một giấc dài phải đến gần giờ đi làm hẳng thức. Vân gật đầu đồng ý, nhưng lúc cả nhà đi rồi nàng chỉ ngồi coi tivi hoặc thơ thẩn ra trước nhà rồi lại vô làm bếp, muốn ngủ cũng không ngủ được. Buổi tối hôm ấy cơm nước xong cả nhà ngồi coi tivi một lúc rồi Vân chuẩn bị đi làm. Muốn chắc ăn nàng ra khỏi nhà lúc chín giờ rưỡi mới không sợ trễ giờ. Trời cuối tháng mười một bắt đầu se lạnh và mau tối. Mới khoảng năm giờ chiều là đã thấy âm u xám ngắt, có năm Toronto giờ này tuyết đã trắng xóa. Năm nay trời khô nhưng gió buốt, nhất là quanh nhà Hiếu còn quá nhiều bải đất trống.
Vân mặc quần jean hai ba lớp áo trong áo ngoài, cổ quấn khăn chân đi giày bata, tay cầm cái túi đựng thức ăn và dăm ba đồ lặt vặt. Nàng lầm lũi lội bộ qua mấy khúc đường vắng tanh tăm tối rồi mới đến con lộ chính. Đúng như Hiếu nói giờ này người và xe đã vơi hẳn nên ở trạm bus chỉ có một hành khách đang đợi, đó là một bà người Canada ngồi trên ghế băng trong nhà lồng kiếng, sốt ruột nhìn về hướng xe bus tới. Vân cũng bước hẳn vào trong nhà kiếng để tránh gió, nàng gật đầu chào bà cụ, rồi ngồi xuống bên cạnh và cùng quay mặt về hướng xe sẽ đến. Khoảng hơn năm phút thì nàng vui mừng, thấy xe bus hiện ra xa xa mờ mờ với ánh đèn đường.
Nàng vội đứng dậy bước hẳn ra ngoài, bà cụ cũng bước theo Vân co ro đứng sát lề. Vân ngước nhìn con số khá lớn ghi trên đầu xe và hài lòng gật đầu vì đúng số xe mà Hiếu đã dặn. Mới đi xe bus lần đầu nàng rất sợ lầm lộ trình, rồi không biết cách nào mà quay về. Chiếc xe bus nặng nề lăn bánh tới và tách vào lề, Vân đứng trước một tay xách túi đồ ăn, một tay cầm sẳn hai đồng bạc cắc. Bà cụ đứng sau lẩm bẩm nói một mình thứ tiếng Anh pha giọng ý rất khó nghe. Xe bus vừa mở cửa Vân hăm hở bước lên, bổng nàng giật mình sửng sốt kêu lên, đứng khựng lại và run rẩy muốn té quỵ xuống đất, bởi vì người tài xế xe bus chính là....ông Thọ ngay trước mặt nàng.
Giờ này ông lại ngồi sau tay lái bên Canada quay đầu nhìn Vân cười rạng rỡ. Cái khác duy nhất giữa ông Thọ lúc trước và ông Thọ lúc này, chỉ là da mặt ông không đen xạm như xưa mà trắng bệch có pha chút xanh xao, y như bôi một lớp sáp trên mặt, hàm răng ông cũng không còn vàng ám khói như nghệ mà trái lại trắng nhợt như nước sơn, khiến nụ cười trông thật ma quái. Nhất định là ông Thọ không thể lầm được. Vân tái mặt đánh rớt cái túi thức ăn xuống đất, lạng quạng bước lùi lại mấy bước rồi kinh hồn quay đầu chạy, bà cụ người Canada đứng sau Vân đưa hai tay đỡ lấy vai Vân và hỏi bằng tiếng Anh:
− Cái gì thế, cô làm sao vậy?
Vân không hiểu gì run rẩy chỉ ông tài xế và ấp úng mãi, mới nói đại được một câu nữa tiếng Anh, nữa tiếng Việt:
− Ông ấy...ông ấy...chết..rồi...he died...ông tài xế là người chết lâu rồi..
Rồi nàng quay lưng cắm cổ chạy, bà cụ vừa leo lên vừa ngạc nhiên nhìn theo Vân lẩm bẩm vài tiếng không ai nghe rõ. Chạy được một khoảng khá xa vào hẳn trước dãy phố Vân mới dừng lại thở, nàng quay đầu nhìn lại trạm xe thì chiếc bus đã mất hút không thấy dấu vết gì nữa. Chỉ còn trơ lại cái nhà kiếng với ngọn đèn đường vàng úa. Dãy phố chỗ Vân đứng nhiều cửa tiệm đã đóng im lìm ngoại trừ những quán cà phê, nhà hàng ăn và tiệm tập hóa. Vân mệt quá ngồi đại xuống bậc thềm bên cạnh tiệm bánh ngọt đang chuẩn bị đóng cửa. Hơi thở nàng vẫn còn dồn dập nàng nhớ lại nguyên vẹn khuôn mặt trắng xanh, và hàm răng trắng ngời của ông Thọ lúc thấy nàng vừa bước lên xe, làm toàn thân nàng lạnh buốt như cơn bảo bất ngờ thổi buốt thấu xương.
Nàng không thể lầm được, ông Thọ đã chết chính nàng đã đi đám tang và chôn ông ở nghĩa trang Tân Việt, Bà Quẹo. Sao giờ này lại lái xe bus bên Canada? Vân phân vân suy nghĩ đầu óc hoang mang khuôn mặt đờ đẫn, quên cả cảnh vật xung quanh, đến nổi chủ tiệm bánh ngọt bên cạnh phải giục nàng đứng dậy để họ đổ rác vì nàng đang ngồi ngay bên cạnh thùng rác Vân đứng nép vào ngưỡng cửa nhìn ra đường, nàng nhớ tới lời Hiếu dặn là buổi tối cứ khoảng hai mươi phút có một chuyến xe bus. Giờ đi làm và tan sở thì nhịp độ mau hơn. Vân uể oải bước đi trở lại trạm cũ đứng chờ chuyến xe kế tiếp. Buổi đầu mà đến trễ thế nào cũng bị mắng, có khi mất việc cũng chưa biết chừng.
Vân chớp mắt thở dài sực nhớ ra túi thức ăn lúc nãy đánh rớt. Vân cúi xuống nhìn lòng đường nhưng cái túi đã bị xe cán nát bấy chẳng còn hình dạng gì nữa. Vân lại thở dài gió khuya thổi vù vù từng cơn lạnh buốt. Nàng đứng hẳn vào trong nhà lồng kiếng, trạm xe vắng ngắt không có ai ngoài nàng. Một lúc sau từ khá xa xa, Vân thấy chiếc bus khác lờ mờ xuất hiện mỗi lúc một rõ ràng, nàng vén tay áo nhìn đồng hồ và hy vọng đón chuyến này vẫn còn kịp giờ đến tiệm cà phê Dolnad.Nhưng bỗng nàng sực nghĩ ra một điều làm nàng rùng mình lạnh toát, vì biết đâu trên chiếc xe bus kia người tài xế cũng vẩn chính là ông Thọ, rõ ràng là hồn ông đã theo nàng từ Việt Nam qua đây.
Nàng mở to mắt nhìn chiếc xe đang lù lù tiến đến, rồi khi xe chỉ còn cách khoảng chưa đầy trăm thước, thì do một động lực mạnh mẽ thôi thúc trong lòng. Vân bổng hốt hoảng bỏ chạy nàng chạy ra chỗ cũ, dãy phố chỉ còn vài căn tiệm mở cửa. Nàng đứng sát vách tường và đăm đăm nhìn ra. Khoảng cách xa quá mà trời lại tối nàng không thấy được mặt người tài xế trên xe bus, nên không biết được người tài xế đó có phải là ông Thọ hay không? Chỉ biết chiếc xe đó hầu như trống rỗng không có hành khách.
Chiếc xe đi rồi nàng đứng thở bần thần vì không biết tính sao? Đón xe bus thì nàng sợ gặp hồn ma ông Thọ, mà gọi taxi thì Vân không biết có đủ tiền không? Vì nàng chưa biết từ đây ra trung tâm thành phố sẽ tốn bao nhiêu? Nhất là dù muốn kêu taxi Vân cũng không biết kêu ở đâu số điện thoại nhà? Cuối cùng nàng đành đi bộ về nhà và dự định sẽ báo cho Hiếu biết, hôm nay nàng không đi làm để nhờ Hiếu phone cho tiệm Dolnad. Biết Hiếu sẽ trách nhất là bà vợ nhưng Vân không còn cách nào khác. Trừ trường hợp Hiếu lái xe đích thân chở nàng đi làm.
Vân lầm lũi bước đi trên con đường chưa kịp tráng nhựa, chạy ngoằn ngoèo giữa bải đất trống cỏ mọc bừa bãi bắt đầu chết úa vì thời tiết. Nàng sang đây vào cuối tháng tám trời Toronto còn nắng ấm chan hoà, mới gần ba tháng trôi qua cái lạnh heo may đã đến thật nhanh càng gợi nổi nhớ Sài Gòn. Nhưng nhớ ai thì nhớ chứ chưa bao giờ nàng mảy may nhớ đến ông Thọ dù chỉ thoáng trong giây phút. Mãi đến lúc nãy sau khi hồn ông hiện về nàng mới nhớ láng máng hình như trong xấp hình nàng mang theo có bức ảnh chụp đám tang ông, trong đó nàng đứng bên cạnh thân nhân của ông dưới làn mưa nhỏ sau khi hạ huyệt, nghĩa là ông Thọ đã chết thật đã nằm sâu trong lòng đất, chính nàng đưa ra nghĩa địa tại sao giờ này lại sang đây?
Trong thế gian người có giống người, nhưng không thể giống như vậy được, huống chi người Việt đâu có ai chen vào được ngành lái xe bus công cộng? Vân cắm đầu bước đi giữa tiếng gió vi vút, lâu lâu rít lên từng cơn quanh khu đất trống tối tăm, dãy nhà Tân Lập hiện ra mờ mờ thấp thoáng ánh đèn trong đó có nhà Hiếu. Bổng Vân nhận ra mình không phải là kẻ độc hành, trên con đường lởm chởm đá vụn này sau lưng nàng rõ ràng có tiếng bước chân người đi nhanh, mỗi lúc một gần nàng hơn, tiếng giày đàn ông mạnh bạo trên lớp đá vụn nghe xào xạc. Nàng đi chậm lại tránh sang một bên để nhường bước cho người phía sau tiến lên.
Nhưng tiếng giày cứ ở sau lưng Vân không vượt lên phía trước. Tò mò nàng quay lại thì không thấy ai cả hoàn toàn trên quảng đường vắng quanh nàng, không có một bóng người. Nàng giật thót người và rảo bước nhanh hơn. Thì tiếng bước chân vô hình lại cũng tiến mau hơn theo sát sau lưng nàng. Nàng lấy hết can đả quay phắt lại thì vẩn không thấy ai, tứ phía xung quanh không có người, chỉ có gió thổi vù vù. Vân kinh hãi bỏ chạy nhưng đôi chân dường như ghì lại níu lấy không cho nàng bỏ trốn. Vân vùng vẫy lao tới vấp chân té sấp xuống đường, nàng luống cuống đứng dậy vừa thở vừa chạy ngay tới trước cửa. Vân hoàn hồn ngước lên nhìn ba bậc cầu thang tay cầm chià khóa.
Khu nhà tiền chế mới cất nằm san sát bên nhau nhà này cách nhà kia chỉ hơn một thước. Nhưng con đường trước mặt thì rộng thênh thang và thường xuyên vắng lặng. Đang tra chià khóa vào cửa bổng nhiên giật thót người vì nhìn qua màn cửa sổ nhà bếp thấy thấp thoáng bóng người đàn ông mờ mờ đi lại trong nhà, làm nàng liên tưởng ngay đến bóng ma ông Thọ, nhưng thật ra đó chỉ là Hiếu đang lấy nước trong tủ lạnh bưng lên lầu. Nghe tiếng chià khóa lách cách ở ổ, Hiếu giật mình đứng khựng lại ở chân thang và hỏi bằng tiếng Việt lẫn tiếng Anh:
− Ai đó? Ai mở cửa đó?
Rồi anh từ từ tiến ra vừa lúc cánh cửa mở và Vân xuất hiện, Hiếu ngơ ngác hỏi:
− Sao lại về? Quên cái gì hả?
Vân vừa thở hổn hển, vừa đáp vắn tắt:
− Tai... tại em.. gặp ma.
Trên nhà, vợ Hiếu và con bé Mỹ Linh nghe tiếng nói ồn ào cũng bước ra và đi xuống. Hiếu biết em gái mình không phải hạng người lười biếng trốn việc huống chi anh cũng vừa nhận ra sắc mặt tái mét của Vân, nhưng cái lý do Vân đưa ra là một điều không chấp nhận được vì ngoài sự tưởng tượng của anh. Anh nhăn mặt hỏi lại:
− Mày nói cái gì? Mày gặp ma à? Gặp ở đâu? Sao lại có chuyện lạ đời như vậy, Canada này làm gì có ma?
Vừa nói Hiếu vừa tiến lại đặt cốc nước lạnh xuống bàn, Vân bưng ngay ly nước của anh uống cạn vì cổ họng đang khát khô, nàng cởi áo khoác máng lên thành ghế rồi kéo ghế ngồi, Hiếu cũng ngồi đối diện em, trố mắt nhìn ngờ vực mặc dầu anh thấy rõ đôi mắt Vân chưa tan nỗi kinh hoàng. Vợ Hiếu và con gái kéo tới tất cả đều ngồi ở bàn ăn, thấy vợ bên cạnh Hiếu nhắc lại câu hỏi:
− Tại sao đang đi làm lại bỏ về là thế nào?
Vân đặt cái ly xuống bàn và nói:
− Em đã nói với anh rồi nhưng mà em hỏi anh là anh có nhớ cái ông Thọ ở gần nhà mình không? Cùng con hẻm nhà mình đó cách nhà mình ba căn đó, anh có nhớ không đã? Cái ông Thọ ngày xưa ổng đi lính cái lúc mà em còn bé xíu à!
Hiếu ngắt lời:
− Tao đi lâu quá rồi đâu có nhớ! Nhưng mà mày làm sao? Mày nhắc đến ông ấy để làm gì mới được chứ?
Vân khổ sở kể tiếp:
− Trời ơi ông ấy chết rồi, lúc sau này ông ấy lái xe bus...rồi chết luôn trên xe bus, cái lúc mà ông chết thì...thì... em có mặt trên chuyến xe bus đó, rồi chính em đưa ông ấy ra nghĩa địa...
Hiếu càng sốt ruột ngắt ngang:
− ..Nhưng mà rồi sao? ông ấy chết thì có dính dáng gì đến mày?
Vân mở to mắt nhìn anh nhấn mạnh:
− ..Thì...ông chết cả năm nay rồi...bổng dưng lúc nãy..ơ..ơ..lúc em lên xe bus thì chính ổng ngồi lái...
Hiếu nhìn em toan phì cười, vợ Hiếu mỉa mai chen vào:
− Cô mới qua Canada mà coi tivi nhiều quá...Nói chuyện như thế mà cũng mở mồm ra mà nói, không muốn đi làm thì ở nhà bịa đặt chuyện ma làm cái gì không biết.
Vân bực bội đứng dậy đi lại phía tủ lạnh lấy thêm ly nước và gắt nhẹ:
− Em nói thật chứ bịa đặt cái gì, em thấy chính ông Thọ ngồi lái xe, vừa thấy em..ổng nhe răng ra cười rồi gật đầu chào em. Trời, em sợ quá em bỏ chạy về liền.
Cả nhà cùng im lặng nhưng rõ ràng không ai tin lời Vân. Một lúc sau con bé Mỹ Linh lên tiếng:
− Chắc cô phải đi bác sĩ tâm thần quá à!
Vân thở dài thườn thượt rồi bực bội bảo Hiếu:
− Tức quá...Em không mang tấm hình nào của ông ấy..Anh nhìn mặt là anh nhớ ra ngay. Anh không tin thì...tối mai anh ra trạm xe bus với em.
Hiếu trầm ngâm nói:
− Tao phải đi ngủ sớm, đâu có thức được mà đưa mày đi làm mà đi taxi thì lương mày không có đủ trả.
Rồi Hiếu quay sang đột ngột hỏi vợ:
− Em có nhớ ông Thọ không?
Vợ Hiếu gật đầu:
− Nhớ! Nhưng mà không có rõ lắm, hồi em mới lấy anh thỉnh thoảng gặp ông ấy đi ngang nhà mình ấy. Nghe nói chết bất đắc kỳ tử mà hình như là đứt mạch máu. Nhưng mà...Giá như ông ấy làm ma hiện về thì hiện bên Việt Nam chứ ma nào mà du lịch tận sang đây?
Nói câu ấy vợ Hiếu mỉm cười như chế giễu Vân. Hiếu vội lên tiếng bảo Vân:
− Tao có cách này tối mai mày đừng có đón chuyến xe chín giờ rưỡi như tối nay nữa, mày chịu khó đi sớm hơn nữa giờ, đón chuyến trước khoảng chín giờ. Như vậy mày sẽ khỏi phải gặp ông tài xế bửa nay. Trong thiên hạ thì thiếu gì người giống nhau, nhưng mà muốn chắc ăn thì đi chuyến khác, khỏi gặp ông tài xế bửa nay mà mày bảo là ma!
Vân hài lòng đáp:
− Vâng, em cũng định như vậy đi sớm nữa giờ cũng được chứ ngồi nhà làm gì, đến tiệm trước thì càng vui.
Vợ Hiếu chỉ muốn em chồng đi làm nên đề nghị thêm:
− Còn muốn chắc ăn nữa thì chịu khó cuốc bộ thêm lót đường nữa, thay vì đón xe đường số bốn thì qua hẳn đường số năm đó, hai đường song song với nhau mà xe nào cũng dẫn đến metro. Rồi đằng nào cũng đổi xe bus mới ra được downtown.
Vân gật gù đồng ý:
− Vâng, vâng..có lẽ như thế thì chắc ăn hơn.
Hiếu biết em không muốn ở nhà nên gật gù nhắc lại:
− Ờ, cứ như vậy đi chịu khó đi sớm một tí.
Ngừng một chút anh hỏi thêm:
− Thế còn tối nay thì sao? Bây giờ thì sao? Mày có đi làm hay không?
Vân im lặng không đáp, hình ảnh ông Thọ vẫn còn làm nàng kinh khiếp. Hiếu đứng dậy lại góc nhà nhấc phone gọi cho tiệm Dolnad, mà chủ nhân là một người Hoa hồi trước làm chung sở với Hiếu, nói chuyện vài câu rồi anh gác máy rồi trở lại bảo Vân:
− Tối nay nghỉ cũng được người ta chưa cần mày lắm, thật ra thì họ muốn mày đến trước một hôm để học việc, nhưng mà thôi đằng nào cũng trể rồi tối mai bắt đầu làm. Thôi ta đi ngủ thôi. Nhớ khóa cửa lại.
Vợ chồng Hiếu đứng dậy lên lầu, con bé Mỹ Linh cũng theo lên. Bình thường nó nhốt mình trong phòng riêng, học bài hoặc nghe nhạc ít khi xuống nhà dưới. Mẹ nó có ác cảm sẳn với Vân nhưng nó thì lại dửng dưng không thành kiến. Thỉnh thoảng lúc rảnh rổi nó còn tận tình dạy Vân học tiếng Anh. Mọi người lên lầu rồi Vân cũng uể oải vào buồng ngủ lấy quần áo đi tắm. Nàng cảm thấy khó chịu vì không có cách nào chứng minh cho cả nhà biết là nàng đã gặp ma thật. Toan bước ra, bổng Vân nghe tiếng con chó nhà hàng xóm gầm gừ ngay sau sân nhà mình, sát cửa sổ buồng của Vân.
Tay ôm bộ quần áo, Vân nhíu mày lắng nghe rồi thì một phút sau, hình như nó chồm và những móng sắt của chân trước, cào liên tục vào tường nhà Vân làm nàng càng thêm khó chịu. Gần ba tháng nay chưa bao giờ Vân thấy nó sang sân nhà mình dù là sân sau. Nó hiền như cục đất suốt ngày nằm lừ đừ ngoài hiên nhà, bên cạnh bên tay trái nhà Hiếu, bổng dưng tối nay con chó dỡ chứng, Vân đập bàn tay vào tường mấy cái để xua đuổi nó đi chỗ khác. Nhưng chẳng được chỉ trong khoảnh khắc, con chó bắt đầu tru lên trong đêm vắng lặng trong khu dân cư thưa thớt, nghe ai oán đến rợn người. Vì tiếng cào vào vách, tiếng tru thảm thiết cứ đều luôn luôn, rồi chuyển sang tiếng sủa vang, đôi khi như tắt nghẹn. Vân bực bội lắm nếu nó cứ sủa như thế này thì làm sao cả nhà ngủ được.
Nàng định chạy lên nói Hiếu gọi điện thoại sang ông hàng xóm bảo họ nhốt chó lại. Cái ông hàng xóm này kỳ cục quá tại sao không để chó trong nhà, mà lại thả rong ngoài vườn khi đã bước vào muà lạnh. Tay ôm bộ quần áo ngủ Vân tò mò vén bức màn cửa sổ, trông ra sân sau xem tại sao chó sủa tức thì nàng kinh hải thét lên, buông rơi bộ đồ xuống đất và chạy lao ra ngoài, bởi vì khi tấm màn vừa kéo ra, thì nàng thấy ông Thọ đã đứng sẳn bên ngoài sát cánh cửa sổ, nhe hàm răng trắng bệch cười với nàng. Trong lúc Vân bước tới chỉ có ánh sáng từ trong buồng hắt ra, nàng vẫn thấy rõ khuôn mặt xanh xao cái mặt của ông cười rạng rỡ. Con chó nhà hàng xóm thì cứ lao tới phía ông, mà sủa rồi lại lùi xa xa gầm gừ rồi lại chồm tới y như xua đuổi tên trộm.
Hiếu từ trên lầu chạy xuống gắt lên:
− Cái gì thế? cái gì mà la ầm lên thế?
Vân cũng vừa chạy ra định lao luôn lên lầu, gặp Hiếu nàng hổn hển thở và bảo:
− Em...em vừa thấy ông Thọ đứng ở cửa sổ..buồng em. Hèn gì con chó nhà hàng xóm sủa mãi từ nãy đến giờ!
Vợ Hiếu cũng vừa chạy ra xem uất ức bảo Vân:
− Chó nào sủa? Từ nãy đến giờ có nghe tiếng chó nào sủa đâu? Cô này hay nhỉ, lắm chuyện quá. Không để yên cho người ta ngủ ngày mai cũng phải đi làm nữa chứ!
Hiếu tin rằng em gái mình đang gặp khủng hoảng tinh thần, vì một chuyện gì ghê gớm lắm đã xảy ra trong quá khứ ở quê nhà, nên anh dịu dàng nói:
− Anh có nghe tiếng chó sủa đâu! Con Mỹ Linh nó nói đúng đó chắc là cô bị tâm thần thiệt rồi. Hay là ngày mai em lấy hẹn đi gặp bác sĩ xem sao.
Vừa nói, Hiếu vừa xâm xâm đi lại bước vào phòng của Vân, Vân lửng tửng đi theo nhưng đứng ở cửa không dám vào. Hiếu bước vô vén bức màn cửa sổ trông ra rất lâu và yên chí là chẳng có gì trước mặt, vì trời bên ngoài tối như bưng. Anh bảo Vân tắt hết đèn trong buồng ngủ đi để nhìn ra cho rõ. Anh thấy chẳng có gì ngoài bải đất trống chạy dài tới ven rừng. Trên bải đất trống ấy chỉ có một cái cây khá cao, đứng chơ vơ cách nhà Hiếu khoảng năm mươi thước. Nay mai công ty xây cất cũng sẽ đốn luôn để cất nhà bán. Hiếu xoè hai bàn tay và nhún vai bảo Vân:
− Có gì đâu mày nhìn lại đi. Nhìn lại lần nữa đi có cái gì đâu!
Vân từ nãy đến giờ vẫn đứng thập thò ngoài cửa, nghe Hiếu gọi tức quá Vân tiến lại sau lưng anh trố mắt nhìn ra rồi nhăn mặt phân trần:
− Rõ ràng là ông ấy vừa đứng đó mà đứng sát cái cửa sổ này này. Em không thể lầm được... Mà..mà...bộ anh không nghe thấy tiếng chó sủa hay sao? Lạ nhỉ?
Hiếu bước ra và nhăn mặt bảo:
− Chắc mày nằm mơ chứ gì?
Vân gắt lên:
− Em đã ngủ đâu mà mơ? Vừa mới vào phòng chưa kịp tắm kia mà!
Hiếu kết luận:
− Thôi ngủ đi mai tao với chị mày còn phải đi làm.
Rồi Hiếu lặng lẽ bước lên lầu. Hiếu ra rồi Vân đứng lặng lẽ nhìn tấm màn cửa sổ, nàng tưởng tượng bất chợt trong đêm ông Thọ sẽ xuất hiện trở lại sau lớp kính và bức màn màu trắng đục. Khá lâu, Vân mới lấy hết can đảm cúi xuống lượm bộ đồ rớt ở dưới đất, sát tường ngay phía dưới cửa sổ và chạy nhanh qua phòng tắm. Nàng bật hết các ngọn đèn cho căn phòng rực sáng rồi nhìn ở trong gương, thấy rõ nét lo âu và nhợt nhạt còn đọng lại. Nữa tiếng sau Vân trở lại phòng đứng im nghe ngóng, nàng không dám khép cửa không dám tắt đèn. Thậm chí bật luôn đèn ở trong nhà bếp, rồi mới lên giường nằm nghiêng đưa lưng về phía cửa s và trùm mền kín từ đầu đến chân.
Vợ Hiếu từ nhà trên càu nhàu đi xuống và tắt hết đèn bếp cho đỡ tốn điện. Vân biết nhưng đành nằm im. Cũng may từ đó mọi chuyện đều bình lặng, không có gì xảy ra con chó không gào không sủa nữa. Tuy vậy Vân vẫn không ngủ được, Vân có cảm tưởng bên ngoài cửa sổ hồn ma của ma vẫn lãng vảng, với khuôn mặt bóng loáng vẫn đang tựa cửa đợi mình. Khi nhắm mắt lại khuôn mặt xanh xao của ông với hàm răng trắng nhợt, lại hiện ra rõ mồn một như đang đứng ngay trước mặt Vân. Hồi nhỏ nàng nghe người lớn bảo những người chết vào giờ linh hồn không siêu thoát, cứ theo đuổi mãi một người nào đó trên trần gian, hay là...ông Thọ ở vào trường hợp đó? Nếu thế, thì xui cho Vân quá!
Cả tiếng đồng hồ sau chắc là đã quá nữa đêm, Vân mới rón rén ngồi dậy đi tiểu rồi lại trở về nằm trăn trở rất lâu. Có lẽ căn phòng sáng quá khiến nàng ngủ không được, nghĩ thế Vân vói tay tắt cả hai ngọn đèn trần cũng như đèn ngủ ở đầu giường rồi chun vào cuộn mình trong chăn. Nhưng đèn vừa tắt thì từ sân sau con chó nhà hàng xóm lại bắt đầu gầm gừ nho nhỏ, rồi hai chân trước lại cào vào bờ tường liên tục nghe rin rít, làm Vân thấy rùng mình ê răng và ghê cả người. Không biết tại sao Vân đưa hai tay bịt tai lại, nhưng con chó lại tru lên mỗi lúc một ghê rợn hơn, lát sau lại sủa từng hồi liên tục và luôn luôn móng sắt lại tiếp tục cào vào bờ tường.
Vân lại thót người run lên bần bật vì biết chắc rằng hồn ông Thọ vừa hiện ra trở lại đằng sau nhà. Tiếng chó sủa lớn quá trong đêm khuya tại sao cả nhà nàng không ai nghe thấy? Vân chờ đợi mãi mà chẳng thấy Hiếu lên tiếng chứng tỏ chỉ có mình nàng nghe được, nàng nằm co quắp ôm cái gối vào lòng mắt nhắm nghiền lại. Một lúc sau tiếng chó bổng im lặng, tiếng móng chân cào vào bờ tường cũng im hẳn, Vân nhè nhẹ kéo mép chăn xuống khỏi mặt để thở, nhưng tiếng chó vừa im được một lúc thì phía sau nhà vang lên tiếng ầm ầm cổ máy xe hơi. Đúng là tiếng xe bus chạy từ từ, đơn độc, cứ lớn dần, lớn dần cho tới khi lướt ngang ngay sang cửa sổ nhà nàng.
Nhà nàng ở giữa đồng trống không thể có con đường có bất cứ xe nào, chạy ngang phía sân sau; Nàng lại run lên bần bật và kéo mền phủ lên mặt, nhắm mắt lại nàng hình dung thật rõ chiếc xe bus cứ từ từ tiến tới gần nhà mình, chạy lướt qua rồi lại quay đầu trở lại. Và ông Thọ ngồi lạnh lùng sau bánh lái, nàng cố trấn tỉnh choàng dậy với tay bật đèn và ôm cái mền chạy lao ra nhà bếp rón rén lên lầu. Nàng muốn chui vào ngủ chung với đứa cháu cho đỡ sợ, nhưng giờ này đã quá khuya, không dám đánh thức nó. Dần dà một chút Vân nằm dài ra sàn nhà, ngay chiếc cửa sổ phòng con Mỹ linh tung chăn phủ kín lên người.
Sáng hôm sau chuông đồng hồ đánh thức Hiếu dậy lúc bảy giờ như thường lệ, hầu như sáng nào anh cũng dậy trước vợ, xuống nhà đọc báo uống cà phê cho tỉnh táo. Anh đẩy cửa bước ra ngơ ngác thấy Vân nằm co quắp ngay lối đi, anh đứng nhìn một chút rồi thoáng hiểu ngay là em gái đêm qua không dám ngủ một mình ở dưới nhà. Anh tội nghiệp bước đi nhè nhẹ xuống nhà để khỏi đánh thức Vân, nhưng Vân choàng dậy ngồi tựa lưng vào vách, tóc xỏa mệt mỏ và đôi mắt đỏ ngầu hai mắt nhìn ra cửa sổ.
Trời hãy vẩn còn tối bảy giờ sáng muà hè thì nắng đã lên. Nhưng muà đông thì chưa trông rõ cảnh vật. Dưới nhà, Hiếu bật đèn sáng choang Vân uể oải đứng dậy cầm cái mền bước xuống. Hiếu đã vào buồng tắm khép cửa lại trên lầu cũng có buồng tắm nhưng gần như Hiếu để dành riêng cho vợ và con gái, vì mỗi buổi sáng cả hai đều lục đục trong đó rất lâu. Vân tiến lại trước cửa phòng mình đứng tần ngần một chút rồi mới dám bước vô, quăng cái chăn lên giường, nàng nhìn tấm màn cửa sổ định bụng chờ trời sáng rõ rồi chút nữa mới kéo ra, nàng ra nhà bếp pha cà phê chờ Hiếu. Một lúc sau thì Hiếu từ trong buồng tắm bước ra, tiến lại và hỏi Vân một câu thừa thãi:
− Tối hôm qua mày không dám ngủ một mình dưới nhà phải không?
Vân mệt mỏi nói:
− Anh Hiếu à, anh có cách nào tối nay đi với em được không?...Anh không cần phải đến tiệm cà phê làm gì đâu. Anh chỉ đứng chờ xe bus với em thôi, để em xem ông ấy có hiện về lái xe nữa hay không! Nếu có thì anh cũng lên xe với em chứ một mình em...em không có dám đâu.
Hiếu biết tinh thần em mình đang hỗn loạn, nhưng ngàn lần anh không thể tin được là hồn ma từ Việt Nam sang tận đây để theo đuổi Vân, anh gắt nhẹ:
− Xe bus đâu có chỉ chờ có mình mày, mỗi chuyến cả mấy chục người, không lẽ cái xác chết lại lái được xe đưa cả mấy chục người đi làm? Mày nói làm sao chứ?
Vân ngắt lời nhấn mạnh:
− Nhưng mà tối nay anh đi với em ra bến xe được không?
Hiếu rất muốn chìu em, đồng thời cũng muốn giải quyết một lần cho xong, nhưng anh sợ vợ anh không bằng lòng, nên anh chẳng biết trả lời ra sao. Vân đặt tách cà phê, nhìn ra cửa sổ và nói:
− Trời sáng rồi, anh..anh đi với em ra đây ra đằng sau nhà với em.
Hiếu ngần ngại không muốn ra ngoài, nhưng vì tội nghiệp Vân cả đêm mất ngủ nên đành đứng dậy nhưng cằn nhằn bảo:
− Đứng trong buồng của mày nhìn ra sân sau cũng được, cần gì phải ra bên ngoài cho lạnh.
Vân giật mạnh tay anh quả quyết:
− Không, anh cứ đi với em, em nói thì anh không có tin đêm hôm qua ông Thọ hiện về ngay sau cửa sồ buồng em nè, con chó nhà bên nó cứ sủa ầm cả lên rồi nó cào mãi vào trong tường. Đi! Anh đi với em đi mà.
Vừa nói Vân vừa lôi anh lại cửa sau, nàng đẩy cánh cửa sổ bước ra quên cả cái rét buổi sáng. Hiếu theo sau rùng mình vì lạnh. Trời chưa sáng hẳn nhưng nhờ khoảng trống mênh mông phía sau nên cảnh vật bắt đầu trong rõ. Hiếu bật thêm ngọn đèn máng trước hiên sân sau để quan sát cho rõ. Hiếu đứng trên mãnh sân sau, chưa có làm hàng rào chưa tráng xi măng mà lớp cỏ thì đã chết úa vì lạnh. Bỗng Hiếu trố mắt giựt mình há mồm nhìn trên bức tường nhà mình, ngay cửa sổ phòng Vân quả thật chằng chịt bao nhiêu vết cào, như có ai cầm cây đinh cố ý vạch vạch. Nhà mới xây tường còn nguyên nên dấu cào càng rõ. Vân lay vai Hiếu và kinh hãi nói:
− Anh...anh thấy chưa? Em bảo anh mà con chó nó cào cả tiếng đồng hồ ấy.
Rồi nàng hốt hoảng chỉ tay và nói lớn hơn:
− Đây..đây này..Anh coi này...dấu chân người đứng ngay sau cửa sổ nhìn vào buồng ngủ của em, rõ ràng là dấu giày còn in lại vì chỗ đất mềm. Sân này từ trước tới giờ đâu có ai lai vãng tới. Tối hôm qua mà anh..anh ở dưới phòng em, thì anh mới thấy sợ, em phải chạy lên lầu là vì thế ấy.
Hiếu cũng vừa nhận ra dấu giày đàn ông quay mũi vào hướng buồng Vân, làm anh bắt đầu đổi thái độ. Một cảm giác rờn rợn bất chợt lan vào toàn cơ thể anh, anh im lặng quay đầu nhìn sang nhà hàng xóm, có con chó quanh năm hiền lành, rồi anh kéo tay Vân ra hiệu bảo vào nhà khép cửa lại. Anh đi ra sân trước dáo dác nhìn, con chó hàng xóm đã nằm lặng yên trước hiên, không có một dấu hiệu nào chứng tỏ đêm qua nó đã gặp ma. Anh bảo Vân:
− Hay là kẻ trộm nó rình nhà mình?
Vân lắc đầu:
− Đằng sau nhà mình là bải đất trống, trộm nào dám đứng khơi khơi giữa bãi đất trống mà rình?
Hiếu cũng đã nghĩ đến điều ấy, nhưng anh vẫn cố nêu ra một giả thiết để tự an ủi mà thôi. Vào nhà anh ngồi ở bàn ăn hai mắt đăm chiêu suy nghĩ. Vân rót cà phê cho anh rồi bưng lại đặt trước mặt, Hiếu hỏi:
− Cái ông Thọ mà mày bảo là hiện hồn về đó, lúc còn sống ông ấy có..ông ấy có..có dính dáng gì đến mày không? Tại sao lại hiện về để chọc ghẹo mày?
Vân kéo ghế ngồi và lại tỉ mỉ kể hết diễn tiến mọi chi tiết cho Hiếu nghe, chỉ khác một điều là lần này nàng kể phấn khởi hơn bởi vì Hiếu đã chăm chú lắng nghe, không xem thường câu chuyện của nàng như tối hôm qua. Nàng kết luận:
− Tối nay anh chịu khó ra đón xe bus với em được không anh?
Hiếu gật đầu đáp:
− Ừ, để tối nay tao đi với mày, nhưng tao dặn mày để xíu nữa chị mày dậy đừng có nói gì cả. Bả nhát lắm biết là có ma thật chị mày có thể đứng tim chết đó.
Vân gật đầu mặc dầu trong lòng rất ấm ức, vì rõ ràng bà chị dâu cho là Vân bịa đặt, chị cứ yên chí cho là Vân lấy cớ để nghỉ ở nhà để khỏi phải đi làm. trong lúc tức tối Vân chỉ mong cho hồn ma hiện về, cho bà chị dâu gặp một lần để bả tởn. Vân đứng dậy và nói:
− Thôi, anh chuẩn bị đi làm đi em phải đi ngủ một giấc đây, mất ngủ một đêm mệt quá. Định vào ngủ chung với cháu Mỹ Linh nhưng mà lại sợ làm mất giấc ngủ của nó, em đành phải nằm ở ngoài hành lang ấy.
Hiếu trầm ngâm không nói gì nữa, Vân nhìn anh tha thiết hỏi:
− Ừm..em..em gọi phone về Việt Nam được không anh?
Hiếu bưng tách cà phê chưa kịp uống ngạc nhiên đáp:
− Được chứ, nhưng mà mày gọi cho ai?
− Gọi cho gia đình ông Thọ ấy mà, ông ấy ở với một ông anh ruột, em bảo là người ta làm lễ cầu siêu, tại vì ông Thọ không vợ, không con cho nên không có ai cúng kiến cả.
Hiếu uống một ngụm cà phê rồi gật đầu bảo:
− Ừ tùy mày vậy, lát nữa tao đi làm thì mày gọi.
Vân hài lòng đứng dậy, anh em thương nhau nhưng vớ phải bà chị dâu khó chịu, thành ra bất cứ việc gì muốn làm, Vân vẫn cứ phải đắn đo. Nàng bước vào phòng tắm, bao nhiêu nỗi kinh sợ đêm qua, giờ này khi trời sáng đã giảm hẳn. nàng đánh răng rửa mặt rồi vào bồn tắm xối nước nóng cho đỡ mệt mõi, rồi nàng vào buồng khép cửa lại lên giường ngủ. Ngoài nhà vợ chồng Hiếu và con gái lục đục một lúc, rồi khóa cửa đi ra trả lại sự vắng lặng một mình cho Vân ở nhà. Nàng cần phải ngủ một giấc dài, đêm nay mới có thể thức trắng làm việc ở tiệm cà phê.
Vân ngủ được mấy tiếng đồng hồ thì choàng tỉnh dậy giữa căn nhà vắng vẻ, ngẩm nghỉ mấy giây mới nhớ lại trọn vẹn câu chuyện đêm qua, vào lúc thấy ông Thọ mặt sáp, ngồi trên xe bus cho đến những âm thanh hổn độn ở sau nhà: tiếng chó sủa, tiếng cào vào tường, tiếng xe bus chạy. Tất cả uà trở về rất nhanh trong trí nhớ của nàng. Tuy nhiên nhìn qua màn cửa sổ nàng thấy trời đã rực nắng, nên cái cảm giác run sợ không còn đè nặng như đêm qua, nhìn đồng hồ trên bàn thấy cũng quá trưa Vân choàng dậy định ra rửa mặt rồi nấu cơm, chui ra khỏi tấm chăn dày Vân thấy rùng mình vì lạnh, nàng mặc vội cái áo khoác rồi lại kéo rộng tấm màn cửa sổ cho căn phòng thêm ánh sáng.
Màn vừa kéo ra nàng hãi hùng kêu lên và bước lùi lại mấy bước. Trên bãi đất mênh mông trước mặt cách nhà nàng khoảng năm mươi thước, trơ trọi một cây thông khá cao giờ này lá đã rụng gần hết. Một người đàn ông đứng dựa gốc cây miệng ngậm điếu thuốc khói bay nhè nhẹ, đăm đăm nhìn vào cửa sổ buồng ngủ của Vân. Mặc dù khoảng cách khá xa Vân cũng vẫn nhận ra ngay đó là ông Thọ, với cái dáng quen thuộc không thể lầm lẫn được Vừa thấy Vân, nghĩa là khi Vân vừa kéo màn cửa ông liền quay lừng lửng bỏ đi về phía bià rừng và mất hút trong đó.
Vân để bàn tay lên ngực để trấn tỉnh nàng không dám kéo màn lại nữa. Nàng chạy ra nhà ngoài kiểm soát lại, xem cửa chính đã đóng kín và gài then trong chưa, đồng thời nhà có bao nhiêu cửa sổ, Vân kéo màn mở tung ra hết, nàng nghĩ hồn ma luôn luôn sợ ánh sáng, cho nên chiều nay khi Hiếu đi làm về, nàng sẽ đòi Hiếu thay cái bóng đèn thật sáng phía sân sau, ngay trên cửa sổ của nàng, rồi từ đây khi ngủ nàng sẽ không kéo màn lại nữa. Nàng đứng ở bàn ăn đờ đẩn suy nghĩ tim vẩn còn đập thình thịch căn nhà vắng lặng lạ thường, không một tiếng động nhỏ làm nàng cảm thấy rờn rợn như sống một mình giữa lâu đài hoang.
Nàng vào phòng khách bật ti vi lên cho đỡ trống trãi rồi qua phòng tắm rửa mặt. Nhìn đồng hồ thấy mới khoảng một giờ trưa nàng lưỡng lự toan gọi điện thoại về VN, nhưng lại đổi ý hoãn đến chiều chờ Hiếu về để Hiếu cùng nghe rõ câu chuyện. Một mặt Vân sẽ bảo người nhà cầu siêu cho ông Thọ, một mặt nàng sẽ yêu cầu bảo họ, gởi qua cho nàng một bức hình của ông để mang lên chùa. Phải chấm dứt tình trạng này, chứ nếu kéo dài thì nàng không thể làm ăn gì được. Đôi mắt vẫn còn cay Vân đứng trước bồn rửa mặt, cúi xuống vặn nước nàng nhắm mắt lại vọc thật nhiều nước đắp lên mặt cho tỉnh.
Đang lau mặt thì nàng ngạc nhiên khựng lại, vì chợt ngửi thấy mùi thuốc lá thoang thoảng trong phòng, nàng nhíu mày đứng yên, hít hít mấy cái và càng thấy rõ mùi thuốc lá bao phủ nặng nề hơn. Hiếu đi làm mới về bất ngờ chăng? Chắc là không! Bởi dù Hiếu có về, thì Hiếu cũng đâu có hút thuốc, anh bỏ thuốc đã lâu. Mấy cái gạt tàn chỉ còn giữ lại trong tủ làm kỷ niệm. Nhà này không có ai hút thuốc, sao lại có mùi khói bay trong nhà? Vân máng cái khăn lên và cất tiếng hỏi lớn:
− Anh về đấy hả anh Hiếu?
Cùng với câu hỏi ấy Vân bước sang phòng khách, nàng kinh hãi đến rợn người vì ở bàn salon trên chiếc gạt tàn bằng thủy tinh, có điếu thuốc đang cháy dở, khói bốc thành sợi bay lên cao. Vân đứng chết cứng tại chỗ trố mắt nhìn, bên cạnh cái gạt tàn còn có gói thuốc Mai mà đã hơn một năm nay Vân mới nhìn lại. Tim đập thình thịch Vân đưa mắt nhìn quanh, ngó xuống bếp và ngước lên lầu nàng biết hồn ma ông Thọ đang có mặt trong căn nhà, với một điếu thuốc nội hóa mà xưa kia ông vẫn hút khi lái xe bus.
Dường như có tiếng bước chân trên lầu nàng im lặng lắng nghe thì không thấy gì nữa. Căn nhà chìm trong im lặng mênh mông không một tiếng động nào. Đứng một lúc lấy lại phần nào bình tĩnh, Vân tiến lại góc nhà chỗ máng điện thoại để gọi vào sở báo tin cho Hiếu biết. Nàng dự định điện thoại cho Hiếu xong, thì nàng sẽ ra phố đông người hoặc vào một shopping center nào đó, đi thơ thẩn chứ không dám ở nhà một mình, năm giờ chiều cả nhà về thì Vân mới về. Vân đứng bên cạnh cái phone màu đen máng trên vách, mở cuốn sổ tìm số của Hiếu, nhưng còn đang lật từng trang, thì điện thoại bổng reo vang, làm nàng giật nẩy người đánh rơi cuốn sổ điện thoại xuống chân.
Nàng trấn tỉnh ngay, đặt bàn tay lên ngực và thở phào vì đoán là Hiếu gọi về. Ban ngày cả nhà đi làm hết, đâu có ai gọi vào giờ này ? Chắc chắn chỉ có Hiếu hoặc con bé Mỹ Linh mà thôi. Nàng nhấc ống nghe, áp vào tay vừa nói "Hello" thì từ phía đầu dây bên kia, vang lên một giọng nói rất mơ hồ, lẫn trong tiếng gió thổi, như vọng từ cõi xa xăm nào về....
− Chào cô Vân, tôi là Thọ đây, Thọ xe bus đây!
Vân thét lên buông rơi chiếc điện thoại xuống bàn, và bỏ chạy ra sân nhà, nàng xuống hẳn lề đường, mặt tái mét đưa mắt nhìn ra trước sân và hai bên nhà hàng xóm. Con chó nhà bên cạnh vẫn nằm lừ đừ trước cửa, dưới ánh nắng khô lạnh. Sực nhớ ra mình đang mặc đồ ngủ, hơi giá thấm nhanh qua lớp vải nội hóa. Vân lại trở vào rón rén mở cửa mắt mở trừng trừng, nhìn tứ phía căn nhà nàng cư ngụ đã ba tháng, hôm nay biến thành một cõi âm hồn lạnh lẽo, mà nàng cảm nhận được trong không gian. Nàng muốn gọi phone cho Hiếu, nhưng cứ đứng nhìn cái điện thoại mà kinh hãi, chỉ sợ đến gần thì hồn ma ông Thọ lại từ thế giới bên kia kêu về.
Nàng mon men đi vào phòng, dáo dác ngó quanh, rồi thay bộ quần jean áo thun, rồi nàng qua buồng tắm lấy cái Jacket dầy vẫn máng trong đó. Nhưng lạ quá, cái áo khoác ấy chỉ máng lên một cái đinh nhỏ sau cánh cửa, mà nàng giật mãi không ra, như có bàn tay ai giữ lại. Vân dùng hết sức, kéo thật mạnh cái đinh sút luôn, làm nàng ngã té. Vân lồm cồm đứng dậy cầm cái jacket chạy luôn ra sân. Buổi chiều vợ chồng Hiếu về tới nhà, đã thấy Vân đứng chờ ngoài sân. Trời muà đông âm u gần như đã bảy tám giờ tối. Nhìn nét mặt xanh xám và cặp mắt lạc thần của em, Hiếu ưu tư hỏi:
− Sao giờ này không ngủ, ra đứng đây làm gì cho lạnh?
Chờ vợ Hiếu vào nhà trước, Vân mới níu cánh tay anh và vắn tắt kể:
− Anh Hiếu ơi, hồn ma ông Thọ đang ở trong nhà mình từ sáng tới giờ đó. Em đang ở trong buồng tắm thì ngửi thấy mùi thuốc lá. Em chạy ra không thấy ai mà lại thấy điếu thuốc cháy dỡ trên tàn, bên cạnh điếu thuốc Mai. Ghê nhất là lúc em tính gọi phone vào sở cho anh, thì em nghe tiếng ở trong phone, nhấc ra thì chính là tiếng của ông ấy. Giọng ông ấy nghe...nghe ghê lắm, nghe kỳ lắm..em sợ quá..em sợ lắm anh ơi..em..em ở nhà một mình chắc em chết mất...
Giọng Vân cực kỳ thảm nảo khiến Hiếu đứng yên tại chỗ, đăm đăm nhìn xuống chân ngẫm nghĩ không biết giải quyết bằng cách nào để giúp em. Những điều Vân vừa kể như ông Thọ hiện về hút thuốc, và nhất là điện thoại cho Vân thì Hiếu chưa tin hẳn. Tin làm sao được? Y như trong phim ảnh, hay là em gái mình bị loạn trí thật rồi? Cũng không phải, dấu chân người và những dấu vết cào trên vách tường sau nhà Hiếu, rõ ràng là điều có thật, mà sáng nay chính anh đã tận mắt chứng kiến. Muốn kiểm lại cho chắc, Hiếu không vào nhà vội, anh kéo Vân vòng ra hông nhà và ra phía sau. Dấu chân người đứng sát cửa sổ, và những vết cào chằng chịt trên tường vẫn còn nguyên vẹn. Vân bảo:
− Anh..anh thay cho em cái đèn thật sáng ngoài này được không? Ma bao giờ cũng sợ sáng cả.
Hiếu vừa bước vòng về phía trước vừa nói:
− Tạm thời mày sợ thì nằm chung với con Mỹ Linh. Nhưng mà mày có ngủ ở nhà đâu mà mày sợ? Mày làm ban đêm mà! Lát nữa tao đi với mày ra đón xe bus.
Giờ này thì Vân không phải chỉ sợ ông Thọ ngồi trên xe bus, mà chỗ nào hình như cũng có ông theo bước chân nàng. Hai người vừa tới cửa trước, thì vợ Hiếu cũng vừa từ phía trong nhà bước ra, mặt hầm hầm nhìn Vân mắng lớn:
− Cô ở nhà làm gì mà phòng tắm bừa bãi như thế này? Thủy tinh vỡ đầy trong ấy mà không quét dọn gì cả, rủi ai đạp vào thì sao? Rồi bao nhiêu chai lọ lăn long lóc ở trong buồng tắm ấy, cô để yên được à? Muốn vào đây thì phải gọn ghẽ chứ.
Vân cúi đầu nén tiếng thở dài, Hiếu không biết giải thích thế nào với vợ để bênh em gái, bèn dịu dàng bảo Vân:
− Vào quét đi, quét rồi lấy máy hút bụi hút lại cho thật kỹ đi.
Vân vô buồng tắm rồi, vợ Hiếu đứng ở bếp chống nạnh nhìn quanh rồi chán nản nói:
− Um...ở nhà cả ngày mà bếp núc lạnh tanh như thế này. Không nấu được hộ nồi cơm. Chán thật!
Hiếu nghe vợ cằn nhằn em gái một cách oan ức, nhưng anh không biết nói sao, anh không muốn vợ biết rằng, chính anh cũng đã bắt đầu tin những điều Vân kể, anh tò mò đứng ở trước cửa buồng tắm nhìn vào, Vân đang khom người quét những mãnh thủy tinh, vội đứng dậy và thì thầm kể:
− Em thấy tình hình ghê rợn lắm rồi, em..em chịu không nổi, anh phải làm cách nào giúp em. Trưa nay, em ngủ có khoảng ba tiếng đồng hồ, ban ngày nên em cũng đỡ sợ, ngủ dậy em vén màn cửa sổ thì không ngờ em lại thấy ông ấy. Đêm qua thì ông ấy đứng sát cửa sổ, trưa nay thì ông ấy đứng xa xa dưới gốc cây, chỗ cái bãi đất trống kia kià..Anh có biết cây đó là..là cái cây gì không? Đó đó cái cây đó đó, anh qua buồng em mà coi.
Rồi thấy em, ông ấy bỏ vào rừng. trời đất ơi, em mệt quá vì thiếu ngủ, mới vào buồng tắm vọc nước đắp vào mặt, ai ngờ mở mắt ra thì ngửi thấy mùi thuốc lá, chạy ra phòng khách thì thấy điếu thuốc đang cháy dỡ. Em chưa đứng tim mà chết là may đấy. Vào phòng tắm để lấy cái áo jacket thì có người giữ lại không cho em lấy, lôi mãi thì cái đinh nó tuột ra, làm em ngã lăn vào buồng tắm suýt gãy xương sống...Mà..mà lạ quá..cái ly thủy tinh này múc nước xúc miệng, thường ngày nó nằm cạnh cái bàn rửa mặt, sao hôm nay nó nằm cạnh cái bồn tắm? rớt xuống vỡ tung ra, em..em chả hiểu ra làm sao hết. Rùng rợn nhất là lúc em nghe tiếng ông ấy trong điện thoại. Từ nay....từ nay chắc em không dám nhấc điện thoại nữa đâu.
Hiếu chỉ nghe em kể cũng thấy rùng mình, lạnh buốt xương sống, mặc dù toàn những chuyện lạ lùng đầy tính hoang đường, anh bảo Vân quét dọn. Một mình vào buồng ngủ của Vân, đứng nhìn qua cửa sổ. trời đã tối xẩm, ngoài khu đất hoang, cảnh tượng thê lương như bải tha ma không một bóng người, không một chút ánh sáng vì nhà Hiếu ở dãy cuối cùng. Hiếu kéo màn cửa sổ lại rồi trở qua buồng tắm và hỏi Vân:
− Ông Thọ lúc còn sống theo đạo gì?
Vân vừa quét vừa đáp:
− Dạ..hình như đạo Phật.
Hiếu bảo:
− ở Toronto có nhiều chuà VN lắm, hay là mày nhờ chuà làm lễ cầu siêu cho ông ấy.
Vân hăm hở đồng ý ngay:
− Vâng, em cũng định như vậy. Thứ bảy này nhờ anh đưa em đến chuà, chuà nào cũng được. Nhưng mà trước mắt phải giải quyết ngay chứ..để thế này đâu có được. Từ đây đến thứ bảy còn lâu quá.
Hiếu nhìn em gái tội nghiệp nói:
− Giải quyết cách nào bây giờ? Chính tao cũng không biết. À , mà mày gọi điện thoại về VN chưa ? Bảo người nhà ông ấy gửi gấp gấp hình ông ấy sang đây để mày mang lên chuà.
Vân mệt mỏi đáp:
− Trời ơi, em chưa gọi, bao nhiêu chuyện dồn dập xảy ra, em chẳng còn tâm trí nào để nhớ là điện thoại về VN, thôi hay là để sáng mai vậy.
Vân vừa dứt lời thì con bé Mỹ Linh cũng vừa về tới đẩy cửa bước vào, cất tiếng chào bố mẹ rồi đi thẳng lên lầu vào buồng riêng. Nó thay quần áo xong, xuống nhà chuẩn bị ăn cơm, thấy mẹ đứng nấu bếp, nó vô tình hỏi:
− Ủa, cô Vân ở nhà không nấu hay sao mẹ?
Vợ Hiếu được dịp than:
− Chả biết làm gì cả ngày ở nhà mà bừa bải như bải rác, không dọn dẹp, cũng chả nấu nướng.
Những câu nhiếc móc ấy Vân đều nghe rõ cả vì vợ Hiếu cố ý nói lớn, nhưng nàng lờ đi vì đã có lời dặn của Hiếu, nàng dọn xong buồng tắm, treo tấm màn nylon lên thì nghe tiếng Hiếu gọi ra ăn cơm. Ít có gia đình nào chị dâu em chồng hoà thuận với nhau, nhất là trong hoàn cảnh của vợ Hiếu và Vân hôm nay. Hai chị em ngồi đối diện nhau không ai nói lời nào. Con bé Mỹ Linh vốn tính hồn nhiên, tươi cười hỏi Vân:
− Tối nay cô có đi làm không? Coi chừng cô lại gặp ma trên xe bus đó nha!
Vân chưa kịp đáp thì Hiếu lên tiếng:
− Ừm...lát nữa ba sẽ đi với cô Vân ra trạm xe, chờ cô lên xe xong thì ba mới về.
Lập tức vợ Hiếu đặt bát và gắt lên:
− Ơ hay! Tại sao phải như thế? Không lẽ đêm nào cũng đưa từ nhà ra bến xe à? Thế thì ở nhà cho rồi, đi làm làm cái gì? Đi làm mà phiền người khác thì nghĩ phức cho rồi.
Hiếu gắng nhẫn nhục phân trần:
− Anh đi với cô ấy tối nay thôi, để xem ông lái xe bus là ai mà con Vân nó sợ?
Mỹ Linh chen vào:
− Ba cho con đi theo luôn đi để xem ông ấy có phải là ma không nhá?
Vợ Hiếu quát lên:
− Thôi thôi, vẽ chuyện, không có đi dâu hết á, ăn xong lên phòng học bài đi.
Hiếu bực mình chịu không nổi, lạnh lùng bảo vợ:
− Em cũng nên đi với anh và con nữa. Đi ra xem ông tài xế xe bus là ai? Người hay là ma?
Vợ Hiếu quẳng đôi đũa xuống bàn mà gắt:
− Cái gì? Hóa ra là anh cũng tin là ông Thọ chết ở VN, rồi bây giờ sang đây lái xe bus à? Đúng là mê ngủ! Ma nào mà đi xa vậy? Anh em giống hệt nhau, tin vớ tin vẩn chuyện dị đoan.
Hiếu cải:
− Không gặp thì làm sao mà biết được? Lát nữa anh ra xem sao?
Con bé Mỹ Linh nhìn bố dè dặt nhắc lại:
− Um...con đi được không ba?
Hiếu gật đầu:
− Ừ, con đi với ba xem cô Vân nói thật hay là chỉ tưởng tượng?
Vợ Hiếu bực mình bỏ dỡ bửa cơm, đứng dậy bước vào buồng tắm rồi lên lầu. Con bé Mỹ Linh đưa mắt nhìn theo mẹ một lúc rồi quay lại Hiếu, nó tò mò hỏi:
− À... Bộ ma cũng lái được xe hả ba?
Hiếu gật đầu giải thích:
− Ma là hồn người chết con ạ. Tuy xác chết, nhưng hồn không chết. Có nhiều điều người sống làm không được, nhưng hồn ma nó làm được. Huống chi là lái xe thì quá dễ.
Cơm nước xong, hai cô cháu xuống dọn dẹp để Vân chuẩn bị đi làm. Nàng hồi hộp lắm. Nhưng có hai cha con Hiếu đi theo nàng cũng đỡ sợ. Nàng tự đặt ra trong đầu hai trường hợp sẽ xảy ra: Nếu lát nữa ông Thọ lái xe thật thì nàng có leo lên xe hay không? Mà nếu tài xế không phải là ông Thọ, hai cha con trở về không, thì cả nhà sẽ khổ với sự đay nghiến của vợ Hiếu. Lúc đó nàng sẽ ăn nói làm sao với bà chị dâu khó tính. Trong lúc Vân rửa chén, thì Hiếu lên lầu nói chuyện với vợ, vợ Hiếu bây giờ đâm ra bực chồng hơn cả bực Vân, bởi lẽ Hiếu tỏ ra tin chuyện ma vô lý của em gái, Hiếu biết thế, nên phải tìm cách vuốt, anh giả vờ nói theo ý của vợ:
− Em à, anh thấy là cả em cũng nên đi với anh ra trạm xe bus, biết đâu con Vân nó lấy cớ là sợ ma, nó ở nhà không chịu đi làm đúng như em nói? Mình ra tận nơi chứng kiến, nó sẽ hết đường chối cãi em thấy không? Chính vì vậy anh mới quyết định ra trạm xe với nó chỉ một lần thôi, từ mai nó không bịa đặt chuyện được nữa. Em đi với anh đi, em đi với anh để xem nó ăn nói ra làm sao?
Vợ Hiếu thấy chồng có lý chị ngẫm nghĩ một chút rồi nói:
− Đi thì đi, thời buổi này mà nói chuyện gặp ma nghe chán thật.
Hiếu vuốt theo:
− Chả hiểu con bé nó bị khủng hoảng cái gì mà sinh ra lẩn thẩn như vậy?
Anh quay bước xuống nhà mà lòng nặng trĩu. Nổi lo âu dùm cho em gái anh mong mỏi là mọi chuyện êm xuôi. Vân từ nay đi làm đều đặn để vợ anh cảm thấy thoải mái hơn. Đúng tám giờ rưỡi, bốn người nai nịch quần áo muà đông, bước ra khỏi nhà để lên đường đi gặp...ma. Vợ Hiếu mặc jacket dày lặng lẽ theo chồng, không nói lời nào. Vợ Hiếu khóa cửa, rồi cả nhà cắm đầu cùng rảo bước. Hiếu định lái xe, nhưng vợ Hiếu và con bé Mỹ Linh đều đòi đi bộ vì quảng đường không xa lắm. Vợ Hiếu lúc này hơi lên cân, nên thấy có dịp đi bộ để tập thể dục đòi đi ngay.
Trời rét căm căm, mà gió lại rít từng cơn qua cánh đồng trống, như hắt hơi lạnh vào bốn người. Hiếu và vợ đi trước rầm rì nói chuyện. Hai cô cháu lặng lẽ đi sau. Vân kiểm điểm lại bao nhiêu nổi kinh sợ xảy đến dồn dập trong ngày hôm nay. Nàng thầm nguyện trong đầu:
− Ông Thọ ơi, lúc sống ông là người thân của tôi, ông sống khôn thác thiêng, xin đừng hiện về làm tôi sợ. Tôi hứa sẽ đặt bài vị ông trong chuà mà.
Mười lăm phút sau thì ra tới con lộ chính, trạm xe không có ai. Cả bốn người đứng khuất hẳn vào trong nhà lồng kiếng chờ đợi. Vân hồi hộp lắm, để đỡ sốt ruột, nàng hỏi Hiếu:
− Bộ...bộ anh không nhớ mặt ông Thọ hay sao?
Hiếu lắc đầu nói:
− Không! Cứ như mày kể thì hồi trước muốn đi lính ít khi về nhà. Sau bảy lăm thì ông ấy về nhà, tao vượt biên rồi còn đâu. Gặp thì chắc là cũng nhớ, nhưng bây giờ thì tao không có hình dung được mặt mũi ổng ra làm sao.
Vợ Hiếu ngồi trên ghế băng, không nói gì, mặc dù chị vẩn nhớ mặt ông Thọ. Hiếu chưa nói xong dứt câu, thì Mỹ Linh đứng bên cạnh lên tiếng:
− Ơ...Xe tới kià ba!
Cả Hiếu và Vân cùng hồi hộp quay về hướng xe bus đang từ từ chạy đến. Vợ Hiếu còn hồi hộp hơn, bởi chị mong cái giây phút này, để cười vào mặt cô em chồng. Bốn người đứng thành một hàng, không ai nói một lời nào. Dưới ánh đèn đường chiếu qua làn hơi sương ảo ảo. Chiếc xe màu xám hiện ra như bóng dáng một con quái vật khổng lồ, đang ám ảnh tâm trí của Vân. Nàng nín thở đăm đăm nhìn và thầm nhắc lại câu nói lúc nãy:
− Ông Thọ ơi! ông sống khôn thác thiêng, xin đừng hiện về làm tôi sợ.
Hình như xe trống, không có khách. Tới gần trạm, xe giảm tốc độ, và tấp vô lề và dừng hẳn lại. Vợ chồng Hiếu, Vân và Mỹ Linh, cả bốn người cùng căng thẳng, trố mắt chờ đợi. Rồi cánh cửa xe bus mở toang, người tài xế quay đầu nhìn ra bằng ánh mắt dửng dưng. Vân cứ đứng yên như pho tượng tại chỗ, khiến Hiếu phải đẩy lưng nàng, giục nàng bước lên. ông tài xế chỉ là một người đàn ông Canada bình thường, mặc đồng phục, tay cầm sẳn tờ giấy jo-en-phơ để trao cho khách theo thói quen. Hiếu mừng lắm, anh thở phào như trút được gánh nặng ngàn cân, nhưng phải làm bộ mắng Vân để làm vợ vui lòng:
− Mày thấy chưa, chỉ trông gà hóa cuốc. Thôi, đi làm đi! Sáng mai về gặp lại.
Con bé Mỹ Linh hỏi nhỏ Hiếu:
− Ông này đó hả ba? Cô Vân nói ông này là ma đó hả ba?
Vợ Hiếu cười khẩy bảo con:
− Hứ, ông này mà cô mày bảo ma, thì mỗi ngày tao gặp đến cả trăm con ma, ma đầy đường.
Hiếu nhún vai, bảo vợ:
− Nhưng mà mình có ra tận nơi thì con Vân nhà mình nó mới hết đường chối cãi. Thôi, thế là yên chí, đi về ngủ.
Vân bước lên tìm chỗ ngồi tuốt phía sau, nàng vừa vui mừng, vừa hồi hộp. Mắt cứ dán chặt vào lưng ông tài xế, nàng tin vào lời thầm khẩn của nàng với hồn ma ông Thọ đã khuất. ông không hiện về làm nàng kinh sợ nữa. Hy vọng từ nay Vân thoát nạn. Dầu sao nàng cũng sẽ làm lễ cầu siêu cho ông và đặt hình ông trên chùa thường xuyên. Hành khách trên xe thưa thớt chưa tới mười người, Vân quan sát từng khuôn mặt đàn ông, nàng an tâm thở phào nhẹ nhõm. Dưới lề đường, chờ cho xe đóng cửa và lăn bánh, vợ chồng Hiếu mới an tâm trở về, vợ Hiếu bắt đầu lên mặt trách chồng:
− Đã nói là nó làm bộ mà anh đâu có tin, anh bây giờ chỉ tin em gái anh thôi, còn em nói cái gì anh chả tin.
Hiếu biết là Vân không tưởng tượng, bởi bao nhiêu việc đã xảy ra trong nhà anh, từ tối hôm qua đến giờ, nhưng anh không muốn vợ biết, nên đành phải xuống nước:
− Anh đã nói rồi, mình ra đây là để nhìn tận mắt cho nó hết cãi.
Vợ Hiếu vẫn chưa buông tha:
− Em có tiếc cái công ra đây đâu. Nhưng tức là nó nói cái gì anh cũng nghe, chuyện vô lý đến thế, anh không mắng vào mặt nó, mà lại có vẻ xiêu lòng nghe theo nó.
Hiếu không nói nữa, lặng lẽ đi bên vợ con, vì anh biết có phân trần thì vợ anh cũng không tin, bởi vốn đã có thành kiến với Vân. Con bé Mỹ Linh góp ý:
− Um... Con chắc là cô Vân bị ám ảnh vì ở nhà coi tivi nhiều quá!
Vợ Hiếu bắt ngay nhận xét ấy để nhắc lại:
− Chứ còn gì nữa! Tao đã nói rồi mà. Chỉ có mình ba mày tin là có ma chứ chuyện vô lý như thế, đứa con nít nó cũng chả nghe nữa.
Về đến nhà vợ Hiếu bước lên mở cửa mặt vẫn còn hầm hầm. Hiếu và con gái đứng dưới sân. Con bé nó đòi Hiếu thứ bảy này chở ra Toronto dự tiệc sinh nhật con bạn. Hiếu gật đầu bảo:
− Ừ cũng được, đằng nào ba cũng đưa cô Vân lên chùa.
Vợ Hiếu đẩy rộng cánh cửa bước vào thò tay bật đèn, và treo xâu chìa khóa lên cái móc trên vách. Bỗng chị nhíu mày bực bội vì nghe trong phòng tắm có tiếng nước chảy và đèn còn để sáng. Phòng tắm dưới nhà thì chỉ có mình Vân xài, như vậy trước khi đi, Vân đã quên tắt đèn và tắt nước. Chị uất ức đi nhanh vào và nghiến răng nghĩ đến sự bất cẩn của Vân để tốn tiền điện, tiền nước một cách phí phạm, nhiều lần chị đã nhắc mà bửa nay Vân vẫn quên. Đứng trước cửa buồng tắm, chị lại càng bực hơn, vì Vân chỉ quên tắt vòi nước nóng ở bồn rửa mặt nước đã xả ra cả nữa tiếng đồng hồ, nên hơi nước bốc lên mờ mịt che kín khắp phòng, chị vói tay lấy cái khăn tắm khua đi khua lại trước mắt, mới thấy đường mà bước vào.
Chị mò mẩm vặn chặt vòi nước nóng, rồi đưa khăn lau sạch lớp hơi nước phủ dày đặc tấm gương soi trước mặt. Chị thở phào và ngẩng lên nhìn trong gương. Bổng chị thét lớn buông cái khăn và ngã bật ngữa ra phía sau, té lăn vào buồng tắm là bởi vì khi nhìn vào trong gương, chị không thấy mặt mình mà chỉ thấy khuôn mặt sáp bóng loáng, trắng bệch của ông Thọ.
Nguyễn Ngọc Ngạn
Lần đầu tiên Vân tận mắt chứng kiến một người chết, cách đây hơn một năm lúc còn ở Việt Nam. Chứng kiến một người chết, có nghĩa là nhìn người ấy đang từ cõi sống đột ngột bước sang thế giới bên kia. Đó là ông Thọ ở cách nhà Vân ba căn trên cùng con hẻm nhỏ thuộc phường mười quận Tân Bình. Chẳng phải vì là hàng xóm mà Vân quen ông, láng giềng thật xa mỗi người có một cuộc sống, nên cũng ít khi gặp nhau, huống chi ông lại hơn Vân quá nhiều tuổi. Nếu xưng hô cho đúng thì Vân phải gọi ông bằng chú. Nhưng sỡ dĩ Vân thân với ông chỉ vì ông là tài xế xe bus, trên lộ trình từ nhà Vân đến sở làm. Dù muốn dù không, ngày nào Vân cũng phải gặp ít nhất một lần vào buổi sáng.
Có một dạo xe bus là phương tiện chuyên chở công cộng rất đắt khách, chuyến nào cũng chật ních. Nhưng khi Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường thì dân Sài Gòn nườm nượp mua xe gắn máy. Lại thêm xe ôm phát triển, xe bus dần dà trở nên ế ẩm, vì đi lại chậm chạp trên đường phố đông đúc, mà ít ai tôn trọng luật lưu thông. Chỉ có những hành khách không có phương tiện khác như Vân, mới bất đắc dĩ phải bám với xe bus mà thôi. Xe vắng khách, nên mỗi khi thấy Vân bước lên, ông Thọ thường vui vẻ hỏi chuyện vu vơ mặc dù trên nguyên tắc, ông không được nói chuyện khi lái xe.
Vân cũng hân hoan đáp lại, chọn cái ghế trống gần ông để đàm đạo cho quên đoạn đường tới sở. Đại khái thì toàn những câu xã giao thủ tục thôi, lâu lâu nếu trong con hẻm nhà Vân có chuyện gì bất thường xảy ra, thì hai người mới có đề tài mới để bình luận. Ông Thọ không có vợ con, sống nhờ nhà người anh ruột, nhập chung hộ khẩu vàcoi gia đình người anh như gia đình mình. Ở tuổi bốn mươi lăm, mặt ông khắc khổ ưu tư, nước da đen sạm và mái tóc phía trước hơi dài, lúc nào cũng rũ xuống trán làm Vân thấy rất ngứa mắt.
Ông ít cười dù nụ cười rất tươi. Hàm răng đều như hạt bắp, phải cái tội là lúc nào cũng úa vàng vì khói thuốc, ông ghiền thuốc lá nặng, trong túi lúc nào cũng có gói Mai, loại thuốc đen nội hóa ít người hút. Mỗi khi đường kẹt xe, ông thường chạy xuống rít một điếu, hoặc có khi chỉ vài hơi rồi lại leo lên lái tiếp. Dân Sài Gòn hút thuốc nhiều, nên chẳng ai thấy ngứa mắt và cũng không thấy khó chịu vì khói thuốc. Một buổi sáng trên đường đi làm như thường lệ, Vân ngồi ngay chiếc ghế sau lưng ông, đang kể câu chuyện bắt ghen trong xóm, và xe đang chạy ngon trớn, thì Vân bổng giật mình thấy xe bus tự dưng rẻ nghiêng sang bên phải, rồi leo hẳn lên lề húc mạnh vào một gốc cây rồi dừng lại.
Xe vẩn nổ máy, nhưng ông Thọ gục xuống trên tay lái, làm còi xe cứ inh ỏi réo liên tục. Cũng may, gặp khúc lề đường rộng, lại có cây lớn chặn lối, nên xe không cán phải người bộ hành hoặc đâm vào nhà người ta. Hành khách nhốn nháo đứng ngồi cả lên, Vân lay vai ông Thọ và hốt hoảng hỏi:
− Ý thôi chết lạc tay lái hả ông Thọ? Tỉnh dậy ông Thọ!
Nhưng lay mãi mà ông không trả lời, hành khách xôn xao đưa mắt nhìn nhau, rồi bỏ xuống tìm phương tiện chuyên chở khác vì sợ trể giờ làm việc.Vài người hiếu kỳ phần lớn là khách quen, ngày ngày vẩn đi cùng chuyến này, xúm lại cùng với Vân lôi đầu ông Thọ ngồi thẳng lên, lập tức tiếng còi xe ngưng bặt. ông Thọ ngẻo đầu sang một bên, mặt xám ngắt, miệng hơi há ra và đôi mắt lạc thần vẫn mở trừng trừng, nhưng rõ ràng là mất hết sinh khí. Ông đứng tim chết mà người ta xét theo lối dân gian là ông bị trúng gió, và không ai tin là ông đã chết thật, bởi nó xảy ra quá đột ngột. Vân lo lắng nhìn quanh và hỏi:
− Ơ...Có ai có dầu nhị thiên đường không?...Dầu gì cũng được...Cho tôi mượn.
Đám đông xung quanh mỗi người một câu:
− Trời...trời, ông bà nào chịu khó chạy lên ngả tư thấy ông công an, kêu dùm một cái
Người khác bảo:
− Kêu xe cứu thương chứ chờ công an đến kiếp nào...
Người ta giật tóc mai, lắc mạnh hai vai ông, hoặc ấn mạnh vào ngực ông, hy vọng có thể giúp ông hồi tỉnh trong lúc chờ vào nhà thương. Nhưng tất cả đều vô ích, có người thất vọng than:
− Thôi! Chắc chết rồi, chết thiệt rồi. Trăm phần trăm là trúng gió rồi. Trời đất ơi! Lúc này gió nó độc lắm nghen.
Cùng với nhận xét ấy người ta tản mác xuống xe, lảng ra xa tránh những phiền toái lát nữa khi nhân viên công lực đến thẩm vấn. Nhưng Vân không bỏ đi được, không nở bỏ ông hàng xóm, bởi nàng vẫn bám víu ý nghĩ là ông chưa chết hẳn chỉ bất tỉnh nhân sự mà thôi Nàng xuống xe mặt nhợt nhạt ngó quanh, rồi vẫy chiếc xích lô máy rồi nhờ người tài xế lên đỡ ông Thọ xuống và chở vào bịnh viện. Nàng bảo:
− Nhanh nhanh thì may ra cứu kịp nhé! Chắc ông ấy chỉ bị nghẹt thở thôi, chưa có chết hẳn đâu.
Rồi nàng móc bóp lấy tiền trả ông xích lô, nhưng ông xích lô ngơ ngác nhìn Vân và hỏi:
− Bộ cô không đi với ông ấy sao? Đâu có được, cô không có đi chung thì tôi không có chở ông ấy đâu! Giỡn hoài, bộ tôi ngu sao?
Vân khẩn khoản:
− Ông ơi, tội nghiệp người ta bị ngất xỉu, ông làm ơn đưa vào nhà thương dùm. Tại tôi....tôi còn phải đi làm.
ông xích lô trợn mắt đáp:
− Ngất xỉu đâu mà ngất xỉu? Chết ngắt rồi, tôi đưa vào bệnh viện, người ta hỏi lôi thôi lắm cô ơi. Phải có người nhà mới biết đường mà trả lời chứ!
Vân nhìn ông Thọ một lần nữa quả thật ông chết rồi, cái xác không hồn nằm rũ trên xích lô, đầu nghiêng sang một bên. Mắt vẫn trợn trừng và mồm vẫn há ra. Nàng bảo ông xích lô:
− Nhưng mà tôi cũng đâu phải là người nhà!
Ông xích lô vừa kinh ngạc vừa bực bội, giậm chân lắc đầu lia lịa ông toan chửi thề, nhưng nhớ rằng trước mặt phụ nữ, nên gắt lên:
− Cô không phải là người nhà của ông ấy, thì mắc mớ gì cô đòi đưa ông ấy vào nhà thương? Con người sao khờ quá! Rồi công an hỏi cung về cái chết của ông ấy, rồi cô trả lời làm sao?
Vân cũng vừa chợt nhận ra mình tự mang cái ách giữa đàng vào cổ, nhưng một phần vì là người quen, một phần thì bây giờ cũng đã lỡ rồi làm sao rút lui được? Nàng cứ tưởng ông chỉ ngất xỉu, nên mới động lòng tìm cách cứu chữa, gọi xích lô đưa vào bịnh viện. Không ngờ ông đã về bên kia thế giới.Từ lúc nghe ông xích lô xác quyết là ông Thọ đã chết, tự dưng chính Vân cũng thấy rờn rợn và không dám nhìn mặt ông nữa. Nhưng bây giờ biết làm sao, khách bộ hành đi ngang hiếu kỳ, bu lại mỗi lúc một đông hơn vì ông xích lô khua chân, múa tay nói quá lớn, ông chán nản bảo Vân:
− Cà chớn! mới sáng sớm đã gặp xui. Bây giờ cô phụ tôi khiêng ổng lên, bỏ lại trên xe bus đi rồi ai muốn làm gì thì làm. Tôi không có dính vào vụ này.
Dứt lời, ông xách nách xác chết và bảo Vân đỡ hai chân ông Thọ. Vân ngần ngại đứng yên, ông xích lô phải nạt lớn nàng mới chịu bắt tay vào, khệ nệ khiêng cái xác không hồn lên xe bus đặt vào sau tay lái. Rồi ông xích lô lao phắt xuống đường, lên xe phóng vội đi miệng còn lào nhào chửi Vân là đồ ngu.Vân xuống xe đứng phân vân bên lề đường, không biết nên bỏ đi hay chờ cảnh sát tới để tường trình. Đám đông bu quanh mỗi người hỏi một câu, Vân lơ đãng trả lời rồi quyết định đón honda ôm, về báo tin cho gia đình ông Thọ biết và vào nhà thương làm thủ tục nhận xác của ông chôn.
Định mệnh sắp đặt khiến ông chết đột ngột và tình cờ Vân lại là người đầu tiên, chứng kiến cái chết bất ngờ của ông giữa lúc ông đang nói chuyện với nàng. Cách đây hơn một tháng Vân có khoe với ông là nàng đang chờ sang Canada định cư do người anh bảo lảnh. ông Thọ chớp mắt bảo:
− Mừng cho cô.
Nhưng rõ ràng giọng ông có một chút buồn tủi cho thân phận mình, ước mơ xuất ngoại mà không có con đường nào. ông bảo Vân:
− Tôi cũng có nghe nói cô sắp ra nước ngoài, người ta bảo vì vậy cô nhất định chưa chịu lấy chồng.
Vân cười rồi nói lại:
− Trước khi tôi đi thì thế nào gia đình tôi, cũng làm tiệc giã từ bà con lối xóm mà. Mời ông sang cho vui với gia đình tôi nhé!
− Vâng, quý hóa quá! Cô nghĩ đến tôi là tôi mừng rồi. Tôi thì phải qua tiễn chân cô chứ!
Câu chuyện tưởng như mới hôm qua, Vân chưa lên đường chưa kịp làm tiệc mời ông Thọ thì ông đã về bên kia thế giới, Vân chạy về nhà báo tin, rồi cùng người anh ông Thọ lãnh ông từ nhà xác về, mua đất chôn ở nghĩa trang Tân Việt, gần Bà Quẹo. Vân có mặt từ đầu đến cuối, từ lúc tẩm liệm cho tới khi hạ huyệt. Đám tang ông Thọ thưa thớt lại gặp ngày mưa to gió lớn, nghĩa trang ở vào khu đất trũng nước ngập mênh mông. Quan tài thả xuống huyệt cứ nổi lềnh bềnh, khiến người ta phải dùng gậy dí hai đầu xuống để lấp đất. Mà lấp bao nhiêu đất, đất biến ngay thành bùn theo nước trôi đi, người nhà vất vả lắm ông Thọ mới chịu an lòng.
Gần một năm sau Vân lên đường sang Canada, tạm thời ở chung với gia đình người anh đã bảo lảnh tên là Hiếu, có vợ ba con tại Toronto. Hiếu mới mua nhà trước khi Vân qua, căn nhà mới ở vùng ngoại ô phía bắc toronto, nằm trong khu vực vừa khai phá giá tương đối rẻ và đất xung quanh còn rất khoảng cách. Phía sau nhà Hiếu cách một bải trống, mọc đầy cỏ hoang rồi mới tới bìa rừng. Bải đất trống ấy cũng nằm trong kế hoạch xây cất tư gia hoặc chung cư, nhưng vì tạm thời kinh tế xuống, ngành địa ốc suy thoái nên người ta khựng lại bỏ không.
Gia đình Hiếu có năm người, nhưng hai đứa con đầu vừa lên đại học và đi ở xa, ở nội trú luôn trong trường, nên nhà chỉ còn hai vợ chồng với cô con gái út mười bốn tuổi. Vợ chồng Hiếu chiếm ngụ cái phòng ngủ chính trên lầu, đứa con gái cũng có buồng ngủ riêng bên cạnh. Dưới nhà bên cạnh buồng tắm, có một phòng nhỏ dành cho Vân sát bức tường, phía sau có cửa sổ trông ra bải đất trống quạnh hiu. Ngày ngày nhìn cảnh tượng hoang vu vắng lặng sau nhà, Vân còn đang nhớ Sài Gòn da diết thì bà chị dâu đã xa gần giục chồng kiếm việc cho Vân.
Thật ra thì chẳng cẩn phải chị phải giục, chính Hiếu cũng đang để ý tìm việc cho Vân, để nàng có thêm tiền chi dụng và nhất là để vợ Hiếu khỏi cằn nhằn. Hai vợ chồng Hiếu cùng đi làm cả, cho nên vợ Hiếu rất ngứa mắt khi thấy Vân qua đây mà cứ ngồi im trong nhà. Ba tháng sau thì Hiếu tìm được việc cho em gái, ở một tiệm cà phê Dolnad mở hai mươi bốn tiếng một ngày, tiệm nằm ở khu vực downtown, nghĩa là trung tâm của thành phố Toronto. Họ cho Vân làm ca đêm, bắt đầu từ mười một giờ đến bảy giờ sáng. Hiếu an ủi em:
− Thôi! Cứ chịu khó làm tạm đi, rồi một thời gian sau sẽ đổi sang ca ban ngày. Họ có hứa với tao như vậy. Ca đêm thì buồn ngủ, nhưng mà bù lại thì ít khách hơn ban ngày.
Vân vui vẻ đáp:
− Em có ngại gì đâu, ngồi nhà chán chết.
Hiếu tỉ mỉ dặn dò Vân những kinh nghiệm làm việc nơi xứ lạ để em khỏi bở ngở, rồi Hiếu chỉ dẩn cho Vân cách đón xe đi làm. Vì là khu tân lập ngoại ô, nên trước cửa nhà Hiếu tuy đường xá mới mẻ, nhưng chưa có xe bus, Vân sẽ phải đi bộ một khoảng khá xa, để ra con lộ chính lấy xe bus đưa nàng tới trạm Metro. Rồi khi từ trạm Metro trồi lên, nàng sẽ lại phải đón thêm một chuyến bus nữa mới đến downtown, chỗ nàng làm việc. Hiếu dự trù vài tháng nữa sẽ bắt Vân đi học lái xe, sắm chiếc xe hơi cũ cho em gái đỡ vất vả. Hiếu lấy thêm chìa khóa nhà trao cho em, rồi cẩn thận bắt em ghi số phone nhà, số phone tiệm Dolnad và số phone chỗ Hiếu làm việc, cất kỹ vào bóp để lúc cần thì liên lạc, nhất là lúc chẳng may Vân bị lạc đường. Hiếu bảo:
− Mày đi làm ca đêm cũng khoẻ sáng khỏi phải dậy sớm, ban ngày tha hồ mà ngủ. Đường sá không kẹt xe bus rộng rãi khỏi phải đứng mỏi chân.
Vân biết ông anh vì tội nghiệp mình nên cứ phải tìm cách an ủi, nàng che dấu nét xúc động và bảo:
− Anh khỏi phải lo việc gì em làm cũng được mà, ở Việt Nam em quen vất vả. Với lại đi làm học tiếng anh còn nhanh hơn học trong sách nữa.
Sáng hôm sau Vân dậy sớm hơn thường lệ dù mãi đến tối mới phải đi làm. Ngày đầu nhận việc, nàng hồi hộp không ngủ yên giấc, nàng lục đục một lúc rồi vợ chồng Hiếu mới từ trên lầu bước xuống. Bà chị dâu hôm nay nhìn Vân âu yếm hơn, vì nàng đã có việc, không ngồi chơi ăn bám như ba tháng vừa qua. Việc của Vân tuy lương chẳng có bao nhiêu, nhưng chính Vân cũng mừng thầm trong bụng, bởi từ nay khỏi phải nhìn nét mặt hầm hầm đi ra đi vào lườm nguýt của chị dâu. Hai vợ chồng Hiếu chuẩn bị đi làm sớm, đứa con gái đáng lẽ chưa cần đi gấp, nhưng tiện xe của bố mẹ nên cũng ké luôn tới trường, khỏi phải cuốc bộ. Nhà chỉ còn mình Vân ngồi ăn sáng, nàng dự định sẽ ngủ thêm một giấc nữa, rồi dậy nấu cơm cho cả nhà ăn chiều.
Riêng Hiếu thì cứ nằng nặc bảo Vân phải ngủ một giấc dài phải đến gần giờ đi làm hẳng thức. Vân gật đầu đồng ý, nhưng lúc cả nhà đi rồi nàng chỉ ngồi coi tivi hoặc thơ thẩn ra trước nhà rồi lại vô làm bếp, muốn ngủ cũng không ngủ được. Buổi tối hôm ấy cơm nước xong cả nhà ngồi coi tivi một lúc rồi Vân chuẩn bị đi làm. Muốn chắc ăn nàng ra khỏi nhà lúc chín giờ rưỡi mới không sợ trễ giờ. Trời cuối tháng mười một bắt đầu se lạnh và mau tối. Mới khoảng năm giờ chiều là đã thấy âm u xám ngắt, có năm Toronto giờ này tuyết đã trắng xóa. Năm nay trời khô nhưng gió buốt, nhất là quanh nhà Hiếu còn quá nhiều bải đất trống.
Vân mặc quần jean hai ba lớp áo trong áo ngoài, cổ quấn khăn chân đi giày bata, tay cầm cái túi đựng thức ăn và dăm ba đồ lặt vặt. Nàng lầm lũi lội bộ qua mấy khúc đường vắng tanh tăm tối rồi mới đến con lộ chính. Đúng như Hiếu nói giờ này người và xe đã vơi hẳn nên ở trạm bus chỉ có một hành khách đang đợi, đó là một bà người Canada ngồi trên ghế băng trong nhà lồng kiếng, sốt ruột nhìn về hướng xe bus tới. Vân cũng bước hẳn vào trong nhà kiếng để tránh gió, nàng gật đầu chào bà cụ, rồi ngồi xuống bên cạnh và cùng quay mặt về hướng xe sẽ đến. Khoảng hơn năm phút thì nàng vui mừng, thấy xe bus hiện ra xa xa mờ mờ với ánh đèn đường.
Nàng vội đứng dậy bước hẳn ra ngoài, bà cụ cũng bước theo Vân co ro đứng sát lề. Vân ngước nhìn con số khá lớn ghi trên đầu xe và hài lòng gật đầu vì đúng số xe mà Hiếu đã dặn. Mới đi xe bus lần đầu nàng rất sợ lầm lộ trình, rồi không biết cách nào mà quay về. Chiếc xe bus nặng nề lăn bánh tới và tách vào lề, Vân đứng trước một tay xách túi đồ ăn, một tay cầm sẳn hai đồng bạc cắc. Bà cụ đứng sau lẩm bẩm nói một mình thứ tiếng Anh pha giọng ý rất khó nghe. Xe bus vừa mở cửa Vân hăm hở bước lên, bổng nàng giật mình sửng sốt kêu lên, đứng khựng lại và run rẩy muốn té quỵ xuống đất, bởi vì người tài xế xe bus chính là....ông Thọ ngay trước mặt nàng.
Giờ này ông lại ngồi sau tay lái bên Canada quay đầu nhìn Vân cười rạng rỡ. Cái khác duy nhất giữa ông Thọ lúc trước và ông Thọ lúc này, chỉ là da mặt ông không đen xạm như xưa mà trắng bệch có pha chút xanh xao, y như bôi một lớp sáp trên mặt, hàm răng ông cũng không còn vàng ám khói như nghệ mà trái lại trắng nhợt như nước sơn, khiến nụ cười trông thật ma quái. Nhất định là ông Thọ không thể lầm được. Vân tái mặt đánh rớt cái túi thức ăn xuống đất, lạng quạng bước lùi lại mấy bước rồi kinh hồn quay đầu chạy, bà cụ người Canada đứng sau Vân đưa hai tay đỡ lấy vai Vân và hỏi bằng tiếng Anh:
− Cái gì thế, cô làm sao vậy?
Vân không hiểu gì run rẩy chỉ ông tài xế và ấp úng mãi, mới nói đại được một câu nữa tiếng Anh, nữa tiếng Việt:
− Ông ấy...ông ấy...chết..rồi...he died...ông tài xế là người chết lâu rồi..
Rồi nàng quay lưng cắm cổ chạy, bà cụ vừa leo lên vừa ngạc nhiên nhìn theo Vân lẩm bẩm vài tiếng không ai nghe rõ. Chạy được một khoảng khá xa vào hẳn trước dãy phố Vân mới dừng lại thở, nàng quay đầu nhìn lại trạm xe thì chiếc bus đã mất hút không thấy dấu vết gì nữa. Chỉ còn trơ lại cái nhà kiếng với ngọn đèn đường vàng úa. Dãy phố chỗ Vân đứng nhiều cửa tiệm đã đóng im lìm ngoại trừ những quán cà phê, nhà hàng ăn và tiệm tập hóa. Vân mệt quá ngồi đại xuống bậc thềm bên cạnh tiệm bánh ngọt đang chuẩn bị đóng cửa. Hơi thở nàng vẫn còn dồn dập nàng nhớ lại nguyên vẹn khuôn mặt trắng xanh, và hàm răng trắng ngời của ông Thọ lúc thấy nàng vừa bước lên xe, làm toàn thân nàng lạnh buốt như cơn bảo bất ngờ thổi buốt thấu xương.
Nàng không thể lầm được, ông Thọ đã chết chính nàng đã đi đám tang và chôn ông ở nghĩa trang Tân Việt, Bà Quẹo. Sao giờ này lại lái xe bus bên Canada? Vân phân vân suy nghĩ đầu óc hoang mang khuôn mặt đờ đẫn, quên cả cảnh vật xung quanh, đến nổi chủ tiệm bánh ngọt bên cạnh phải giục nàng đứng dậy để họ đổ rác vì nàng đang ngồi ngay bên cạnh thùng rác Vân đứng nép vào ngưỡng cửa nhìn ra đường, nàng nhớ tới lời Hiếu dặn là buổi tối cứ khoảng hai mươi phút có một chuyến xe bus. Giờ đi làm và tan sở thì nhịp độ mau hơn. Vân uể oải bước đi trở lại trạm cũ đứng chờ chuyến xe kế tiếp. Buổi đầu mà đến trễ thế nào cũng bị mắng, có khi mất việc cũng chưa biết chừng.
Vân chớp mắt thở dài sực nhớ ra túi thức ăn lúc nãy đánh rớt. Vân cúi xuống nhìn lòng đường nhưng cái túi đã bị xe cán nát bấy chẳng còn hình dạng gì nữa. Vân lại thở dài gió khuya thổi vù vù từng cơn lạnh buốt. Nàng đứng hẳn vào trong nhà lồng kiếng, trạm xe vắng ngắt không có ai ngoài nàng. Một lúc sau từ khá xa xa, Vân thấy chiếc bus khác lờ mờ xuất hiện mỗi lúc một rõ ràng, nàng vén tay áo nhìn đồng hồ và hy vọng đón chuyến này vẫn còn kịp giờ đến tiệm cà phê Dolnad.Nhưng bỗng nàng sực nghĩ ra một điều làm nàng rùng mình lạnh toát, vì biết đâu trên chiếc xe bus kia người tài xế cũng vẩn chính là ông Thọ, rõ ràng là hồn ông đã theo nàng từ Việt Nam qua đây.
Nàng mở to mắt nhìn chiếc xe đang lù lù tiến đến, rồi khi xe chỉ còn cách khoảng chưa đầy trăm thước, thì do một động lực mạnh mẽ thôi thúc trong lòng. Vân bổng hốt hoảng bỏ chạy nàng chạy ra chỗ cũ, dãy phố chỉ còn vài căn tiệm mở cửa. Nàng đứng sát vách tường và đăm đăm nhìn ra. Khoảng cách xa quá mà trời lại tối nàng không thấy được mặt người tài xế trên xe bus, nên không biết được người tài xế đó có phải là ông Thọ hay không? Chỉ biết chiếc xe đó hầu như trống rỗng không có hành khách.
Chiếc xe đi rồi nàng đứng thở bần thần vì không biết tính sao? Đón xe bus thì nàng sợ gặp hồn ma ông Thọ, mà gọi taxi thì Vân không biết có đủ tiền không? Vì nàng chưa biết từ đây ra trung tâm thành phố sẽ tốn bao nhiêu? Nhất là dù muốn kêu taxi Vân cũng không biết kêu ở đâu số điện thoại nhà? Cuối cùng nàng đành đi bộ về nhà và dự định sẽ báo cho Hiếu biết, hôm nay nàng không đi làm để nhờ Hiếu phone cho tiệm Dolnad. Biết Hiếu sẽ trách nhất là bà vợ nhưng Vân không còn cách nào khác. Trừ trường hợp Hiếu lái xe đích thân chở nàng đi làm.
Vân lầm lũi bước đi trên con đường chưa kịp tráng nhựa, chạy ngoằn ngoèo giữa bải đất trống cỏ mọc bừa bãi bắt đầu chết úa vì thời tiết. Nàng sang đây vào cuối tháng tám trời Toronto còn nắng ấm chan hoà, mới gần ba tháng trôi qua cái lạnh heo may đã đến thật nhanh càng gợi nổi nhớ Sài Gòn. Nhưng nhớ ai thì nhớ chứ chưa bao giờ nàng mảy may nhớ đến ông Thọ dù chỉ thoáng trong giây phút. Mãi đến lúc nãy sau khi hồn ông hiện về nàng mới nhớ láng máng hình như trong xấp hình nàng mang theo có bức ảnh chụp đám tang ông, trong đó nàng đứng bên cạnh thân nhân của ông dưới làn mưa nhỏ sau khi hạ huyệt, nghĩa là ông Thọ đã chết thật đã nằm sâu trong lòng đất, chính nàng đưa ra nghĩa địa tại sao giờ này lại sang đây?
Trong thế gian người có giống người, nhưng không thể giống như vậy được, huống chi người Việt đâu có ai chen vào được ngành lái xe bus công cộng? Vân cắm đầu bước đi giữa tiếng gió vi vút, lâu lâu rít lên từng cơn quanh khu đất trống tối tăm, dãy nhà Tân Lập hiện ra mờ mờ thấp thoáng ánh đèn trong đó có nhà Hiếu. Bổng Vân nhận ra mình không phải là kẻ độc hành, trên con đường lởm chởm đá vụn này sau lưng nàng rõ ràng có tiếng bước chân người đi nhanh, mỗi lúc một gần nàng hơn, tiếng giày đàn ông mạnh bạo trên lớp đá vụn nghe xào xạc. Nàng đi chậm lại tránh sang một bên để nhường bước cho người phía sau tiến lên.
Nhưng tiếng giày cứ ở sau lưng Vân không vượt lên phía trước. Tò mò nàng quay lại thì không thấy ai cả hoàn toàn trên quảng đường vắng quanh nàng, không có một bóng người. Nàng giật thót người và rảo bước nhanh hơn. Thì tiếng bước chân vô hình lại cũng tiến mau hơn theo sát sau lưng nàng. Nàng lấy hết can đả quay phắt lại thì vẩn không thấy ai, tứ phía xung quanh không có người, chỉ có gió thổi vù vù. Vân kinh hãi bỏ chạy nhưng đôi chân dường như ghì lại níu lấy không cho nàng bỏ trốn. Vân vùng vẫy lao tới vấp chân té sấp xuống đường, nàng luống cuống đứng dậy vừa thở vừa chạy ngay tới trước cửa. Vân hoàn hồn ngước lên nhìn ba bậc cầu thang tay cầm chià khóa.
Khu nhà tiền chế mới cất nằm san sát bên nhau nhà này cách nhà kia chỉ hơn một thước. Nhưng con đường trước mặt thì rộng thênh thang và thường xuyên vắng lặng. Đang tra chià khóa vào cửa bổng nhiên giật thót người vì nhìn qua màn cửa sổ nhà bếp thấy thấp thoáng bóng người đàn ông mờ mờ đi lại trong nhà, làm nàng liên tưởng ngay đến bóng ma ông Thọ, nhưng thật ra đó chỉ là Hiếu đang lấy nước trong tủ lạnh bưng lên lầu. Nghe tiếng chià khóa lách cách ở ổ, Hiếu giật mình đứng khựng lại ở chân thang và hỏi bằng tiếng Việt lẫn tiếng Anh:
− Ai đó? Ai mở cửa đó?
Rồi anh từ từ tiến ra vừa lúc cánh cửa mở và Vân xuất hiện, Hiếu ngơ ngác hỏi:
− Sao lại về? Quên cái gì hả?
Vân vừa thở hổn hển, vừa đáp vắn tắt:
− Tai... tại em.. gặp ma.
Trên nhà, vợ Hiếu và con bé Mỹ Linh nghe tiếng nói ồn ào cũng bước ra và đi xuống. Hiếu biết em gái mình không phải hạng người lười biếng trốn việc huống chi anh cũng vừa nhận ra sắc mặt tái mét của Vân, nhưng cái lý do Vân đưa ra là một điều không chấp nhận được vì ngoài sự tưởng tượng của anh. Anh nhăn mặt hỏi lại:
− Mày nói cái gì? Mày gặp ma à? Gặp ở đâu? Sao lại có chuyện lạ đời như vậy, Canada này làm gì có ma?
Vừa nói Hiếu vừa tiến lại đặt cốc nước lạnh xuống bàn, Vân bưng ngay ly nước của anh uống cạn vì cổ họng đang khát khô, nàng cởi áo khoác máng lên thành ghế rồi kéo ghế ngồi, Hiếu cũng ngồi đối diện em, trố mắt nhìn ngờ vực mặc dầu anh thấy rõ đôi mắt Vân chưa tan nỗi kinh hoàng. Vợ Hiếu và con gái kéo tới tất cả đều ngồi ở bàn ăn, thấy vợ bên cạnh Hiếu nhắc lại câu hỏi:
− Tại sao đang đi làm lại bỏ về là thế nào?
Vân đặt cái ly xuống bàn và nói:
− Em đã nói với anh rồi nhưng mà em hỏi anh là anh có nhớ cái ông Thọ ở gần nhà mình không? Cùng con hẻm nhà mình đó cách nhà mình ba căn đó, anh có nhớ không đã? Cái ông Thọ ngày xưa ổng đi lính cái lúc mà em còn bé xíu à!
Hiếu ngắt lời:
− Tao đi lâu quá rồi đâu có nhớ! Nhưng mà mày làm sao? Mày nhắc đến ông ấy để làm gì mới được chứ?
Vân khổ sở kể tiếp:
− Trời ơi ông ấy chết rồi, lúc sau này ông ấy lái xe bus...rồi chết luôn trên xe bus, cái lúc mà ông chết thì...thì... em có mặt trên chuyến xe bus đó, rồi chính em đưa ông ấy ra nghĩa địa...
Hiếu càng sốt ruột ngắt ngang:
− ..Nhưng mà rồi sao? ông ấy chết thì có dính dáng gì đến mày?
Vân mở to mắt nhìn anh nhấn mạnh:
− ..Thì...ông chết cả năm nay rồi...bổng dưng lúc nãy..ơ..ơ..lúc em lên xe bus thì chính ổng ngồi lái...
Hiếu nhìn em toan phì cười, vợ Hiếu mỉa mai chen vào:
− Cô mới qua Canada mà coi tivi nhiều quá...Nói chuyện như thế mà cũng mở mồm ra mà nói, không muốn đi làm thì ở nhà bịa đặt chuyện ma làm cái gì không biết.
Vân bực bội đứng dậy đi lại phía tủ lạnh lấy thêm ly nước và gắt nhẹ:
− Em nói thật chứ bịa đặt cái gì, em thấy chính ông Thọ ngồi lái xe, vừa thấy em..ổng nhe răng ra cười rồi gật đầu chào em. Trời, em sợ quá em bỏ chạy về liền.
Cả nhà cùng im lặng nhưng rõ ràng không ai tin lời Vân. Một lúc sau con bé Mỹ Linh lên tiếng:
− Chắc cô phải đi bác sĩ tâm thần quá à!
Vân thở dài thườn thượt rồi bực bội bảo Hiếu:
− Tức quá...Em không mang tấm hình nào của ông ấy..Anh nhìn mặt là anh nhớ ra ngay. Anh không tin thì...tối mai anh ra trạm xe bus với em.
Hiếu trầm ngâm nói:
− Tao phải đi ngủ sớm, đâu có thức được mà đưa mày đi làm mà đi taxi thì lương mày không có đủ trả.
Rồi Hiếu quay sang đột ngột hỏi vợ:
− Em có nhớ ông Thọ không?
Vợ Hiếu gật đầu:
− Nhớ! Nhưng mà không có rõ lắm, hồi em mới lấy anh thỉnh thoảng gặp ông ấy đi ngang nhà mình ấy. Nghe nói chết bất đắc kỳ tử mà hình như là đứt mạch máu. Nhưng mà...Giá như ông ấy làm ma hiện về thì hiện bên Việt Nam chứ ma nào mà du lịch tận sang đây?
Nói câu ấy vợ Hiếu mỉm cười như chế giễu Vân. Hiếu vội lên tiếng bảo Vân:
− Tao có cách này tối mai mày đừng có đón chuyến xe chín giờ rưỡi như tối nay nữa, mày chịu khó đi sớm hơn nữa giờ, đón chuyến trước khoảng chín giờ. Như vậy mày sẽ khỏi phải gặp ông tài xế bửa nay. Trong thiên hạ thì thiếu gì người giống nhau, nhưng mà muốn chắc ăn thì đi chuyến khác, khỏi gặp ông tài xế bửa nay mà mày bảo là ma!
Vân hài lòng đáp:
− Vâng, em cũng định như vậy đi sớm nữa giờ cũng được chứ ngồi nhà làm gì, đến tiệm trước thì càng vui.
Vợ Hiếu chỉ muốn em chồng đi làm nên đề nghị thêm:
− Còn muốn chắc ăn nữa thì chịu khó cuốc bộ thêm lót đường nữa, thay vì đón xe đường số bốn thì qua hẳn đường số năm đó, hai đường song song với nhau mà xe nào cũng dẫn đến metro. Rồi đằng nào cũng đổi xe bus mới ra được downtown.
Vân gật gù đồng ý:
− Vâng, vâng..có lẽ như thế thì chắc ăn hơn.
Hiếu biết em không muốn ở nhà nên gật gù nhắc lại:
− Ờ, cứ như vậy đi chịu khó đi sớm một tí.
Ngừng một chút anh hỏi thêm:
− Thế còn tối nay thì sao? Bây giờ thì sao? Mày có đi làm hay không?
Vân im lặng không đáp, hình ảnh ông Thọ vẫn còn làm nàng kinh khiếp. Hiếu đứng dậy lại góc nhà nhấc phone gọi cho tiệm Dolnad, mà chủ nhân là một người Hoa hồi trước làm chung sở với Hiếu, nói chuyện vài câu rồi anh gác máy rồi trở lại bảo Vân:
− Tối nay nghỉ cũng được người ta chưa cần mày lắm, thật ra thì họ muốn mày đến trước một hôm để học việc, nhưng mà thôi đằng nào cũng trể rồi tối mai bắt đầu làm. Thôi ta đi ngủ thôi. Nhớ khóa cửa lại.
Vợ chồng Hiếu đứng dậy lên lầu, con bé Mỹ Linh cũng theo lên. Bình thường nó nhốt mình trong phòng riêng, học bài hoặc nghe nhạc ít khi xuống nhà dưới. Mẹ nó có ác cảm sẳn với Vân nhưng nó thì lại dửng dưng không thành kiến. Thỉnh thoảng lúc rảnh rổi nó còn tận tình dạy Vân học tiếng Anh. Mọi người lên lầu rồi Vân cũng uể oải vào buồng ngủ lấy quần áo đi tắm. Nàng cảm thấy khó chịu vì không có cách nào chứng minh cho cả nhà biết là nàng đã gặp ma thật. Toan bước ra, bổng Vân nghe tiếng con chó nhà hàng xóm gầm gừ ngay sau sân nhà mình, sát cửa sổ buồng của Vân.
Tay ôm bộ quần áo, Vân nhíu mày lắng nghe rồi thì một phút sau, hình như nó chồm và những móng sắt của chân trước, cào liên tục vào tường nhà Vân làm nàng càng thêm khó chịu. Gần ba tháng nay chưa bao giờ Vân thấy nó sang sân nhà mình dù là sân sau. Nó hiền như cục đất suốt ngày nằm lừ đừ ngoài hiên nhà, bên cạnh bên tay trái nhà Hiếu, bổng dưng tối nay con chó dỡ chứng, Vân đập bàn tay vào tường mấy cái để xua đuổi nó đi chỗ khác. Nhưng chẳng được chỉ trong khoảnh khắc, con chó bắt đầu tru lên trong đêm vắng lặng trong khu dân cư thưa thớt, nghe ai oán đến rợn người. Vì tiếng cào vào vách, tiếng tru thảm thiết cứ đều luôn luôn, rồi chuyển sang tiếng sủa vang, đôi khi như tắt nghẹn. Vân bực bội lắm nếu nó cứ sủa như thế này thì làm sao cả nhà ngủ được.
Nàng định chạy lên nói Hiếu gọi điện thoại sang ông hàng xóm bảo họ nhốt chó lại. Cái ông hàng xóm này kỳ cục quá tại sao không để chó trong nhà, mà lại thả rong ngoài vườn khi đã bước vào muà lạnh. Tay ôm bộ quần áo ngủ Vân tò mò vén bức màn cửa sổ, trông ra sân sau xem tại sao chó sủa tức thì nàng kinh hải thét lên, buông rơi bộ đồ xuống đất và chạy lao ra ngoài, bởi vì khi tấm màn vừa kéo ra, thì nàng thấy ông Thọ đã đứng sẳn bên ngoài sát cánh cửa sổ, nhe hàm răng trắng bệch cười với nàng. Trong lúc Vân bước tới chỉ có ánh sáng từ trong buồng hắt ra, nàng vẫn thấy rõ khuôn mặt xanh xao cái mặt của ông cười rạng rỡ. Con chó nhà hàng xóm thì cứ lao tới phía ông, mà sủa rồi lại lùi xa xa gầm gừ rồi lại chồm tới y như xua đuổi tên trộm.
Hiếu từ trên lầu chạy xuống gắt lên:
− Cái gì thế? cái gì mà la ầm lên thế?
Vân cũng vừa chạy ra định lao luôn lên lầu, gặp Hiếu nàng hổn hển thở và bảo:
− Em...em vừa thấy ông Thọ đứng ở cửa sổ..buồng em. Hèn gì con chó nhà hàng xóm sủa mãi từ nãy đến giờ!
Vợ Hiếu cũng vừa chạy ra xem uất ức bảo Vân:
− Chó nào sủa? Từ nãy đến giờ có nghe tiếng chó nào sủa đâu? Cô này hay nhỉ, lắm chuyện quá. Không để yên cho người ta ngủ ngày mai cũng phải đi làm nữa chứ!
Hiếu tin rằng em gái mình đang gặp khủng hoảng tinh thần, vì một chuyện gì ghê gớm lắm đã xảy ra trong quá khứ ở quê nhà, nên anh dịu dàng nói:
− Anh có nghe tiếng chó sủa đâu! Con Mỹ Linh nó nói đúng đó chắc là cô bị tâm thần thiệt rồi. Hay là ngày mai em lấy hẹn đi gặp bác sĩ xem sao.
Vừa nói, Hiếu vừa xâm xâm đi lại bước vào phòng của Vân, Vân lửng tửng đi theo nhưng đứng ở cửa không dám vào. Hiếu bước vô vén bức màn cửa sổ trông ra rất lâu và yên chí là chẳng có gì trước mặt, vì trời bên ngoài tối như bưng. Anh bảo Vân tắt hết đèn trong buồng ngủ đi để nhìn ra cho rõ. Anh thấy chẳng có gì ngoài bải đất trống chạy dài tới ven rừng. Trên bải đất trống ấy chỉ có một cái cây khá cao, đứng chơ vơ cách nhà Hiếu khoảng năm mươi thước. Nay mai công ty xây cất cũng sẽ đốn luôn để cất nhà bán. Hiếu xoè hai bàn tay và nhún vai bảo Vân:
− Có gì đâu mày nhìn lại đi. Nhìn lại lần nữa đi có cái gì đâu!
Vân từ nãy đến giờ vẫn đứng thập thò ngoài cửa, nghe Hiếu gọi tức quá Vân tiến lại sau lưng anh trố mắt nhìn ra rồi nhăn mặt phân trần:
− Rõ ràng là ông ấy vừa đứng đó mà đứng sát cái cửa sổ này này. Em không thể lầm được... Mà..mà...bộ anh không nghe thấy tiếng chó sủa hay sao? Lạ nhỉ?
Hiếu bước ra và nhăn mặt bảo:
− Chắc mày nằm mơ chứ gì?
Vân gắt lên:
− Em đã ngủ đâu mà mơ? Vừa mới vào phòng chưa kịp tắm kia mà!
Hiếu kết luận:
− Thôi ngủ đi mai tao với chị mày còn phải đi làm.
Rồi Hiếu lặng lẽ bước lên lầu. Hiếu ra rồi Vân đứng lặng lẽ nhìn tấm màn cửa sổ, nàng tưởng tượng bất chợt trong đêm ông Thọ sẽ xuất hiện trở lại sau lớp kính và bức màn màu trắng đục. Khá lâu, Vân mới lấy hết can đảm cúi xuống lượm bộ đồ rớt ở dưới đất, sát tường ngay phía dưới cửa sổ và chạy nhanh qua phòng tắm. Nàng bật hết các ngọn đèn cho căn phòng rực sáng rồi nhìn ở trong gương, thấy rõ nét lo âu và nhợt nhạt còn đọng lại. Nữa tiếng sau Vân trở lại phòng đứng im nghe ngóng, nàng không dám khép cửa không dám tắt đèn. Thậm chí bật luôn đèn ở trong nhà bếp, rồi mới lên giường nằm nghiêng đưa lưng về phía cửa s và trùm mền kín từ đầu đến chân.
Vợ Hiếu từ nhà trên càu nhàu đi xuống và tắt hết đèn bếp cho đỡ tốn điện. Vân biết nhưng đành nằm im. Cũng may từ đó mọi chuyện đều bình lặng, không có gì xảy ra con chó không gào không sủa nữa. Tuy vậy Vân vẫn không ngủ được, Vân có cảm tưởng bên ngoài cửa sổ hồn ma của ma vẫn lãng vảng, với khuôn mặt bóng loáng vẫn đang tựa cửa đợi mình. Khi nhắm mắt lại khuôn mặt xanh xao của ông với hàm răng trắng nhợt, lại hiện ra rõ mồn một như đang đứng ngay trước mặt Vân. Hồi nhỏ nàng nghe người lớn bảo những người chết vào giờ linh hồn không siêu thoát, cứ theo đuổi mãi một người nào đó trên trần gian, hay là...ông Thọ ở vào trường hợp đó? Nếu thế, thì xui cho Vân quá!
Cả tiếng đồng hồ sau chắc là đã quá nữa đêm, Vân mới rón rén ngồi dậy đi tiểu rồi lại trở về nằm trăn trở rất lâu. Có lẽ căn phòng sáng quá khiến nàng ngủ không được, nghĩ thế Vân vói tay tắt cả hai ngọn đèn trần cũng như đèn ngủ ở đầu giường rồi chun vào cuộn mình trong chăn. Nhưng đèn vừa tắt thì từ sân sau con chó nhà hàng xóm lại bắt đầu gầm gừ nho nhỏ, rồi hai chân trước lại cào vào bờ tường liên tục nghe rin rít, làm Vân thấy rùng mình ê răng và ghê cả người. Không biết tại sao Vân đưa hai tay bịt tai lại, nhưng con chó lại tru lên mỗi lúc một ghê rợn hơn, lát sau lại sủa từng hồi liên tục và luôn luôn móng sắt lại tiếp tục cào vào bờ tường.
Vân lại thót người run lên bần bật vì biết chắc rằng hồn ông Thọ vừa hiện ra trở lại đằng sau nhà. Tiếng chó sủa lớn quá trong đêm khuya tại sao cả nhà nàng không ai nghe thấy? Vân chờ đợi mãi mà chẳng thấy Hiếu lên tiếng chứng tỏ chỉ có mình nàng nghe được, nàng nằm co quắp ôm cái gối vào lòng mắt nhắm nghiền lại. Một lúc sau tiếng chó bổng im lặng, tiếng móng chân cào vào bờ tường cũng im hẳn, Vân nhè nhẹ kéo mép chăn xuống khỏi mặt để thở, nhưng tiếng chó vừa im được một lúc thì phía sau nhà vang lên tiếng ầm ầm cổ máy xe hơi. Đúng là tiếng xe bus chạy từ từ, đơn độc, cứ lớn dần, lớn dần cho tới khi lướt ngang ngay sang cửa sổ nhà nàng.
Nhà nàng ở giữa đồng trống không thể có con đường có bất cứ xe nào, chạy ngang phía sân sau; Nàng lại run lên bần bật và kéo mền phủ lên mặt, nhắm mắt lại nàng hình dung thật rõ chiếc xe bus cứ từ từ tiến tới gần nhà mình, chạy lướt qua rồi lại quay đầu trở lại. Và ông Thọ ngồi lạnh lùng sau bánh lái, nàng cố trấn tỉnh choàng dậy với tay bật đèn và ôm cái mền chạy lao ra nhà bếp rón rén lên lầu. Nàng muốn chui vào ngủ chung với đứa cháu cho đỡ sợ, nhưng giờ này đã quá khuya, không dám đánh thức nó. Dần dà một chút Vân nằm dài ra sàn nhà, ngay chiếc cửa sổ phòng con Mỹ linh tung chăn phủ kín lên người.
Sáng hôm sau chuông đồng hồ đánh thức Hiếu dậy lúc bảy giờ như thường lệ, hầu như sáng nào anh cũng dậy trước vợ, xuống nhà đọc báo uống cà phê cho tỉnh táo. Anh đẩy cửa bước ra ngơ ngác thấy Vân nằm co quắp ngay lối đi, anh đứng nhìn một chút rồi thoáng hiểu ngay là em gái đêm qua không dám ngủ một mình ở dưới nhà. Anh tội nghiệp bước đi nhè nhẹ xuống nhà để khỏi đánh thức Vân, nhưng Vân choàng dậy ngồi tựa lưng vào vách, tóc xỏa mệt mỏ và đôi mắt đỏ ngầu hai mắt nhìn ra cửa sổ.
Trời hãy vẩn còn tối bảy giờ sáng muà hè thì nắng đã lên. Nhưng muà đông thì chưa trông rõ cảnh vật. Dưới nhà, Hiếu bật đèn sáng choang Vân uể oải đứng dậy cầm cái mền bước xuống. Hiếu đã vào buồng tắm khép cửa lại trên lầu cũng có buồng tắm nhưng gần như Hiếu để dành riêng cho vợ và con gái, vì mỗi buổi sáng cả hai đều lục đục trong đó rất lâu. Vân tiến lại trước cửa phòng mình đứng tần ngần một chút rồi mới dám bước vô, quăng cái chăn lên giường, nàng nhìn tấm màn cửa sổ định bụng chờ trời sáng rõ rồi chút nữa mới kéo ra, nàng ra nhà bếp pha cà phê chờ Hiếu. Một lúc sau thì Hiếu từ trong buồng tắm bước ra, tiến lại và hỏi Vân một câu thừa thãi:
− Tối hôm qua mày không dám ngủ một mình dưới nhà phải không?
Vân mệt mỏi nói:
− Anh Hiếu à, anh có cách nào tối nay đi với em được không?...Anh không cần phải đến tiệm cà phê làm gì đâu. Anh chỉ đứng chờ xe bus với em thôi, để em xem ông ấy có hiện về lái xe nữa hay không! Nếu có thì anh cũng lên xe với em chứ một mình em...em không có dám đâu.
Hiếu biết tinh thần em mình đang hỗn loạn, nhưng ngàn lần anh không thể tin được là hồn ma từ Việt Nam sang tận đây để theo đuổi Vân, anh gắt nhẹ:
− Xe bus đâu có chỉ chờ có mình mày, mỗi chuyến cả mấy chục người, không lẽ cái xác chết lại lái được xe đưa cả mấy chục người đi làm? Mày nói làm sao chứ?
Vân ngắt lời nhấn mạnh:
− Nhưng mà tối nay anh đi với em ra bến xe được không?
Hiếu rất muốn chìu em, đồng thời cũng muốn giải quyết một lần cho xong, nhưng anh sợ vợ anh không bằng lòng, nên anh chẳng biết trả lời ra sao. Vân đặt tách cà phê, nhìn ra cửa sổ và nói:
− Trời sáng rồi, anh..anh đi với em ra đây ra đằng sau nhà với em.
Hiếu ngần ngại không muốn ra ngoài, nhưng vì tội nghiệp Vân cả đêm mất ngủ nên đành đứng dậy nhưng cằn nhằn bảo:
− Đứng trong buồng của mày nhìn ra sân sau cũng được, cần gì phải ra bên ngoài cho lạnh.
Vân giật mạnh tay anh quả quyết:
− Không, anh cứ đi với em, em nói thì anh không có tin đêm hôm qua ông Thọ hiện về ngay sau cửa sồ buồng em nè, con chó nhà bên nó cứ sủa ầm cả lên rồi nó cào mãi vào trong tường. Đi! Anh đi với em đi mà.
Vừa nói Vân vừa lôi anh lại cửa sau, nàng đẩy cánh cửa sổ bước ra quên cả cái rét buổi sáng. Hiếu theo sau rùng mình vì lạnh. Trời chưa sáng hẳn nhưng nhờ khoảng trống mênh mông phía sau nên cảnh vật bắt đầu trong rõ. Hiếu bật thêm ngọn đèn máng trước hiên sân sau để quan sát cho rõ. Hiếu đứng trên mãnh sân sau, chưa có làm hàng rào chưa tráng xi măng mà lớp cỏ thì đã chết úa vì lạnh. Bỗng Hiếu trố mắt giựt mình há mồm nhìn trên bức tường nhà mình, ngay cửa sổ phòng Vân quả thật chằng chịt bao nhiêu vết cào, như có ai cầm cây đinh cố ý vạch vạch. Nhà mới xây tường còn nguyên nên dấu cào càng rõ. Vân lay vai Hiếu và kinh hãi nói:
− Anh...anh thấy chưa? Em bảo anh mà con chó nó cào cả tiếng đồng hồ ấy.
Rồi nàng hốt hoảng chỉ tay và nói lớn hơn:
− Đây..đây này..Anh coi này...dấu chân người đứng ngay sau cửa sổ nhìn vào buồng ngủ của em, rõ ràng là dấu giày còn in lại vì chỗ đất mềm. Sân này từ trước tới giờ đâu có ai lai vãng tới. Tối hôm qua mà anh..anh ở dưới phòng em, thì anh mới thấy sợ, em phải chạy lên lầu là vì thế ấy.
Hiếu cũng vừa nhận ra dấu giày đàn ông quay mũi vào hướng buồng Vân, làm anh bắt đầu đổi thái độ. Một cảm giác rờn rợn bất chợt lan vào toàn cơ thể anh, anh im lặng quay đầu nhìn sang nhà hàng xóm, có con chó quanh năm hiền lành, rồi anh kéo tay Vân ra hiệu bảo vào nhà khép cửa lại. Anh đi ra sân trước dáo dác nhìn, con chó hàng xóm đã nằm lặng yên trước hiên, không có một dấu hiệu nào chứng tỏ đêm qua nó đã gặp ma. Anh bảo Vân:
− Hay là kẻ trộm nó rình nhà mình?
Vân lắc đầu:
− Đằng sau nhà mình là bải đất trống, trộm nào dám đứng khơi khơi giữa bãi đất trống mà rình?
Hiếu cũng đã nghĩ đến điều ấy, nhưng anh vẫn cố nêu ra một giả thiết để tự an ủi mà thôi. Vào nhà anh ngồi ở bàn ăn hai mắt đăm chiêu suy nghĩ. Vân rót cà phê cho anh rồi bưng lại đặt trước mặt, Hiếu hỏi:
− Cái ông Thọ mà mày bảo là hiện hồn về đó, lúc còn sống ông ấy có..ông ấy có..có dính dáng gì đến mày không? Tại sao lại hiện về để chọc ghẹo mày?
Vân kéo ghế ngồi và lại tỉ mỉ kể hết diễn tiến mọi chi tiết cho Hiếu nghe, chỉ khác một điều là lần này nàng kể phấn khởi hơn bởi vì Hiếu đã chăm chú lắng nghe, không xem thường câu chuyện của nàng như tối hôm qua. Nàng kết luận:
− Tối nay anh chịu khó ra đón xe bus với em được không anh?
Hiếu gật đầu đáp:
− Ừ, để tối nay tao đi với mày, nhưng tao dặn mày để xíu nữa chị mày dậy đừng có nói gì cả. Bả nhát lắm biết là có ma thật chị mày có thể đứng tim chết đó.
Vân gật đầu mặc dầu trong lòng rất ấm ức, vì rõ ràng bà chị dâu cho là Vân bịa đặt, chị cứ yên chí cho là Vân lấy cớ để nghỉ ở nhà để khỏi phải đi làm. trong lúc tức tối Vân chỉ mong cho hồn ma hiện về, cho bà chị dâu gặp một lần để bả tởn. Vân đứng dậy và nói:
− Thôi, anh chuẩn bị đi làm đi em phải đi ngủ một giấc đây, mất ngủ một đêm mệt quá. Định vào ngủ chung với cháu Mỹ Linh nhưng mà lại sợ làm mất giấc ngủ của nó, em đành phải nằm ở ngoài hành lang ấy.
Hiếu trầm ngâm không nói gì nữa, Vân nhìn anh tha thiết hỏi:
− Ừm..em..em gọi phone về Việt Nam được không anh?
Hiếu bưng tách cà phê chưa kịp uống ngạc nhiên đáp:
− Được chứ, nhưng mà mày gọi cho ai?
− Gọi cho gia đình ông Thọ ấy mà, ông ấy ở với một ông anh ruột, em bảo là người ta làm lễ cầu siêu, tại vì ông Thọ không vợ, không con cho nên không có ai cúng kiến cả.
Hiếu uống một ngụm cà phê rồi gật đầu bảo:
− Ừ tùy mày vậy, lát nữa tao đi làm thì mày gọi.
Vân hài lòng đứng dậy, anh em thương nhau nhưng vớ phải bà chị dâu khó chịu, thành ra bất cứ việc gì muốn làm, Vân vẫn cứ phải đắn đo. Nàng bước vào phòng tắm, bao nhiêu nỗi kinh sợ đêm qua, giờ này khi trời sáng đã giảm hẳn. nàng đánh răng rửa mặt rồi vào bồn tắm xối nước nóng cho đỡ mệt mõi, rồi nàng vào buồng khép cửa lại lên giường ngủ. Ngoài nhà vợ chồng Hiếu và con gái lục đục một lúc, rồi khóa cửa đi ra trả lại sự vắng lặng một mình cho Vân ở nhà. Nàng cần phải ngủ một giấc dài, đêm nay mới có thể thức trắng làm việc ở tiệm cà phê.
Vân ngủ được mấy tiếng đồng hồ thì choàng tỉnh dậy giữa căn nhà vắng vẻ, ngẩm nghỉ mấy giây mới nhớ lại trọn vẹn câu chuyện đêm qua, vào lúc thấy ông Thọ mặt sáp, ngồi trên xe bus cho đến những âm thanh hổn độn ở sau nhà: tiếng chó sủa, tiếng cào vào tường, tiếng xe bus chạy. Tất cả uà trở về rất nhanh trong trí nhớ của nàng. Tuy nhiên nhìn qua màn cửa sổ nàng thấy trời đã rực nắng, nên cái cảm giác run sợ không còn đè nặng như đêm qua, nhìn đồng hồ trên bàn thấy cũng quá trưa Vân choàng dậy định ra rửa mặt rồi nấu cơm, chui ra khỏi tấm chăn dày Vân thấy rùng mình vì lạnh, nàng mặc vội cái áo khoác rồi lại kéo rộng tấm màn cửa sổ cho căn phòng thêm ánh sáng.
Màn vừa kéo ra nàng hãi hùng kêu lên và bước lùi lại mấy bước. Trên bãi đất mênh mông trước mặt cách nhà nàng khoảng năm mươi thước, trơ trọi một cây thông khá cao giờ này lá đã rụng gần hết. Một người đàn ông đứng dựa gốc cây miệng ngậm điếu thuốc khói bay nhè nhẹ, đăm đăm nhìn vào cửa sổ buồng ngủ của Vân. Mặc dù khoảng cách khá xa Vân cũng vẫn nhận ra ngay đó là ông Thọ, với cái dáng quen thuộc không thể lầm lẫn được Vừa thấy Vân, nghĩa là khi Vân vừa kéo màn cửa ông liền quay lừng lửng bỏ đi về phía bià rừng và mất hút trong đó.
Vân để bàn tay lên ngực để trấn tỉnh nàng không dám kéo màn lại nữa. Nàng chạy ra nhà ngoài kiểm soát lại, xem cửa chính đã đóng kín và gài then trong chưa, đồng thời nhà có bao nhiêu cửa sổ, Vân kéo màn mở tung ra hết, nàng nghĩ hồn ma luôn luôn sợ ánh sáng, cho nên chiều nay khi Hiếu đi làm về, nàng sẽ đòi Hiếu thay cái bóng đèn thật sáng phía sân sau, ngay trên cửa sổ của nàng, rồi từ đây khi ngủ nàng sẽ không kéo màn lại nữa. Nàng đứng ở bàn ăn đờ đẩn suy nghĩ tim vẩn còn đập thình thịch căn nhà vắng lặng lạ thường, không một tiếng động nhỏ làm nàng cảm thấy rờn rợn như sống một mình giữa lâu đài hoang.
Nàng vào phòng khách bật ti vi lên cho đỡ trống trãi rồi qua phòng tắm rửa mặt. Nhìn đồng hồ thấy mới khoảng một giờ trưa nàng lưỡng lự toan gọi điện thoại về VN, nhưng lại đổi ý hoãn đến chiều chờ Hiếu về để Hiếu cùng nghe rõ câu chuyện. Một mặt Vân sẽ bảo người nhà cầu siêu cho ông Thọ, một mặt nàng sẽ yêu cầu bảo họ, gởi qua cho nàng một bức hình của ông để mang lên chùa. Phải chấm dứt tình trạng này, chứ nếu kéo dài thì nàng không thể làm ăn gì được. Đôi mắt vẫn còn cay Vân đứng trước bồn rửa mặt, cúi xuống vặn nước nàng nhắm mắt lại vọc thật nhiều nước đắp lên mặt cho tỉnh.
Đang lau mặt thì nàng ngạc nhiên khựng lại, vì chợt ngửi thấy mùi thuốc lá thoang thoảng trong phòng, nàng nhíu mày đứng yên, hít hít mấy cái và càng thấy rõ mùi thuốc lá bao phủ nặng nề hơn. Hiếu đi làm mới về bất ngờ chăng? Chắc là không! Bởi dù Hiếu có về, thì Hiếu cũng đâu có hút thuốc, anh bỏ thuốc đã lâu. Mấy cái gạt tàn chỉ còn giữ lại trong tủ làm kỷ niệm. Nhà này không có ai hút thuốc, sao lại có mùi khói bay trong nhà? Vân máng cái khăn lên và cất tiếng hỏi lớn:
− Anh về đấy hả anh Hiếu?
Cùng với câu hỏi ấy Vân bước sang phòng khách, nàng kinh hãi đến rợn người vì ở bàn salon trên chiếc gạt tàn bằng thủy tinh, có điếu thuốc đang cháy dở, khói bốc thành sợi bay lên cao. Vân đứng chết cứng tại chỗ trố mắt nhìn, bên cạnh cái gạt tàn còn có gói thuốc Mai mà đã hơn một năm nay Vân mới nhìn lại. Tim đập thình thịch Vân đưa mắt nhìn quanh, ngó xuống bếp và ngước lên lầu nàng biết hồn ma ông Thọ đang có mặt trong căn nhà, với một điếu thuốc nội hóa mà xưa kia ông vẫn hút khi lái xe bus.
Dường như có tiếng bước chân trên lầu nàng im lặng lắng nghe thì không thấy gì nữa. Căn nhà chìm trong im lặng mênh mông không một tiếng động nào. Đứng một lúc lấy lại phần nào bình tĩnh, Vân tiến lại góc nhà chỗ máng điện thoại để gọi vào sở báo tin cho Hiếu biết. Nàng dự định điện thoại cho Hiếu xong, thì nàng sẽ ra phố đông người hoặc vào một shopping center nào đó, đi thơ thẩn chứ không dám ở nhà một mình, năm giờ chiều cả nhà về thì Vân mới về. Vân đứng bên cạnh cái phone màu đen máng trên vách, mở cuốn sổ tìm số của Hiếu, nhưng còn đang lật từng trang, thì điện thoại bổng reo vang, làm nàng giật nẩy người đánh rơi cuốn sổ điện thoại xuống chân.
Nàng trấn tỉnh ngay, đặt bàn tay lên ngực và thở phào vì đoán là Hiếu gọi về. Ban ngày cả nhà đi làm hết, đâu có ai gọi vào giờ này ? Chắc chắn chỉ có Hiếu hoặc con bé Mỹ Linh mà thôi. Nàng nhấc ống nghe, áp vào tay vừa nói "Hello" thì từ phía đầu dây bên kia, vang lên một giọng nói rất mơ hồ, lẫn trong tiếng gió thổi, như vọng từ cõi xa xăm nào về....
− Chào cô Vân, tôi là Thọ đây, Thọ xe bus đây!
Vân thét lên buông rơi chiếc điện thoại xuống bàn, và bỏ chạy ra sân nhà, nàng xuống hẳn lề đường, mặt tái mét đưa mắt nhìn ra trước sân và hai bên nhà hàng xóm. Con chó nhà bên cạnh vẫn nằm lừ đừ trước cửa, dưới ánh nắng khô lạnh. Sực nhớ ra mình đang mặc đồ ngủ, hơi giá thấm nhanh qua lớp vải nội hóa. Vân lại trở vào rón rén mở cửa mắt mở trừng trừng, nhìn tứ phía căn nhà nàng cư ngụ đã ba tháng, hôm nay biến thành một cõi âm hồn lạnh lẽo, mà nàng cảm nhận được trong không gian. Nàng muốn gọi phone cho Hiếu, nhưng cứ đứng nhìn cái điện thoại mà kinh hãi, chỉ sợ đến gần thì hồn ma ông Thọ lại từ thế giới bên kia kêu về.
Nàng mon men đi vào phòng, dáo dác ngó quanh, rồi thay bộ quần jean áo thun, rồi nàng qua buồng tắm lấy cái Jacket dầy vẫn máng trong đó. Nhưng lạ quá, cái áo khoác ấy chỉ máng lên một cái đinh nhỏ sau cánh cửa, mà nàng giật mãi không ra, như có bàn tay ai giữ lại. Vân dùng hết sức, kéo thật mạnh cái đinh sút luôn, làm nàng ngã té. Vân lồm cồm đứng dậy cầm cái jacket chạy luôn ra sân. Buổi chiều vợ chồng Hiếu về tới nhà, đã thấy Vân đứng chờ ngoài sân. Trời muà đông âm u gần như đã bảy tám giờ tối. Nhìn nét mặt xanh xám và cặp mắt lạc thần của em, Hiếu ưu tư hỏi:
− Sao giờ này không ngủ, ra đứng đây làm gì cho lạnh?
Chờ vợ Hiếu vào nhà trước, Vân mới níu cánh tay anh và vắn tắt kể:
− Anh Hiếu ơi, hồn ma ông Thọ đang ở trong nhà mình từ sáng tới giờ đó. Em đang ở trong buồng tắm thì ngửi thấy mùi thuốc lá. Em chạy ra không thấy ai mà lại thấy điếu thuốc cháy dỡ trên tàn, bên cạnh điếu thuốc Mai. Ghê nhất là lúc em tính gọi phone vào sở cho anh, thì em nghe tiếng ở trong phone, nhấc ra thì chính là tiếng của ông ấy. Giọng ông ấy nghe...nghe ghê lắm, nghe kỳ lắm..em sợ quá..em sợ lắm anh ơi..em..em ở nhà một mình chắc em chết mất...
Giọng Vân cực kỳ thảm nảo khiến Hiếu đứng yên tại chỗ, đăm đăm nhìn xuống chân ngẫm nghĩ không biết giải quyết bằng cách nào để giúp em. Những điều Vân vừa kể như ông Thọ hiện về hút thuốc, và nhất là điện thoại cho Vân thì Hiếu chưa tin hẳn. Tin làm sao được? Y như trong phim ảnh, hay là em gái mình bị loạn trí thật rồi? Cũng không phải, dấu chân người và những dấu vết cào trên vách tường sau nhà Hiếu, rõ ràng là điều có thật, mà sáng nay chính anh đã tận mắt chứng kiến. Muốn kiểm lại cho chắc, Hiếu không vào nhà vội, anh kéo Vân vòng ra hông nhà và ra phía sau. Dấu chân người đứng sát cửa sổ, và những vết cào chằng chịt trên tường vẫn còn nguyên vẹn. Vân bảo:
− Anh..anh thay cho em cái đèn thật sáng ngoài này được không? Ma bao giờ cũng sợ sáng cả.
Hiếu vừa bước vòng về phía trước vừa nói:
− Tạm thời mày sợ thì nằm chung với con Mỹ Linh. Nhưng mà mày có ngủ ở nhà đâu mà mày sợ? Mày làm ban đêm mà! Lát nữa tao đi với mày ra đón xe bus.
Giờ này thì Vân không phải chỉ sợ ông Thọ ngồi trên xe bus, mà chỗ nào hình như cũng có ông theo bước chân nàng. Hai người vừa tới cửa trước, thì vợ Hiếu cũng vừa từ phía trong nhà bước ra, mặt hầm hầm nhìn Vân mắng lớn:
− Cô ở nhà làm gì mà phòng tắm bừa bãi như thế này? Thủy tinh vỡ đầy trong ấy mà không quét dọn gì cả, rủi ai đạp vào thì sao? Rồi bao nhiêu chai lọ lăn long lóc ở trong buồng tắm ấy, cô để yên được à? Muốn vào đây thì phải gọn ghẽ chứ.
Vân cúi đầu nén tiếng thở dài, Hiếu không biết giải thích thế nào với vợ để bênh em gái, bèn dịu dàng bảo Vân:
− Vào quét đi, quét rồi lấy máy hút bụi hút lại cho thật kỹ đi.
Vân vô buồng tắm rồi, vợ Hiếu đứng ở bếp chống nạnh nhìn quanh rồi chán nản nói:
− Um...ở nhà cả ngày mà bếp núc lạnh tanh như thế này. Không nấu được hộ nồi cơm. Chán thật!
Hiếu nghe vợ cằn nhằn em gái một cách oan ức, nhưng anh không biết nói sao, anh không muốn vợ biết rằng, chính anh cũng đã bắt đầu tin những điều Vân kể, anh tò mò đứng ở trước cửa buồng tắm nhìn vào, Vân đang khom người quét những mãnh thủy tinh, vội đứng dậy và thì thầm kể:
− Em thấy tình hình ghê rợn lắm rồi, em..em chịu không nổi, anh phải làm cách nào giúp em. Trưa nay, em ngủ có khoảng ba tiếng đồng hồ, ban ngày nên em cũng đỡ sợ, ngủ dậy em vén màn cửa sổ thì không ngờ em lại thấy ông ấy. Đêm qua thì ông ấy đứng sát cửa sổ, trưa nay thì ông ấy đứng xa xa dưới gốc cây, chỗ cái bãi đất trống kia kià..Anh có biết cây đó là..là cái cây gì không? Đó đó cái cây đó đó, anh qua buồng em mà coi.
Rồi thấy em, ông ấy bỏ vào rừng. trời đất ơi, em mệt quá vì thiếu ngủ, mới vào buồng tắm vọc nước đắp vào mặt, ai ngờ mở mắt ra thì ngửi thấy mùi thuốc lá, chạy ra phòng khách thì thấy điếu thuốc đang cháy dỡ. Em chưa đứng tim mà chết là may đấy. Vào phòng tắm để lấy cái áo jacket thì có người giữ lại không cho em lấy, lôi mãi thì cái đinh nó tuột ra, làm em ngã lăn vào buồng tắm suýt gãy xương sống...Mà..mà lạ quá..cái ly thủy tinh này múc nước xúc miệng, thường ngày nó nằm cạnh cái bàn rửa mặt, sao hôm nay nó nằm cạnh cái bồn tắm? rớt xuống vỡ tung ra, em..em chả hiểu ra làm sao hết. Rùng rợn nhất là lúc em nghe tiếng ông ấy trong điện thoại. Từ nay....từ nay chắc em không dám nhấc điện thoại nữa đâu.
Hiếu chỉ nghe em kể cũng thấy rùng mình, lạnh buốt xương sống, mặc dù toàn những chuyện lạ lùng đầy tính hoang đường, anh bảo Vân quét dọn. Một mình vào buồng ngủ của Vân, đứng nhìn qua cửa sổ. trời đã tối xẩm, ngoài khu đất hoang, cảnh tượng thê lương như bải tha ma không một bóng người, không một chút ánh sáng vì nhà Hiếu ở dãy cuối cùng. Hiếu kéo màn cửa sổ lại rồi trở qua buồng tắm và hỏi Vân:
− Ông Thọ lúc còn sống theo đạo gì?
Vân vừa quét vừa đáp:
− Dạ..hình như đạo Phật.
Hiếu bảo:
− ở Toronto có nhiều chuà VN lắm, hay là mày nhờ chuà làm lễ cầu siêu cho ông ấy.
Vân hăm hở đồng ý ngay:
− Vâng, em cũng định như vậy. Thứ bảy này nhờ anh đưa em đến chuà, chuà nào cũng được. Nhưng mà trước mắt phải giải quyết ngay chứ..để thế này đâu có được. Từ đây đến thứ bảy còn lâu quá.
Hiếu nhìn em gái tội nghiệp nói:
− Giải quyết cách nào bây giờ? Chính tao cũng không biết. À , mà mày gọi điện thoại về VN chưa ? Bảo người nhà ông ấy gửi gấp gấp hình ông ấy sang đây để mày mang lên chuà.
Vân mệt mỏi đáp:
− Trời ơi, em chưa gọi, bao nhiêu chuyện dồn dập xảy ra, em chẳng còn tâm trí nào để nhớ là điện thoại về VN, thôi hay là để sáng mai vậy.
Vân vừa dứt lời thì con bé Mỹ Linh cũng vừa về tới đẩy cửa bước vào, cất tiếng chào bố mẹ rồi đi thẳng lên lầu vào buồng riêng. Nó thay quần áo xong, xuống nhà chuẩn bị ăn cơm, thấy mẹ đứng nấu bếp, nó vô tình hỏi:
− Ủa, cô Vân ở nhà không nấu hay sao mẹ?
Vợ Hiếu được dịp than:
− Chả biết làm gì cả ngày ở nhà mà bừa bải như bải rác, không dọn dẹp, cũng chả nấu nướng.
Những câu nhiếc móc ấy Vân đều nghe rõ cả vì vợ Hiếu cố ý nói lớn, nhưng nàng lờ đi vì đã có lời dặn của Hiếu, nàng dọn xong buồng tắm, treo tấm màn nylon lên thì nghe tiếng Hiếu gọi ra ăn cơm. Ít có gia đình nào chị dâu em chồng hoà thuận với nhau, nhất là trong hoàn cảnh của vợ Hiếu và Vân hôm nay. Hai chị em ngồi đối diện nhau không ai nói lời nào. Con bé Mỹ Linh vốn tính hồn nhiên, tươi cười hỏi Vân:
− Tối nay cô có đi làm không? Coi chừng cô lại gặp ma trên xe bus đó nha!
Vân chưa kịp đáp thì Hiếu lên tiếng:
− Ừm...lát nữa ba sẽ đi với cô Vân ra trạm xe, chờ cô lên xe xong thì ba mới về.
Lập tức vợ Hiếu đặt bát và gắt lên:
− Ơ hay! Tại sao phải như thế? Không lẽ đêm nào cũng đưa từ nhà ra bến xe à? Thế thì ở nhà cho rồi, đi làm làm cái gì? Đi làm mà phiền người khác thì nghĩ phức cho rồi.
Hiếu gắng nhẫn nhục phân trần:
− Anh đi với cô ấy tối nay thôi, để xem ông lái xe bus là ai mà con Vân nó sợ?
Mỹ Linh chen vào:
− Ba cho con đi theo luôn đi để xem ông ấy có phải là ma không nhá?
Vợ Hiếu quát lên:
− Thôi thôi, vẽ chuyện, không có đi dâu hết á, ăn xong lên phòng học bài đi.
Hiếu bực mình chịu không nổi, lạnh lùng bảo vợ:
− Em cũng nên đi với anh và con nữa. Đi ra xem ông tài xế xe bus là ai? Người hay là ma?
Vợ Hiếu quẳng đôi đũa xuống bàn mà gắt:
− Cái gì? Hóa ra là anh cũng tin là ông Thọ chết ở VN, rồi bây giờ sang đây lái xe bus à? Đúng là mê ngủ! Ma nào mà đi xa vậy? Anh em giống hệt nhau, tin vớ tin vẩn chuyện dị đoan.
Hiếu cải:
− Không gặp thì làm sao mà biết được? Lát nữa anh ra xem sao?
Con bé Mỹ Linh nhìn bố dè dặt nhắc lại:
− Um...con đi được không ba?
Hiếu gật đầu:
− Ừ, con đi với ba xem cô Vân nói thật hay là chỉ tưởng tượng?
Vợ Hiếu bực mình bỏ dỡ bửa cơm, đứng dậy bước vào buồng tắm rồi lên lầu. Con bé Mỹ Linh đưa mắt nhìn theo mẹ một lúc rồi quay lại Hiếu, nó tò mò hỏi:
− À... Bộ ma cũng lái được xe hả ba?
Hiếu gật đầu giải thích:
− Ma là hồn người chết con ạ. Tuy xác chết, nhưng hồn không chết. Có nhiều điều người sống làm không được, nhưng hồn ma nó làm được. Huống chi là lái xe thì quá dễ.
Cơm nước xong, hai cô cháu xuống dọn dẹp để Vân chuẩn bị đi làm. Nàng hồi hộp lắm. Nhưng có hai cha con Hiếu đi theo nàng cũng đỡ sợ. Nàng tự đặt ra trong đầu hai trường hợp sẽ xảy ra: Nếu lát nữa ông Thọ lái xe thật thì nàng có leo lên xe hay không? Mà nếu tài xế không phải là ông Thọ, hai cha con trở về không, thì cả nhà sẽ khổ với sự đay nghiến của vợ Hiếu. Lúc đó nàng sẽ ăn nói làm sao với bà chị dâu khó tính. Trong lúc Vân rửa chén, thì Hiếu lên lầu nói chuyện với vợ, vợ Hiếu bây giờ đâm ra bực chồng hơn cả bực Vân, bởi lẽ Hiếu tỏ ra tin chuyện ma vô lý của em gái, Hiếu biết thế, nên phải tìm cách vuốt, anh giả vờ nói theo ý của vợ:
− Em à, anh thấy là cả em cũng nên đi với anh ra trạm xe bus, biết đâu con Vân nó lấy cớ là sợ ma, nó ở nhà không chịu đi làm đúng như em nói? Mình ra tận nơi chứng kiến, nó sẽ hết đường chối cãi em thấy không? Chính vì vậy anh mới quyết định ra trạm xe với nó chỉ một lần thôi, từ mai nó không bịa đặt chuyện được nữa. Em đi với anh đi, em đi với anh để xem nó ăn nói ra làm sao?
Vợ Hiếu thấy chồng có lý chị ngẫm nghĩ một chút rồi nói:
− Đi thì đi, thời buổi này mà nói chuyện gặp ma nghe chán thật.
Hiếu vuốt theo:
− Chả hiểu con bé nó bị khủng hoảng cái gì mà sinh ra lẩn thẩn như vậy?
Anh quay bước xuống nhà mà lòng nặng trĩu. Nổi lo âu dùm cho em gái anh mong mỏi là mọi chuyện êm xuôi. Vân từ nay đi làm đều đặn để vợ anh cảm thấy thoải mái hơn. Đúng tám giờ rưỡi, bốn người nai nịch quần áo muà đông, bước ra khỏi nhà để lên đường đi gặp...ma. Vợ Hiếu mặc jacket dày lặng lẽ theo chồng, không nói lời nào. Vợ Hiếu khóa cửa, rồi cả nhà cắm đầu cùng rảo bước. Hiếu định lái xe, nhưng vợ Hiếu và con bé Mỹ Linh đều đòi đi bộ vì quảng đường không xa lắm. Vợ Hiếu lúc này hơi lên cân, nên thấy có dịp đi bộ để tập thể dục đòi đi ngay.
Trời rét căm căm, mà gió lại rít từng cơn qua cánh đồng trống, như hắt hơi lạnh vào bốn người. Hiếu và vợ đi trước rầm rì nói chuyện. Hai cô cháu lặng lẽ đi sau. Vân kiểm điểm lại bao nhiêu nổi kinh sợ xảy đến dồn dập trong ngày hôm nay. Nàng thầm nguyện trong đầu:
− Ông Thọ ơi, lúc sống ông là người thân của tôi, ông sống khôn thác thiêng, xin đừng hiện về làm tôi sợ. Tôi hứa sẽ đặt bài vị ông trong chuà mà.
Mười lăm phút sau thì ra tới con lộ chính, trạm xe không có ai. Cả bốn người đứng khuất hẳn vào trong nhà lồng kiếng chờ đợi. Vân hồi hộp lắm, để đỡ sốt ruột, nàng hỏi Hiếu:
− Bộ...bộ anh không nhớ mặt ông Thọ hay sao?
Hiếu lắc đầu nói:
− Không! Cứ như mày kể thì hồi trước muốn đi lính ít khi về nhà. Sau bảy lăm thì ông ấy về nhà, tao vượt biên rồi còn đâu. Gặp thì chắc là cũng nhớ, nhưng bây giờ thì tao không có hình dung được mặt mũi ổng ra làm sao.
Vợ Hiếu ngồi trên ghế băng, không nói gì, mặc dù chị vẩn nhớ mặt ông Thọ. Hiếu chưa nói xong dứt câu, thì Mỹ Linh đứng bên cạnh lên tiếng:
− Ơ...Xe tới kià ba!
Cả Hiếu và Vân cùng hồi hộp quay về hướng xe bus đang từ từ chạy đến. Vợ Hiếu còn hồi hộp hơn, bởi chị mong cái giây phút này, để cười vào mặt cô em chồng. Bốn người đứng thành một hàng, không ai nói một lời nào. Dưới ánh đèn đường chiếu qua làn hơi sương ảo ảo. Chiếc xe màu xám hiện ra như bóng dáng một con quái vật khổng lồ, đang ám ảnh tâm trí của Vân. Nàng nín thở đăm đăm nhìn và thầm nhắc lại câu nói lúc nãy:
− Ông Thọ ơi! ông sống khôn thác thiêng, xin đừng hiện về làm tôi sợ.
Hình như xe trống, không có khách. Tới gần trạm, xe giảm tốc độ, và tấp vô lề và dừng hẳn lại. Vợ chồng Hiếu, Vân và Mỹ Linh, cả bốn người cùng căng thẳng, trố mắt chờ đợi. Rồi cánh cửa xe bus mở toang, người tài xế quay đầu nhìn ra bằng ánh mắt dửng dưng. Vân cứ đứng yên như pho tượng tại chỗ, khiến Hiếu phải đẩy lưng nàng, giục nàng bước lên. ông tài xế chỉ là một người đàn ông Canada bình thường, mặc đồng phục, tay cầm sẳn tờ giấy jo-en-phơ để trao cho khách theo thói quen. Hiếu mừng lắm, anh thở phào như trút được gánh nặng ngàn cân, nhưng phải làm bộ mắng Vân để làm vợ vui lòng:
− Mày thấy chưa, chỉ trông gà hóa cuốc. Thôi, đi làm đi! Sáng mai về gặp lại.
Con bé Mỹ Linh hỏi nhỏ Hiếu:
− Ông này đó hả ba? Cô Vân nói ông này là ma đó hả ba?
Vợ Hiếu cười khẩy bảo con:
− Hứ, ông này mà cô mày bảo ma, thì mỗi ngày tao gặp đến cả trăm con ma, ma đầy đường.
Hiếu nhún vai, bảo vợ:
− Nhưng mà mình có ra tận nơi thì con Vân nhà mình nó mới hết đường chối cãi. Thôi, thế là yên chí, đi về ngủ.
Vân bước lên tìm chỗ ngồi tuốt phía sau, nàng vừa vui mừng, vừa hồi hộp. Mắt cứ dán chặt vào lưng ông tài xế, nàng tin vào lời thầm khẩn của nàng với hồn ma ông Thọ đã khuất. ông không hiện về làm nàng kinh sợ nữa. Hy vọng từ nay Vân thoát nạn. Dầu sao nàng cũng sẽ làm lễ cầu siêu cho ông và đặt hình ông trên chùa thường xuyên. Hành khách trên xe thưa thớt chưa tới mười người, Vân quan sát từng khuôn mặt đàn ông, nàng an tâm thở phào nhẹ nhõm. Dưới lề đường, chờ cho xe đóng cửa và lăn bánh, vợ chồng Hiếu mới an tâm trở về, vợ Hiếu bắt đầu lên mặt trách chồng:
− Đã nói là nó làm bộ mà anh đâu có tin, anh bây giờ chỉ tin em gái anh thôi, còn em nói cái gì anh chả tin.
Hiếu biết là Vân không tưởng tượng, bởi bao nhiêu việc đã xảy ra trong nhà anh, từ tối hôm qua đến giờ, nhưng anh không muốn vợ biết, nên đành phải xuống nước:
− Anh đã nói rồi, mình ra đây là để nhìn tận mắt cho nó hết cãi.
Vợ Hiếu vẫn chưa buông tha:
− Em có tiếc cái công ra đây đâu. Nhưng tức là nó nói cái gì anh cũng nghe, chuyện vô lý đến thế, anh không mắng vào mặt nó, mà lại có vẻ xiêu lòng nghe theo nó.
Hiếu không nói nữa, lặng lẽ đi bên vợ con, vì anh biết có phân trần thì vợ anh cũng không tin, bởi vốn đã có thành kiến với Vân. Con bé Mỹ Linh góp ý:
− Um... Con chắc là cô Vân bị ám ảnh vì ở nhà coi tivi nhiều quá!
Vợ Hiếu bắt ngay nhận xét ấy để nhắc lại:
− Chứ còn gì nữa! Tao đã nói rồi mà. Chỉ có mình ba mày tin là có ma chứ chuyện vô lý như thế, đứa con nít nó cũng chả nghe nữa.
Về đến nhà vợ Hiếu bước lên mở cửa mặt vẫn còn hầm hầm. Hiếu và con gái đứng dưới sân. Con bé nó đòi Hiếu thứ bảy này chở ra Toronto dự tiệc sinh nhật con bạn. Hiếu gật đầu bảo:
− Ừ cũng được, đằng nào ba cũng đưa cô Vân lên chùa.
Vợ Hiếu đẩy rộng cánh cửa bước vào thò tay bật đèn, và treo xâu chìa khóa lên cái móc trên vách. Bỗng chị nhíu mày bực bội vì nghe trong phòng tắm có tiếng nước chảy và đèn còn để sáng. Phòng tắm dưới nhà thì chỉ có mình Vân xài, như vậy trước khi đi, Vân đã quên tắt đèn và tắt nước. Chị uất ức đi nhanh vào và nghiến răng nghĩ đến sự bất cẩn của Vân để tốn tiền điện, tiền nước một cách phí phạm, nhiều lần chị đã nhắc mà bửa nay Vân vẫn quên. Đứng trước cửa buồng tắm, chị lại càng bực hơn, vì Vân chỉ quên tắt vòi nước nóng ở bồn rửa mặt nước đã xả ra cả nữa tiếng đồng hồ, nên hơi nước bốc lên mờ mịt che kín khắp phòng, chị vói tay lấy cái khăn tắm khua đi khua lại trước mắt, mới thấy đường mà bước vào.
Chị mò mẩm vặn chặt vòi nước nóng, rồi đưa khăn lau sạch lớp hơi nước phủ dày đặc tấm gương soi trước mặt. Chị thở phào và ngẩng lên nhìn trong gương. Bổng chị thét lớn buông cái khăn và ngã bật ngữa ra phía sau, té lăn vào buồng tắm là bởi vì khi nhìn vào trong gương, chị không thấy mặt mình mà chỉ thấy khuôn mặt sáp bóng loáng, trắng bệch của ông Thọ.
Nguyễn Ngọc Ngạn
#32
Gửi vào 06/06/2011 - 23:24
CA SĨ CHẾ LINH KỂ CHUYỆN RÙNG RỢN
VW: Thưa anh Chế Linh trong thế giới tâm linh rất khó có thể nói được điều có điều không, nhưng mà có những sự hiện diện không phải ai cũng tin anh có tin có ma không?
CL: Ôi, điều đó tôi phải tin bởi vì khi chết rồi chúng ta đi đâu hồn ta ở đâu. Cho nên tôi tin chắc chắn điều đó phải có nhứt định phải có. Tại nước văn minh nhất họ tin từ trước tới bây giờ, họ làm phim dựng phim đủ thứ hết là nước Anh.
VW: Có bao giờ anh thấy ma chưa?
CL: Tôi đã thấy rất là nhiều lần. Tôi phải nói chuyện với ma rất nhiều lần, những nhân chứng còn đây, chẳng hạn như những lần đi hát chị Mai Lệ Huyền, Giáng Thu và một số những anh chị em khác có chứng kiến.
VW: Anh kể lại một câu chuyện mà anh chứng kiến?
CL: Một dịp đi hát có Hùng Cường tại Dục Mỹ năm 1971. Dục Mỹ là nơi dạy các binh chủng rất sình lầy, có những giai thoại ma quỷ dữ lắm ở tại xứ đó. Tất cả mọi người buổi chiều hôm họ đi dạo mát ngoài phố, tôi không muốn đi ở nhà nằm trên võng. Tôi thấy tự nhiên tủ lạnh của Tổng Hành Dinh của ông Đại Tá Lê Vinh Trường, tự động mở ra và nước trào ra, tôi đóng lại cánh cửa tủ tới lần thứ ba ông Thượng sĩ ổng nói với tôi là:
- Cậu ra ngoài đường chơi đi.
Tôi cảm thấy ở nhà không thoải mái tôi nghĩ chắc đó một điều gì không hay, tôi cũng chìu ông Đại tá Trường tại vì ổng mời hoài tôi mới ra. Tối hôm đó đi hát xong về ăn trong thủ phủ của ông Đại tá Trường, một dãy bàn nghệ sĩ với tất cả anh em binh lính và sĩ quan khoảng năm mươi người. Ông Đại tá Trường ngồi đầu bàn. Tôi với anh Hùng Cường ngồi đâu mặt nhau. Hôm đó ông Đại tá Trường có hai cô cháu là cô Tuyết và cô Hồng ở Nha Trang đến thăm, hai cô nằm ngủ ở trong phòng.
Bỗng nhiên có bóng một cô ở trong phòng đi ra ai cũng nhìn thấy. Ông Đại tá Trường mới nói:
- Linh à, toa đứng dậy mở cửa, coi tụi nó còn ngủ không?
Ông cứ biểu tôi mở cửa hoài thôi, tôi mở cửa thấy hai cô vẫn còn nằm ngủ. Kể lại mà tôi vẫn còn rợn da gà.
VW: Bóng cô gái đó là ai?
CL: Tối hôm đó khi mọi người đi ngủ rồi, tôi không ngủ nằm ở ghế xa-lông nơi phòng khách, ông Đại tá Trường nói toa vô ngủ đi đừng có nằm ở đây. Tôi nói là tôi muốn nằm ở đây để thoải mái. Tôi không muốn nằm ở trong phòng. Lúc đó mỗi người nằm một giường nhà binh, khoảng hai mươi người nằm ở trong phòng ghế bố có mùng đàng hoàng. Ông Đại tá Trường nói quá, tôi mới nói tại sao vậy tôi ngủ ngoài đây có mắc mớ có phiền hà gì ai đâu. Ổng nhứt định năn nỉ tôi đi vô ngủ tôi mới đi vô ngủ. Còn đang nói chuyện đâu đó với anh em chân tôi bị nhột, tôi nói:
- Hình như có ai gãi chân.
Anh Hùng Cường nói là đừng nói tầm bậy phạm thượng, nói không có thiệt. Tôi nghĩ chắc tại đi bộ nhiều quá, có lẽ bị ngứa chân. Cho đến lần thứ hai, lần thứ ba tôi bị gãi chân, tôi nói ra anh Hùng Cường và tất cả mọi người kể cả Mai Lệ Huyền không ai dám lên tiếng hết, ai cũng sợ. Tôi mới cố gắng ngủ, tôi thấy một bóng đứng cao ngay đầu giường tôi, mặc đồ nhà binh, cao mà không thấy mặt, tôi mới tốc mùng ra, tôi nói tại sao các anh cứ phá tôi hoài.
Mọi người không có ai ngủ hết, nhưng mà không ai nói chuyện. Đến lần thứ hai tôi mới mở cửa tôi rượt ra tới cái lô cốt, anh lính gác hỏi tôi chạy đi đâu vậy, tôi nói có một người gãi chân tôi hoài tôi chạy ra kiếm. Anh lính gác mới nói tôi vô ngủ đi không có đâu chuyện đó để mai sẽ kể. Khi tôi vào ngủ mới vừa nằm là ngủ liền thì bị bóp cổ. Lúc đó tôi nói là:
- Tôi tin rồi, các anh, các bạn cho tôi ngủ đi ngày mai tôi sẽ mua cà phê cúng.
Thế là tôi ngủ được. Mới năm giờ rưỡi sáng thôi là có tiếng gõ cửa, ở ngoài sáng ở trong tối, dòm ngạch cửa không thấy bóng mà có tiếng gõ cửa. Tôi mới nói:
- Tôi đã nói với các anh rồi, các anh không chịu nghe không cho tôi ngủ là sao.
Thế là tôi thức cho tới sáng luôn. Tới sáng tôi kể cho ông Đại tá Trường nghe, ổng đưa tôi vào phòng, chỉ vào cái giường của ổng đã được ếm, đóng đinh kéo dây chì, dây kẽm dữ lắm. Mà ổng là người Công Giáo, ổng kể hết sự thật.
VW: Câu chuyện của ông Đại tá Trường kể như thế nào?
CL: Ông Trường kể là có một cô gái mười sáu tuổi, hồi thời Tây tới trại lính để gặp ông bố hay sao đó nhưng bị lính Tây bắn chết oan. Cô đã xuất hiện rất nhiều, nhiều dạng khác nhau, bằng chứng như là mấy cây cổ thụ ở Dục Mỹ đã bị đốn và đã ếm không biết bao nhiêu lần mà họ vẫn xuất hiện, tức là bằng mọi hình thức. Họ nói là cô thành quỷ rồi.
VW: Vì lý do gì họ ếm cái giường, họ phải ràng lại, có hiện tượng gì xảy ra khiến họ phải làm những động tác đó?
CL: Tôi nghĩ rằng đó là một phép để mà ngừa những phá phách để được bình an thôi, để họ ngủ được, đời lính mà không ngủ đâu có được mà cứ bị phá phách hoài đâu chịu được.
VW: Họ để những gì ở giường?
CL: Tôi thấy ở dưới giường đóng đinh nhiều lắm, đó là một trong những hình thức ếm và xin vong hồn đó đi một nơi khác.
VW: Câu chuyện anh vừa mới kể là trong rất nhiều những câu chuyện mà anh đã chứng kiến. Anh tin rằng có ma. Anh gặp nhiều trường hợp như vậy trong khi những người khác cả đời không thấy?
CL: Tôi cũng không hiểu tại sao tôi gặp hoài, đôi khi tôi kể cho bạn bè nghe họ nói tôi mê tín dị đoan này kia nọ. Không phải đâu không phải tự nhiên ai cũng có một cơ duyên để mà gặp gỡ như vậy. Họ nói ma là chuyện không có tôi nói phải có, tại vì tôi chứng nghiệm quá nhiều lần. Họ biết nghe họ thấy mình họ nhiều phép hơn mình, mình không thấy họ sự sinh hoạt của họ chắc cũng như chúng ta vậy.
VW: Anh có những chứng nghiệm gì từ cá nhân của anh hoặc người thân của anh không?
CL: Có lần tôi đi hát ở Trà Vinh, Vĩnh Bình. Một phái đoàn nghệ sĩ đông lắm ở phòng ngủ Thống Nhất, tại Trà Vinh, năm 1972. Đông lắm có anh Hùng Cường, Thanh Việt, Tùng Lâm, Khả Năng. Ông bà chủ phòng ngủ nầy có sự quen biết cho nên tôi muốn ở phòng nào họ cũng chìu. Tôi muốn ở phòng số một nhưng mà phòng bị niêm phong, ông bà chủ niêm chớ không phải là chính quyền niêm. Tôi nói nhứt định ở đó chớ không muốn ở trên lầu tôi không muốn ở phòng nào khác. Tôi với vợ tôi vào phòng đó. Tôi vào phòng tắm rửa ngủ để lấy sức để tối đi hát. Vợ tôi ra phố để coi này cái kia mua trái cây để tối ăn.
Tôi đang ngủ nghe có tiếng guốc khua điếc lỗ tai tôi. Tôi nghĩ vợ mình biết giấc ngủ của mình hết sức là cần trước khi hát. Tôi thức dậy định nói với vợ đừng làm ồn, tôi thấy cửa vẫn còn đóng cửa sổ niêm hết chỉ có hai lỗ nhỏ xíu để thông hơi trong nhà tắm. Đến đêm đi hát về hai vợ chồng tôi ngủ, họ kéo vợ tôi lọt dưới giường luôn. Vợ tôi thấy có hai người lại kéo chân, tôi kéo lại mà kéo không nổi.
Tôi mới qua bên phòng Thanh Việt ở coi như suốt đêm không ngủ. Ngày hôm sau tôi mới hỏi, ông chủ mới kể là khi phòng ngủ tân trang, có hai cô mà kéo xi-măng để tô, bị rớt xuống chết ngay tại phòng đó cho nên không cho ai ở được, có nhiều người muốn ở nhưng mà ở không được, bị phá.
VW: Còn câu chuyện người âm hợp hôn với người dương?
CL: Câu chuyện này tôi cũng đang kiếm ông Trung tá Thanh, để mà kiểm chứng thêm một lần nữa. Anh sống với người ma này ở tại Dục Mỹ trong ba năm trông rất tiều tụy. Khi mà ảnh bỏ Dục Mỹ đi ảnh lại sống hết sức thoải mái và khỏe mạnh. Tôi không kiếm được anh ta, anh Trung Tá Thanh hồi ở Dục Mỹ đã sống với người ma, người âm ba năm trời.
VW: Sinh hoạt của người âm người dương hòa với nhau như thế nào?
CL: Lúc đầu tiên theo như ảnh kể, rất bình thường giống hệt như người đàn bà bình thường, nói chuyện bình thường mà không biết mình sống với người âm. Cho đến ngày một người bạn của anh ta đến thăm anh ở Dục Mỹ, khi bước vào phòng anh bạn thấy có gì đó không ổn ở trong nhà, thành thử anh bạn làm phép để không bị quấy rầy. Không ngờ từ ngày anh bạn xuất hiện đến thăm ông Trung Tá Thanh ở Dục Mỹ đến khi anh bạn đi, bóng người đàn bà này không bao giờ còn nữa không còn tới với anh Thanh nữa. Mà anh Thanh lúc đó cũng không biết tại sao người yêu mình biến mất.
VW: Họ có với nhau đứa con nào không?
CL: Không, không có con.
VW: Vậy thì anh nghĩ cái chuyện đó là cũng có thể xảy ra được hết, trong đời sống mà chúng ta nói là nó phức tạp như vậy.
CL: Tôi nghĩ cái này cũng là một trong những cái mà mình phải suy nghĩ, tức là người âm cũng có nhiều mà người dương cũng có nhiều, nhưng mà dương với âm mình không có được tần số nào đó, để mình gặp nhau một cách tự nhiên, nhưng họ vẫn thấy sự sinh hoạt của mình, tôi chắc chắn những việc đó chắc chắn phải có. Mà trong những vấn đề của người Chăm, thứ nhất là người Chăm chúng tôi tin dữ lắm, tin kinh khủng, mà một ngày nào đó tôi sẽ kể cho anh một số những chuyện có thiệt và kiểm chứng, những nhân chứng còn sống, tôi thấy việc này cũng là một trong những cái, không phải đem họ đi tới những cái hoang mang hay là những mê tín dị đoan.
Tôi thấy việc này cần kể ra cho chơi vui. Là cái tượng này, cái khu phố này tôi mướn lại của người Bồ Đào Nha... Toronto. Hồi năm 88, từ khi mà mở tiệm thì coi như khách khứa đông đảo lắm và cũng không có gì xảy ra, mà rất là đông lúc nào cũng đông hết. Tiệm đó sức chứa 240 chỗ ngồi, ở trong đó có Piano này kia nọ, đông khách lắm nhưng mà mỗi một lần mà tôi đi xuống cái hầm, gọi là kho chứa đồ thì tôi thấy một bóng ngồi gục đầu, tôi nói ủa tại sao mấy cô làm ở đây, tại sao đi xuống ở dưới này, gục đầu ở dưới này chắc có chuyện gì xảy ra, mình mới nói:
- Ai vậy?
Bóng này lại đi vô phía bên trong, mình chạy vô phía bên trong đường cùng, đâu có ai đi đâu được, mình thấy Ok chắc có chuyện không ổn xảy ra. Tôi lấy bánh, lấy nước trà, nước ngọt tôi để đó tôi cúng, tôi vái mời họ đến ăn, lần thứ ba tôi gặp cũng y chang vậy, tôi không dám nói với ai hết, sợ không ai dám xuống dưới đó lấy đồ (cười) mà tôi cũng không dám cho người nhà biết và thằng con tôi gặp một lần nữa, thằng đó gặp mà nó cũng không dám nói với ai, nó cũng không dám nói với Cha nó, nó cũng không dám nói với ai hết, nó không dám xuống đó luôn (cười) đến khi tôi bán tiệm rồi, tôi mới nói cho gia đình biết là như vậy, như vậy đó, thì bà xã tôi nói trời đất ơi, anh thấy như vậy mà không cho biết, em đi xuống dưới hoài (cười).
VW: Mà chỉ không thấy ạ.
CL: Không thấy.
VW: Nhưng mà người chủ Tàu có thấy không?
CL: Mình cũng không biết tại vì mình không có lại để mình hỏi.
VW: Nhưng mà hồi nãy anh nói chính xác là cái bóng hay là gì.
CL: Cái bóng thôi, bóng trắng, bóng trắng mà mình không thấy mặt rõ ràng, tại vì ở dưới cái hầm cũng có đèn, nhưng đèn không sáng như ở trên.
VW: Kể tiếp câu chuyện thứ ba nữa.
CL: Có một đoàn văn nghệ gọi là đoàn Tâm Lý Chiến năm mươi, ở trong đó có lực lượng nghệ sĩ đông lắm đi lên trên Ban Mê Thuột hát, chỗ đó coi như một Bệnh viện bị pháo kích rồi, cho nên dời lại một bệnh viện khác, làm chỗ khác tại vì Bệnh viên này bỏ hoang. Thì nghệ sĩ tới cho ở trong Bệnh viện này, mỗi người một cái ghế bố, nhưng mà đi hát về mỗi người tắm rửa đâu vào đó rồi chơi bài với nhau, ở trong phòng tắm tập thể. Trong phòng tắm tập thể mở nước hoài thôi, mới vừa mở nước ra và tắt lại đi ra ngoài thì nước mở ra lại, nó cứ mở ra lại, anh Thanh Việt nói:
- Ma gì ma... để tao cho... mầy muốn làm gì thì làm tao nè...
Chưa tới năm phút anh Thanh Việt đau bụng, đau bụng ngoài sức tưởng tượng, đến khi ông Thiếu Tá Nghị ổng nói là không nên phạm người ta như vậy, chửi người ta như vậy, không nên thách thức như vậy, đến khi mấy người này cũng rót nước này kia nọ để mời uống và vái lạy coi như lời nói này bị phạm, cho nên tha thứ đi là hết liền, thành thử tôi nghĩ một việc xảy ra mà trước mắt mọi người, chớ không phải là xạo đâu, chắc chắn điều đó những người nào không tin thì không sao, những người nào tin thì cứ phải tin, đừng để xúc phạm vậy thôi.
Lê La
VW: Thưa anh Chế Linh trong thế giới tâm linh rất khó có thể nói được điều có điều không, nhưng mà có những sự hiện diện không phải ai cũng tin anh có tin có ma không?
CL: Ôi, điều đó tôi phải tin bởi vì khi chết rồi chúng ta đi đâu hồn ta ở đâu. Cho nên tôi tin chắc chắn điều đó phải có nhứt định phải có. Tại nước văn minh nhất họ tin từ trước tới bây giờ, họ làm phim dựng phim đủ thứ hết là nước Anh.
VW: Có bao giờ anh thấy ma chưa?
CL: Tôi đã thấy rất là nhiều lần. Tôi phải nói chuyện với ma rất nhiều lần, những nhân chứng còn đây, chẳng hạn như những lần đi hát chị Mai Lệ Huyền, Giáng Thu và một số những anh chị em khác có chứng kiến.
VW: Anh kể lại một câu chuyện mà anh chứng kiến?
CL: Một dịp đi hát có Hùng Cường tại Dục Mỹ năm 1971. Dục Mỹ là nơi dạy các binh chủng rất sình lầy, có những giai thoại ma quỷ dữ lắm ở tại xứ đó. Tất cả mọi người buổi chiều hôm họ đi dạo mát ngoài phố, tôi không muốn đi ở nhà nằm trên võng. Tôi thấy tự nhiên tủ lạnh của Tổng Hành Dinh của ông Đại Tá Lê Vinh Trường, tự động mở ra và nước trào ra, tôi đóng lại cánh cửa tủ tới lần thứ ba ông Thượng sĩ ổng nói với tôi là:
- Cậu ra ngoài đường chơi đi.
Tôi cảm thấy ở nhà không thoải mái tôi nghĩ chắc đó một điều gì không hay, tôi cũng chìu ông Đại tá Trường tại vì ổng mời hoài tôi mới ra. Tối hôm đó đi hát xong về ăn trong thủ phủ của ông Đại tá Trường, một dãy bàn nghệ sĩ với tất cả anh em binh lính và sĩ quan khoảng năm mươi người. Ông Đại tá Trường ngồi đầu bàn. Tôi với anh Hùng Cường ngồi đâu mặt nhau. Hôm đó ông Đại tá Trường có hai cô cháu là cô Tuyết và cô Hồng ở Nha Trang đến thăm, hai cô nằm ngủ ở trong phòng.
Bỗng nhiên có bóng một cô ở trong phòng đi ra ai cũng nhìn thấy. Ông Đại tá Trường mới nói:
- Linh à, toa đứng dậy mở cửa, coi tụi nó còn ngủ không?
Ông cứ biểu tôi mở cửa hoài thôi, tôi mở cửa thấy hai cô vẫn còn nằm ngủ. Kể lại mà tôi vẫn còn rợn da gà.
VW: Bóng cô gái đó là ai?
CL: Tối hôm đó khi mọi người đi ngủ rồi, tôi không ngủ nằm ở ghế xa-lông nơi phòng khách, ông Đại tá Trường nói toa vô ngủ đi đừng có nằm ở đây. Tôi nói là tôi muốn nằm ở đây để thoải mái. Tôi không muốn nằm ở trong phòng. Lúc đó mỗi người nằm một giường nhà binh, khoảng hai mươi người nằm ở trong phòng ghế bố có mùng đàng hoàng. Ông Đại tá Trường nói quá, tôi mới nói tại sao vậy tôi ngủ ngoài đây có mắc mớ có phiền hà gì ai đâu. Ổng nhứt định năn nỉ tôi đi vô ngủ tôi mới đi vô ngủ. Còn đang nói chuyện đâu đó với anh em chân tôi bị nhột, tôi nói:
- Hình như có ai gãi chân.
Anh Hùng Cường nói là đừng nói tầm bậy phạm thượng, nói không có thiệt. Tôi nghĩ chắc tại đi bộ nhiều quá, có lẽ bị ngứa chân. Cho đến lần thứ hai, lần thứ ba tôi bị gãi chân, tôi nói ra anh Hùng Cường và tất cả mọi người kể cả Mai Lệ Huyền không ai dám lên tiếng hết, ai cũng sợ. Tôi mới cố gắng ngủ, tôi thấy một bóng đứng cao ngay đầu giường tôi, mặc đồ nhà binh, cao mà không thấy mặt, tôi mới tốc mùng ra, tôi nói tại sao các anh cứ phá tôi hoài.
Mọi người không có ai ngủ hết, nhưng mà không ai nói chuyện. Đến lần thứ hai tôi mới mở cửa tôi rượt ra tới cái lô cốt, anh lính gác hỏi tôi chạy đi đâu vậy, tôi nói có một người gãi chân tôi hoài tôi chạy ra kiếm. Anh lính gác mới nói tôi vô ngủ đi không có đâu chuyện đó để mai sẽ kể. Khi tôi vào ngủ mới vừa nằm là ngủ liền thì bị bóp cổ. Lúc đó tôi nói là:
- Tôi tin rồi, các anh, các bạn cho tôi ngủ đi ngày mai tôi sẽ mua cà phê cúng.
Thế là tôi ngủ được. Mới năm giờ rưỡi sáng thôi là có tiếng gõ cửa, ở ngoài sáng ở trong tối, dòm ngạch cửa không thấy bóng mà có tiếng gõ cửa. Tôi mới nói:
- Tôi đã nói với các anh rồi, các anh không chịu nghe không cho tôi ngủ là sao.
Thế là tôi thức cho tới sáng luôn. Tới sáng tôi kể cho ông Đại tá Trường nghe, ổng đưa tôi vào phòng, chỉ vào cái giường của ổng đã được ếm, đóng đinh kéo dây chì, dây kẽm dữ lắm. Mà ổng là người Công Giáo, ổng kể hết sự thật.
VW: Câu chuyện của ông Đại tá Trường kể như thế nào?
CL: Ông Trường kể là có một cô gái mười sáu tuổi, hồi thời Tây tới trại lính để gặp ông bố hay sao đó nhưng bị lính Tây bắn chết oan. Cô đã xuất hiện rất nhiều, nhiều dạng khác nhau, bằng chứng như là mấy cây cổ thụ ở Dục Mỹ đã bị đốn và đã ếm không biết bao nhiêu lần mà họ vẫn xuất hiện, tức là bằng mọi hình thức. Họ nói là cô thành quỷ rồi.
VW: Vì lý do gì họ ếm cái giường, họ phải ràng lại, có hiện tượng gì xảy ra khiến họ phải làm những động tác đó?
CL: Tôi nghĩ rằng đó là một phép để mà ngừa những phá phách để được bình an thôi, để họ ngủ được, đời lính mà không ngủ đâu có được mà cứ bị phá phách hoài đâu chịu được.
VW: Họ để những gì ở giường?
CL: Tôi thấy ở dưới giường đóng đinh nhiều lắm, đó là một trong những hình thức ếm và xin vong hồn đó đi một nơi khác.
VW: Câu chuyện anh vừa mới kể là trong rất nhiều những câu chuyện mà anh đã chứng kiến. Anh tin rằng có ma. Anh gặp nhiều trường hợp như vậy trong khi những người khác cả đời không thấy?
CL: Tôi cũng không hiểu tại sao tôi gặp hoài, đôi khi tôi kể cho bạn bè nghe họ nói tôi mê tín dị đoan này kia nọ. Không phải đâu không phải tự nhiên ai cũng có một cơ duyên để mà gặp gỡ như vậy. Họ nói ma là chuyện không có tôi nói phải có, tại vì tôi chứng nghiệm quá nhiều lần. Họ biết nghe họ thấy mình họ nhiều phép hơn mình, mình không thấy họ sự sinh hoạt của họ chắc cũng như chúng ta vậy.
VW: Anh có những chứng nghiệm gì từ cá nhân của anh hoặc người thân của anh không?
CL: Có lần tôi đi hát ở Trà Vinh, Vĩnh Bình. Một phái đoàn nghệ sĩ đông lắm ở phòng ngủ Thống Nhất, tại Trà Vinh, năm 1972. Đông lắm có anh Hùng Cường, Thanh Việt, Tùng Lâm, Khả Năng. Ông bà chủ phòng ngủ nầy có sự quen biết cho nên tôi muốn ở phòng nào họ cũng chìu. Tôi muốn ở phòng số một nhưng mà phòng bị niêm phong, ông bà chủ niêm chớ không phải là chính quyền niêm. Tôi nói nhứt định ở đó chớ không muốn ở trên lầu tôi không muốn ở phòng nào khác. Tôi với vợ tôi vào phòng đó. Tôi vào phòng tắm rửa ngủ để lấy sức để tối đi hát. Vợ tôi ra phố để coi này cái kia mua trái cây để tối ăn.
Tôi đang ngủ nghe có tiếng guốc khua điếc lỗ tai tôi. Tôi nghĩ vợ mình biết giấc ngủ của mình hết sức là cần trước khi hát. Tôi thức dậy định nói với vợ đừng làm ồn, tôi thấy cửa vẫn còn đóng cửa sổ niêm hết chỉ có hai lỗ nhỏ xíu để thông hơi trong nhà tắm. Đến đêm đi hát về hai vợ chồng tôi ngủ, họ kéo vợ tôi lọt dưới giường luôn. Vợ tôi thấy có hai người lại kéo chân, tôi kéo lại mà kéo không nổi.
Tôi mới qua bên phòng Thanh Việt ở coi như suốt đêm không ngủ. Ngày hôm sau tôi mới hỏi, ông chủ mới kể là khi phòng ngủ tân trang, có hai cô mà kéo xi-măng để tô, bị rớt xuống chết ngay tại phòng đó cho nên không cho ai ở được, có nhiều người muốn ở nhưng mà ở không được, bị phá.
VW: Còn câu chuyện người âm hợp hôn với người dương?
CL: Câu chuyện này tôi cũng đang kiếm ông Trung tá Thanh, để mà kiểm chứng thêm một lần nữa. Anh sống với người ma này ở tại Dục Mỹ trong ba năm trông rất tiều tụy. Khi mà ảnh bỏ Dục Mỹ đi ảnh lại sống hết sức thoải mái và khỏe mạnh. Tôi không kiếm được anh ta, anh Trung Tá Thanh hồi ở Dục Mỹ đã sống với người ma, người âm ba năm trời.
VW: Sinh hoạt của người âm người dương hòa với nhau như thế nào?
CL: Lúc đầu tiên theo như ảnh kể, rất bình thường giống hệt như người đàn bà bình thường, nói chuyện bình thường mà không biết mình sống với người âm. Cho đến ngày một người bạn của anh ta đến thăm anh ở Dục Mỹ, khi bước vào phòng anh bạn thấy có gì đó không ổn ở trong nhà, thành thử anh bạn làm phép để không bị quấy rầy. Không ngờ từ ngày anh bạn xuất hiện đến thăm ông Trung Tá Thanh ở Dục Mỹ đến khi anh bạn đi, bóng người đàn bà này không bao giờ còn nữa không còn tới với anh Thanh nữa. Mà anh Thanh lúc đó cũng không biết tại sao người yêu mình biến mất.
VW: Họ có với nhau đứa con nào không?
CL: Không, không có con.
VW: Vậy thì anh nghĩ cái chuyện đó là cũng có thể xảy ra được hết, trong đời sống mà chúng ta nói là nó phức tạp như vậy.
CL: Tôi nghĩ cái này cũng là một trong những cái mà mình phải suy nghĩ, tức là người âm cũng có nhiều mà người dương cũng có nhiều, nhưng mà dương với âm mình không có được tần số nào đó, để mình gặp nhau một cách tự nhiên, nhưng họ vẫn thấy sự sinh hoạt của mình, tôi chắc chắn những việc đó chắc chắn phải có. Mà trong những vấn đề của người Chăm, thứ nhất là người Chăm chúng tôi tin dữ lắm, tin kinh khủng, mà một ngày nào đó tôi sẽ kể cho anh một số những chuyện có thiệt và kiểm chứng, những nhân chứng còn sống, tôi thấy việc này cũng là một trong những cái, không phải đem họ đi tới những cái hoang mang hay là những mê tín dị đoan.
Tôi thấy việc này cần kể ra cho chơi vui. Là cái tượng này, cái khu phố này tôi mướn lại của người Bồ Đào Nha... Toronto. Hồi năm 88, từ khi mà mở tiệm thì coi như khách khứa đông đảo lắm và cũng không có gì xảy ra, mà rất là đông lúc nào cũng đông hết. Tiệm đó sức chứa 240 chỗ ngồi, ở trong đó có Piano này kia nọ, đông khách lắm nhưng mà mỗi một lần mà tôi đi xuống cái hầm, gọi là kho chứa đồ thì tôi thấy một bóng ngồi gục đầu, tôi nói ủa tại sao mấy cô làm ở đây, tại sao đi xuống ở dưới này, gục đầu ở dưới này chắc có chuyện gì xảy ra, mình mới nói:
- Ai vậy?
Bóng này lại đi vô phía bên trong, mình chạy vô phía bên trong đường cùng, đâu có ai đi đâu được, mình thấy Ok chắc có chuyện không ổn xảy ra. Tôi lấy bánh, lấy nước trà, nước ngọt tôi để đó tôi cúng, tôi vái mời họ đến ăn, lần thứ ba tôi gặp cũng y chang vậy, tôi không dám nói với ai hết, sợ không ai dám xuống dưới đó lấy đồ (cười) mà tôi cũng không dám cho người nhà biết và thằng con tôi gặp một lần nữa, thằng đó gặp mà nó cũng không dám nói với ai, nó cũng không dám nói với Cha nó, nó cũng không dám nói với ai hết, nó không dám xuống đó luôn (cười) đến khi tôi bán tiệm rồi, tôi mới nói cho gia đình biết là như vậy, như vậy đó, thì bà xã tôi nói trời đất ơi, anh thấy như vậy mà không cho biết, em đi xuống dưới hoài (cười).
VW: Mà chỉ không thấy ạ.
CL: Không thấy.
VW: Nhưng mà người chủ Tàu có thấy không?
CL: Mình cũng không biết tại vì mình không có lại để mình hỏi.
VW: Nhưng mà hồi nãy anh nói chính xác là cái bóng hay là gì.
CL: Cái bóng thôi, bóng trắng, bóng trắng mà mình không thấy mặt rõ ràng, tại vì ở dưới cái hầm cũng có đèn, nhưng đèn không sáng như ở trên.
VW: Kể tiếp câu chuyện thứ ba nữa.
CL: Có một đoàn văn nghệ gọi là đoàn Tâm Lý Chiến năm mươi, ở trong đó có lực lượng nghệ sĩ đông lắm đi lên trên Ban Mê Thuột hát, chỗ đó coi như một Bệnh viện bị pháo kích rồi, cho nên dời lại một bệnh viện khác, làm chỗ khác tại vì Bệnh viên này bỏ hoang. Thì nghệ sĩ tới cho ở trong Bệnh viện này, mỗi người một cái ghế bố, nhưng mà đi hát về mỗi người tắm rửa đâu vào đó rồi chơi bài với nhau, ở trong phòng tắm tập thể. Trong phòng tắm tập thể mở nước hoài thôi, mới vừa mở nước ra và tắt lại đi ra ngoài thì nước mở ra lại, nó cứ mở ra lại, anh Thanh Việt nói:
- Ma gì ma... để tao cho... mầy muốn làm gì thì làm tao nè...
Chưa tới năm phút anh Thanh Việt đau bụng, đau bụng ngoài sức tưởng tượng, đến khi ông Thiếu Tá Nghị ổng nói là không nên phạm người ta như vậy, chửi người ta như vậy, không nên thách thức như vậy, đến khi mấy người này cũng rót nước này kia nọ để mời uống và vái lạy coi như lời nói này bị phạm, cho nên tha thứ đi là hết liền, thành thử tôi nghĩ một việc xảy ra mà trước mắt mọi người, chớ không phải là xạo đâu, chắc chắn điều đó những người nào không tin thì không sao, những người nào tin thì cứ phải tin, đừng để xúc phạm vậy thôi.
Lê La
#33
Gửi vào 06/06/2011 - 23:45
ÔNG LÍNH ĐỒNG ĐEN VÔ DANH
Câu chuyện mà ca sĩ Diamond Bích Ngọc trình bày sau đây là một sự thật trăm phần trăm. Đây là kinh nghiệm cá nhân của chị đồng thời được sự chứng kiến của rất đông những người cùng đi với chị, trong đợt cứu trợ nhân đạo trong năm 2004.
VW: Câu chuyện của chị liên quan đến những dấu hiệu hiển linh của Nghĩa Trang Quân Đội ở Biên Hòa ra sao?
DBN: Năm ngoái 2004 tôi có dịp đi về Việt Nam làm thiện nguyện. Đây là công việc nhân đạo của riêng cá nhân tôi không nhân danh bất cứ một tổ chức, hội đoàn nào. Tôi cũng xin nói lại một lần nữa tôi đã bỏ tiền túi ra để thực hiện các chuyến đi về Việt Nam làm nhân đạo, đến các trại dưỡng lão, trại cùi, trại cô nhi để cho quà, giúp tài chánh, trong phạm vi khả năng của tôi. Khi ngồi trên máy bay tôi đã định bụng là sẽ ghé vào Nghĩa Trang Quân Đội tại Biên Hòa. Thực ra mà nói trước năm bảy lăm tôi còn rất bé, gia đình cũng không có ai đi lính. Nhưng dường như có một động lực nào đó kỳ lạ thúc giục tôi phải tới thăm Nghĩa Trang Quân Đội.
Về tới Việt Nam tôi thuê một chiếc xe để di chuyển cho tiện. Như mọi người về Việt Nam đều biết các tài xế lái xe hiện nay phần lớn đều rất trẻ, chỉ độ hơn hai mươi tuổi thôi. Do đó khi tôi hỏi là có biết Nghĩa Trang Quân Đội ở đâu không, các em trẻ đều trả lời là không biết. Cậu tài xế tôi mướn để chở đi từ khách sạn đến các trại cô nhi viện, dưỡng lão...cũng trong tình trạng không biết nơi mà tôi muốn đến là Nghĩa Trang Quân Đội ở đâu. Cậu ta mới nói là thôi để em về hỏi lại người chú cho biết đích xác ở đâu.
Sáng hôm sau cậu ta hớn hở cho biết là biết nơi rồi. Thế là cả phái đoàn lên xe trực chỉ tới Nghĩa Trang Quân Đội. Khi đi đến Biên Hòa thực tế mới thấy là muôn vàn khó khăn. Khu vực xa lộ Biên Hòa bị ngăn giữa bởi một “con lươn” chắn ngang (divider), cứ hun hút mà đi. Lúc đó gần ba giờ chiều trời mưa lâm râm. Tôi cứ cầu nguyện, thì thầm khấn vái rằng:
- Các anh lính linh thiêng ơi, xin chỉ đường cho chúng tôi tới nơi đi, chứ không ai trong xe biết đích xác vị trí của nghĩa trang ở đâu… Trời ơi, anh biết sao không?
VW: Chuyện gì vậy, có sao... không? Đụng xe hả?
DBN: Tự dưng lúc đó ngay bên tay trái có một ngã rẽ vào. Như tôi đã nói xa lộ ngăn cách bởi “con lươn” đi hoài không có bảng hiệu chỉ dẫn là quẹo vào đâu gì cả. Vậy mà tự nhiên khi xe chúng tôi quẹo vào, đúng là đường vào Nghĩa Trang Quân Đội. Đó là dấu hiệu lạ đầu tiên. Khi xe chúng tôi dừng chân tại một quán nhỏ ngay ngã ba để hỏi thăm đường vào Nghĩa Trang Quân Đội, người chủ quán mới chỉ ra bãi đất trống phía trước quán cho biết là trước đây, bức tượng “Thương Tiếc” được đặt tại chỗ đó. Theo hướng chỉ của người chủ quán chúng tôi mới thấy cái cổng nằm tít lít phía trong sau.
VW: Khi chị dừng bước trước cổng Nghĩa Trang Quân Đội, nơi các chiến sĩ VNCH đã nằm yên nghỉ tại đó, cảm tưởng của chị ra sao?
DBN: Tôi là người Công Giáo, trong giáo luật có điều luật đặt ra là nên cầu nguyện cho kẻ sống và người chết. Phải nói là nhờ có sự hy sinh của các chiến sĩ này chúng ta mới có được đời sống an vui như hiện nay. Trở lại với câu chuyện của chúng ta. Khi tôi đến được cổng nghĩa trang, cũng không biết lối nào đi vào được vì nhà của dân đã bao xung quanh không sao đi vào được. Thì lúc đó phép lạ xảy ra lần thứ hai.
VW: Là sao? Ma hiện ra hả?
DBN: Không phải là ma. Mà là một người thật bằng xương bằng thịt. Đó là một người đàn ông da cháy nắng rắn rỏi. Khuôn mặt không có gì đặc biệt. Điểm duy nhất đáng nhớ là ông ta mặc một cái quần lính cũ đầu đội mũ lính. Mình mặc áo thun ba lỗ. Ổng đi xe đạp, từ xa chúng tôi thấy ổng ngoắc ngoắc xe của mình ra dấu cho biết là đi về hướng đó. Tôi thấy vậy liền nói cậu tài xế đi theo hướng chỉ của người đàn ông đó. Khi người đàn ông đạp xe đạp đó đi xuyên qua một bờ tường bị đổ bể, xe chúng tôi cũng theo con đường lớn đi qua bức vách, chúng tôi lúc đó mới nhìn thấy một khu đất rộng mênh mông với hàng ngàn ngôi mộ của nghĩa trang quân đội.
Cảnh quan thì mênh mông nhưng rất um tùm cây. Do đó chúng tôi phải ngừng xe lại cả đoàn đi bộ. Người đàn ông vẫn đạp xe đi trước tay vẫn ngoắc. Lúc đó tôi mới đưa ra một đề nghị là nên dừng lại ở một ngôi mộ nào đó cũng được, đọc kinh tượng trưng chung cho các chiến sĩ bị hy sinh. Vì ngôi mộ nào cũng thế. Tôi vừa nói xong người đàn ông đó bỗng dừng lại phía trước. Và vẫn ở một khoảng cách xa xa ông ta chỉ vào một ngôi mộ và ra dấu cho chúng tôi nên dừng lại ở ngôi mộ này. Chúng tôi không ai bảo ai đều dừng lại ngôi mộ người đàn ông ra dấu. Ai nấy cũng mệt nên không còn để tâm để trí gì đến người đàn ông tốt bụng kia. Thế là ổng đi mất tiêu không thấy đâu nữa.
VW: Ngôi mộ mà phái đoàn dừng lại có gì đặc biệt?
DBN: Khi đi qua các ngôi mộ tôi có đọc lướt qua những tên người chết và nhận ra nhiều người chết quá trẻ. Phần lớn là trẻ cỡ mười chín hai mươi mà thôi. Nói về ngôi mộ lính mà người đàn ông chỉ, lúc đó tôi cũng không còn quan tâm ai là ai nữa. Chỉ thấy trong lòng dâng lên một niềm thương cảm vô cùng khiến tôi không sao ngăn được dòng lệ rơi. Khóc ơi là khóc không ngăn lại được. Cho đến khi vừa khóc vừa thắp nhang đọc kinh cho người nằm dưới ngôi mộ, mà tôi định bụng là cầu nguyện tượng trưng chung cho các chiến sĩ, khi tỉnh ra nhìn vào bia mộ, ôi chúa mẹ ơi! Anh biết sao không?
VW: Sao? Hồn ma hiện lên hả?
DBN: Không có ma cỏ gì hết. Mà ngôi mộ tôi cầu xin là một chiến sĩ vô danh, mà theo hình tôi nhìn người đó chính là nhân vật trong bức tượng “Thương Tiếc”, mà thiên hạ vẫn đồn đại là linh thiêng! Cứ theo cái hình người chiến sĩ vô danh này có ngày tử và ngày an táng. Tôi biết nhiều về người lính của bức tượng linh thiêng này từ nhà văn Lệ Hằng hiện ở Úc. Chị đã kể cho tôi nghe nhiều về người lính này. Lúc đó nhớ lại những chuyện chị kể tôi nổi hết gai ốc lên. Chợt nghĩ tới người đàn ông mặc đồ lính, nón lính nọ tôi mới hết cả hồn.
Khi đi ra tới đầu đường ngừng lại ở quán nước, tôi mới kể cho ông bà chủ quán nghe, cũng được họ xác nhận các câu chuyện, đồng thời kể thêm cho tôi những câu chuyện linh thiêng khác mà trong suốt thời gian họ bán quán, anh linh của hồn ma người lính vẫn cứ lảng vảng ở khu vực nghĩa trang để làm một vài việc gì đó, kiểu như giúp đỡ người này tìm mộ người kia hay người khác. Người ta gọi ông lính đó là “ông Đồng Đen”, vì bức tượng được đúc bằng đồng đen.
VW: Những câu chuyện gì nói về ông lính đó?
DBN: Có nhiều, nhiều lắm đại khái là những trường hợp ông lính giúp, cứu những đứa trẻ khi đi băng qua xa lộ, không bị xe cán vì quá nguy hiểm khi băng qua. Chuyện ông lính đi xin nước uống và gần đây ông lính xin những người có khả năng, hay ở ngoại quốc về hãy rộng tay xây dựng chỉnh trang lại Nghĩa Trang Quân Đội, nơi các người lính nằm yên nghỉ. Càng nghe những câu chuyện như vậy, tôi càng nổi gai ốc.
VW: Sau đó thì sao?
DBN: Sau đó về lại Mỹ, tôi đã xin các danh sách các người lính hy sinh để dành tiền bạc gởi về cho những người bên Việt Nam, nhờ họ vào dịp tiết Thanh Minh, xin tảo mộ, đặt vòng hoa, rẫy cỏ, sửa soạn, chỉnh trang lại mộ phần cho một số các ngôi mộ của chiến sĩ vô danh. Vì tôi thấy cỏ mọc um tùm quá, không ai coi sóc, nên có lẽ hương hồn của các anh chiến sĩ không được vui. Tôi chỉ làm trong khả năng nhỏ bé của mình như vậy.
VW: Khi chị đi như vậy có ai cùng đi, và làm chứng cho những gì chị nói không?
DBN: Cả phái đoàn tôi đi có năm người, ngoài tôi, tài xế, còn có cậu Tùng, cô Huyền, cậu Tôn, là nhóm thanh niên thiện chí đi theo giúp tôi. Họ đều có cơ sở riêng như tiệm tóc, tiệm vàng…Lúc đó cả nhóm nghe đều hết cả hồn. Nhất là lúc không tìm thấy người đàn ông dẫn đường nữa. Một điểm lạ nữa là khi đi ra trời mới đổ mưa, khi cầu nguyện thì nắng lên trông rất lạ. Rồi lúc ra về trời mưa tầm tã như trút nước. Lên xe mấy chị em ngồi nói chuyện với nhau, ai nấy đều sợ hãi với những gì đã xảy ra.
Mọi người trong xe đều là người Công Giáo không tin vào chuyện ma quỉ, dị đoan. Thế mà trước mắt mình các sự kiện lạ xảy ra làm cho ai nấy đều suy nghĩ. Ở đây cũng cần nói thêm, Nghĩa Trang Quân Đội được hệ thống theo thứ tự từ A tới Z rộng mênh mông. Nếu không có người chỉ lối không biết đâu mà tìm mộ này với mộ kia. Chưa kể chúng tôi là những người lạ chưa tới lần nào. Vậy mà ngôi mộ của người lính vô danh, ngồi làm mẫu cho bức tượng lại được chỉ dẫn và chúng tôi đã tìm thấy.
VW: Mọi người ở Bônsa đều biết chị là một người rất nhạy cảm với thế giới tâm linh vô hình trong nhiều trường hợp khác nhau. Riêng việc người lính vô danh VNCH dẫn dắt tại Nghĩa Trang Quân Đội, chị có nghĩ rằng đó là một thông điệp, một lời nhắn gởi nào đó dành cho chị hay không?
DBN: Tôi chỉ xin các độc giả đọc được bài viết này, nếu về Việt Nam xin ghé vào nghĩa trang quân đội để thắp một nén hương cho người chiến sĩ VNCH của chúng ta. Nếu không về được cũng xin dâng lời cầu nguyện mỗi tối cho họ. Cá nhân tôi hàng năm, dù về được Việt Nam hay không tôi vẫn dành dụm tiền, gởi cho một số người lính còn ở lại Việt Nam, nhờ họ ra nghĩa trang quân đội làm cỏ, đắp lại một số ngôi mộ, thắp nhang một cách tượng trưng để tỏ lòng biết ơn người lính.
Tôi tin rằng linh hồn họ rất linh thiêng và sẽ phù hộ cho những ai tin vào họ. Có một điểm lạ nữa mà tôi muốn tiết lộ trước khi kết thúc bài nói chuyện này, là: Những người thân của tôi kể lại, sau lần tôi gặp người lính dẫn tới ngôi mộ vô danh như đã kể, không ai tìm ra ngôi mộ vô danh mà tôi đã chụp được ảnh. Đồng thời theo như người gác mộ cho hay, dường như trong nghĩa trang chưa bao giờ ai thấy một ngôi mộ nào tương tự như vậy cả!
Nguyễn Văn
Câu chuyện mà ca sĩ Diamond Bích Ngọc trình bày sau đây là một sự thật trăm phần trăm. Đây là kinh nghiệm cá nhân của chị đồng thời được sự chứng kiến của rất đông những người cùng đi với chị, trong đợt cứu trợ nhân đạo trong năm 2004.
VW: Câu chuyện của chị liên quan đến những dấu hiệu hiển linh của Nghĩa Trang Quân Đội ở Biên Hòa ra sao?
DBN: Năm ngoái 2004 tôi có dịp đi về Việt Nam làm thiện nguyện. Đây là công việc nhân đạo của riêng cá nhân tôi không nhân danh bất cứ một tổ chức, hội đoàn nào. Tôi cũng xin nói lại một lần nữa tôi đã bỏ tiền túi ra để thực hiện các chuyến đi về Việt Nam làm nhân đạo, đến các trại dưỡng lão, trại cùi, trại cô nhi để cho quà, giúp tài chánh, trong phạm vi khả năng của tôi. Khi ngồi trên máy bay tôi đã định bụng là sẽ ghé vào Nghĩa Trang Quân Đội tại Biên Hòa. Thực ra mà nói trước năm bảy lăm tôi còn rất bé, gia đình cũng không có ai đi lính. Nhưng dường như có một động lực nào đó kỳ lạ thúc giục tôi phải tới thăm Nghĩa Trang Quân Đội.
Về tới Việt Nam tôi thuê một chiếc xe để di chuyển cho tiện. Như mọi người về Việt Nam đều biết các tài xế lái xe hiện nay phần lớn đều rất trẻ, chỉ độ hơn hai mươi tuổi thôi. Do đó khi tôi hỏi là có biết Nghĩa Trang Quân Đội ở đâu không, các em trẻ đều trả lời là không biết. Cậu tài xế tôi mướn để chở đi từ khách sạn đến các trại cô nhi viện, dưỡng lão...cũng trong tình trạng không biết nơi mà tôi muốn đến là Nghĩa Trang Quân Đội ở đâu. Cậu ta mới nói là thôi để em về hỏi lại người chú cho biết đích xác ở đâu.
Sáng hôm sau cậu ta hớn hở cho biết là biết nơi rồi. Thế là cả phái đoàn lên xe trực chỉ tới Nghĩa Trang Quân Đội. Khi đi đến Biên Hòa thực tế mới thấy là muôn vàn khó khăn. Khu vực xa lộ Biên Hòa bị ngăn giữa bởi một “con lươn” chắn ngang (divider), cứ hun hút mà đi. Lúc đó gần ba giờ chiều trời mưa lâm râm. Tôi cứ cầu nguyện, thì thầm khấn vái rằng:
- Các anh lính linh thiêng ơi, xin chỉ đường cho chúng tôi tới nơi đi, chứ không ai trong xe biết đích xác vị trí của nghĩa trang ở đâu… Trời ơi, anh biết sao không?
VW: Chuyện gì vậy, có sao... không? Đụng xe hả?
DBN: Tự dưng lúc đó ngay bên tay trái có một ngã rẽ vào. Như tôi đã nói xa lộ ngăn cách bởi “con lươn” đi hoài không có bảng hiệu chỉ dẫn là quẹo vào đâu gì cả. Vậy mà tự nhiên khi xe chúng tôi quẹo vào, đúng là đường vào Nghĩa Trang Quân Đội. Đó là dấu hiệu lạ đầu tiên. Khi xe chúng tôi dừng chân tại một quán nhỏ ngay ngã ba để hỏi thăm đường vào Nghĩa Trang Quân Đội, người chủ quán mới chỉ ra bãi đất trống phía trước quán cho biết là trước đây, bức tượng “Thương Tiếc” được đặt tại chỗ đó. Theo hướng chỉ của người chủ quán chúng tôi mới thấy cái cổng nằm tít lít phía trong sau.
VW: Khi chị dừng bước trước cổng Nghĩa Trang Quân Đội, nơi các chiến sĩ VNCH đã nằm yên nghỉ tại đó, cảm tưởng của chị ra sao?
DBN: Tôi là người Công Giáo, trong giáo luật có điều luật đặt ra là nên cầu nguyện cho kẻ sống và người chết. Phải nói là nhờ có sự hy sinh của các chiến sĩ này chúng ta mới có được đời sống an vui như hiện nay. Trở lại với câu chuyện của chúng ta. Khi tôi đến được cổng nghĩa trang, cũng không biết lối nào đi vào được vì nhà của dân đã bao xung quanh không sao đi vào được. Thì lúc đó phép lạ xảy ra lần thứ hai.
VW: Là sao? Ma hiện ra hả?
DBN: Không phải là ma. Mà là một người thật bằng xương bằng thịt. Đó là một người đàn ông da cháy nắng rắn rỏi. Khuôn mặt không có gì đặc biệt. Điểm duy nhất đáng nhớ là ông ta mặc một cái quần lính cũ đầu đội mũ lính. Mình mặc áo thun ba lỗ. Ổng đi xe đạp, từ xa chúng tôi thấy ổng ngoắc ngoắc xe của mình ra dấu cho biết là đi về hướng đó. Tôi thấy vậy liền nói cậu tài xế đi theo hướng chỉ của người đàn ông đó. Khi người đàn ông đạp xe đạp đó đi xuyên qua một bờ tường bị đổ bể, xe chúng tôi cũng theo con đường lớn đi qua bức vách, chúng tôi lúc đó mới nhìn thấy một khu đất rộng mênh mông với hàng ngàn ngôi mộ của nghĩa trang quân đội.
Cảnh quan thì mênh mông nhưng rất um tùm cây. Do đó chúng tôi phải ngừng xe lại cả đoàn đi bộ. Người đàn ông vẫn đạp xe đi trước tay vẫn ngoắc. Lúc đó tôi mới đưa ra một đề nghị là nên dừng lại ở một ngôi mộ nào đó cũng được, đọc kinh tượng trưng chung cho các chiến sĩ bị hy sinh. Vì ngôi mộ nào cũng thế. Tôi vừa nói xong người đàn ông đó bỗng dừng lại phía trước. Và vẫn ở một khoảng cách xa xa ông ta chỉ vào một ngôi mộ và ra dấu cho chúng tôi nên dừng lại ở ngôi mộ này. Chúng tôi không ai bảo ai đều dừng lại ngôi mộ người đàn ông ra dấu. Ai nấy cũng mệt nên không còn để tâm để trí gì đến người đàn ông tốt bụng kia. Thế là ổng đi mất tiêu không thấy đâu nữa.
VW: Ngôi mộ mà phái đoàn dừng lại có gì đặc biệt?
DBN: Khi đi qua các ngôi mộ tôi có đọc lướt qua những tên người chết và nhận ra nhiều người chết quá trẻ. Phần lớn là trẻ cỡ mười chín hai mươi mà thôi. Nói về ngôi mộ lính mà người đàn ông chỉ, lúc đó tôi cũng không còn quan tâm ai là ai nữa. Chỉ thấy trong lòng dâng lên một niềm thương cảm vô cùng khiến tôi không sao ngăn được dòng lệ rơi. Khóc ơi là khóc không ngăn lại được. Cho đến khi vừa khóc vừa thắp nhang đọc kinh cho người nằm dưới ngôi mộ, mà tôi định bụng là cầu nguyện tượng trưng chung cho các chiến sĩ, khi tỉnh ra nhìn vào bia mộ, ôi chúa mẹ ơi! Anh biết sao không?
VW: Sao? Hồn ma hiện lên hả?
DBN: Không có ma cỏ gì hết. Mà ngôi mộ tôi cầu xin là một chiến sĩ vô danh, mà theo hình tôi nhìn người đó chính là nhân vật trong bức tượng “Thương Tiếc”, mà thiên hạ vẫn đồn đại là linh thiêng! Cứ theo cái hình người chiến sĩ vô danh này có ngày tử và ngày an táng. Tôi biết nhiều về người lính của bức tượng linh thiêng này từ nhà văn Lệ Hằng hiện ở Úc. Chị đã kể cho tôi nghe nhiều về người lính này. Lúc đó nhớ lại những chuyện chị kể tôi nổi hết gai ốc lên. Chợt nghĩ tới người đàn ông mặc đồ lính, nón lính nọ tôi mới hết cả hồn.
Khi đi ra tới đầu đường ngừng lại ở quán nước, tôi mới kể cho ông bà chủ quán nghe, cũng được họ xác nhận các câu chuyện, đồng thời kể thêm cho tôi những câu chuyện linh thiêng khác mà trong suốt thời gian họ bán quán, anh linh của hồn ma người lính vẫn cứ lảng vảng ở khu vực nghĩa trang để làm một vài việc gì đó, kiểu như giúp đỡ người này tìm mộ người kia hay người khác. Người ta gọi ông lính đó là “ông Đồng Đen”, vì bức tượng được đúc bằng đồng đen.
VW: Những câu chuyện gì nói về ông lính đó?
DBN: Có nhiều, nhiều lắm đại khái là những trường hợp ông lính giúp, cứu những đứa trẻ khi đi băng qua xa lộ, không bị xe cán vì quá nguy hiểm khi băng qua. Chuyện ông lính đi xin nước uống và gần đây ông lính xin những người có khả năng, hay ở ngoại quốc về hãy rộng tay xây dựng chỉnh trang lại Nghĩa Trang Quân Đội, nơi các người lính nằm yên nghỉ. Càng nghe những câu chuyện như vậy, tôi càng nổi gai ốc.
VW: Sau đó thì sao?
DBN: Sau đó về lại Mỹ, tôi đã xin các danh sách các người lính hy sinh để dành tiền bạc gởi về cho những người bên Việt Nam, nhờ họ vào dịp tiết Thanh Minh, xin tảo mộ, đặt vòng hoa, rẫy cỏ, sửa soạn, chỉnh trang lại mộ phần cho một số các ngôi mộ của chiến sĩ vô danh. Vì tôi thấy cỏ mọc um tùm quá, không ai coi sóc, nên có lẽ hương hồn của các anh chiến sĩ không được vui. Tôi chỉ làm trong khả năng nhỏ bé của mình như vậy.
VW: Khi chị đi như vậy có ai cùng đi, và làm chứng cho những gì chị nói không?
DBN: Cả phái đoàn tôi đi có năm người, ngoài tôi, tài xế, còn có cậu Tùng, cô Huyền, cậu Tôn, là nhóm thanh niên thiện chí đi theo giúp tôi. Họ đều có cơ sở riêng như tiệm tóc, tiệm vàng…Lúc đó cả nhóm nghe đều hết cả hồn. Nhất là lúc không tìm thấy người đàn ông dẫn đường nữa. Một điểm lạ nữa là khi đi ra trời mới đổ mưa, khi cầu nguyện thì nắng lên trông rất lạ. Rồi lúc ra về trời mưa tầm tã như trút nước. Lên xe mấy chị em ngồi nói chuyện với nhau, ai nấy đều sợ hãi với những gì đã xảy ra.
Mọi người trong xe đều là người Công Giáo không tin vào chuyện ma quỉ, dị đoan. Thế mà trước mắt mình các sự kiện lạ xảy ra làm cho ai nấy đều suy nghĩ. Ở đây cũng cần nói thêm, Nghĩa Trang Quân Đội được hệ thống theo thứ tự từ A tới Z rộng mênh mông. Nếu không có người chỉ lối không biết đâu mà tìm mộ này với mộ kia. Chưa kể chúng tôi là những người lạ chưa tới lần nào. Vậy mà ngôi mộ của người lính vô danh, ngồi làm mẫu cho bức tượng lại được chỉ dẫn và chúng tôi đã tìm thấy.
VW: Mọi người ở Bônsa đều biết chị là một người rất nhạy cảm với thế giới tâm linh vô hình trong nhiều trường hợp khác nhau. Riêng việc người lính vô danh VNCH dẫn dắt tại Nghĩa Trang Quân Đội, chị có nghĩ rằng đó là một thông điệp, một lời nhắn gởi nào đó dành cho chị hay không?
DBN: Tôi chỉ xin các độc giả đọc được bài viết này, nếu về Việt Nam xin ghé vào nghĩa trang quân đội để thắp một nén hương cho người chiến sĩ VNCH của chúng ta. Nếu không về được cũng xin dâng lời cầu nguyện mỗi tối cho họ. Cá nhân tôi hàng năm, dù về được Việt Nam hay không tôi vẫn dành dụm tiền, gởi cho một số người lính còn ở lại Việt Nam, nhờ họ ra nghĩa trang quân đội làm cỏ, đắp lại một số ngôi mộ, thắp nhang một cách tượng trưng để tỏ lòng biết ơn người lính.
Tôi tin rằng linh hồn họ rất linh thiêng và sẽ phù hộ cho những ai tin vào họ. Có một điểm lạ nữa mà tôi muốn tiết lộ trước khi kết thúc bài nói chuyện này, là: Những người thân của tôi kể lại, sau lần tôi gặp người lính dẫn tới ngôi mộ vô danh như đã kể, không ai tìm ra ngôi mộ vô danh mà tôi đã chụp được ảnh. Đồng thời theo như người gác mộ cho hay, dường như trong nghĩa trang chưa bao giờ ai thấy một ngôi mộ nào tương tự như vậy cả!
Nguyễn Văn
#34
Gửi vào 07/06/2011 - 05:02
BÍ ẨN CỦA CÁI CHẾT
Kỷ niệm tuyệt vời nhất trong cuộc đời không phải là những bông hồng đi vào trái tim giữa người này với người kia. Nó cũng không phải là hình ảnh của cả một thời mà phẩm giá của mình được mọi người tung hô ca tụng. Mà phải nói rằng cái kỷ niệm đẹp nhất và cụ thể nhất có tự ngàn xưa của người này với người kia: đó là nấm mồ! Bao nhiêu thiên kỷ đã đi vào dĩ vãng để lại trong trí ta sau nhiều ngàn năm đâu phải bằng dòng lịch sử sống động, hoặc bằng những tòa lâu đài nguy nga lộng lẫy mà bằng sự chôn cất với những lễ nghi mai táng rườm rà, phức tạp...
Con người ở vào giai đoạn bắt đầu đi vào thiên niên kỷ thứ ba này, làm sao tỏ ra được sự hiện hữu của mình sau các bậc tiền bối? Và cũng làm sao tỏ ra được là mình đã để lại những gì cho thiên niên kỷ thứ tư? Phải chăng bằng những ngôi nhà mồ được chạm trỗ sơn phết, mà không một lời ghi chép lại cho hậu thế suy tư, nghiền ngẫm. Có thể mọi người đều có cùng một quan niệm “tử giả biệt luận”, chết là hết, là mất vĩnh viễn. Thế có nghĩa là nó Vô Thường nói như thuyết Phật nhưng không biến dị. Ở Đông Phương chẳng những từ xa xưa mà ngay cả những năm tháng cuối cùng của thế kỷ 20 và bắt đầu đi vào thế kỷ 21, vẫn còn bịn rịn với cái xác chết của mình bằng những nghi thức tang lễ rườm rà!
Quan niệm về cái chết đối với Trang Tử được ghi lại: “Khi ông nhìn thấy đám đồ đệ đang bấn loạn cả lên trong giờ phút sắp lâm chung của mình bèn gọi đến hỏi:
- Các ngươi làm điều gì mà lăng xăng thế?
- Chúng con chuẩn bị để làm cho đám tang thầy được trọng thể.
- Ta có trời đất làm quan quách, nhật nguyệt là ngọc bích, còn tinh tú trên vòm trời là ngọc châu, vạn vật ở thế gian này là những nghi lễ của đám tang, như vậy há chẳng đủ lắm sao? Chuyện gì các ngươi phải bày vẽ thêm cho lắm việc!
Đám đệ tử thưa:
- Chúng con sợ diều quạ ăn mất xác thầy!
Trang Tử mỉm cười:
- Trên thì có diều quạ ăn, dưới thì có dòi bọ rúc rỉa. Cướp đây cho đó (không công bằng lắm sao?) Hành động đó của các con há chẳng phải là thiên lệch đó ư?
Đã lâu rồi từ ngày có các giáo hội ra đời đã giữ độc quyền đem lại nguồn hy vọng cùng những lời lẽ giống nhau cho mọi người trong các cuộc lễ cầu hồn. Họ đã có những danh từ dành cho các vong linh để mang theo đi vào bên kia thế giới. Chín chục triệu thánh lễ đã cử hành dành cho người chết, cũng cùng những lời cầu ấy lặp đi lặp lại nhiều lần của số chín mươi triệu lần như vậy, đã động viên hàng bao nhiêu ngàn giáo sĩ, bao nhiêu ngàn chức sự đại diện cho cõi “Vĩnh Cửu” trong thời gian bao nhiêu năm dài dặc tiếp nối không ngừng.
Chỉ có một bầu trời. Chỉ có một cái chết. Chỉ có một hình thức xã hội. Ở đó sự an táng là một cuộc lễ liên quan đến mọi người trong diễn tiến của nó cùng những sự hiểu biết rất hữu ích. Con người của thời đại hiện tại đã thu gọn lại chỉ còn một nhóm nhỏ trong gia đình, hàng họ, bạn bè...mà không còn chủ trương làm ồn ào khắp làng nước, ngoại trừ các nhân vật có tính lịch sử. Thật ra ít có ai để ý lâu dài đến người chết, họ chỉ bị gián đoạn một thời gian ngắn ngủi để chép miệng tiếc rẻ, hoặc bằng miệng lưỡi ngoại giao ca tụng nhất thời với vài dòng tiểu sử ngắn gọn, hoặc để đưa đi một chặng đường hay suốt chặng đường từ Nhà Mồ đến cửa huyệt.
Hoặc gửi đăng lời chia buồn với tang quyến cùng với sự trưng bày tên tuổi mình để nói lên lòng thương tiếc kẻ ra đi không hẹn ngày về! Nhưng rồi sau đó chẳng ai còn đoái hoài nữa. Xe hơi vẫn chạy. Tàu bay vẫn bay. Kẻ bộ hành vẫn bước đi với nhịp độ nhu cầu của mình. Và... cuối cùng chỉ trong thoáng mắt tất cả đều vứt lại đàng sau để chạy theo cái nhu cầu thực tế! Các áng văn chương tràn ngập đủ thể loại, nhưng ít ai nhắc nhở biên soạn một cách khá công phu nói về cái “thây ma” mình đang mang sẵn và đang nhờ nó để nói lên những điều mình muốn nói, hay bày tỏ những ước vọng thầm kín của mình. Đối với cái chết của người khác, kẻ bàng quan thường không lưu tâm đến. Nhưng với bản thân mình thì họ lại cho đó là vấn đề quan trọng.
Có những ý tưởng rất ngộ nghĩnh nhưng rất thực tế. Họ sợ sự chật chội của chiếc áo quan dù họ không còn cử động được nữa. Họ sợ bóng đêm quanh năm bao phủ dù họ biết cái thây ma của mình không bao giờ mở được mắt ra. Họ sợ diều hâu banh thây mình thành từng mãng nhỏ, dù họ biết cái xã hội văn minh của thế kỷ hạt nhân không cho phép xác ma mình có quyền sình chương trên mặt đất. Họ sợ luôn cả những con giòi bọ chính cái thây ma của họ hóa thân lúc nhúc bò lên những mãng thịt rữa nát còn lại trên xác thân mình. Đó là chưa kể họ sợ nếu có thật những con “ma cũ” nằm sắp lớp kế cận, đưa tay tới rờ rẫm cái xác đang rỉ nước, nát tươm của mình dưới nấm mồ hiu quạnh đời đời kiếp kiếp...Ôi! hãi hùng và khiếp đảm làm sao!
“Chết” quả hãi hùng đến cực điểm, chẳng có lời nào làm xóa nhòa hay chứng minh cho nó. Tuy vậy người ta vẫn nói đến sự hiện hữu của mình ở giữa không gian và luôn cả thời gian cùng khoảng cách nhau giữa con người với con người. Khoảng cách không rõ cái vỏ tạm thời được mượn đó còn bao xa nữa, thì sẽ đến phiên mình sẽ được vùi sâu dưới lòng huyệt lạnh, bao xa nữa thì cái thây ma này sẽ xa rời vĩnh viễn với cõi đời này? Cái khoảng cách đó biểu trưng cho sự lo âu khác biệt của mỗi người chúng ta, hoặc tự chọn lấy bóng đêm làm sự an ủi cho mình hay chọn lấy niềm tin ở một trong các tôn giáo hiện hữu giữa thế gian, để dẫn độ mình đến chốn Thiên Đường hay miền Cực Lạc...
Người ta có quyền suy tư những gì mình muốn suy tư để dọn mình trước cho sự ra đi vĩnh viễn. Có người chọn trước nơi an nghỉ với quan niệm “sống cái nhà, già cái mồ”. Họ đã phác họa ngay cả những bộ y phục để mặc vào khi tẩm liệm. Họ đã soạn thảo sẵn kế hoạch chôn cất mình, từ tế lễ đến tang phục đúng với nghi thức theo như lòng ước nguyện của mình lúc còn sinh thời! Họ cũng chuẩn bị ngay khi tuổi đã về chiều con đường mình sắp đến. Có người chọn “Thiên Táng” như Tây Tạng muốn được quấn chặt toàn thi thể mình bằng lớp vải trắng, biểu hiệu cho sự vô nhiểm của mình lúc còn ở thế gian, chấp nhận cho người sống lóc từng miếng thịt mình ra thành từng mảnh vung vải khắp nơi làm mồi cho chim ưng diều quạ...
Để được rỗi linh hồn hầu hòa nhập vào Cõi Phúc... Có người lại mong muốn được hỏa táng như các nước Ấn Độ, Trung Quốc để cho hương hồn người quá cố bay cao lên vòm trời tỏa ra muôn phương ngàn hướng, hầu chóng được siêu thoát về Cõi Niết Bàn hay Cội Phúc... Sách Liệt Tử ghi: “Hướng Tây của Tần có nước Nghi Cừ thi thể con người sẽ được hỏa táng để giúp cho linh hồn kẻ chết được bay cao để mong được xem là con người hiếu thảo”. Có người lại muốn "Hải Táng" để cho hồn mình được an hưởng dưới lòng sâu bể cả...thoát khỏi vòng thế tục lắm nỗi ưu phiền... Trong tập Après La Mort của Léon Denis đã nói về cái đại thể tối thượng mà con người muốn được biết đến, nó không tách rời ra ngoài thế giới ta đang hiện diện. Theo sách này đó là trung tâm ban bố và điều hòa mọi sự tương quan mật thiết giữa con người với vạn vật. Léon Denis đã lý luận: “Vũ trụ là một cơ chế vô cùng và vĩnh viễn, vô thỉ vô chung, không bao giờ có sự hủy diệt”.
Thế có nghĩa là nó hằng hữu đời đời... Mọi vật trong vũ trụ biến hóa theo vòng luân chuyển bất tận của sự sống và sự chết. Muôn vật khắp trong vũ trụ bao la cũng có những “Mặt Nhật” tàn lụi và “Mặt Nhật” khác bừng lên. Hay có thể nói một cách khác hơn là cái thế giới lâu đời bị già cỗi đi rồi tắt lịm, để cái thế giới mới mẻ khác ra đời và tiếp nối... bởi một qui luật bất di bất dịch... Tất cả những sự vật trên thế gian này đều bị chi phối bởi một nguyên tắc bất biến của vũ trụ điều hòa các thế giới riêng rẻ, song cùng một mục đích: toàn chân và toàn mỹ. Vật chất thì tan rã biến đi nhưng linh hồn thì bất diệt. Đó là một nguyên tắc!
Theo Trương Hoành Cứ cho Vũ Trụ chỉ có Thái Hư là chân thực. Đạo Thái Hòa sinh ra bởi vạn vật. Theo sách Chính Nông đã viết: “Thái Hòa mà gọi là Đạo là do trong Thái Hòa có tính phù trầm, thăng giáng, động tĩnh, mọi cái ấy tương cảm nhau nên mới sinh ra cái mối đầu của “nhân huân tương dạng”, “thắng phụ khuất thân”... Ông bảo: “Cái mà đến thì cơ vi dị giản mà cái cùng cực thì quảng đại kiên cố”. Con người không thoát ra khỏi qui luật của tính phù trầm ấy. Chỉ có khác là sự thay đổi cái lớp vỏ, còn sự sống thì luôn luôn bất diệt. Chẳng có cái chết mà chỉ có sự thay đổi của kiếp sống mà thôi. Chúng ta phô bày sự suy tư gắn liền kinh nghiệm, với những cái va chạm mạnh bất ngờ của những cái buông tay nhắm mắt bình thường hay do những tai nạn gây ra bất trắc, tạo cho ta hình ảnh, hương vị và sự kinh sợ của cõi hư vô xâm nhập vào cái vỏ và tâm hồn ta.
Đó không phải là sự hàn gắn của một tôn giáo sắp gãy đổ. Đó cũng không phải là một quyển Đại Luận hay là kết quả của sự dày công nghiên cứu. Thật ra nó chỉ là một kinh nghiệm trong đời sống qua bao nhiêu sự góp nhặt khá công phu từng giờ, từng ngày, từng tháng, từng năm, từng thế kỷ gộp lại... Mỗi ngày ta theo linh cửu của một người thân và sau này lại chính “linh hồn” ta cũng theo tiễn đưa mình đi vào lòng huyệt lạnh!
***
Một giấc ngủ khác!
Một giấc ngủ đầy hãi hùng hay đúng hơn là một cơn ác mộng. Chính anh ta cũng không biết nữa. Ngay cả trong giờ phút anh ta đang nằm suy tư rằng là cái gì đã xảy đến? Cái gì đã làm cho anh kinh hoàng? Phải chăng mình đang nằm ngay lằn ranh giữa cái mộng và cái thực? Anh ta cũng chẳng biết mình đang thức hay đang ngủ? Rồi những dòng suy tưởng như vậy cứ liên miên tuôn ra toàn những lý luận mơ hồ. Anh ta tự nhủ có thể cánh cửa nhà mình không đóng! Và, bất giác anh có cảm tưởng là dường như có “ai đó” đang đứng sẵn sàng chờ đợi mình phía bên ngoài! “Dường như vậy.” Anh ta lẩm bẩm nói. Bản năng của con người cộng với khả năng sinh tồn buộc anh đứng dậy đi thẳng về phía cửa và cài chặt then lại. Rõ ràng chính tay anh đã khép chặt lại. Có cả tiếng lách tách của ổ khóa vang lên.
Nhưng khi anh định trở về giường để tiếp tục giấc ngủ thì bỗng có một sức mạnh vô hình từ bên ngoài như giữ chặt lại, không cho chân anh nhích lên được dù chỉ là một động tác nhỏ. Anh hốt hoảng thật sự, ú ớ kêu lên và bừng tỉnh dậy bởi tiếng gọi của người bạn nằm cạnh giường đánh thức! Anh cảm thấy xấu hổ cho sự sợ hãi của mình, nhưng sự sợ hãi đó có vô lý hay không chính anh cũng không biết nữa! Vậy đó là mộng hay thực? Anh nhớ rõ ràng là toàn thân anh vùng đứng dậy, mang cả hơi ấm trong cái chăn theo và luôn cả hơi nóng của hai lòng bàn tay mình áp vào cái then cài cửa lại.
Thế thì điều gì vừa xảy đến? Anh có thể ngờ vực bởi sự hỗn loạn của thần kinh, nhưng có điều chính anh cũng không thể chối cải: đó là điều chính mình đang nằm sờ sờ trên giường và nghe thấy rõ ràng mọi diễn biến quanh mình... Vậy thì việc anh chồm ngồi dậy đi đến cánh cửa cài then là giấc mơ hay cảnh thực? Anh không thể xác định được điều này. Phải chăng đây là một cơn ác mộng? Tất cả trong giờ phút này anh ta cảm thấy chính mình bị cuốn hút vào cõi vô hình...qua một con đường hầm thăm thẳm! Lần này anh ta có cảm tưởng là mình hoàn toàn bị chôn vùi giữa cơn mê dài triền miên, bất tận!
Rồi một giấc ngủ khác nữa... Một giấc ngủ toàn những sóng gió bão bùng... Lần này thì anh ta ngồi bật dậy. Không còn nghi ngờ gì nữa. Tiếng động cực mạnh ở ngoài cửa vọng vào chẳng khác nào như cơn địa chấn! Anh lảo đảo chạy đến mở toạt hai cánh cửa ra. Bên ngoài trời tối đen như mực. Tư bề không lấy một tiếng động, một sự im lặng đến lạnh mình bao trùn cùng khắp, khiến anh có cảm tưởng như cả dòng huyết quản trong châu thân mình hoàn toàn bị ngưng đọng lại. Trong giây phút tâm thần bất định như có ai đó nắm chặt lấy tay anh. Ôi! Anh khẽ kêu lên, khủng khiếp làm sao! Gai ốc nổi khắp châu thân...
Tim anh như ngưng đập hẳn. Rồi một đóm đen hiện dần ra trước mắt từ nhỏ đến lớn! Và... ngược lại! Hình như đó là hình ảnh của một Tử Thần tay cầm lưỡi hái! Anh hét lên và cuối cùng anh ta giật mình tỉnh dậy. Mổ hôi lạnh toát ra ướt đẫm cả người! Ngồi co lại tựa lưng vào vách tường suy nghĩ. Quả trọn cả đêm nay anh chẳng ngủ chút nào. Anh bật đèn lên để sáng. Nhưng cơn buồn ngủ lại kéo đến, không thể nào gượng được nữa, để nguyên đèn sáng, anh ngã lưng nằm xuống co quắp chân lên che lấy bụng, cố tìm một giấc ngủ an lành. Lần này thì anh ngủ say sưa không còn biết trời trăng gì nữa cho đến khi tiếng chuông đồng hồ báo thức điểm lên bảy tiếng...
***
Sau khi điểm tâm, anh đến bàn giấy ngồi và nhấc điện thoại lên. Nhưng anh chẳng gọi ai được cả. Đầu óc anh suy nghĩ mung lung. Các sự kiện đêm rồi lại lờ mờ hiện ra trước mắt. Anh có cảm tưởng lúc bấy giờ mình như đang đi lạc vào một miền xa lạ. Thật là vô lý. Rõ ràng như có sức mạnh vô hình nào đó đẩy mạnh anh về phía cửa trong cơn nửa mê nửa tỉnh. Ngoài sức đẩy vô hình đó anh chẳng thấy cái gì nữa. Người ta kể lại những giấc mơ một cách sai lệch về mẫu hình ảnh của một giấc ngủ, mà không một chút ý thức gì điều mà mình trông thấy trong giấc mộng, dù đó là lành hay dữ! Thế giới của những cơn mộng mị xâm nhập vào thường đem lại những chấn động “khủng khiếp” cho kẻ đang đắm hồn trong giấc ngủ, để báo trước một sự kiện nào đó sắp xảy đến với mình.
Anh ta nghĩ liên miên đủ mọi thứ: chuyện thần thông biến hóa, chuyện chôn mình dưới lòng huyệt lạnh, chuyện “hô phong hoán vỏ”, sải đậu thành binh trong Vạn Pháp Qui Tôn, chuyện cả một lục địa tr.TL. đến 75.025 năm hay hơn nữa bị chôn vùi dưới lòng bể sâu mang theo cả một nền văn minh cực thịnh... Ngay từ lúc lấy lại tinh thần sảng khoái anh ta nẩy sinh ra những ý tưởng đẹp đẽ: sẵn sàng đón nhận những giấc mộng, mà không một mảy may do tùy hứng hay do lòng tin tưởng của mình. Chết ư? Chẳng có gì đáng sợ. Chết chỉ là một hình thức chuyển tiếp từ sự sống này sang sự sống khác. Chỉ có sự “trốn sống” mới đáng sợ. Cái chết chỉ là một hư từ để phản nghĩa cho cái sống. Anh ta đã tự ẩn mình và chưa thấu rõ được sự im lặng đó chỉ là cuộc thử thách hằng ngày, bằng những cung cách để đi dần vào cái chết.
Tuy nhiên đối với anh ta còn thừa khả năng đẩy lùi sự chết một cách hào hùng. Anh ta không thể mang cơn ác mộng của mình ra so sánh với nỗi sợ hãi bâng quơ của một đứa bé trong đêm hôm khuya khoắt có cùng một ý nghĩa. Anh ta cũng không phải nhìn thấy cảnh chôn cất người chết hay nhìn thấy những cây Thánh Giá ngoài nghĩa địa cảnh cáo rằng rồi đây anh ta cũng phải chết mà run sợ! Thật ra chính nỗi cô đơn trong những lúc trống vắng chẳng có lấy một bóng người, đã làm cho anh ta càng thấy rõ... “có cái gì đó” ở tận cõi xa xăm gần như mơ hồ, nhưng nó lại là sự thật...đang hiện hữu bên anh. Hình như bên tai anh văng vẳng có tiếng ai mời gọi: ”Vậy anh hãy kể chuyện về cái chết của anh đi!”
BẠN BẢO TÔI HÃY KỂ CÁI CHẾT CỦA TÔI Ư?! Chẳng có gì bí ẩn cả. Nó không phải là kết thúc mà cũng chẳng phải khởi đầu. Đối với vạn vật con người là một trong những sinh vật có đời sống ngắn ngủi nhưng lại là một sinh vật duy nhất có những kỷ niệm tuyệt vời! Cái kỷ niệm tuyệt vời đó là để lại cho đời một nấm mồ... cùng một tấm mộ bia khắc ghi tên tuổi mình lưu danh vạn thế... Nó gần như căn bệnh di truyền bất di bất dịch. Ta học hỏi nơi tổ tiên ta những lễ nghi an táng nắm xương tàn, bằng tất cả sự cung kính với niềm tiếc thương tưởng chừng như bất tận...
"Cái chết" không cần có lễ nghi mà chỉ con người muốn có những nghi lễ, được yên lòng đi về Cõi Chết vì nhu cầu của tôn giáo. Vạn vật không có thay đổi mà con người thì có sự đổi thay. Vạn vật chỉ cần một nhưng con người thì đòi hỏi phải muôn hình vạn trạng. Chẳng khác nào Cõi Chết chẳng có hai mà chố Hồng Trần thì thiên hình vạn trạng. Người làm tôn giáo đã phải tốn bao nhiêu công phu và trải qua bao nhiêu biến thiên của lịch sử bằng ý niệm của xác chết và song song với sự đau xót của người sống, trước cái xác thân bất động đang bắt đầu rửa nát!
Cái chết chẳng có gì bí ẩn cả. Nó không biệt luận như Đức Khổng Tử bảo, mà chính nó đang sống, đang đi vào con đường hóa thân. Thế có nghĩa là cái xác thân đó đang đi vào trạng thái giữa "Cái Sống và Cái Chết". Vậy cái chết là một trong ba cái gom lại theo qui luật của Thái Cực mà phàm Thái Cực thì sinh Lưỡng Nghi như Dịch Kinh đã viết: "Hán Chí đã làm tối tăm cái thuyết Ba là Một". Há chẳng phải Thiên, Địa, Nhân là Một mà Một đó chính là Thái Cực." Cõi Chết ở nơi đó. Nơi mà con người được miên viễn rong chơi... đây đó... Vậy phải chăng Thái Cực là Đạo, là con đường dẫn đến cõi hư vô hay nẻo đi vào miền Cực Lạc?! Trang Tử bảo: "Đạo có trước Thái Cực. Thái Cực là Trời, Đất, Người. Tuy Ba mà chỉ Một. Một đó là Cùng Cực. Cõi Chết từ chỗ tột cùng đó mà ra, tột cùng đó là Biến. Biến là trở lại cái nguyên thủy của mình. Đó là Cõi Chết. Có gì bí mật đâu? Có gì Bí Ẩn đâu?!"
Ta khác với Cõi Chết vì chúng ta đang sống với thực tại, cái không còn nữa và cái sẽ chớm nở lên. Ta làm cho sự vô cùng chống lại cái vô cùng, sáng tạo nên hình ảnh Thiên Đàng hay miền Cực Lạc... để đi tìm sự thanh thản của linh hồn... vứt bỏ đi thực thể của cái đạo đức sơn phết toàn sữa tươi và mật ngọt! khi nền văn minh càng đi vào hồi cực thịnh, con người lại càng run sợ trước cái ô cùng của vũ trụ. Càng đi sâu vào cái khoảng không mênh mông của trời đất càng chẳng tìm thấy cái gì bên trong cái thăm thẳm đó...
Cho đến lúc bấy giờ họ mới sực nhớ cái cứu cánh của con người không phải là sự khám phá mà là sự đầu tư tri thức để mở rộng cái mớ lý thuyết khoa học họ thu nhận được trong cái khối óc hạn hẹp đầy nhóc cả ngã mạn, và sự tự hào, tự mãn của mình! Lúc bấy giờ họ kêu lên: "Có hay không Cõi Chết"! Họ không dám nhắc đến Thiên Đàng bởi họ sợ Địa Ngục. Họ không muốn nói lên cái vĩ đại của Đất Trời bởi họ sợ mình là cát bụi!
Người tiền sử không biết hay không cần biết có linh hồn hay không đang ngự trị trong cái xác thân của mình, mà chỉ nhằm vào bên trong cái bóng đêm đen tối đó hay trong các bụi bờ rậm rịt, trước những tảng đá nằm lăn lóc ở chân núi. Hoặc những thân cây cổ thụ nơi rừng rú hoang vu cùng tiếng sóng cả gầm thét, hay tất cả những gì họ không tài nào lý giải được! Họ tin Sự Sống và Cái Chết của bản thân mình tùy thuộc vào bên trong cái bóng đen dày đặc đó...
* * *
Cõi Chết không cần các di vật mà chỉ cần sự yên ổn! Các tôn giáo đều có cùng một quan điểm như nhau là gột rửa cho linh hồn kẻ chết được hoàn toàn trong sạch, trước khi vào nước Thiên Đàng hay miền Cực Lạc! Họ đã làm như vậy từ nhiều thiên kỷ. Có nghĩa họ đã tiễn đưa biết bao nhiêu xác chết đi vào chốn yên nghỉ nghìn thu. Và cứ như thế..họ thay mặt cho cái Thiện để dẫn dắt linh hồn của những người nằm xuống đi vào cõi vĩnh cửu cùng một công thức như nhau bất di bất dịch... Cõi Chết không phải là ảo tưởng mà nó là sự thật. Không thời đại nào, thiên niên kỷ nào mà không nhắc tới, bàn tới, bởi mọi vật trên cõi đời này không có gì trường cửu mà chỉ là hạn kỳ tạm thời và ngắn ngủi... theo định luật sinh, lão, bệnh, tử...
Cõi chết là đó bạn hiểu chưa? Nó là một cõi vô hình có thực mà bạn không bao giờ tin được. Cũng có thể nhiều lúc bạn nhìn thấy ma, nghe tiếng ma bên tai, thoạt đầu bạn tin là có thực, vì sự thực bạn đã nhìn, đã nghe, đã thu nhận một cách rõ ràng bằng mắt thấy tai nghe và bằng cảm giác của mình trong giờ phút huyền diệu đó! Nhưng mâu thuẫn thay! rất có thể bạn không còn tin đó là sự thật... và kết luận đó chỉ là ảo giác... Khoa học và thực tế đã kéo bạn về với Sự Sống thật hiện hữu... mà Sự Sống không bao giờ muốn tin rằng có bên kia Cõi Chết! Quả Cõi Chết thật mơ hồ đến nổi dù chính mắt ta trông thấy, tai ta nghe được nhưng chẳng ai chứng minh được lời mình nói, người chết thì chẳng bao giờ đi làm nhân chứng cả!
Vậy thì người chết mới biết có Cõi Chết. Bí ẩn là ở chỗ đó. Theo thuyết nhà Phật tất cả đều chỉ là "sắc sắc không không". Tất cả chỉ là Vô Thường. Đời chẳng qua là cõi tạm. Có đó rồi không đó. Nó chỉ là một "sát na", một khanila... Chẳng có gì là thật, mà cũng chẳng có gì là vĩnh viễn trong cõi tạm này! Vậy thì Cõi Chết là đó. Là tất cả những dây mơ rễ má không còn dính líu đến tâm tư của mình. Kinh Dzyan nơi tiết bốn mục B nói về cái Đại Nguyên Nhân nơi tiểu tiết B là những nguyên nhân của Sự Vật. Mỗi một Nhân ấy là một Quả và rồi mỗi một Quả lại là một Nhân của cái quả tiếp theo sau đó... Những "Nguyên Nhân" đều phải chấp hành bởi bị ảnh hưởng qui luật chung của đất trời mà chẳng ai có thể tránh được.
Bạn hỏi tôi: nếu quả có Cõi Chết liệu có sự luân hồi chăng? Bạn sợ có sự luân hồi nếu quả thực có Cõi Chết? Nếu bạn tin là có thì tôi hay bạn hoặc tất cả mọi người trên thế gian này đang trả cái nợ của chúng ta tạo ra từ bao kiếp trước. Vậy cái có của chúng ta hiện hữu là di sản của chúng ta đã tạo ra từ bao nhiêu kiếp tồn trữ lại. Bạn có bao giờ nghĩ rằng tôn giáo lúc nào cũng từ chối truyền thông với Cõi Vô Hình không? Điều làm cho tôn giáo nổi bật là họ duy trì quan niệm sắc bén về những lằn ranh không vượt qua được và không thể nào làm cho Sự Chết thất bại.
Những tên phù thủy luôn luôn tìm đủ mọi cách thâm nhập vào tôn giáo dưới nhiều hình thức dùng quyền lực đối với bất cứ ai. Họ, những tên phù thủy muốn chiếm thế thượng phong luôn cả nền văn minh của nhân loại. Mỗi nền văn minh đều có bí ẩn riêng tư của nó. Từ xưa nay, mọi cuộc tế lễ, mọi nền luân lý đều được đặt bày ra không phải để đi đúng với ý niệm của nó, mà mục đích muốn tạo nên một sự thống trị không bằng vũ khí mà bằng lời nói nhân danh Đấng Tối Cao... của mình.
Những tay phù thủy này hằng mong thực hiện niềm mơ ước của mình có đủ quyền năng để ban cho sự sống hay sự chết, sự bằng an hay bất ổn... Con người tự thần thánh hóa cho mình mang dấu ấn của Cái Chết từ nhiều thế kỷ khắc sâu vào bờ tường đá, tạc ngay vào cả bàn thờ, vào thánh đường, chùa chiền và từ ngàn xưa đã khắc ghi trong cả kim tự tháp để ban bố cho mọi người những nấm mồ theo sự an bài bởi uy quyền của họ.
ANH BẢO TÔI KỂ VỀ CÁI CHẾT CỦA TÔI Ư ? Nó chỉ là kết quả sau cùng của một cơn bạo bệnh. Hay nói một cách khác hơn nó là những cố gắng bất thành của một cái vỏ đã đến hồi mục nát. Tôi cũng đã từng chứng kiến những màn hài kịch diễn ra quanh cái thi hài nằm bất động. Họ là các diễn viên đang cố gắng lôi kéo tôi trở lại với sự sống bằng ống dây dẫn thuốc. Sinh mệnh tôi tùy thuộc vào trò nối liền giữa cái sống với cái chết. Như vậy có nghĩa tôi sẽ có thể chết bằng cái nhún vai thật nhẹ nhàng tuyệt vọng của một hay nhiều diễn viên đứng cạnh giường tôi.
Hình ảnh của sự chết không phải ai cũng như ai. Có người nhìn thấy những vầng hào quang sáng chói bao phủ quanh mình. Có người thấy đang là đà bay lượn trên một cánh đồng xanh bát ngát và bên tai tựa hồ như có muôn ngàn tiếng nhạc gom lại thành một âm điệu tuyệt vời. Nhưng cũng chẳng ít người nhìn thấy cái chết chỉ là một khoảng không mênh mông dẫy đầy những hình ảnh của ma vương, ác quỷ...Các lý thuyết gia cũng như các nhà tư tưởng đều có cùng một quan niệm như nhau : cái gì đã rứt bỏ thì không thể nào hàn gắn lại được. Cái phần hồn đã thoát ra chẳng bao giờ trở lại với cái xác thân mục nát kia nữa. Có điều linh hồn rồi sẽ đi về đâu, nó phù hay trầm đều tùy thuộc vào cái nghiệp chướng tạo ra của mình từ thuở sinh thời!
Đừng tưởng những người sắp chết họ thành thật. Chính họ nói dối còn hay hơn cuội. Chẳng có gì khó hiểu cả. Bởi họ sợ phải nói lên những điều mình giữ kín trong suốt cuộc đời. Họ không muốn đối diện với sự thật... Thật là sai trái khi tìm kiếm một dấu hiệu của định mệnh mình, trong sự tự tạo thành một thần tượng để dối gạt kẻ khác. Con người gây nhiều tội ác bao nhiêu càng đam mê về tuổi thọ bấy nhiêu. Tấm bia đá "Từ Phúc Đăng Ngạn" trên một hòn đảo nhỏ ở đất nước Phù Tang còn sờ sờ ra đó, đủ chứng minh Tần Thủy Hoàng muốn mình được trường sinh bất tử. Tội lỗi càng nhiều càng lắm mưu toan xa rời cái chết.
Không có hình ảnh của cái chết. Chẳng ai muốn ra trước tòa phán xét cũng chẳng ai muốn nhìn lại cái nghiệp chướng xấu xa của mình. Bạn muốn tôi kể lại cái chết của tôi ư?! Chẳng có gì cả. Nó là một chuổi dài bất tận khởi đầu từ lúc mới tượng hình trong lòng mẹ. Trong mỗi người vốn cưu mang cái chết khác nhau. Chẳng ai giống ai cả. Vì vậy mà chẳng có mẫu số chung của cái chết. Bạn muốn biết sự thật về "Cái Chết"? Có hay không bên kia thế giới? Ai cũng muốn biết. Trong suốt cuộc đời, ít nhất cũng một lần nghi ngờ "có một cái gì đó" ngoài sự hiểu biết của mình! Thỉnh thoảng ta cũng nhìn thấy hình ảnh của cái chết nhưng lại quên ngay đi như ánh chớp vừa lóe lên đã lịm tắt ngay sau đó.
Thật khó lòng mà xác minh được rằng là có cõi chết hay không? Nó hoàn toàn bí ẩn. Nếu tôi bảo rằng có, liệu bạn tin được lời minh xác của tôi không? Tôi có cảm tưởng "Cõi Chết" thật ích kỷ. Nó không muốn mình bị phát giác, nhưng lại muốn xác nhận quả có sự hiện hữu của cõi vô hình! Có lắm người chuẩn bị đến cõi chết bằng tự sơn phết cho mình những nét vàng son chói lọi, nhưng không phải để họ mang theo, mà là muốn được người đời mang chưng bày ở một nơi nào được xem là trang trọng nhất! Chết rồi sẽ đi về đâu? Thật mơ hồ. Chẳng có ai nói rõ được điều này một cách trung thực cả.
Theo quan niệm của Đức Khổng: "tử giả biệt luận". Ngài bảo chết là hết, là biệt luận. Chẳng còn gì cả. Tuy nhiên chúng ta chẳng thấy thánh nhân chứng minh cho cái thuyết biệt luận của mình. Cái xác thân chỉ là cái vỏ bọc bên ngoài, nơi trú ngụ của một linh hồn bất diệt. Rồi đến một giai đoạn nào đó đủ hạn kỳ cái vỏ kia cũng sẽ phải mục nát, tan rã theo thời gian mà trở về với cát bụi. Cái chết với cái sống bên nhau. Chẳng ai muốn chết mà chỉ muốn mình được sống vĩnh viễn trên cõi đời này. Tất nhiên là chẳng có ai được cả. Mọi người đều phải tuân theo qui luật như nhau. Nhỏ rồi lớn. Lớn rồi già. Già rồi chết. Nó tuần tự đi theo con đường của Tạo hóa vạch sẵn.
Khi con người buông tay nhắm mắt chính là lúc họ đang đi trong cái chết của chính mình, chứ không phải ở những bộ đồ tang phục của người sống mang trong người để tiễn đưa kẻ ra đi đến chốn an nghỉ cuối cùng! Điều đáng sợ nhất của người chết là sự ghẽ lạnh và sự an ủi khách sáo của những người sống. Đành rằng họ đang mũi lòng và nước mắt đau buồn đang chảy dài trên đôi má họ! Bạn hỏi tôi: "Vậy cái chết của bạn ở đâu?" Chắc chắn là không phải trên dường đi đến nghĩa trang hay lễ cầu hồn! Họ đang cầu xin cho vong linh được siêu thoát. Họ không cần biết cái hành trang trên lưng của bạn trên chặng đường đời mà bạn đã đi qua nặng nhẹ thế nào!
Chính cái xác chết của bạn bị quấy rầy bởi mọi cái phức tạp của những con người nặng về phần trình diễn. Chính những lúc ấy cái vong linh của bạn nhìn thể xác bạn đang nằm yên bất động. Bạn đừng tưởng rằng vong linh của bạn nó sẽ bịn rịn khóc than cho cái vỏ mục nát rửa ráy mà ngày nào đó đã "cưu mang" nó! Chẳng bao giờ! Đối với vong linh chỉ xem là cái áo cũ kỷ mục nát đã đến lúc cần phải được thay đổi bằng một chiếc áo mới khác, đúng theo kích thước và hợp với trọng lượng của mớ hành trang đó. Còn gì ngây thơ bằng là tự hỏi tại sao có cái chết trong ta?! Chẳng có gì khó hiểu cả! Chính sự chết của chính mình là một sức sống mới khác vươn lên. Nó chẳng khác nào Thái dương hệ này tàn rụi đi thì một Thái dương hệ khác nẩy nở. Và...cứ như thế mà liên tục tiếp nối nhau đời đời kiếp kiếp.
ANH BẢO TÔI KỂ CÁI CHẾT CỦA TÔI Ư? Cái chết của tôi đến như một giấc mơ êm dịu, một giấc mơ hoàn toàn tuyệt hảo... Đó là những giấc mộng mang đến cho ta những phút giây chân lý. Đừng tưởng cái chết sau khi buông tay nhắm mắt con người sẽ mất đi cái tâm thức. Không phải như vậy. Cái tâm thức vẫn còn tồn tại. Nếu bảo cái tâm thức ấy mất đi chỉ là lý luận của một sự không tưởng. Mà nó luôn luôn hiện hữu dù cái xác thân đã đến hồi mục nát... Ngay trong lúc anh đang sống đây chính là lúc anh đang chết. Tôi cũng vậy đâu có khác gì anh? Anh muốn biết hình ảnh của cái chết ư?! Đó là hình ảnh của những cánh tay thật dài ngoằn ngoèo như thân con rắn, với những con mắt to tướng lồi lên như những hạt ốc bươu to tướng. Đó là những hình ảnh tuyệt kỹ của cái chết.
Những kẻ đang sống cứ đinh ninh là những người nằm xuống theo đúng chu kỳ sống đó, sẽ phải khóc lóc thảm thiết khi nhìn thấy cái xác thân của mình đang được các phu nhà quàn mang sắp lớp bên đống thây ma rữa nát hoặc khô cằn nằm dưới lòng huyệt lạnh! Thật là ngây thơ! Trong Tân Ước, Soeur Marth de Lazare trích lấy về điều huyền thoại ghi rằng: "Người sống lại duy nhất lôi ra từ những người chết để họ được sống thêm một thời gian ngắn nữa." Marth hai lần đã nói: "Nếu Chúa có mặt ở đây thì anh tôi đâu có chết!"
Anh biết không? Mỗi ngày chẳng những tôi và luôn cả anh cũng như tất cả mọi người trên đời này đều phải nói dối... là mình đang sống và đang trưởng thành theo thời gian năm tháng. Thật ra, cái nói dối quen thuộc đó với mục đích để quên đi là mình đã và đang chết dần mòn, không phải mới hôm qua hay hiện tại, mà ngay từ lúc mới sinh ra đời. Có nghĩa con người đã chết ngay từ lúc biết cái sống. Ấy thế mà người ta vẫn sợ cái chết! Con người vẫn phải xúc động mạnh và tỏ ra hoảng hốt trước sự ra đi để đến một thế giới khác. Lazare kể tiếp: "Chúa Jesus đến, nó khóc. Nó không hiểu gì cả. Không nói lấy một lời. Nó nghĩ đến cội nguồn và tìm đến đó".
Nó quay về phía những người đã đưa nó đến và nhìn thấy sự thực của những con người sống đang hãi hùng trước cái chết. Không phải họ sợ những cái thây ma với những chiếc đầu lâu trơ khấc mà chính là họ đang sợ cái đáp số của bài toán mình không đúng. Họ sợ Thiên Đàng hay cõi Niết bàn bỏ rơi họ. Họ sợ rồi ngày mai đây hay một ngày nào đó sẽ nằm duỗi dài trong chiếc áo quan chật hẹp lúc nào cũng phủ lên một lớp màn đêm đen tối! Họ biểu lộ những trạng thái hãi hùng đến độ chính họ cũng không biết mình đang là người hay ác quỷ?!
Câu chuyện được Marth kể tiếp: "Chúa Jesus đở người chết trong đám người chết dậy". Thế có nghĩa bậc siêu nhân này đã cứu sống được người không còn cách nào cứu sống nữa. Đây là hình ảnh khá lạ lùng, một câu chuyện thật huyền diệu chưa hề thấy xảy ra ở thời đại nào, thiên kỷ nào. Không có một ai chứng kiến theo bất cứ một tập quán nào mà có thể phát hiện ra một sự kiện như vậy. Ấy thế mà hơn hai ngàn năm qua rồi vẫn còn nằm trong vòng bí mật. Chẳng có một ai lý giải được. Con người có thể cứu được bệnh nhưng có bao giờ cứu được mệnh đâu! Như vậy có nghĩa là gì, nếu không nói là phép lạ ?... Một phép lạ diễn ra từ tay một người thoát khỏi vòng sinh, lão, bệnh, tử!
Có lắm thuyết chứng minh cho cái chết. Người ta đưa ra cái thuyết không phải để chứng minh có cái gì ở bên kia thế giới mà để cảnh cáo họ hãy xem chừng những bờ vực thẳm đang hiện dần ra trước mắt họ! Chính những cái xác thân nằm bất động mới hiểu biết nhiều hơn ta. Đối với xác chết cái gì cũng trải qua. Họ biết từ cái sinh đến cái lão, từ cái bệnh đến khi họ quay đầu về núi. Chẳng những vậy mà các cái xác đó còn biết luôn cả tâm trạng của những người sống đang vây quanh mình đang nghĩ gì?! Không phải họ những kẻ sống đang run sợ đó, đang thương xót cho cái xác thân rữa nát nằm yên trong quan tài của mình mà chính họ đang ưu tư cho số phận mình!
Bạn muốn biết Cõi Chết như thế nào ư? Hãy theo tôi đi vào cái thế giới gần như bất động đó. Một thế giới các thây ma đang nằm sắp lớp, đầy rẩy cả những con dòi bọ từ những con ma mới đang sinh sôi nẩy nở. Đừng lầm tưởng những con ma mới ấy đã chết! Thật ra nó đang hít thở không khí chứng minh cho sự sống. Nó không còn là một thực thể biểu tượng cho con vật tối linh, biết nói năng, biết hành động và suy tư... mà là đang âm thầm vác cái vỏ cát bụi để trả về cho cát bụi... Chúng ra đi vĩnh viễn, không còn ở với chúng ta nữa, không còn trở lại với chúng ta nữa. Tất cả phải xa rời vĩnh viễn... mà chỉ có phần hồn mới là tồn tại. Nhưng tồn tại như thế nào còn tùy theo cái căn cơ nghiệp chướng của nó!
* * *
Một đứa bé lên mười, trong một tai nạn xe hơi được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Đứa bé thuật lại: "... trên một quãng đường cong hắn nhìn thấy một chiếc xe hơi đang chạy bỗng tung bay lên cao tiếp theo sau đó một tiếng động mạnh và... hắn không còn cảm thấy gì nữa.
- Ấy thế mà tôi biết rõ là mình bị tai nạn. Nhưng chỉ giây phút sau tôi chui ra khỏi xác thân bằng lối đỉnh đầu mình. Tôi không còn cảm thấy châu thân mình đâu nữa, hoàn toàn mất hẳn trọng lượng. Sự di chuyển quá dễ dàng dường như chỉ cần điều khiển bằng ý nghĩ. Tôi nghĩ đến bữa cơm chiều. Chắc mẹ mình đang trông đợi. Tức thì tôi nhìn thấy ngay hình ảnh mẹ tôi đang loay hoay làm "bít tết" trong bếp và lủ em tôi thì đang ngồi đợi nơi bàn ăn. Tôi cũng chẳng mấy ngạc nhiên về cái phi thường này của mình và ngay cả là tôi cũng chẳng biết là mình đã chết. Cái hiện hữu thật nhẹ nhàng và nhanh chóng gây cho tôi một cách nhìn thích thú. Tôi lại nghĩ đến bãi cỏ xanh, nơi mà tôi trước khi lên xe đi với cha tôi đã cùng đám em chơi túc cầu và để quên lại chiếc áo khoác máng lên cái móc nơi phòng đợi. Rõ ràng là chiếc khăn tay cũng còn đó.
Tôi vớ lấy nhưng bất giác có một sức mạnh phi thường đẩy tôi về phía trước. Và như một mảnh giấy tôi bay đi thật nhẹ nhàng lơ lửng trên không. Còn gì thích thú bằng?! Nhưng lần này tôi hoàn toàn không còn chủ động được. Có một động lực nào đó đẩy tôi trở lại nơi cái xác thân của tôi đang nằm. Bất giác tôi cảm thấy toàn thân đau đớn đến cực độ. Tiếng rên rỉ của tôi như nói lên sự từ chối trở về với sự sống.
- Không! Tôi không muốn bị chui trở lại vào cái xác thân kia nữa!
Một làn ánh sáng tỏa ra hơi ấm vô cùng kỳ diệu tiến lại và như truyền cảm vào tâm tư tôi:
- Này con yêu của ta! Ta luôn luôn thương yêu con. Có lẽ con cũng thương yêu ta. Con hãy nghe lời ta mà trở về để tiếp tục đi nốt quãng đời còn lại.
Và tôi mở mắt. Mẹ tôi kêu lên:
- Trời ơi! Con tôi sống lại.
Léon Denis cũng mô tả một câu chuyện và hình ánh sáng gần như vậy trong tác phẩm của ông ta nói về "đời sống sau khi chết" (Après La Mort).
Kỷ niệm tuyệt vời nhất trong cuộc đời không phải là những bông hồng đi vào trái tim giữa người này với người kia. Nó cũng không phải là hình ảnh của cả một thời mà phẩm giá của mình được mọi người tung hô ca tụng. Mà phải nói rằng cái kỷ niệm đẹp nhất và cụ thể nhất có tự ngàn xưa của người này với người kia: đó là nấm mồ! Bao nhiêu thiên kỷ đã đi vào dĩ vãng để lại trong trí ta sau nhiều ngàn năm đâu phải bằng dòng lịch sử sống động, hoặc bằng những tòa lâu đài nguy nga lộng lẫy mà bằng sự chôn cất với những lễ nghi mai táng rườm rà, phức tạp...
Con người ở vào giai đoạn bắt đầu đi vào thiên niên kỷ thứ ba này, làm sao tỏ ra được sự hiện hữu của mình sau các bậc tiền bối? Và cũng làm sao tỏ ra được là mình đã để lại những gì cho thiên niên kỷ thứ tư? Phải chăng bằng những ngôi nhà mồ được chạm trỗ sơn phết, mà không một lời ghi chép lại cho hậu thế suy tư, nghiền ngẫm. Có thể mọi người đều có cùng một quan niệm “tử giả biệt luận”, chết là hết, là mất vĩnh viễn. Thế có nghĩa là nó Vô Thường nói như thuyết Phật nhưng không biến dị. Ở Đông Phương chẳng những từ xa xưa mà ngay cả những năm tháng cuối cùng của thế kỷ 20 và bắt đầu đi vào thế kỷ 21, vẫn còn bịn rịn với cái xác chết của mình bằng những nghi thức tang lễ rườm rà!
Quan niệm về cái chết đối với Trang Tử được ghi lại: “Khi ông nhìn thấy đám đồ đệ đang bấn loạn cả lên trong giờ phút sắp lâm chung của mình bèn gọi đến hỏi:
- Các ngươi làm điều gì mà lăng xăng thế?
- Chúng con chuẩn bị để làm cho đám tang thầy được trọng thể.
- Ta có trời đất làm quan quách, nhật nguyệt là ngọc bích, còn tinh tú trên vòm trời là ngọc châu, vạn vật ở thế gian này là những nghi lễ của đám tang, như vậy há chẳng đủ lắm sao? Chuyện gì các ngươi phải bày vẽ thêm cho lắm việc!
Đám đệ tử thưa:
- Chúng con sợ diều quạ ăn mất xác thầy!
Trang Tử mỉm cười:
- Trên thì có diều quạ ăn, dưới thì có dòi bọ rúc rỉa. Cướp đây cho đó (không công bằng lắm sao?) Hành động đó của các con há chẳng phải là thiên lệch đó ư?
Đã lâu rồi từ ngày có các giáo hội ra đời đã giữ độc quyền đem lại nguồn hy vọng cùng những lời lẽ giống nhau cho mọi người trong các cuộc lễ cầu hồn. Họ đã có những danh từ dành cho các vong linh để mang theo đi vào bên kia thế giới. Chín chục triệu thánh lễ đã cử hành dành cho người chết, cũng cùng những lời cầu ấy lặp đi lặp lại nhiều lần của số chín mươi triệu lần như vậy, đã động viên hàng bao nhiêu ngàn giáo sĩ, bao nhiêu ngàn chức sự đại diện cho cõi “Vĩnh Cửu” trong thời gian bao nhiêu năm dài dặc tiếp nối không ngừng.
Chỉ có một bầu trời. Chỉ có một cái chết. Chỉ có một hình thức xã hội. Ở đó sự an táng là một cuộc lễ liên quan đến mọi người trong diễn tiến của nó cùng những sự hiểu biết rất hữu ích. Con người của thời đại hiện tại đã thu gọn lại chỉ còn một nhóm nhỏ trong gia đình, hàng họ, bạn bè...mà không còn chủ trương làm ồn ào khắp làng nước, ngoại trừ các nhân vật có tính lịch sử. Thật ra ít có ai để ý lâu dài đến người chết, họ chỉ bị gián đoạn một thời gian ngắn ngủi để chép miệng tiếc rẻ, hoặc bằng miệng lưỡi ngoại giao ca tụng nhất thời với vài dòng tiểu sử ngắn gọn, hoặc để đưa đi một chặng đường hay suốt chặng đường từ Nhà Mồ đến cửa huyệt.
Hoặc gửi đăng lời chia buồn với tang quyến cùng với sự trưng bày tên tuổi mình để nói lên lòng thương tiếc kẻ ra đi không hẹn ngày về! Nhưng rồi sau đó chẳng ai còn đoái hoài nữa. Xe hơi vẫn chạy. Tàu bay vẫn bay. Kẻ bộ hành vẫn bước đi với nhịp độ nhu cầu của mình. Và... cuối cùng chỉ trong thoáng mắt tất cả đều vứt lại đàng sau để chạy theo cái nhu cầu thực tế! Các áng văn chương tràn ngập đủ thể loại, nhưng ít ai nhắc nhở biên soạn một cách khá công phu nói về cái “thây ma” mình đang mang sẵn và đang nhờ nó để nói lên những điều mình muốn nói, hay bày tỏ những ước vọng thầm kín của mình. Đối với cái chết của người khác, kẻ bàng quan thường không lưu tâm đến. Nhưng với bản thân mình thì họ lại cho đó là vấn đề quan trọng.
Có những ý tưởng rất ngộ nghĩnh nhưng rất thực tế. Họ sợ sự chật chội của chiếc áo quan dù họ không còn cử động được nữa. Họ sợ bóng đêm quanh năm bao phủ dù họ biết cái thây ma của mình không bao giờ mở được mắt ra. Họ sợ diều hâu banh thây mình thành từng mãng nhỏ, dù họ biết cái xã hội văn minh của thế kỷ hạt nhân không cho phép xác ma mình có quyền sình chương trên mặt đất. Họ sợ luôn cả những con giòi bọ chính cái thây ma của họ hóa thân lúc nhúc bò lên những mãng thịt rữa nát còn lại trên xác thân mình. Đó là chưa kể họ sợ nếu có thật những con “ma cũ” nằm sắp lớp kế cận, đưa tay tới rờ rẫm cái xác đang rỉ nước, nát tươm của mình dưới nấm mồ hiu quạnh đời đời kiếp kiếp...Ôi! hãi hùng và khiếp đảm làm sao!
“Chết” quả hãi hùng đến cực điểm, chẳng có lời nào làm xóa nhòa hay chứng minh cho nó. Tuy vậy người ta vẫn nói đến sự hiện hữu của mình ở giữa không gian và luôn cả thời gian cùng khoảng cách nhau giữa con người với con người. Khoảng cách không rõ cái vỏ tạm thời được mượn đó còn bao xa nữa, thì sẽ đến phiên mình sẽ được vùi sâu dưới lòng huyệt lạnh, bao xa nữa thì cái thây ma này sẽ xa rời vĩnh viễn với cõi đời này? Cái khoảng cách đó biểu trưng cho sự lo âu khác biệt của mỗi người chúng ta, hoặc tự chọn lấy bóng đêm làm sự an ủi cho mình hay chọn lấy niềm tin ở một trong các tôn giáo hiện hữu giữa thế gian, để dẫn độ mình đến chốn Thiên Đường hay miền Cực Lạc...
Người ta có quyền suy tư những gì mình muốn suy tư để dọn mình trước cho sự ra đi vĩnh viễn. Có người chọn trước nơi an nghỉ với quan niệm “sống cái nhà, già cái mồ”. Họ đã phác họa ngay cả những bộ y phục để mặc vào khi tẩm liệm. Họ đã soạn thảo sẵn kế hoạch chôn cất mình, từ tế lễ đến tang phục đúng với nghi thức theo như lòng ước nguyện của mình lúc còn sinh thời! Họ cũng chuẩn bị ngay khi tuổi đã về chiều con đường mình sắp đến. Có người chọn “Thiên Táng” như Tây Tạng muốn được quấn chặt toàn thi thể mình bằng lớp vải trắng, biểu hiệu cho sự vô nhiểm của mình lúc còn ở thế gian, chấp nhận cho người sống lóc từng miếng thịt mình ra thành từng mảnh vung vải khắp nơi làm mồi cho chim ưng diều quạ...
Để được rỗi linh hồn hầu hòa nhập vào Cõi Phúc... Có người lại mong muốn được hỏa táng như các nước Ấn Độ, Trung Quốc để cho hương hồn người quá cố bay cao lên vòm trời tỏa ra muôn phương ngàn hướng, hầu chóng được siêu thoát về Cõi Niết Bàn hay Cội Phúc... Sách Liệt Tử ghi: “Hướng Tây của Tần có nước Nghi Cừ thi thể con người sẽ được hỏa táng để giúp cho linh hồn kẻ chết được bay cao để mong được xem là con người hiếu thảo”. Có người lại muốn "Hải Táng" để cho hồn mình được an hưởng dưới lòng sâu bể cả...thoát khỏi vòng thế tục lắm nỗi ưu phiền... Trong tập Après La Mort của Léon Denis đã nói về cái đại thể tối thượng mà con người muốn được biết đến, nó không tách rời ra ngoài thế giới ta đang hiện diện. Theo sách này đó là trung tâm ban bố và điều hòa mọi sự tương quan mật thiết giữa con người với vạn vật. Léon Denis đã lý luận: “Vũ trụ là một cơ chế vô cùng và vĩnh viễn, vô thỉ vô chung, không bao giờ có sự hủy diệt”.
Thế có nghĩa là nó hằng hữu đời đời... Mọi vật trong vũ trụ biến hóa theo vòng luân chuyển bất tận của sự sống và sự chết. Muôn vật khắp trong vũ trụ bao la cũng có những “Mặt Nhật” tàn lụi và “Mặt Nhật” khác bừng lên. Hay có thể nói một cách khác hơn là cái thế giới lâu đời bị già cỗi đi rồi tắt lịm, để cái thế giới mới mẻ khác ra đời và tiếp nối... bởi một qui luật bất di bất dịch... Tất cả những sự vật trên thế gian này đều bị chi phối bởi một nguyên tắc bất biến của vũ trụ điều hòa các thế giới riêng rẻ, song cùng một mục đích: toàn chân và toàn mỹ. Vật chất thì tan rã biến đi nhưng linh hồn thì bất diệt. Đó là một nguyên tắc!
Theo Trương Hoành Cứ cho Vũ Trụ chỉ có Thái Hư là chân thực. Đạo Thái Hòa sinh ra bởi vạn vật. Theo sách Chính Nông đã viết: “Thái Hòa mà gọi là Đạo là do trong Thái Hòa có tính phù trầm, thăng giáng, động tĩnh, mọi cái ấy tương cảm nhau nên mới sinh ra cái mối đầu của “nhân huân tương dạng”, “thắng phụ khuất thân”... Ông bảo: “Cái mà đến thì cơ vi dị giản mà cái cùng cực thì quảng đại kiên cố”. Con người không thoát ra khỏi qui luật của tính phù trầm ấy. Chỉ có khác là sự thay đổi cái lớp vỏ, còn sự sống thì luôn luôn bất diệt. Chẳng có cái chết mà chỉ có sự thay đổi của kiếp sống mà thôi. Chúng ta phô bày sự suy tư gắn liền kinh nghiệm, với những cái va chạm mạnh bất ngờ của những cái buông tay nhắm mắt bình thường hay do những tai nạn gây ra bất trắc, tạo cho ta hình ảnh, hương vị và sự kinh sợ của cõi hư vô xâm nhập vào cái vỏ và tâm hồn ta.
Đó không phải là sự hàn gắn của một tôn giáo sắp gãy đổ. Đó cũng không phải là một quyển Đại Luận hay là kết quả của sự dày công nghiên cứu. Thật ra nó chỉ là một kinh nghiệm trong đời sống qua bao nhiêu sự góp nhặt khá công phu từng giờ, từng ngày, từng tháng, từng năm, từng thế kỷ gộp lại... Mỗi ngày ta theo linh cửu của một người thân và sau này lại chính “linh hồn” ta cũng theo tiễn đưa mình đi vào lòng huyệt lạnh!
***
Một giấc ngủ khác!
Một giấc ngủ đầy hãi hùng hay đúng hơn là một cơn ác mộng. Chính anh ta cũng không biết nữa. Ngay cả trong giờ phút anh ta đang nằm suy tư rằng là cái gì đã xảy đến? Cái gì đã làm cho anh kinh hoàng? Phải chăng mình đang nằm ngay lằn ranh giữa cái mộng và cái thực? Anh ta cũng chẳng biết mình đang thức hay đang ngủ? Rồi những dòng suy tưởng như vậy cứ liên miên tuôn ra toàn những lý luận mơ hồ. Anh ta tự nhủ có thể cánh cửa nhà mình không đóng! Và, bất giác anh có cảm tưởng là dường như có “ai đó” đang đứng sẵn sàng chờ đợi mình phía bên ngoài! “Dường như vậy.” Anh ta lẩm bẩm nói. Bản năng của con người cộng với khả năng sinh tồn buộc anh đứng dậy đi thẳng về phía cửa và cài chặt then lại. Rõ ràng chính tay anh đã khép chặt lại. Có cả tiếng lách tách của ổ khóa vang lên.
Nhưng khi anh định trở về giường để tiếp tục giấc ngủ thì bỗng có một sức mạnh vô hình từ bên ngoài như giữ chặt lại, không cho chân anh nhích lên được dù chỉ là một động tác nhỏ. Anh hốt hoảng thật sự, ú ớ kêu lên và bừng tỉnh dậy bởi tiếng gọi của người bạn nằm cạnh giường đánh thức! Anh cảm thấy xấu hổ cho sự sợ hãi của mình, nhưng sự sợ hãi đó có vô lý hay không chính anh cũng không biết nữa! Vậy đó là mộng hay thực? Anh nhớ rõ ràng là toàn thân anh vùng đứng dậy, mang cả hơi ấm trong cái chăn theo và luôn cả hơi nóng của hai lòng bàn tay mình áp vào cái then cài cửa lại.
Thế thì điều gì vừa xảy đến? Anh có thể ngờ vực bởi sự hỗn loạn của thần kinh, nhưng có điều chính anh cũng không thể chối cải: đó là điều chính mình đang nằm sờ sờ trên giường và nghe thấy rõ ràng mọi diễn biến quanh mình... Vậy thì việc anh chồm ngồi dậy đi đến cánh cửa cài then là giấc mơ hay cảnh thực? Anh không thể xác định được điều này. Phải chăng đây là một cơn ác mộng? Tất cả trong giờ phút này anh ta cảm thấy chính mình bị cuốn hút vào cõi vô hình...qua một con đường hầm thăm thẳm! Lần này anh ta có cảm tưởng là mình hoàn toàn bị chôn vùi giữa cơn mê dài triền miên, bất tận!
Rồi một giấc ngủ khác nữa... Một giấc ngủ toàn những sóng gió bão bùng... Lần này thì anh ta ngồi bật dậy. Không còn nghi ngờ gì nữa. Tiếng động cực mạnh ở ngoài cửa vọng vào chẳng khác nào như cơn địa chấn! Anh lảo đảo chạy đến mở toạt hai cánh cửa ra. Bên ngoài trời tối đen như mực. Tư bề không lấy một tiếng động, một sự im lặng đến lạnh mình bao trùn cùng khắp, khiến anh có cảm tưởng như cả dòng huyết quản trong châu thân mình hoàn toàn bị ngưng đọng lại. Trong giây phút tâm thần bất định như có ai đó nắm chặt lấy tay anh. Ôi! Anh khẽ kêu lên, khủng khiếp làm sao! Gai ốc nổi khắp châu thân...
Tim anh như ngưng đập hẳn. Rồi một đóm đen hiện dần ra trước mắt từ nhỏ đến lớn! Và... ngược lại! Hình như đó là hình ảnh của một Tử Thần tay cầm lưỡi hái! Anh hét lên và cuối cùng anh ta giật mình tỉnh dậy. Mổ hôi lạnh toát ra ướt đẫm cả người! Ngồi co lại tựa lưng vào vách tường suy nghĩ. Quả trọn cả đêm nay anh chẳng ngủ chút nào. Anh bật đèn lên để sáng. Nhưng cơn buồn ngủ lại kéo đến, không thể nào gượng được nữa, để nguyên đèn sáng, anh ngã lưng nằm xuống co quắp chân lên che lấy bụng, cố tìm một giấc ngủ an lành. Lần này thì anh ngủ say sưa không còn biết trời trăng gì nữa cho đến khi tiếng chuông đồng hồ báo thức điểm lên bảy tiếng...
***
Sau khi điểm tâm, anh đến bàn giấy ngồi và nhấc điện thoại lên. Nhưng anh chẳng gọi ai được cả. Đầu óc anh suy nghĩ mung lung. Các sự kiện đêm rồi lại lờ mờ hiện ra trước mắt. Anh có cảm tưởng lúc bấy giờ mình như đang đi lạc vào một miền xa lạ. Thật là vô lý. Rõ ràng như có sức mạnh vô hình nào đó đẩy mạnh anh về phía cửa trong cơn nửa mê nửa tỉnh. Ngoài sức đẩy vô hình đó anh chẳng thấy cái gì nữa. Người ta kể lại những giấc mơ một cách sai lệch về mẫu hình ảnh của một giấc ngủ, mà không một chút ý thức gì điều mà mình trông thấy trong giấc mộng, dù đó là lành hay dữ! Thế giới của những cơn mộng mị xâm nhập vào thường đem lại những chấn động “khủng khiếp” cho kẻ đang đắm hồn trong giấc ngủ, để báo trước một sự kiện nào đó sắp xảy đến với mình.
Anh ta nghĩ liên miên đủ mọi thứ: chuyện thần thông biến hóa, chuyện chôn mình dưới lòng huyệt lạnh, chuyện “hô phong hoán vỏ”, sải đậu thành binh trong Vạn Pháp Qui Tôn, chuyện cả một lục địa tr.TL. đến 75.025 năm hay hơn nữa bị chôn vùi dưới lòng bể sâu mang theo cả một nền văn minh cực thịnh... Ngay từ lúc lấy lại tinh thần sảng khoái anh ta nẩy sinh ra những ý tưởng đẹp đẽ: sẵn sàng đón nhận những giấc mộng, mà không một mảy may do tùy hứng hay do lòng tin tưởng của mình. Chết ư? Chẳng có gì đáng sợ. Chết chỉ là một hình thức chuyển tiếp từ sự sống này sang sự sống khác. Chỉ có sự “trốn sống” mới đáng sợ. Cái chết chỉ là một hư từ để phản nghĩa cho cái sống. Anh ta đã tự ẩn mình và chưa thấu rõ được sự im lặng đó chỉ là cuộc thử thách hằng ngày, bằng những cung cách để đi dần vào cái chết.
Tuy nhiên đối với anh ta còn thừa khả năng đẩy lùi sự chết một cách hào hùng. Anh ta không thể mang cơn ác mộng của mình ra so sánh với nỗi sợ hãi bâng quơ của một đứa bé trong đêm hôm khuya khoắt có cùng một ý nghĩa. Anh ta cũng không phải nhìn thấy cảnh chôn cất người chết hay nhìn thấy những cây Thánh Giá ngoài nghĩa địa cảnh cáo rằng rồi đây anh ta cũng phải chết mà run sợ! Thật ra chính nỗi cô đơn trong những lúc trống vắng chẳng có lấy một bóng người, đã làm cho anh ta càng thấy rõ... “có cái gì đó” ở tận cõi xa xăm gần như mơ hồ, nhưng nó lại là sự thật...đang hiện hữu bên anh. Hình như bên tai anh văng vẳng có tiếng ai mời gọi: ”Vậy anh hãy kể chuyện về cái chết của anh đi!”
BẠN BẢO TÔI HÃY KỂ CÁI CHẾT CỦA TÔI Ư?! Chẳng có gì bí ẩn cả. Nó không phải là kết thúc mà cũng chẳng phải khởi đầu. Đối với vạn vật con người là một trong những sinh vật có đời sống ngắn ngủi nhưng lại là một sinh vật duy nhất có những kỷ niệm tuyệt vời! Cái kỷ niệm tuyệt vời đó là để lại cho đời một nấm mồ... cùng một tấm mộ bia khắc ghi tên tuổi mình lưu danh vạn thế... Nó gần như căn bệnh di truyền bất di bất dịch. Ta học hỏi nơi tổ tiên ta những lễ nghi an táng nắm xương tàn, bằng tất cả sự cung kính với niềm tiếc thương tưởng chừng như bất tận...
"Cái chết" không cần có lễ nghi mà chỉ con người muốn có những nghi lễ, được yên lòng đi về Cõi Chết vì nhu cầu của tôn giáo. Vạn vật không có thay đổi mà con người thì có sự đổi thay. Vạn vật chỉ cần một nhưng con người thì đòi hỏi phải muôn hình vạn trạng. Chẳng khác nào Cõi Chết chẳng có hai mà chố Hồng Trần thì thiên hình vạn trạng. Người làm tôn giáo đã phải tốn bao nhiêu công phu và trải qua bao nhiêu biến thiên của lịch sử bằng ý niệm của xác chết và song song với sự đau xót của người sống, trước cái xác thân bất động đang bắt đầu rửa nát!
Cái chết chẳng có gì bí ẩn cả. Nó không biệt luận như Đức Khổng Tử bảo, mà chính nó đang sống, đang đi vào con đường hóa thân. Thế có nghĩa là cái xác thân đó đang đi vào trạng thái giữa "Cái Sống và Cái Chết". Vậy cái chết là một trong ba cái gom lại theo qui luật của Thái Cực mà phàm Thái Cực thì sinh Lưỡng Nghi như Dịch Kinh đã viết: "Hán Chí đã làm tối tăm cái thuyết Ba là Một". Há chẳng phải Thiên, Địa, Nhân là Một mà Một đó chính là Thái Cực." Cõi Chết ở nơi đó. Nơi mà con người được miên viễn rong chơi... đây đó... Vậy phải chăng Thái Cực là Đạo, là con đường dẫn đến cõi hư vô hay nẻo đi vào miền Cực Lạc?! Trang Tử bảo: "Đạo có trước Thái Cực. Thái Cực là Trời, Đất, Người. Tuy Ba mà chỉ Một. Một đó là Cùng Cực. Cõi Chết từ chỗ tột cùng đó mà ra, tột cùng đó là Biến. Biến là trở lại cái nguyên thủy của mình. Đó là Cõi Chết. Có gì bí mật đâu? Có gì Bí Ẩn đâu?!"
Ta khác với Cõi Chết vì chúng ta đang sống với thực tại, cái không còn nữa và cái sẽ chớm nở lên. Ta làm cho sự vô cùng chống lại cái vô cùng, sáng tạo nên hình ảnh Thiên Đàng hay miền Cực Lạc... để đi tìm sự thanh thản của linh hồn... vứt bỏ đi thực thể của cái đạo đức sơn phết toàn sữa tươi và mật ngọt! khi nền văn minh càng đi vào hồi cực thịnh, con người lại càng run sợ trước cái ô cùng của vũ trụ. Càng đi sâu vào cái khoảng không mênh mông của trời đất càng chẳng tìm thấy cái gì bên trong cái thăm thẳm đó...
Cho đến lúc bấy giờ họ mới sực nhớ cái cứu cánh của con người không phải là sự khám phá mà là sự đầu tư tri thức để mở rộng cái mớ lý thuyết khoa học họ thu nhận được trong cái khối óc hạn hẹp đầy nhóc cả ngã mạn, và sự tự hào, tự mãn của mình! Lúc bấy giờ họ kêu lên: "Có hay không Cõi Chết"! Họ không dám nhắc đến Thiên Đàng bởi họ sợ Địa Ngục. Họ không muốn nói lên cái vĩ đại của Đất Trời bởi họ sợ mình là cát bụi!
Người tiền sử không biết hay không cần biết có linh hồn hay không đang ngự trị trong cái xác thân của mình, mà chỉ nhằm vào bên trong cái bóng đêm đen tối đó hay trong các bụi bờ rậm rịt, trước những tảng đá nằm lăn lóc ở chân núi. Hoặc những thân cây cổ thụ nơi rừng rú hoang vu cùng tiếng sóng cả gầm thét, hay tất cả những gì họ không tài nào lý giải được! Họ tin Sự Sống và Cái Chết của bản thân mình tùy thuộc vào bên trong cái bóng đen dày đặc đó...
* * *
Cõi Chết không cần các di vật mà chỉ cần sự yên ổn! Các tôn giáo đều có cùng một quan điểm như nhau là gột rửa cho linh hồn kẻ chết được hoàn toàn trong sạch, trước khi vào nước Thiên Đàng hay miền Cực Lạc! Họ đã làm như vậy từ nhiều thiên kỷ. Có nghĩa họ đã tiễn đưa biết bao nhiêu xác chết đi vào chốn yên nghỉ nghìn thu. Và cứ như thế..họ thay mặt cho cái Thiện để dẫn dắt linh hồn của những người nằm xuống đi vào cõi vĩnh cửu cùng một công thức như nhau bất di bất dịch... Cõi Chết không phải là ảo tưởng mà nó là sự thật. Không thời đại nào, thiên niên kỷ nào mà không nhắc tới, bàn tới, bởi mọi vật trên cõi đời này không có gì trường cửu mà chỉ là hạn kỳ tạm thời và ngắn ngủi... theo định luật sinh, lão, bệnh, tử...
Cõi chết là đó bạn hiểu chưa? Nó là một cõi vô hình có thực mà bạn không bao giờ tin được. Cũng có thể nhiều lúc bạn nhìn thấy ma, nghe tiếng ma bên tai, thoạt đầu bạn tin là có thực, vì sự thực bạn đã nhìn, đã nghe, đã thu nhận một cách rõ ràng bằng mắt thấy tai nghe và bằng cảm giác của mình trong giờ phút huyền diệu đó! Nhưng mâu thuẫn thay! rất có thể bạn không còn tin đó là sự thật... và kết luận đó chỉ là ảo giác... Khoa học và thực tế đã kéo bạn về với Sự Sống thật hiện hữu... mà Sự Sống không bao giờ muốn tin rằng có bên kia Cõi Chết! Quả Cõi Chết thật mơ hồ đến nổi dù chính mắt ta trông thấy, tai ta nghe được nhưng chẳng ai chứng minh được lời mình nói, người chết thì chẳng bao giờ đi làm nhân chứng cả!
Vậy thì người chết mới biết có Cõi Chết. Bí ẩn là ở chỗ đó. Theo thuyết nhà Phật tất cả đều chỉ là "sắc sắc không không". Tất cả chỉ là Vô Thường. Đời chẳng qua là cõi tạm. Có đó rồi không đó. Nó chỉ là một "sát na", một khanila... Chẳng có gì là thật, mà cũng chẳng có gì là vĩnh viễn trong cõi tạm này! Vậy thì Cõi Chết là đó. Là tất cả những dây mơ rễ má không còn dính líu đến tâm tư của mình. Kinh Dzyan nơi tiết bốn mục B nói về cái Đại Nguyên Nhân nơi tiểu tiết B là những nguyên nhân của Sự Vật. Mỗi một Nhân ấy là một Quả và rồi mỗi một Quả lại là một Nhân của cái quả tiếp theo sau đó... Những "Nguyên Nhân" đều phải chấp hành bởi bị ảnh hưởng qui luật chung của đất trời mà chẳng ai có thể tránh được.
Bạn hỏi tôi: nếu quả có Cõi Chết liệu có sự luân hồi chăng? Bạn sợ có sự luân hồi nếu quả thực có Cõi Chết? Nếu bạn tin là có thì tôi hay bạn hoặc tất cả mọi người trên thế gian này đang trả cái nợ của chúng ta tạo ra từ bao kiếp trước. Vậy cái có của chúng ta hiện hữu là di sản của chúng ta đã tạo ra từ bao nhiêu kiếp tồn trữ lại. Bạn có bao giờ nghĩ rằng tôn giáo lúc nào cũng từ chối truyền thông với Cõi Vô Hình không? Điều làm cho tôn giáo nổi bật là họ duy trì quan niệm sắc bén về những lằn ranh không vượt qua được và không thể nào làm cho Sự Chết thất bại.
Những tên phù thủy luôn luôn tìm đủ mọi cách thâm nhập vào tôn giáo dưới nhiều hình thức dùng quyền lực đối với bất cứ ai. Họ, những tên phù thủy muốn chiếm thế thượng phong luôn cả nền văn minh của nhân loại. Mỗi nền văn minh đều có bí ẩn riêng tư của nó. Từ xưa nay, mọi cuộc tế lễ, mọi nền luân lý đều được đặt bày ra không phải để đi đúng với ý niệm của nó, mà mục đích muốn tạo nên một sự thống trị không bằng vũ khí mà bằng lời nói nhân danh Đấng Tối Cao... của mình.
Những tay phù thủy này hằng mong thực hiện niềm mơ ước của mình có đủ quyền năng để ban cho sự sống hay sự chết, sự bằng an hay bất ổn... Con người tự thần thánh hóa cho mình mang dấu ấn của Cái Chết từ nhiều thế kỷ khắc sâu vào bờ tường đá, tạc ngay vào cả bàn thờ, vào thánh đường, chùa chiền và từ ngàn xưa đã khắc ghi trong cả kim tự tháp để ban bố cho mọi người những nấm mồ theo sự an bài bởi uy quyền của họ.
ANH BẢO TÔI KỂ VỀ CÁI CHẾT CỦA TÔI Ư ? Nó chỉ là kết quả sau cùng của một cơn bạo bệnh. Hay nói một cách khác hơn nó là những cố gắng bất thành của một cái vỏ đã đến hồi mục nát. Tôi cũng đã từng chứng kiến những màn hài kịch diễn ra quanh cái thi hài nằm bất động. Họ là các diễn viên đang cố gắng lôi kéo tôi trở lại với sự sống bằng ống dây dẫn thuốc. Sinh mệnh tôi tùy thuộc vào trò nối liền giữa cái sống với cái chết. Như vậy có nghĩa tôi sẽ có thể chết bằng cái nhún vai thật nhẹ nhàng tuyệt vọng của một hay nhiều diễn viên đứng cạnh giường tôi.
Hình ảnh của sự chết không phải ai cũng như ai. Có người nhìn thấy những vầng hào quang sáng chói bao phủ quanh mình. Có người thấy đang là đà bay lượn trên một cánh đồng xanh bát ngát và bên tai tựa hồ như có muôn ngàn tiếng nhạc gom lại thành một âm điệu tuyệt vời. Nhưng cũng chẳng ít người nhìn thấy cái chết chỉ là một khoảng không mênh mông dẫy đầy những hình ảnh của ma vương, ác quỷ...Các lý thuyết gia cũng như các nhà tư tưởng đều có cùng một quan niệm như nhau : cái gì đã rứt bỏ thì không thể nào hàn gắn lại được. Cái phần hồn đã thoát ra chẳng bao giờ trở lại với cái xác thân mục nát kia nữa. Có điều linh hồn rồi sẽ đi về đâu, nó phù hay trầm đều tùy thuộc vào cái nghiệp chướng tạo ra của mình từ thuở sinh thời!
Đừng tưởng những người sắp chết họ thành thật. Chính họ nói dối còn hay hơn cuội. Chẳng có gì khó hiểu cả. Bởi họ sợ phải nói lên những điều mình giữ kín trong suốt cuộc đời. Họ không muốn đối diện với sự thật... Thật là sai trái khi tìm kiếm một dấu hiệu của định mệnh mình, trong sự tự tạo thành một thần tượng để dối gạt kẻ khác. Con người gây nhiều tội ác bao nhiêu càng đam mê về tuổi thọ bấy nhiêu. Tấm bia đá "Từ Phúc Đăng Ngạn" trên một hòn đảo nhỏ ở đất nước Phù Tang còn sờ sờ ra đó, đủ chứng minh Tần Thủy Hoàng muốn mình được trường sinh bất tử. Tội lỗi càng nhiều càng lắm mưu toan xa rời cái chết.
Không có hình ảnh của cái chết. Chẳng ai muốn ra trước tòa phán xét cũng chẳng ai muốn nhìn lại cái nghiệp chướng xấu xa của mình. Bạn muốn tôi kể lại cái chết của tôi ư?! Chẳng có gì cả. Nó là một chuổi dài bất tận khởi đầu từ lúc mới tượng hình trong lòng mẹ. Trong mỗi người vốn cưu mang cái chết khác nhau. Chẳng ai giống ai cả. Vì vậy mà chẳng có mẫu số chung của cái chết. Bạn muốn biết sự thật về "Cái Chết"? Có hay không bên kia thế giới? Ai cũng muốn biết. Trong suốt cuộc đời, ít nhất cũng một lần nghi ngờ "có một cái gì đó" ngoài sự hiểu biết của mình! Thỉnh thoảng ta cũng nhìn thấy hình ảnh của cái chết nhưng lại quên ngay đi như ánh chớp vừa lóe lên đã lịm tắt ngay sau đó.
Thật khó lòng mà xác minh được rằng là có cõi chết hay không? Nó hoàn toàn bí ẩn. Nếu tôi bảo rằng có, liệu bạn tin được lời minh xác của tôi không? Tôi có cảm tưởng "Cõi Chết" thật ích kỷ. Nó không muốn mình bị phát giác, nhưng lại muốn xác nhận quả có sự hiện hữu của cõi vô hình! Có lắm người chuẩn bị đến cõi chết bằng tự sơn phết cho mình những nét vàng son chói lọi, nhưng không phải để họ mang theo, mà là muốn được người đời mang chưng bày ở một nơi nào được xem là trang trọng nhất! Chết rồi sẽ đi về đâu? Thật mơ hồ. Chẳng có ai nói rõ được điều này một cách trung thực cả.
Theo quan niệm của Đức Khổng: "tử giả biệt luận". Ngài bảo chết là hết, là biệt luận. Chẳng còn gì cả. Tuy nhiên chúng ta chẳng thấy thánh nhân chứng minh cho cái thuyết biệt luận của mình. Cái xác thân chỉ là cái vỏ bọc bên ngoài, nơi trú ngụ của một linh hồn bất diệt. Rồi đến một giai đoạn nào đó đủ hạn kỳ cái vỏ kia cũng sẽ phải mục nát, tan rã theo thời gian mà trở về với cát bụi. Cái chết với cái sống bên nhau. Chẳng ai muốn chết mà chỉ muốn mình được sống vĩnh viễn trên cõi đời này. Tất nhiên là chẳng có ai được cả. Mọi người đều phải tuân theo qui luật như nhau. Nhỏ rồi lớn. Lớn rồi già. Già rồi chết. Nó tuần tự đi theo con đường của Tạo hóa vạch sẵn.
Khi con người buông tay nhắm mắt chính là lúc họ đang đi trong cái chết của chính mình, chứ không phải ở những bộ đồ tang phục của người sống mang trong người để tiễn đưa kẻ ra đi đến chốn an nghỉ cuối cùng! Điều đáng sợ nhất của người chết là sự ghẽ lạnh và sự an ủi khách sáo của những người sống. Đành rằng họ đang mũi lòng và nước mắt đau buồn đang chảy dài trên đôi má họ! Bạn hỏi tôi: "Vậy cái chết của bạn ở đâu?" Chắc chắn là không phải trên dường đi đến nghĩa trang hay lễ cầu hồn! Họ đang cầu xin cho vong linh được siêu thoát. Họ không cần biết cái hành trang trên lưng của bạn trên chặng đường đời mà bạn đã đi qua nặng nhẹ thế nào!
Chính cái xác chết của bạn bị quấy rầy bởi mọi cái phức tạp của những con người nặng về phần trình diễn. Chính những lúc ấy cái vong linh của bạn nhìn thể xác bạn đang nằm yên bất động. Bạn đừng tưởng rằng vong linh của bạn nó sẽ bịn rịn khóc than cho cái vỏ mục nát rửa ráy mà ngày nào đó đã "cưu mang" nó! Chẳng bao giờ! Đối với vong linh chỉ xem là cái áo cũ kỷ mục nát đã đến lúc cần phải được thay đổi bằng một chiếc áo mới khác, đúng theo kích thước và hợp với trọng lượng của mớ hành trang đó. Còn gì ngây thơ bằng là tự hỏi tại sao có cái chết trong ta?! Chẳng có gì khó hiểu cả! Chính sự chết của chính mình là một sức sống mới khác vươn lên. Nó chẳng khác nào Thái dương hệ này tàn rụi đi thì một Thái dương hệ khác nẩy nở. Và...cứ như thế mà liên tục tiếp nối nhau đời đời kiếp kiếp.
ANH BẢO TÔI KỂ CÁI CHẾT CỦA TÔI Ư? Cái chết của tôi đến như một giấc mơ êm dịu, một giấc mơ hoàn toàn tuyệt hảo... Đó là những giấc mộng mang đến cho ta những phút giây chân lý. Đừng tưởng cái chết sau khi buông tay nhắm mắt con người sẽ mất đi cái tâm thức. Không phải như vậy. Cái tâm thức vẫn còn tồn tại. Nếu bảo cái tâm thức ấy mất đi chỉ là lý luận của một sự không tưởng. Mà nó luôn luôn hiện hữu dù cái xác thân đã đến hồi mục nát... Ngay trong lúc anh đang sống đây chính là lúc anh đang chết. Tôi cũng vậy đâu có khác gì anh? Anh muốn biết hình ảnh của cái chết ư?! Đó là hình ảnh của những cánh tay thật dài ngoằn ngoèo như thân con rắn, với những con mắt to tướng lồi lên như những hạt ốc bươu to tướng. Đó là những hình ảnh tuyệt kỹ của cái chết.
Những kẻ đang sống cứ đinh ninh là những người nằm xuống theo đúng chu kỳ sống đó, sẽ phải khóc lóc thảm thiết khi nhìn thấy cái xác thân của mình đang được các phu nhà quàn mang sắp lớp bên đống thây ma rữa nát hoặc khô cằn nằm dưới lòng huyệt lạnh! Thật là ngây thơ! Trong Tân Ước, Soeur Marth de Lazare trích lấy về điều huyền thoại ghi rằng: "Người sống lại duy nhất lôi ra từ những người chết để họ được sống thêm một thời gian ngắn nữa." Marth hai lần đã nói: "Nếu Chúa có mặt ở đây thì anh tôi đâu có chết!"
Anh biết không? Mỗi ngày chẳng những tôi và luôn cả anh cũng như tất cả mọi người trên đời này đều phải nói dối... là mình đang sống và đang trưởng thành theo thời gian năm tháng. Thật ra, cái nói dối quen thuộc đó với mục đích để quên đi là mình đã và đang chết dần mòn, không phải mới hôm qua hay hiện tại, mà ngay từ lúc mới sinh ra đời. Có nghĩa con người đã chết ngay từ lúc biết cái sống. Ấy thế mà người ta vẫn sợ cái chết! Con người vẫn phải xúc động mạnh và tỏ ra hoảng hốt trước sự ra đi để đến một thế giới khác. Lazare kể tiếp: "Chúa Jesus đến, nó khóc. Nó không hiểu gì cả. Không nói lấy một lời. Nó nghĩ đến cội nguồn và tìm đến đó".
Nó quay về phía những người đã đưa nó đến và nhìn thấy sự thực của những con người sống đang hãi hùng trước cái chết. Không phải họ sợ những cái thây ma với những chiếc đầu lâu trơ khấc mà chính là họ đang sợ cái đáp số của bài toán mình không đúng. Họ sợ Thiên Đàng hay cõi Niết bàn bỏ rơi họ. Họ sợ rồi ngày mai đây hay một ngày nào đó sẽ nằm duỗi dài trong chiếc áo quan chật hẹp lúc nào cũng phủ lên một lớp màn đêm đen tối! Họ biểu lộ những trạng thái hãi hùng đến độ chính họ cũng không biết mình đang là người hay ác quỷ?!
Câu chuyện được Marth kể tiếp: "Chúa Jesus đở người chết trong đám người chết dậy". Thế có nghĩa bậc siêu nhân này đã cứu sống được người không còn cách nào cứu sống nữa. Đây là hình ảnh khá lạ lùng, một câu chuyện thật huyền diệu chưa hề thấy xảy ra ở thời đại nào, thiên kỷ nào. Không có một ai chứng kiến theo bất cứ một tập quán nào mà có thể phát hiện ra một sự kiện như vậy. Ấy thế mà hơn hai ngàn năm qua rồi vẫn còn nằm trong vòng bí mật. Chẳng có một ai lý giải được. Con người có thể cứu được bệnh nhưng có bao giờ cứu được mệnh đâu! Như vậy có nghĩa là gì, nếu không nói là phép lạ ?... Một phép lạ diễn ra từ tay một người thoát khỏi vòng sinh, lão, bệnh, tử!
Có lắm thuyết chứng minh cho cái chết. Người ta đưa ra cái thuyết không phải để chứng minh có cái gì ở bên kia thế giới mà để cảnh cáo họ hãy xem chừng những bờ vực thẳm đang hiện dần ra trước mắt họ! Chính những cái xác thân nằm bất động mới hiểu biết nhiều hơn ta. Đối với xác chết cái gì cũng trải qua. Họ biết từ cái sinh đến cái lão, từ cái bệnh đến khi họ quay đầu về núi. Chẳng những vậy mà các cái xác đó còn biết luôn cả tâm trạng của những người sống đang vây quanh mình đang nghĩ gì?! Không phải họ những kẻ sống đang run sợ đó, đang thương xót cho cái xác thân rữa nát nằm yên trong quan tài của mình mà chính họ đang ưu tư cho số phận mình!
Bạn muốn biết Cõi Chết như thế nào ư? Hãy theo tôi đi vào cái thế giới gần như bất động đó. Một thế giới các thây ma đang nằm sắp lớp, đầy rẩy cả những con dòi bọ từ những con ma mới đang sinh sôi nẩy nở. Đừng lầm tưởng những con ma mới ấy đã chết! Thật ra nó đang hít thở không khí chứng minh cho sự sống. Nó không còn là một thực thể biểu tượng cho con vật tối linh, biết nói năng, biết hành động và suy tư... mà là đang âm thầm vác cái vỏ cát bụi để trả về cho cát bụi... Chúng ra đi vĩnh viễn, không còn ở với chúng ta nữa, không còn trở lại với chúng ta nữa. Tất cả phải xa rời vĩnh viễn... mà chỉ có phần hồn mới là tồn tại. Nhưng tồn tại như thế nào còn tùy theo cái căn cơ nghiệp chướng của nó!
* * *
Một đứa bé lên mười, trong một tai nạn xe hơi được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Đứa bé thuật lại: "... trên một quãng đường cong hắn nhìn thấy một chiếc xe hơi đang chạy bỗng tung bay lên cao tiếp theo sau đó một tiếng động mạnh và... hắn không còn cảm thấy gì nữa.
- Ấy thế mà tôi biết rõ là mình bị tai nạn. Nhưng chỉ giây phút sau tôi chui ra khỏi xác thân bằng lối đỉnh đầu mình. Tôi không còn cảm thấy châu thân mình đâu nữa, hoàn toàn mất hẳn trọng lượng. Sự di chuyển quá dễ dàng dường như chỉ cần điều khiển bằng ý nghĩ. Tôi nghĩ đến bữa cơm chiều. Chắc mẹ mình đang trông đợi. Tức thì tôi nhìn thấy ngay hình ảnh mẹ tôi đang loay hoay làm "bít tết" trong bếp và lủ em tôi thì đang ngồi đợi nơi bàn ăn. Tôi cũng chẳng mấy ngạc nhiên về cái phi thường này của mình và ngay cả là tôi cũng chẳng biết là mình đã chết. Cái hiện hữu thật nhẹ nhàng và nhanh chóng gây cho tôi một cách nhìn thích thú. Tôi lại nghĩ đến bãi cỏ xanh, nơi mà tôi trước khi lên xe đi với cha tôi đã cùng đám em chơi túc cầu và để quên lại chiếc áo khoác máng lên cái móc nơi phòng đợi. Rõ ràng là chiếc khăn tay cũng còn đó.
Tôi vớ lấy nhưng bất giác có một sức mạnh phi thường đẩy tôi về phía trước. Và như một mảnh giấy tôi bay đi thật nhẹ nhàng lơ lửng trên không. Còn gì thích thú bằng?! Nhưng lần này tôi hoàn toàn không còn chủ động được. Có một động lực nào đó đẩy tôi trở lại nơi cái xác thân của tôi đang nằm. Bất giác tôi cảm thấy toàn thân đau đớn đến cực độ. Tiếng rên rỉ của tôi như nói lên sự từ chối trở về với sự sống.
- Không! Tôi không muốn bị chui trở lại vào cái xác thân kia nữa!
Một làn ánh sáng tỏa ra hơi ấm vô cùng kỳ diệu tiến lại và như truyền cảm vào tâm tư tôi:
- Này con yêu của ta! Ta luôn luôn thương yêu con. Có lẽ con cũng thương yêu ta. Con hãy nghe lời ta mà trở về để tiếp tục đi nốt quãng đời còn lại.
Và tôi mở mắt. Mẹ tôi kêu lên:
- Trời ơi! Con tôi sống lại.
Léon Denis cũng mô tả một câu chuyện và hình ánh sáng gần như vậy trong tác phẩm của ông ta nói về "đời sống sau khi chết" (Après La Mort).
Thinh Quang
#35
Gửi vào 07/06/2011 - 09:29
DƯƠNG TRÙNG DƯƠNG
Văn phòng chính của ông nằm trong khu Mall of Fortune, Thương xá Tam Đa. Lối bài trí của gian phòng bên ngoài thật trang nhã, thanh tịnh bởi nhiều bức tượng Phật Di lặc khổ lớn, đặt rải rác trên sàn nhà, chen lấn với những chậu cây kiểng, cây phát tài và những fountain có nước chảy róc rách. Một phụ nữ trung niên có nhan sắc mặn mà, mặt hiền hoà ngồi tiếp điện thoại, đón khách hàng. Đối xứng với những bức tranh gỗ khắc nổi, cũng là những đầu tượng Phật. Như đã được hẹn thần pháp sư Dương Trùng Dương thân mật tiếp hai nhà phóng viên, tại văn phòng phía sau một gian hàng chuyên bán thẻ điện thoại.
Dọc theo bức vách nhiều bàn thờ vẫn còn thơm lừng mùi nhang khói. Một bức chân dung lớn vẽ thần pháp sư họ Dương, bức tranh do đệ tử ông thực hiện, mà ông đã cho chụp lại, dùng để đăng trên các trang quảng cáo về dịch vụ trừ bùa, ếm ngải của mình. Một chiếc bàn tiếp khách bằng gỗ thường, bốn chiếc ghế và một cái đôn bằng gỗ dùng để làm ghế quây quần chủ và khách. Một luồng ánh sáng chói loà, phát sáng từ skyline từ trần nhà xuống làm gian phòng nhỏ chật hẹp, chứa đựng nhiều thứ đồ cúng tế, các loại phướn có chữ Tây tạng (?), không đến nỗi tối. Trong khung cảnh đó thần pháp sư Dương Trùng Dương tiếp chúng tôi. Câu chuyện lan man về bùa, ngải, và các vấn đề liên hệ tới báo chí, quan niệm nhân sinh quan, và tất nhiên, những tin tức dồn dập về vụ đầu lâu đang gây xôn xao trong và ngoài nước…
VW: Xin ông cho biết đã học nghề bùa chú như thế nào?
DTD: Tôi học từ dòng họ từ đời ông cha để lại, rồi phải có những tích lũy sâu thẳm của nghề nghiệp, do mình phải học hỏi mà có.
VW: Xin đi vào cụ thể, thời gian vừa qua, người ta hay nhắc tới chữ “Thiên linh cái”, xin ông giải thích cho biết thế nào là Thiên linh cái?
DTD: Thiên linh cái là gì? Có nhiều trường hợp ở ngoài đời người ta không hiểu được. Như trong tờ báo có viết rằng ở Việt Nam, có một người vì muốn luyện Thiên linh cái, nên đã giết một bệnh nhân, giấu xác để lấy đầu. Theo tôi, người đó tu luyện cách đó là không đúng, nói về trường hợp của bà Smith Hà thì đúng hơn. Thiên linh cái là một bào thai nhỏ. Bào thai còn nhỏ, oan hồn còn nhỏ là một thiên linh. Người thầy dùng cái xác và cái hồn chết oan đó để luyện Thiên linh cái.
VW: Có người cho rằng, Thiên linh cái quí nhất là bào thai, tuy nhiên có thể kéo dài tới mười hai tuổi, nhưng phải còn trong trắng, ông nghĩ nhận định như vậy có đúng không?
DTD: Rất chính xác. Trong nghề có nhiều người thầy dùng xác chết để nguyên, sống để luyện, cũng có người thiêu đốt xác để luyện Thiên linh cái.
VW: Có người nào dùng đầu lâu để luyện Thiên linh cái không?
DTD: Không. Đầu lâu không luyện được Thiên linh cái, mà chỉ luyện được bằng bào thai thôi. Đầu lâu dùng để luyện cái khác, chứ không phải dùng để luyện Thiên linh cái. Đi sâu vào xã hội Tây Tạng, thì người dân ở đây không coi đầu lâu là cái gì ghê gớm hay khác thường, hoặc quan trọng. Họ thường gởi đầu lâu đi khắp thế giới. Người Tây Tạng có tập tục lóc thịt người chết cho kên kên ăn, xương thì đập rồi rải cho thú ăn. Đầu lâu để dành cho việc thờ cúng gì đó… chứ không có gì quan trọng. Ý tôi nói, tùy theo tập quán xã hội. Còn xã hội Việt Nam mình, chuyện nhỏ thì muốn xé ra to, còn chuyện to thì không dám làm gì hết.
Vì một cái gì đó họ làm cho lớn lên, còn chuyện đào xới cả một nghĩa trang của người ta thì không sao. Vì sao? Vì họ không thấy vấn đề sâu xa của một con người. Chẳng hạn như người Tây Tạng cầm bốn năm cái đầu lâu đi lòng vòng chơi, cũng không ai nói gì hết. Vì xã hội nó như vậy. Chuyện một cái đầu lâu đâu có gì ghê gớm mà làm lớn chuyện như vậy?
VW: Tại sao anh lại cần một cái đầu lâu, lại order từ Việt Nam qua, anh cần đầu lâu để làm gì?
DTD: Thực sự mình cũng không cần. Vì nếu mình cần, bên Mỹ mình cũng có những đồ để mình làm rồi, không nhất thiết phải order từ Việt Nam qua. Có thêm cũng không sao, không có cũng không sao.
VW: Trong trường hợp này, tại sao lại có cái đầu lâu gởi qua, và nhất là cái đầu còn tươi?
DTD: Không nhất thiết là tươi hay khô. Như tôi nói là nếu tôi thấy cần thiết, ở bên này tôi có thể order từ Tây Tạng, các vị thầy bên đó có thể gởi cho tôi.
VW: Như vậy ông có order đầu lâu không? Hoặc là ông order một món hàng nào đó, mà họ hiểu lầm gởi cho anh cái đầu lâu?
DTD: Tôi nói là mình cần đầu tượng Phật như vầy như vầy, có thể người bên đó tưởng rằng, trong cái đầu Phật cần phải có chứa đựng một cái gì đó, để nó linh thiêng nên họ mới gởi qua có đầu lâu.
VW: Như vậy là ông đặt hàng đầu tượng Phật, họ lại gởi đầu Phật có chứa đầu lâu người?
DTD: (cười) Tại vì bên đó người ta đi hỏi các vị thầy khác, ví dụ lên núi Bà, lại có một chỗ thờ một cái đầu lâu người… thì người bên đó tưởng là có cái đầu lâu người, gởi qua cho linh thiêng. Thật sự linh thiêng hay không, phải do một vị thầy tu luyện giỏi về ngải, bùa...ăn làm sao, nói làm sao để vật đó linh thiêng. Tại làm sao một vị thầy lời nói của họ nói ra là có sức mạnh. Tại làm sao một vị thầy giơ tay lên, vẽ một đạo bùa, sẽ xoay chuyển được nhiều thứ. Đạo bùa là gì? Cũng giống như mixer, hay cái computer với những bí số 01, 01 để điều khiển.
Một vị thầy tu luyện giỏi, sẽ nắm được các luồng sức mạnh trong vũ trụ. Một vị thầy giỏi về thiên văn trong vũ trụ, có thể dùng những đạo bùa để điều khiển được nhiều thứ. Ví dụ như trên tay tôi đây (chỉ vào tay) có những chữ, số. Đây không phải là những hình, những số giỡn chơi. Mà đây là những cái “trap” (bẫy), thần chú. Người ta nói thần chú là những trái bom nổ chậm. Người Mỹ đã trưng dụng được phép thuật của người Ấn Độ, Trung Hoa, Tây Tạng...
VW: Giả sử như một người thầy có khả năng luyện chú với Thiên linh cái, họ sẽ có thêm khả năng gì?
DTD: Không trở thành cái gì hết. Người thầy vẫn là thầy thôi. Thiên linh cái chỉ giúp thêm cho người thầy biết trước một số điều gì đó. Thiên linh cái sẽ báo trước những tín hiệu, như ngủ nằm mơ một dấu hiệu gì đó… Nếu tin vào hành tinh quỹ đạo của con người, phải thay đổi hành tinh bổn mạng. Phải có những bùa chú để đọc lên, làm thay đổi quỹ đạo hành tinh của cuộc đời. Giúp cho việc đi tốt hơn. Ví dụ quỹ đạo bổn mạng của anh sắp đụng phải đá, thần chú sai khiến đọc lên, giúp cho anh thay đổi, đi tránh được cục đá đó mà thôi.
VW: Một người thầy luyện giỏi sẽ biết nhiều về tương lai, vậy khi biết được tương lai, họ có thể tránh được những chuyện này hay chuyện khác không?
DTD: Theo kinh nghiệm của tôi mình biết trước như vậy, nhưng có muốn làm thay đổi hay không là một việc khác. Hầu hết con người ta rất bướng bỉnh. Ví dụ như có ai nói với anh rằng, trong ba tháng nữa, anh sẽ có thêm ba ngàn đollars. Nhưng anh chỉ có bằng đó thôi nghe, đừng tham đừng kiếm thêm. Nếu không anh sẽ phải nhả ra cả tiền vốn lẫn tiền lời, tôi chỉ cho anh chừng đó thôi nghe. Nhưng vì tính bướng bỉnh, tôi đã có ba ngàn, tôi cũng phải có thêm bốn ngàn, mười ngàn... Vì tánh bướng bỉnh này, mà nhiều người được các vị thầy mách trước cho biết, vẫn không tin hoặc không làm theo.
VW: Có mấy danh từ họ hay dùng mà ít người hiểu thấu đáo như: Bùa, ngải, ếm, chú...xin ông giải thích?
DTD: Để làm cho người ta hoảng sợ, như lúc đầu tôi nói con người dễ bị hoang mang, nghe nói rồi sợ. Ngải là gì? Bùa là gì? Thư ếm, trùng độc là sao? Ngải chỉ là những thứ củ thuốc, trái cây. Nó có những dược tố hay độc tố tùy theo loại. Mỗi loại ngải có chứa đựng ngũ hành, Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ... Nếu củ này người ta nói là củ ngải có thể ăn được, chữa lành được thì cũng có thể chết được. Ví dụ đi vô rừng có những loại cây, chỉ đụng vào có những cây có chất độc, như cây Sơn, đụng vào là bị ngứa nhựa của nó quá độc. Ngải cũng giống như vậy. Tuy nhiên, ngải được các thầy ngải chăm sóc, cho ăn các loại ngũ hành.
Nói một cách tổng quát để dễ hiểu, nhưng tôi khuyên là những người không biết gì về ngải, đừng cố gắng luyện tập gì hết, rất nguy hiểm. Ngải có rất nhiều loại. Ngải cần luyện cho đúng. Có thể có sức mạnh. Chỉ nói về phấn của ngải, cũng là độc rồi. Ngải có thể sai khiến đi chỗ khác, như một con vật. Vì ngải được cho ăn đầy đủ. Ngải được đụng tới người này, hay cho người kia ăn chứ không phải nó đi, chạy như một người đâu.
Nếu tôi muốn thư ếm anh, tôi sẽ bỏ một cái gì đó trong người anh, làm cho đầu óc anh bất bình thường, tạo cho hệ thống thần kinh của anh thay đổi. Đó là ngải. Trùng độc cũng vậy thôi. Trùng là các loại độc dược, nhiều loại độc trộn chung với nhau, rồi có một con rất độc cho nó ăn, lấy phân của nó làm thành trùng độc. Ví dụ tôi mời anh một ly nước, bỏ vào đó một cái gì đó, ngày mai anh không biết mình là ai nữa. Đó là thuốc độc mà.
VW: Trong thời gian vừa qua, báo chí loan tải việc ếm, thư… việc ếm như thế nào?
DTD: Ếm là dùng một phương pháp đặc biệt trong đó có viết tên, viết họ vô, gài cái tên của mình vào. Tên của mình lúc nào cũng yên trí trong đầu mình. Đi ra ngoài đường, có ai gọi tên mình, mình mới quay lại, còn gọi tên một người khác thì thôi. Trong những lá bùa ếm có vẽ những chữ, tên ngoằn ngoèo nhằm thay đổi làn sóng trong người của anh. Khi gặp anh, họ đốt lên, sức nóng phát ra, hòa lại với con số hỗn hợp có tên của anh, đọc nhiều lần trong một không gian ba chiều nào đó, khiến cho xoay chuyển suy nghĩ của anh. Ví dụ như anh muốn bỏ vợ hay muốn vợ anh quay về, lá bùa đó sẽ có ứng nghiệm giúp chuyển đạt ý nguyện của anh.
VW: Trong vụ án Smith Hà cô Phương Thảo lấy một người tên Thắng, sau đó cô Phương Thảo yêu một người em ruột của ông Thắng, và hai người bỏ đi tiểu bang khác sinh sống. Sau đó họ cũng tan rã. Cô Phương Thảo về lại Cali, nhờ bà Smith Hà mua một lá bùa ngải yêu gì đó, với mục đích đưa ông người yêu về lại với bà ta… Theo câu chuyện kể như vậy, thì có bùa yêu hay không?
DTD: Đi sâu vào vấn đề có nhiều chuyện lắm. Nếu vì đồng tiền, làm như vậy có đúng hay không? Nếu trái với lẽ thường thì không nên. Ở đây, tôi không dám làm những chuyện gì trái với luân thường đạo lý. Vì trong thế giới bùa ngải, có những lời thề rất khắc nghiệt. Nếu không nghe lời làm quá, sẽ bị hại ngược lại. Tôi đã phải hứa, thề độc với các vị thầy là phải đi theo với qui luật trời đất, không đi ngược lại lý lẽ vũ trụ. Nói là dùng bùa ngải nhiều quá thì bị điên, bị phản điều đó có thật. Không ai dám lạm dụng bùa ngải nhiều. Dùng quá có hại, nhất là dùng ngải, bùa vì lòng tham.
VW: Có người cho rằng, bùa ngải có hai loại: thiện và ác, ông nghĩ sao?
DTD: Trên quả đất này cái gì cũng có âm và dương. Trong âm có dương, trong dương có âm. Ngải và bùa cũng vậy. Có những vị thầy với lòng từ bi. Cũng có vị thầy chỉ dùng với bùa độc ngải độc. Chẳng hạn như anh bị ho ra máu, bị cảm hay bị gì gì đó, tôi có thể giúp cho anh được. Một vị thầy giỏi, phải biết cả điều tốt lẫn điều xấu để giải trừ. Nếu bị ếm toán, bị thư độc, đến đây, tôi có thể giải được.
VW: Trong vụ Smith Hà, theo ông có dính dáng tới ngải, hay vụ sai khiến của thần linh, dẫn đến án mạng hay không?
DTD: Tôi có thể nói thế này, lúc đầu tôi nghe nói là bà Smith Hà đã được báo trước, nhưng không tin… Tôi thấy cũng đúng, vì nhìn thấy phương pháp của thầy Vũ Hùng, những bùa chú có liên quan tới ngải và cả Lỗ ban kinh.
VW: Ông theo phương pháp nào?
DTD: Tôi theo phương pháp luyện bùa Lỗ ban kinh.
VW: Ông có liên hệ gì sau vụ án của Smith Hà, đối với việc ông order đầu lâu ở Việt Nam không?
DTD: Tôi không có order đầu lâu. Tôi nói với mấy người em bên đó, nếu có dịp gì gởi hàng cho tôi thì cứ gởi, nhưng thực sự tôi không cần, vì những gì tôi luyện tập bên đây cũng đã có đủ. Muốn làm một người thầy ở Cali, phải thực sự có tài mới sống nổi. Phải cao tay, có khả năng mới sống được… Nên tôi không cần họ gởi qua. Nếu tôi cần, tôi đã order từ Tây Tạng, Ấn Độ gởi qua, cho khỏi bị rắc rối.
VW: Đầu lâu người khác với đầu lâu vật ra sao?
DTD: Đầu lâu người khác xa đầu lâu vật. Đầu lâu người có tính linh trong đó. Loài người có linh hồn, đầu người có tính linh rất đặc biệt. Tuy nhiên con người mình bị chi phối nhiều thứ quá, nên không ý thức được sức mạnh của phần tính linh trong mình. Tôi đi vào thế giới tâm linh bằng một tinh thần rất khoa học. Ở đây tôi tu luyện với sự tính toán kỹ, ít nhất là mình có học. Ở Việt Nam cũng đi học, qua đây cũng đi học về computer. Tôi học ở Montana, rồi học trường đại học Arizona University.
VW: Khi nào thì ông vào hẳn trong nghề thầy bùa?
DTD: Từ nhỏ tôi đã có học về nghề bùa. Các em tôi không có học về bùa.
VW: Hiện nay những người liên hệ về chuyện gởi đầu lâu đã bị bắt. Ông có nghĩ họ bị bắt có đúng không?
DTD: Họ bắt thì cứ bắt. Như tôi nói Việt Nam thấy chuyện nhỏ, cứ xé ra cho to. Xứ Mỹ này nếu anh bán cocain nửa ký hay nửa tấn đi chăng nữa, nếu anh có tiền chuộc mạng, cũng không sao. Còn ở Việt Nam nếu chỉ vì một vài gram thuốc phiện, không có tiền đút lót chuộc mạng, bị xử tử là chuyện thường. Đó là theo vấn đề luật pháp hay làm tiền gì đó, tùy theo họ thôi.
VW: Còn đối với ông phía ông có bị rắc rối gì với chính phủ Mỹ, về việc ông nhận đầu lâu hay không?
DTD: Mình cũng không nghĩ ra tại sao có sự rắc rối. Vì trên internet có thể mua xác người, đầu lâu trên các website, họ rao bán các xác chết nguyên bộ giá vài ngàn đô la, để về anh nghiên cứu học hỏi… đâu có gì đâu.
VW: Để kết luận lại bài viết này, từ việc vụ án bà Smith Hà, cho tới vụ đầu lâu gởi cho ông từ Việt Nam, xin ông cho biết nhận định cuối, nói về những việc nói trên. Ông muốn qua báo chí, nói điều gì?
DTD: Tôi không thấy có gì liên hệ với vụ án Smith Hà. Nếu có liên hệ chỉ là sự trùng hợp, vì tôi với bà ta cùng làm chung một nghề bùa ngải. Thực sự tôi rất thích nghề bùa ngải này, và đã làm từ nhiều năm qua. Vì tôi thấy có một sự huyền bí liên hệ tới tôi. Còn phía Việt Nam đó là việc của họ. Họ làm gì thì họ làm. Tôi thấy nó được thì tôi tiếp tục liên hệ, tôi đi khỏi nước từ năm bảy lăm tới giờ tôi chưa về lần nào. Chỉ liên hệ qua điện thoại.
VW: Người liên lạc với ông, gởi đầu về địa chỉ của ông, có liên hệ bà con gì với ông?
DTD: Đó là người bà con bên chú.
Nguyễn Tú A
Văn phòng chính của ông nằm trong khu Mall of Fortune, Thương xá Tam Đa. Lối bài trí của gian phòng bên ngoài thật trang nhã, thanh tịnh bởi nhiều bức tượng Phật Di lặc khổ lớn, đặt rải rác trên sàn nhà, chen lấn với những chậu cây kiểng, cây phát tài và những fountain có nước chảy róc rách. Một phụ nữ trung niên có nhan sắc mặn mà, mặt hiền hoà ngồi tiếp điện thoại, đón khách hàng. Đối xứng với những bức tranh gỗ khắc nổi, cũng là những đầu tượng Phật. Như đã được hẹn thần pháp sư Dương Trùng Dương thân mật tiếp hai nhà phóng viên, tại văn phòng phía sau một gian hàng chuyên bán thẻ điện thoại.
Dọc theo bức vách nhiều bàn thờ vẫn còn thơm lừng mùi nhang khói. Một bức chân dung lớn vẽ thần pháp sư họ Dương, bức tranh do đệ tử ông thực hiện, mà ông đã cho chụp lại, dùng để đăng trên các trang quảng cáo về dịch vụ trừ bùa, ếm ngải của mình. Một chiếc bàn tiếp khách bằng gỗ thường, bốn chiếc ghế và một cái đôn bằng gỗ dùng để làm ghế quây quần chủ và khách. Một luồng ánh sáng chói loà, phát sáng từ skyline từ trần nhà xuống làm gian phòng nhỏ chật hẹp, chứa đựng nhiều thứ đồ cúng tế, các loại phướn có chữ Tây tạng (?), không đến nỗi tối. Trong khung cảnh đó thần pháp sư Dương Trùng Dương tiếp chúng tôi. Câu chuyện lan man về bùa, ngải, và các vấn đề liên hệ tới báo chí, quan niệm nhân sinh quan, và tất nhiên, những tin tức dồn dập về vụ đầu lâu đang gây xôn xao trong và ngoài nước…
VW: Xin ông cho biết đã học nghề bùa chú như thế nào?
DTD: Tôi học từ dòng họ từ đời ông cha để lại, rồi phải có những tích lũy sâu thẳm của nghề nghiệp, do mình phải học hỏi mà có.
VW: Xin đi vào cụ thể, thời gian vừa qua, người ta hay nhắc tới chữ “Thiên linh cái”, xin ông giải thích cho biết thế nào là Thiên linh cái?
DTD: Thiên linh cái là gì? Có nhiều trường hợp ở ngoài đời người ta không hiểu được. Như trong tờ báo có viết rằng ở Việt Nam, có một người vì muốn luyện Thiên linh cái, nên đã giết một bệnh nhân, giấu xác để lấy đầu. Theo tôi, người đó tu luyện cách đó là không đúng, nói về trường hợp của bà Smith Hà thì đúng hơn. Thiên linh cái là một bào thai nhỏ. Bào thai còn nhỏ, oan hồn còn nhỏ là một thiên linh. Người thầy dùng cái xác và cái hồn chết oan đó để luyện Thiên linh cái.
VW: Có người cho rằng, Thiên linh cái quí nhất là bào thai, tuy nhiên có thể kéo dài tới mười hai tuổi, nhưng phải còn trong trắng, ông nghĩ nhận định như vậy có đúng không?
DTD: Rất chính xác. Trong nghề có nhiều người thầy dùng xác chết để nguyên, sống để luyện, cũng có người thiêu đốt xác để luyện Thiên linh cái.
VW: Có người nào dùng đầu lâu để luyện Thiên linh cái không?
DTD: Không. Đầu lâu không luyện được Thiên linh cái, mà chỉ luyện được bằng bào thai thôi. Đầu lâu dùng để luyện cái khác, chứ không phải dùng để luyện Thiên linh cái. Đi sâu vào xã hội Tây Tạng, thì người dân ở đây không coi đầu lâu là cái gì ghê gớm hay khác thường, hoặc quan trọng. Họ thường gởi đầu lâu đi khắp thế giới. Người Tây Tạng có tập tục lóc thịt người chết cho kên kên ăn, xương thì đập rồi rải cho thú ăn. Đầu lâu để dành cho việc thờ cúng gì đó… chứ không có gì quan trọng. Ý tôi nói, tùy theo tập quán xã hội. Còn xã hội Việt Nam mình, chuyện nhỏ thì muốn xé ra to, còn chuyện to thì không dám làm gì hết.
Vì một cái gì đó họ làm cho lớn lên, còn chuyện đào xới cả một nghĩa trang của người ta thì không sao. Vì sao? Vì họ không thấy vấn đề sâu xa của một con người. Chẳng hạn như người Tây Tạng cầm bốn năm cái đầu lâu đi lòng vòng chơi, cũng không ai nói gì hết. Vì xã hội nó như vậy. Chuyện một cái đầu lâu đâu có gì ghê gớm mà làm lớn chuyện như vậy?
VW: Tại sao anh lại cần một cái đầu lâu, lại order từ Việt Nam qua, anh cần đầu lâu để làm gì?
DTD: Thực sự mình cũng không cần. Vì nếu mình cần, bên Mỹ mình cũng có những đồ để mình làm rồi, không nhất thiết phải order từ Việt Nam qua. Có thêm cũng không sao, không có cũng không sao.
VW: Trong trường hợp này, tại sao lại có cái đầu lâu gởi qua, và nhất là cái đầu còn tươi?
DTD: Không nhất thiết là tươi hay khô. Như tôi nói là nếu tôi thấy cần thiết, ở bên này tôi có thể order từ Tây Tạng, các vị thầy bên đó có thể gởi cho tôi.
VW: Như vậy ông có order đầu lâu không? Hoặc là ông order một món hàng nào đó, mà họ hiểu lầm gởi cho anh cái đầu lâu?
DTD: Tôi nói là mình cần đầu tượng Phật như vầy như vầy, có thể người bên đó tưởng rằng, trong cái đầu Phật cần phải có chứa đựng một cái gì đó, để nó linh thiêng nên họ mới gởi qua có đầu lâu.
VW: Như vậy là ông đặt hàng đầu tượng Phật, họ lại gởi đầu Phật có chứa đầu lâu người?
DTD: (cười) Tại vì bên đó người ta đi hỏi các vị thầy khác, ví dụ lên núi Bà, lại có một chỗ thờ một cái đầu lâu người… thì người bên đó tưởng là có cái đầu lâu người, gởi qua cho linh thiêng. Thật sự linh thiêng hay không, phải do một vị thầy tu luyện giỏi về ngải, bùa...ăn làm sao, nói làm sao để vật đó linh thiêng. Tại làm sao một vị thầy lời nói của họ nói ra là có sức mạnh. Tại làm sao một vị thầy giơ tay lên, vẽ một đạo bùa, sẽ xoay chuyển được nhiều thứ. Đạo bùa là gì? Cũng giống như mixer, hay cái computer với những bí số 01, 01 để điều khiển.
Một vị thầy tu luyện giỏi, sẽ nắm được các luồng sức mạnh trong vũ trụ. Một vị thầy giỏi về thiên văn trong vũ trụ, có thể dùng những đạo bùa để điều khiển được nhiều thứ. Ví dụ như trên tay tôi đây (chỉ vào tay) có những chữ, số. Đây không phải là những hình, những số giỡn chơi. Mà đây là những cái “trap” (bẫy), thần chú. Người ta nói thần chú là những trái bom nổ chậm. Người Mỹ đã trưng dụng được phép thuật của người Ấn Độ, Trung Hoa, Tây Tạng...
VW: Giả sử như một người thầy có khả năng luyện chú với Thiên linh cái, họ sẽ có thêm khả năng gì?
DTD: Không trở thành cái gì hết. Người thầy vẫn là thầy thôi. Thiên linh cái chỉ giúp thêm cho người thầy biết trước một số điều gì đó. Thiên linh cái sẽ báo trước những tín hiệu, như ngủ nằm mơ một dấu hiệu gì đó… Nếu tin vào hành tinh quỹ đạo của con người, phải thay đổi hành tinh bổn mạng. Phải có những bùa chú để đọc lên, làm thay đổi quỹ đạo hành tinh của cuộc đời. Giúp cho việc đi tốt hơn. Ví dụ quỹ đạo bổn mạng của anh sắp đụng phải đá, thần chú sai khiến đọc lên, giúp cho anh thay đổi, đi tránh được cục đá đó mà thôi.
VW: Một người thầy luyện giỏi sẽ biết nhiều về tương lai, vậy khi biết được tương lai, họ có thể tránh được những chuyện này hay chuyện khác không?
DTD: Theo kinh nghiệm của tôi mình biết trước như vậy, nhưng có muốn làm thay đổi hay không là một việc khác. Hầu hết con người ta rất bướng bỉnh. Ví dụ như có ai nói với anh rằng, trong ba tháng nữa, anh sẽ có thêm ba ngàn đollars. Nhưng anh chỉ có bằng đó thôi nghe, đừng tham đừng kiếm thêm. Nếu không anh sẽ phải nhả ra cả tiền vốn lẫn tiền lời, tôi chỉ cho anh chừng đó thôi nghe. Nhưng vì tính bướng bỉnh, tôi đã có ba ngàn, tôi cũng phải có thêm bốn ngàn, mười ngàn... Vì tánh bướng bỉnh này, mà nhiều người được các vị thầy mách trước cho biết, vẫn không tin hoặc không làm theo.
VW: Có mấy danh từ họ hay dùng mà ít người hiểu thấu đáo như: Bùa, ngải, ếm, chú...xin ông giải thích?
DTD: Để làm cho người ta hoảng sợ, như lúc đầu tôi nói con người dễ bị hoang mang, nghe nói rồi sợ. Ngải là gì? Bùa là gì? Thư ếm, trùng độc là sao? Ngải chỉ là những thứ củ thuốc, trái cây. Nó có những dược tố hay độc tố tùy theo loại. Mỗi loại ngải có chứa đựng ngũ hành, Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ... Nếu củ này người ta nói là củ ngải có thể ăn được, chữa lành được thì cũng có thể chết được. Ví dụ đi vô rừng có những loại cây, chỉ đụng vào có những cây có chất độc, như cây Sơn, đụng vào là bị ngứa nhựa của nó quá độc. Ngải cũng giống như vậy. Tuy nhiên, ngải được các thầy ngải chăm sóc, cho ăn các loại ngũ hành.
Nói một cách tổng quát để dễ hiểu, nhưng tôi khuyên là những người không biết gì về ngải, đừng cố gắng luyện tập gì hết, rất nguy hiểm. Ngải có rất nhiều loại. Ngải cần luyện cho đúng. Có thể có sức mạnh. Chỉ nói về phấn của ngải, cũng là độc rồi. Ngải có thể sai khiến đi chỗ khác, như một con vật. Vì ngải được cho ăn đầy đủ. Ngải được đụng tới người này, hay cho người kia ăn chứ không phải nó đi, chạy như một người đâu.
Nếu tôi muốn thư ếm anh, tôi sẽ bỏ một cái gì đó trong người anh, làm cho đầu óc anh bất bình thường, tạo cho hệ thống thần kinh của anh thay đổi. Đó là ngải. Trùng độc cũng vậy thôi. Trùng là các loại độc dược, nhiều loại độc trộn chung với nhau, rồi có một con rất độc cho nó ăn, lấy phân của nó làm thành trùng độc. Ví dụ tôi mời anh một ly nước, bỏ vào đó một cái gì đó, ngày mai anh không biết mình là ai nữa. Đó là thuốc độc mà.
VW: Trong thời gian vừa qua, báo chí loan tải việc ếm, thư… việc ếm như thế nào?
DTD: Ếm là dùng một phương pháp đặc biệt trong đó có viết tên, viết họ vô, gài cái tên của mình vào. Tên của mình lúc nào cũng yên trí trong đầu mình. Đi ra ngoài đường, có ai gọi tên mình, mình mới quay lại, còn gọi tên một người khác thì thôi. Trong những lá bùa ếm có vẽ những chữ, tên ngoằn ngoèo nhằm thay đổi làn sóng trong người của anh. Khi gặp anh, họ đốt lên, sức nóng phát ra, hòa lại với con số hỗn hợp có tên của anh, đọc nhiều lần trong một không gian ba chiều nào đó, khiến cho xoay chuyển suy nghĩ của anh. Ví dụ như anh muốn bỏ vợ hay muốn vợ anh quay về, lá bùa đó sẽ có ứng nghiệm giúp chuyển đạt ý nguyện của anh.
VW: Trong vụ án Smith Hà cô Phương Thảo lấy một người tên Thắng, sau đó cô Phương Thảo yêu một người em ruột của ông Thắng, và hai người bỏ đi tiểu bang khác sinh sống. Sau đó họ cũng tan rã. Cô Phương Thảo về lại Cali, nhờ bà Smith Hà mua một lá bùa ngải yêu gì đó, với mục đích đưa ông người yêu về lại với bà ta… Theo câu chuyện kể như vậy, thì có bùa yêu hay không?
DTD: Đi sâu vào vấn đề có nhiều chuyện lắm. Nếu vì đồng tiền, làm như vậy có đúng hay không? Nếu trái với lẽ thường thì không nên. Ở đây, tôi không dám làm những chuyện gì trái với luân thường đạo lý. Vì trong thế giới bùa ngải, có những lời thề rất khắc nghiệt. Nếu không nghe lời làm quá, sẽ bị hại ngược lại. Tôi đã phải hứa, thề độc với các vị thầy là phải đi theo với qui luật trời đất, không đi ngược lại lý lẽ vũ trụ. Nói là dùng bùa ngải nhiều quá thì bị điên, bị phản điều đó có thật. Không ai dám lạm dụng bùa ngải nhiều. Dùng quá có hại, nhất là dùng ngải, bùa vì lòng tham.
VW: Có người cho rằng, bùa ngải có hai loại: thiện và ác, ông nghĩ sao?
DTD: Trên quả đất này cái gì cũng có âm và dương. Trong âm có dương, trong dương có âm. Ngải và bùa cũng vậy. Có những vị thầy với lòng từ bi. Cũng có vị thầy chỉ dùng với bùa độc ngải độc. Chẳng hạn như anh bị ho ra máu, bị cảm hay bị gì gì đó, tôi có thể giúp cho anh được. Một vị thầy giỏi, phải biết cả điều tốt lẫn điều xấu để giải trừ. Nếu bị ếm toán, bị thư độc, đến đây, tôi có thể giải được.
VW: Trong vụ Smith Hà, theo ông có dính dáng tới ngải, hay vụ sai khiến của thần linh, dẫn đến án mạng hay không?
DTD: Tôi có thể nói thế này, lúc đầu tôi nghe nói là bà Smith Hà đã được báo trước, nhưng không tin… Tôi thấy cũng đúng, vì nhìn thấy phương pháp của thầy Vũ Hùng, những bùa chú có liên quan tới ngải và cả Lỗ ban kinh.
VW: Ông theo phương pháp nào?
DTD: Tôi theo phương pháp luyện bùa Lỗ ban kinh.
VW: Ông có liên hệ gì sau vụ án của Smith Hà, đối với việc ông order đầu lâu ở Việt Nam không?
DTD: Tôi không có order đầu lâu. Tôi nói với mấy người em bên đó, nếu có dịp gì gởi hàng cho tôi thì cứ gởi, nhưng thực sự tôi không cần, vì những gì tôi luyện tập bên đây cũng đã có đủ. Muốn làm một người thầy ở Cali, phải thực sự có tài mới sống nổi. Phải cao tay, có khả năng mới sống được… Nên tôi không cần họ gởi qua. Nếu tôi cần, tôi đã order từ Tây Tạng, Ấn Độ gởi qua, cho khỏi bị rắc rối.
VW: Đầu lâu người khác với đầu lâu vật ra sao?
DTD: Đầu lâu người khác xa đầu lâu vật. Đầu lâu người có tính linh trong đó. Loài người có linh hồn, đầu người có tính linh rất đặc biệt. Tuy nhiên con người mình bị chi phối nhiều thứ quá, nên không ý thức được sức mạnh của phần tính linh trong mình. Tôi đi vào thế giới tâm linh bằng một tinh thần rất khoa học. Ở đây tôi tu luyện với sự tính toán kỹ, ít nhất là mình có học. Ở Việt Nam cũng đi học, qua đây cũng đi học về computer. Tôi học ở Montana, rồi học trường đại học Arizona University.
VW: Khi nào thì ông vào hẳn trong nghề thầy bùa?
DTD: Từ nhỏ tôi đã có học về nghề bùa. Các em tôi không có học về bùa.
VW: Hiện nay những người liên hệ về chuyện gởi đầu lâu đã bị bắt. Ông có nghĩ họ bị bắt có đúng không?
DTD: Họ bắt thì cứ bắt. Như tôi nói Việt Nam thấy chuyện nhỏ, cứ xé ra cho to. Xứ Mỹ này nếu anh bán cocain nửa ký hay nửa tấn đi chăng nữa, nếu anh có tiền chuộc mạng, cũng không sao. Còn ở Việt Nam nếu chỉ vì một vài gram thuốc phiện, không có tiền đút lót chuộc mạng, bị xử tử là chuyện thường. Đó là theo vấn đề luật pháp hay làm tiền gì đó, tùy theo họ thôi.
VW: Còn đối với ông phía ông có bị rắc rối gì với chính phủ Mỹ, về việc ông nhận đầu lâu hay không?
DTD: Mình cũng không nghĩ ra tại sao có sự rắc rối. Vì trên internet có thể mua xác người, đầu lâu trên các website, họ rao bán các xác chết nguyên bộ giá vài ngàn đô la, để về anh nghiên cứu học hỏi… đâu có gì đâu.
VW: Để kết luận lại bài viết này, từ việc vụ án bà Smith Hà, cho tới vụ đầu lâu gởi cho ông từ Việt Nam, xin ông cho biết nhận định cuối, nói về những việc nói trên. Ông muốn qua báo chí, nói điều gì?
DTD: Tôi không thấy có gì liên hệ với vụ án Smith Hà. Nếu có liên hệ chỉ là sự trùng hợp, vì tôi với bà ta cùng làm chung một nghề bùa ngải. Thực sự tôi rất thích nghề bùa ngải này, và đã làm từ nhiều năm qua. Vì tôi thấy có một sự huyền bí liên hệ tới tôi. Còn phía Việt Nam đó là việc của họ. Họ làm gì thì họ làm. Tôi thấy nó được thì tôi tiếp tục liên hệ, tôi đi khỏi nước từ năm bảy lăm tới giờ tôi chưa về lần nào. Chỉ liên hệ qua điện thoại.
VW: Người liên lạc với ông, gởi đầu về địa chỉ của ông, có liên hệ bà con gì với ông?
DTD: Đó là người bà con bên chú.
Nguyễn Tú A
#36
Gửi vào 07/06/2011 - 10:41
CHÙA TỨ PHƯƠNG TĂNG
Sau năm bảy lăm tôi cũng như nhiều người khác tìm đường vượt biên, nhưng lần nào khi tôi ngỏ ý với Sư Phụ của mình, thì đều bị ổng thản nhiên nói :
- Nhà ngươi không vượt biển được đâu.
Tôi nghe thì nghe, nhưng bản tánh tôi lúc nào cũng tận nhân lực trước cái đã, thiên mạng...tính sau. Vì thế một hôm chuyện vượt biên bị bể, tôi chạy tán loạn từ Vũng Tàu về, trong túi chỉ còn có bảy đồng bạc và một bộ đồ dính da. Đến Biên Hòa tôi hay tin, có một đệ tử của mình ở Cần Thơ, vừa chạy lên kiếm tôi xuống đi chung chiếc ghe của nó. Thời giờ cấp bách tôi không thể ghé về nhà mình được, nên tôi đi thẳng ra Xa Cảng Miền Tây, và nghĩ rằng với bảy đồng, tôi đủ tiền xuống đến Cần Thơ. Đến Xa Cảng Miền Tây lúc hơn mười một giờ tối, khi leo lên thùng sau của một chiếc xe hàng, chú lơ xe trẻ tuổi nói:
- Đi Cần Thơ là mười đồng.
Tôi năn nỉ nói là tôi còn có bảy đồng, xin cho quá giang thì chú lơ đáp :
- Bảy đồng thì đi tới Vĩnh Long thôi.
Tôi thấy khuya chỉ có mỗi một xe, nên lẳng lặng ngồi yên, vì nghĩ rằng từ Vĩnh Long về Cần Thơ chỉ có ba mươi km, đến Vĩnh Long mình năn nỉ chắc họ sẽ cho quá giang qua Cần Thơ. Không ngờ trong xe chật khách vậy mà đến Vĩnh Long, chú lơ xe vẫn nhớ đến tôi chú nói :
- Ê cha nội tới Vĩnh Long rồi xuống đi.
Tôi vừa mở miệng năn nỉ, thì bất ngờ chú ta chụp lấy cái túi của tôi rồi quăng xuống đất. Tôi thấy lòng đau quặn thắt, không phải vì mình bị từ chối, nhưng tôi đau cho cái tâm bất nhẫn của chú lơ trẻ tuổi đó. Và tôi không còn cách nào hơn là leo xuống xe để nhặt lấy cái túi xách, trong đó chỉ có cái khăn, bàn chải và cuốn Kinh, “ Phép Mật ” của Môn phái. Tôi không quen ai ở Vĩnh Long, trong túi lại không có tiền, và đứng ở ngả ba lộ tẻ lúc hơn hai giờ sáng, cái giờ dễ bị công an xét hỏi và bắt, trong người tôi lại không có giấy tờ tùy thân nào, tôi nghĩ cách hay nhất là đi lủi ra ngoại ô, tránh ánh đèn khu phố chợ cho yên thân.
Trời tối đen như mực tôi không biết Vĩnh Long, nên cứ lầm lũi đi bừa trong bóng tối, mà không biết sẽ đi đâu. Đến khi tôi thấy trước mặt mình là một mái chùa, bóng ngói cong in lờ mờ trên nền trời đen thẳm, bên trong có ánh đèn dầu leo lét tôi gõ cửa, thì có Sư Cô già ra mở cửa, tôi nói mình lỡ đường xin tá túc qua đêm. Sư Cô liền mời tôi vào và ân cần hỏi tôi có đói không ? cô dọn cơm cho ăn. Cả hai ngày lăn lộn từ Vũng Tàu về, nên tôi xin phép tắm rửa trước rồi vào lễ Phật xong mới ăn cơm. Khi ngồi vào bàn ăn, lúc đó tôi mới nhớ là hai ngày qua, mà tôi chỉ ăn có một dĩa cơm ở bến xe, bây giờ đói run cả tay. Nhưng có điều rất lạ mà chính tôi cũng không hiểu được, vì vừa cầm đũa trên tay tự nhiên tôi hỏi :
- Thầy của Sư Cô đi lâu chưa ?
Sư Cô cũng đáp :
- Ổng mới đi
Tôi lại hỏi tiếp:
- Vậy chớ... “ Bửu Bối ” của ổng để đâu ?
Lúc này Sư Cô mới nhìn tôi chằm chằm và nói :
- Chú em ở đâu tới đây xin ngủ tôi cho ngủ, tôi còn cho ăn nữa đói thì lo ăn đi, sao chú em hỏi bửu bối này bửu bối nọ làm chi ?
Tôi không biết tại sao lại hỏi tiếp, câu hỏi đường đột vô duyên, vô nghĩa và gần như hết sức vô lý...
- Tui muốn hỏi Sư Cô là ba cái bửu bối của Thầy, Cô để đâu mà ?
Sư Cô vẫn nhìn tôi chằm chằm và hỏi lại :
- Chú em nói cái gì vậy ? tui hổng hiểu !
- Thì tui nói ba cái bửu bối của ông Thầy chứ nói cái gì mà Sư Cô hỏng hiểu ? Cô để đâu lấy ra cho tui đi.
Đến lúc này thì Sư Cô mới nở nụ cười, làm khuôn mặt già nua của Bà tươi hẳn lên Bà nói:
- À phải rồi đúng rồi hồi trước khi đi, Thầy tui có dặn, bao giờ nửa đêm khuya, có chú em nào đến hỏi bửu bối, thì đưa ra cho chú, thôi chú em lo ăn cơm đi, để tui vô lấy bửu bối cho.
Khi Sư Cô cầm cây đèn đi khuất vào phòng trong, tôi mới bắt đầu ăn cơm và vừa nhai cơm vừa suy nghĩ, ngạc nhiên cho chính mình, lối nói chuyện của tôi vừa qua thật là lạ, đó hoàn toàn không phải cung cách của mình. Dường như ai đó...đã dùng miệng của tôi mà nói vậy. Ai là người có thể qua được phép Hộ Pháp của tôi để nhập vào tôi ? Và “ bửu bối ”, chà chà từ này tôi đọc thuở nhỏ trong sách truyện rất xưa, thời nay làm gì có bửu bối, mà bửu bối là cái gì mới được chứ ? thiệt là...lãng nhách. Khi tôi ăn cơm xong thì Sư Cô đem lại cho tôi một bọc nylon trắng cô nói :
- Nè cả ba cái Thầy để ở trỏng chú em lấy đi, tui cũng không biết cái gì nữa.
Tôi nóng lòng định mở ra xem, thì Sư Cô xua tay nói :
- Chú em khoan mở chờ tui đi ngủ cái đã, chú uống nước xong, chừng nào muốn ngủ thì lại cái bộ ván ngựa ở đàng kia kìa, tui soạn mùng chiếu sẵn cho chú, thôi bây giờ tui đi ngủ đây.
- Khoan Sư Cô, cho tui hỏi vậy chứ chùa này tên gì và Thầy của Sư Cô Pháp Danh là gì, ổng đi khỏi chùa bao lâu rồi ?
- Chùa này là chùa Tứ Phưong Tăng, thường có nhiều Sư ở khắp nơi tới lắm, tốp này tới rồi lớp khác đi tui không để ý. Còn Thầy tui đi ba năm rồi, ổng lẹ lắm mới hôm qua bên Xiêm, bữa nay lại về chùa bữa sau lại đi Xiêm. Ổng đi đi về về hoài à, mà ổng có dặn là hổng cho chú em biết Pháp Danh của ổng. Thôi để tui vô ngủ mệt quá rồi.
Nói xong Sư Cô lọm khọm đi ngủ, tôi không dám phiền Bà nữa nên lặng thinh. Tôi mở cái bọc bửu bối ra, bên trong chỉ có ba miếng vải vàng, có chữ Phép màu đỏ, và vài tờ giấy trắng, đã ngả màu vàng có ghi chú chỉ dẫn bằng những nét chữ rắn rỏi và đẹp.
Hoá ra đó là ba lá Phép :
- Thứ nhất là chỉ cách...bắt Ma Quỷ, Thần Thánh nhập vào người.
- Thứ hai là Phép Nhịn Đói.
- Còn phép thứ ba thì cấm không phổ biến, cho nên xin lỗi các bạn, tôi không thể kể ra đây.
Về phép bắt Ma Quỷ có chỉ dẫn rõ ràng rất...tế nhị. Vì đa số các Thầy bắt Ma Quỷ bằng cách...đánh đập bằng tay, bằng ấn phép, dọa nạt, hoặc dùng Binh, Tướng, ra oai diễn võ. Cách đó dễ gây đến nghiệp oán thù. Còn phép này thì chỉ ... “ Khóa ” cho Ma Quỷ hoặc thần Thánh nào đó, khi nhập vào người ai, thì dính trong người đó luôn, không ra được. Mà Ma Quỷ Thần Thánh khi nhập vào ai, thường thì lúc ra lúc vào, bởi vậy người bịnh lúc tỉnh lúc mê. Cho nên khi bị phép khóa không ra được. sẽ đâm ra sợ mà xin...mở khoá cho ra. Lúc đó mình mới nói là tại quý vị muốn vô xác người này, tôi chỉ chiều ý cho vô luôn chớ không gì khác.
Dĩ nhiên là Ma Quỷ Thần Thánh lúc đó sẽ năn nỉ, và mình giảng cho họ vui vẻ để hứa là “ đi ” luôn, mình mới mở khóa. Tôi đọc thấy thích thú vì Phép mà có vẻ logic lắm...Tôi đi lạy Phật xong ngủ một giấc thật ngon đến mười giờ giờ sáng mới thức. Khi từ giã Sư Cô tôi đi ra cổng chùa, mới thấy cái bảng tên chùa rất cũ kỹ : “ Tứ Phương Tăng ”. Các bạn nào ở Vĩnh Long hẳn có biết đến chùa này, tôi không nhớ là ở khúc nào, mà chỉ biết chắn chắn là nó ở ngoại ô của Thị Xã Vĩnh Long. Đường vào chùa có trồng hai hàng cây làm hàng rào hai bên, tôi lấy làm lạ là lối đi nhỏ xíu, vậy mà đêm qua tôi không thấy hàng rào gì cả, mà tôi lại mò đi được thẳng vào chùa, không đụng phải cây cối gì hết.
Tứ Đại Thiên Vương
Đêm tôi ngủ ở chùa Tứ Phương Tăng, cũng là đêm người đệ tử của tôi ở Cần Thơ xuống tàu đi mất, thế là tôi bèn trôi nổi xuống tận Bạc Liêu để tìm đường khác. Một năm sau qua sự giới thiệu này nọ, tôi quen được với một anh cán bộ, coi Kho muối của ven biển Bạc Liêu. Thấy kho muối có căn nhà tôn rất lớn, mà sức chứa được cả đến ba trăm người, quả là lý tưởng cho việc làm bãi tập trung người đi vượt biên, nên tôi đã móc ngoặc với anh Hai này, do đó tôi thường xuống địa phương của anh, và nhậu nhẹt để làm thân với đám cán bộ thu mua muối.
Anh Hai có cô con gái tên Hồng, lúc đó khoảng mười chín tuổi, một đêm cháu Hồng bỗng bị đau bụng dữ dội, kho muối lại sát ven biển, đường sình lầy trơn trợt, không cách nào chuyển cháu ra bịnh viện được, anh chị Hai thì lo lắng vô cùng khi thấy cô con gái độc nhất của mình, đau đến nỗi toàn thân ra mồ hôi hột, hột như hột đậu và mồ hôi nhớt nhợt kỳ lạ. Tôi, bằng chút kiến thức nhỏ nhoi về Y, cũng mò khám đại, tôi nói cháu Hồng co đầu gối phải lên đến ngực, cháu làm được, như thế thì không phải là đau ruột thừa, tôi khám vùng phúc mạc, cũng thấy bình thường, gan thận không sưng, trong khi người cô mồ hôi cứ tuôn ra nhớt kinh khủng và người càng ngày càng lạnh đi. Bí quá tôi đành nói với anh Hai chủ nhà:
- Thú thiệt với anh, tôi có học được một chữ bùa trị đau bụng hay lắm, bây giờ nếu anh tin, thì lấy cho tôi ba cây nhang, để tôi vẽ chữ bùa đó trị bịnh cho cháu.
Anh Hai chưa kịp trả lời thì bà vợ của ảnh đã đem nhang tới, tôi vội vẽ vài chữ, thì ngay lập tức cháu gái im không rên la nữa, tôi hỏi thì cháu Hồng nói :
- Dạ thưa chú cháu thấy hết đau rồi, nhưng bụng rêm lắm và làm như có cục gì chạy qua chạy lại, thấy khó chịu ghê...
Tôi nghĩ là gaz, nên nói chị Hai xắt cho mấy lát gừng mỏng, tôi lót gừng, rồi dùng thuốc...555 đốt ba huyệt, mỗi huyệt hai mươi cứu : Cửu Vĩ trị đau dạ dày. Khí Hải trị màng bụng đau thắt và huyệt Túc Tam Lý cũng trị đau bụng, nhưng hỗ trợ thêm sức khoẻ. Sau đó độ năm, mười phút thì cháu Hồng đi nhà xí xong là khoẻ lại hoàn toàn. Dĩ nhiên là cả nhà mừng rỡ, và anh chị Hai cứ theo hỏi tôi về việc chữ bùa gì, mà trị hết đau bụng cấp kỳ vậy, tôi đành trả lời qua loa cho xong.
Tưởng chuyện có thế là hết, nhưng ngày hôm sau khi tôi đi ra chợ uống cà phê với anh Hai về, thì thấy chị Hai cùng với hai người Miên bước ra của, đứng đón tôi có vẻ trịnh trọng lắm tôi nghĩ : “ Rồi tới nữa rồi, dám có ai đau bụng nữa đây? Khi vô nhà ngồi, tôi được chị Hai, cháu Hồng và hai vợ chồng người Miên, thi nhau kể về người con gái của họ, cháu ...Mì Nươl ! Người Miên đa số họ Kim và họ Sơn, còn con gái đa số lấy chữ Mì làm đầu, Mì Nươl phát âm là Mì Nươn, nên tôi bèn gọi cháu là Mỹ Nương cho dễ .
Họ kể: Năm ngoái Mỹ Nương sau buổi đi biển bắt sò huyết về thì bị sốt, nói làm xàm và có nhiều người nhập vô Mỹ Nương, cả nhà đã đem cô vô nhiều chùa Miên để các ông Lục trị, nhưng chỉ hết chừng một hai tuần rồi bị trở lại. Cả ngày cô ta cứ ngồi nói chuyện một mình, như là nói với người vô hình bên cạnh. Cháu Hồng lại là bạn rất thân với Mỹ Nương, vì thế khi thấy tôi biết trị bịnh vẽ vẽ bằng cây nhang, lập tức cháu Hồng qua báo cho cha mẹ của Mỹ Nương biết.
Tò mò tôi nói Hồng đi dắt Mỹ Nương tới, khi nghe tiếng nói của cháu Hồng trước cửa, tôi vội niệm phép “ Án Thân ”, có nghĩa là phép làm cho mình giống như người thường, không có phép gì trong người cả, để Quỷ Thần không biết, và cả những Thầy Bùa Phép mà có tánh ganh tị ưa thử sức, thử Phép cũng hổng biết. Tôi muốn thử xem người bịnh này, là Ma Quỷ nhập hay chỉ vì...thất tình mà chạm dây ? Quả Mỹ Nương đúng là người đẹp, tuy là con gái Miên, nhưng cô ta có cách đẹp là lạ, tôi để ý thấy cô đeo bùa lung tung, những loại bùa của người Miên bằng chỉ ngũ sắc, ngoài mấy vòng như dây chuyền, cô còn đeo luôn cả hai bên cổ tay nữa.
Đặc biệt khi gặp tôi cô nói chuyện với tôi bằng tiếng bắc, tôi hỏi tên thì cô xưng là...Mai ở Sàigòn. Trong khi địa phương đó vùng ven biển, xóm người Miên không có người bắc, họ nói tiếng nam còn không rõ, mà một cô gái Miên nói đặc giọng bắc, quả là chuyện rất lạ. Không biết cô ta chạm dây cỡ nào, hay là có cô Mai nhập thật ? tôi bèn hỏi tiếp :
- À cô là cô Mai vậy tại sao cô lại nhập vô xác Mỹ Nương ? sao cô không nhập vô cháu Hồng đây ?
Vừa nói tôi vừa chỉ tay vào cháu Hồng, lúc đó khoảng hai giờ trưa rồi, mà khi vừa nghe tôi nói vậy, thì cháu Hồng thét lên một tiếng rồi ôm chầm lấy bà mẹ. “ Cô Mai ” thì cười nụ cười rất đẹp trả lời :
- Tôi thấy Mỹ Nương đây " hợp " với tôi, nên tôi mới “ nhập ” được, chứ không phải là muốn nhập vào ai thì nhập đâu.
Tôi chỉ tay vào chị Hai
- Hay cô thử “ nhập ” vào bà này được không ?
Lần này đến lượt chị Hai thét lên và ôm chầm lấy cháu Hồng, rồi thì cả hai mẹ con bèn đứng lên, khỏi cái bộ ván ngựa chỗ chúng tôi ngồi, mà sang ngồi chỗ khác xa hơn chút, sau khi đã không quên cằn nhằn tôi :
- Anh Ba đừng nói giỡn kiểu đó nghen, rủi nó nhập thiệt thì chết.
Tôi quay sang cô “ Mai ” hỏi tiếp :
- Như vậy cô là người ở đâu sao lại đến đây ?
- Dạ " em " ở Sàigòn, đi vượt biên bị bão đắm tàu nên trôi vào đây cùng với mấy người nữa, được dân chài vớt đem chôn ở ven biển.
Nói đến đây cô Mai cúi mặt xuống im lặng, tôi bèn hỏi tiếp :
- Tôi tưởng chết là đi đầu thai kiếp khác, sao nghe nói cô nhập vào cô Mỹ Nương này đến cả năm rồi ? cô không đi đầu thai à ? và còn những người trôi chung với cô nữa, họ có như cô nhập vào ai ở vùng này không ?
- Cả năm ? người sống thì là cả năm, chứ người chết chỉ có hơn một tháng thôi, còn những người kia thì họ bị " Lính " bắt đi rồi, em không biết đi đâu, nhưng có mấy “ Cụ già ” thì bảo là họ bị đi đầu thai đó...
- Cô nói " Lính " là Lính gì ? tôi không hiểu.
- Dạ, cứ tối xuống là có các toán Lính Âm Binh đi tuần, họ dữ lắm...em sợ lắm...nên buổi tối là em phải trốn vào chùa.
- Ủa lạ tôi nghe nói ở chùa có Tả Hữu Hộ Pháp, Kim Cang Hộ Pháp La Hán mà, sao cô có thể vào được ?
- Các Hộ Pháp coi vậy mà chẳng làm gì chúng em cả, khi em mới từ biển lên em chạy vào chùa, bị các “Linh” của người chết thờ trong chùa, họ dữ lắm đánh đuổi chúng em đi, không cho vào. Sau này nhờ khi dân chài chôn, có mấy vị Sư Miên đến tụng Kinh, các Sư có niệm Kinh hộ trì cho chúng em vào chùa, nhờ vậy em mới không bị các Linh khác đuổi nữa, trái lại còn được ăn cơm chùa, chứ không bị đói lạnh như trước.
Tôi ngồi nghe cô Mai kể mạch lạc, không đắn đo suy nghĩ, làm tôi rất ngạc nhiên, vì qua đó tôi sẽ hiểu thêm về cuộc sống “ bên kia ” nếu quả thật đối diện tôi là Ma nói chuyện. Tuy nhiên cũng có thể cô Mỹ Nương này đọc nhiều truyện tiểu thuyết, bây giờ bị “ chập dây ” nên tiềm thức của cô xổ ra, chứ không phải Ma Quỷ gì cả thì sao ? Tôi phải tìm cách “ thử ” để xác định lại là Ma nhập, hay mát dây trước cái đã, nên tôi xoay qua chủ đề khác :
- Cô nói cô ở Sàigòn vậy cô ở Quận mấy ? đường gì ?
- Dạ em ở Quận ba đường Lê Văn Duyệt
- Cô học Trường nào
- Em học Trường Gia Long đến lớp mười hai thì em phải nghỉ học, ở nhà buôn bán giúp mẹ.
- Vậy cô biết quán...thạch chè Hiển Khánh không ?
- A cái quán mà trên bàn có để các bài thơ chứ gì ? có em biết chứ, em thường ăn ở đấy lắm, cả hai quán, một ở Phan Đình Phùng, một ở Đa Kao em cũng biết.
Nghe vậy tôi nhìn chăm chằm vào cô gái trước mặt: Mỹ Nương người con gái Miên, trong bộ quần áo nghèo nàn thôn dã, không thể nào cô ta lại lên Sàigòn và vào ăn thạch chè, món thức uống đặc biệt của người bắc được.
Tôi bèn nói:
- Cô ngồi chờ tôi một chút nhé, để tôi ra đầu đường mua gói thuốc hút rồi quay lại ngay, nói chuyện với cô vui quá...
Nói xong tôi đứng lên gọi Ba của Mỹ Nương :
- Ông lấy xe chở tui đi mua thuốc nghen.
Ông người Miên thật thà nói :
- Khỏi đâu, khỏi đâu tui có Thuốc Gò nè.
- Tui hút thuốc đó hổng nổi, phải mua thuốc Thơm mới được.
Khi cùng với Ba của Mỹ Nương đến cái tủ thuốc lá ngoài đường, tôi hỏi ngay:
- Ông à từ nào tới giờ, ông có cho con gái của ông, Mỹ Nương, đi lên Sàigòn ở bạn không ? Ở bạn, tiếng địa phương chỉ những người đi giúp việc nhà, người ở ở đợ.
- Đâu có con tui nó ở nhà tui từ nhỏ, không đi đâu xa cả.
- Vậy trong xóm ông có gia đình người bắc nào ở Sàigòn dọn xuống đây ở không ?
- Không có người bắc.
- Mấy xóm kế bên có không ?
- Cũng không có xóm tui là xóm Miên mà, chỉ có người " Khơ Me " ở thôi.
- Còn các cơ quan nhà nước, có gia đình cán bộ nào mà người bắc hông ?
Nghe hỏi Ba của Mỹ Nương suy nghĩ một chút rồi đáp :
- Ừa có một gia đình người bắc, làm ở trạm thu mua.
- Họ có con cái cỡ tuổi Mỹ Nương hông ?
- Tui cũng không biết.
Tôi suy nghĩ :
- Có thể Mỹ Nương quen với gia đình này, nghe kể về Sàigòn...
Nên tôi bèn quay xe chạy về nhà của cháu Hồng. Khi đến trước cửa tôi thấy hai mẹ con cháu Hồng và bà mẹ của Mỹ Nuơng...mặt xanh lè, đứng tận lề đường đón, tôi hỏi :
- Ủa sao ra ngoài này hết vậy ? còn Mỹ Nương đâu ?
Cháu Hồng nhanh miệng trả lời :
- Dạ thưa chú, khi chú mới ra khỏi cửa, thì Mỹ Nương trong nhà té cái đùng xuống sàn, mình mẩy lạnh ngắt, má cháu mau mau lấy dầu cù là cạo gió, nhưng Mỹ Nương hổng tỉnh. Mới tức thì bỗng nó ngồi dậy, đập đầu đập tay làm thấy ghê lắm, nên cháu và mẹ với thím hai sợ quá phải chạy ra đây, chú vô coi liền đi.
Tôi liền rồ ga chạy vọt Honda vô cửa, tai thì nghe cái " bịch ” tôi ngoái lại, thấy chú Hai Miên đã té ngồi xuống đất, ổng nhìn tôi cười nụ cười chất phác, ra dấu không sao cho tôi đi tiếp. Bước vào nhà tôi thấy Mỹ Nương ngồi xếp bằng, cúi đầu xuống, nhưng hai tay cứ vỗ đùng đùng trên bộ ván ngựa, miệng lí nhí cái gì đó, tôi bèn nói lớn tiếng :
- Cái gì vậy ? cái gì mà làm dữ vậy?
Mỹ Nương ngửng đầu lên, khuôn mặt đẹp bây giờ có cái gì là lạ, chắc tại đôi mắt sáng quắc lên giận dữ cô ta nói :
- Tôi thấy chú hỏi lịch sự, nên tôi mới trả lời đàng hoàng, không ngờ chú không tin, còn đi hỏi này hỏi nọ Ba của Mỹ Nương nữa ? chú muốn gì đây ?
- Cô nói gì vậy ? tôi hỏi gì mà cô giận ?
- Thì hồi nãy ngoài tiệm thuốc đó, chú hỏi coi Mỹ Nương có quen ai người bắc không ? chú mới ra cửa, là tôi bay theo liền, tôi nghe hết rồi, chú không tin tôi là Mai hả ? chú hỏi nữa đi, hỏi cái gì tôi cũng trả lời được hết.
- Vậy chớ ở Sàigòn cô biết có những quán ăn nào ngon, nổi tiếng không ?
Nghe tôi tỉnh bơ hỏi, cô “ Mai " mới cười, đúng là nụ cười liêu trai đẹp thật đẹp cô nói :
- Tưởng gì chứ món ăn thì tôi biết rõ, này nhé: Phở Bò Hiền Vương, Công Lý, Phở Gà Trương Tấn Bửu, Bún Riêu Nhà thờ Đức Bà, Bánh Cuốn Thanh Trì Phan Đình Phùng, Chả Quế của Thiên Hương Rồng Vàng chợ Hòa Hưng này...
Cô “ Mai ” kể một hơi, bây giờ thì tôi nghĩ chắc là Ma nhập thật rồi, tự nhiên tôi thấy thích thú lạ lùng, đây là dịp hiếm có để mình hỏi về "Thế giới bên kia" nên tôi vội ngắt lời :
- Thôi đủ rồi tôi tin cô là cô Mai rồi, nhưng cô cho tôi hỏi là tại sao cô nhập vào cô Mỹ Nương này ? sao cô không đi đầu thai kiếp khác ?
- Tại tôi thân xác ở đây, tôi đang lo tìm người nhà để báo mộng chỉ chỗ đem xác tôi về Sàigòn.
Cô “ Mai ” vừa nói vừa đưa tay quẹt những giọt nước mắt đang chảy tự nhiên trên má...tôi hỏi tiếp:
- Vừa rồi cô nói là cô " bay " theo tôi ra quán thuốc, sao cô không bay về Sàigòn báo mộng ?
- Em chỉ bay gần gần được thôi, bay xa chóng mặt lắm, các " Cụ " trong chùa nói là tại em không hương khói, nên còn yếu lắm, phải ở chùa một thời gian hương khói, thì mới cứng cáp mà đi xa được.
- Nếu bây giờ tôi về Sàigòn, cô cho địa chỉ nhà cô, tôi đến nói người nhà cô xuống bốc mộ của của cô đi, thì cô có bỏ xác Mỹ Nương mà đi không ?
- Em không biết nữa, nhưng bấy lâu nay em chơi với Mỹ Nương, em thấy thích Mỹ Nương lắm, chắc em cũng sẽ về đây làm bạn với Mỹ Nương nữa.
Có tiếng của cháu Hồng :
- Ý ẹ nói nghe thấy ghê quá.
Tôi qua lại thì mới thấy là, nãy giờ mải chú tâm vào cô “ Mai ", mà tôi không thấy là mọi người đã vào cả trong nhà, và ngồi đằng sau lưng tôi. Tôi quay trở lại cô “ Mai " hỏi tiếp :
- Vậy chứ cô có “ bồ ” không ? và nếu có sao cô không về thăm “ bồ ” đi ? chẳng lẽ ở mãi đây sao ?
- Tôi có người bạn trai, nhưng anh ấy đi vượt biên sang Mỹ trước rồi, bây giờ tôi cũng không rõ ở đâu nữa, tôi có nghe nói anh bạn tôi đã lấy vợ, nên tôi cũng không thèm nhớ anh ấy làm gì.
Nói đến đây, cô “ Mai " bỗng ngước nhìn tôi bằng ánh mắt lạ lùng, cô cười nhưng hai ngón tay trỏ và giữa của tay trái cô, lại xỏ vào vòng chỉ bùa ngũ sắc mà cô đang đeo bên cổ tay mặt, rồi xoắn lại thật mạnh. Tôi ngầm để ý thì thấy bàn tay mặt của cô dần dần đỏ ửng lên. Tôi đoán ngay là sắp đến thời điểm căng thẳng bộc phá rồi. Vì thường thường những người bị Ma nhập hoặc những người điên, có điểm giống nhau: Họ đang hiền hoà đó, nhưng bất cứ lúc nào họ cũng có thể nổi khùng lên và hành động thô lỗ bằng một sức mạnh không ngờ. Vì thế tôi bèn ngấm ngầm, vận mười tám thành công lực của mình xuống...cặp giò, và đổi thế ngồi thõng hai chân xuống đất, để có gì tôi sẽ thi triển chiêu “ tẩu vi thượng sách ” được dễ dàng.
Quả như tôi nghĩ, khi bàn tay phải của cô “ Mai ” đã đỏ rực lên, bất ngờ cô vung ra thẳng vào mặt tôi, bàn tay khom lại y như...“ Huyết Ma Trảo ” vụt xuống thật nhanh. May mà tôi không thuộc loại mũi..lõ, nếu không thì đã bị sứt mũi với ngón đòn đó, tôi ngả người ra sau, và vì phản ứng tự nhiên, tôi đã hất cổ tay trái của mình ngay vào cườm tay của cô, đồng thời xoay cổ tay lại nắm xuống. Khi tôi nhớ ra thì đã muộn, vô tình tay trái của tôi đang nắm cổ tay của cô “ Mai ” bằng tư thế “ Ấn ”. Nghĩa là tôi dùng ba ngón : ngón Cái, ngón Áp Út và ngón Út để nắm cổ tay của cô, trong khi hai ngón Trỏ và ngón Giữa thì để Thẳng ra, nằm dài theo cánh tay của cô ta.
Đó chính là một Mật Ấn mà tôi đã học được ở chùa Tứ Phương Tăng năm xưa. Mà một khi Ấn đã Kiết, thì Chú phải Niệm. Lập tức nguyên một tràng tiếng Phạn đã chạy vụt hết một vòng trong trí tôi. Thế là xong câu Chú đã Niệm, trong khoảnh khắc đó cô “ Mai ” tay phải thì bị tôi nắm, còn tay trái của cô thì hai ngón còn bị dính vào cườm tay, trong những vòng chỉ Bùa Ngũ Sắc, nên cô không còn tay nào để tấn công tôi nữa, cô chỉ biết giựt giựt nguyên cánh tay lại được có vài cái, thì tôi đã tự động buông tay cô ra tôi nói:
- Ủa làm gì kỳ vậy sao cô lại đánh tôi ?
Vừa hỏi tôi vừa chờ phản ứng xem cô ta có khóc lóc, có bị đau đớn gì sau khi tôi đã chụp cô ta một Ấn và một Chú không ? Nhưng không như tôi nghĩ, cô ta chẳng bị tác động gì cả, cô “ Mai " bỗng cười sằng sặc và nói :
- Chắc ông có biết võ nên mới tránh được cái...cào hồi nãy của tôi, chớ thường thường tôi chỉ quơ tay một cái là người ta bị xể mặt liền, kể ra ông cũng hay thiệt, nhưng sao mà ông nắm tay tôi chặt quá, nổi lằn lên hết rồi đây này.
Cô vừa nói vừa đưa tay ra, tôi thấy trên cánh tay đỏ hồng của cô, đang nổi bật lên dấu hai ngón tay của tôi trắng rực. Tôi chưa kịp nói gì thì Cô Mai đã thét lên tiếp :
- Ai da, ai da đau quá, tôi bắt đền ông đó, ông mà không cho tôi ăn gà bây giờ, thì tôi đập đầu con nhỏ Mỹ Nương cho nó chết luôn.
Vừa dứt câu cô “ Mai " đã nghiêng người và đập đầu xuống ván ngựa một cái đùng, tôi giang hai tay mình ra tính đỡ, nhưng phải thắng lại, vì tôi ngồi đối diện với cô, cô ta đang vật vã, nếu tôi chụp sợ phạm chỗ không ổn, nên tôi không biết làm sao, đành nhìn cô dộng đầu thêm mấy cái đùng đùng nữa xuống bộ ván. Các bạn hãy tưởng tượng một người con gái mới lớn, không thể nào dám có những hành động như thế, ngoại trừ là người điên. Đến lúc đó thì Ba của Mỹ Nương đã nhào lên bộ ván, đứng phía sau cô " Mai ", và dùng cả hai cánh tay gân guốc như lực sĩ của ông, để khoá chặt hai vai cô Mai.
Nhưng cô Mai đã vung người ra khỏi cái khoá đó dễ dàng, cô xoay người ra sau hất chú Hai Miên ra, và không quên bồi vào cổ ông một nhát chém bằng cạnh bàn tay nữa, khiến ông té lăn xuống sàn cái bịch. Rồi cô ta lại tiếp tục dộng đầu xuống bộ ván ngựa. Lúc này thì cả căn nhà náo loạn lên, tiếng đập đùng đùng đệm thêm tiếng thét thất thanh, của hai mẹ con cô Hồng, chú Hai Miên thì bị trặc luôn cái cổ. Tôi thì phân vân chần chờ, vì muốn coi cái Phép học ở chùa Tứ Phương Tăng có tác dụng không, nếu mà cô Mai này làm dữ hơn nữa, thì lúc đó tôi mới dùng Ấn khác rất oai lực, để trấn áp cô ta. Trong lúc đó không ngờ, người bình tĩnh nhất lại là thím Hai Miên, bà ta đã nhào ra sau bếp, bưng lên luôn con gà luộc, món " mồi nhậu " duy nhất hôm đó tính đãi tôi, đem thẳng đến trước cô Mai, bà chậm rãi nói :
- Dớ dớ, cô đừng có đập đầu con tui nữa, con gà nè Hốp đi hốp đi, Si đi si đi... Tiếng Miên, Dớ Dớ là nè nè, còn Hốp, và Si đều có nghĩa là ăn.
Lập tức cô Mai, ngừng dãy dụa và cười lên sằng sặc, hai tay cô chụp lấy con gà xé ra và cắn ngồm ngoàm y như người chết đói lâu năm. Bây giờ trước mắt tôi hình ảnh có vẻ ma quái rõ ràng. Mỹ Nương người đẹp không còn thấy đẹp nữa, mái tóc xổ tung hai bàn tay nhầy nhụa mỡ gà, chung quanh miệng cũng dính đầy mỡ nhễ nhại và cặp mắt rất là lạ, vì cô vừa ăn ngấu nghiến vừa liếc ngang dọc láo liên bằng cặp mắt sáng quắc, cái sáng không phải là cái sáng bình thường của con người. Vì từ cái sáng của ánh mắt đó, tôi không đọc được những gì mà người thường biểu hiện như: hỷ, nộ, ái, ố, vui hoặc buồn, tôi chăm chú theo dõi thì chỉ thấy hiện lên một sự trống rỗng kỳ lạ, một ánh mắt vô hồn đến rợn người.
Bây giờ mọi người đều nín lặng, không ai nói một lời nào, cái im lặng bất chợt tĩnh mịch đến nỗi chỉ còn tiếng cắn, tiếng ngoạm vào thân con gà, tiếng nhai xương ngấu nghiến rào rạo, vang lên khô khan và đơn độc. Cô Mai hầu như không còn biết đến ai nữa, cô như đang hòa nhập vào chuyện ăn uống mà thôi. Mọi người quay nhìn tôi, tôi bèn ra dấu cho mọi người theo tôi bước ra nhà ngoài, để cho cô Mai đó ăn xong mới tính sau. Ra đến căn phòng ngoài, chú Hai Miên một tay vừa ôm cổ vừa nói:
- Dớ, chắc Thầy hổng làm gì được nó rồi, hồi nãy vậy mà nó mạnh quá, nó xô tui đau lắm.
Mẹ cháu Hồng hỏi tôi :
- Anh Ba anh thấy sao ? bây giờ anh có cách nào hông ?
Tôi lẳng lặng cúi đầu ngẫm nghĩ : " Nếu theo như Phép Bắt Ma Quỷ của chùa Tứ Phương Tăng, thì khi tôi chụp bằng Ấn, niệm Chú, thì đã “ trói ” ngay được con Ma đó rồi, tại sao cô “ Mai ” này lại không hề bị tác động nào ? Hỗng lẽ lâu rồi nên tôi đã niệm sai câu Chú ? Tôi nghĩ đi nghĩ lại thì rõ ràng là câu chú của mình không sai. Như vậy hổng lẽ câu Chú...dởm ? Tôi tức quá phải có chỗ sai lầm nào đây, cho nên đã nắm tay được con Ma rồi, mà nó lại không bị hề hấn gì. Thôi thì chắc phải lấy xe chạy về căn nhà tôi ở trọ, để lục cuốn Kinh Phép của mình ra coi lại mới được.
Nghĩ vậy tôi bèn nói:
- Cái cô Mai này dữ quá, để tôi phóng xe chạy đi lấy đồ nghề một chút nghen, tôi đi chừng mười lăm phút là trở lại ngay.
Nhưng trong khi tôi vừa bước đến bên chiếc xe Honda, thì trong nhà đã vang lên tiếng thét rợn người của cô “ Mai ", mọi người chạy ào vô nhà, tôi đứng lại nghe ngóng thì cháu Hồng chạy ra nói, giọng mừng rỡ:
- Hay quá chú Ba, chú vô coi kìa nó sợ chú rồi, nó đang khóc và đòi cháu phải chạy đi kêu ông Thầy Ba vô gấp kìa, nó kêu chú là ông Thầy Ba đó.
Chính tôi cũng ngạc nhiên, bèn rảo bước quay vào. Trên bộ ván ngựa lúc này cô “ Mai " đã ngồi xếp bằng ngay ngắn, hai tay chắp và đầu thì gục lên gục xuống như đang vái lạy cô ta nói:
- Tôi biết sợ Thầy rồi, Thầy làm ơn thả cho tôi ra đi, làm ơn đi thả tôi đi.
Tôi đáp:
- Ủa tôi có trói cô hồi nào đâu, mà cô nói tôi thả cô ra ?
- Đúng là Thầy trói tôi rồi, chứ tại sao mới hồi nãy tôi muốn xuất hồn ra khỏi xác Mỹ Nương mà xuất không được ?
Nghe vậy tôi chợt thấy trong lòng mình dâng lên niềm khoan khoái lạ lùng, như vậy là Ấn và Chú có tác dụng rồi. Nhưng với bản tánh cẩn thận, và hơn nữa muốn cho chắc ăn tôi bèn nói :
- Sao kỳ vậy tôi đâu biết, hay cô thử xuất hồn ra một lần nữa coi được không ?
Lập tức cô “ Mai " ngã bật ngửa ra phía sau, mạnh đến nỗi y như bị ai đá thốc vào mặt, thân giãy giãy y như con cá lóc bị đập đầu. Làm ai ai cũng giựt mình, nhưng ngay sau đó có một phút, cô “ Mai " lại đập mạnh cả hai bàn tay xuống bộ ván, ngồi bật dậy vừa khóc vừa nói :
- Hu...hu...con không ra được...hu...hu...lạy thầy xin Thầy đừng trói con nữa, thả con ra đi...hu...hu.
Tôi đáp :
- Thì tôi đâu có làm điều gì trái ý của cô ? Cô muốn nhập vô xác Mỹ Nương, nên tôi cho cô nhập vô luôn đó mà, sao cô muốn ra làm chi ?
- Không được vô cứng luôn kiểu này không được, con sợ lắm xin Thầy thả cho con đi đi.
- Thôi tôi không thả cô ra đâu, tôi cho cô nhập luôn trong Mỹ Nương đó, bây giờ tôi đi về đây.
Nghe tôi nói vậy, cô “ Mai " liền quỳ lạy tôi liên tục và năn nỉ khóc lóc đủ thứ, tôi nói tiếp:
- Vậy nếu bây giờ tôi thả cô ra thì cô đi đâu ? rồi cô có nhập vô người khác không ?
- Con cũng không biết nữa, nhưng chắc con ra ở chiếc ghe bể bên giồng cây Mắm quá.
- Vậy cô có muốn tôi trì chú đưa cho cô vào chùa để nghe Kinh, sau này đi đầu thai kiếp khác không ? cô may là gặp tôi là Thầy hiền, chứ gặp mấy ông Thầy khác dữ hơn, họ có thể bắt cô bỏ vô lon và dùng roi đánh cô còn khổ nữa. Nếu cô hứa với tôi là không nhập vô ai hết, chỉ ở chùa nghe Kinh chờ đi kiếp khác thì tôi sẽ giúp cho.
- Dạ con chịu con xin hứa với Thầy, xin Thầy thả con ra và đưa con vô chùa đi.
- Vậy cô đưa tay phải của cô ra đây để Thầy làm phép.
Khi cô “ Mai " đưa tay ra, tôi liền cầm lấy cũng bằng Mật Ấn, và lần này thầm niệm bài chú hóa giải. Xong, tôi buông tay ra và nói :
- Được rồi cô xuất đi.
Cô “ Mai "lần này ngoan ngoãn quỳ lạy tôi ba lạy, rồi lại ngã ngửa cái đùng xuống bộ ván. Tôi thở phào nhẹ nhõm như vậy là xong... nhưng niềm vui chưa kịp trọn thì cô “ Mai " đã ngồi phắt lên, vẫn khuôn mặt ma quái vẫn giọng nói người bắc cô ta nói:
- Thầy ơi con “ thăng ” không qua được nóc nhà.
- Sao lại không được ?
- Dạ hiện giờ trên bốn góc nhà có Tứ Đại Thiên Vương đứng trấn, con không thể ra được.
Nghe vậy tôi đâm ra lo, vì bài Phép tôi học không hề có nói đến vụ Tứ Đại Thiên Vương. Tôi chỉ học có hai câu chú, một trói một mở thế thôi, đâu có câu nào mời Tứ Đại Thiên Vương đến, và cũng không có câu chú nào mời Tứ Đại Thiên Vương đi. Rầy rà thiệt bây giờ mà cô “ Mai " không xuất ra được khỏi thân của Mỹ Nương, thì cô “ Mai " sẽ gào khóc liên tục, ai chịu cho nổi, và có nghĩa là tôi sẽ không cứu được Mỹ Nương mà còn hại Mỹ Nương luôn. Thật là rắc rối...Tôi hơi lo nhưng cũng cố giữ bình tĩnh tôi nói :
- Nếu thăng lên không được sao không độn thổ ? chui xuống đất mà đi ?
- Dạ hồi nãy con có thử rồi cũng không được, vì ở trên trời ngoài Tứ Đại Thiên Vương ra còn có Thiên La, dưới đất thì Địa Võng, không cách nào qua được, xin Thầy đừng làm con sợ nữa con sợ lắm rồi, Thầy tha cho con đi Thầy.
Nghe cô “ Mai " nói sợ, mà lòng tôi thì...héo luôn, tôi cũng sợ vì mình không biết câu chú nào, để Mời các Vị Tứ Đại Thiên Vương đó đi chơi chỗ khác, đồng thời cuốn mấy cái gì gì Thiên La Địa Võng đi, thiệt là lãng nhách, tự nhiên ở đâu ra mà có cái vụ Tứ Đại Thiên Vương này ? tôi thật không hiểu nổi. Tôi cúi đầu ngẫm nghĩ, cố lục lọi trong trí của mình để ráng hy vọng, sẽ nhớ ra được câu chú nào đó, có thể giải quyết được cái việc rắc rối dễ sợ này. Vì nếu không giải được, coi như là người bị nhập là Mỹ Nương sẽ chết luôn. Bất chợt tiếng cô “ Mai " năn nỉ tiếp :
- Thầy ơi Thầy tha cho con đi Thầy, con sợ lắm xin Thầy Thỉnh Các Thần đi đi Thầy, con biết sợ rồi Thầy ơi...
Câu nói của cô “ Mai " như tiếng chuông làm tôi bừng tỉnh, tôi nhớ đến câu chú mang tên là “ Kêu Thỉnh Thánh Thần ”, vì vậy tôi liền trang nghiêm thầm niệm và " Thỉnh " Tứ Đại Thiên Vương từ đâu đến, thì xin trở về nơi đó. Niệm rồi tôi hồi hộp nói với cô “ Mai " :
- Xong rồi thôi cô đi vào chùa đi, cố gắng học kinh để sớm đầu thai kiếp khác nhé.
Một lần nữa cô “ Mai " sụp xuống lạy tôi, rồi nằm im thiêm thiếp chừng năm phút, xong cô mở mắt ra, gương mặt có vẻ mệt nhọc, ngơ ngác nhìn chung quanh, nhưng bây giờ thì không còn nét như cô “ Mai " hồi nãy, mà là một Mỹ Nương khép nép thật thà. Khi thấy tôi cô có vẻ mắc cở, khép cài lại cái nút áo ngực bị bung rồi cô quay nhìn cha mẹ, xổ ra một hơi tiếng Miên líu lo. Mọi người lúc đó ai ai cũng mừng rỡ, thím Hai chạy lại ôm cô con gái với hai hàng nước mắt. Cháu Hồng thì cũng ôm mẹ nhảy tưng tưng lên và nói :
- Chú Ba hay quá chú Ba hay quá.
Chú Hai Miên thì bước đến choàng vai tôi và nói :
- O côn...O Côn Bon, cám ơn, cám ơn nghe...hì...hì...mình ra ngoài trước nhậu nghe.
Tôi cũng cười hì hì, nhưng trong lòng chợt hiểu ra: Có, có Tứ Đại Thiên Vương ! Đêm hôm đó tôi không ngủ được cứ trằn trọc mãi, không biết có phải vì tiếng sóng biển vỗ rì rào của đêm trăng rằm, hay vì tôi vẫn còn thắc mắc câu chuyện ban chiều. Tôi ôn lại từ chi tiết lúc nói chuyện với cô “ Mai ", đặc biệt nhất là lúc tôi chụp tay Ấn đầu tiên vào cô, và rồi tôi mới khám phá ra được một điều thú vị. Vì thường thường khi trị Ma Quỷ nhập, hễ các Thầy mới đến gặp người bi Ma nhập, lập tức “ con Ma ” đó biết ngay, nếu ông Thầy yếu, nó sẽ thản nhiên tự tung tự tác, nếu Thầy cao tay ấn, nó cũng vẫn quát tháo dọa Thầy, đôi khi còn đánh Thầy luôn nữa để thừ sức.
Rồi nếu ông Thầy dùng Ấn và Chú đánh “ con Ma ” nó sẽ đau đớn và la khóc inh ỏi...Tôi cũng đã nhiều lần chứng kiến các Thầy Lỗ Ban, bắt hồn Ma bỏ vào trong lon sữa bò rồi bịt lại bằng Bùa, khi mình cầm cái lon kê vào tai, lắc lắc sẽ lắng nghe được tiếng kêu khóc nho nhỏ phát ra từ trong lon sữa bò đó. Còn chuyện hôm nay của tôi, Ấn và Chú của chùa Tứ Phương Tăng lại thật khác. Thứ nhất, “ con Ma ” đã không biết tôi là Thầy, nên đã chuyện trò với tôi rất tự nhiên. Thứ hai, khi tôi vô tình chụp tay Ấn vào cô. Tôi nói vô tình, là vì tôi vẫn còn muốn nói chuyện nhiều hơn nữa với “ con Ma ”, để tìm hiểu thêm về thế giới bên kia, vì sợ khi đã dùng Ấn rồi, “ con Ma ” sẽ biết tôi là Thầy và sẽ thăng mất.
Nhưng điểm hay của Ấn này là khi dùng, “ con Ma ” vẫn hoàn toàn không thấy gì khác lạ, không thấy bị đánh đập đau đớn. Chỉ có một điều là sau khi bị chụp Ấn, lúc muốn xuất hồn ra khỏi xác phàm thì xuất không được. Lúc đó “ con Ma ” mới biết là mình đã bị “ trói ” rồi. Điểm quan trọng hơn là oai lực vi diệu của Ấn và Chú đó, tôi nghĩ là khi dùng, đương nhiên đã triệu thỉnh Tứ Đại Thiên Vương, đến trấn bốn góc của nóc nhà. Đồng thời còn giăng thêm Thiên La, Địa Võng nữa. Thêm một điểm tâm lý, giả tỷ như có con chuột khi bị chui vào bẫy một lần sau thoát ra được, khi thấy cái bẫy là nó biết sợ, và không dám chui vào nữa. Con chuột còn biết phân biệt như vậy, huống gì con Ma ? tôi nghĩ vong hồn “ Mai " đó, sau này nếu lỡ có đi lang thang mà gặp phải Mỹ Nương, bảo đảm “ cô Mai " sẽ sợ hết...hồn và chạy tránh xa.
Còn nói về sự từ bi, thì phép này không có đánh đập, gây thêm nghiệp oán thù giữa Thầy và Ma, mà chỉ là cách khiến cho “ con Ma ” tự động " xin " ra khỏi thân người bị nhập, và được hướng dẫn vào chùa nghe Kinh, đầu thai kiếp khác. Càng suy luận tôi càng thích thú vô cùng. Sáng sớm hôm sau khi đã uống cà phê xong, là tôi chạy ngay lại nhà của Mỹ Nương để thăm dò tình hình lần chót. Dĩ nhiên là tôi được tiếp đón niềm nở, và đầy cung kính của chú thím Hai Miên. Tôi cho gọi Mỹ Nương ra ngay để xem sao, Mỹ Nương hôm nay có lẽ do thoát được oan hồn quấn quýt, nên trông thần sắc cô sáng sủa hẳn ra, không còn vầng đen u ám trên trán nữa. Cô khẽ chắp tay theo kiểu người Miên, vái chào tôi bằng ánh mắt hơi rụt rè e lệ. Tôi ngoắc cô lại gần, nói :
- Cháu lại đây, đừng sợ để tôi coi còn gì lạ không ?
Khi cô đến gần, tôi dùng bàn tay trái chuyên luyện Ấn của mình đặt trên trán của cô. Đây là lần đầu tiên tôi chạm tay trên tóc của người Miên, hồi nào tới giờ, nhìn những lọn tóc quăn của họ, tôi cứ nghĩ là tóc của họ chắc..cứng lắm, nhưng không ngờ, lại rất mềm, còn mềm mại hơn cả tóc người Việt mình nữa. Tôi dùng tay đi một vòng quanh nguyên cái đầu của cô, thấy hoàn toàn bình thường, không hề có khối u nào cả, nếu như người thường, thì những cái dộng đầu đùng đùng xuống bộ ván ngựa ngày hôm qua, ít nhất mỗi cái đập như vậy, cũng phải làm nổi u lên cỡ trái cam. Thấy cô còn đeo rất nhiều chỉ Bùa ngũ sắc trên cổ, trên cườm tay, nên tôi nói :
- Bây giờ thì cháu không cần đeo mấy thứ này nữa rồi, cởi ra đốt hết đi.
Bà mẹ của Mỹ Nương hỏi :
- Nó còn đeo giây Cà Tha quấn ngang lưng nữa, có cần bỏ luôn hông Thầy ?
Tôi đáp :
- Thím Hai lấy cái tô lại, biểu Mỹ Nương tháo hết các bùa đeo trên mình bỏ vô cái tô cho tôi.
Thế là Mỹ Nương cùng sự giúp đỡ của bà mẹ dùng kéo cắt hết những vòng chỉ ngũ sắc, bỏ vào trong cái tô. Nhưng đặc biệt nhất là sợi dây Cà Tha mà Mỹ Nương đeo ở bụng như sợi giây nịt. Sợi dây làm bằng chỉ ngũ sắc bện chung lại lớn cỡ cái đũa, mà cứ cách khoảng ba cm, là có cuộn một khúc chì dài khoảng hai lóng tay. Tò mò tôi nắm lấy khúc chì đó trong lòng bàn tay của mình và thầm niệm chú... “ Kiểm Phép ” với chú này, hễ vật thể nào có bùa phép bên trong, thì lòng bàn tay của tôi sẽ nóng lên. Nhưng tôi niệm đến ba lần mà chẳng cảm thấy gì hết, tôi cười thầm trong lòng, hổng biết vị Thầy nào lại " dám " cho bùa dởm như vậy ?
Tôi bèn gỡ khúc chì đó ra coi luôn mà không ngần ngại chút nào. Khi mở cuộn chì, tôi mới biết đó là miếng chì cán mỏng như tờ giấy, hình chữ nhật khoảng bốn cm, dài sáu cm, trên đó có viết Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn, mà các cụ nhà ta, hoặc những người thường đi chùa ai ai cũng biết, đó là sáu chữ :
“ Án Ma Ni Bát Di Hồng ”.
Tôi nhớ hồi mình còn nhỏ, Bà Ngoại của tôi thường dạy :
- Nếu ban đêm đi đường sợ Ma, cứ niệm Án Ma Ni Bát Di Hồng thì Ma Quỷ không dám lại gần.
Khác có điều ở đây viết trên lá chì bằng chữ Phạn :
“ Om Mani Pad Me Hum "
Nếu dịch ra nguyên văn nghĩa là :
“ Ngọc Quý trong đoá hoa Sen ”.
Tôi cảm thấy thú vị khi thấy sự tin tưởng của các Cụ Việt Nam lại giống y như sự tin tưởng của các ông Lục Miên tu theo Phật Giáo Nguyên Thuỷ ở đây. Tôi hiểu ra và sanh lòng kính cẩn ông Sư nào đó, đã cất công ngồi bện sợi giây Cà Tha này, ông ta đã nắn nót viết từng chữ trên các lá chì. Chữ của Phật, làm sao phép “Kiểm” của tôi có đủ khả năng thẩm định được ? Tôi bèn thầm niệm chú sám hối cho lòng ngã mạn của mình, trong giây phút trước...Rồi tôi cuộn lá chì lại như cũ nói:
- Cháu Mỹ Nương, cháu hãy đem dây này trở vào chùa, trả lại cho ông Lục nào mà hôm trước đã làm cho cháu đó, nói rằng bây giờ cháu đã hết bịnh, nên trả lại ông Lục để sau này ai có cần thì ban cho họ.
Sau đó Mỹ Nương khỏi bịnh luôn, có đều là mỗi lần tôi gặp, hễ hỏi đến chuyện cô “ Mai " thì Mỹ Nương ngơ ngác, cô chỉ cười thật tươi mà chẳng hiểu tôi nói gì cả, coi như cô hoàn toàn quên mất chuyện mình đã bị Ma nhập một thời.
Atoanmt
Sau năm bảy lăm tôi cũng như nhiều người khác tìm đường vượt biên, nhưng lần nào khi tôi ngỏ ý với Sư Phụ của mình, thì đều bị ổng thản nhiên nói :
- Nhà ngươi không vượt biển được đâu.
Tôi nghe thì nghe, nhưng bản tánh tôi lúc nào cũng tận nhân lực trước cái đã, thiên mạng...tính sau. Vì thế một hôm chuyện vượt biên bị bể, tôi chạy tán loạn từ Vũng Tàu về, trong túi chỉ còn có bảy đồng bạc và một bộ đồ dính da. Đến Biên Hòa tôi hay tin, có một đệ tử của mình ở Cần Thơ, vừa chạy lên kiếm tôi xuống đi chung chiếc ghe của nó. Thời giờ cấp bách tôi không thể ghé về nhà mình được, nên tôi đi thẳng ra Xa Cảng Miền Tây, và nghĩ rằng với bảy đồng, tôi đủ tiền xuống đến Cần Thơ. Đến Xa Cảng Miền Tây lúc hơn mười một giờ tối, khi leo lên thùng sau của một chiếc xe hàng, chú lơ xe trẻ tuổi nói:
- Đi Cần Thơ là mười đồng.
Tôi năn nỉ nói là tôi còn có bảy đồng, xin cho quá giang thì chú lơ đáp :
- Bảy đồng thì đi tới Vĩnh Long thôi.
Tôi thấy khuya chỉ có mỗi một xe, nên lẳng lặng ngồi yên, vì nghĩ rằng từ Vĩnh Long về Cần Thơ chỉ có ba mươi km, đến Vĩnh Long mình năn nỉ chắc họ sẽ cho quá giang qua Cần Thơ. Không ngờ trong xe chật khách vậy mà đến Vĩnh Long, chú lơ xe vẫn nhớ đến tôi chú nói :
- Ê cha nội tới Vĩnh Long rồi xuống đi.
Tôi vừa mở miệng năn nỉ, thì bất ngờ chú ta chụp lấy cái túi của tôi rồi quăng xuống đất. Tôi thấy lòng đau quặn thắt, không phải vì mình bị từ chối, nhưng tôi đau cho cái tâm bất nhẫn của chú lơ trẻ tuổi đó. Và tôi không còn cách nào hơn là leo xuống xe để nhặt lấy cái túi xách, trong đó chỉ có cái khăn, bàn chải và cuốn Kinh, “ Phép Mật ” của Môn phái. Tôi không quen ai ở Vĩnh Long, trong túi lại không có tiền, và đứng ở ngả ba lộ tẻ lúc hơn hai giờ sáng, cái giờ dễ bị công an xét hỏi và bắt, trong người tôi lại không có giấy tờ tùy thân nào, tôi nghĩ cách hay nhất là đi lủi ra ngoại ô, tránh ánh đèn khu phố chợ cho yên thân.
Trời tối đen như mực tôi không biết Vĩnh Long, nên cứ lầm lũi đi bừa trong bóng tối, mà không biết sẽ đi đâu. Đến khi tôi thấy trước mặt mình là một mái chùa, bóng ngói cong in lờ mờ trên nền trời đen thẳm, bên trong có ánh đèn dầu leo lét tôi gõ cửa, thì có Sư Cô già ra mở cửa, tôi nói mình lỡ đường xin tá túc qua đêm. Sư Cô liền mời tôi vào và ân cần hỏi tôi có đói không ? cô dọn cơm cho ăn. Cả hai ngày lăn lộn từ Vũng Tàu về, nên tôi xin phép tắm rửa trước rồi vào lễ Phật xong mới ăn cơm. Khi ngồi vào bàn ăn, lúc đó tôi mới nhớ là hai ngày qua, mà tôi chỉ ăn có một dĩa cơm ở bến xe, bây giờ đói run cả tay. Nhưng có điều rất lạ mà chính tôi cũng không hiểu được, vì vừa cầm đũa trên tay tự nhiên tôi hỏi :
- Thầy của Sư Cô đi lâu chưa ?
Sư Cô cũng đáp :
- Ổng mới đi
Tôi lại hỏi tiếp:
- Vậy chớ... “ Bửu Bối ” của ổng để đâu ?
Lúc này Sư Cô mới nhìn tôi chằm chằm và nói :
- Chú em ở đâu tới đây xin ngủ tôi cho ngủ, tôi còn cho ăn nữa đói thì lo ăn đi, sao chú em hỏi bửu bối này bửu bối nọ làm chi ?
Tôi không biết tại sao lại hỏi tiếp, câu hỏi đường đột vô duyên, vô nghĩa và gần như hết sức vô lý...
- Tui muốn hỏi Sư Cô là ba cái bửu bối của Thầy, Cô để đâu mà ?
Sư Cô vẫn nhìn tôi chằm chằm và hỏi lại :
- Chú em nói cái gì vậy ? tui hổng hiểu !
- Thì tui nói ba cái bửu bối của ông Thầy chứ nói cái gì mà Sư Cô hỏng hiểu ? Cô để đâu lấy ra cho tui đi.
Đến lúc này thì Sư Cô mới nở nụ cười, làm khuôn mặt già nua của Bà tươi hẳn lên Bà nói:
- À phải rồi đúng rồi hồi trước khi đi, Thầy tui có dặn, bao giờ nửa đêm khuya, có chú em nào đến hỏi bửu bối, thì đưa ra cho chú, thôi chú em lo ăn cơm đi, để tui vô lấy bửu bối cho.
Khi Sư Cô cầm cây đèn đi khuất vào phòng trong, tôi mới bắt đầu ăn cơm và vừa nhai cơm vừa suy nghĩ, ngạc nhiên cho chính mình, lối nói chuyện của tôi vừa qua thật là lạ, đó hoàn toàn không phải cung cách của mình. Dường như ai đó...đã dùng miệng của tôi mà nói vậy. Ai là người có thể qua được phép Hộ Pháp của tôi để nhập vào tôi ? Và “ bửu bối ”, chà chà từ này tôi đọc thuở nhỏ trong sách truyện rất xưa, thời nay làm gì có bửu bối, mà bửu bối là cái gì mới được chứ ? thiệt là...lãng nhách. Khi tôi ăn cơm xong thì Sư Cô đem lại cho tôi một bọc nylon trắng cô nói :
- Nè cả ba cái Thầy để ở trỏng chú em lấy đi, tui cũng không biết cái gì nữa.
Tôi nóng lòng định mở ra xem, thì Sư Cô xua tay nói :
- Chú em khoan mở chờ tui đi ngủ cái đã, chú uống nước xong, chừng nào muốn ngủ thì lại cái bộ ván ngựa ở đàng kia kìa, tui soạn mùng chiếu sẵn cho chú, thôi bây giờ tui đi ngủ đây.
- Khoan Sư Cô, cho tui hỏi vậy chứ chùa này tên gì và Thầy của Sư Cô Pháp Danh là gì, ổng đi khỏi chùa bao lâu rồi ?
- Chùa này là chùa Tứ Phưong Tăng, thường có nhiều Sư ở khắp nơi tới lắm, tốp này tới rồi lớp khác đi tui không để ý. Còn Thầy tui đi ba năm rồi, ổng lẹ lắm mới hôm qua bên Xiêm, bữa nay lại về chùa bữa sau lại đi Xiêm. Ổng đi đi về về hoài à, mà ổng có dặn là hổng cho chú em biết Pháp Danh của ổng. Thôi để tui vô ngủ mệt quá rồi.
Nói xong Sư Cô lọm khọm đi ngủ, tôi không dám phiền Bà nữa nên lặng thinh. Tôi mở cái bọc bửu bối ra, bên trong chỉ có ba miếng vải vàng, có chữ Phép màu đỏ, và vài tờ giấy trắng, đã ngả màu vàng có ghi chú chỉ dẫn bằng những nét chữ rắn rỏi và đẹp.
Hoá ra đó là ba lá Phép :
- Thứ nhất là chỉ cách...bắt Ma Quỷ, Thần Thánh nhập vào người.
- Thứ hai là Phép Nhịn Đói.
- Còn phép thứ ba thì cấm không phổ biến, cho nên xin lỗi các bạn, tôi không thể kể ra đây.
Về phép bắt Ma Quỷ có chỉ dẫn rõ ràng rất...tế nhị. Vì đa số các Thầy bắt Ma Quỷ bằng cách...đánh đập bằng tay, bằng ấn phép, dọa nạt, hoặc dùng Binh, Tướng, ra oai diễn võ. Cách đó dễ gây đến nghiệp oán thù. Còn phép này thì chỉ ... “ Khóa ” cho Ma Quỷ hoặc thần Thánh nào đó, khi nhập vào người ai, thì dính trong người đó luôn, không ra được. Mà Ma Quỷ Thần Thánh khi nhập vào ai, thường thì lúc ra lúc vào, bởi vậy người bịnh lúc tỉnh lúc mê. Cho nên khi bị phép khóa không ra được. sẽ đâm ra sợ mà xin...mở khoá cho ra. Lúc đó mình mới nói là tại quý vị muốn vô xác người này, tôi chỉ chiều ý cho vô luôn chớ không gì khác.
Dĩ nhiên là Ma Quỷ Thần Thánh lúc đó sẽ năn nỉ, và mình giảng cho họ vui vẻ để hứa là “ đi ” luôn, mình mới mở khóa. Tôi đọc thấy thích thú vì Phép mà có vẻ logic lắm...Tôi đi lạy Phật xong ngủ một giấc thật ngon đến mười giờ giờ sáng mới thức. Khi từ giã Sư Cô tôi đi ra cổng chùa, mới thấy cái bảng tên chùa rất cũ kỹ : “ Tứ Phương Tăng ”. Các bạn nào ở Vĩnh Long hẳn có biết đến chùa này, tôi không nhớ là ở khúc nào, mà chỉ biết chắn chắn là nó ở ngoại ô của Thị Xã Vĩnh Long. Đường vào chùa có trồng hai hàng cây làm hàng rào hai bên, tôi lấy làm lạ là lối đi nhỏ xíu, vậy mà đêm qua tôi không thấy hàng rào gì cả, mà tôi lại mò đi được thẳng vào chùa, không đụng phải cây cối gì hết.
Tứ Đại Thiên Vương
Đêm tôi ngủ ở chùa Tứ Phương Tăng, cũng là đêm người đệ tử của tôi ở Cần Thơ xuống tàu đi mất, thế là tôi bèn trôi nổi xuống tận Bạc Liêu để tìm đường khác. Một năm sau qua sự giới thiệu này nọ, tôi quen được với một anh cán bộ, coi Kho muối của ven biển Bạc Liêu. Thấy kho muối có căn nhà tôn rất lớn, mà sức chứa được cả đến ba trăm người, quả là lý tưởng cho việc làm bãi tập trung người đi vượt biên, nên tôi đã móc ngoặc với anh Hai này, do đó tôi thường xuống địa phương của anh, và nhậu nhẹt để làm thân với đám cán bộ thu mua muối.
Anh Hai có cô con gái tên Hồng, lúc đó khoảng mười chín tuổi, một đêm cháu Hồng bỗng bị đau bụng dữ dội, kho muối lại sát ven biển, đường sình lầy trơn trợt, không cách nào chuyển cháu ra bịnh viện được, anh chị Hai thì lo lắng vô cùng khi thấy cô con gái độc nhất của mình, đau đến nỗi toàn thân ra mồ hôi hột, hột như hột đậu và mồ hôi nhớt nhợt kỳ lạ. Tôi, bằng chút kiến thức nhỏ nhoi về Y, cũng mò khám đại, tôi nói cháu Hồng co đầu gối phải lên đến ngực, cháu làm được, như thế thì không phải là đau ruột thừa, tôi khám vùng phúc mạc, cũng thấy bình thường, gan thận không sưng, trong khi người cô mồ hôi cứ tuôn ra nhớt kinh khủng và người càng ngày càng lạnh đi. Bí quá tôi đành nói với anh Hai chủ nhà:
- Thú thiệt với anh, tôi có học được một chữ bùa trị đau bụng hay lắm, bây giờ nếu anh tin, thì lấy cho tôi ba cây nhang, để tôi vẽ chữ bùa đó trị bịnh cho cháu.
Anh Hai chưa kịp trả lời thì bà vợ của ảnh đã đem nhang tới, tôi vội vẽ vài chữ, thì ngay lập tức cháu gái im không rên la nữa, tôi hỏi thì cháu Hồng nói :
- Dạ thưa chú cháu thấy hết đau rồi, nhưng bụng rêm lắm và làm như có cục gì chạy qua chạy lại, thấy khó chịu ghê...
Tôi nghĩ là gaz, nên nói chị Hai xắt cho mấy lát gừng mỏng, tôi lót gừng, rồi dùng thuốc...555 đốt ba huyệt, mỗi huyệt hai mươi cứu : Cửu Vĩ trị đau dạ dày. Khí Hải trị màng bụng đau thắt và huyệt Túc Tam Lý cũng trị đau bụng, nhưng hỗ trợ thêm sức khoẻ. Sau đó độ năm, mười phút thì cháu Hồng đi nhà xí xong là khoẻ lại hoàn toàn. Dĩ nhiên là cả nhà mừng rỡ, và anh chị Hai cứ theo hỏi tôi về việc chữ bùa gì, mà trị hết đau bụng cấp kỳ vậy, tôi đành trả lời qua loa cho xong.
Tưởng chuyện có thế là hết, nhưng ngày hôm sau khi tôi đi ra chợ uống cà phê với anh Hai về, thì thấy chị Hai cùng với hai người Miên bước ra của, đứng đón tôi có vẻ trịnh trọng lắm tôi nghĩ : “ Rồi tới nữa rồi, dám có ai đau bụng nữa đây? Khi vô nhà ngồi, tôi được chị Hai, cháu Hồng và hai vợ chồng người Miên, thi nhau kể về người con gái của họ, cháu ...Mì Nươl ! Người Miên đa số họ Kim và họ Sơn, còn con gái đa số lấy chữ Mì làm đầu, Mì Nươl phát âm là Mì Nươn, nên tôi bèn gọi cháu là Mỹ Nương cho dễ .
Họ kể: Năm ngoái Mỹ Nương sau buổi đi biển bắt sò huyết về thì bị sốt, nói làm xàm và có nhiều người nhập vô Mỹ Nương, cả nhà đã đem cô vô nhiều chùa Miên để các ông Lục trị, nhưng chỉ hết chừng một hai tuần rồi bị trở lại. Cả ngày cô ta cứ ngồi nói chuyện một mình, như là nói với người vô hình bên cạnh. Cháu Hồng lại là bạn rất thân với Mỹ Nương, vì thế khi thấy tôi biết trị bịnh vẽ vẽ bằng cây nhang, lập tức cháu Hồng qua báo cho cha mẹ của Mỹ Nương biết.
Tò mò tôi nói Hồng đi dắt Mỹ Nương tới, khi nghe tiếng nói của cháu Hồng trước cửa, tôi vội niệm phép “ Án Thân ”, có nghĩa là phép làm cho mình giống như người thường, không có phép gì trong người cả, để Quỷ Thần không biết, và cả những Thầy Bùa Phép mà có tánh ganh tị ưa thử sức, thử Phép cũng hổng biết. Tôi muốn thử xem người bịnh này, là Ma Quỷ nhập hay chỉ vì...thất tình mà chạm dây ? Quả Mỹ Nương đúng là người đẹp, tuy là con gái Miên, nhưng cô ta có cách đẹp là lạ, tôi để ý thấy cô đeo bùa lung tung, những loại bùa của người Miên bằng chỉ ngũ sắc, ngoài mấy vòng như dây chuyền, cô còn đeo luôn cả hai bên cổ tay nữa.
Đặc biệt khi gặp tôi cô nói chuyện với tôi bằng tiếng bắc, tôi hỏi tên thì cô xưng là...Mai ở Sàigòn. Trong khi địa phương đó vùng ven biển, xóm người Miên không có người bắc, họ nói tiếng nam còn không rõ, mà một cô gái Miên nói đặc giọng bắc, quả là chuyện rất lạ. Không biết cô ta chạm dây cỡ nào, hay là có cô Mai nhập thật ? tôi bèn hỏi tiếp :
- À cô là cô Mai vậy tại sao cô lại nhập vô xác Mỹ Nương ? sao cô không nhập vô cháu Hồng đây ?
Vừa nói tôi vừa chỉ tay vào cháu Hồng, lúc đó khoảng hai giờ trưa rồi, mà khi vừa nghe tôi nói vậy, thì cháu Hồng thét lên một tiếng rồi ôm chầm lấy bà mẹ. “ Cô Mai ” thì cười nụ cười rất đẹp trả lời :
- Tôi thấy Mỹ Nương đây " hợp " với tôi, nên tôi mới “ nhập ” được, chứ không phải là muốn nhập vào ai thì nhập đâu.
Tôi chỉ tay vào chị Hai
- Hay cô thử “ nhập ” vào bà này được không ?
Lần này đến lượt chị Hai thét lên và ôm chầm lấy cháu Hồng, rồi thì cả hai mẹ con bèn đứng lên, khỏi cái bộ ván ngựa chỗ chúng tôi ngồi, mà sang ngồi chỗ khác xa hơn chút, sau khi đã không quên cằn nhằn tôi :
- Anh Ba đừng nói giỡn kiểu đó nghen, rủi nó nhập thiệt thì chết.
Tôi quay sang cô “ Mai ” hỏi tiếp :
- Như vậy cô là người ở đâu sao lại đến đây ?
- Dạ " em " ở Sàigòn, đi vượt biên bị bão đắm tàu nên trôi vào đây cùng với mấy người nữa, được dân chài vớt đem chôn ở ven biển.
Nói đến đây cô Mai cúi mặt xuống im lặng, tôi bèn hỏi tiếp :
- Tôi tưởng chết là đi đầu thai kiếp khác, sao nghe nói cô nhập vào cô Mỹ Nương này đến cả năm rồi ? cô không đi đầu thai à ? và còn những người trôi chung với cô nữa, họ có như cô nhập vào ai ở vùng này không ?
- Cả năm ? người sống thì là cả năm, chứ người chết chỉ có hơn một tháng thôi, còn những người kia thì họ bị " Lính " bắt đi rồi, em không biết đi đâu, nhưng có mấy “ Cụ già ” thì bảo là họ bị đi đầu thai đó...
- Cô nói " Lính " là Lính gì ? tôi không hiểu.
- Dạ, cứ tối xuống là có các toán Lính Âm Binh đi tuần, họ dữ lắm...em sợ lắm...nên buổi tối là em phải trốn vào chùa.
- Ủa lạ tôi nghe nói ở chùa có Tả Hữu Hộ Pháp, Kim Cang Hộ Pháp La Hán mà, sao cô có thể vào được ?
- Các Hộ Pháp coi vậy mà chẳng làm gì chúng em cả, khi em mới từ biển lên em chạy vào chùa, bị các “Linh” của người chết thờ trong chùa, họ dữ lắm đánh đuổi chúng em đi, không cho vào. Sau này nhờ khi dân chài chôn, có mấy vị Sư Miên đến tụng Kinh, các Sư có niệm Kinh hộ trì cho chúng em vào chùa, nhờ vậy em mới không bị các Linh khác đuổi nữa, trái lại còn được ăn cơm chùa, chứ không bị đói lạnh như trước.
Tôi ngồi nghe cô Mai kể mạch lạc, không đắn đo suy nghĩ, làm tôi rất ngạc nhiên, vì qua đó tôi sẽ hiểu thêm về cuộc sống “ bên kia ” nếu quả thật đối diện tôi là Ma nói chuyện. Tuy nhiên cũng có thể cô Mỹ Nương này đọc nhiều truyện tiểu thuyết, bây giờ bị “ chập dây ” nên tiềm thức của cô xổ ra, chứ không phải Ma Quỷ gì cả thì sao ? Tôi phải tìm cách “ thử ” để xác định lại là Ma nhập, hay mát dây trước cái đã, nên tôi xoay qua chủ đề khác :
- Cô nói cô ở Sàigòn vậy cô ở Quận mấy ? đường gì ?
- Dạ em ở Quận ba đường Lê Văn Duyệt
- Cô học Trường nào
- Em học Trường Gia Long đến lớp mười hai thì em phải nghỉ học, ở nhà buôn bán giúp mẹ.
- Vậy cô biết quán...thạch chè Hiển Khánh không ?
- A cái quán mà trên bàn có để các bài thơ chứ gì ? có em biết chứ, em thường ăn ở đấy lắm, cả hai quán, một ở Phan Đình Phùng, một ở Đa Kao em cũng biết.
Nghe vậy tôi nhìn chăm chằm vào cô gái trước mặt: Mỹ Nương người con gái Miên, trong bộ quần áo nghèo nàn thôn dã, không thể nào cô ta lại lên Sàigòn và vào ăn thạch chè, món thức uống đặc biệt của người bắc được.
Tôi bèn nói:
- Cô ngồi chờ tôi một chút nhé, để tôi ra đầu đường mua gói thuốc hút rồi quay lại ngay, nói chuyện với cô vui quá...
Nói xong tôi đứng lên gọi Ba của Mỹ Nương :
- Ông lấy xe chở tui đi mua thuốc nghen.
Ông người Miên thật thà nói :
- Khỏi đâu, khỏi đâu tui có Thuốc Gò nè.
- Tui hút thuốc đó hổng nổi, phải mua thuốc Thơm mới được.
Khi cùng với Ba của Mỹ Nương đến cái tủ thuốc lá ngoài đường, tôi hỏi ngay:
- Ông à từ nào tới giờ, ông có cho con gái của ông, Mỹ Nương, đi lên Sàigòn ở bạn không ? Ở bạn, tiếng địa phương chỉ những người đi giúp việc nhà, người ở ở đợ.
- Đâu có con tui nó ở nhà tui từ nhỏ, không đi đâu xa cả.
- Vậy trong xóm ông có gia đình người bắc nào ở Sàigòn dọn xuống đây ở không ?
- Không có người bắc.
- Mấy xóm kế bên có không ?
- Cũng không có xóm tui là xóm Miên mà, chỉ có người " Khơ Me " ở thôi.
- Còn các cơ quan nhà nước, có gia đình cán bộ nào mà người bắc hông ?
Nghe hỏi Ba của Mỹ Nương suy nghĩ một chút rồi đáp :
- Ừa có một gia đình người bắc, làm ở trạm thu mua.
- Họ có con cái cỡ tuổi Mỹ Nương hông ?
- Tui cũng không biết.
Tôi suy nghĩ :
- Có thể Mỹ Nương quen với gia đình này, nghe kể về Sàigòn...
Nên tôi bèn quay xe chạy về nhà của cháu Hồng. Khi đến trước cửa tôi thấy hai mẹ con cháu Hồng và bà mẹ của Mỹ Nuơng...mặt xanh lè, đứng tận lề đường đón, tôi hỏi :
- Ủa sao ra ngoài này hết vậy ? còn Mỹ Nương đâu ?
Cháu Hồng nhanh miệng trả lời :
- Dạ thưa chú, khi chú mới ra khỏi cửa, thì Mỹ Nương trong nhà té cái đùng xuống sàn, mình mẩy lạnh ngắt, má cháu mau mau lấy dầu cù là cạo gió, nhưng Mỹ Nương hổng tỉnh. Mới tức thì bỗng nó ngồi dậy, đập đầu đập tay làm thấy ghê lắm, nên cháu và mẹ với thím hai sợ quá phải chạy ra đây, chú vô coi liền đi.
Tôi liền rồ ga chạy vọt Honda vô cửa, tai thì nghe cái " bịch ” tôi ngoái lại, thấy chú Hai Miên đã té ngồi xuống đất, ổng nhìn tôi cười nụ cười chất phác, ra dấu không sao cho tôi đi tiếp. Bước vào nhà tôi thấy Mỹ Nương ngồi xếp bằng, cúi đầu xuống, nhưng hai tay cứ vỗ đùng đùng trên bộ ván ngựa, miệng lí nhí cái gì đó, tôi bèn nói lớn tiếng :
- Cái gì vậy ? cái gì mà làm dữ vậy?
Mỹ Nương ngửng đầu lên, khuôn mặt đẹp bây giờ có cái gì là lạ, chắc tại đôi mắt sáng quắc lên giận dữ cô ta nói :
- Tôi thấy chú hỏi lịch sự, nên tôi mới trả lời đàng hoàng, không ngờ chú không tin, còn đi hỏi này hỏi nọ Ba của Mỹ Nương nữa ? chú muốn gì đây ?
- Cô nói gì vậy ? tôi hỏi gì mà cô giận ?
- Thì hồi nãy ngoài tiệm thuốc đó, chú hỏi coi Mỹ Nương có quen ai người bắc không ? chú mới ra cửa, là tôi bay theo liền, tôi nghe hết rồi, chú không tin tôi là Mai hả ? chú hỏi nữa đi, hỏi cái gì tôi cũng trả lời được hết.
- Vậy chớ ở Sàigòn cô biết có những quán ăn nào ngon, nổi tiếng không ?
Nghe tôi tỉnh bơ hỏi, cô “ Mai " mới cười, đúng là nụ cười liêu trai đẹp thật đẹp cô nói :
- Tưởng gì chứ món ăn thì tôi biết rõ, này nhé: Phở Bò Hiền Vương, Công Lý, Phở Gà Trương Tấn Bửu, Bún Riêu Nhà thờ Đức Bà, Bánh Cuốn Thanh Trì Phan Đình Phùng, Chả Quế của Thiên Hương Rồng Vàng chợ Hòa Hưng này...
Cô “ Mai ” kể một hơi, bây giờ thì tôi nghĩ chắc là Ma nhập thật rồi, tự nhiên tôi thấy thích thú lạ lùng, đây là dịp hiếm có để mình hỏi về "Thế giới bên kia" nên tôi vội ngắt lời :
- Thôi đủ rồi tôi tin cô là cô Mai rồi, nhưng cô cho tôi hỏi là tại sao cô nhập vào cô Mỹ Nương này ? sao cô không đi đầu thai kiếp khác ?
- Tại tôi thân xác ở đây, tôi đang lo tìm người nhà để báo mộng chỉ chỗ đem xác tôi về Sàigòn.
Cô “ Mai ” vừa nói vừa đưa tay quẹt những giọt nước mắt đang chảy tự nhiên trên má...tôi hỏi tiếp:
- Vừa rồi cô nói là cô " bay " theo tôi ra quán thuốc, sao cô không bay về Sàigòn báo mộng ?
- Em chỉ bay gần gần được thôi, bay xa chóng mặt lắm, các " Cụ " trong chùa nói là tại em không hương khói, nên còn yếu lắm, phải ở chùa một thời gian hương khói, thì mới cứng cáp mà đi xa được.
- Nếu bây giờ tôi về Sàigòn, cô cho địa chỉ nhà cô, tôi đến nói người nhà cô xuống bốc mộ của của cô đi, thì cô có bỏ xác Mỹ Nương mà đi không ?
- Em không biết nữa, nhưng bấy lâu nay em chơi với Mỹ Nương, em thấy thích Mỹ Nương lắm, chắc em cũng sẽ về đây làm bạn với Mỹ Nương nữa.
Có tiếng của cháu Hồng :
- Ý ẹ nói nghe thấy ghê quá.
Tôi qua lại thì mới thấy là, nãy giờ mải chú tâm vào cô “ Mai ", mà tôi không thấy là mọi người đã vào cả trong nhà, và ngồi đằng sau lưng tôi. Tôi quay trở lại cô “ Mai " hỏi tiếp :
- Vậy chứ cô có “ bồ ” không ? và nếu có sao cô không về thăm “ bồ ” đi ? chẳng lẽ ở mãi đây sao ?
- Tôi có người bạn trai, nhưng anh ấy đi vượt biên sang Mỹ trước rồi, bây giờ tôi cũng không rõ ở đâu nữa, tôi có nghe nói anh bạn tôi đã lấy vợ, nên tôi cũng không thèm nhớ anh ấy làm gì.
Nói đến đây, cô “ Mai " bỗng ngước nhìn tôi bằng ánh mắt lạ lùng, cô cười nhưng hai ngón tay trỏ và giữa của tay trái cô, lại xỏ vào vòng chỉ bùa ngũ sắc mà cô đang đeo bên cổ tay mặt, rồi xoắn lại thật mạnh. Tôi ngầm để ý thì thấy bàn tay mặt của cô dần dần đỏ ửng lên. Tôi đoán ngay là sắp đến thời điểm căng thẳng bộc phá rồi. Vì thường thường những người bị Ma nhập hoặc những người điên, có điểm giống nhau: Họ đang hiền hoà đó, nhưng bất cứ lúc nào họ cũng có thể nổi khùng lên và hành động thô lỗ bằng một sức mạnh không ngờ. Vì thế tôi bèn ngấm ngầm, vận mười tám thành công lực của mình xuống...cặp giò, và đổi thế ngồi thõng hai chân xuống đất, để có gì tôi sẽ thi triển chiêu “ tẩu vi thượng sách ” được dễ dàng.
Quả như tôi nghĩ, khi bàn tay phải của cô “ Mai ” đã đỏ rực lên, bất ngờ cô vung ra thẳng vào mặt tôi, bàn tay khom lại y như...“ Huyết Ma Trảo ” vụt xuống thật nhanh. May mà tôi không thuộc loại mũi..lõ, nếu không thì đã bị sứt mũi với ngón đòn đó, tôi ngả người ra sau, và vì phản ứng tự nhiên, tôi đã hất cổ tay trái của mình ngay vào cườm tay của cô, đồng thời xoay cổ tay lại nắm xuống. Khi tôi nhớ ra thì đã muộn, vô tình tay trái của tôi đang nắm cổ tay của cô “ Mai ” bằng tư thế “ Ấn ”. Nghĩa là tôi dùng ba ngón : ngón Cái, ngón Áp Út và ngón Út để nắm cổ tay của cô, trong khi hai ngón Trỏ và ngón Giữa thì để Thẳng ra, nằm dài theo cánh tay của cô ta.
Đó chính là một Mật Ấn mà tôi đã học được ở chùa Tứ Phương Tăng năm xưa. Mà một khi Ấn đã Kiết, thì Chú phải Niệm. Lập tức nguyên một tràng tiếng Phạn đã chạy vụt hết một vòng trong trí tôi. Thế là xong câu Chú đã Niệm, trong khoảnh khắc đó cô “ Mai ” tay phải thì bị tôi nắm, còn tay trái của cô thì hai ngón còn bị dính vào cườm tay, trong những vòng chỉ Bùa Ngũ Sắc, nên cô không còn tay nào để tấn công tôi nữa, cô chỉ biết giựt giựt nguyên cánh tay lại được có vài cái, thì tôi đã tự động buông tay cô ra tôi nói:
- Ủa làm gì kỳ vậy sao cô lại đánh tôi ?
Vừa hỏi tôi vừa chờ phản ứng xem cô ta có khóc lóc, có bị đau đớn gì sau khi tôi đã chụp cô ta một Ấn và một Chú không ? Nhưng không như tôi nghĩ, cô ta chẳng bị tác động gì cả, cô “ Mai " bỗng cười sằng sặc và nói :
- Chắc ông có biết võ nên mới tránh được cái...cào hồi nãy của tôi, chớ thường thường tôi chỉ quơ tay một cái là người ta bị xể mặt liền, kể ra ông cũng hay thiệt, nhưng sao mà ông nắm tay tôi chặt quá, nổi lằn lên hết rồi đây này.
Cô vừa nói vừa đưa tay ra, tôi thấy trên cánh tay đỏ hồng của cô, đang nổi bật lên dấu hai ngón tay của tôi trắng rực. Tôi chưa kịp nói gì thì Cô Mai đã thét lên tiếp :
- Ai da, ai da đau quá, tôi bắt đền ông đó, ông mà không cho tôi ăn gà bây giờ, thì tôi đập đầu con nhỏ Mỹ Nương cho nó chết luôn.
Vừa dứt câu cô “ Mai " đã nghiêng người và đập đầu xuống ván ngựa một cái đùng, tôi giang hai tay mình ra tính đỡ, nhưng phải thắng lại, vì tôi ngồi đối diện với cô, cô ta đang vật vã, nếu tôi chụp sợ phạm chỗ không ổn, nên tôi không biết làm sao, đành nhìn cô dộng đầu thêm mấy cái đùng đùng nữa xuống bộ ván. Các bạn hãy tưởng tượng một người con gái mới lớn, không thể nào dám có những hành động như thế, ngoại trừ là người điên. Đến lúc đó thì Ba của Mỹ Nương đã nhào lên bộ ván, đứng phía sau cô " Mai ", và dùng cả hai cánh tay gân guốc như lực sĩ của ông, để khoá chặt hai vai cô Mai.
Nhưng cô Mai đã vung người ra khỏi cái khoá đó dễ dàng, cô xoay người ra sau hất chú Hai Miên ra, và không quên bồi vào cổ ông một nhát chém bằng cạnh bàn tay nữa, khiến ông té lăn xuống sàn cái bịch. Rồi cô ta lại tiếp tục dộng đầu xuống bộ ván ngựa. Lúc này thì cả căn nhà náo loạn lên, tiếng đập đùng đùng đệm thêm tiếng thét thất thanh, của hai mẹ con cô Hồng, chú Hai Miên thì bị trặc luôn cái cổ. Tôi thì phân vân chần chờ, vì muốn coi cái Phép học ở chùa Tứ Phương Tăng có tác dụng không, nếu mà cô Mai này làm dữ hơn nữa, thì lúc đó tôi mới dùng Ấn khác rất oai lực, để trấn áp cô ta. Trong lúc đó không ngờ, người bình tĩnh nhất lại là thím Hai Miên, bà ta đã nhào ra sau bếp, bưng lên luôn con gà luộc, món " mồi nhậu " duy nhất hôm đó tính đãi tôi, đem thẳng đến trước cô Mai, bà chậm rãi nói :
- Dớ dớ, cô đừng có đập đầu con tui nữa, con gà nè Hốp đi hốp đi, Si đi si đi... Tiếng Miên, Dớ Dớ là nè nè, còn Hốp, và Si đều có nghĩa là ăn.
Lập tức cô Mai, ngừng dãy dụa và cười lên sằng sặc, hai tay cô chụp lấy con gà xé ra và cắn ngồm ngoàm y như người chết đói lâu năm. Bây giờ trước mắt tôi hình ảnh có vẻ ma quái rõ ràng. Mỹ Nương người đẹp không còn thấy đẹp nữa, mái tóc xổ tung hai bàn tay nhầy nhụa mỡ gà, chung quanh miệng cũng dính đầy mỡ nhễ nhại và cặp mắt rất là lạ, vì cô vừa ăn ngấu nghiến vừa liếc ngang dọc láo liên bằng cặp mắt sáng quắc, cái sáng không phải là cái sáng bình thường của con người. Vì từ cái sáng của ánh mắt đó, tôi không đọc được những gì mà người thường biểu hiện như: hỷ, nộ, ái, ố, vui hoặc buồn, tôi chăm chú theo dõi thì chỉ thấy hiện lên một sự trống rỗng kỳ lạ, một ánh mắt vô hồn đến rợn người.
Bây giờ mọi người đều nín lặng, không ai nói một lời nào, cái im lặng bất chợt tĩnh mịch đến nỗi chỉ còn tiếng cắn, tiếng ngoạm vào thân con gà, tiếng nhai xương ngấu nghiến rào rạo, vang lên khô khan và đơn độc. Cô Mai hầu như không còn biết đến ai nữa, cô như đang hòa nhập vào chuyện ăn uống mà thôi. Mọi người quay nhìn tôi, tôi bèn ra dấu cho mọi người theo tôi bước ra nhà ngoài, để cho cô Mai đó ăn xong mới tính sau. Ra đến căn phòng ngoài, chú Hai Miên một tay vừa ôm cổ vừa nói:
- Dớ, chắc Thầy hổng làm gì được nó rồi, hồi nãy vậy mà nó mạnh quá, nó xô tui đau lắm.
Mẹ cháu Hồng hỏi tôi :
- Anh Ba anh thấy sao ? bây giờ anh có cách nào hông ?
Tôi lẳng lặng cúi đầu ngẫm nghĩ : " Nếu theo như Phép Bắt Ma Quỷ của chùa Tứ Phương Tăng, thì khi tôi chụp bằng Ấn, niệm Chú, thì đã “ trói ” ngay được con Ma đó rồi, tại sao cô “ Mai ” này lại không hề bị tác động nào ? Hỗng lẽ lâu rồi nên tôi đã niệm sai câu Chú ? Tôi nghĩ đi nghĩ lại thì rõ ràng là câu chú của mình không sai. Như vậy hổng lẽ câu Chú...dởm ? Tôi tức quá phải có chỗ sai lầm nào đây, cho nên đã nắm tay được con Ma rồi, mà nó lại không bị hề hấn gì. Thôi thì chắc phải lấy xe chạy về căn nhà tôi ở trọ, để lục cuốn Kinh Phép của mình ra coi lại mới được.
Nghĩ vậy tôi bèn nói:
- Cái cô Mai này dữ quá, để tôi phóng xe chạy đi lấy đồ nghề một chút nghen, tôi đi chừng mười lăm phút là trở lại ngay.
Nhưng trong khi tôi vừa bước đến bên chiếc xe Honda, thì trong nhà đã vang lên tiếng thét rợn người của cô “ Mai ", mọi người chạy ào vô nhà, tôi đứng lại nghe ngóng thì cháu Hồng chạy ra nói, giọng mừng rỡ:
- Hay quá chú Ba, chú vô coi kìa nó sợ chú rồi, nó đang khóc và đòi cháu phải chạy đi kêu ông Thầy Ba vô gấp kìa, nó kêu chú là ông Thầy Ba đó.
Chính tôi cũng ngạc nhiên, bèn rảo bước quay vào. Trên bộ ván ngựa lúc này cô “ Mai " đã ngồi xếp bằng ngay ngắn, hai tay chắp và đầu thì gục lên gục xuống như đang vái lạy cô ta nói:
- Tôi biết sợ Thầy rồi, Thầy làm ơn thả cho tôi ra đi, làm ơn đi thả tôi đi.
Tôi đáp:
- Ủa tôi có trói cô hồi nào đâu, mà cô nói tôi thả cô ra ?
- Đúng là Thầy trói tôi rồi, chứ tại sao mới hồi nãy tôi muốn xuất hồn ra khỏi xác Mỹ Nương mà xuất không được ?
Nghe vậy tôi chợt thấy trong lòng mình dâng lên niềm khoan khoái lạ lùng, như vậy là Ấn và Chú có tác dụng rồi. Nhưng với bản tánh cẩn thận, và hơn nữa muốn cho chắc ăn tôi bèn nói :
- Sao kỳ vậy tôi đâu biết, hay cô thử xuất hồn ra một lần nữa coi được không ?
Lập tức cô “ Mai " ngã bật ngửa ra phía sau, mạnh đến nỗi y như bị ai đá thốc vào mặt, thân giãy giãy y như con cá lóc bị đập đầu. Làm ai ai cũng giựt mình, nhưng ngay sau đó có một phút, cô “ Mai " lại đập mạnh cả hai bàn tay xuống bộ ván, ngồi bật dậy vừa khóc vừa nói :
- Hu...hu...con không ra được...hu...hu...lạy thầy xin Thầy đừng trói con nữa, thả con ra đi...hu...hu.
Tôi đáp :
- Thì tôi đâu có làm điều gì trái ý của cô ? Cô muốn nhập vô xác Mỹ Nương, nên tôi cho cô nhập vô luôn đó mà, sao cô muốn ra làm chi ?
- Không được vô cứng luôn kiểu này không được, con sợ lắm xin Thầy thả cho con đi đi.
- Thôi tôi không thả cô ra đâu, tôi cho cô nhập luôn trong Mỹ Nương đó, bây giờ tôi đi về đây.
Nghe tôi nói vậy, cô “ Mai " liền quỳ lạy tôi liên tục và năn nỉ khóc lóc đủ thứ, tôi nói tiếp:
- Vậy nếu bây giờ tôi thả cô ra thì cô đi đâu ? rồi cô có nhập vô người khác không ?
- Con cũng không biết nữa, nhưng chắc con ra ở chiếc ghe bể bên giồng cây Mắm quá.
- Vậy cô có muốn tôi trì chú đưa cho cô vào chùa để nghe Kinh, sau này đi đầu thai kiếp khác không ? cô may là gặp tôi là Thầy hiền, chứ gặp mấy ông Thầy khác dữ hơn, họ có thể bắt cô bỏ vô lon và dùng roi đánh cô còn khổ nữa. Nếu cô hứa với tôi là không nhập vô ai hết, chỉ ở chùa nghe Kinh chờ đi kiếp khác thì tôi sẽ giúp cho.
- Dạ con chịu con xin hứa với Thầy, xin Thầy thả con ra và đưa con vô chùa đi.
- Vậy cô đưa tay phải của cô ra đây để Thầy làm phép.
Khi cô “ Mai " đưa tay ra, tôi liền cầm lấy cũng bằng Mật Ấn, và lần này thầm niệm bài chú hóa giải. Xong, tôi buông tay ra và nói :
- Được rồi cô xuất đi.
Cô “ Mai "lần này ngoan ngoãn quỳ lạy tôi ba lạy, rồi lại ngã ngửa cái đùng xuống bộ ván. Tôi thở phào nhẹ nhõm như vậy là xong... nhưng niềm vui chưa kịp trọn thì cô “ Mai " đã ngồi phắt lên, vẫn khuôn mặt ma quái vẫn giọng nói người bắc cô ta nói:
- Thầy ơi con “ thăng ” không qua được nóc nhà.
- Sao lại không được ?
- Dạ hiện giờ trên bốn góc nhà có Tứ Đại Thiên Vương đứng trấn, con không thể ra được.
Nghe vậy tôi đâm ra lo, vì bài Phép tôi học không hề có nói đến vụ Tứ Đại Thiên Vương. Tôi chỉ học có hai câu chú, một trói một mở thế thôi, đâu có câu nào mời Tứ Đại Thiên Vương đến, và cũng không có câu chú nào mời Tứ Đại Thiên Vương đi. Rầy rà thiệt bây giờ mà cô “ Mai " không xuất ra được khỏi thân của Mỹ Nương, thì cô “ Mai " sẽ gào khóc liên tục, ai chịu cho nổi, và có nghĩa là tôi sẽ không cứu được Mỹ Nương mà còn hại Mỹ Nương luôn. Thật là rắc rối...Tôi hơi lo nhưng cũng cố giữ bình tĩnh tôi nói :
- Nếu thăng lên không được sao không độn thổ ? chui xuống đất mà đi ?
- Dạ hồi nãy con có thử rồi cũng không được, vì ở trên trời ngoài Tứ Đại Thiên Vương ra còn có Thiên La, dưới đất thì Địa Võng, không cách nào qua được, xin Thầy đừng làm con sợ nữa con sợ lắm rồi, Thầy tha cho con đi Thầy.
Nghe cô “ Mai " nói sợ, mà lòng tôi thì...héo luôn, tôi cũng sợ vì mình không biết câu chú nào, để Mời các Vị Tứ Đại Thiên Vương đó đi chơi chỗ khác, đồng thời cuốn mấy cái gì gì Thiên La Địa Võng đi, thiệt là lãng nhách, tự nhiên ở đâu ra mà có cái vụ Tứ Đại Thiên Vương này ? tôi thật không hiểu nổi. Tôi cúi đầu ngẫm nghĩ, cố lục lọi trong trí của mình để ráng hy vọng, sẽ nhớ ra được câu chú nào đó, có thể giải quyết được cái việc rắc rối dễ sợ này. Vì nếu không giải được, coi như là người bị nhập là Mỹ Nương sẽ chết luôn. Bất chợt tiếng cô “ Mai " năn nỉ tiếp :
- Thầy ơi Thầy tha cho con đi Thầy, con sợ lắm xin Thầy Thỉnh Các Thần đi đi Thầy, con biết sợ rồi Thầy ơi...
Câu nói của cô “ Mai " như tiếng chuông làm tôi bừng tỉnh, tôi nhớ đến câu chú mang tên là “ Kêu Thỉnh Thánh Thần ”, vì vậy tôi liền trang nghiêm thầm niệm và " Thỉnh " Tứ Đại Thiên Vương từ đâu đến, thì xin trở về nơi đó. Niệm rồi tôi hồi hộp nói với cô “ Mai " :
- Xong rồi thôi cô đi vào chùa đi, cố gắng học kinh để sớm đầu thai kiếp khác nhé.
Một lần nữa cô “ Mai " sụp xuống lạy tôi, rồi nằm im thiêm thiếp chừng năm phút, xong cô mở mắt ra, gương mặt có vẻ mệt nhọc, ngơ ngác nhìn chung quanh, nhưng bây giờ thì không còn nét như cô “ Mai " hồi nãy, mà là một Mỹ Nương khép nép thật thà. Khi thấy tôi cô có vẻ mắc cở, khép cài lại cái nút áo ngực bị bung rồi cô quay nhìn cha mẹ, xổ ra một hơi tiếng Miên líu lo. Mọi người lúc đó ai ai cũng mừng rỡ, thím Hai chạy lại ôm cô con gái với hai hàng nước mắt. Cháu Hồng thì cũng ôm mẹ nhảy tưng tưng lên và nói :
- Chú Ba hay quá chú Ba hay quá.
Chú Hai Miên thì bước đến choàng vai tôi và nói :
- O côn...O Côn Bon, cám ơn, cám ơn nghe...hì...hì...mình ra ngoài trước nhậu nghe.
Tôi cũng cười hì hì, nhưng trong lòng chợt hiểu ra: Có, có Tứ Đại Thiên Vương ! Đêm hôm đó tôi không ngủ được cứ trằn trọc mãi, không biết có phải vì tiếng sóng biển vỗ rì rào của đêm trăng rằm, hay vì tôi vẫn còn thắc mắc câu chuyện ban chiều. Tôi ôn lại từ chi tiết lúc nói chuyện với cô “ Mai ", đặc biệt nhất là lúc tôi chụp tay Ấn đầu tiên vào cô, và rồi tôi mới khám phá ra được một điều thú vị. Vì thường thường khi trị Ma Quỷ nhập, hễ các Thầy mới đến gặp người bi Ma nhập, lập tức “ con Ma ” đó biết ngay, nếu ông Thầy yếu, nó sẽ thản nhiên tự tung tự tác, nếu Thầy cao tay ấn, nó cũng vẫn quát tháo dọa Thầy, đôi khi còn đánh Thầy luôn nữa để thừ sức.
Rồi nếu ông Thầy dùng Ấn và Chú đánh “ con Ma ” nó sẽ đau đớn và la khóc inh ỏi...Tôi cũng đã nhiều lần chứng kiến các Thầy Lỗ Ban, bắt hồn Ma bỏ vào trong lon sữa bò rồi bịt lại bằng Bùa, khi mình cầm cái lon kê vào tai, lắc lắc sẽ lắng nghe được tiếng kêu khóc nho nhỏ phát ra từ trong lon sữa bò đó. Còn chuyện hôm nay của tôi, Ấn và Chú của chùa Tứ Phương Tăng lại thật khác. Thứ nhất, “ con Ma ” đã không biết tôi là Thầy, nên đã chuyện trò với tôi rất tự nhiên. Thứ hai, khi tôi vô tình chụp tay Ấn vào cô. Tôi nói vô tình, là vì tôi vẫn còn muốn nói chuyện nhiều hơn nữa với “ con Ma ”, để tìm hiểu thêm về thế giới bên kia, vì sợ khi đã dùng Ấn rồi, “ con Ma ” sẽ biết tôi là Thầy và sẽ thăng mất.
Nhưng điểm hay của Ấn này là khi dùng, “ con Ma ” vẫn hoàn toàn không thấy gì khác lạ, không thấy bị đánh đập đau đớn. Chỉ có một điều là sau khi bị chụp Ấn, lúc muốn xuất hồn ra khỏi xác phàm thì xuất không được. Lúc đó “ con Ma ” mới biết là mình đã bị “ trói ” rồi. Điểm quan trọng hơn là oai lực vi diệu của Ấn và Chú đó, tôi nghĩ là khi dùng, đương nhiên đã triệu thỉnh Tứ Đại Thiên Vương, đến trấn bốn góc của nóc nhà. Đồng thời còn giăng thêm Thiên La, Địa Võng nữa. Thêm một điểm tâm lý, giả tỷ như có con chuột khi bị chui vào bẫy một lần sau thoát ra được, khi thấy cái bẫy là nó biết sợ, và không dám chui vào nữa. Con chuột còn biết phân biệt như vậy, huống gì con Ma ? tôi nghĩ vong hồn “ Mai " đó, sau này nếu lỡ có đi lang thang mà gặp phải Mỹ Nương, bảo đảm “ cô Mai " sẽ sợ hết...hồn và chạy tránh xa.
Còn nói về sự từ bi, thì phép này không có đánh đập, gây thêm nghiệp oán thù giữa Thầy và Ma, mà chỉ là cách khiến cho “ con Ma ” tự động " xin " ra khỏi thân người bị nhập, và được hướng dẫn vào chùa nghe Kinh, đầu thai kiếp khác. Càng suy luận tôi càng thích thú vô cùng. Sáng sớm hôm sau khi đã uống cà phê xong, là tôi chạy ngay lại nhà của Mỹ Nương để thăm dò tình hình lần chót. Dĩ nhiên là tôi được tiếp đón niềm nở, và đầy cung kính của chú thím Hai Miên. Tôi cho gọi Mỹ Nương ra ngay để xem sao, Mỹ Nương hôm nay có lẽ do thoát được oan hồn quấn quýt, nên trông thần sắc cô sáng sủa hẳn ra, không còn vầng đen u ám trên trán nữa. Cô khẽ chắp tay theo kiểu người Miên, vái chào tôi bằng ánh mắt hơi rụt rè e lệ. Tôi ngoắc cô lại gần, nói :
- Cháu lại đây, đừng sợ để tôi coi còn gì lạ không ?
Khi cô đến gần, tôi dùng bàn tay trái chuyên luyện Ấn của mình đặt trên trán của cô. Đây là lần đầu tiên tôi chạm tay trên tóc của người Miên, hồi nào tới giờ, nhìn những lọn tóc quăn của họ, tôi cứ nghĩ là tóc của họ chắc..cứng lắm, nhưng không ngờ, lại rất mềm, còn mềm mại hơn cả tóc người Việt mình nữa. Tôi dùng tay đi một vòng quanh nguyên cái đầu của cô, thấy hoàn toàn bình thường, không hề có khối u nào cả, nếu như người thường, thì những cái dộng đầu đùng đùng xuống bộ ván ngựa ngày hôm qua, ít nhất mỗi cái đập như vậy, cũng phải làm nổi u lên cỡ trái cam. Thấy cô còn đeo rất nhiều chỉ Bùa ngũ sắc trên cổ, trên cườm tay, nên tôi nói :
- Bây giờ thì cháu không cần đeo mấy thứ này nữa rồi, cởi ra đốt hết đi.
Bà mẹ của Mỹ Nương hỏi :
- Nó còn đeo giây Cà Tha quấn ngang lưng nữa, có cần bỏ luôn hông Thầy ?
Tôi đáp :
- Thím Hai lấy cái tô lại, biểu Mỹ Nương tháo hết các bùa đeo trên mình bỏ vô cái tô cho tôi.
Thế là Mỹ Nương cùng sự giúp đỡ của bà mẹ dùng kéo cắt hết những vòng chỉ ngũ sắc, bỏ vào trong cái tô. Nhưng đặc biệt nhất là sợi dây Cà Tha mà Mỹ Nương đeo ở bụng như sợi giây nịt. Sợi dây làm bằng chỉ ngũ sắc bện chung lại lớn cỡ cái đũa, mà cứ cách khoảng ba cm, là có cuộn một khúc chì dài khoảng hai lóng tay. Tò mò tôi nắm lấy khúc chì đó trong lòng bàn tay của mình và thầm niệm chú... “ Kiểm Phép ” với chú này, hễ vật thể nào có bùa phép bên trong, thì lòng bàn tay của tôi sẽ nóng lên. Nhưng tôi niệm đến ba lần mà chẳng cảm thấy gì hết, tôi cười thầm trong lòng, hổng biết vị Thầy nào lại " dám " cho bùa dởm như vậy ?
Tôi bèn gỡ khúc chì đó ra coi luôn mà không ngần ngại chút nào. Khi mở cuộn chì, tôi mới biết đó là miếng chì cán mỏng như tờ giấy, hình chữ nhật khoảng bốn cm, dài sáu cm, trên đó có viết Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn, mà các cụ nhà ta, hoặc những người thường đi chùa ai ai cũng biết, đó là sáu chữ :
“ Án Ma Ni Bát Di Hồng ”.
Tôi nhớ hồi mình còn nhỏ, Bà Ngoại của tôi thường dạy :
- Nếu ban đêm đi đường sợ Ma, cứ niệm Án Ma Ni Bát Di Hồng thì Ma Quỷ không dám lại gần.
Khác có điều ở đây viết trên lá chì bằng chữ Phạn :
“ Om Mani Pad Me Hum "
Nếu dịch ra nguyên văn nghĩa là :
“ Ngọc Quý trong đoá hoa Sen ”.
Tôi cảm thấy thú vị khi thấy sự tin tưởng của các Cụ Việt Nam lại giống y như sự tin tưởng của các ông Lục Miên tu theo Phật Giáo Nguyên Thuỷ ở đây. Tôi hiểu ra và sanh lòng kính cẩn ông Sư nào đó, đã cất công ngồi bện sợi giây Cà Tha này, ông ta đã nắn nót viết từng chữ trên các lá chì. Chữ của Phật, làm sao phép “Kiểm” của tôi có đủ khả năng thẩm định được ? Tôi bèn thầm niệm chú sám hối cho lòng ngã mạn của mình, trong giây phút trước...Rồi tôi cuộn lá chì lại như cũ nói:
- Cháu Mỹ Nương, cháu hãy đem dây này trở vào chùa, trả lại cho ông Lục nào mà hôm trước đã làm cho cháu đó, nói rằng bây giờ cháu đã hết bịnh, nên trả lại ông Lục để sau này ai có cần thì ban cho họ.
Sau đó Mỹ Nương khỏi bịnh luôn, có đều là mỗi lần tôi gặp, hễ hỏi đến chuyện cô “ Mai " thì Mỹ Nương ngơ ngác, cô chỉ cười thật tươi mà chẳng hiểu tôi nói gì cả, coi như cô hoàn toàn quên mất chuyện mình đã bị Ma nhập một thời.
Atoanmt
#37
Gửi vào 07/06/2011 - 10:58
CĂN PHÒNG MA QUÁI
Tôi được sinh ra ở một nơi, cách Thành Phố Nha Trang vài chục cây số, về phía Bắc Vạn Giả Vạn Ninh. Ðó là nơi mà tôi đã sống suốt thời niên thiếu của mình. Tôi có một chú ruột (chú Nam) và một người bác dượng (chồng chị của ba tôi) sống ở Nha Trang. Vào các dịp tết, ba mẹ tôi cho chúng tôi về đó chơi để chúc tết bà con, và ngắm cảnh phố phường trong ngày tết.
Vào mùa hè năm 1970 tôi đậu tú tài hai và thi đậu vào đại học duyên hải tại Nha Trang.Tôi rất mừng vì sẽ được học về những gì mà tôi hằng yêu thích. Hải Dương Học. Gần đến ngày nhập học, ba tôi đem tôi gửi ở nhà bác dượng để cho tiện việc học hành. Ở đó thì tôi chỉ cần đi xe đạp mười lăm phút, là đến trường Ðại Học.
Nhà dượng tôi nằm gần ngã ba của một con đường nhỏ, và đường con đường Phước Hải dẫn xuống chợ. Ba mẹ tôi nói là bác ấy mua căn nhà này với giá rẻ mạt, chỉ bằng nửa trị giá thật sự của nó mà thôi. Nhà có ba tầng, ở tầng trệt thì phía trước bác mở tiệm may, phía sau làm phòng khách. Tầng lầu một có ba phòng ngủ, một phòng cho hai vợ chồng bác, còn hai phòng kia thì là phòng của cô con gái, và hai cậu con trai.
Tầng hai thì chỉ có hai phòng, một phòng phía trước được khóa kín, còn phòng phía sau để trống. Tôi được bác cho ở căn phòng trống này. Bác dượng bắt tôi hứa là, không được đụng chạm gì cái phòng phía trước cả. Tôi nghĩ rằng có lẽ bác ấy, cất giấu những món đồ quý báu trong phòng này. Tôi hứa ngay và rất vui mừng, vì mình được tự do một mình một phòng, trên một tầng lầu riêng biệt.
Tuần đầu ở đó tôi phải dọn dẹp chỗ ở, và vào trường để nghe hướng dẫn về nội quy, và các sinh hoạt trong trường, lại còn phải đi thăm các phòng thí nghiệm tại hải dương viện Nha Trang, nên tôi mệt nhoài cả người. Khi tối đến là lên giường ngủ say như chết. Sau đó mọi việc đã vào nếp nang, và tôi quen dần với nếp sống mới này. Ban ngày đi học, chiều về cơm nước xong nói vài câu chuyện với hai bác, rồi lên phòng học bài vở.
Vào những ngày Chúa Nhật, sau khi đi lễ về, tôi cùng mấy anh chị con bác dượng, đi xi nê hay đi dạo vòng bờ biển. Mọi việc diễn ra êm đẹp cho đến một đêm thứ Bảy, đang nằm trên giường đọc truyện tiểu thuyết của Quỳnh Dao, tôi nghe như có tiếng nói thì thào từ phòng bên vọng sang.
Tôi nghĩ chắc bác tôi lên phòng đó để tìm kiếm gì. Nhưng mười lăm phút sau, tiếng thì thào vẫn vọng ra, tôi tò mò hé cửa nhìn xem có ai bên đó không. Tôi thấy cửa phòng vẫn khóa, và tiếng nói bỗng nhiên im bặt. Tôi lấy làm lạ nhưng cũng trở vào phòng của mình tiếp tục đọc sách, và đã thiếp đi lúc nào không biết nữa. Sáng hôm sau khi đi dự lễ ở nhà thờ Phước Hải về, bác dượng tôi không có đạo, nên chỉ có cô tôi và anh chị cùng với tôi đi lễ mà thôi, tôi gặp riêng bác cô tôi và nói:
- Ðêm qua cháu nghe có ai nói chuyện thì thào ở phòng kế bên, nhưng khi cháu ra coi thì không có ai cả.
- Chắc là cháu ngủ mơ đó thôi, chứ gia đình bác ở đây mấy năm nay có gì đâu.Thôi đi ăn sáng đi và nhớ đừng nghịch ngợm gì đến cái phòng đó nghe chưa.
Tuy không hài lòng về câu trả lời của cô tôi, nhưng tôi vẫn vâng dạ và đi ăn sáng rồi đi chơi. Vào những ngày sau đó thì không có chuyện gì xảy ra, và tuổi trẻ dễ quên nên tôi cũng quên mất sự việc này. Nhưng lại đến đêm thứ bảy, trong khi đang nằm đọc truyện, thì tôi lại nghe tiếng xì xào bên phòng vọng qua. Tôi là thằng nổi tiếng nghịch ngợm ở nhà cho nên rất bạo. Tôi lắng tai nghe và khi chắc chắn rằng là mình không nghe lầm. Tôi nhè nhẹ bò ra cửa sang phòng kế bên, và ghé mắt vào ổ khóa nhìn vào phòng.
Trong phòng tối đen như mực chẳng thấy gì hết. Ngay cả tiếng thì thào lúc nãy bây giờ cũng im lìm. Trở về phòng với tính lì lợm của mình, tôi tự hứa là sẽ tìm ra sự thật của căn phòng đó. Hôm sau tôi lại đem chuyện này nói với bác trai, nhưng tôi chỉ nói quanh là cháu nghe tiếng động ở phòng bên. Chắc có ai đó đột nhập vào nhà muốn trộm đồ hay sao đó. Bác tôi nạt ngang:
- Mấy con chuột nhắt đó chứ ai mà vô nhà. Nó chạy rầm rầm và cắn nhau chí chóe suốt đêm. Cháu chưa quen nên khó ngủ, từ từ rồi sẽ quen thôi. Mà nè cháu phải nhớ lời bác dặn, không được phá phách gì cái phòng kế bên nghe chưa.
- Dạ cháu nhớ ạ.
Tôi trả lời nhưng trong lòng nghi ngờ, là có cái gì bí ẩn ,mà các bác muốn dấu tôi đây. Tôi đợi cơ hội để tìm hiểu sự bí mật trong căn phòng kia. Khổ nỗi là căn phòng luôn khóa kín, và cái chùm chìa khóa thì bác trai luôn giữ theo trong người. Nhưng rồi cơ hội đã đến. Một hôm chúa nhật, hai bác đi dự đám cưới đến khuya mới về, họ lục đục một hồi rồi đi ngủ. Ðến nửa đêm tôi xuống tầng dưới để đi tiểu, bật đèn lên tôi thấy chùm chìa khóa, nằm trên bàn gần bộ sa lông.
Cơ hội tốt cho tôi rồi, đi tiểu xong tôi vơ ngay chùm chìa khóa, rồi nhẹ nhàng lên lại lầu hai. Tuy mang tiếng là gan cùng mình, tôi cũng hơi run run khi đút chìa khóa vào mở cửa phòng kế bên. Tôi bước vào trong phòng. Phòng trống không. Chỉ có một bàn thờ nhỏ, với hình phóng to của một cô gái trẻ đẹp, và một bát hương với đầy chân nhang cắm ở trong đó. Trên tường có gắn một bóng đèn kiểu cọ, và một công tắc ở gần cửa ra vào. Trên trần nhà có treo một quạt máy cũng còn hơi mới, ngoài ra không có gì nữa. Tôi đứng quan sát một lúc, rồi trở ra khóa phòng lại và đem chìa khóa trả về chỗ cũ. Tuy không tìm được những gì mà mình muốn thấy, tôi cũng tạm thỏa mãn với chính mình.
Tôi là thằng gan lì chẳng sợ gì. Có lẽ bác tôi nói đúng cũng nên, tiếng động có thể do bọn chuột gây ra mà thôi. Nhưng luận cứ đó chỉ đứng vững có một ngày. Ðêm sau tiếng thì thào lại nổi lên. Tôi lắng tai coi có đúng là tiếng chuột không. Không, rõ ràng là tiếng người mà. Tôi đi ra đến cửa thì tiếng nói lại im bặt. Chắc là ai muốn phá mình đây. Tôi tự nói với mình như vậy để tránh khỏi dùng đến từ ma. Không sao tôi chưa từng sợ ma mà. Nó có làm gì được tôi đâu chứ. Tôi vẫn đợi một cơ hội khác để tìm ra sự thật.
Vào một sáng chúa nhật, khi đi lễ về tôi thấy chùm chìa khóa, để ở trên tủ may ở nhà ngoài, chắc bác trai khi sửa soạn tiệm để quên ở đó. Trong khi mọi người ăn sáng, tôi ra trước tuột lấy cái chìa khóa phòng, rồi chạy ra tiệm làm chìa khóa gần nhà, nói làm gấp cho tôi. Chỉ mười phút sau tôi đã có trong tay một cái chìa khóa mới. Tôi trở về nhà và may thay, mọi người vẫn bận bịu dưới bếp. Tôi gắn trả chiếc chìa khóa cũ vào chùm. Xong tôi thảnh thơi lên phòng mình dấu cái chìa khóa trong cái áo gối. Tôi nghĩ là mình sẽ sớm khám phá ra được mà điều mình muốn biết. Tôi dự định là phải đợi đúng vào lúc, mà tiếng thì thào trổi lên thì hành động.
Ðêm đó khoảng 11:30 khuya, tôi nghe tiếng thì thào nổi lên. Nhẹ nhàng tôi bước tới cửa phòng, đút chìa khóa vào xoay nhẹ và đẩy nhẹ cánh cửa. Tay bỏ cái chìa khóa vào túi quần và bước vào bên trong. Không thấy ai cả. Trên bàn thờ có ba cây nhang đang cháy dở gần hết, chắc là bác trai đốt hồi chiều. Tôi bước lại gần bàn thờ để nhìn cho rỏ hơn cái hình trên đó.
Ðang nhìn thì tôi cảm thấy có vật gì chạm vào phía sau cổ. Với phản ứng tự nhiên tôi dùng tay hất nó ra và quay lại nhìn. Trong bóng tối lờ mờ tôi thấy một sợi dây thừng, một đầu cột dính vào cái quạt, còn đầu kia là cái thòng lọng đang đu đưa hướng về phía tôi. Tôi nhớ rỏ là lúc bước vào tôi đâu có thấy nó đâu. Thấy nó hướng về phía mình, tôi lấy tay hất ra và nhanh chân phóng ra cửa. Nhưng cái thòng lọng nhanh hơn là tôi tưởng. Nó quàng vào cổ tôi từ phía sau và siết lại.
Cái dây tự động rút dần lên, và kéo tôi hỏng khỏi sàn nhà gần như nửa thước. Tôi bị nghẹt thở phải cố dùng hai tay, để gở sợi dây nơi cổ ra. Vô ích nó xiết rất chặt tôi không tài nào gở ra được. Tôi nghẹt thở quá rồi. Mắt tôi bắt đầu trợn trắng lên và tôi phải há to miệng để hít thở. trong giây phút này tôi nghĩ chắc sẽ bỏ mạng với cái dây này rồi. Tay tôi yếu dần và tuột dần khỏi sợi dây nơi cổ.
Ðột nhiên tay tôi chạm vào sợi dây "thẻ bài" có cái thánh giá bằng ngà, mà tôi luôn đeo trên cổ. Ba tôi đã mua thánh giá này cho tôi, lúc tôi chịu phép Thêm Sức, nó đã được chính Ðức Giám Mục làm phép. Tôi nhớ lại mẹ tôi thường nói, khi nào gặp ma quỷ thì cầm thánh giá và đọc kinh "Tin Kính" thì sẽ thoát được sự hiểm nghèo.
Với sức lực cuối cùng, tôi thò tay vào ngực nắm cây thánh giá ra và dí vào sợi dây, trong đầu đọc thầm mấy câu kinh. Thật không ngờ. Cái sợi dây tuột khỏi cổ tôi, rút lên cái quạt rồi biến mất. Tôi rớt xuống sàn nhà cái bịch. Tôi lồm cồm đứng dậy và chạy một mạch xuống lầu, không nghĩ gì đến việc đóng cửa phòng lại. Bác trai nghe nghe tiếng động, và thấy đèn sáng dưới nhà bèn xuống coi. Thấy tôi ngồi hoảng hốt co ro ở góc sa lông liền hỏi:
- Bộ có ai té hả? Bác nghe cái rầm mà? Khuya rồi sao cháu còn chưa đi ngủ?
- Cháu đi tiểu bị vấp ngã. Cháu ngồi đây một chút rồi sẽ lên ngủ. Tôi nói dối bác.
Bác trở về phòng, còn tôi vẫn ngồi ở phòng khách nào dám trở lên trên đó. Rồi tôi thiếp đi lúc nào không biết. Khi bác trai dậy mở cửa tiệm thấy tôi nằm trên ghế bèn đánh thức tôi dậy:
- Bộ cháu ngủ ở đây suốt đêm hả?
Tôi chưa kịp trả lời thì mặt bác tôi chợt biến sắc. Bác lượm cái chìa khóa nằm trên sàn. Nó đã rớt xuống đó khi tôi ngủ quên. Bác gắn giọng:
- Cái chìa khóa của phòng trên đó phải không?
- Dạ! Tôi cúi đầu lí nhí trả lời.
Bác tôi chạy trở lên lầu. Tôi vội vàng rửa sơ mặt mày, rồi quơ lấy sách vở dông đi học. Tôi sợ chạm mặt bác vì sự thất hứa của mình. Ðến chiều vừa về tới nhà, tôi đã thấy cái va ly của tôi được để sẵn trước cửa tiệm, và cô tôi đang đứng chờ ở đó. Thấy tôi cô nói:
- Cháu đoán biết được gì rồi chứ. Cháu không thể ở đây được đâu. Cô dẫn cháu sang nhà chú Nam ở thôi.
Thế là tôi dọn sang nhà chú Nam ở đường Trần Quí Cáp. Chú tôi là sĩ quan huấn luyện viên trong trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang. Gia đình chú cũng chỉ đủ ăn đủ mặc thôi. Nhà chú là một căn gác gỗ, vợ chồng chú ở phòng dưới, còn tôi và hai đứa con trai nhỏ của chú chiếm tầng gác. Tầng này không có ngăn ra, tuồng luông từ trước ra sau. Nhưng không sao miễn có chỗ ở là tốt rồi. Nhất là tôi không phải chạm trán với "con Ma Thần Vòng" là êm rồi. Chiều hôm sau cô tôi lại thăm, hai cô cháu ngồi nói chuyện một lúc rồi cô tôi hỏi:
- Ðêm trước cháu vào phòng trên đó phải không?
- Dạ! Tôi trả lời rồi kể cho cô biết, việc tôi suýt chết vì sợi thòng lọng trong phòng đó.
- Các bác đã dặn cháu rồi, mà sao cháu chẳng chịu nghe lời. Bác trai vì sự an toàn của gia đình, đành phải đuổi cháu đi. Ðể cô kể cho cháu nghe đầu đuôi câu chuyện thì cháu sẽ rõ lý do.
Năm năm trước gia đình cô từ Sài Gòn, chuyển về đây để làm ăn, trước đó thì bác trai đã có nhờ người quen, dò hỏi mua dùm nhà ở nơi thuận tiện, để mở tiệm may được. Họ nói có một căn nhà đang đề bán với giá rất rẻ. Bác trai vì nôn nóng nên cũng không tìm hiểu gì cho kỹ, nên nhờ họ mua dùm. Sau đó gia đình bác dọn về ở. Chỉ một tuần sau là cả nhà đã nghe, tiếng thì thầm nói chuyện ở trên lầu hai rồi. Bác trai bèn đi hỏi dò hàng xóm mới biết ra sự thật.
Căn nhà bị ma ám cả bốn năm rồi. Cô gái đầu lòng của người chủ nhà đầu tiên, đã treo cổ tự vận trong căn phòng trên lầu hai, vì ba mẹ cô ấy nhất định không bằng lòng, cho cô ta lấy một anh bạn học nghèo. Và từ đó hồn cô ta chiếm cứ căn phòng đó, và phá rối người trong nhà. Gia đình cô ta phải bán nhà đi chỗ khác ở. Căn nhà này đã đổi chủ mấy lần rồi. Ai ở được một thời gian cũng phải bán tháo để đi thôi.
Hai bác rất sợ nhưng bao nhiêu vốn liếng, đã bỏ hết vào tiền nhà rồi, có muốn đi cũng không có chổ mà ở. Ðành phải liều ở lại chứ biết làm sao đây. Nhưng mà hàng đêm nó cứ rì rầm và gây ra những tiếng động dị thường trên đó. Bác trai không có đạo, nên ông ấy đi thỉnh thầy cúng về để tế hồn cho nó.
Ông thầy pháp và bác trai cúng bái rì rầm trên đó cả buổi mới xong. Khi thầy pháp về bác trai mới cho mọi người biết là, bác đã hứa với hồn của cô gái là sẽ dành riêng căn phòng đó cho cô ta, và sẽ cúng bái nhang đèn cho cô ấy, chỉ xin cô ấy đừng phá gia đình. Từ đó cô ta không phá gì nữa. Không biết bác trai kiếm đâu ra cái hình của cô ta, và đem phóng to ra rồi để lên bàn thờ trên ấy. Chỉ có mình bác trai là ngày ngày lên nhang đèn trên đó, chứ trong gia đình chẳng một ai dám bước lên lầu hai cả.
Vì cháu là con cháu trong nhà, nên hai bác để cháu ở phòng kế bên, nghĩ là chắc cô ta cũng để yên cho cháu. Nào ngờ vì tính tò mò mà cháu gây ra đại sự. Hôm qua bác trai phải lên trên đó xin lỗi, và hứa là đuổi cháu đi để cô ấy vừa lòng. Cháu cũng đừng trách bác trai nhé. Từ đó về sau mỗi khi có dịp tới thăm gia đình cô tôi, tôi chỉ dám lảng vảng ở nhà dưới mà thôi, và không bao giờ dám ngủ lại đêm cả. Cho đến bây giờ mỗi khi hồi tưởng về cái đêm hôm đó, tôi vẫn cảm thấy rờn rợn cả người.
Người Chứng Kiến
Tôi được sinh ra ở một nơi, cách Thành Phố Nha Trang vài chục cây số, về phía Bắc Vạn Giả Vạn Ninh. Ðó là nơi mà tôi đã sống suốt thời niên thiếu của mình. Tôi có một chú ruột (chú Nam) và một người bác dượng (chồng chị của ba tôi) sống ở Nha Trang. Vào các dịp tết, ba mẹ tôi cho chúng tôi về đó chơi để chúc tết bà con, và ngắm cảnh phố phường trong ngày tết.
Vào mùa hè năm 1970 tôi đậu tú tài hai và thi đậu vào đại học duyên hải tại Nha Trang.Tôi rất mừng vì sẽ được học về những gì mà tôi hằng yêu thích. Hải Dương Học. Gần đến ngày nhập học, ba tôi đem tôi gửi ở nhà bác dượng để cho tiện việc học hành. Ở đó thì tôi chỉ cần đi xe đạp mười lăm phút, là đến trường Ðại Học.
Nhà dượng tôi nằm gần ngã ba của một con đường nhỏ, và đường con đường Phước Hải dẫn xuống chợ. Ba mẹ tôi nói là bác ấy mua căn nhà này với giá rẻ mạt, chỉ bằng nửa trị giá thật sự của nó mà thôi. Nhà có ba tầng, ở tầng trệt thì phía trước bác mở tiệm may, phía sau làm phòng khách. Tầng lầu một có ba phòng ngủ, một phòng cho hai vợ chồng bác, còn hai phòng kia thì là phòng của cô con gái, và hai cậu con trai.
Tầng hai thì chỉ có hai phòng, một phòng phía trước được khóa kín, còn phòng phía sau để trống. Tôi được bác cho ở căn phòng trống này. Bác dượng bắt tôi hứa là, không được đụng chạm gì cái phòng phía trước cả. Tôi nghĩ rằng có lẽ bác ấy, cất giấu những món đồ quý báu trong phòng này. Tôi hứa ngay và rất vui mừng, vì mình được tự do một mình một phòng, trên một tầng lầu riêng biệt.
Tuần đầu ở đó tôi phải dọn dẹp chỗ ở, và vào trường để nghe hướng dẫn về nội quy, và các sinh hoạt trong trường, lại còn phải đi thăm các phòng thí nghiệm tại hải dương viện Nha Trang, nên tôi mệt nhoài cả người. Khi tối đến là lên giường ngủ say như chết. Sau đó mọi việc đã vào nếp nang, và tôi quen dần với nếp sống mới này. Ban ngày đi học, chiều về cơm nước xong nói vài câu chuyện với hai bác, rồi lên phòng học bài vở.
Vào những ngày Chúa Nhật, sau khi đi lễ về, tôi cùng mấy anh chị con bác dượng, đi xi nê hay đi dạo vòng bờ biển. Mọi việc diễn ra êm đẹp cho đến một đêm thứ Bảy, đang nằm trên giường đọc truyện tiểu thuyết của Quỳnh Dao, tôi nghe như có tiếng nói thì thào từ phòng bên vọng sang.
Tôi nghĩ chắc bác tôi lên phòng đó để tìm kiếm gì. Nhưng mười lăm phút sau, tiếng thì thào vẫn vọng ra, tôi tò mò hé cửa nhìn xem có ai bên đó không. Tôi thấy cửa phòng vẫn khóa, và tiếng nói bỗng nhiên im bặt. Tôi lấy làm lạ nhưng cũng trở vào phòng của mình tiếp tục đọc sách, và đã thiếp đi lúc nào không biết nữa. Sáng hôm sau khi đi dự lễ ở nhà thờ Phước Hải về, bác dượng tôi không có đạo, nên chỉ có cô tôi và anh chị cùng với tôi đi lễ mà thôi, tôi gặp riêng bác cô tôi và nói:
- Ðêm qua cháu nghe có ai nói chuyện thì thào ở phòng kế bên, nhưng khi cháu ra coi thì không có ai cả.
- Chắc là cháu ngủ mơ đó thôi, chứ gia đình bác ở đây mấy năm nay có gì đâu.Thôi đi ăn sáng đi và nhớ đừng nghịch ngợm gì đến cái phòng đó nghe chưa.
Tuy không hài lòng về câu trả lời của cô tôi, nhưng tôi vẫn vâng dạ và đi ăn sáng rồi đi chơi. Vào những ngày sau đó thì không có chuyện gì xảy ra, và tuổi trẻ dễ quên nên tôi cũng quên mất sự việc này. Nhưng lại đến đêm thứ bảy, trong khi đang nằm đọc truyện, thì tôi lại nghe tiếng xì xào bên phòng vọng qua. Tôi là thằng nổi tiếng nghịch ngợm ở nhà cho nên rất bạo. Tôi lắng tai nghe và khi chắc chắn rằng là mình không nghe lầm. Tôi nhè nhẹ bò ra cửa sang phòng kế bên, và ghé mắt vào ổ khóa nhìn vào phòng.
Trong phòng tối đen như mực chẳng thấy gì hết. Ngay cả tiếng thì thào lúc nãy bây giờ cũng im lìm. Trở về phòng với tính lì lợm của mình, tôi tự hứa là sẽ tìm ra sự thật của căn phòng đó. Hôm sau tôi lại đem chuyện này nói với bác trai, nhưng tôi chỉ nói quanh là cháu nghe tiếng động ở phòng bên. Chắc có ai đó đột nhập vào nhà muốn trộm đồ hay sao đó. Bác tôi nạt ngang:
- Mấy con chuột nhắt đó chứ ai mà vô nhà. Nó chạy rầm rầm và cắn nhau chí chóe suốt đêm. Cháu chưa quen nên khó ngủ, từ từ rồi sẽ quen thôi. Mà nè cháu phải nhớ lời bác dặn, không được phá phách gì cái phòng kế bên nghe chưa.
- Dạ cháu nhớ ạ.
Tôi trả lời nhưng trong lòng nghi ngờ, là có cái gì bí ẩn ,mà các bác muốn dấu tôi đây. Tôi đợi cơ hội để tìm hiểu sự bí mật trong căn phòng kia. Khổ nỗi là căn phòng luôn khóa kín, và cái chùm chìa khóa thì bác trai luôn giữ theo trong người. Nhưng rồi cơ hội đã đến. Một hôm chúa nhật, hai bác đi dự đám cưới đến khuya mới về, họ lục đục một hồi rồi đi ngủ. Ðến nửa đêm tôi xuống tầng dưới để đi tiểu, bật đèn lên tôi thấy chùm chìa khóa, nằm trên bàn gần bộ sa lông.
Cơ hội tốt cho tôi rồi, đi tiểu xong tôi vơ ngay chùm chìa khóa, rồi nhẹ nhàng lên lại lầu hai. Tuy mang tiếng là gan cùng mình, tôi cũng hơi run run khi đút chìa khóa vào mở cửa phòng kế bên. Tôi bước vào trong phòng. Phòng trống không. Chỉ có một bàn thờ nhỏ, với hình phóng to của một cô gái trẻ đẹp, và một bát hương với đầy chân nhang cắm ở trong đó. Trên tường có gắn một bóng đèn kiểu cọ, và một công tắc ở gần cửa ra vào. Trên trần nhà có treo một quạt máy cũng còn hơi mới, ngoài ra không có gì nữa. Tôi đứng quan sát một lúc, rồi trở ra khóa phòng lại và đem chìa khóa trả về chỗ cũ. Tuy không tìm được những gì mà mình muốn thấy, tôi cũng tạm thỏa mãn với chính mình.
Tôi là thằng gan lì chẳng sợ gì. Có lẽ bác tôi nói đúng cũng nên, tiếng động có thể do bọn chuột gây ra mà thôi. Nhưng luận cứ đó chỉ đứng vững có một ngày. Ðêm sau tiếng thì thào lại nổi lên. Tôi lắng tai coi có đúng là tiếng chuột không. Không, rõ ràng là tiếng người mà. Tôi đi ra đến cửa thì tiếng nói lại im bặt. Chắc là ai muốn phá mình đây. Tôi tự nói với mình như vậy để tránh khỏi dùng đến từ ma. Không sao tôi chưa từng sợ ma mà. Nó có làm gì được tôi đâu chứ. Tôi vẫn đợi một cơ hội khác để tìm ra sự thật.
Vào một sáng chúa nhật, khi đi lễ về tôi thấy chùm chìa khóa, để ở trên tủ may ở nhà ngoài, chắc bác trai khi sửa soạn tiệm để quên ở đó. Trong khi mọi người ăn sáng, tôi ra trước tuột lấy cái chìa khóa phòng, rồi chạy ra tiệm làm chìa khóa gần nhà, nói làm gấp cho tôi. Chỉ mười phút sau tôi đã có trong tay một cái chìa khóa mới. Tôi trở về nhà và may thay, mọi người vẫn bận bịu dưới bếp. Tôi gắn trả chiếc chìa khóa cũ vào chùm. Xong tôi thảnh thơi lên phòng mình dấu cái chìa khóa trong cái áo gối. Tôi nghĩ là mình sẽ sớm khám phá ra được mà điều mình muốn biết. Tôi dự định là phải đợi đúng vào lúc, mà tiếng thì thào trổi lên thì hành động.
Ðêm đó khoảng 11:30 khuya, tôi nghe tiếng thì thào nổi lên. Nhẹ nhàng tôi bước tới cửa phòng, đút chìa khóa vào xoay nhẹ và đẩy nhẹ cánh cửa. Tay bỏ cái chìa khóa vào túi quần và bước vào bên trong. Không thấy ai cả. Trên bàn thờ có ba cây nhang đang cháy dở gần hết, chắc là bác trai đốt hồi chiều. Tôi bước lại gần bàn thờ để nhìn cho rỏ hơn cái hình trên đó.
Ðang nhìn thì tôi cảm thấy có vật gì chạm vào phía sau cổ. Với phản ứng tự nhiên tôi dùng tay hất nó ra và quay lại nhìn. Trong bóng tối lờ mờ tôi thấy một sợi dây thừng, một đầu cột dính vào cái quạt, còn đầu kia là cái thòng lọng đang đu đưa hướng về phía tôi. Tôi nhớ rỏ là lúc bước vào tôi đâu có thấy nó đâu. Thấy nó hướng về phía mình, tôi lấy tay hất ra và nhanh chân phóng ra cửa. Nhưng cái thòng lọng nhanh hơn là tôi tưởng. Nó quàng vào cổ tôi từ phía sau và siết lại.
Cái dây tự động rút dần lên, và kéo tôi hỏng khỏi sàn nhà gần như nửa thước. Tôi bị nghẹt thở phải cố dùng hai tay, để gở sợi dây nơi cổ ra. Vô ích nó xiết rất chặt tôi không tài nào gở ra được. Tôi nghẹt thở quá rồi. Mắt tôi bắt đầu trợn trắng lên và tôi phải há to miệng để hít thở. trong giây phút này tôi nghĩ chắc sẽ bỏ mạng với cái dây này rồi. Tay tôi yếu dần và tuột dần khỏi sợi dây nơi cổ.
Ðột nhiên tay tôi chạm vào sợi dây "thẻ bài" có cái thánh giá bằng ngà, mà tôi luôn đeo trên cổ. Ba tôi đã mua thánh giá này cho tôi, lúc tôi chịu phép Thêm Sức, nó đã được chính Ðức Giám Mục làm phép. Tôi nhớ lại mẹ tôi thường nói, khi nào gặp ma quỷ thì cầm thánh giá và đọc kinh "Tin Kính" thì sẽ thoát được sự hiểm nghèo.
Với sức lực cuối cùng, tôi thò tay vào ngực nắm cây thánh giá ra và dí vào sợi dây, trong đầu đọc thầm mấy câu kinh. Thật không ngờ. Cái sợi dây tuột khỏi cổ tôi, rút lên cái quạt rồi biến mất. Tôi rớt xuống sàn nhà cái bịch. Tôi lồm cồm đứng dậy và chạy một mạch xuống lầu, không nghĩ gì đến việc đóng cửa phòng lại. Bác trai nghe nghe tiếng động, và thấy đèn sáng dưới nhà bèn xuống coi. Thấy tôi ngồi hoảng hốt co ro ở góc sa lông liền hỏi:
- Bộ có ai té hả? Bác nghe cái rầm mà? Khuya rồi sao cháu còn chưa đi ngủ?
- Cháu đi tiểu bị vấp ngã. Cháu ngồi đây một chút rồi sẽ lên ngủ. Tôi nói dối bác.
Bác trở về phòng, còn tôi vẫn ngồi ở phòng khách nào dám trở lên trên đó. Rồi tôi thiếp đi lúc nào không biết. Khi bác trai dậy mở cửa tiệm thấy tôi nằm trên ghế bèn đánh thức tôi dậy:
- Bộ cháu ngủ ở đây suốt đêm hả?
Tôi chưa kịp trả lời thì mặt bác tôi chợt biến sắc. Bác lượm cái chìa khóa nằm trên sàn. Nó đã rớt xuống đó khi tôi ngủ quên. Bác gắn giọng:
- Cái chìa khóa của phòng trên đó phải không?
- Dạ! Tôi cúi đầu lí nhí trả lời.
Bác tôi chạy trở lên lầu. Tôi vội vàng rửa sơ mặt mày, rồi quơ lấy sách vở dông đi học. Tôi sợ chạm mặt bác vì sự thất hứa của mình. Ðến chiều vừa về tới nhà, tôi đã thấy cái va ly của tôi được để sẵn trước cửa tiệm, và cô tôi đang đứng chờ ở đó. Thấy tôi cô nói:
- Cháu đoán biết được gì rồi chứ. Cháu không thể ở đây được đâu. Cô dẫn cháu sang nhà chú Nam ở thôi.
Thế là tôi dọn sang nhà chú Nam ở đường Trần Quí Cáp. Chú tôi là sĩ quan huấn luyện viên trong trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang. Gia đình chú cũng chỉ đủ ăn đủ mặc thôi. Nhà chú là một căn gác gỗ, vợ chồng chú ở phòng dưới, còn tôi và hai đứa con trai nhỏ của chú chiếm tầng gác. Tầng này không có ngăn ra, tuồng luông từ trước ra sau. Nhưng không sao miễn có chỗ ở là tốt rồi. Nhất là tôi không phải chạm trán với "con Ma Thần Vòng" là êm rồi. Chiều hôm sau cô tôi lại thăm, hai cô cháu ngồi nói chuyện một lúc rồi cô tôi hỏi:
- Ðêm trước cháu vào phòng trên đó phải không?
- Dạ! Tôi trả lời rồi kể cho cô biết, việc tôi suýt chết vì sợi thòng lọng trong phòng đó.
- Các bác đã dặn cháu rồi, mà sao cháu chẳng chịu nghe lời. Bác trai vì sự an toàn của gia đình, đành phải đuổi cháu đi. Ðể cô kể cho cháu nghe đầu đuôi câu chuyện thì cháu sẽ rõ lý do.
Năm năm trước gia đình cô từ Sài Gòn, chuyển về đây để làm ăn, trước đó thì bác trai đã có nhờ người quen, dò hỏi mua dùm nhà ở nơi thuận tiện, để mở tiệm may được. Họ nói có một căn nhà đang đề bán với giá rất rẻ. Bác trai vì nôn nóng nên cũng không tìm hiểu gì cho kỹ, nên nhờ họ mua dùm. Sau đó gia đình bác dọn về ở. Chỉ một tuần sau là cả nhà đã nghe, tiếng thì thầm nói chuyện ở trên lầu hai rồi. Bác trai bèn đi hỏi dò hàng xóm mới biết ra sự thật.
Căn nhà bị ma ám cả bốn năm rồi. Cô gái đầu lòng của người chủ nhà đầu tiên, đã treo cổ tự vận trong căn phòng trên lầu hai, vì ba mẹ cô ấy nhất định không bằng lòng, cho cô ta lấy một anh bạn học nghèo. Và từ đó hồn cô ta chiếm cứ căn phòng đó, và phá rối người trong nhà. Gia đình cô ta phải bán nhà đi chỗ khác ở. Căn nhà này đã đổi chủ mấy lần rồi. Ai ở được một thời gian cũng phải bán tháo để đi thôi.
Hai bác rất sợ nhưng bao nhiêu vốn liếng, đã bỏ hết vào tiền nhà rồi, có muốn đi cũng không có chổ mà ở. Ðành phải liều ở lại chứ biết làm sao đây. Nhưng mà hàng đêm nó cứ rì rầm và gây ra những tiếng động dị thường trên đó. Bác trai không có đạo, nên ông ấy đi thỉnh thầy cúng về để tế hồn cho nó.
Ông thầy pháp và bác trai cúng bái rì rầm trên đó cả buổi mới xong. Khi thầy pháp về bác trai mới cho mọi người biết là, bác đã hứa với hồn của cô gái là sẽ dành riêng căn phòng đó cho cô ta, và sẽ cúng bái nhang đèn cho cô ấy, chỉ xin cô ấy đừng phá gia đình. Từ đó cô ta không phá gì nữa. Không biết bác trai kiếm đâu ra cái hình của cô ta, và đem phóng to ra rồi để lên bàn thờ trên ấy. Chỉ có mình bác trai là ngày ngày lên nhang đèn trên đó, chứ trong gia đình chẳng một ai dám bước lên lầu hai cả.
Vì cháu là con cháu trong nhà, nên hai bác để cháu ở phòng kế bên, nghĩ là chắc cô ta cũng để yên cho cháu. Nào ngờ vì tính tò mò mà cháu gây ra đại sự. Hôm qua bác trai phải lên trên đó xin lỗi, và hứa là đuổi cháu đi để cô ấy vừa lòng. Cháu cũng đừng trách bác trai nhé. Từ đó về sau mỗi khi có dịp tới thăm gia đình cô tôi, tôi chỉ dám lảng vảng ở nhà dưới mà thôi, và không bao giờ dám ngủ lại đêm cả. Cho đến bây giờ mỗi khi hồi tưởng về cái đêm hôm đó, tôi vẫn cảm thấy rờn rợn cả người.
Người Chứng Kiến
#38
Gửi vào 07/06/2011 - 11:06
MA NHẬP VÌ CẦU CƠ
Gần đây nhiều người trong ở Hoa Kỳ bắt đầu biết đến việc cầu cơ. Những bàn cầu cơ (Ouija) được bày bán khắp mọi nơi như là một trò chơi giải trí, nhưng cơ có lên không thì tôi không có biết, và tôi cũng không muốn thử vì tôi đã chơi, và biết sự nguy hiểm tai hại của sự cầu cơ như thế nào rồi...
Ðó là những ngày tháng dài lê thê tại trại tỵ nạn nằm trên hòn đảo nhỏ bé của Indonesia, và tại nơi này Thu đã quen biết một người chuyên môn chơi cầu cơ. Mỗi ngày khi màn đêm vừa buông xuống, cả đám con nít kéo nhau tụ hợp lại để cầu cơ. Khi cầu, cơ lên rất là mau, nhưng đa số là không được chính xác, tụi này thường hay nói đùa cơ này chắc là người Indô nên không biết tiếng Việt Nam.
Sau nhiều đêm cầu cơ, thì Thu thuộc lòng những câu thơ để gọi hồn, và cũng vì tò mò cho nên Thu rủ vài người bạn tìm những nơi kín đáo một chút để chơi và để hỏi những câu hỏi riêng tư...như những câu hỏi có liên quan đến tình cảm đó mà. Cầu cơ riết rồi ghiền. Lúc đầu chị Thu chỉ cầu buổi tối thôi, nhưng sau này cả ban ngày cũng cầu cơ nữa, như là có mãnh lực nào đó nó lôi cuốn làm mình mê luôn, cho đến một hôm...
Hôm đó khoảng hai giờ trưa, tôi cùng với một người bạn đang nằm chuyện trò trong một căn gác được dựng lên, chỉ để ngủ trưa chứ không có ai ngủ ở đó vào ban đêm, thì bỗng nhiên nghe tiếng gõ cửa. Tôi vội leo xuống giường mở cửa ra, thì không thấy ai hết, vừa đóng cửa lại thì nghe tiếp, khi mở cửa ra thì lại không có ai. Tức quá tôi đứng ở ngay cửa chờ, hễ vừa nghe tiếng gõ thì mở cửa ra liền. Khi đứng không được bao lâu thì nghe tiếng gõ cửa nữa, tôi liền mở cửa ra thì thấy thằng em họ của con nhỏ bạn, mới mười hai tuổi đứng trước cửa nhăn răng cười hì hì. Cả hai chúng tôi la cho nó một mách, nó không sợ mà còn chọc tụi tôi nữa:
- Cảnh chỉ nhát hai chị, coi hai chị có sợ không?
Lúc đó bỗng nhiên tôi chợt nhớ tới việc cầu cơ, nên hỏi con nhỏ bạn và thằng em họ có muốn chơi không, thì cả hai đều trả lời "muốn". Tôi lấy tờ giấy đã vẽ sẵn hai mươi mấy chữ cái ra, dưới những chữ cái đó tôi viết thêm bốn chữ nữa là MA, QUỈ, THẦN, THÁNH. Và dưới bốn chữ này tôi vẽ một vòng tròn, và đề chữ THĂNG ở trong đó.
Sau đó tôi hỏi con nhỏ bạn có đồng tiền lẻ nào không, để đặt vào cái vòng tròn. Con nhỏ bạn lục trong giỏ một hồi, tìm được một cái đồng tiền lớn khoảng hai mươi lăm cents bên này. Xong xuôi tôi lấy đồng tiền đặt vào vòng tròn và lấy ba cây nhang để trên kệ gần đó đốt lên. Mặc dù con nhỏ bạn không tin vào chuyện cầu cơ, nhưng nó cũng muốn để tay lên thử xem. Khi cầu cơ chỉ có tôi và con nhỏ bạn, để tay lên đồng tiền mà thôi, còn thằng em họ chỉ đứng đó nhìn.
Sau khi đốt nhang, tôi đọc bốn câu thơ gọi hồn, vừa đọc xong thì đồng tiền nằm trong vòng tròn bắt đầu nhúc nhích, khi đó con nhỏ bạn cũng bắt đầu khúc khích, cười tại vì nó tưởng tôi đẩy đồng tiền, nhưng tôi nói là tôi không có làm, và dặn nó rằng đừng có rút tay giữa chừng. Vì tôi nghe nói rằng đang cầu cơ nếu rút tay ra sẽ bị nguy hiểm, tôi chỉ biết vậy thôi. Sau đó tôi đọc lại bốn câu thơ gọi hồn một lần nữa, và lần này đồng tiền di chuyển nhanh hơn. Tôi chưa kịp đặt câu hỏi, thì con nhỏ bạn bỗng rút tay ra khỏi đồng tiền và phát cười lớn, tiếng cười nghe rất là rùng rợn. Sau đó nó chăm chăm nhìn tôi và đứa em họ, với cặp mắt đỏ ngầu rồi lấy tay chỉ thẳng vào chúng tôi:
- Tao lên rồi sao tụi bây không hỏi.
Tiếp theo là một tràng cười quái đản, cười xong con nhỏ bạn nằm dài xuống như là ngủ. Lúc này tôi sợ đến xanh mặt bạn tôi đã bị ma nhập rồi, ba chân bốn cẳng tôi nắm tay Cảnh phóng thẳng ra khỏi cửa. Ra ngoài tôi rất là sợ và hồi hộp vì nếu Ba của bạn tôi biết được chuyện này chắc là chết. Nhưng tôi chợt nhớ ra một điều, ngày xưa tôi có nghe ai đó nói rằng khi người nào mà bị ma nhập, thì đánh họ ba cái thật mạnh để con ma xuất ra.
Thế nên tôi làm ngay, từ từ tôi đẩy cửa và nhìn vào trong, bạn tôi vẫn còn nằm yên ở đó, tôi mới nhè nhẹ bước từng bước đến bên giường và đánh ba cái thật mạnh vào chân, nhưng không thấy động tĩnh gì tôi lại đánh ba cái nữa, ba cái đánh sau tôi cố gắng đánh thật mạnh, đến nỗi cái tay đỏ sưng lên, vừa đánh tôi vừa kêu:
- Thu...Thu...tỉnh dậy mau.
Lúc này con nhỏ bạn mới từ từ mở mắt ra, rồi lồm cồm ngồi dậy nó ngớ ngẩn hỏi:
- Ủa hết chơi rồi sao?
Tôi kể lại sự việc đã xảy ra cho bạn tôi nghe, nghe xong bạn tôi nói rằng, khi cơ đang lên bỗng dưng nó thấy buồn ngủ quá, nên nằm xuống ngủ và mơ thấy mình đang đứng giữa nghĩa địa. Đang loay hoay tìm lối ra, thì nghe có người kêu tên nên giựt mình mở mắt, thì thấy tôi và Cảnh đang đứng ở đó. Lúc đó tôi chợt nhớ ra rằng, là mình đã quên hỏi con nhỏ bạn khi bị đánh có đau không, vừa hỏi tôi vừa kéo cái ống quần của con nhỏ bạn lên, thì thấy nơi tôi đánh in mấy dấu ngón tay còn đỏ. Khi đó bạn tôi mới tin những gì tôi nói là sự thật, còn Cảnh em họ của con nhỏ bạn, nãy giờ như người mất hồn, bây giờ mới thốt lên được mấy tiếng:
- Chị Thu hồi nãy chị làm em sợ quá chừng.
Rồi ba đứa chúng tôi phá lên cười thật tươi. Từ đó mỗi lần nghe ai hỏi hay nhắc đến việc cầu cơ là Thu sợ rồi. Suốt cuộc đời còn lại Thu sẽ không bao giờ đụng đến cái bàn cầu cơ nữa.
Truyện Ma
Gần đây nhiều người trong ở Hoa Kỳ bắt đầu biết đến việc cầu cơ. Những bàn cầu cơ (Ouija) được bày bán khắp mọi nơi như là một trò chơi giải trí, nhưng cơ có lên không thì tôi không có biết, và tôi cũng không muốn thử vì tôi đã chơi, và biết sự nguy hiểm tai hại của sự cầu cơ như thế nào rồi...
Ðó là những ngày tháng dài lê thê tại trại tỵ nạn nằm trên hòn đảo nhỏ bé của Indonesia, và tại nơi này Thu đã quen biết một người chuyên môn chơi cầu cơ. Mỗi ngày khi màn đêm vừa buông xuống, cả đám con nít kéo nhau tụ hợp lại để cầu cơ. Khi cầu, cơ lên rất là mau, nhưng đa số là không được chính xác, tụi này thường hay nói đùa cơ này chắc là người Indô nên không biết tiếng Việt Nam.
Sau nhiều đêm cầu cơ, thì Thu thuộc lòng những câu thơ để gọi hồn, và cũng vì tò mò cho nên Thu rủ vài người bạn tìm những nơi kín đáo một chút để chơi và để hỏi những câu hỏi riêng tư...như những câu hỏi có liên quan đến tình cảm đó mà. Cầu cơ riết rồi ghiền. Lúc đầu chị Thu chỉ cầu buổi tối thôi, nhưng sau này cả ban ngày cũng cầu cơ nữa, như là có mãnh lực nào đó nó lôi cuốn làm mình mê luôn, cho đến một hôm...
Hôm đó khoảng hai giờ trưa, tôi cùng với một người bạn đang nằm chuyện trò trong một căn gác được dựng lên, chỉ để ngủ trưa chứ không có ai ngủ ở đó vào ban đêm, thì bỗng nhiên nghe tiếng gõ cửa. Tôi vội leo xuống giường mở cửa ra, thì không thấy ai hết, vừa đóng cửa lại thì nghe tiếp, khi mở cửa ra thì lại không có ai. Tức quá tôi đứng ở ngay cửa chờ, hễ vừa nghe tiếng gõ thì mở cửa ra liền. Khi đứng không được bao lâu thì nghe tiếng gõ cửa nữa, tôi liền mở cửa ra thì thấy thằng em họ của con nhỏ bạn, mới mười hai tuổi đứng trước cửa nhăn răng cười hì hì. Cả hai chúng tôi la cho nó một mách, nó không sợ mà còn chọc tụi tôi nữa:
- Cảnh chỉ nhát hai chị, coi hai chị có sợ không?
Lúc đó bỗng nhiên tôi chợt nhớ tới việc cầu cơ, nên hỏi con nhỏ bạn và thằng em họ có muốn chơi không, thì cả hai đều trả lời "muốn". Tôi lấy tờ giấy đã vẽ sẵn hai mươi mấy chữ cái ra, dưới những chữ cái đó tôi viết thêm bốn chữ nữa là MA, QUỈ, THẦN, THÁNH. Và dưới bốn chữ này tôi vẽ một vòng tròn, và đề chữ THĂNG ở trong đó.
Sau đó tôi hỏi con nhỏ bạn có đồng tiền lẻ nào không, để đặt vào cái vòng tròn. Con nhỏ bạn lục trong giỏ một hồi, tìm được một cái đồng tiền lớn khoảng hai mươi lăm cents bên này. Xong xuôi tôi lấy đồng tiền đặt vào vòng tròn và lấy ba cây nhang để trên kệ gần đó đốt lên. Mặc dù con nhỏ bạn không tin vào chuyện cầu cơ, nhưng nó cũng muốn để tay lên thử xem. Khi cầu cơ chỉ có tôi và con nhỏ bạn, để tay lên đồng tiền mà thôi, còn thằng em họ chỉ đứng đó nhìn.
Sau khi đốt nhang, tôi đọc bốn câu thơ gọi hồn, vừa đọc xong thì đồng tiền nằm trong vòng tròn bắt đầu nhúc nhích, khi đó con nhỏ bạn cũng bắt đầu khúc khích, cười tại vì nó tưởng tôi đẩy đồng tiền, nhưng tôi nói là tôi không có làm, và dặn nó rằng đừng có rút tay giữa chừng. Vì tôi nghe nói rằng đang cầu cơ nếu rút tay ra sẽ bị nguy hiểm, tôi chỉ biết vậy thôi. Sau đó tôi đọc lại bốn câu thơ gọi hồn một lần nữa, và lần này đồng tiền di chuyển nhanh hơn. Tôi chưa kịp đặt câu hỏi, thì con nhỏ bạn bỗng rút tay ra khỏi đồng tiền và phát cười lớn, tiếng cười nghe rất là rùng rợn. Sau đó nó chăm chăm nhìn tôi và đứa em họ, với cặp mắt đỏ ngầu rồi lấy tay chỉ thẳng vào chúng tôi:
- Tao lên rồi sao tụi bây không hỏi.
Tiếp theo là một tràng cười quái đản, cười xong con nhỏ bạn nằm dài xuống như là ngủ. Lúc này tôi sợ đến xanh mặt bạn tôi đã bị ma nhập rồi, ba chân bốn cẳng tôi nắm tay Cảnh phóng thẳng ra khỏi cửa. Ra ngoài tôi rất là sợ và hồi hộp vì nếu Ba của bạn tôi biết được chuyện này chắc là chết. Nhưng tôi chợt nhớ ra một điều, ngày xưa tôi có nghe ai đó nói rằng khi người nào mà bị ma nhập, thì đánh họ ba cái thật mạnh để con ma xuất ra.
Thế nên tôi làm ngay, từ từ tôi đẩy cửa và nhìn vào trong, bạn tôi vẫn còn nằm yên ở đó, tôi mới nhè nhẹ bước từng bước đến bên giường và đánh ba cái thật mạnh vào chân, nhưng không thấy động tĩnh gì tôi lại đánh ba cái nữa, ba cái đánh sau tôi cố gắng đánh thật mạnh, đến nỗi cái tay đỏ sưng lên, vừa đánh tôi vừa kêu:
- Thu...Thu...tỉnh dậy mau.
Lúc này con nhỏ bạn mới từ từ mở mắt ra, rồi lồm cồm ngồi dậy nó ngớ ngẩn hỏi:
- Ủa hết chơi rồi sao?
Tôi kể lại sự việc đã xảy ra cho bạn tôi nghe, nghe xong bạn tôi nói rằng, khi cơ đang lên bỗng dưng nó thấy buồn ngủ quá, nên nằm xuống ngủ và mơ thấy mình đang đứng giữa nghĩa địa. Đang loay hoay tìm lối ra, thì nghe có người kêu tên nên giựt mình mở mắt, thì thấy tôi và Cảnh đang đứng ở đó. Lúc đó tôi chợt nhớ ra rằng, là mình đã quên hỏi con nhỏ bạn khi bị đánh có đau không, vừa hỏi tôi vừa kéo cái ống quần của con nhỏ bạn lên, thì thấy nơi tôi đánh in mấy dấu ngón tay còn đỏ. Khi đó bạn tôi mới tin những gì tôi nói là sự thật, còn Cảnh em họ của con nhỏ bạn, nãy giờ như người mất hồn, bây giờ mới thốt lên được mấy tiếng:
- Chị Thu hồi nãy chị làm em sợ quá chừng.
Rồi ba đứa chúng tôi phá lên cười thật tươi. Từ đó mỗi lần nghe ai hỏi hay nhắc đến việc cầu cơ là Thu sợ rồi. Suốt cuộc đời còn lại Thu sẽ không bao giờ đụng đến cái bàn cầu cơ nữa.
Truyện Ma
#39
Gửi vào 10/06/2011 - 04:19
hiendde, on 05/06/2011 - 22:15, said:
ĐỪNG ĐỂ CỐT NGƯỜI CHẾT Ở CHÙA
VW: Qua kinh nghiệm tâm linh của mình, xin ông cho biết một số nhận định về tượng, theo tâm linh học?
VCL: Nói về sự linh thiêng của một bức tượng, xét về khía cạnh tâm linh, muốn linh thiêng, phải có một bậc Đại sư, giỏi về thần thông, pháp thuật… thực hiện một nghi lễ “Điểm nhãn” long trọng. Theo Mật tông, nghi lễ “điểm nhãn” sẽ giúp cho một bức tượng vô tri thành ra có thần, linh thiêng.
Trong lịch sử, có nhiều bức tượng Phật, Chúa đầy sự linh thiêng, nhất là khi nhìn vào đôi mắt của các bức tượng này, các tín đồ cảm thấy có một sức mạnh tiềm tàng trong đôi mắt.
Theo tôi, trước hết là pho tượng đó đã được “điểm nhãn”, thứ hai, sức mạnh được cấu tạo do những luồng nhãn quang được hút từ chính các tín đồ khi ngước về pho tượng từ năm này qua năm khác. Sở dĩ đôi mắt của pho tượng có thần, là do nhân điện của mỗi người bị hút vào, do đó, sẽ càng ngày càng linh.
Tuy nhiên, xin mở ngoặc, nếu chẳng may, việc “điểm nhãn” được thực hiện bởi một tên “tà ma”, bức tượng đó có một tác hại ghê gớm cho những ai nhìn vào bức tượng. Do đó, mặc dù là tượng hình của bất kỳ một tôn giáo, nếu bị tà ma trấn ếm, thật là một tai họa.
Tôi không nói về phương diện niềm tin tôn giáo, mà nói về lý thuyết điểm nhãn. Khi đúc một lô tượng ra, tại sao có bức tượng linh, có bức không? Muốn một bức tượng linh, phải có nghệ thuật điểm nhãn, có người điểm nhãn.
VW: Còn các bức tượng linh thiêng vẫn nghe đồn đại như tượng Đức Mẹ La Vang, hay tượng Chúa Giê-Su chảy nước mắt, hay chảy máu,…ông nghĩ sao?
VCL: Đức Mẹ La Vang là địa danh linh thiêng, vì theo truyền thuyết, hồi xa xưa Đức Mẹ La Vang đã hiện ra tại đây, sau đó người ta lập đền thờ, để kính niệm. Tôi không nghĩ là có bức tượng Đức Mẹ La Vang linh thiêng. Còn tượng khóc chảy nước mắt hay máu gì đó tôi không nghe, không biết.
VW: Còn bức tượng xi-măng Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ tại Westminster, người dân quanh vùng đồn rằng cũng rất linh thiêng, theo ông, bức tượng này đã được… điểm nhãn chưa?
VCL: Theo tôi, chưa có ai điểm nhãn cho bức tượng này. Hoặc có điểm âm thầm tôi không biết. Bức tượng này chỉ là bức tượng vô tri, không linh thiêng gì hết. Tôi có nghe nhiều người nói là có những dấu hiệu linh thiêng, thấy các chiến sĩ quay về quanh bức tượng, theo tôi là sự tưởng tượng. Có lẽ tôi phải viết một bài chi tiết về vụ tượng đài này.
VW: Nhân đây, xin được hỏi ông về việc tại các Chùa, phần nhiều thân nhân có thói quen mang cốt, mang di ảnh đến Chùa để thờ phụng ở đó,… về việc này, ông nghĩ sao?
VCL: Chuyện để cốt trong Chùa, theo tôi là sai hết. Theo triết lý căn bản của nhà Phật, con người sau khi chết, xác cốt phải bị tiêu hủy, bị đốt đi để sớm đầu thai qua kiếp khác. Do đó, nếu để cốt hay linh ảnh tại Chùa theo tôi là không tốt. Vì làm như vậy là níu kéo hương linh của người chết ở trần gian.
Đạo Chúa nói là “thân xác là cát bụi phải trở về cát bụi”, đạo Phật nói “Thân xác là nhân duyên, thần thức vô mượn xác làm con người”. Do đó, nếu bị chết đi, không bao giờ thấy lại được hình dáng cũ nữa. Theo tôi, người nào thương cha mẹ, người thân quá cố, đừng bao giờ thờ tại gia, hay tại Chùa cả.
Vì mình thương là một chuyện, nhưng cả tỉ năm nữa, không bao giờ thấy lại. Như đã nói, hình thức thờ, giữ cốt chỉ làm cho hồn người chết bị lấn quấn mãi ở trần gian mà thôi. Những người cúng kiếng, cầu cho người thân mình ở lại với mình, nếu không hiểu biết thì không nói làm gì, còn nếu hiểu biết nguyên lý Phật Giáo, không nên giữ lại, đó là một hành động ác nghiệt.
Người chết chỉ mong thần thức của họ được sớm đầu thai kiếp khác, việc cúng kiếng một chén cơm, một ly nước để cầu xin chuyện này chuyện nọ là điều ích kỷ, vụ lợi cho mình ở thế gian tạm bợ, mà lại làm cho thần thức của người chết không đi đầu thai được. Chuyện cúng kiếng, dùng hồn linh của người thân để trở thành công cụ phục vụ cho những nhu cầu vật chất của mình là sai. Không nên làm.
VW: Hiện tượng linh ứng như đốt một cây nhang, cầu xin người quá cố một điều gì đó, đột nhiên cái tàn nhang cong vòng… theo nhân gian, đó là sự chấp nhận, linh ứng. Ông nghĩ sao?
VCL: Những hiện tượng cây nhang cong, hay những hiện tượng khác không giải thích được. Tuy nhiên, theo tôi, càng có sự linh ứng bao nhiêu, càng khốn nạn cho thần thức của người chết bấy nhiêu. Vì họ không đầu thai, không lên thiên đàng hay niết bàn được, cứ lẩn quẩn bên mình. Thời gian có thể là rất dài, rất lâu, mấy trăm năm lẩn quẩn là chuyện thường.
VW: Có một số người đúc tượng người thân, để thờ trong nhà, theo ông, có nên hay không?
VCL: Quan niệm thông thường, những di tượng này được đúc ra, nhằm mục đích để thần thức có chỗ quay về, để trú tạm, ban đêm đi lang thang. Theo tôi là không nên, là ác tâm. Trường hợp cô ca sĩ Lê Uyên thờ tượng chồng Lê Uyên Phương trong nhà, theo tôi là không nên.
Nhiều lần tôi đề nghị dẹp tượng đi, nhờ thầy Thích Mãn Giác làm lễ dẹp tượng đi. Nhờ các đại sư trong Chùa cầu kinh cho, nếu quả thật có thấy vong linh Lê Uyên Phương còn hiện diện.
VW: Tại sao các Chùa lại tập trung nhiều cốt, nhiều ảnh tượng nhiều thế? Theo ông thì sao?
VCL: Đó chỉ là marketing của mấy ông sư thôi. Cốt người chết sau khi được đốt 3,000 độ, không còn là gì nữa. Sau khi đốt xong, nhà quàn còn cho vào máy nghiền. Chỉ còn là chất Calcium, màu đen hay xám trắng. Thịt da đã bay tiêu hết.
Tôi đã từng nếm thử cốt rồi, không mùi không vị. Cốt không là gì hết, vì đó là chất âm. Do đó, không thể để trong nhà, nơi có nhiều dương khí, vượng khí. Để cốt trong nhà thường có hiện tượng lục đục, không may mắn, cãi nhau, làm ăn không khá.
Một số người hiểu biết, trước khi chết dặn dò người thân mình thiêu cốt, rải ra biển cho xong… vì không muốn làm phiền con cái. Họ không muốn con cái để trong nhà cốt của mình, vì sao? Vì ở nhà lúc này hay có nạn hát karaoke, tiếng động ồn ào, đinh tai nhức óc, khiến người chết không thể chịu nổi.
Một số người khác nghĩ rằng để cốt người thân ở Chùa, với mục đích chính là cho hương hồn người chết nghe tiếng kinh tiếng kệ, để các vong linh hưởng được lời xin, lời cầu. Ở Chùa, mới có nhiều người để cốt phía sau là vậy. Còn linh ảnh thì để phía trước.
Nói chung, để linh ảnh, cốt ở chùa để khi mấy vị sư cúng quảy cho những linh hồn, các hồn ma uổng tử cũng lảng vảng nghe ké.
VW: Ở Chùa mà nhiều tính âm như vậy, theo ông là nơi… không tốt?
VCL: Các nhà sư đi tu, không tham sự thành công như người đời, mà tìm sự yên tịnh, thoát trần nơi cửa Phật. Các nhà sư không còn ham thích những thói vui trần
VW: Qua kinh nghiệm tâm linh của mình, xin ông cho biết một số nhận định về tượng, theo tâm linh học?
VCL: Nói về sự linh thiêng của một bức tượng, xét về khía cạnh tâm linh, muốn linh thiêng, phải có một bậc Đại sư, giỏi về thần thông, pháp thuật… thực hiện một nghi lễ “Điểm nhãn” long trọng. Theo Mật tông, nghi lễ “điểm nhãn” sẽ giúp cho một bức tượng vô tri thành ra có thần, linh thiêng.
Trong lịch sử, có nhiều bức tượng Phật, Chúa đầy sự linh thiêng, nhất là khi nhìn vào đôi mắt của các bức tượng này, các tín đồ cảm thấy có một sức mạnh tiềm tàng trong đôi mắt. Theo tôi, trước hết là pho tượng đó đã được “điểm nhãn”, thứ hai, sức mạnh được cấu tạo do những luồng nhãn quang được hút từ chính các tín đồ khi ngước về pho tượng từ năm này qua năm khác.
Sở dĩ đôi mắt của pho tượng có thần, là do nhân điện của mỗi người bị hút vào, do đó, sẽ càng ngày càng linh. Tuy nhiên, xin mở ngoặc, nếu chẳng may, việc “điểm nhãn” được thực hiện bởi một tên “tà ma”, bức tượng đó có một tác hại ghê gớm cho những ai nhìn vào bức tượng. Do đó, mặc dù là tượng hình của bất kỳ một tôn giáo, nếu bị tà ma trấn ếm, thật là một tai họa.
Tôi không nói về phương diện niềm tin tôn giáo, mà nói về lý thuyết điểm nhãn. Khi đúc một lô tượng ra, tại sao có bức tượng linh, có bức không? Muốn một bức tượng linh, phải có nghệ thuật điểm nhãn, có người điểm nhãn.
VW: Còn các bức tượng linh thiêng vẫn nghe đồn đại như tượng Đức Mẹ La Vang, hay tượng Chúa Giê-Su chảy nước mắt, hay chảy máu,…ông nghĩ sao?
VCL: Đức Mẹ La Vang là địa danh linh thiêng, vì theo truyền thuyết, hồi xa xưa Đức Mẹ La Vang đã hiện ra tại đây, sau đó người ta lập đền thờ, để kính niệm. Tôi không nghĩ là có bức tượng Đức Mẹ La Vang linh thiêng. Còn tượng khóc chảy nước mắt hay máu gì đó tôi không nghe, không biết.
VW: Còn bức tượng xi-măng Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ tại Westminster, người dân quanh vùng đồn rằng cũng rất linh thiêng, theo ông, bức tượng này đã được… điểm nhãn chưa?
VCL: Theo tôi, chưa có ai điểm nhãn cho bức tượng này. Hoặc có điểm âm thầm tôi không biết. Bức tượng này chỉ là bức tượng vô tri, không linh thiêng gì hết. Tôi có nghe nhiều người nói là có những dấu hiệu linh thiêng, thấy các chiến sĩ quay về quanh bức tượng, theo tôi là sự tưởng tượng. Có lẽ tôi phải viết một bài chi tiết về vụ tượng đài này.
VW: Nhân đây, xin được hỏi ông về việc tại các Chùa, phần nhiều thân nhân có thói quen mang cốt, mang di ảnh đến Chùa để thờ phụng ở đó,… về việc này, ông nghĩ sao?
VCL: Chuyện để cốt trong Chùa, theo tôi là sai hết. Theo triết lý căn bản của nhà Phật, con người sau khi chết, xác cốt phải bị tiêu hủy, bị đốt đi để sớm đầu thai qua kiếp khác. Do đó, nếu để cốt hay linh ảnh tại Chùa theo tôi là không tốt. Vì làm như vậy là níu kéo hương linh của người chết ở trần gian. Đạo Chúa nói là “thân xác là cát bụi phải trở về cát bụi”, đạo Phật nói “Thân xác là nhân duyên, thần thức vô mượn xác làm con người”.
Do đó, nếu bị chết đi, không bao giờ thấy lại được hình dáng cũ nữa. Theo tôi, người nào thương cha mẹ, người thân quá cố, đừng bao giờ thờ tại gia, hay tại Chùa cả. Vì mình thương là một chuyện, nhưng cả tỉ năm nữa, không bao giờ thấy lại. Như đã nói, hình thức thờ, giữ cốt chỉ làm cho hồn người chết bị lấn quấn mãi ở trần gian mà thôi.
Những người cúng kiếng, cầu cho người thân mình ở lại với mình, nếu không hiểu biết thì không nói làm gì, còn nếu hiểu biết nguyên lý Phật Giáo, không nên giữ lại, đó là một hành động ác nghiệt. Người chết chỉ mong thần thức của họ được sớm đầu thai kiếp khác, việc cúng kiếng một chén cơm, một ly nước để cầu xin chuyện này chuyện nọ là điều ích kỷ, vụ lợi cho mình ở thế gian tạm bợ, mà lại làm cho thần thức của người chết không đi đầu thai được.
Chuyện cúng kiếng, dùng hồn linh của người thân để trở thành công cụ phục vụ cho những nhu cầu vật chất của mình là sai. Không nên làm.
VW: Hiện tượng linh ứng như đốt một cây nhang, cầu xin người quá cố một điều gì đó, đột nhiên cái tàn nhang cong vòng… theo nhân gian, đó là sự chấp nhận, linh ứng. Ông nghĩ sao?
VCL: Những hiện tượng cây nhang cong, hay những hiện tượng khác không giải thích được. Tuy nhiên, theo tôi, càng có sự linh ứng bao nhiêu, càng khốn nạn cho thần thức của người chết bấy nhiêu. Vì họ không đầu thai, không lên thiên đàng hay niết bàn được, cứ lẩn quẩn bên mình. Thời gian có thể là rất dài, rất lâu, mấy trăm năm lẩn quẩn là chuyện thường.
VW: Có một số người đúc tượng người thân, để thờ trong nhà, theo ông, có nên hay không?
VCL: Quan niệm thông thường, những di tượng này được đúc ra, nhằm mục đích để thần thức có chỗ quay về, để trú tạm, ban đêm đi lang thang. Theo tôi là không nên, là ác tâm. Trường hợp cô ca sĩ Lê Uyên thờ tượng chồng Lê Uyên Phương trong nhà, theo tôi là không nên. Nhiều lần tôi đề nghị dẹp tượng đi, nhờ thầy Thích Mãn Giác làm lễ dẹp tượng đi. Nhờ các đại sư trong Chùa cầu kinh cho, nếu
quả thật có thấy vong linh Lê Uyên Phương còn hiện diện.
VW: Tại sao các Chùa lại tập trung nhiều cốt, nhiều ảnh tượng nhiều thế? Theo ông thì sao?
VCL: Đó chỉ là marketing của mấy ông sư thôi. Cốt người chết sau khi được đốt 3,000 độ, không còn là gì nữa. Sau khi đốt xong, nhà quàn còn cho vào máy nghiền. Chỉ còn là chất Calcium, màu đen hay xám trắng. Thịt da đã bay tiêu hết. Tôi đã từng nếm thử cốt rồi, không mùi không vị. Cốt không là gì hết, vì đó là chất âm.
Do đó, không thể để trong nhà, nơi có nhiều dương khí, vượng khí. Để cốt trong nhà thường có hiện tượng lục đục, không may mắn, cãi nhau, làm ăn không khá. Một số người hiểu biết, trước khi chết dặn dò người thân mình thiêu cốt, rải ra biển cho xong… vì không muốn làm phiền con cái. Họ không muốn con cái để trong nhà cốt của mình, vì sao?
Vì ở nhà lúc này hay có nạn hát karaoke, tiếng động ồn ào, đinh tai nhức óc, khiến người chết không thể chịu nổi. Một số người khác nghĩ rằng để cốt người thân ở Chùa, với mục đích chính là cho hương hồn người chết nghe tiếng kinh tiếng kệ, để các vong linh hưởng được lời xin, lời cầu.
Ở Chùa, mới có nhiều người để cốt phía sau là vậy. Còn linh ảnh thì để phía trước. Nói chung, để linh ảnh, cốt ở chùa để khi mấy vị sư cúng quảy cho những linh hồn, các hồn ma uổng tử cũng lảng vảng nghe ké.
VW: Ở Chùa mà nhiều tính âm như vậy, theo ông là nơi… không tốt?
VCL: Các nhà sư đi tu, không tham sự thành công như người đời, mà tìm sự yên tịnh, thoát trần nơi cửa Phật. Các nhà sư không còn ham thích những thói vui trần thế, không hát karaoke, coi văn nghệ Thúy Nga, Asia v.v. Do đó, họ suốt ngày tụng kinh, các vong hồn nghe ké thế, không hát karaoke, coi văn nghệ Thúy Nga, Asia v.v.
Do đó, họ suốt ngày tụng kinh, các vong hồn nghe ké suốt ngày cũng tốt. Nhưng theo tôi, chuyện để cốt ở đâu cũng không tốt, vì như thế là cố gắng lưu giữ lại “cái nhà” của người quá cố, khiến họ không đầu thai dễ dàng được. Nghe tụng kinh ở Chùa đỡ hơn nghe nhạc Rock ở nhà, nhưng được rải tro đi là tốt nhất.
Còn chuyện mấy ông thầy, ông sư đòi tiền, xin tiền để tro cốt ở Chùa là chuyện thế gian, không dính dáng gì đến niềm tin tâm linh về tro cốt. Chuyện chùa này nổi tiếng, xin khắc tên, để cốt là chuyện business của mấy ông thầy.
Vũ Công Lý
VW: Qua kinh nghiệm tâm linh của mình, xin ông cho biết một số nhận định về tượng, theo tâm linh học?
VCL: Nói về sự linh thiêng của một bức tượng, xét về khía cạnh tâm linh, muốn linh thiêng, phải có một bậc Đại sư, giỏi về thần thông, pháp thuật… thực hiện một nghi lễ “Điểm nhãn” long trọng. Theo Mật tông, nghi lễ “điểm nhãn” sẽ giúp cho một bức tượng vô tri thành ra có thần, linh thiêng.
Trong lịch sử, có nhiều bức tượng Phật, Chúa đầy sự linh thiêng, nhất là khi nhìn vào đôi mắt của các bức tượng này, các tín đồ cảm thấy có một sức mạnh tiềm tàng trong đôi mắt.
Theo tôi, trước hết là pho tượng đó đã được “điểm nhãn”, thứ hai, sức mạnh được cấu tạo do những luồng nhãn quang được hút từ chính các tín đồ khi ngước về pho tượng từ năm này qua năm khác. Sở dĩ đôi mắt của pho tượng có thần, là do nhân điện của mỗi người bị hút vào, do đó, sẽ càng ngày càng linh.
Tuy nhiên, xin mở ngoặc, nếu chẳng may, việc “điểm nhãn” được thực hiện bởi một tên “tà ma”, bức tượng đó có một tác hại ghê gớm cho những ai nhìn vào bức tượng. Do đó, mặc dù là tượng hình của bất kỳ một tôn giáo, nếu bị tà ma trấn ếm, thật là một tai họa.
Tôi không nói về phương diện niềm tin tôn giáo, mà nói về lý thuyết điểm nhãn. Khi đúc một lô tượng ra, tại sao có bức tượng linh, có bức không? Muốn một bức tượng linh, phải có nghệ thuật điểm nhãn, có người điểm nhãn.
VW: Còn các bức tượng linh thiêng vẫn nghe đồn đại như tượng Đức Mẹ La Vang, hay tượng Chúa Giê-Su chảy nước mắt, hay chảy máu,…ông nghĩ sao?
VCL: Đức Mẹ La Vang là địa danh linh thiêng, vì theo truyền thuyết, hồi xa xưa Đức Mẹ La Vang đã hiện ra tại đây, sau đó người ta lập đền thờ, để kính niệm. Tôi không nghĩ là có bức tượng Đức Mẹ La Vang linh thiêng. Còn tượng khóc chảy nước mắt hay máu gì đó tôi không nghe, không biết.
VW: Còn bức tượng xi-măng Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ tại Westminster, người dân quanh vùng đồn rằng cũng rất linh thiêng, theo ông, bức tượng này đã được… điểm nhãn chưa?
VCL: Theo tôi, chưa có ai điểm nhãn cho bức tượng này. Hoặc có điểm âm thầm tôi không biết. Bức tượng này chỉ là bức tượng vô tri, không linh thiêng gì hết. Tôi có nghe nhiều người nói là có những dấu hiệu linh thiêng, thấy các chiến sĩ quay về quanh bức tượng, theo tôi là sự tưởng tượng. Có lẽ tôi phải viết một bài chi tiết về vụ tượng đài này.
VW: Nhân đây, xin được hỏi ông về việc tại các Chùa, phần nhiều thân nhân có thói quen mang cốt, mang di ảnh đến Chùa để thờ phụng ở đó,… về việc này, ông nghĩ sao?
VCL: Chuyện để cốt trong Chùa, theo tôi là sai hết. Theo triết lý căn bản của nhà Phật, con người sau khi chết, xác cốt phải bị tiêu hủy, bị đốt đi để sớm đầu thai qua kiếp khác. Do đó, nếu để cốt hay linh ảnh tại Chùa theo tôi là không tốt. Vì làm như vậy là níu kéo hương linh của người chết ở trần gian.
Đạo Chúa nói là “thân xác là cát bụi phải trở về cát bụi”, đạo Phật nói “Thân xác là nhân duyên, thần thức vô mượn xác làm con người”. Do đó, nếu bị chết đi, không bao giờ thấy lại được hình dáng cũ nữa. Theo tôi, người nào thương cha mẹ, người thân quá cố, đừng bao giờ thờ tại gia, hay tại Chùa cả.
Vì mình thương là một chuyện, nhưng cả tỉ năm nữa, không bao giờ thấy lại. Như đã nói, hình thức thờ, giữ cốt chỉ làm cho hồn người chết bị lấn quấn mãi ở trần gian mà thôi. Những người cúng kiếng, cầu cho người thân mình ở lại với mình, nếu không hiểu biết thì không nói làm gì, còn nếu hiểu biết nguyên lý Phật Giáo, không nên giữ lại, đó là một hành động ác nghiệt.
Người chết chỉ mong thần thức của họ được sớm đầu thai kiếp khác, việc cúng kiếng một chén cơm, một ly nước để cầu xin chuyện này chuyện nọ là điều ích kỷ, vụ lợi cho mình ở thế gian tạm bợ, mà lại làm cho thần thức của người chết không đi đầu thai được. Chuyện cúng kiếng, dùng hồn linh của người thân để trở thành công cụ phục vụ cho những nhu cầu vật chất của mình là sai. Không nên làm.
VW: Hiện tượng linh ứng như đốt một cây nhang, cầu xin người quá cố một điều gì đó, đột nhiên cái tàn nhang cong vòng… theo nhân gian, đó là sự chấp nhận, linh ứng. Ông nghĩ sao?
VCL: Những hiện tượng cây nhang cong, hay những hiện tượng khác không giải thích được. Tuy nhiên, theo tôi, càng có sự linh ứng bao nhiêu, càng khốn nạn cho thần thức của người chết bấy nhiêu. Vì họ không đầu thai, không lên thiên đàng hay niết bàn được, cứ lẩn quẩn bên mình. Thời gian có thể là rất dài, rất lâu, mấy trăm năm lẩn quẩn là chuyện thường.
VW: Có một số người đúc tượng người thân, để thờ trong nhà, theo ông, có nên hay không?
VCL: Quan niệm thông thường, những di tượng này được đúc ra, nhằm mục đích để thần thức có chỗ quay về, để trú tạm, ban đêm đi lang thang. Theo tôi là không nên, là ác tâm. Trường hợp cô ca sĩ Lê Uyên thờ tượng chồng Lê Uyên Phương trong nhà, theo tôi là không nên.
Nhiều lần tôi đề nghị dẹp tượng đi, nhờ thầy Thích Mãn Giác làm lễ dẹp tượng đi. Nhờ các đại sư trong Chùa cầu kinh cho, nếu quả thật có thấy vong linh Lê Uyên Phương còn hiện diện.
VW: Tại sao các Chùa lại tập trung nhiều cốt, nhiều ảnh tượng nhiều thế? Theo ông thì sao?
VCL: Đó chỉ là marketing của mấy ông sư thôi. Cốt người chết sau khi được đốt 3,000 độ, không còn là gì nữa. Sau khi đốt xong, nhà quàn còn cho vào máy nghiền. Chỉ còn là chất Calcium, màu đen hay xám trắng. Thịt da đã bay tiêu hết.
Tôi đã từng nếm thử cốt rồi, không mùi không vị. Cốt không là gì hết, vì đó là chất âm. Do đó, không thể để trong nhà, nơi có nhiều dương khí, vượng khí. Để cốt trong nhà thường có hiện tượng lục đục, không may mắn, cãi nhau, làm ăn không khá.
Một số người hiểu biết, trước khi chết dặn dò người thân mình thiêu cốt, rải ra biển cho xong… vì không muốn làm phiền con cái. Họ không muốn con cái để trong nhà cốt của mình, vì sao? Vì ở nhà lúc này hay có nạn hát karaoke, tiếng động ồn ào, đinh tai nhức óc, khiến người chết không thể chịu nổi.
Một số người khác nghĩ rằng để cốt người thân ở Chùa, với mục đích chính là cho hương hồn người chết nghe tiếng kinh tiếng kệ, để các vong linh hưởng được lời xin, lời cầu. Ở Chùa, mới có nhiều người để cốt phía sau là vậy. Còn linh ảnh thì để phía trước.
Nói chung, để linh ảnh, cốt ở chùa để khi mấy vị sư cúng quảy cho những linh hồn, các hồn ma uổng tử cũng lảng vảng nghe ké.
VW: Ở Chùa mà nhiều tính âm như vậy, theo ông là nơi… không tốt?
VCL: Các nhà sư đi tu, không tham sự thành công như người đời, mà tìm sự yên tịnh, thoát trần nơi cửa Phật. Các nhà sư không còn ham thích những thói vui trần
VW: Qua kinh nghiệm tâm linh của mình, xin ông cho biết một số nhận định về tượng, theo tâm linh học?
VCL: Nói về sự linh thiêng của một bức tượng, xét về khía cạnh tâm linh, muốn linh thiêng, phải có một bậc Đại sư, giỏi về thần thông, pháp thuật… thực hiện một nghi lễ “Điểm nhãn” long trọng. Theo Mật tông, nghi lễ “điểm nhãn” sẽ giúp cho một bức tượng vô tri thành ra có thần, linh thiêng.
Trong lịch sử, có nhiều bức tượng Phật, Chúa đầy sự linh thiêng, nhất là khi nhìn vào đôi mắt của các bức tượng này, các tín đồ cảm thấy có một sức mạnh tiềm tàng trong đôi mắt. Theo tôi, trước hết là pho tượng đó đã được “điểm nhãn”, thứ hai, sức mạnh được cấu tạo do những luồng nhãn quang được hút từ chính các tín đồ khi ngước về pho tượng từ năm này qua năm khác.
Sở dĩ đôi mắt của pho tượng có thần, là do nhân điện của mỗi người bị hút vào, do đó, sẽ càng ngày càng linh. Tuy nhiên, xin mở ngoặc, nếu chẳng may, việc “điểm nhãn” được thực hiện bởi một tên “tà ma”, bức tượng đó có một tác hại ghê gớm cho những ai nhìn vào bức tượng. Do đó, mặc dù là tượng hình của bất kỳ một tôn giáo, nếu bị tà ma trấn ếm, thật là một tai họa.
Tôi không nói về phương diện niềm tin tôn giáo, mà nói về lý thuyết điểm nhãn. Khi đúc một lô tượng ra, tại sao có bức tượng linh, có bức không? Muốn một bức tượng linh, phải có nghệ thuật điểm nhãn, có người điểm nhãn.
VW: Còn các bức tượng linh thiêng vẫn nghe đồn đại như tượng Đức Mẹ La Vang, hay tượng Chúa Giê-Su chảy nước mắt, hay chảy máu,…ông nghĩ sao?
VCL: Đức Mẹ La Vang là địa danh linh thiêng, vì theo truyền thuyết, hồi xa xưa Đức Mẹ La Vang đã hiện ra tại đây, sau đó người ta lập đền thờ, để kính niệm. Tôi không nghĩ là có bức tượng Đức Mẹ La Vang linh thiêng. Còn tượng khóc chảy nước mắt hay máu gì đó tôi không nghe, không biết.
VW: Còn bức tượng xi-măng Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ tại Westminster, người dân quanh vùng đồn rằng cũng rất linh thiêng, theo ông, bức tượng này đã được… điểm nhãn chưa?
VCL: Theo tôi, chưa có ai điểm nhãn cho bức tượng này. Hoặc có điểm âm thầm tôi không biết. Bức tượng này chỉ là bức tượng vô tri, không linh thiêng gì hết. Tôi có nghe nhiều người nói là có những dấu hiệu linh thiêng, thấy các chiến sĩ quay về quanh bức tượng, theo tôi là sự tưởng tượng. Có lẽ tôi phải viết một bài chi tiết về vụ tượng đài này.
VW: Nhân đây, xin được hỏi ông về việc tại các Chùa, phần nhiều thân nhân có thói quen mang cốt, mang di ảnh đến Chùa để thờ phụng ở đó,… về việc này, ông nghĩ sao?
VCL: Chuyện để cốt trong Chùa, theo tôi là sai hết. Theo triết lý căn bản của nhà Phật, con người sau khi chết, xác cốt phải bị tiêu hủy, bị đốt đi để sớm đầu thai qua kiếp khác. Do đó, nếu để cốt hay linh ảnh tại Chùa theo tôi là không tốt. Vì làm như vậy là níu kéo hương linh của người chết ở trần gian. Đạo Chúa nói là “thân xác là cát bụi phải trở về cát bụi”, đạo Phật nói “Thân xác là nhân duyên, thần thức vô mượn xác làm con người”.
Do đó, nếu bị chết đi, không bao giờ thấy lại được hình dáng cũ nữa. Theo tôi, người nào thương cha mẹ, người thân quá cố, đừng bao giờ thờ tại gia, hay tại Chùa cả. Vì mình thương là một chuyện, nhưng cả tỉ năm nữa, không bao giờ thấy lại. Như đã nói, hình thức thờ, giữ cốt chỉ làm cho hồn người chết bị lấn quấn mãi ở trần gian mà thôi.
Những người cúng kiếng, cầu cho người thân mình ở lại với mình, nếu không hiểu biết thì không nói làm gì, còn nếu hiểu biết nguyên lý Phật Giáo, không nên giữ lại, đó là một hành động ác nghiệt. Người chết chỉ mong thần thức của họ được sớm đầu thai kiếp khác, việc cúng kiếng một chén cơm, một ly nước để cầu xin chuyện này chuyện nọ là điều ích kỷ, vụ lợi cho mình ở thế gian tạm bợ, mà lại làm cho thần thức của người chết không đi đầu thai được.
Chuyện cúng kiếng, dùng hồn linh của người thân để trở thành công cụ phục vụ cho những nhu cầu vật chất của mình là sai. Không nên làm.
VW: Hiện tượng linh ứng như đốt một cây nhang, cầu xin người quá cố một điều gì đó, đột nhiên cái tàn nhang cong vòng… theo nhân gian, đó là sự chấp nhận, linh ứng. Ông nghĩ sao?
VCL: Những hiện tượng cây nhang cong, hay những hiện tượng khác không giải thích được. Tuy nhiên, theo tôi, càng có sự linh ứng bao nhiêu, càng khốn nạn cho thần thức của người chết bấy nhiêu. Vì họ không đầu thai, không lên thiên đàng hay niết bàn được, cứ lẩn quẩn bên mình. Thời gian có thể là rất dài, rất lâu, mấy trăm năm lẩn quẩn là chuyện thường.
VW: Có một số người đúc tượng người thân, để thờ trong nhà, theo ông, có nên hay không?
VCL: Quan niệm thông thường, những di tượng này được đúc ra, nhằm mục đích để thần thức có chỗ quay về, để trú tạm, ban đêm đi lang thang. Theo tôi là không nên, là ác tâm. Trường hợp cô ca sĩ Lê Uyên thờ tượng chồng Lê Uyên Phương trong nhà, theo tôi là không nên. Nhiều lần tôi đề nghị dẹp tượng đi, nhờ thầy Thích Mãn Giác làm lễ dẹp tượng đi. Nhờ các đại sư trong Chùa cầu kinh cho, nếu
quả thật có thấy vong linh Lê Uyên Phương còn hiện diện.
VW: Tại sao các Chùa lại tập trung nhiều cốt, nhiều ảnh tượng nhiều thế? Theo ông thì sao?
VCL: Đó chỉ là marketing của mấy ông sư thôi. Cốt người chết sau khi được đốt 3,000 độ, không còn là gì nữa. Sau khi đốt xong, nhà quàn còn cho vào máy nghiền. Chỉ còn là chất Calcium, màu đen hay xám trắng. Thịt da đã bay tiêu hết. Tôi đã từng nếm thử cốt rồi, không mùi không vị. Cốt không là gì hết, vì đó là chất âm.
Do đó, không thể để trong nhà, nơi có nhiều dương khí, vượng khí. Để cốt trong nhà thường có hiện tượng lục đục, không may mắn, cãi nhau, làm ăn không khá. Một số người hiểu biết, trước khi chết dặn dò người thân mình thiêu cốt, rải ra biển cho xong… vì không muốn làm phiền con cái. Họ không muốn con cái để trong nhà cốt của mình, vì sao?
Vì ở nhà lúc này hay có nạn hát karaoke, tiếng động ồn ào, đinh tai nhức óc, khiến người chết không thể chịu nổi. Một số người khác nghĩ rằng để cốt người thân ở Chùa, với mục đích chính là cho hương hồn người chết nghe tiếng kinh tiếng kệ, để các vong linh hưởng được lời xin, lời cầu.
Ở Chùa, mới có nhiều người để cốt phía sau là vậy. Còn linh ảnh thì để phía trước. Nói chung, để linh ảnh, cốt ở chùa để khi mấy vị sư cúng quảy cho những linh hồn, các hồn ma uổng tử cũng lảng vảng nghe ké.
VW: Ở Chùa mà nhiều tính âm như vậy, theo ông là nơi… không tốt?
VCL: Các nhà sư đi tu, không tham sự thành công như người đời, mà tìm sự yên tịnh, thoát trần nơi cửa Phật. Các nhà sư không còn ham thích những thói vui trần thế, không hát karaoke, coi văn nghệ Thúy Nga, Asia v.v. Do đó, họ suốt ngày tụng kinh, các vong hồn nghe ké thế, không hát karaoke, coi văn nghệ Thúy Nga, Asia v.v.
Do đó, họ suốt ngày tụng kinh, các vong hồn nghe ké suốt ngày cũng tốt. Nhưng theo tôi, chuyện để cốt ở đâu cũng không tốt, vì như thế là cố gắng lưu giữ lại “cái nhà” của người quá cố, khiến họ không đầu thai dễ dàng được. Nghe tụng kinh ở Chùa đỡ hơn nghe nhạc Rock ở nhà, nhưng được rải tro đi là tốt nhất.
Còn chuyện mấy ông thầy, ông sư đòi tiền, xin tiền để tro cốt ở Chùa là chuyện thế gian, không dính dáng gì đến niềm tin tâm linh về tro cốt. Chuyện chùa này nổi tiếng, xin khắc tên, để cốt là chuyện business của mấy ông thầy.
Vũ Công Lý
Ông Vũ Công Lý này nói hơi quá đáng, chùa nào mà không có tro cốt người chết được người thân gửi vào ??? Nếu nói theo ông là do mấy Sư, Thầy làm marketing, như vậy tất cả đều marketing hết rồi! Hỏi lại ông VCL rằng chẳng lẻ nhà ông đều đem tro cốt của người thân bỏ ngoài biển, và trong nhà không có một bàn thờ, di ảnh tổ tiên nào giữ lại ???
#40
Gửi vào 14/06/2011 - 00:54
BÀI KÝ MỘT GIẤC MỘNG
Nhân Tông gặp loạn Nghi Dân. Ta mới lên ngôi, nghĩ đến việc trước mà luôn luôn phải phòng ngừa. Thường dàn sáu quân thân hành đi kiểm soát.
Một hôm gặp mưa to, đóng lại trên bờ hồ Trúc Bạch ở mỏ phượng. Trong cơn mưa u ám phảng phất có tiếng khóc than thảm thiết. Khi ta truyền mọi người lắng nghe thì không thấy gì, nhưng đến khi gió lớn mưa to thì lại nghe thấy tiếng như trước. Ta ngờ vực, rót chén rượu, hắt ra phía có tiếng khóc khấn thầm rằng:
- Trẫm trên nhờ oai linh của tổ tông, dưới dựa vào bầy tôi giúp sức, sinh, sát, thưởng, phạt đều nắm trong tay. Ai uất ức, đau khổ ta có thể giải đi được. Ai có công đức ngầm kín ta có thể nêu lên được.
Khấn với các thần ở địa phương, nếu có u hồn nào còn uất ức, thì bảo chúng cứ thực tâu bày. Cớ sao gió mưa thì nghe thấy tiếng, lờ mờ không rõ như khóc như than, nửa ẩn nửa hiện, trong tình u oán có ý thẹn thùng, làm cho ta sinh lòng nghi hoặc, muốn nêu lên không rõ công đâu mà nêu, muốn giải cho không biết oan đâu mà giải. Trẫm không nói lại lần nữa bảo cho các thần biết.
Khấn xong, ta xem hoa cỏ phía ấy tựa hồ có ý cảm động, khiến ta cũng sinh lòng thương xót. Ta liền sắc cho các tướng truyền quân sĩ chỉnh tề hàng ngũ về cung.
Các tướng hộ giá đều phục đằng trước tâu rằng:
- Từ khi thánh thượng chính ngôi đến nay, dân chúng thảy đều thần phục, há đâu có sự bất ngờ. Nay trời rét như cắt, lại thêm mưa gió lạnh lùng, dù ơn vua rộng khắp, ba quân đều có lòng cắp bông báo ơn chúa (xưa có câu truyện: nước Sở đánh nước Tiêu, trời rét vua Sở đi khắp ba quân phủ dụ khuyến khích, quân sĩ đều thấy hăng hái, trong mình ấp áp như cắp bông vậy), nhưng đội mưa ra về dân chúng sẽ nghi là có việc khẩn cấp. Cúi xin đóng tạm ở hành tại, đợi khi mưa tạnh trời quang, truyền mở cửa Tây chỉ trăm bước là về tới chính cung thôi.
Ta ngượng theo ý chư tướng, hạ lệnh ngủ qua đêm ở đó. Ðêm khuya mộng thấy hai người con gái rất đẹp đội một phong thư phục xuống trước mặt tâu rằng:
- Chị em thiếp trước thờ vua Lý Cao Tông, rất được nhà vua quý mến. Không may phận rủi thời suy, bị kẻ gian là Trần Lục bắt trộm, đem đi trốn định bán chị em thiếp cho người ta bằng một giá đắt, nhưng bị người láng giềng trông thấy, nó sợ tội nặng nên đem chị em thiếp giam ở địa phương này. Tới nay đã hơn hai trăm năm. May nhà vua đi tuần qua đi, có lòng thương xót mọi người, nên chị em thiếp đều liều chết dâng thư, mong đội đức thánh minh soi xét cho. Chị em thiếp nghĩ lúc này chính là lúc, được ra ngoài hang tối thấy bóng mặt trời.
Hai cô nói xong rồi đặt thư lên án, vừa khóc vừa lạy mà lui ra.
Ta tỉnh giấc trông lên án, quả có một phong thư. Trong lòng nghi hoặc, vội mở ra xem thì thấy một tờ giấy trắng ngang dọc đều độ một thước, trên có bảy mươi mốt chữ, lối chữ ngoằn ngoèo như hình giun dế, không thể hiểu được. Dưới cũng có hai bài thơ:
Bài thứ nhất rằng:
Cổ nguyệt lạc hàn thủy
Ðiền ôi vị bán âm
Dạ dạ quân kim trọng
Thê thê thiên lý lâm
Tạm dịch là:
Mặt trăng xưa rơi xuống nước lạnh
Góc ruộng vì thế mà tối mất một nửa
Ðêm đêm cân vàng nặng
Ðau xót lòng ngàn dặm
Bài thứ hai:
Xuất tự ba sơn sự nhị vương
Tị lân đầu thượng lưỡng tương phương
Hậu lai giá đắc kim đồng tử
Không đới đào chi vĩnh tự thương
Tạm dịch là:
Ra tự núi Ba Sơn thờ hai vua
Trên đầu liền xóm hai người sánh đôi
Ðến sau gả cho chàng kim đồng
Uổng công đội cành đào cảm thấy đau xót mãi.
Ta nghĩ đi nghĩ lại hai ba lần nhưng vẫn chưa hiểu ý. Sáng hôm sau ta vào triều vời học thần nội các đến, thuật rõ việc ấy và đưa hai bài thơ cho mọi người xem để giải nghĩa.
Các họa sĩ đều nói:
- Lời nói của quỷ thần rất huyền bí không thể giải đoán ngay được. Xin bệ hạ cho phép chúng tôi nghĩ kỹ xem thế nào rồi sẽ xin tâu lại.
Trải qua ba năm không ai biết hai bài thơ ý nói gì. Một hôm ta ngủ trưa mộng thấy người Tiên thổi địch gặp ở hồ Tây khi trước. Ta mừng lắm mời gã cùng ngồi, cầm tay nói chuyện vui vẻ. Trong mộng lại nhớ đến hai bài thơ kia đem ra hỏi:
Tiên thổi địch nói:
- Tiên triết ta có câu:
“Không thể biết được mới gọi là thần”.
- Ðem lòng trần dò lòng thần, dò thế nào được? Vậy nên ba năm nay, muốn thân oan cho người mà vẫn chưa được.
Tiên thổi địch mới giải nghĩa rằng:
- Hai người con gái ấy là yêu thần của chuông vàng và đàn tỳ bà đó. Khi xưa Lý Cao Tông chế nhạc, đặt tên chuông là Kim Chung, tên đàn là Ngọc tỳ bà.
Là chuông mà có tiếng tơ trúc, là tơ, mà có âm hưởng của kim thạch, cho nên mỗi lần được tấu ở ngự tiền vẫn được ban thưởng.
Nhà vua rất quý đem cất vào nhạc phủ cẩn thận. Ðến đời Huệ Tông trễ nải chính trị ruồng bỏ, nhạc công hàng ngày say sưa hát hỏng, múa giáo tự xưng là tướng nhà trời, ủy cả chính quyền cho nhà Trần.
Lúc ấy một người tôn thất nhà Trần, tên là Lục thừa cơ lấy trộm hai nhạc cụ ấy. Không ngờ nhạc công là Nguyễn Trực trông thấy toan đem phát giác. Lục sợ mắc tội liền đem chôn tại bờ hồ Trúc Bạch, bên trên trồng một cây anh đào cho mất dấu tích đi.
Khí vàng và ngọc lâu ngày thành yêu, nay chúng muốn kêu với vua đào lên, để chúng được trổ tài cho nhà vua dùng đó.
Trong bài thơ nói:
“Cổ nguyệt lạc hàn thủy” là:
Bên tả chấm thủy giữa có chữ “cổ”, bên hữu có chữ “nguyệt” ghép lại thành chữ “bạn”. Cho nên nói:
“Ðiền ôi vị bán âm”. Kim đồng ghép lại là chữ “chung”.
Thiên lý ghép lại là chữ “mai”, vì chữ “thổ” ngược lại là chữ “thiên”.
Bốn câu này đọc thành bốn chữ là “Hồ bạn chung mai” nghĩa là Chuông chôn bờ hồ.
Còn các chữ khác chẳng qua chắp nhặt cho thành câu thôi. Hai chữ “vương” trên chữ “bà”. Trên đầu chữ “tỷ” với trên đầu chữ “ba” so sánh như nhau, nghĩa là cùng đặt hai chữ “vương” lên trên thì thành chữ “tỳ”.
Hai chữ tuy đảo ngược nhưng cũng hiểu là chữ “tỳ bà”. Gả cho chàng kim đồng: Kim đồng là chữ “chung”.
Chắc là “tỳ bà” và “kim chung” cùng đựng vào một vật gì đem chôn đó. Còn câu:
“Không đới đào chi vĩnh tự thương”, thì xem bờ hồ nào có cây anh đào, tức là hai thứ ấy chôn ở dưới gốc đó.
Ta lại hỏi âm và nghĩa của bảy mươi mốt chữ ở đầu trang.
Tiên thổi địch nói:
- Những chữ ấy tức là lời tâu của hai con yêu. Lối chữ ấy là lối chữ cổ sơ của Việt Nam. Nay Mường Mán ở các sơn động cũng có người còn đọc được. Nhà vua triệu họ đến bắt họ đọc thì khắc biết.
Tiên thổi địch nói xong, ta còn muốn nói chuyện nữa. Chợt có cơn gió thoảng qua làm ta tỉnh giấc. Bèn truyền thị vệ theo lời dặn của Tiên thổi địch đi tìm. Quả nhiên đào được một quả chuông vàng và một cây đàn tỳ bà ở bên hồ.
Lê Thánh Tông
Nhân Tông gặp loạn Nghi Dân. Ta mới lên ngôi, nghĩ đến việc trước mà luôn luôn phải phòng ngừa. Thường dàn sáu quân thân hành đi kiểm soát.
Một hôm gặp mưa to, đóng lại trên bờ hồ Trúc Bạch ở mỏ phượng. Trong cơn mưa u ám phảng phất có tiếng khóc than thảm thiết. Khi ta truyền mọi người lắng nghe thì không thấy gì, nhưng đến khi gió lớn mưa to thì lại nghe thấy tiếng như trước. Ta ngờ vực, rót chén rượu, hắt ra phía có tiếng khóc khấn thầm rằng:
- Trẫm trên nhờ oai linh của tổ tông, dưới dựa vào bầy tôi giúp sức, sinh, sát, thưởng, phạt đều nắm trong tay. Ai uất ức, đau khổ ta có thể giải đi được. Ai có công đức ngầm kín ta có thể nêu lên được.
Khấn với các thần ở địa phương, nếu có u hồn nào còn uất ức, thì bảo chúng cứ thực tâu bày. Cớ sao gió mưa thì nghe thấy tiếng, lờ mờ không rõ như khóc như than, nửa ẩn nửa hiện, trong tình u oán có ý thẹn thùng, làm cho ta sinh lòng nghi hoặc, muốn nêu lên không rõ công đâu mà nêu, muốn giải cho không biết oan đâu mà giải. Trẫm không nói lại lần nữa bảo cho các thần biết.
Khấn xong, ta xem hoa cỏ phía ấy tựa hồ có ý cảm động, khiến ta cũng sinh lòng thương xót. Ta liền sắc cho các tướng truyền quân sĩ chỉnh tề hàng ngũ về cung.
Các tướng hộ giá đều phục đằng trước tâu rằng:
- Từ khi thánh thượng chính ngôi đến nay, dân chúng thảy đều thần phục, há đâu có sự bất ngờ. Nay trời rét như cắt, lại thêm mưa gió lạnh lùng, dù ơn vua rộng khắp, ba quân đều có lòng cắp bông báo ơn chúa (xưa có câu truyện: nước Sở đánh nước Tiêu, trời rét vua Sở đi khắp ba quân phủ dụ khuyến khích, quân sĩ đều thấy hăng hái, trong mình ấp áp như cắp bông vậy), nhưng đội mưa ra về dân chúng sẽ nghi là có việc khẩn cấp. Cúi xin đóng tạm ở hành tại, đợi khi mưa tạnh trời quang, truyền mở cửa Tây chỉ trăm bước là về tới chính cung thôi.
Ta ngượng theo ý chư tướng, hạ lệnh ngủ qua đêm ở đó. Ðêm khuya mộng thấy hai người con gái rất đẹp đội một phong thư phục xuống trước mặt tâu rằng:
- Chị em thiếp trước thờ vua Lý Cao Tông, rất được nhà vua quý mến. Không may phận rủi thời suy, bị kẻ gian là Trần Lục bắt trộm, đem đi trốn định bán chị em thiếp cho người ta bằng một giá đắt, nhưng bị người láng giềng trông thấy, nó sợ tội nặng nên đem chị em thiếp giam ở địa phương này. Tới nay đã hơn hai trăm năm. May nhà vua đi tuần qua đi, có lòng thương xót mọi người, nên chị em thiếp đều liều chết dâng thư, mong đội đức thánh minh soi xét cho. Chị em thiếp nghĩ lúc này chính là lúc, được ra ngoài hang tối thấy bóng mặt trời.
Hai cô nói xong rồi đặt thư lên án, vừa khóc vừa lạy mà lui ra.
Ta tỉnh giấc trông lên án, quả có một phong thư. Trong lòng nghi hoặc, vội mở ra xem thì thấy một tờ giấy trắng ngang dọc đều độ một thước, trên có bảy mươi mốt chữ, lối chữ ngoằn ngoèo như hình giun dế, không thể hiểu được. Dưới cũng có hai bài thơ:
Bài thứ nhất rằng:
Cổ nguyệt lạc hàn thủy
Ðiền ôi vị bán âm
Dạ dạ quân kim trọng
Thê thê thiên lý lâm
Tạm dịch là:
Mặt trăng xưa rơi xuống nước lạnh
Góc ruộng vì thế mà tối mất một nửa
Ðêm đêm cân vàng nặng
Ðau xót lòng ngàn dặm
Bài thứ hai:
Xuất tự ba sơn sự nhị vương
Tị lân đầu thượng lưỡng tương phương
Hậu lai giá đắc kim đồng tử
Không đới đào chi vĩnh tự thương
Tạm dịch là:
Ra tự núi Ba Sơn thờ hai vua
Trên đầu liền xóm hai người sánh đôi
Ðến sau gả cho chàng kim đồng
Uổng công đội cành đào cảm thấy đau xót mãi.
Ta nghĩ đi nghĩ lại hai ba lần nhưng vẫn chưa hiểu ý. Sáng hôm sau ta vào triều vời học thần nội các đến, thuật rõ việc ấy và đưa hai bài thơ cho mọi người xem để giải nghĩa.
Các họa sĩ đều nói:
- Lời nói của quỷ thần rất huyền bí không thể giải đoán ngay được. Xin bệ hạ cho phép chúng tôi nghĩ kỹ xem thế nào rồi sẽ xin tâu lại.
Trải qua ba năm không ai biết hai bài thơ ý nói gì. Một hôm ta ngủ trưa mộng thấy người Tiên thổi địch gặp ở hồ Tây khi trước. Ta mừng lắm mời gã cùng ngồi, cầm tay nói chuyện vui vẻ. Trong mộng lại nhớ đến hai bài thơ kia đem ra hỏi:
Tiên thổi địch nói:
- Tiên triết ta có câu:
“Không thể biết được mới gọi là thần”.
- Ðem lòng trần dò lòng thần, dò thế nào được? Vậy nên ba năm nay, muốn thân oan cho người mà vẫn chưa được.
Tiên thổi địch mới giải nghĩa rằng:
- Hai người con gái ấy là yêu thần của chuông vàng và đàn tỳ bà đó. Khi xưa Lý Cao Tông chế nhạc, đặt tên chuông là Kim Chung, tên đàn là Ngọc tỳ bà.
Là chuông mà có tiếng tơ trúc, là tơ, mà có âm hưởng của kim thạch, cho nên mỗi lần được tấu ở ngự tiền vẫn được ban thưởng.
Nhà vua rất quý đem cất vào nhạc phủ cẩn thận. Ðến đời Huệ Tông trễ nải chính trị ruồng bỏ, nhạc công hàng ngày say sưa hát hỏng, múa giáo tự xưng là tướng nhà trời, ủy cả chính quyền cho nhà Trần.
Lúc ấy một người tôn thất nhà Trần, tên là Lục thừa cơ lấy trộm hai nhạc cụ ấy. Không ngờ nhạc công là Nguyễn Trực trông thấy toan đem phát giác. Lục sợ mắc tội liền đem chôn tại bờ hồ Trúc Bạch, bên trên trồng một cây anh đào cho mất dấu tích đi.
Khí vàng và ngọc lâu ngày thành yêu, nay chúng muốn kêu với vua đào lên, để chúng được trổ tài cho nhà vua dùng đó.
Trong bài thơ nói:
“Cổ nguyệt lạc hàn thủy” là:
Bên tả chấm thủy giữa có chữ “cổ”, bên hữu có chữ “nguyệt” ghép lại thành chữ “bạn”. Cho nên nói:
“Ðiền ôi vị bán âm”. Kim đồng ghép lại là chữ “chung”.
Thiên lý ghép lại là chữ “mai”, vì chữ “thổ” ngược lại là chữ “thiên”.
Bốn câu này đọc thành bốn chữ là “Hồ bạn chung mai” nghĩa là Chuông chôn bờ hồ.
Còn các chữ khác chẳng qua chắp nhặt cho thành câu thôi. Hai chữ “vương” trên chữ “bà”. Trên đầu chữ “tỷ” với trên đầu chữ “ba” so sánh như nhau, nghĩa là cùng đặt hai chữ “vương” lên trên thì thành chữ “tỳ”.
Hai chữ tuy đảo ngược nhưng cũng hiểu là chữ “tỳ bà”. Gả cho chàng kim đồng: Kim đồng là chữ “chung”.
Chắc là “tỳ bà” và “kim chung” cùng đựng vào một vật gì đem chôn đó. Còn câu:
“Không đới đào chi vĩnh tự thương”, thì xem bờ hồ nào có cây anh đào, tức là hai thứ ấy chôn ở dưới gốc đó.
Ta lại hỏi âm và nghĩa của bảy mươi mốt chữ ở đầu trang.
Tiên thổi địch nói:
- Những chữ ấy tức là lời tâu của hai con yêu. Lối chữ ấy là lối chữ cổ sơ của Việt Nam. Nay Mường Mán ở các sơn động cũng có người còn đọc được. Nhà vua triệu họ đến bắt họ đọc thì khắc biết.
Tiên thổi địch nói xong, ta còn muốn nói chuyện nữa. Chợt có cơn gió thoảng qua làm ta tỉnh giấc. Bèn truyền thị vệ theo lời dặn của Tiên thổi địch đi tìm. Quả nhiên đào được một quả chuông vàng và một cây đàn tỳ bà ở bên hồ.
Lê Thánh Tông
#41
Gửi vào 14/06/2011 - 23:08
NHÀ XÁC
Cũng như những đứa bạn khác đều là sinh viên y dược, thì chuyện canh nhà xác là chuyện bình thường và là điều mà mọi sinh viên ngành y, dù muốn hay không vẫn phải cố gắng tập sự can đảm chấp nhận. Rồi cũng đến lượt tôi và Lâm phải trực nhà xác, để đón nhận những tử thi mới làm thủ tục "nhập môn".
Thường thì ca trực vào cả ngày lẩn đêm và chia theo ca tám tiếng, thế nhưng hôm ấy tôi và Lâm phải trực ca tối mới ghê chứ. Trước khi đi Thảo bảo Lâm nên mang theo tỏi hay thứ gì đó hộ mệnh cũng được, vì nghe đâu mấy đứa trước làm như thế thì im re mọi chuyện. Lâm cười ha hả bảo Thảo dở hơi, ừ thì sao cũng được với tôi chỉ là thủ tục nhỏ thôi mà, tôi cũng không chú tâm chuyện này lắm.
Rồi buổi tối ấy cũng đến, tôi và Lâm ngồi với mớ bài đem theo bên cạnh tò te đọc vài dòng, sau khi nhận vào ca trực khoảng một tiếng thì có một xác được đưa vào, tôi và Lâm cùng làm thủ tục "nhập môn" cho cái xác này. Đâu vào đấy tôi bảo Lâm đi mua tờ báo gì đó, dưới cổng bệnh viện để đọc vì buồn quá, lúc chuẩn bị đi thì mưa như trút nước, cái lạnh hăng hắc mơn man làm tôi có cảm giác nổi da gà, Lâm thì co ro trên cái ghế trực, cạnh một cái bàn chơ vơ dọc theo lan can của phòng xác.
Mưa như hối hả hơn và cũng tạnh nhanh hơn, mới đó mà đã mười hai giờ khuya nhanh quá, tôi và Lâm nghĩ vậy, ngoài trời chỉ còn lất phất mưa, ánh đèn neon đã cũ mờ ảo sáng đục, gió thì vẫn thoang thoáng bay qua lành lạnh. Tôi bảo Lâm có thể ngủ vài tiếng, tôi có thể ngồi trực cho nó, sau đó sẽ đến lượt tôi ngủ, nó đồng ý và ngồi gục xuống cạnh bàn ngủ thiềp đi.
Tôi ngồi kiểm tra lại mấy bài thuốc vừa được học sáng nay, được khoảng mười lăm phút, thì có chị y tá thấp thoáng với áo blouse trắng đi lại, bảo tôi chuẩn bị mở cửa phòng, để chuyển một xác người vào. Tôi hối hả và mừng thầm, vì ít ra có người để mình bắt chuyện sau khi làm xong công việc, tôi không đánh thức Lâm dậy, mà một mình lại mở cửa phòng vào trong, kéo chiếc xe để xác người ra ngoài.
Cái lạnh trong phòng làm tôi không chịu nổi, lạnh khủng khiếp, như phản xạ tôi vào kéo chiếc bàn chổ nào gần mình nhất để đưa ra ngoài, bất chợt nhìn sang cạnh một bàn để xác gần đó, tôi thấy cảm giác quen vô cùng, trong vài giây suy ngẫm....thì ra...đó là...chị y tá lúc nãy bảo tôi vào đây lấy bàn để xác...
Tôi không biết thế nào để diễn tả nổi, chân tôi như đuối đi, tôi không còn cảm giác lạnh gì nửa, mà thay vào đó là cảm giác khiếp hoảng, tôi cố gắng chạy thật nhanh ra kéo Lâm ngồi dậy, nhìn mặt nó mơ màng nhưng tôi vẫn cố gắng nói hết những gì mình vừa thấy.
Nói xong nó bảo:
- Mày nói gì vậy? chị ấy ở đằng sau mày kia mà.
- Hả....cái gì?
Tôi vội vã kéo nó chạy xuống phòng trực ban của bệnh viện, lấy một viên an thần uống vào trùm mền ngủ đến sáng, hy vọng lần sau không chứng kiến những gì thấy đêm qua nữa.
Truyện Ma
Cũng như những đứa bạn khác đều là sinh viên y dược, thì chuyện canh nhà xác là chuyện bình thường và là điều mà mọi sinh viên ngành y, dù muốn hay không vẫn phải cố gắng tập sự can đảm chấp nhận. Rồi cũng đến lượt tôi và Lâm phải trực nhà xác, để đón nhận những tử thi mới làm thủ tục "nhập môn".
Thường thì ca trực vào cả ngày lẩn đêm và chia theo ca tám tiếng, thế nhưng hôm ấy tôi và Lâm phải trực ca tối mới ghê chứ. Trước khi đi Thảo bảo Lâm nên mang theo tỏi hay thứ gì đó hộ mệnh cũng được, vì nghe đâu mấy đứa trước làm như thế thì im re mọi chuyện. Lâm cười ha hả bảo Thảo dở hơi, ừ thì sao cũng được với tôi chỉ là thủ tục nhỏ thôi mà, tôi cũng không chú tâm chuyện này lắm.
Rồi buổi tối ấy cũng đến, tôi và Lâm ngồi với mớ bài đem theo bên cạnh tò te đọc vài dòng, sau khi nhận vào ca trực khoảng một tiếng thì có một xác được đưa vào, tôi và Lâm cùng làm thủ tục "nhập môn" cho cái xác này. Đâu vào đấy tôi bảo Lâm đi mua tờ báo gì đó, dưới cổng bệnh viện để đọc vì buồn quá, lúc chuẩn bị đi thì mưa như trút nước, cái lạnh hăng hắc mơn man làm tôi có cảm giác nổi da gà, Lâm thì co ro trên cái ghế trực, cạnh một cái bàn chơ vơ dọc theo lan can của phòng xác.
Mưa như hối hả hơn và cũng tạnh nhanh hơn, mới đó mà đã mười hai giờ khuya nhanh quá, tôi và Lâm nghĩ vậy, ngoài trời chỉ còn lất phất mưa, ánh đèn neon đã cũ mờ ảo sáng đục, gió thì vẫn thoang thoáng bay qua lành lạnh. Tôi bảo Lâm có thể ngủ vài tiếng, tôi có thể ngồi trực cho nó, sau đó sẽ đến lượt tôi ngủ, nó đồng ý và ngồi gục xuống cạnh bàn ngủ thiềp đi.
Tôi ngồi kiểm tra lại mấy bài thuốc vừa được học sáng nay, được khoảng mười lăm phút, thì có chị y tá thấp thoáng với áo blouse trắng đi lại, bảo tôi chuẩn bị mở cửa phòng, để chuyển một xác người vào. Tôi hối hả và mừng thầm, vì ít ra có người để mình bắt chuyện sau khi làm xong công việc, tôi không đánh thức Lâm dậy, mà một mình lại mở cửa phòng vào trong, kéo chiếc xe để xác người ra ngoài.
Cái lạnh trong phòng làm tôi không chịu nổi, lạnh khủng khiếp, như phản xạ tôi vào kéo chiếc bàn chổ nào gần mình nhất để đưa ra ngoài, bất chợt nhìn sang cạnh một bàn để xác gần đó, tôi thấy cảm giác quen vô cùng, trong vài giây suy ngẫm....thì ra...đó là...chị y tá lúc nãy bảo tôi vào đây lấy bàn để xác...
Tôi không biết thế nào để diễn tả nổi, chân tôi như đuối đi, tôi không còn cảm giác lạnh gì nửa, mà thay vào đó là cảm giác khiếp hoảng, tôi cố gắng chạy thật nhanh ra kéo Lâm ngồi dậy, nhìn mặt nó mơ màng nhưng tôi vẫn cố gắng nói hết những gì mình vừa thấy.
Nói xong nó bảo:
- Mày nói gì vậy? chị ấy ở đằng sau mày kia mà.
- Hả....cái gì?
Tôi vội vã kéo nó chạy xuống phòng trực ban của bệnh viện, lấy một viên an thần uống vào trùm mền ngủ đến sáng, hy vọng lần sau không chứng kiến những gì thấy đêm qua nữa.
Truyện Ma
#42
Gửi vào 14/06/2011 - 23:16
CON DAO GIA TRUYỀN
Câu chuyện xảy ra tại một ngôi làng kia có tên là làng Tân Hiệp. Dân làng ở đây sống bằng nghề mổ thịt và được cha truyền con nối từ đời này sang đời khác. Có nhà đến năm sáu đời liền chuyên làm nghề mổ thịt. Làm nghề này họ cần phải có những con dao thật bén và nhọn. Mũi dao nhọn dùng để chọc tiết, mũi dao bén để cắt thịt. Có nhìn những bà những cô hàng thịt, mới biết độ bén của lưỡi dao như thế nào.
Con dao đưa tới đâu thịt của con vật bị cắt đứt ngay đến đó. Chặt xương như chặt bùn. Những người làm nghề mổ thịt thường là dân xóm chợ, trong xóm này có gia đình ông Giang chuyên làm nghề mổ thịt, nay đã năm đời, cha truyền con nối chỉ dùng một con dao. Con dao dùng nhiều nên lưỡi mòn, bản dao thu hẹp lai chỉ còn khoảng, một phần tư của con dao lúc mới làm, nhưng nó vẫn còn bén vô cùng.
Ông Giang nói ông nội của ông, cha ông và ngay chính ông đều dùng con dao này để làm thịt. Nhìn con dao ai cũng biết là bén vô cùng. Ai sơ ý trúng vô nó là đứt tay ngay. Ông Giang nay đã ngoài năm mươi, con trai ông là Lập nay cũng tiếp tục nghề mổ lợn. Mỗi ngày ông hạ thịt ít nhất là hai ba con lợn, để cho vợ ông và chị Lập vợ của anh Lập đi bán. Ngoài ra cô Ðinh là con gái của ông cũng đem thịt lợn ra bán ở những chợ gần nhà.
Ông Giang chọc tiết lợn rất tài, chỉ cần một nhát dao là trúng ngay huyệt, máu chảy ra òng ọc và con lợn cũng mau chết, ít rên la hơn những con lợn bị mấy ông đồ tể khác chọc tiết sai huyệt. Anh Lập được cha truyền cho, chọc tiết lợn cũng rất chính xác. Từ ngày ông Giang năm mươi lăm tuổi, ông giao hẳn công việc này cho vợ chồng anh Lập và cô Ðinh.
Hai người đàn bà con gái này lấy tiết cũng tài tình không thua gì ông Giang và anh Lập. Lần đầu tiên phụ trách công việc lấy tiết, cả chị Lập và cô Ðinh đều thấy rợn tay. Nhưng chỉ sau một lần cả hai chị em đều thấy, lấy tiết con lợn sống còn dễ hơn mổ xẻ con lợn. Điều lạ lùng là cả hai người, khi cầm tới con dao gia truyền kề vào cổ con lợn, đều cảm thấy như có một sức mạnh vô hình nào, điều khiển tay dao của mình giết con lợn rất trúng huyệt.
Chị Lập nói với chồng :
- Lạ lắm anh à không cầm tới con dao chọc tiết thì thôi, cầm tới là em chỉ muốn được "lấy tiết".
Cô Ðinh cũng nói:
- Em cũng vậy chị ạ cầm tới con dao ấy, được chọc tiết một vài con lợn là điều thích thú. Không có lợn giá có người cho em "lấy tiết" em cũng lấy, em tưởng tượng con người lúc ấy, cũng chỉ là một con lợn cho em mổ thịt, con dao như có thần.
Anh Lập nói :
- Con dao này từ đời các cụ truyền lại tới nay, đã có hàng vạn con lợn bị nó lấy tiết rồi.
- Chắc là có thần.
Chị Lập nói : thần dao chắc ưa máu lợn lắm.
Anh Lập hơi suy nghĩ, anh nhớ lại câu chuyện Nam Du Huê Quang. Thần Huê Quang có nhiệm vụ trừ yêu quái lúc đó xuất hiện nhiều ở phương Nam, trong số những yêu quái có một con yêu do thanh long đao của Ngài Quan Vân Trường biến thành. Thanh Ðao vì đã chém nhiều đầu giặc, thấm máu người biến thành yêu và chỉ thích ăn thịt người. Còn con dao chọc tiết lợn nhà anh, đã trải qua mấy đời cha truyền con nối, với hàng vạn con lợn bị nó chọc tiết mổ thịt, máu lợn phải thấm vào nó, nó cũng có thể thành yêu được. Nhưng nó chỉ dùng để giết lợn nên nó chỉ thèm máu lợn. Anh Lập nghĩ vậy nhưng không dám nói ra, sợ vợ và em gái anh không dám dùng con dao, và cũng không dám lấy tiết thay anh nữa.
Ngày tháng qua đi ông Giang qua đời. Anh Lập thay thế cha trong gia đình và nghề nghiệp. Gia đình anh tiếp tục mỗi ngày hạ vài ba con lợn để cho bà Giang, chị Lập và cô Ðinh đem đi bán. Trong ba người ai cũng có dao riêng, duy có cô Ðinh là không có dao nên cô dùng luôn con dao chọc tiết để cắt thịt.
Với con dao này thịt của cô xẻ bán không bao giờ bị ế, có lẽ thần dao phù hộ cho cô. Con dao thật bén cô Ðinh chặt xương cứ bay bay, giới bán thịt ai cũng khen cô là chọc tiết lợn hay và pha xẻ lợn tài. Cô Ðinhh có một ý trung nhân, anh Trần cũng làm nghề đồ tể. Anh thường tỏ ý phục tài người yêu trong nghề lấy tiết. Anh thường khen :
- Em là con gái mà lấy tiết lợn còn giỏi hơn anh.
Cô Ðinh cười nói :
- Nghề cha nghiệp mẹ mà anh, không giỏi làm sao kiếm ăn.
- Khi lấy tiết em có ghê tay không ?
- Nhân sát vật, trời sinh ra con lợn để cho mình chọc tiết mổ thịt sao lại ghê tay. Vả lại nó cũng quen đi. Bây giờ giá có phải lấy tiết người vì nghề nghiệp em cũng phải làm.
- Em nói nghe phát sợ.
Trần cười Ðinh cũng cười theo. Dân làng vẫn sống bình thường ai làm nghề nấy. Rồi một hôm bỗng xảy ra những chuyện lạ khiến cả làng xôn xao. Ðêm đó tại nhà một người trong làng, nhà này có nuôi lợn nửa đêm bỗng nghe có tiếng lợn kêu như bị chọc tiết. Mọi người trong nhà chạy ra chuồng lợn xem có chuyện gì, thì thấy con lợn tuy vẫn còn nằm trong chuồng nhưng đã bị chọc tiết. Máu còn đang phun ra kẻ gian giết con lợn đã chạy mất.
Mọi người bàn tán xôn xao và thắc mắc, tại sao kẻ gian chỉ giết con lợn mà lại không đem nó đi. Chuyện xảy ra ở một nhà, rồi những đêm sau chuyện này lại tái diễn ở những gia đình khác có nuôi lợn. Những ai trong làng có nuôi lợn đều để ý đề phòng. Một đêm tại xóm kia cạnh bờ sông, một nhà nuôi lợn nghe tiếng lợn chạy trong chuồng. Lập tức người trong nhà cùng với ba bốn người đàn ông lực lưỡng tay dao tay rựa, chạy uà ra phía chuồng lợn. Con lợn vừa bị chọc tiết xong, đang dãy dụa với những tia máu đang phun ra. Một người ở lại lấy thau hứng tiết và đám người còn lại đốt đuốc đi lùng tên giết lợn. Bỗng một bóng đen thoáng từ phía chuồng lợn, chạy ra phía hàng rào và hướng về phía bờ sông.
Mọi người đuổi theo tới bờ sông không thấy bóng đen đâu nữa. Mang đèn đuốc người ta soi quanh sục sạo từng bụi rậm đến gốc cây gần bờ sông. Bóng đen không biết biến đâu mất, người ta chỉ thấy một con dao chọc tiết lợn nằm ngang trên bờ đê, mũi dao còn dính đầy máu. Nhặt con dao lên một người nói lớn :
- Dao chọc tiết còn đây kẻ gian chắc chỉ quanh quẩn đâu đây không xa.
Họ tiếp tục vác đuốc soi tìm, có người cho là kẻ gian bị đuổi gấp quá nên phải vứt dao lặn xuống sông. Cho nên là họ cho người thay phiên nhau đứng cạnh bên cạnh bờ sông, nhưng suốt đêm tới sáng họ cũng chẳng thấy ai dưới sông nhô đầu lên. Mọi người ra về mang theo con dao chọc tiết đã nhặt được, cùng hội họp ở nhà gia chủ, đợi trời sáng hẳn mới đem trình lý trưởng.
Sau khi nhìn kỹ con dao, một người trong xóm vốn cũng làm nghề mổ lợn nói :
- Con dao này chuôi sắt lưỡi toàn thép, nhất định phải là con dao của nhà ông Giang. Con dao này sắc lắm, mấy đời cha ông, ông Giang cho tới ông, vẫn chỉ có một con dao này. Vợ chồng anh Lập và cô Ðinh cũng dùng nó để lấy tiết.
Ai nấy đều cho là đúng nhưng lại có ý kiến :
- Chẳng lẽ kẻ gian lại là anh Lập ? Anh ta ngày nào chẳng làm thịt hai ba con lợn, hơi đâu đi giết lợn của người khác.
Ngay sáng hôm đó với sự làm chứng của mấy người hàng xóm, gia chủ tới trình lý trưởng về mọi sự việc xảy ra đêm trước và mang theo con dao tang vật. Họ tới nơi quá sớm, lý trưởng chưa thức dậy nên họ phải ngồi chờ nơi sân. Lý trưởng thấy có người tới trình mới dậy. Gia chủ thuật lại cho lý trưởng nghe mọi sự, việc đã xảy ra. Lý trưởng hỏi tới con dao nhưng lạ lùng thay, con dao đã biến đâu mất.
Mấy người họ nhìn nhau người nọ ngờ người kia dấu, nhưng ai dấu đi đâu và dấu lúc nào. Dù mất con dao nhưng vẫn có người làm chứng. Lý trưởng ra lệnh cho Trương Tuần dẫn tuần đinh tới khám xét nhà anh Lập. Bọn họ kéo nhau tới nhà anh Lập. Khi tới nơi họ thấy vợ chồng anh vừa mới mổ thịt xong ba con lợn, mọi người đều ngạc nhiên. Vậy ra bóng đen chạy trốn lúc đêm qua không phải là anh Lập, và cũng không phải vợ anh hoặc cô Ðinh.
Cả ba người này đều hầu như không biết gì đến những việc đã xảy ra đêm trước. Vậy kẻ gian là ai ? Anh Lập lấy làm lạ, thấy Trương Tuần dẫn tuần đinh tới nhà mình, khi được Trương Tuần cho biết lý do anh Lập mới cười bảo :
- Mỗi ngày nhà tôi làm thịt ba con lợn. Cả xóm đều biết, tôi còn đi giết lợn của nhà người khác làm gì. Con dao chọc tiết lợn của tôi nó vẫn còn đây, và sáng nay tôi vẫn dùng nó để lấy tiết ba con lợn.
Vừa nói anh vừa chỉ vào ba con lợn đã bị chọc tiết và mổ bụng. Anh lại chìa con dao ra và nói tiếp :
- Nếu các bác nhặt được nó ở bờ sông, thì sáng nay lấy dao đâu tôi làm lợn.
Trước sự kiện đó, Trương Tuần, gia chủ và cả người làm chứng đều không thể buộc tội anh Lập được. Hơn nữa bóng đen họ đuổi theo tới bờ sông thì biến mất, tất nhiên không phải anh Lập, vì cả gia chủ và những người làm chứng đều cho rằng kẻ gian giết lợn, đã nhảy xuống sông không thấy nổi lên, chắc hắn đã bị chết đuối.
Trương Tuần và mọi người kéo nhau ra về. Cô Ðinh bảo anh chị :
- Ngộ thật nhà mình từ ông cố, ông sơ tới nay làm nghề mổ lợn giết lợn để bán mỗi ngày cũng đã mệt, hơi đâu còn đến chuồng lợn nhà người ta lấy tiết nữa.
Chị Lập đồng ý với em chồng, còn anh Lập không nói gì hết tiếp tục làm nốt chỗ thịt lợn để còn đem đi bán. Vừa làm anh vừa trầm ngâm suy nghĩ, sự việc hồi sớm này đã xảy ra tại nhà anh trước khi Trương Tuần đến.
Nguyên sáng sớm hôm ấy cũng như mọi ngày, vợ chồng anh và cô Ðinh dậy từ lúc gà gáy để làm lợn. Khi vợ anh tìm tới con dao chọc tiết, xưa nay vẫn cài trên vách trong nhà bếp chị ta không thấy nó. Chị hỏi chồng có cất đâu không, anh Lập trả lời anh cất dao làm gì. Chị lại hỏi cô Ðinh chiều hôm trước khi đi làm về đã cài dao vào chỗ cũ chưa ? cô Ðinh cho biết là cô đã cài cẩn thận vào đó, sau khi lau rửa như thường ngày.
Ba người đều tìm nhưng họ tìm hoài cũng không thấy. Trời sáng dần anh Lập định lấy con dao bán thịt của vợ để chọc tiết ba con lợn, bỗng anh nhìn lại trên chỗ cái nẹp cài dao, thì con dao vẫn cài nguyên ở đó. Anh mắng vợ và em đã quáng mắt. Con dao vẫn nằm nguyên đó mà tìm không ra, tuy chính anh cũng đã không tìm thấy. Lúc đó trời đã sáng rõ, anh phải vội vàng cùng vợ và em, vừa dùng con dao gia truyền,
vừa dùng hai con dao khác, và ba người cùng lấy tiết, mỗi người một con dao, để làm cho kịp có hàng bán. Đúng lúc ba người làm xong ba con lợn, thì Trương Tuần dẫn mọi người tới. Anh Lập tự nghĩ có lẽ vì trời chưa sáng rõ, nên cả ba người không trông thấy con dao, nhưng anh vẫn cho đây là một sự lạ, trước giờ chưa từng xảy ra. Phải chăng con dao đã thành tinh, đi giết lợn của người, rồi bị săn đuổi phải biến nguyên hình ở bờ sông ? Và khi ở sân nhà Lý Trưởng thừa lúc mọi người không để ý, nó biến mất và trở về nằm nguyên trong nhà bếp.
Anh nghĩ vậy nhưng không nói cho vợ và em nghe. Ngày hôm đó qua đi....và từ đó trong làng cứ cách vài ba đêm, lại có nhà bị kẻ gian vào chọc tiết lợn ở trong chuồng. Cả làng Tân Hiệp bàn tán sôi nổi, Lý Trưởng ra lệnh cho Trương Tuần, phải tăng cường canh giờ cẩn mật để cố bắt kẻ gian. Một buổi chiều anh Lập cầm con dao nhìn mũi dao nhọn hoắc lại rất sắc, anh lẩm bẩm :
- Dao, có phải mày giết lợn không ? Nếu là mày thì mày làm phiền cho nhà tao lắm...
Một hôm vào buổi chiều trong lúc ba người đàn bà đi bán thịt chưa về, anh sửa soạn đồ đạc chuẩn bị đi bắt mấy con lợn, đã đặt mua tại một nhà trong làng, để sáng hôm sau làm thịt bỗng có khách. Khách là một đạo sĩ lạ, đưa khách vào nhà, sau khi mời trầu nước, anh chưa kịp hỏi khách đến có việc gì, thì khách đã nói trước :
- Bần đạo tu ở núi Bách Kha, nhân đi qua đây thấy khu xóm này có yêu khí bao trùm. Ði sâu vào trong xóm bần đạo thấy yêu khí dầy đặc ở phía này, và nhiều hơn cả là nhà thí chủ. Có yêu khí tất có yêu quái ẩn náu. Bần đạo muốn vì dân làng, nhất là vì thiếu chủ trừ con yêu này để nó không quấy rối và báo hại mọi người. Vậy xin phép thí chủ cho bần đạo đi khắp mọi nơi trong nhà, coi yêu quái ẩn nấp ở đâu, bần đạo sẽ dùng bùa trừ khử.
Lời đạo sĩ khiến anh Lập giật mình. Anh nghĩ ngay tới con dao chọc tiết gia truyền. Anh nói :
- Xin cám ơn thầy, thầy đã có lòng muốn trừ yêu quái cứu dân, thật là may mắn cho làng chúng tôi lắm. Xin mời thầy dùng trà nghỉ ngơi một lát, rồi tôi sẽ dẫn thầy đi khắp nhà.
Khi hai người đang ngồi nói chuyện thì cô Ðinh đã về, và như thường lệ cô gài con dao chọc tiết vào cái nẹp trong nhà bếp. Anh Lập mời đạo sĩ đi thăm khắp nhà, và bỗng ông dừng lại chỗ con dao, khịt khịt mũi mấy cái như đánh được mùi gì khác lạ.
Ông đưa mắt nhìn quanh rồi nói :
- Yêu quái ẩn nấp nơi đây.
Anh Lập nói :
- Ðây là nơi thường ngày nhà tôi mổ lợn, nên thầy ngửi thấy mùi máu lợn khô hơi tanh đó. Ðạo sĩ không nói gì đi thẳng tới cái nẹp nơi cài mấy con dao bán thịt. Ông rút ngay con dao gia truyền của nhà anh ra nhìn ngắm rất kỹ và ông hỏi :
- Con dao này vẫn dùng để chọc tiết lợn ?
Anh Lập gật đầu ông không nói gì thêm, cùng anh Lập trở lại nhà nơi tiếp khách. Tới đây ông bảo anh Lập :
- Con dao chọc tiết của thí chủ đã thành tinh, không nên dùng nữa.
- Con dao này được truyền từ ông tổ chúng tôi tới nay đã được sáu đời, chúng tôi không thấy gì khác.
- Bề ngoài không thấy gì khác nhưng nó đã là yêu tinh, thí chủ nên bỏ đi. Nếu thí chủ bằng lòng bần đạo sẽ yểm bùa nó, rồi thí chủ đem vứt nó xuống sông hoặc chôn sâu dưới dất, ngăn không cho nó giở phép yêu ra được.
- Con dao này là của gia truyền từ cụ tổ, chúng tôi không dám vứt nó đi e có tội với tổ tiên.
Ðạo sĩ có vẻ suy nghĩ một chút rồi nói :
- Nếu thí chủ không muốn vứt đi, thì để bần đạo yểm bùa rồi thí chủ cất nó vào một chiếc hộp, hoặc chiếc vỏ dao đừng dùng đến nó nữa.
Anh Lập có vẻ ngần ngại. Biết ý anh đạo sĩ nói :
- Bần đạo biết thí chủ không muốn cất bỏ nó sợ phật ý vong hồn các vị tiền nhân. Thôi cũng được vì giờ đây, nếu con dao yêu tinh có hoành hành, thì nó cũng chỉ giết hại lợn của người ta thôi, thí chủ phải để ý đừng để máu người giây vào nó. Biết mùi máu người nó sẻ giết người.
Anh Lập hứa vâng theo lời đạo sĩ. Trước khi giã từ đạo sĩ trao cho anh một lá bùa và dặn rằng :
- Khi nào lỡ có máu người giây vào con dao, hoặc thấy con dao trở nên nguy hiểm hại tới mạng người, thì thí chủ dùng ngay lá bùa này quấn vào chuôi dao, lấy chỉ ngũ sắc buộc lại cất vào một nơi, yêu tinh sẽ không làm hại được ai nữa.
Anh Lập nhận lá bùa và tiễn đạo sĩ ra cổng. Anh cất lá bùa vào ống hương trên bàn thờ, rồi anh cũng không để ý gì đến những lời của đạo sĩ đã căn dặn. Thời gian trôi qua thỉnh thoảng trong làng, vẫn có những con lợn đêm hôm bị kẻ gian tới chọc tiết. Dần dà người ta quen đi, nhà nào có lợn bị giết ngày hôm sau đem bán thịt, cũng chẳng thiệt hại bao nhiêu.
Anh Lập vẫn dùng con dao gia truyền để làm lợn, và cô Ðinh ngày ngày vẫn mang theo dao đi chợ để cắt thịt, chặt xương bán cho khách hàng. Trong một buổi chợ có một bà khách mua một mớ xương, mua xong bà mượn dao của cô Ðinh để chặt nhỏ những miếng xương lớn. Chiều khách cô cho mượn dao, nhưng không ngờ bà khách loay hoay thế nào để lưỡi dao làm đứt tay chảy máu, máu ra khá nhiều loang khắp lưỡi dao. Người ta phải lấy vải buộc ngón tay cho bà. Việc này xảy ra cô Ðinh cũng quên đi và cũng chẳng ai chú ý tới, dùng dao sắc đứt tay là chuyện thường.
Vài đêm sau ở xã Ngư Ðại có chuyện lạ. Có người đang ngủ tại nhà, bỗng nhiên bị chọc tiết như lợn và chết ngay trên giường. Mạng người là quan trọng, Lý Trưởng phải bẩm quan, quan đã phái lục sự tới khám nghiệm điều tra. Cả làng xôn xao về vụ án mạng này. Anh Lập sực nhớ tới lời đạo sĩ căn dặn, nhưng anh còn hồ nghi không biết có phải chính con dao là thủ phạm vụ chọc tiết người chăng ?
Một vụ án mạng thứ hai lại xảy ra, khi vụ thứ nhất còn đang trong vòng điều tra. Nạn nhân thứ hai này cũng bị chọc tiết như nạn nhân thứ nhất. Mũi dao đâm chính xác khiến kẻ bị giết không kịp kêu. Lý Trưởng, Trương Tuần lại bận rộn, Quan trên lần này phái Chánh Tổng Bất Phí về tận nơi để điều tra. Anh Lập nghĩ tới lời đạo sĩ nói, con dao chỉ có thể giết người khi lưỡi dao bị dính máu người. Máu ai đã dính vào lưỡi dao ? Vợ chồng anh cũng như cô em gái có ai dám giết người, mà bảo lưỡi dao đã nhuốm máu người.
Anh Lập hỏi cô Ðinh anh ngỡ cô em đã gây lộn với ai rồi dùng dao đâm người ta chăng ? Nếu điều này xảy ra việc phải ầm làng lên chứ đâu thể nào. Hay là kẻ bị đâm chỉ bị thương nhẹ, rồi do sự dàn hòa mà mọi sự ổn thỏa. Thôi chắc là con dao đã bị dính máu người. Anh phải dùng ngay lá bùa của đạo sĩ để yểm con dao, nếu không yêu tinh còn sát hại nhiều người nữa.
Vẻ lo lắng của anh Lập làm cô em ngạc nhiên. Vừa ngay lúc ấy vị hôn phu của cô tới thăm cô. Bằng một giọng thương mến, cô trách anh sao lâu quá mới tới thăm cô. Anh ta trả lời mắc bận, cô Ðinh vừa cười vừa nói đùa :
- Anh mà lạng chạng với cô nào đừng trách em sẽ cho con dao này lấy tiết anh.
Cô Ðinh thuận tay lấy con dao ở rổ ra chĩa vào người yêu để dọa đùa. Nào ngờ một sức mạnh vô hình đã đẩy tay cô đưa thẳng mũi dao vào cổ anh Trần. Thấy tay cô Ðinh dưa thẳng mũi dao về phía cổ họng mình, anh Trần ngửa người để tránh. Và lúc ấy cô Ðinh cũng cố ghìm tay mình lại, giữ không cho con dao có thể đâm tới người yêu. Một bên cố tránh một bên cố ghìm dao lại, vậy mà mũi dao vẫn cứ đâm tới anh Trần. May là chỉ sượt qua vai làm rách áo và máu chảy chan hòa.
Cô Ðinh vứt vội con dao xuống đỡ lấy anh Trần, lấy thuốc lào rịn vào vết thương cho anh để cầm máu. Anh Lập đã chứng kiến sự việc từ đầu tới cuới, anh mắng cô Ðinh sao lại có lối đùa chết người như thế. Cô Ðinh mếu máo khóc nói, cô chỉ đưa con dao ra để đùa với anh Trần. Không hiểu sao con dao như cứ tự động tiến tới muốn đâm vào cổ họng anh Trần. Cô phải hết sức cố gắng ghìm lại, nên mũi dao chỉ đâm sướt qua vai người yêu mà thôi.
Nghe cô em nói nghĩ tới mọi vu án mạng đã xẩy ra, anh Lập đi tìm lá bùa mà trước đây đạo sĩ đã tặng, anh cất nơi ống hương. Nhưng khi lấy được ra anh kêu cô em đưa cho mình con dao, thì con dao đã biến đâu mất. Rõ ràng cô Ðinh vừa vứt con dao xuống đất, cả anh Lập và anh Trần đều trong thấy, giờ đây nó biến đi dâu nhanh vậy. Anh Lập nhớ lại chuyện bọn Trương Tuần kể cho anh nghe, con dao để ở sân nhà Lý Trưởng, cũng đã tự nhiên biến mất.
Không tìm thấy con dao anh lại cất bùa đi. Con dao biến mất hẳn không tìm thấy nữa, cô Ðinh đi chợ bán thịt phải mua dao khác, và gia đình anh Lập cũng phải dùng con dao khác, để lấy tiết mỗi buổi sáng khi giết lợn đi bán. Nếu con dao chỉ biến mất câu chuyện đã được kết thúc nơi đây. Nhưng nó biến đi để đêm nào trong làng Doi hoặc các làng lân cận, cũng có những vụ kẻ gian tới chọc tiết lợn trong chuồng, và cứ dăm ba ngày lại xảy ra một vụ chọc tiết người, không sao tìm ra được thủ phạm.
Các nhà chức trách làng xã, hàng tổng, hàng huyện đều xôn xao vì quá nhiều vụ án mạng. Mọi vụ giết người, giết lợn này chỉ chấm dứt vào một buổi trưa, trời đang nắng bỗng nổi cơn dông mưa đổ xuống, rồi một tiếng sét lớn đánh gãy đôi một cây đề cổ thụ, được trồng trên con đường giữa làng Doi và làng Gội. Những người đi đến xem sét đánh nói rằng, cây đề gãy gục xuống và có máu chảy ra, người ta lại nhặt được ngay dưới gốc cây một con dao chuôi rất sắc.
Anh Lập từ khi con dao biến mất và luôn luôn có những án mạng xảy ra, anh rất hối hận vì đã không nghe lời đạo sĩ yểm bùa và cất con dao đi. Nay được tin sét đánh cây đề, và dưới gốc cây có con dao anh mới yên tâm, không lo lắng những vụ án mạng khác xảy ra nữa. Người ta nói rằng sau này anh Lập cố tìm chuộc lại con dao, yểm bùa cất vào rương để làm kỷ niệm gia truyền.
Truyện Ma
Câu chuyện xảy ra tại một ngôi làng kia có tên là làng Tân Hiệp. Dân làng ở đây sống bằng nghề mổ thịt và được cha truyền con nối từ đời này sang đời khác. Có nhà đến năm sáu đời liền chuyên làm nghề mổ thịt. Làm nghề này họ cần phải có những con dao thật bén và nhọn. Mũi dao nhọn dùng để chọc tiết, mũi dao bén để cắt thịt. Có nhìn những bà những cô hàng thịt, mới biết độ bén của lưỡi dao như thế nào.
Con dao đưa tới đâu thịt của con vật bị cắt đứt ngay đến đó. Chặt xương như chặt bùn. Những người làm nghề mổ thịt thường là dân xóm chợ, trong xóm này có gia đình ông Giang chuyên làm nghề mổ thịt, nay đã năm đời, cha truyền con nối chỉ dùng một con dao. Con dao dùng nhiều nên lưỡi mòn, bản dao thu hẹp lai chỉ còn khoảng, một phần tư của con dao lúc mới làm, nhưng nó vẫn còn bén vô cùng.
Ông Giang nói ông nội của ông, cha ông và ngay chính ông đều dùng con dao này để làm thịt. Nhìn con dao ai cũng biết là bén vô cùng. Ai sơ ý trúng vô nó là đứt tay ngay. Ông Giang nay đã ngoài năm mươi, con trai ông là Lập nay cũng tiếp tục nghề mổ lợn. Mỗi ngày ông hạ thịt ít nhất là hai ba con lợn, để cho vợ ông và chị Lập vợ của anh Lập đi bán. Ngoài ra cô Ðinh là con gái của ông cũng đem thịt lợn ra bán ở những chợ gần nhà.
Ông Giang chọc tiết lợn rất tài, chỉ cần một nhát dao là trúng ngay huyệt, máu chảy ra òng ọc và con lợn cũng mau chết, ít rên la hơn những con lợn bị mấy ông đồ tể khác chọc tiết sai huyệt. Anh Lập được cha truyền cho, chọc tiết lợn cũng rất chính xác. Từ ngày ông Giang năm mươi lăm tuổi, ông giao hẳn công việc này cho vợ chồng anh Lập và cô Ðinh.
Hai người đàn bà con gái này lấy tiết cũng tài tình không thua gì ông Giang và anh Lập. Lần đầu tiên phụ trách công việc lấy tiết, cả chị Lập và cô Ðinh đều thấy rợn tay. Nhưng chỉ sau một lần cả hai chị em đều thấy, lấy tiết con lợn sống còn dễ hơn mổ xẻ con lợn. Điều lạ lùng là cả hai người, khi cầm tới con dao gia truyền kề vào cổ con lợn, đều cảm thấy như có một sức mạnh vô hình nào, điều khiển tay dao của mình giết con lợn rất trúng huyệt.
Chị Lập nói với chồng :
- Lạ lắm anh à không cầm tới con dao chọc tiết thì thôi, cầm tới là em chỉ muốn được "lấy tiết".
Cô Ðinh cũng nói:
- Em cũng vậy chị ạ cầm tới con dao ấy, được chọc tiết một vài con lợn là điều thích thú. Không có lợn giá có người cho em "lấy tiết" em cũng lấy, em tưởng tượng con người lúc ấy, cũng chỉ là một con lợn cho em mổ thịt, con dao như có thần.
Anh Lập nói :
- Con dao này từ đời các cụ truyền lại tới nay, đã có hàng vạn con lợn bị nó lấy tiết rồi.
- Chắc là có thần.
Chị Lập nói : thần dao chắc ưa máu lợn lắm.
Anh Lập hơi suy nghĩ, anh nhớ lại câu chuyện Nam Du Huê Quang. Thần Huê Quang có nhiệm vụ trừ yêu quái lúc đó xuất hiện nhiều ở phương Nam, trong số những yêu quái có một con yêu do thanh long đao của Ngài Quan Vân Trường biến thành. Thanh Ðao vì đã chém nhiều đầu giặc, thấm máu người biến thành yêu và chỉ thích ăn thịt người. Còn con dao chọc tiết lợn nhà anh, đã trải qua mấy đời cha truyền con nối, với hàng vạn con lợn bị nó chọc tiết mổ thịt, máu lợn phải thấm vào nó, nó cũng có thể thành yêu được. Nhưng nó chỉ dùng để giết lợn nên nó chỉ thèm máu lợn. Anh Lập nghĩ vậy nhưng không dám nói ra, sợ vợ và em gái anh không dám dùng con dao, và cũng không dám lấy tiết thay anh nữa.
Ngày tháng qua đi ông Giang qua đời. Anh Lập thay thế cha trong gia đình và nghề nghiệp. Gia đình anh tiếp tục mỗi ngày hạ vài ba con lợn để cho bà Giang, chị Lập và cô Ðinh đem đi bán. Trong ba người ai cũng có dao riêng, duy có cô Ðinh là không có dao nên cô dùng luôn con dao chọc tiết để cắt thịt.
Với con dao này thịt của cô xẻ bán không bao giờ bị ế, có lẽ thần dao phù hộ cho cô. Con dao thật bén cô Ðinh chặt xương cứ bay bay, giới bán thịt ai cũng khen cô là chọc tiết lợn hay và pha xẻ lợn tài. Cô Ðinhh có một ý trung nhân, anh Trần cũng làm nghề đồ tể. Anh thường tỏ ý phục tài người yêu trong nghề lấy tiết. Anh thường khen :
- Em là con gái mà lấy tiết lợn còn giỏi hơn anh.
Cô Ðinh cười nói :
- Nghề cha nghiệp mẹ mà anh, không giỏi làm sao kiếm ăn.
- Khi lấy tiết em có ghê tay không ?
- Nhân sát vật, trời sinh ra con lợn để cho mình chọc tiết mổ thịt sao lại ghê tay. Vả lại nó cũng quen đi. Bây giờ giá có phải lấy tiết người vì nghề nghiệp em cũng phải làm.
- Em nói nghe phát sợ.
Trần cười Ðinh cũng cười theo. Dân làng vẫn sống bình thường ai làm nghề nấy. Rồi một hôm bỗng xảy ra những chuyện lạ khiến cả làng xôn xao. Ðêm đó tại nhà một người trong làng, nhà này có nuôi lợn nửa đêm bỗng nghe có tiếng lợn kêu như bị chọc tiết. Mọi người trong nhà chạy ra chuồng lợn xem có chuyện gì, thì thấy con lợn tuy vẫn còn nằm trong chuồng nhưng đã bị chọc tiết. Máu còn đang phun ra kẻ gian giết con lợn đã chạy mất.
Mọi người bàn tán xôn xao và thắc mắc, tại sao kẻ gian chỉ giết con lợn mà lại không đem nó đi. Chuyện xảy ra ở một nhà, rồi những đêm sau chuyện này lại tái diễn ở những gia đình khác có nuôi lợn. Những ai trong làng có nuôi lợn đều để ý đề phòng. Một đêm tại xóm kia cạnh bờ sông, một nhà nuôi lợn nghe tiếng lợn chạy trong chuồng. Lập tức người trong nhà cùng với ba bốn người đàn ông lực lưỡng tay dao tay rựa, chạy uà ra phía chuồng lợn. Con lợn vừa bị chọc tiết xong, đang dãy dụa với những tia máu đang phun ra. Một người ở lại lấy thau hứng tiết và đám người còn lại đốt đuốc đi lùng tên giết lợn. Bỗng một bóng đen thoáng từ phía chuồng lợn, chạy ra phía hàng rào và hướng về phía bờ sông.
Mọi người đuổi theo tới bờ sông không thấy bóng đen đâu nữa. Mang đèn đuốc người ta soi quanh sục sạo từng bụi rậm đến gốc cây gần bờ sông. Bóng đen không biết biến đâu mất, người ta chỉ thấy một con dao chọc tiết lợn nằm ngang trên bờ đê, mũi dao còn dính đầy máu. Nhặt con dao lên một người nói lớn :
- Dao chọc tiết còn đây kẻ gian chắc chỉ quanh quẩn đâu đây không xa.
Họ tiếp tục vác đuốc soi tìm, có người cho là kẻ gian bị đuổi gấp quá nên phải vứt dao lặn xuống sông. Cho nên là họ cho người thay phiên nhau đứng cạnh bên cạnh bờ sông, nhưng suốt đêm tới sáng họ cũng chẳng thấy ai dưới sông nhô đầu lên. Mọi người ra về mang theo con dao chọc tiết đã nhặt được, cùng hội họp ở nhà gia chủ, đợi trời sáng hẳn mới đem trình lý trưởng.
Sau khi nhìn kỹ con dao, một người trong xóm vốn cũng làm nghề mổ lợn nói :
- Con dao này chuôi sắt lưỡi toàn thép, nhất định phải là con dao của nhà ông Giang. Con dao này sắc lắm, mấy đời cha ông, ông Giang cho tới ông, vẫn chỉ có một con dao này. Vợ chồng anh Lập và cô Ðinh cũng dùng nó để lấy tiết.
Ai nấy đều cho là đúng nhưng lại có ý kiến :
- Chẳng lẽ kẻ gian lại là anh Lập ? Anh ta ngày nào chẳng làm thịt hai ba con lợn, hơi đâu đi giết lợn của người khác.
Ngay sáng hôm đó với sự làm chứng của mấy người hàng xóm, gia chủ tới trình lý trưởng về mọi sự việc xảy ra đêm trước và mang theo con dao tang vật. Họ tới nơi quá sớm, lý trưởng chưa thức dậy nên họ phải ngồi chờ nơi sân. Lý trưởng thấy có người tới trình mới dậy. Gia chủ thuật lại cho lý trưởng nghe mọi sự, việc đã xảy ra. Lý trưởng hỏi tới con dao nhưng lạ lùng thay, con dao đã biến đâu mất.
Mấy người họ nhìn nhau người nọ ngờ người kia dấu, nhưng ai dấu đi đâu và dấu lúc nào. Dù mất con dao nhưng vẫn có người làm chứng. Lý trưởng ra lệnh cho Trương Tuần dẫn tuần đinh tới khám xét nhà anh Lập. Bọn họ kéo nhau tới nhà anh Lập. Khi tới nơi họ thấy vợ chồng anh vừa mới mổ thịt xong ba con lợn, mọi người đều ngạc nhiên. Vậy ra bóng đen chạy trốn lúc đêm qua không phải là anh Lập, và cũng không phải vợ anh hoặc cô Ðinh.
Cả ba người này đều hầu như không biết gì đến những việc đã xảy ra đêm trước. Vậy kẻ gian là ai ? Anh Lập lấy làm lạ, thấy Trương Tuần dẫn tuần đinh tới nhà mình, khi được Trương Tuần cho biết lý do anh Lập mới cười bảo :
- Mỗi ngày nhà tôi làm thịt ba con lợn. Cả xóm đều biết, tôi còn đi giết lợn của nhà người khác làm gì. Con dao chọc tiết lợn của tôi nó vẫn còn đây, và sáng nay tôi vẫn dùng nó để lấy tiết ba con lợn.
Vừa nói anh vừa chỉ vào ba con lợn đã bị chọc tiết và mổ bụng. Anh lại chìa con dao ra và nói tiếp :
- Nếu các bác nhặt được nó ở bờ sông, thì sáng nay lấy dao đâu tôi làm lợn.
Trước sự kiện đó, Trương Tuần, gia chủ và cả người làm chứng đều không thể buộc tội anh Lập được. Hơn nữa bóng đen họ đuổi theo tới bờ sông thì biến mất, tất nhiên không phải anh Lập, vì cả gia chủ và những người làm chứng đều cho rằng kẻ gian giết lợn, đã nhảy xuống sông không thấy nổi lên, chắc hắn đã bị chết đuối.
Trương Tuần và mọi người kéo nhau ra về. Cô Ðinh bảo anh chị :
- Ngộ thật nhà mình từ ông cố, ông sơ tới nay làm nghề mổ lợn giết lợn để bán mỗi ngày cũng đã mệt, hơi đâu còn đến chuồng lợn nhà người ta lấy tiết nữa.
Chị Lập đồng ý với em chồng, còn anh Lập không nói gì hết tiếp tục làm nốt chỗ thịt lợn để còn đem đi bán. Vừa làm anh vừa trầm ngâm suy nghĩ, sự việc hồi sớm này đã xảy ra tại nhà anh trước khi Trương Tuần đến.
Nguyên sáng sớm hôm ấy cũng như mọi ngày, vợ chồng anh và cô Ðinh dậy từ lúc gà gáy để làm lợn. Khi vợ anh tìm tới con dao chọc tiết, xưa nay vẫn cài trên vách trong nhà bếp chị ta không thấy nó. Chị hỏi chồng có cất đâu không, anh Lập trả lời anh cất dao làm gì. Chị lại hỏi cô Ðinh chiều hôm trước khi đi làm về đã cài dao vào chỗ cũ chưa ? cô Ðinh cho biết là cô đã cài cẩn thận vào đó, sau khi lau rửa như thường ngày.
Ba người đều tìm nhưng họ tìm hoài cũng không thấy. Trời sáng dần anh Lập định lấy con dao bán thịt của vợ để chọc tiết ba con lợn, bỗng anh nhìn lại trên chỗ cái nẹp cài dao, thì con dao vẫn cài nguyên ở đó. Anh mắng vợ và em đã quáng mắt. Con dao vẫn nằm nguyên đó mà tìm không ra, tuy chính anh cũng đã không tìm thấy. Lúc đó trời đã sáng rõ, anh phải vội vàng cùng vợ và em, vừa dùng con dao gia truyền,
vừa dùng hai con dao khác, và ba người cùng lấy tiết, mỗi người một con dao, để làm cho kịp có hàng bán. Đúng lúc ba người làm xong ba con lợn, thì Trương Tuần dẫn mọi người tới. Anh Lập tự nghĩ có lẽ vì trời chưa sáng rõ, nên cả ba người không trông thấy con dao, nhưng anh vẫn cho đây là một sự lạ, trước giờ chưa từng xảy ra. Phải chăng con dao đã thành tinh, đi giết lợn của người, rồi bị săn đuổi phải biến nguyên hình ở bờ sông ? Và khi ở sân nhà Lý Trưởng thừa lúc mọi người không để ý, nó biến mất và trở về nằm nguyên trong nhà bếp.
Anh nghĩ vậy nhưng không nói cho vợ và em nghe. Ngày hôm đó qua đi....và từ đó trong làng cứ cách vài ba đêm, lại có nhà bị kẻ gian vào chọc tiết lợn ở trong chuồng. Cả làng Tân Hiệp bàn tán sôi nổi, Lý Trưởng ra lệnh cho Trương Tuần, phải tăng cường canh giờ cẩn mật để cố bắt kẻ gian. Một buổi chiều anh Lập cầm con dao nhìn mũi dao nhọn hoắc lại rất sắc, anh lẩm bẩm :
- Dao, có phải mày giết lợn không ? Nếu là mày thì mày làm phiền cho nhà tao lắm...
Một hôm vào buổi chiều trong lúc ba người đàn bà đi bán thịt chưa về, anh sửa soạn đồ đạc chuẩn bị đi bắt mấy con lợn, đã đặt mua tại một nhà trong làng, để sáng hôm sau làm thịt bỗng có khách. Khách là một đạo sĩ lạ, đưa khách vào nhà, sau khi mời trầu nước, anh chưa kịp hỏi khách đến có việc gì, thì khách đã nói trước :
- Bần đạo tu ở núi Bách Kha, nhân đi qua đây thấy khu xóm này có yêu khí bao trùm. Ði sâu vào trong xóm bần đạo thấy yêu khí dầy đặc ở phía này, và nhiều hơn cả là nhà thí chủ. Có yêu khí tất có yêu quái ẩn náu. Bần đạo muốn vì dân làng, nhất là vì thiếu chủ trừ con yêu này để nó không quấy rối và báo hại mọi người. Vậy xin phép thí chủ cho bần đạo đi khắp mọi nơi trong nhà, coi yêu quái ẩn nấp ở đâu, bần đạo sẽ dùng bùa trừ khử.
Lời đạo sĩ khiến anh Lập giật mình. Anh nghĩ ngay tới con dao chọc tiết gia truyền. Anh nói :
- Xin cám ơn thầy, thầy đã có lòng muốn trừ yêu quái cứu dân, thật là may mắn cho làng chúng tôi lắm. Xin mời thầy dùng trà nghỉ ngơi một lát, rồi tôi sẽ dẫn thầy đi khắp nhà.
Khi hai người đang ngồi nói chuyện thì cô Ðinh đã về, và như thường lệ cô gài con dao chọc tiết vào cái nẹp trong nhà bếp. Anh Lập mời đạo sĩ đi thăm khắp nhà, và bỗng ông dừng lại chỗ con dao, khịt khịt mũi mấy cái như đánh được mùi gì khác lạ.
Ông đưa mắt nhìn quanh rồi nói :
- Yêu quái ẩn nấp nơi đây.
Anh Lập nói :
- Ðây là nơi thường ngày nhà tôi mổ lợn, nên thầy ngửi thấy mùi máu lợn khô hơi tanh đó. Ðạo sĩ không nói gì đi thẳng tới cái nẹp nơi cài mấy con dao bán thịt. Ông rút ngay con dao gia truyền của nhà anh ra nhìn ngắm rất kỹ và ông hỏi :
- Con dao này vẫn dùng để chọc tiết lợn ?
Anh Lập gật đầu ông không nói gì thêm, cùng anh Lập trở lại nhà nơi tiếp khách. Tới đây ông bảo anh Lập :
- Con dao chọc tiết của thí chủ đã thành tinh, không nên dùng nữa.
- Con dao này được truyền từ ông tổ chúng tôi tới nay đã được sáu đời, chúng tôi không thấy gì khác.
- Bề ngoài không thấy gì khác nhưng nó đã là yêu tinh, thí chủ nên bỏ đi. Nếu thí chủ bằng lòng bần đạo sẽ yểm bùa nó, rồi thí chủ đem vứt nó xuống sông hoặc chôn sâu dưới dất, ngăn không cho nó giở phép yêu ra được.
- Con dao này là của gia truyền từ cụ tổ, chúng tôi không dám vứt nó đi e có tội với tổ tiên.
Ðạo sĩ có vẻ suy nghĩ một chút rồi nói :
- Nếu thí chủ không muốn vứt đi, thì để bần đạo yểm bùa rồi thí chủ cất nó vào một chiếc hộp, hoặc chiếc vỏ dao đừng dùng đến nó nữa.
Anh Lập có vẻ ngần ngại. Biết ý anh đạo sĩ nói :
- Bần đạo biết thí chủ không muốn cất bỏ nó sợ phật ý vong hồn các vị tiền nhân. Thôi cũng được vì giờ đây, nếu con dao yêu tinh có hoành hành, thì nó cũng chỉ giết hại lợn của người ta thôi, thí chủ phải để ý đừng để máu người giây vào nó. Biết mùi máu người nó sẻ giết người.
Anh Lập hứa vâng theo lời đạo sĩ. Trước khi giã từ đạo sĩ trao cho anh một lá bùa và dặn rằng :
- Khi nào lỡ có máu người giây vào con dao, hoặc thấy con dao trở nên nguy hiểm hại tới mạng người, thì thí chủ dùng ngay lá bùa này quấn vào chuôi dao, lấy chỉ ngũ sắc buộc lại cất vào một nơi, yêu tinh sẽ không làm hại được ai nữa.
Anh Lập nhận lá bùa và tiễn đạo sĩ ra cổng. Anh cất lá bùa vào ống hương trên bàn thờ, rồi anh cũng không để ý gì đến những lời của đạo sĩ đã căn dặn. Thời gian trôi qua thỉnh thoảng trong làng, vẫn có những con lợn đêm hôm bị kẻ gian tới chọc tiết. Dần dà người ta quen đi, nhà nào có lợn bị giết ngày hôm sau đem bán thịt, cũng chẳng thiệt hại bao nhiêu.
Anh Lập vẫn dùng con dao gia truyền để làm lợn, và cô Ðinh ngày ngày vẫn mang theo dao đi chợ để cắt thịt, chặt xương bán cho khách hàng. Trong một buổi chợ có một bà khách mua một mớ xương, mua xong bà mượn dao của cô Ðinh để chặt nhỏ những miếng xương lớn. Chiều khách cô cho mượn dao, nhưng không ngờ bà khách loay hoay thế nào để lưỡi dao làm đứt tay chảy máu, máu ra khá nhiều loang khắp lưỡi dao. Người ta phải lấy vải buộc ngón tay cho bà. Việc này xảy ra cô Ðinh cũng quên đi và cũng chẳng ai chú ý tới, dùng dao sắc đứt tay là chuyện thường.
Vài đêm sau ở xã Ngư Ðại có chuyện lạ. Có người đang ngủ tại nhà, bỗng nhiên bị chọc tiết như lợn và chết ngay trên giường. Mạng người là quan trọng, Lý Trưởng phải bẩm quan, quan đã phái lục sự tới khám nghiệm điều tra. Cả làng xôn xao về vụ án mạng này. Anh Lập sực nhớ tới lời đạo sĩ căn dặn, nhưng anh còn hồ nghi không biết có phải chính con dao là thủ phạm vụ chọc tiết người chăng ?
Một vụ án mạng thứ hai lại xảy ra, khi vụ thứ nhất còn đang trong vòng điều tra. Nạn nhân thứ hai này cũng bị chọc tiết như nạn nhân thứ nhất. Mũi dao đâm chính xác khiến kẻ bị giết không kịp kêu. Lý Trưởng, Trương Tuần lại bận rộn, Quan trên lần này phái Chánh Tổng Bất Phí về tận nơi để điều tra. Anh Lập nghĩ tới lời đạo sĩ nói, con dao chỉ có thể giết người khi lưỡi dao bị dính máu người. Máu ai đã dính vào lưỡi dao ? Vợ chồng anh cũng như cô em gái có ai dám giết người, mà bảo lưỡi dao đã nhuốm máu người.
Anh Lập hỏi cô Ðinh anh ngỡ cô em đã gây lộn với ai rồi dùng dao đâm người ta chăng ? Nếu điều này xảy ra việc phải ầm làng lên chứ đâu thể nào. Hay là kẻ bị đâm chỉ bị thương nhẹ, rồi do sự dàn hòa mà mọi sự ổn thỏa. Thôi chắc là con dao đã bị dính máu người. Anh phải dùng ngay lá bùa của đạo sĩ để yểm con dao, nếu không yêu tinh còn sát hại nhiều người nữa.
Vẻ lo lắng của anh Lập làm cô em ngạc nhiên. Vừa ngay lúc ấy vị hôn phu của cô tới thăm cô. Bằng một giọng thương mến, cô trách anh sao lâu quá mới tới thăm cô. Anh ta trả lời mắc bận, cô Ðinh vừa cười vừa nói đùa :
- Anh mà lạng chạng với cô nào đừng trách em sẽ cho con dao này lấy tiết anh.
Cô Ðinh thuận tay lấy con dao ở rổ ra chĩa vào người yêu để dọa đùa. Nào ngờ một sức mạnh vô hình đã đẩy tay cô đưa thẳng mũi dao vào cổ anh Trần. Thấy tay cô Ðinh dưa thẳng mũi dao về phía cổ họng mình, anh Trần ngửa người để tránh. Và lúc ấy cô Ðinh cũng cố ghìm tay mình lại, giữ không cho con dao có thể đâm tới người yêu. Một bên cố tránh một bên cố ghìm dao lại, vậy mà mũi dao vẫn cứ đâm tới anh Trần. May là chỉ sượt qua vai làm rách áo và máu chảy chan hòa.
Cô Ðinh vứt vội con dao xuống đỡ lấy anh Trần, lấy thuốc lào rịn vào vết thương cho anh để cầm máu. Anh Lập đã chứng kiến sự việc từ đầu tới cuới, anh mắng cô Ðinh sao lại có lối đùa chết người như thế. Cô Ðinh mếu máo khóc nói, cô chỉ đưa con dao ra để đùa với anh Trần. Không hiểu sao con dao như cứ tự động tiến tới muốn đâm vào cổ họng anh Trần. Cô phải hết sức cố gắng ghìm lại, nên mũi dao chỉ đâm sướt qua vai người yêu mà thôi.
Nghe cô em nói nghĩ tới mọi vu án mạng đã xẩy ra, anh Lập đi tìm lá bùa mà trước đây đạo sĩ đã tặng, anh cất nơi ống hương. Nhưng khi lấy được ra anh kêu cô em đưa cho mình con dao, thì con dao đã biến đâu mất. Rõ ràng cô Ðinh vừa vứt con dao xuống đất, cả anh Lập và anh Trần đều trong thấy, giờ đây nó biến đi dâu nhanh vậy. Anh Lập nhớ lại chuyện bọn Trương Tuần kể cho anh nghe, con dao để ở sân nhà Lý Trưởng, cũng đã tự nhiên biến mất.
Không tìm thấy con dao anh lại cất bùa đi. Con dao biến mất hẳn không tìm thấy nữa, cô Ðinh đi chợ bán thịt phải mua dao khác, và gia đình anh Lập cũng phải dùng con dao khác, để lấy tiết mỗi buổi sáng khi giết lợn đi bán. Nếu con dao chỉ biến mất câu chuyện đã được kết thúc nơi đây. Nhưng nó biến đi để đêm nào trong làng Doi hoặc các làng lân cận, cũng có những vụ kẻ gian tới chọc tiết lợn trong chuồng, và cứ dăm ba ngày lại xảy ra một vụ chọc tiết người, không sao tìm ra được thủ phạm.
Các nhà chức trách làng xã, hàng tổng, hàng huyện đều xôn xao vì quá nhiều vụ án mạng. Mọi vụ giết người, giết lợn này chỉ chấm dứt vào một buổi trưa, trời đang nắng bỗng nổi cơn dông mưa đổ xuống, rồi một tiếng sét lớn đánh gãy đôi một cây đề cổ thụ, được trồng trên con đường giữa làng Doi và làng Gội. Những người đi đến xem sét đánh nói rằng, cây đề gãy gục xuống và có máu chảy ra, người ta lại nhặt được ngay dưới gốc cây một con dao chuôi rất sắc.
Anh Lập từ khi con dao biến mất và luôn luôn có những án mạng xảy ra, anh rất hối hận vì đã không nghe lời đạo sĩ yểm bùa và cất con dao đi. Nay được tin sét đánh cây đề, và dưới gốc cây có con dao anh mới yên tâm, không lo lắng những vụ án mạng khác xảy ra nữa. Người ta nói rằng sau này anh Lập cố tìm chuộc lại con dao, yểm bùa cất vào rương để làm kỷ niệm gia truyền.
Truyện Ma
#43
Gửi vào 14/06/2011 - 23:45
MA NÉM ĐÁ
Cô Hén không may mắn chút nào. Ba ngày tết chủ cô đi tắm biển, cho cô về quê ăn tết như mọi năm. Nhưng hôm chiều hăm bảy, cô vừa "đổ bộ" thì tối hăm chín, nhà cậu của cô bị ma ném đá. Mồ côi cha mẹ và chịu không nổi mợ dâu, cô Hén trôi nổi lên Sài gòn đi ở mướn. Bốn năm sau nhớ xứ quá, và hận cũ đã nguôi cô mò về làng.
Thấy cháu chồng đã khá đeo vàng đỏ tay, quần là áo lụa, người mợ dâu cũng nể nên quên cái tội nó đã cuốn gói ra đi, tiếp đãi nó như là một đứa cháu thân yêu. Vả mỗi lần về nó không quên mua quà Sài gòn về biếu cậu mợ bộn bàng, nào là cam tàu, hồng khô, hàng vãi màu sắc sặc sỡ cho con của mợ, nên mợ phải xem nó là thượng khách vậy.
Cô Hén khỏi làm gì động tới móng tay sơn đỏ của cô, ăn no rồi đi dạo xóm, tới bữa ăn lại về ních một bụng rồi lại đi nữa, đôi bữa không về vì cô ta rất được hoan nghênh ở mọi nơi, ai cũng cầm cô lại ăn cơm hết. Đi xa về tha hồ nói khoác. Mà cô Hén không nói khoác họ cũng mê tít đi. Nội cái vụ đèn xanh đèn đỏ, nội cái vụ vòi nước phun lên trời, nội cái vụ thang lầu rạp chiếu bóng mình đứng trên ấy, tự nhiên nó bò lên mình khỏi phải leo bước nào cả, toàn là chuyện thật trăm phần dầu, nội những thứ huyền hoặc ấy cũng đủ làm cho người làng say sưa, như nghe chuyện cổ tích chuyện thần tiên.
Tối hăm chín, Hén ở nhà để phụ giúp với mợ Tư nấu bánh tét, chớ không lẽ năm cùn tháng tận rồi, nhà ai cũng bận rộn mà cứ ngồi lê mãi. Hồi bảy giờ rưỡi, thình lình một tiếng đá rơi lên ngói kêu lên chát chúa. Mợ của Hén rủa:
- Mắc dịch, ban đêm mà cũng bắn giàn thun cho bể ngói của người ta hết.
Cậu của Hén cũng có mặt ở dưới nhà bếp, chỉ làm thinh thôi nhưng châu mày suy nghĩ: trẻ con bắn giàn thun bằng sỏi nhỏ cỡ bằng ngón tay cái, sỏi ấy rơi xuống ngói rồi thì lăn đi kêu rổn rổn, nghe như cả mái ngói đều bể hết nhưng không sao cả. Trong trường hợp này tiếng chạm rất ngắn, nghe thì đoán biết ngói bể nhưng chỉ bể một vài tấm thôi, rồi cái vật rơi ấy nằm yên nơi, chớ không lăn xuống dốc mái nhà chứng tỏ rằng nó nặng lắm.
Không biết bao lâu sau, vì không ai chờ đợi một tiếng đá rớt thứ nhì nữa, nên không ai phỏng độ thời gian, bỗng cái tiếng đá thứ nhì ấy lại kêu lên chát chúa. Mợ của Hén đã thả xong mười lăm đòn bánh tét vào nồi. Lúc bấy giờ đang có mặt hai bà hàng xóm, tới đó để gởi bánh tét vào nồi nhà này, theo tục lệ ở thôn quê người nghèo chỉ gói một, hai đòn, nấu tốn công tốn củi nên đem gởi vào nồi của các gia đình khá giả.
Mợ Tư vội bước ra cửa sau chửi đổng lên, mợ Tư chửi thật to, vì mợ đoán thằng bé bắn giàn thun có thể ở xa cách năm bảy nhà gì lận, chớ không chửi đủ cho người khít rào nghe như những lần mợ mất gà.
- Thôi !
Cậu Tư nạt vợ rồi nói tiếp để giải thích:
- Không phải con nít bắn giàn thun đâu. Tiếng kêu của ngói bể là tiếng đặc biệt của đá chọi vô nhà.
Cậu Tư nói như vậy và nghĩ rằng, có kẻ chọi nhà cậu vì lý do gì chưa biết. Nhưng cả nhà đều nghĩ ngay đến ma và ai cũng kinh sợ đến cực độ. Hai bà gởi bánh tét không nói không rằng gì, vụt chạy bay đi. Mợ Tư, Hén và bốn đứa con nhỏ của cậu mợ, không ai bảo ai lật đật đóng các cửa lại rầm rầm, làm như ma bị cửa đóng sẽ không vào nhà được như loài người vậy, rồi họ xúm xít nhau quanh bếp lửa nấu bánh tét là nơi sáng sủa nhứt nhà bếp.
Cô Hén đã rời thôn xóm từ lâu, quen sống trong ánh sáng nên sợ hãi hơn hết, sợ còn hơn mấy đứa bé nhứt là con của cậu mợ cô. Cậu Tư làm thinh đoạn mở cửa nhè nhẹ, rồi thoát ra ngoài. Mợ Tư gọi cậu một tiếng không nghe cậu đáp, mợ càng sợ thêm chạy vội đi đóng cửa, phó mặc cho ma quỉ nó ăn tươi nuốt sống cậu mặc cậu. Ai bảo cậu bướng !
Thình lình đá lại rơi trên ngói. Cả nhà ôm nhau rồi ngã lăn cù. Bấy giờ nghe tiếng xôn xao quanh nhà, khiến mấy đứa bé khủng khiếp khóc ré lên. Nhưng mợ Tư thì yên dạ. Đó là tiếng của người trong xóm, có lẽ do hai mụ gởi bánh tét báo động, họ tụ lại để xem cho rõ thật hư. Đá lại rơi trên ngói lần nầy đến hai viên một lượt.
- Đó, nó đó !
- Chắc chắn là ma !
- Ừ, chú Tư hiền khô ai mà oán thù chú !
- Giỏi chọi nữa thử coi !
Tức thì một cục đá rơi xuống ngói. Bấy giờ cả làng đều có mặt đèn đuốc sáng trưng. Đàn bà họ sợ ma lắm nhưng cũng rất ham coi ma. Nhưng để cho chắc khỏi bị ma ăn thịt, họ đốt đuốc lên và đi coi ma đông từng đoàn năm bảy người. Cậu Tư không thể rình được nữa, vì cậu đứng nơi sân ai cũng thấy cậu hết. Tức mình cậu vô nhà lấy áo để đi mời ủy viên cảnh sát. Nhưng cậu vừa ra tới cửa ngõ thì gặp ủy viên cảnh sát cũng vừa tới nơi.
- Gì đó chú Tư ?
- Có ai chọi đá.
Cậu Tư vừa nói vừa mở cổng, thiên hạ nối gót ủy viên cảnh sát tràn vào sân, mợ Tư đã mở cửa nhà trên thắp đèn sáng lên, ông ủy viên cảnh sát chưa kịp ngồi thì một viên đá lại rơi xuống ngói, và ngoài kia thiên hạ lại la rần rần.
- Nó chọi đã bao lâu rồi ?
- Độ trên nửa tiếng đồng hồ, non một tiếng.
- Mấy cục hết thảy ?
- Gần mười lăm cục.
- Chú có nghi cho ai không ?
- Không !
Ông ủy viên cảnh sát bóp trán rồi vụt hỏi :
- Còn con Hén đâu nghe nói nó mới về phải không?
Mợ Tư đáp hớt :
- Dạ nó mới về đang ở ngoài sau. Dạ ông cảnh sát tôi nhớ ra rồi.
- Nhớ gì ? Ông ủy viên cảnh sát mừng rỡ hỏi.
- Nó tuổi dần. Hồi nó còn nhỏ thầy coi nó có số quến ma.
Ông ủy viên cảnh sát và cậu Tư bật cười, trong khi đó thì mợ Tư gọi Hén giựt giọng, giọng hằn học lắm. Ngày tư ngày tết mà con nhỏ này về đây, báo hại mợ ăn tết không yên! Mợ hận nó lắm quên mất mớ quà nó biếu, mớ quà đã giúp mợ tử tế với nó. Hén lấp ló nơi cửa buồng, ông ủy viên cảnh sát hét :
- Hén ra đây tao biểu.
Hén ríu ríu vâng lời mặt cắt không lấy được giọt máu.
- Dạ
- Hai bữa rày có thằng nào chọc ghẹo mày và mày cự hay không ?
- Dạ không !
- Nói thật tao nghe hễ nói láo là tao bắt giam liền. Có hay không ?
- Dạ chắc chắn là không !
Cậu Tư có một người con gái thứ ba đã đi lấy chồng. Thằng con trưởng nam của cậu đã mất lúc sắp cưới vợ. Còn lại ở nhà chỉ có mấy đứa bé xấu như ma.
Ông ủy viên cảnh sát lại hỏi cậu Tư :
- Không ai oán thù vợ chồng chú chớ ?
- Quả thật không ông à.
- Có bao giờ có ai hỏi mua cái nhà nầy hay không ?
- Dạ cũng không.
- Kỳ lạ, kỳ lạ !
Hai người đàn ông không ai tin rằng có ma cả. Bỗng có một cậu con trai, xồng xộc chạy vào nhà tay cầm viên đá, hắn xin bà chủ nhà một miếng vôi ăn trầu. Đó là trò chơi cổ điển mà ai cũng biết cả, nên không ai ngạc nhiên và hắn được thỏa mãn. Hắn bôi vôi trên cục đá rồi trở ra sân, hắn quát lên thật to :
- Nè, ma có giỏi thì vụt trở vào sân cục đá bôi vôi này thử coi !
Nói đoạn hắn tung đá ra thật mạnh. Bao nhiêu người trong sân đều hoảng chạy đi tìm chỗ núp, mái hiên, tàng cây... Ai quen thân với chủ nhà thì chạy vô nhà, lúc ấy đã đông nghẹt. Không đầy hai phút đồng hồ thì một hòn đá rơi đánh phịch trên sân đất. Thiên hạ lại đổ ra sân, đèn đuốc sáng trưng trở lại nơi đó. Và kinh dị thay ! Người ta lượm được một cục đá bôi vôi mới, vôi còn ướt mèm.
Ông ủy viên cảnh sát có học tới lớp nhứt hồi Pháp thuộc, có đọc báo đọc sách và từ đầu chí cuối câu chuyện, không bao giờ nghĩ đến ma, thế mà ông cũng bắt đầu nao núng. Bận nầy ma vụt đá vào vách bổ kho, chớ không ném lên mái nhà nữa. Tung đá chạm vào vách kêu " ầm " dễ sợ hơn nhiều lắm.
Ông ủy viên cảnh sát gục gặt đầu rồi lặng lẽ mỉm cười. Ông suy luận như thế này: muốn vụt đá vào vách phải vụt ngang. Mà đá nặng vụt ngang phải đứng gần. Kẻ ném đá thừa dịp thiên hạ vào hết bên trong sân, mới xáp lại gần hàng rào mà làm như vậy được. Trước hắn còn nhát nên đứng xa, và chỉ có thể tung lên cao cho đá rơi xuống ngói thôi. Ông ta bước ra sân và hô lớn như công khai tuyên bố :
- Rõ ràng là ma ! Như vậy vụ nầy không thuộc quyền hạn của tôi nữa. Thôi tôi đi về đây !
Lời công bố của đại diện chính quyền địa phương nặng cân lắm, nên thiên hạ càng tin rằng đó là ma. Ma cứ tiếp tục vụt đá vào vách bổ kho rầm rầm, hết vách bên tả đến vách bên hữu. Mỗi lần một cục đá bay vào nhà là người hiếu kỳ bu lại giành nhau để đem về làm kỷ niệm, đợi vài hôm coi đá còn hay không hay cũng là đá ma nữa ?
Nếu ma ném đá thâu đêm thì bọn tò mò này, cũng dám thức suốt một đêm lắm để coi chơi và bàn tán, mặc dầu họ đã mệt mỏi lắm rồi, vì bấy giờ cũng gần sang canh hai, tức là trên mười giờ đêm. Từ lúc ông ủy viên cảnh sát ra đi tới giờ, đã non một tiếng đồng hồ và ma làm xôm tụ hơn nhiều, đá bay vào vách tới tấp khiến khách hiếu kỳ đông là thế, mà người nào cũng giữ được một cục, không còn giành giựt nhau nữa.
Thình lình nghe ai la lớn ngoài hàng rào :
- Nó đây rồi. Mầy chạy đàng trời không khỏi tao.
Tức thì hàng chục tia đèn bin ngoài kia chỉa thẳng vào nơi phát lên tiếng la ấy. Người ta nhận ra đó là giọng của một anh dân vệ trong làng. Thiên hạ lại đổ xô nhau ra khỏi sân, giành nhau để đi qua cửa ngõ hẹp té. Cậu Tư nhảy rào đi tới nơi trước thiên hạ, vì cậu tức ấm ách, muốn biết mặt mũi "con ma" ấy ra sao và nhứt là muốn biết lý do đã xui khiến nó phá nhà cậu.
Dân vệ do ông ủy viên cảnh sát bí mật điều động và cho đi rình, đã tóm được thằng Ngọt với một cục đá trong tay. Đó là đá xanh trải đường, đường quê lâu đời, nước mưa chảy xiết, gặm mòn đất, để lòi ra hàng trăm, hàng ngàn cục, muốn bao nhiêu, có bấy nhiêu. Cả làng đều kinh ngạc : Thằng Ngọt vẫn được tiếng là một công dân tốt trong đám công dân tốt trong làng, nó siêng năng giỏi dắn, con nhà tử tế và tương đối khá giả.
Nhà nó với nhà cậu Tư lại rất thân nhau, nó cũng sắp đi hỏi vợ và rất mê con Họn xinh đẹp mà nó sắp hỏi, thì không thể bảo rằng nó "muốn" con Hén không được rồi làm xằng. Vả con Hén năm nay đã hăm ba tuổi lớn hơn nó đến bốn tuổi lận? Ông ủy viên cảnh sát truyền lịnh giải tán bọn hiếu kỳ, kể cả dân vệ nữa vì ông muốn điều tra mật, chỉ cho cậu Tư theo ông về công sở thôi. Thằng Ngọt không sợ hãi không hối hận, tỉnh khô như thường, có vẻ lương tâm an ổn lắm. Vả ông ủy viên cảnh sát không có hành hung nó, mà trái lại khi nãy, còn ngăn dân vệ toan làm dữ với nó là khác.
Lời lẽ ôn tồn ông hỏi :
- Cháu nè muốn nhẹ tội, cháu nên khai tất cả sự thật. Nếu thấy rõ thiện chí của cháu, bác có thế làm êm tha luôn cháu nữa. Bằng như mà cháu còn dối trá thì bác giải tòa vụ nầy.
Ngọt do dự lâu lắm trong sự im lặng, đoạn trịch thượng hỏi lại :
- Thưa bác ủy viên cảnh sát, cháu không biết bác chú ý tới điều nầy hay không, là từ mấy năm nay mỗi lần chị Hén về làng, là làng ta mất đi ít lắm là một cô gái ?
Ông ủy viên cảnh sát và cậu Tư giựt nẩy mình. Quả đúng như vậy ! Tiếng gọi của thị thành réo rắt lắm, và gái quê những cô gái nghèo khổ cực nhọc, cô nào cũng có mộng ra thành cho sung sướng tấm thân. Hén là tượng trưng của xa hoa, của đời sống dễ dàng ở các châu thành lộng lẫy, hơn thế nó lại quyến rũ gái làng ra đi. Và họ dám đi là nhờ có nó dìu dắt. Những thôn nữ bỏ làng ấy, đôi cô không bỏ hẳn, những cô còn cha mẹ, bà con trong thôn ổ, thỉnh thoảng lại về, nhưng không cô nào còn can đảm lấy những anh nông dân trong làng, mà họ đã thấy là cùi đày lam lũ quá.
- Thưa bác và chú, mấy hôm nay chị Hén qua lại với con Họn rất thường, và cháu cảm nghe như Họn đã đổi thái độ đối với cháu. Cháu phải tự vệ cho dẫu rồi phải vào tù. Cháu quyết làm cho chị Hén sợ ma, ra đi ngay trước khi kịp dụ dỗ con Họn, hoặc bị mợ Tư sợ cái tuổi quến ma của chị ấy, mà tống cổ chỉ đi ngay. Chỉ có thế thôi.
- Nhưng còn cục đá bôi vôi ? Cậu Tư hỏi.
- Thưa chú, đó là việc thách đố ma cổ điển, cháu biết họ sẽ thách như vậy, nên mang vôi theo sẵn trong mình. Họ quên coi hình thù cục đá ném ra, để mà so sánh với cục đá ném vô.
Cả hai người lớn đều nghĩ nhiều về sự hao hớt dân làng và nhìn cậu con trai này, thương xót không biết bao nhiêu. Lâu lắm, ông ủy viên cảnh sát hỏi chủ nhà :
- Chú tính sao ? Bãi nại được không ?
- Được, miễn cha mẹ nó bồi thường thiệt hại cho tôi. Hằng trăm tấm ngói bể chớ ít sao ?
- Còn con Hén ?
- Xin cho nó ăn tết. Nhưng tôi sẽ cấm nó ra khỏi nhà.
Bình Nguyên Lộc
Cô Hén không may mắn chút nào. Ba ngày tết chủ cô đi tắm biển, cho cô về quê ăn tết như mọi năm. Nhưng hôm chiều hăm bảy, cô vừa "đổ bộ" thì tối hăm chín, nhà cậu của cô bị ma ném đá. Mồ côi cha mẹ và chịu không nổi mợ dâu, cô Hén trôi nổi lên Sài gòn đi ở mướn. Bốn năm sau nhớ xứ quá, và hận cũ đã nguôi cô mò về làng.
Thấy cháu chồng đã khá đeo vàng đỏ tay, quần là áo lụa, người mợ dâu cũng nể nên quên cái tội nó đã cuốn gói ra đi, tiếp đãi nó như là một đứa cháu thân yêu. Vả mỗi lần về nó không quên mua quà Sài gòn về biếu cậu mợ bộn bàng, nào là cam tàu, hồng khô, hàng vãi màu sắc sặc sỡ cho con của mợ, nên mợ phải xem nó là thượng khách vậy.
Cô Hén khỏi làm gì động tới móng tay sơn đỏ của cô, ăn no rồi đi dạo xóm, tới bữa ăn lại về ních một bụng rồi lại đi nữa, đôi bữa không về vì cô ta rất được hoan nghênh ở mọi nơi, ai cũng cầm cô lại ăn cơm hết. Đi xa về tha hồ nói khoác. Mà cô Hén không nói khoác họ cũng mê tít đi. Nội cái vụ đèn xanh đèn đỏ, nội cái vụ vòi nước phun lên trời, nội cái vụ thang lầu rạp chiếu bóng mình đứng trên ấy, tự nhiên nó bò lên mình khỏi phải leo bước nào cả, toàn là chuyện thật trăm phần dầu, nội những thứ huyền hoặc ấy cũng đủ làm cho người làng say sưa, như nghe chuyện cổ tích chuyện thần tiên.
Tối hăm chín, Hén ở nhà để phụ giúp với mợ Tư nấu bánh tét, chớ không lẽ năm cùn tháng tận rồi, nhà ai cũng bận rộn mà cứ ngồi lê mãi. Hồi bảy giờ rưỡi, thình lình một tiếng đá rơi lên ngói kêu lên chát chúa. Mợ của Hén rủa:
- Mắc dịch, ban đêm mà cũng bắn giàn thun cho bể ngói của người ta hết.
Cậu của Hén cũng có mặt ở dưới nhà bếp, chỉ làm thinh thôi nhưng châu mày suy nghĩ: trẻ con bắn giàn thun bằng sỏi nhỏ cỡ bằng ngón tay cái, sỏi ấy rơi xuống ngói rồi thì lăn đi kêu rổn rổn, nghe như cả mái ngói đều bể hết nhưng không sao cả. Trong trường hợp này tiếng chạm rất ngắn, nghe thì đoán biết ngói bể nhưng chỉ bể một vài tấm thôi, rồi cái vật rơi ấy nằm yên nơi, chớ không lăn xuống dốc mái nhà chứng tỏ rằng nó nặng lắm.
Không biết bao lâu sau, vì không ai chờ đợi một tiếng đá rớt thứ nhì nữa, nên không ai phỏng độ thời gian, bỗng cái tiếng đá thứ nhì ấy lại kêu lên chát chúa. Mợ của Hén đã thả xong mười lăm đòn bánh tét vào nồi. Lúc bấy giờ đang có mặt hai bà hàng xóm, tới đó để gởi bánh tét vào nồi nhà này, theo tục lệ ở thôn quê người nghèo chỉ gói một, hai đòn, nấu tốn công tốn củi nên đem gởi vào nồi của các gia đình khá giả.
Mợ Tư vội bước ra cửa sau chửi đổng lên, mợ Tư chửi thật to, vì mợ đoán thằng bé bắn giàn thun có thể ở xa cách năm bảy nhà gì lận, chớ không chửi đủ cho người khít rào nghe như những lần mợ mất gà.
- Thôi !
Cậu Tư nạt vợ rồi nói tiếp để giải thích:
- Không phải con nít bắn giàn thun đâu. Tiếng kêu của ngói bể là tiếng đặc biệt của đá chọi vô nhà.
Cậu Tư nói như vậy và nghĩ rằng, có kẻ chọi nhà cậu vì lý do gì chưa biết. Nhưng cả nhà đều nghĩ ngay đến ma và ai cũng kinh sợ đến cực độ. Hai bà gởi bánh tét không nói không rằng gì, vụt chạy bay đi. Mợ Tư, Hén và bốn đứa con nhỏ của cậu mợ, không ai bảo ai lật đật đóng các cửa lại rầm rầm, làm như ma bị cửa đóng sẽ không vào nhà được như loài người vậy, rồi họ xúm xít nhau quanh bếp lửa nấu bánh tét là nơi sáng sủa nhứt nhà bếp.
Cô Hén đã rời thôn xóm từ lâu, quen sống trong ánh sáng nên sợ hãi hơn hết, sợ còn hơn mấy đứa bé nhứt là con của cậu mợ cô. Cậu Tư làm thinh đoạn mở cửa nhè nhẹ, rồi thoát ra ngoài. Mợ Tư gọi cậu một tiếng không nghe cậu đáp, mợ càng sợ thêm chạy vội đi đóng cửa, phó mặc cho ma quỉ nó ăn tươi nuốt sống cậu mặc cậu. Ai bảo cậu bướng !
Thình lình đá lại rơi trên ngói. Cả nhà ôm nhau rồi ngã lăn cù. Bấy giờ nghe tiếng xôn xao quanh nhà, khiến mấy đứa bé khủng khiếp khóc ré lên. Nhưng mợ Tư thì yên dạ. Đó là tiếng của người trong xóm, có lẽ do hai mụ gởi bánh tét báo động, họ tụ lại để xem cho rõ thật hư. Đá lại rơi trên ngói lần nầy đến hai viên một lượt.
- Đó, nó đó !
- Chắc chắn là ma !
- Ừ, chú Tư hiền khô ai mà oán thù chú !
- Giỏi chọi nữa thử coi !
Tức thì một cục đá rơi xuống ngói. Bấy giờ cả làng đều có mặt đèn đuốc sáng trưng. Đàn bà họ sợ ma lắm nhưng cũng rất ham coi ma. Nhưng để cho chắc khỏi bị ma ăn thịt, họ đốt đuốc lên và đi coi ma đông từng đoàn năm bảy người. Cậu Tư không thể rình được nữa, vì cậu đứng nơi sân ai cũng thấy cậu hết. Tức mình cậu vô nhà lấy áo để đi mời ủy viên cảnh sát. Nhưng cậu vừa ra tới cửa ngõ thì gặp ủy viên cảnh sát cũng vừa tới nơi.
- Gì đó chú Tư ?
- Có ai chọi đá.
Cậu Tư vừa nói vừa mở cổng, thiên hạ nối gót ủy viên cảnh sát tràn vào sân, mợ Tư đã mở cửa nhà trên thắp đèn sáng lên, ông ủy viên cảnh sát chưa kịp ngồi thì một viên đá lại rơi xuống ngói, và ngoài kia thiên hạ lại la rần rần.
- Nó chọi đã bao lâu rồi ?
- Độ trên nửa tiếng đồng hồ, non một tiếng.
- Mấy cục hết thảy ?
- Gần mười lăm cục.
- Chú có nghi cho ai không ?
- Không !
Ông ủy viên cảnh sát bóp trán rồi vụt hỏi :
- Còn con Hén đâu nghe nói nó mới về phải không?
Mợ Tư đáp hớt :
- Dạ nó mới về đang ở ngoài sau. Dạ ông cảnh sát tôi nhớ ra rồi.
- Nhớ gì ? Ông ủy viên cảnh sát mừng rỡ hỏi.
- Nó tuổi dần. Hồi nó còn nhỏ thầy coi nó có số quến ma.
Ông ủy viên cảnh sát và cậu Tư bật cười, trong khi đó thì mợ Tư gọi Hén giựt giọng, giọng hằn học lắm. Ngày tư ngày tết mà con nhỏ này về đây, báo hại mợ ăn tết không yên! Mợ hận nó lắm quên mất mớ quà nó biếu, mớ quà đã giúp mợ tử tế với nó. Hén lấp ló nơi cửa buồng, ông ủy viên cảnh sát hét :
- Hén ra đây tao biểu.
Hén ríu ríu vâng lời mặt cắt không lấy được giọt máu.
- Dạ
- Hai bữa rày có thằng nào chọc ghẹo mày và mày cự hay không ?
- Dạ không !
- Nói thật tao nghe hễ nói láo là tao bắt giam liền. Có hay không ?
- Dạ chắc chắn là không !
Cậu Tư có một người con gái thứ ba đã đi lấy chồng. Thằng con trưởng nam của cậu đã mất lúc sắp cưới vợ. Còn lại ở nhà chỉ có mấy đứa bé xấu như ma.
Ông ủy viên cảnh sát lại hỏi cậu Tư :
- Không ai oán thù vợ chồng chú chớ ?
- Quả thật không ông à.
- Có bao giờ có ai hỏi mua cái nhà nầy hay không ?
- Dạ cũng không.
- Kỳ lạ, kỳ lạ !
Hai người đàn ông không ai tin rằng có ma cả. Bỗng có một cậu con trai, xồng xộc chạy vào nhà tay cầm viên đá, hắn xin bà chủ nhà một miếng vôi ăn trầu. Đó là trò chơi cổ điển mà ai cũng biết cả, nên không ai ngạc nhiên và hắn được thỏa mãn. Hắn bôi vôi trên cục đá rồi trở ra sân, hắn quát lên thật to :
- Nè, ma có giỏi thì vụt trở vào sân cục đá bôi vôi này thử coi !
Nói đoạn hắn tung đá ra thật mạnh. Bao nhiêu người trong sân đều hoảng chạy đi tìm chỗ núp, mái hiên, tàng cây... Ai quen thân với chủ nhà thì chạy vô nhà, lúc ấy đã đông nghẹt. Không đầy hai phút đồng hồ thì một hòn đá rơi đánh phịch trên sân đất. Thiên hạ lại đổ ra sân, đèn đuốc sáng trưng trở lại nơi đó. Và kinh dị thay ! Người ta lượm được một cục đá bôi vôi mới, vôi còn ướt mèm.
Ông ủy viên cảnh sát có học tới lớp nhứt hồi Pháp thuộc, có đọc báo đọc sách và từ đầu chí cuối câu chuyện, không bao giờ nghĩ đến ma, thế mà ông cũng bắt đầu nao núng. Bận nầy ma vụt đá vào vách bổ kho, chớ không ném lên mái nhà nữa. Tung đá chạm vào vách kêu " ầm " dễ sợ hơn nhiều lắm.
Ông ủy viên cảnh sát gục gặt đầu rồi lặng lẽ mỉm cười. Ông suy luận như thế này: muốn vụt đá vào vách phải vụt ngang. Mà đá nặng vụt ngang phải đứng gần. Kẻ ném đá thừa dịp thiên hạ vào hết bên trong sân, mới xáp lại gần hàng rào mà làm như vậy được. Trước hắn còn nhát nên đứng xa, và chỉ có thể tung lên cao cho đá rơi xuống ngói thôi. Ông ta bước ra sân và hô lớn như công khai tuyên bố :
- Rõ ràng là ma ! Như vậy vụ nầy không thuộc quyền hạn của tôi nữa. Thôi tôi đi về đây !
Lời công bố của đại diện chính quyền địa phương nặng cân lắm, nên thiên hạ càng tin rằng đó là ma. Ma cứ tiếp tục vụt đá vào vách bổ kho rầm rầm, hết vách bên tả đến vách bên hữu. Mỗi lần một cục đá bay vào nhà là người hiếu kỳ bu lại giành nhau để đem về làm kỷ niệm, đợi vài hôm coi đá còn hay không hay cũng là đá ma nữa ?
Nếu ma ném đá thâu đêm thì bọn tò mò này, cũng dám thức suốt một đêm lắm để coi chơi và bàn tán, mặc dầu họ đã mệt mỏi lắm rồi, vì bấy giờ cũng gần sang canh hai, tức là trên mười giờ đêm. Từ lúc ông ủy viên cảnh sát ra đi tới giờ, đã non một tiếng đồng hồ và ma làm xôm tụ hơn nhiều, đá bay vào vách tới tấp khiến khách hiếu kỳ đông là thế, mà người nào cũng giữ được một cục, không còn giành giựt nhau nữa.
Thình lình nghe ai la lớn ngoài hàng rào :
- Nó đây rồi. Mầy chạy đàng trời không khỏi tao.
Tức thì hàng chục tia đèn bin ngoài kia chỉa thẳng vào nơi phát lên tiếng la ấy. Người ta nhận ra đó là giọng của một anh dân vệ trong làng. Thiên hạ lại đổ xô nhau ra khỏi sân, giành nhau để đi qua cửa ngõ hẹp té. Cậu Tư nhảy rào đi tới nơi trước thiên hạ, vì cậu tức ấm ách, muốn biết mặt mũi "con ma" ấy ra sao và nhứt là muốn biết lý do đã xui khiến nó phá nhà cậu.
Dân vệ do ông ủy viên cảnh sát bí mật điều động và cho đi rình, đã tóm được thằng Ngọt với một cục đá trong tay. Đó là đá xanh trải đường, đường quê lâu đời, nước mưa chảy xiết, gặm mòn đất, để lòi ra hàng trăm, hàng ngàn cục, muốn bao nhiêu, có bấy nhiêu. Cả làng đều kinh ngạc : Thằng Ngọt vẫn được tiếng là một công dân tốt trong đám công dân tốt trong làng, nó siêng năng giỏi dắn, con nhà tử tế và tương đối khá giả.
Nhà nó với nhà cậu Tư lại rất thân nhau, nó cũng sắp đi hỏi vợ và rất mê con Họn xinh đẹp mà nó sắp hỏi, thì không thể bảo rằng nó "muốn" con Hén không được rồi làm xằng. Vả con Hén năm nay đã hăm ba tuổi lớn hơn nó đến bốn tuổi lận? Ông ủy viên cảnh sát truyền lịnh giải tán bọn hiếu kỳ, kể cả dân vệ nữa vì ông muốn điều tra mật, chỉ cho cậu Tư theo ông về công sở thôi. Thằng Ngọt không sợ hãi không hối hận, tỉnh khô như thường, có vẻ lương tâm an ổn lắm. Vả ông ủy viên cảnh sát không có hành hung nó, mà trái lại khi nãy, còn ngăn dân vệ toan làm dữ với nó là khác.
Lời lẽ ôn tồn ông hỏi :
- Cháu nè muốn nhẹ tội, cháu nên khai tất cả sự thật. Nếu thấy rõ thiện chí của cháu, bác có thế làm êm tha luôn cháu nữa. Bằng như mà cháu còn dối trá thì bác giải tòa vụ nầy.
Ngọt do dự lâu lắm trong sự im lặng, đoạn trịch thượng hỏi lại :
- Thưa bác ủy viên cảnh sát, cháu không biết bác chú ý tới điều nầy hay không, là từ mấy năm nay mỗi lần chị Hén về làng, là làng ta mất đi ít lắm là một cô gái ?
Ông ủy viên cảnh sát và cậu Tư giựt nẩy mình. Quả đúng như vậy ! Tiếng gọi của thị thành réo rắt lắm, và gái quê những cô gái nghèo khổ cực nhọc, cô nào cũng có mộng ra thành cho sung sướng tấm thân. Hén là tượng trưng của xa hoa, của đời sống dễ dàng ở các châu thành lộng lẫy, hơn thế nó lại quyến rũ gái làng ra đi. Và họ dám đi là nhờ có nó dìu dắt. Những thôn nữ bỏ làng ấy, đôi cô không bỏ hẳn, những cô còn cha mẹ, bà con trong thôn ổ, thỉnh thoảng lại về, nhưng không cô nào còn can đảm lấy những anh nông dân trong làng, mà họ đã thấy là cùi đày lam lũ quá.
- Thưa bác và chú, mấy hôm nay chị Hén qua lại với con Họn rất thường, và cháu cảm nghe như Họn đã đổi thái độ đối với cháu. Cháu phải tự vệ cho dẫu rồi phải vào tù. Cháu quyết làm cho chị Hén sợ ma, ra đi ngay trước khi kịp dụ dỗ con Họn, hoặc bị mợ Tư sợ cái tuổi quến ma của chị ấy, mà tống cổ chỉ đi ngay. Chỉ có thế thôi.
- Nhưng còn cục đá bôi vôi ? Cậu Tư hỏi.
- Thưa chú, đó là việc thách đố ma cổ điển, cháu biết họ sẽ thách như vậy, nên mang vôi theo sẵn trong mình. Họ quên coi hình thù cục đá ném ra, để mà so sánh với cục đá ném vô.
Cả hai người lớn đều nghĩ nhiều về sự hao hớt dân làng và nhìn cậu con trai này, thương xót không biết bao nhiêu. Lâu lắm, ông ủy viên cảnh sát hỏi chủ nhà :
- Chú tính sao ? Bãi nại được không ?
- Được, miễn cha mẹ nó bồi thường thiệt hại cho tôi. Hằng trăm tấm ngói bể chớ ít sao ?
- Còn con Hén ?
- Xin cho nó ăn tết. Nhưng tôi sẽ cấm nó ra khỏi nhà.
Bình Nguyên Lộc
#44
Gửi vào 14/06/2011 - 23:56
ĐUỔI QUỶ
Một trong những quan ngự y của Đức Thành Thái là người đất Quảng Nam. Khi nhà vua bị truất phế vào mùa thu năm 1907, ông cũng từ quan, về quê nhà sống với nghề hốt thuốc. Bà cố tôi, một trong những người hiếm hoi trong dòng họ sống vượt qua cái ngưỡng tuổi một trăm năm, vẫn thường kể rằng ông ưa nhắc đến đức tính thương dân, gần dân của nhà vua mà chính ông luôn lấy đó làm gương.
Từ ngày trở lại quê nhà, với tài năng thật sự và danh tiếng ngự y, không lúc nào ông được rảnh rỗi. Người bệnh tìm đến với ông đủ mọi thành phần và không chỉ giới hạn trong tỉnh Quảng Nam, dù rằng đôi khi họ phải vượt đèo Hải Vân ở phía bắc, và đèo Cả ở hướng ngược lại. Đến với ông, đông nhất vẫn là những người nghèo vì không như những danh y khác, ông luôn lấy y đức làm đầu, nên thường là ông chữa bệnh gần như miễn phí cho những người khốn khó.
Thế nhưng, dù là một danh y, rồi đạt đến đỉnh cao của sự nghiệp và danh vọng là được vời vào triều, đứng trong hàng ngũ của các vị ngự y trong Thái y viện, nơi đã giúp ông hoàn thiện thêm kiến thức và y thuật của mình, ngài “cựu ngự y” ấy nhiều khi vẫn cảm thấy bất lực trước cái nghiệt ngã của nghề nghiệp.
Ngay cả khi còn trong triều, hay khi đã về cùng những kẻ thứ dân, mỗi lần nhìn thấy tử thần cướp trên tay mình một sinh mệnh, là ông đau đớn đến mất ăn, mất ngủ. Thời ấy, ai bất hạnh vướng vào “tứ chứng nan y” thì kể như chỉ còn đợi thần chết đến, thế nhưng ngoài bốn chứng bệnh “phong, lao, cổ, lại” mà bất cứ thầy thuốc nào cũng phải bó tay ấy, ông còn luôn làm kẻ chiến bại trước một căn bệnh hiểm nghèo khác: bệnh điên!
Thoạt tiên, với uy tín cộng với lòng nhân hậu của ông, người nhà vẫn thường đem đến cho ông chữa trước, và chỉ khi ông “chạy” thì họ mới phải tìm đến các pháp sư, các thầy phù thủy, nơi mà tiền chữa trị đôi khi cao bằng cả một đời làm thuê. Tại sao các thầy pháp, thầy mo kia có thể chữa khỏi chứng điên mà ta thì không? Có những kẻ như “thầy” Tám Khủng làng bên vô học, thời trai trẻ chỉ biết đi ăn trộm rồi bị dân làng đánh đến bể đầu, xấu hổ bỏ làng đi biệt tích hàng mười năm, lại đùng một cái trở về xưng là pháp sư, học nghề tận vùng Thất Sơn huyền bí.
Và để chứng minh một cách hùng hồn cho danh xưng ấy, thầy Tám đã lập tức chữa khỏi hàng loạt bệnh điên đã đến thời kỳ, mà mọi ông thầy khác đều bó tay! Tại sao lại là như vậy? Tại sao?
Những câu hỏi ấy dày vò ông. Những câu hỏi làm ông đau xót và có phần nhục nhã. Những câu hỏi đúc dần trong lòng ông một quyết tâm: Phải học để biết cách chữa bệnh điên! Phải học để mà có thể đánh đuổi, trục xuất những con ác quỷ ra khỏi cuộc sống, trả lại linh hồn cho những người lương thiện. Nhưng học ai? Một quan ngự y xuất thân là một nhà nho, một “chơn quân tử” như ông tất nhiên là không thể cầu cạnh những thầy bùa, thầy pháp vô đạo đức, tham lam và chữ nhất cắn đôi còn chưa hiểu kia! Ông quyết tâm đi theo hướng của mình.
Cuối những năm ông làm ngự y, triều đình đã xảy ra một biến cố mà mọi sĩ phu đều biết. Lúc ấy, nhằm tạo ra lý do để truất phế nhà vua có tư tưởng tiến bộ, và chống lại chế độ bảo hộ của người Pháp, viên khâm sứ Lê-vec-cơ đã phao tin Đức Thành Thái bị điên. Vậy là chúng giam nhà vua vào điện Càn Thành, đồng thời để che mắt những người nghi ngờ, Hội Đồng Phụ Chính đã ra lệnh cho Thái Y Viện huy động mọi nguồn nhân sự và tài liệu liên quan đến bệnh điên về, nhằm chữa trị cho nhà vua.
Câu chuyện “làm trò” ấy rồi ai cũng biết, nhưng những tài liệu y thuật cổ kim nhằm trị chứng bệnh kia thì vẫn còn được tàng trữ tại Thái Y Viện. Thế là ông lên được trở lại kinh đô, nơi vẫn đang cuồn cuộn những đợt sóng ngầm giữa những âm mưu chính trị. Gạt mọi chuyện ngoài tai và dựa vào sự quen biết cũ, ông lao vào mục đích của mình. Tàng thư của triều đình, tàng thư của các danh y chốn kinh thành, hoặc bất cứ đâu nếu được phép ông đều tìm đến ngay xin tham khảo. Tấm lòng và sự bền chí ấy rốt cuộc đã được đền bù, ông đã tìm ra được công thức pha chế thuốc chữa bệnh điên hiệu nghiệm nhất!
Thế nhưng thành phần của phương thuốc ấy lại là một thách thức không kém khó khăn. Đó là một hỗn hợp đặc biệt gồm các nguyên liệu lạ lùng và hiếm hoi, mà khó nhất là phải tìm cách kiếm cho được một Thiên Linh Cái (sọ của những con gái đồng trinh bị trời đánh) và những phương thuật luyện đan nghiêm ngặt khá. Nhưng bằng một ý chí đã thành đá, cộng với một sự cố gắng liên tục, bền bỉ, cuối cùng ông cũng vượt qua được mọi cản ngại để luyện xong phương thuốc trên.
Người bệnh đầu tiên của ông là một anh lực điền, tuổi ngoài ba mươi. Anh ta bị ma Thần Vòng bắt vì dám dành lấy từ bàn tay của loài ma nổi tiếng hung ác này một sinh mạng, đó là khi anh dứt dây cứu một thiếu phụ hàng xóm giận chồng đi thắt cổ. Gia đình bệnh nhân đã đem anh ta đến nhờ thầy Tám Khủng, nhưng đành phải đem về chờ chết, vì ông ta đòi công chữa bệnh quá cao mà phải trả trước!
Thế nhưng anh lực điền ấy không chết một cách dễ dàng, những cơn điên đã biến anh thành một con quỷ dữ, sẵn sàng bứt dây trói, chạy khắp làng và gặp ai cũng nhào tới đánh đập, cắn xé làm mọi người cực kỳ kinh hãi. Bệnh nhân được khiêng đến nhà quan ngự y, những người dân vẫn cứ gọi một cách kính trọng như vậy dù ông đã thôi việc, trong tình trạng cuồng loạn.
Anh ta bị trói chặt bằng những sợi thừng to, nhưng miệng thì sùi bọt mép và luôn gầm gừ, rú rít bằng những âm thanh không phải của con người. Vị danh y hồi hộp đem thử nghiệm ngay phương thuốc của mình và điều kỳ diệu đã xảy ra ngay tức khắc. Sau khi được cạy miệng cho uống thứ nước có màu đỏ nhạt, một dung dịch giữa nước giếng khơi và thuốc, người bệnh dần dần ngủ yên. Trong ba ngày tiếp theo bệnh nhân được cho uống liên tục mỗi ngày một lần và đi đến khỏi hẳn. Vậy là con ma Thần Vòng đã bị trục xuất! Thuốc đã hiệu nghiệm rồi!
Tất cả mọi người đều vui mừng khôn tả, mà mừng nhất có lẽ là vị danh y hiền đức. Thế là từ đây ông đã yên tâm. Từ đây những người không may bị quỷ ám sẽ có ông ra tay trừng trị và trục xuất chúng! Bọn thầy pháp, thầy mo kia sẽ chẳng còn dịp để lên mặt coi thường ông, và tính giá cắt cổ với người nghèo! Khi được đám đệ tử thuật lại câu chuyện chữa bệnh thần kỳ của vị danh y, thầy Tám Khủng cười khà khà:
- Lão ấy đã tự rước họa vào thân rồi! Thật là đáng đời mà cũng thật tội nghiệp!
Rồi lão nói tiếp, vẻ đắc ý:
- Đối đầu với quỷ thần không phải là chuyện của bọn xuất thân mũ cao áo dài. Ta đây, mười năm lăn lộn chốn sơn thâm cùng cốc để học đạo. Bảo bối, pháp thuật đủ đầy. Có thể kêu gió, hú mây, dưới tay lại hàng vạn âm binh mà đôi khi còn phải tránh mặt Ma Vương, huống hồ gì lão ấy chỉ biết trông cậy vào chữ nghĩa của bọn hủ nho. Để rồi bây coi. Thật tội nghiệp! Thật tội nghiệp!
Tin quan ngự y chữa bệnh điên lan nhanh như chớp. Người dân cảm thấy an tâm hơn vì từ nay bên cạnh họ đã có một vị thánh nhân sẵn sàng cứu giúp. Nhưng rồi tai họa đã đổ ập vào gia đình vị thánh ấy không lâu...
Một buổi chiều, sau khi đi thăm bệnh cho một bệnh nhân già yếu, vị danh y ngồi võng trở về (thời ấy ở vùng núi, phương tiện đi lại khó khăn, những người có tiền, có địa vị thường đi võng). Vừa đến đầu làng, ông đã nhận được tin sét đánh. Cô con gái đầu của ông vừa đến tuổi cập kê, tự dưng đang ngồi trong nhà thì ngã lăn ra chết! Ông về đến nhà thì đã quá muộn và chỉ còn cách an ủi bà vợ đang lăn gào, khóc lóc vì quá đau thương!
Tai họa không làm ông nản lòng, trái lại ông còn bỏ nhiều thời gian hơn cho những người bất hạnh. Ông vẫn không từ nan một khó khăn nào, vẫn sẵn sàng ngồi võng đến một làng xa chữa bệnh cho những người già yếu không đi được.
Người bệnh điên thứ hai được ông chữa là một cô gái trẻ. Một hôm đi tát nước ruộng cô gái trông thấy một bầy vịt. Ngỡ là vịt của ai bị lạc cô liền lùa giúp về làng. Thế nhưng, khi lùa ngang qua miếu cô hồn, nơi người thiếu phụ thắt cổ rồi được cứu sống trước đây, bầy vịt biến mất còn cô gái vừa về đến nhà thì phát bệnh điên. Bệnh nhân không nguy hiểm như anh lực điền nhưng thật đáng thương vì thường trốn khỏi nhà đi lang thang, lúc khóc lúc cười và lại bứt xé hết quần áo.
Cũng chỉ với ba liều thuốc uống trong ba ngày, vị danh y đã trục xuất được ngay con quỷ trong người cô gái và từ chối không nhận lễ vật, tiền bạc của gia đình nạn nhân, một gia đình cũng rất nghèo, đem đến. Ông vẫn bình thản trước danh tiếng ngày càng vang dội của bản thân và tiếp tục sống giản dị, hết lòng với những người nghèo như vẫn từng đã sống. Nhưng tai họa thứ hai lại tới. Lần này là nhắm vào cậu con trai thứ của ông. Cũng từ một lần ông đi chữa bệnh xa. Cũng là một cái chết bất đắc kỳ tử và bí ẩn! Ông già đi nhanh chóng. Đôi vai gầy sụp xuống và đôi mắt u buồn hẳn, nhưng vẫn lao vào công việc của mình, như thể ông muốn mượn công việc để quên đi bao bất hạnh vừa rồi!
Người dân đã yêu quí ông giờ càng yêu quí hơn, vì nỗi đau mất mát của ông cũng gần như của họ. Trả tiền bạc, lễ vật hậu quá ông không nhận, thì họ lén lút đến cửa sau năn nỉ vợ ông nhận giùm, dù chỉ là cân gạo con cá vừa đánh được. Còn mỗi khi cần nhờ vả hay gặp ông ngoài đường, mọi người dân đều lễ phép vái chào “quan” với lòng kính trọng. Mấy tháng lại trôi qua. Nỗi đau dường như đã vơi bớt phần nào. Rồi ông lại nhận chữa cho một người điên khác. Lần này là một phụ nữ đã có chồng và ba đứa con. Căn bệnh tự nhiên bộc phát không rõ lý do nhưng triệu chứng điên thì rõ rệt. Gào thét, chửi bới, khóc cười... và mang một sức mạnh khác thường của kẻ điên: Chị ta có thể ném một cái cối đá xa hàng thước, điều mà ngay cả người đàn ông mạnh nhất làng cũng không làm nổi.
Người chồng phải tự tay đóng một chiếc cũi nhốt vợ vào đó, và nhờ đến bốn người khiêng đến nhà quan ngự y. Dân chúng đến xem chật cả cái sân rộng nhà ông. Tự tin và bình thản, vị danh y lại đem thuốc quý ra mài và sai người múc nước giếng khơi hòa vào. Một lần nữa chất nước màu đỏ nhạt lại linh nghiệm trước sự thán phục của mọi người. Người phụ nữ lại được trả về với chồng, với con như chính con người chị trước kia. Nhưng cũng một lần nữa gia đình lãnh tai họa thứ ba. Cũng như lần trước, cô con gái thứ ba mới mười hai tuổi, trong khi rửa chén ngoài cầu ao đã rơi xuống và bị chết đuối. Khi gia đình phát hiện thì cô con gái bất hạnh chỉ còn là cái xác không hồn!
Tang tóc bao trùm lên cả làng. Mắt mọi người đều rơm rớm lệ. Không một cuộc vui nào được tổ chức trong giới người nghèo suốt những tháng sau đó. Thậm chí người ta không dám cười lớn với nhau, vì sợ như thế là xúc phạm đến nỗi đau thương quá lớn của gia đình ông. Lần này, ông nằm liệt suốt cả tuần mới gượng lên được và cả tháng trời gần như mất ngủ. Tại sao những đứa con ta lại chết sau khi ta vừa chữa khỏi cho một người điên? Tại sao đó đều là những cái chết bất đắc kỳ tử và nằm ngoài sự kiểm soát của ta?
Những câu hỏi ấy hiện lên ám ảnh ông dữ dội. Không phải câu nói của pháp sư Tám Khủng không đến tai ông. Nó cũng đang làm ông suy nghĩ. Vợ ông, người đàn bà suốt đời tuân phục chồng giờ cũng năn nỉ ông thôi chữa bệnh điên. “Ông mà còn động đến quỷ thần thì gia đình mình còn nhận bao nhiêu là khốc hại!” Bà nói vậy nhưng ông gạt đi. Ông cho rằng những bất hạnh kia chỉ là ngẫu nhiên, dù chính ông cũng đang phân vân, không biết đâu là lời giải đáp! Lại nhiều tháng trôi qua, nhưng nỗi đau đã không nguôi ngoai trong tâm hồn bắt đầu rời rã của ông. Ông vẫn hốt thuốc, chữa bệnh bằng tất cả lương tâm của một lương y, nhưng đã bắt đầu thấy mệt mỏi. Rồi một hôm, có cả một gia đình từ một làng xa vượt đèo tìm đến ông.
Con trai họ, cháu đích tôn của một dòng tộc lớn, đang chờ chết vì bệnh điên. Họ đã cho rước mọi thầy phù thủy, pháp sư trong vùng nhưng các vị này đều bó tay vì không đủ sức để đuổi con quỷ kia. Nghe danh quan cựu ngự y, lại biết quan là người nhân đức, họ kéo cả gia đình gồm cha, mẹ, chị và cả ông bà người bệnh, vượt đường xa khẩn khoản đến xin ông ra tay tế độ! Vị danh y do dự. Đường khá xa. Hay là ta viện cớ này mà từ chối? Nhưng rồi trước những giọt nước mắt, trước sự năn nỉ lạy lục của họ suốt một đêm dài, lòng ông chùng lại. Gia đình bệnh nhân mừng rỡ như vừa sống lại. Họ vội mướn ngay một chiếc võng điều và hai người phu lực lưỡng.
Ông! Bà vợ già nghẹn ngào khi thấy chồng lại soạn đồ đạc. Nhà mình chỉ còn mỗi một thằng Út. Lỡ mà.. Bà không dám nói hết câu chỉ òa lên khóc. Ông nhìn vợ cảm thấy thương bà hơn, nhưng ông cũng gắng nói cứng:
- Tất cả là do số trời. Tôi không tin chuyện chữa bệnh của tôi dính líu gì đến sinh mạng của mấy đứa con mình. Bà an tâm thằng Út là cả cuộc đời tôi. Tôi sẽ bảo vệ nó. Ở nhà bà nhớ coi chừng con cẩn thận. Nhớ chỉ cho phép nó rời khỏi nhà khi tôi đã về!
Rất đông người làng tiễn ông như một chuyến đi xa và lòng ông ấm lại. Chiếc võng khuất dần ở một đường rẽ trước khi lên đèo. Nghe tin quan ngự y đến tận nơi chữa bệnh, những người trong làng bệnh nhân cũng xúm đen, xúm đỏ ngóng chờ. Sáng sớm ra đi thì gần trưa mới đến. Người ta lễ phép tránh xa, xì xào bàn tán khi võng ông đi qua. Một bờ tường cao bằng đá chạy dài chứng tỏ chủ nhân là một cự phú. Chiếc võng đã đi đến ngõ và vừa lúc ấy tiếng huyên náo nổi lên. Bệnh nhân bằng một sức mạnh kỳ bí, đã vùng dậy vượt qua cơn ngoắc ngoải của mình, đang vùng chạy ra đón đầu võng. Cả gia đình bệnh nhân cùng về sau ông hốt hoảng, họ níu võng thưa:
- Bẩm quan con trai tôi đó. Không hiểu sao nó lại ra được đến đây? Xin ngài cản lại giùm. Xin ngài rủ lòng thương!
Vị danh y bước nhanh ra khỏi võng. Ông chưa từng thấy người điên nào lại tỉnh táo đến vậy. Hắn hoàn toàn mạnh khỏe khi bước đến gần ông. Và trước sự kinh ngạc của hàng trăm con người, hắn vái chào ông thật lễ phép. Rồi hắn nói bằng một giọng mà những người từng biết hắn nhận ra ngay đó là giọng của một người xa lạ:
- Bẩm ngài ngự y. Tôi xin được phép hỏi ngài vài điều trước khi ngài bước vào căn nhà này?
Ngươi cứ nói! Vị danh y từ tốn.
- Bẩm ngài. Tôi chưa hề quen biết ngài, chúng ta cũng không thù oán gì nhau, vì thế tôi muốn hỏi tại sao từ cả năm nay, hễ tôi đi đến đâu là ngài theo đến đó? Tại sao tôi không muốn quấy phá gì ngài, mà ngài lại theo đuổi quấy phá mãi tôi?
Giọng anh ta thật thống thiết. Vị danh y bàng hoàng. Ông chăm chú nhìn người bệnh. Hắn nói rất tỉnh táo và khôn ngoan. Ngôn ngữ ấy dứt khoát không phải là của chàng trai điên này. Ta là thầy thuốc. Ta có nhiệm vụ chữa bệnh cho bất cứ ai cần đến ta! Ông trả lời cứng rắn.
- Nhưng đây là công việc của tôi! Cuộc sống của tôi. Tôi không cần thầy phải nhúng tay vào! Người bệnh gào lên. Tất cả mọi người đều bất động khi chứng kiến cái cảnh có một không hai trong đời họ.
Vị danh y vẫn ôn tồn nhưng cương quyết:
- Công việc của ta là cứu người. Ma quỷ cũng là một chứng bệnh mà ta thấy cần phải tống khứ cho kỳ hết!
Một tiếng cười lạnh vang lên:
- Nhưng thầy sẽ không bao giờ làm được điều ấy. Mọi sự đều có nhân quả của nó. Thầy quên rồi sao. Khi thầy trục xuất tôi ra khỏi người đầu tiên, tôi đã phải xin thầy cô Cả để bù trừ. Rồi đến cậu Hai, cô Ba, tương ứng với số lần mà thầy đã đánh đuổi tôi.
-Ngươi... ngươi... Vị danh y lắp bắp. Ông lạnh toát cả người. Vậy là đã rõ. Những tai họa kia không hề là ngẫu nhiên.
- Phải! Giọng nói lạnh lẽo ấy lại tiếp tục. Tất cả đều từ một tay tôi. Và giờ xin nói để thầy hay. Nếu lần này mà thầy cũng vẫn không thương thì... thì nhà thầy vẫn còn cậu Út. Phải, nếu mà thầy vẫn không thương thì tôi xin mạn phép thầy!
Vị danh y đứng chết lặng hồi lâu. Người bệnh cũng khoanh tay đứng bên ông. Xung quanh, thân nhân và dân làng cũng bất động... Chợt ông như sực tỉnh, ông quay ngoắt lại, bước về phía gia đình người bệnh. Ông nói mà nước mắt rơi ra:
- Hãy thứ lỗi cho tôi. Gia đình nên mời một pháp sư khác có pháp thuật cao cường, vừa có khả năng đuổi quỷ vừa bảo vệ được mình, mới mong trục xuất con quỷ dữ này. Còn tôi, tôi đã không thể.
Ông leo trở lên võng và bảo hai người phu khiêng ngược ra. Dân làng dãn ra cho ông đi. Họ không nói gì. Họ hiểu ông không đủ sức. Họ biết rằng sự hy sinh nào cũng có giới hạn. Ông đã bước đến cái giới hạn cuối cùng. Về đến làng, vị danh y đem chôn cái đãy gấm đựng thuốc xuống một nơi bí mật. Kể từ ngày ấy, ông chỉ chữa bệnh thường và vài năm sau thì mất.
Nguyễn Đình Bốn
BÍ ẨN LỜI NGUYỀN
Liệu những cái chết bí ẩn xung quanh kim tự tháp có liên quan đến lời nguyền. Vào thế kỷ mười bảy và mười tám, những hầm mộ đầu tiên của các Pharaon bị khai quật. Từ đó, câu chuyện có thật về lời nguyền đã hơn một lần vượt khỏi các kim tự tháp, vang lên điều răn đe khủng khiếp.
Người ta nhớ đến vụ cả nước Anh run lên vì cái nắp quách được tìm thấy vào năm 1860, thuộc sở hữu của Viện Bảo tàng Hoàng gia Anh. Cái nắp đó lấy lên từ phần mộ của một nữ tu sĩ thời xưa. Khi về Anh quốc, vật phẩm lạ kia đã gieo rắc tai họa cho tất cả những người tiếp xúc với nó. Người chủ sở hữu đầu tiên là ông Douglas Murray. Ông này bị mất hẳn một cánh tay ngay sau khi mua cái nắp, bởi một viên đạn phát nổ từ chính khẩu súng của mình.
Ít lâu sau, người thứ hai nếm trải sự trừng phạt là một nhà báo ở London. Cô mượn cái nắp về nhà để… xem. Ít ngày sau, mẹ cô đột ngột qua đời, rồi lời hứa hôn bị tan vỡ và cô bị mắc một chứng bệnh nan y bí hiểm, y học thời đó bó tay. Nhưng sự trừng phạt vẫn tiếp tục khi ông Murray “cung tiến” cái nắp quỷ quái nọ cho Viện Bảo tàng.
Một nhà khoa học về Ai Cập, khi đang xem xét những dòng chữ cổ in trên nắp, bỗng lăn ra chết bất ngờ. Nạn nhân tiếp theo là một nhà nhiếp ảnh. Ông này đột tử sau khi chụp được tấm ảnh, làm rõ nét gian ác của khuôn mặt vẽ phía ngoài nắp, mà ai cũng cho là gương mặt hiền lành khả ái.
Tin đồn về sự ghê gớm của cái nắp quách lan nhanh đến nỗi vào thập niên 1930, đồ cúng lễ từ khắp hành tinh tới tấp gửi về Viện bảo tàng Hoàng gia Anh, đặc biệt là các vòng hoa quanh nắp luôn tươi mới. Nhưng nhiều cái chết kỳ lạ và đột ngột, vẫn liên tiếp diễn ra ở các điểm khai quật khảo cổ ở Ai Cập, và những nơi khác trên thế giới. Lời nguyền không chỉ có từ các đồ vật ở mộ phần các Pharaon. Những vị chủ nhân khác cũng có khả năng “tẩm” lời nguyền độc địa vào cái mà họ cảm thấy cần giữ gìn. Thurston Hopkins ghi lại câu chuyện như sau:
Vào thời Nữ hoàng Victoria, tên sát nhân William Corder đã giết chết tình nhân của hắn tại Polsted nước Anh vào khoảng tháng năm 1827. Hắn bị hành hình. Năm mươi năm sau, phần thi thể của tên sát nhân được vị bác sĩ có tên Kilmer cất giữ. Ông là một nhà khoa học có quan điểm rõ ràng đối với hiện tượng kỳ bí. Vị bác sĩ đã tách chiếc sọ của tên giết người, đánh bóng nó và bày “làm cảnh” ở phòng làm việc.
Thế rồi điều kỳ lạ xảy ra. Vị bác sĩ và cả cô hầu đều cùng nhìn thấy lúc mơ hồ, lúc rất rõ kẻ lạ mặt đứng trong phòng, vận y phục thời Victoria. Riêng bác sĩ Kilmer còn nghe rõ cả tiếng lẩm bẩm và hơi thở phì phò. Nhiều lần nửa đêm thức giấc, bác sĩ nghe nhiều tiếng động bất bình thường ở căn phòng chứa cái sọ. Một đêm, cơn gió lạnh từ đâu thốc tới, giữa lúc Kilmer bước vào phòng, cái giá đặt sọ rơi vỡ tung, còn sọ tên sát nhân tự dịch chuyển sang vị trí khác và ông thấy nó như cười nhăn nhở (?).
Kilmer đã kiểm soát nhà cửa, nhưng tịnh không thấy dấu hiệu nào của người lạ hiện diện bên trong. Vị bác sĩ, nhà khoa học, thật sự thảng thốt. Ông đem chiếc sọ Corder trả lại cho cha Thurston Hopkins, ông này đem các thứ ấy chôn cất ở nghĩa địa. Từ đó trở đi, hiện tượng kỳ lạ trong gia thất bác sĩ Kilmer cũng biến mất.
Chuyện chiếc áo khoác của Nhà hát Công tước York gây ra nỗi khiếp sợ đến lạnh người. Vào năm 1948, Thora Hird, nữ diễn viên hài kịch nổi tiếng đã mặc chiếc áo đó khi trình diễn một vở kịch. Cô kinh hãi khi thấy chiếc áo cứ ngày càng thít chặt vào mình. Tất cả đồng nghiệp của cô cũng gặp nỗi sợ tương tự khi khoác chiếc áo này lên người...
Phải chăng lời nguyền đã bao phủlên tai họa trong các câu chuyện trên, hay tai họa có nguyên do từ nỗi khiếp sợ ám ảnh. Câu hỏi vẫn lơ lửng khi người ta ngày càng tìm thấy nhiều bằng chứng kỳ bí ở những vật hiếm hoi, đắt tiền hơn. Viên kim cương “Hy vọng” là điển hình của chuỗi giai thoại theo mô típ ấy: Mở đầu là thảm họa của vị chủ nhân thứ nhất: mất cả người lẫn của.
Sau đó tai ương giáng xuống hoàng hậu Marie Antoinette, cũng từ việc sở hữu “Hy vọng”. Tiếp đến, nó liên tiếp reo rắc những vụ tự sát, khuynh gia bại sản cho một loạt những người khác, trong đó có một vị vua Hồi giáo mất ngôi. Đi tìm lời giải cho truyền thuyết có thật về lời nguyền, nhiều nhà khoa học đồng tình với ý kiến cho rằng, nguyên nhân của những cái chết và cả loạt tai họa bí ẩn trên, là do một loại vi khuẩn “chưa biết đến” đang nằm yên trong hầm mộ, tích tụ ngày một nhiều trong các đồ vật.
Khi hầm mộ được khai quật, các “quái vật” nhỏ li ti giải phóng khỏi chổ ẩn náu, chúng liền chứng tỏ ngay sức mạnh tàn phá. Nhưng vẫn còn nhiều điều bí ẩn chưa biết đến, và liệu lời giải thích bằng loại “vi khuẩn chưa biết đến" này, có đủ sức chinh phục những người còn tin vào sự hiện hữu, mang vóc dáng thêu dệt của lời nguyền.
ST
Một trong những quan ngự y của Đức Thành Thái là người đất Quảng Nam. Khi nhà vua bị truất phế vào mùa thu năm 1907, ông cũng từ quan, về quê nhà sống với nghề hốt thuốc. Bà cố tôi, một trong những người hiếm hoi trong dòng họ sống vượt qua cái ngưỡng tuổi một trăm năm, vẫn thường kể rằng ông ưa nhắc đến đức tính thương dân, gần dân của nhà vua mà chính ông luôn lấy đó làm gương.
Từ ngày trở lại quê nhà, với tài năng thật sự và danh tiếng ngự y, không lúc nào ông được rảnh rỗi. Người bệnh tìm đến với ông đủ mọi thành phần và không chỉ giới hạn trong tỉnh Quảng Nam, dù rằng đôi khi họ phải vượt đèo Hải Vân ở phía bắc, và đèo Cả ở hướng ngược lại. Đến với ông, đông nhất vẫn là những người nghèo vì không như những danh y khác, ông luôn lấy y đức làm đầu, nên thường là ông chữa bệnh gần như miễn phí cho những người khốn khó.
Thế nhưng, dù là một danh y, rồi đạt đến đỉnh cao của sự nghiệp và danh vọng là được vời vào triều, đứng trong hàng ngũ của các vị ngự y trong Thái y viện, nơi đã giúp ông hoàn thiện thêm kiến thức và y thuật của mình, ngài “cựu ngự y” ấy nhiều khi vẫn cảm thấy bất lực trước cái nghiệt ngã của nghề nghiệp.
Ngay cả khi còn trong triều, hay khi đã về cùng những kẻ thứ dân, mỗi lần nhìn thấy tử thần cướp trên tay mình một sinh mệnh, là ông đau đớn đến mất ăn, mất ngủ. Thời ấy, ai bất hạnh vướng vào “tứ chứng nan y” thì kể như chỉ còn đợi thần chết đến, thế nhưng ngoài bốn chứng bệnh “phong, lao, cổ, lại” mà bất cứ thầy thuốc nào cũng phải bó tay ấy, ông còn luôn làm kẻ chiến bại trước một căn bệnh hiểm nghèo khác: bệnh điên!
Thoạt tiên, với uy tín cộng với lòng nhân hậu của ông, người nhà vẫn thường đem đến cho ông chữa trước, và chỉ khi ông “chạy” thì họ mới phải tìm đến các pháp sư, các thầy phù thủy, nơi mà tiền chữa trị đôi khi cao bằng cả một đời làm thuê. Tại sao các thầy pháp, thầy mo kia có thể chữa khỏi chứng điên mà ta thì không? Có những kẻ như “thầy” Tám Khủng làng bên vô học, thời trai trẻ chỉ biết đi ăn trộm rồi bị dân làng đánh đến bể đầu, xấu hổ bỏ làng đi biệt tích hàng mười năm, lại đùng một cái trở về xưng là pháp sư, học nghề tận vùng Thất Sơn huyền bí.
Và để chứng minh một cách hùng hồn cho danh xưng ấy, thầy Tám đã lập tức chữa khỏi hàng loạt bệnh điên đã đến thời kỳ, mà mọi ông thầy khác đều bó tay! Tại sao lại là như vậy? Tại sao?
Những câu hỏi ấy dày vò ông. Những câu hỏi làm ông đau xót và có phần nhục nhã. Những câu hỏi đúc dần trong lòng ông một quyết tâm: Phải học để biết cách chữa bệnh điên! Phải học để mà có thể đánh đuổi, trục xuất những con ác quỷ ra khỏi cuộc sống, trả lại linh hồn cho những người lương thiện. Nhưng học ai? Một quan ngự y xuất thân là một nhà nho, một “chơn quân tử” như ông tất nhiên là không thể cầu cạnh những thầy bùa, thầy pháp vô đạo đức, tham lam và chữ nhất cắn đôi còn chưa hiểu kia! Ông quyết tâm đi theo hướng của mình.
Cuối những năm ông làm ngự y, triều đình đã xảy ra một biến cố mà mọi sĩ phu đều biết. Lúc ấy, nhằm tạo ra lý do để truất phế nhà vua có tư tưởng tiến bộ, và chống lại chế độ bảo hộ của người Pháp, viên khâm sứ Lê-vec-cơ đã phao tin Đức Thành Thái bị điên. Vậy là chúng giam nhà vua vào điện Càn Thành, đồng thời để che mắt những người nghi ngờ, Hội Đồng Phụ Chính đã ra lệnh cho Thái Y Viện huy động mọi nguồn nhân sự và tài liệu liên quan đến bệnh điên về, nhằm chữa trị cho nhà vua.
Câu chuyện “làm trò” ấy rồi ai cũng biết, nhưng những tài liệu y thuật cổ kim nhằm trị chứng bệnh kia thì vẫn còn được tàng trữ tại Thái Y Viện. Thế là ông lên được trở lại kinh đô, nơi vẫn đang cuồn cuộn những đợt sóng ngầm giữa những âm mưu chính trị. Gạt mọi chuyện ngoài tai và dựa vào sự quen biết cũ, ông lao vào mục đích của mình. Tàng thư của triều đình, tàng thư của các danh y chốn kinh thành, hoặc bất cứ đâu nếu được phép ông đều tìm đến ngay xin tham khảo. Tấm lòng và sự bền chí ấy rốt cuộc đã được đền bù, ông đã tìm ra được công thức pha chế thuốc chữa bệnh điên hiệu nghiệm nhất!
Thế nhưng thành phần của phương thuốc ấy lại là một thách thức không kém khó khăn. Đó là một hỗn hợp đặc biệt gồm các nguyên liệu lạ lùng và hiếm hoi, mà khó nhất là phải tìm cách kiếm cho được một Thiên Linh Cái (sọ của những con gái đồng trinh bị trời đánh) và những phương thuật luyện đan nghiêm ngặt khá. Nhưng bằng một ý chí đã thành đá, cộng với một sự cố gắng liên tục, bền bỉ, cuối cùng ông cũng vượt qua được mọi cản ngại để luyện xong phương thuốc trên.
Người bệnh đầu tiên của ông là một anh lực điền, tuổi ngoài ba mươi. Anh ta bị ma Thần Vòng bắt vì dám dành lấy từ bàn tay của loài ma nổi tiếng hung ác này một sinh mạng, đó là khi anh dứt dây cứu một thiếu phụ hàng xóm giận chồng đi thắt cổ. Gia đình bệnh nhân đã đem anh ta đến nhờ thầy Tám Khủng, nhưng đành phải đem về chờ chết, vì ông ta đòi công chữa bệnh quá cao mà phải trả trước!
Thế nhưng anh lực điền ấy không chết một cách dễ dàng, những cơn điên đã biến anh thành một con quỷ dữ, sẵn sàng bứt dây trói, chạy khắp làng và gặp ai cũng nhào tới đánh đập, cắn xé làm mọi người cực kỳ kinh hãi. Bệnh nhân được khiêng đến nhà quan ngự y, những người dân vẫn cứ gọi một cách kính trọng như vậy dù ông đã thôi việc, trong tình trạng cuồng loạn.
Anh ta bị trói chặt bằng những sợi thừng to, nhưng miệng thì sùi bọt mép và luôn gầm gừ, rú rít bằng những âm thanh không phải của con người. Vị danh y hồi hộp đem thử nghiệm ngay phương thuốc của mình và điều kỳ diệu đã xảy ra ngay tức khắc. Sau khi được cạy miệng cho uống thứ nước có màu đỏ nhạt, một dung dịch giữa nước giếng khơi và thuốc, người bệnh dần dần ngủ yên. Trong ba ngày tiếp theo bệnh nhân được cho uống liên tục mỗi ngày một lần và đi đến khỏi hẳn. Vậy là con ma Thần Vòng đã bị trục xuất! Thuốc đã hiệu nghiệm rồi!
Tất cả mọi người đều vui mừng khôn tả, mà mừng nhất có lẽ là vị danh y hiền đức. Thế là từ đây ông đã yên tâm. Từ đây những người không may bị quỷ ám sẽ có ông ra tay trừng trị và trục xuất chúng! Bọn thầy pháp, thầy mo kia sẽ chẳng còn dịp để lên mặt coi thường ông, và tính giá cắt cổ với người nghèo! Khi được đám đệ tử thuật lại câu chuyện chữa bệnh thần kỳ của vị danh y, thầy Tám Khủng cười khà khà:
- Lão ấy đã tự rước họa vào thân rồi! Thật là đáng đời mà cũng thật tội nghiệp!
Rồi lão nói tiếp, vẻ đắc ý:
- Đối đầu với quỷ thần không phải là chuyện của bọn xuất thân mũ cao áo dài. Ta đây, mười năm lăn lộn chốn sơn thâm cùng cốc để học đạo. Bảo bối, pháp thuật đủ đầy. Có thể kêu gió, hú mây, dưới tay lại hàng vạn âm binh mà đôi khi còn phải tránh mặt Ma Vương, huống hồ gì lão ấy chỉ biết trông cậy vào chữ nghĩa của bọn hủ nho. Để rồi bây coi. Thật tội nghiệp! Thật tội nghiệp!
Tin quan ngự y chữa bệnh điên lan nhanh như chớp. Người dân cảm thấy an tâm hơn vì từ nay bên cạnh họ đã có một vị thánh nhân sẵn sàng cứu giúp. Nhưng rồi tai họa đã đổ ập vào gia đình vị thánh ấy không lâu...
Một buổi chiều, sau khi đi thăm bệnh cho một bệnh nhân già yếu, vị danh y ngồi võng trở về (thời ấy ở vùng núi, phương tiện đi lại khó khăn, những người có tiền, có địa vị thường đi võng). Vừa đến đầu làng, ông đã nhận được tin sét đánh. Cô con gái đầu của ông vừa đến tuổi cập kê, tự dưng đang ngồi trong nhà thì ngã lăn ra chết! Ông về đến nhà thì đã quá muộn và chỉ còn cách an ủi bà vợ đang lăn gào, khóc lóc vì quá đau thương!
Tai họa không làm ông nản lòng, trái lại ông còn bỏ nhiều thời gian hơn cho những người bất hạnh. Ông vẫn không từ nan một khó khăn nào, vẫn sẵn sàng ngồi võng đến một làng xa chữa bệnh cho những người già yếu không đi được.
Người bệnh điên thứ hai được ông chữa là một cô gái trẻ. Một hôm đi tát nước ruộng cô gái trông thấy một bầy vịt. Ngỡ là vịt của ai bị lạc cô liền lùa giúp về làng. Thế nhưng, khi lùa ngang qua miếu cô hồn, nơi người thiếu phụ thắt cổ rồi được cứu sống trước đây, bầy vịt biến mất còn cô gái vừa về đến nhà thì phát bệnh điên. Bệnh nhân không nguy hiểm như anh lực điền nhưng thật đáng thương vì thường trốn khỏi nhà đi lang thang, lúc khóc lúc cười và lại bứt xé hết quần áo.
Cũng chỉ với ba liều thuốc uống trong ba ngày, vị danh y đã trục xuất được ngay con quỷ trong người cô gái và từ chối không nhận lễ vật, tiền bạc của gia đình nạn nhân, một gia đình cũng rất nghèo, đem đến. Ông vẫn bình thản trước danh tiếng ngày càng vang dội của bản thân và tiếp tục sống giản dị, hết lòng với những người nghèo như vẫn từng đã sống. Nhưng tai họa thứ hai lại tới. Lần này là nhắm vào cậu con trai thứ của ông. Cũng từ một lần ông đi chữa bệnh xa. Cũng là một cái chết bất đắc kỳ tử và bí ẩn! Ông già đi nhanh chóng. Đôi vai gầy sụp xuống và đôi mắt u buồn hẳn, nhưng vẫn lao vào công việc của mình, như thể ông muốn mượn công việc để quên đi bao bất hạnh vừa rồi!
Người dân đã yêu quí ông giờ càng yêu quí hơn, vì nỗi đau mất mát của ông cũng gần như của họ. Trả tiền bạc, lễ vật hậu quá ông không nhận, thì họ lén lút đến cửa sau năn nỉ vợ ông nhận giùm, dù chỉ là cân gạo con cá vừa đánh được. Còn mỗi khi cần nhờ vả hay gặp ông ngoài đường, mọi người dân đều lễ phép vái chào “quan” với lòng kính trọng. Mấy tháng lại trôi qua. Nỗi đau dường như đã vơi bớt phần nào. Rồi ông lại nhận chữa cho một người điên khác. Lần này là một phụ nữ đã có chồng và ba đứa con. Căn bệnh tự nhiên bộc phát không rõ lý do nhưng triệu chứng điên thì rõ rệt. Gào thét, chửi bới, khóc cười... và mang một sức mạnh khác thường của kẻ điên: Chị ta có thể ném một cái cối đá xa hàng thước, điều mà ngay cả người đàn ông mạnh nhất làng cũng không làm nổi.
Người chồng phải tự tay đóng một chiếc cũi nhốt vợ vào đó, và nhờ đến bốn người khiêng đến nhà quan ngự y. Dân chúng đến xem chật cả cái sân rộng nhà ông. Tự tin và bình thản, vị danh y lại đem thuốc quý ra mài và sai người múc nước giếng khơi hòa vào. Một lần nữa chất nước màu đỏ nhạt lại linh nghiệm trước sự thán phục của mọi người. Người phụ nữ lại được trả về với chồng, với con như chính con người chị trước kia. Nhưng cũng một lần nữa gia đình lãnh tai họa thứ ba. Cũng như lần trước, cô con gái thứ ba mới mười hai tuổi, trong khi rửa chén ngoài cầu ao đã rơi xuống và bị chết đuối. Khi gia đình phát hiện thì cô con gái bất hạnh chỉ còn là cái xác không hồn!
Tang tóc bao trùm lên cả làng. Mắt mọi người đều rơm rớm lệ. Không một cuộc vui nào được tổ chức trong giới người nghèo suốt những tháng sau đó. Thậm chí người ta không dám cười lớn với nhau, vì sợ như thế là xúc phạm đến nỗi đau thương quá lớn của gia đình ông. Lần này, ông nằm liệt suốt cả tuần mới gượng lên được và cả tháng trời gần như mất ngủ. Tại sao những đứa con ta lại chết sau khi ta vừa chữa khỏi cho một người điên? Tại sao đó đều là những cái chết bất đắc kỳ tử và nằm ngoài sự kiểm soát của ta?
Những câu hỏi ấy hiện lên ám ảnh ông dữ dội. Không phải câu nói của pháp sư Tám Khủng không đến tai ông. Nó cũng đang làm ông suy nghĩ. Vợ ông, người đàn bà suốt đời tuân phục chồng giờ cũng năn nỉ ông thôi chữa bệnh điên. “Ông mà còn động đến quỷ thần thì gia đình mình còn nhận bao nhiêu là khốc hại!” Bà nói vậy nhưng ông gạt đi. Ông cho rằng những bất hạnh kia chỉ là ngẫu nhiên, dù chính ông cũng đang phân vân, không biết đâu là lời giải đáp! Lại nhiều tháng trôi qua, nhưng nỗi đau đã không nguôi ngoai trong tâm hồn bắt đầu rời rã của ông. Ông vẫn hốt thuốc, chữa bệnh bằng tất cả lương tâm của một lương y, nhưng đã bắt đầu thấy mệt mỏi. Rồi một hôm, có cả một gia đình từ một làng xa vượt đèo tìm đến ông.
Con trai họ, cháu đích tôn của một dòng tộc lớn, đang chờ chết vì bệnh điên. Họ đã cho rước mọi thầy phù thủy, pháp sư trong vùng nhưng các vị này đều bó tay vì không đủ sức để đuổi con quỷ kia. Nghe danh quan cựu ngự y, lại biết quan là người nhân đức, họ kéo cả gia đình gồm cha, mẹ, chị và cả ông bà người bệnh, vượt đường xa khẩn khoản đến xin ông ra tay tế độ! Vị danh y do dự. Đường khá xa. Hay là ta viện cớ này mà từ chối? Nhưng rồi trước những giọt nước mắt, trước sự năn nỉ lạy lục của họ suốt một đêm dài, lòng ông chùng lại. Gia đình bệnh nhân mừng rỡ như vừa sống lại. Họ vội mướn ngay một chiếc võng điều và hai người phu lực lưỡng.
Ông! Bà vợ già nghẹn ngào khi thấy chồng lại soạn đồ đạc. Nhà mình chỉ còn mỗi một thằng Út. Lỡ mà.. Bà không dám nói hết câu chỉ òa lên khóc. Ông nhìn vợ cảm thấy thương bà hơn, nhưng ông cũng gắng nói cứng:
- Tất cả là do số trời. Tôi không tin chuyện chữa bệnh của tôi dính líu gì đến sinh mạng của mấy đứa con mình. Bà an tâm thằng Út là cả cuộc đời tôi. Tôi sẽ bảo vệ nó. Ở nhà bà nhớ coi chừng con cẩn thận. Nhớ chỉ cho phép nó rời khỏi nhà khi tôi đã về!
Rất đông người làng tiễn ông như một chuyến đi xa và lòng ông ấm lại. Chiếc võng khuất dần ở một đường rẽ trước khi lên đèo. Nghe tin quan ngự y đến tận nơi chữa bệnh, những người trong làng bệnh nhân cũng xúm đen, xúm đỏ ngóng chờ. Sáng sớm ra đi thì gần trưa mới đến. Người ta lễ phép tránh xa, xì xào bàn tán khi võng ông đi qua. Một bờ tường cao bằng đá chạy dài chứng tỏ chủ nhân là một cự phú. Chiếc võng đã đi đến ngõ và vừa lúc ấy tiếng huyên náo nổi lên. Bệnh nhân bằng một sức mạnh kỳ bí, đã vùng dậy vượt qua cơn ngoắc ngoải của mình, đang vùng chạy ra đón đầu võng. Cả gia đình bệnh nhân cùng về sau ông hốt hoảng, họ níu võng thưa:
- Bẩm quan con trai tôi đó. Không hiểu sao nó lại ra được đến đây? Xin ngài cản lại giùm. Xin ngài rủ lòng thương!
Vị danh y bước nhanh ra khỏi võng. Ông chưa từng thấy người điên nào lại tỉnh táo đến vậy. Hắn hoàn toàn mạnh khỏe khi bước đến gần ông. Và trước sự kinh ngạc của hàng trăm con người, hắn vái chào ông thật lễ phép. Rồi hắn nói bằng một giọng mà những người từng biết hắn nhận ra ngay đó là giọng của một người xa lạ:
- Bẩm ngài ngự y. Tôi xin được phép hỏi ngài vài điều trước khi ngài bước vào căn nhà này?
Ngươi cứ nói! Vị danh y từ tốn.
- Bẩm ngài. Tôi chưa hề quen biết ngài, chúng ta cũng không thù oán gì nhau, vì thế tôi muốn hỏi tại sao từ cả năm nay, hễ tôi đi đến đâu là ngài theo đến đó? Tại sao tôi không muốn quấy phá gì ngài, mà ngài lại theo đuổi quấy phá mãi tôi?
Giọng anh ta thật thống thiết. Vị danh y bàng hoàng. Ông chăm chú nhìn người bệnh. Hắn nói rất tỉnh táo và khôn ngoan. Ngôn ngữ ấy dứt khoát không phải là của chàng trai điên này. Ta là thầy thuốc. Ta có nhiệm vụ chữa bệnh cho bất cứ ai cần đến ta! Ông trả lời cứng rắn.
- Nhưng đây là công việc của tôi! Cuộc sống của tôi. Tôi không cần thầy phải nhúng tay vào! Người bệnh gào lên. Tất cả mọi người đều bất động khi chứng kiến cái cảnh có một không hai trong đời họ.
Vị danh y vẫn ôn tồn nhưng cương quyết:
- Công việc của ta là cứu người. Ma quỷ cũng là một chứng bệnh mà ta thấy cần phải tống khứ cho kỳ hết!
Một tiếng cười lạnh vang lên:
- Nhưng thầy sẽ không bao giờ làm được điều ấy. Mọi sự đều có nhân quả của nó. Thầy quên rồi sao. Khi thầy trục xuất tôi ra khỏi người đầu tiên, tôi đã phải xin thầy cô Cả để bù trừ. Rồi đến cậu Hai, cô Ba, tương ứng với số lần mà thầy đã đánh đuổi tôi.
-Ngươi... ngươi... Vị danh y lắp bắp. Ông lạnh toát cả người. Vậy là đã rõ. Những tai họa kia không hề là ngẫu nhiên.
- Phải! Giọng nói lạnh lẽo ấy lại tiếp tục. Tất cả đều từ một tay tôi. Và giờ xin nói để thầy hay. Nếu lần này mà thầy cũng vẫn không thương thì... thì nhà thầy vẫn còn cậu Út. Phải, nếu mà thầy vẫn không thương thì tôi xin mạn phép thầy!
Vị danh y đứng chết lặng hồi lâu. Người bệnh cũng khoanh tay đứng bên ông. Xung quanh, thân nhân và dân làng cũng bất động... Chợt ông như sực tỉnh, ông quay ngoắt lại, bước về phía gia đình người bệnh. Ông nói mà nước mắt rơi ra:
- Hãy thứ lỗi cho tôi. Gia đình nên mời một pháp sư khác có pháp thuật cao cường, vừa có khả năng đuổi quỷ vừa bảo vệ được mình, mới mong trục xuất con quỷ dữ này. Còn tôi, tôi đã không thể.
Ông leo trở lên võng và bảo hai người phu khiêng ngược ra. Dân làng dãn ra cho ông đi. Họ không nói gì. Họ hiểu ông không đủ sức. Họ biết rằng sự hy sinh nào cũng có giới hạn. Ông đã bước đến cái giới hạn cuối cùng. Về đến làng, vị danh y đem chôn cái đãy gấm đựng thuốc xuống một nơi bí mật. Kể từ ngày ấy, ông chỉ chữa bệnh thường và vài năm sau thì mất.
Nguyễn Đình Bốn
BÍ ẨN LỜI NGUYỀN
Liệu những cái chết bí ẩn xung quanh kim tự tháp có liên quan đến lời nguyền. Vào thế kỷ mười bảy và mười tám, những hầm mộ đầu tiên của các Pharaon bị khai quật. Từ đó, câu chuyện có thật về lời nguyền đã hơn một lần vượt khỏi các kim tự tháp, vang lên điều răn đe khủng khiếp.
Người ta nhớ đến vụ cả nước Anh run lên vì cái nắp quách được tìm thấy vào năm 1860, thuộc sở hữu của Viện Bảo tàng Hoàng gia Anh. Cái nắp đó lấy lên từ phần mộ của một nữ tu sĩ thời xưa. Khi về Anh quốc, vật phẩm lạ kia đã gieo rắc tai họa cho tất cả những người tiếp xúc với nó. Người chủ sở hữu đầu tiên là ông Douglas Murray. Ông này bị mất hẳn một cánh tay ngay sau khi mua cái nắp, bởi một viên đạn phát nổ từ chính khẩu súng của mình.
Ít lâu sau, người thứ hai nếm trải sự trừng phạt là một nhà báo ở London. Cô mượn cái nắp về nhà để… xem. Ít ngày sau, mẹ cô đột ngột qua đời, rồi lời hứa hôn bị tan vỡ và cô bị mắc một chứng bệnh nan y bí hiểm, y học thời đó bó tay. Nhưng sự trừng phạt vẫn tiếp tục khi ông Murray “cung tiến” cái nắp quỷ quái nọ cho Viện Bảo tàng.
Một nhà khoa học về Ai Cập, khi đang xem xét những dòng chữ cổ in trên nắp, bỗng lăn ra chết bất ngờ. Nạn nhân tiếp theo là một nhà nhiếp ảnh. Ông này đột tử sau khi chụp được tấm ảnh, làm rõ nét gian ác của khuôn mặt vẽ phía ngoài nắp, mà ai cũng cho là gương mặt hiền lành khả ái.
Tin đồn về sự ghê gớm của cái nắp quách lan nhanh đến nỗi vào thập niên 1930, đồ cúng lễ từ khắp hành tinh tới tấp gửi về Viện bảo tàng Hoàng gia Anh, đặc biệt là các vòng hoa quanh nắp luôn tươi mới. Nhưng nhiều cái chết kỳ lạ và đột ngột, vẫn liên tiếp diễn ra ở các điểm khai quật khảo cổ ở Ai Cập, và những nơi khác trên thế giới. Lời nguyền không chỉ có từ các đồ vật ở mộ phần các Pharaon. Những vị chủ nhân khác cũng có khả năng “tẩm” lời nguyền độc địa vào cái mà họ cảm thấy cần giữ gìn. Thurston Hopkins ghi lại câu chuyện như sau:
Vào thời Nữ hoàng Victoria, tên sát nhân William Corder đã giết chết tình nhân của hắn tại Polsted nước Anh vào khoảng tháng năm 1827. Hắn bị hành hình. Năm mươi năm sau, phần thi thể của tên sát nhân được vị bác sĩ có tên Kilmer cất giữ. Ông là một nhà khoa học có quan điểm rõ ràng đối với hiện tượng kỳ bí. Vị bác sĩ đã tách chiếc sọ của tên giết người, đánh bóng nó và bày “làm cảnh” ở phòng làm việc.
Thế rồi điều kỳ lạ xảy ra. Vị bác sĩ và cả cô hầu đều cùng nhìn thấy lúc mơ hồ, lúc rất rõ kẻ lạ mặt đứng trong phòng, vận y phục thời Victoria. Riêng bác sĩ Kilmer còn nghe rõ cả tiếng lẩm bẩm và hơi thở phì phò. Nhiều lần nửa đêm thức giấc, bác sĩ nghe nhiều tiếng động bất bình thường ở căn phòng chứa cái sọ. Một đêm, cơn gió lạnh từ đâu thốc tới, giữa lúc Kilmer bước vào phòng, cái giá đặt sọ rơi vỡ tung, còn sọ tên sát nhân tự dịch chuyển sang vị trí khác và ông thấy nó như cười nhăn nhở (?).
Kilmer đã kiểm soát nhà cửa, nhưng tịnh không thấy dấu hiệu nào của người lạ hiện diện bên trong. Vị bác sĩ, nhà khoa học, thật sự thảng thốt. Ông đem chiếc sọ Corder trả lại cho cha Thurston Hopkins, ông này đem các thứ ấy chôn cất ở nghĩa địa. Từ đó trở đi, hiện tượng kỳ lạ trong gia thất bác sĩ Kilmer cũng biến mất.
Chuyện chiếc áo khoác của Nhà hát Công tước York gây ra nỗi khiếp sợ đến lạnh người. Vào năm 1948, Thora Hird, nữ diễn viên hài kịch nổi tiếng đã mặc chiếc áo đó khi trình diễn một vở kịch. Cô kinh hãi khi thấy chiếc áo cứ ngày càng thít chặt vào mình. Tất cả đồng nghiệp của cô cũng gặp nỗi sợ tương tự khi khoác chiếc áo này lên người...
Phải chăng lời nguyền đã bao phủlên tai họa trong các câu chuyện trên, hay tai họa có nguyên do từ nỗi khiếp sợ ám ảnh. Câu hỏi vẫn lơ lửng khi người ta ngày càng tìm thấy nhiều bằng chứng kỳ bí ở những vật hiếm hoi, đắt tiền hơn. Viên kim cương “Hy vọng” là điển hình của chuỗi giai thoại theo mô típ ấy: Mở đầu là thảm họa của vị chủ nhân thứ nhất: mất cả người lẫn của.
Sau đó tai ương giáng xuống hoàng hậu Marie Antoinette, cũng từ việc sở hữu “Hy vọng”. Tiếp đến, nó liên tiếp reo rắc những vụ tự sát, khuynh gia bại sản cho một loạt những người khác, trong đó có một vị vua Hồi giáo mất ngôi. Đi tìm lời giải cho truyền thuyết có thật về lời nguyền, nhiều nhà khoa học đồng tình với ý kiến cho rằng, nguyên nhân của những cái chết và cả loạt tai họa bí ẩn trên, là do một loại vi khuẩn “chưa biết đến” đang nằm yên trong hầm mộ, tích tụ ngày một nhiều trong các đồ vật.
Khi hầm mộ được khai quật, các “quái vật” nhỏ li ti giải phóng khỏi chổ ẩn náu, chúng liền chứng tỏ ngay sức mạnh tàn phá. Nhưng vẫn còn nhiều điều bí ẩn chưa biết đến, và liệu lời giải thích bằng loại “vi khuẩn chưa biết đến" này, có đủ sức chinh phục những người còn tin vào sự hiện hữu, mang vóc dáng thêu dệt của lời nguyền.
ST
#45
Gửi vào 15/06/2011 - 00:11
HIỆN TƯỢNG BÓNG ĐÈ
Hiện tượng bóng đè hay xảy ra vào giấc ngủ trưa hoặc ngủ cố buổi sáng. Tức là ngủ không sâu, khi đó não bạn đã tỉnh. Hiện tượng hồn thoát xác rất dễ xảy ra vào lúc này. Ai muốn hồn mình rong chơi có thể bỏ đi vào lúc này.
Bạn gặp cảm giác: rất muốn nói nhưng không mở mồm ra được. Chân tay cứng đờ, không cử động được. Nếu người ngoài sẽ thấy là bạn đang nằm mơ, nói ú ớ. Tâm trí bạn lúc đó có thể rất kinh hãi. Đó là do hồn bạn không chui vào đúng trung khu thần kinh, nên không thể điều khiển được.
Có hai cách:
1. Ai đó đang thức đập bộp vào người bạn, bạn sẽ choàng tỉnh.
2. Nếu không có ai cách nhanh nhất có thể tỉnh dậy, là bạn cố gắng cử động ngón tay trỏ của bàn tay phải, cử động ngọ ngọay một lúc, hồn bạn sẽ nhập xác bạn sẽ tỉnh lại được ngay.
Nếu bạn cố gắng nói to hoặc cử động chân tay, sẽ rất mệt và xuất hiện hiện tượng bóng đè vào người mình, không thể cử động được tim đập thình thịch mồ hôi vã ra. Chỉ nên áp dụng cách hai để tỉnh lại.
Hiện tượng hồn thoát xác là hiện tưọng bình thưòng, các bạn đừng sợ vì đó không phải ma. Nhưng bạn lưu ý là các cụ hay cấm vẽ mặt vào người đang ngủ. Vì có thể trong lúc rong chơi hồn quay về, thấy lạ không nhập vào xác được nữa.
Việc ngủ trưa hoặc đêm về sáng khoảng ba bốn giờ am, hay nhìn thấy ma hoặc mơ thấy ma, là do hồn lúc này rất tỉnh, thoát khỏi sự điều khiển của não, dễ cảm nhận hoặc thấy được các linh hồn vây quanh.
ST
Hiện tượng bóng đè hay xảy ra vào giấc ngủ trưa hoặc ngủ cố buổi sáng. Tức là ngủ không sâu, khi đó não bạn đã tỉnh. Hiện tượng hồn thoát xác rất dễ xảy ra vào lúc này. Ai muốn hồn mình rong chơi có thể bỏ đi vào lúc này.
Bạn gặp cảm giác: rất muốn nói nhưng không mở mồm ra được. Chân tay cứng đờ, không cử động được. Nếu người ngoài sẽ thấy là bạn đang nằm mơ, nói ú ớ. Tâm trí bạn lúc đó có thể rất kinh hãi. Đó là do hồn bạn không chui vào đúng trung khu thần kinh, nên không thể điều khiển được.
Có hai cách:
1. Ai đó đang thức đập bộp vào người bạn, bạn sẽ choàng tỉnh.
2. Nếu không có ai cách nhanh nhất có thể tỉnh dậy, là bạn cố gắng cử động ngón tay trỏ của bàn tay phải, cử động ngọ ngọay một lúc, hồn bạn sẽ nhập xác bạn sẽ tỉnh lại được ngay.
Nếu bạn cố gắng nói to hoặc cử động chân tay, sẽ rất mệt và xuất hiện hiện tượng bóng đè vào người mình, không thể cử động được tim đập thình thịch mồ hôi vã ra. Chỉ nên áp dụng cách hai để tỉnh lại.
Hiện tượng hồn thoát xác là hiện tưọng bình thưòng, các bạn đừng sợ vì đó không phải ma. Nhưng bạn lưu ý là các cụ hay cấm vẽ mặt vào người đang ngủ. Vì có thể trong lúc rong chơi hồn quay về, thấy lạ không nhập vào xác được nữa.
Việc ngủ trưa hoặc đêm về sáng khoảng ba bốn giờ am, hay nhìn thấy ma hoặc mơ thấy ma, là do hồn lúc này rất tỉnh, thoát khỏi sự điều khiển của não, dễ cảm nhận hoặc thấy được các linh hồn vây quanh.
ST
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
những góc nhìn khác nhau về chuyện cưới xin, xung - hợp vợ chồng |
Tử Bình | hieuthuyloi |
|
||
Dự đoán phối hợp nhiều môn huyền học cho chính trị & kinh tế thế giới |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
||
Xem Tử Vi - huyền "Học" - vọc phương pháp |
Gặp Gỡ - Giao Lưu | Vung |
|
||
Suy nghĩ với hỗn hợp nhiều môn huyền học cho lá số VNXHCN |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
||
Lưu Kim Tài chuyên đềLưu Kim Tài |
Tử Bình | Durobi |
|
||
Tặng trọn bộ sách huyền học cổ kim đồ thư tập thành |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | trongtri |
|
5 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 5 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |