Trích dẫn
Bàn về LNDV, thú thực rằng cháu sẽ rất cẩn trọng vì cơ sở khoa học của nó.
Pros
Nó là tầng lưu duy nhất mà gắn liền với Đại Vận, so với tiểu vận và Lưu Tuế.
Cons:
+Cơ sở khoa học của nó hoàn toàn không rõ ràng. Đến nay, kết quả gần nhất mà cháu biết mô tả nguyên lý hình thành của LNDV là thông qua bát tự Hà Lạc (gấu 2012), nhưng sự liên hệ này còn quá yếu.
Một số tài liệu trong cổ thư có thể liên hệ với LNDV là thông qua QLTT và thuật thất chính tứ dư, tuy nhiên mối liên hệ này hoàn toàn mờ nhạt và không rõ nét.
+Truớc VDTTL hoàn toàn không hề có bất cứ một tác giả nào khác (nằm trong hiểu biết của người viết) sử dụng LNDV. Cháu có khảo sát ít nhất vài bản khác nhau của cả TVDS Toàn Thư và Toàn Tập, vốn được coi là kinh điển của Nam Phái, và cũng không tìm thấy.
Ít nhất cho tới thời điểm này, tất cả các tài liệu đều không hề nhắc tới LNDV, ngoại trừ một số tác giả đọc trực tiếp từ VDTTL mà ra, nhưng cũng không có chứng minh, và toàn viết theo kiểu thơ đề.
+Không loại trừ sự tồn tại của nhiều cách xem vận khác cũng gắn liền với ĐV, nhưng khác với LNDV
Chào Gấu.
Tôi thì không thích nói đến hai chữ "khoa học" trong huyền học. Mặc dù tôi rất trọng lô gic. Theo tôi, kể cả khi đạt tới sự chặt chẽ – như toán học, hay mong đạt được như vậy – thì hai chữ khoa học đối với nó, vẫn còn quá "xa xỉ". Nhưng nếu ai đó dùng thì tôi cũng ủng hộ và hiểu theo nghĩa là nói đến cơ sở và khả năng lý luận chặt chẽ của nó.
Cơ sở của LN đại vận không có gì là to tát cả. Có chăng, sự sử dụng chúng có khác nhau tùy theo mỗi phái. Do đó tôi vẫn xem, về bản chất là như nhau tuy cách gọi và thể hiện khác nhau ở mỗi phái.
Bản chất của LN đại vận là lưu cung an mệnh theo vận trình. Kể từ đại vận (10 năm) trở đi cho đến thời vận (theo canh giờ). Và sự xác định của nó chỉ là trạng thái của mệnh theo thời gian cuộc đời. Nên người ta hay gọi nó là mệnh vận. Do bởi luận số, những biến cố liên quan đến mệnh thường được xem là trung tâm, và sự chi phối của nó tới đa phần các biến cố liên quan đến những đối tượng khác có "dây mơ rễ má" đến đời ta cũng đều có liên hệ tới mệnh. Theo đó, về lý mà nói, cho phép luận vận của mệnh như là một sự luận chung biến cố cho cuộc đời tại từng vận trình mà mệnh xác định theo đó. Tôi chưa hề thấy phái nào bỏ qua không luận vận trình của mệnh. Ở đại vận (10 năm) thì mỗi cung đại vận là một lưu mệnh. Thực chất là lưu vận đại vận. Đến vậ lưu niên, nó chính là lưu vận của mệnh niên gọi tắt là lưu niên (năm) của đại vận, và cứ thế tới nguyệt vận, nhật vận rồi thời vận. Xác định được cơ sở của mệnh (gốc lý tạo nên Mệnh viên) thì theo thời gian dịch chuyển của cuộc đời, mệnh viên di chuyển chính là Lưu mệnh, ở vận lưu niên, nó chính là lưu niên đại vận mà thôi.
Chỉ có sự khác nhau lớn giữa các phái là việc coi có tồn tại vận niên ở dạng lưu thái tuế, hay lưu tiểu vận. Bắc phái bỏ qua tiểu vận lưu niên với lý do là nó hay gây mâu thuẫn với lưu thái tuế. Với những cơ sở lý luận trong ứng dụng và tính lý của tinh đẩu, của tứ hóa lưu thì việc họ thấy như thế không có gì lạ cả. Người nào tinh ý, đọc sơ qua cũng thấy ngay thôi mà. Song đứng trên phương diện lý luận mà nói, việc "vất" lưu niên tiểu vận là một thiếu sót lớn của bắc phái, cho nên có nhiều biến cố được thấy từ lưu niên tiểu vận một cách đơn giản, rõ ràng và mạch lạc thì Bắc phái lại không thấy đơn giản. Sự khắc phục nó phải mượn cho tứ hóa "bay tung lên" rồi dùng nhiều loại lưu cung. Đương nhiên, khi ấy, họ cũng phải tăng tính lý của các tinh đẩu mà họ sử dụng – mà hầu như họ không để ý tới cơ sở của việc đưa thêm tính lý vào cho tinh đẩu – và từ đó, họ lại có được thêm nhiều thông tin khác nữa được luận đoán ra. Cũng từ đó, họ tự cho rằng chính môn phái họ mới là chuẩn, bởi họ đã có thể giải đoán được rất nhiều biến cố, thu được rất nhiều thông tin trên lá số. Trong khi bản thân họ, vô tình, thậm chí cố ý phớt lờ những tinh túy mà các môn phái khác cũng đạt được trong bối cảnh lý luận và sử dụng cách cục rất đơn giản. Đó là một thái độ chủ quan.
Căn bản của tử vi, khi luận vận, vốn chứa chấp rất nhiều phương pháp khác nhau. Nhưng hầu như không theo một chuẩn mực của lý thuyết. Mỗi phái "túm" lấy một căn bản để xây dựng nên môn phái của mình. Như Bắc phái đây thì túm lấy căn bản của nguyên lý thiên nhân hợp nhất. Khổ nỗi lại cứ tưởng thế là đầy đủ. Tôi tin rằng những người khai sáng phái này không tin đơn giản như vậy. Chỉ có hậu học mới "ngơ ngác" xem lời thầy tổ phán là chân lý mà không tìm hiểu rõ ngọn nguồn, rồi tự cho đó là nguyên tắc cơ bản, cơ sở luận lý của môn phái mà thôi. Song dù gì thì cũng phải thấy, họ, quả chỉ có trên cơ sở ấy mà bỏ qua biến hóa của địa chi. Trong khi phải thấy rất rõ, biến hóa của thiên can thì nhanh và rõ, nhưng không chắc chắn xảy ra. Biến hóa của địa chi thì tiềm tàng, chậm nhưng chắc chắn xảy ra. Chưa biết ai tinh túy hơn ai. Nhưng môn phái nào đạt được sự sử dụng biến hóa của cả can – chi và nạp âm trên số thì mới đạt được đây đủ, mới mong toàn diện. Song đáng tiếc muốn chưa chắc đã biết. Biết chưa chắc đã thông. Thông cũng khó mà tinh. Nói nào ngay, bản chất tinh đẩu nói chung, 14 chính tinh còn chưa biết, lấy gì mà tinh đây ?!
Cho nên, đoán vận lưu niên, có ba cung vận làm căn bản (chú ý hai chữ căn bản) không có gì ngạc nhiên cả. Thiếu một trong ba, hay hai trong ba mới đáng ngạc nhiên, và cần phải xem lại.
Thân ái.