

#16
Gửi vào 14/04/2013 - 21:30
Thanked by 2 Members:
|
|
#17
Gửi vào 16/04/2013 - 08:50
dấy ko phải là bùa trấn gì cả. chữ màu đen ở phía trước là "Bách giải thiên tai linh phù". theo tiếng hán ngữ, bách có nghĩa là 100, giải là phá giải, thiên ở đây ko phải chỉ trời mà có nghĩa là 1000, tai là tai nạn. bùa này là bùa tiêu tai giải hạn của phái lỗ bang trương thiên sư, thuộc phái bắc tông, suất sư từ trung quốc. có gì muốn biết thêm, các bác có thể liên lạc qua mình ở dieuvubinh@hotmail.com
Sửa bởi tigerstock68: 16/04/2013 - 08:50
#18
Gửi vào 16/04/2013 - 09:01
#19
Gửi vào 16/04/2013 - 09:03
Một số Bùa Chú, Ấn Mật Tông
__________________
#20
Gửi vào 16/04/2013 - 09:10
Khách tham quan tò mò với "hòn đá lạ" được đặt tại đền Thượng, khu di tích đền Hùng, Phú Thọ.
Ông Nguyễn Xuân Các, Giám đốc Ban quản lý Khu di tích lịch sử Đền Hùng cho biết, sau khi kết thúc giỗ tổ Hùng Vương (10/3 âm lịch) sẽ làm rõ nguồn gốc xuất xứ của hòn đá.
Cũng theo ông Các "hòn đá lạ" không có trong hồ sơ của Ban quản lý đền Hùng.
Giám đốc Ban quản lý Khu di tích lịch sử Đền Hùng cho biết thêm, hòn đá này, do một người tên Khảm ở Hà Nội cung tiến lên Đền Hùng năm 2009, khi đó là thời kỳ tôn tạo, tu sửa khu di tích.
Ông tên Nguyễn Minh Thông (là một đại tá quân đội, kiêm cán bộ của một đơn vị thuộc UNESCO Việt Nam) đã lên đây làm lễ. Hòn đá có ý “là để trấn giữ quốc gia”.
Hình ảnh có phần giống như con triện.
Mặt trong có những hình thù rất khó hiểu.
#21
Gửi vào 16/04/2013 - 09:21
Hiện tượng trấn yểm sông Tô Lịch gây xôn xao dư luận của Hà Nội và cả nước về những kỳ bí xảy ra vào đầu thế kỷ 21, khi mà các thành tựu khoa học-kỹ thuật đang phát triển như vũ bão.
Tóm lược sự việc như sau. Vào ngày 27-9-2001, đội thi công số 12 thuộc Công ty xây dựng VIC, trong khi nạo vét sông Tô Lịch, thuộc địa phận làng An Phú (phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội) đã phát hiện được di vật cổ rất lạ và huyền bí. Đó là 7 cây gỗ được chôn đứng dưới lòng sông, tạo thành một đa giác đều, tại đó có các bộ hài cốt bị đóng đinh bả vai, táng giữa các cọc gỗ. Ngoài ra, còn phát hiện được tấm gỗ vàng tâm có hình bát quái, một số đồ gốm, xương voi, ngựa, dao, tiền đồng...
Sau khi đã rút những cọc gỗ đó lên, lấy các bộ hài cốt đem lên Bát Bạt (Hà Tây) là nghĩa trang chôn cất chung của Tp. Hà Nội, thấy có rất nhiều hiện tượng kỳ lạ xảy ra. Nào là các việc chuẩn bị tiến hành thi công bị rối tung lên, máy xúc KOMATSU tự nhiên lao xuống sông; nào là một số người đang làm việc tự nhiên ngã lăn ra đất, chân tay co rúm, cứng đờ, lưỡi thè ra ngoài và trở nên hoàn toàn mất ý thức trong nhiều giờ; địa tầng của cả khu vực thi công tự nhiên biến đổi, không giống như khảo sát ban đầu; thử đưa la bàn vào khu vực đó thấy kim la bàn quay tít.
Một năm sau sự việc trên, có hàng loạt sự kiện ngẫu nhiên xẩy ra, gây kinh hoàng cho toàn đội xây dựng số 12 là đội đă trực tiếp thi công khu vực trên. Bản thân, gia đình, anh em của những người công nhân trực tiếp ngụp lặn vớt hài cốt, nhổ cọc đóng dưới lòng sông liên tục bị các tai nạn thảm khốc như chết, bệnh tật, tai nạn. Sự việc lên đến đỉnh điểm khi có tới 43 người thợ bỏ không dám tiếp tục làm việc tại công trường nữa. Trong số đó có nhiều người không nói rõ lý do, cũng không đòi hỏi vật chất mà đáng ra họ được hưởng.
Ngày 9-10-2001 những người thợ đã mời một thầy theo đạo Tứ Phủ đến giải thích, theo nhận định của thầy thì đây là một đạo Bùa Bát quái trận đồ được chôn yểm lâu đời để trấn yểm Long Mạch của khu vực này. Sau đó các công nhân lại tiếp tục mời Thượng tọa Thích Viên Thành tới. Thượng tọa Thích Viên Thành đã cho 5 đệ tử lập đàn tràng, làm lễ hàn lại Long Mạch. Chỉ hơn một tháng sau, Thượng tọa Thích Viên Thành đã bị bệnh chết.
Các nhà khoa học đã có những đánh giá sơ bộ, song cho đến nay vẫn chưa có kết luận nào khả dĩ có thể lý giải và khắc phục các sự việc nói trên.
Giáo sư Trần Quốc Vượng có kết luận như sau: "Trước đây, cổng Hoàng Thành ngoài lính còn có Thần trấn giữ 4 cửa (Thăng Long Tứ Trấn) và có yểm bùa hay còn làm lễ Hiến Sinh. Như vậy, đây là cổng thành phía Tây của La Thành. Thông qua tính tương đối thống nhất giữa niên đại của tiền và đa số đồ gốm cho thấy niên đại của địa điểm này trong khoảng thế kỷ 11 cho đến thế kỷ 14, thuộc vào thời Lý-Trần Việt Nam hay thời Tống của Trung Quốc.
Sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa hiện tượng sông Tô bị lở do đổi dòng và mắt Nhà Vua bị đau, đã tạo ra một lễ trấn yểm, trong đó có những bộ xương người cùng các hiện vật khác (ở đây GS Trần Quốc Vượng muốn nhắc đến sự tích Ông bà Dầu trong chuyện cổ tích Việt Nam ─ TG). Đó là một phần của những gì đã đăng tải trên báo. Gần đây, một người bạn của tác giả có cho biết: Đài truyền hình có phát tin người ta đã chuẩn bị khôi phục lại hiện trạng di vật như lúc ban đầu.
Người viết bài này lại có ý kiến khác hẳn. Theo thiển ý của người viết, đây là một hiện tượng trấn yểm nhằm cắt và bế Long Mạch, chặn đường của Khí. Ai đã trấn yểm vị trí này và mục đích sự trấn yểm này để làm gì? Theo thiển ý của người viết, đây là tác phẩm của Cao Biền, Tiết Độ Sứ của Trung Quốc vào thế kỷ 8, tức là trước thời nhà Lý khoảng 200 năm.
Người viết xin được chứng minh như sau. Trước hết nói về ý kiến của GS Trần Quốc Vượng, người viết cũng đồng ý rằng đây là một sự trấn yểm sông Tô Lịch, song không chỉ căn cứ vào niên đại của một số đồ gốm nhặt được mà cho rằng sự việc xẩy ra vào thời Lý-Trần. Nếu theo truyền thuyết "Tại sao sông Tô Lịch và sông Thiên Phù hẹp lại" hay truyền thuyết "Sự tích Ông bà Dầu", tác giả của sự việc trên là các vị Vua nhà Lý, nhằm trấn yểm sự báo thù của Ông bà Dầu, thì không có việc sông Tô Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại, đến nay chỉ còn là một con sông nhỏ xíu, làm nhiệm vụ thải nước bẩn cho Hà Nội. Ta nhớ rằng theo sử sách thì sông Tô Lịch ngày xưa rất rộng, trên bến, dưới thuyền, là trục giao thông chính thủa ấy. Mặt khác, thời Lý Trần có rất nhiều nhà Phong Thủy Việt Nam tài giỏi như: Thiền sư Định Không làng Cổ Pháp (Sư thọ 79 tuổi, năm 808), Sư La Chân Nhân (852-936 ), Sư Vạn Hạnh.
Dĩ nhiên các vị sư đó không thể nào để cho các Vua nhà Lý trấn yểm sông Tô Lịch và Thiên Phù, để đến nỗi sông Tô Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại và ngôi báu Vua Lý chẳng bao lâu về tay nhà Trần. Dòng họ Lý bị tuyệt diệt đến nỗi chỉ có người nào đổi qua họ Nguyễn mới thoát khỏi.
Bây giờ ta xét sự việc dưới một góc độ khác qua các sự kiện lịch sử và các truyền thuyết còn lưu lại trong dân gian.
Theo Việt Sử Lược, thành Đại La được xây dựng vào thế kỷ 7 có tên là Tống Bình. Năm thứ 2 niên hiệu Trường Khánh (Nhâm Dần 822), vua Mục Tông nhà Đường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ. Nguyên Hỷ thấy cửa thành có dòng nước ngược, sợ rằng dân ở thành có ý đồ phản nghịch, liền sai thầy bói gieo một quẻ. Thầy bói nói rằng: “Sức ông không đủ để bồi đắp thành lớn, 50 năm sau, có một người họ Cao đóng đô tại đây mà xây dựng Vương phủ”.
Tới đời vua Đường Y Tôn (841-873), Cao Biền được cử sang đất Việt làm Tiết Độ Sứ. Cao Biền là một con người đa hiệu: vừa là một tướng, một nhà phù thủy, một đạo sĩ, cũng là một nhà phong thủy có tài. La Thành được Cao Biền sửa chữa, chỉnh đốn lại cho hợp phong thủy vào các năm 866, 867, 868. Theo truyền thuyết, khi Cao Biền xây dựng lại thành Đại La, thì khu vực thi công có hiện tượng sụp lở đất. Cao Biền liền tiến hành trấn yểm Thần sông Tô Lịch và một số điểm khác như đền thờ Thần Bạch Mã, núi Tản Viên. Sau đó việc xây dựng mới có thể hoàn tất.
Tới đây, ta nhớ lại một truyền thuyết khác của dân tộc Việt Nam. Đó là "Truyền thuyết thành Cổ Loa". Tương truyền rằng, khi xây dựng thành Cổ Loa, An Dương Vương cũng xây mãi mà thành vẫn bị đổ. Khi đó Rùa Thần hiện ra chỉ cách cho xây và cho một cái móng chân, lúc ấy thành Cổ Loa mới có thể được xây xong.
Về mặt địa lý, La Thành và thành Cổ Loa cách nhau không xa (theo đường chim bay chỉ vài chục kilômét).
Đến đây, ta buộc phải tự đặt câu hỏi: Có sự trùng hợp giữa hiện tượng sụp đất của thành Cổ Loa, sự sụp đất của thành Đại La và sự sụp lở đất không thể khắc phục được trên công trình nạo vét sông Tô Lịch?
Qua hai truyền thuyết trên, bỏ qua các sự việc có tính chất dị đoan, chúng ta phải chấp nhận một sự thực là: Vùng đất từ đầu nguồn sông Tô Lịch kéo dài đến Cổ Loa (huyện Đông Anh - Hà Nội) là một vùng đất có địa tầng địa chất không ổn định. Ta cũng cần phải nhớ rằng, núi Tản Viên nằm ở hướng Tây Hà Nội. Mặt khác phía Tây và Tây Bắc của La Thành là một vùng núi non trùng điệp thuộc các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu... Theo định nghĩa của môn Phong Thủy thì Long Mạch xuất phát từ những rặng núi cao. Núi mà từ đó khởi nguồn Long Mạch gọi là “Tổ Sơn”. Ngoài ra Long Mạch còn xuất phát từ những khu vực khác gọi là “Thiếu Sơn”. Ta cũng biết rằng, Thiên Khí từ trên trời luôn có tính chất giáng xuống, các đỉnh núi cao là những anten tiếp thu Sinh Khí. Từ những sự việc trên, ta cảm nhận được rằng có một Long Mạch rất lớn bắt nguồn từ núi Tản Viên và các rặng núi phía Tây, Tây Bắc của Thành Đại La, kéo dài qua thành Đại La theo dọc sông Tô Lịch (Khí thường đi theo nước), chạy qua khu vực Hồ Tây bây giờ (Hồ Tây trước kia là một khúc của dòng sông Hồng), sau đó sang tới tận địa phận Cổ Loa (huyện Đông Anh - Hà Nội) và còn theo hướng Đông, Đông Bắc đi tiếp.
Chính vì có Long Mạch này mà Cao Biền phải vô cùng bận tâm, khổ trí nhằm tiêu diệt hoặc trấn yểm. Có rất nhiều truyền thuyết về Cao Biền liên quan đến các khu vực khác nhau của Long Mạch này. Ta có thể kể ra đây những hoạt động của Cao Biền liên quan đến các khu vực của Long Mạch này. Đầu tiên là truyền thuyết Cao Biền trấn yểm núi Tản Viên, hắn đã sử dụng đến 8 vạn cái tháp bằng đất nung để trấn yểm núi Tản viên. Tới gần đây người ta còn đào được những cái tháp đất nung đó tại khu vực Hà Nội. Tiếp theo là truyền thuyết Cao Biền dùng hơn 4 tấn sắt, đồng... chôn để trấn yểm đền Bạch Mã là nơi vị Thần sông Tô Lịch trú ngụ. Cao Biền còn nhiều lần dựng đàn tràng, dùng 4 thứ kim loại: sắt, đồng, vàng, bạc để trấn yểm nhiều nơi trên bờ sông Tô Lịch.Theo sử sách, Cao Biền đã đặt bùa trấn yểm tới 19 nơi dọc theo sông Tô Lịch.
Thời bấy giờ nước Nam có nhiều vị đại sư tài ba lỗi lạc, hiểu biết rất giỏi về Nho, Y, Lý Số và thuật Phong Thủy đã hóa giải sự trấn yểm của Cao Biền bằng phép Huyền Môn. Các đại sư thường tụ tập tại ngôi đền Sơn Tinh Thủy Tinh ở núi Ba Vì, hay ở đền Bạch Mã, dùng những hiểu biết về phong thủy để trấn áp bùa phép của Cao Biền.
Trở lại, đạo Bùa tìm thấy trên lòng sông Tô Lịch có rất nhiều lý do để có thể kết luận rằng: Đó là tác phẩm của Cao Biền, chứ không phải là của các nhà vua Lý. Tác phẩm đó là của Cao Biền đời nhà Đường, thuộc về thế kỷ 9, tức là trước thời các nhà Lý khoảng 200 năm (Lý Thái Tổ - năm 1010). Nếu xét về niên đại của cổ vật tìm thấy, thì trong khoảng 200 năm các cổ vật trên cũng không có sự thay đổi nhiều. Cũng không loại trừ trường hợp các cổ vật ở trên đất liền rớt xuống lòng sông thời gian sau khi Cao Biền trấn yểm.
Bây giờ ta lại xét đến mục đích của Cao Biền khi trấn yểm sông Tô Lịch. Cho tới tận giờ phút này, khi các bạn và tôi đang ngồi bên máy vi tính, người ta vẫn sử dụng các thủ thuật: châm cứu, điện chẩn, xoa bóp, bấm huyệt... để chữa bệnh. Tất cả các thủ thuật đó đều dựa trên lý thuyết về hệ thống kinh mạch, huyệt, lạc trong cơ thể con người. Người ta xác định được hàng ngàn vị trí huyệt đạo trong cơ thể con người. Tùy theo từng trường hợp khi châm cứu, người ta dùng kim tam lăng để châm vào các huyệt khác nhau, với thời gian và độ nông sâu khác nhau. Trong dân gian còn lưu truyền các biện pháp bấm, điểm huyệt có thể làm cho một bộ phận nào đó của cơ thể không còn khả năng cử động, hoặc nặng hơn là bộ phận đó không còn sử dụng được. Ta vẫn biết rằng Thiên, Địa, Nhân là hợp nhất. Mọi vật thể từ vi mô cho đến vĩ mô đều phải tuân theo những quy luật chung của sự tương tác vũ trụ. Phải nói dài dòng như vậy để có thể tạm kết luận rằng, trên Trái Đất này cũng phải có những đường kinh mạch, huyệt, lạc như trong cơ thể con người. Trái Đất này là một cơ thể sống, chứ không phải là một khối vật chất chết như nhiều người lầm tưởng. Ta cũng có thể suy ra một hệ quả rằng: Tại một điểm nào đó, người ta có thể dùng một thủ thuật nào đó để ngăn, bế hoặc chặn đường đi của một Long Mạch như Cao Biền đã làm. Thủ thuật này người xưa gọi là trấn yểm.
Bây giờ ta tạm thời đưa ra các nhận định như sau đây:
1. Đạo Bùa trấn yểm trên dòng sông Tô Lịch là của Cao Biền - Tiết Độ Sứ của nhà Đường, dùng để trấn yểm Long Mạch, khi tiến hành xây dựng thành Đại La vào thế kỷ 9. Đó là một trong 19 nơi mà Cao Biền đã thực hiện trấn yểm. Đạo Bùa đó hoàn toàn không phải do các Vua thời nhà Lý trấn yểm như trong truyền thuyết Ông bà Dầu khoảng 200 năm sau khi Cao Biền thực hiện trấn yểm.
2. Chấp nhận có một Long Mạch rất lớn xuất phát từ phía Tây của thành Đại La (các dãy núi thuộc các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, và gần nhất là dãy núi Tản Viên). Long Mạch này đi qua thành Đại La, cụ thể theo dọc sông Tô Lịch, qua khu vực Hồ Tây, kéo dài sang Cổ Loa (huyện Đông Anh - Hà Nội). Long Mạch này còn kéo dài tới dãy núi Yên Tử và theo hướng Đông Bắc tới tận Quảng Ninh. Đây chỉ là nhánh Thanh Long của đồng bằng Bắc Bộ. Nhánh Bạch Hổ khi có điều kiện tôi xin chứng minh tiếp.
3. Cao Biền đã thực hiện biện phép trấn yểm Long Mạch, nhằm bế dòng khí của Long Mạch này. Thủ thuật trấn yểm tương tự như thuật điểm huyệt trong Đông Y đối với con người.
Đến đây, ta lại tiếp tục đặt ra những câu hỏi sau:
1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn đã xẩy ra cho các công nhân trong đội xây dựng số 12. Bản chất hiện tượng đó như thế nào?
2. Tại sao sau khi Cao Biền trấn yểm sông Tô Lịch, kể từ đó tới tận ngày hôm nay, trong lịch sử ta không còn nghe có vụ sụt lở đất nào khác ngoại trừ trường hợp trên sông Tô Lịch đã nêu ở trên sau khi người ta đã rút các cọc trấn yểm lên.
3. Hậu quả của việc rút bùa trấn yểm lên sẽ như thế nào đối với khu vực dọc theo sông Tô Lịch nói riêng và cả khu vực Hà Nội và các vùng phụ cận nói chung. Hậu quả sẽ như thế nào đối với Long Mạch đi qua thành Đại La?
4. Biện pháp khắc phục sự việc trên như thế nào? Người ta có thể hàn lại Long Mạch như Thượng tọa Thích Viên Thành đã thực hiện hay không? Trường hợp khôi phục lại bùa trấn yểm đó thì xấu hay tốt?
Người viết bài này xin mạo muội lý giải các câu hỏi trên. Vì tình yêu đối với Hà Nội là quê hương của người viết, vì trách nhiệm một người Việt Nam đối với quê hương rất mong được cùng các bạn trao đổi, hầu tìm ra những giải pháp khắc phục hiện tượng kể trên. Đó là trách nhiệm chung của chúng ta không chỉ phải của riêng một người nào.
Người viết xin được lần lượt lý giải các vấn đề trên như sau.
1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn xảy ra cho các công nhân trong đội xây dựng số 12? Bản chất của hiện tượng đó như thế nào?
Trong thuật Phong Thủy, Khí là một hiện tượng rất khó giải thích, nhưng nó là một khái niệm cơ bản của thuật Phong Thủy. Nhận định đúng về Khí là chìa khóa mở vào lý thuyết cốt yếu của Phong Thủy. Theo quan niệm Á Đông, Khí ẩn tàng làm động lực cho Trời Đất Vạn Vật. Khí không những hội tụ trong các vật thể hữu hình mà còn tản mát vô hình sau khi vật thể tan rã để tạo thành những thể rất linh thiêng gọi là Linh Khí của Vũ Trụ. Người xưa có câu: “Tụ là Hình tán là Khí”. Ngày nay khoa học phát hiện được một vài dạng của Khí, gọi là Plasma sinh học. Các dạng đó có thể đo đếm được. Trong Đông Y, từ rất xa xưa người ta đã phát hiện ra Hệ thống Kinh-Mạch-Huyệt là đường vận hành của Khí. Người ta phát hiện được rằng: Khí vận hành trong Kinh, Lạc như một dòng nước, chỗ đi ra gọi là Tĩnh, trôi chảy gọi là Huỳnh, dồn lại gọi là Du, đi qua gọi là Kinh, nhập lại gọi là Hợp. Đường Kinh không đơn giản là một ống dẫn vật chất nào đó. Đường Kinh là một chùm ống dẫn Khí Ngũ Hành xuyên suốt các cơ quan, bộ phận của một Tạc Tượng. Ngoài ra, người xưa còn biết rất sâu về bản chất của Khí, có một lý thuyết về Thời Châm vô cùng chính xác là Tý Ngọ Lưu Trú và Linh Quy Bát Pháp. Đó là trên cơ thể con người, còn trong Phong Thủy, người ta quan niệm rằng Nguyên Khí trong lòng đất, tương tự như hệ thống Mạch, Huyệt trong Đông Y. Nguyên Khí được xem là gắn bó với nước, nước giúp Khí di chuyển, nước đi thì Nguyên Khí cũng đi, nước ngừng thì Nguyên Khí cũng ngừng. Sinh Khí tụ mạnh nhất là nơi giao hội của nước (nơi các dòng sông hội tụ chẳng hạn). Người viết chỉ nêu ra một số quan niệm về Khí, dùng cho việc chứng minh luận điểm của mình, còn lý thuyết về Khí thì vô cùng vô tận. Mặt khác, có thể tìm hiểu cơ chế của mối quan hệ giữa hài cốt người chết đối với người thân thích còn sống như thế nào? Theo GS Nguyễn Hoàng Phương, trước hết vì trong mối quan hệ này không có sự tiếp xúc xác thịt trực tiếp giữa hài cốt người chết và thân xác người còn sống, nên tất yếu phải có phần sóng vô hình của cả đôi bên tham gia vào. Đó có thể là một hiện tượng cộng hưởng sóng mang tính chất huyết thống, dòng họ. Do tần số đôi bên có thể khác nhau nhiều, nên trong lý thuyết về Nhạc, loại cộng hưởng này mang tên cộng hưởng Harmonic (tần số này là bội số của tần số kia). Đó là cơ chế cộng hưởng Harmonic hình thái huyết thống.
Trở lại câu chuyện trên dòng sông Tô Lịch, người viết cho rằng: Long Mạch đã nói ở phần trên bị Cao Biền trấn yểm đúng huyệt vị, đã bị ngăn chặn lại tại nơi có đạo Bùa trấn yểm. Hậu quả của đạo Bùa này làm cho Nguyên Khí không thể tiếp tục đi theo hành trình vốn có của nó, làm cho vùng đất dọc theo Long Mạch sau khi bị trấn yểm trở nên cứng hơn, ổn định hơn. Bằng chứng là về sau này ta không còn nghe được sự việc sụt lở đất tương tự như thế nữa. Ta có thể hình dung hơi thô thiển là Long Mạch giống như một mạch máu, bị cột lại một đầu, không cho dẫn máu tới các vùng sau đó được nữa. Các bộ phận cơ thể đằng sau chỗ bị cột vì không có máu nuôi nên dần dần bị khô, teo đi. Ta cũng để ý một điều rằng: thành phố Hà Nội ngày nay có rất nhiều hồ nước con đang tồn tại như hồ Tây, hồ Gươm, hồ Bảy Mẫu, hồ Ha Le... Mặt khác, sông Tô Lịch và sông Thiên Phù dần dần bị hẹp đi và giờ đây chỉ còn là con mương nhỏ dẩn nước thải cho Hà Nội. Ở đây có một câu hỏi thú vị là: Nếu như Cao Biền (vốn được coi là tổ sư của Phong Thủy) đã quyết tâm trấn yểm tiêu diệt dòng sông Tô Lịch thì sao cho đến tận bây giờ sông Tô Lịch vẫn còn tồn tại (mặc dù chỉ là con mương nhỏ)? Theo người viết, nếu Cao Biền trấn yểm đúng thì ngày nay ta chỉ còn nghe đến tên của nó qua lịch sử. Đến đây người viết khẳng định: Cao Biền có sai lầm trong việc trấn yểm. Nguyên nhân sai lầm của Cao Biền chính là sự hiểu biết vô cùng chính xác của các Vua Hùng - Tổ tiên của người Việt chúng ta trong thuật Phong Thủy nói riêng và trong thuyết Âm Dương, Ngũ Hành nói chung. Vì tiên đoán được các sự việc sẽ xẩy ra, sau khi mất nước, các Vua Hùng đã cố ý làm sai lạc một phần của thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Người viết xin chứng minh vấn đề này ở phần sau.
Bây giờ ta đi vào trả lời câu hỏi nguyên nhân của sự việc xảy ra cho công nhân đội xây dựng số 12. Theo người viết thì như sau. Tại chỗ có đạo Bùa, Nguyên Khí bị bế lại lâu năm, khi tháo gỡ đạo Bùa, giống như tháo bỏ chỗ bị cột trong mạch máu, Nguyên Khí bị thoát ra ngoài tại vị trí trấn yểm và lan tỏa ra xung quanh. Ta chưa xét đến sự tốt xấu của dòng Khí đó với cơ thể con người. Chỉ biết một điều rằng, chính dòng Khí đó làm mất cân bằng cục bộ môi trường xung quanh chỗ đường Khí được giải phóng. Chính vì vậy những công nhân đang làm việc tại khu vực đó bị các hiện tượng kỳ lạ đã nêu ở phần đầu. Khi cơ thể con người bị mất cân bằng về Khí dẫn đến hiện tượng mất khả năng hoạt động thần kinh. Như vậy cũng chẳng có gì khó hiểu khi các công nhân đội xây dựng só 12 gặp phải. Ngoài ra do ảnh hưởng của quy luật "Đồng thanh Tương ứng, Đồng khí Tương cầu", hay là hiện tượng cộng hưởng Harmonic mà thân nhân, dòng họ của những công nhân đội xây dựng số 12 phạm phải, mặc dù họ không trực tiếp có mặt trên công trường. Đó là hiện tượng cũng dễ hiểu.
Có điều nguy cơ tiềm ẩn ở đây là: nơi dòng Khí thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với thành phố Hà Nội? Đây là một vấn đề quan trọng cần có sự nghiên cứu nghiêm túc.
2. Bây giờ chuyển sang câu hỏi 2. Tại sao sau khi có sự trấn yểm của Cao Biền, vùng đất dọc theo Long Mạch kể từ chỗ bị trấn yểm trở nên cứng và ổn định hơn và từ đó về sau này ta không còn nghe có các vụ sụt lở đất ở khu vực dọc theo Long Mạch tương tự nữa, ngoại trừ trường hợp đã xảy ra trên sông Tô Lịch, khi đạo Bùa trấn yểm đã được nhổ lên?
Tiếp tục phát triển tính nhất quán của phần trên. Khi đường Khí của Long Mạch đã bị bế lại, Nguyên Khí không thể tới các vùng đất ở sau chỗ trấn yểm được nữa, và Nguyên Khí luôn có nước đi cùng nên lượng nước tới các vùng đó cũng bị giảm đi. Kết quả là vùng đất sau chỗ bị trấn yểm cứng lên, và kết cấu của địa tầng, địa chất cũng trở nên ổn định hơn. Khi một vùng đất đã có địa tầng, địa chất ổn định thì tất yếu dẫn đến các vụ sụt lở đất khi xây dựng các công trình tự nhiên mất đi. Đó là một sự việc không có gì là bí ẩn trong nghệ thuật xây dựng hiện nay. Tại công trình nạo vét sông Tô Lịch, khi đạo Bùa trấn yểm bị nhổ lên, lập tức Nguyên Khí bị phong tỏa ùa thoát ra ngoài với một tốc độ và lưu lượng vô cùng lớn, làm cho đất, đá của cả khu vực nhão ra như bùn, trở nên mất ổn định cục bộ. Ở đây ta cũng cần lưu ý: khi Nguyên Khí thâm nhập vào lòng đất quá nhiều thì không chỉ đất, cát mà thậm chí cả đá hay các vật thể rắn khác đều trở thành bùn nhão, bởi tính chất của Nguyên Khí khác với tính chất của nước. Ta cũng để ý rằng nơi nào mà Nguyên Khí ít ỏi hoặc không có thì vùng đó sẽ trở nên khô cằn, cây cối không thể phát triển được. Đó là trường hợp của các sa mạc, hoang mạc trên Trái Đất. Tại núi Ngự Bình ở Huế cũng có trường hợp tương tự. Rất nhiều lần người ta tổ chức trồng cây trên núi Ngự Bình song đều thất bại.
Như vậy, ta có thể kết luận: Trong quá trình xây dựng thành Đại La, Cao Biền gặp một vùng đất có kết cấu không ổn định nên đã thực hiện việc trấn yểm kể trên với mục đích làm cho đất cứng và ổn định hơn trước. Biện pháp thực hiện là dùng thủ pháp điểm huyệt đất tương tự như thủ thuật châm cứu, điểm huyệt trong Đông Y. Ở đây còn có ý nghĩa sâu xa là trấn yểm các Long Mạch, các huyệt phát Đế Vương của đất Việt. Tuy nhiên, vì có sự sai lầm về độ số hướng Tây nên sự trấn yểm không được trọn vẹn. Bằng chứng là sông Tô Lịch vẫn còn tồn tại và chỉ thời gian ngắn sau này nước Việt đã giành được độc lập. Một dải Long Mạch đã nói ở trên vẫn phát sinh ra những con người nổi tiếng, những vùng đất địa linh nhân kiệt như chùa Dâu, núi Yên Tử, đền Kiếp Bạc... Một nguyên nhân nữa, sau này đã phá hoại sự linh thiêng của Long Mạch là các việc san lấp của người Pháp cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Không biết vô tình hay hữu ý, khi xây dựng thành phố Hà Nội, người Pháp đã cho lấp mất khúc sông Tô Lịch, nơi đổ ra sông Hồng, nay là các phố Hàng Buồm, Hàng Bạc, Cầu Gỗ... Và Nhà thờ lớn Hà Nội hiện nay đặt trên nền của tháp Báo Ân ngày xưa...
Một dân tộc đã được thiên nhiên ưu đãi về Địa Linh, Sinh Khí thì phải suy nghĩ như thế nào về trách nhiệm bảo vệ và khai thác sức mạnh Tâm Sinh Khí đó. Chúng ta cần phải có các chương trình đào tạo các bậc anh hùng, hào kiệt, những bậc hiền tài cho đất nước, những vĩ nhân cho thế hệ mai sau. Ngày trước các bậc Thánh Đế, Minh Vương coi đó là trách nhiệm lớn nhất đối với non sông đất nước.
3. Tôi xin tiếp tục lý giải câu hỏi thứ 3. Hậu quả của việc rút bỏ đạo Bùa đối với khu vực dọc theo sông Tô Lịch nói riêng và cả Hà Nội nói chung là gì? Số phận của Long Mạch sẽ như thế nào? Đây là một câu hỏi hết sức khó vì tính chất phức tạp của nó. Người viết xin mạo muội lý giải và rất mong được các bậc hiền tài trong và ngoài Diễn đàn này góp ý, bổ khuyết hầu có thể tìm ra biện pháp tốt nhất khắc phục được hậu quả của lịch sử. Tôi coi đây là trách nhiệm của tất cả mọi người chúng ta.
Trước hết, ta xem xét hậu quả trấn yểm của Cao Biền và những sự việc sẽ xẩy ra khi rút bỏ đạo Bùa đối với khu vực sông Tô Lịch và các vùng phụ cận. Hiện nay, tôi không có tài liệu nào chính thức về các biện pháp trấn yểm đất của bộ môn Phong Thủy. Chỉ biết rằng từ xa xưa đã có các hiện tượng trấn yểm của Mã Viện (Trụ đồng Mã Viện), các hiện tượng trấn yểm của Cao Biền, các biện pháp dùng bia đá để trấn yểm nhà, các tấm bài ếm ở quanh khu vực Thất Sơn (cái ếm ở Bài Bài, thuộc làng Nhơn Hưng - Tịnh Biên - Châu Đốc, cây ếm ở núi Nước) v.v...
Để có thể hiểu rõ tính chất và hậu quả của việc trấn yểm, ta cần phải biết rõ lý thuyết trấn yểm và từ đó mới có thể khắc phục được tác hại của nó. Từ xưa, việc trấn yểm được coi là thuật bí truyền của các thầy địa lý, không được tiết lộ ra ngoài, sợ lộ Thiên Cơ. Do vậy mà lý thuyết về sự trấn yểm đến tận giờ phút này vẫn được coi là một cái gì đó huyền bí, ma thuật, không có tài liệu nào được truyền ra. Tuy nhiên theo nguyên lý Thiên - Địa - Nhân hợp nhất, ta có thể dùng lý thuyết của Đông Y để tìm hiểu vấn đề này. Mặt khác, thuyết Âm Dương, Ngũ Hành với cơ sở là Hà Đồ, Lạc Thư là một công thức Siêu Vũ Trụ có thể lý giải tất cả các vấn đề từ vi mô tới vĩ mô, nó là công thức rổng quát của Vũ Trụ mà khoa học ngày nay đang ao ước, tìm kiếm. Tôi sẽ xin trở lại vấn đề này khi có dịp. Bây giờ ta trở lại lý thuyết Đông Y về Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc là một sự ứng dụng rất cụ thể và phong phú của thuyết Âm Dương, Ngũ Hành. Lý thuyết Đông Y về Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc rất phức tạp và có từ rất lâu đời, cuốn sách đầu tiên có thể là cuốn Hoàng Đế Nội Kinh, có từ thời điểm khoảng 5000 năm trước. Tôi chỉ xin dẫn giải những gì cần thiết để chứng minh cho luận điểm của mình.
Xét hệ thống Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc:
1. Huyệt: Là nơi tập trung Khí Huyết của Tạng Phủ. Là nơi tập trung các cơ năng hoạt động của Tạng Phủ. Mỗi Tạng Phủ có các đường Kinh, Mạch, Lạc nằm ở những nơi cố định. Những Huyệt lớn gọi là Khổng Huyệt. Những Huyệt bình thường gọi là Huyệt. Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc làm nhiệm vụ dẫn cơ năng Tạng Phủ từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài, trong toàn bộ cơ thể con người. Trong cơ thể có một Mạch Nhâm, một Mạch Đốc, 12 đường Kinh chính, cộng thành 14 Huyệt Kinh. Có 365 đường Kinh Lạc và 666 đường Kỳ Huyệt. Hệ thống Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc tiếp nhận Thiên Khí, Địa Khí, Thời Khí, có tính chất Âm Dương Ngũ Hành. Nhờ hệ thống trên, ta có thể tìm đến các chỗ đường Khí bị tắc mà đả thông cho thuận. Mỗi loại bệnh tật đều có một số Huyệt liên quan để ta có thể kích thích khi có bệnh.
2. Kinh: Là các đường dẫn Khí từ Huyệt nọ tới Huyệt kia. Các đường đó đi lắt léo, chồng chất qua rất nhiều chỗ, liên đới với các đường Kinh khác theo tính chất Âm Dương, Ngũ Hành, liên vận đến cả với Trời Đất mà biến động sự sống, tinh thần con người, vì vậy mà gọi là Kinh.
3. Mạch: Là các Nguồn Mạch có Gốc chính đi ra. Nó đi khắp nơi, phân chia ra nhiều chỗ cần thiết, đến tận cùng của mọi nơi và sau lại trở về với chính Gốc.
4. Lạc: Là các đường của Kỳ Huyệt, nhiều hơn Kinh, Mạch, nhỏ hơn nhiều. Nó đi ngang, tắt, chằng chịt, chi chít, khó tìm hơn. Nó giúp cho con người điều hòa tâm sinh lý rất tốt, nó thường hay xuất hiện theo chu kỳ, dùng để định Tâm, an Lạc. Có lẽ vì vậy mà người ta dùng chữ An Lạc?
Các đường Kinh lại chia ra các đường Kinh Nội và Ngoại.
+ Nội Kinh là phần kinh của 14 đường Kinh, Mạch chính, quan hệ với Tạng Phủ, chuyển dần sang các chi nhánh, Kinh Cân Âm và Kinh Cân Dương. Nội Kinh liên quan đến các tương quan, phản xạ, phát sinh ngoại giao cảm, giữa Linh Hồn, Vía, Phách và Thể Xác.
+ Ngoại Kinh là những Kỳ Huyệt để bổ sung cho các Kinh chính, khi cần thiết dùng cho lúc nguy cấp. Ví dụ cụ thể như: có người đã bị chết lâm sàng, tiêm, chích thuốc theo Tây Y không được, nhưng dùng Đông Y có khi chỉ cần bấm, day, châm, cứu Huyệt thì bệnh nhân có thể sống lại được. Có rất nhiều Kỳ Huyệt mà tùy trường hợp có thể hút Linh Hồn của người mới chết, trở về nhập vào cơ thể. Ngoại Kinh bao gồm cả nội quan thân thể. Có nhiều Kỳ Huyệt nhạy bén, rất công hiệu, có thể cứu mệnh con người, trong nhiều trường hợp nguy cấp. Đời thường từ xưa đã từng chữa bệnh cứu người bằng phương pháp này, song họ vẫn cho là thần bí.
Tóm lại, có 2 Mạch chính là Nhâm, Đốc; 12 đường Kinh chính, 15 đường Mạch Lạc và vô số Huyệt.
Xin nói thêm về Huyệt. Có các Huyệt Hợp và các huyệt Giao Hội, đó là các giao hội với các Kinh Dương và Âm. Có các loại Huyệt là Du Huyệt, Mộ Huyệt, Nguyên Huyệt, Lạc Huyệt, Khích Huyệt...
Trong võ thuật còn truyền lại các Huyệt thần đạo võ thuật. Theo người viết được biết, có 36 Huyệt Đạo Kinh, nếu vô tình hay hữu ý tác động vào thì bất cứ Huyệt nào trong số 36 Huyệt này đều có thể gây ra chết người. Các Huyệt đó rất nguy hiểm nên còn gọi là Tử Huyệt. Ngoài ra, còn có 72 Huyệt đạo Kinh phụ. Nếu tác động vào bất cứ Huyệt nào trong số những Huyệt này đều có thể gây tàn phế, tật nguyền, rất khó chữa trị. Đây là Yếu Hại Huyệt hay còn gọi là Nạn Kinh. Người viết chỉ sơ qua vài nét về Thần đạo võ thuật cho dễ hiểu thêm về tầm quan trọng của Huyệt với Linh Hồn và cơ thể con người. Khi tác động vào Tử Huyệt, các Yếu Hại Huyệt chính là bất ngờ dùng lực phá hủy hệ thống Kinh, Mạch, làm tan rã các kết nối giữa Linh Hồn và cơ thể con người. Các hệ thống khác như Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc, gắn kết lục phủ, ngũ tạng của cơ thể lập tức bị rối loạn, mạnh thì dẫn đến tử vong, nhẹ thì dẫn đến tàn phế, tật nguyền, rất khó chữa trị. Thần đạo võ thuật gọi là Huyệt Đạo Kinh có liên hệ đến các Luân Xa.
Theo nguyên lý “Con người là Tiểu Vũ Trụ” thì Âm Dương Ngũ Hành được phản ánh trong Đông Y rất rõ rệt. Các đường Kinh thứ nhất: Can-Đởm, Tâm-Tiểu Trường, Tỳ-Vị, Phế-Đại Trường, Thận-Bàng Quang là năm cặp đại diện cho Ngũ Hành. Ngoài ra, còn hai đường Kinh bổ sung là Kinh Tâm Bào và Kinh Tam Tiêu. Tổng cộng có 12 Kinh gọi là đường Kinh chính. Hai đường Kinh Tâm Bào và Tam Tiêu không có thành phần riêng nên phải lấy từ các thành phần khác làm thành phần của mình.
Mặt khác, Kinh Tam Tiêu được xem là Cha của các đường Kinh Dương, còn Kinh Tâm Bào được xem là Mẹ của các đường Kinh Âm.
Kinh Tâm Bào có nhiệm vụ đặc biệt là bảo vệ Kinh Tâm.
Kinh Tam Tiêu có nhiệm vụ đặc biệt là làm sứ giả của Mệnh Môn Hỏa. Mang Mệnh Môn Hỏa đến các vùng Thượng Tiêu, Trung Tiêu, Hạ Tiêu.
Các đường Kinh được chia ra làm hai nhánh: nhánh trái thuộc Dương (đối ứng với bán cầu não phải), nhánh phải thuộc Âm (đối ứng với nán cầu não trái).
Từ đó các Huyệt được chia ra: các Huyệt phía trái thuộc Dương, các Huyệt phía phải thuộc Âm.
Từ Lý thuyết về Đông Y như trên ta theo nguyên lý Thiên, Địa, Nhân hợp nhất rút ra lý thuyết trong Phong Thủy áp dụng cho Long Mạch dưới đây.
Thuyết Phong Thủy với cả hai phần Âm và Dương Trạch quan niệm con người có quan hệ hữu cơ với Trời và Đất, cả khi sống và sau khi chết (Huyệt Mộ có thể ảnh hưởng đến nhiều đời con cháu sau này).
1. Về Thiên: Chấp nhận có Sinh Khí giáng xuống (gọi là Dương giáng) trên các đỉnh núi cao. Thừa nhận ảnh hưởng của các Sao ảnh hưởng đến con người. Sự tương tác của các lực vũ trụ ảnh hưởng theo thời gian, với con người khác nhau. Ảnh hưởng theo chu kỳ của 9 hành tinh trong Hệ Mặt Trời, đại diện bởi Cửu Tinh Đồ xoay chuyển theo quỹ đạo của Hà Đồ (không như quan niệm của cổ văn chữ Hán từ trước đến nay là theo quỹ đạo Lạc Thư ─ khi có điều kiện người viết xin trở lại vấn đề này). Phải chăng 9 Sao và Hạn (La Hầu, Thổ Tú, Thủy Diệu, Thái Bạch, Thái Dương, Vân Hớn, Kế Đô, Thái Âm, Mộc Đức và Tam Kheo, Ngũ Hộ, Thiên Tinh, Toán Tận, Thiên La, Địa Võng, Diêm Vương, Huỳnh Tuyền) ảnh hưởng tuần hoàn theo chu kỳ sinh học của con người là đại lượng đo lường ảnh hưởng sự tương tác của 9 hành tinh trong Hệ Mặt Trời đối với con người. Còn Cửu Tinh Đồ là đại lương đặc trưng của sự tương tác các hành tinh trong Hệ Mặt Trời với từng cuộc đất.
Ngoài ra còn ảnh hưởng của hệ Nhị Thập Bát Tú tới từng cuộc đất.
2. Về Địa: Chấp nhận có Sinh Khí (còn gọi là Long) chảy theo các mạch nước, tụ lại và thăng lên (bởi lẽ Âm thăng, Dương giáng). Ta thử suy luận một chút về danh từ Thăng Long. Đó chính là Khí Âm Thăng Lên. Đây mới thực là ý nghĩa của danh từ “Thăng Long” (chứ không như người ta đồn đại vua Lý Công Uẩn thấy Rồng bay lên và đặt tên Kinh Đô là “Thăng Long” ). Ta cũng nói thêm rằng, Khí làm cho Kinh Đô Thăng Long phát triển mạnh về sau này là Khí Âm hay Địa Khí.
3. Về Nhân: Có thể xác định được Âm phần, Dương phần, Họa, Phúc, Mệnh, Thân của từng con người.
Bây giờ xin các bạn nhìn lên bản đồ Việt Nam phần Bắc Bộ.
Các bạn hãy đánh dấu vào một số địa danh. Trước hết là các dãy núi cao vút của các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, tới dãy Tam Đảo, dọc theo sông Tô Lịch ngày xưa, đi tiếp tới Cổ Loa, kéo dài đến sông Đuống, sông Thái Bình, ra tới Quảng Ninh và chìm xuống vịnh Hạ Long. Ta nối tất cả các điểm trên thành một đường. Đường cong đó chính là nhánh Thanh Long của Đồng Bằng Bắc Bộ. Theo phân tích ở phần trên, ta biết rằng Thanh Long thuộc Dương. Đây cũng chính là một Long Mạch có hành Khí Dương. Các Huyệt nằm trên nhánh Thanh Long đều có hành Khí Dương.
Bây giờ ta tiếp tục đánh dấu những địa danh khác. Xuất phát cũng từ những rặng núi cao chót vót của các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, rồi tới dãy núi Ba Vì, qua cầu Hàm Rồng, theo sông Lam và dãy núi Hồng Lĩnh đổ ra biển. Nối các địa danh đó lại thì đường cong này chính là nhánh Bạch Hổ của Đồng Bằng Bắc Bộ. Nhánh Bạch Hổ thuộc Âm, do vậy Long Mạch này có hành Khí Âm. Các Huyệt nằm trên nhánh Bạch Hổ đều có hành Khí Âm.
Đến đây ta đã có thể hình dung được hai nhánh Thanh Long, Bạch Hổ của Đồng Bằng Bắc Bộ. Nhánh Thanh Long sau sự trấn yểm của Cao Biền và sau này là sự san ủi của người Pháp đã bị bế Khí rất nhiều. Tuy nhiên, do sai lầm của Cao Biền về độ số của Cung Đoài nên sự trấn yểm đó không hoàn thiện. Theo các cổ thư chữ Hán, Cung Đoài có độ số là 7, ứng với phương Tây. Đây là độ số của Lạc Thư. Chính vì vậy mà Cao Biền mới trấn yểm 7 cây cọc, theo đúng độ số của phương Tây. Tuy nhiên, theo hiểu biết của người viết và kết hợp với một số kinh nghiệm của một số tiền bối về Phong Thủy ở vùng đất Phong Châu ngày xưa (nay là tỉnh Phú Thọ ─ Kinh Đô của các thời đại Hùng Vương) thì độ số của phương Tây không phải là như vậy. Theo người viết, trong các vấn đề về Phong Thủy thực hiện trên Trái Đất này phải dựa vào Hà Đồ và độ số của Hậu Thịên Bát Quái mới chính xác. Khi đặt độ số của Hậu Thiên Bát Quái lên Hà Đồ ta có một vòng tương sinh theo chiều thuận kim đồng hồ. Theo chiều từ phương Bắc, Đông Bắc, Đông, Đông Nam... tới Tây, Tây Bắc và trở lại về Bắc ta có các độ số như sau:1-8-3-2-7-4-9-6. Ta vẩn biết rằng:
1 ─ là hành Dương Thủy.
6 ─ là hành Âm Thủy.
8 ─ là hành Âm Mộc.
3 ─ là hành Dương Mộc.
2 ─ là hành Âm Hỏa.
7 ─ là hành Dương Hỏa.
5 ─ là hành Dương Thổ.
10 ─ là hành Âm Thổ.
4 ─ là hành Âm Kim.
9 ─ là hành Dương Kim.
Theo chiều thuận kim đồng hồ, ta có các hành tương sinh với nhau như sau: Thủy (6-1) sinh Mộc (8-3) sinh Hỏa (2-7) sinh Thổ (10-5) sinh Kim (4-9) và lại trở về hành Thủy. Tôi không đi sâu vào việc chứng minh lý thuyết trên vì nó khác với tất cả các cổ văn chử Hán từ xưa cho đến tận ngày nay. Điều quan trọng là nếu Cao Biền ngày xưa biết được điều này, thì giờ đây có thể chúng ta chỉ còn nghe danh sông Tô Lịch trong huyền sử.
Trở lại vấn đề trên sông Tô Lịch, sau khi Cao Biền trấn yểm thì dòng sông cứ càng ngày càng nhỏ lại, kết hợp với sự san lấp của người Pháp sau này, dòng sông Tô, trước chảy ra sông Hồng ở cửa Hà Khẩu, nay bị chặn lại từ khúc Thụy Khê ra tới sông Hồng. Kể từ đó sông Tô Lịch phải đổi dòng chảy ngược lại. Hiện nay sông Tô Lịch chỉ còn chảy từ khu vực Phường Nghĩa Đô (quận Cầu Giấy - Hà Nội), theo thuận dòng chảy (ta nhớ lại sự kiện trước Thành Luy Lâu có dòng Nghịch Thủy) chảy ra sông Nhuệ và cuối cùng mới đổ trở lại sông Hồng. Như vậy, hiện nay dòng chảy của sông Tô Lịch đi theo nhánh Bạch Hổ đã nêu trên (thay vì chảy theo nhánh Thanh Long như ngày xưa). Nhánh Thanh Long thuộc Dương Khí đã bị ngăn, bế phần lớn nên từ khi đó cho tới nay chỉ có rất ít anh hùng hào kiệt được sinh ra ở khu vực dọc theo đường đi của nó. Ngược lại, nhánh Bạch Hổ từ xưa cho đến nay chưa nghe có vụ trấn yểm nào được thực hiện, ngoài trường hợp cũng do Cao Biền chê là vùng đất Thanh Hóa, Nghệ An có một con Rồng (Long Mạch), nhưng bị què nên không tiến hành trấn yểm. Hai nhánh Thanh Long và Bạch Hổ có cùng nguồn xuất phát từ Tổ Sơn, nay nhánh Thanh Long bị chặn lại phần lớn nên gần như toàn bộ Nguyên Khí được dẫn theo đường nhánh Bạch Hổ. Theo nhận xét của người viết, kể từ đó về sau này, thành Đại La bị mất Dương Khí nên chẳng bao lâu bị xóa bỏ và thay vào đó là thành Thăng Long, được xây dựng dựa trên Khí Âm của nhánh Bạch Hổ. Ta cũng để ý thấy một điều rất rõ ràng rằng: Trải qua hơn một ngàn năm từ khi có sự trấn yểm của Cao Biền, các vị vua, tướng tài giỏi, các bậc hiền tài của đất nước ta đều có nguồn gốc từ những vùng đất thuộc nhánh Bạch Hổ mà ra. Các bạn có thể kiểm chứng điều này qua lịch sử.
Bàn tới câu hỏi cuối cùng trong bài viết này, người viết tự nhận thấy vượt quá khả năng của mình nên rất mong đợi sự đóng góp của các cao nhân, tiền bối trong và ngoài nước, ngõ hầu có thể cứu lấy một dòng Nguyên Khí của đất nước. Các câu hỏi đó là: Sau khi rút đạo Bùa trấn yểm của Cao Biền lên, Nguyên Khí bị thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với Thủ đô Hà Nội nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung? Có thể hàn lại Long Mạch như Thượng tọa Thích Viên Thành đã làm không? Khi Long Mạch đã được phục hồi sẽ xảy ra hiện tượng gì tiếp theo? Có thể lại xảy ra hiện tượng sụt lở đất như ngày xưa không?
Còn rất nhiều câu hỏi tiếp theo chủ đề này. Người viết xin tạm dừng ở đây và mong mỏi sự đóng góp của tất cả những người có lòng thương yêu quê hương xứ sở, thương yêu đất Thăng Long ngàn năm văn vật, là món quà có ý nghĩa mừng sinh nhật 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Trong bài viết, tôi có sử dụng một số tài liệu của GS Nguyễn Hoàng Phương, Đoàn Văn Thông, ẩn sĩ Phượng (Nghệ An), ẩn sĩ Lý Thiên Hương (Đức Thọ - Hà Tĩnh) và một số tài liệu của các ẩn sĩ Phú Thọ. Tôi xin trân trọng cảm ơn các vị.
Theo Thượng tọa Thích Huệ Xướng (chùa Giác Lâm, quận Tân Bình - Tp. H-C-M), Thượng tọa Thích Viên Thành đã viên tịch khoảng hơn một tháng sau khi làm lễ cúng hàn Long Mạch tại sông Tô Lịch. Nguyên nhân cái chết của Thượng tọa Thích Viên Thành theo y học hiện đại là xuất huyết não. Thượng tọa Thích Viên Thành trụ trì chùa Hương.
Sau đây là mấy điều giải thích thêm. Mỗi một huyệt vị có thời gian đóng và mở riêng của nó, tức là thời gian ứng nghiệm. Khi muốn tác động vào một huyệt vị nào đó cần phải đúng thời gian đóng hoặc mở của nó mới có tác dụng. Khi dùng thủ thuật trấn (đè lên) hay yểm (chôn xuống) nhằm thay đổi kết cấu của cả một vùng đất để có thể xây dựng một kinh thành thì sự hiểu biết phải vô cùng chính xác. Tiếc rằng kinh nghiệm này không được phổ biến rộng rãi nên thất truyền dần dần. Mà đó cũng là một điều may mắn cho nhân loại chúng ta, vì nếu ai cũng có thể làm được thì Trái Đất chúng ta sẽ đi về đâu? Tuy nhiên trong lịch sử cũng chỉ ra rằng, rất nhiều ngưởi có khả năng đó. Bạn có thể tham khảo trong các truyền thuyết lịch sử. Nên chú ý là chỉ có những người trấn yểm mới biết, những sự việc được ghi nhận là do kể lại nên mất tính chất trung thực. Tuy nhiên, không thiếu dẫn chứng trong lịch sử nhắc đi nhắc lại vấn đề đó.
Tôi xin nêu thêm một vấn đề quan trọng có liên quan đến sự trấn hoặc yểm sau này. Đó là hành Khí của khu vực bị trấn yểm và độ số của nó. Theo nhận xét của riêng người viết, khu vực đó thuộc phía Tây của La Thành nên có hành Khí là Dương Kim và độ số của nó là 9. Như vậy, ta cũng thấy rằng khi tiến hành trấn yểm, Cao Biền cũng biết rất rõ điều đó, chỉ có sai lầm về độ số của phương Tây. Theo sách cổ chữ Hán đến tận ngày nay, phương Tây thuộc Kim và có độ số theo Lạc Thư là 7. Đó là sai lầm cơ bản của cổ thư chữ Hán và tất nhiên khi ứng dụng thì Cao Biền sẽ sai theo. Theo người viết được biết, tại một số vùng của đất Phong Châu ngày xưa, các nhà Phong Thủy vẫn áp dụng tính độ số khi ứng dụng những việc cụ thể trong Phong Thủy theo Hà Đồ và số của Hậu Thiên Bát Quái. Như vậy theo người viết, phương Tây có hành Khí Dương Kim và độ số là 9 mới chính xác. Lạc Thư và độ số Tiên Thiên Bát Quái chỉ áp dụng cho những vấn đề có tầm vóc vĩ mô như khi tính toán các dải Ngân Hà, Thiên Hà, có tầm vóc Vũ Trụ. Để có thể trấn được khu vực bị hở của Long Mạch, theo thiển ý của người viết thì nên dùng hình thức trấn, tức là đè lên vùng bị hở theo đúng quy luật Âm Dương Ngũ Hành. Ta có thể dựng một cây cầu sắt có 9 nhịp hay 9 cột sắt, hoặc có cái gì đó có biểu tượng cho số 9 đè lên khu vực đã rút đạo Bùa. Theo những tin tức gần đây nhất, sự phát sinh các việc kỳ lạ như đã nêu ở trên, cũng chỉ gói gọn như những việc đã xảy ra. Như vậy, ta thấy rằng Long Mạch không còn thoát Khí ra nữa. Nguyên nhân là khu vực đó qua thời gian bị phong tỏa, bế Khí quá lâu (gần 1200 năm), luồng Nguyên Khí đã có sự thay đổi, cũng không loại trừ đã có sự trấn, yểm lại của một số nhà Phong Thủy tài ba giấu mặt. Tôi từng chứng kiến một vài lần khai mở những huyệt đạo bị trấn yểm của các nhà phong thủy Việt Nam ẩn danh. Ta cũng nhận thấy rằng (không biết có phải do trùng hợp hay không), kể từ ngày đạo Bùa được khai mở, vùng dọc theo nhánh Thanh Long đã phát triển rất mạnh mẽ. Từ rất lâu đời, các vùng này là khu vực nông thôn lạc hậu, nay đã vươn mình trở thành hàng loạt khu chế xuất hiện đại.
#22
Gửi vào 16/04/2013 - 09:44
"Hình thức bên ngoài cho thấy hòn đá là đạo bùa cát, cầu giải tai ương, thỉnh cầu phúc đức. Tuy nhiên, các chi tiết mà chúng ta chưa biết có thể phản lại ý nghĩa trên", TS Nguyễn Xuân Diện, Viện nghiên cứu Hán nôm trao đổi về hòn đá lạ ở đền Hùng.
>
- Ông đánh giá như thế nào khi thấy hòn đá có nhiều văn tự lạ ở đền Hùng?
- Sau Tết, một người thân của tôi đi đền Hùng thấy hòn đá này và chụp những tấm ảnh đưa cho tôi. Cảm giác ban đầu là vô cùng bất ngờ, sững sờ khi thấy các chi tiết của hòn đá.
Tục thờ đá là tín ngưỡng nguyên thủy không chỉ ở Việt Nam mà phổ biến trên khắp thế giới. Chúng ta từng thấy có những tảng đá thiêng được đặt ở một số đền chùa như chùa Thầy, khu vực Yên Tử hoặc nơi này nơi kia và bao giờ cũng gắn với sự tích, truyền thuyết, huyền thoại nào đó được người dân truyền tụng.
Nhưng trong những sự tích, huyền thoại về đền Hùng và khu vực lân cận, tôi chưa từng bao giờ nghe hoặc đọc thấy về một hòn đá như thế, mặc dù khu vực đền Hùng có tín ngưỡng thờ sơn thần.
Như báo chí thông tin thì viên đá này ở đền Hùng không phải có từ trước, mà được một người dân cung tiến, đưa về và đặt tại đền Thượng từ năm 2009. Mặt trước viên đá.
- Những văn tự lạ trên hòn đá có ý nghĩa gì?
- Hòn đá có hai mặt, mặt trước phía trên có dấu ấn hình vuông "Tổ Vương Tứ Phúc" chữ nghĩa cũng giống như hình dấu trên tờ ghi công đức tu bổ đền Hùng; bên trái là dòng chữ Phạn - là câu thần chú của Phật giáo Mật tông, dòng chữ Hán là “Bách giải tiêu tai phù” nói lên rằng đây là một đạo bùa giải hết mọi tai ách. Còn chữ lớn ở giữa tôi chưa giải thích được. Mặt sau là các hình tinh tú, bên dưới là vòng tròn nhỏ giống bát trận đồ của Khổng Minh thời Tam Quốc. Chân của hòn đá là hình bát quái, quẻ càn.
Như vậy, hòn đá là đạo bùa có sự pha trộn giữa Phật giáo Mật tông, Đạo giáo, phù thủy, trận đồ bát quái của Khổng Minh, cho thấy là một đạo bùa tổng hợp.
Quan sát hình thức bên ngoài một số nhà nghiên cứu cho rằng nó là đạo bùa cát (lành), mong cầu giải tai ương, nhằm thỉnh cầu phúc đức cho một cá nhân, tập thể nào đó, chứ không phải là bùa độc, hoặc bùa trấn yểm, triệt hạ long mạch, linh khí. Tuy nhiên, các chi tiết khác của hòn đá mà chúng ta chưa biết có thể làm phản lại ý nghĩa trên nếu xem xét lại vị trí đặt hòn đá. Nếu đặt không đúng chỗ thì nó cũng là một cách trấn yểm để triệt hạ linh khí.
- Theo ông, việc đặt viên đá tại đền Hùng có phù hợp?
- Theo tôi, trên viên đã có những hình thù, văn tự xa lạ với tín ngưỡng thờ tổ tiên của người Việt, có thể tiềm ẩn những phù thuật sâu xa.
Tín ngưỡng thờ vua Hùng là tín ngưỡng quốc gia nên bất kể vật nào đó được cung tiến vào đều phải tuân thủ tín ngưỡng thuần Việt. Đây là nơi thờ quốc tổ nên từng tự khí (đồ thờ) dâng lên đều phải thể hiện ý chí của con Lạc cháu Hồng và bày tỏ ngưỡng vọng của tổ tiên, chứ không phải là nơi để bày đặt các đồ thờ chỉ đề cầu lợi ích phúc lộc cho cá nhân, tổ chức hoặc dòng họ. Mặt sau viên đá.
- Tại nhiều nơi thờ tự hiện có rất nhiều hiện vật của cá nhân, tổ chức cung tiến. Ông nhìn nhận thế nào về việc này?
- Ngày xưa, tất cả nơi cúng tế, những ai cung tiến vật gì, từ hoành phi đối liễn, mâm bồng, cờ quạt, kiệu, tàn tán… đều phải được hội đồng chức sắc địa phương sở tại duyệt chứ không phải ai muốn đem đến cái gì cũng có thể treo hay đặt tùy tiện. Đơn giản như một cuộc tế lễ, khi bắt đầu vào tế, bao giờ cũng có người xướng tế "Củ soát tế vật", có nghĩa là kiểm soát các đồ lễ dâng lên, có phải đồ tinh khiết, sạch sẽ và thành tâm thì mới được dâng lên thượng điện.
Theo tôi, không phải cái gì tổ chức, cá nhân dâng lên đều có thể chấp nhận đưa vào đền chùa được. Nếu không sẽ xảy ra thảm họa về tâm linh, như một gia đình cung tiến chùa ở Trà Vinh đáng lẽ chỗ đặt tượng Phật thì lại đặt ảnh gia đình. Những hiện vật cung tiến như đôi sư tử đá, cánh cổng theo kiểu Tử Cấm Thành, hay những chiếc đèn, tượng Phật của Trung Quốc, rất xa lạ với Việt Nam thấy nhan nhản ở các chùa đền khắp nơi.
- Theo ông, hướng xử lý với hòn đá lạ ở đền Hùng nên như thế nào?
- Có ý kiến cho rằng phải tổ chức hội thảo để nghiên cứu thảo luận về hòn đá lạ ấy. Đâu cần phải vậy! Chúng ta không nên và không cần tổ chức hội thảo nghiên cứu cho một vật thể lạ bỗng dưng lạc vào đền Hùng như thế. Bởi các hiện vật như thế này rõ ràng không được phép đưa vào đền Hùng. Hòn đá do cá nhân cung tiến, tốt nhất là gọi chủ nhân của nó đến yêu cầu di dời ngay lập tức ra khỏi khu vực đền Hùng để tránh những tác dụng xấu tới khu di tích linh thiêng này.
Đền Hùng là quần thể kiến trúc giản đơn, thuần Việt, không cần thêm bớt gì mà vẫn trang trọng, không cần có hòn đá thì người dân vẫn đến thắp hương. Bản thân mỗi cây cổ thụ, nét mái cong cổ kính và màu xanh rì của tán cây trên khắp các khu đồi đều là cảnh quan đẹp, thấp thoáng dáng hình của tiền nhân thuở trước. Đến đây, người dân có thể gửi gắm tâm linh, suy tưởng về công đức của vua Hùng đâu cần phải thêm vật gì nữa. Trao đổi với VnExpress ngày 15/4, ông Hà Kế San, Phó chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ, Trưởng ban tổ chức lễ hội đền Hùng, cho biết sau lễ hội, tỉnh Phú Thọ sẽ mời các nhà khoa học, chuyên gia đánh giá về việc đặt hòn đá tại khu du tích. Đề cập việc tạm đưa hòn đá vào kho, ông San cho biết, hiện tỉnh chưa quyết định việc này và sẽ xin ý kiến của Cục Di sản, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch.
Thanked by 1 Member:
|
|
#23
Gửi vào 16/04/2013 - 20:24
Trò vớ vấn, của một bọn vớ vẩn, được tiếp nhận bởi 1 tổ chức vớ vẩn!!!
Xem qua thì đây là 1 loại "bùa chú" tổng hợp.
Mặt trước, chữ triện vuông trên đúng là "tổ vương tứ phúc" (Vua Hùng ban phúc) như anh Diện nói, còn bên phải là dòng chữ Hán "bách giải tiêu tai phù", bên trái là Chú Phật Mẫu Chuẩn Đề "Án chiết lệ chủ lệ chuẩn đề tabà hạ" viết bằng chữ nêpan. Cái chữ loàng ngoằng ở giữa chính là nội dung của chữ "bách giải tiêu tai phù" viết theo kiểu...vẽ bùa - của Trương Thiên Sư chân nhân (nhưng vận bút không đúng cách nên thành ra nó loằng ngoằng, chẳng ra chữ gì)... túm lại là hổ lốn đủ thứ.
Mặt sau thì bên tay trái phía trên là chữ Sắc Lệnh (nhưng viết loằng ngoằng nên chữ Sắc thành ra chữ ...Trần), bên dưới là chữ Cửu tinh gì gì ấy... (ảnh mờ không đọc được), ở giữa phần trên là đồ hình cửu tinh (bắc đẩu thất tinh và phụ bật). Bên phải là Ngũ Bộ chú : om ram om srim (úm lam úm xỉ lâm) và om mani padme hum (lục tự đại minh)
Còn bên dưới là đồ hình bát quái trấn - tượng của quẻ CÀN, vì theo hàng ngang nó tượng trưng cho 3 vạch - (CÀN là Trời). Hàng giữa là 28 chấm đại diện cho nhị thập bát tú, hàng trên và hàng dưới là 36 chấm tượng trưng cho 36 sao thiên cương, còn những hàng chấm nhỏ ở dưới hình như là tượng trưng cho 72 sao địa sát, nhưng đếm được khoảng 36 chấm (ảnh mờ), vậy thì muốn thành 72 sao địa sát phái kết hợp với cả bên trên nữa mới đủ. Hơn thế nữa, 36 sao thiên cương + 72 sao địa sát chính là ...nhị thập bát tú rồi. Chắc là định thể hiện sơ đồ thiên tinh, nhưng không hoàn chỉnh. Sơ đồ này thường thấy trong các lá bùa "bát quái trấn", tuy nhiên hơi ...lung tung. Lẩn quất trong đó là một đống chữ vạn....
Túm lại mặt sau là một lá bùa "Trấn yểm" với đủ thứ tạp nham.
Cũng chẳng có gì mà báo chí rùm beng lên, nào là "ký tự lạ khó hiểu.." với lại "xôn xao dư luận...", rồi thì đao to búa lớn "mời các nhà khoa học, chuyên gia tổ chức hội thảo...". Rồi lại tiêu tốn một số tỷ đồng cho cái "hội thảo bùa chú" này chứ chẳng chơi. Chẳng qua đây chỉ là sản phẩm của một bọn mật tông nửa mùa.
Ngó qua một lúc chán chả muốn xem. Bày đặt vẽ bùa vẽ chú, chữ nghĩa lung tung, loằng ngoằng giun dế, chả cái gì ra cái gì. Bùa chú thế này thì có mang về trấn chuồng gà cũng không đắt, nói gì đến "trấn yểm quốc gia". Khẩn trương tống khứ nó đi cho đỡ rác nhà.
Thà cứ để nguyên hòn đá để chơi làm cảnh còn đẹp, vẽ bậy lên phí cả hòn đá.
nguồn: phongthuythanglong.vn
Thanked by 2 Members:
|
|
#24
Gửi vào 16/04/2013 - 22:20
Nhưng đưa vào Đền thờ Quốc Tổ thì là việc khác. Người tặng , người nhận hiểu sai chỗ mà dùng.
Vật dùng là một dạng đá quý ( ngọc ) , được chạm khắc tỉ mỉ . Nội dung là các Phù Yểm loại tối thượng của các môn phái.
Trước hết là đế thuộc Quẻ Càn , tượng trưng cho Vua. Lại đặt một viên đá ở trên là Quẻ Cấn. Cấn trên Càn không phải là quẻ Sơn Thiên Đại Súc như một người đã bàn mà chính là dùng núi Cấn trấn Vương Khí. ( cái này là không hiểu hay quá hiểu ?? ) Xưa nay có Địa Thiên Thái nhằm cúng tế Trời Đất , chứ chưa ai để quẻ Càn dâng cho Vua ( dù là đền thờ ) ở dưới.
Tất cả các Đạo Phù khác của Mật tông , bách giải tiêu tai ( Trương Thiên Sư ) , Bát Trận Đồ , .. đều là loại Trấn Yểm không riêng gì ma quỷ mà Thần Thánh còn phải tránh. Nay đặt tại Đền Thờ thì Linh khí có bị ảnh hưởng không ?
Tôi tin Các Vua Hùng thì đã vượt qua mức ảnh hưởng của các loại Phù đó ( đa phần là Phù của hậu bối ) , nhưng ngày Giỗ , con cháu đời sau tề tựu cúng bái mời các Ngài giáng hạ thưởng thức mà đến cửa nhìn thấy Phù Trấn giống như Vua đi dự tiệc mà gặp chú lính gác cầm gươm sáng quắc giương lên. Còn thêm các quân tướng theo phò nữa thì sao.
Thanked by 1 Member:
|
|
#25
Gửi vào 20/04/2013 - 08:47
BÁI THẠCH VI HUYNH (vần ĐÁ)
Tác giả ẩn danh
Linh khí đất trời, lạy anh là đá
Đích thị chủ mưu ấy Bộ văn hóa
Tôi mua anh về, mài mài cạ cạ
Mực tàu pha sơn, bôi bôi xóa xóa
Hán Phạn tùm lum, chú phù đủ cả
Chích chích chi chi, trào triết ẩu á
Tôi khiêng anh lên
Yểm vào đền cả.
Úm ba la hồng, om ma ni phạ.
Anh nay yểm ở ngôi cao, trấn tận cội nguồn đấy nhá.
Quốc sự dân sinh trăm miền đủ cả.
Mà xem
Trấn rồi yểm xong muôn nơi tá hỏa.
Nghìn năm Thăng Long hào khí ngất trời, đùng một cái dàn pháo hoa tóe lả, người chết người bị thương đủ cả, cứu hỏa cứu thương nháo nhác chạy lung tung.
Muôn thủa Hồng Lam lụt lội mênh mông, sấy bốn bánh xe đường dài ngập chìm,ai mất ai trôi sông tang thương, thơ lặn thợ bơi bì bõm tìm vất vả.
Nóc Đông Dương bô xít Tân rai, bán cho ai mà họp xuống họp lên, khởi khởi công công, lở loét môi sinh đào đào phá phá.
Nguồn Trà Mi thủy tai Đất Quảng, ngăn một dòng mà động trên động dưới, lở lở rung rung.
Vi na sin chìm nghỉm bể tham quan
Vi na lai tan tành cầu cướp phá.
Chứng khoán sàn thê thảm rớt không phanh
Bất động sản cỏ trùm như đắp mả.
Lập huyện Tam Sa lũ Tàu chiếm biển đông
Cướp đất Cống Rộc quan nha dùng đạn nhả.
Dân như con sâu cái kiến, luôn năm đi rồng rắn biểu tình
Quan như ông hổ ông hùm, mút mùa họp chó dê cắn nhá.
Doanh nghiệp bể như là bong bóng, công nhân ra đê gạt tép vơ bèo.
Xã hội tan quá thể bầy đàn, cướp giật xuống đường đâm quen hiếp lạ.
Cháu ngoan Bác Hồ thành thanh nữ, gả nước ngoài như chon chó chọn trâu.
Nghệ sĩ ưu tú về già tom, ăn lạc rang tựa ở tù ở vả.
Bùa hỡi là bùa!
Đá ơi là đá.
Xoen xoét nó vừa vừa, tiền đầy túi còn nhe nanh cải mả.
Ngẫm thay buôn thánh bán thần, Đảng Mác Lê khoa học khoa hành mà chúng nó làm ăn như thế hả!!!
Khấu đầu em lạy anh: hòn đá.
K.D.
#26
Gửi vào 20/04/2013 - 08:51
Người cho đặt đá lạ ở đền Hùng lên tiếng
(ĐVO) - ‘Việc đưa đá lên đền Thượng tại Đền Hùng là có cơ sở khoa học và không ai dám làm bậy bạ ở nơi thờ tự linh thiêng như thế. Tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật, Nhà nước và nhân dân khi làm việc này. Khi hoàn thành công việc; các lãnh đạo Trung ương, tỉnh đều đã chứng kiến và biết’.
PV: - Thông tin về hòn đá lạ được đặt trên đền Thượng tại Đền Hùng đang khiến dư luận rất lo lắng, bùa yểm nhưng không rõ là gì?
Ông Nguyễn Tiến Khôi: - Khi tu sửa đền Hùng năm 2009, lúc tháo dỡ toàn bộ bệ thờ trên đền Thượng, cán bộ và công nhân đã phát hiện một viên gạch lạ có in chữ Hán.
Nhiều nhà văn hóa cho rằng có thể là bùa yểm trong đó. Để phá thế yểm, Ban quản lý đã phải mời các pháp sư. Cụ thể người trực tiếp tham gia làm việc này là ông Nguyễn Minh Thông.
Một số nhà khoa học, chuyên gia ngoại cảm đã vào cuộc hội thảo nhiều lần, khẳng định viên gạch này có từ cuối thời Trần, do đạo sỹ của quân Nguyên Mông mang đến đặt.
Thời đó, phía Nguyên Mông bị thua trận vì bị nhà Trần ta đánh tan ba lần, đã cử đạo sỹ được cải trang sang nước Nam ta, dùng thủ đoạn yểm bùa gạch này tại đền Thượng. Trên viên gạch được ghi “Đánh đổ đức sáng Vua Hùng (hiện còn lưu giữ tại bảo tàng Đền Hùng).
PV: - Vậy ông có thể giới thiệu lại quy trình mà Ban quản lý đã thực hiện việc làm bùa yểm này như thế nào để cộng đồng được hiểu?
Ông Nguyễn Tiến Khôi: - Ông Nguyễn Minh Thông là do Bộ Văn hóa giới thiệu, hiện nay đang là giám đốc Trung tâm nghiên cứu ứng dụng văn hóa phương Đông.
Chính vị này từ năm 2000 cũng là người đã chọn huyệt đạo xây dựng Đền thờ Mẫu Âu Cơ và sau đó là tìm huyệt đạo của đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân.
Tôi xin khẳng định rằng tất cả các đền thờ ở trên núi Hùng của Phú Thọ theo chỉ đạo của Bộ Văn hóa đều phải nhờ vị này từ khâu hạ trại đến khi hoàn thành.
Suốt thời gian qua, đất nước ta yên bình. Và chính vị này đã có báo cáo lên Bộ Văn hóa và UBND tỉnh phải làm đá để yểm ngược lại và cũng được đồng ý.
Hòn đá này đã được đặt trên đó mấy năm nay rồi.
PV: - Thế nhưng có ý kiến cho rằng hòn đá này là do ông Nguyễn Đình Khảm, Giám đốc một Cty đá quý trong Hội liên hiệp đá quý Việt Nam (ở Hà Nội) công đức. Do vậy cũng chưa rõ liệu nó có mang lại sự may mắn đúng như mong muốn?
Ông Nguyễn Tiến Khôi: - Khi biết có việc này ông Nguyễn Đình Khảm, Giám đốc một Cty đá quý trong Hội liên hiệp đá quý Việt Nam đã có nhã ý công đức một hòn đá và cũng được những người có chuyên môn, trách nhiệm lựa chọn cho phù hợp với kiểu dáng cũng như chất lượng.
Do vậy không có chuyện không kiểm nghiệm ở đây.
PV: - Nhưng có ý kiến cho rằng khi cho đặt hòn đá này lên, ông đã bị kỷ luật và phải giải trình?
Ông Nguyễn Tiến Khôi: - Đó là thông tin không chính xác. Bản thân tôi còn được thưởng Huân chương lao động vì đã có công tu sửa tại Đền Hùng.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Bích Ngọc (thực hiện)
Sửa bởi tigerstock68: 20/04/2013 - 08:52
#27
Gửi vào 20/04/2013 - 08:54
Một hòn đá với những hình vẽ khó hiểu ngay tại đền Thượng, đền Hùng. Lá phiếu ghi nhận công đức lại có dấu ấn nhân danh vua Hùng. Những vật thể lạ này khiến công chúng đặt câu hỏi về năng lực quản lý.
Từ hòn đá “trấn yểm”
Không được đặt như một đồ thờ tự, hòn đá “lạ” nằm ở đền Thượng cũng đã 4 năm nay. Gọi là lạ vì trên đó có nhiều hình vẽ lạ, chữ viết lạ. Thậm chí có người còn cho rằng đây là một bùa trấn yểm. Được đặt ở đền Thượng - nơi linh thiêng - trung tâm của đền Hùng, hòn đá khiến nhiều người đặt câu hỏi. “Đặt hòn đá ở đó thì sao lại không ảnh hưởng? Mà bùa chú gì ở đó, yểm ai, trấn ai?”, PGS-TS Nguyễn Quốc Tuấn - Viện trưởng Viện Nghiên cứu tôn giáo đặt câu hỏi.
Nhưng chuyện bùa chú không còn là nghi án, bởi ông Nguyễn Tiến Khôi, nguyên Giám đốc Ban Quản lý khu di tích lịch sử đền Hùng đã xác nhận điều đó. Theo ông Khôi, việc đặt bùa này do người trong nước làm, và để tốt cho đền Hùng.
Phiến đá dùng để trấn yểm tại đền Thượng - Ảnh: Nguyễn Long
Tuy nhiên những việc tốt lành đâu chưa biết, chỉ rõ ràng rằng sự nguyên vẹn của di tích đền Hùng đã bị xâm hại. Bởi bản thân hòn đá hoàn toàn không phải yếu tố gốc của di tích. Đền Thượng đã được tu bổ năm 2009 và theo thông tin từ Bộ VH-TT-DL thì trong thiết kế (có cả chi tiết nội thất) của đền Thượng không hề có “hạng mục” hòn đá này.
“Phải làm rõ, việc anh trưng bày, cúng hiện vật được quy định trong quy chế của bản thân di tích như thế nào”, PGS-TS Tuấn đặt câu hỏi. “Nếu có quy chế thì có đúng quy chế không. Nếu chưa có quy chế vì sao anh đặt một hiện vật lạ vào. Tại sao lại có thể đưa vật lạ vào mà không có bất cứ ý kiến của cơ quan chuyên môn vào. Ứng xử với di tích như thế đã tham khảo ý kiến Bộ VH-TT-DL chưa?”.
Theo GS-TS Ngô Đức Thịnh - Ủy viên Hội đồng Di sản quốc gia, luật quy định rõ không được làm gì biến dạng di tích. Hòn đá lạ này theo ông đã làm tính chất của di tích khác đi rồi.
Về thông tin có thể Phú Thọ sẽ tổ chức hội thảo mời các nhà khoa học tham gia thảo luận về hòn đá lạ này, PGS-TS Tuấn cho rằng không nên sa vào tranh luận về hòn đá là gì. Điều quan trọng nhất trong vụ việc này theo ông là ai cho phép đưa vật lạ vào di tích, nếu cho phép thì dựa trên cơ sở pháp lý nào, cơ sở khoa học nào. Thông tin từ Bộ VH-TT-DL chiều qua (16.4) cũng cho biết Cục Di sản đã yêu cầu phía địa phương phải báo cáo cụ thể về trường hợp hòn đá này.
Đến ấn “ban phúc”
Nhưng chuyện lạ ở đền Hùng không chỉ có thế. Khách hành hương đóng tiền công đức tại đền Hùng trong dịp này còn được nhận một chứng nhận lạ. Trên đó là hình một dấu ấn vuông có dòng phụ chú: “Tổ Vương Tứ Phúc - Vua Hùng ban phúc”. Không rõ ai đã cho phép họ “nhân danh” vua Hùng như vậy.
Phiếu ghi công đức tùy tiện xưng danh vua Hùng - Ảnh: Nguyễn Long
Công đức là một việc làm thể hiện thành tâm muốn đóng góp xây dựng di tích. Thành ý đó đáng được ghi nhận và trong chừng mực nào đó cần tôn vinh. Chính vì thế, các cơ sở thờ tự khác nhau thường có những hình thức đáp lễ người công đức. Ngoài những nơi dùng lộc bánh trái, phiếu ghi công đức cũng là một hình thức ghi nhận công lao như vậy. Nó còn có tác dụng giúp người quản lý quản lý số tiền công đức thập phương. Tuy nhiên, điều đáng nói là sự muôn hình vạn trạng này rất tự phát và không hề có quy định chung từ phía Bộ VH-TT-DL. Việc “xưng danh vua Hùng” như trên, do đó dù rất phản cảm, tuy nhiên không chắc đã phạm luật khi quy định cụ thể về hình thức của một phiếu ghi công đức phải có.
Cũng nói về quy định và thực hiện quy định pháp luật, việc đưa vật thể lạ vào di tích do vẫn được “lờ” đi trong nhiều năm, không bị phạt nên vẫn tiếp tục. Hòn đá lạ ở đền Hùng chỉ là một trong nhiều ví dụ về các vật thể lạ như thế.
Chính vì vậy, nếu không siết lại kỷ cương, pháp chế trong lĩnh vực VH-TT-DL, có lẽ sau đá lạ, ấn lạ sẽ còn những vật thể lạ đáng lo khác.
Người của Bộ VH-TT-DL giới thiệu pháp sư trấn yểm ?
Thanh Niên trao đổi qua điện thoại với ông Nguyễn Tiến Khôi, nguyên Giám đốc Ban Quản lý khu di tích lịch sử đền Hùng.
Thưa ông, có phải hòn đá được đặt trong thời kỳ ông công tác tại Ban quản lý không?
Hòn đá đó đặt khi tu bổ lại di tích đền Thượng. Khi tu bổ phải làm lễ, các thủ tục tâm linh, pháp sư mới làm được. Khi pháp sư làm, để bảo đảm yên vị thì thấy phải có trấn yểm. Nên cái đó là mình làm chứ không phải nước ngoài yểm.
Người đứng ra trấn yểm có tên là Nguyễn Minh Thông phải không, thưa ông?
Ông ấy là pháp sư. Hiện ông này là Giám đốc Trung tâm ứng dụng văn hóa phương Đông. Lúc giới thiệu pháp sư về làm đền Hùng, các anh ở Bộ VH-TT-DL giới thiệu.
Những người đó giới thiệu ông Thông với tư cách cá nhân hay tư cách của Bộ VH-TT-DL, thưa ông?
Không phải tư cách của Bộ nhưng là những người có trách nhiệm, cá nhân cũng là những người có hiểu biết. Ông Thông là người đã giúp xây đền Mẫu rất linh thiêng. Ông còn tìm huyệt đạo để xây đền Lạc Long Quân, phong thủy rất đắc địa.
Đúng là khi xây dựng các công trình, theo tín ngưỡng dân gian thường có các nghi lễ tâm linh. Nhưng vấn đề là hòn đá lại được đặt ở di tích đặc biệt cấp quốc gia. Như vậy nó phải được phép, thưa ông.
Đã làm tâm linh thì không thể bày vẽ hết các việc được. Báo chí mình cứ nói lung tung thế thì còn gì là tâm linh nữa. Anh em cứ giở khoa học ra thì còn gì là tâm linh nữa.
Trinh Nguyễn
Sửa bởi tigerstock68: 20/04/2013 - 08:55
#28
Gửi vào 20/04/2013 - 08:58
Trên đây là tờ GHI CÔNG ĐỨC TU BỔ ĐỀN HÙNG, do Khu Di tích Lịch sử Đền Hùng phát ra, trên có cả chữ ký của Ông Nguyễn Xuân Các - GĐ Khu Di tích lịch sử Đền Hùng. Trên tờ giấy ghi công đức có hình dấu ấn, có bốn chữ Nho trong ô vuông. Bốn chữ ấy là:
TỔ VƯƠNG TỨ PHÚC
(Vua Tổ ban phúc)
.
Tuy vậy, chữ "Tổ" một nửa thì bị cụt đầu, mất nét; một nửa lòi ra thừa nét.
<a href="http://4.bp.blogspot.com/-jqute-FlEoo/USI_vfKcsrI/AAAAAAAAj3g/rMf7SgVOEqw/s1600/Copy+of+vh1.JPG" imageanchor="1" style="text-decoration: none; color: rgb(153, 51, 34); clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em; ">
Đây là các chữ "TỔ" lối chữ triện, theo ghi nhận của ":
Chữ "Tổ" theo ghi nhận của thì có một mã chữ không có nét ngang ở trên:
Tuy vậy, trong cùng một con triện, có hai chữ đều có bộ "Kỳ":
Đó là chữ TỔ và chữ PHÚC.
Chữ PHÚC trong con triện được viết như sau:
Còn chữ TỔ thì chỉ được viết:
Nửa của chữ TỔ là chữ "Thả". Chứ này, lối triện thư, theo ghi nhận của có:
Chứ không phải thừa ra nét ngang rời ở đít chữ, như trong hình ấn đền Hùng:
[indent][Nói thêm, ngoài lề, nhân nói đến chữ TỔ. Chữ này gồm 2 bộ phận: Bộ phận bên trái là bộ "Kỳ", nghĩa là Thần đất. Nó có hình dạng một cái đài thờ, một cây hương, bệ thờ đặt trên một cây ba chạc, biểu tượng cho Thờ Cúng.
Bên phải là bộ "Thả", có hình dạng của cái Dương Vật - có khấc hẳn hoi, tượng trưng chođàn ông/nam giới.
Cả chữ Tổ này ngụ ý nói đến việc thờ cúng Tổ tiên - nòi giống được duy trì bởi những người đàn ông các thế hệ nối nhau. Là hồi đi học, thầy cháu dạy thế!][/indent]
Ngoài ra, chữ PHÚC cũng viết không thật chuẩn theo lối chữ triện, mà nó được chế tác theo kiểu "dĩ khải tác triện" rất là ...Việt Nam.
Chữ PHÚC đúng ra nếu viết theo lối , thì có hình như sau:
Nhưng mà thôi, cũng cho là được...
Bốn chữ: "TỔ VƯƠNG TỨ PHÚC" lại được ghi bên cạnh là HÙNG VƯƠNG TỨ PHÚC.
Hơn nữa, chúng tôi nghiên cứu Hán Nôm lâu nay không gặp từ ghép "Tổ Vương" vì đấy là tư duy tiếngViệt hiện nay.
Trên ấn triện cũng không dùng chữ 賜"Tứ", mà dùng chữ 錫 "Tích".
Đã thế lại bịa đặt, nhạo báng rằng đây là "Dấu ấn Vua Hùng từ thời Lê Hồng Đức truy phong". Dấu ấn này từ thời Lê Hồng Đức ư? Thời Hồng Đức, Lê Thánh Tông trị vì mà làm cái ấn cẩu thả vậy chăng?
Phú Thọ học đòi Nam Định, lợi dụng Vua Hùng để kiếm xèng của bà con đây mà! Cái ấn này đã được dùng để đóng vào giấy hoặc vải để thậm thụt "ban" cho rất nhiều người trong thời gian mấy tháng nay rồi, kiếm bộn tiền như Nam Định vẫn làm nhiều năm nay.
Dưới đây là miếng vải có đóng dấu ấn, xem ra cùng đóng bởi con ấn cho hình như trên phiếu ghi côngđức, vừa được một thân hữu cung cấp cho chúng tôi - mà theo ông nói là mới nhận được trước Tết Quý Ty ít ngày:
Đi lễ Đền Hùng, xin đồng bào cả nước và kiều bào ở nước ngoài về chớ nên mang cái hình dấu ấn này về, vì như vậy là tiếp tay cho sự nhạo báng của tỉnh Phú Thọ, xúc phạm Quốc tổ Hùng Vương, xúc phạm Hoàng đế Lê Thánh Tông, xúc phạm Tổ tiên và Lịch sử!
Tiến sĩ Nguyễn Hồng Kiên đoán rằng: "Năm nay là đóng ấn vào tờ ghi công đức. Rồi sẽ có lúc Đền Hùng cũng sẽ bán/phát ấn cho mà xem! Mà muốn thế chắc chắn phải mời bằng được một bác VIP về đóng ấn, mới linh!"
Sửa bởi tigerstock68: 20/04/2013 - 08:59
#29
Gửi vào 20/04/2013 - 09:02
Giải mã “Hòn đá lạ” ở Đền Hùng
TPO - Theo lý giải, viên đá có thể hóa giải bùa yểm xấu, trấn trạch bình an, tạo năng lượng vũ trụ cho Đền Thượng khiến quốc gia được hưng thịnh, tốt đẹp.
Sau khi lãnh đạo tỉnh Phú Thọ yêu cầu ông Nguyễn Tiến Khôi, nguyên Giám đốc Ban quản lý Khu di tích lịch sử Đền Hùng, hiện là Chủ tịch Hội sử học tỉnh Phú Thọ, giải trình về sự hiện diện và các vấn đề xung quanh “Hòn đá lạ” ở Đền Thượng mà dư luận những ngày qua rất quan tâm, ông Khôi và cả ông Nguyễn Minh Thông, một đại tá quân đội, hiện là Giám đốc Trung tâm nghiên cứu ứng dụng Phương Đông (ở Hà Nội), người được xem là tác giả nắm rõ nhất nguồn gốc, ý nghĩa của hòn đá đặt tại đây, đã có văn bản trả lời về vấn đề này.
Ông Nguyễn Tiến Khôi khẳng định viên đá ngọc ở Đền Thượng là rất tốt.
Trao đổi với Tiền Phong sáng 14/4/2013, ông Khôi nói thời kỳ năm 2008-2009 khi chuẩn bị hoàn thành tu bổ khu di tích Đền Hùng, một số lãnh đạo tỉnh Phú Thọ đã chỉ đạo ông tìm một người giỏi để “làm công tác tâm linh” cho Đền Hùng.
Ông Khôi đã đến Bộ VHTTDL nhờ tìm thầy, và đã được một số cán bộ thuộc Bộ này giới thiệu đến gặp ông Thông, người rất được tin cậy, kính trọng trong lĩnh vực tâm linh. Khi đó phía Phú Thọ cũng đã đồng ý, vì ông Thông cũng chính là người có hiểu biết uyên thâm từng cùng ông Nguyễn Hữu Điền (nguyên Bí thư Tỉnh ủy Phú Thọ) tìm ra huyệt đạo xây dựng Đền thờ Mẫu Âu Cơ (cạnh Đền Hùng).
Với Đền Quốc Tổ Lạc Long Quân, ông Thông cũng là người được Phú Thọ mời đến với trọng trách xử lý những vấn đề tâm linh liên quan. Và lần này, bước vào tu sửa Đền Thượng, ông Thông cũng được ông Nguyễn Hữu Điền mời về.
Khi sửa nền Đền Thượng, cán bộ và công nhân phát hiện có một viên gạch lạ, có in chữ Hán, ông Thông nói với ông Khôi và lãnh đạo tỉnh Phú Thọ, có ý kiến là viên gạch này tựa như bùa yểm xấu (còn gọi yểm đảo, không rõ ai đặt dưới nền cát, có từ bao giờ...) nên sau khi hoàn thành tu sửa Đền Thượng thì rất nên có đá đặt ở Đền để trấn yểm “phản” lại viên gạch yểm xấu kia.
Văn bản trả lời của ông Nguyễn Minh Thông (đề ngày 20/3/2013) mới đây lên tỉnh Phú Thọ, cho biết viên gạch nọ được Phú Thọ nhờ Trung tâm của ông Thông nghiên cứu, xem xét.
Một số nhà khoa học, chuyên gia ngoại cảm đã vào cuộc hội thảo nhiều lần, khẳng định viên gạch này có từ cuối thời Trần, do đạo sỹ của quân Nguyên Mông mang đến đặt. Thời đó phía Nguyên Mông bị thua trận vì bị nhà Trần ta đánh tan ba lần, đã cử đạo sỹ được cải trang sang nước Nam ta, dùng thủ đoạn yểm bùa gạch này tại Đền Thượng, trên viên gạch được ghi “Đánh đổ đức sáng Vua Hùng (hiện còn lưu giữ tại bảo tàng Đền Hùng).
Nên Trung tâm của ông Thông đã lên kế hoạch tìm một viên đá ngọc xanh có nhiều năng lượng tốt lành, có khả năng hóa giải các hung khí và tiếp nhận năng lượng tốt của tinh tú trời đất cho Đền Hùng. Điều này đã được ông Khôi và một số lãnh đạo tỉnh Phú Thọ đồng ý.
Theo ông Khôi, từ năm 2009 đến nay, hòn đá (như Tiền Phong đã mô tả trong bài viết trước) chắc chắn đã làm tốt nhiệm vụ của nó, với ý hóa giải bùa yểm phương Bắc, trấn trạch bình an, tạo năng lượng vũ trụ cho Đền Thượng khiến quốc gia được hưng thịnh, tốt đẹp.
Theo ông Thông, đã may mắn có ông Nguyễn Đình Khảm, Giám đốc một Cty đá quý trong Hội liên hiệp đá quý Việt Nam (ở Hà Nội) công đức viên đá ngọc xanh này.
Đá cũng đã được các chuyên gia thẩm định chất lượng, đo năng lượng, rồi được chạm thêm ngọc rubi và nhiều loại ngọc quý khác.
Mặt trước đá chạm: “Trận đồ bát quái thiên tinh Phật Tổ Như Lai” dựa trên trận đồ bát quái trong Binh thư yếu lược của nhà Trần và theo mô phỏng của Từ điển thuật ngữ quân sự, gọi là Thiên tinh vì ghép tượng hình chòm sao Bắc Đẩu và trận đồ của Đức Thánh Trần ứng dụng khi đánh quân Nguyên Mông.
Trên mặt của Trận đồ còn có câu mật chú thiền phái Mật Tông làm tăng hòa quang của Phật và độ linh, độ uy của Phật để giải hóa bách nạn, bách khổ, bách bệnh cho nhân dân.
Ông Thông khẳng định phải có linh khí của Phật thì mới cùng với linh khí của Đức Thánh Trần kết hợp thì mới hóa giải được bùa phép nguy hiểm đã bị yểm đảo của giặc phương Bắc.
Văn bản trả lời của ông Thông cho biết tiếp, mặt sau của viên đá ngọc, phía trên là Ấn của Vua Hùng (mà hiện Khu di tích đang dùng), dưới có chạm lá bùa giải bách họa cho nhân dân mà các nhà sư đi tu ai cũng biết.
Từ ngày được hóa giải đến nay, ông Thông cho rằng tỉnh Phú Thọ và Khu di tích Đền Hùng được đánh giá là phát triển rất tốt đẹp. Theo năm tháng, viên đá ngọc sẽ ngày càng tích năng lượng thu phát, các địa phương khác cùng với Phú Thọ cùng được hưởng phúc. Ông cũng cam đoan viên đá đang rất linh ứng và hiệu nghiệm.
Được biết, nghi lễ nhập trạch Đền Thượng cùng với lễ dâng ngọc hóa giải bùa yểm đã được tổ chức hết sức long trọng và trang nghiêm.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Tiến Khôi và ông
Tùng Duy
Nguồn:
#30
Gửi vào 20/04/2013 - 09:08
Vừa qua, BQL Khu di tích lịch sử Đền Hùng tỉnh Phú Thọ xuyên tạc lịch sử,... lén lút ban ấn để tiến tới sẽ tổ chức ban/ bán ấn đại trà kiếm tiền của đồng bào cả nước để trục lợi đã khiến dư luận rất bức xúc.
Gần đây nhất, hòn đá mang một đạo bùa kỳ quái được yểm tại Đền Thượng đã khiến dư luận xôn xao bàn luận trong hoang mang, và nhiều báo chí đã lên tiếng. yêu cầu Tỉnh Phú Thọ và BQL Di tích Đền Hùng phải làm sáng tỏ ai là người đưa đạo bùa này vào đền và với mục đích gì.
Chúng tôi lại vừa được một số người dân cung cấp các video và hình ảnh về các cuộc cúng bái xa lạ,quàng xiên và rùng rợn được một số người thực hiện tại Đền Thủy tổ trong khu di tích đặc biệt của quốc gia này.
Dưới đây là hai hình ảnh của một nghi lễ kỳ quái ở đền Thủy tổ:
Trên hình ảnh cho thấy một lễ cúng mang tính chất phù thủy rất rùng rợn ở Đền Thủy tổ thuộc Khu di tích đền Hùng. Có hình nhân thế mạng, có cờ lệnh của phù thủy, có dàn nến xếp hình các chòm sao, lại còn có hai chai lavie đựng thứ nước gì đen đen nữa... rõ là một đàn tràng của đạo giáo phù thủy, hoàn toàn xa lạ với nghi lễ thờ cúng thuần Việt. Khiếp quá!
Sửa bởi tigerstock68: 20/04/2013 - 09:09
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối |
---|
1 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:












