

#1
Gửi vào 13/04/2013 - 22:32
Vừa đọc được bài báo về việc hòn đá lạ ở Đền Hùng, theo link dưới đây. Mọi người dùng quẻ xem thế nào. E lấy tạm giờ này: Tiểu Súc-Tốn
Hòn đá lạ ở đền Hùng
Mặt trước và sau của hòn đá đặt tại đền Thượng (đền Hùng, Phú Thọ) có ký tự cổ, dấu ấn vuông, họa tiết phức tạp khó hiểu. Nhiều người đồn thổi, đây là một dạng bùa yểm không tốt.
Gần đây, dân mạng xôn xao về một hòn đá cao khoảng 50 cm, bề rộng nhất 35 cm, hình cánh buồm đặt trên bệ được gia cố khá đẹp, đặt trong đền Thượng. Mặt trước và sau của hòn đá có ký tự cổ, dấu ấn vuông, họa tiết phức tạp khó hiểu. Nhiều người đồn thổi rằng, hòn đá lạ này là một dạng bùa yểm không tốt. Hòn đá lạ ở đền Hùng thu hút sự chú ý của người dân. Ảnh: Tiền Phong.
Sáng 10/4 (tức 1/3 âm lịch) người đi lễ Đền đầu tháng đang vây quanh hòn đá lạ. Người xì xào bàn tán, người chụp ảnh, chạm sờ, người lại thận trọng đứng cách vài mét quan sát hòn đá khá lâu.
Ông Nguyễn Xuân Các, Giám đốc Ban quản lý Khu di tích lịch sử Đền Hùng nói, hòn đá này do một người tên Khảm ở Hà Nội cung tiến năm 2009, khi di tích tôn tạo, tu sửa. Do đồng ý cho người cung tiến đặt hòn đá lạ này mà ông Nguyễn Văn Khôi (người tiền nhiệm của ông Các) đã phải làm giải trình lên UBND tỉnh Phú Thọ.
Theo ông Các, hiện chưa thể nhận định viên đá này tốt, hay xấu. Lãnh đạo tỉnh đồng ý sẽ lập hội đồng khoa học để "nghiên cứu" và đưa ra kết luận khoa học cũng như hướng đề xuất xử lý hòn đá lạ sau lễ hội năm nay.
Theo Tiền Phong
Thanked by 2 Members:
|
|
#2
Gửi vào 14/04/2013 - 00:48
Di sản thế giới Phong Nha - Kẻ Bàng bị cầm cố
#3
Gửi vào 14/04/2013 - 11:10
Gần đây, dân mạng xôn xao về một hòn đá cao khoảng 50 cm, bề rộng nhất 35 cm, hình cánh buồm đặt trên bệ được gia cố khá đẹp, đặt trong đền Thượng. Mặt trước và sau của hòn đá có ký tự cổ, dấu ấn vuông, họa tiết phức tạp khó hiểu. Nhiều người đồn thổi rằng, hòn đá lạ này là một dạng bùa yểm không tốt.
Sáng 10/4 (tức 1/3 âm lịch) người đi lễ Đền đầu tháng đang vây quanh hòn đá lạ. Người xì xào bàn tán, người chụp ảnh, chạm sờ, người lại thận trọng đứng cách vài mét quan sát hòn đá khá lâu.
Ông Nguyễn Xuân Các, Giám đốc Ban quản lý Khu di tích lịch sử Đền Hùng nói, hòn đá này do một người tên Khảm ở Hà Nội cung tiến năm 2009, khi di tích tôn tạo, tu sửa. Do đồng ý cho người cung tiến đặt hòn đá lạ này mà ông Nguyễn Văn Khôi (người tiền nhiệm của ông Các) đã phải làm giải trình lên UBND tỉnh Phú Thọ.
Theo ông Các, hiện chưa thể nhận định viên đá này tốt, hay xấu. Lãnh đạo tỉnh đồng ý sẽ lập hội đồng khoa học để "nghiên cứu" và đưa ra kết luận khoa học cũng như hướng đề xuất xử lý hòn đá lạ sau lễ hội năm nay.
Thanked by 1 Member:
|
|
#4
Gửi vào 14/04/2013 - 11:19
Nói hòn đá đặt ở đó là để trấn giữ quốc gia thì đúng là mê tín đến phát cuồng rồi.
Người ta dùng hòn đá quý vẽ trên đó hình tượng bùa phép để trấn yếm, nhưng không phải là đặt ở trong đền thờ, hay đặt trong nhà mà phải chôn nó xuống một vị trí đặc biệt với độ sâu nhất định, do thầy phong thủy hoặc pháp sư chỉ định dùng vào việc gì cụ thể. Với những khối đá lớn hơn thì không chôn mà đặt trên mặt đất cũng với lý do tương tự. Hầu hết những loại bùa khắc trên đá này phần lớn đều dùng để trấn yếm tà ma yêu quái, khiến cho vùng đất có đền thờ, điện thờ, phủ thờ, đình làng.... được khí mạch hưng vượng, yêu tà tẩu tán không dám động chạm hỗn quấy, nhờ đó mang tới sự yên lành hạnh phúc.
Nếu để viên đá đó trong đền thờ thì tác dụng ngược lại, khiến cho Thánh Thần đều chê trách, vì vậy sẽ sinh ra nhiều chuyện bất ổn không sớm thì muộn.
Các học giả , huyền học, phong thủy ,dịch giả.... cho ý kiến về hòn đá này để trấn yểm hay để làm gì???
Thanked by 2 Members:
|
|
#5
Gửi vào 14/04/2013 - 11:46
Thanked by 6 Members:
|
|
#6
Gửi vào 14/04/2013 - 11:53
Ở tảng đá thứ 1 chữ thứ 2 hàng bên phải là chữ Giải,chữ thứ 3 là chữ Hải.Chữ Hải được viết theo kiểu chữ tiểu triện(Mình học tiếng Hán).Đó là 1 loại chữ cổ được dùng vào thời Tần Hán.Chứ Hải là chữ Hán hiện đại.Người Hán trong văn bản,thư từ không bao giờ dùng 2 kiểu chữ này với nhau,vì nó rất khập khiễng.Tảng đá này lại viết 2 kiểu chữ đó trái với luật lệ thông thường,chắc hẳn có điều kỳ lạ gì đây
ý kiến khác...
Hòn Đa trên đền hùng với vì đạo bùa yểm này có trận đồ mà tinh thông nhiều huyền môn mà mỗi cơ quan là một vong linh băng tần cao trấn thủ .Nó xuất phát từ Tây Tạng .nhận định ban đầu là đã làm hao tổn linh khí và long mạch của nới nó tác dụng và thời gian thì tương đối dài ...
ý kiến...
Theo thông tin tớ vừa được người dân Phú thọ cho biết Hòn đá này được đặt cách đây vài năm tại đền thượng gần cửa ra vào hậu cung đặt từ lúc ông Khôi làm giám đốc khu dtls Đền Hùng. Mấy năm trước đã có phóng viên của Tỉnh Phú Thọ viết bài phản đối việc đặt phiến đá này tại đây nhưng không hiểu sao lại không đăng bài nữa. Việc đặt hòn đá do nhà sư (không biết ở đâu) tiến hành đặt. Không lấy ý kiến xin phép của Trung Ương - tự ý lãnh đạo Tỉnh Phú Thọ và giám đốc ban quản lý khu di tích LS Đền Hùng đặt. Đây nếu đúng là sự thật thì việc làm này vi phạm nghiêm trọng thuần phong mỹ tục của dân tộc VN, xúc phạm đến Linh hồn tổ tiên của Dân tộc ta, không thể chấp nhận 1 phiến đá với đầy chữ Tàu không hiểu nghĩa gì mà lại đặt trang trong tại Đền Thượng. Cần xử lý nghiêm lãnh đạo Tình Phú Thọ và các vị đứng đầu ban ngành liên quan và nêu rộng trên cả nước biết để phát hiện và tránh tuyệt đối việc tương tự có thể đã và sắp xảy ra.
Sửa bởi tigerstock68: 14/04/2013 - 12:02
Thanked by 3 Members:
|
|
#7
Gửi vào 14/04/2013 - 12:00
-----------------------------------------------------------------------
BƯỚC ĐẦU GIẢI MÃ ĐẠO BÙA Ở ĐỀN HÙNG
VÀI NHẬN ĐỊNH VỀ HÒN ĐÁ MANG ĐẠO BÙA TẠI ĐỀN HÙNG
Nguyễn Kiên Giang
Đọc được thông tin về nghi vấn: phải chăng Đền Hùng đã bị Tàu trấn yểm bằng một hòn đá mang đạo bùa? Nhiều khách hành hương về Đất Tổ tỏ ra lo lắng và phản ánh lại, và chia sẻ trên mạng facebook. Tôi rất quan tâm vì thấy đây là vấn đề hệ trọng, nhất là đối với niềm tin tâm linh của đồng bào hướng về thánh địa thờ phụng Tổ Vương và dư luận cộng đồng; thuộc lĩnh vực ít được quan tâm và nghiên cứu một cách chính thống. Mong muốn mọi người cùng giải mã để làm rõ hơn vấn đề.
Sau khi tham vấn những bằng hữu có nghiên cứu, cùng sự hỗ trợ về mặt Hán văn của TS Nguyễn Xuân Diện, với kiến văn hạn hẹp của mình về lĩnh vực trên, tôi xin chia sẻ một số nhận định sau:
I. Xét bản thân hòn đá:
1. Mặt thứ nhất (hình 1):
a. Dấu ấn: bên trên mặt đá này là một dấu ấn hình vuông chứa bốn chữ Hán “Tổ Vương Tích Phúc”: có ý ca ngợi và thỉnh cầu.
b. Dòng chữ chạy dọc bên trái mặt đá là chín chữ Phạn “Án Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha”: đây là câu thần chú vi diệu nhất trong Phật Mẫu Chuẩn Đề Thần Chú của Phật giáo mật tông, trì tụng thần chú này sẽ tăng phúc, giải tội, an gia trạch và trừ quỷ mị. Có thể vẽ chín chữ ấy thành như cái mặt “Viên minh bố liệc phạm thư đồ” để mỗi đêm thường quán tưởng. (tham khảo tại: )
c. Dòng chữ chạy dọc bên phải mặt đá là Hán tự, bốn chữ không bị khuất là “Bách Giải Tiêu Tai…”: có thể đó là “Bách Giải Tiêu Tai Phù” (bùa giải tai ách trong một trường hợp)
– tên của đạo bùa (họa tiết lớn màu đen nằm giữa nặt đá) (tham khảo tại: )
2. Mặt thứ hai (hình 2): mặt này gồm đa số đồ hình xen kẻ với các ký tự khác nhau
a. Phần trên: gồm các chữ “vãng”, nghĩa là “xa”(dấu thập ngoặc - ngược lại là chữ “Vạn”) nằm trong một vòng tròn nối nhau thành từng cụm, có một chữ nằm trong hình tam giác. Có thể đây sự thể hiện đồ hình tinh thần “Viên Dung” (vườn rộng - chứa đựng bao la) của Phật gia, vị trí và sự kết nối của thành cụm của chúng giống như chỉ dẫn tinh thần và phương hướng cho phần đồ hình bên dưới.
b. Phần dưới: là một đồ hình gồm các vòng tròn nhỏ nối nhau. Đồ hình này rất giống với “Bát trận đồ” của Khổng Minh đời Tam Quốc (Trung Hoa) bố trí (hình), có tác dụng bảo vệ vô cùng vững chắc.
c. Dòng chữ Phạn chạy dọc rìa trái: Sáu chữ cuối chính là Lục tự đại minh chân ngôn “Án Ma Ni Bát Mê Hồng” – tâm chú của Quán Thế Âm Bồ Tát, câu thần chú lâu đời và quan trọng nhất của Phật giáo Tây Tạng. Có nghĩa là: Viên ngọc quý bên trong tòa sen (chỉ Phật tâm của con người)! (tham khảo:
Các phần còn lại thì chưa rõ.
II. Chân đế của hòn đá:
Có hình Bát quái và chứa quẻ Càn (đơn quái), nghĩa là “Trời”, theo Dịch học. Quẻ này cũng hàm chỉ “vua”. Điều này ứng hợp với vị trí tọa lạc và những ý nghĩa đã bàn đến ở trên.
Điều này cũng vậy: hòn đá (Thạch) trên quẻ Càn (Thiên) ứng với Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là Càn hay Trời và Ngoại quái là Cấn hay Núi. Đó chính là quẻ “Sơn Thiên Đại Súc”, ý ngĩa là “Tụ dã. Tích tụ. Chứa tụ, súc tích, lắng tụ một chỗ, dự trữ, đựng, để dành. Đồng loại hoan hội chi tượng: đồng loại hội họp vui vẻ, cục bộ”
III. Nhận định sơ bộ:
* Như vậy, nếu xét như trên, đây là một đạo bùa Cát (lành) nhằm ca ngợi và thỉnh cầu phúc đức, tích tụ linh khí (có thể là của một cá nhân nào đó!).
* Tuy nhiên, không loại trừ các trường hợp sau:
- Nếu, những chi tiết chưa rõ khác của hòn đá có thể làm đổi ngược lại công dụng như đã nhận định, thì bản thân hòn đá này cũng không đủ “pháp lực” để gây tổn hại đáng kể cho một nơi có khí thiêng hùng hậu như thánh địa thờ tự Tổ Vương được, trừ khi còn có những sự sắp đặt khác xung quanh (sự trấn yểm phải dùng lực ngang bằng và trả giá ngang bằng!).
- Nếu, hòn đá mang đạo bùa có công dụng như nhận định, nhưng có sự sắp đặt xung quanh nhằm triệt chính công dụng của nó (nơi tích tụ linh khí) thì đó cũng là một cách trấn yểm.
* Vậy, muốn nhận định chính xác hơn, ngoài việc giải mã hết những chi tiết chưa rõ của bản thân hòn đá, còn cần phải xác định:
- Nó từ đâu?
- Vị trí của nó trong đền?
- Có hay không các “vật nghi vấn” xung quanh nó?
- …
Theo thiển kiến cá nhân tôi, nếu hòn đá được cơ quan chức năng (được sự cho phép của Ban quản lý di tích) đặt ở đấy nhằm mục đích tạo ảnh hưởng tốt cho Đền Hùng về lĩnh vực tâm linh thì phải lý giải có cơ sở thuyết phục cho đồng bào được rõ. Còn nếu không phải vậy, mà do “ai đó” mang vào đặt ở đấy, bảo là tặng Đền, trong khi Ban quản lý không hiểu rõ về nó thì ngay lập tức di dời, trả lại cho Đền tình trạng trước đó.
Đền Hùng không phải là nơi để “ai đó” đặt bùa cầu an, cầu phúc, lộc… cho bản thân và gia tộc!
N.K.G
Hình 2
Úm ma ni bát mê hồng
Bát trận đồ của Khổng Minh
--------------------------------
Một số thông tin khác thu thập được,
- Hình bùa: từ website
开光茅山符咒消灾免祸符
khai quang mao sơn phù chú tiêu tai miễn họa phù
----------------------------------
CHÂU TRẦN cho rằng: Tôi đang tìm cách dịch ra những chữ phạn, tuy nhiên tấm hình phía trên có hình Con Dấu ghi rất rõ (Đọc từ trái sang, trên xuống) là chữ ẤN HÙNG VƯƠNG KÝ có nghĩa là HÙNG VƯƠNG ẤN KÝ, một con triện của vua Hùng có thể đã được làm giả đóng trên cục đá.
Nếu nói đây là bùa của Tàu thì tôi nghĩ không đúng, những dấu hình nầy có liên quan tới VUA HỤNG
Châu
---------------------------------
Tổng thể có thể tạm kết : BÙA + CHÚ + TRẬN PHÁP đều không có ý nghĩa tốt đẹp gì khi đặt tại Đền Hùng được.
Thử hỏi, có lý do chính đáng gì cần phải đặt cục đá này không ?
Thanked by 2 Members:
|
|
#8
Gửi vào 14/04/2013 - 12:50
Người xưa thường gọi phương pháp bày binh bố trận là “bát trận”. “Bát trận đồ” vốn không phải là sáng chế của riêng Võ Hầu Gia Cát Lượng. Đây là một loại trận pháp cổ, chỉ việc bố trí binh lực và xác định phương pháp tác chiến dựa trên địa hình và địch tình.
Thi hào Đỗ Phủ đời Đường đã tán tụng Khổng Minh Gia Cát Lượng rằng: “Công lớn trùm non nước; Thành danh Bát trận đồ. Sông tuôn, đá chẳng chuyển; Di hận chửa bình Ngô”. Ngày nay, ở thị trấn Di Mâu, huyện Tân Đô và dưới thành Bạch Đế, huyện Phụng Tiết thuộc tỉnh Tứ Xuyên; Định Quân Sơn ở Miện Dương tỉnh Thiểm Tây; Tây Ap tỉnh Vân Nam đều còn lưu lại di tích Bát trận đồ của Khổng Minh.
Thần bí thạch trận
Theo “Tam Quốc diễn nghĩa” hồi thứ 84, do sai lầm của Thục Chúa Lưu Bị nóng lòngtrảthù cho Quan Công, đại tướng Đông Ngô là Lục Tốn đã phá tan quân Thục, đốt cháy doanh trại liên tiếp 700 dặm và dẫn quân truy kích về hướng tây. Khi gần đến bến Ngư Phúc, Lục Tốn thấy phía trước có một luồng sát khí xông thẳng lên trời, bèn dừng ngựa bảo bộ tướng “Phía trước chắc có mai phục, không được khinh địch”, rồi cho lui quân, bày thành trận thế, cho thám mã đi thám sát.
Quân về báo không có gì cả, Tốn không tin, xuống ngựa lên núi nhìn xuống, sát khí lại xông lên, cho quân đi do thám lần nữa vẫn là phía trước không người. Trời đã về chiều, sát khí càng nhiều, Lục Tốn do dự, sai người thân tín đi xem xét kỹ, kết quả là bên bờ sông có xếp 8, 9 đống đá lớn mà thôi, không một bóng người. Lục Tốn càng nghi, cho gọi thổ dân đến hỏi, thổ dân thưa: “Nơi này gọi là bến Ngư Phúc. Gia Cát Lượng khi vào Thục đã luyện binh ở đây, lấy đá xếp thành trận thế trên bến sông. Từ đó trở đi thường có khí tuôn như mây”.
Lục Tốn nghe xong cưỡi ngựa lên sườn núi xem thạch trận, thấy đá xếp bốn phương tám hướng, đều có cổng, có cửa, bèn cười nói: “Đây là tà thuật làm mê hoặc người, có ích gì đâu”, rồi xuống núi dẫn quân xông thẳng vào trong trận xem xét. Bộ tướng thưa “Trời đã tối, xin đô đốc trở về”, “Tốn vừa muốn lui, hốt nhiên cuồng phong nổi dậy, trong chớp mắt cát chạy đá bay, mịt mù trời đất. Chỉ thấy quái thạch sừng sững, đan chéo như gươm; Đất dựng dọc ngang, trùng trùng như núi; Sóng dâng gào thét như tiếng trống dậy gươm khua. Lục Tốn kinh hoàng nói: “Ta trúng kế Gia Cát Lượng rồi!”, muốn quay trở về, đã bít lối ra”.
Di chỉ Bát trận đồ thời Tam Quốc
Nếu lúc ấy không có nhạc phụ của Gia Cát Lượng là Hoàng Thừa Ngạn chỉ đường dẫn lối ra khỏi trận thì chắc Lục Tốn cùng quân lính đã bị khốn. Hoàng Thừa Ngạn cho biết: “Con rể ta khi vào Thục có bày thạch trận ở đây, tên gọi là “Bát trận đồ”, tới lui có 8 cửa án theo Bát môn độn giáp là Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai. Mỗi giờ mỗi khắc biến hóa vô cùng, có thể sánh với 10 vạn tinh binh. Trước khi ra đi có dặn lão phu là: “Sau này có đại tướng Đông Ngô bị mê trong trận thì đừng dẫn ra. Lão phu ở trên núi thấy tướng quân đi từ cửa Tử mà vào trận nên biết là không hiểu trận, chắc hẳn bị mê. Lão phu bình sinh hiếu thiện, không nỡ để tướng quân bị hãm ở đây, nên đưa ra theo cửa Sinh vậy”. Tốn hỏi: “Ông có học được trận pháp này không?”, Thừa Ngạn đáp: “Biến hóa vô cùng, không thể học được”. Tốn kinh hoàng xuống ngựa bái tạ mà về, đến trại than rằng: “Khổng Minh đúng là “Ngọa Long”! Ta không bằng được!”, rồi hạ lệnh rút quân”.
Những gì viết ở trên khó tránh khỏi việc La Quán Trung thần thánh hóa tài năng của Khổng Minh. Tuy nhiên, nếu xét theo quan điểm khoa học ngày nay, rất có thể thạch trận được bố trí như mê cung, theo nguyên tắc của ma trận, hoặc theo cơ sở cảm xạ địa sinh học, sắp xếp phương vị theo nguyên lý cảm ứng điện từ, đồng thời dùng đá tạo sóng âm mạnh khiến người vào bên trong bị ảo giác do nhiễu loạn từ trường cao. Thạch trận này được chính sử “Tấn thư” quyển 9 xác nhận: “Khởi đầu Gia Cát Lượng tạo Bát trận đồ trên bến Ngư Phúc, xếp đá thành 8 hàng, mỗi hàng cách nhau 2 trượng (khoảng 8m)”.
Nguyên lý Bát trận đồ
Người xưa thường gọi phương pháp bày binh bố trận là “bát trận”. “Bát trận đồ” vốn không phải là sáng chế của riêng Võ Hầu Gia Cát Lượng. Đây là một loại trận pháp cổ, chỉ việc bố trí binh lực và xác định phương pháp tác chiến dựa trên địa hình và địch tình.
Nhật Bản thời Chiến quốc cũng có Bát trận của Võ Điền Tín Huyền, gồm Ngư Lân, Hạc Dực, Nhạn Hành, Loan Nguyệt, Phong Thỉ, Hàm Ach, Trường Xà, Phương Viên. Bát trận đồ là tâm pháp sở đắc về binh pháp của Gia Cát Lượng, đúng như “Tam Quốc chí Thục thư” viết: “Lượng giỏi ở suy nghĩ khéo lạ, làm ra nỏ liên châu, trâu ngựa bằng gỗ, suy diễn trận pháp làm thành Bát trận đồ”.
Bày quân theo Bát trận đồ
Bát trận đồ căn cứ theo bát quái (8 quẻ) Càn, Khôn, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khảm, Đoài mà bày thành 8 trận chính: Thiên phúc, Địa tải, Long phi, Xà bàn, Hổ dực, Điểu tường, Phong tán, Vân thùy, được án theo 8 cửa. Trong đó cửa Sinh, Cảnh, Khai là cửa sinh, còn Hưu, Thương, Đỗ, Tử, Kinh là cửa tử. Nếu không hiểu trận pháp mà đi lầm vào cửa tử thì không thể nào ra được.
Trong trận lấy 5 người làm 1 ngũ (ngũ hành), 55 người thành 1 đội (số sinh thành của trời đất, trời 25, đất 30), 8 đội thành 1 trận (440 người), 8 trận thành 1 bộ (3.520 người) là trận tiểu thành. 8 bộ thành 1 tướng (28.160 người) là trận trung thành. 8 tướng là 1 quân (225.280 người) là trận đại thành. Từ bát quái biến ra trùng quái (64 quẻ), lấy 8 làm cơ sở mà nhân lên, càng đông người thì trận càng lợi hại, chính như Hàn Tín nói “Đa đa ích thiện” càng nhiều càng tốt.
Bát trận gồm 4 loại binh chủng: Quân kỵ, quân bộ, quân cung nỏ và quân chiến xa phối hợp tác chiến, phân chia thành dọc ngang 64 đơn vị chiến đấu, hợp thành một đại phương trận (trận vuông lớn), trong đại phương trận lại phân thành nhiều tiểu phương trận tựa lưng vào nhau tác chiến, đại trận bọc tiểu trận, đại doanh bọc tiểu doanh. Khi chiến đấu, quân chiến xa sẽ dùng xe, chướng ngại vật ngăn cản sự xung kích của kỵ binh đối phương, tiếp đó quân cung nỏ sẽ bắn tên, cuối cùng là bộ binh, kỵ binh tràn lên cận chiến. Sau trận luôn có 24 đội kỵ binh (ứng với 24 tiết khí), có thể cơ động phối hợp tác chiến với các tiểu trận trong đại trận, tiến hành đánh đột kích hoặc bao vây. Khi quân địch vào trong trận, các tiểu trận sẽ phát huy công năng xé lẻ binh lực địch, biến hóa tùy theo thế công của địch, các đội đều có thể tiếp ứng lẫn nhau, tuy động mà không loạn, từ trận vuông biến thành trận tròn bọc lấy quân địch, đầu đuôi tiếp cứu nhau như rắn Thường Sơn hai đầu, nên trận pháp này còn gọi là “Thường Sơn xà trận”.
#9
Gửi vào 14/04/2013 - 13:45
tigerstock68, on 14/04/2013 - 12:50, said:
Người xưa thường gọi phương pháp bày binh bố trận là “bát trận”. “Bát trận đồ” vốn không phải là sáng chế của riêng Võ Hầu Gia Cát Lượng. Đây là một loại trận pháp cổ, chỉ việc bố trí binh lực và xác định phương pháp tác chiến dựa trên địa hình và địch tình.
Thi hào Đỗ Phủ đời Đường đã tán tụng Khổng Minh Gia Cát Lượng rằng: “Công lớn trùm non nước; Thành danh Bát trận đồ. Sông tuôn, đá chẳng chuyển; Di hận chửa bình Ngô”. Ngày nay, ở thị trấn Di Mâu, huyện Tân Đô và dưới thành Bạch Đế, huyện Phụng Tiết thuộc tỉnh Tứ Xuyên; Định Quân Sơn ở Miện Dương tỉnh Thiểm Tây; Tây Ap tỉnh Vân Nam đều còn lưu lại di tích Bát trận đồ của Khổng Minh.
Thần bí thạch trận
Theo “Tam Quốc diễn nghĩa” hồi thứ 84, do sai lầm của Thục Chúa Lưu Bị nóng lòngtrảthù cho Quan Công, đại tướng Đông Ngô là Lục Tốn đã phá tan quân Thục, đốt cháy doanh trại liên tiếp 700 dặm và dẫn quân truy kích về hướng tây. Khi gần đến bến Ngư Phúc, Lục Tốn thấy phía trước có một luồng sát khí xông thẳng lên trời, bèn dừng ngựa bảo bộ tướng “Phía trước chắc có mai phục, không được khinh địch”, rồi cho lui quân, bày thành trận thế, cho thám mã đi thám sát.
Quân về báo không có gì cả, Tốn không tin, xuống ngựa lên núi nhìn xuống, sát khí lại xông lên, cho quân đi do thám lần nữa vẫn là phía trước không người. Trời đã về chiều, sát khí càng nhiều, Lục Tốn do dự, sai người thân tín đi xem xét kỹ, kết quả là bên bờ sông có xếp 8, 9 đống đá lớn mà thôi, không một bóng người. Lục Tốn càng nghi, cho gọi thổ dân đến hỏi, thổ dân thưa: “Nơi này gọi là bến Ngư Phúc. Gia Cát Lượng khi vào Thục đã luyện binh ở đây, lấy đá xếp thành trận thế trên bến sông. Từ đó trở đi thường có khí tuôn như mây”.
Lục Tốn nghe xong cưỡi ngựa lên sườn núi xem thạch trận, thấy đá xếp bốn phương tám hướng, đều có cổng, có cửa, bèn cười nói: “Đây là tà thuật làm mê hoặc người, có ích gì đâu”, rồi xuống núi dẫn quân xông thẳng vào trong trận xem xét. Bộ tướng thưa “Trời đã tối, xin đô đốc trở về”, “Tốn vừa muốn lui, hốt nhiên cuồng phong nổi dậy, trong chớp mắt cát chạy đá bay, mịt mù trời đất. Chỉ thấy quái thạch sừng sững, đan chéo như gươm; Đất dựng dọc ngang, trùng trùng như núi; Sóng dâng gào thét như tiếng trống dậy gươm khua. Lục Tốn kinh hoàng nói: “Ta trúng kế Gia Cát Lượng rồi!”, muốn quay trở về, đã bít lối ra”.
Di chỉ Bát trận đồ thời Tam Quốc
Nếu lúc ấy không có nhạc phụ của Gia Cát Lượng là Hoàng Thừa Ngạn chỉ đường dẫn lối ra khỏi trận thì chắc Lục Tốn cùng quân lính đã bị khốn. Hoàng Thừa Ngạn cho biết: “Con rể ta khi vào Thục có bày thạch trận ở đây, tên gọi là “Bát trận đồ”, tới lui có 8 cửa án theo Bát môn độn giáp là Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai. Mỗi giờ mỗi khắc biến hóa vô cùng, có thể sánh với 10 vạn tinh binh. Trước khi ra đi có dặn lão phu là: “Sau này có đại tướng Đông Ngô bị mê trong trận thì đừng dẫn ra. Lão phu ở trên núi thấy tướng quân đi từ cửa Tử mà vào trận nên biết là không hiểu trận, chắc hẳn bị mê. Lão phu bình sinh hiếu thiện, không nỡ để tướng quân bị hãm ở đây, nên đưa ra theo cửa Sinh vậy”. Tốn hỏi: “Ông có học được trận pháp này không?”, Thừa Ngạn đáp: “Biến hóa vô cùng, không thể học được”. Tốn kinh hoàng xuống ngựa bái tạ mà về, đến trại than rằng: “Khổng Minh đúng là “Ngọa Long”! Ta không bằng được!”, rồi hạ lệnh rút quân”.
Những gì viết ở trên khó tránh khỏi việc La Quán Trung thần thánh hóa tài năng của Khổng Minh. Tuy nhiên, nếu xét theo quan điểm khoa học ngày nay, rất có thể thạch trận được bố trí như mê cung, theo nguyên tắc của ma trận, hoặc theo cơ sở cảm xạ địa sinh học, sắp xếp phương vị theo nguyên lý cảm ứng điện từ, đồng thời dùng đá tạo sóng âm mạnh khiến người vào bên trong bị ảo giác do nhiễu loạn từ trường cao. Thạch trận này được chính sử “Tấn thư” quyển 9 xác nhận: “Khởi đầu Gia Cát Lượng tạo Bát trận đồ trên bến Ngư Phúc, xếp đá thành 8 hàng, mỗi hàng cách nhau 2 trượng (khoảng 8m)”.
Nguyên lý Bát trận đồ
Người xưa thường gọi phương pháp bày binh bố trận là “bát trận”. “Bát trận đồ” vốn không phải là sáng chế của riêng Võ Hầu Gia Cát Lượng. Đây là một loại trận pháp cổ, chỉ việc bố trí binh lực và xác định phương pháp tác chiến dựa trên địa hình và địch tình.
Nhật Bản thời Chiến quốc cũng có Bát trận của Võ Điền Tín Huyền, gồm Ngư Lân, Hạc Dực, Nhạn Hành, Loan Nguyệt, Phong Thỉ, Hàm Ach, Trường Xà, Phương Viên. Bát trận đồ là tâm pháp sở đắc về binh pháp của Gia Cát Lượng, đúng như “Tam Quốc chí Thục thư” viết: “Lượng giỏi ở suy nghĩ khéo lạ, làm ra nỏ liên châu, trâu ngựa bằng gỗ, suy diễn trận pháp làm thành Bát trận đồ”.
Bày quân theo Bát trận đồ
Bát trận đồ căn cứ theo bát quái (8 quẻ) Càn, Khôn, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khảm, Đoài mà bày thành 8 trận chính: Thiên phúc, Địa tải, Long phi, Xà bàn, Hổ dực, Điểu tường, Phong tán, Vân thùy, được án theo 8 cửa. Trong đó cửa Sinh, Cảnh, Khai là cửa sinh, còn Hưu, Thương, Đỗ, Tử, Kinh là cửa tử. Nếu không hiểu trận pháp mà đi lầm vào cửa tử thì không thể nào ra được.
Trong trận lấy 5 người làm 1 ngũ (ngũ hành), 55 người thành 1 đội (số sinh thành của trời đất, trời 25, đất 30), 8 đội thành 1 trận (440 người), 8 trận thành 1 bộ (3.520 người) là trận tiểu thành. 8 bộ thành 1 tướng (28.160 người) là trận trung thành. 8 tướng là 1 quân (225.280 người) là trận đại thành. Từ bát quái biến ra trùng quái (64 quẻ), lấy 8 làm cơ sở mà nhân lên, càng đông người thì trận càng lợi hại, chính như Hàn Tín nói “Đa đa ích thiện” càng nhiều càng tốt.
Bát trận gồm 4 loại binh chủng: Quân kỵ, quân bộ, quân cung nỏ và quân chiến xa phối hợp tác chiến, phân chia thành dọc ngang 64 đơn vị chiến đấu, hợp thành một đại phương trận (trận vuông lớn), trong đại phương trận lại phân thành nhiều tiểu phương trận tựa lưng vào nhau tác chiến, đại trận bọc tiểu trận, đại doanh bọc tiểu doanh. Khi chiến đấu, quân chiến xa sẽ dùng xe, chướng ngại vật ngăn cản sự xung kích của kỵ binh đối phương, tiếp đó quân cung nỏ sẽ bắn tên, cuối cùng là bộ binh, kỵ binh tràn lên cận chiến. Sau trận luôn có 24 đội kỵ binh (ứng với 24 tiết khí), có thể cơ động phối hợp tác chiến với các tiểu trận trong đại trận, tiến hành đánh đột kích hoặc bao vây. Khi quân địch vào trong trận, các tiểu trận sẽ phát huy công năng xé lẻ binh lực địch, biến hóa tùy theo thế công của địch, các đội đều có thể tiếp ứng lẫn nhau, tuy động mà không loạn, từ trận vuông biến thành trận tròn bọc lấy quân địch, đầu đuôi tiếp cứu nhau như rắn Thường Sơn hai đầu, nên trận pháp này còn gọi là “Thường Sơn xà trận”.
Bát Trận Đồ
Tác giả: Đỗ Phủ
八陣圖– 杜甫
功蓋三分國,
名成八陣圖。
江流石不轉,
遺恨失吞吳。
Tạm Dịch:
Công cái tam phân quốc,
Danh thành Bát trận đồ.
Giang lưu thạch bất chuyển,
Di hận thất thôn Ngô.
Triển Khai:
Công cái thế định nên Tam quốc,
Bát trận đồ, Cát Lượng lừng danh.
Sông nước đá, còn trơ trơ đó,
Lưu chúa hận, thất chiếm Đông Ngô.
Bản dịch - Trương Văn Tú
A. Tóm Lược Tiểu Sử Tác Giả:
Đỗ Phủ (công nguyên 712-770) thuộc đời nhà Đường, tự Tử Mỹ, sinh quán nơi huyện Củng, tỉnh Hà Nam (nay thuộc thị xã Củng Nghĩa, huyện Trịnh Châu, tỉnh Hà Nam.) Thuộc dòng dõi quan tước đời nhà Tấn, và là cháu của nhà thơ nổi tiếng Đỗ Thẩm Ngôn. Tổ tiên sinh quán tại thành Tương Dương, Hồ Bắc sau di cư về Hà Nam.
Đỗ Phủ còn được mệnh danh là Đỗ công bộ (là do chức kiểm úy công bộ) (1), Đỗ thập di (là do chức tả thập di) (2), còn được hiệu là Thiếu Lăng Dã Lão. Thế hệ của ông là thế hệ bắt đầu khúc quanh lịch sử của nhà Đường. Từ sự hưng thịnh, phồn vinh, bước dần đến sự suy thoái, trụy lạc của nhà Đường là do sự ăn chơi hoan lạc, vô cần chính sự của nhà vua, tham ô lộng quyền của Thừa tướng Dương Quốc Trung, anh chú bác của Dương Quí phi (Dương Ngọc Hoàn), tạo nên 8 năm (755-763) chiến tranh với loạn Hồ, An Lộc Sơn và Sử Tư Minh.
Nơi đây, ta cũng không quên được những câu chuyện truyền thuyết của Đường Minh hoàng (Đường Huyền Tông - Lý Long Cơ) cùng với Dương Quí phi, và chị Hằng Nga ….
Đỗ Phủ tư chất thông minh, năm ông 7 tuổi đã biết làm thơ, năm 13 tuổi thì đã biết thư pháp và hội họa. Từ những bối cảnh chiến tranh cho đến sự hoan lạc của nhà vua, lạm quyền của thừa tướng, cộng với sự phóng túng và tình tiết của ông, làm cho thơ ông tràn đầy lòng thương dân, yêu nước chẳng hạn như trong “Xuân Vọng”:
國破山河在,
城春草木深。
感時花溅淚,
恨别鳥惊心。
…..
Quốc phá sơn hà tại,
Thành xuân thảo mộc thâm.
Cảm thời hoa tiện lệ,
Hận biệt điểu kinh tâm.
…….
- Xuân Vọng, Đỗ Phủ
Nước mất nhà tan kìa sông núi,
Kinh thành cỏ dại mọc sum sê.
Nhìn hoa hoang dại sầu rơi lệ,
Chim kêu hoảng sợ hận biệt ly.
Bản dịch – Trương Văn Tú
Bài thơ Xuân Vọng của ông mang cho tôi một hoài cảm đến nữ sĩ Huyện Thanh-Quan trong bài “Thăng Long Thành Hoài Cổ”
…..
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
…..
- Thăng Long Thành Hoài Cổ, Huyện Thanh-Quan
Hay trong bài “Qua Đèo Ngang” diễn tả lòng yêu nước của bà
…..
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
- Qua Đèo Ngang, Huyện Thanh-Quan
Trong bài “Binh Xa Hành” Đổ Phủ diễn tả sự ra đi chinh chiến của người cha, người chồng, con, với sự tiễn đưa vội vả của mẹ già, vợ trẻ, con thơ
車轔轔,馬蕭蕭,
行人弓箭各在腰。
耶娘妻子走相送,
塵埃不見咸陽橋。
….
Xa linh linh, mã tiêu tiêu,
Hành nhân cung tiễn các tại yêu.
Dã nương thê tử tẩu tương tống,
Trần ai bất kiến Hàm Dương kiều.
…….
- Binh Xa Hành, Đỗ Phủ
tạm dịch:
Ngựa xe rầm rộ bốn phương,
Chinh nhân cung tiễn thắt liền ngang lưng.
Mẹ già, con trẻ, vợ thương,
Trần ai đưa tiễn Hàm Dương chân cầu.
……
Bản dịch – Trương Văn Tú
Hình như thi sĩ Đặng Trần Côn, dưới triều vua Lê Dụ Tôn, trong thi khúc “Chinh Phụ Ngâm” đã dùng nhiều ý của Đỗ Phủ như
“….
Đường giong ruổi lưng đeo cung tiễn,
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa.
….”
rồi lại
“….
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay!
Hà lương chia rẽ đường này,
Bên đường trông lá cờ bay bùi ngùi.
…..”
- Chinh Phụ Ngâm, nguyên tác Đặng Trần Côn
dịch giả từ Hán sang Nôm: không rõ nguồn (3)
Nói tóm lại, thơ Đỗ Phủ ghi lại những giai đoạn lịch sử, và diễn tả trung thực của xã hội trong thời suy thoái, loạn lạc của Đại Đường, phản ảnh và châm biếm sự trụy lạc của triều đình. Vì thơ ông mang những dòng sự kiện của lịch sử triều đại nên người đời xưng thơ ông là “Thi Sử” và ông là “Thi Thánh”. Chúng ta cũng không nên quên rằng Lý Bạch, người đời cho ông là “Thi Tiên”, là bạn tâm giao của Đỗ Phủ tuy rằng họ cách nhau trên dưới 12 tuổi. Đôi khi chúng ta cũng thường nghe “đại Lý Đỗ”, ý chỉ Lý Bạch và Đỗ Phủ. Còn “ tiểu Lý Đỗ” ý chỉ Lý Thương Ẩn và Đỗ Mục (Hậu Đường.)
B. Bát Trận Đồ - Bối Cảnh Thiên Nhiên và Địa Lý
Bài thơ được viết khi Đỗ Phủ đến sông Mai Khê nơi giáp với dòng sông chính Trường giang, còn được gọi là sông Dương Tử.
Sông Trường giang dài 6403 km, là dòng sông lớn hàng thứ ba trên thế giới cùng với lượng nước. Thường ta gọi sông Dương Tử là để chỉ sông Trường giang ở mạn Nam Trung Quốc như các tỉnh Chiết Giang, Tô Châu. Sông Trường giang phát nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng, chạy dọc về phía Nam, tỉnh Tứ Xuyên (nơi động đất 5/12/2008), Tây Tạng, Vân Nam, rồi trở ngược về phía Đông Bắc Trung quốc,
“Vọng Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông”
- Niệm Nô Kiều (Xích Bích Hoài Cổ), Tô Đông Pha (Tô Thức)
đổ vào Trùng Khánh, Hồ Bắc, Hồ Nam, giang Tây, An Huy, Giang Tô, Thượng Hải, rồi ra Đông Hải, Thái Bình Dương.
Một điểm đặc thù trên dòng sông Trường giang mà ta không thể không thể nào nhắc đến đấy là Trường giang tam hiệp (Three Gorges Dam.) Trường giang tam hiệp nằm ở vị trí Trung nguyên Trung Quốc, là một đoạn sông Trường giang chạy dài từ Trùng Khánh cho đến Nghi Xương, tỉnh Hồ Bắc.
Trường giang tam hiệp không những là nơi địa linh nhân kiệt, tranh hùng tranh bá, còn là chứng nhân của trận chiến vô tiền khoáng hậu như Bát trận đồ, Xích Bích, rồi đến ngoại xâm cận đại - Đế quốc Nhật Bản (Trùng Khánh và Nam Kinh.)
Trường giang tam hiệp còn là một nơi “bồng lai tiên cảnh” “thiên ngoại hữu thiên”, và là một nơi lý tưởng cho các thi sĩ. Nơi đây đôi khi ta vẫn còn thấy được những bài thơ bất hủ của những nhà đại thi sĩ, văn hào vẫn còn ghi lại trên bia đá với dòng chữ viết cổ Trung Quốc như Lý Bạch, Từ Thức, Đỗ Mục, Bạch Cư Dị ....
Trường giang tam hiệp kết hợp bởi Cù Đường hiệp, Vu hiệp (bởi núi Vu Sơn), và Tây Lăng hiệp. “Hiệp” là gì? “Hiệp” theo chữ Hán có nghĩa là cái hẽm, đèo, hay cái khe nhỏ cách đôi bởi hai, hay nhiều ngọn núi. “Tam hiệp” nầy tạo bởi những vách núi cao ngàn mét, với những ngọn đèo cao hiểm trở, trùng trùng điệp điệp, sừng sững giữa trời, cộng vào nước sông Trường giang cuồn cuộn đổ vào, khiến cho dòng sông càng chảy mạnh hơn.
Cái khe nhỏ nhất thì không dài qúa hơn 100 m thì lại nằm ở Cù Đường hiệp, do đó tốc độ nước đổ nơi đây cực mạnh. Sông Mai Khê nằm ở giữa hai thị trấn Phong Tiết và Bạch Đế thành, và liền với Cù Đường hiệp. Mùa hè nước có thể dâng cao hơn trăm thước và tạo nên những cơn sóng lớn, với những cơn gió lốc thổi vào những con đường hầm quanh co, khúc khỷu của những triền núi cao hiểm trở.
Tôi cố ý đưa đọc giả vào sự thiên nhiên, và bối cảnh địa lý để chúng ta có thể tham hiểu, và dễ dàng phân tích về Bát Trận đồ của Khổng Minh ở phần sau nầy.
C. Bát Trận Đồ - Giảng Dịch và Bối Cảnh Lịch Sử
Đỗ Phủ du ngoạn đến nơi Ngư Phục Bô, sông Mai Khê, nay thuộc huyện Phong Tiết, thành phố Trùng Khánh, hoài cảm cổ nhân nên phát họa bài thơ “Bát Trận Đồ.” Thơ thuộc dạng ngũ ngôn, hay năm chữ. Mở đầu bằng sự cảm phục của ông đối với Gia Cát Lượng, Khổng Minh
“Công cái tam phân quốc”
tạm dịch:
“Công cái thế định nên Tam quốc”
Ý chỉ Gia Cát Lượng phù trợ Lưu Bị, nước Thục để tạo thành ba nước cục diện - Ngụy, Thục và Ngô. “Công cái” có nghĩa là “công lao cái thế” tài cán vô song, trong đương thời không có ai sánh bằng. Ông là một vị khai quốc công thần của nhà Thục.
Tiếp đến Đỗ Phủ lại diễn tả sự tài ba đảm lược của Gia Cát Lượng
“Danh thành Bát Trận Đồ”
tạm dịch:
“Bát Trận Đồ Cát Lượng lừng danh”
cùng với Bát Trận đồ có sức đẩy lui mười vạn tinh binh của Ngô quân Đô đốc Lục Tốn (tự Lục Bá Ngôn.) Nơi đây Đổ Phủ dùng chữ “Tam phân quốc” đối với “Bát Trận Đồ” là một tuyệt xảo đối chữ làm thơ của Đỗ Phủ.
Tôi cũng muốn thêm vài dòng lịch sử của “Bát Trận Đồ” tại sao có được, và ở trong trường hợp nào.
Sau khi Quan Vân Trường trúng kế của Lục Tốn đánh mất Kinh Châu, vội vã lui quân về Mạch thành lại bị hai tướng thái thú phản đồ, Lộc Phương và Phó Sĩ Nhân, đóng cửa thành nên tiếp tục lui quân từ Ninh Hạ về Giang Lăng, giữa đường bị phục kích của đội quân Ngô, Phan Chương, cùng sự truy sát của quân Ngụy hợp sức. Quan Vân Trường cùng con là Quan Bình bị vây khốn. Bởi sự cao ngạo “anh minh thần võ”, mang lại sự bất cẩn và khinh địch của Quan Vũ, ông cùng con Quan Bình phải bỏ mạng nơi tuyết lạnh xa trường, đầu thì ở Bắc, thân lại ở Nam.
Lưu Bị đau lòng mất đi lý trí, phá hỏng sách lược “kết Ngô phạt Ngụy” của Khổng Minh, đem bảy mươi vạn quân chinh phạt Đông Ngô. Cuối cùng lại phải xa vào bẩy của Lục Tốn một lần nữa. Lục Tốn nhẫn nại không ra ứng chiến mà chỉ cần đợi vào mùa hè khi “đồng khô cỏ cháy”. Quân Thục thiếu nước tất phải lui về chân núi. Lưu Bị lại kém tài về chiến lược lại cho doanh trại liên kết lẫn nhau. Đây là điều tối kỵ của binh gia, và là một điều tối thiểu cơ bản mà các binh gia phải biết mà nên tránh. Với rừng núi khô héo chỉ cần một trận hỏa công cả bảy mươi vạn quân Thục chiến bại không còn manh giáp.
Mã Lương vội vã về Trường An gặp Cát Lượng. Cát Lượng lịnh cho Mã Lương nên rút quân về Bạch thành để giữ toàn tánh mạng Lưu chúa công. Chính ở giữa đoạn đường này, ở Ngư Phục Bô, sông Mai Khê, Cát Lượng lợi dụng sự thiên nhiên của trời đất (thuận thiên) và địa hình (ứng thời) và tâm lý của Lục Tốn (y nhân) để tạo nên bát trận đồ.
Lục Tốn truy đuổi Lưu Bị đến nơi và bị chặn lại những tảng đá được sắp xếp như một thế trận, cát bụi mù mịt, tựa như trăm ngàn quân lính vượt qua nơi nầy, sát khí đằng đằng. Lục Tốn hoang mang, lại e dè cho đội thám sát lần thứ hai, nhưng chỉ thấy những tảng đá không người. Lại cho người hỏi thì lại biết là do Cát Lượng bài trận. Lòng lại càng sợ hãi hơn bởi uy danh của Cát Lượng. Nhưng Lục Tốn đâu có biết đấy chỉ là cát bụi ở dòng sông bị những cơn gió to sóng lớn thổi tạc vào. Các tướng thì lại bảo ấy chỉ là những tảng đá vô tri giác. Giá như lúc ấy Lục Tốn có ống viễn vọng kính thì sẽ rõ ràng hơn mà không ngần ngại cho quân tiến vào thì chắc có cơ hội để bắt sống Lưu Bị mà lập nên công lớn.
Cho đến chiều tối Lục Tốn cho quân tiến vào. Thường các binh gia nghĩ rằng tấn công vào đêm ít nhiều cũng khó bị phát hiện hơn. Cát Lượng rõ điều này hơn ai hết. Đây là tâm lý của các binh gia. Cát Lượng càng hiểu rõ khi càng về chiều sông Trường giang lại càng lên cao, nhất là vào mùa hè nóng bỏng da người, sóng càng vỗ mạnh tạo những sương mù, gió lại càng thổi to tạo nên những âm thanh quái dị bởi những đường hầm gió (wind tunnel) của những triền núi lân cận.
Sóng to, gió lớn là một hiện tượng cân bằng sức hấp dẫn (gravity effect) của địa cầu và nguyệt cầu. Âm thanh lại càng quái dị (sound effect) hơn khi sóng, gió, cát bụi lại phải vượt qua những tảng đá bát trận đồ nầy. Tựa như có cả trăm binh vạn mã. Sương mù (do nước tạt lên những tảng đá), cùng với cát bụi do những trận gió to đưa vào, phải làm cho Lục Tốn không còn phương hướng. Nếu như, Lục Tốn vào lúc ban ngày hay trưa thì hiện tượng nầy chắc không có lẽ xảy ra , và sẽ dễ dàng thoát ra nếu có kim chỉ nam.
Còn sự huyền bí của bát quái thì tôi không giải thích được. Cũng như không ai có thể giải thích được Kim Tự Tháp ở Ai Cập, ngoài trừ những giả thiết không chắc chắn. Dầu sao, nếu có cơ hội được đi vào bát quái trận thì tôi cũng phải thử xem một lần cho biết, để xem sự thiên biến vạn hóa của bát quái trận nhưng thể nào, nhưng đừng quên mang theo GPS (global position satellite), kim chỉ nam trong trường hợp GPS mất sóng của vệ tinh nhân tạo, và cây đèn bin….
Theo như tác giả La Quán Trung – Tam Quốc Chí, thì Lục Tốn không may mắn bước vào cửa Tử của Bát quái trận nên không thoát ra được tử vong. Nhưng may mắn thay lại được nhạc phụ của Gia Cát Lượng, Huỳnh Trình Nhan dẫn dắt ra khỏi được trận hình nầy.
Theo tôi có lẽ tác giả cố ý thần kỳ hoá Khổng Minh về Bát Trận đồ để cho câu chuyện thu hút, và hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, ta không thể phủ nhận sự tài cán, đa mưu và trí lược của Cát Lượng với sự tỉ mỉ, quan sát, và sự phối hợp của thiên nhiên, và thời điểm.
Cát Lượng không những là một nhà thiên văn địa lý, chiến lược gia, chính trị gia mà ta phải xem ông ta là một nhà đại Tâm Lý, chuyên gia về “tâm lý sợ hãi” (psychoanalysis) của con người. So với nhà phân tâm học Sigmund Freud cận đại, Mr. Freud ắt phải bái Cát Lượng làm sư.
“Giang lưu thạch bất chuyển”
Ý nói khi trời trở Đông, nước sông Trường giang hạ xuống cho dầu vạn vật thay đổi thì ta vẫn còn thấy những 64 tảng đá của bát trận đồ mà ngày xưa Cát Lượng đã dùng để đẩy lui trăm vạn tinh binh của quân Ngô mà không cần một tên chốt. Chữ “thạch” kết liền với Khổng Minh nơi đây với một tằm sâu sắc của Đỗ Phủ để chỉ tấm lòng trung trinh, tiết liệt của Khổng Ming đối với Lưu Bị như bàn thạch không lay chuyển.
“Di hận thất thôn Ngô”
Ý chỉ Lưu Bị vì trả thù riêng mà quên đi sách lược “liên Ngô, phạt Ngụy” của Khổng Minh, đưa đến sự thảm bại chinh phạt Đông Ngô.
D. Bát Trận Đồ Cấu Trúc
Bát Trận đồ gồm tám trận: Thiên, Địa, Phong, Vân, Long, Hổ, Điểu, Xà, cộng với Trung Quân tạo thành chín đại trận tuyến, và 64 (2^6) trận nhỏ.
1. Thiên Phục trận
2. Địa Tai trận
3. Phong Dương trận
4. Vân Thùy trận
5. Long Phi trận
6. Hổ Dực trận
7. Điểu Tường trận
8. Xà Phương trận
Tứ trụ gồm Càn Khôn Tốn Cán, Thiên (Tây Bắc) Địa (Tây Nam) Phong (Đông Nam) Vân (Đông Bắc) tạo thành chính diện của trận đồ. Chính Đông có Thanh Long nằm ở cung Chấn, chính Tây có Bạch Hổ nằm ở cung Đoài, chính Bắc có Huyền Võ Xà nằm ở cung Khảm, và chính Nam có Châu Tước nằm ở cung Ly của Bát Quái.
Bát Quái là từ trong Kinh Dịch mà ra. Kinh Dịch phát sinh từ thời vua cổ đại Phục Hi, Trung Quốc. Kinh Dịch mang đầy tư tưởng vũ trụ quan và nhân sinh quan trong ngàn năm qua, chẳng hạn như:
Vô cực sinh Thái Cực
Thái Cực sinh Lưỡng Nghi
Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng
Tứ Tượng sinh Bát Quái
Mọi vật đều có âm dương, tương hổ, tương khắc lẫn nhau. Ấy là môi trường hệ sinh thái “ecosystem” mà ngày nay chúng ta thường nghe thấy từ các nhà chuyên gia môi trường đề cập đến. Ví dụ như có sâu bọ thì ắt phải có chim chóc, có rong rêu thì ắt phải có cá nhỏ, có cá nhỏ thì ắt phải có cá to, để tạo nên sự căn bằng trong môi trường sinh thái.
Đơn giản mà nói, thì theo Kinh Dịch vạn vật phải cân bằng, điều hòa, ngay cả trong cơn thể của con người. Mất sự cân bằng của tạo hóa thì vạn vật phải đảo điên, như gió lốc, địa chấn. Mất sự cân bằng trong cơ thể con người là mầm móng của các bệnh tật.
Nếu ta tính theo toán học thì nó là 2^n (2 to the power of n), có nghĩa là “n” trong bát quái sẽ là 3, nghĩa là 2 x 2 x 2 = 8. Muốn vẽ một hình bát quái cũng thật dễ dàng, lấy dương=0 (-) và lấy âm=1 (- -). Thì ta có thể vẽ hình bát quái mà không cần một trí nhớ chi tiết của sơ đồ bát quái một cách dễ dàng, và toàn hảo. Thí dụ:
000 = Càn
001 = Đoài
010 = Ly
011 = Chấn
100 = Tốn
101 = Khảm
110 = Cấn
111 = Khôn
Từ Kinh Dịch ta có thể đưa đến toán học, và cho đến con số 0, 1 kỳ diệu trong điện toán hiện đại. Như vậy, ta có thể kết luận người Trung Quốc đã phát minh toán học nhị phân (base 2 and binary number) từ ngàn năm trước chứ không phải nhà toán học Leibniz, Đức hay Boole, ở Anh mà ta đã biết. Tuy nhiên, ta không thể phủ nhận công trình của Leibniz và Boole trong quán trình hệ thống hoá nhị phân toán học, và logic Boolean.
E. Chú Thích:
(1) Công bộ: một chức quan vào thời phong kiến Trung Quốc. Chuyên về đường xá, cầu cống, vận tải, …. Chức quan cao nhất ở tam phẩm triều đình được gọi là “Công bộ Thượng Thơ”. Đỗ Phủ chỉ ở thất phẩm, chức vụ nhỏ nhoi như ở dưới làng xã.
(2) Thập Di: là mộ chức quan chuyên về thu thập những đồ đạc bị thất thoát. Tương tự như “lost and found.”
(3) Chinh Phụ Ngâm nguyên tác chữ Hán, Đặng Trần Côn. Đặng Trần Côn, đời nhà Lê Hiển Tông. Bản dịch chữ Nôm thì có nhiều nguồn không xác định. Có người cho bản dịch là của Đoàn Thị Điểm. Có người lại cho bản dịch là của Phan Huy Ích. Thôi thì hạ hồi phân giải vậy.
#10
Gửi vào 14/04/2013 - 14:24
Đối với hòn đá nêu trên, do chúng ta không hiểu những thứ loằng ngoằng trên bề mặt của nó, hơn nữa lại đặt ở nơi thờ tự nên nó mới mang màu sắc huyền bí, làm cho nhiều người nghi thần nghi quỷ. Nếu đặt nó ở ven đường thì có khi lại là chỗ để cho đám trẻ nhỏ phát tiết những thứ cặn bã ấy chứ! Sở dĩ người ta chưa ném nó đi thứ nhất bởi vì nó có vẻ huyền bí nên làm cho nhiều người sợ hãi, thứ hai nó là tài sản của Đền Hùng (mặc dù chưa xác định được giá trị). Nếu dùng hòn đá vớ vẩn này để trấn yểm thì chả phải quá coi thường anh linh các thế hệ dân tộc Việt hay sao? hơn nữa nếu trấn yểm được chả lẽ phải chờ hàng nghìn năm đến bây giờ mới trấn yểm? Nói tóm lại đơn giản đó chỉ là trò hề do những kẻ thếu văn hóa làm ra mà thôi!
Vài dòng mạn bàn.
Ẩn Long Cư Sỹ
#11
Gửi vào 14/04/2013 - 14:37
Xung quanh hòn đá này có nhiều ý kiến. Một số nghiêng về hướng "bùa ngải" vì thấy có những chữ Hán viết theo lối chữ Phạn, có nguồn gốc Tây Tạng, nơi được xem là xuất phát của các loại bùa ngải kinh dị !
Có người thấy nó giống như lối trấn yểm Kinh Dịch-Hà Đồ. Có người phát hiện chữ "Vạn" ( chữ nhà Phật nói về sự phúc đức an lành) bị "nhốt" vào cái cũi vuông. Ý nói nó muốn triệt hạ cả dân tộc Việt.Số người này nhìn đâu cũng thấy "bùa", thí dụ đường đi của những ngôi sao. Tinh ý lại nhìn ra hòn đá có hình cái "lưỡi bò" lộn ngược !
Một người nhờ một cô giáo Đài Loan ( có nghiên cứ về bùa ngải), đọc hộ các chữ trên hòn đá . Bà này phát hiện nó giống với lá bùa có tên "Bách giải tiêu tai phù"- Tức là giải tai ương trong mọi trường hợp. Nhưng chữ viết rất xấu . Lá bùa "lành"này ở Đài Bắc được bán với giá 99 tệ .
Trên hòn đá lại có một dòng chữ Hán giả Phạn " Nam vô(mô) a di đà Phật ! " .
Nhìn tổng thể đều mới chế tác nên tân kỳ. Nó cũng khôi hài và phi lý bởi có cái dấu ấn " Hùng Vương ấn ký" Nói đến người Tầu Yểm bùa ta còn nhắc mãi Trụ đồng Mã Viện thời Hai Bà Trưng.
Hay là chuyện yểm bùa dưới sông Tô Lịch, giữa Hồ Tây v.v.....Điều bí hiểm này có bao nhiêu % sự thật, đến nay vẫn còn là bí ẩn.
Tôi cho rằng hòn đá này được chế tác do 1 tay "thư pháp" dốt chữ Hán, dốt cả thuật bùa ngải, sau đó lừa được được 1 người giầu có mê tín nào đó mua, rồi " cung tiến" Ban phụ trách di tích Đền Hùng ..
Các vị này cũng gà mờ nốt ! Cái nguy hiểm là sự quản lý rất bông phèng của các cấp , cao từ Bộ , UBND Tỉnh...xuống thấp đến ông từ giữ đền !!!
Còn tại sao nó lại được đặt ngang nhiên ở nơi linh thiếng này. Có trời mà biết !!!
Biết đâu đã có mấy hũ tro cốt cha mẹ ông bà đ/c X,Z nào đó đặt ở xó xỉnh nào đó trong các ngôi đền nào đó trên núi Nghĩa Lĩnh này rồi !
Vì thế , "vứt" ngay là thượng sách !
Thanked by 1 Member:
|
|
#12
Gửi vào 14/04/2013 - 14:45
Tác giả Nguyễn Kiên Giang giải nghĩa nhiều về phần chữ còn phần bùa mới chỉ nói sơ qua. xin giải mã phần bùa để bổ túc.
Giải Mã Bùa Chú ở Đền Tổ Hùng Theo Chữ Viết Nòng Nọc Vòng Tròn-Que Của Việt Dịch.
Tổng quát
Tôi xin giải đọc phần bùa dựa theo hình, dấu chữ viết nòng nọc vòng tròn-que được dùng nhiều trong Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo, Việt Dịch Nòng Nọc Vòng Tròn Que.
Tại sao tôi lại dựa vào Dịch lý và dấu, hình, chữ viết nòng nọc vòng tròn-que để giải mã? Tôi dựa vào các lý do sau đây:
-Bùa chú liên hệ ruột thịt với Vũ Trụ giáo, Dịch. Ta thấy rất rõ nhiều bùa chú diễn tả liên hệ với Dịch qua sự kiện là trên các lá bùa chú thường có hình ảnh hay diễn tả theo nòng nọc, âm dương, thái cực, bát quái, Dịch đồ. Xin đưa ra một vài lá bùa làm ví dụ:
.Bùa trừ tà trong tranh dân gian thấy nhiều ở Miền Nam Việt Nam có hình bát quái.
Lá bùa trừ tà thấy nhiều ở Miền Nam Việt Nam có hình bát quái.
.Bùa Trung Quốc
Bùa hộ mạng ngũ lôi (five thunders) có hình bát quái.
Bùa hộ mạng ngũ lôi (Taosecret.com).
Bùa có hình đĩa thái cực.
-Bùa chú thấy nhiều trong Đạo giáo (Taoism) và Phật giáo mật tông Tây Tạng.
Đạo Lão liên hệ ruột thịt với Dịch đến độ đĩa thái cực được coi như là biểu tượng của Đạo giáo.
Trong Đạo giáo có nhiều môn phái chuyên trị về bùa chú như phái Mao Sơn.
Phật giáo cũng liên hệ mật thiết với Vũ Trụ giáo, Dịch (Ý Nghĩa Cấu Trúc của Tháp Phật, bacsinguyenxuanquang.wordpress.com).
-Chẳng cần nói đâu xa, ngay ở đây, đế của tảng đá bùa “có hình bát quái và chứa quẻ Càn” (xem dưới).
…..
Vì bùa chú liên hệ với Dịch lý thì hiển nhiên bùa phải được tiễn tả bằng dấu, hình, chữ viết nòng nọc vòng tròn-que của Dịch nòng nọc vòng tròn-que.
Khối bùa ở Đền Tồ Hùng.
Trước hết đây không phải là một tảng đá mà là một khối ngọc (trắng có vệt xanh). Dù là ngọc thật hay giả cũng không thành vấn đề, vì ngọc thật hay giả cũng cho thấy độ tôn kính, thờ phượng cao hơn đá thường.
Khối ngọc cao 1 mét.
Khối ngọc hình trứng mang hình ảnh trứng vũ trụ (Cosmic egg). Điểm này thích hợp với sự kiện Tổ Hùng thế gian (100 Lang Hùng) sinh ra từ bọc trứng thế gian đội lốt bọc trứng vũ trụ.
Khối ngọc cũng có hình một thạch trụ đứng trên mặt bằng mang hình ảnh Trụ Chống Trời, Núi Trụ Thế gian, Núi Kì biểu tượng cho cõi đất thế gian. Đây cũng là hình ảnh ông Bàn Cổ [Bàn là phiến đá bằng như bàn thạch là đế giữ trụ cho vững và Cổ là cột trụ (cổ là cột trụ cắm đầu vào thân mình)]. Ông Bàn Cổ là ông Trụ Chống Trời biểu tượng cho cõi đất thế gian (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Hìnhkhối ngọc này hình chữ thổcổ thấy trong chữ viết nòng nọc vòng tròn-que. Trong giáp cốt văn Thổ được diễn tả bằng một trụ đá mang hình ảnh núi trụ thế gian, núi Kì, trụ chống trời…
Trong giáp cốt văn Thổ (tũ) được diễn tả bằng một trụ đá đứng trên mặt bằng.
Núi Nghĩa Lĩnh nơi có đền Tổ Hùng cũng mang hình ảnh Núi Trụ Thế Gian (Ý Nghĩa Cấu Trúc Đền Tổ Hùng, Vĩnh Phú trong bacsinguyenxuanquang.wordpress.com).
Tổ Hùng ở cõi tạo hóa ứng với thần Viêm Đế-Thần Nông là thần tổ loài nguời như ông Bành Tổ nói chung và Tổ Việt Người Mặt Trời nói riêng.
Phần lớn các bùa chú thường có hình Núi Trụ Chống Trời, Trục Thế Giới để chuyển đạt những thỉnh cầu, cầu xin, dâng cúng tới các thần linh, ác quỉ ở Tam Thế.
Các lá bùa Trung Hoa có hình Núi Trụ Thế Gian, Trục Thế Giới.
Tảng ngọc bùa này có hình Núi Trụ Thế Gian, Trục Thế Giới cũng vậy.
Điểm này cho thấy rất rõ là bùa chú có những loại diễn tả theo hình Núi Trụ Thế Gian, Trục Thế Giới xác thực chúng liên hệ với Vũ Trụ giáo, Dịch.
Mặt Trước Khối Bùa
Trước hết xin giải mã mặt trước khối ngọc.
Mặt trước khối bùa.
Phần chữ
Tác giả Nguyễn Kiên Giang đã giải đọc hai hàng chữ như sau:
‘ a. Dấu ấn: bên trên mặt đá này là một dấu ấn hình vuông chứa bốn chữ Hán “Tổ Vương Tích Phúc”: có ý ca ngợi và thỉnh cầu.
b. Dòng chữ chạy dọc bên trái mặt đá là chín chữ Phạn “Án Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha”: đây là câu thần chú vi diệu nhất trong Phật Mẫu Chuẩn Đề Thần Chú của Phật giáo mật tông, trì tụng thần chú này sẽ tăng phúc, giải tội, an gia trạch và trừ quỷ mị. Có thể vẽ chín chữ ấy thành như cái mặt “Viên minh bố liệc phạm thư đồ” để mỗi đêm thường quán tưởng. (tham khảo tại: ).
c. Dòng chữ chạy dọc bên phải mặt đá là Hán tự, bốn chữ không bị khuất là “Bách Giải Tiêu Tai…”: có thể đó là “Bách Giải Tiêu Tai Phù” (bùa giải tai ách trong một trường hợp) – tên của đạo bùa (họa tiết lớn màu đen nằm giữa nặt đá) (tham khảo tại: .)
Ở phần chữ này tôi xin nói thêm tới một chữ hết sức đặc biệt liên hệ tới văn hóa Việt. Đó là chữ Bách trong hàng chữ “Bách Giải Tiêu Tai Phù». Chữ Bách được viết thật cường điệu và ở dạng tháu của bùa.
Chữ bách mang hình ảnh chữ Việt cổ hình chiếc rìu.
Chữ này mang hình ảnh của chữ Rìu Việt cổ. So sánh chữ này với chữ Việt đời nhà Thương và chiếc rìu Quốc Oai tái tạo (Bình Nguyên Lộc) ta thấy giống nhau như đúc.
Tên hai tỉnh Lưỡng Việt (Lưỡng Quảng) ở Nam Trung Quốc ngày nay còn dùng chữ Việt Mễ có chiếc rìu này.
Việt Mễ 粵/粤
Điểm đặc biệt ở đây là chữ Bách viết theo dạng chữ Việt cổ hình rìu Việt lại có đầu rìu cuộn lại hình sóng nước, hình rắn và có đầu rắn. Chữ này ám chỉ Việt Rắn tức Lạc Việt.
Chữ này viết theo lối vẽ bùa là vô tình hay chủ ý? Có hai điểm cho thấy có thể là cố ý. Thứ nhất, chữ Bách cố ý viết cường điệu và theo lối vẽ bùa còn các chữ còn lại viết nhỏ và theo lối thường. Thứ hai là ở lá bùa Trung Quốc không có hai từ “ Bách giải” mà chỉ có mấy chữ “Tiêu tai miễn họa phù” và viết với lối chữ thường. Người viết ở đây cố ý đưa thêm chữ Bách vào và cố ý diễn tả theo hình dạng chữ Việt cổ có hình rắn chỉ Lạc Việt. Thứ ba, như đã nói ở trên, cái triện với bốn chữ Tổ Vương Tích Phúc cho thấy bùa này đã được biến đổi cho phù hợp với văn hóa Việt Nam. Thứ tư là chữ Bách viết theo dạng chữ Việt cổ khiến ta liên tưởng ngay tới Bách Việt. Chữ Bách có chữ Việt trong đó. Nhìn chữ Bách thấy ngay Bách Việt.
Chữ Bách Việt Rắn này cho thấy những hình trong bùa thật sự diễn tả về truyền thuyết Tổ Hùng và Lạc Việt.
Phần bùa
Xin giải mã phần bùa chính yếu ở giữa.
Ta thử truy tìm xem bùa này có ở nơi nào khác hay không để làm mốc đối chiếu? Không mấy khó khăn, ta thấy ngay bùa này có ở Trung Quốc. Đây là bùa tiêu tai miễn họa phù (bùa làm tiêu tan hết tai ách, tai nạn và trừ miễn tai họa).
.
Bùa tiêu tai miễn họa phù.
:
(mạng do anh Đỗ Ngọc Thành chuyển cho).
Như đã nói ở trên bùa chú liên hệ ruột thịt với Đạo giáo, Phật Giáo Mật Tông, nói một cách khác là liên hệ ruột thịt với Vũ Trụ giáo, Dịch. Vì thế ta phải giải mã bùa dựa theo qui trình Vũ Trụ Tạo Sinh của Vũ Trụ giáo, Dịch.
-Hư Không
Phần trên cùng của bùa có hình trông giống như con rắn cuộn tròn lại muốn cắn đuôi:
Con rắn cắn đuôi hay chữ nòng O viết theo lối thảo, bùa chú.
Con rắn cắn đuôi có một khuôn mặt biểu tượng cho hư không. Hình rắn này thấy nhiều trong các nền văn hóa nghiêng về nòng âm, nước như Ai Cập cổ, Maya, Việt Nam (Lạc Việt Chim-Rắn, Tiên Rồng, rắn thần thoại hóa thành rồng) (xem Biểu Tượng Rắn, bacsinguyenxuanquang.wordpress.com).
Trong khi ở lá bùa Trung Quốc phần này viết giống như cái miệng. Đây là dạng biến thể, viết tháu, viết thảo của chữ nòng O có một nghĩa là hư không, hư vô, vô cực.
Như thế hình con rắn cuộn tròn muốn cắn đuôi ở tảng bùa đền Tổ Hùng có thể là một dạng viết thảo, theo phong cách “vẽ bùa” của chữ nòng O hay đích thực người vẽ bùa này cố ý vẽ theo hình rắn.
Tại sao lại có chủ đích vẽ theo hình rắn? Vẽ theo hình rắn là cố ý cho biết hư vô nghiêng về âm, hư vô chuyển qua âm, nước, rắn, biển vũ trụ trước. Đây là quan điểm của các tộc nước, mặt trời âm đĩa tròn êm dịu không có nọc tia sáng như Ai Cập cổ. Con rắn này là biểu tượng của Lạc Việt Rắn Nước thần thoại hóa thành rồng Lạc Long Quân. Đây chính là phần nòng âm rắn trong cốt lõi Chim-Rắn, Tiên Rồng của văn hóa Việt Nam.
Hán tộc là dân du mục, võ biền, nam trọng nữ khinh nên hư không chuyển qua dương, bầu khí trước vì thế hư vô vẫn giữ hình túi tròn hình nòng O kín.
Một yếu tố hỗ trợ thêm nữa là cái triện có bốn chữ “Tổ Vương Tích Phúc”. Với hai từ vua Tổ Vương cho thấy bùa này dù có làm phỏng theo bùa gốc Trung Quốc đi nữa nhưng cũng có thể có những biến đổi cho hợp với Tổ Hùng và với cốt lõi Chim-Rắn, Tiên Rồng của văn hóa Việt Nam, của Lạc Việt.
Tóm tắt lại dù là vẽ hình con rắn cắn đuôi hay là một dạng “vẽ bùa” của chữ nòng O thì phần chỏm cao nhất của bùa cũng vẫn mang ý nghĩa hư vô, Vô Cực.
-Túi Vũ Trụ, Thái Cực
Túi Vũ Trụ, Thái Cực.
Ở dưới là hình túi có mấu. Phần có mấu nhọn là chữ có ba nhánh hình tia chớp. Chớp là lửa vũ trụ. Ba nhánh là ba nọc que tức quẻ Càn. Ở tận cùng dưới chân mỗi nhánh có phụ đề ba chấm nọc. Chấm nọc có nghĩa là nọc dương còn ở dạng nguyên tạo, sinh tạo. Ba nọc nguyên tạo có nghĩa là lửa Càn vũ trụ, mặt trời thái dương tạo hóa (Chữ Nòng Nọc Vòng Tròn-Que). Tóm tắt lại hình nọc nhọn diễn tả chớp lửa vũ trụ ứng với nọc tạo hóa, Càn.
Hình vòng tròn thể điệu hóa ở dạng chuyển động, sinh tạo mang hình ảnh giọt nước là dạng biến thể của chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình nòng O có nghĩa là nòng, thái âm, nước, không gian, Khôn sinh tạo.
Tóm gọn lại đây là chớp lửa vũ trụ-không gian nước vũ trụ,‘túi càn khôn”. Ở dạng nhất thể tương ứng với thái cực. Chớp lửa vũ trụ liên tác vớ nước vũ trụ tạo ra sấm vũ trụ. Đây là hình ảnh của tiếng sấm big bang.
Phần này trên lá bùa ở Trung Quốc, tia chớp lửa Càn được diễn tả với đường nết thẳng có góc cạnh mang dương tính hơn theo phong cách của dân du mục, võ biền không còn giống tia chớp nữa. Tuy nhiên nhìn chung vẫn không thấy khác nhau bao nhiêu nghĩa là cả hai cùng có nghĩa như nhau.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, ở cõi tạo hóa là túi vũ trụ tương ứng với trứng vũ trụ, là khuôn mặt nhất thể Viêm Đế-Thần Nông. Ở cõi thế gian là hình ảnh của bọc trứng thế gian 100 Lang Hùng.
Nhìn theo góc cạnh bùa chú thì khuôn mặt sấm big bang giữ một vai trò trọng yếu. Sấm ngoài nghĩa sinh tạo, tạo sinh, phồn thịnh, may và mắn còn mang ý nghĩa biểu tượng là bảo vệ, phù trợ cho thiện và trừ khử ác. Khuôn mặt Sấm thường thấy rất nhiều trong bùa chú. Hãy lấy một vài ví dụ, trên lá bùa trừ tà trong tranh dân gian thấy nhiều ở Miền Nam Việt Nam ở trên có hình bát quái diễn tả Dịch có sự hôn phối giữ Chấn có một khuôn mặt là sấm và Cấn núi ứng với khuôn mặt sinh tạo Sấm của Lạc Long Quân và núi Mẹ Tổ Âu Cơ: sấm ở đầu non. Ông Sấm có nhà (có một nghĩa là vợ) ở đầu non. Và cũng ở trên, ta đã thấy Trung Quốc có lá bùa ngũ lôi. Một ví dụ nữa là kim cương chùy (diamond vajra, diamond thunderbolt) của Phật Giáo vốn là chiếc búa thiên lôi của thần sấm. Tại đền Khỉ Swoyambhunath ở Kathmandu, Nepal, ngay ở cổng đường cấp bậc từ chân núi lên có để một kim cương chử hay chuỳ rất lờn đễ bảo vệ và ban phước lành cho đền..
Kim cương chùy ở Đền Khỉ Swoyambhunath ở Kathmandu, Nepal.
Đây là một pháp khí rắn như kim cương có thể cắt được mọi vật thể khác và có sức mạnh vô địch của sấm sét.
Vì thế bùa có thiên lôi, sấm sét có một sức mạnh vô song tiêu trừ được mọi thứ tà ma và bảo vệ, gìn giữ, che chở được.
-Lưỡng nghi
Nhìn dưới dạng phân cực riêng rẽ là lửa nước, càn khôn là lưỡng cực, lưỡng nghi. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt ứng với ngành nọc dương mặt trời Viêm Đế và ngành nòng âm Thần Nông.
-Nấm Vũ Trụ
Ở phía dưới có hình cây nấm.
Hình nấm vũ trụ.
Lưỡng nghi sinh tứ tượng. Tứ tượng âm và dương liên tác sinh ra vũ trụ muôn sinh được phân chia ra Tam Thế, biểu tượng bằng Nấm (Cây) Vũ Trụ (Nấm Tam Thế, Nấm Đời Sống). Nấm Vũ Trụ thấy rõ qua trống Nấm Vũ Trụ Nguyễn Xuân Quang VI (Heger I) (Cơ Thể Học Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Người Thái ở Nghệ An có Cây Vũ Trụ là cây nấm (Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa dân Việt).
Núi Tản Viên có hình tán, hình lọng, hình cây nấm. Núi Tản Viên mang hình ảnh Cây Nấm Vũ Trụ (Cây Nấm Tam Thế, Cây Nấm Đời Sống) cũng vì vậy mà còn có tên là Núi Tam Từng (Tầng), Núi Ba Vì (Ba Vị) ứng với Tam Thế. Ở núi Tản Viên, có ngưởi con trưởng theo cha Lạc Long Quân quay về với phía mẹ trở thành một vị Thần Núi, có nhân vật Kì Mang (Hươu Nọc, Hươu Sừng) ứng với Kì Dương Vương, có Tiểu Long Hầu, con rắn nước bị giết là con của Lạc Long Quân, có nhân vật Nguyễn Tuấn là Hùng Vương của người Mường… (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).
Phần cây nấm này ở lá bùa Trung Quốc cũng thấy giống hệt ở đây.
-Thần Tổ Loài Người.
Thần Tổ Loài Người.
Ở giữa có hình người đứng giơ hai tay lên đầu. Mặt quay nghiêng về bên phải phía dương, chiều mặt trời. Hình này ở lá bùa Trung Quốc thiếu cánh tay trái.
Con người là tiểu vũ trụ sinh từ đại vũ trụ. Nấm Vũ Trụ sinh ra con người tiểu vũ trụ, người đầu tiên ở thế gian là Người Nguyên Khởi, Thần tổ loài người (ứng với Đấng Tạo Hóa, Thượng Đế, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Viêm Đế-Thần Nông nhất thể, Viêm Đế, Kì Dương Vương ngành nọc dương, Thần Nông ngành nòng âm, Ông Trời, Phật, Đức Christ, Đấng Allah, Tổ Hùng Vương…)
Theo duy dương người nguyên khởi nam thường được diễn tả bằng hình người đứng giơ hai tay lên trời. Người nguyên khởi ở đây thuộc phái nam. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt ứng với Viêm Đế-Thần Nông, Tổ Hùng, Kì Dương Vương.
Một ví dụ là hình thần tổ nam loài người thấy trên trống đồng Sangeang, Nam Dương (Trống Đồng Đông Sơn Mang SắcThái Nam Dương).
Thần tổ nam ở một ngôi nhà trên trống Sangeang, Nam Dương.
Theo duy âm là người nguyên khởi nữ thường được diễn tả bằng hình người ngồi xoạc cẳng ra, giơ hai tay lên đầu ở tư thế sinh con. Theo truyền thuyết Mường Việt, Dạ Dần là Mẹ Nguyên khởi, Mẹ Đời sinh ra từ cây si. Cây si cây đa là Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) (Hình Bóng Mẹ Tổ Âu Cơ ở Bảo Tàng Viện Lịch Sử, Hà Nội, bacsinguyenxuanquang.wordpress.com ).
-Người chim
Ở bên phải Thần Tổ Người có một người đầu chim.
Người chim mặt trời.
Người có đầu chim trông giống như chiếc rìu, chiếc búa. Ta cũng thấy con mắt chim rất cường điệu hình vòng tròn có chấm có một nghĩa là mặt trời. Mỏ to nhọn mang dương tính hình lưỡi búa rìu. Tận cùng hai tay là hai chấm nọc, dương. Hai nọc dương là thái dương, lửa sinh tạo.
Đây là người chim lửa, chim rìu, chim cắt hồng hoàng (hornbill).
Hình người đầu chim rìu, chim cắt này thấy rất rõ ở lá bùa Trung Quốc.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là người chim rìu, chim Việt biểu tượng của thần mặt trời Viêm Đế. Ở cõi thế gian lịch sử là con chim cắt Mê Linh (mơ ling, mơ lang) chim biểu của Hùng Vương (Hình Bóng Chim Việt ở Văn Miếu, Hà Nội và Hình Bóng Chim Việt ở Địa Bàn Bách Việt Cũ).
Nhìn chung người chim rìu, chim Việt này biểu tượng cho ngành Nọc Việt Viêm Đế – Đế Minh – Kì Dương Vương – Âu Cơ mặt trời thái dương.
Đây là nhánh Chim, Lửa 50 Lang Hùng theo Mẹ Chim Âu Cơ lên núi.
-Người Rắn
Phía đối diện phía trái của Thần Tổ nam là hình người Rắn. Hình này hơi khó thấy. Tôi tách riêng ra để dễ nhận diện.
Người rắn nước không gian.
Người rắn có đầu rắn thè lưỡi có bờm hình chữ S biểu tượng sóng nước.
Thân rắn hình chữ S. Thân này cộng với hai chân người tạo thành ba tua dải diễn tả ba dòng nước mưa chuyển động tức ba hào âm Khôn sinh tạo.
Người rắn, nước, biểu tượng của ngành Nòng, âm, nước, không gian.
Người rắn ở đây mang tính phụ, khó thấy nhưng còn hiện diện vì ở đây khuôn mặt người chim mặt trời mang tính chủ.
Ở lá bùa Trung Quốc hình người rắn gần như không còn, chỉ thấy cái dải sừng cong cao vút lên ở trên nhưng không còn ở dạng chữ S sóng nước. Điểm này dễ hiểu, dân Trung Quốc thuộc giống du mục, võ biền coi thường hay tiêu diệt khuôn mặt nòng âm, nước, rắn (vốn là khuôn mặt được coi trọng trong văn hóa Chim-Rắn, Tiên Rồng của Bách Việt) Khuôn mặt rắn bị xóa bỏ, trừ khử đi.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, người rắn, nước, biểu tượng của ngành Nòng Thần Nông – Đế Long – Lạc Long Quân không gian thái âm, nước.
Đây là nhánh Rắn Nước 50 Lang Hùng theo cha Rắn Lạc Long Quân xuống biển.
Như thế hình bùa này diễn tả từ hư không, vô cực, trứng vũ trụ, thái cực, lưỡng nghi, nấm Vũ Trụ (nấm Tam Thế, nấm Đời Sống), thần tổ loài người, hai ngành người tiểu vũ trụ mặt trời, không gian thái dương dựa trên thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh của Vũ Trụ giáo có Việt Dịch nòng nọc vòng tròn-que.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt bùa này diễn tả cốt lõi nòng nọc, âm dương Chim-Rắn, Tiên Rồng của văn hóa Việt với khuôn mặt sinh tạo, tạo hóa ở cõi vũ trụ của Tổ Hùng Viêm Đế-Thần Nông nhất thể gồm hai ngành Chim-Rắn, Tiên Rồng.
#13
Gửi vào 14/04/2013 - 14:55
VĨNH PHÚ.
Nguyễn Xuân Quang
Xin nhắc lại ở đây, tôi đã viết nhiều lần, cốt lõi của văn hóa Việt là Vũ Trụ giáo, Mặt trời giáo và Việt Dịch nòng nọc còn ghi rõ trong Sử Sách (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt), trong Sử Miệng (Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt) và trong Sử Đồng (Giải Đọc Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á).
Đền Hùng Vương là đền Quốc Tổ Việt bắt buộc phải mang trọn vẹn ý nghĩa cốt lõi của văn hóa Việt. Đền Hùng phải là biểu trưng của văn hóa Việt Nam.
Đền Quốc Tổ Hùng ở tỉnh Vĩnh Phú, Bắc Việt, tọa lạc trên núi Nghĩa Lĩnh, ngọn núi cao nhất trong 100 ngọn núi nên còn gọi là núi Cả.
Lĩnh nghĩa là gì?
Trước hết ta thử tìm hiểu xem tại sao núi có đền Hùng lại gọi là Nghĩa Lĩnh chứ không gọi là Nghĩa Sơn? Lĩnh và Sơn khác nhau. Lĩnh là núi dương, núi nổng, núi có đỉnh nhọn mang dương tính. Cũng xin nhắc lại núi cũng có núi âm và núi dương. Ngôn ngữ Việt cũng có giống đực, giống cái theo âm dương (Tiếng Việt Huyền Diệu). Núi dương gọi là nổng ứng với Hán Việt lĩnh và núi âm gọi là non, còn từ núi chỉ chung cả nổng (núi dương) và non (núi âm). Nổng là núi dương như thấy qua từ gò nổng. Nam Dương ngữgunung có nghĩa là núi. Gunung chính là Việt ngữ gò nổng.
Nổng biến âm với nống là cây nọc chống đỡ, nâng vật gì lên. Ta thường nói cứ nống nó lên có nghĩa là cứ tâng, cứ bốc nó lên, cứ nâng nó lên, cứ “đẩy cây” nó lên. Như thế lĩnh là nổng, núi hình trụ nọc, trụ chống nhọn đỉnh, núi dương. Ta cũng thấy rõ lĩnh biến âm với lính (quân nhân), ngày xưa chỉ phái nam, mới phải đi làm nghĩa vụ quân sự, mới phải đi lính, do đó lính ruột thịt với con trai, phái nam. Lĩnh biến âm với lịnh (lệnh). Ngày xưa lịnh là một cây nọc trên có khắc mệnh lệnh. Lịnh, lệnh hàm nghĩa cây, cọc biểu tượng cho dương, nam. Lĩnh biến âm với đinh, với đình theo kiểu biến âm linh đinh, linh đình. Đinh là vật nhọn, là con trai, thanh niên như tráng đinh, lễ thành đinh (con trai có vật nhọn, có cây “đinh”!).Đình là ngôi nhà dành cho con trai (bachelors’ house), phái nam (men’s house) vì thế mà ngày xưa cấm con gái, đàn bà bước chân vào đình. Đình có nghĩa đúng với nghĩa của ngôi nhà Lang của người Mường.Rõ hơn lĩnh biến âm với Phạn ngữ linga, bộ phận sinh dục nam. Trong Ấn giáo linga thường diễn tả bằng một hình trụ nọc mang hình ảnh dương vật cắm trên một cái đế tròn (theo duy âm) hay đế vuông (theo duy dương hay hiệp với giống đực của linga), nếu nhìn theo âm dương hôn phối thì đế tròn hay vuông đều là yoni, lỗ sinh dục nữ. Nếu nhìn theo duy dương thì nọc dương vật cắm trên đế tròn hay vuông mang hình ảnh núi trụ, trụ chống trời biểu tượng cho Cõi Giữa Đất thế gian, trường hợp này giống hệt hình ảnh của những miếu Thổ Thần. Ở rải rác đó đây trên các cánh đồng miền Bắc có những miếu Thổ Thần đơn giản chỉ là một cây đa (trụ) trồng trên một cái gò hình tròn hay có bệ vuông mang hình ảnh của Núi Trụ thế gian của linga nhìn theo duy dương. Thần Shiva có biểu tượng là linga có một khuôn mặt là Núi Trụ Thế Giới, Thần Đất thế gian.
Thần Shiva có biểu tượng là con bò mộng Nandi, con thú bốn chân sống trên mặt đất có hai sừng biểu tượng cho Cõi Giữa Đất thế gian vì thế mà các đến thờ của Ấn giáo đều có hình trụ tròn đầu trông giống Linga và giống ngọn núi Trụ Kailash ở Himalaya, được cho là nơi chôn nhau cắt rốn của Thần Shiva.
Như thế lĩnh qua biến âm với linga có một khuôn mặt là Núi Trụ Thế Giới.
Ta cũng thấy lĩnh biến âm với lang (Hùng Vương) theo kiểu biến âm linh lang (như thấy rõ qua bài hát ông Linh ông Lang). Trăm Lang Hùng là những Chàng (dân gian ngày nay, một vài nơi ở miền Bắc Việt Nam khi cúng tế vẫn xưng hô Chàng và Nàng gọi các Lang và các Mẹ Nàng Mỵ Nương), là những Lang, những Vua Mặt Trời Mọc.
Như thế ta thấy rõ núi Lĩnh có những nghĩa như sau:
1. Lĩnh là núi mang dương tính: núi Nổng, núi Nọc Nhọn, Núi Cọc, Núi Trụ Thế Gian (theo nghĩa Lĩnh biến âm với lịnh có nghĩa gốc là cây, nọc, cọc, với linga theo duy dương mang hình ảnh núi Trụ Thế Gian).
2. Lĩnh là Trục Thế Giới thông thương Tam Thế nằm trong Núi Trụ Thế Gian. Với Lĩnh qua biến âm với linga, ta thấy rõ Lĩnh có một khuôn mặt là Trục Thế Giới qua truyền thuyết là Thần Shiva có một khuôn mặt là Trụ Lửa (Pillar of Fire) dài vô tận không đầu không đuôi ứng với Trục Thế Giới.
3. Núi Lĩnh là núi Lang (theo nghĩa Lĩnh biến âm với Lang), núi Trăm Lang Hùng.
4. Lĩnh là núi Hùng có một nghĩa là đực (với nghĩa Lĩnh biến âm với đinh, đình có nghĩa là đực, nam và Lĩnh biến âm với Linga), núi Quốc Tổ Hùng.
5. Lĩnh là núi Việt (Việt có nghĩa tổng quát là vật nhọn, rìu có nghĩa gốc là vật nhọn, rìu, chàng đục biểu tượng cho dương, đực, linga), núi biểu trưng của Đại Tộc Việt.
6. Lĩnh là núi Mặt Trời dương thái dương với nghĩa là nọc, đực, dương. Dương là đực và cũng có nghĩa là mặt trời. Lĩnh là núi biểu trưng của Đại Tộc Việt Mặt Trời thái dương.
Đây là lý do núi có đền Quốc Tổ Hùng phải là Lĩnh tức nổng, núi dương, núi Lang, núi chàng, núi Hùng, núi Việt, núi mặt trời thái dương, núi Trụ Thế Gian, Trục Thế Giới… chứ không gọi là sơn.
Nghĩa có nghĩa là gì?
Ngày nay thường hiểu theo nghĩa là đúng, chính đáng (righteousness) như chính nghĩa (theo qui tắc từ ghép, từ đôi ta có nghĩa = chính).
Nghĩa
Giải tự từ Nghĩa ta thấy có phần đầu chữ dương (đầu con dê) ở trên, ở dưới có chữ thủ (tay) và chữ qua (là thứ khí giới cán dài, một thứ rìu, một thứ việt). Như thế, theo mặt chữ, từ Nghĩa có nghĩa là “cầm rìu giết con dê” “cầm rìu chặt đầu con dê”. Chặt đầu con dê để làm gì? Dĩ nhiên là để hiến tế, giết các vật hy sinh để tế lễ, dâng hiến cúng vật cho Tạo Hóa, vũ trụ, trời đất, Thần Linh, Tổ Tiên và cả quỉ thần. Điểm này cũng thấy rõ trên giáp cốt, kim văn, cổ văn, từ Nghĩa (yì) diễn tả bằng hình con dê núi đực, con “dương” (ram) bị giết bởi một chiếc rìu có lưỡi răng cưa để hiến tế.
Trên giáp cốt, kim văn, cổ văn, từ Nghĩa (yì) diễn tả bằng hình con dê núi đực, con “dương” (ram) bị giết bởi một chiếc rìu có lưỡi răng cưa để hiến tế (Wang Hongyuan).
Ở đây ta thấy có hai điểm ăn khớp khắng khít với Quốc Tổ Hùng. Thứ nhất là chữ qua chỉ chiếc rìu qua, một thứ Việt, một thứ vật nhọn mang dương tính ăn khớp với Lang Hùng, Hùng Vương, có nghĩa là đực, là nọc, vật nhọn, là Việt, là dương, là mặt trời, qua Việt là khí biểu (ceremonial weapon) của Đại Tộc Việt, của Hùng Vương Việt Mặt Trời Thái Dương và con dương (con dê) là con thú đực ăn khớp với Hùng có một nghĩa là con thú đực (thư hùng). Con dê là con thú bốn chân sống trên mặt đất có hai sừng (hai nọc nhọn tức hai dương, thái dương) biểu tượng cho mặt trời thế gian (như thấy qua con dê là thú biểu của các vua mặt trời Ai Cập cổ), cho Cõi Đất dương gian tương đương với con hươu cọc, con hươu sừng, thú biểu của Kì Dương Vương và với con bò mộng có hai sừng (con bò mộng Nandi là thú biểu của thần Shiva của Ấn giáo có một biểu tượng là linga theo nghĩa là Núi Trụ Thế Gian). Con dê với nghĩa đực, dương, mặt trời dùng làm vật hiến tế cho Hùng Vương rất chí lý. Phải dùng rìu Việt và dê, dương biểu tượng cho mặt trời trong việc hiến tế cho Tổ Hùng, Tổ Việt Mặt Trời Thái Dương mới đúng lễ nghi.
Như thế theo nghĩa đen Nghĩa có nghĩa là giết dê để hiến tế các Thần Tổ, Thần Linh dòng mặt trời.
Nghĩa Lĩnh là gì?
Vậy Nghĩa Lĩnh có những nghĩa gốc như sau:
1. theo nghĩa Lĩnh là núi Nọc Nhọn, Núi Cọc thì Nghĩa Lĩnh là (núi) Nọc, Cọc Hiến Tế (sacrificial post). Cọc đâm trâu của các sắc tộc ở Tây Nguyên Việt Nam là một thứ cọc, nọc hiến tế, là hình ảnh nguyên sơ của Nghĩa Lĩnh.
2. theo nghĩa Lĩnh là Trục Thế Giới nằm trong Núi Trụ Thế Gian là một con đường dùng làm phương tiện thông thương Tam Thế, thì Nghĩa Lĩnh có nghĩa là Trục Thế Giới dùng để dâng cúng vật hiến tế tới Tam Thế. Chiếc bàn thiên của dân gian Việt Nam là một hình ảnh của Trụ, Trục Thế Giới, của Nghĩa Lĩnh.
3. theo nghĩa Lĩnh là núi Lang, núi Hùng, núi Việt, núi mặt trời thái dương thì Nghĩa Lĩnh là cọc hiến tế, là Trục Thế Giới dâng cúng vật hiến tế lên Tổ Hùng và các Hùng Vương thế gian, tới Tổ Việt Mặt Trời Thái Dương.
……
Qua nghĩa này ta thấy đạo thờ cúng Tổ Tiên, ông bà, đấng sinh tạo, trời đất, vũ trụ của chúng ta là một thứ tôn giáo nằm trong Vũ Trụ giáo.
Tiến xa hơn, ta đi tìm nghĩa rộng, nghĩa “bóng” của từ Nghĩa. Với nghĩa gốc là “tay cầm dao giết, chặt đầu con dê” dùng làm tế vật, để tạ ơn vũ trụ, trời đất, thần linh, tổ tiên cho thấy từ Nghĩa có nghĩa nghiêng nhiều về Ơn Nghĩa, ruột thịt với Ơn Nghĩa. Áp dụng qui luật từ đôi Ơn Nghĩa ta có Nghĩa = Ơn. Ơn có nghĩa là gì? Cám ơn, tạ ơn có nghĩa là cảm tạ Cõi Trên, Bề Trên (xin ơn trên phù hộ), đấng sinh tạo, Tạo Hóa, trời đất sinh tạo, tổ tiên. Ơn còn có nghĩa là một như mình ơn, mình ên. Một có một nghĩa là là mặt trời như thấy qua solo (một mình) liên hệ với sol, mặt trời. Ơn biến âm với Anh ngữ one, một nên liên hệ với mặt trời. Ai Cập cổ có thành phố Mặt Trời tên là On (Heliopolis).
Tóm lại núi Nghĩa Lĩnh có nghĩa đen là Trụ Hiến Tế, là Núi Trụ Thế Gian, trong có Trục Thế Giới dùng làm phương tiện để cúng dâng vật hiến tế lên Ba Cõi, theo duy dương lên Mặt Trời và có nghĩa rộng ra là Núi Ơn Nghĩa, núi Tạ Ơn Tạo Hóa, Vũ Trụ, Tạ Ơn Tổ Hùng Mặt Trời ứng với thần mặt trời Mặt Trời Viêm Đế.
Như thế các nhà làm văn hóa Việt Nam cần phải lưu tâm điểm này Hùng có ít nhất là hai khuôn mặt. Một là khuôn mặt truyền thuyết là khuôn mặt Tạo Hóa, Sinh Tạo, Vũ Trụ, Không gian-mặt trời, nòng nọc, âm dương, Mặt Trời sinh tạo, Tạo Hóa. Tôi gọi là Tổ Hùng. Khuôn mặt tạo hóa ở cõi vũ trụ có một khuôn mặt nhất thể là bọc trứng vũ trụ ứng với Viêm Đế-Thần Nông nhất thể (chỉ là một nhân vật mang lưỡng tính nòng nọc, âm dương vì thế mới nói theo duy dương phía ngành nọc lửa là Viêm Đế hiệu Trung Hoa. Theo duy âm là Thần Nông hiệu Viêm Đế). Khuôn mặt thứ hai là khuôn mặt thế gian hay lịch sử. Tôi gọi là Hùng Vương. Khuôn mặt thế gian, lịch sử này đội lốt hay là hiện thân hay hóa thân hay hậu thân của khuôn mặt vũ trụ Tạo Hóa, Sinh Tạo của Tổ Hùng. Khuôn mặt thế gian ứng với bọc trứng thế gian của Mẹ Tổ Âu Cơ.
Ta thấy rất rõ Tổ Hùng có hai khuôn mặt vũ trụ, không gian-mặt trời, có nòng âm có nọc dương mà nòng nọc âm dương là căn bản của Vũ Trụ Tạo Sinh, của Vũ Trụ giáo, của Việt Dịch nòng nọc. Vậy thì đền Hùng bắt buộc phải mang trọn vẹn ý nghĩa của Vũ Trụ giáo.
Hiểu như thế rồi ta hãy quan sát đền Tổ Hùng ở Vĩnh Phú, Phú Thọ xem sao. Nhìn tổng thể ta thấy đền Tổ Hùng gồm có ba đền: Đền Thượng, Đền Trung và Đền Hạ.
Sơ Đồ Đền Quốc Tổ Hùng, Vĩnh Phú, Phú Thọ.
Ta thấy ngay ba đền ứng với Tam Thế, nhìn dưới diện Đại Vũ Trụ (macrocosm) thì Đền Thượng ứng với Thượng Thế, Đền Trung ứng với Trung Thế và Đền Hạ ứng với Hạ Thế. Nhìn dưới diện Tiểu Vũ Trụ (microcosm) thì Đền Thượng ứng với Cõi Trời (Khí Gió), khuôn mặt sinh tạo của Hùng Vương đội lốt Tổ Hùng ở cõi tạo hóa. Đền Trung ứng với Cõi Đất nhân gian ứng Kì Dương Vương và Đền Hạ ứng với Cõi Nước Lạc Long Quân. Như thế núi Nghĩa Lĩnh là Núi Trụ Tam Thế mang thêm một khuôn mặt Cây Tam Thế, Cây Vũ Trụ, Cây Đời Sống. Ta thấy rất rõ Lĩnh với nghĩa là nọc, cọc, cây và ba ngôi đền là Tam Thế, thì núi Lĩnh với ba đền Tam thế là Lĩnh = Cây + ba đền Tam Thế = Cây Tam Thế (Cây Vũ Trụ, Cây Đời Sống). Núi Nghĩa Lĩnh với ba ngôi đền mang hình ảnh Cây Tam Thế, Cây Vũ Trụ, Cây Đời Sống của Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo. Ngoài ra ta cũng thấy rất rõ ba ngôi đền trên núi mang hình ảnh chữ tam, phần núi nối ba ngôi đền là nét thẳng đứng, gộp lại ta có chữ Vương (vua). Như thế, như đã biết Lĩnh có một nghĩa là Lang, Hùng vậy thì nhìn cả ngọn núi Lang, núi Hùng với ba ngôi đền mang nghĩa Vương ta có Lang Vương, Hùng Vương.
Nếu đi từ chân núi lên, ta đi qua cổng đền rồi tới:
Đền Hạ
Theo Đại Vũ Trụ thì đây là Cõi Âm, theo Tiểu Vũ Trụ thì đây là Cõi Đất âm, Cõi Nước âm thế gian. Dưới khuôn mặt thế gian thì đây là Đất có nước Lạc điền, Cõi Nước dương, vùng Nước dương, vùng sông biển của các tộc ở dưới nước, dưới thuyền như long hộ, long nhân, vạn chài. Dưới diện Cõi Âm thì đây ứng với thủy phủ ở vịnh Hạ Long của Lạc Long Quân. Cõi Dưới này là địa bàn chính của Mặt Trời Nước Lạc Long Quân vì vậy mà tại nơi đây cho là chỗ Mẹ Tổ Âu Cơ sinh ra một cái bọc Trứng Chim nở ra trăm Lang.
Phía dưới ở cách xa Đền Hạ, nằm ngoài các cổng, có Hồ Thiên Nga. Đền Hạ là Cõi Dưới, Cõi Nước, Cõi Âm của khuôn mặt dương Lạc Long Quân vì thế dưới cõi âm này là vùng âm của âm tức thái âm, nữ. Loài chim nước như nông, ngỗng, vịt trời le le, uyên ương, thiên nga là những loài chim biểu tượng cho phái nữ (chim Tinh Vệ Oan Ương là chim biểu của Nữ Oa, Vịt trời Le Le Vụ là chim biểu của Vụ Tiên, Thiên Nga là chim biểu của nữ thần Venus, người Tây phương gọi ngỗng là Mẹ Ngỗng “Mother Goose”) nên Hồ Thiên Nga biểu tượng cho âm, các Tổ Mẫu (như các Mỵ Nương, vợ của Hùng Vương…).
Nhìn theo diện âm dương lưỡng hợp tổng quát thì núi Nghĩa Lĩnh là Nọc Hiến Tế có biểu tượng Nọc, dương và Hồ Thiên Nga dưới chân núi là Nòng, âm. Như thế Đền Quốc tổ dựa trên nguyên lý âm dương, lưỡng hợp.
Đền Trung
Đền Trung là Cõi Giữa thế gian Li, Lửa đất thế gian. Vì vậy mà theo một tài liệu cho biết tại Đền Trung này có thờ Lửa. Đây là lửa thế gian, lửa từ núi lửa ứng với Li Cõi Giữa Đất Thế Gian với Kì Dương Vương mang tính chủ. Thờ Thần Lửa thế gian hiển nhiên nằm trong sự thờ phượng Lửa vũ trụ, Thần Mặt Trời. Theo duy dương thần mặt trời Viêm Đế là thần tổ tạo hóa ngành Hùng Vương nọc mặt trời thái dương. Tổ Hùng kể từ Viêm Đế trở xuống.
Đền Trung Cõi Giữa thế gian nên là chỗ thờ phượng các vị Hùng Vương Cõi Giữa thế gian và dòng dõi nên có cả bệ thờ công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa. Cũng vì thế nên mới tương truyền rằng đây là nơi Lang Liêu đã gói bánh dày, bánh chưng dâng vua cha để cúng tiên tổ nhân ngày Tết.
Tại nơi đây cũng là chỗ làm việc của Hùng Vương, vua Hùng thường hội họp các Lạc Hầu Lạc Tướng để bàn việc nước.
Đền Thượng
Ứng với Thượng Thế, Cõi Trên. Đền Thượng dĩ nhiên thờ Tổ Hùng với khuôn mặt là Đấng Tạo Hóa, Mặt Trời Tạo Hóa, Sinh Tạo, Mặt Trời Vũ Trụ.
Đền Thượng có bốn nếp nhà: Nhà Trống Chuông, nhà Đại Bái, nhà Tiền Tế và Cung Thờ. Nhà chính là Cung Thờ với Cung có nghĩa là vòm mang hình ảnh của vòm Hư Không (Vô Cực), vòm không gian, vòm trời ứng với khuôn mặt vũ trụ của Tổ Hùng. Nhà Chuông Trống là nhà âm dương. Chuông có hình âm đạo, dạ con, vòm vũ trụ, vòm trời biểu tượng cho nòng, âm, nữ. Hình vòm chuông khắc trên đá của thổ dân Úc có nghĩa là đàn bà. Chiếc chuông cầu nguyện của Phật giáo Tây Tạng mà Đức Dalai Lama hay rung trong khi hành lễ có cán là hình dóng sấm thường gọi là búa thiên lôi (thunderbolt) có một khuôn mặt biểu tượng cho dương trong khi phần chuông biểu tượng cho âm và cho trí tuệ âm, nữ (female wisdom). Trống có một nghĩa là đực, dương (gà trống) dĩ nhiên biểu tượng cho nọc, dương, nam. Nhà Chuông Trống mang biểu tượng âm dương, Lưỡng Nghi.
Trước đây ở Đền Tổ Hùng có để một trống đồng thờ, nay để tại Viện Bảo Tàng ở đây. Trống đồng này rất đặc biệt, không thấy nói tới ở những nơi khác ngoài Việt Nam. Trong quyển Những Trống Đồng Đông Sơn Đã Phát Hiện Ở Việt Nam, các tác giả Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Vinh có nói tới loại trống này. Đây là loại trống đồng giống “các loại trống da” như trống Cảnh Thịnh (Tây Sơn) (trống mang ký hiệu D.6214-22), trống để ở chùa Cổ Lễ, chùa Keo Hành Thiện tỉnh Nam Hà, trống đời Nguyễn trưng bày tại viện bảo tàng đền Hùng tỉnh Vĩnh Phú “về mặt hình dạng được mô phỏng theo loại trống gỗ bịt da, nhưng vẫn giữ được truyền thống của trống đồng là chúng chỉ có một mặt” (tr.14).
Ta thấy trống đồng ở Đền Tổ Hùng“về mặt hình dạng được mô phỏng theo loại trống gỗ bịt da” tức là loại trống cái hình thùng (barrel) đựng rượu nho có hình trứng và “vẫn giữ được truyền thống của trống đồng là chúng chỉ có một mặt” tức trống để hở đáy. Mặt trống đặc biểu tượng cho dương, đặc là đực (tre đặc là tre đực) và có hình mặt trời hiển nhiên biểu tượng cho dương. Phần đáy để hổng biểu tượng cho âm (ta có từ đi đôi với nhau hổng lỗ tức hổng = lỗ, dĩ nhiên lỗ biểu tượng cho âm!). Trống đồng để hở đáylàtrống đồng âm dương (xem chương Cơ Thể Học Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Như thế trống đồng để ở Bảo Tàng Viện Đền Hùng là trống Trứng Âm Dương, Trống Trứng Vũ Trụ, Trống Vũ Trụ. Tôi gọi loại trống này là Trống Trứng Vũ Trụ Nguyễn Xuân Quang loại I (xem chương Cơ Thể Học Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á trong Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á). Trống Trưn1g Vũ Trụ chính là trống biểu của Tổ Hùng có một khuôn mặt Trứng Vũ Trụ và của Hùng Vương sinh ra từ bọc Trứng Thế Gian.
Bốn nếp nhà này cũng có thể coi như là ứng với Tứ Tượng. Như thế có đủ trọn vẹn cả nghĩa Vũ Trụ Tạo Sinh.
Bên trái phía âm là Cột Đá Thề của An Dương Vương. Nên nhớ, An Dương Vương có một khuôn mặt là Vua Mặt Trời Êm Dịu thuộc dòng Nước. Cha Lạc Long Quân (Rùa Vàng Lạc Long Quân giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa) nên hòn đá này ở bên trái âm cùng phía Hồ Lạc Long Quân.
Ở phía bên phải và cao hơn hết là lăng Hùng Vương thứ 6. Theo truyền thuyết thì Hùng Vương thứ 6 đánh đuổi được giặc Ân với sự trợ giúp của Phù Đổng thiên vương, về sau truyền lại ngôi cho thái tử thứ 18 là Lang Liêu, người làm ra bánh chưng bánh dầy.
Tại sao có 18 đời vua Hùng mà ở đền Quốc Tổ Hùng chỉ có lăng của Hùng Vương thứ 6 mà thôi? Tại sao các vua Hùng khác không được thờ?
Dịch có 64 quẻ, tám quẻ đầu hay tầng thứ nhất trong 8 tầng (mỗi tầng có 8 quẻ) từ 0-7 ứng với vũ trụ, số 6 là số chẵn, số âm cao nhất, già nhất trong 8 quẻ đầu (0, 2, 4, 6), nên gọi là số lão âm, số thành ứng với giai đoạn hoàn thành của Vũ Trụ Tạo Sinh tức tạo ra Tam Thế. Số 6 mang một khuôn mặt hoàn thành của Vũ Trụ Tạo Sinh sinh ra Tam Thế tức ruột thịt với Cây Tam Thế, Cây Vũ Trụ, Cây Đời. Đây là lý do tôi gọi trống đồng có hình Cây Nấm Vũ Trụ (Heger I) là Trống Nguyễn Xuân Quang VI. Cũng vì số 6 ruột thịt với Cây Tam Thế nên lăng Hùng Vương thứ 6 có hình Cây Tam Thế (xem dưới).
Như thế lăng Hùng Vương thứ 6 có một khuôn mặt biểu tượng cho sinh tạo, tạo hóa Tam. Thế hiển nhiên đây là một lý do vua Hùng Vương thứ 6 được chọn làm đại diện cho cả hai khuôn mặt vũ trụ Thượng Thế của Tổ Hùng vũ trụ và thế gian Trung Thế của Hùng Vương thế gian, đại diện cho tất cả 18 đời Hùng Vương.
Kiểm chứng lại ta cũng thấy 6 = 2 (Lưỡng Nghi, âm dương) + 4 (Tứ Tượng). Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng rồi Tứ Tượng âm và dương liên tác sinh ra Tam Thế, được biểu tượng bằng Cây Tam Thế, Cây Vũ Trụ.
Ngoài ra số 6 là số Tốn, gió âm, một khuôn mặt chim của Mẹ Tổ Âu Cơ sinh ra bọc trứng O. Bọc O ở vũ trụ, bầu trời là bọc khí gió Đoài vũ trụ, bầu trời là khuôn mặt Tổ Hùng vũ trụ và bọc O ở cõi thế gian là bọc nước ấm Đoài ao đầm thế gian. Đây cũng là lý do Việt Trì, Ao Việt được chọn làm thủ đô của các Hùng Vương lịch sử.
Lưu Ý
Theo Dịch Trung Hoa, Đoài chỉ hiểu theo một nghĩa là đầm ao. Dịch Trung Hoa là Dịch thế gian. Ở Dịch tạo hóa cõi trên Đoài phải hiểu theo nghĩa ở cõi tạo hóa, Thượng Thế. Đoài biến âm với đài, đẫy có nghĩa là túi, bọc, rõ hơn Anh ngữ Tui (Đoài) ruột thịt với túi. Ở Thượng Thế, bầu vũ trụ, bầu trời là cái túi, cái bọc Khôn dương tức thiếu âm nguyên thể của khí gió là Đoài vũ trụ, bầu trời. Ở Trung Thế, đất thế gian túi nước ấm (dương) là ao đầm là Đoài thế gian. Đây là lý do tôi thường dùng từ Đoài khí gió vũ trụ, cõi trời ở Dịch sinh tạo, tạo hóa. Ở cõi trên chưa có Đoài ao đầm.
Số 6 cũng là số trục của ma phương 6/18 nằm ở ô giữa hình vuông và tổng cộng các con số đọc theo các chiều cộng lại bằng 18.
Ma phương 6/18
(lưu ý trong ma phương này số 1 còn tương đương với 10 và số 2 tương đương với 11).
Như thế Hùng Vương thứ 6 theo dòng máu Tốn của Bọc Trứng Mẹ Tổ Âu Cơ là vị vua cột trụ, vị vua trục của 18 đời vua Hùng. Vì thế Hùng Vương thứ 6 được chọn làm đại diện cho tất cả vua Hùng.
Thái tử thứ 18 Lang Liêu làm ra bánh chưng bánh dầy để tạ ơn Tổ Hùng, tạ ơn vũ trụ, Tạo Hóa. Bánh chưng, bánh dầy biểu tượng cho âm dương, đất trời, vũ trụ, Tam Thế. Nếu để bánh dầy tròn lên trên bánh chưng vuông ta có một mandala Hôn Phối Vũ Trụ, (mandala of Cosmic Union). Mandala này thấy nhiều trong Phật giáo Mật Tông Tây Tạng và Nepal hiện nay. Như thế ta thấy Lang Liêu mang khuôn mặt của một vị vua Hùng thế gian nối dõi vua Hùng thứ 6 hay có thể coi như là vị hóa thân, hiện thân, hậu thân của Tổ Hùng vũ trụ (vì thế mới biết làm ra bánh chưng bánh dầy biểu tượng vũ trụ, trời đất, thờ Tổ Hùng vũ trụ). Hùng Vương vũ trụ thứ 6 cùng với khuôn mặt thế gian của hậu thân mình là Lang Liêu làm đại diện cho tất cả Tổ Hùng vũ trụ và Hùng Vương thế gian.
Lăng Hùng Vương thứ 6.
Đó là những lý do tại sao chỉ có lăng Hùng Vương thứ VI ở đền Quốc Tổ Hùng.
Trên nóc lăng có quả Bầu. Ở Đại Vũ Trụ là bầu hư không, bầu tạo hóa, bầu vũ trụ, bầu sinh tạo, tạo hóa, Trứng Vũ Trụ, là vật biểu tạo hóa của Tổ Hùng. Ở Tiểu Vũ Trụ, Bầu âm dương là vật biểu của Hùng Vương là bọc sinh tạo thế gian, bọc trứng thế gian, là vật biểu của Hùng Vương thế gian. Ở cõi trời thế gian là bọc khí gió dương Đoài cõi trời vì thế mà các vua Hùng có mang dòng máu Gió này mới đóng đô ở Châu Phong (châu Gió) và ở cõi đất thế gian là bọc nước dương, nước ấm là Đoài ao đầm (pond, swamp) vì thế mà các vua Hùng thế gian có mang dòng ao đầm mới đóng đô ở Việt Trì (Ao Việt) và có địa danh Hạc Trì (Ao Cò) (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc).
Bầu âm dương sinh ra Tứ Tượng. Lăng hình trụ vuông mang nghĩa Tứ Tượng. Tứ Tượng dương và âm tức tám tượng ứng với bát quái ăn khớp với 8 mái nhỏ của lăng. Tứ Tượng âm dương liên tác sinh ra Tam Thế, vì thế lăng có tầng nhỏ trên cùng ứng với Thượng Thế, phần thân lăng hình trụ vuông biểu tượng cho Núi Trụ Thế Gian, Cõi Giữa Trung Thế, bên trong có Trục Thế Giới và nền lăng có rào vuông biểu tượng cho Hạ Thế. Lăng Hùng Vương thứ 6 mang hình ảnh Cây Tam Thế, Cây Vũ Trụ, Cây Đời Sống. Cây này là biểu trưng cho Tổ Hùng và các vị Hùng Vương thế gian là những hóa thân, hiện thân của Tổ Hùng.
Lăng nằm phía bên phải, dương nên có khuôn mặt ngành nọc lửa thái dương (Viêm Đế-Đế Minh-Kì Dương Vương-Âu Cơ ) mang tính chủ (ta thấy rất rõ lăng Hùng Vương thứ 6 với 6 là số âm thái dương, Tốn khuôn mặt thái dương của Nàng Lửa, thái dương thàn nữ Âu Cơ). Ta cũng thấy là số 6 nằm giữa số 5, số Li, lửa thế gian, Đất dương thế gian và số 7, số Càn Lửa vũ trụ.
Về phía tay trái tức phía âm của ngành âm nước Lạc Long Quân, phía trên cao ngang với Đền Thượng là Hồ Lạc Long Quân. Tại sao Hồ Lạc Long Quân lại để trên cao ngang hàng với Đền Thượng mà không để ở Cõi Dưới, Cõi Nước ở dưới? Đây là khuôn mặt Tạo Hóa Sinh Tạo của Lạc Long Quân đội lốt Thần Nông ở cõi tạo hóa.
Nhìn đối chiếu hai bên, lăng Hùng Vương thứ 6 có khuôn mặt Càn Lửa vũ trụ thái dương ở bên phải phía dương hôn phối Hồ Lạc Long Quân Chấn vũ trụ tức có sự hôn phối thái dương với thái âm của ngành nọc thái dương ở cõi Đại Vũ Trụ. Vì thế mà cả hai cùng ở Thượng Thế.
Ngoài ra ở đây cũng có một cây thông già 700 tuổi. Có thể đây chỉ là một cây trồng để lấy bóng mát hay làm cảnh. Tuy nhiên, ở bất cứ một nơi thờ phượng thiêng liêng nào cũng thường trồng một cây cổ thụ mang biểu tượng Cây Vũ Trụ, Cây Tam Thế, Cây Đời. Ở các chùa, đình, đền, miếu thường trồng Cây Đa, Cây Đề, Cây Si. Đây là những cây mang âm tính vì có tàn lá hình vòm biểu tượng cho vòm vũ trụ. Cây đa mang âm tính vì có “lá đa”. Cây Si sinh ra Mẹ Tổ Mường Việt là Dạ Dần. Cây đa trồng ở chùa vì Phật giáo là một tôn giáo tĩnh mang âm tính, Nòng, Khôn, Không Gian, Vũ Trụ âm (mọi chuyển vận trong Phật giáo đều đi theo chiều âm, cùng chiều với kim đồng hồ). Đây là lý do không trồng cây đa mang âm tính ở đền Quốc Tổ Hùng Việt Mặt Trời Thái Dương, thay vào đó trồng một cây mang dương tính biểu tượng cho ngành dương, mặt trời. Cây thông thuộc họ nhà cây dương mang dương tính vì cây có tàn hình nọc nhọn mũi mác, mũi lao, hình tam giác (trong họ này cũng có cây phi lao trông giống cây lao, một thứ khí giới) thích hợp với Tổ Hùng Mặt Trời Thái Dương mang dương tính. Trường hợp này giống như cây thông mang dương tính dùng làm cây giáng sinh cho chúa Trời (Thiên Chúa giáo là một tôn giáo duy dương). Cây thông giáng sinh nhìn dưới lăng kính Vũ Trụ giáo mang hình ảnh Cây Vũ Trụ sinh ra vị Chúa Tể Loài Người là Chúa Christ (Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt). Ở đây cây thông này lại được trồng ở Thượng Thế gần với bốn ngôi nhà thờ biểu tượng cho Tứ Tượng. Như thế nhìn dưới lăng kính Vũ Trụ giáo và ở ngôi Đền Quốc Tổ Cây Tam Thế ở đây, cây thông cổ thụ này mang biểu tượng của Cây Vũ Trụ, Cây Tam Thế.
Bên phải, ở khoảng giữa Đền Trung và Đền Hạ, có Đền Giếng. Giếng thường có hình trụ tròn. Giếng đào sâu vào lòng đất tức ăn thông với cõi nước âm thế gian và với cõi âm Hạ Thế. Nhìn tổng thể giếng mang hình ảnh Trục Thế Giới nối liền ba cõi, Tam Thế với khuôn mặt thấy rõ nhất là thông thương với cõi nước, âm thế.
Tóm lược
Nhìn toàn diện thì:
.Núi Nghĩa Lĩnh là Nọc, Cọc Hiến Tế, Núi Tạ Ơn các Lang, các vua Hùng, Vua Việt Mặt Trời Thái Dương.
.Núi Nghĩa Lĩnh là núi Hùng Vương.
.Đền có núi Lĩnh có biểu tượng là Nọc, dương và Hồ Thiên Nga dưới chân núi là Nòng, âm. Như thế Đền Quốc Tổ Hùng dựa trên nền móng nòng nọc, âm dương, lưỡng hợp.
.Âm dương hôn phối sinh ra Tứ Tượng: phía phải ngành dương có lăng Hùng Vương thứ 6 hình trụ vuông có một khuôn mặt biểu tượng cho tứ tượng. Lăng có 8 mái ứng vớ 8 tượng (4 tượng dương và 4 tượng âm), bát quái.
.Tứ Tượng dương và âm liên tác sinh ra vũ trụ, muôn loài, Tam thế. Đây chính là ba ngôi đền Thượng, Trung và Hạ biểu tượng cho Tam Thế.
.Tam thế được biểu tượng bằng Cây Tam Thế, Cây Vũ Trụ. Đây chính là hình ảnh Cây (Núi Nghĩa) Lĩnh với ba ngôi đền Tam Thế. Lĩnh Tam Thế = Cây Tam Thế. Cây thông cũng mang hình ảnh Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống).
. Trục Thế Giới: núi mang hình ảng Trục Thế Giới. Đền Giếng biểu tượng cho Trục Thế Giới.
Và ta cũng đã thấy các chi tiết khác của đền Quốc Tổ Hùng cũng đều chiếu theo âm dương, lưỡng hợp, theo Dịch Nòng Nọc.
Không còn gì để nói nữa, cấu trúc của đền Quốc Tổ Hùng ở Vĩnh Phú, Phú Thọ mang trọn vẹn ý nghĩa Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo, Việt Dịch Nòng Nọc dựa trên nòng nọc âm dương, trong đó có Đạo Thờ Cúng Vũ Trụ, Trời Đất, Tạo Hóa, Mặt Trời, Tổ Hùng, Tổ Tiên. Thờ cúng Tổ Hùng, Đấng Sinh Tạo, Tạo Hóa, Tổ Tiên, Ông Bà là một thứ đạo gốc của chúng ta. Bất cứ đạo giáo nào khác tới Việt Nam cũng đều phải chấp nhận đạo gốc thờ cúng này và phải lồng nó vào tôn giáo đó.
Vài điểm cần phải ghi tâm khi xấy cất đền thờ Tổ Hùng.
Muốn xây một ngôi đền Quốc Tổ, cần phải dựa theo âm dương, Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo, Dịch nòng nọc. Lý tưởng nhất là ta phải chọn một vùng đồi núi ở phía Đông mặt trời mọc để có thể xây được ba ngôi đền theo Tam Thế. Trong trường hợp không tìm được đất núi, xây đền trên đất bằng thì nên xây đền theo kiểu nhà sàn Tam Thế, bên trong đền phải xây theo kiến trúc Tam Thế gồm có ba bàn thờ cao thấp theo Tam Thế ở phía đông. Trên nóc có hình quả bầu âm dương biểu tượng cho Bọc Trứng Vũ Trụ Tổ Hùng. Tốt hơn là làm theo hình bọc trứng. Bàn thờ cao nhất ứng với Thượng Thế để hình tượng Tổ Hùng mang hình ảnh Đấng Tạo Hóa, Vũ Trụ, Mặt Trời-Không Gian. Phía sau tượng có hình Trứng Vũ Trụ hay mặt trời Tạo Hóa diễn tả bằng chữ viết nòng nọc “vòng tròn có chấm” hay mặt trời âm dương có hai loại tia sáng: tia sáng âm hình sóng lửa và tia sáng dương hình nọc lửa mũi mác. Phía trước để quả trứng hay bầu nậm âm dương sinh tạo, trống đồng Trứng Vũ Trụ Nguyễn Xuân Quang loại I, trống biểu của Tổ Hùng…
Bên phải (của người nhìn vào bàn thờ) là phía dương, ngành Lửa (ứng với phía có Lăng Hùng Vương thứ 6 và Đền Giếng) để những vật thờ của ngành dương như lọng dẹp hình đĩa mặt trời, cờ đuôi nheo (hình răng cưa, răng sói, hình tam giác) tức cờ nọc mũi mác của ngành dương, trống thời trống đồng Nguyễn Xuân Quang I…
Bên trái (của người nhìn vào bàn thờ) là phía âm, ngành Nước (ứng với phía có Hồ Lạc Long Quân, Cột Đá Thờ An Dương Vương) để những vật thờ của ngành âm như tàn hình ống có tua gió không gian, cờ vuông (hình vuông là dạng thái dương của vòng tròn âm), chuông hay cồng thờ…
Ở đây Thượng Thế có thể để những hình tượng chim biểu như chim Việt (cắt) ở bên phải, Rắn Nước Việt chim Nông Việt (bổ nông) ở bên trái và Cò Lang Việt ở giữa, phía dưới…
Phần thờ ở giữa ứng với Trung Thế thờ các vua Hùng Vương thế gian gồm cả hai ngành: ngành Hùng Kì (Kì Dương Vương) ở bên phải và ngành Hùng An (An Dương Vương) ở phía bên trái. Ở đây Trung Thế, các thú biểu phải là thú Việt bốn chân. Ở phía bên phải, phía dương, Lửa có thể có hình tượng thú biểu là con Cọc (Việt) tức hươu sừng, linh thú hóa thành con nghê, con Kì (lân). Ở bên trái với thú biểu là con Cá Sấu Việt (loài cá sấu gạc có mõm dao gharial. Sấu gạc là sấu Việt, một biểu tượng của dòng Lạc Long Quân, Sấu Lạc, sấu Việt linh thú hóa thành rồng Lạc, Dao Long (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).
Phần thờ dưới thấp nhất gồm hai phần: phần trên, nhìn theo diện tiểu vũ trụ là cõi nước thế gian và phần dưới nhìn theo đại vũ trụ là Hạ Thế.
Phần trên là cõi nước thế gian thờ khuôn mặt biển của Lạc Long Quân thế gian. Cũng có thể thờ luôn cả Mẹ Tổ Âu Cơ ở đây cùng chồng Lạc Long Quân như thấy qua truyền thuyết cho là Mẹ Tổ Âu Cơ sinh ra bọc trứng 100 Lang Hùng ở đền Hạ này.
Phần dưới ứng với Hạ Thế của Tam Thế là cõi âm, âm ty, nơi đây thờ khuôn mặt Long Vương, Diêm Vương của Lạc Long Quân ứng với khuôn mặt Cõi Âm thủy phủ ở Vịnh Hạ Long của Lạc Long Quân.
Nơi đây có thể để hình thuồng luồng có cốt là Rắn Nước hay hình rồng-rắn, rồng-nước, giao long, linh thú của Lạc Long Quân.
Phía ngoài đền nên có một cái ao hay hồ nước tròn ứng với Hồ Thiên Nga biểu tượng cho nòng âm và nên trồng một cây mang biểu tượng cho nọc dương và cũng là biểu tượng cho Cây Tam Thế, Cây Vũ Trụ, Cây Đời Sống.
Trên đây mới chỉ là những điểm căn bản mà thôi.
Tổng quát đền Quốc Tổ Hùng về cấu trúc và trang trí phải mang trọn vẹn ý nghĩa Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo và Việt Dịch Nòng Nọc, cốt lõi của văn hóa Việt.
Một lần nữa, ta thấy rõ như dưới ánh sáng mặt trời Việt hừng rạng, qua cấu trúc của Đền Quốc Tổ Hùng ở Vĩnh Phú, một biểu trưng của văn hóa Việt Nam, cái cốt lõi của văn hóa Việt là Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo, Mặt Trời giáo và Việt Dịch Nòng Nọc.
#14
Gửi vào 14/04/2013 - 15:45
Đưa ông bác sỹ này vào ban tư vấn cho đền là để hợp lý hóa cục đá này luôn !!
Phân tích 1 lá bùa (theo kiểu bác sỹ) được chia thành các phần như sau
- Con rắn cuộn tròn lại muốn cắn đuôi
- Lưỡng nghi - Nấm Vũ Trụ
- Thần Tổ Loài Người - Người chim mặt trời.
Mời mọi người xem lại 3 hình đặt gần nhau cho dễ thấy rõ:
Thứ tự từ trái sang phải
1 - Khai quang mao sơn phù chú tiêu tai miễn họa phù (Lá bùa đang rao bán đã trích dẫn bên trên)
2 - Bách Giải Tiêu Tai phù ( bùa giải tai ách trong mọi trường hợp) - Lê văn Lân
3 - Hình bùa trên cục đá.
Người không cần hiểu về bùa chú cũng hiểu rõ là: người vẽ hình bùa lên cục đá đã làm đúng lá bùa rồi còn gì.
Thanked by 1 Member:
|
|
#15
Gửi vào 14/04/2013 - 16:22
Bùa rồi chứ còn trang trí gì nữa
Trấn yêu ma thì được chứ Trấn quốc tổ vua Hùng thì không được
Thanked by 2 Members:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối |
---|
1 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:












