Không-Kiếp, Xương-Khúc an theo tháng sinh?
tripheo
09/03/2013
Hôm qua e lang thang đọc bài thì tìm được bài viết này trên facebook. Không thấy đề rõ tác giả nhưng e thấy có cái góc nhìn mới về KK và XK nên cop ra đây để mọi người tham khảo và cho ý kiến
Trích dẫn
1. Không Kiếp - Xương Khúc an theo giờ sinh hay tháng sinh?
Chắc ai cũng biết 4 sao trên an như thế nào khi học Tử Vi, nhưng bản thân tôi lại được chỉ một cách an khác không phải theo giờ sinh mà theo tháng sinh, cụ thể như sau:
Bộ Không Kiếp luôn đối xứng qua trục Tỵ Hợi, sao Địa Không được an như sau: sinh tháng 1 an Địa Không ở cung Tử Tức, sinh tháng 2 an ở cung Tài, sinh tháng 3 an ở cung Tật, sinh tháng 4 an ở cung Di, sinh tháng 5 an ở cung Nô, sinh tháng 6 an ở cung Quan, sinh tháng 7 an ở cung Điền, sinh tháng 8 an ở Phúc, sinh tháng 9 an ở Phụ, sinh tháng 10 an ở Mệnh, sinh tháng 11 an ở Huynh Đệ, sinh tháng 12 an ở Phu Thê. Từ vị trí của Địa Không lấy đối xứng qua trục Tỵ Hợi sẽ có sao Địa Kiếp.
An Không Kiếp theo như trên sẽ cho ra kết quả y hệt như cách an cũ, nhưng sẽ cho thấy một cái nhìn khác về Không Kiếp. Thật ra hai cách an là như nhau chỉ với suy luận toán học rất thuần túy. Nhưng qua đó tôi đã lĩnh ngộ ra rằng. Không Kiếp nó chính là sự biểu hiện của Lệnh Tháng trên lá số. Nếu như ai có nghiên cứu Tử Bình hay Bốc Dịch sẽ biết tầm quan trọng của Nguyệt Lệnh. Trái với Nguyệt Lệnh thì thì suy, được Nguyệt lệnh sinh phù thì vượng. Không Kiếp tượng cho sự vất vả, cực khổ, lúc nào cũng phải lo toan, nó đóng ở cung nào thì cung đó sẽ có sự khó khăn, vất vả, nếu đi kèm những sao xấu khác thì nó còn báo hiệu sự nguy hiểm đến tính mạng. Hai sao này khởi an từ cung Hợi, tức là nơi Thiên Môn, nếu ai biết Lục Nhâm chắc chắn sẽ biết sự quan trọng của cung này khi an vòng Quý Nhân. Như vậy từ cách an của Không Kiếp ta thấy được một cái gạch nối giữa Tử Vi-Tử Bình-Lục Nhâm. Phải chăng có một môn nào đó cao hơn 3 môn này bao trùm tất cả chăng? Có lẽ là Thái Ất.
2 - Bộ Xương Khúc
Tương tự như vậy, bộ Xương Khúc khởi từ hai cung Thìn Tuất và sao Văn Xương được an theo tháng sinh như sau: tháng 1 an ở cung Tài, tháng 2 an ở cung Tật, tháng 3 an ở cung Di, tháng 4 an ở cung nô, tháng 5 an ở cung Quan, tháng 6 an ở cung Điền, tháng 7 an ở cung Phúc, tháng 8 ở Phụ Mẫu, tháng 9 ở Mệnh, tháng 10 ở Huynh, tháng 11 ở Phu Thê, tháng 12 ở Tử Tức. Từ vị trí của Xương có thể dễ dàng an sao Khúc. Hãy tự kiểm nghiệm, các bạn sẽ thấy kết quả hoàn toàn y như cách an cũ.
Từ cách an cung Mệnh và các sao an theo giờ, tôi đã nghiệm ra các sao an theo giờ sinh tất cả đều có 1 phiên bản an theo tháng sinh và cho kết quả hoàn toàn tương tự như cách an cũ.
Như vậy thật ra mà nói trong Tử Vi quan trọng nhất chính là Nguyệt Lệnh, và Nhật chủ dùng để an 12 cung, 14 chính tinh và những phụ tinh quan trọng. Trong đó 12 cung và 14 chính tinh cần dùng đến Nhật chủ, Nguyệt Lệnh, Giờ Sinh và Thiên can của năm sinh. Còn những phụ tinh quan trọng an theo giờ sinh thật ra là những sao an theo tháng sinh như vậy nó chính là sự bổ sung cho thấy vai trò của Nguyệt Lệnh trong lá số.
Qua đó có thể thấy những môn lý học tưởng là dị biệt chẳng quan hệ gì với nhau nhưng nó lại có những gạch nối thật tài tình nếu quan sát và suy ngẫm kĩ lưỡng. Qua đó có thể chăng là một môn dự báo thống nhất bao trùm lên tất cả những môn này đã từng tồn tại? Chỉ là một câu hỏi dành cho suy ngẫm...
3. Trục Thìn Tuất, trục Tỵ Hợi và Không Kiếp
Ngày đông chí là ngày nhất dương sinh, ngày ngăn nhất, đêm dài nhất. Tượng cho vạn vật bắt đầu sinh sôi. Xác định đúng ngày đông chí là việc làm quan trọng nhất của Thiên quan khi xưa, vì vào ngày này Vua phải làm lễ tế Giao-là lễ tế lớn nhất trong năm.
Vào ngày đông chí thì Mặt Trời mọc lên từ cung Thìn, cho nên rồng mặt trời tượng cho Vua. Do ngày ngắn nhất cho nên mãi không sáng được, thành ra người xưa gọi đó là cung Thiên La tức là lưới trời giam giữ không cho mặt trời mọc.
Ngày Hạ chí là ngày nhất âm sinh, ngày dài nhất đêm ngắn nhất. Mặt Trời vào ngày này lặn ở cung Tuất, và mãi mới lặn được cho nên gọi cung Tuất là cung Địa Hộ hay Địa Võng.
Thiên La, Địa Hộ là nơi cổng trời, thiên thần thường hay đi về, được canh giữ ở hai vị hung thần là Thiên Khôi và Hà Canh. Khôi Canh ở đâu, quý nhân không đến, vì đấy là nơi hung hiểm nghiêng lệch của trời đất.
Thiên văn học hiện đại thì xác định trục Thìn Tuất chính là hoàng đạo.
Ngày / Năm là Giáp Kỷ thì Giờ /Tháng Thìn có can Mậu
Ngày / Năm là Ất Canh thì Giờ /Tháng Thìn có can Canh
Ngày / Năm là Bính Tân thì Giờ /Tháng Thìn có can Nhâm
Ngày /Năm là Đinh Nhâm thì Giờ /Tháng Thìn có can Giáp
Ngày /Năm là Mậu Quý thì Giờ /Tháng Thìn có can Bính
Cho nên có thể thấy Thìn chính là nơi hợp hóa trường sinh của Ngũ Hành, còn Tuất là nơi tuyệt. (Ngày /Nam là Giáp Kỷ thì Giờ /Tháng Tuất có can Giáp, các trường hợp khác cứ tương tự mà suy).
Trục Thìn Tuất là vậy, là nơi đi về của các thần, chắc vì vậy mà nó là nơi khởi đầu an cho rất nhiều tinh đẩu quan trọng trong Tử Vi.
Lệch xuống phía Bắc 18 độ so với Tuất là cung Hợi, nơi hoàn toàn u minh sau khi ngũ hành đã diệt, đó là nơi khởi hai sao Không Kiếp. Giờ Tý là nhất dương sinh, đến giờ Mão là Dương Minh, giờ Ngọ là nhất âm sinh, đến giờ Dậu là âm minh; cho nên vào 4 giờ này KK hoặc đồng cung hoặc xung chiếu để cho thấy sự nghiêng lệch về âm dương trong lá số. KK nếu nhìn theo cách an giờ sinh là vậy, còn nhìn theo cách an tháng sinh để thấy được sự trái ngược lệnh thang trên lá số ảnh hương mạnh ở cung nào, về lục thân thì ở đâu.
Lá số đã có Xương Khúc thì ko bao giờ có Không Kiếp. Những người có tứ trụ Thuần Dương thì Mệnh Tài Quan trong Tử Vi có đủ Xương Khúc Tả Hữu, Tứ Trụ thuần âm thì chỉ có KK mà không có Xương Khúc Tả Hữu. Tử Vi cho rằng THXK là cát, KK là hung; nhưng Tử Bình thì cho rằng thuần âm thuần dương đều là không tốt. Mâu thuẫn chăng??
Không mâu thuẫn, vì thật ra Tả Hữu, Không Kiếp, Xương Khúc nó cho biết sự vượng của lệnh tháng nghiêng hẳn về bên nào trong lá số tử vi, cho nên Tử Vi hay Tử Bình cần phải xem xét thật kỹ, Tả Hữu Xương Khúc chưa chắc đã cát, Không Kiếp chưa chắc đã hung. Quân bình âm dương chưa chắc đã cát, âm dương xô lệch chưa chắc đã hung.
Chắc ai cũng biết 4 sao trên an như thế nào khi học Tử Vi, nhưng bản thân tôi lại được chỉ một cách an khác không phải theo giờ sinh mà theo tháng sinh, cụ thể như sau:
Bộ Không Kiếp luôn đối xứng qua trục Tỵ Hợi, sao Địa Không được an như sau: sinh tháng 1 an Địa Không ở cung Tử Tức, sinh tháng 2 an ở cung Tài, sinh tháng 3 an ở cung Tật, sinh tháng 4 an ở cung Di, sinh tháng 5 an ở cung Nô, sinh tháng 6 an ở cung Quan, sinh tháng 7 an ở cung Điền, sinh tháng 8 an ở Phúc, sinh tháng 9 an ở Phụ, sinh tháng 10 an ở Mệnh, sinh tháng 11 an ở Huynh Đệ, sinh tháng 12 an ở Phu Thê. Từ vị trí của Địa Không lấy đối xứng qua trục Tỵ Hợi sẽ có sao Địa Kiếp.
An Không Kiếp theo như trên sẽ cho ra kết quả y hệt như cách an cũ, nhưng sẽ cho thấy một cái nhìn khác về Không Kiếp. Thật ra hai cách an là như nhau chỉ với suy luận toán học rất thuần túy. Nhưng qua đó tôi đã lĩnh ngộ ra rằng. Không Kiếp nó chính là sự biểu hiện của Lệnh Tháng trên lá số. Nếu như ai có nghiên cứu Tử Bình hay Bốc Dịch sẽ biết tầm quan trọng của Nguyệt Lệnh. Trái với Nguyệt Lệnh thì thì suy, được Nguyệt lệnh sinh phù thì vượng. Không Kiếp tượng cho sự vất vả, cực khổ, lúc nào cũng phải lo toan, nó đóng ở cung nào thì cung đó sẽ có sự khó khăn, vất vả, nếu đi kèm những sao xấu khác thì nó còn báo hiệu sự nguy hiểm đến tính mạng. Hai sao này khởi an từ cung Hợi, tức là nơi Thiên Môn, nếu ai biết Lục Nhâm chắc chắn sẽ biết sự quan trọng của cung này khi an vòng Quý Nhân. Như vậy từ cách an của Không Kiếp ta thấy được một cái gạch nối giữa Tử Vi-Tử Bình-Lục Nhâm. Phải chăng có một môn nào đó cao hơn 3 môn này bao trùm tất cả chăng? Có lẽ là Thái Ất.
2 - Bộ Xương Khúc
Tương tự như vậy, bộ Xương Khúc khởi từ hai cung Thìn Tuất và sao Văn Xương được an theo tháng sinh như sau: tháng 1 an ở cung Tài, tháng 2 an ở cung Tật, tháng 3 an ở cung Di, tháng 4 an ở cung nô, tháng 5 an ở cung Quan, tháng 6 an ở cung Điền, tháng 7 an ở cung Phúc, tháng 8 ở Phụ Mẫu, tháng 9 ở Mệnh, tháng 10 ở Huynh, tháng 11 ở Phu Thê, tháng 12 ở Tử Tức. Từ vị trí của Xương có thể dễ dàng an sao Khúc. Hãy tự kiểm nghiệm, các bạn sẽ thấy kết quả hoàn toàn y như cách an cũ.
Từ cách an cung Mệnh và các sao an theo giờ, tôi đã nghiệm ra các sao an theo giờ sinh tất cả đều có 1 phiên bản an theo tháng sinh và cho kết quả hoàn toàn tương tự như cách an cũ.
Như vậy thật ra mà nói trong Tử Vi quan trọng nhất chính là Nguyệt Lệnh, và Nhật chủ dùng để an 12 cung, 14 chính tinh và những phụ tinh quan trọng. Trong đó 12 cung và 14 chính tinh cần dùng đến Nhật chủ, Nguyệt Lệnh, Giờ Sinh và Thiên can của năm sinh. Còn những phụ tinh quan trọng an theo giờ sinh thật ra là những sao an theo tháng sinh như vậy nó chính là sự bổ sung cho thấy vai trò của Nguyệt Lệnh trong lá số.
Qua đó có thể thấy những môn lý học tưởng là dị biệt chẳng quan hệ gì với nhau nhưng nó lại có những gạch nối thật tài tình nếu quan sát và suy ngẫm kĩ lưỡng. Qua đó có thể chăng là một môn dự báo thống nhất bao trùm lên tất cả những môn này đã từng tồn tại? Chỉ là một câu hỏi dành cho suy ngẫm...
3. Trục Thìn Tuất, trục Tỵ Hợi và Không Kiếp
Ngày đông chí là ngày nhất dương sinh, ngày ngăn nhất, đêm dài nhất. Tượng cho vạn vật bắt đầu sinh sôi. Xác định đúng ngày đông chí là việc làm quan trọng nhất của Thiên quan khi xưa, vì vào ngày này Vua phải làm lễ tế Giao-là lễ tế lớn nhất trong năm.
Vào ngày đông chí thì Mặt Trời mọc lên từ cung Thìn, cho nên rồng mặt trời tượng cho Vua. Do ngày ngắn nhất cho nên mãi không sáng được, thành ra người xưa gọi đó là cung Thiên La tức là lưới trời giam giữ không cho mặt trời mọc.
Ngày Hạ chí là ngày nhất âm sinh, ngày dài nhất đêm ngắn nhất. Mặt Trời vào ngày này lặn ở cung Tuất, và mãi mới lặn được cho nên gọi cung Tuất là cung Địa Hộ hay Địa Võng.
Thiên La, Địa Hộ là nơi cổng trời, thiên thần thường hay đi về, được canh giữ ở hai vị hung thần là Thiên Khôi và Hà Canh. Khôi Canh ở đâu, quý nhân không đến, vì đấy là nơi hung hiểm nghiêng lệch của trời đất.
Thiên văn học hiện đại thì xác định trục Thìn Tuất chính là hoàng đạo.
Ngày / Năm là Giáp Kỷ thì Giờ /Tháng Thìn có can Mậu
Ngày / Năm là Ất Canh thì Giờ /Tháng Thìn có can Canh
Ngày / Năm là Bính Tân thì Giờ /Tháng Thìn có can Nhâm
Ngày /Năm là Đinh Nhâm thì Giờ /Tháng Thìn có can Giáp
Ngày /Năm là Mậu Quý thì Giờ /Tháng Thìn có can Bính
Cho nên có thể thấy Thìn chính là nơi hợp hóa trường sinh của Ngũ Hành, còn Tuất là nơi tuyệt. (Ngày /Nam là Giáp Kỷ thì Giờ /Tháng Tuất có can Giáp, các trường hợp khác cứ tương tự mà suy).
Trục Thìn Tuất là vậy, là nơi đi về của các thần, chắc vì vậy mà nó là nơi khởi đầu an cho rất nhiều tinh đẩu quan trọng trong Tử Vi.
Lệch xuống phía Bắc 18 độ so với Tuất là cung Hợi, nơi hoàn toàn u minh sau khi ngũ hành đã diệt, đó là nơi khởi hai sao Không Kiếp. Giờ Tý là nhất dương sinh, đến giờ Mão là Dương Minh, giờ Ngọ là nhất âm sinh, đến giờ Dậu là âm minh; cho nên vào 4 giờ này KK hoặc đồng cung hoặc xung chiếu để cho thấy sự nghiêng lệch về âm dương trong lá số. KK nếu nhìn theo cách an giờ sinh là vậy, còn nhìn theo cách an tháng sinh để thấy được sự trái ngược lệnh thang trên lá số ảnh hương mạnh ở cung nào, về lục thân thì ở đâu.
Lá số đã có Xương Khúc thì ko bao giờ có Không Kiếp. Những người có tứ trụ Thuần Dương thì Mệnh Tài Quan trong Tử Vi có đủ Xương Khúc Tả Hữu, Tứ Trụ thuần âm thì chỉ có KK mà không có Xương Khúc Tả Hữu. Tử Vi cho rằng THXK là cát, KK là hung; nhưng Tử Bình thì cho rằng thuần âm thuần dương đều là không tốt. Mâu thuẫn chăng??
Không mâu thuẫn, vì thật ra Tả Hữu, Không Kiếp, Xương Khúc nó cho biết sự vượng của lệnh tháng nghiêng hẳn về bên nào trong lá số tử vi, cho nên Tử Vi hay Tử Bình cần phải xem xét thật kỹ, Tả Hữu Xương Khúc chưa chắc đã cát, Không Kiếp chưa chắc đã hung. Quân bình âm dương chưa chắc đã cát, âm dương xô lệch chưa chắc đã hung.
PhotonBelt
09/03/2013
thì tháng và giờ có liên hệ muh , bất cứ ai sinh tháng 9 cũng có Văn Xương ở Mệnh , nhưng phải sinh vào giờ Tý-Ngọ-Mão-Dậu mới xó Xương ở Tứ Mộ , hoặc sinh vào giờ Mão-Dậu để có Xương-Khúc đồng cung ở Mệnh chỉ có ở người Thân cư Di
tripheo
09/03/2013
PhotonBelt, on 09/03/2013 - 12:51, said:
thì tháng và giờ có liên hệ muh , bất cứ ai sinh tháng 9 cũng có Văn Xương ở Mệnh , nhưng phải sinh vào giờ Tý-Ngọ-Mão-Dậu mới xó Xương ở Tứ Mộ , hoặc sinh vào giờ Mão-Dậu để có Xương-Khúc đồng cung ở Mệnh chỉ có ở người Thân cư Di
TuyenYD
09/03/2013
Chuyện không kiếp xương khúc an theo Tháng là dựa vào cách an Giờ sinh và cung Mệnh. Bản chất của nó là theo giờ. Dùng lệnh tháng để luận Xương Khúc với Không Kiếp thì bó tay rồi...
lethanhnhi
09/03/2013
Can, on 09/03/2013 - 15:11, said:
Chuyện không kiếp xương khúc an theo Tháng là dựa vào cách an Giờ sinh và cung Mệnh. Bản chất của nó là theo giờ. Dùng lệnh tháng để luận Xương Khúc với Không Kiếp thì bó tay rồi...
TuyenYD
09/03/2013
lethanhnhi, on 09/03/2013 - 16:05, said:
can, từ việc này có thể phát triển các kĩ thuật đặc dị, cần nghiên cứu, đừng chê nó em, đúng đấy
chẳng phải anh không thích nói lý thuyết mới sao. Chuyện nói Không kiếp xương khúc an theo tháng để dễ dàng trong việc luận đoán, và đỡ phải tính toán. có thể hiểu thêm về tính chất con người sinh vào các tháng khác nhau thì có những đặc điểm giống nhau. Nó cũng giống như chuyện 12 cung hoàng Đạo trong Tử vi thôi. Dùng tháng sinh còn chưa biết vị trí của Xương khúc không kiếp ở cung nào, sao mà quyết đoán được tốt xấu. Còn việc dùng lệnh tháng để nói về Không Kiếp Xương Khúc thì sao mà nói được, nó phải dùng giờ để giải thích. Dùng Quái khí để giải thích về Không Kiếp, Xương Khúc. Chứ không dùng lệnh tháng.
tripheo
09/03/2013
Can, on 09/03/2013 - 17:27, said:
chẳng phải anh không thích nói lý thuyết mới sao. Chuyện nói Không kiếp xương khúc an theo tháng để dễ dàng trong việc luận đoán, và đỡ phải tính toán. có thể hiểu thêm về tính chất con người sinh vào các tháng khác nhau thì có những đặc điểm giống nhau. Nó cũng giống như chuyện 12 cung hoàng Đạo trong Tử vi thôi. Dùng tháng sinh còn chưa biết vị trí của Xương khúc không kiếp ở cung nào, sao mà quyết đoán được tốt xấu. Còn việc dùng lệnh tháng để nói về Không Kiếp Xương Khúc thì sao mà nói được, nó phải dùng giờ để giải thích. Dùng Quái khí để giải thích về Không Kiếp, Xương Khúc. Chứ không dùng lệnh tháng.
badmouth
11/03/2013
Tiến sỹ Đằng Sơn viết về Xương, Khúc - Không, Kiếp như sau, xin phép bác Đằng Sơn tức VDTT, cháu xin trích 1 đoạn trong sách bác viết:
Đặc tính và biểu tượng của Không Kiếp
Theo các sách Tử Vi mà người viết đã được đọc qua thì nội bộ cặp Không Kiếp được phân ra thành Địa Kiếp dương, Địa Không âm. Lối phân chia này hiển nhiên đã lấy thời gian làm tiêu chuẩn vì trên địa bàn Kiếp vận hành thuận chiều thời gian, Không vận hành nghịch chiều thời gian.
Nhưng vì Văn Xương vận chuyển nghịch chiều thời gian mà đã được định là sao dương (của cặp Xương Khúc), nên dùng tiêu chuẩn thời gian để xác quyết Không âm, Kiếp dương thì có thể đã phạm đòi hỏi nhất quán của khoa học.
Để thỏa đòi hỏi nhất quán ta nhận xét rằng Không Kiếp được thêm vào bài toán tử vi để quân bình với Xương Khúc, nên muốn suy ra đặc tính của Không Kiếp, khởi điểm hợp lý nhất là cặp Xương Khúc.
Ta biết rằng hai trường hợp sau phải có một đúng và chỉ một đúng mà thôi:
Xương và Không có liên hệ phương vị cố định vì theo chiều thuận Xương Không luôn luôn ở 2 cung liên tiếp nhau; Khúc và Kiếp cũng có liên hệ phương vị cố định vì theo chiều thuận Khúc ở cung 1 thì Kiếp phải ở cung 8.
Cho nên, bằng cách so sánh liên hệ phương vị, ta kết hợp trường hợp 1 đúng; tức là Không là phản đề của Xương, và Kiếp là phản đề của Khúc.
Xương là sao dương của cặp Xương Khúc, có tượng là một thanh niên với nhiều ưu điểm như thông minh, nho nhã, thanh cao v.v... nên dễ được đời quý mến. Không là phản đề của Xương, nên tượng hiển nhiên của Không là một thanh niên nhiều khuyết điểm, như ngu độn, thô lỗ, hạ tiện v.v...
Khúc là sao âm của cặp Xương Khúc, có tượng là một thiếu nữ với nhiều ưu điểm như xinh đẹp, dịu dàng, quý phái v.v... nên dễ được đời yêu quý. Kiếp là phản đề của Khúc nên tượng hiển nhiên là một cô gái có nhiều điểm thua kém, như xấu xí, cục mịch, quê mùa v.v...
Trời sinh âm dương nữ nam khác biệt nên cùng "thiếu tiêu chuẩn" mà Không Kiếp có ý nghĩa khác nhau.
Chàng thanh niên ngu độn, thô lỗ, hạ tiện tất làm đâu sai đó; hoàn toàn phù hợp lời của sách xưa là Địa Không "tác sự hư không, bất thành chính đạo" (làm chuyện không đâu, chẳng đi đường đúng).
Địa Kiếp giống như cô gái bị "trời bắt xấu", rất khó giữ bình tĩnh; hoàn toàn phù hợp với lời của sách xưa là Địa Kiếp "tác sự sơ cuồng" (hành xử điên rồ). Cũng từ lý này, có thể hiểu tại sao sách xưa nói người có Địa Kiếp thủ mệnh tính hay ghen tị (như cô gái xấu ghen tị với các bạn đồng trang lứa).
Điểm lý thú là không phải Xương Khúc luôn luôn tốt hơn Không Kiếp (xem phụ lục II).
.....
Bàn rộng thêm về lý âm dương của Xương Khúc Không Kiếp
Có thể thấy rằng sinh tháng dương thì Xương Khúc ở cường cung, Không Kiếp ở nhược cung, sinh tháng âm ngược lại. Chi tiết hơn sinh tháng dương thuộc tam hợp hành hỏa (tức các tháng Dần 1, Ngọ 5 , Tuất 9) thì Xương cư trong tam hợp cung quan trọng nhất là Tài Quan Mệnh, sinh tháng dương thuộc tam hợp hành thủy (tức các tháng Thân 7, Tý 11, Thìn 3) thì Xương cư trong tam hợp cường cung thứ yếu là Phúc Phối Di. Nghĩa là trên lý tính thì tháng cũng như giờ, dương chính thường hơn âm (và vì vậy thường yên ổn, tốt đẹp hơn).
...
Xương Khúc: Kiến thức (dương và nghệ thuật (âm)
Xương Khúc là cặp sao tương đối chính thường nên cũng phụ giúp cho việc thành công, dù không rõ ràng như Tả Hữu.
Xương là sao dương nên ứng với kiến thức, thiên về lý trí, giúp cho ta dễ được người trọng vọng.
Khúc là sao âm nên ứng với nghệ thuật, thiên về cảm tính giúp ta dễ được người khác ưa thích.
...
Không Kiếp: Khác đời (dương) và ngược đời (âm)
Không Kiếp là phản đề phương vị của Xương Khúc.
Không là sao dương nên ngược lại Xương, ứng với khuynh hướng hành xử không phù hợp với những kiến thức có sẵn của xã hội. Nặng dễ bị người khác tưởng là không có kiến thức (bởi vậy có tên "Không"), nhẹ cũng bị coi là lập dị.
Kiếp là sao âm nên ngược lại với Khúc, cách hành xử thay vì được coi là dễ mến (như Khúc) lại bị coi là ngang ngược. Nặng thì bị coi là kẻ phá hoại (bởi vậy có tên "Kiếp"), nhẹ cũng bị coi là bất bình thường.
Khoa tử vi được phát triển trong thời phong kiến. Trong thời phong kiến im lặng tuân theo xã hội là thượng sách; nên có thể hiểu tại sao Không bị gán cho ý nghĩa "làm việc không đâu", Kiếp bị gán cho ý nghĩa "hành xử điên rồ"; đều rất xấu cả.
Đặc tính và biểu tượng của Không Kiếp
Theo các sách Tử Vi mà người viết đã được đọc qua thì nội bộ cặp Không Kiếp được phân ra thành Địa Kiếp dương, Địa Không âm. Lối phân chia này hiển nhiên đã lấy thời gian làm tiêu chuẩn vì trên địa bàn Kiếp vận hành thuận chiều thời gian, Không vận hành nghịch chiều thời gian.
Nhưng vì Văn Xương vận chuyển nghịch chiều thời gian mà đã được định là sao dương (của cặp Xương Khúc), nên dùng tiêu chuẩn thời gian để xác quyết Không âm, Kiếp dương thì có thể đã phạm đòi hỏi nhất quán của khoa học.
Để thỏa đòi hỏi nhất quán ta nhận xét rằng Không Kiếp được thêm vào bài toán tử vi để quân bình với Xương Khúc, nên muốn suy ra đặc tính của Không Kiếp, khởi điểm hợp lý nhất là cặp Xương Khúc.
Ta biết rằng hai trường hợp sau phải có một đúng và chỉ một đúng mà thôi:
- 1. Không là phản đề của Xương, và Kiếp là phản đề của Khúc.
- 2. Không là phản đề của Khúc, và Kiếp là phản đề của Xương.
Xương và Không có liên hệ phương vị cố định vì theo chiều thuận Xương Không luôn luôn ở 2 cung liên tiếp nhau; Khúc và Kiếp cũng có liên hệ phương vị cố định vì theo chiều thuận Khúc ở cung 1 thì Kiếp phải ở cung 8.
Cho nên, bằng cách so sánh liên hệ phương vị, ta kết hợp trường hợp 1 đúng; tức là Không là phản đề của Xương, và Kiếp là phản đề của Khúc.
Xương là sao dương của cặp Xương Khúc, có tượng là một thanh niên với nhiều ưu điểm như thông minh, nho nhã, thanh cao v.v... nên dễ được đời quý mến. Không là phản đề của Xương, nên tượng hiển nhiên của Không là một thanh niên nhiều khuyết điểm, như ngu độn, thô lỗ, hạ tiện v.v...
Khúc là sao âm của cặp Xương Khúc, có tượng là một thiếu nữ với nhiều ưu điểm như xinh đẹp, dịu dàng, quý phái v.v... nên dễ được đời yêu quý. Kiếp là phản đề của Khúc nên tượng hiển nhiên là một cô gái có nhiều điểm thua kém, như xấu xí, cục mịch, quê mùa v.v...
Trời sinh âm dương nữ nam khác biệt nên cùng "thiếu tiêu chuẩn" mà Không Kiếp có ý nghĩa khác nhau.
Chàng thanh niên ngu độn, thô lỗ, hạ tiện tất làm đâu sai đó; hoàn toàn phù hợp lời của sách xưa là Địa Không "tác sự hư không, bất thành chính đạo" (làm chuyện không đâu, chẳng đi đường đúng).
Địa Kiếp giống như cô gái bị "trời bắt xấu", rất khó giữ bình tĩnh; hoàn toàn phù hợp với lời của sách xưa là Địa Kiếp "tác sự sơ cuồng" (hành xử điên rồ). Cũng từ lý này, có thể hiểu tại sao sách xưa nói người có Địa Kiếp thủ mệnh tính hay ghen tị (như cô gái xấu ghen tị với các bạn đồng trang lứa).
Điểm lý thú là không phải Xương Khúc luôn luôn tốt hơn Không Kiếp (xem phụ lục II).
.....
Bàn rộng thêm về lý âm dương của Xương Khúc Không Kiếp
Có thể thấy rằng sinh tháng dương thì Xương Khúc ở cường cung, Không Kiếp ở nhược cung, sinh tháng âm ngược lại. Chi tiết hơn sinh tháng dương thuộc tam hợp hành hỏa (tức các tháng Dần 1, Ngọ 5 , Tuất 9) thì Xương cư trong tam hợp cung quan trọng nhất là Tài Quan Mệnh, sinh tháng dương thuộc tam hợp hành thủy (tức các tháng Thân 7, Tý 11, Thìn 3) thì Xương cư trong tam hợp cường cung thứ yếu là Phúc Phối Di. Nghĩa là trên lý tính thì tháng cũng như giờ, dương chính thường hơn âm (và vì vậy thường yên ổn, tốt đẹp hơn).
...
Xương Khúc: Kiến thức (dương và nghệ thuật (âm)
Xương Khúc là cặp sao tương đối chính thường nên cũng phụ giúp cho việc thành công, dù không rõ ràng như Tả Hữu.
Xương là sao dương nên ứng với kiến thức, thiên về lý trí, giúp cho ta dễ được người trọng vọng.
Khúc là sao âm nên ứng với nghệ thuật, thiên về cảm tính giúp ta dễ được người khác ưa thích.
...
Không Kiếp: Khác đời (dương) và ngược đời (âm)
Không Kiếp là phản đề phương vị của Xương Khúc.
Không là sao dương nên ngược lại Xương, ứng với khuynh hướng hành xử không phù hợp với những kiến thức có sẵn của xã hội. Nặng dễ bị người khác tưởng là không có kiến thức (bởi vậy có tên "Không"), nhẹ cũng bị coi là lập dị.
Kiếp là sao âm nên ngược lại với Khúc, cách hành xử thay vì được coi là dễ mến (như Khúc) lại bị coi là ngang ngược. Nặng thì bị coi là kẻ phá hoại (bởi vậy có tên "Kiếp"), nhẹ cũng bị coi là bất bình thường.
Khoa tử vi được phát triển trong thời phong kiến. Trong thời phong kiến im lặng tuân theo xã hội là thượng sách; nên có thể hiểu tại sao Không bị gán cho ý nghĩa "làm việc không đâu", Kiếp bị gán cho ý nghĩa "hành xử điên rồ"; đều rất xấu cả.
lethanhnhi
11/03/2013
Can, on 09/03/2013 - 17:27, said:
chẳng phải anh không thích nói lý thuyết mới sao. Chuyện nói Không kiếp xương khúc an theo tháng để dễ dàng trong việc luận đoán, và đỡ phải tính toán. có thể hiểu thêm về tính chất con người sinh vào các tháng khác nhau thì có những đặc điểm giống nhau. Nó cũng giống như chuyện 12 cung hoàng Đạo trong Tử vi thôi. Dùng tháng sinh còn chưa biết vị trí của Xương khúc không kiếp ở cung nào, sao mà quyết đoán được tốt xấu. Còn việc dùng lệnh tháng để nói về Không Kiếp Xương Khúc thì sao mà nói được, nó phải dùng giờ để giải thích. Dùng Quái khí để giải thích về Không Kiếp, Xương Khúc. Chứ không dùng lệnh tháng.
PhotonBelt
11/03/2013
xương khúc luôn có 4 vệ tinh là thai-cáo , quang-quý ( Tứ Vinh ) . Hẳn nhiên là phải tốt hơn không kiếp rồi .
Ngay cả Tả Hữu cũng chỉ có 3 sao vệ tinh Thai-Tọa-thiên giải .
nhưng xương khúc là tiêu biểu giờ , là tá tinh , phải tự nỗ lực . Còn tả-hữu là tháng , là trợ tinh , có được trợ lực
Sửa bởi PhotonBelt: 11/03/2013 - 10:43
Ngay cả Tả Hữu cũng chỉ có 3 sao vệ tinh Thai-Tọa-thiên giải .
nhưng xương khúc là tiêu biểu giờ , là tá tinh , phải tự nỗ lực . Còn tả-hữu là tháng , là trợ tinh , có được trợ lực
Sửa bởi PhotonBelt: 11/03/2013 - 10:43
TuyenYD
11/03/2013
PhotonBelt, on 11/03/2013 - 10:40, said:
xương khúc luôn có 4 vệ tinh là thai-cáo , quang-quý ( Tứ Vinh ) . Hẳn nhiên là phải tốt hơn không kiếp rồi .
Ngay cả Tả Hữu cũng chỉ có 3 sao vệ tinh Thai-Tọa-thiên giải .
nhưng xương khúc là tiêu biểu giờ , là tá tinh , phải tự nỗ lực . Còn tả-hữu là tháng , là trợ tinh , có được trợ lực
Ngay cả Tả Hữu cũng chỉ có 3 sao vệ tinh Thai-Tọa-thiên giải .
nhưng xương khúc là tiêu biểu giờ , là tá tinh , phải tự nỗ lực . Còn tả-hữu là tháng , là trợ tinh , có được trợ lực
hỏi bạn Xương Khúc Hóa kỵ là tốt hay xấu ?
Sửa bởi Can: 11/03/2013 - 16:48
Ha.Minh
12/03/2013
PhotonBelt
13/03/2013
nó tốt nhờ Dương-Lương Quyền , Cơ Lộc xung , Tướng Ấn bản cung . Chứ thằng Hóa Kỵ có gì hay ho đâu
tripheo
14/03/2013
Trích dẫn
Không-Kiếp là 2 sao nghiệp chướng hành hạ thế nhân , đi với giàn TPVT làm mất sự sang trọng của nó , đi với KHÔI VIỆT cũng làm cho quý nhân thành dạng dở ông dở thằng .
Người KK bản chất vốn ích kỷ , sẵn sàng làm những việc hèn hạ , cuộc sống từ nhỏ vốn vất vả hơn người thường , hay có những tư tưởng suy nghĩ đột phá và lạ lùng , hết sức đề phòng sự tử tế của người KK .
Địa Không : vạn sự hóa hư không
Địa Kiếp : kiếp nghiệp hành hạ
Chỉ khi nào may ra KK ở bản cung VCD thì còn đỡ , vì đánh vào VCD khác gì đánh vào khoảng không . Hoặc là KK đi cùng những cách tu hành thì còn đỡ , vì họ đã ngộ đạo và hiểu rõ con số 0 của cuộc đời .
Người KK bản chất vốn ích kỷ , sẵn sàng làm những việc hèn hạ , cuộc sống từ nhỏ vốn vất vả hơn người thường , hay có những tư tưởng suy nghĩ đột phá và lạ lùng , hết sức đề phòng sự tử tế của người KK .
Địa Không : vạn sự hóa hư không
Địa Kiếp : kiếp nghiệp hành hạ
Chỉ khi nào may ra KK ở bản cung VCD thì còn đỡ , vì đánh vào VCD khác gì đánh vào khoảng không . Hoặc là KK đi cùng những cách tu hành thì còn đỡ , vì họ đã ngộ đạo và hiểu rõ con số 0 của cuộc đời .
Sửa bởi tripheo: 14/03/2013 - 00:06