Ân quang và Thiên quý
Ngu Yên
05/02/2018
Có lẽ khôi Việt không giải họa lục sát tinh được , nhưng có thể vẫn phần nào phát huy như trong Tử vi Đâu" số Toàn Thư có anh Quách Ngọc Bội dịch ra , file ghim lại trong mục Tử Vi này
* Khôi Việt thuộc Hỏa, tức Thiên Ất quý nhân. Nếu Thân Mệnh mà gặp được, lại thêm chư cát tinh cùng đến ở tam phương tứ chính tất sẽ đăng khoa đỗ đạt ngay từ thuở thiếu niên. Gặp hung tinh Kị tinh thì không phải là văn chương tú sĩ, có thể là đệ tử của danh sư. Hạn mà gặp thì chủ thanh cao, công danh được thành tựu. Đại khái các sao ấy nếu mà Thân Mệnh gặp được thì dẫu chẳng phú quý cũng thông minh và là người đẹp đẽ, có oai phong khiến người khác nể phục, có dáng dấp hình mẫu.
Nữ mệnh mà gặp lại có nhiều cát tinh thì làm vợ, làm dâu nhà Tể Tướng, gặp hung sát tinh thì vẫn được phú quý.
Khôi Việt nhập mệnh hạn cát hung quyết:
Khôi Việt Mệnh Thân hạn ngộ xương,
Thường nhân đắc thử túc tiền lương,
Quan viên ngộ thử cao thiên trạc,
Tất định đương niên diện đế vương.
(Mệnh Thân Khôi Việt gặp cát tường
Thường thứ dân phùng đẫy tiền lương
Quan chức gặp thì thăng tiến chóng
Ngay trong năm ấy gặp Đế vương).
* Khôi Việt thuộc Hỏa, tức Thiên Ất quý nhân. Nếu Thân Mệnh mà gặp được, lại thêm chư cát tinh cùng đến ở tam phương tứ chính tất sẽ đăng khoa đỗ đạt ngay từ thuở thiếu niên. Gặp hung tinh Kị tinh thì không phải là văn chương tú sĩ, có thể là đệ tử của danh sư. Hạn mà gặp thì chủ thanh cao, công danh được thành tựu. Đại khái các sao ấy nếu mà Thân Mệnh gặp được thì dẫu chẳng phú quý cũng thông minh và là người đẹp đẽ, có oai phong khiến người khác nể phục, có dáng dấp hình mẫu.
Nữ mệnh mà gặp lại có nhiều cát tinh thì làm vợ, làm dâu nhà Tể Tướng, gặp hung sát tinh thì vẫn được phú quý.
Khôi Việt nhập mệnh hạn cát hung quyết:
Khôi Việt Mệnh Thân hạn ngộ xương,
Thường nhân đắc thử túc tiền lương,
Quan viên ngộ thử cao thiên trạc,
Tất định đương niên diện đế vương.
(Mệnh Thân Khôi Việt gặp cát tường
Thường thứ dân phùng đẫy tiền lương
Quan chức gặp thì thăng tiến chóng
Ngay trong năm ấy gặp Đế vương).
Read more: http://tuvilyso.org/...5#ixzz56Dlf3prn
TuViLySo.Org
V.E.DAY
05/02/2018
minhminh, on 05/02/2018 - 15:50, said:
Khoa khôi xuong khúc tấu hồng
Trai tận cửu trùng gái tắc giai phi
Trai tận cửu trùng gái tắc giai phi
" Khoa khôi xuong khúc tấu hồng
Trai tận cửu trùng gái tắc giai phi."
Đúng. Nhưng một sao trong bộ này mà lạc cách thì sẽ lận đận về đường hôn nhân : sao Hồng Loan !
Hồng loan cư mệnh, Nam chủ tiểu khắc , Nữ chủ nhị phu.
( tôi đã thấy rất nhiều cặp bị gẫy gánh giữa chừng từ sau 75, ở đảo, và kể cả sau khi định cư, là nam hay nữ thì đều có Hồng Loan cư mệnh ! trai hai vợ, gái lập gia đình hai lần.)
( là nam thì khắc vợ - vợ mất sớm, li dị sớm và có vợ lần thứ 2 )
Sửa bởi V.E.DAY: 05/02/2018 - 16:14
xiuhac
05/02/2018
anhhungxadieu
05/02/2018
V.E.DAY, on 05/02/2018 - 08:32, said:
Quang, Quý là phúc tinh, chủ sự cứu giúp, cụ thể là ân nhân, người lớn chức, lớn quyền hay lớn tuổi hơn đương số giúp đỡ khi đương số bị hoạn nạn.
Quang, Quý giải được tính chất xấu của cặp Không-Kiếp, giải được sát tính của Hỏa, Linh, Kình, Đà và Thất sát
Quang, Quý giải được tính chất xấu của cặp Không-Kiếp, giải được sát tính của Hỏa, Linh, Kình, Đà và Thất sát
không hiểu tại sao,lại hiện lên quẻ Thuần Khôn ( quẻ đẹp thứ nhì Kinh Dịch).Thuần Khôn tượng quẻ là Đất.Đức quẻ là Thuận ( Thuận lợi,hiền từ).Lời tượng:Cái thể lực của trái đất (dày,thuận,bao dung) tượng trưng cho đạo Khôn.Người quân tử xem quẻ này mà lập Đức cho dày,để bao dung,chở ( chứa,tải) mọi vật.Quẻ này đề cao đức độ,bao dung,rất hợp ý nghĩa sao Ân quang,Thiên Quý.
Sửa bởi anhhungxadieu: 05/02/2018 - 17:38
V.E.DAY
05/02/2018
Muốn hiểu rõ tính chất của Quang Quý phải xuất phát từ Thiên văn và Thiên tượng, từ căn cứ này mới giải thích được :
- Tại sao an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc ( mà Xương Khúc lại là biểu tượng của cây nêu, cây biểu can dùng để đo bóng mặt trời )
- Rồi từ đó mới thấy rõ tính chất ngũ hành của cặp sao này. ( Ân quang hành hỏa, Thiên Quý hành thủy )
Người xưa căn cứ vào bóng của mặt trời để tìm ra độ dài của :
- bình minh là khoảng thời gian mặt trời chưa lên khỏi mặt đất nhưng trên bầu trời đã có ánh sáng.
- hoàng hôn là khoảng thời gian mặt trời đã lặn xuống dưới mặt đất nhưng trên bầu trời vẫn còn ánh sáng.
Cho nên an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc.
Và không có lý do gì để nói Ân quang là hành mộc hay thổ ! Ân quang hành hỏa.
Còn Thiên quý liên quan đến mặt trăng. Thiên Quý hành thủy. Người có Quang Quý thủ mệnh phải khẳng định chắc chắn là NGƯỜI CÓ TỪ TÂM.
Chính vì vậy Quang Quý mới hóa giải được sát tính của Tứ Sát.
- Tại sao an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc ( mà Xương Khúc lại là biểu tượng của cây nêu, cây biểu can dùng để đo bóng mặt trời )
- Rồi từ đó mới thấy rõ tính chất ngũ hành của cặp sao này. ( Ân quang hành hỏa, Thiên Quý hành thủy )
Người xưa căn cứ vào bóng của mặt trời để tìm ra độ dài của :
- bình minh là khoảng thời gian mặt trời chưa lên khỏi mặt đất nhưng trên bầu trời đã có ánh sáng.
- hoàng hôn là khoảng thời gian mặt trời đã lặn xuống dưới mặt đất nhưng trên bầu trời vẫn còn ánh sáng.
Cho nên an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc.
Và không có lý do gì để nói Ân quang là hành mộc hay thổ ! Ân quang hành hỏa.
Còn Thiên quý liên quan đến mặt trăng. Thiên Quý hành thủy. Người có Quang Quý thủ mệnh phải khẳng định chắc chắn là NGƯỜI CÓ TỪ TÂM.
Chính vì vậy Quang Quý mới hóa giải được sát tính của Tứ Sát.
CaspianPrince
05/02/2018
V.E.DAY, on 05/02/2018 - 18:31, said:
Muốn hiểu rõ tính chất của Quang Quý phải xuất phát từ Thiên văn và Thiên tượng, từ căn cứ này mới giải thích được :
- Tại sao an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc ( mà Xương Khúc lại là biểu tượng của cây nêu, cây biểu can dùng để đo bóng mặt trời )
- Rồi từ đó mới thấy rõ tính chất ngũ hành của cặp sao này. ( Ân quang hành hỏa, Thiên Quý hành thủy )
Người xưa căn cứ vào bóng của mặt trời để tìm ra độ dài của :
- bình minh là khoảng thời gian mặt trời chưa lên khỏi mặt đất nhưng trên bầu trời đã có ánh sáng.
- hoàng hôn là khoảng thời gian mặt trời đã lặn xuống dưới mặt đất nhưng trên bầu trời vẫn còn ánh sáng.
Cho nên an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc.
Và không có lý do gì để nói Ân quang là hành mộc hay thổ ! Ân quang hành hỏa.
Còn Thiên quý liên quan đến mặt trăng. Thiên Quý hành thủy. Người có Quang Quý thủ mệnh phải khẳng định chắc chắn là NGƯỜI CÓ TỪ TÂM.
Chính vì vậy Quang Quý mới hóa giải được sát tính của Tứ Sát.
- Tại sao an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc ( mà Xương Khúc lại là biểu tượng của cây nêu, cây biểu can dùng để đo bóng mặt trời )
- Rồi từ đó mới thấy rõ tính chất ngũ hành của cặp sao này. ( Ân quang hành hỏa, Thiên Quý hành thủy )
Người xưa căn cứ vào bóng của mặt trời để tìm ra độ dài của :
- bình minh là khoảng thời gian mặt trời chưa lên khỏi mặt đất nhưng trên bầu trời đã có ánh sáng.
- hoàng hôn là khoảng thời gian mặt trời đã lặn xuống dưới mặt đất nhưng trên bầu trời vẫn còn ánh sáng.
Cho nên an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc.
Và không có lý do gì để nói Ân quang là hành mộc hay thổ ! Ân quang hành hỏa.
Còn Thiên quý liên quan đến mặt trăng. Thiên Quý hành thủy. Người có Quang Quý thủ mệnh phải khẳng định chắc chắn là NGƯỜI CÓ TỪ TÂM.
Chính vì vậy Quang Quý mới hóa giải được sát tính của Tứ Sát.
Chào bác V.E. Day, cháu xin hỏi bác về cung, tinh, cũng như nhận định "Người có Quang Quý thủ mệnh phải khẳng định chắc chắn là NGƯỜI CÓ TỪ TÂM".
Xem người xưa lập thuyết thì cung có trước, tinh có sau.
Cung: niên can -> nguyệt can -> nạp âm của cung thiên bàn; sau đó thì số ngày + nhật can -> thời can -> âm dương trị số (tới cực/chưa tới cực) của cung thiên bàn.
Tinh:
niên can + nguyệt chi + số ngày + thời chi -> chính tinh
Còn đối với Quang Quý thì đơn giản là: nguyệt chi + số ngày + thời chi
Bất luận là dựa theo tiêu chuẩn trước/sau, nhiều tham số/ít tham số, hay can/chi, thì ta thấy rõ ràng Cung > chính tinh > phụ tinh. Dấu ">" không phải là lớn về kích thước mà thể hiện phần đại cục, phần thống suất, chỉ huy.
Nói nôm na xem mệnh tốt xấu hay lớn nhỏ trước tiên phải xem bố cục của vòng Thái Tuế, Lộc Tồn, Trường Sinh và trị số âm dương của các cung so với vị trí của Mệnh-Thân, Tài, Quan, Phúc ra sao.
Lại nói, không biết người xưa phân biệt THIÊN Tính, Tâm ĐỊA, NHÂN Cách là vì cớ làm sao? Hay chăng chỉ cần xem 2 sao Quang Quý là đủ.
V.E.DAY
05/02/2018
Nhắc lại chuyện hồi xưa một chút. Cách nay gần 10 năm, năm 2007 cũng là dịp gần tết Âm lịch năm Đinh Hợi, một ý độc hại từ phương bắc lan truyền rằng năm Đinh Hợi là năm heo vàng, sinh con năm Đinh Hợi số rất tốt !!!
Hồi đó tôi đã cố công giải thích rằng đó là một ý tưởng sai lầm. Nhưng hoài công vô ích. Và có người còn "phản biện" rằng :
- Bộ bên Trung quốc họ ngu hết hay sao mà họ không lên tiếng ( nguyên văn )
Để rồi vài năm sau trên báo đăng hình ảnh cho thấy phụ huynh xếp hàng xin cho con đi học phải xếp hàng từ 2, 3 giờ sáng, xô đổ cả cổng trường, con nít bị ốm nằm la liệt trong bịnh viện, nằm chen chúc như xếp cá mòi trên giường !
Vì đâu xẩy ra tình trạnh như thế ?
À thì ra đồng loạt sinh vào năm heo vàng nên mới xẩy ra tình cảnh như thế.
Trải qua chuyện đó, từ đó tôi tự rút ra một kinh nghiệm cho bản thân là điều gì cần thiết và đối tượng mà mình nhìn thấy có thể giúp được tôi sẽ lên tiếng.
Còn lại XIN MIỄN TRẢ LỜI.
Hồi đó tôi đã cố công giải thích rằng đó là một ý tưởng sai lầm. Nhưng hoài công vô ích. Và có người còn "phản biện" rằng :
- Bộ bên Trung quốc họ ngu hết hay sao mà họ không lên tiếng ( nguyên văn )
Để rồi vài năm sau trên báo đăng hình ảnh cho thấy phụ huynh xếp hàng xin cho con đi học phải xếp hàng từ 2, 3 giờ sáng, xô đổ cả cổng trường, con nít bị ốm nằm la liệt trong bịnh viện, nằm chen chúc như xếp cá mòi trên giường !
Vì đâu xẩy ra tình trạnh như thế ?
À thì ra đồng loạt sinh vào năm heo vàng nên mới xẩy ra tình cảnh như thế.
Trải qua chuyện đó, từ đó tôi tự rút ra một kinh nghiệm cho bản thân là điều gì cần thiết và đối tượng mà mình nhìn thấy có thể giúp được tôi sẽ lên tiếng.
Còn lại XIN MIỄN TRẢ LỜI.
anhhungxadieu
05/02/2018
V.E.DAY, on 05/02/2018 - 18:31, said:
Muốn hiểu rõ tính chất của Quang Quý phải xuất phát từ Thiên văn và Thiên tượng, từ căn cứ này mới giải thích được :
- Tại sao an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc ( mà Xương Khúc lại là biểu tượng của cây nêu, cây biểu can dùng để đo bóng mặt trời )
- Rồi từ đó mới thấy rõ tính chất ngũ hành của cặp sao này. ( Ân quang hành hỏa, Thiên Quý hành thủy )
Người xưa căn cứ vào bóng của mặt trời để tìm ra độ dài của :
- bình minh là khoảng thời gian mặt trời chưa lên khỏi mặt đất nhưng trên bầu trời đã có ánh sáng.
- hoàng hôn là khoảng thời gian mặt trời đã lặn xuống dưới mặt đất nhưng trên bầu trời vẫn còn ánh sáng.
Cho nên an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc.
Và không có lý do gì để nói Ân quang là hành mộc hay thổ ! Ân quang hành hỏa.
Còn Thiên quý liên quan đến mặt trăng. Thiên Quý hành thủy. Người có Quang Quý thủ mệnh phải khẳng định chắc chắn là NGƯỜI CÓ TỪ TÂM.
Chính vì vậy Quang Quý mới hóa giải được sát tính của Tứ Sát.
- Tại sao an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc ( mà Xương Khúc lại là biểu tượng của cây nêu, cây biểu can dùng để đo bóng mặt trời )
- Rồi từ đó mới thấy rõ tính chất ngũ hành của cặp sao này. ( Ân quang hành hỏa, Thiên Quý hành thủy )
Người xưa căn cứ vào bóng của mặt trời để tìm ra độ dài của :
- bình minh là khoảng thời gian mặt trời chưa lên khỏi mặt đất nhưng trên bầu trời đã có ánh sáng.
- hoàng hôn là khoảng thời gian mặt trời đã lặn xuống dưới mặt đất nhưng trên bầu trời vẫn còn ánh sáng.
Cho nên an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc.
Và không có lý do gì để nói Ân quang là hành mộc hay thổ ! Ân quang hành hỏa.
Còn Thiên quý liên quan đến mặt trăng. Thiên Quý hành thủy. Người có Quang Quý thủ mệnh phải khẳng định chắc chắn là NGƯỜI CÓ TỪ TÂM.
Chính vì vậy Quang Quý mới hóa giải được sát tính của Tứ Sát.
anhhungxadieu
06/02/2018
GiangLong, on 30/01/2013 - 00:46, said:
Ân Quang an theo Văn Xương, Thiên Quý an theo Văn Khúc. Như vậy Quang Quý chính là hai vệ tinh của Xương Khúc. Tuy nhiên, Xương Khúc an theo giờ, Quang Quý an theo ngày. Ngày bao hàm giờ, cho nên Quang Quý uy lực hơn hẳn Thai Tọa (vốn thuần túy chỉ là sự tô điềm thêm cho Tả Hữu). Xương Khúc nếu có thêm Quang Quý nữa thì rất tốt, chế ngự được tính dâm hay thay đổi của Xương. Làm cho cặp Xương Khúc phát huy thêm tác dụng.
Theo lời huynh Độc Họat: Ân chính là Ân điển của vua ban, Quý chính là bảo vật. Cho nên Ân Quang mới chính là cái lợi ích thiết thực, sự cứu giải lớn. Thiên Quý là nhỏ. Quang có hiệu lực mạnh hơn Quý.
Hai sao này nếu thủ mệnh hoặc chiếu về Mệnh (tam hợp chiếu khi mệnh ở cung Âm , 1 tam hợp chiếu 1 xung chiếu nếu Mệnh ở cung Dương, Quang Quý đồng cung Sửu Mùi) thì cả đời may mắn, thóat khỏi tai họa dễ dàng, luôn có sự giúp đỡ của người trên, mạnh nhất là khi đồng cung ở Sửu Mùi. Hai sao này (ví dụ 1 ở Quan Lộc, 1 ở Tài bạch chiếu về, hoặc 1 ở QUan Lộc 1 ở Thiên Di chiếu về Mệnh) cũng có tác dụng giải ách mạnh mẽ, nó làm cho Tuần Triệt đóng tại Mệnh Thân bị giảm tác dụng phá họai rất nhiều.
Ân Quang Thiên Quý đồng cung Sửu Mùi thời Tuần Triệt không còn tác dụng nữa, chỉ là sự cản trở nho nhỏ chẳng đáng kể. Cho nên tôi có kinh nghiệm, Mệnh có Tuần Triệt chưa chắc thiếu niên tân khổ đâu, nếu có cặp Quang Quý này thủ Mệnh hoặc từ Quan, Di ,Tài chiếu về Mệnh thời Tuần Triệt chỉ còn là cái bề ngòai chỉ còn gây tác hại nho nhỏ thôi. Lưu ý là phải có đủ cả Quang Quý tại các cung trên chiếu về Mệnh hoặc thủ Mệnh thì mới ngăn cản Tuần Triệt mạnh được, chứ một sao thì tác dụng giảm đi nhiều.
Ân Quang Thiên Quý không sợ Lục Sát Tinh. Nó giải được phần nào Không Kiếp , khi đi đủ bộ tại Sửu Mùi thì giải được mạnh hơn. Nói chung Mệnh Thân Quan Di Tài Phúc Phối nều có Sát Tinh hãm địa nhưng lại có Quang Quý hội họp chiếu về cũng không nên lo lắng lắm, cái hung hãn bị giải nhiều.
Quang Quý làm cho cặp Hình Riêu mất đi tính hung hãn và dâm ác, trở nên từ hòa hơn, bớt gây tác hại. Quang Quý đi thêm Thiên Quan Thiên Phúc nói như anh Đỗ Thanh Dũng đúng là gần như bất khả xâm phạm, các Sát Tinh đóng ở mệnh hay hạn gần như không gây họa lớn được mà chỉ làm cản trở phá họai vừa phải thôi.
Hai sao này đóng ở đâu giáng phúc ở đấy, là hai sao rất đáng quý của Tử Vi.
Bổ sung thêm 1 ý là Tuần Triệt làm giảm tác dụng của Quang Quý về thời gian tác dụng của hai sao này . Cụ thể nếu Quang Quý gặp Tuần Triệt thì khoảng thời gian về sau (trung hậu vận, giữa hạn..) mới cảm thấy rõ rệt tác dụng của Quang Quý, nhưng tác dụng của Quang Quý rất bền vững, càng về sau càng tốt đẹp.
Các bạn chắc hầu hết đã từng đặt câu hỏi, Quang Quý Thai Toạ có những liên hệ gì đó rất mật thiết với Xương Khúc Tả Hữu nên chúng mới an theo nhau. Có Xương Khúc rồi mới có Quang Quý: an xương khúc theo giờ, sau đó thêm vào ngày sinh để an Quang Quý. Có Tả Hữu (an theo tháng) rồi mới có Thai Toạ. Trong đó ta biết Xương Khúc là biểu trưng cho sách vở, tình cảm, tư duy bắt nguồn học vấn, trí thức học hiểu , Tả Hữu là biểu trưng cho sự giúp đỡ của người đời với ta (hoặc của ta với người đời) . Trong Tử Vi, rất sao quan trọng đều có hoá khí: Thiên Tướng hoá khí là ấn, Đà hoá Kỵ, Kình hoá Hình... Vậy nhưng chưa từng nói tới Hoá Khí của Tả Hữu Xương Khúc. Thực tế Quang Quý, Thai Toạ có thể coi như Hoá Khí của Xương Khúc tả hữu.
- Quang Quý là tình cảm, may mắn, vui vẻ, sự thuỷ chung, lòng tín ngưỡng, sự trợ giúp Vô Hình. Nó bắt nguồn từ đâu, chính là từ Xương Khúc mà ra. Nói theo thuyết nghiệp báo nhà Phật thì phải từ học hỏi, tư duy (Xương Khúc) người ta mới đi tới hành động, phát sinh tình cảm. Từ tư duy hiểu biết đứng đắn mà phát sinh tâm tư hành động và ta thụ hưởng nhân quả của hành động hay tư tưởng một phần qua Quang Quý. Hai quý khí này gặp Thổ thì tụ khí rất mạnh, như vậy tại Sửu Mùi Thìn Tuất là miếu vượng, tại đây Quang Quý phát sinh huệ (trí tuệ theo Đạo Phật) do vậy người có Mệnh hoặc Thân ở tứ mộ được Quang Quý hội tụ là cực kỳ tốt.
---suu tam----
Ân Quang thuộc Mộc , Thiên Quí thuộc Thổ.
Đây là hai sao phúc tinh, quí tinh, chủ sự nhân hậu, từ thiện, may mắn, gặp thời, đem lại sự tốt lành, có tính chất cứu khổn phò nguy, giải trừ bệnh tật tai họa, đem lại phúc thọ, chế hóa được tính dâm đãng hoa nguyệt của Đào Hồng, gặp sao hung cũng không có hại. Hai sao này biểu hiện sự giúp đỡ của đấng linh thiêng, khác với Tả Hữu là sự giúp đỡ của người đời
Hai sao này được an căn cứ vào Xương Khúc, Ân Quang được an căn cứ vào vị trí Văn Xương, Thiên Quí được an căn cứ vào vị trí của Văn Khúc. Hai sao này xung chiếu với nhau ở Thìn Tuất, đồng cung với nhau ở Sửu Mùi, tam hợp chiếu với nhau ở Mão Dậu Tỵ Hợi, và đứng riêng lẻ với nhau không thành bộ ở Tí Ngọ Dần Thân và chỉ có cung Thổ là Sửu Mùi mới có cách giáp Quang giáp Quí. Sách vở chỉ nói Ân Quang Thiên Quí miếu địa tại hai cung Sửu Mùi nhưng theo kinh nghiệm thì tại Tứ Mộ hai sao này rất mạnh mẽ và có tác dụng cứu giải ngay cả các hung tinh hạng nặng như Địa Không, Địa Kiếp đóng đồng cung. Nếu không gặp hung thì sao này lại chủ về may mắn. Có người còn cho rằng hai sao này vượng ở Sửu Mùi, đắc tại Mão Dậu.
Sụ giải họa của Quang Quí
Quang Quí giải họa rất mạnh mẽ khi thủ tại cung đó và đi đủ bộ, nhất là tại Thìn Tuất Sửu Mùi càng mạnh mẽ. Đơn thủ hoặc có cả bộ chiếu không sao thủ thì hiệu lực yếu đi nhiều. Còn cách giáp Quang giáp Quí thì hầu như không có tác động giải họa mấy khi trong cung có hung tinh hãm địa thủ. Không Kiếp có tác dụng giải họa gây ra bơi các sát tinh hạng nặng như Không Kiếp Kình Đà Hỏa Linh Hình Riêu, nhưng không có hiệu lực mấy khi giải cách hai đời chồng hoặc vợ gây ra do các yếu tố không phải do hung tinh tác họa như cách Tả Hữu tại Phu Thê thì không giải hết được và vẫn có khả năng hai đời. Quang Quí cũng không giải mạnh được chuyện thị phi do Tuế Đà Kỵ gây ra.
Tại vị trí Sửu Mùi thì nó có khả năng giải được hung tinh tọa thủ tại cung nhị hợp là Tí và Ngọ. Tại Thìn Tuất gặp Không hay Kiếp đồng cung hoặc hợp chiếu thì Quang Quí tại đây giải hầu hết tai họa, không phải lo ngại về tai họa vì tai họa không đáng kể. Trường hợp này có Kình Đà hãm địa cùng chiếu về cũng không sao. Nếu có Không Hoặc Kiếp mà thêm Hinh Riêu cả bộ thì cũng giảm rất nhiều tai họa nhưng cũng không hết. Quang Quí tam hợp thủ tại cung thì Không Kiếp hãm địa cả bộ chiếu thủ cũng không đáng ngại vì tai họa không đáng kể. Quang Quí thủ có đủ bộ giải được cả bộ Kình Đà hãm chiếu về, hoặc Kình hoặc Đà hãm tọa thủ, giải đươc Kình Dương hãm địa tại Tí Ngọ Mão Dậu
Ân Quang Thiên Quí đồng cung giải được Hình Riêu Không Kiếp đủ bộ thủ chiếu
Quang Quí đơn thủ không giải họa mạnh được, không giải được Kình cư Ngọ có Hình Riêu tam hợp. Quang Quí đồng cung, vừa nhị hợp vừa giáp thì giải họa rất nhiều cho cung này, giải được Không hoặc Kiếp tọa thủ. Quang Quí đơn thủ gặp Không, Kiếp hãm đồng cung thì giải nhiều nhưng không hết tai họa.
---suu tam---
Theo lời huynh Độc Họat: Ân chính là Ân điển của vua ban, Quý chính là bảo vật. Cho nên Ân Quang mới chính là cái lợi ích thiết thực, sự cứu giải lớn. Thiên Quý là nhỏ. Quang có hiệu lực mạnh hơn Quý.
Hai sao này nếu thủ mệnh hoặc chiếu về Mệnh (tam hợp chiếu khi mệnh ở cung Âm , 1 tam hợp chiếu 1 xung chiếu nếu Mệnh ở cung Dương, Quang Quý đồng cung Sửu Mùi) thì cả đời may mắn, thóat khỏi tai họa dễ dàng, luôn có sự giúp đỡ của người trên, mạnh nhất là khi đồng cung ở Sửu Mùi. Hai sao này (ví dụ 1 ở Quan Lộc, 1 ở Tài bạch chiếu về, hoặc 1 ở QUan Lộc 1 ở Thiên Di chiếu về Mệnh) cũng có tác dụng giải ách mạnh mẽ, nó làm cho Tuần Triệt đóng tại Mệnh Thân bị giảm tác dụng phá họai rất nhiều.
Ân Quang Thiên Quý đồng cung Sửu Mùi thời Tuần Triệt không còn tác dụng nữa, chỉ là sự cản trở nho nhỏ chẳng đáng kể. Cho nên tôi có kinh nghiệm, Mệnh có Tuần Triệt chưa chắc thiếu niên tân khổ đâu, nếu có cặp Quang Quý này thủ Mệnh hoặc từ Quan, Di ,Tài chiếu về Mệnh thời Tuần Triệt chỉ còn là cái bề ngòai chỉ còn gây tác hại nho nhỏ thôi. Lưu ý là phải có đủ cả Quang Quý tại các cung trên chiếu về Mệnh hoặc thủ Mệnh thì mới ngăn cản Tuần Triệt mạnh được, chứ một sao thì tác dụng giảm đi nhiều.
Ân Quang Thiên Quý không sợ Lục Sát Tinh. Nó giải được phần nào Không Kiếp , khi đi đủ bộ tại Sửu Mùi thì giải được mạnh hơn. Nói chung Mệnh Thân Quan Di Tài Phúc Phối nều có Sát Tinh hãm địa nhưng lại có Quang Quý hội họp chiếu về cũng không nên lo lắng lắm, cái hung hãn bị giải nhiều.
Quang Quý làm cho cặp Hình Riêu mất đi tính hung hãn và dâm ác, trở nên từ hòa hơn, bớt gây tác hại. Quang Quý đi thêm Thiên Quan Thiên Phúc nói như anh Đỗ Thanh Dũng đúng là gần như bất khả xâm phạm, các Sát Tinh đóng ở mệnh hay hạn gần như không gây họa lớn được mà chỉ làm cản trở phá họai vừa phải thôi.
Hai sao này đóng ở đâu giáng phúc ở đấy, là hai sao rất đáng quý của Tử Vi.
Bổ sung thêm 1 ý là Tuần Triệt làm giảm tác dụng của Quang Quý về thời gian tác dụng của hai sao này . Cụ thể nếu Quang Quý gặp Tuần Triệt thì khoảng thời gian về sau (trung hậu vận, giữa hạn..) mới cảm thấy rõ rệt tác dụng của Quang Quý, nhưng tác dụng của Quang Quý rất bền vững, càng về sau càng tốt đẹp.
Các bạn chắc hầu hết đã từng đặt câu hỏi, Quang Quý Thai Toạ có những liên hệ gì đó rất mật thiết với Xương Khúc Tả Hữu nên chúng mới an theo nhau. Có Xương Khúc rồi mới có Quang Quý: an xương khúc theo giờ, sau đó thêm vào ngày sinh để an Quang Quý. Có Tả Hữu (an theo tháng) rồi mới có Thai Toạ. Trong đó ta biết Xương Khúc là biểu trưng cho sách vở, tình cảm, tư duy bắt nguồn học vấn, trí thức học hiểu , Tả Hữu là biểu trưng cho sự giúp đỡ của người đời với ta (hoặc của ta với người đời) . Trong Tử Vi, rất sao quan trọng đều có hoá khí: Thiên Tướng hoá khí là ấn, Đà hoá Kỵ, Kình hoá Hình... Vậy nhưng chưa từng nói tới Hoá Khí của Tả Hữu Xương Khúc. Thực tế Quang Quý, Thai Toạ có thể coi như Hoá Khí của Xương Khúc tả hữu.
- Quang Quý là tình cảm, may mắn, vui vẻ, sự thuỷ chung, lòng tín ngưỡng, sự trợ giúp Vô Hình. Nó bắt nguồn từ đâu, chính là từ Xương Khúc mà ra. Nói theo thuyết nghiệp báo nhà Phật thì phải từ học hỏi, tư duy (Xương Khúc) người ta mới đi tới hành động, phát sinh tình cảm. Từ tư duy hiểu biết đứng đắn mà phát sinh tâm tư hành động và ta thụ hưởng nhân quả của hành động hay tư tưởng một phần qua Quang Quý. Hai quý khí này gặp Thổ thì tụ khí rất mạnh, như vậy tại Sửu Mùi Thìn Tuất là miếu vượng, tại đây Quang Quý phát sinh huệ (trí tuệ theo Đạo Phật) do vậy người có Mệnh hoặc Thân ở tứ mộ được Quang Quý hội tụ là cực kỳ tốt.
---suu tam----
Ân Quang thuộc Mộc , Thiên Quí thuộc Thổ.
Đây là hai sao phúc tinh, quí tinh, chủ sự nhân hậu, từ thiện, may mắn, gặp thời, đem lại sự tốt lành, có tính chất cứu khổn phò nguy, giải trừ bệnh tật tai họa, đem lại phúc thọ, chế hóa được tính dâm đãng hoa nguyệt của Đào Hồng, gặp sao hung cũng không có hại. Hai sao này biểu hiện sự giúp đỡ của đấng linh thiêng, khác với Tả Hữu là sự giúp đỡ của người đời
Hai sao này được an căn cứ vào Xương Khúc, Ân Quang được an căn cứ vào vị trí Văn Xương, Thiên Quí được an căn cứ vào vị trí của Văn Khúc. Hai sao này xung chiếu với nhau ở Thìn Tuất, đồng cung với nhau ở Sửu Mùi, tam hợp chiếu với nhau ở Mão Dậu Tỵ Hợi, và đứng riêng lẻ với nhau không thành bộ ở Tí Ngọ Dần Thân và chỉ có cung Thổ là Sửu Mùi mới có cách giáp Quang giáp Quí. Sách vở chỉ nói Ân Quang Thiên Quí miếu địa tại hai cung Sửu Mùi nhưng theo kinh nghiệm thì tại Tứ Mộ hai sao này rất mạnh mẽ và có tác dụng cứu giải ngay cả các hung tinh hạng nặng như Địa Không, Địa Kiếp đóng đồng cung. Nếu không gặp hung thì sao này lại chủ về may mắn. Có người còn cho rằng hai sao này vượng ở Sửu Mùi, đắc tại Mão Dậu.
Sụ giải họa của Quang Quí
Quang Quí giải họa rất mạnh mẽ khi thủ tại cung đó và đi đủ bộ, nhất là tại Thìn Tuất Sửu Mùi càng mạnh mẽ. Đơn thủ hoặc có cả bộ chiếu không sao thủ thì hiệu lực yếu đi nhiều. Còn cách giáp Quang giáp Quí thì hầu như không có tác động giải họa mấy khi trong cung có hung tinh hãm địa thủ. Không Kiếp có tác dụng giải họa gây ra bơi các sát tinh hạng nặng như Không Kiếp Kình Đà Hỏa Linh Hình Riêu, nhưng không có hiệu lực mấy khi giải cách hai đời chồng hoặc vợ gây ra do các yếu tố không phải do hung tinh tác họa như cách Tả Hữu tại Phu Thê thì không giải hết được và vẫn có khả năng hai đời. Quang Quí cũng không giải mạnh được chuyện thị phi do Tuế Đà Kỵ gây ra.
Tại vị trí Sửu Mùi thì nó có khả năng giải được hung tinh tọa thủ tại cung nhị hợp là Tí và Ngọ. Tại Thìn Tuất gặp Không hay Kiếp đồng cung hoặc hợp chiếu thì Quang Quí tại đây giải hầu hết tai họa, không phải lo ngại về tai họa vì tai họa không đáng kể. Trường hợp này có Kình Đà hãm địa cùng chiếu về cũng không sao. Nếu có Không Hoặc Kiếp mà thêm Hinh Riêu cả bộ thì cũng giảm rất nhiều tai họa nhưng cũng không hết. Quang Quí tam hợp thủ tại cung thì Không Kiếp hãm địa cả bộ chiếu thủ cũng không đáng ngại vì tai họa không đáng kể. Quang Quí thủ có đủ bộ giải được cả bộ Kình Đà hãm chiếu về, hoặc Kình hoặc Đà hãm tọa thủ, giải đươc Kình Dương hãm địa tại Tí Ngọ Mão Dậu
Ân Quang Thiên Quí đồng cung giải được Hình Riêu Không Kiếp đủ bộ thủ chiếu
Quang Quí đơn thủ không giải họa mạnh được, không giải được Kình cư Ngọ có Hình Riêu tam hợp. Quang Quí đồng cung, vừa nhị hợp vừa giáp thì giải họa rất nhiều cho cung này, giải được Không hoặc Kiếp tọa thủ. Quang Quí đơn thủ gặp Không, Kiếp hãm đồng cung thì giải nhiều nhưng không hết tai họa.
---suu tam---
V.E.DAY
06/02/2018
anhhungxadieu, on 05/02/2018 - 23:44, said:
Cháu chưa rõ sự khác biệt của nhóm sao Ân quang,Thiên Quý và Thiên quan,Thiên Phúc.Liệu Thiên quan,thiên phúc có hóa giải được các sát tinh không?Cháu mong bác giúp đỡ.Cháu cảm ơn bác rất nhiều.
Thiên, Nguyệt Đức, Giải thần tàng,
Cùng là Quan, Phúc một làng trừ hung
Khi bàn về Quang-Quý, tôi biết rồi sẽ đến câu hỏi này.
Hãy nhận xét ( nêu ý kiến nhận xét của riêng mình ) về cách an cặp sao Quan-Phúc cho tôi xem rồi tôi sẽ trả lời.
V.E.DAY
06/02/2018
Nhớ lại thủa còn con nít, cái thời mà còn mê mẩn ham chơi, trưa nắng trốn ngủ trưa ra đồng xúc cá lia thia, cá bã trầu, bắt dế than, dế lửa ...
Cái thủa tía bắt học Kinh ba chữ ( Tam tự kinh ), không thuộc là tía đánh đòn ... hi hi hi
"Nhân chi sơ"
là sờ tí mẹ
"Tính bản thiện"
là miệng muống ăn, thò tay bốc liền
"Tính tương cần"
là mắt cận thị
"Tập tương viễn"
là phi ra đồng đi xúc cá ...
Thời đó cứ nghĩ rằng Ngũ hành tương sinh là tốt còn tương khắc là xấu. Vậy mà mãi đến sau này mới hiểu ra rằng :
Tương khắc để thành nên công dụng
Tương khắc để giữ lấy sự quân bình.
Cái thủa tía bắt học Kinh ba chữ ( Tam tự kinh ), không thuộc là tía đánh đòn ... hi hi hi
"Nhân chi sơ"
là sờ tí mẹ
"Tính bản thiện"
là miệng muống ăn, thò tay bốc liền
"Tính tương cần"
là mắt cận thị
"Tập tương viễn"
là phi ra đồng đi xúc cá ...
Thời đó cứ nghĩ rằng Ngũ hành tương sinh là tốt còn tương khắc là xấu. Vậy mà mãi đến sau này mới hiểu ra rằng :
Tương khắc để thành nên công dụng
Tương khắc để giữ lấy sự quân bình.
Vô Danh Thiên Địa
06/02/2018
Dế than thích dích, dế lửa thích nghiến càng, dế cơm thích búng, cá lia thia thích te vòng vòng, nhân chi sơ tính bổn huyền (sơ huyền hihi), huyền sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh...trong sinh chứa khắc thì sinh mới Trinh chính tinh thành bền vững, trong khắc chứa sinh thì khắc mới Hanh, Lỵ .
Càn: Nguyên; Hanh, Lỵ, Trinh .
Càn đạo (Nguyên) biến hoá, các chính tính mệnh, bảo hợp thái hoà, nãi lỵ trinh.
Sửa bởi Vô Danh Thiên Địa: 06/02/2018 - 14:44
Càn: Nguyên; Hanh, Lỵ, Trinh .
Càn đạo (Nguyên) biến hoá, các chính tính mệnh, bảo hợp thái hoà, nãi lỵ trinh.
Sửa bởi Vô Danh Thiên Địa: 06/02/2018 - 14:44
Vô Danh Thiên Địa
06/02/2018
V.E.DAY, on 05/02/2018 - 18:31, said:
Muốn hiểu rõ tính chất của Quang Quý phải xuất phát từ Thiên văn và Thiên tượng, từ căn cứ này mới giải thích được :
- Tại sao an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc ( mà Xương Khúc lại là biểu tượng của cây nêu, cây biểu can dùng để đo bóng mặt trời )
- Rồi từ đó mới thấy rõ tính chất ngũ hành của cặp sao này. ( Ân quang hành hỏa, Thiên Quý hành thủy )
Người xưa căn cứ vào bóng của mặt trời để tìm ra độ dài của :
- bình minh là khoảng thời gian mặt trời chưa lên khỏi mặt đất nhưng trên bầu trời đã có ánh sáng.
- hoàng hôn là khoảng thời gian mặt trời đã lặn xuống dưới mặt đất nhưng trên bầu trời vẫn còn ánh sáng.
Cho nên an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc.
Và không có lý do gì để nói Ân quang là hành mộc hay thổ ! Ân quang hành hỏa.
Còn Thiên quý liên quan đến mặt trăng. Thiên Quý hành thủy. Người có Quang Quý thủ mệnh phải khẳng định chắc chắn là NGƯỜI CÓ TỪ TÂM.
Chính vì vậy Quang Quý mới hóa giải được sát tính của Tứ Sát.
- Tại sao an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc ( mà Xương Khúc lại là biểu tượng của cây nêu, cây biểu can dùng để đo bóng mặt trời )
- Rồi từ đó mới thấy rõ tính chất ngũ hành của cặp sao này. ( Ân quang hành hỏa, Thiên Quý hành thủy )
Người xưa căn cứ vào bóng của mặt trời để tìm ra độ dài của :
- bình minh là khoảng thời gian mặt trời chưa lên khỏi mặt đất nhưng trên bầu trời đã có ánh sáng.
- hoàng hôn là khoảng thời gian mặt trời đã lặn xuống dưới mặt đất nhưng trên bầu trời vẫn còn ánh sáng.
Cho nên an cặp Quang Quý phải phụ thuộc vào vị trí của Xương Khúc.
Và không có lý do gì để nói Ân quang là hành mộc hay thổ ! Ân quang hành hỏa.
Còn Thiên quý liên quan đến mặt trăng. Thiên Quý hành thủy. Người có Quang Quý thủ mệnh phải khẳng định chắc chắn là NGƯỜI CÓ TỪ TÂM.
Chính vì vậy Quang Quý mới hóa giải được sát tính của Tứ Sát.
Thiên quý còn có nghĩa là kinh nguyệt của phụ nữ (thiên quý 天癸).
V.E.DAY
06/02/2018
Hiiii. thì tôi đã nói là nó có liên quan đến Thài Âm mà ( nên Thiên Quý là hành thủy ) chắc không có ai phản đối chứ.